You are on page 1of 304

VIỆT NHÂN LƯU THỦY

Á ĐÔNG

THƯƠNG HÀN LUẬN


BẢN NGHĨA

- Nguyên Văn : Hán, Trương Trọng Cảnh


- Bản Nghĩa : Việt Nhân Lưu Thủy
- Người dịch : Lương Y Huỳnh Hiếu Hữu
- Hiệu đính : Nhóm học tập Đông Y Hán Việt
- Đánh máy và sửa bản : Nhan Ngọc Tấn

Phục bản 2012 : Huỳnh Hiếu Nghị

2004 - 2012

1
DANH SÁCH

THÀNH VIÊN NHÓM HỌC TẬP


ĐÔNG Y HÁN VIỆT
***

1- Lương Y Huỳnh Hiếu Hữu

2- Cư sĩ Phạm Văn Nam

3- Lương Y Hoàng Văn Anh

4- Lương Y Nhan Thành Huê

5- Lương Y Lâm Văn Sơn

6- Bác Sĩ Đinh Việt Thức

7- Lương Y Bùi Huy Giám

8- Ktv Nhan Ngọc Tấn

_________________________________

*Theo thứ tự thời biểu tham gia nhóm.

2
LỜI NGƯỜI DỊCH
_______________________

Nhân duyên thừa kế của nhóm học tập Đông Y Hán Việt

Năm 1967, một buổi chiều cuối tuần, trên đường tìm học, tôi dừng lại trước một cửa
tiệm Đông Y trên đường Trương Tấn Bửu (nay là đường Trần Huy Liệu Q. Phú Nhuận TPHCM),
có một bảng hiệu rất đặc biệt, chiếm gần trọn tấm bảng là 4 chữ : “NAM DƯƠNG HỌC PHÁI” và
dưới đó là dòng chữ : ‘Giám đốc : Đông Y sĩ Phương Thế Minh ’. Tại đây, Thầy Phương đang dạy
4 người học trò. Sau một lúc thăm hỏi sơ ngộ, tôi được Thầy Phương nhận vào cùng học với các
bạn đang ở đó (tôi còn nhớ là các anh Võ Phước Như, Nguyễn Văn Tân, cô Trương Thị Hồng
Hạnh và tu sĩ Phật giáo Thích Thanh Đức).

Từ đó tôi được học dưới mái nhà “NAM DƯƠNG HỌC PHÁI”, Thầy Phương dạy chúng tôi
Châm Cứu theo các sách : Châm Cứu Đại Thành, Châm Cứu Giáp Ất Kinh. Về thuốc chúng tôi
được học theo các sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận của Thánh Y Trương Trọng Cảnh.
Trong lúc giảng dạy Thầy Phương thường nhắc nhở đến ân sư của Thầy là Tiên sinh Việt Nhân
Lưu Thủy đã truyền thụ sở học và phó chúc lập “NAM DƯƠNG HỌC PHÁI”. Thầy còn tích cực
giúp đỡ mượn của Bác sĩ Nguyễn Văn Ba bản dịch sách Lục Kinh Thương Hàn Bá Đại Danh Gia
Hợp Chú (của Ngô Khảo Bàng) cho chúng tôi sao chép để học tập. Riêng các tác phẩm của tiên
sinh Việt Nhân Lưu Thủy thì chúng tôi chưa được biết.

Đại lược việc học tập của chúng tôi là như trên nhưng cụ thể có vài gián đoạn vì biến cố.
Giữa năm 1968 một tại nạn chiến tranh, nhà thầy Phương không may trúng một viên đạn pháo,
chết vợ và một đứa con, còn thầy Phương bị thương phải nằm bệnh viện nhiều ngày. Sau tai
nạn nầy, trong khi dạy lại chúng tôi Thầy tỏ ý cương quyết “thờ vợ nuôi con và phát triển NAM
DƯƠNG HỌC PHÁI “. Nhưng bất ngờ vào năm sau thầy lại tái hôn với một cô vợ trẻ. Từ đó gia
đình thầy không được yên ấm, sức khỏe thầy ngày một yếu, việc dạy học cũng thất thường và
thầy mất năm 1972.

3
Trước khi mất, Thầy Phương đã dọn nhà, nghỉ làm ở cửa tiệm, tháo gỡ bảng hiệu NAM
DƯƠNG HỌC PHÁI và nghỉ dạy chúng tôi….. Cho nên chúng tôi mỗi người một ngã, chỉ còn gần
gũi gia đình Thầy là tu sĩ Thích Thanh Đức. Các con của Thầy Phương còn nhỏ, trong gia đình
không có người thừa kế, Cụ Bà (Má của thầy Phương) cho phép tu sĩ Đức và tôi (nhờ thông báo
của tu sĩ Đức) thừa kế các sách vở của Thầy để lại. Chúng tôi nhận được một số sách vở Đông Y
Châm Cứu bằng Hán Văn và trong đó tu sĩ Đức thấy được các tác phẩm của Tiên sinh Lưu Thủy :

- Á Đông Thương Hàn Giáo Khoa (bản thảo chữ Hán của tác giả viết trên 2 tập 100 trang, và bản
dịch đánh máy của Phương Thế Minh và Trương Chứng).

- Á Đông Thương Hàn Luận Bản Nghĩa (NAM DƯƠNG HỌC PHÁI tập, chữ chép tay của Thầy
Phương học tập tại Sài Gòn 1963).

- Á Đông Tạp Bệnh Luận Bản Nghĩa (bản chép tay có lời ghi chú học tập của Thầy Phương tại Đà
Nẳng trước và sau khi Tiên sinh Lưu Thủy mất năm 1964).

Sau khi thấy được tác phẩm, tu sĩ Đức ra sức học tập, ngoài ra còn tích cực giúp đỡ tôi sao
chép tất cả các tác phẩm này. Sau năm 1975 tu sĩ Đức có thời gian làm việc tại phòng khám
YHDT Q.1 TPHCM nhưng rồi sau một tai nạn giao thông ông đã nghỉ việc và vì Phật sự bề bộn
nên không còn thì giờ nghiên cứu học tập Đông Y nữa.

Về phần tôi trong thập niên 1980, tôi có thời gian phụ trách CLB YHDT Q.3 và làm Trưởng
phòng chẩn trị YHDT Q.3, cố L.y Nguyễn Phương Anh có đề nghị tôi thành lập NAM DƯƠNG
HỌC PHÁI, nhưng tôi tự thấy không đủ năng lực và còn cần học tập thêm nhiều nên tôi không
dám. Tôi cố tìm những người có đủ năng lực và điều kiện để ký thác việc học tập và phổ biến
các tác phẩm của Tiên sinh Lưu Thủy nhưng tôi thất bại vì người có chức quyền thì không dám
làm khác chỉ đạo, còn người đủ năng lực thì tự có công trình riêng, không màng đến các tác
phẩm nầy.

Trong thập niên 1990 tôi tập hợp được 6 bằng hữu đồng tâm ái mộ tác phẩm của tiên sinh
Lưu Thủy, mỗi tuần sinh hoạt 1 lần 2 giờ, hy vọng kiến thức của tập thể sẽ giúp chúng tôi thấu
hiểu và học tập được các tác phẩm nầy; nhưng chúng tôi vấp phải nhiều chỗ không giải được.
Chúng tôi nghĩ rằng vì tất cả chúng tôi có kiến thức quá hẹp về Nho học và Phật học so với tác
giả nên không hiểu được những điều tác giả trình bày. Chúng tôi nhất trí dừng lại việc học tập
các tác phẩm của Tiên sinh Lưu Thủy và cùng nhau học Kinh Dịch (chú trọng Hệ Từ Truyện),
Trung Dung Đại Học, Phật Học Đại Thừa (Đại Thừa Khởi Tín Luận) và trong thời gian này chúng
tôi lại may mắn gặp được tác phẩm Chu Dịch và Tứ Thư Thiền Giải của Thiền Sư Trí Húc (thời
4
Minh, Trung Quốc). Và nhờ học tập tác phẩm này chúng tôi thấy được nhiều qui luật làm nền
tảng chung cho cả Y học, Nho học, Phật học mà cụ thể là Đồ Hình Thái Cực và những qui luật
chung của vạn vật được nêu tại Hệ Từ Truyện trong Kinh Dịch.

Bước vào thế kỷ 21, Tây Y theo đà tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã có nhiều thành công
trong chẩn đoán và điều trị ; trong khi đó Đông Y còn lúng túng với những lý luận thiếu hệ
thống, thì lấy gì xây dựng một nền y học gồm cả Đông Tây, quân bình và lợi ích chung cho nhân
loại. Cho nên chúng tôi chỉ một lòng chí nguyện :

- Thừa kế truyền thống Y Đạo từ đời Hán Thánh Y Trương Trọng Cảnh, cụ thể là sách Thương
Hàn và Tạp Bệnh Luận.

- Ra sức học tập 2 sách nói trên qua Bản Nghĩa của Tiên sinh Việt Nhân Lưu Thủy để thực hiện
đề xướng phục hồi nền Đông Y của tiên sinh.Từ chí hướng đó, chúng tôi tự thấy mình là
“NHÓM HỌC TẬP ĐÔNG Y HÁN VIỆT ” và có chương trình hoạt động như sau :

1. Tạm dịch ra Việt Văn và phổ biến rộng hơn các tác phẩm của Tiên sinh Lưu Thủy cho các
bằng hữu muốn học tập.

2. Đúc kết và phổ biến một số qui luật tâm đắc trong khi học tập các sách của Tiên sinh Lưu
Thủy nhằm để rút ngắn thời gian cho các bằng hữu muốn học tập sau nầy.

3. Ra sức học tập cụ thể và ứng dụng trong lâm sàng có kết hợp với Tây Y để chứng minh
giá trị các sách của Tiên sinh Lưu Thủy trong công cuộc phục hồi Đông Y.

Hiện nay nhóm chúng tôi chưa làm xong bước 1, nhưng chúng tôi tin tưởng rằng sau
tài liệu này sẽ có nhiều bằng hữu ủng hộ và tích cực học tập theo đề xướng của Tiên sinh Lưu
Thủy để góp phần phục hồi nền Đông Y sánh vai với Tây Y cùng xây dựng một nền Y học Quân
Bình và Nhân Bản để phục vụ người bệnh.

Quý Thu – Giáp Thân, 2004

Lương Y Huỳnh Hiếu Hũu

GHI CHÚ :

- Nguyên Văn sách THL của Đức Trọng Cảnh dùng màu xanh.

- Bản Nghĩa của Cụ Việt Nhân Lưu Thủy dùng màu đen.

- Lời người dịch dùng màu tím.

5
Tiểu sử Cụ Lưu Thủy

Nguyễn Văn Ngôn Tiên Sanh

Cụ Lưu Thủy tiên sanh sinh giờ Thìn, ngày mồng 3 tháng 5 năm Mậu Tý (1887). Sinh
chánh quán tại làng La Thọ, tổng Hạ-Nông phủ Viện-Bàn, tỉnh Quảng Nam. Nay đổi lại là: thôn
La Thọ, xã Thanh Phong, quận Điện Bàn, Quảng Nam.

Thân sinh của Cụ là ông Nguyễn Văn Ý, xuất thân trong hàng Nho Giáo, học vấn uyên
thâm, đậu tiếp 3 khoa Tú Tài, học trò theo học rất đông, thành đạt rất nhiều.

Cụ Lưu Thủy nhờ nền nếp nhà nho, học hành mau giỏi, 16 tuổi đã vào trường Đốc học
tỉnh, 19 tuổi khoa ngọ thi hương,, Cụ đậu đến trường nhì, vào đặng trường ba, rồi kế tiếp học
sanh tại trường tỉnh. Tài hoa lổi lạc, nhưng chẳng gặp thời.

Ngay lúc bây giờ, văn học nước nhà chia phôi nhiều nẽo; Âu Á trộn nhầu, nửa cũ nửa mới,
lăn xăn không nhứt định. Cụ đành quyết chí vào Nam, trãi khắp sơn lam thắng cảnh, dưa muối
một bầu, tìm đường giải thoát; lúc bây giờ Cụ lo lễ Phật tụng kinh, đánh chuông gõ mỏ.

Cụ để tâm nghiên cứu Triết lý nhà Phật, có hồi ở Nam bộ giảng kinh, cũng có lúc về Quảng
Nam thuyết pháp. Cụ thường vãng du giao thiệp với chùa Chúc Thánh Hội An, và chùa Phổ
Thiên Đà Nẳng. Các chùa ở Quảng Nam, cử Cụ làm thượng tọa thuyết pháp.

Cụ ăn chay, niệm Phật, thường khảo cứu kinh Phật sách nho, đặng rõ thấy cái thâm ý của
Thánh hiền xưa, lấy sự độ sanh làm mục đích, và lấy sự cứu thế làm phương châm.

Sẵn nền Nho học, nên Cụ hết lòng nghiên cứu các sách thuốc Đông Y; trãi 36 năm đăng
đẳng, đã lắm công phu.

6
Ngoài Tố Vấn, Nan Kinh, Cụ chăm ý nhứt tìm tâm cởi mở. Các sách Thương Hàn Luận và
Tạp Bệnh Luận của Thánh y Trương Trọng Cảnh; ấy là tinh lực trong một đời của Cụ đó.

Cụ chú thích luận Thương Hàn và luận Tạp Bệnh, nhơn khi chưa bệnh, mà đã biết trước
lúc ốm đau, nhơn sự ốm đau, mà ấn định chứng bệnh để mà trị bệnh đó. Ấy là pháp môn rất
giản tiện về sự nhận bệnh và trị bệnh vậy.

Cụ chú thích 2 bộ sách Thương Hàn và Tạp Bệnh đã thành trãi nhiều phen lo xuất bản, mà
chưa kịp; Bị tuổi cao, thân già, sức yếu, Cụ giao 2 bộ sách đó cho quý liệt vị NAM DƯƠNG HỌC
PHÁI, gia tâm nghiên cứu thêm, để lần lần xuất bản.

Ấy là tâm chí mong muốn của Cụ đó.

Giờ Mùi,ngày 21,tháng 9, năm Giáp Thìn.Tức là 3 giờ chiều,ngày 26,tháng 10, năm 1964.

Cụ tiêu diêu về nước an dưỡng. Hưởng thọ 78 tuổi.

Qua giờ Thìn, ngày 23, tháng chín, năm Giáp Thìn.Tức là 10 giờ sáng, ngày 28, tháng 10
năm 1964. Ninh thố Cụ tại Hoa Viên.

Thống tích tai ! Thương Hàn Tạp Bệnh, thượng vị thành công;

Hữu chí đồng tâm, ưng tu nổ lực.

Tạm dịch nghĩa:

Thương thay ! Thương Hàn Tạp Bệnh chữa thành công.

Hữu chí đồng tâm, lo gắng sức.

Ngày mồng 1 tháng 11 năm Giáp Thìn

Tức là ngày 4 tháng 12 năm 1964

Cháu,

Nguyễn Văn Định (tức Giáo Nhự, Hiệu Như Sanh)

Phụng Cung Lục

______________________________________________________________________________

*Lời người dịch: Có nhiều đoạn dông dài hoặc trùng ý với lời tựa của tác giả, xin lược bớt cho
được giản dị.
7
THƯƠNG HÀN LUẬN BẢN NGHĨA
______________________________________________

BÀI TỰA

Thương Hàn là Bệnh Lý của thế giới nhân loại.

Thái Dương là Sinh Lý của thế giới nhân loại.

Suốt cổ kim, khắp Đông Tây, tràn bốn bể, đầy thiên hạ, không một người nào không nhận
được Thái Dương mà có sự sống, thì biết không một người nào là không mắc phải Thương Hàn
của Thái Dương Bệnh, vạn lần trốn không khỏi lý này. Vì thế, Thương Hàn được làm thành sách,
sở dĩ ngàn đời không thay đổi vậy.

Sao gọi là Thương Hàn ? Muốn biết Thương Hàn trước hết nên giảng Thái Dương Bệnh.
Nay như, Thái Dương là suối nguồn sinh ra nhân loại, vì sao có thể làm bệnh ? Chỉ vì Thái Dương
trên thân người hàm chứa một cái Âm. Thái là cực vậy, Dương cực sinh Âm, một điểm đó tạo ra
Âm Dương đối lập, nhân loại thọ nhận mà có sự sống, cũng chỉ một điểm đó nhân loại thọ chịu
mà thành bệnh. Sinh lý ở đó, Bệnh lý cũng ở đó, nên gọi là Thái Dương Bệnh.

Thái Dương đã là nguyên thủy sinh ra nhân loại, hết thảy loài người trên trái đất, nơi thân
họ đều có một đường Thái Dương Kinh ; dù không thừa nhận, nó vẫn cứ ở trên thân mình, cho
nên một khi mắc bệnh, Thái Dương ắt phải thọ chịu trước hết. Thái Dương Kinh thọ phải làm
bệnh Trúng Phong, là Dương ở trong Dương vậy ; Thái Dương Khí thọ phải thì làm bệnh Thương
Hàn, là Âm ở trong Dương vậy. Âm Dương vốn chẳng lìa nhau (bất tương ly), cho nên Trúng
Phong Thương Hàn vốn chẳng lìa nhau. Chỉ duy một điều, hễ Dương thì Âm tòng, bởi vậy trước
Trúng Phong rồi Dương thương bởi Hàn mà bệnh, cho nên đặt tên sách là Thương Hàn.

Các nhà chú giải bảo : “Phong Thương Vinh làm bệnh Trúng Phong, Hàn Thương Vệ làm
bệnh Thương Hàn “, hoặc có người nói trái lại, đều là chẳng phải vậy. Lúc không bệnh gọi là Âm
Dương, lúc có bệnh gọi là Phong Hàn, thảy đều là Thái Dương đã hàm chứa trước rồi. Thử xem
nơi Tạp Bệnh Luận, chương Ngũ Tạng Phong Hàn tích tụ, là theo mặt trong Lý của thân người

8
mà nhận biết Âm Dương ; Thương Hàn Luận nói Trúng Phong Thương Hàn, là theo mặt ngoài
Biểu mà nhận biết Âm Dương.

Xa cách thời đại Y Thánh đã dài, các lời ai người nói đúng ? Chúng ta đọc sách Thương Hàn
nên nương theo bài tựa mà thể nhận, nên dựa theo toàn luận mà tìm cầu. Tại nơi Thái Dương
Kinh Khí mà nhận ra Trúng Phong Thương Hàn. Từ chỗ Trúng Phong Thương Hàn mà nhận ra
hết thảy các bệnh ; do Thương Hàn truyền làm Ôn Bệnh, Ôn Bệnh chuyển sang Phong Ôn,
Phong Ôn chuyển thành Phong Thấp, Phong Thấp chuyển sang Hàn Thấp, Hàn Thấp lại chuyển
làm Thương Hàn. Tóm lại đều do Thái Dương Kinh Khí lưu chuyển tương ly tương hợp mà sinh
ra. Một đường mà trăm nẽo, khác dòng nhưng cùng nguồn, ngành thớ rõ ràng, chỉnh tề không
rối, Kinh Lạc phân bố có riêng biệt nhưng hệ thống gốc ngọn vẫn một nguồn. Tố Vấn nói : “Biết
được chỗ quan yếu thì một lời nói được hết, không biết được chỗ quan yếu thì lưu tán vô cùng
“ đó là nghĩa này.

Nếu như người học, không hiểu được lý do của Thái Dương, quyết không thể biết làm sao
Thái Dương Bệnh, thế nào là Trúng Phong, thế nào là Thương Hàn, chẳng khác gì miệng “ngậm
đầy Táo, cố nuốt mà chẳng được “; không hiểu được các Kinh đều nhận chịu sự truyền của Thái
Dương Trúng Phong Thương Hàn, quyết không biết được thế nào là Ôn Bệnh, Phong Ôn, thế
nào là Hàn Thấp, Phong Thấp, tất nhiên lúng túng chẳng thông.

Nay đã nhận biết Lục Kinh bệnh danh, đó là đại lược vậy. Còn như bệnh trạng, nhật số và
bộ vị truyền Kinh, việc chuyển biến của Mạch Chứng, sự thần diệu của thang phương, cầu tìm
nơi Bản Nghĩa sẽ thấy được.

Tôi nghiên cứu (gối đầu giường, ăn ngủ cũng nghiền ngẫm) sách này đã nhiều năm, biết rõ
các chú gia bàn tán phân vân rốt cục chẳng được điều gì, đều do bởi không phân tích được
chương pháp (phép chia chương tiết). Nếu như phân chương tiết được thấu triệt minh bạch thì
tất cả sẽ giải được dễ dàng như thể chẻ tre vậy.

Tôi rất mong những ai trong đời thích học Thương Hàn, nên chú ý nơi phân chương tiết :

- Biết tôi ấy, chỉ ở nơi Thương Hàn chương pháp.

- Tội tôi ấy, cũng ở nơi Thương Hàn chương pháp.

9
Ngày nay năm châu qua lại như đi chợ, mạnh được yếu thua. Tây Y thì phổ biến khắp hoàn
cầu, nghiễm nhiên là Y khoa quốc tế. Đông Y của chúng ta chỉ còn bảo tồn hơi thở tàn trong một
xó, cơ hồ như có kẻ muốn thay thế mình.

Than ôi ! Đường đường một lĩnh vực Đại Á Châu, lưu truyền đã năm ngàn năm một nền Y
khoa có hệ thống, các Thánh Y Thần Y đời đời xuất hiện, sử sách sáng ngời.

- Ngày xưa sao thành tích huy hoàng đến thế ?

- Hôm nay lại suy đồi bại hoại dường này !

Đó là điều công phẫn của Y giới Đông phương, chớ chẳng phải sĩ nhục riêng của một người,
một giới, một nước nào ! Muốn rửa sạch mối đại sĩ nhục ấy, cần phải sắp đặt Y học thành Giáo
khoa, nêu rõ Thương Hàn Luận, Tạp Bệnh Luận làm Giáo khoa công cụ ….

Ý kiến các bậc thức giả nên như thế nào ?

Nhân đó, lấy đây làm tựa.

Mùa Thu năm Quý Mão (1963)

77 tuổi, Lão Y Việt Nhân Lưu Thủy soạn.

*
10
GIẢI LỜI TỰA
SÁCH THƯƠNG HÀN – TẠP BỆNH LUẬN
________________________________________________

Nguyên tự : Hán, Trương Trọng Cảnh

Tự giải : Việt Nhân Lưu Thủy

Mỗi lần xem truyện Việt Nhân (Biển Thước) khi vào nước Quấc chẩn mạch và khi trông
sắc mặt của Tề Hầu, tôi chưa từng không cảm xúc, thán phục là tài giỏi.

Đây, đề ra một bậc vĩ nhân trong Y giới là Biển Thước, có học thuật chân thực, có thực
nghiệm thần diệu. Tác giả Thương Hàn nhân đây nêu rõ sách này thảy đều xuất phát từ những
nguyên lý chân thực của các vị thánh xưa truyền lại.

Rất lạ cho kẻ sĩ đời nay không chịu lưu tâm đến Y Dược, nghiên cứu phương thuật, trên
là để trị bệnh cho các bậc quân (vua), thân (cha mẹ…), dưới là để cứu khổ ách cho những kẻ
khốn cùng, giữa là giữ gìn tấm thân cho được toàn vẹn, lâu dài để nuôi dưỡng sự sống.

Đây, kêu gọi các bậc nhân sĩ đương thời lưu tâm đến Y thuật, để có thể phục vụ xã hội, để
kiện toàn tự thân, trong thực học có sự thực dụng vậy.

Mà chỉ đua nhau trên con đường vinh hoa quyền thế, mong ngóng nối gót bọn quyền
hào, chăm chỉ miệt mài một vụ việc chạy theo danh lợi, mãi mê tôn sùng cái ngọn, bỏ quên
cái gốc, bề ngoài tuy đẹp đẽ mà khô héo bên trong, thử hỏi da đã không còn thì lông dựa đâu
mà tồn tại ?

Đây, nói học thuật không phải chỉ có một đường nắm quyền bính, đoạt danh lợi, những cái
đó đều là ‘học ngọn’, xem đoạn dưới sẽ rõ.

11
Hốt nhiên gặp phải Tà Phong, hoặc lâm bệnh lạ, nạn kề họa đến, bấy giờ mới lo sợ run
rẩy, rủn chí, không giữ tiết tháo, trông cậy vào phường Vu Chúc (thầy bùa,thầy cúng) sau
đành ngửa mặt kêu trời, hoài thân chịu khốn, đem cái thọ mệnh trăm năm, cái tấm thân chí
bảo giao phó cho bọn phàm y, mặc cho họ muốn làm sao thì làm. Hởi ôi, chua xót ! Thân cam
chịu chết, Thần minh tiêu diệt, xác biến dị vật, chìm xuống suối vàng, ngậm ngùi khóc thương.

Đây, giảng rõ cái hại của lối học ngọn, cái thọ mạng trăm năm của con người quý như thế
nào ?! cái tấm thân là vật báu hữu dụng ra sao ?! Bảo rằng nắm quyền bính, mưu danh lợi, còn
đáng kể gì, một khi mắc bệnh chết bởi tay bọn phàm Y. Bốn chữ ‘làm sao thì làm’, chẳng những
là một điều bi ai của nhà người bệnh, mà còn là một điều thống mạ (chửi đau) đối với Y gia.
Thật là đau xót !

Ngán cho khắp đời hôn mê, không lo giác ngộ, thân mạng không tiếc, sự sống coi khinh,
thì còn nói vinh hoa quyền thế để làm gì ? Khi mà tiến (vào đời) không thể yêu người biết
người, thoái (lui lại, tu thân) không thể thương thân biết mình, gặp cơn tai họa, thân đến
cảnh nguy, mơ hồ tăm tối, ngu si vất vưỡng. Xót thay ! những kẻ xu thế, đua đuổi phù hoa,
chẳng đoái hoài căn bản, quên tấm thân quý báu, đành đổi vật vô tri, mới thành ra nông nổi

Đây, đưa ra cái học chuộng gốc. Trọng Cảnh sống đời Hoàn Linh đời Hán, triều cương đổ
nát, phẩm hạnh kẻ sĩ kém khuyết ; từ đó vạch ra một con đường giác ngộ cho người đời là Y
khoa thực học : “Người dạy phải yêu người biết người, xem thiên hạ như mình, không thấy có
cái thân riêng để nói ; Người học phải thương thân, biết mình, trong hình hài đều là Âm Dương
Kinh Lạc, thấy suốt, đếm được từng thớ sợi “. Như vậy mới gọi là ‘nhân vật trong Y giới‘, mới
gọi là ‘cứu thế lương y ’.

Họ hàng tôi vốn đông đúc tới trên hai trăm người, từ đầu niên hiệu Kiến An đến giờ,
chưa đầy 10 năm mà đã chết mất hai phần ba, người bệnh Thương Hàn có tới bảy tám phần
mười. Cảm xót những kẻ chẳng may qua đời, thương lo đến người khó cứu chết yểu ….

Đây nói Thương Hàn Luận là sách cứu đời, người chết về Tạp Bệnh chỉ một hai phần mười ;
người chết về Thương Hàn đến bảy tám phần mười. Một thì nói rằng ‘cứu khổ ách cho kẻ
nghèo hèn ’, hai thì nói rằng ‘thương lo đến người khó cứu chết yểu ’. Đó là tác giả Thương Hàn

12
Luận phát xuất tự trong Tâm, lòng bi (xót) chân thực. Đọc sách Thương Hàn mà không thi hành
áp dụng thực tế được thì không phải là người biết thuốc, biết chữa bệnh.

Tôi liền gắng tìm cổ huấn, rộng hợp chúng phương, soạn theo 9 quyển Tố Vấn, 81 Nan
Kinh, Âm Dương đại luận, Thai lô dược lục, cùng Bình mạch biện chứng, làm sách Thương
Hàn Tạp Bệnh Luận hiệp thành 16 quyển. Tuy chưa thể chữa khỏi hết mọi bệnh, nhưng có thể
thấy bệnh biết được nguồn gốc từ đâu. Nếu ai hay ‘tìm đọc sở tập của tôi’ nơi sách thì đã
hiểu biết quá nửa công việc rồi.

Đây là hiệp tựa của Thương Hàn Tạp Bệnh Luận, ý nói 2 sách này cần phải cùng chung đọc,
cũng như một thân người há có thể phân làm hai ư ? Trọng Sư soạn sách Thương Hàn dùng Tố
Vấn Nan Kinh làm cơ sở kiến trúc, khiến cho người ta thấy bệnh biết được nguồn gốc ; rộng hợp
cổ huấn chúng phương để cho người ta trị lành các bệnh ; cuối cùng tỏ ý muốn cho người ta
hay ‘ tìm đọc sở tập của mình ’ , điều này mới lộ xuất cái bản sắc độc đáo của nhà làm sách, học
giả khéo nghiền ngẩm sẽ tự đắc được. Thật là Đại học thức cứu thế ; Thật là Đại phương châm
của Y gia !

Nghĩ như, Trời chia bủa Ngũ Hành để vận hóa muôn loài, con người thụ bẩm Ngũ
thường để có Ngũ Tạng, Kinh Lạc, Phủ Du, Âm Dương hội thông, sâu xa mầu nhiệm, biến hóa
khôn lường. Nếu không phải bậc tài cao thức diệu, thì làm sao hiểu thấu được cái lý lẽ nhiệm
mầu đó.

Đây, tỏ rõ nhân loại do Âm Dương mà sống, cũng do Âm Dương mà bệnh. Bệnh Lý theo
Sinh Lý mà đến, không cần viện dẫn Vi trùng Khuẩn độc để giải quyết vấn đề rất khó giải quyết
của Y gia. Hai chữ Kinh Lạc đặt dưới Ngũ Tạng, trên Phủ Du, đấy là có thâm ý. Toàn bộ sách
Thương Hàn phát minh Sự truyền của Kinh Lạc, không có chương nào không nói tới Kinh Lạc,
không có tiết nào không nói tới Kinh Lạc. Nói mãi há không sợ phiền ; nên duy chỉ chỗ này đề
xuất 2 chữ ‘Kinh Lạc’, cùng với chương đầu Tạp Bệnh Luận nói ‘Phủ Tạng Kinh Lạc’ chiếu ứng
nhau. Người đời sau bảo rằng văn tự cổ ý nghĩa sâu xa, thì đây là một bằng cớ vậy.

13
Đời thượng cổ có Thần Nông, Hoàng Đế, Kỳ Bá, Lôi Công, Thiếu Du, Thiếu Sư, Trọng Văn,
Đời Trung thế có Trường Tang Biển Thước. Đời Hán có Công Thừa Dương Khánh và Thương
Công, từ đó về sau chưa từng nghe có ai.

Đây, nói nguồn gốc làm sách Thương Hàn là từ đâu. Thần Nông, Hoàng Đế, Kỳ Bá là những
bậc Thánh ‘ sinh mà biết ’, tự biết Âm Dương Kinh Lạc trong thân mình. Trường Tang, Biển
Thước là bậc thánh ‘ học mà biết ’, đắc Âm Dương Kinh Lạc nhờ học Linh Khu Tố Vấn mà kỹ
thuật sử dụng rất thần kỳ. Công Thừa, Dương Khánh, Thương Công là những bậc thánh ‘ nghe
nhiều hiểu rộng mà biết ‘ . Trọng Sư tuy không cho mình như thế, nhưng là ‘ tập Đại thành của
các thánh ‘, há chẳng phải cũng tưởng thấy được sự nghiệp của bậc Thánh Thần ? Ngày xưa
truyền lại sách vở còn dựa vào đấy, đến nay cuối cùng có trạng thái băng hoại, chẳng đáng tiếc
ư?

Xem các Y giả thời nay không chịu ‘ tư cầu Kinh chỉ ’ để mở rộng hiểu biết, chỉ lo nghề
riêng của nhà mình, thỉ chung theo nếp cũ, xem xét bệnh tật cốt ở nói khéo, mới hỏi qua loa
đã cắt ngay thuốc, án Thốn không đến Xích, xem tay bỏ sót chân, Nhân Nghinh Phu Dương 3
bộ không xem, mạch động thở hít không coi đủ số 50, đoản kỳ (sắp chết) chưa biết, quyết
chẩn cửu hậu từng không nghĩ đến, Minh Đường Quyết Đình cũng không xem tới, đáng gọi là
‘lấy ống dòm trời’ mà thôi.

Đây, Trọng Sư tự nói rõ việc làm luận, là một nhà cải tiến trong Y giới chứ không phải là
nhà thủ cựu. Trọng Sư rất thích tìm cầu ý chỉ trong Nội Kinh, tổ thuật học thuyết ‘ Lục Kinh Lục
Khí ‘ để làm công cụ cấu tạo làm sách Thương Hàn. Đấy là Trọng Sư gắng tìm cổ huấn, là chỗ kế
thừa truyền thống của thiên thánh. Trọng Sư lại rất thích diễn giảng sự hiểu biết của mình :

- Ước (tóm) Lục Khí thành Dương Hàn, Dương Nhiệt, Âm Hàn, Âm Nhiệt để bao quát trăm
bệnh.

- Nạp Lục Kinh vào Thái Dương Thiếu Âm, mà Thiếu Âm lại ‘ thuộc ’ dưới Thái Dương thành ra
‘ pháp môn bất nhị ’.

Đấy là chỗ Trọng Sư tự mình mở rộng phát minh, cũng chính là chỗ Trọng Sư Thống nhất Y
Đạo. Tôn trọng Nội Kinh, Vệ Khí bắt đầu ở Cơ Nhục ; giữ theo Nan Kinh, Thương Hàn bắt đầu ở
Trúng Phong. Có thể thấy tuy thuận theo cựu thuyết mà tiến hóa hơn cựu thuyết vậy.

14
Đương thời các thầy thuốc ‘hỏi bệnh cho thuốc’ tuy không được đúng phép, nhưng vẫn
không có ý kiến xuyên tạc. Sau này, người chủ Hỏa, người chủ Thấp, người chủ Tỳ Vỵ, người chủ
Công Phá, đó gọi là ‘ Tiền Tứ đại gia ‘ ; giải Thương Hàn thì cắt đứt văn tự, xúm nhau tranh cải
cho thêm rối loạn, cuối cùng không được một điều thỏa đáng, đó gọi là ‘ Hậu Tứ đại gia ‘.

Đương thời bắt mạch sơ sài, xem sắc qua loa, nhưng không có lời ngụy tạo. Sau này tới
những thuyết Thất Biểu Bát Lý, Thái Tố, Lư San thì làm cho loạn đạo. Ước sao có được kẻ sĩ ‘
hiếu học thâm tư ‘ (ham học, nghĩ sâu) để phục hồi chân thuyên (giáo lý chân thực) của cổ
thánh, rửa sạch những lậu tập (tục xấu) tương duyên (noi theo nhau), há không vui ư ?

Nghĩ như muốn thấy rõ cái Lý chết, phân biệt cái Lý sống thật là rất khó. Đức Khổng Tử
nói : “Sinh mà biết” là bậc trên, “Học mà biết“ là kế đó, “nghe nhiều hiểu rộng mà biết” cũng
là bậc thứ, tôi vốn chuộng phương thuật, xin theo lời ấy.

Đây lấy việc ‘thị tử biệt sinh’ để kết luận tài trí ưu tú của Việt Nhân Biển Thước ; lấy việc
sinh mà biết, học mà biết, nghe nhiều hiểu rộng mà biết để kết luận Y Thống từ Thần Nông,
Hoàng Đế đến Thương Công mà ý chỉ của tác giả cũng được tỏ bày ‘ngoài lời nói ‘ vậy.

15
ĐỌC PHÁP
_____________

Thương Hàn Luận là sách khoa học trong Y giới, ngày nay may mắn còn lại sách này, trước
hết là nhờ công Vương Thúc Hòa biên chép, Tống thần Lâm Ức giảo chính, Châu Nhiếp, Thành
Vô Kỷ chú giải, đấy là nguyên bản.

Họ Thành chú giải Thương Hàn không dám tham gia ý kiến riêng, không thêm bớt dời đổi
nguyên văn, nhờ vậy hậu học thấy được Đại Kinh Đại Pháp trị bệnh của cổ nhân. Ngày nay biết
y theo bản này để khảo xét văn pháp Thương Hàn, Chương Tiết, Thứ tự, Phân tích minh bạch,
Mạch Lạc quán thông, chưa từng có một chữ, một câu có thể nghi ngờ. Cớ sao các chú gia sau
này, mỗi khi gặp chỗ không giải được, liền cho là ‘khuyết văn’, rồi thì hoặc diễn rộng lời văn,
hoặc chuyển đổi Kinh văn, hoặc lầm sửa chính để lại ngờ, các loại ý kiến này đều là mở ngoài
cửa Thương Hàn.

Lục Kinh truyền thống là pháp môn độc nhất vô nhị của Y gia, từ Hiên Kỳ cho đến Trọng
Cảnh không vượt ngoài phạm vi, nhưng trong khoảng 2 thời đại có hơi biến đổi, không thể
không biết. Lục Kinh Lục Khí tại thời đại Hiên Kỳ nhất luật xếp ngang nhau (xem Ngũ vận lục khí),
ở trong Tố Vấn Nhiệt Bệnh Luận có lúc xưng Thái Dương là Cự Dương, đã lộ cái ý tưởng thống
(gồm) nhất thiết nhưng vẫn còn “hàm tàng” . Việt Nhân làm sách Nan Kinh nói là Thương Hàn
có năm : có Trúng Phong, có Thương Hàn, có Thấp Ôn, có Nhiệt Bệnh, có Ôn Bệnh ; việc bày bố
này dần dần có chuyển hướng ý tứ, Lục Kinh cố thủ không dời, Lục Khí thì phân hợp bất nhất :

Trước hết Trúng Phong, tuân (theo) Nội Kinh, Phong là Sơ Khí.

Kế đến Thương Hàn, thủ (giữ) Nhiệt Bệnh Luận, Thái Dương là Cự Dương.

Kế đến Thấp - Ôn là 2 Khí Dương Minh, Thái Âm hợp lại.

Có Nhiệt Bệnh - Ôn Bệnh là 2 khí Âm Nhiệt – Dương Nhiệt phân ra.

Trọng Cảnh làm sách Thương Hàn Luận là noi theo thuyết Lục Kinh Lục Khí của Nội Nạn, lại
là một phen đại chỉnh lý :

- Lấy Thái Dương thống nhất thiết làm tôn chỉ bản thư, Trúng Phong Thương Hàn là Thái
Dương thọ bệnh dẫn đạo trước.
16
- Do Trúng Phong Thương Hàn :

 Truyền Dương Nhiệt (Dương Minh, Thiếu Dương) làm Ôn Bệnh.

 Truyền Âm Nhiệt (Thiếu Âm) làm Phong Ôn.

 Truyền Âm Hàn (Thái Âm, Khuyết Âm) làm Hàn Thấp.

 Truyền Âm Nhiệt làm Thiếu Âm Phong Thấp

 Truyền Dương Hàn làm Thái Dương Phong Thấp.

- Do Kinh Khí lưu chuyển cho nên tên bệnh có khác biệt, tóm lại không ngoài Thái Dương Hàn
Khí đưa đến, thuận theo tiên thánh mà phát minh được bí chỉ tiên thánh chưa nói ra.

Thái Dương Bệnh là căn nguyên của vạn bệnh, chỉ vì Thái Dương là nguyên thủy sinh
nhân loại, cũng là nguyên thủy nhân loại thọ bệnh. Thái Dương thống nhất thiết bệnh chiếm
quá nửa toàn luận. Học giả cần xem thấu cái ‘đạo lý’ này, cần tỏ suốt cái ‘nguyên đầu’ (đầu
nguồn) này, thì đối với bản luận giải quyết không khó.

Trúng Phong Thương Hàn đều là Thái Dương Bệnh dẫn đạo trước :

- Phong là Dương loại, Thái Dương Trúng Phong là Dương ở trong Dương làm bệnh.

- Hàn là Âm loại, Thái Dương Thương Hàn là Âm ở trong Dương làm bệnh.

Dương trước Âm sau, lúc bình thường Kinh Khí lưu chuyển như vậy, còn như lúc có
bệnh, sao có thể cố chấp lệ này ? Có Trúng Phong trước, có Thương Hàn trước, có Phong Hàn
đồng thời. Đọc Thương Hàn cần giải quyết trước điểm này, nếu không như vậy thì dễ bị Phong
Hàn làm cho lầm lẫn.

Thái Dương Bệnh do Hàn đưa tới, chẳng phải Phong đưa tới, sở dĩ Thái Dương Trúng
Phong, Dương Minh Trúng Phong, cho đến Tam Âm Trúng Phong đều giảm (bớt) chữ ‘Bệnh’ để
phân biệt. Bởi vậy cho nên Trúng Phong tất thọ Thương Hàn truyền Kinh. Hàn Khí bất quá là
một trong Lục Khí thôi ! sao có thể truyền Kinh ? – Chỉ vì nó là Thái Dương Bản Khí. Thái Dương
thống nhất thiết, cho nên Hàn Khí truyền Kinh nhất thiết, vì thế tên sách là Thương Hàn.

Truyền Kinh do Thái Dương thương bởi Hàn. Nguyên tắc truyền Kinh không có định lệ, có
Thái Dương mới bệnh liền truyền Tam Âm, có thỉ chung vẫn tại Thái Dương. Làm sao biết là
không định lệ ? – Lấy có định lệ mà biết vậy ! Một ngày là Thái Dương, hai ba ngày là Dương
Minh Thiếu Dương, bốn ngày là Thái Âm, năm ngày là Thiếu Âm, sáu ngày là Khuyết Âm, bảy
ngày là Thái Dương tái Kinh. Lúc không bệnh hành Kinh như vậy, xem ra lúc có bệnh nếu thuận
chuyển y như vậy, là có định lệ. Còn nếu không như vậy thì chiếu theo nguyên tắc không định
17
lệ. Các chú gia không phân hiểu hai mặt như vậy, chỉ nắm một bên, bỏ sót một bên, cho nên nói
về truyền Kinh không thông.

Ôn Bệnh là thuộc bảng loại Thái Dương truyền Kinh Tam Dương ; Bản Hàn truyền Dương
Minh, Thiếu Dương, là Táo Hỏa thọ Hàn, tên là Ôn, rất là thẳng thắn ; hà tất phải xẻ chia làm
Xuân Ôn, Phục Nhiệt, trái lại mờ tối luận nghĩa.

Phong Ôn là thuộc bảng loại Thái Dương truyền Kinh Tam Âm. Thái Dương Bản Hàn truyền
Thiếu Âm Bản Nhiệt tên là Phong Ôn, truyền Thiếu Âm Tiêu Âm đấy là Phong Thấp, truyền Thái
Âm là Hàn Thấp. Chứng Phong Ôn Phong Thấp của bản luận, Nội Kinh gọi là ‘Lưỡng cảm không
khỏi chết ’, thầy thuốc gặp phải các chứng này cần khám xét cẩn thận để tránh khỏi nhầm lẫn.
Nếu như không liễu đạt truyền Kinh thì không có hướng ra tay, bởi vì truyền Kinh là điều trọng
yếu của Y gia vậy.

Lưỡng Cảm không khỏi chết là Ngoại Hàn Nội Hàn hiệp bệnh, Ngoại Hàn là Thái Dương
Bản Khí, Nội Hàn là Thiếu Âm Tiêu Khí. Thương Hàn luận từ đầu đến cuối đều là phát huy ‘Thái
Dương Thiếu Âm hiệp bệnh ’ dẫn đến con người không khỏi chết. Học giả nên thường mở to
mắt chú ý tại đó, thì mới là thực học cứu đời.

Trị Thương Hàn không khó, trị Nhiệt Bệnh không khó, trị Hàn cực phản Nhiệt, hoặc Nhiệt
bệnh thọ Hàn truyền Kinh cũng không khó, chỉ duy Thái Dương Thiếu Âm đồng thời phát Nhiệt
mới là khó. Thầy thuốc sở dĩ được gọi là ‘hồi thiên thủ đoạn’ (xoay đổi được cơ trời ) là tại chỗ
này. Như vậy tất nên đọc kỹ Thương Hàn.

Lưỡng Cảm có phát tại Bì Phu, tại Cơ Nhục, tại Tấu Lý, tại Cách Mô, Thương Hàn Luận hoàn
toàn biện biệt mạch chứng các bộ vị này :

. Tại Bì tại Cơ chớ để cho nhập Tấu.

. Tại Tấu tại Cách chớ để cho nhập Lý.

Chúng ta học Thương Hàn những mong thương thân biết mình, yêu người biết người,
trong chỗ nắm chắc được một hai phần, đầu mối đích thực là ở đây. Chứng Lưỡng Cảm không
khỏi chết, không phải là tại Bì tại Nhục, mà là lúc tại Tấu tại Cách mới như thế. Như vậy tất nên
đọc kỹ Thương Hàn.

Chỗ rất trọng yếu của Thương Hàn Luận là lấy Thái Dương làm tôn cương, chỗ rất trọng
yếu của Thái Dương Bệnh là ở truyền Kinh, nếu không thấu rõ nguyên tắc truyền Kinh thì hoàn
toàn lầm lẫn về Thương Hàn rồi. Kẻ học sau này, có người thừa nhận truyền Kinh thì nói không
rõ ràng, còn người không thừa nhận truyền Kinh thì ‘chi ly’ trên các con đường nhỏ hẹp, sở dĩ
‘Bản Nghĩa’ đặc biệt nói rõ điểm này.

18
Lúc phát bệnh tất có biện về Bộ vị truyền Kinh, tất có biện về Bệnh danh mạch chứng, như :

- Truyền Kinh tại Cơ Nhục gọi là Trúng Phong.

- Truyền Kinh tại Bì Phu gọi là Thương Hàn.

- Truyền Kinh tại Bán Biểu gọi là Ôn Bệnh hoặc Hàn Thấp.

- Truyền Kinh tại Bán Lý gọi là Phong Ôn hoặc Phong Thấp.

- Gọi là Tung, gọi là Hoành, thì biết các Kinh truyền vào ra tất do Tấu Lý.

- Gọi là Kết Hung, gọi là Tạng Kết, thì biết các Kinh truyền lên xuống tất do Cách Đới.

Còn như, Mạch là dựa xương mà đến, do Cách Tấu mà ra, các chủng loại Mạch Tượng đều
thọ nhận Khí của Tấu Cách uốn nắn hoạch thành ; gọi là Kết, gọi là Đại, đấy là lệ của nó. Thương
Hàn Luận dạy chúng ta các chỗ đó, đều nêu lên hai chữ ‘danh viết’ (tên là) để cho người ta chú
ý.

Thái Dương là Nhiệt, Thiếu Âm là Hàn ; trái lại Thái Dương chủ Hàn Khí, Thiếu Âm chủ
Nhiệt Khí. Do luận điều này cho nên Thái Dương Hàn Khí chủ Biểu không rời Nhiệt Khí, Thiếu Âm
Nhiệt Khí chủ Lý không rời Hàn Khí. Trong luận không kể Mạch Chứng Kinh nào, đều dùng Thái
Dương Thiếu Âm làm pháp chức biện chứng nhận trị.

Nội Kinh có Mạch Chứng của Bát Kỳ Kinh, Trọng Sư chỉ áp dụng Đốc Xung Nhâm Đới chi
phối 12 Kinh Lạc, tầng tầng phát hiện tại các bộ phận Bì, Cơ, Tấu, Lý, tầm ra sắc thái, tính tình,
mạch chứng của bản kinh, khiến cho người học nhẫn nại tìm tòi không mỏi. Các Kinh Dương
Duy, Âm Duy, Dương Kiểu, Âm Kiểu đi theo ‘Khổng đạo’ không ngoài 2 Kinh Thái Dương Thiếu
Âm. Dương Duy theo Thái Dương đến Thiếu Dương, Âm Duy theo Thiếu Âm đến Khuyết Âm, hai
Mạch Kiểu - một thì do Âm xuất ra Dương mà chạy nơi Túc Thái Dương, một thì do Dương nhập
vào Âm mà giao với Túc Thiếu Âm. Tóm lại 2 Kinh Thái Dương Thiếu Âm là lãnh vực thống hội
chúng lưu (các dòng chảy). Trọng Sư làm luận chủ trương Thái Dương Thiếu Âm, Duy nhất học
thuyết vậy.

Mạch chứng Thủ Túc Tam Dương, trong luận thuộc Tam Dương Kinh, không cần bàn luận
vậy. Thủ Túc Tam Âm trong luận chỉ nói đến Thủ Túc Khuyết Âm, mà không đề cập đến Thủ Túc
Thái Âm, Thiếu Âm, không phải là khuyết điển, đấy là giới hạn làm sách. Thương Hàn Luận giới
hạn Bì Nhục đến Tấu Lý. Tạp Bệnh Luận giới hạn Tấu Lý đến Phủ Tạng. Khuyết Âm Can Bào chủ
Tấu Lý là chỗ liên quan của lưỡng giới, cho nên Thương Hàn tường giải nó. Thái Âm Tỳ Phế,
Thiếu Âm Tâm Thận tường giải tại Tạp Bệnh, cho nên lược đi.

19
Thiếu Dương 10 tiết, Thái Âm 8 tiết, các chú gia cho đó là thiếu xót đều do bởi không
tham khảo. Thương Hàn tuy biện minh lục Kinh, kỳ thật chú trọng Khí của Lục Kinh mà thôi.
Kinh là nhất định không rời chỗ, Khí thì ly hợp lưu động.

- Dương Minh Thiếu Dương đồng là Dương Nhiệt Khí, đồng thọ truyền bởi Thái Dương Hàn Khí
cho nên :

. Thiếu Dương Hàn Chứng chọn lấy ở Thái Dương, trong thiên Thái Dương có Thái
Dương với Thiếu Âm hợp bệnh, đấy là lệ vậy.

. Thiếu Dương Nhiệt Chứng chọn lấy ở Dương Minh, trong thiên Dương Minh có
Dương Minh với Thiếu Dương hợp bệnh lại là lệ của nó vậy.

Tiểu Sài Hồ thang là chuyên phương của Thái Dương, lại là chủ phương của Thiếu Dương,
cho đến Mạch chứng Thủ Túc Thiếu Dương đều ‘hệ’ (buộc liền) dưới Thái Dương.

- Còn như Thái Âm là Thái Dương Bản Khí, trong thiên Thái Âm 3 chữ ‘bọn tứ nghịch’ nói
phương trị Thái Âm chọn lấy ở Thái Dương vậy.

Chương Hoắc Loạn nói về Kinh, chương Âm Dương Dịch nói về Lạc, xếp đặt sau Lục Kinh,
tỏ rõ Kinh Lạc là cở sở hạ thủ công phu đọc sách Thương Hàn, dùng Kinh Lạc nhận Âm Dương,
dùng Kinh Lạc biện Mạch Chứng, dùng Kinh Lạc phân Bộ vị, dùng Kinh Lạc lập Thang phương,
chỗ nào cũng giải quyết bằng Kinh Lạc nơi thân người. Nói mãi không hết lời, cho nên cuối sách
dùng 2 chương này để kết.

Chương Kỉnh Thấp Yết nói về Tam Âm, kết chỗ dứt của Thương Hàn, tức dùng để khai
chỗ bắt đầu của Tạp Bệnh ; Thương Hàn tường giải ở Biểu, Tạp Bệnh tường giải ở Lý. Biểu Lý
không thể không phân cho nên 2 luận, mỗi luận đều có tôn chỉ. Biểu Lý không thể không hợp
cho nên dùng Bản Chương hai bên thông lưu nhau. Đấy là thâm ý của tác giả vậy.

Nguyên Văn sách Thương Hàn chương tiết khởi dứt, chia cắt phân minh, cực kỳ nghiêm
mật, mỗi thiên đều có thể lệ, Thái Dương thượng 6 chương, Thái Dương trung 8 chương, Thái
Dương hạ 7 chương, Dương Minh 10 chương, Thiếu Dương Thái Âm mỗi Kinh 1 chương, Thiếu
Âm 6 chương, Khuyết Âm 6 chương, Hoắc Loạn và Âm Dương Dịch mỗi loại một chương, cộng
lại là 47 chương.

Văn pháp Thương Hàn không sáng tỏ được thì không thể phân chương, tức không biết
Thương Hàn Luận là sách khoa học, thì bao giờ mới thực dụng được ?!

Các chú gia thường giải cưỡng ép, không tuân theo thể lệ, do bởi cớ không phân được
chương tiết.

20
Khảo cứu Thương Hàn, nên cực lực ‘nghiên tinh đàn tứ’ (xét tận, nghĩ cùng) Hãy thử lấy
1 tiết xem nó nói gì ? là Kinh Khí nào ? là Bộ vị nào ? Mạch Chứng ra sao ? do đâu dùng Thang
phương đó ? Lý đắc Tâm an, không sai sự thật ; không chỉ lý luận suông, đấy mới là hữu ích.

Chúng ta sở dĩ sinh, do Âm Dương tụ mà sinh. Chúng ta sở dĩ tử do Âm Dương tán mà tử.


Vậy thì, chúng ta sở dĩ bệnh do Âm Dương bất hòa dẫn đến, vạn lần không thể cải đổi lý này !

Thầy thuốc ngày nay muốn nghiên cứu Âm Dương, nếu như bỏ Thương Hàn Luận thiết
tưởng không có con đường nào có thể vào được. Sách đời sau luận Âm Dương một cách Phù
phiếm, không xét kỹ, không đáng bàn. Linh Tố Nan Kinh nói về Âm Dương tất nên giữ lấy pháp,
nhưng mà ‘bạc đầu cùng Kinh’ chưa dễ dòm ngó. Bởi vì Nội Nạn nói về Âm Dương như lời sông
Hà sông Hán. Trọng Sư chê trách y giả đương thời các thầy thuốc gia truyền thỉ chung theo nếp
cũ, có thể thấy Trọng Sư đối với Y giới là nhà cải tiến, mà không phải là nhà thuận cựu. Như thế,
há chẳng phải chúng ta học Thương Hàn thì không nên tự phong (khóa kín mình) mà phải bước
theo gương ‘cải tiến’ đó ư ?

Cái gọi Trọng Sư cải tiến Nội Nạn, là đem cái bí chỉ gốc của Nội Nạn diện đạt cho hợp với
nhu cầu tật bệnh của nhân loại đương thời. Cũng như Văn Vương đối với Dịch, từ gốc Tiên
Thiên mà lập Hậu Thiên. Khổng Tử tôn Chu nên viết ‘Hành hạ chi thời’. Thì ra, Thánh Nhân xưa
đều từ gốc nhu cầu của xã hội mà cải tiến, cho đạt đến trình độ thích đương mà thôi. Trọng Sư
với Thương Hàn Luận cũng vậy.

Đọc sách cần phải linh hoạt, xem Trọng Sư dùng Nội Nạn soạn Thương Hàn mà biến hóa
được Nội Nạn, có thể pháp (noi theo) vậy. Dùng cái gốc ‘Lục Kinh Lục Khí’ để làm cho thấy bệnh
biết được nguồn gốc của bệnh, kế đến nói rằng “Nếu ai hay tìm đọc các sở tập của tôi”, là
Trọng Sư lập luận tự mình riêng có sở tập. Mạch chứng thang phương ‘hệ’ dưới Lục Kinh, cách
lập pháp này rất có công đối với hậu học, ngàn muôn năm không suy giảm…..

Ngày nay, chúng ta đọc sách Thương Hàn không nên câu thủ (cố chấp) Thương Hàn.
Phàm mạch chứng thang phương có thể chữa các bệnh gian hiểm, cố tật đều có thể hệ sau Lục
Kinh, lấy đó làm điển thường. Tôi nay đã già, kỳ vọng nơi thế hệ tương lai.

21
PHÀM LỆ
____________

1. Là người Việt sinh thời giữa Thế kỷ 20 (1887 – 1964), Tiên sinh Việt Nhân Lưu Thủy viết
để lại các tác phẩm Y học đều bằng chữ Hán, cho thấy thâm ý của tác giả dùng văn pháp và
thuật ngữ chữ Hán để giải rõ Bản Nghĩa của sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận ; tác
phẩm không những dành cho người Việt mà còn để đáp lại nơi xuất sứ và phổ biến cho toàn
nhân loại. Muốn chuyển ngữ thành công cần phải hiểu rõ Bản Nghĩa và thấu đáo văn pháp chữ
Hán lẫn chữ Việt. Người dịch đều yếu kém cả 2 mặt này cho nên bản dịch chỉ tạm thời được
dùng giới thiệu tác phẩm và làm tư liệu tham khảo cho các bằng hữu học tập, cần phải được tập
thể sửa chữa bổ sung nhiều lần cho đến khi phù hợp và tương xứng với Nguyên Bản.

2. Đặc sắc của sách Thương Hàn Luận Bản Nghĩa là có phân tích đề cương từng chương
tiết, chứng minh được sách Thương Hàn Luận của Đức Trọng Cảnh là rất khoa học, luận Khí
Hóa, Bộ vị để trị bệnh tật theo Âm Dương Kinh Lạc rất có hệ thống. Tiên sinh Lưu Thủy làm
được như vậy là vì thấu hiểu văn pháp và thuật ngữ dùng tại Nguyên Văn, cho nên chúng tôi :

- Không dịch mà chỉ để nguyên trong dấu “…” các từ dùng làm văn pháp như “chi vi”, “kỳ hậu” ,
“pháp đương”, ….. vì hầu hết đã được Tiên sinh giải thích tại Bản Nghĩa.

- Các thuật ngữ như Thái Dương Bệnh, Âm Dương, Hàn Nhiệt, Khí Kinh Lạc, …… , các tên bệnh
như Trúng Phong, Thương Hàn, Ôn Bệnh, ..…, các Bộ vị như : Bì Phu, Cơ Nhục, Tấu Lý, ……, các
phép trị như Hãn, Thổ, Hạ, Hòa, … đều dùng chữ Hoa để phân biệt với chữ thường.

3. Bố cục và nội dung của sách vẫn giữ như Nguyên Bản, nhưng để giúp người đọc dễ phân
biệt khi tra cứu, mỗi tiết đều chia riêng phần Nguyên Văn và phần Bản Nghĩa :

- Sau 2 chữ Nguyên Văn có đánh số (trong ngoặc) là số tiết thứ tự theo toàn bộ 397 tiết của
sách.

- Sau 2 chữ Bản Nghĩa có ghi số (trong ngoặc), số trước là số chương, số sau là số tiết, thứ tự
theo các tiết trong chương.

22
4. Nội dung phần Bản Nghĩa của mỗi tiết được trình bày :

a- Mở đầu là đề cương của tiết, chúng tôi đặt trước đó dấu ‘hoa thị’ và dùng chữ
nghiêng để tiện phân biệt.

b- Tiếp sau là phần giải thích, thường là lập lại từng đoạn Nguyên Văn rồi sau đó giải
thích, đôi khi vừa lập lại vừa xen vào các từ để giải. Chúng tôi thuận theo chú giải
ngắt đoạn và đặt sau các gạch đầu dòng.

c- Thỉnh thoảng có tiết sau khi giải thích còn tóm lại một ý mang tính qui luật để nhắc
thêm cho người học, phần này cũng được đặt sau dấu “hoa thị” và dùng chữ
nghiêng để phân biệt.

*
23
THƯƠNG HÀN LUẬN QUYỂN I
Nguyên Văn : Hán, Trương Trọng Cảnh

Bản Nghĩa : Việt Nhân Lưu Thủy

____________________________________________

LUẬN MẠCH CHỨNG BỆNH THÁI DƯƠNG – THIÊN THƯỢNG


(6 chương,từ 1 đến 6)

CHƯƠNG 1 : THÁI DƯƠNG THỂ LỆ

(11 Tiết, từ 1 đến 11)

1- Thể lệ Thái Dương thống lĩnh hết thảy Âm Dương.

2- Thể lệ Thái Dương Kinh làm Trúng Phong.

3- Thể lệ Thái Dương Khí làm Thương Hàn.

4- Thể lệ Thương Hàn truyền Kinh làm Hàn Thấp, Phong Thấp.

5- Thể lệ Thương Hàn không truyền Kinh thì làm Thương Hàn.

6- Thể lệ Thái Dương truyền Kinh làm Ôn Bệnh, Phong Ôn.

7- Thể lệ nhật số truyền Kinh.

8- Thể lệ Dương Kinh từ Tấu đến Biểu.

9- Thể lệ thời số truyền Kinh.

10- Thể lệ Âm Kinh từ Tấu đến Lý.

11- Thể lệ Âm Dương tập trung tại Tấu.

NGUYÊN VĂN (1)

Thái Dương chi vi bệnh, mạch Phù, đầu gáy cứng đau mà sợ lạnh.

24
BẢN NGHĨA (1/1)

*Thể lệ Thái Dương thống lĩnh hết thảy Âm Dương.

- ‘Chi vi’ : Thái Dương chi Kinh Khí vi bệnh.

- Mạch Phù : Thái Dương chủ Biểu mạch, hết thảy bệnh tại Biểu, không bệnh nào không mạch
Phù.

- Đầu gáy cứng đau: Kinh Thái Dương thống lĩnh 3 Dương tại đầu gáy, bị thương bởi Hàn mà
cứng đau, lại thống lĩnh 3 Âm vậy.

- Hàn là Bản Khí Thái Dương, Dương Khí mà sợ lạnh là Thái Dương lại thống lĩnh Âm Khí. Nội
Kinh gọi Thái Dương là Cự Dương, tức là nghĩa này.

*Hai tiết sau nói Thái Dương Kinh bệnh làm Trúng Phong, Thái Dương Khí bệnh làm Thương
Hàn, Kinh Khí là một mà chẳng phải một, cho nên Trúng Phong, Thương Hàn là một mà chẳng
phải một. Học giả nên rõ.

NGUYÊN VĂN (2)

Thái Dương Bệnh, phát nóng, đổ mồ hôi, sợ gió mạch Hoãn, tên là Trúng Phong.

BẢN NGHĨA (1/2)

*Thể lệ Thái Dương Kinh làm Trúng Phong.

- Phát nóng: Thái Dương Tiêu Khí.

- Đổ mồ hôi : Thái Dương Bản Khí .

- Sợ gió: Tiêu Bản cùng bệnh.

- Mạch Hoãn: Vệ Khí tại Nhục phần bị Phong cản trở.

- Gọi là Trúng Phong: chỉ bệnh tại Nhục phần.

NGUYÊN VĂN (3)

Thái Dương Bệnh, hoặc đã phát nóng, hoặc chưa phát nóng, tất sợ lạnh, mình đau, ói ngược,
mạch Âm Dương đều Khẩn, gọi là Thương Hàn.

25
BẢN NGHĨA (1/3)

*Thể lệ Thái Dương Khí làm Thương Hàn.

- Hoặc đã phát nóng : bệnh tại Kinh.

- Hoặc chưa phát nóng: bệnh tại Khí.

- Tất sợ lạnh: Hàn Khí chủ Bì phần.

- Mình đau: Khí bệnh, Kinh cũng bệnh.

- Ói ngược: Phong trước Hàn sau là nghịch.

- Mạch Âm Dương đều Khẩn: trước bộ Quan là Dương, sau bộ Quan là Âm, gọi Dương Hàn che
lấp Âm Nhiệt, ba bộ mạch đều Khẩn vậy.

- Gọi là Thương Hàn: chỉ bệnh tại Bì phần.

*Thái Dương có Kinh có Khí, Bộ phận có Nhục có Bì, làm bệnh có Phong có Hàn. Đó là cái học
cùng tận Trời Người của Cổ Thánh, lấy làm điển thường của nhà làm thuốc. Thái Dương trên
thân người chỉ phát xuất một bệnh này, kỳ dư đều do Thái Dương Trúng Phong Thương Hàn
truyền làm bệnh. Từ đây trở xuống nói Truyền Kinh.

NGUYÊN VĂN (4)

Thương Hàn một ngày Thái Dương mắc phải, mạch như yên tĩnh là không truyền. Hơi muốn
mửa, nếu như táo phiền (vật vã bứt rứt), mạch Sác cấp đó là truyền vậy.

BẢN NGHĨA (1/4)

*Thể lệ Thương Hàn truyền Kinh làm Hàn Thấp, Phong Thấp.
- Thương Hàn một ngày Thái Dương mắc phải: ngày mắc bệnh đầu tiên là ngày Thái Dương
thọ chịu, gọi là Thương Hàn.

- Mạch như yên tĩnh là không truyền: chỉ bệnh tại Thái Dương Kinh.

- Hơi muốn mửa: Thương Hàn truyền Âm Hàn Kinh làm Hàn Thấp.

- Nếu như Táo phiền: Thương Hàn truyền Âm Nhiệt Kinh làm Phong Thấp.

- Mạch Sác cấp : Lạc tùy Kinh truyền.

26
*Đây là Thương Hàn truyền các Âm Kinh.

NGUYÊN VĂN (5)

Thương Hàn hai ba ngày, chứng Dương Minh Thiếu Dương không thấy là không truyền vậy.

BẢN NGHĨA (1/5)

*Thể lệ Thương Hàn không truyền Kinh thì làm Thương Hàn.

-Thương Hàn hai ba ngày, chứng Dương Minh Thiếu Dương không thấy là không truyền:
Nói Thái Dương thọ Thương Hàn, không truyền các Dương Kinh.

*Tiết trên nói Thương Hàn một ngày liền truyền các Âm Kinh. Tiết này nói Thương Hàn hai ba
ngày vẫn không truyền các Dương Kinh. Cùng nêu lên như thế khiến cho học giả sớm nhận thức
truyền Kinh không lệ nhất định. Về sau, các chú gia có người phủ nhận truyền Kinh thì chi ly theo
con đường nhỏ hẹp, có người công nhận truyền Kinh thì giải không rõ ràng, đều bởi cớ chưa
khảo sát kỹ 2 tiết này.

NGUYÊN VĂN (6)

Thái Dương Bệnh phát nóng mà khát, không sợ lạnh gọi là Ôn Bệnh. Nếu phát Hãn rồi mình
nóng như đốt, gọi là Phong Ôn. Phong Ôn làm nên bệnh, mạch Âm Dương đều Phù, tự đổ mồ
hôi, mình nặng nề, ngủ nhiều, mũi thở khò khè như ngáy, nói năng khó ra lời. Nếu bị (lầm)
cho Hạ, thì tiểu tiện không lợi, mắt trực thị, đái són. Nếu bị (lầm) dùng lửa (chườm cứu) nhẹ
thì mình phát sắc vàng, nặng thì như Kinh Giản, có lúc co giật. Nếu dùng lửa để xông, nghịch
lần đầu thì có thể kéo dài ngày, nghịch lần nữa thì nguy đến tính mệnh.

BẢN NGHĨA (1/6)

*Thể lệ Thái Dương truyền Kinh làm Ôn Bệnh, Phong Ôn.

- Phát nóng mà khát :Thái Dương Tiêu Khí bệnh tại Tấu phần.

- Không sợ lạnh : tại Tấu phần Nhiệt Khí làm chủ.

- Gọi là Ôn bệnh: tại Tấu Bán Biểu phần, Dương Nhiệt Kinh thọ Hàn truyền.

- Phát Hãn rồi mình nóng như đốt : do Dương Nhiệt nhập vào Âm Nhiệt Kinh.

- Gọi là Phong Ôn : tại Tấu Bán Lý phần, Âm Nhiệt Kinh thọ Hàn truyền.
27
- Phong Ôn làm nên bệnh : nói chứng Phong Ôn tại Biểu.

- Mạch Âm Dương đều Phù : Thái Dương Bản Hàn,Thiếu Âm Bản Nhiệt đều bệnh tại Biểu .

- Tự đổ mồ hôi: Bản Hàn hiệp với Thiếu Âm Tiêu Khí.

- Mình nặng nề: Bản Hàn hiệp với Thiếu Âm Bản Khí.

- Ngủ nhiều: cớ bởi Bản Hàn truyền nhập Bản Nhiệt.

- Thở khò khè như ngáy, nói năng khó ra lời: cớ bởi Bản Nhiệt thọ Bản Hàn.

- Nếu bị (lầm) cho Hạ: nói Phong Ôn tại Lý.

- Tiểu tiện không lợi: Bản Hàn Bản Nhiệt cùng nhập Lý.

- Mắt trực thị: Bản Nhiệt bệnh.

- Đái són(tiểu tiện không tự chủ): Bản Hàn bệnh.

- Nếu bị (lầm) dùng lửa: nói Phong Ôn tại Tấu.

- Nhẹ thì mình phát sắc vàng: từ Bán Biểu đi ra Bì Nhục.

- Nặng thì như Kinh Giản, có lúc co giật : từ Bán Lý nhập vào gân cốt.

- Nếu dùng lửa để xông : nói tại Tấu Bản Hàn bị Bản Nhiệt Hóa.

- Nghịch lần đầu còn có thể kéo dài ngày : thọ hóa tại Tấu.

- Nghịch lần nữa thì nguy đến tính mạng: thọ hóa tại Cách, tại Đái.

*Thái Dương bị Thiếu Âm hóa là nghịch, gọi là Lưỡng Cảm. Sao có thể để truyền Kinh lâu ngày ?

NGUYÊN VĂN (7)

Bệnh có phát nóng sợ lạnh là phát ở Dương, không nóng sợ lạnh là phát ở Âm. Phát ở Dương
bảy ngày khỏi, phát ở Âm sáu ngày khỏi, bởi vì Dương số 7, Âm số 6 cho nên vậy.

BẢN NGHĨA (1/7)

*Thể lệ số ngày truyền Kinh.

- Phát nóng sợ lạnh: Tam Dương bệnh.

28
- Không nóng sợ lạnh : Tam Âm bệnh.

- Phát ở Dương 7 ngày khỏi : 3 Dương từ Tấu đến Biểu là 3 ngày, từ Biểu đến Tấu là 3 ngày,
Thái Dương tái Kinh là 7 ngày, khỏi là qua một chu kỳ (nhật số) tại Biểu vậy.

- Phát ở Âm 6 ngày khỏi: 3 Âm từ Tấu đến Lý là 3 ngày, từ Lý đến Tấu là 3 ngày, gọi 6 ngày
khỏi là tại Lý 6 ngày 1 chu kỳ vậy.

*Hành Kinh Biểu Lý nơi thân người một chu kỳ 13 ngày, tại Biểu nhiều hơn tại Lý 1 ngày là bởi
Dương số 7, Âm số 6, Đạo của Âm Dương vậy.

NGUYÊN VĂN (8)

Thái Dương Bệnh đầu đau đến 7 ngày trở lên tự khỏi, là vì hành Kinh đã hết nhật kỳ. Nếu
muốn làm ‘Tái Kinh’, thì châm ở Túc Dương Minh Kinh, khiến cho không truyền thì khỏi.

BẢN NGHĨA (1/8)

*Thể lệ Dương Kinh từ Tấu đến Biểu.

- Thái Dương bệnh đầu đau đến 7 ngày trở lên tự khỏi : vì 7 ngày là nhật số của Dương Kinh
hành Biểu đã hết.

- Nếu muốn làm‘Tái Kinh’: nói Thái Dương bệnh Tái Kinh là muốn nhập Lý chuyển sang Âm
Kinh.

- Châm Túc Dương Minh Kinh(Túc Tam Lý huyệt) khiến cho không truyền nhập Lý thì khỏi.

NGUYÊN VĂN (9)

Thái Dương Bệnh lúc muốn giải, theo từ giờ Tỵ đến giờ Mùi.

BẢN NGHĨA (1/9)

*Thể lệ Thái Dương hành Kinh Vượng thời.

- Số ngày Âm Dương hành Kinh nhiều ít không đồng : Dương số 7, Âm số 6.

- Số giờ Âm Dương hành Kinh cũng không đồng : Dương từ Dần đến Tuất, Âm từ Hợi đến Mão.

- Quỉ đạo hành Kinh của Nhật số với Thời số lại không đồng :
29
. Nhật số từ Thái Dương, Dương Minh, Thiếu Dương đến Thái Âm, Thiếu Âm, Khuyết Âm.

.Thời số từ Thái Dương,Dương Minh đến Thiếu Âm; từ Thái Âm,Khuyết Âm đến Thiếu Dương.

Ra vào lên xuống cùng nhau thuận nghịch lưu chuyển. Học giả nên rõ.

- Ở đây thì Thái Dương vượng từ giờ Tỵ đến giờ Mùi.

*Biết giờ vượng của Bản Kinh để trắc định bệnh tại Kinh nào, giờ nào, là thuận hay là nghịch mà
thi trị.

NGUYÊN VĂN (10)

Phong gia (người bệnh do Phong) Biểu giải rồi nhưng chưa được khoan khoái, 12 ngày khỏi.

BẢN NGHĨA (1/10)

*Thể lệ Âm Kinh từ Tấu đến Lý.

- Phong gia [*] : nói Âm Kinh tại Lý.

- Biểu giải rồi nhưng chưa được khoan khoái : Biểu giải mà Lý chưa giải.

- 12 ngày khỏi : Trên nói Biểu Kinh hành 7 ngày, Lý Kinh hành 6 ngày, 13 ngày một chu kỳ. Đây
12 ngày khỏi, chỉ nói số ngày Âm Kinh hành Lý.

*Dương Kinh tái Kinh thì vào Lý, cho nên châm để không nhập vào. Âm Kinh tái kinh thì ra Biểu,
cho nên khỏi.

[*] Nếu Dương Hàn là chủ thì Âm Hàn là gia, Dương Nhiệt là tỳ (tớ) ; còn nếu Âm Nhiệt là chủ
thì Dương Nhiệt là khách.

NGUYÊN VĂN (11)

Bệnh nhân mình nóng dữ, lại muốn được mặc áo, vì Nhiệt tại Bì Phu, Hàn tại cốt tủy ; mình
lạnh dữ lại không muốn mặc áo, vì Hàn tại Bì Phu, Nhiệt tại cốt tủy.

BẢN NGHĨA (1/11)

*Thể lệ Âm Dương Kinh đều tập trung tại Tấu mà hành Biểu Lý.

30
- Thái Dương là Dương Hàn, Dương Minh Thiếu Dương gọi chung là Dương Nhiệt. Thiếu Âm là
Âm Nhiệt, Thái Âm Khuyết Âm gọi chung là Âm Hàn. Đều tập trung tại khu vực Tấu Lý.

- Mình nóng dữ : Dương Nhiệt, Âm Nhiệt tập trung tại Tấu.

- Lại muốn được mặc áo : Dương Hàn, Âm Hàn cũng tập trung tại Tấu.

- Nhiệt tại Bì phu : Dương Nhiệt hiệp Âm Nhiệt từ Tấu đến Biểu.

- Hàn tại Cốt Tủy: Dương Hàn hiệp Âm Hàn từ Tấu đến Lý.

- Mình lạnh dữ: Dương Hàn, Âm Hàn tập trung tại Tấu.

- Lại không muốn mặc áo : Dương Nhiệt, Âm Nhiệt cũng tập trung tại Tấu.

- Hàn tại Bì Phu : Dương Hàn, Âm Hàn từ Tấu đến Biểu.

- Nhiệt tại Cốt Tủy: Dương Nhiệt hiệp Âm Nhiệt từ Tấu đến Lý.

*Tấu Lý là trung tâm điểm của nhân thân, hết thảy Âm Dương Hàn Nhiệt do đấy trao đổi ra vào.
Triệt để chỉ một Kinh, riêng hành ở Biểu là Dương, hành ở Lý là Âm mà thôi. Học giả ắt nên giải
rõ như vậy, nhiên hậu nguyên lý Âm Dương dời đổi mới có đầu mối có thể tìm tòi.

(Trên đây, chương thứ 1, 11 tiết, giải thích Thái Dương thể lệ).

*Chương này thống quát thể lệ Thái Dương, cũng là thể lệ toàn sách Thương Hàn, cũng như lệ
án của nhà hình pháp, thước tấc (quy cũ) của bác thợ mộc, gọi đó là pháp lý của Y gia.

- Tiết đầu đề ra một Kinh Thái Dương đầy đủ 3 Âm 3 Dương không gì lớn như thế.

- Tiết 2 nói tại Nhục phần Thái Dương Kinh làm Trúng Phong, Nhục phần là chỗ Vinh Vệ sơ
hội, thống lãnh hết thảy Âm Dương Bệnh mới mắc phải.

- Tiết 3 nói tại Bì phần Thái Dương Khí làm Thương Hàn, Bì phần là chỗ Thái Dương làm
chủ, thống lãnh hết thảy Âm Dương đều thọ chịu Thái Dương Hàn Khí truyền Kinh.

- Tiết 4 nói Bản Hàn truyền Âm Hàn làm Hàn Thấp, truyền Âm Nhiệt làm Phong Thấp.

31
- Tiết 5 nói Bản Hàn tại Thái Dương không truyền Kinh thì làm Thương Hàn, mà yếu chỉ
truyền Kinh không định lệ đã rõ vậy.

- Tiết 6 nói Bản Hàn truyền Dương Nhiệt làm Ôn Bệnh, truyền Âm Nhiệt làm Phong Ôn, mà
do thọ Bản Hàn truyền Kinh thì nghĩa lý của Thương Hàn loại đã hiện thấy.

- Tiết 7 nói nhật số (số ngày) của Âm Dương truyền Kinh không đồng.

- Tiết 8 nói các Dương Kinh hành Kinh từ Tấu mà ra Biểu.

- Tiết 9 nói giờ vượng Thái Dương hành Kinh.

- Tiết 10 nói các Âm Kinh hành Kinh từ Tấu mà vào Lý.

- Tiết 11 nói Tấu Lý là chỗ hết thảy các Kinh đều tụ tập, ngoài là Dương Hàn Dương Nhiệt,
trong là Âm Hàn Âm Nhiệt ; thông hội tại Tấu, truyền chuyển tại Tấu. Đó là Thương Hàn
lập luận Hàn Nhiệt chưa từng thiên một bên, nên theo dấu đó để tìm cầu.

*3 chữ Thái Dương Bệnh gồm đủ 3 Âm 3 Dương trong nó. Thái Dương chủ 3 Dương, thương
bởi Hàn mà bệnh, Hàn là 3 Âm, sở dĩ lại chủ 3 Âm.

*Một là Thái Dương; Một mà hai là Thái Dương biến tướng Thiếu Âm; Hai mà bốn là Dương
Hàn, Dương Nhiệt, Âm Hàn, Âm Nhiệt ; Bốn mà sáu là Tam Âm Tam Dương ; Sáu mà 12 là Thủ
Tam Âm, Thủ Tam Dương, Túc Tam Âm, Túc Tam Dương.

*Tại chỗ Sinh lý quan sát thì là Thái Dương, theo nơi Bệnh lý quan sát thì là Thương Hàn ; pháp
lý Âm Dương, sự thật vậy. Cổ Thánh thuận theo lý Âm Dương, chẳng cưỡng ép cho nên ‘như vậy
‘. Nếu quả thế thì việc làm thành sách Thương Hàn không cần phải bàn luận.

*Thái Dương là đại tôn chủ độc nhất vô nhị. Thái Dương là Dương Khí, là Sinh Khí. Hàn là Âm
Khí, là Chung Khí. Người ta không thể có Sinh mà không Bệnh. Khí của Lục Kinh không thể có
thủy mà không chung. Lục Kinh bệnh tất do Thái Dương Hàn Khí truyền Kinh dẫn khởi.Thủy rồi
ắt có chung, sinh rồi ắt có tử, Thánh Nhân âu lo về điều đó mà làm cũng vì điều đó, trước giải rõ
cái ‘nguyên’ của Âm Dương, cái ‘lý’ của Hàn Nhiệt, rồi sau rốt lấy ‘Thương Hàn’ đặt tên sách, đó
là thâm ý vậy !

32
CHƯƠNG 2 : THÁI DƯƠNG TRÚNG PHONG TẠI NHỤC PHẦN

(9 Tiết, từ 12 đến 20)

1- Thái Dương Trúng Phong tại Nhục phần truyền các Kinh.

2- Thái Dương Kinh Khí Trúng Phong.

3- Thái Dương Kinh Lạc Trúng Phong.

4- Âm Hàn Khí Trúng Phong.

5- Dương Nhiệt Khí Trúng Phong.

6- Âm Nhiệt Khí Trúng Phong.

7- Dương Nhiệt Kinh Lạc Trúng Phong.

8- Âm Hàn Kinh Lạc Trúng Phong.

9- Âm Nhiệt Kinh Lạc Trúng Phong.

NGUYÊN VĂN (12)

Thái Dương Trúng Phong, Dương (mạch) Phù mà Âm (mạch) Nhược. Dương Phù thì Nhiệt tự
phát, Âm Nhược thì Hạn tự ra, gây gây ghét lạnh, rờn rợn ghét gió, hâm hấp phát Nhiệt, mũi
kêu, nôn khan, Quế Chi thang làm chủ.

QUẾ CHI THANG PHƯƠNG

Quế Chi 3 lạng (bỏ vỏ mỏng) Thược Dược 3 lạng Chích Thảo 2 lạng

Đại Táo 12 quả Sinh Cương 3 lạng (thái mỏng)

5 vị trên, dùng 7 thăng nước đun nhỏ lửa, sắc lấy 3 thăng, bỏ bả, vừa nguội uống 1 thăng. Uống
xong giây lát húp cháo nóng loãng chừng 1 thăng để trợ sức thuốc. Đắp chăn kín một lúc, khắp
mình hơi ra mồ hôi dâm dấp là tốt, không nên cho ra dầm dề như nước, bệnh tất không trừ.
Nếu uống lần đầu đổ mồ hôi thì thôi không uống lần sau, không cần uống hết tể. Nếu không đổ
mồ hôi thì lại uống như cách trước, thời gian cho nhanh hơn, ước chừng nửa ngày uống hết 3
lần. Nếu bệnh nặng uống một ngày một đêm rồi xem xét, đã uống hết 1 thang bệnh chứng vẫn
còn, lại cho uống nữa, nếu không đổ mồ hôi uống đến 2 - 3 thang. Kiêng ăn đồ sống lạnh, mỡ
dầu, thịt, mì, 5 thứ cay, rượu, sữa, các vật tanh hôi.

33
BẢN NGHĨA (2/1)

*Tại Nhục phần Thái Dương Trúng Phong với các Kinh thọ Trúng Phong.

- Trúng Phong Thương Hàn đều là Thái Dương Bệnh. Đây không nói “Bệnh”, cho đến các Kinh
Trúng Phong đều không nói bệnh, sở dĩ phân biệt Thương Hàn ấy là Thái Dương Bệnh.

- Dương Phù mà Âm Nhược: mạch Trúng Phong Hàn loại, cùng với mạch Phù Khẩn,Trúng
Phong Nhiệt loại bất đồng.

- Dương Phù thì Nhiệt tự phát, Âm Nhược thì Hạn tự ra : Trúng Phong tại Nhục phần.

- Gây gây ghét lạnh : Thái Âm Kinh thọ (chịu) Thái Dương Trúng Phong.

- Rờn rợn ghét gió : Dương Minh, Khuyết Âm Kinh thọ Thái Dương Trúng Phong.

- Hâm hấp phát Nhiệt: Thiếu Dương, Thiếu Âm Kinh thọ Thái Dương Trúng Phong.

- Mũi kêu: Các Dương Kinh thọ Thái Dương Trúng Phong.

- Nôn khan: Các Âm Kinh thọ Thái Dương Trúng Phong.

- Quế Chi thang làm chủ: trị nhất thiết các Kinh Trúng Phong thuộc Hàn loại tại Nhục phần.

NGUYÊN VĂN (13)

Thái Dương Bệnh, đầu đau, phát nóng, đổ mồ hôi, ghét gió, Quế Chi thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (2/2)

*Tại Nhục phần Thái Dương Kinh Khí Trúng Phong.

- Đầu đau :Thái Dương Kinh.

- Phát nóng đổ mồ hôi: Thái Dương Khí.

- Ghét gió: tại Nhục phần.

- Quế Chi thang làm chủ: trị Thái Dương Trúng Phong.

34
NGUYÊN VĂN (14)

Thái Dương Bệnh, gáy lưng (vai) cứng đơ, trái lại đổ mồ hôi ghét gió, Quế Chi gia Cát Căn
thang làm chủ.

QUẾ CHI GIA CÁT CĂN THANG PHƯƠNG

Quế Chi nguyên phương gia Cát Căn 4 lạng.

6 vị, nước 7 thăng sắc lấy 3 thăng, uống ấm 1 thăng, không cần húp cháo, ngoài ra cách theo
dõi và kiêng cữ như thang Quế Chi.

BẢN NGHĨA (2/3)

*Tại Nhục phần Thái Dương Kinh Lạc Trúng Phong.

- Gáy, Lưng : đều là Kinh, chổ liền nhau là Lạc

- Cứng đơ : ở chổ Kinh Lạc giao liên.

- Trái lại đổ mồ hôi ghét gió: bệnh tại Kinh Lạc trái lại do Khí phần mà xuất ra.

- Quế Chi gia Cát Căn thang làm chủ : trị Kinh mà Lạc tự giải vậy.

*Lạc không rời Kinh, Kinh Lạc không rời Khí. Lúc không bệnh thì Khí Kinh Lạc một mạch quán
thông, khi có bệnh thì mỗi mỗi phân biệt. Không nhận biết và trị liệu “như vậy“ , thì bệnh không
chịu dứt.

NGUYÊN VĂN (15)

Thái Dương Bệnh, sau khi Hạ mà Khí xung lên, nên cho uống Quế Chi thang, phép dùng như y
trước, nếu không xung lên, không thể dùng.

BẢN NGHĨA (2/4)

*Tại Nhục phần Âm Hàn Khí Trúng Phong.

- Sau khi Hạ mà Khí xung lên: Hàn Khí vẫn tại Ngoại.

- Nên cho uống Quế Chi thang, phép dùng y như trước: thuộc Thái Dương.

- Nếu không xung lên, không thể dùng: Hàn Khí tại Nội, thuộc Thái Âm Khuyết Âm.
.

35
NGUYÊN VĂN (16)

Thái Dương Bệnh 3 ngày, đã Phát Hãn, nếu Thổ nếu Hạ, nếu Ôn Châm vẫn không giải. Đấy là
Hoại Bệnh, dùng Quế Chi không đúng. Xem mạch chứng, biết phạm về nghịch nào, tùy chứng
mà chữa.

BẢN NGHĨA (2/5)

*Tại Nhục phần Dương Nhiệt Khí Trúng Phong.

- Thái Dương bệnh : (ở đây) là Thái Dương Tiêu Khí thọ bệnh.

- 3 ngày: ngày 3 Dương hành kInh.

- Đã Phát hãn, nếu Thổ, nếu Hạ, nếu Ôn châm: phàm thuộc Dương Hàn Kinh Khí đã trị.

- Vẫn không giải,đấy là Hoại bệnh: chẳng phải Bản Hàn bệnh mà là Tiêu Nhiệt bệnh, Bản Hàn bị
Tiêu Nhiệt làm Hoại, gọi là Hoại bệnh.

- Dùng Quế Chi thang không trúng: bệnh tại Tiêu Khí tức Dương Nhiệt Khí cho nên vậy.

- Xem mạch chứng, biết phạm vào nghịch nào, hoặc nghịch do thọ Hàn truyền, hoặc nghịch do
Tiêu Nhiệt tự bệnh, hoặc nghịch do chuyển Bản Nhiệt , tùy chứng mà chữa.

NGUYÊN VĂN (17)

Quế Chi (thang) vốn là giải cơ, nếu người bệnh mạch Phù Khẩn, phát nóng mồ hôi không ra,
không thể cho uống. Phải nên biết như thế, chớ để lầm.

BẢN NGHĨA (2/6)

*Tại Nhục phần Thái Dương chuyển sang Thiếu Âm Trúng Phong.

- Quế chi (thang) vốn là giải chứng Thái Dương tại Nhục phần.

- Nếu người bệnh mạch Phù Khẩn là mạch Thái Dương chuyển Thiếu Âm.

- Phát nóng mồ hôi không ra: chứng Thái Dương chuyển Thiếu Âm.

- Không thể cho uống: Đồng tại Nhục phần nhưng phép trị Dương Hàn, Âm Nhiệt khác biệt.

- Phải nên biết như thế, chớ để lầm : Thái Dương Bản Khí tức là Tiêu của Thiếu Âm, Thái
Dương Tiêu Khí tức là Bản của Thiếu Âm, cho nên chúng nó bị bệnh, là chỗ rất khó biện luận,

36
lại là chỗ rất cần phân hiểu, là chỗ Trọng Sư dặn đi dặn lại dạy người. Toàn luận đều như vậy,
chớ nên xem qua loa.

NGUYÊN VĂN (18)

Nếu Tửu Khách (người nghiện rượu) bệnh, không thể dùng Quế Chi thang, uống thang vào thì
nôn ói, bởi vì người nghiện rượu không ưa của ngọt.

BẢN NGHĨA (2/7)

*Tại Nhục phần Dương Nhiệt Kinh Lạc Trúng Phong.

- Tửu Khách bệnh không thể dùng Quế Chi thang: Dương Minh Nhiệt Kinh hành Nhiệt Khí, nên
lấy làm tỉ dụ.

- Uống thang vào thì nôn ói: Thiếu Dương Kinh cũng hành Nhiệt Thủy.

- Bởi vì người nghiện rượu không ưa của ngọt: Đồng là Dương Nhiệt Thủy KInh cho nên đồng
không ưa Quế Chi thang cam ôn.

NGUYÊN VĂN (19)

Suyễn gia (người vốn có bệnh Suyễn) cho uống Quế Chi thang gia Hậu Phác Hạnh tử là tốt.

QUẾ CHI GIA HẬU PHÁC HẠNH NHÂN THANG PHƯƠNG

Quế Chi nguyên phương gia Hạnh Nhân 50 hạt, Chích Hậu Phác 2 lạng

Hiệp thành 7 vị, nước 7 thăng, nhỏ lửa sắc lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, đắp chăn cho ra
ít mồ hôi.

BẢN NGHĨA (2/8)

*Tại Nhục phần Âm Hàn Kinh Lạc Trúng Phong.

- Suyễn: Dương Hàn.

- Suyễn gia: Bản (gốc) của Dương Hàn tại Âm Hàn, cho nên gọi là ‘gia’.

- Quế Chi gia Hậu Phát Hạnh Nhân thang : tịnh (cùng) trị.
37
NGUYÊN VĂN (20)

Phàm uống Quế Chi thang mà mửa, kỳ hậu (sau đó) tất mửa ra mủ máu.

BẢN NGHĨA (2/9)

*Tại Nhục phần Âm Nhiệt Kinh Lạc Trúng Phong.

- Phàm uống thang Quế Chi mà mửa: vì dùng Quế Chi thang ngộ trị Âm Nhiệt Khí.

- Kỳ hậu tất mửa ra mủ máu: vì dùng Quế Chi thang ngộ trị Âm Nhiệt Kinh Lạc. Kinh tại “Khí chi
hậu” cho nên nói ‘kỳ hậu’.

(Trên đây, chương thứ 2, 9 tiết, giải thích Thái Dương Trúng Phong tại Nhục phần).

38
CHƯƠNG 3 : THÁI DƯƠNG THƯƠNG HÀN TẠI NHỤC PHẦN

(3 Tiết, từ 21 đến 23)

1- Tại Nhục phần Thương Hàn truyền Tam Âm Kinh.

2- Tại Nhục phần Thương Hàn truyền Thủ Túc Tam Âm Kinh.

3- Tại Nhục phần Thương Hàn truyền Tam Dương đến các Kinh Thủ Túc.

NGUYÊN VĂN (21)

Thái Dương Bệnh, phát Hãn rồi mồ hôi ra không ngừng, người bệnh sợ gió, đi đái khó, tay
chân hơi căng cứng (cấp) , khó co duỗi, dùng Quế Chi gia Phụ Tử thang làm chủ.

QUẾ CHI GIA PHỤ TỬ THANG PHƯƠNG

Quế Chi nguyên phương gia Phụ Tử (bào) 1 củ

6 vị, nước 6 thăng, nấu lấy 3 thăng, uống ấm 1 thăng, uống 1 lần mồ hôi ngừng, sau đừng uống
nữa.

BẢN NGHĨA (3/1)

*Tại Nhục phần Thương Hàn truyền Tam Âm Kinh.

- Phát Hãn rồi, mồ hôi ra không ngừng: Thái Dương Hàn Khí truyền Tam Âm.

- Sợ gió: truyền tại Nhục phần.

- Đi đái khó: truyền Âm Nhiệt Kinh .

- Tay chân hơi căng cứng,khó co duỗi: truyền Âm Hàn Kinh.

- Quế Chi gia Phụ Tử thang làm chủ .

NGUYÊN VĂN (22)

Thái Dương Bệnh sau khi Hạ, mạch Xúc, hung (ngực) đầy, dùng Quế Chi khứ (bỏ) Thược Dược
thang làm chủ. Nếu hơi sợ lạnh dùng Quế Chi khứ Thược Dược gia Phụ Tử thang làm chủ.
.

39
QUẾ CHI KHỨ BẠCH THƯỢC THANG PHƯƠNG

Quế Chi nguyên phương bỏ Bạch Thược

4 vị, nước 7 thăng, nhỏ lửa nấu lấy 3 thăng, uống ấm 1 thăng.

QUẾ CHI KHỨ BẠCH THƯỢC GIA PHỤ TỬ THANG PHƯƠNG

Quế Chi nguyên phương bỏ Bạch Thược gia Phụ Tử (bào) 1 củ

5 vị, nước 7 thăng, nhỏ lửa nấu lấy 3 thăng, uống ấm 1 thăng, uống 1 lần hết sợ lạnh, thôi không
uống nữa.

BẢN NGHĨA (3/2)

*Tại Nhục phần Thái Dương Thương Hàn truyền Thủ Túc Tam Âm.

- Mạch Xúc hung đầy: Hàn tại Nhục phần truyền Thủ Tam Âm.

. Quế Chi khứ Bạch Thược thang làm chủ .

- Hơi sợ lạnh: Hàn tại Nhục phần truyền Túc Tam Âm.

. Quế Chi khứ Bạch Thược gia Phụ Tử thang làm chủ .

NGUYÊN VĂN (23)

Thái Dương Bệnh mắc phải 8 – 9 ngày, như trạng sốt rét, phát sốt sợ lạnh, nóng nhiều lạnh ít,
người bệnh không nôn, đại tiện như thường ; một ngày phát 2 - 3 lần, mạch Vi Hoãn đó là
muốn giải vậy. Mạch Vi mà sợ lạnh là Âm Dương đều hư, không thể Phát Hãn, cho Thổ, cho
Hạ nữa. Sắc mặt lại có sắc Nhiệt là chưa muốn giải, vì không ra được chút ít mồ hôi cho nên
mình tất ngứa, nên dùng Quế Chi Ma Hoàng các bán thang.

QUẾ CHI MA HOÀNG CÁC BÁN THANG PHƯƠNG

Quế Chi 1 lạng 16 thù Chích Thảo 1 lạng Thược Dược 1 lạng

Đại Táo 4 trái Sinh Khương 1 lạng Hạnh Nhân 24 hạt

Ma Hoàng 1 lạng

7 vị, nước 5 thăng, trước nấu Ma Hoàng sôi 1 – 2 dạo, vớt bỏ bọt rồi cho các vị vào sắc lấy 1
thăng 8 cáp, bỏ bả, uống ấm 6 cáp.

40
BẢN NGHĨA (3/3)

*Tại Nhục phần Thái Dương Thương Hàn truyền Tam Dương đến các Kinh Thủ Túc.

- Mắc phải 8 – 9 ngày: bệnh tại Nhục phần nhưng Tái Kinh.

- Như trạng sốt rét: tại Nhục phần muốn nhập Tấu phần.

- Phát sốt sợ lạnh: chứng Thái Dương.

- Nóng nhiều lạnh ít: chứng Dương Minh, Thiếu Dương.

- Người bệnh không nôn: Thiếu Dương không nhập Lý.

- Đại tiện như thường: Dương MInh không nhập Lý .

- Một ngày phát 2 -3 lần, mạch Vi Hoãn: các Dương Kinh vẫn tại Dương phần muốn tùy theo
giờ Vượng ra ngoài rồi giải.

- Mạch Vi mà sợ lạnh : đó là tại Nhục phần Âm Dương đều hư không thể lại Hạn, Thổ, Hạ nữa.

- Sắc mặt trái lại có sắc Nhiệt: Bản Hàn truyền Thủ Dương Kinh muốn giải mà chưa giải.

- Không ra được chút ít mồ hôi cho nên mình tất ngứa: Bản Hàn truyền Túc Dương Kinh
không ra được chút ít mồ hôi để giải.

- Nên dùng Quế Chi Ma Hoàng Các Bán thang: chỉ phát hạn của Dương Kinh nên nói tiểu (chút
ít) , có Dương Nhiệt tại Nội nên nói nghi (nên dùng).

(Trên đây, chương thứ 3, 3 tiết, giải thích Thái Dương Thương Hàn tại Nhục phần).

41
CHƯƠNG 4 : TẠI NHỤC PHẦN THƯƠNG HÀN LOẠI

(7 Tiết, từ 24 đến 30)

1- Thái Dương Tiêu Bản làm Thương Hàn.


2- Bản Hàn truyền làm Hàn Thấp Phong Thấp.
3- Tiêu Dương chuyển Bản Nhiệt làm Nhiệt Bệnh.
4- Tiêu Dương thọ Bản Hàn làm Ôn Bệnh.
5- Tiêu Dương thọ Bản Hàn chuyển Bản Nhiệt làm Phong Ôn.
6- Cứu ngộ Thương Hàn loại Ôn Bệnh.
7- Cứu ngộ Trúng Phong loại Phong Ôn.

NGUYÊN VĂN (24)

Thái Dương Bệnh, mới đầu uống Quế Chi thang trái lại phiền (bứt rứt) không giải. Trước châm
huyệt Phong trì, Phong phủ, rồi lại dùng thang Quế Chi thì khỏi.

BẢN NGHĨA (4/1)

*Tại Nhục phần Thái Dương Tiêu Bản làm Thương Hàn.

- Mới đầu uống Quế chi thang: trị Bản Khí làm Thương Hàn.

- Trái lại phiền không giải: có Tiêu Khí tại Nội.

- Trước châm Phong Trì, Phong Phủ: trước trị Tiêu Khí.

- Rồi lại dùng thang Quế chi thì khỏi: rồi sau trị Bản Hàn.

- Phong Trì: 2 huyệt tại trên đầu, sau xương tai, chỗ lõm, huyệt thuộc Túc Thiếu Dương Kinh,
châm vào 3 phân lưu 3 hô.

- Phong Phủ: 1 huyệt, trên mí tóc 1 thốn, giữa 2 gân lớn sau cổ, huyệt thuộc Đốc mạch, châm
vào 4 phân lưu 3 hô.

Hai huyệt này đều là chỗ đi qua của Thái Dương Kinh, châm để tả tà của Thái Dương.

NGUYÊN VĂN (25)

Uống Quế Chi thang, ra nhiều mồ hôi, mạch Hồng Đại, dùng thang Quế Chi như phép trước.
Nếu hình như sốt rét, ngày phát 2 lần, ra mồ hôi tất giải, nên dùng Quế Chi nhị Ma Hoàng
nhất thang.
42
QUẾ CHI NHỊ MA HOÀNG NHẤT THANG PHƯƠNG

Tức Quế Chi Ma Hoàng các bán thang,phân lượng hơi giảm. Phép nấu và uống đồng với trước.

BẢN NGHĨA (4/2)

*Tại Nhục phần Bản Hàn truyền làm Hàn Thấp Phong Thấp.

- Uống Quế Chi thang: trị Bản Hàn.

- Ra nhiều mồ hôi: Hàn truyền Âm Kinh.

- Mạch Hồng Đại: Tiêu Dương vãng tòng (đi theo) Bản Hàn.

- Dùng thang Quế Chi như phép trước: Bản Hàn tại Nhục phần làm Hàn Thấp.

- Hình như sốt rét, ngày phát 2 lần: tại Nhục phần Hàn Thấp chuyển làm Phong Thấp.

- Ra mồ hôi tất giải: bởi tại Nhục phần.

- Nên dùng Quế Chi nhị Ma Hoàng nhất thang.

NGUYÊN VĂN (26)

Uống Quế Chi thang, sau khi ra nhiều mồ hôi, bứt rứt, khát nước lắm, không giải, mạch Hồng
Đại, Bạch Hổ gia Nhân Sâm thang làm chủ.

BẠCH HỔ GIA NHÂN SÂM THANG PHƯƠNG

Tri mẫu 6 lạng Thạch cao 1 cân (đập nát, vải bọc) Cam thảo 2 lạng
Ngạnh mễ 6 cáp Nhân sâm 3 lạng

5 vị, nước 1 đấu, sắc mễ (gạo) chín thang thành, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, ngày uống 3 lần.

BẢN NGHĨA (4/3)

*Tại Nhục phần Tiêu Dương ly (lìa) Bản Hàn làm Nhiệt Bệnh.

- Uống Quế chi thang: trị Bản Hàn.

- Sau khi ra nhiều mồ hôi: Bản Hàn khứ (đi).

- Bứt rứt khát nước lắm, không giải, mạch Hồng Đại: Tiêu Dương tòng (theo) Bản Nhiệt.

- Bạch Hổ gia Nhân Sâm thang làm chủ.


43
NGUYÊN VĂN (27)

Thái Dương Bệnh, phát nóng sợ lạnh, nóng nhiều lạnh ít, mạch Vi Nhược. Đấy là ‘vô Dương’ ,
không thể Phát Hãn, nên dùng Quế Chi nhị Việt Tỳ nhất thang.

QUẾ CHI NHỊ VIỆT TỲ NHẤT THANG PHƯƠNG

Quế chi 18 thù Bạch thược 18 thù Cam thảo 18 thù Đại táo 4 quả
Sinh khương 1 lạng 2 thù Ma hoàng 18 thù Thạch cao 24 thù

7 vị trên, nước 5 thăng, trước nấu Ma hoàng sôi vài dạo, vớt bỏ bọt, cho các vị kia vào sắc còn 2
thăng, lọc bỏ bả, uống ấm 1 thăng.

BẢN NGHĨA (4/4)

*Tại Nhục phần Tiêu Dương ly Bản Hàn làm Ôn Bệnh.

- Phát nóng sợ lạnh: Bản Hàn chứng.

- Nóng nhiều lạnh ít: Tiêu Dương ly Bản Hàn chứng.

- Mạch Vi Nhược, đấy là ‘không có Dương’: Ly khai (lìa bỏ) Bản Hàn là ‘vô Dương’.

- Không thể Phát hãn: bởi không có Dương Hàn.

- Nên dùng Quế Chi nhị Việt Tỳ nhất thang: phải Việt (vượt) hạn của Tiêu Dương. Việt tỳ nghĩa
là theo Bản Hàn xuất ra,Bản Hàn là chủ,Tiêu Dương là Tỳ (tớ); vượt hạn của Tiêu Dương vậy.

*Tiêu Bản vãng tòng (đi theo) nhau thì mạch Hồng Đại, chẳng phải Nhiệt thì Hồng Đại mà Hàn
không Hồng Đại; ly khai (lìa bỏ) nhau thì mạch Vi Nhược, chẳng phải hư thì Vi Nhược mà thực
thì không Vi Nhược. Phải xem xét ‘thái quá bất cập’ để biết. Trọng Sư cùng nêu lên ở đây, khiến
học giả so sánh mà ngẫm nghĩ, tìm tòi thì sẽ được.

NGUYÊN VĂN (28)

Uống Quế Chi thang hoặc dùng phép Hạ, nhưng đầu gáy vẫn cứng đau, hâm hấp phát sốt,
không mồ hôi, dưới Tâm đầy hơi đau, tiểu tiện không lợi, Quế Chi khứ Quế gia Phục Linh
Bạch Truật thang làm chủ.

44
QUẾ CHI KHỨ QUẾ GIA PHỤC LINH BẠCH TRUẬT THANG PHƯƠNG

Bạch thược 3 lạng Chích thảo 2 lạng Sanh cương 3 lạng

Phục linh 3 lạng Bạch truật 3 lạng Đại táo 12 quả

6 vị trên, dùng 8 thăng nước sắc lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, tiểu tiện lợi thì lành.

BẢN NGHĨA (4/5)

*Tại Nhục phần Tiêu Dương thọ Bản Hàn chuyển Bản Nhiệt làm Phong Ôn.

- Uống Quế chi thang: trị Bản Hàn.

- Hoặc dùng phép Hạ: trị Tiêu Dương.

- Nhưng đầu gáy vẫn cứng đau: thọ Bản Hàn truyền Kinh.

- Hâm hấp phát sốt, không mồ hôi: lìa Bản Hàn thọ Bản Nhiệt.

- Dưới Tâm đầy hơi đau, tiểu tiện không lợi: thọ tại Lý Thiếu Âm làm Phong Ôn.

- Quế Chi khứ Quế gia Phục Linh Bạch Truật thang làm chủ: Quế chi đứng đầu tên thang là vì
Tiêu Dương bệnh do Bản Hàn đưa tới. Khứ Quế chi vì đã chuyển Bản Nhiệt. Gia Phục linh Bạch
truật trị nhập Lý làm Phong Ôn.

*Thương Hàn bệnh loại lật lộng biến đổi, dùng thuốc phải như chuyển hoàn, chẳng đạt sâu
Thương Hàn Luận không thể nào làm được, xem 2 tiết dưới nói về ‘ngộ nhận’ tự thấy.

NGUYÊN VĂN (29)

Thương Hàn mạch Phù, tự đổ mồ hôi, tiểu tiện nhiều lần, Tâm bứt rứt, hơi sợ lạnh, chân co
quắp, trái lại dùng Quế Chi thang để công Biểu, thế là lầm, uống thang vào bèn phát quyết,
trong cổ khô, bứt rứt vật vã, mửa ngược, làm thang Cam Thảo Càn Cương cho dùng, để phục
hồi Dương. Nếu quyết khỏi, chân ấm, lại làm thang Thược Dược Cam Thảo cho dùng, chân
liền duỗi được. Nếu Vỵ Khí không hòa nói xàm, dùng Điều Vỵ Thừa khí thang. Nếu Phát Hãn
đôi lần, lại gia thiêu châm, Tứ Nghịch thang làm chủ.

CAM THẢO CÀN CƯƠNG THANG PHƯƠNG

Chích Thảo 4 lạng Bào Cương 2 lạng

Nước 2 thăng, nấu lấy 1 thăng 5 cáp, chia uống ấm 2 lần.

45
THƯỢC DƯỢC CAM THẢO THANG PHƯƠNG

Thược Dược 4 lạng Chích Thảo 4 lạng

Nước 2 thăng, nấu lấy 1 thăng rưỡi, chia uống ấm 2 lần.

ĐIỀU VỴ THỪA KHÍ THANG PHƯƠNG

Đại Hoàng (tẩm rượu) 4 lạng Mang Tiêu ½ thăng Chích Thảo 4 lạng

Nước 3 thăng nấu 2 vị lấy 1 thăng, bỏ bả, cho Mang tiêu vào tan hết, uống ấm.

TỨ NGHỊCH THANG PHƯƠNG

Càn Cương 1 lạng rưỡi Phụ Tử 1 củ (dùng sống) Chích Thảo 2 lạng

3 vị, 3 thăng nước nấu lấy 1 thăng 2 cáp, bỏ bả, chia uống ấm 2 lần. Người khỏe có thể dùng Đại
Phụ Tử 1 củ, Càn Cương 3 lạng.

BẢN NGHĨA (4/6)

*Tại Nhục phần cứu ngộ Thương Hàn loại Ôn Bệnh.

- Thương Hàn: gọi bệnh do Ngoại nhập.

- Mạch Phù: mạch tại Nhục phần.

- Tự đổ mồ hôi: chứng tại Nhục phần.

- Tiểu tiện nhiều lần: Tiêu Dương.

- Tâm phiền: Tiêu Dương chuyển Bản Nhiệt.

- Hơi sợ lạnh: Bản Hàn truyền Kinh.

- Chân co quắp: Bản Hàn truyền Kinh tất Bản Nhiệt chuyển hệ.

- Trái lại dùng Quế Chi thang công Biểu, thế là lầm: lầm bởi không biết Ôn Bệnh thuộc Thương
Hàn loại nên dùng Quế Chi nhị Việt Tỳ nhất thang, trái lại dùng Quế Chi thang.

- Uống vào bèn phát quyết: vì dùng Quế Chi trị Tiêu Dương, Nhiệt cực phản Quyết.

- Trong họng khô: Tiêu Dương thọ Bản Nhiệt.

- Phiền táo thổ nghịch: Tiêu Dương thọ Bản Hàn.

- Làm thang Cam Thảo Càn Cương cho dùng để phục hồi Dương: trước trị Bản Hàn.
46
- Quyết khỏi, chân ấm, lại làm thang Thược Dược Cam Thảo cho uống chân liền duỗi được:
Bản Hàn đi, bản Nhiệt cũng đi.

- Nếu nói xàm dùng Điều Vỵ Thừa Khí thang: trị Bản Hàn Bản Nhiệt thực tại Nhục phần.

- Nếu Phát Hãn đôi lần, lại gia thiêu châm, Tứ Nghịch thang làm chủ: trị Bản Hàn Bản Nhiệt hư
tại Nhục phần.

*Ôn Bệnh không lìa Bản Hàn, vì thế là Thương Hàn loại.

NGUYÊN VĂN (30)

Hỏi rằng: Chứng giống như Dương Đán, theo phép để trị mà nặng thêm, quyết nghịch, trong
yết khô, bứt rứt vật vã, mửa ngược, 2 ống chân co quắp mà nói xàm. Thầy nói, đến nửa đêm
2 chân sẽ ấm, 2 ống chân duỗi, sau như lời thầy. Làm sao biết như thế?

Đáp rằng: Thốn khẩu mạch Phù mà Đại, Phù thì là Phong, Đại thì là Hư, Phong thì sinh sốt
nhẹ, Hư thì 2 ống chân co rút. Chứng tượng (giống) Quế chi, nhân bởi gia thêm Phụ tử vào,
tăng Quế khiến cho đổ mồ hôi. Phụ tử làm ấm Kinh cho nên vong Dương: Quyết nghịch, trong
yết khô, Dương Minh nội Kết, nói xàm bứt rứt rối loạn. Làm thang Cam Thảo Càn Cương cho
uống, nửa đêm Dương Khí trở lại, hai chân ấm, 2 ống chân còn hơi co quắp, lại dùng thang
Thược Dược Cam Thảo, thế là chân duỗi được; dùng Thừa Khí thang đi được phân hơi nát để
dứt chứng nói xàm thì bệnh có thể khỏi.

BẢN NGHĨA (4/7)

*Tại Nhục phần cứu ngộ Trúng Phong Loại Phong Ôn.

- Chứng tượng(giống)Dương Đán: gọi Phong do nội xuất. Chứng Dương Đán do Thiếu Âm
chuyển sang Thái Dương. Đây là chứng Phong Ôn do Thiếu Âm chưa chuyển Thái Dương, đều
tại Nhục phần, ngộ trị nên thêm nặng.

- Quyết nghịch: Bản Nhiệt thọ Bản Hàn truyền.

- Trong họng khô: Bản Nhiệt hiệp thọ Tiêu Dương.

- Bứt rứt vật vã, mửa ngược: tịnh (cùng) thọ vậy.

- 2 ống chân co quắp mà nói xàm: Bản Hàn Bản Nhiệt xâm lấn nhau ở dưới, quấy nhiểu nhau ở
trên.

47
- Nửa đêm 2 chân ấm, 2 ống chân duỗi: nửa đêm Âm Nhiệt thoái (lui), Dương Khí trở lại, Bản
Nhiệt Bản Hàn mỗi mỗi yên chỗ. Lại nói rõ thêm:

- Mạch Phù thì là Phong: Bản Hàn Bản Nhiệt hiệp.

- Đại thì là Hư: Bản Hàn Hư Bản Nhiệt cũng Hư.

- Phong thì sinh sốt nhẹ: Hiệp Tiêu Dương.

- Hư thì 2 ống chân co rút: thọ Bản Hàn.

- Chứng tượng (giống) Quế Chi; nhân bởi gia thêm Phụ tử vào, tăng Quế khiến cho đổ mồ
hôi: không biết là Trúng Phong Loại Phong Ôn nên trị lầm vậy.

- Phụ tử làm ấm Kinh cho nên vong Dương:vong Thiếu Âm Nhiệt Khí,bởi vì dùng Nhiệt trị
Nhiệt.

- Quyết nghịch: Bản Nhiệt tại Nhục phần thọ Hàn truyền.

- Trong yết khô, Dương Minh nội Kết, nói xàm, bứt rứt rối loạn: Bản Nhiệt tại Nhục phần hiệp
Tiêu Dương.

- Làm thang Cam Thảo Càn Cương cho uống, nửa đêm Dương Khí trở lại, 2 chân ấm: trước trị
Bản Hàn.

- 2 ống chân còn hơi co quắp, dùng thang Thược Dược Cam Thảo, thế là chân duỗi được: Bản
Hàn đi Bản Nhiệt cũng đi.

- Dùng Thừa Khí thang, phân hơi nát, dứt chứng nói xàm thì bệnh có thể khỏi: Phong Ôn do
nội xuất Nhục phần, khỏi vậy.

(Trên đây, chương thứ 4, 7 tiết, giải thích Thương Hàn Loại).
48
CHƯƠNG 5 : TẠI NHỤC PHẦN PHONG HÀN HIỆP TRUYỀN KỲ KINH

(4 Tiết, từ 31 đến 34)

1- Thái Dương Phong Hàn hiệp truyền Đốc Kinh.

2- Thái Dương Phong Hàn hiệp truyền Đái Kinh.

3- Thái Dương Phong Hàn hiệp truyền Nhâm, Xung Kinh.

4- Cứu ngộ Thái Dương Phong Hàn chuyển Thiếu Âm truyền Kỳ Kinh.

NGUYÊN VĂN (31)

Thái Dương Bệnh, gáy lưng cứng đờ, không mồ hôi, sợ gió. Cát Căn thang làm chủ.

CÁT CĂN THANG PHƯƠNG

Cát Căn 4 lạng Ma Hoàng 3 lạng Quế Chi 2 lạng Thược Dược 2 lạng

Cam Thảo 2 lạng Sinh Cương 3 lạng Đại Táo 12 trái

7 vị, nước 1 đấu, trước nấu Cát Căn, Ma Hoàng giảm 2 thăng, bỏ bọt, cho các thuốc vào nấu lấy
3 thăng, uống ấm 1 thăng, cho ra mồ hôi dâm dấp, không cần húp cháo, kỳ dư như phép dùng
thang Quế Chi.

BẢN NGHĨA (5/1)

*Tại Nhục phần Thái Dương Phong Hàn đồng thời truyền Đốc Kinh.
- Thái Dương bệnh: có Trúng Phong trước, có Thương Hàn trước, có Phong Hàn đồng thời.

- Gáy lưng cứng đờ: Truyền Đốc Kinh.

- Không mồ hôi: Bệnh nhập Kinh.

- Sợ gió: tại Nhục phần. - Cát Căn thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (32)

Thái Dương với Dương Minh hiệp bệnh tất tự hạ lợi, Cát Căn thang làm chủ.

49
BẢN NGHĨA (5/2)

*Tại Nhục phần Phong Hàn hiệp truyền Đái Kinh.

- Thái Dương hiệp với Dương Minh tất tự hạ lợi: Thái Dương Kinh đi phía lưng của thân,
Dương Minh Kinh đi phía trước của thân.Thái Dương Phong Hàn hiệp Dương Minh tất từ đó
nhập Đái Mạch mà hạ lợi.

- Cát Căn thang làm chủ .

NGUYÊN VĂN (33)

Thái Dương cùng Dương Minh hiệp bệnh, không hạ lợi, chỉ nôn ấy, Cát Căn gia Bán Hạ thang
làm chủ.

CÁT CĂN GIA BÁN HẠ THANG PHƯƠNG

Cát Căn thang nguyên phương gia Bán Hạ ½ thăng : Phép nấu, phép uống như nguyên phương.

BẢN NGHĨA (5/3)

*Tại Nhục phần Phong Hàn truyền Nhâm Xung Kinh.

- Nhâm Xung Kinh đều dính bám vào Dương Minh.Phong Hàn không nhập Đái Kinh mà hạ
lợi,tất nhập Xung Nhâm Kinh mà nôn.

- Cát Căn gia Bán Hạ thang làm chủ .

NGUYÊN VĂN (34)

Thái Dương Bệnh chứng Quế Chi, thầy thuốc trái lại cho Hạ, lợi bèn không dứt ; mạch Xúc là
Biểu chưa giải, Suyễn mà đổ mồ hôi, Cát Căn Hoàng Cầm Hoàng Liên thang làm chủ.

CÁT CĂN HOÀNG CẦM HOÀNG LIÊN THANG PHƯƠNG

Cát Căn ½ cân Hoàng Cầm 3 lạng Hoàng Liên 3 lạng Cam Thảo 2 lạng

4 vị trên dùng 8 thăng nước, trước nấu Cát Căn cạn bớt 2 thăng, vớt bỏ bọt, cho các vị thuốc
vào nấu lấy 2 thăng, bỏ bả, chia uống ấm 2 lần.
.

50
BẢN NGHĨA (5/4)

*Tại Nhục phần, Thái Dương Phong Hàn chuyển Thiếu Âm truyền các Kỳ Kinh.

- Thái Dương bệnh: hiệp Thiếu Âm đồng thời làm bệnh.

- Quế Chi chứng: tại Nhục phần.

- Thầy thuốc trái lại cho Hạ: thế là lầm.

- Bèn lợi không dứt: Thái Dương hiệp Thiếu Âm mà hạ.

- Mạch Xúc là Biểu chưa giải: Thiếu Âm hiệp Thái Dương mà ra ngoài.

- Suyễn: truyền các Kỳ Kinh.

- Đổ mồ hôi: tại Nhục phần .

- Cát Căn Hoàng Cầm Hoàng Liên thang làm chủ.

(Trên đây, chương thứ 5, 4 tiết, giải thích Phong Hàn truyền các Kỳ Kinh).

51
CHƯƠNG 6: THÁI DƯƠNG BỆNH BÌ PHẦN.

(7 Tiết, từ 35 đến 41)

1- Thái Dương Phong Hàn tại Bì truyền Đốc Kinh.

2- Thái Dương Phong Hàn tại Bì truyền Xung Nhâm Đái Kinh.

3- Biện Thái Dương Thiếu Âm.

4- Biện Trúng Phong Hàn Nhiệt.

5- Biện Thương Hàn làm Ôn Bệnh Phong Ôn.

6- Biện Thương Hàn làm Hàn Thấp Phong Thấp.

7- Thương Hàn với Hàn Thấp Phong Thấp, Ôn Bệnh Phong Ôn lưu chuyển.

NGUYÊN VĂN (35)

Thái Dương Bệnh, đầu đau, phát nóng, mình nhức, eo lưng đau, khớp xương đau nhức, sợ
gió, không mồ hôi mà Suyễn, Ma Hoàng thang làm chủ.

MA HOÀNG THANG PHƯƠNG

Ma Hoàng 3 lạng Hạnh Nhân 70 hạt Quế Chi 3 lạng Chích Thảo 1 lạng

4 vị trên, dùng 9 thăng nước, trước sắc Ma Hoàng cạn bớt 2 thăng, bỏ bọt, cho các thuốc vào
sắc lấy 2 thăng rưỡi, bỏ bả, uống ấm 8 cáp, đắp cho hơi tựa Hạn, không cần húp cháo, còn lại
việc nghỉ ngơi cấm kỵ đều như phép dùng thang Quế Chi.

BẢN NGHĨA (6/1)

* Tại Bì phần, Thái Dương Phong Hàn truyền Đốc Kinh.


- Thái Dương bệnh:

. Hiệp lại nói là Thái Dương Phong Hàn làm bệnh .

. Phân ra nói thì Thái Dương là Hàn,Thiếu Âm là Phong cùng bệnh .

- Đầu đau phát nóng: chứng Thái Dương,Thiếu Âm đều có.

52
- Mình nhức, eo lưng đau, khớp xương đau nhức: chứng truyền Đốc Kinh của Thái Dương
Thiếu Âm đều có .

- Sợ gió: mắc bệnh tại Cơ đến Bì.

- Không mồ hôi: tại Bì phần.

- Suyễn: truyền Đốc Nhâm Kinh.

- Ma Hoàng thang làm chủ .

NGUYÊN VĂN (36)

Thái Dương cùng với Dương Minh hiệp bệnh, Suyễn mà ngực đầy, không thể Hạ, nên dùng
Ma Hoàng thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (6/2)

*Tại Bì phần, Thái Dương Phong Hàn truyền Xung Nhâm Đái Kinh.

- Thái Dương cùng với Dương Minh hiệp bệnh: Thái Dương Phong Hàn hiệp Dương Minh
truyền Xung Nhâm Đái Kinh.

- Phong Hàn nhập các Kỳ Kinh Lạc thì Suyễn mà ngực đầy vì đều do từ dưới mà đi lên.

- Không thể Hạ: bởi tại Bì.

- Nên dùng Ma Hoàng thang làm chủ: Thái Dương thì ‘làm chủ’ (chủ chi).Hiệp Dương Minh thì
‘nên dùng’ (nghi).

NGUYÊN VĂN (37)

Thái Dương Bệnh đã qua 10 ngày, mạch Phù Tế, ưa nằm, ngoài đã giải vậy. Ví như ngực bụng
đầy đau, dùng Tiểu Sài Hồ thang. Mạch chỉ Phù, dùng Ma Hoàng thang.

BẢN NGHĨA (6/3)

*Tại Bì phần, biện Thái Dương Thiếu Âm là một mà chẳng phải một.

- Thái Dương bệnh đã qua 10 ngày: Thái Dương tại Nội tức Thiếu Âm.

- Mạch Phù Tế: Hai Kinh (Thái Dương Thiếu Âm) đồng có mạch này.
53
- Ưa nằm: Hai Kinh (Thái Dương Thiếu Âm) đồng có chứng này.

- Ngoài đã giải vậy: Giải thì đều giải.Thiếu Âm tại Ngoại tức Thái Dương. Nội Ngoại như vậy,
tại Tấu cũng vậy.

- Ví như ngực bụng đầy đau, dùng Tiểu Sài Hồ thang: Hai Kinh tại Tấu đồng một chứng, đồng
một thang phương; không riêng chứng trị như vậy, Mạch cũng vậy.

- Mạch chỉ Phù, dùng Ma Hoàng thang: Hai Kinh tại Bì phần đồng một mạch, đồng một thang
phương. Nhưng mà Thái Dương tự có phép trị của Thái Dương, Thiếu Âm tự có phép trị của
Thiếu Âm, không chút vay mượn, là đệ nhất yếu nghĩa đọc sách Thương Hàn.

NGUYÊN VĂN (38)

Thái Dương Trúng Phong, mạch Phù Khẩn, phát sốt sợ lạnh, mình đau nhức không ra mồ hôi,
phiền táo, Đại Thanh Long thang làm chủ. Nếu như mạch Vi Nhược ra mồ hôi, sợ gió không
thể uống, uống vào thì quyết nghịch, gân giật thịt máy, đấy là nghịch vậy.

ĐẠI THANH LONG THANG PHƯƠNG

Ma Hoàng 6 lạng Quế Chi 3 lạng Chích Thảo 2 lạng Hạnh Nhân 50 hạt
Sinh Cương 3 lạng Đại Táo 12 trái Thạch Cao như trứng gà lớn.

7 vị trên, dùng 7 thăng nước, trước nấu Ma Hoàng giảm 2 thăng, bỏ bọt, cho các thuốc vào nấu
lấy 3 thăng, cho hơi tựa Hãn, Hạn ra nhiều dùng ôn phấn xoa. Uống 1 lần đổ mồ hôi thì thôi
không uống lần sau. Đổ mồ hôi nhiều vong Dương thành hư chứng, sợ gió, phiền táo, không
ngủ được.

BẢN NGHĨA (6/4)

*Tại Bì phần, Biện Trúng Phong Hàn, Nhiệt.

*Đọc tiết trên hiểu được Thái Dương Thiếu Âm ‘ nguyên nhất Kinh Khí ’.

Đọc tiết này hiểu được Thái Dương Thiếu Âm ‘ thị nhị Kinh Khí ’.

Không rõ là một thì không biết được nguyên lý Âm Dương giao đại (đắp đổi).

Không rõ là hai thì không biết được phép trị Hàn Nhiệt tự biệt (riêng biệt).

Cùng đề ra ở đây, để cho học giả lĩnh hội mà nghiền ngẫm.

54
- Thái Dương Trúng Phong mạch Phù Khẩn, cùng với ‘Thái Dương Trúng Phong Dương Phù mà
Âm Nhược’ xem xét: Kia là Trúng Phong Hàn Loại, đây là Trúng Phong Nhiệt Loại.

- Mạch Phù Khẩn: Dương Hàn Nhược (yếu) mà Âm Nhiệt Cường (mạnh) .

- Phát sốt sợ lạnh: tại Bì phần.

- Mình đau nhức: Bản Nhiệt thọ Bản Hàn.

- Không ra mồ hôi, phiền táo: Bản Nhiệt đánh bạt Bản Hàn.

- Đại Thanh Long thang làm chủ: đây, trị Trúng Phong Nhiệt Loại.

- Nếu mạch Vi Nhược : ly khai (lìa bỏ) Bản Nhiệt.

- Mồ hôi ra, sợ gió: hiệp Tiêu Âm.

- Không thể uống: bởi không có Bản Nhiệt.

- Uống vào Quyết nghịch, gân giật,thịt máy: bởi hiệp Tiêu Âm, đấy là Trúng Phong Hàn loại mà
trị nghịch.

- Đại Thanh Long thang lấy Hạn của Thiếu Âm, Hạn nhiều thì vong Dương là vong Âm Nhiệt.

- Thành hư chứng, sợ gió: Âm Nhiệt hư.

- Phiền táo không ngủ được: Âm Nhiệt hư thì Dương Hàn quấy nhiểu.

*Đây là phiền táo do Nhiệt chuyển sang Hàn vong Dương, cùng với đoạn văn trên ‘phiền táo’
do Hàn chuyển sang Nhiệt bất đồng. Chứng này rất nhiều, lại rất bất nhất. Học giả cần hội
thông mà thể nhận nó, khi lâm chứng mới nắm bắt được.

NGUYÊN VĂN (39)

Thương Hàn mạch Phù Hoãn, mình không nhức, chỉ nặng, chợt có lúc nhẹ, không có chứng
Thiếu Âm, dùng Đại Thanh Long thang để ‘phát’.

BẢN NGHĨA (6/5)

*Tại Bì phần, biện Thương Hàn làm Ôn Bệnh Phong Ôn.

*Hàn truyền Dương Nhiệt gọi là Ôn Bệnh, truyền Âm Nhiệt gọi là Phong Ôn, đều thọ Thái
Dương Bản Hàn truyền Kinh, đều gọi là Thương Hàn loại.

55
- Mạch Phù Hoãn: Dương thực mà Hàn hư, cùng với mạch Phù Sác Dương hư mà Hàn thực đối
nhau.

- Mình không nhức: bởi Hàn hư.

- Chỉ nặng, chợt có lúc nhẹ: bởi Dương thực.

- Không có chứng Thiếu Âm: chỉ Dương Nhiệt làm Ôn bệnh; không Âm Nhiệt thì không làm
Phong Ôn, đấy là biện Ôn Bệnh Phong Ôn.

- Đại Thanh Long thang để ‘phát’: Hàn Nhiệt cùng trị nên gọi Đại, Phong thuộc Đông phương
nên nói Thanh, bệnh do Thái Dương Hàn Thủy mà đến nên tên Long. Toàn luận chỉ ở đây
dùng một chữ Phát, nói riêng phát Dương Nhiệt mà Âm Nhiệt cũng có thể phát, với không thể
phát hạn mà dùng Việt Tỳ để vượt hạn của Dương Nhiệt ý đồng.

NGUYÊN VĂN (40)

Thương Hàn Biểu không giải, dưới Tâm có thủy khí, nôn khan, phát sốt mà ho, hoặc khát,
hoặc lợi, hoặc nghẹn, hoặc tiểu tiện không lợi, bụng dưới đầy hoặc suyễn, Tiểu Thanh Long
thang làm chủ.

TIỂU THANH LONG THANG PHƯƠNG

Ma Hoàng 2 lạng Quế Chi 3 lạng Chích Thảo 3 lạng

Càn Cương 3 lạng Bạch Thược 2 lạng Ngũ Vị Tử ½ thăng

Bán Hạ ½ thăng Tế Tân 3 lạng

8 vị trên, nước 9 thăng, trước nấu Ma Hoàng giảm 2 thăng, bỏ bọt, cho các thuốc vào nấu lấy 3
thăng, uống ấm 1 thăng.

. Nếu hơi lợi : bỏ Ma Hoàng gia Phục Linh.

. Nếu khát : bỏ Bán Hạ gia Quát Lâu Căn 3 lạng.

. Nếu nghẹn : bỏ Ma Hoàng gia Phụ Tử 1 củ (bào).

. Nếu tiểu tiện không lợi, bụng dưới đầy : bỏ Ma Hoàng gia Phục Linh 4 lạng.

. Nếu Suyễn : bỏ Ma Hoàng gia Hạnh Nhân ½ thăng (bỏ vỏ và đầu nhọn).
.

56
BẢN NGHĨA (6/6)

*Đây tại Nhục phần, Biện Thương Hàn làm Hàn Thấp Phong Thấp.

- Biểu không giải: tại Biểu làm Thương Hàn.

- Dưới Tâm có thủy khí: tại Lý làm Hàn Thấp hoặc Phong Thấp.

- Nôn khan: Hàn truyền Thái Âm làm Hàn Thấp.

- Phát sốt mà ho: Hàn truyền Thiếu Âm làm Phong Thấp.

- Hoặc khát, hoặc lợi, hoặc nghẹn: tại Lý Hàn Thấp hoặc thọ Bản Nhiệt, hoặc thọ Bản Hàn, hoặc
tịnh (cùng) thọ.

- Hoặc tiểu tiện không lợi, bụng dưới đầy, hoặc Suyễn: tại Lý Phong Thấp hoặc thọ Bản Nhiệt,
hoặc thọ Bản Hàn, hoặc cùng thọ.

- Dùng Tiểu Thanh Long thang làm chủ: chỉ trị Dương Hàn cho nên nói ‘Tiểu’, Hàn Thấp Phong
Thấp đều thọ Thái Dương Bản Hàn truyền Kinh. Ma Quế trị Biểu Hàn, Cương Tân trị Lý Hàn,
Thược Thảo trị Lý Nhiệt, Ngũ Vị Tử liễm Bản Nhiệt hòa Bản Hàn, Bán Hạ giáng Bản Nhiệt, tán
Bản Hàn.

- Hơi lợi bỏ Ma Hoàng gia Phục Linh: trị Bản Hàn tại Lý hóa thủy.

- Khát bỏ Bán Hạ gia Quát Lâu Căn 3 lạng: trị Bản Nhiệt tại Lý hóa Táo.

- Nghẹn, bỏ Ma Hoàng gia Phụ Tử: Bản Nhiệt tại trên, Bản Hàn tùy theo mà lên ; Bản Hàn giải,
Bản Nhiệt tự giải.

- Tiểu tiện không lợi, bụng dưới đầy bỏ Ma Hoàng, gia Phục Linh: Bản Hàn tại dưới, Bản Nhiệt
tủy theo mà xuống ; Lợi Hàn thủy tức lợi Nhiệt thủy.

- Suyễn, bỏ Ma Hoàng gia Hạnh Nhân: Ma Hoàng phát kỳ Dương, Hạnh Nhân phát kỳ Âm, Hàn
Thấp – Phong Thấp đều là Âm vậy.

NGUYÊN VĂN (41)

Thương Hàn, dưới Tâm có thủy khí, ho mà hơi suyễn, phát sốt không khát, uống thang rồi
khát, đấy là Hàn đi muốn giải, Tiểu Thanh Long thang làm chủ.
.

57
BẢN NGHĨA (6/7)

*Tại Bì phần, Thương Hàn với Hàn Thấp Phong Thấp Ôn Bệnh Phong Ôn lưu chuyển.

- Thương Hàn,dưới Tâm có thủy Khí: Tại Biểu là Thương Hàn, tại Lý là Hàn Thấp Phong Thấp.

- Ho mà hơi Suyễn: chứng Phong Thấp.

- Phát sốt không khát: chứng Hàn Thấp.

- Uống thang rồi khát: Hàn Thấp chuyển làm Ôn Bệnh.

- Đấy là Hàn đi muốn giải : Hàn đi thì làm ôn Bệnh, Ôn Bệnh muốn giải thì làm Phong Ôn.

- Tiểu Thanh Long thang làm chủ.

*Tóm lại, Thái Dương Thương Hàn nhập vào làm Hàn Thấp, Hàn Thấp chuyển làm Phong Thấp,
đấy là Thái Dương chuyển sang Thiếu Âm. Phong Thấp chuyển làm Phong Ôn, Phong Ôn chuyển
làm Ôn Bệnh, Ôn Bệnh trở lại làm Thương Hàn, đấy là Thiếu Âm chuyển sang Thái dương. Lý do
của Thương Hàn loại, triển chuyển (xoay trở) tương truyền, tuần hoàn không dứt, người thiện
trị xem mạch chứng, nghiệm thang phương mới giải quyết được.

(Trên đây, chương thứ 6, 7 tiết, giải thích Thái Dương Bệnh Bì phần).

58
THƯƠNG HÀN LUẬN QUYỂN II
__________________________________________

LUẬN MẠCH CHỨNG BỆNH THÁI DƯƠNG - THIÊN TRUNG


(8 chương, từ 7 đến 14)

CHƯƠNG 7 : THÁI DƯƠNG BẢN HÀN TRUYỀN KINH TẠI BIỂU

(15 Tiết, từ 42 đến 56)

1- Thái Dương thống Thiếu Âm.

2- Thái Dương thống Thái Âm Khuyết Âm.

3- Thái Dương thống Dương Minh Thiếu Dương.

4- Bản Hàn truyền Túc Thái Dương.

5- Bản Hàn truyền Túc Dương Minh.

6- Bản Hàn truyền Túc Thiếu Dương.

7- Bản Hàn truyền Túc Thiếu Âm.

8- Bản Hàn truyền Túc Thái Âm.

9- Bản Hàn truyền Túc Khuyết Âm.

10- Bản Hàn truyền Thủ Khuyết Âm.

11- Bản Hàn truyền Thủ Thái Âm.

12- Bản Hàn truyền Thủ Thiếu Âm.

13- Bản Hàn truyền Thủ Thiếu Dương.

14- Bản Hàn truyền Thủ Dương Minh.

15- Bản Hàn truyền Thủ Thái Dương.

59
NGUYÊN VĂN (42)

Thái Dương Bệnh, Ngoại chứng chưa giải, mạch Phù Nhược, nên cho Hãn giải, ‘nghi’ (nên
dùng) Quế Chi thang.

BẢN NGHĨA (7/1)

*Thái Dương tại Biểu thống Thiếu Âm.

- Thái Dương Thiếu Âm cùng nhau làm Tiêu Bản, cùng nhau làm Nội Ngoại.

- Ngoại chứng chưa giải: Hai Kinh đều chưa giải.

- Mạch Phù Nhược: Thái Dương cường mà Thiếu Âm nhược.

- Nên cho Hãn giải đi: Thái Dương giải Thiếu Âm cũng giải.

- Nên dùng Quế Chi thang: có Âm Nhiệt tại Nội nên nói ‘nghi ’ .

NGUYÊN VĂN (43)

Thái Dương Bệnh cho Hạ mà hơi suyễn là Biểu chưa giải, Quế Chi gia Hậu Phác Hạnh Nhân
thang làm chủ.

QUẾ CHI GIA HẬU PHÁC HẠNH NHÂN THANG PHƯƠNG

Quế Chi 3 lạng Thược Dược 2 lạng Chích Thảo 2 lạng Đại Táo 12 quả

Sinh Khương 3 lạng Hậu Phác (chích) 2 lạng Hạnh Nhân 50 hạt

7 vị trên, dùng 7 thăng nước, nhỏ lửa nấu lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, đắp cho ra mồ
hôi chút ít.

BẢN NGHĨA (7/2)

*Thái Dương tại Biểu thống Thái Âm, Khuyết Âm.

- Thái Dương Bản Hàn với Âm Hàn Khí cùng nhau làm Biểu Lý.

- Cho Hạ mà hơi Suyễn: chứng Âm Hàn tại Lý.

- Biểu chưa giải: tại Lý chưa giải cho nên tại Biểu chưa giải.

- Quế Chi gia Hậu Phác Hạnh Nhân thang làm chủ .

60
NGUYÊN VĂN (44)

Thái Dương Bệnh, Ngoại chứng chưa giải, không thể Hạ, Hạ là trái nghịch, muốn giải Ngoại
nên dùng Quế Chi thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (7/3)

*Thái Dương tại Biểu thống Dương Minh Thiếu Dương.

- Thái Dương Tiêu Dương với Dương Nhiệt Khí cùng nhau làm Nội Ngoại.

- Ngoại chứng chưa giải: Dương Hàn Dương Nhiệt đều chưa giải.

- Không thể Hạ: Dương Nhiệt tại Ngoại.

- Hạ là nghịch: Dương Hàn tại Ngoại.

- Muốn giải Ngoại ‘nên’ dùng Quế Chi thang làm ‘chủ’: Dương Nhiệt thì ‘nghi’ (nên) , Dương
Hàn thì ‘chủ’ . Sau này phỏng theo đó.

NGUYÊN VĂN (45)

Thái Dương Bệnh, trước Phát Hãn không giải, rồi lại Hạ đi, mạch Phù không khỏi. Phù là tại
Ngoại mà trái lại Hạ cho nên không khỏi. Nay mạch Phù, cho nên biết là tại Ngoại. Cần phải
giải Ngoại thì khỏi, Quế Chi thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (7/4)

*Bản Hàn tại Biểu truyền Túc Thái Dương Kinh.

- Trước phát Hãn không giải: trước Phát Hãn tại Khí phần, mà chưa Phát Hãn ở Kinh phần.

- Rồi lại Hạ đi, mạch Phù không khỏi: bởi bệnh tại Ngoại mà trái lại trị ở Nội.

- Phù là tại Ngoại mà trái lại Hạ cho nên không khỏi: Hàn Khí tại Ngoại không thể Hạ, Hàn Kinh
tại Ngoại càng không thể Hạ.

- Nay mạch Phù cho nên biết là tại Ngoại, cần phải giải Ngoại thì khỏi: tại Khí nên giải, tại Kinh
lại càng nên giải.

- Quế Chi thang làm chủ .


.

61
NGUYÊN VĂN (46)

Thái Dương Bệnh mạch Phù Khẩn, phát sốt không mồ hôi, mình đau nhức, 8 – 9 ngày không
giải, Biểu chứng vẫn còn, như thế nên Phát Hãn ; uống thuốc rồi hơi bớt, người bệnh phát
phiền, mắt mờ, nặng thì chảy máu mũi, chảy máu mũi rồi thì giải. Sở dĩ như thế, là bởi Dương
Khí ‘trùng’, Ma Hoàng thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (7/5)

*Bản Hàn tại Biểu truyền Túc Dương Minh Kinh.

- Mạch Phù Khẩn: Mạch Hàn truyền Dương Nhiệt Kinh.

- Phát Sốt không mồ hôi, mình đau nhức: Chứng Hàn truyền Dương Nhiệt Kinh.

*Mạch Chứng so với Hàn truyền Âm Nhiệt Kinh không khác, chỉ khác là không có 2 chứng ‘sợ
lạnh, phiền táo’.

- 8 – 9 ngày không giải: Dương Nhiệt Kinh nhập Lý.

- Biểu chứng vẫn còn, như thế nên Phát Hãn: nhân đó khiến tà theo Dương Kinh xuất.

- Uống thang rồi hơi bớt: (trừ) bớt Bản Hàn tại Khí phần.

- Người bệnh phát phiền, mắt mờ: tại Kinh phần chưa trừ.

- Nặng thì chảy máu mũi, chảy máu mũi rồi thì giải: Hãn nhập Kinh theo Kinh Huyết mà giải.

*Phàm Hàn truyền Dương Nhiệt Kinh, chảy máu mũi (nục huyết) rồi giải.

Hàn truyền Âm Nhiệt Kinh, tiêu ra máu (hạ huyết) rồi giải, đồng một lý vậy.

- Sở dĩ như thế vì Dương Minh là Kinh ‘Lưỡng Dương hiệp Minh’, là Dương Khí trùng, cho nên
thọ Hàn trùng.

- Ma Hoàng thang làm chủ: có thể giải Hãn của Khí phần, cũng có thể lại dùng để giải Hãn của
Kinh phần.

NGUYÊN VĂN (47)

Thái Dương Bệnh, mạch Phù Khẩn, phát sốt, mình không mồ hôi, tự chảy máu mũi thì khỏi.

62
BẢN NGHĨA (7/6)

*Bản Hàn tại Biểu truyền Túc Thiếu Dương Kinh.

- Mạch chứng đồng với trên, chỉ riêng Thiếu Dương là Dương Khí mới sinh, tuy Bản Hàn truyền
Kinh nhưng không có chứng ‘mình đau nhức’, cho nên tự chảy máu mũi thì khỏi, không cần
dùng Ma Hoàng thang.

NGUYÊN VĂN (48)

NhỊ Dương tinh bệnh, lúc Thái Dương mới mắc bệnh, cho Phát Hãn, Hãn trước ra không triệt
để, nhân đó chuyển thuộc Dương Minh, tự ra in ít mồ hôi, không sợ lạnh. Nếu Thái Dương
Bệnh không dứt (bãi) thì không thể Hạ, Hạ là nghịch, như thế có tiểu Phát Hãn. Ví phỏng sắc
mặt bừng bừng đỏ gay, đấy là Dương Khí phất uất tại Biểu, nên cho Giải, cho Xông. Nếu Phát
Hãn không triệt để, không thể nói là Dương Khí không ‘Việt’ được. Đáng lý phải Phát Hãn mà
lại không Phát Hãn, người bệnh phiền táo, không biết đau chỗ nào, chợt tại trong bụng, chợt
tại tứ chi, dò tìm không thể được. Người bệnh thở ngắn (đoản Khí), chỉ ngồi, bởi cớ Hãn ra
không triệt để, Phát Hãn nữa thì lành. Sao lại biết Hãn ra không triệt để, vì mạch Sắc (Sáp) cho
nên biết.

BẢN NGHĨA (7/7)

*Bản Hàn tại Biểu truyền Túc Thiếu Âm Kinh

- Nhị Dương tinh bệnh: Dương Hàn Dương Nhiệt ‘tinh’ (cùng) nhập Âm Nhiệt Kinh. Ở (tại)
Dương là hiệp, (nhập) vào Âm là tinh.Sau này phỏng theo đó.

- Lúc Thái Dương mới mắc bệnh, cho phát Hãn, Hãn trước ra không triệt để: Hãn của Khí
phần xuất ra trước, của Kinh phần chưa xuất ra.

- Nhân đó chuyển thuộc Dương Minh, tự ra in ít mồ hôi, không sợ lạnh: Bản Hàn do Dương
Nhiệt nhập Âm Nhiệt.

- Không thể Hạ: Hàn chuyển thuộc Dương Nhiệt Kinh.

- Hạ đi là nghịch: Hàn ‘tinh’ nhập Âm Nhiệt Kinh.

- Như thế có thể ‘tiểu’ Phát hãn: chỉ Phát Hãn Thiếu Âm Kinh là ‘tiểu’ , tựa như nên dùng Ma
Hoàng Cam Thảo Phụ Tử thang.

- Ví phỏng sắc mặt bừng bừng đỏ gay: đấy là Thiếu Âm Kinh tại Biểu thọ Dương Hàn phất uất,
nên cho Giải, cho Xông.
63
- Nếu như Phát Hãn không triệt để: Dương Hàn nhập Thiếu Âm Kinh không xuất ra.

- Không thể nói là ‘Dương Khí’ không ‘Việt’ được: Dương Nhiệt thọ Dương Hàn thì nên cho
‘Việt Hãn’, không thể nói chứng này là như vậy.

- Đáng Hãn không Hãn: Chứng này là Âm Nhiệt thọ Dương Hàn, phải Phát Hãn là tối yếu, bởi
thế không thể nói là ‘Việt Hãn’ của Dương phần.Tựa như nên dùng Ma Hoàng Phụ Tử Tế Tân
thang.

- Người bệnh phiền táo: Hàn truyền Âm Nhiệt Kinh.

- Không biết đau chổ nào, chợt tại trong bụng, chợt tại tứ chi: Biểu Lý bất định.

- Dò tìm không thể được: Âm Dương bất phân.

- Thở ngắn, chỉ ngồi: trước ngực sau ngực đều thọ chịu.

- Vì Hãn tại Thiếu Âm ra không triệt để cho nên thế .

- Sao biết được? Vì mạch Sắc cho nên biết: Hàn Kết Âm Nhiệt Kinh, tựa như nên dùng Khứ
Quế gia Phụ Tử Bạch Truật thang.

*Phát Thiếu Âm Kinh thọ Hàn không mồ hôi, mạch Sắc, cùng với

Phát Thiếu Âm Kinh thọ Nhiệt không mồ hôi, mạch Phù Khẩn khác hẳn.

Học giả nên rõ.

NGUYÊN VĂN (49)

Mạch Phù Sác ‘pháp đương’ (theo phép nên) đổ mồ hôi mà giải. Nếu cho Hạ, mình nặng, tim
hồi hộp thì không thể Phát Hãn ; nên để tự đổ mồ hôi sẽ khỏi. Sở dĩ như thế là vì trong bộ
Xích mạch Vi, đấy là Lý hư. Đợi khi Biểu Lý thực, tân dịch hòa, sẽ tự đổ mồ hôi mà khỏi.

BẢN NGHĨA (7/8)

*Bản Hàn tại Biểu truyền Túc Thái Âm Kinh.

- Mạch Phù Sác: Dương Nhiệt hư; Dương Nhiệt hư thì Âm Hàn thực.

- Theo phép nên đổ mồ hôi mà giải: ‘Pháp’ trị Dương Nhiệt Âm Hàn ‘đương’ tòng (theo) phép
Dương Hàn Âm Nhiệt, thống bởi Thái Dương. Phàm chữ ‘pháp’ phỏng theo đó.

- Nếu cho Hạ, mình nặng,tim hồi hộp: Bản Hàn truyền Túc Thái Âm Kinh.
64
- Bản Hàn truyền Kinh tại Lý thì không thể Phát Hãn; Bản Hàn tại Biểu nhập Lý tất nên tự đổ
mồ hôi sẽ khỏi.

- Sở dĩ như thế là vì trong bộ Xích mạch Vi: tại Lý Dương hư cho nên tại Biểu không ra mồ hôi
được. Đợi Dương Khí tại Biểu Lý thực, thì tại Tấu tân dịch hòa,bèn tự đổ mồ hôi mà khỏi.

- Ôn Dương Khí để làm Hãn, tựa như nên dùng Phục Linh Tứ Nghịch thang.

NGUYÊN VĂN (50)

Mạch Phù Khẩn ‘pháp đương’ mình đau nhức, nên dùng Hãn giải. Giả sử bộ Xích mạch Trì thì
không thể phát Hãn, vì sao biết như vậy ? vì Vinh Khí không đủ, huyết kém cho nên vậy.

BẢN NGHĨA (7/9)

*Bản Hàn tại Biểu truyền Túc Khuyết Âm Kinh

- Mạch Phù Khẩn: Dương Nhiệt Phù mà Âm Hàn Khẩn, ‘pháp đương’ tòng (theo) mạch Âm
Nhiệt Phù mà Dương Hàn Khẩn, mình đau nhức nên dùng Hãn giải.

- Giả sử Bộ Xích mạch Trì, đó là tại Lý, Khuyết Âm Kinh thọ Hàn không thể Phát Hãn, tựa như
nên dùng Đương Qui Tứ Nghịch thang.

NGUYÊN VĂN (51)

Mạch Phù là bệnh tại Biểu, có thể Phát Hãn, nên dùng Ma Hoàng thang.

Mạch Phù mà Sác, có thể Phát Hãn, nên dùng Ma Hoàng thang.

BẢN NGHĨA (7/10)

*Bản Hàn tại Biểu truyền Thủ Khuyết Âm Kinh.

- Mạch Phù là thọ Biểu Dương Hàn nên dùng Ma Hoàng thang.

- Mạch Phù mà Sác: lại thọ Biểu Âm Nhiệt nên dùng Ma Hoàng thang.

65
NGUYÊN VĂN (52)

Bệnh thường tự đổ mồ hôi, đó là Vinh Khí hòa. Vinh Khí hòa thì Ngoại không hài, vì Vệ Khí
không ‘cộng’ Vinh Khí hòa hài cho nên thế, vì Vinh đi trong mạch, Vệ đi ngoài mạch. Lại cho
Phát Hãn, Vinh Vệ hòa thì khỏi, Quế Chi thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (7/11)

*Bản Hàn tại Biểu truyền Thủ Thái Âm Kinh.

- Bệnh thường tự đổ mồ hôi: Thủ Thiếu Âm Nhiệt Kinh tại Nội là Vinh Khí hòa.

- Vinh Khí hòa thì Ngoại không hài, vì Thủ Thái Âm Hàn Kinh tại Ngoại là Vệ Khí không ‘cộng’
Vinh Khí hòa hài, cho nên thế.

- Vì Vinh Khí thọ Bản Nhiệt đi trong Kinh mạch,Vệ Khí thọ Bản Hàn đi ngoài Kinh mạch.

- Phải nên Phát Hãn của Bản Hàn cho Vinh Vệ hòa thì khỏi, Quế Chi thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (53)

Bệnh nhân Tạng không bệnh gì khác, có lúc phát sốt, tự đổ mồ hôi mà không khỏi, đấy là Vệ
Khí không hòa, trước lúc đó Phát Hãn thì khỏi, Quế Chi thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (7/12)

*Bản Hàn tại Biểu truyền Thủ Thiếu Âm Kinh.

- Tạng Tâm không bệnh gì khác, có lúc phát sốt, tự đổ mồ hôi mà không khỏi, đấy là Vệ

Khí không hòa.

- Trước lúc đó, Phát Hãn thì khỏi, Quế Chi thang làm chủ.

- Nếu như Tâm Vinh thọ Hàn nên dùng Nhân Sâm Tứ Nghịch thang.

NGUYÊN VĂN (54)

Thương Hàn mạch Phù Khẩn, không Phát Hãn, nhân đó đến chảy máu cam, Ma Hoàng thang
làm chủ.
.

66
BẢN NGHĨA (7/13)

*Bản Hàn tại Biểu truyền Thủ Thiếu Dương Kinh.

- Thương Hàn: Thủ Thiếu Dương tại Ngoại thọ Hàn. Sau này phỏng theo đó.

- Mạch chứng cùng với Túc Thiếu Dương đồng, riêng tự đổ máu cam thì giải nên không phải
dùng Ma Hoàng thang; cùng với không Phát Hãn, nhân đó đến chảy máu cam, cần phải dùng
Ma Hoàng thang có khác.

NGUYÊN VĂN (55)

Thương Hàn không đại tiện 6 – 7 ngày, đầu đau có sốt, dùng Thừa Khí thang. Hễ tiểu tiện
trong biết là tại Biểu không tại Lý, cần phải Phát Hãn; nếu nhức đầu tất chảy máu cam, Quế
Chi thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (7/14)

*Bản Hàn tại Biểu truyền Thủ Dương Minh Kinh.

- Thương Hàn không đại tiện 6 -7 ngày , đầu đau có sốt, dùng Thừa Khí thang: thọ Lý Bản
Nhiệt, lại thọ Biểu Bản Hàn.

- Hễ tiểu tiện trong, biết là thọ Biểu Bản Hàn không thọ Lý Bản Nhiệt.

- Cần phải Phát Hãn: thọ Biểu Bản Hàn.

- Nếu nhức đầu tất chảy máu cam: Bản Hàn nhập Kinh, Quế Chi thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (56)

Thương Hàn Phát Hãn giải, độ nửa ngày trở lại phiền, mạch Phù Sác, có thể Phát Hãn lần nữa,
Quế Chi thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (7/15)

*Bản Hàn tại Biểu truyền Thủ Thái Dương Kinh.

- Phát Hãn giải: tại Biểu Khí phần giải.

- Độ nửa ngày trở lại phiền: tại Biểu Kinh phần chưa giải.

67
- Mạch Phù Sác: Dương hư mà Hàn nhập Kinh.

- Có thể Phát Hãn lần nữa: lại Phát Hãn tại Kinh phần.

- Quế Chi thang làm chủ.

(Trên đây, chương thứ 7, 15 tiết, giải thích Bản Hàn tại Biểu phần truyền Kinh).

68
CHƯƠNG 8 : BẢN HÀN TẠI TẤU PHẦN TRUYỀN KINH

(13 Tiết, từ 57 đến 69)

1- Tấu Khí thống chư Khí.

2- Tấu Kinh thống chư Kinh.

3- Tấu Lạc thống chư Lạc.

4- Bản Hàn nhập Tấu truyền Âm Hàn Kinh.

5- Bản Hàn nhập Tấu truyền Âm Nhiệt Kinh.

6- Bản Hàn nhập Tấu truyền Dương Nhiệt Kinh.

7- Bản Hàn truyền Kinh tại Tấu thượng phần.

8- Bản Hàn truyền Kinh tại Tấu hạ phần.

9- Bản Hàn truyền Kinh tại Tấu trung phần.

10- Tại Tấu Dương Nhiệt thực, Âm Hàn cũng thực.

11- Tại Tấu Dương Nhiệt thực mà Âm Hàn hư.

12- Tại Tấu Dương Hàn hư, Âm Nhiệt cũng hư.

13- Tại Tấu Dương Hàn hư mà Âm Nhiệt thực.

NGUYÊN VĂN (57)

Phàm bệnh nếu Phát Hãn, nếu Thổ, nếu Hạ, nếu vong (mất) tân dịch, Âm Dương hòa tất tự
khỏi.

BẢN NGHĨA (8/1)

*Thái Dương Khí tại Tấu thống nhất thiết Khí.

- Phát Hãn: Biểu Khí hư.

- Nếu Thổ, nếu Hạ: Lý Khí hư.

69
- Vong tân dịch: Tấu Khí hư.

- Âm Dương hòa tất tự khỏi: Thái Dương Khí có vừa đủ Thiếu Âm Khí tại Nội, Thái Dương Khí
hòa không bệnh nào không khỏi.

NGUYÊN VĂN (58)

Sau khi Hạ, lại Phát Hãn mà tiểu tiện không lợi là vì vong tân dịch, chớ nên trị, được tiểu tiện
lợi tất tự khỏi.

BẢN NGHĨA (8/2)

*Thái Dương Kinh tại Tấu thống nhất thiết Kinh.

- Sau khi Hạ: tại Lý Âm KInh hư.

- Lại Phát Hãn: tại Biểu Dương Kinh hư.

- Tiểu tiện không lợi là vì mất tân dịch: tại Tấu các Âm Dương Kinh kiệt.

- Chớ nên trị: không cần trị Kinh khác.

- Được tiểu tiện lợi tất tự khỏi: tại Tấu Thái Dương Kinh có đủ Âm Kinh tại Nội, Thái Dương
Kinh lợi tất tự khỏi .

NGUYÊN VĂN (59)

Sau khi đại Hạ lại Phát Hãn, tất rét run, mạch Vi Tế. Sở dĩ như thế, là bởi Nội Ngoại đều hư.

BẢN NGHĨA (8/3)

*Thái Dương Lạc tại Tấu thống nhất thiết Lạc.

- Sau khi đại Hạ: Lý Kinh hư thì Lý Lạc hư.

- Lại Phát Hãn: Biểu KInh hư thì Biểu Lạc hư.

- Tất rét run: Tấu Kinh hư.

- Mạch Vi Tế: Tấu Lạc cũng hư.

70
- Sở dĩ như thế là bởi Nội Ngoại đều hư: Kinh là Lý, chia nhánh đi Hoành là Lạc tại Ngoại. Kinh
tại ‘Nội’ hư thì Lạc tại ‘Ngoại’ đều hư.

NGUYÊN VĂN (60)

Sau khi Hạ lại Phát Hãn, ban ngày phiền táo không ngủ được, đêm thì yên tĩnh, không nôn
không khát, không Biểu chứng, mạch Trầm Vi, mình không nóng lắm. Càn Cương Phụ Tử
thang làm chủ.

CÀN CƯƠNG PHỤ TỬ THANG PHƯƠNG

Càn Cương 1 lạng Phụ Tử 1 củ (dùng sống, bổ làm 8)

2 vị trên dùng 3 thăng nước nấu lấy 1 thăng, bỏ bả, uống hết 1 lần.

BẢN NGHĨA (8/4)

*Bản Hàn nhập Tấu truyền Âm Hàn KInh.

- Sau khi Hạ: tại Tấu Âm Nhiệt hư.

- Lại Phát Hãn: Dương Hàn nhập Tấu.

- Ban ngày phiền táo không ngủ được: Âm Nhiệt hư thì Dương Hàn quấy nhiễu.

- Đêm thì yên tĩnh: Âm Nhiệt vượng nên Dương Hàn hòa.

- Không nôn: Âm Nhiệt hư.

- Không khát: Dương Hàn thực.

- Không Biểu chứng: không Biểu Dương Nhiệt chứng.

- Mạch Trầm Vi: Dương Hàn hiệp Âm Hàn mà Âm Nhiệt hư cực.

- Mình không nóng lắm: Kinh Hàn, Lạc cũng Hàn.

- Càn Cương Phụ Tử thang làm chủ.

71
NGUYÊN VĂN (61)

Sau khi Phát Hãn mình đau nhức mạch Trầm Trì, Quế chi gia Thược Dược, Sinh Cương (mỗi vị
1 lạng) ; Nhân Sâm (2 lạng), Tân Gia thang làm chủ.

QUẾ CHI TÂN GIA THANG PHƯƠNG

Quế Chi 3 lạng Bạch Thược 4 lạng Nhân Sâm 2 lạng

Đại Táo 12 trái Chích thảo 2 lạng

6 vị trên dùng 1 đấu 2 thăng nước, nhỏ lửa sắc lấy 3 thăng, phân uống ấm, ngoài ra y theo phép
dùng Quế Chi thang.

BẢN NGHĨA (8/5)

*Dương Hàn nhập Tấu truyền Âm Nhiệt Kinh.

- Sau khi Phát Hãn: Dương Hàn nhập Tấu.

- Mình đau nhức: nhập Tấu cùng Âm Nhiệt tương bác (đánh nhau).

- Mạch Trầm Trì: Dương Hàn nhập Tấu thì mạch Trầm, Âm Nhiệt tại Tấu ‘đương chi’ thì mạch
Trầm Trì.

- Quế Chi Tân Gia thang làm chủ: Dương Hàn ‘tân gia’ Âm Nhiệt vẫn dùng Quế Chi.

NGUYÊN VĂN (62)

Sau khi Phát Hãn, không thể lại dùng thang Quế Chi, đổ mồ hôi mà suyễn, không nóng lắm, có
thể dùng Ma Hoàng Hạnh Nhân Cam Thảo Thạch Cao thang.

MA HOÀNG HẠNH NHÂN CAM THẢO THẠCH CAO THANG PHƯƠNG

Ma Hoàng 4 lạng Hạnh Nhân 50 hạt Cam Thảo 2 lạng Thạch Cao ½ cân

4 vị trên, dùng 7 thăng nước, trước nấu Ma Hoàng giảm 2 thăng, bỏ bọt, cho các thuốc vào nấu
lấy 2 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng.

BẢN NGHĨA (8/6)

*Dương Hàn nhập Tấu truyền Dương Nhiệt Kinh.

- Sau khi Phát Hãn không thể lại dùng thang Quế Chi vì Dương Hàn đi mà Dương Nhiệt còn ở.
72
- Đổ mồ hôi mà Suyễn: tại Tấu Dương Nhiệt thực.

- Không nóng lắm (vô đại nhiệt): tại Tấu không có Âm Nhiệt hiệp. Có thể dùng: Ma Hoàng Hạnh
Nhân Cam Thảo Thạch Cao thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (63)

Phát Hãn quá nhiều, người bệnh chéo tay ấp lên tim, dưới tim hồi hộp muốn được án tay
vào, Quế Chi Cam Thảo thang làm chủ.

QUẾ CHI CAM THẢO THANG PHƯƠNG

Quế Chi 4 lạng Chích Thảo 2 lạng

2 vị trên dùng 3 thăng nước, nấu lấy 1 thăng, bỏ bả, uống hết 1 lần.

BẢN NGHĨA (8/7)

*Dương Hàn truyền Kinh tại Tấu thượng phần.

- Phát Hãn quá nhiều: tại Tấu Dương hư.

- Chéo tay lên ấp tim: Dương hư tại Tấu phần trên.

- Dưới tim hồi hộp muốn được án tay vào: Dương hư mà Bản Hàn muốn đi lên.

- Quế Chi Cam Thảo thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (64)

Sau khi Phát Hãn, người bệnh dưới rốn hồi hộp, muốn làm Bôn đồn, Phục Linh Quế Chi Cam
Thảo Đại Táo thang làm chủ.

PHỤC LINH QUẾ CHI CAM THẢO ĐẠI TÁO THANG PHƯƠNG

Phục Linh ½ cân Chích Thảo 2 lạng Đại Táo 12 quả Quế Chi 4 lạng

4 vị trên, dùng Cam Lan Thủy 1 đấu, trước sắc Phục Linh giảm 2 thăng, cho các thuốc vào sắc lấy
3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, ngày uống 3 lần.

Phép chế Cam Lan Thủy : lấy 2 đấu nước cho vào chậu lớn, dùng gáo múc lên dội xuống mãi, lúc
nào có hàng 5 -6 ngàn bong bóng đuổi nhau, lấy dùng.
73
BẢN NGHĨA (8/8)

*Dương Hàn truyền Kinh tại Tấu Hạ phần.

- Sau khi Phát Hãn, dưới rún hồi hộp: tại Đái hạ Dương hư mà Hàn thực.

- Muốn làm Bôn đồn: Hàn thực ở dưới muốn chạy vội lên trên.

- Phục Linh Quế Chi Cam Thảo Đại Táo thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (65)

Sau khi Phát Hãn, bụng trướng đầy, Hậu Phác Sinh Cương Bán Hạ Cam Thảo Nhân Sâm thang
làm chủ.

HẬU PHÁC SINH CƯƠNG BÁN HẠ CAM THẢO NHÂN SÂM THANG PHƯƠNG

Hậu Phác ½ cân Sinh Cương ½ cân Bán Hạ ½ cân Chích Thảo 2 lạng Nhân Sâm 2 lạng

5 vị trên dùng 1 đấu nước, sắc lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, ngày uống 3 lần.

BẢN NGHĨA (8/9)

*Dương Hàn truyền KInh tại Tấu Trung phần.

- Sau khi Phát Hãn: tại Tấu Dương hư.

- Bụng trướng đầy: Dương hư mà Hàn thực tại Tấu phần giữa.

- Hậu Phác Sinh Cương Bán Hạ Cam Thảo Nhân Sâm thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (66)

Thương Hàn sau khi cho Thổ hoặc cho Hạ, dưới Tim nghịch đầy, Khí xung lên ngực, đứng dậy
thì đầu choáng váng, mạch Trầm Khẩn, Phát Hãn thì động kinh, thân mình lắc lư chao đảo,
Phục Linh Quế Chi Bạch Truật Cam Thảo thang làm chủ.

PHỤC LINH QUẾ CHI BẠCH TRUẬT CAM THẢO THANG PHƯƠNG

Phục Linh 4 lạng Quế Chi 3 lạng Bạch Truật 2 lạng Cam Thảo 2 lạng

4 vị trên, dùng 6 thăng nước sắc lấy 3 thăng, bỏ bả, phân uống ấm 3 lần trong ngày.

74
BẢN NGHĨA (8/10)

*Tại Tấu phần Dương Nhiệt thực, Âm Hàn cũng thực.

- Thương Hàn: tại Biểu Dương Nhiệt thực.

- Sau khi cho Thổ hoặc cho Hạ: tại Lý Âm Hàn thực.

- Dưới Tim nghịch đầy, Khí xung lên ngực: Dương Nhiệt tại ngực, Âm Hàn theo cùng tại ngực.

- Đứng dậy thì đầu choáng váng: Dương Nhiệt tại đầu, Âm Hàn theo cùng tại đầu.

- Mạch Trầm Khẩn: Dương Hàn tại Nội, Âm Nhiệt theo cùng tại Nội.

- Phát Hãn thì động kinh, thân mình lắc lư chao đảo: Dương Hàn tại Ngoại, Âm Nhiệt theo
cùng tại Ngoại.

- Phục Linh Quế Chi Bạch Truật Cam Thảo thang làm chủ.

*Nói Dương Nhiệt Âm Hàn chẳng chi khác, trái với nó tức Dương Hàn Âm Nhiệt.

NGUYÊN VĂN (67)

Phát Hãn bệnh không giải, trái lại sợ lạnh, là bởi hư vậy. Thược Dược Cam Thảo Phụ Tử thang
làm chủ.

THƯỢC DƯỢC CAM THẢO PHỤ TỬ THANG PHƯƠNG

Thược Dược 3 lạng Chích Thảo 2 lạng Phụ Tử 1 củ

3 vị trên dùng 5 thăng nước, sắc lấy 1 thăng 5 cáp, bỏ bả, phân ra uống ấm 3 lần.

BẢN NGHĨA (8/11)

*Tại Tấu phần Dương Nhiệt thực mà Âm Hàn hư.

- Phát Hãn bệnh không giải: Dương Nhiệt thực.

- Trái lại sợ lạnh là bởi hư vậy: Dương Nhiệt thực do Âm Hàn hư.

- Thược Dược Cam Thảo Phụ Tử thang làm chủ.

75
NGUYÊN VĂN (68)

Phát Hãn hoặc Hạ, bệnh vẫn không giải, phiền táo, Phục Linh Tứ Nghịch thang làm chủ.

PHỤC LINH TỨ NGHỊCH THANG PHƯƠNG

Phục Linh 6 lạng Nhân Sâm 3 lạng Phụ Tử 1 củ (sống)

Càn Cương 1 lạng rưỡi Chích Thảo 2 lạng

5 vị trên, dùng 5 thăng nước, sắc lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 7 cáp ngày uống 3 lần.

BẢN NGHĨA (8/12)

*Tại Tấu phần, Dương Hàn hư Âm Nhiệt cũng hư.

- Phát Hãn: Dương Hàn hư.

- Hoặc Hạ: Âm Nhiệt hư.

- Bệnh vẫn không giải: Âm Dương đều hư.

- Phiền táo: do Tấu nhập Lý.

- Phục Linh Tứ Nghịch thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (69)

Sau khi Phát Hãn, sợ lạnh là hư cho nên vậy; không sợ lạnh chỉ nóng là thực, phải nên hòa Vỵ
Khí, dùng Điều Vỵ Thừa Khí thang.

BẢN NGHĨA (8/13)

*Tại Tấu phần, Dương Hàn hư mà Âm Nhiệt thực.

- Sau khi Phát Hãn,sợ lạnh: tại Tấu Dương Hàn hư.–

- Không sợ lạnh chỉ nóng: tại Tấu Âm Nhiệt thực.

- Phải nên hòa Vỵ Khí: tả Âm Nhiệt thực để cho Vỵ Khí hòa.

- Điều Vỵ Thừa Khí thang làm chủ.

(Trên đây, chương thứ 8, 13 tiết, giải thích Bản Hàn tại Tấu phần truyền Kinh).

76
CHƯƠNG 9 : TÚC THÁI DƯƠNG KHÍ

( 7 Tiết, từ 70 đến 76)

1- Túc Thái Dương thọ Thái Dương Thiếu Âm Khí.

2- Thọ Thiếu Âm Nhiệt Khí hư.

3- Thọ Thái Dương Hàn Khí thực.

4- Thọ Thái Dương Thiếu Âm Khí đều thực.

5- Thọ Thái Dương Thiếu Âm Khí đều hư.

6- Thọ Thái Dương Hàn Khí truyền Kinh.

7- Thọ truyền Kinh tất thọ chuyển hệ.

NGUYÊN VĂN (70)

Thái Dương Bệnh, sau khi Phát Hãn, mồ hôi ra rất nhiều, trong Vỵ khô, phiền táo không ngủ
được ; muốn uống nước, cho in ít một, khiến cho Vỵ Khí hòa thì khỏi. Nếu mạch Phù, tiểu tiện
không lợi, hơi sốt, tiêu khát. Ngũ Linh tán làm chủ.

NGŨ LINH TÁN PHƯƠNG

Trư Linh 18 thù Trạch Tả 1 lạng 6 thù Phục Linh 18 thù

Bạch Truật 18 thù Quế Chi ½ lạng [24 thù là 1 lạng]

5 vị tán nhỏ, hòa nước ấm uống 1 thìa phương thốn, ngày 3 lần, uống nhiều nước nóng, mồ hôi
ra thì khỏi.

BẢN NGHĨA (9/1)

*Túc Thái Dương thọ Thái Dương Thiếu Âm Khí.

- Thái Dương Bệnh: Túc Thái Dương Khí phần bệnh.

- Sau khi Phát Hãn: Thái Dương Hãn xuất.

- Mồ hôi ra rất nhiều: Thiếu Âm Hãn cũng xuất.


77
- Trong Vỵ khô, phiền táo không ngủ được: Thái Dương chuyển sang Thiếu Âm.

- Muốn uống nước, cho in ít một, khiến cho Vỵ Khí hòa thì khỏi: Trị Thiếu Âm.

- Nếu mạch Phù, tiểu tiện không lợi: thọ Thiếu Âm Nhiệt Khí.

- Hơi sốt ,tiêu khát: thọ Thái Dương Hàn Khí.

- Ngũ Linh Tán làm chủ.

NGUYÊN VĂN (71)

Phát Hãn rồi, mạch Phù Sác, phiền khát. Ngũ Linh tán làm chủ.

BẢN NGHĨA (9/2)

*Túc Thái Dương thọ Thiếu Âm Nhiệt Khí hư.

- Mạch Phù Sác: Dương Khí hư tức Âm Nhiệt Khí hư.

- Phiền khát: Âm Nhiệt hư thì Dương Hàn không hóa Khí.

- Ngũ Linh Tán làm chủ.

NGUYÊN VĂN (72)

Thương Hàn mồ hôi ra rồi mà khát, Ngũ Linh tán làm chủ ; không khát Phục Linh Cam Thảo
thang làm chủ.

PHỤC LINH CAM THẢO THANG PHƯƠNG

Phục Linh 3 lạng Chích Thảo 1 lạng Quế Chi 2 lạng Sinh Cương 3 lạng

4 vị trên, nước 4 thăng sắc còn 2 thăng, bỏ bả, chia uống ấm ngày 3 lần.

BẢN NGHĨA (9/3)

*Túc Thái Dương thọ Hàn Khí thực.

- Thương Hàn mồ hôi ra rồi mà khát là Dương Hàn Khí không hóa,Ngũ Linh Tán làm chủ.

- Không khát là thọ Hàn truyền KInh, Phục Linh Cam Thảo thang làm chủ.

78
NGUYÊN VĂN (73)

Trúng Phong phát sốt, 6 – 7 ngày không giải mà phiền, có chứng Biểu Lý, khát muốn uống
nước, nước vào thì mửa, gọi là Thủy nghịch. Ngũ Linh tán làm chủ.

BẢN NGHĨA (9/4)

*Túc Thái Dương thọ Dương Hàn Âm Nhiệt thực.

- Trúng Phong: thọ Âm Nhiệt.

- Phát sốt: thọ Dương Hàn.

- 6 – 7 ngày không giải mà phiền: Hàn Nhiệt cùng thọ.

- Có chứng Biểu Lý: Biểu Dương Hàn, Lý Âm Nhiệt cùng tại Tấu.

- Khát muốn uống nước: cớ bởi thọ Âm Nhiệt.

- Nước vào thì mửa: cớ bởi thọ Dương Hàn.

- Gọi là Thủy nghịch: Kinh Túc Thái Dương Hàn Thủy mà lại thọ Hàn Khí là nghịch.

- Ngũ Linh Tán làm chủ : chỉ giải Dương Hàn mà Âm Nhiệt giải vậy.

NGUYÊN VĂN (74)

Lúc chưa xem mạch, người bệnh chéo tay ấp lên Tim. Thầy thử bảo ho mà không ho, đó là 2
tai điếc không nghe, sở dĩ như thế, là vì trùng Phát Hãn, hư cho nên vậy.

BẢN NGHĨA (9/5)

*Túc Thái Dương thọ Dương Hàn Âm Nhiệt hư.

- Chéo tay ấp lên Tim: thọ hư Hàn.

- 2 tai điếc không nghe: thọ hư Nhiệt.

- Sở dĩ như thế, Phát Hãn thì Dương Hàn hư, trùng Phát Hãn thì Âm Nhiệt hư cho nên vậy.

NGUYÊN VĂN (75)

Sau khi Phát Hãn, uống nước nhiều tất suyễn, dùng nước tưới dội cũng suyễn.
79
BẢN NGHĨA (9/6)

*Túc Thái Dương thọ Dương Hàn truyền KInh.

- Sau khi Phát Hãn: Thái Dương Khí hư.

- Uống nước nhiều tất Suyễn: tại Lý Dương hư thọ Hàn truyền.

- Dùng nước lạnh tưới dội cũng Suyễn: tại Biểu Dương hư thọ Hàn truyền.

NGUYÊN VĂN (76)

Sau khi Phát Hãn, nước và thuốc không uống vào miệng được, đấy là nghịch. Nếu lại Phát
Hãn nữa tất thổ Hạ không dứt.

BẢN NGHĨA (9/7)

*Túc Thái Dương thọ Dương Hàn truyền cũng thọ Âm Nhiệt hệ.

- Sau khi Phát Hãn: Dương Hàn Khí suy ở Thượng.

- Nước, thuốc không uống vào miệng được: Âm Nhiệt Khí theo cùng ở Thượng.

- Nếu lại Phát Hãn nữa: Dương Hàn Khí suy ở Nội.

- Tất Thổ Hạ không dứt: Âm Nhiệt Khí cũng suy ở Nội.

(Trên đây, chương thứ 9, 7 tiết, giải thích Túc Thái Dương Khí).

80
CHƯƠNG 10 : THỦ THÁI DƯƠNG LẠC

(6 Tiết, từ 77 đến 82)

1- Thủ Thái Dương thọ Thái Dương Thiếu Âm hư thực.

2- Thủ Thái Dương thọ Dương Hàn Âm Nhiệt tại Cách.

3- Thủ Thái Dương thọ Dương Hàn Âm Nhiệt tại Biểu tại Lý.

4- Thủ Thái Dương thọ Dương Hàn Âm Nhiệt tại Tấu.

5- Thủ Thái Dương thọ Dương Hàn truyền Kinh tất Âm Nhiệt chuyển hệ.

6- Thủ Thái Dương bất thọ truyền Kinh chuyển hệ.

NGUYÊN VĂN (77)

Sau khi Phát Hãn, Thổ, Hạ, hư phiền không ngủ được. Nếu như nặng thì trăn trở đảo điên,
trong tâm áo não. Chi Tử Xị thang làm chủ. Nếu thiểu Khí thì Chi Tử Cam Thảo thang làm chủ.
Nếu nôn thì Chi Tử Sinh Cương Xị thang làm chủ.

CHI TỬ XỊ THANG PHƯƠNG

Chi Tử 14 hạt (bổ ra) Hương Xị 4 cáp (gói trong vải)

2 vị trên, dùng 4 thăng nước, nấu Chi Tử trước giảm còn 2 thăng, rồi cho Đậu Xị vào sắc lấy 1
thăng rưỡi, lọc bỏ bả, chia 2 lần uống, lần đầu uống ấm, thổ được rồi, thôi không uống lần sau.

CHI TỬ CAM THẢO XỊ THANG PHƯƠNG

Tức phương trên gia Cam Thảo 2 lạng. Phép sắc uống đồng như trên.

CHI TỬ SINH CƯƠNG XỊ THANG PHƯƠNG

Tức Chi Tử Xị nguyên phương gia Sinh Cương 5 lạng. Phép sắc uống đồng như trên.

BẢN NGHĨA (10/1)

*Thủ Thái Dương Lạc thọ Thái Dương Thiếu Âm hư thực.

- Hư phiền không ngủ được: riêng thọ Thiếu Âm Bản Nhiệt.


81
- Nếu nặng thì trăn trở đảo điên, trong Tâm áo não: cùng thọ Thái Dương Bản Hàn.Chi Tử Xị
thang làm chủ.

- Nếu thiểu Khí là Bản Hàn chuyển sang Bản Nhiệt, Chi Tử Cam Thảo Xị thang làm chủ.

- Nếu nôn là Bản Nhiệt chuyển sang Bản Hàn, Chi Tử Sinh Cương Xị thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (78)

Phát Hãn hoặc Hạ mà phiền Nhiệt, trong Hung tắc nghẽn, Chi Tử Xị thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (10/2)

*Thủ Thái Dương Lạc thọ Dương Hàn Âm Nhiệt tại Cách.

- Phiền Nhiệt: tịnh thọ Hàn Nhiệt.

- Trong Hung tắc nghẽn: tại Cách, Chi Tử Xị thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (79)

Thương Hàn 5 - 6 ngày, sau khi đại Hạ, mình nóng không dứt, trong Tâm kết đau là chưa
muốn giải, Chi Tử Xị thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (10/3)

*Thủ Thái Dương Lạc thọ Dương Hàn Âm Nhiệt tại Biểu tại Lý.

- Thương Hàn: tại Biểu.

- 5 – 6 ngày sau khi đại Hạ: tại Lý.

- Mình nóng không dứt: cùng bệnh tại Biểu.

- Trong Tâm kết đau: cùng bệnh tại Lý.

- Chưa muốn giải: Lý chưa giải cho nên Biểu chưa giải.

- Chi Tử Xị thang làm chủ.

82
NGUYÊN VĂN (80)

Thương Hàn sau khi Hạ, Tâm phiền bụng đầy, nằm dậy không yên, Chi Tử Hậu Phác thang làm
chủ.

CHI TỬ HẬU PHÁC THANG PHƯƠNG

Chi Tử 14 trái Chích Hậu Phác 4 lạng Chích Chỉ Thực 4 lạng

3 vị trên, dùng 3 thăng rưỡi nước, sắc lấy 1 thăng rưỡi, bỏ bả, chia uống 2 lần.

BẢN NGHĨA (10/4)

*Thủ Thái Dương Lạc thọ Dương Hàn Âm Nhiệt tại Tấu.

- Thương Hàn: tại Biểu.

- Sau khi Hạ: tại Lý.

- Tâm phiền bụng đầy, nằm dậy không yên: thọ tại Tấu.

- Chi Tử Hậu Phác thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (81)

Thương Hàn, Thầy thuốc dùng thuốc hoàn cho đại Hạ, mình nóng không dứt, hơi phiền. Chi
Tử Càn Cương thang làm chủ.

CHI TỬ CÀN CƯƠNG THANG PHƯƠNG

Chi Tử 14 quả Càn Cương 2 lạng

2 vị trên, dùng 3 thăng rưỡi nước, sắc lấy 1 thăng rưỡi, chia uống ấm 2 lần.

BẢN NGHĨA (10/5)

*Thủ Thái Dương Lạc thọ Dương Hàn truyền Kinh tất thọ Âm Nhiệt chuyển hệ.

- Mình nóng không dứt: Dương Hàn truyền KInh.

- Hơi phiền: Âm Nhiệt chuyển hệ.

- Chi Tử Càn Cương thang làm chủ.

83
NGUYÊN VĂN (82)

Phàm dùng Chi Tử Xị thang, người bệnh vốn có chứng đi ngoài phân hơi nát, không thể cho
uống.

BẢN NGHĨA (10/6)

*Thủ Thái Dương Lạc không thọ Dương Hàn truyền Kinh, Âm Nhiệt chuyển hệ.

- Người bệnh vốn có chứng đi ngoài phân hơi nát : Thủ Thái Dương Lạc hư.

- Không thể uống Chi Tử Xị thang : nói phải nên trị chứng hư.

(Trên đây, chương thứ 10, 6 tiết, giải thích Thủ Thái Dương Lạc).

84
CHƯƠNG 11 : TÚC THÁI DƯƠNG KINH

(8 Tiết, từ 83 đến 90)

1- Túc Thái Dương Kinh thọ Thái Dương Bản Hàn.

2- Túc Thái Dương Kinh thọ Thái Dương Tiêu Dương.

3- Túc Tam Dương Kinh hư không thể phát Thái Dương hạn.

4- Túc Tam Âm Kinh hư không thể phát Thái Dương hạn.

5- Thủ Tam Dương Kinh hư không thể phát Thái Dương hạn.

6- Thủ Tam Âm Kinh hư không thể phát Thái Dương hạn.

7- Túc Thái Dương Kinh thọ Thiếu Âm Bản Nhiệt.

8- Túc Thái Dương Kinh thọ Thiếu Âm Tiêu Âm.

NGUYÊN VĂN (83)

Thái Dương Bệnh Phát Hãn, mồ hôi ra không giải, người bệnh vẫn phát sốt, dưới tâm hồi
hộp, đầu váng, mình máy giật, rung động muốn ngã xuống đất. Chân Võ thang làm chủ.

CHÂN VÕ THANG PHƯƠNG

Phục Linh 3 lạng Thược Dược 3 lạng Sinh Cương 3 lạng

Bạch Truật 2 lạng Phụ Tử 1 củ (bào)

5 vị trên, dùng 8 thăng nước, nấu lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 7 cáp, ngày 3 lần.

BẢN NGHĨA (11/1)

*Túc Thái Dương Kinh thọ Thái Dương Bản Hàn.

- Phát Hãn mồ hôi ra không giải: Bản Hàn nhập Kinh.

- Vẫn phát sốt: Hàn tại Biểu Kinh.

- Dưới Tâm hồi hộp: Hàn tại Lý Kinh.

85
- Đầu váng: Dương Hàn ở trên, Âm Nhiệt theo cùng ở trên.

- Mình máy giật: Dương Hàn ở ngoài, Âm Nhiệt theo cùng ở ngoài.

- Rung động muốn ngã xuống đất: Dương Hàn thực mà Âm Nhiệt không còn đất dung thân.

- Chân Võ thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (84)

Yết hầu khô ráo, không thể Phát Hãn.

BẢN NGHĨA (11/2)

*Túc Thái Dương Kinh thọ Thái Dương Tiêu Dương.

- Hàn thực ở Kinh mồ hôi ra không giải.

- Dương thực ở Kinh Yết hầu khô ráo, không thể Phát Hãn.

NGUYÊN VĂN (85)

Lâm gia (người mắc bệnh Lâm) không thể phát Hãn, Phát Hãn tất tiểu tiện ra máu.

BẢN NGHĨA (11/3)

*Túc Tam Dương Kinh hư không thể Phát Thái Dương Hãn.

- Lâm gia: Túc Dương Kinh thủy hư.

- Phát Thái Dương Hãn thì Kinh thủy kiệt mà Kinh Huyết kế tiếp (tất tiểu tiện ra máu).

NGUYÊN VĂN (86)

Sang gia (người mắc bệnh ghẻ lở), tuy mình đau nhức, không thể Phát Hãn, Phát Hãn tất sinh
bệnh Kỉnh.

86
BẢN NGHĨA (11/4)

*Túc Tam Âm Kinh hư không thể Phát Thái Dương Hãn.

- Sang gia tuy mình đau nhức: Túc Âm Kinh Huyết kiệt.

- Phát Hãn thì Dương thủy kiệt mà Âm Huyết táo, làm bệnh Kỉnh.

NGUYÊN VĂN (87)

Nục gia (người mắc bệnh đổ máu cam), không thể phát Hãn, Hãn ra tất trên trán lõm xuống,
mạch Khẩn cấp, mắt trực thị không đảo được tròng, không ngủ được.

BẢN NGHĨA (11/5)

*Thủ Tam Dương Kinh hư không thể Phát Thái Dương Hãn.

- Nục gia: Thủ Tam Dương Kinh hư.

- Phát Hãn thì Dương thủy kiệt.

. Không hành ở Thủ Thiếu Âm Tâm Kinh thì trên trán lõm xuống .

. Không hành ở Thủ Thái Âm Phế Kinh thì mạch Khẩn cấp .

. Không hành ở Thủ Khuyết Âm Tâm Bào Lạc thì mắt trực thị không đảo được tròng, không
ngủ được .

NGUYÊN VĂN (88)

Vong huyết gia (người bị mất máu) không thể Phát Hãn, Phát Hãn tất rét run lẩy bẩy.

BẢN NGHĨA (11/6)

*Thủ Tam Âm Kinh hư không thể Phát Thái Dương Hãn.

- Vong Huyết gia: Thủ Tam Âm Kinh Huyết vong.

- Phát Hãn thì Dương Khí hư mà Âm Huyết Hàn cho nên rét run lẩy bẩy.

87
NGUYÊN VĂN (89)

Hãn gia (người vốn hay đổ mồ hôi), lại Phát Hãn nữa, tất hoảng hốt Tâm loạn, tiểu tiện rồi âm
vật đau buốt, dùng Võ Dư Lương hoàn.

VÕ DƯ LƯƠNG HOÀN PHƯƠNG

1 vị Võ Dư Lương tán nhỏ làm hoàn, uống với nước.

BẢN NGHĨA (11/7)

*Túc Thái Dương Kinh thọ Thiếu Âm Bản Nhiệt.

- Dương Hàn thủy được Âm Nhiệt Khí làm thành Hãn,gọi là Hãn gia.

- Người vốn hay đổ mồ hôi, lại Phát Hãn nữa thì Thái Dương ‘Hãn’, Thiếu Âm cũng ‘Hãn’.

- Hoảng hốt Tâm loạn: Thiếu Âm tại Hạ mà lên Thượng.

- Tiểu tiện rồi âm vật đau buốt: Thái Dương tại Ngoại mà vào Nội. Đều do Phát Hãn quá nhiều
mà ra.

- Dùng Võ Dư Lương Hoàn là để chỉ Hãn vậy.

NGUYÊN VĂN (90)

Người bệnh có Hàn, lại Phát Hãn, trong Vỵ lạnh tất thổ Vưu trùng (lãi đũa).

BẢN NGHĨA (11/8)

*Túc Thái Dương thọ Thiếu Âm Tiêu Âm.

- Người bệnh có Hàn: Hàn Kinh thọ Hàn Khí.

- Lại Phát Hãn, trong Vỵ lạnh tất thổ Vưu trùng: Hãn thì Dương càng hư thì Hàn thậm, tất Vỵ
lạnh thổ Vưu trùng.

(Trên đây, chương thứ 11, 8 tiết, giải thích Túc Thái Dương Kinh).

88
CHƯƠNG 12 : THƯƠNG HÀN TRỊ PHÁP

( 6 Tiết, từ 91 đến 96)

1- Khí phần trị pháp.

2- Kinh phần trị pháp.

3- Lạc phần trị pháp.

4- Bì phần trị pháp.

5- Tấu phần trị pháp.

6- Nhục phần trị pháp.

NGUYÊN VĂN ( 91)

Vốn nên Phát Hãn mà lại Hạ, đấy là nghịch; nếu Phát Hãn trước là trị không nghịch. Vốn nên
Hạ trước mà trái lại Hãn là nghịch; nếu Hạ trước là trị không nghịch.

BẢN NGHĨA (12/1)

* Khí phần Trị pháp.

- Bản Hàn Khí tại Ngoại, nên trước Hãn mà trái lại Hạ, đấy là nghịch: Hàn Khí tại Ngoại mà trái
lại trị Nội cho nên vậy.

- Nếu Phát Hãn trước là trị không nghịch: Hàn Khí tại Ngoại phải nên trị Ngoại trước. Có thể
thấy Hàn Khí tại Nội phải nên trị Nội trước.

- Bản Nhiệt Khí chủ Nội, nên trước Hạ mà trái lại Hãn là nghịch; nếu Hạ trước là không nghịch:
Nhiệt Khí tại Nội, nên trước Hạ. Có thể thấy Nhiệt Khí tại Ngoại phải nên trước Phát Hãn.

*Bản Hàn Khí chủ Ngoại, Bản Nhiệt Khí chủ Nội, nhất định vậy. Nhưng mà làm bệnh thì không
nhất định, phải khéo xem xét nó ở chỗ nào thì mới có thể trị được.

89
NGUYÊN VĂN (92)

Thương Hàn thầy thuốc cho Hạ rồi tiếp tục hạ lợi phân sống không dứt, mình đau nhức, gấp
nên cứu Lý. Sau, mình còn đau nhức, đại tiểu tiện tự điều hòa, gấp nên cứu Biểu. Cứu Lý nên
dùng Tứ Nghịch thang, cứu Biểu nên dùng Quế Chi thang.

BẢN NGHĨA (12/2)

*Kinh phần Trị pháp.

- Thương Hàn thầy thuốc cho Hạ rồi tiếp tục hạ lợi phân sống không dứt: Dương Kinh

vào Lý chuyển sang Âm Kinh.

- Mình đau nhức: Âm Kinh ra Biểu chuyển sang Dương Kinh.

- Gấp nên cứu Lý: Lý Kinh tức là chổ nhập (vào) của Biểu Kinh.

- Sau, mình còn đau nhức, đại tiểu tiện tự điều hòa, gấp nên cứu Biểu: Biểu Kinh tức là chổ
xuất (ra) của Lý Kinh.

- Nói Biểu Lý chỉ Nhất Kinh, riêng là Âm là Dương thì có phân biệt vậy.

- Cứu Lý nên dùng Tứ Nghịch thang : Trị tại Lý Thiếu Âm tức trị chổ nhập của Thái Dương tại
Biểu.

- Cứu Biểu nên dùng Quế Chi thang : Trị tại Biểu Thái Dương tức trị chổ xuất của Thiếu Âm tại
Lý.

NGUYÊN VĂN (93)

Bệnh phát sốt, đầu đau, mạch trái lại Trầm, nếu không bớt, mình mẩy đau nhức, cần phải cứu
Lý, nên dùng Tứ Nghịch thang.

BẢN NGHĨA (12/3)

*Lạc phần Trị pháp.

- Bệnh phát sốt đầu đau: Dương Kinh bệnh tại Biểu, cũng là Dương Lạc bệnh tại Biểu.

- -Mạch trái lại Trầm: Âm Kinh mạch tại Lý, cũng là Âm Lạc mạch tại Lý; nói trị Lạc phải nên tùy
theo Kinh.

- Nếu không bớt: không biết phép trị Lạc.


90
- Mình mẩy đau nhức: tại Biểu Âm Dương Lạc bệnh.

- Cần phải cứu Lý, nên dùng Tứ Nghịch thang: trị tại Lý Âm Dương Kinh. Sở dĩ như thế, vì Kinh
là Lý, chia nhánh đi ngang là Lạc, Biệt của Lạc là Tôn Lạc đều thấy ở ngoài. Đây, trị ‘Ngoại Lạc’
tất do ‘ Nội Kinh’, trị Lạc tất do Hàn Khí, Thương Hàn Trị Pháp vậy.

NGUYÊN VĂN (94)

Thái Dương Bệnh, trước cho Hạ mà không khỏi, nhân lại Phát Hãn, vì thế Biểu Lý đều hư,
người bệnh do đó sinh chứng Mạo (nặng đầu tối mắt như bị trùm đội vật gì), Mạo gia (người
có chứng Mạo) ra mồ hôi tự khỏi. Sở dĩ như vậy là vì ra mồ hôi thì Biểu hòa. Nếu Lý chưa hòa
thì sau đó mới cho Hạ.

BẢN NGHĨA (12/4)

*Bì phần Trị pháp.

- Thái Dương Bệnh trước cho Hạ mà không khỏi: bởi vì Thái Dương tại Biểu nên Hãn trước,
không nên Hạ trước.

- Nhân lại Phát Hãn: Thái Dương nên ‘Hãn trước’, không nên Hạ trước rồi lại Hãn.

- Thất trị ở Hãn, lại thất trị ở Hạ vì thế Biểu Lý đều hư.

- Người bệnh do đó sinh chứng Mạo: Thiếu Âm tại Biểu ‘Mạo’ làm Thái Dương gọi là ‘Mạo gia’.

- Ra mồ hôi tự khỏi: hòa Thái Dương Thiếu Âm tại Biểu.

- Nếu Lý chưa hòa thì sau đó mới cho Hạ: hòa Thái Dương Thiếu Âm tại Lý.

NGUYÊN VĂN (95)

Thái Dương Bệnh chưa giải, mạch Âm Dương ‘Câu Đình’, tất trước run cầm cập rồi đổ mồ hôi
mà giải.Chỉ Dương mạch Vi thì trước cho ra mồ hôi mà giải. Chỉ Âm mạch Vi thì cho Hạ mà
giải. Nếu muốn Hạ, nên dùng Điều Vỵ Thừa Khí thang.

BẢN NGHĨA (12/5)

*Tấu phần Trị pháp.

- Thái Dương Bệnh chưa giải : tại Tấu cho nên chưa giải.

91
- Mạch Âm Dương ‘Câu đình’: nhất thiết mạch ‘Câu đình’ tại Tấu – Định lệ vậy !

- Tất trước run cầm cập Kinh Lạc của nó rồi sau đổ mồ hôi mà giải ; nhất thiết Kinh Lạc đều tập
trung tại Tấu – Định lệ vậy !

- Chỉ Dương Mạch Vi là Dương Nhiệt Mạch Vi thì Dương Hàn thực.

- Trước cho ra mồ hôi mà giải : Dương Hàn nên Hãn trước.

- Chỉ Âm Mạch Vi: là Âm Hàn Mạch Vi thì Âm Nhiệt thực.

- Cho Hạ mà giải: không nói ‘trước’ là vì Âm Nhiệt tại Biểu có ‘Hãn trước’ ; nhất thiết Âm
Dương đều hội ở Tấu – Định lệ vậy !

- Nếu muốn Hạ, nên dùng Điều Vỵ Thừa Khí thang cho Hạ: nhất thiết trị Tấu phần Nhiệt Khí
nên dùng Bản phương – Định lệ vậy !

NGUYÊN VĂN (96)

Thái Dương Bệnh phát sốt đổ mồ hôi, đấy là Vinh nhược (yếu) Vệ cường (mạnh) nên khiến ra
mồ hôi, muốn cứu Tà Phong nên dùng Quế Chi thang.

BẢN NGHĨA (12/6)

*Nhục phần Trị pháp.

- Thái Dương Bệnh phát sốt : đấy là Vệ cường.

- Đổ mồ hôi : đấy là Vinh nhược.

- Chỉ vì Vệ cường phát sốt, cho nên Vinh nhược mồ hôi ra.Âm Dương tương ứng làm nên vậy.

- Muốn cứu Tà Phong: tại Nhục phần Phong bị Hàn truyền cho nên gọi Tà.

- Nên dùng Quế Chi thang.

(Trên đây, chương thứ 12, 6 tiết, giải thích Thương Hàn trị pháp).

92
CHƯƠNG 13 : THÁI DƯƠNG PHONG HÀN TRUYỀN TẤU PHẦN

(15 Tiết, từ 97 đến 111)

1- Thái Dương Phong Hàn tại Tấu Bán Biểu truyền các Dương Kinh.

2- Thái Dương Phong Hàn tại Tấu Bán Lý truyền các Dương Kinh.

3- Thái Dương Phong Hàn tại Tấu Bán Lý truyền các Âm Kinh.

4- Thái Dương Phong Hàn tại Tấu Bán Biểu truyền các Âm Kinh.

5- Tấu Lý có 2 phần.

6- Tấu Bán Biểu ngoại liên Bì Nhục.

7- Tấu Bán Lý nội liên Phủ Tạng.

8- Thái Dương Bản Hàn truyền Kinh tại Tấu làm Thương Hàn.

9- Bản Hàn truyền Dương Nhiệt tại Tấu làm Ôn Bệnh chuyển Phong Ôn.

10- Bản Hàn truyền Âm Nhiệt tại Tấu làm Phong Ôn chuyển Ôn Bệnh.

11- Bản Hàn truyền Bản Nhiệt tại Tấu làm Nhiệt Bệnh.

12- Bản Hàn truyền Âm Hàn tại Tấu làm Hàn Thấp chuyển Phong Thấp.

13- Bản Hàn truyền Bản Nhiệt tại Tấu làm Thái Dương Thiếu Âm Phong Thấp.

14- Các Kinh từ Bán Biểu đến Bán Lý gọi là Tung.

15- Các Kinh từ Bán Lý đến Bán Biểu gọi là Hoành.

NGUYÊN VĂN (97)

Thương Hàn 5 – 6 ngày Trúng Phong, nóng lạnh qua lại, ngực sườn đầy tức, lìm lịm không
muốn ăn uống, Tâm phiền hay nôn, hoặc trong ngực phiền mà không nôn, hoặc khát, hoặc
đau trong bụng, hoặc dưới sườn đầy cứng, hoặc dưới Tâm hồi hộp, tiểu tiện không lợi, hoặc
không khát mình có hơi nóng, hoặc ho, Tiểu Sài Hồ thang làm chủ.

93
TIỂU SÀI HỒ THANG PHƯƠNG

Sài Hồ ½ cân Hoàng Cầm 3 lạng Nhân Sâm 3 lạng Bán Hạ ½ cân

Chích Thảo 3 lạng Sinh Cương 2 lạng Đại Táo 12 quả

7 vị trên, dùng 1 đấu 2 thăng nước, sắc còn 6 thăng, lọc bỏ bả rồi sắc lại còn 3 thăng uống ấm 1
thăng, ngày uống 3 lần.

Sau đây là phép gia giảm :

- Nếu trong ngực phiền mà không nôn : bỏ Bán Hạ, Nhân Sâm gia Quát Lâu thực 1 quả.

- Nếu khát : bỏ Bán Hạ gia Nhân Sâm hiệp với trước thành 4,5 lạng, Quát Lâu Căn 4 lạng.

- Nếu trong bụng đau : bỏ Hoàng Cầm gia Bạch Thược 3 lạng.

- Nếu dưới sườn đầy cứng : bỏ Đại Táo gia Mẫu Lệ 4 lạng.

- Nếu dưới Tâm hồi hộp, tiểu tiện không lợi: bỏ Hoàng Cầm gia Phục Linh 4 lạng.

- Nếu không khát, mình có hơi nóng : bỏ Nhân Sâm gia Quế Chi 3 lạng, đắp chăn ấm cho
ra chút mồ hôi là khỏi.

- Nếu ho : bỏ Nhân Sâm, Đại Táo, Sinh Cương gia Ngũ Vị Tử ½ thăng, Càn Cương 2 lạng.

BẢN NGHĨA (13/1)

*Thái Dương Phong Hàn tại Tấu Bán Biểu truyền các Dương Kinh.

- Thương Hàn 5 – 6 ngày Trúng Phong : Nói trước bị Thương Hàn rồi sau mới Trúng Phong tại
Tấu các Dương Kinh . Có Trúng Phong trước, có Thương Hàn trước, có Phong Hàn đồng thời,
có thể thấy Thái Dương Kinh Khí làm bệnh đâu có nhất định !

- Nóng lạnh qua lại: Dương Hàn Dương Nhiệt qua lại tại Tấu.

- Ngực sườn đầy tức: Dương Hàn Dương Nhiệt hiệp bệnh tại Tấu.

- Lìm lịm không muốn ăn uống: Tà bế tại Tấu là nơi Vỵ Khí làm chủ.

- Tâm phiền hay nôn: Đồng thời thọ Phong Hàn.

- Hoặc trong ngực phiền mà không nôn: Hoặc Trúng Phong mà không Thương Hàn.

- Hoặc khát: là Ôn Bệnh.

94
- Hoặc trong bụng đau: là Phong thấp.

- Dưới sườn đầy cứng: là Kết Hung.

- Hoặc dưới Tim hồi hộp, tiểu tiện không lợi: Hàn Thấp chuyển sang Thiếu Âm Phong thấp.

- Hoặc không khát, mình có hơi nóng: Hàn Thấp chuyển sang Thái Dương Phong Thấp.

- Hoặc ho: tại Tấu, Thái Dương Thiếu Âm hiệp Phong Thấp.

- Tiểu Sài Hồ thang làm chủ: Chuyên trị Dương Kinh tại Bán Biểu nên nói ‘Tiểu’.

NGUYÊN VĂN (98)

Huyết nhược Khí tận, Tấu Lý khai, Tà khí nhân đó vào, chọi nhau với Chính khí, kết ở dưới
hiếp, Chính Tà phân tranh, nóng lạnh qua lại, nghỉ phát có lúc, lìm lịm không muốn ăn uống.
Tạng Phủ liền nhau, chỗ đau tất ở thấp; Tà ở cao mà đau ở thấp nên khiến sinh nôn, Tiểu Sài
Hồ thang làm chủ, uống Sài Hồ thang rồi mà khát là thuộc Dương Minh, dùng ‘pháp’ để trị.

BẢN NGHĨA (13/2)

*Phong Hàn tại Tấu Bán Lý truyền các Dương Kinh.

- Tấu Bán Biểu do Thiếu Dương Hỏa Khí làm chủ. Tấu Bán Lý do Thiếu Âm Nhiệt Khí làm chủ.
Bản Hàn vào Bán Biểu tranh với Dương Nhiệt , vào Bán Lý tranh với Âm Nhiệt.

- Huyết nhược Khí tận, Tấu Lý khai : Tại Tấu Khí Huyết suy.

- Thái Dương Tà nhập cùng với Chính Khí Thiếu Âm chọi nhau, Kết ở dưới hiếp, tức Tấu Bán Lý
phần.

- Chính Tà phân tranh, nóng lạnh qua lại , nghỉ phát có lúc: Đó là Thái Dương Thiếu Âm ’tương
bác’ (chọi nhau).

- Lừ đừ không muốn ăn uống: Đó là Thái Dương Thiếu Âm ‘tương kết’ (kết nhau).

- Tạng Phủ liền nhau, chỗ đau tất ở thấp: Tấu Bán Lý trong liền Phủ Tạng, Kinh của nó đi Tung,
ngoài liền Bán Biểu, Kinh của nó đi Hoành – Từ Tung ra Hoành tất đau, từ Tung vào Lý tất
xuống thấp.

- Thái Dương ở ngoài là Tà cao, cùng với tại Tấu Thiếu Âm thọ (Hàn) làm đau ở thấp, từ dưới
mà lên nên khiến sinh nôn.

95
- Tiểu Sài Hồ thang làm chủ.

- Uống thang rồi mà khát là thuộc Dương Minh: Ly khai (lìa bỏ) Dương Hàn, vãng tòng (đi
theo) Dương Nhiệt.

- Dùng ‘Pháp’ để trị: ‘Pháp’ là Nhiệt của Dương Minh gốc ở Thiếu Âm Nhiệt Khí.

NGUYÊN VĂN (99)

Mắc bệnh 6,7 ngày, mạch Trì Phù Nhược, sợ gió lạnh, tay chân ấm. Thầy thuốc 2,3 lần Hạ đi,
không ăn được mà dưới hiếp (hông) đầy đau. Mặt mắt và mình đều vàng, cổ gáy cứng, tiểu
tiện khó, dùng Sài Hồ thang sau tất hạ trọng (mót rặn). Vốn khát mà uống nước vào thì nôn,
dùng Sài Hồ thang là không trúng, ăn cơm vào thì nôn ọe.

BẢN NGHĨA (13/3)

* Phong Hàn tại Tấu Bán Lý truyền các Âm Kinh.

- Mắc bệnh 6 -7 ngày: ngày của Thái Dương tại Tấu nhập Lý.

- Mạch Trì Phù Nhược:

. Trì là Âm Nhiệt bị Dương Hàn cản trở.

. Phù là tại Tấu.

. Nhược là Dương Hàn thọ (chịu) Âm Nhiệt hóa.

- Sợ gió lạnh: Thái Dương nhập Nội.

- Tay chân ấm: Thiếu Âm xuất Ngoại.

- Thầy thuốc 2 - 3 lần Hạ, không ăn được: Hạ thì Âm Nhiệt hư mà Dương Hàn thực.

- Dưới hiếp đầy đau: Phong Hàn súc tích ở Nội.

- Mặt mắt và mình đều vàng: Phong Hàn biểu hiện ở Ngoại.

- Cổ gáy cứng: Bản Hàn truyền KInh.

- Tiểu tiện khó: Bản Nhiệt hệ thuộc.

- Dùng Sài Hồ thang sau tất hạ trọng: Bệnh đã lìa bỏ Dương Kinh nhập Âm Kinh.

96
- Vốn khát: nhập Âm Nhiệt Kinh.

- Uống nước vào thì nôn: nhập Âm Hàn Kinh.

- Dùng Sài Hồ thang là không đúng: bởi đã lìa bỏ Dương Kinh.

- Ăn cơm vào thì nôn ọe: Bởi đã nhập Âm Kinh.

NGUYÊN VĂN (100)

Thương Hàn 4 – 5 ngày, mình nóng sợ gió, cổ gáy cứng, dưới hiếp đầy, tay chân ấm mà khát,
Tiểu Sài Hồ thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (13/4)

* Phong Hàn tại Tấu Bán Biểu truyền các Âm Kinh.

- Thương Hàn 4 -5 ngày: ngày các Âm hành Kinh.

- Mình nóng: Âm Nhiệt.

- Sợ gió: Âm Hàn.

- Cổ gáy cứng: Phong Hàn truyền KInh.

- Dưới hiếp đầy: Từ Bán Lý ra Bán Biểu.

- Tay chân ấm mà khát: Từ Âm Nhiệt chuyển sang Dương Nhiệt.

- Tiểu Sài Hồ thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (101)

Thương Hàn Dương mạch Sáp, Âm mạch Huyền, ‘Pháp đương’ trong bụng đau cấp, trước
dùng Tiểu Kiến Trung thang; không bớt thì dùng Tiểu Sài Hồ thang làm chủ.

TIỂU KIẾN TRUNG THANG PHƯƠNG

Quế Chi 3 lạng Thược Dược 6 lạng Chích Thảo 2 lạng

Đại Táo 12 trái Sinh Cương 3 lạng Di Đường 1 thăng

97
6 vị trên, nước 7 thăng, bỏ bả, cho Di Đường vào, lại đặt lên lửa nhỏ cho tan ra, uống ấm 1
thăng, ngày 3 lần, Ẩu gia (người bệnh nôn ụa) không thể dùng Tiểu Kiến Trung thang, bởi vì nó
ngọt (Ẩu gia, Âm Hàn Kinh vậy).

BẢN NGHĨA (13/5)

*Tấu Lý có 2 phần.

- Dương mạch Sáp: Dương Nhiệt tại Bán Biểu hư.

- Âm mạch Huyền: Âm Hàn tại Bán Lý thực.

- ‘Pháp đương’ trong bụng đau gấp: Dương Sáp Âm Huyền ‘ Pháp đương’ theo Thái Dương
Thiếu Âm.

- Cấp thống (đau gấp) là tại Kinh Lạc ‘do’ Hoành ‘nhi’ Tung.

- Dùng Tiểu Kiến Trung thang: khiến cho Dương Hàn không nhập Lý.

- Không bớt thì dùng Tiểu Sài Hồ thang : khiến cho Âm Nhiệt ra ngoài.

NGUYÊN VĂN (102)

Thương Hàn Trúng Phong, có chứng Sài Hồ, chỉ thấy 1 chứng là được, không cần phải đủ cả.

BẢN NGHĨA (13/6)

*Tấu Bán Biểu Ngoại liên Bì Nhục.

- Thương Hàn: tại Bì phần.

- Trúng Phong: tại Nhục phần.

- Có chứng Sài Hồ: tại Tấu phần.

- Trong 3 phần có 1 chứng Sài Hồ liền trị đi, không cần phải đủ cả, sợ tại Tấu dễ nhập Lý vậy.

NGUYÊN VĂN (103)

Phàm bệnh chứng thuộc Sài Hồ thang mà cho Hạ, nếu chứng Sài Hồ không dứt, lại dùng Sài
Hồ thang, tất run cầm cập rồi phát sốt, ra mồ hôi mà giải.

98
BẢN NGHĨA (13/7)

*Tấu Bán Lý Nội Liên Phủ Tạng.

- Phàm bệnh chứng thuộc Sài Hồ thang: Nói chứng trị thang Sài Hồ rất rộng.

- Cho Hạ: thì nhập vào Phủ Tạng.

- Nếu tại Tấu chứng Sài Hồ không dứt, lại dùng Sài Hồ thang, tất rung động Kinh Lạc tại Tấu,
rồi sau ra mồ hôi mà giải.

NGUYÊN VĂN (104)

Thương Hàn 2 – 3 ngày, trong Tâm Quí (hồi hộp) mà phiền (bứt rứt), Tiểu Kiến Trung thang
làm chủ.

BẢN NGHĨA (13/8)

*Bản Hàn truyền Kinh tại Tấu làm Thương Hàn .

- Thương Hàn 2 – 3 ngày: ngày tam Dương hành Kinh.

- Trong Tâm Quí mà phiền: chứng không truyền Dương Kinh mà truyền Âm Kinh.

- Tiểu Kiến Trung thang làm chủ.

- Thái Dương Bệnh liền truyền tam Âm, không tuần tự nhật số vậy.

NGUYÊN VĂN (105)

Thái Dương Bệnh quá Kinh đã hơn 10 ngày, trái lại cho Hạ 2 - 3 lần, sau 4 – 5 ngày chứng Sài
Hồ vẫn còn. Trước dùng Tiểu Sài Hồ thang, nôn không dứt, dưới Tâm cấp, uất uất hơi phiền là
chưa giải, dùng Đại Sài Hồ thang cho Hạ thì khỏi.

ĐẠI SÀI HỒ THANG PHƯƠNG

Sài Hồ ½ cân Hoàng Cầm 3 lạng Bán Hạ ½ thăng Sinh Cương 5 lạng
Đại Táo 12 trái Bạch Thược 3 lạng Chỉ Thực 4 quả (chích)

99
7 vị trên, nước 1 đấu 2 thăng, sắc lấy 6 thăng, bỏ bả, sắc lại còn 3 thăng, uống ấm 1 thăng, ngày
3 lần. Một phương dùng Đại Hoàng 2 lạng, nếu không gia Đại Hoàng sợ không phải là Đại Sài Hồ
thang.

BẢN NGHĨA (13/9)

*Tiêu Dương thọ Bản Hàn truyền Dương Nhiệt làm Ôn Bệnh, truyền Âm Nhiệt làm Phong Ôn.

- Thái Dương Tiêu Dương Bệnh : thọ Hàn truyền Kinh.

- Quá Kinh hơn 10 ngày: Dương Kinh hành Biểu 7 ngày thì nay hơn 10 ngày vẫn tại Dương Kinh,
gọi là ‘quá Kinh’.

- Trái lại cho Hạ 2 – 3 lần, sau 4 – 5 ngày: là ngày Âm hành Kinh.

- Chứng Sài Hồ vẫn còn: nói thủy chung Bệnh tại Dương Kinh, không tuần tự theo nhật số.

- Trước dùng Tiểu Sài Hồ thang: Ôn Bệnh tại Dương Nhiệt KInh.

- Nôn không dứt: Bản Hàn vẫn còn.

- Dưới Tâm cấp, uất uất hơi phiền: Phong Ôn Bệnh tại Âm Nhiệt Kinh.

- Dùng Đại Sài Hồ thang cho Hạ.

NGUYÊN VĂN (106)

Thương Hàn 13 ngày không giải, ngực hông đầy mà nôn, xế chiều phát Triều Nhiệt (sốt cơn),
rồi đi ngoài hơi lỏng, đấy vốn là chứng Sài Hồ cho Hạ mà không được lợi, nay lại lợi thì biết
thầy thuốc đã dùng thuốc hoàn để Hạ, trị không đúng vậy, Triều Nhiệt là chứng Thực, trước
nên dùng Tiểu Sài Hồ thang giải ngoại, sau dùng Sài Hồ gia Mang Tiêu thang làm chủ.

SÀI HỒ GIA MANG TIÊU THANG PHƯƠNG

Sài Hồ 2 lạng 16 thù Hoàng Cầm 1 lạng Nhân Sâm 1 lạng

Bán Hạ 20 thù Cam Thảo 1 lạng Sinh Cương 1 lạng

Đại Táo 4 trái Mang Tiêu 2 lạng

8 vị trên, dùng 4 thăng nước sắc lấy 2 thăng, lọc bỏ bả, cho Mang Tiêu vào rồi đun lại cho hơi
sôi, chia uống ấm 2 lần.

100
BẢN NGHĨA (13/10)

*Thương Hàn tại Bán Lý làm Phong Ôn, ra Bán Biểu làm Ôn Bệnh.

- Thương Hàn 13 ngày không giải: tại Bán Lý làm Phong Ôn.

- Ngực Hông đầy mà nôn: Thái Dương Tiêu Bản cùng bệnh.

- Xế chiều phát Triều Nhiệt: Thiếu Âm Tiêu Bản cùng bệnh.

- Rồi đi ngoài hơi lỏng, đấy vốn là chứng Sài Hồ cho Hạ mà không được lợi, nay lại lợi thì biết
thầy thuốc đã dùng thuốc hoàn để Hạ chứng tại Tấu, trị không đúng vậy.

- Triều Nhiệt là chứng thực: Phong Ôn tại Tấu Bán Lý.

- Trước nên dùng Tiểu Sài Hồ thang giải Bán Biểu Ôn Bệnh.

- Sau dùng Sài Hồ gia Mang Tiêu thang giải Bán Lý Phong Ôn.

NGUYÊN VĂN (107)

Thương Hàn 13 ngày không giải, quá Kinh, nói xàm là vì có Nhiệt, phải dùng thang cho Hạ đi.
Nếu tiểu tiện lợi thì đại tiện phải rắn, nay trái lại Hạ lợi, mạch điều hòa thì biết thầy thuốc
dùng thuốc hoàn để Hạ, trị không đúng vậy. Nếu tự Hạ lợi thì mạch phải nên Vi, nay trái lại
Hòa, đấy là Nội thực. Điều Vỵ Thừa Khí thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (13/11)

*Thương Hàn nhập Tấu chuyển làm Nhiệt Bệnh.

- 13 ngày không giải, quá Kinh nói xàm: đây, Bản Hàn nhập Tấu chuyển sang Bản Nhiệt, có thể
dùng thang cho Hạ.

- Nếu tiểu tiện lợi thì đại tiện phải rắn: Bản Hàn hạ mà Bản Nhiệt không hạ.

- Nay trái lại hạ lợi, mạch điều hòa thì biết thầy thuốc dùng thuốc hoàn để hạ nhưng Bản Hàn
hạ mà Bản Nhiệt vẫn không hạ, trị không đúng vậy.

- Nếu tự Hạ lợi thì Mạch phải nên Vi : Bản Hàn Bản Nhiệt đều Hạ.

- Nay trái lại Hòa, đấy là Nội thực: Bản Hàn Bản Nhiệt đều chưa hạ, đấy là Thương Hàn chuyển
làm Nhiệt bệnh, Điều Vỵ Thừa Khí thang làm chủ.

101
NGUYÊN VĂN (108)

Thái Dương Bệnh không giải, Nhiệt kết Bàng Quang, người bệnh như Cuồng, Huyết tự hạ, hạ
thì khỏi. Ngoại chứng không giải, chưa nên công. Phải nên giải Ngoại trước, Ngoại giải rồi, chỉ
còn chứng bụng dưới kết cấp thì mới có thể công, nên dùng Đào Hạch Thừa Khí thang.

ĐÀO HẠCH THỪA KHÍ THANG PHƯƠNG

Đào Nhân 50 hạt Quế Chi 2 lạng Đại Hoàng 4 lạng

Mang Tiêu 2 lạng Chích Thảo 2 lạng

5 vị trên, dùng 7 thăng nước, sắc lấy 2 thăng rưỡi, bỏ bả, cho Mang Tiêu vào lại bắt lên lửa cho
hơi sôi, nhắc xuống, trước bữa ăn uống 5 cáp, ngày 3 lần, phải nên hơi lợi.

BẢN NGHĨA (13/12)

*Tiêu Dương tại Tấu hoặc chuyển làm Tiêu Âm Hàn Thấp, hoặc chuyển làm Bản Nhiệt Phong
Thấp.

- Thái Dương Tiêu Dương tại Tấu không giải, Nhiệt kết Bàng Quang, người bệnh như Cuồng:
truyền nhập Thiếu Âm Kinh Huyết.

- Huyết tự hạ, hạ thì khỏi : truyền sang Thiếu Âm Tiêu Âm làm Hàn Thấp.

- Nếu tại Ngoại Dương Hàn chưa giải, nên trước cho giải để cho Dương Hàn không nhập Nội
hiệp Âm Hàn.

- Chỉ còn chứng bụng dưới kết cấp: truyền tại Thiếu Âm Bản Nhiệt làm Phong Thấp, thì mới có
thể công, nên dùng Đào Hạch Thừa Khí thang.

NGUYÊN VĂN (109)

Thương Hàn 8 – 9 ngày, Hạ đi, ngực đầy phiền kinh, tiểu tiện không lợi, nói xàm, cả mình
nặng nề, không thể xoay trở, Sài Hồ gia Long Cốt Mẫu Lệ thang làm chủ.

102
SÀI HỒ GIA LONG CỐT MẪU LỆ THANG PHƯƠNG

Sài Hồ 4 lạng Hoàng Cầm 1,5 lạng Bán Hạ 2,5 cáp (tẩy)

Nhân Sâm 1,5 lạng Đại Táo 6 trái Sinh Cương 1,5 lạng

Long Cốt 1,5 lạng Mẫu Lệ 1,5 lạng Đại Hoàng 2 lạng

Duyên Đơn 1,5 lạng Quế Chi 1,5 lạng Phục Linh 1,5 lạng

12 vị trên, dùng 8 thăng nước, sắc lấy 4 thăng, cho Đại Hoàng vào (cắt như con cờ) lại sắc sôi vài
dạo, lọc bỏ bả, uống ấm 1 thăng.

BẢN NGHĨA (13/13)

*Thương Hàn vào Tấu làm Hàn Thấp, hoặc chuyển làm Thái Dương Phong Thấp, hoặc Thiếu Âm
Phong Thấp .

- Thương Hàn 8 – 9 ngày: Bản Hàn nhập Tấu làm Hàn Thấp.

- Cho Hạ ngực đầy phiền kinh: Hiệp Thái Dương Tiêu Bản làm Phong Thấp.

- Tiểu tiện không lợi, nói xàm: Hiệp Thiếu Âm Tiêu Bản làm Phong Thấp.

- Cả mình nặng nề không thể xoay trở: Thái Dương Thiếu Âm cùng bệnh.

- Sài Hồ gia Long Cốt Mẫu Lệ thang làm chủ.

(Luận Bản Hàn truyền Kinh tại Tấu làm Thương Hàn Loại xong).

NGUYÊN VĂN (110)

Thương Hàn bụng đầy nói xàm, Thốn Khẩu mạch Phù mà Khẩn, đấy là ‘Can Thừa Tỳ’, gọi là
Tung, châm Kỳ Môn.

Kỳ Môn : 2 huyệt tại đầu vú thẳng xuống 2 thốn (sườn thứ 7) đo ra mỗi bên 2 thốn đấy là Can
mộ huyệt, Hội của Khuyết Âm và Âm Duy, châm vào 4 phân. Châm huyệt này tả được chỗ bất
cập của Sài Hồ thang (huyệt Kỳ Môn là nơi vận chuyển khu cơ Hoành chuyển Tung, Tung chuyển
Hoành.

103
BẢN NGHĨA (13/14)

*Tại Bán Biểu, Thương Hàn Hoành Kinh chuyển sang Tung Kinh.

- Bụng đầy: Túc Âm Kinh Lạc.

- Thiềm ngữ (nói xàm): Thủ Âm Kinh Lạc.

- Mạch Phù mà Khẩn: các Dương Kinh Lạc.

- Đấy là ‘Can thừa Tỳ’: Các Kinh truyền đến chỗ thắng.

- Tại Bán Biểu Kinh đi Hoành như loại Tả Can, Hữu Tỳ. Vào Bán Lý Kinh nó đi Tung, ‘do Hoành
Nhi Tung’ cho nên gọi là Tung.

- Châm Kỳ Môn: hội Huyệt các Kinh.

NGUYÊN VĂN (111)

Thương Hàn phát sốt, gay gay sợ lạnh, đại khát muốn uống nước, bụng đầy, tự đổ mồ hôi,
tiểu tiện lợi là bệnh muốn giải, đấy là ‘Can thừa Phế’, gọi là Hoành, châm Kỳ Môn.

BẢN NGHĨA (13/15)

*Tại Bán Lý, Thương Hàn Tung Kinh chuyển sang Hoành Kinh.

- Phát sốt ,sợ lạnh: Thủ Túc Dương Kinh.

- Đại khát muốn uống nước bụng đầy: Thủ Túc Âm Kinh.

- Tự đổ mồ hôi: do Dương Kinh giải.

- Tiểu tiện lợi: do Âm Kinh giải.

- Đấy là ‘Can thừa Phế’: Các KInh truyền đến chổ không thắng.

- Tại Bán Lý Kinh đi Tung, như Phế Can đi Tung lên xuống, ra Bán Biểu Kinh đi Hoành. ‘ Do Tung
nhi Hoành’ cho nên gọi là Hoành.

- Châm Kỳ Môn: (xem ở trên). Đây là chỗ Trọng Sư giảng Kinh Lạc cực phân minh.

(Thuyết Kinh Lạc Tung Hoành xong).

(Trên đây, chương thứ 13, 15 tiết, giải thích Phong Hàn truyền Tấu phần).

104
CHƯƠNG 14 : THỦ THÁI DƯƠNG KINH KHÍ

(11 Tiết, từ 112 đến 122)

1- Thọ Thái Dương truyền Xung, Nhâm, Đốc.

2- Thọ Thiếu Âm truyền Xung, Nhâm, Đốc.

3- Thọ Thái Dương Bản Hàn tại Biểu đến Lý.

4- Thọ Thiếu Âm Bản Nhiệt tại Lý đến Biểu.

5- Thọ Thái Dương Bản Hàn tại Tấu.

6- Thọ Thiếu Âm Bản Nhiệt tại Tấu.

7- Thọ Thiếu Âm Bản Nhiệt tại Biểu đến Lý.

8- Thọ Thái Dương Bản Hàn tại Lý đến Biểu.

9- Thọ Thái Dương Bản Hàn truyền các Túc Kinh.

10- Thọ Thái Dương Bản Hàn truyền các Thủ Kinh.

11- Thọ Bản Hàn chuyển Bản Nhiệt truyền các Thủ Túc Kinh.

NGUYÊN VĂN (112)

Thái Dương Bệnh 2 ngày, trái lại vật vã, lại dùng lửa chườm lưng làm mồ hôi ra nhiều, Hỏa
Nhiệt nhập Vỵ, trong Vỵ thủy kiệt, phiền táo tất phát nói xàm ; hơn 10 ngày, run rẩy, tự hạ
lợi, đấy là muốn giải,cho nên từ thắt lưng trở xuống mồ hôi không ra được, muốn tiểu tiện
không đi được, trái lại khi nôn muốn són đái, phần dưới chân sợ gió ; đại tiện rắn tiểu tiện
đáng lẽ sác (đi luôn), trái lại không sác mà nhiều, đại tiện rồi đầu đột nhiên đau, lòng bàn
chân nóng là vì Cốc Khí chuyển xuống dưới vậy.

BẢN NGHĨA (14/1)

*Thủ Thái Dương thọ Thái Dương Tiêu Bản truyền Đốc, Xung, Nhâm.

- Thủ Thái Dương thọ Bản Hàn truyền Tiêu Dương 2 ngày, trái lại vật vã.

- Thầy thuốc không biết chứng Hàn truyền Tiêu Dương, lại dùng lửa chườm lưng làm mồ hôi
ra nhiều: Bản Hàn thọ khốn.

105
- Hỏa Nhiệt nhập Vỵ, trong Vỵ thủy kiệt, phiền táo nói xàm: đó là Thủ Thái Dương thọ Tiêu
Dương chuyển đến Bản Nhiệt.

- Hơn 10 ngày, run rẩy, tự hạ lợi, đấy là muốn giải: Bản Hàn truyền Kinh, Tiêu Dương giải, Bản
Nhiệt cũng giải.

- Từ thắt lưng trở xuống không ra mồ hôi, muốn tiểu tiện không đi được: thọ Tiêu Dương
truyền Đốc Kinh.

- Trái lại khi nôn muốn són đái, phần dưới chân sợ gió: thọ Bản Hàn truyền Đốc Kinh.

- Đại tiện rắn, tiểu tiện đáng lẽ sác: thọ Tiêu Dương truyền Nhâm Kinh.

- Trái lại không sác mà nhiều: thọ Bản Hàn truyền Nhâm Kinh.

- Đại tiện rồi, đầu đột nhiên đau: thọ Tiêu Dương truyền Xung Kinh.

- Lòng bàn chân tất nóng là vì Cốc Khí chuyển xuống dưới vậy: thọ Bản Hàn truyền Xung Kinh.

NGUYÊN VĂN (113)

Thái Dương Bệnh Trúng Phong, dùng Hỏa Phát Hãn, Tà Phong bị Hỏa Nhiệt, Huyết Khí chảy
tràn, mất đi độ thường. Hai Dương xông đốt nhau, thân mình phát vàng Dương thịnh thì Nục
huyết (chảy máu cam), Âm hư thì tiểu tiện khó. Âm Dương đều hư kiệt thì thân thể khô khao,
chỉ phần đầu đổ mồ hôi, đến cổ thì hết, bụng đầy hơi suyễn, miệng khô họng lở. Hoặc không
đại tiện, lâu ngày thì nói xàm, nặng thì ọe, tay chân vật vã không yên, lần áo men giường, tiểu
tiện lợi thì người bệnh có thể trị.

BẢN NGHĨA (14/2)

*Thủ Thái Dương thọ Thiếu Âm Tiêu Bản truyền Đốc, Xung, Nhâm Kinh.

- Thái Dương Bệnh Trúng Phong: Thủ Thái Dương Trúng Thiếu Âm Phong.

- Dùng Hỏa cưỡng ép Phát Hãn: Không biết Phát Hãn của Thiếu Âm.

- Tà Phong bị Hỏa Nhiệt: Phong thọ Hàn tại Cơ là Tà, từ Cơ vào Tấu là bị Hỏa Nhiệt.

- Thái Dương Kinh hành Khí, Thiếu Âm Kinh hành Huyết, mất đi độ thường.

- Thái Dương là Dương, Thiếu Âm Nhiệt Khí cũng là Dương,hai Dương xông đốt nhau, thân
mình phát vàng.

106
- Dương Nhiệt thạnh thì muốn Nục, Âm Hàn hư thì tiểu tiện khó.

- Dương Tân Âm Dịch đều hư thì thân thể khô khao.

- Chỉ đầu đổ mồ hôi, đến cổ thì hết: Thái Dương ở trên ra mồ hôi, Thiếu Âm ở dưới không có
mồ hôi.

- Bụng đầy hơi Suyễn: thọ Tiêu Âm.

- Miệng khô họng lở: thọ Bản Nhiệt.

- Hoặc không đại tiện, lâu ngày thì nói xàm: truyền Đốc Kinh.

- Nặng thì ọe, chân tay vật vã không yên, lần áo men giường: truyền Xung Nhâm Kinh.

- Tiểu tiện lợi thì người bệnh có thể trị: thọ Bản Nhiệt, được Bản Hàn truyền Kinh vậy.

*Tiết trên tự hạ lợi là muốn giải, tiết này tiểu tiện lợi có thể trị. Bản Hàn truyền Kinh làm bệnh,
Bản Hàn truyền Kinh cũng khỏi bệnh, Âm Dương biến huyễn bất trắc như thế.

NGUYÊN VĂN (114)

Thương Hàn mạch Phù, thầy thuốc dùng Hỏa bức ép, vong Dương tất Kinh cuồng, nằm dậy
không yên, Quế Chi khứ Thược Dược gia Thục Tất, Mẫu Lệ, Long Cốt Cứu Nghịch thang làm
chủ.

QUẾ CHI KHỨ THƯỢC DƯỢC GIA THỤC TẤT MẪU LỆ LONG CỐT CỨU NGHỊCH THANG PHƯƠNG

Quế Chi 3 lạng Chích Thảo 2 lạng Sinh Cương 3 lạng Đại táo 12 trái

Mẫu Lệ 5 lạng Long Cốt 4 lạng Thục Tất 4 lạng

7 vị trên, dùng 1 đấu 2 thăng nước, trước sắc Thục Tất giảm 2 thăng, cho các thuốc vào sắc lấy 3
thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng.

BẢN NGHĨA (14/3)

*Thủ Thái Dương thọ Bản Hàn tại Biểu vào Lý

- Mạch Phù: tại Biểu.

- Dùng Hỏa bức ép: Bản Hàn nhập Lý.

- Vong Dương là Dương Hàn Vong ở Biểu mà nhập vào Lý.


107
- Kinh cuồng nằm dậy không yên : Bản Hàn nhập Lý nhiểu loạn Bản Nhiệt.

- Quế Chi Cứu Nghịch thang làm chủ: trị Hàn tại Ngoại mà nhập Nội làm nghịch.

NGUYÊN VĂN (115)

Hình tác Thương Hàn, mạch không Huyền Khẩn mà lại Nhược. Mạch Nhược tất khát, bị Hỏa
tất nói xàm, mạch Nhược thì phát sốt, mạch Phù cho giải, mồ hôi ra thì khỏi.

BẢN NGHĨA (14/4)

*Thủ Thái Dương thọ Bản Nhiệt tại Lý ra Biểu.

- Thiếu Âm Bản Nhiệt Khí xuất Ngoại làm Thương Hàn gọi là Hình Tác.

- Thọ Thái Dương Bản Hàn thì mạch Huyền Khẩn, nay không Huyền Khẩn mà lại Nhược là riêng
chỉ Bản Nhiệt làm bệnh.

- Bản Nhiệt tại Cách tất khát, tại Tấu tất nói Xàm, tại Cơ tất phát sốt, tại Bì tất mạch Phù, giải
đi mồ hôi ra thì khỏi.

NGUYÊN VĂN (116)

Thái Dương Bệnh, dùng lửa xông, không ra được mồ hôi, người bệnh tất vật vã, ‘đáo Kinh’
không giải tất tiện huyết, gọi là Hỏa Tà.

BẢN NGHĨA (14/5)

*Thủ Thái Dương thọ Bản Hàn tại Tấu.

- Bản Hàn tại Tấu dùng lửa xông đi, không ra được mồ hôi tất vật vã: Hàn nhập Nhiệt phần.

- ‘Đáo Kinh’ không giải tất tiện huyết: đại tiểu tiện hiệp Tấu Nhiệt hạ Huyết vậy.

- Gọi là Hỏa Tà: Tấu Hỏa thọ Hàn là Hỏa Tà, lại có tên Hỏa nghịch cũng là ý này.

NGUYÊN VĂN (117)

Mạch Phù Nhiệt thậm, trái lại dùng phép cứu. Đấy là Thực, Thực dùng phép trị Hư, nhân Hỏa
mà động, tất yết táo thóa (nhổ) huyết.
108
BẢN NGHĨA (14/6)

*Thủ Thái Dương thọ Bản Nhiệt tại Tấu

- Mạch Phù Nhiệt thậm: Thực Nhiệt.

- Trái lại dùng phép cứu: Chứng Thực Nhiệt mà dùng phép trị Hư Nhiệt.

- Tất yết táo thóa huyết: Hàn vào Dương Nhiệt Kinh tất nục huyết ( chảy máu mũi), Nhiệt vào
Dương Hàn Kinh tất thóa huyết (nhổ ra máu).

NGUYÊN VĂN (118)

Mạch Vi Sác, cẩn thận không thể cứu, nhân Hỏa thành Tà thì làm phiền nghịch, truy Hư trục
Thực, Huyết tán trong mạch, Hỏa Khí tuy nhỏ, sức nội công lớn, xém xương hại gân, Huyết
khó hồi phục.

BẢN NGHĨA (14/7)

*Thủ Thái Dương thọ Bản Nhiệt tại Biểu vào Lý

- Mạch Vi Sác cẩn thận không thể cứu: Phàm Thủ Kinh tại Biểu mạch đều Vi Sác, thọ Thực
Nhiệt không thể cứu vậy.

- Cứu thì nhân Hỏa thành Tà: tại Biểu Hàn phần thọ Hỏa là Tà, dùng Hỏa trị Nhiệt thì phiền
nghịch.

- Cứu là phép trị Hư Hỏa, Bản Nhiệt là Thực Nhiệt, dùng phép trị Hư để truy trục cái Thực của
Bản Nhiệt tất Huyết tán trong mạch.

- Hỏa Khí tuy nhỏ, sức nội công lớn, xém xương hại gân, Huyết khó hồi phục.

*Tại Biểu Hàn phần không thể dùng Hỏa trị Nhiệt ; tại Lý Nhiệt phần há có thể dùng Hỏa trị
Nhiệt sao ?!

NGUYÊN VĂN (119)

Mạch Phù nên Phát Hãn giải, dùng Hỏa cứu, Tà không lối ra, nhân đó Hỏa thịnh, từ thắt lưng
trở xuống tất nặng nề mà tê, gọi là Hỏa nghịch. Muốn tự giải thì trước phải nên phiền rồi có
mồ hôi mà giải. Làm sao biết được ? Vì là mạch Phù nên biết Hãn ra giải vậy.

109
BẢN NGHĨA (14/8)

*Thủ Thái Dương thọ Bản Hàn tại Lý ra Biểu

- Mạch Phù: Bản Hàn tại Biểu.

- Dùng Hỏa cứu đi thì Hàn nhập Lý.

- Nhân đó Hỏa thịnh, từ thắt lưng trở xuống tất nặng mà tê, tên là ‘ Hàn tại Nội cùng với Hỏa
làm nghịch’.

- Muốn cho Nội Hàn xuất Ngoại tất phải nên trước giải Hỏa tại Nội làm phiền, rồi có mồ hôi
mà giải.

- Nhưng, Mạch tất phải Phù, Tà muốn hướng ra ngoài, mới có thể giải vậy.

NGUYÊN VĂN (120)

Thiêu Châm cho ra mồ hôi, chỗ châm bị Hàn, nổi hạch đỏ, tất phát chứng Bôn Đồn, Khí từ
bụng dưới xung lên Tâm, cứu trên hạch đó mỗi hạch 1 tráng, Quế Chi gia Quế thang làm chủ.

QUẾ CHI GIA QUẾ THANG PHƯƠNG

Quế Chi 3 lạng Bạch Thược 3 lạng Cam Thảo 2 lạng

Sinh Cương 3 lạng Đại Táo 12 trái

Gia Quế Chi 2 lạng

5 vị, dùng 7 thăng nước, sắc lấy 3 thăng, lọc bỏ bả, uống ấm 1 thăng.

BẢN NGHĨA (14/9)

*Thủ Thái Dương thọ Bản Hàn truyền các Túc Kinh

- Thiêu Châm cho ra mồ hôi: Nhiệt Kinh có thể làm cho ra mồ hôi, Hàn Kinh không thể làm

cho ra mồ hôi.

- Chỗ châm bị Hàn: Túc Thái Dương Kinh Bản Hàn.

- Nổi hạch đỏ: Phản ứng của Thủ Thái Dương Kinh Tiêu Dương.

- Bôn đồn, Khí từ bụng dưới xung lên Tâm: các Túc Kinh thọ Hàn truyền, từ dưới mà đi lên.

110
- Cứu trên hạch đó mỗi hạch 1 tráng : cứu chữa sai thất của Thiêu Châm.

- Quế Chi gia Quế thang trị các Túc Kinh thọ Hàn.

NGUYÊN VĂN (121)

Hỏa nghịch cho Hạ, nhân Thiêu châm phiền táo, Quế Chi Cam Thảo Long Cốt Mẫu Lệ thang
làm chủ.

QUẾ CHI CAM THẢO LONG CỐT MẪU LỆ THANG PHƯƠNG

Quế Chi 1 lạng Cam Thảo 2 lạng Long Cốt 3 lạng Mẫu Lệ 3 lạng

4 vị trên tán nhỏ, dùng 5 thăng nước, sắc lấy 2 thăng rưỡi, bỏ bả, uống ấm 8 cáp, ngày 3 lần.

BẢN NGHĨA (14/10)

*Thủ Thái Dương thọ Bản Hàn truyền các Thủ Kinh

- Hỏa nghịch: dùng Hỏa trị Bản Hàn nhập Tấu là nghịch.

- Cho Hạ: dùng Hàn trị Bản Hàn tại Tấu là nghịch.

- Nhân Thiêu châm : dùng phép trị Nhiệt Kinh để trị Hàn Kinh, lại là nghịch.

- Phiền táo: nghịch trị xoay chuyển truyền các Thủ Kinh.

- Quế Chi Cam Thảo Long Cốt Mẫu Lệ thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (122)

Thái Dương Thương Hàn gia Thiêu châm tất ‘Kinh’ (sợ).

BẢN NGHĨA (14/11)

*Thủ Thái Dương Thương Hàn chuyển làm Nhiệt Bệnh truyền các Thủ Túc Kinh.

- Thái Dương không nói ‘Bệnh’ : Thương Hàn đã truyền làm Nhiệt Bệnh.

- Gia Thiêu châm tất Kinh : Thủ Thái Dương Hàn Kinh dùng Hàn trị nó tất truyền các Thủ Túc
Kinh mà thành chứng ‘Kinh’ (sợ).

(Trên đây, chương thứ 14, 11 tiết, giải thích Thủ Thái Dương Kinh Khí).
111
THƯƠNG HÀN LUẬN QUYỂN III
____________________________________________

LUẬN MẠCH CHỨNG BỆNH THÁI DƯƠNG – THIÊN HẠ


(7 chương, từ 15 đến 21)

CHƯƠNG 15 : TÚC THÁI DƯƠNG LẠC

(8 Tiết, từ 123 đến 130)

1- Lạc thọ chư Âm Dương tại Tấu.

2- Lạc thọ Âm Hàn chuyển Dương Nhiệt tại Cách.

3- Lạc thọ Dương Nhiệt chuyển Âm Hàn tại Cách.

4- Lạc thọ Âm Nhiệt chuyển Dương Hàn tại Đới.

5- Lạc thọ Dương Hàn chuyển Âm Nhiệt tại Đới.

6- Lạc thọ Âm Nhiệt truyền Xung Nhâm Kinh.

7- Lạc thọ Âm Nhiệt truyền Đốc Kinh.

8- Lạc thọ Dương Hàn truyền tam Kỳ Kinh.

NGUYÊN VĂN (123)

Thái Dương Bệnh đáng lý sợ lạnh phát sốt, nay tự đổ mồ hôi không sợ lạnh phát sốt, bộ Quan
mạch Tế Sác là bởi thầy thuốc dùng phép Thổ sai lầm. Bệnh 1 - 2 ngày dùng phép Thổ, trong
bụng đói, miệng không ăn được. Bệnh 3 – 4 ngày dùng phép Thổ, không ưa cả cháo lại muốn
ăn thức lạnh ; sớm ăn tối mừa vì thầy thuốc dùng phép thổ gây nên. Đấy là tiểu nghịch.

BẢN NGHĨA (15/1)

*Túc Thái Dương Lạc tại Tấu thọ chư Âm Dương

- Đáng lý sợ lạnh phát sốt: Kinh Khí bệnh.

- Nay tự đổ mồ hôi không sợ lạnh phát sốt: Lạc bệnh.

112
- Bộ Quan mạch Tế Sác: Âm Nhiệt hư , lại là Dương Nhiệt hư, mạch của Túc Thái Dương Lạc hư,
là bởi thầy thuốc dùng phép Thổ sai lầm mà Lạc hư vậy.

- Bệnh 1 - 2 ngày dùng phép Thổ là thổ tại Dương Kinh.

- Trong bụng đói miệng không ăn được: thọ Dương Nhiệt lại thọ Dương Hàn.

- Bệnh 3 - 4 ngày dùng phép Thổ là thổ tại Âm Kinh.

- Không ưa cháo lại muốn ăn thức lạnh: thọ Âm Nhiệt.

- Sớm ăn tối mửa: lại thọ Âm Hàn.

- Đấy bởi không biết Túc Thái Dương Lạc thọ Hàn là tiểu nghịch vậy.

NGUYÊN VĂN (124)

Thái Dương Bệnh cho Thổ, chỉ Thái Dương Bệnh đáng lý sợ lạnh, nay trái lại không sợ lạnh,
không muốn mặc áo, đấy là vì cho Thổ sinh nội phiền vậy.

BẢN NGHĨA (15/2)

*Túc Thái Dương Lạc tại Cách thọ Âm Hàn chuyển Dương Nhiệt.

- Túc Thái Dương Lạc thọ Âm Hàn đáng lý sợ lạnh, trái lại không sợ lạnh, không muốn mặc áo,
như thế là chuyển Dương Nhiệt.

- Đấy là vì cho Thổ sinh Nội phiền: nói Dương Nhiệt động đến Âm Nhiệt vậy.

NGUYÊN VĂN (125)

Bệnh nhân mạch Sác, Sác là Nhiệt, đáng lẽ tiêu cốc dẫn thực mà trái lại mửa, đó là vì Phát Hãn
làm cho Dương Khí vi, Cách Khí hư, mạch bèn Sác. Sác là Khách Nhiệt không tiêu cốc được, vì
trong Vỵ hư lạnh cho nên mửa vậy.

BẢN NGHĨA (15/3)

*Túc Thái Dương Lạc tại Cách thọ Dương Nhiệt chuyển Âm Hàn.

- Sác là mạch của Dương Nhiệt.

113
- Đáng lẽ tiêu cốc mà lại mửa là cớ gì? Đây là Thái Dương chủ Khí tại Cách do bởi Hãn mà hư,
cho nên Cách Khí hư, mạch bèn Sác.

- Sác là Khách Khí của Dương Nhiệt, không tiêu cốc được.

- Dương Nhiệt chuyển Âm Hàn là thọ Bản Hàn truyền Kinh , cho nên trong Vỵ lạnh mà mửa.

*Dương Nhiệt đối với Dương Hàn là ‘Tỳ’, đối với Âm Nhiệt thì là ‘Khách’. Toàn sách lấy Bản Hàn
Bản Nhiệt làm chủ.

NGUYÊN VĂN (126)

Thái Dương Bệnh quá Kinh hơn 10 ngày, dưới Tâm nôn nao muốn mửa, mà trong ngực đau,
đại tiện trái lại nát, bụng hơi đầy, uất uất hơi phiền. Trước lúc đó, (trước khi tự ‘cực thổ hạ’)
có thể dùng Điều Vỵ Thừa Khí thang. Nếu không như thế không thể dùng. Chỉ muốn nôn,
trong bụng đau, phân hơi nát, đấy không phải là chứng Sài Hồ ; vì có chứng nôn, nên biết có
chứng ‘cực thổ hạ’ vậy.

BẢN NGHĨA (15/4)

*Túc Thái Dương Lạc tại Đái thọ Âm Nhiệt chuyển Dương Hàn

- Thái Dương Bệnh quá Kinh hơn 10 ngày: Túc Thái Dương Lạc tại Cách đến Đái.

- Nôn nao muốn mửa, trong ngực đau, đại tiện nát, bụng hơi đầy, uất uất hơi phiền: Đái
phần Lạc thọ Âm Nhiệt chuyển Dương Hàn.

- Trước khi tự ‘cực thổ Hạ’: là chứng Âm Hàn chuyển Dương Hàn.

- Trước lúc đó là Âm Nhiệt chuyển Dương Nhiệt có thể dùng Điều Vỵ Thừa Khí thang.

- Nếu không như thế không thể dùng : vì là Âm Nhiệt chuyển Dương Hàn ; chỉ muốn nôn,
trong bụng đau, phân hơi nát ấy là chứng của nó , chẳng phải là chứng Sài Hồ của Dương
phần Hàn Nhiệt.

- Vì Âm Nhiệt chuyển Dương Hàn có chứng nôn, cho nên biết Âm Hàn chuyển Dương Hàn tất
có chứng cực thổ hạ.

114
NGUYÊN VĂN (127)

Thái Dương Bệnh 6 – 7 ngày, Biểu chứng vẫn còn, mạch Vi mà Trầm, trái lại không Kết Hung,
người bệnh phát cuồng vì Nhiệt tại hạ tiêu, bụng dưới nên rắn đầy, tiểu tiện tự lợi, hạ huyết
thì khỏi. Sở dĩ như thế, vì Thái Dương tùy Kinh ứ Nhiệt tại Lý, Để Đáng thang làm chủ.

ĐỂ ĐÁNG THANG PHƯƠNG

Thủy điệt 30 con (rang) Manh Trùng 30 con (bỏ cánh chân rang)

Đào Nhân 20 hạt (bỏ vỏ và đầu nhọn) Đại Hoàng 3 lạng (rửa rượu)

4 vị trên, tán nhỏ, dùng 5 thăng nước, sắc lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, không hạ (xổ) lại
uống.

BẢN NGHĨA (15/5)

*Túc Thái Dương Lạc tại Đái thọ Dương Hàn chuyển Âm Nhiệt.

- 6 -7 ngày Biểu chứng vẫn còn: Dương Hàn vẫn tại Tấu.

- Tại Tấu Thiếu Âm thọ Hàn cho nên mạch Vi, Thái Dương tại Tấu cho nên Trầm.

- Thái Dương Thiếu Âm đồng tại Tấu nên Kết Hung, trái lại không Kết, người bệnh phát cuồng
vì Nhiệt tại Hạ tiêu.

- Bụng dưới nên rắn đầy: do Tấu vào Đái, Thái Dương chuyển Thiếu Âm.

- Tiểu tiện tự lợi, hạ Huyết thì khỏi: tại Đái Thiếu Âm chuyển Thái Dương.

- Sở dĩ như thế, (Bàng Quang vì sao Súc Huyết) là vì Túc Thái Dương Lạc tùy Bản Kinh, nhập Lý
ứ Nhiệt, Để Đáng thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (128)

Thái Dương Bệnh mình vàng, mạch Trầm Kết, bụng dưới rắn, tiểu tiện không lợi là ‘vô huyết’.

Còn như tiểu tiện tự lợi, người bệnh như cuồng đích xác là huyết chứng, Để Đáng thang làm
chủ.

115
BẢN NGHĨA (15/6)

*Túc Thái Dương Lạc thọ Âm Nhiệt truyền Xung Nhâm Kinh

- Mình vàng: Lạc thọ Thiếu Âm Huyết hành ở Ngoại.

- Mạch Trầm Kết: Lạc thọ Thiếu Âm Huyết Súc ở Nội.

- Bụng dưới rắn: truyền Xung Nhâm Kinh.

- Tiểu tiện không lợi: Thủy Kết mà Huyết không Kết.

- Tiểu tiện tự lợi, người bệnh như cuồng: Thủy không kết mà Huyết Kết.

- Để Đáng thang làm chủ: Thủy làm cho Huyết Kết nên dùng Bản phương, Huyết làm cho Thủy
Kết nên dùng Đào Nhân Thừa Khí thang.

*Thọ Bản Hàn, tiểu tiện không lợi là Huyết không Kết. Thọ Bản Nhiệt, tiểu tiện tự lợi là Huyết
Kết.

NGUYÊN VĂN (129)

Thương Hàn có Nhiệt, bụng dưới đầy, ưng tiểu tiện không lợi, giờ trái lại lợi là có Huyết, phải
nên cho Hạ, không thể ‘dư dược’, nên dùng Để Đáng hoàn.

ĐỂ ĐÁNG HOÀN PHƯƠNG

Thủy điệt 20 con (rang) Manh trùng 20 con (rang bỏ cánh)

Đào Nhân 20 hạt (bỏ vỏ) Đại Hoàng 2 lạng (tẩm rượu)

4 vị trên, giã ra, làm thành 4 hoàn, dùng 1 thăng nước đun 1 hoàn còn 7 cáp uống, trong 1 ‘tốt
thời’ (ngày đêm = 12 thời) phải nên hạ Huyết. Nếu không hạ lại uống lần nữa.

BẢN NGHĨA (15/7)

*Túc Thái Dương Lạc thọ Âm Nhiệt truyền Đốc Kinh.

- Có Nhiệt bụng dưới đầy: Túc Lạc thọ Bản Nhiệt.

- Ưng tiểu tiện không lợi, giờ trái lại lợi là có Huyết : Nhiệt Huyết Kết Lạc rồi truyền Đốc Kinh.

- Cho Hạ không thể ‘dư dược’: không thể quá nhiều, không thể quá ít.

116
- Để Đáng Hoàn dùng vừa đủ chỗ bệnh mà thôi.

*Huyết Kết Xung Nhâm nên dùng thang, Huyết Kết Đốc Kinh nên dùng hoàn. Đấy là pháp vậy.

NGUYÊN VĂN (130)

Thái Dương Bệnh, tiểu tiện lợi vì uống nước nhiều, tất dưới Tâm quí (hồi hộp) ; tiểu tiện ít tất
khổ Lý cấp.

BẢN NGHĨA (15/8)

*Túc Thái Dương Lạc thọ Dương Hàn truyền 3 Kỳ Kinh

- Tiểu tiện lợi là thọ Bản Hàn truyền Kinh.

- Uống nước nhiều tất dưới Tâm Quí: Túc Lạc truyền các Kỳ Kinh.

- Tiểu tiện ít tất khổ Lý cấp: thọ Hàn truyền tất có Nhiệt chuyển.

(Trên đây, chương thứ 15, 8 tiết, giải thích Túc Thái Dương Lạc).

117
CHƯƠNG 16 : PHONG HÀN TRUYỀN TẤU BÁN LÝ

(14 Tiết, từ 131 đến 144)

1- Phong Hàn nhập Tấu Bán Lý thượng phần Kết Hung.

2- Phong Hàn nhập Tấu Bán Lý trung phần Tạng Kết.

3- Phong Hàn nhập Tấu Bán Lý hạ phần Tạng Kết.

4- Thái Dương Thiếu Âm làm Kết Hung làm Bĩ.

5- Bán Lý với Cách Đới đều Kết Hung.

6- Thái Dương nhập Bán Lý cùng với Thiếu Âm Kết Hung.

7- Thiếu Âm tại Bán Lý với Thái Dương Kết Hung.

8- Thái Dương Thiếu Âm mỗi Kinh tự làm Kết Hung.

9- Thái Dương Thiếu Âm hiệp nhau làm Kết Hung.

10- Bản Nhiệt, Tiêu Dương làm tiểu Kết Hung.

11- Bản Hàn, Tiêu Âm hoặc Kết hoặc không Kết.

12- Chư Lạc Kết tại Tấu Bán Lý.

13- Chư Khí Kết tại Tấu Bán Lý.

14- Chư Kinh Kết tại Tấu Bán Lý.

NGUYÊN VĂN (131)

Hỏi rằng : Bệnh có Kết Hung, có Tạng Kết, chứng trạng như thế nào ?

Đáp rằng : Ấn vào đau, mạch Thốn Phù, mạch Quan Trầm, gọi là Kết Hung.

BẢN NGHĨA (16/1)

*Phong Hàn nhập Tấu Bán Lý thượng phần Kết Hung.

- Thái Dương Bản Hàn truyền Kinh nhập Tấu Bán Lý cùng với Thiếu Âm Bản Nhiệt ‘tương kết’
cho nên ấn vào đau.

118
- Thiếu Âm Bản Nhiệt mạch thấy Phù ở Thốn khẩu; Thái Dương Bản Hàn mạch thấy Trầm ở
Quan là Hàn với Nhiệt kết tại Tấu Bán Lý thượng phần.

- Gọi là Kết Hung: tại Cách thượng vậy.

NGUYÊN VĂN (132)

Sao gọi là Tạng Kết ?

Đáp rằng : như trạng Kết Hung, ăn uống như thường, thỉnh thoảng hạ lợi, mạch Thốn Phù,
mạch Quan Tiểu Trầm Khẩn, tên là Tạng Kết, trên lưỡi trắng, rêu trơn là khó trị.

BẢN NGHĨA (16/2)

*Phong Hàn nhập Tấu Bán Lý trung phần Tạng Kết

- Kết Hung: tại Cách.

- Tạng Kết: Dưới Cách trên Đái.

- Ăn uống như thường: tại Đái.

- Thỉnh thoảng hạ lợi: tại Cách.

- Mạch Thốn Phù: Bản Nhiệt.

- Mạch Quan Tiểu Trầm Khẩn: Bản Hàn.

- Trên lưỡi trắng: Bản Hàn.

- Rêu trơn: Bản Nhiệt.

- Khó trị: Cách với Đái cùng bệnh, Hàn Nhiệt cùng Kết.

NGUYÊN VĂN (133)

Tạng Kết không có Dương chứng, không nóng lạnh qua lại, người bệnh trái lại yên tĩnh, trên
lưỡi rêu trơn, không thể công.

119
BẢN NGHĨA (16/3)

*Phong Hàn nhập Tấu Bán Lý hạ phần Tạng Kết

- Tạng Kết không có Dương chứng: không có chứng Dương Hàn Dương Nhiệt tại Đái hạ.

- Không nóng lạnh qua lại: không bệnh tại Tấu.

- Người bệnh trái lại yên tĩnh : không bệnh tại Cách.

- Trên lưỡi rêu trơn: Âm Hàn Âm Nhiệt Kết tại Đái mà bệnh hiện ra ở trên.

- Không thể công: Bởi thượng hạ cùng bệnh.

NGUYÊN VĂN (134)

Bệnh phát ở Dương mà trái lại cho Hạ, Nhiệt nhập vào, nhân đó làm Kết Hung ; bệnh phát ở
Âm mà trái lại cho Hạ, nhân đó làm Bĩ. Sở dĩ thành Kết Hung là bởi Hạ quá sớm. Kết Hung thì
gáy cũng cứng như trạng Nhu Kỉnh, cho Hạ thì hòa, nên dùng Đại Hãm Hung hoàn.

ĐẠI HÃM HUNG HOÀN PHƯƠNG

Đại Hoàng ½ cân Đình Lịch ½ thăng (rang)

Mang Tiêu ½ thăng Hạnh Nhân ½ thăng (bỏ vỏ, đầu nhọn)

4 vị trên, giã rây 2 vị rồi hiệp với Mang Tiêu, Hạnh Nhân nghiền nát như mỡ hòa với tán, viên
bằng viên đạn. Giã riêng bột Cam Toại 1 thìa nhỏ. Bạch Mật 2 cáp, nước 2 thăng, sắc lấy 1
thăng, uống ấm hết 1 lần. Qua 1 đêm sẽ hạ, nếu chưa hạ uống lần nữa, lấy hạ được làm hiệu,
cấm kỵ như phép uống thang.

BẢN NGHĨA (16/4)

*Nguyên do Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu Bán Lý làm Kết Hung, làm Bĩ.

- Dương là Thái Dương tại Ngoại,trái lại cho Hạ quá sớm, nhập Tấu cùng với Thiếu Âm làm Kết
Hung.

- Âm là Thiếu Âm tại Tấu, trái lại cho Hạ nhân đó làm Bĩ.

- Kết Hung là Dương chứng gáy cứng; Bĩ là Âm chứng gáy cũng cứng như trạng Nhu Kỉnh.

- Cho Hạ thì Hòa: khiến cho Thái Dương Thiếu Âm hòa vậy. Nên dùng Đại Hãm Hung Hoàn
phương.
120
NGUYÊN VĂN (135)

Chứng Kết Hung mạch Phù Đại không thể Hạ, cho Hạ thì chết ; chứng Kết Hung đầy đủ, phiền
táo cũng chết.

BẢN NGHĨA (16/5)

*Chứng Kết Hung tại Tấu Bán Lý cùng với chứng tại Cách, tại Đái.

- Chứng Kết Hung mạch Phù Đại: từ Đái đến Cách, dùng phương Hãm Hung cho Hạ thì chết.

- Chứng Kết Hung đầy đủ là do Tấu đến Cách phiền táo cũng chết.

*Nói Bán Lý cùng với Cách Đái bức cận nhau, đều là chứng chết vậy.

NGUYÊN VĂN (136)

Thái Dương Bệnh, mạch Phù mà Động Sác. Phù là Phong, Sác là Nhiệt, Động là đau, Sác là hư.
Đầu đau phát sốt, hơi đổ mồ hôi trộm, mà trái lại sợ lạnh là Biểu chưa giải. Thầy thuốc trái lại
cho Hạ, mạch Động Sác biến ra Trì, trong Cách cự thống, trong Vỵ hư trống, khách Khí động
Cách, đoản khí phiền táo, trong Tâm áo nùng, Dương Khí hãm vào trong, dưới Tâm nhân đó
rắn làm Kết Hung. Đại Hãm Hung thang làm chủ. Nếu không Kết Hung, chỉ đổ mồ hôi đầu, các
chỗ khác không có mồ hôi, đến cổ thì hết, tiểu tiện không lợi, mình tất phát vàng.

ĐẠI HÃM HUNG THANG PHƯƠNG

Đại Hoàng 6 lạng Mang Tiêu 1 thăng Cam toại 1 đồng tiền xúc

3 vị trên, dùng 6 thăng nước, trước sắc Đại Hoàng lấy 2 thăng, bỏ bả, cho Mang Tiêu vào nấu sôi
1 – 2 dạo, cho bột Cam toại vào uống ấm 1 thăng. Đại tiện được khoái lợi thì thôi không uống
lần sau.

BẢN NGHĨA (16/6)

*Thái Dương nhập Tấu Bán Lý với Thiếu Âm Kết

- Mạch Phù mà động Sác: mạch tại Tấu.

- Phù là Phong: Thái Dương bị Phong, Thiếu Âm cũng bị Phong.

- Sác là Nhiệt: Thiếu Âm Nhiệt Khí chủ Tấu.

- Động là đau: Thái Dương Hàn Khí vào đánh nhau.

121
- Sác là hư: Thiếu Âm Nhiệt Khí hư.

- Đầu đau phát sốt: Phong Hàn.

- Hơi đổ mồ hôi trộm: Thiếu Âm Nhiệt hư, Thái Dương ‘đạo chi’ (trộm nó) mà ra.

- Trái lại sợ lạnh: Dương Hàn thực tại Tấu.

- Thầy thuốc trái lại cho Hạ: thất trị vậy.

- Động Sác biến ra Trì: Âm Nhiệt hư bị Dương Hàn biến thành ra Trì.

- Trong Cách cự thống: Tà tại Bán Lý nhập Cách.

- Trong Vỵ hư trống, khách Khí động Cách: Vỵ Khí chủ Cách, hư.

- Đoản Khí phiền táo: Dương nhập Âm.

- Trong Tim áo nùng: Hàn nhập Nhiệt.

- Từ Tấu vào Cách,từ Cách vào Vỵ,không thể ngăn chặn,Dương Hàn Hãm vào trong, kết rắn,
đấy là Kết Hung, Đại Hãm Hung thang làm chủ.

- Nếu không Kết Hung tại Tấu phần giữa:

. Chỉ đổ mồ hôi đầu: Kết tại Tấu phần trên.

. Tiểu tiện không lợi mình tất phát vàng: Kết tại Tấu phần dưới.

. Nói không Kết tại Hung mà tan ở trên dưới, bốn bên vậy.

NGUYÊN VĂN (137)

Thương Hàn 6 – 7 ngày, Kết Hung Nhiệt thực, mạch Trầm mà Khẩn, dưới Tâm đau án tay vào
rắn như đá, Đại Hãm Hung thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (16/7)

*Thiếu Âm tại Tấu Bán Lý cùng với Thái Dương Kết.

- 6 -7 ngày: ngày Biểu Lý giao giới.

- Kết Hung Nhiệt thực: Thái Dương thực, Thiếu Âm cũng thực.

- Mạch Trầm Khẩn: nói Hàn Nhiệt thực.


122
- Trầm mà Khẩn: nói Hàn Nhiệt của cả hai Thái Dương Thiếu Âm đều thực.

- Dưới Tâm đau, án tay vào rắn như đá: mạch thực chứng cũng thực.

- Đại Hãm Hung thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (138)

Thương Hàn hơn 10 ngày, Nhiệt Kết tại Lý, lại Hàn Nhiệt vãng lai, dùng Đại Sài Hồ thang. Chỉ
Kết Hung không nóng lắm, đây là Thủy Kết tại Hung Hiếp ‘câu vô ’ (đều không), chỉ đầu ra mồ
hôi, Đại Hãm Hung thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (16/8)

*Tại Tấu Bán Lý Thái Dương Thiếu Âm mỗi mỗi tự Kết .

- Nhiệt Kết tại Lý: tại Lý Thiếu Âm Tiêu Bản tự Kết.

- Lại Hàn Nhiệt vãng lai: Thái Dương Tiêu Bản tự Kết.

- Dùng Đại Sài Hồ thang: Nội Ngoại tự làm Kết bất đồng, nhưng đồng phép trị.

- Chỉ Kết Hung, không nóng lắm, đây là Thái Dương Hàn Thủy tự Kết tại Hung Hiếp.

- ‘Câu vô’(đều không)là: tại Tấu không‘Bản Hàn truyền Kinh’, đều không ‘Bản Nhiệt chuyển hệ’.

- Chỉ đầu đổ mồ hôi: đó là Thiếu Âm Nhiệt Khí tự Kết tại đầu.

- Đại Hãm Hung thang làm chủ: Thượng Hạ tự làm Kết bất đồng, nhưng đồng phép trị.

NGUYÊN VĂN (139)

Thái Dương Bệnh trùng Phát Hãn mà lại cho Hạ, không đại tiện 5 – 6 ngày, trên lưỡi ráo mà
khát, xế qua có chút Triều Nhiệt, từ dưới Tâm đến bụng dưới rắn đầy, đau không thể sờ
được, Đại Hãm Hung thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (16/9)

*Thái Dương Thiếu Âm tương hiệp làm Kết Hung.

- Thái Dương Bệnh trùng phát Hãn: Thái Dương Thiếu Âm hiệp tại Biểu.

123
- Mà lại cho Hạ: Thái Dương Thiếu Âm hiệp tại Lý.

- Không đại tiện 5 - 6 ngày: Thái Dương Thiếu Âm hiệp tại Đái.

- Trên lưỡi ráo mà khát: Thái Dương Thiếu Âm hiệp tại Cách.

- Xế qua có chút Triều Nhiệt: Thái Dương Thiếu Âm hiệp tại Bán Biểu.

- Từ dưới Tâm đến bụng dưới rắn đầy, đau không thể sờ được: Thái Dương Thiếu Âm hiệp tại
Bán Lý. Đại Hãm Hung thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (140)

Bệnh Tiểu Kết Hung, chính tại dưới Tâm, đè vào thì đau, mạch Phù Hoạt, Tiểu Hãm Hung
thang làm chủ.

TIỂU HÃM HUNG THANG PHƯƠNG

Hoàng Liên 1 lạng Bán Hạ ½ thăng Quát Lâu Thực 1 quả lớn

3 vị trên, dùng 6 thăng nước, trước sắc Quát Lâu lấy 3 thăng, bỏ bả, nạp các thuốc vào, sắc lấy 2
thăng, bỏ xác, chia uống ấm 3 lần.

BẢN NGHĨA (16/10)

*Tiêu Dương Bản Nhiệt làm Tiểu Kết Hung.

- Tiểu Kết Hung: là chỉ Nhiệt Khí Kết.

- Chính tại dưới Tâm: Nhiệt Khí không truyền Kinh.

- Đè vào thì đau: Dương Nhiệt Âm Nhiệt tương kết.

- Mạch Phù Hoạt: chỉ Nhiệt Khí.

- Tiểu Hãm Hung thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (141)

Thái Dương Bệnh 2 – 3 ngày không nằm được, chỉ muốn dậy, dưới Tâm tất Kết ; mạch Vi
Nhược, đấy là vốn có Hàn phần, trái lại cho Hạ, nếu lợi dứt, tất làm Kết Hung ; lợi chưa dứt,
qua 4 ngày lại cho Hạ, đấy là làm ‘hiệp Nhiệt lợi’.
124
BẢN NGHĨA (16/11)

*Bản Hàn Tiêu Âm hoặc Kết hoặc không Kết

- Thái Dương Bệnh: Bản Hàn.

- 2 - 3 ngày không nằm được, chỉ muốn dậy: Bản Hàn truyền Dương Nhiệt mà Âm Nhiệt ứng
theo.

- Dưới Tâm tất Kết: Thái Dương Thiếu Âm Kết Hung.

- Mạch Vi Nhược: Bản Hàn ly khai Âm Nhiệt.

- Đấy là vốn có Hàn phần: Bản Hàn vãng tòng (đi theo) Âm Hàn.

- Trái lại cho Hạ, nếu lợi dứt tất làm Kết Hung: Bản Hàn hiệp Âm Nhiệt thì lợi dứt mà Kết Hung.

- Lợi chưa dứt qua 4 ngày lại cho Hạ, đấy là làm ‘ hiệp Nhiệt lợi’ : Bản Hàn hiệp Âm Hàn.

*Rời đó thì hiệp đây, rời đây thì hiệp đó, biết được như thế thì hiệp tình trạng của Âm Dương
vậy.

NGUYÊN VĂN (142)

Thái Dương Bệnh cho Hạ, mạch Xúc thì không Kết Hung, đó là muốn giải. Mạch Phù tất Kết
Hung, mạch Khẩn tất Yết đau, mạch Huyền tất 2 bên sườn câu cấp, mạch Tế Sác là đầu đau
chưa dứt, mạch Trầm Khẩn tất muốn nôn, mạch Trầm Hoạt là hiệp Nhiệt lợi, mạch Phù Hoạt
tất hạ Huyết.

BẢN NGHĨA (16/12)

*Chư Lạc Kết tại Tấu Bán Lý

- Thái Dương Bệnh cho Hạ ,mạch Xúc: Thái Dương hướng Ngoại không vào Nội hiệp với Thiếu
Âm. Cho nên không Kết Hung mà muốn giải.

- Mạch Phù: Khí Thiếu Âm hướng Ngoại hiệp với Thái Dương tất làm Kết Hung.

- Mạch Khẩn tất Yết đau: Âm Nhiệt Lạc thọ Hàn.

- Mạch Huyền tất 2 bên sườn câu cấp: Âm Hàn Lạc thọ Nhiệt.

- Mạch Tế Sác là đầu đau chưa dứt: Dương Nhiệt Lạc thọ Hàn.

125
- Mạch Trầm Khẩn tất muốn nôn: Dương Hàn Lạc thọ Nhiệt.

- Mạch Trầm Hoạt là ‘hiệp Nhiệt lợi’: chư Hàn Lạc thọ Nhiệt.

- Mạch Phù Hoạt tất Hạ Huyết: chư Nhiệt Lạc thọ Hàn.

*Tỉ mỉ tìm tòi, xem xét mạch pháp Bản luận, tất nắm được vậy.

NGUYÊN VĂN (143)

Bệnh tại Dương, nên dùng phép Hãn cho giải, trái lại dùng nước lạnh để phun và xối, Nhiệt bị
át không ra được, như thế lại càng thêm phiền, trên da nổi mụn, ý muốn uống nước trái lại
không khát, cho uống Văn Cáp tán ; nếu không bớt dùng Ngũ Linh tán. Hàn thực Kết Hung
không Nhiệt chứng, dùng Tam vật Tiểu Hãm Hung thang, Bạch tán cũng uống được.

VĂN CÁP TÁN PHƯƠNG

Văn cáp 5 lạng : 1 vị trên làm tán, dùng thang nước sôi hòa 1 đồng tiền xúc uống, thang dùng 5
cáp.

BẠCH TÁN PHƯƠNG

Cát Cánh 3 phân Bối Mẫu 3 phân

Bả đậu 1 phân (bỏ vỏ và tim rang đen, nghiền như mỡ)

3 vị trên làm tán, nạp Bả đậu vào cối giã, trộn lẫn, dùng nước đun sôi hòa uống. Người mạnh
uống ½ đồng tiền xúc, người yếu giảm bớt, Bệnh tại Cách thượng tất thổ (mửa), tại Cách hạ tất
lợi (ỉa), không lợi thì ăn một bát cháo nóng, lợi quá không dứt thì ăn một bát cháo nguội. Mình
lạnh, mụn trên da không giải, muốn kéo chăn tự đắp ; nếu dùng nước để phun, để xối càng
khiến cho Nhiệt bị át không ra được, đáng phải Hạn mà không Hạn thì phiền. Giả như mồ hôi ra
rồi, trong bụng đau dùng Thược Dược 3 lạng, như phép trước.

BẢN NGHĨA (16/13)

*Chư Khí Kết tại Tấu Bán Lý

- Bệnh tại Dương: tại Thái Dương Hàn Khí.

126
- Nên dùng phép Hãn cho giải: nên vậy.

- Trái lại dùng nước lạnh để phun và xối: trị không đúng, Âm Nhiệt bị Dương Hàn át không ra
được, như thế lại càng thêm phiền.

- Trên da nổi mụn: gọi là Ban chẩn (sởi).

- Ý muốn uống nước: Âm Nhiệt; trái lại không khát: bị bế bởi Dương Hàn.

- Văn Cáp Tán : chỉ trị Dương Nhiệt.

- Ngũ Linh Tán: kiêm trị Dương Nhiệt Dương Hàn Kết tại Đái.

- Hàn thực kết Hung: Âm Phần Hàn Nhiệt Kết.

- Không Nhiệt chứng: không chứng Kết của Dương phần Hàn Nhiệt.

- Tam Vật Tiểu Hãm Hung thang: chỉ trị Âm Nhiệt Kết.

- Bạch Tán cũng uống được: kiêm trị Âm phần Hàn Nhiệt Kết tại Cách.

NGUYÊN VĂN (144)

Thái Dương với Thiếu Dương ‘Tinh bệnh’, đầu gáy cứng đau, hoặc huyễn mạo (mắt tối đầu
nặng), có lúc như Kết Hung, dưới Tâm Bĩ rắn, nên châm huyệt Đại Chùy (đốt thứ nhất), Phế
Du, Can Du. Cẩn thận không thể Phát Hãn, Phát Hãn thì nói xàm mạch Huyền ; 5 – 6 ngày nói
xàm không dứt, châm Kỳ Môn.

- Đại Chùy, 1 huyệt, tại trên đốt sống thứ nhất trong lõm, hội của Thủ Túc tam Dương và Đốc
mạch, châm sâu 5 phân, lưu 3 hô, tả 5 hấp.

- Phế Du, 2 huyệt, tại dưới đốt sống thứ 3, 2 bên cách tuyến giữa 1 thốn 5 phân, chỗ phát của
Túc Thái Dương mạch Khí, châm 3 phân, lưu 7 hô, đắc khí thì tả, người mập có thể châm sâu
5 phân.

- Can Du, 2 huyệt, tại dưới đốt sống thứ 9, 2 bên cách tuyến giữa 1 thốn 5 phân, châm 5
phân, lưu 6 hô.

BẢN NGHĨA (16/14)

*Chư KInh Kết tại Tấu Bán Lý.

- ‘Tinh’ là 3 Dương ‘tinh nhập’ 3 Âm.

127
- Đầu gáy cứng đau: chư Dương Kinh Kết tại đầu gáy.

- Huyễn mạo: chư Âm Kinh Kết tại đầu gáy.

- Có lúc như Kết Hung: chư Dương Kinh Kết tại Hung.

- Dưới Tâm Bĩ rắn: chư Âm Kinh Kết tại dưới Tâm.

- Châm Đại Chùy (đốt thứ nhất) : trị Dương Kinh.

- Châm Phế Du, Can Du: trị Âm Kinh.

- Cẩn thận không thể Phát Hãn: bệnh nhập Kinh.

- Phát Hãn thì nói xàm, mạch Huyền: chư Âm Dương Kinh Kết tại Hung thượng (trên Hung).

- 5 -6 ngày nói xàm không dứt: chư Âm Dương Kinh Kết tại Hung hạ (dưới Hung ).

- Châm Kỳ Môn: Huyệt hội của chư Âm Dương Kinh.

(Trên đây, chương thứ 16, 14 tiết, giải thích Phong Hàn truyền Tấu Bán Lý).

128
CHƯƠNG 17 : THỦ THIẾU DƯƠNG KINH LẠC

(6 Tiết, từ 145 đến 150)

1- Thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Biểu vào Lý.

2- Thọ Thái Dương tại Biểu vào Lý.

3- Thọ Thiếu Âm tại Biểu vào Lý.

4- Thọ Thái Dương tại Lý ra Biểu.

5- Thọ Thiếu Âm tại Lý ra Biểu.

6- Thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Lý ra Biểu.

NGUYÊN VĂN (145)

Đàn bà Trúng Phong, phát sốt sợ lạnh, vừa lúc Kinh Thủy đến, mắc bệnh đã 7 – 8 ngày, Nhiệt
trừ mà mạch Trì mình mát, ngực hông đầy như trạng Kết Hung, nói xàm ; đấy là Nhiệt nhập
Huyết thất, nên châm huyệt Kỳ Môn, tùy cái thực của nó mà tả đi.

BẢN NGHĨA (17/1)

*Thủ Thiếu Dương thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Biểu vào Lý

- Đàn bà: Kinh Huyết do Thủ Thiếu Dương Kinh thọ Tấu Huyết rồi nhập vào Huyết thất tùy theo
tháng mà hạ, nói sở dĩ Đàn bà khác với Đàn ông là vậy.

- Trúng Phong phát sốt sợ lạnh: mắc bệnh tại Cơ Nhục.

- Vừa lúc Kinh Thủy đến: nhập Tấu Huyết phần.

- Mắc phải 7 - 8 ngày: ngày Dương Kinh nhập Lý.

- Nhiệt trừ, mạch Trì,mình mát: mạch chứng Thái Dương nhập Lý.

- Ngực Hông đầy như trạng Kết Hung, nói xàm: Thái Dương chuyển sang Thiếu Âm.

- Đấy là Thủ Thiếu Dương thọ Thái Dương Thiếu Âm nhập Huyết thất.

- Châm Kỳ môn: Âm Dương hội Huyệt.

129
NGUYÊN VĂN (146)

Đàn bà Trúng Phong 7 – 8 ngày, tiếp đến bị nóng lạnh phát lên có lúc, Kinh Thủy vừa dứt, đây
là Nhiệt nhập Huyết thất, Huyết ở đó tất Kết, khiến nên trạng như sốt rét phát lên có lúc, Tiểu
Sài Hồ thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (17/2)

*Thủ Thiếu Dương thọ Thái Dương tại Biểu vào Lý

- Trúng Phong 7 – 8 ngày : Thái Dương tái Kinh nhập Lý.

- Tiếp đến bị nóng lạnh phát lên có lúc: hiệp Tấu chứng.

- Kinh Thủy vừa dứt: không thọ tại Tấu Thiếu Âm Huyết.

- Đấy là Nhiệt nhập Huyết thất, Huyết ở đó tất Kết: chỉ thọ Thái Dương Kết.

- Khiến nên trạng như sốt rét phát lên có lúc: Dương phần Hàn Nhiệt muốn ra ngoài.

- Tiểu Sài Hồ thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (147)

Đàn bà Thương Hàn phát sốt, Kinh Thủy vừa đến, ban ngày tỉnh táo, đêm thì nói xàm như
trạng thấy quỉ, đấy là Nhiệt nhập Huyết thất, đừng phạm Vỵ Khí và 2 Tiêu trên tất tự khỏi.

BẢN NGHĨA (17/3)

*Thủ Thiếu Dương thọ Thiếu Âm tại Biểu vào Lý

- Thương Hàn phát sốt: thọ Thiếu Âm Hàn Nhiệt tại Tấu.

- Kinh Thủy vừa đến: lại thọ Tấu Huyết.

- Ban ngày tỉnh táo: bệnh không tại Thái Dương.

- Đêm thì nói xàm như trạng thấy quỉ: bệnh tại Thiếu Âm.

- Đây là Thủ Thiếu Dương thọ Thiếu Âm nhập Huyết thất.

- Đừng phạm Vỵ Khí,tức hạ tiêu Thận Khí, ý nói nên trị hạ tiêu Huyết phần.

- Và 2 Tiêu trên, tất tự khỏi: không cần trị trên vậy.

130
NGUYÊN VĂN (148)

Thương Hàn 6 – 7 ngày, phát sốt, hơi sợ lạnh, tay chân khớp xương đau nhức, hơi nôn ụa,
dưới Tâm chi Kết, Ngoại chứng chưa hết, Sài Hồ Quế Chi thang làm chủ.

SÀI HỒ QUẾ CHI THANG PHƯƠNG

Sài Hồ 4 lạng Hoàng Cầm 1,5 lạng Nhân Sâm 1,5 lạng

Bán Hạ 1,5 cáp Chích Thảo 1 lạng Sinh Cương 1,5 lạng (thái)

Đại Táo 6 quả Quế Chi 1,5 lạng Bạch Thược 1,5 lạng

9 vị trên, dùng 7 thăng nước, sắc lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng.

BẢN NGHĨA (17/4)

*Thủ Thiếu Dương thọ Thái Dương tại Lý ra Biểu

- 6 – 7 ngày phát sốt hơi sợ lạnh: tại Âm Dương giao giới.

- Tay chân khớp xương đau nhức: Thủ Thiếu Dương Kinh đi phía bên thân.

- Hơi nôn ụa: Hàn từ Lý ra Ngoại.

- Dưới Tâm chi Kết, Ngoại chứng chưa hết: Kết tại phía bên thân mà chưa lui đi, Sài Hồ Quế
Chi thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (149)

Thương Hàn 5 – 6 ngày, đã Phát Hãn mà lại còn cho Hạ, ngực hông đầy hơi Kết, tiểu tiện
không lợi, khát mà không nôn, chỉ đầu ra mồ hôi, nóng lạnh qua lại, ấy là chưa giải. Sài Hồ
Quế Chi Càn Cương thang làm chủ.

SÀI HỒ QUẾ CHI CÀN CƯƠNG THANG PHƯƠNG

Sài Hồ ½ cân Quế Chi 3 lạng Càn Cương 2 lạng Hoàng Cầm 3 lạng

Cam Thảo 2 lạng (chích) Quát Lâu Căn 4 lạng Mẫu Lệ 2 lạng

7 vị trên, dùng 1 đấu 2 thăng nước, sắc lấy 6 thăng, bỏ xác, lại sắc lấy 3 thăng uống nóng 1
thăng, ngày 3 lần. Lúc mới uống hơi phiền, lại uống, mồ hôi ra thì khỏi.

131
BẢN NGHĨA (17/5)

*Thủ Thiếu Dương thọ Thiếu Âm tại Lý ra Biểu.

- Đã phát Hãn mà lại còn cho Hạ: Biểu Lý bệnh đã giải.

- Ngực Hông đầy hơi Kết: tại Tấu chưa giải.

- Tiểu tiện không lợi: thọ Bản Nhiệt.

- Khát mà không nôn: thọ Nhiệt hệ mà không thọ Hàn truyền.

- Chỉ đầu ra mồ hôi: tại Tấu Bán Lý chưa giải.

- Nóng lạnh qua lại: tại Tấu Bán Biểu chưa giải.

- Sài Hồ Quế Chi Càn Cương thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (150)

Thương Hàn 5 – 6 ngày, đầu đổ mồ hôi, hơi sợ lạnh, tay chân lạnh, dưới Tâm đầy, miệng
không muốn ăn, đại tiện rắn, mạch Tế, đấy là ‘Dương vi Kết’ tất có Biểu lại có Lý vậy. Mạch
Trầm là tại Lý, đổ mồ hôi là Dương vi. Giả như thuần Âm Kết, không được lại có Ngoại chứng,
hẳn nhập cả vào Lý. Đây là nửa tại Lý, nửa tại Biểu vậy. Mạch tuy Trầm Khẩn không được cho
là Thiếu Âm Bệnh. Sở dĩ như thế vì Thiếu Âm không được có mồ hôi, giờ đầu đổ mồ hôi cho
nên biết chẳng phải Thiếu Âm, có thể dùng Tiểu Sài Hồ thang, nếu như không tỉnh táo, đại
tiện được sẽ giải.

BẢN NGHĨA (17/6)

*Thủ Thiếu Dương thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Lý ra Biểu

- 5 – 6 ngày: tại Lý.

- Đầu đổ mồ hôi: Âm Nhiệt.

- Hơi sợ lạnh, chân tay lạnh: thọ Âm Hàn.

- Dưới Tâm đầy: tinh (cùng) thọ vậy.

- Miệng không muốn ăn: thọ Dương Hàn.

- Đại tiện rắn: thọ Dương Nhiệt.

132
- Mạch Tế: tinh (cùng) thọ vậy.

- Đấy là ‘ Thủ Thiếu Dương Kết Chi Vi’, có Biểu Dương lại có Lý Âm vậy.

- Mạch Trầm là tại Lý: Dương Hàn nhập Tấu.

- Đổ mồ hôi là Dương Vi: Âm Nhiệt ra Biểu.

- Giả như thuần Thiếu Âm Kết, hẳn không có Thái Dương Ngoại chứng hiệp cùng.Đây thì nửa
tại Biểu Thái Dương , nửa tại Lý Thiếu Âm.

- Mạch tuy Trầm Khẩn là Thái Dương Thiếu Âm hiệp mạch, không được chỉ cho là Thiếu Âm
mạch.

- Thiếu Âm không được có mồ hôi, giờ đầu đổ mồ hôi: là Thái Dương Thiếu Âm cộng chứng,
cho nên biết chẳng phải có một mình chứng Thiếu Âm.

- Bệnh do Dương Kinh tại Tấu xuất, có thể dùng Tiểu Sài Hồ thang.

- Bệnh do Âm Kinh tại Tấu xuất, đại tiện được sẽ giải.

(Trên đây, chương thứ 17, 6 tiết, giải thích Thủ Thiếu Dương Kinh Lạc).

133
CHƯƠNG 18 : TÚC THIẾU DƯƠNG KINH LẠC

(6 Tiết, từ 151 đến 156)

1- Thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu phân kết.


2- Thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu hiệp kết.
3- Thọ Thái Dương tại Tấu.
4- Thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu thực kết.
5- Thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu hư kết.
6- Thọ Thiếu Âm tại Tấu.

NGUYÊN VĂN (151)

Thương Hàn 5-6 ngày, nôn mà phát sốt, chứng Sài Hồ đủ cả nhưng dùng thuốc khác cho Hạ,
chứng Sài Hồ vẫn còn, lại cứ dùng Sài Hồ thang. Đấy là tuy Hạ rồi vẫn không thành nghịch, tất
đùng đùng run rẩy, phát sốt đổ mồ hôi mà giải. Nếu dưới Tâm đầy mà rắn đau, đấy là kết
Hung, Đại Hãm Hung thang làm chủ; chỉ đầy mà không đau, đấy là Bĩ, Bán Hạ Tả Tâm thang
làm chủ.

BÁN HẠ TẢ TÂM THANG PHƯƠNG

Hoàng Cầm 3 lạng Nhân Sâm 3 lạng Bán Hạ ½ thăng Chích Thảo 3 lạng
Đại Táo 12 quả Hoàng Liên 1 lạng Càn Cương 3 lạng

7 vị trên dùng 1 đấu nước, sắc lấy 6 thăng, bỏ xác, lại sắc lấy 3 thăng, uống ấm 1 thăng, ngày
uống 3 lần.

BẢN NGHĨA (18/1)

*Túc Thiếu Dương thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu phân kết.

- Thương Hàn 5-6 ngày: thọ Thiếu Âm tại Lý ra Tấu.

- Nôn mà phát sốt: thọ Thái Dương tại Biểu vào Tấu.

- Chứng Sài Hồ đủ cả: Thái Dương tại Biểu vào Tấu dùng Sài Hồ thang giải; Thiếu Âm tại Lý ra
Tấu cũng dùng Sài Hồ thang giải.

- Chứng Sài Hồ vẫn còn, lại cứ dùng Sài Hồ thang, tất phát sốt đổ mồ hôi mà giải: đấy là phép
trị Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu Bán Biểu phân kết.

134
- Nếu dưới Tâm đầy mà rắn đau là Thái Dương tại Ngoại nhập Tấu cùng với Thiếu Âm kết
Hung. Đại Hãm Hung thang làm chủ.

- Thiếu Âm tại Tấu tự làm Kết, đầy mà không đau là Bĩ, Bán Hạ Tả Tâm thang làm chủ, đấy là
phép trị Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu Bán Lý phân Kết.

NGUYÊN VĂN (152)

Thái Dương Thiếu Dương ‘tinh’ bệnh, mà trái lại cho Hạ, thành Kết Hung, dưới Tâm rắn, hạ
lợi không dứt, nước cháo không xuống được, người bệnh Tâm phiền.

BẢN NGHĨA (18/2)

*Túc Thiếu Dương thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu hợp Kết.

- ‘Tinh’ là nhị Dương ‘tinh’ nhập Thiếu Âm.

- Trái lại cho Hạ thành kết Hung, dưới Tâm rắn: bởi ‘tinh’ bệnh mà cho Hạ.

- Hạ lợi không dứt: Bản Hàn hiệp Tiêu Âm.

- Nước cháo không xuống được: Bản Nhiệt hiệp Tiêu Dương.

- Người bệnh Tâm phiền: hiệp tại Tấu vào Cách.

NGUYÊN VĂN (153)

Mạch ‘Phù nhi Khẩn’ mà lại cho Hạ, Khẩn trở lại nhập Lý thì làm Bĩ, án tay thấy mềm, là chỉ
Khí Bĩ thôi.

BẢN NGHĨA (18/3)

*Túc Thiếu Dương thọ Thái Dương Bản Hàn làm Bĩ.

- Phù là mạch Thiếu Âm tại Biểu, Khẩn là mạch Thái Dương tại Biểu.

- Cho Hạ, mạch Khẩn nhập Lý làm Bĩ, án tay thấy mềm là chỉ Bản Hàn làm Bĩ thôi.

*Riêng Hàn, riêng Nhiệt thì Nhu Bĩ; Hàn Nhiệt hiệp thì Ngạnh Bĩ.

135
NGUYÊN VĂN (154)

Thái Dương Trúng Phong Hạ lợi, nôn ngược, Biểu giải rồi mới có thể công, người bệnh nhâm
nhấp đổ mồ hôi, phát tác có lúc, đầu đau, dưới Tâm Bĩ, rắn đầy, dẫn đến dưới Hiếp đau, nôn
khan, thở vắn, đổ mồ hôi, không sợ lạnh, đấy là Biểu đã giải, Lý chưa hòa, Thập Táo thang
làm chủ.

THẬP TÁO THANG PHƯƠNG

Nguyên Hoa Cam Toại Đại Kích Đại Táo 10 quả

3 vị trên đồng phân lượng, nghiền riêng thành bột, dùng 1,5 thăng nước sắc Đại táo lấy 8 cáp,
bỏ bả, cho thuốc bột vào uống, người mạnh uống 1 đồng tiền xúc, người ốm uống ½ tiền, uống
ấm vào buổi sáng. Nếu hạ ít, bệnh không trừ, sáng mai lại uống, gia ½ tiền. Sau khi hạ lợi thoải
mái rồi ăn cháo nhừ tự dưỡng.

BẢN NGHĨA (18/4)

*Túc Thiếu Dương thọ Thái Dương Thiếu Âm Kết tại Tấu, thực.

- Thái Dương: Bản Hàn; Trúng Phong: Bản Nhiệt.

- Hạ lợi: Thái Dương truyền vào Thiếu Âm.

- Nôn ngược: Thiếu Âm chuyển ra Thái Dương.

- Tại Bán Biểu giải rồi mới có thể công Bán Lý.

- Nhâm nhấp đổ mồ hôi phát tác có lúc: Tiêu Dương hiệp Tiêu Âm.

- Đầu đau, dưới Tâm Bĩ, rắn đầy, dẫn đến dưới Hiếp đau: Bản Hàn hiệp Bản Nhiệt.

- Nôn khan, thở vắn: Bản Hàn hiệp Tiêu Âm.

- Đổ mồ hôi, không sợ lạnh: Bản Nhiệt hiệp Tiêu Dương.

- Đấy là Bán Biểu giải, dồn vào Bán Lý chưa hòa, Thập Táo thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (155)

Thái Dương Bệnh, thầy thuốc Phát Hãn, bèn phát sốt sợ lạnh, thầy thuốc lại cho Hạ, dưới
Tâm Bĩ. Biểu Lý đều hư, Âm Dương Khí đều kiệt, ‘vô Dương tất Âm độc’, lại thêm Thiêu châm

136
nhân đó Hung phiền, sắc mặt xanh vàng, da thịt máy giật, khó trị. Nay sắc hơi vàng, tay chân
ấm dễ khỏi.

BẢN NGHĨA (18/5)

*Túc Thiếu Dương thọ Thái Dương Thiếu Âm Kết tại Tấu, hư.

- Phát Hãn bèn phát sốt sợ lạnh: Biểu hư.

- Lại cho Hạ, dưới Tâm Bĩ: Lý hư.

- Hãn thì Biểu hư, Hạ thì Lý hư, tại Tấu Âm Dương nhân đó mà kiệt.

- Tại Tấu không có Nhiệt của Dương Khí, Độc (một mình) thọ Hàn của Âm Khí.

- Lại thêm Thiêu Châm nhân đó Hung phiền: tại Cách thất trị.

- Sắc mặt xanh vàng, da thịt máy giật, khó trị: tại Cách không Âm Nhiệt.

- Sắc hơi vàng, tay chân ấm, dễ khỏi: tại Cách có Âm Nhiệt.

NGUYÊN VĂN (156)

Dưới Tâm Bĩ, án vào thấy mềm, mạch trên bộ Quan Phù, Đại Hoàng Hoàng Liên Tả Tâm thang
làm chủ.

ĐẠI HOÀNG HOÀNG LIÊN TẢ TÂM THANG PHƯƠNG

Đại Hoàng 2 lạng Hoàng Liên 1 lạng

2 vị trên, dùng 2 thăng nước sôi (trăm dạo), ngâm chốc lát, vắt bỏ xác, chia uống ấm 2 lần.

BẢN NGHĨA (18/6)

*Túc Thiếu Dương thọ Thiếu Âm Bản Nhiệt làm Bĩ.

- Dưới Tâm Bĩ, án vào thấy mềm: chỉ Nhiệt Khí làm Bĩ.

- Mạch Túc Thiếu Dương Đởm, xem ở Bộ Quan, thọ Bản Nhiệt cho nên Phù Hoạt.

- Đại Hoàng Hoàng Liên Tả Tâm thang làm chủ.

(Trên đây, chương thứ 18, 6 tiết, giải thích Túc Thiếu Dương Kinh Lạc).
137
CHƯƠNG 19 : THỦ THIẾU DƯƠNG BỘ VỊ

(6 Tiết, từ 157 đến 162)

1- Tại Tấu chuyển Âm phần Hàn Nhiệt ra Ngoại.

2- Tại Tấu chuyển Dương phần Hàn Nhiệt vào Nội.

3- Tại Cách thọ Bản Hàn Bản Nhiệt Kết.

4- Tại Cách thượng thọ Bản Hàn Bản Nhiệt Kết.

5- Tại Cách hạ thọ Bản Hàn Bản Nhiệt Kết.

6- Tại Cách thọ Bản Hàn Bản Nhiệt truyền chư Kỳ Kinh.

NGUYÊN VĂN (157)

Dưới Tâm Bĩ, mà lại sợ lạnh, đổ mồ hôi, Phụ Tử Tả Tâm thang làm chủ.

PHỤ TỬ TẢ TÂM THANG PHƯƠNG

Đại Hoàng 1 lạng Hoàng Cầm 1 lạng Hoàng Liên 1 lạng

Phụ Tử 1 củ (nướng, bỏ vỏ, bổ ra, nấu riêng lấy nước trấp)

4 vị trên, thái mỏng 3 vị, dùng 2 thăng nước sôi trăm dạo, ngâm giây lát vắt lấy nước, bỏ bả, cho
nước trấp Phụ Tử vào, chia uống ấm 2 lần.

BẢN NGHĨA (19/1)

* Thủ Thiếu Dương Kết tại Tấu,chuyển Âm phần Hàn Nhiệt ra Ngoại.

- Tâm hạ Bĩ: thọ Kết của Âm phần Hàn Nhiệt.

- Lại sợ lạnh, đổ mồ hôi: chuyển Âm Tà ra Ngoại. - Phụ Tử Tả Tâm thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (158)

Vốn bởi cho Hạ, dưới Tâm Bĩ, dùng Tả Tâm thang không giải, người bệnh khát mà miệng táo
phiền, tiểu tiện không lợi, Ngũ Linh tán làm chủ.

138
BẢN NGHĨA (19/2)

*Thủ Thiếu Dương Kết tại Tấu chuyển Dương phần Hàn Nhiệt vào Nội.

- Vốn là Bản Hàn, bởi cho Hạ nên hiệp Tiêu Dương mà dưới Tâm Bĩ.

- Dùng Tả Tâm thang không giải: không phải để trị Bĩ của Dương Tà.

- Khát mà miệng táo phiền: Tiêu Dương Kết ở Nội.

- Tiểu tiện không lợi: Bản Hàn Kết ở Nội.

- Ngũ Linh Tán làm chủ.

NGUYÊN VĂN (159)

Thương Hàn đổ mồ hôi, sau khi giải trọng Vỵ không hòa, dưới Tâm Bĩ rắn, ợ khan mùi đồ ăn,
dưới Hiếp có Thủy Khí, trong bụng sôi lụp bụp, ỉa chảy, Sinh Cương Tả Tâm thang làm chủ.

SINH CƯƠNG TẢ TÂM THANG PHƯƠNG

Sinh Cương 4 lạng Nhân Sâm 3 lạng Hoàng Cầm 3 lạng Hoàng Liên 1 lạng
Chích Thảo 3 lạng Càn Cương 1 lạng Bán Hạ ½ thăng Đại Táo 12 quả

8 vị trên,dùng 1 đấu nước nấu lấy 6 thăng,bỏ bả,lại sắc lấy 3 thăng,uống ấm 1 thăng,ngày 3 lần.

BẢN NGHĨA (19/3)

*Thủ Thiếu Dương thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Cách.

- Thương Hàn đổ mồ hôi sau khi giải: Thái Dương tại Ngoại giải.

- Trong Vỵ không hòa: Thái Dương nhập Nội hiệp Thiếu Âm chưa giải.

- Dưới Tâm Bĩ rắn: thọ Thái Dương Thiếu Âm Kết.

- Ợ khan mùi đồ ăn: Thiếu Âm tại Cách hạ đi lên.

- Dưới Hiếp có Thủy Khí,trong bụng sôi lụp bụp, ỉa chảy: Thái Dương tại Cách thượng đi xuống.

- Sinh Cương Tả Tâm thang làm chủ: Sinh Cương tán Kết tại Cách; Càn Cương, Bán Hạ trị
Dương Hàn; Hoàng Cầm, Hoàng Liên trị Âm Nhiệt; Nhân Sâm, Cam Thảo, Đại Táo trợ Vỵ Khí là
chủ tại Cách.

139
NGUYÊN VĂN (160)

Thương Hàn Trúng Phong, thầy thuốc trái lại cho Hạ, người bệnh hạ lợi ngày vài mươi lượt,
cơm nước không tiêu hóa, trong bụng sôi lụp bụp, dưới Tâm Bĩ rắn mà đầy, nôn khan, Tâm
phiền, không yên được. Thầy thuốc thấy dưới Tâm Bĩ, cho là bệnh không trừ, lại Hạ nữa,
chứng Bĩ càng thêm nặng. Đấy không phải là Nhiệt Kết, chỉ vì trong Vỵ hư trống, khách Khí
nghịch lên, nên làm cho rắn, Cam Thảo Tả Tâm thang làm chủ.

CAM THẢO TẢ TÂM THANG PHƯƠNG

Cam Thảo 4 lạng Hoàng Cầm 3 lạng Càn Cương 3 lạng

Bán Hạ ½ thăng Đại Táo 12 quả Hoàng Liên 1 lạng

6 vị trên, dùng 1 đấu nước, nấu lấy 6 thăng, bỏ bả, lại sắc lấy 3 thăng, uống ấm 1 thăng, ngày
uống 3 lần.

BẢN NGHĨA (19/4)

*Thủ Thiếu Dương thọ Thái Dương Thiếu Âm Kết tại Cách thượng.

- Thương Hàn Trúng Phong: đồng thời thọ Phong Hàn là Lưỡng Cảm.

- Thầy thuốc trái lại cho Hạ: Phong Hàn nhập Lý.

- Người bệnh hạ lợi ngày vài mươi lượt, cơm nước không tiêu hóa, trong bụng sôi lụp bụp:
Thái Dương hiệp Thiếu Âm hạ lợi.

- Dưới Tâm Bĩ rắn mà đầy: Thái Dương Thiếu Âm hiệp làm rắn.

- Nôn khan: Hàn truyền.

- Tâm phiền, không yên được: Nhiệt hệ.

- Thầy thuốc thấy dưới Tâm Bĩ, không biết Bĩ do bởi Hạ làm nên, lại cho Hạ nữa, chứng Bĩ càng
thêm nặng.

- Đấy không phải là thực Kết,mà là trong Vỵ hư trống; Chính hư, Khách Khí nghịch lên làm rắn.

- Cam Thảo Tả Tâm thang làm chủ.

140
NGUYÊN VĂN (161)

Thương Hàn uống thuốc thang, hạ lợi không dứt, trong Tâm Bĩ rắn. Uống Tả Tâm thang rồi lại
dùng thuốc khác cho Hạ, lợi không dứt ; thầy thuốc cho dùng Lý Trung thang, lợi càng thêm
nhiều. Lý Trung là thuốc chữa Trung tiêu, Đây là lợi tại Hạ tiêu, Xích Thạch Chỉ Võ Dư Lương
thang làm chủ ; lại còn lợi không dứt thì nên cho lợi tiểu tiện.

XÍCH THẠCH CHỈ VÕ DƯ LƯƠNG THANG PHƯƠNG

Xích Thạch Chỉ 1 cân Võ Dư Lương 1 cân

2 vị trên, dùng 6 thăng nước, nấu lấy 3 thăng, bỏ bả, chia uống 3 lần.

BẢN NGHĨA (19/5)

*Thủ Thiếu Dương thọ Thái Dương Thiếu Âm Kết tại Đái.

- Thương Hàn: thọ Biểu Hàn đồng thời thọ Hàn truyền Kinh.

- Uống thuốc thang hạ lợi không dứt : Lưỡng Hàn hiệp bệnh.

- Trong Tâm Bĩ rắn: đồng thời thọ Bản Nhiệt.

- Uống Tả Tâm thang rồi lại dùng thuốc khác cho Hạ, lợi không dứt: trị Bản Nhiệt mà không trị
Bản Hàn.

- Dùng Lý Trung thang , lợi càng thêm nhiều: trị Trung tiêu mà không (trị) đến Hạ tiêu.

- Đây là lợi tại Hạ tiêu,Xích Thạch Chỉ Võ Dư Lương thang làm chủ: phép ‘tắc nhân tắc dụng’
vậy.

- Lại còn lợi không dứt, nên cho lợi tiểu tiện: phép ‘ thông nhân thông dụng’ vậy.

NGUYÊN VĂN (162)

Thương Hàn Thổ Hạ rồi lại Phát Hãn, hư phiền, mạch rất Vi ; 8 – 9 ngày dưới Tâm Bĩ rắn, dưới
Hiếp đau, Khí xung lên Yết hầu, Huyễn mạo (mắt hoa đầu nặng). Kinh mạch rung động, lâu
ngày thành chứng Nuy.

BẢN NGHĨA (19/6)

*Thủ Thiếu Dương thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền chư Kỳ Kinh.

- Thương Hàn: thọ Phong Hàn truyền chư Kỳ Kinh.


141
- Thổ Hạ rồi: Lý hư - Phát Hãn: Biểu hư.

- Hư phiền: Tấu hư - Mạch rất Vi: Cách hư.

- 8 – 9 ngày: ngày Thái Dương nhập Lý.

- Dưới Tâm Bĩ rắn: cùng với Thiếu Âm Kết.

- Dưới Hiếp đau, Khí xung lên Yết hầu: truyền Xung Kinh.

- Huyễn mạo, Kinh mạch rung động: truyền Đốc Kinh.

- Lâu ngày thành chứng Nuy: truyền Nhâm Kinh.

(Trên đây, chương thứ 19, 6 tiết, giải thích Thủ Thiếu Dương Bộ vị).

142
CHƯƠNG 20 : TÚC THIẾU DƯƠNG BỘ VỊ

(7 Tiết, từ 163 đến 169)

1- Kết tại Đới.

2- Kết tại Cơ.

3- Kết tại Biểu tại Lý.

4- Bán Biểu Bán Lý phân Kết.

5- Bán Biểu Bán Lý hiệp Kết.

6- Kết tại Cách.

7- Với chư Kỳ Kinh Kết tại Tấu.

NGUYÊN VĂN (163)

Thương Hàn, nếu Phát Hãn, nếu Thổ, nếu Hạ, sau khi giải, dưới Tâm Bĩ rắn, ợ hơi không khỏi,
Toàn Phúc Hoa Đại Giả Thạch thang làm chủ.

TOÀN PHÚC HOA ĐẠI GIẢ THẠCH THANG PHƯƠNG

Toàn Phúc Hoa 3 lạng Nhân Sâm 2 lạng Sinh Cương 5 lạng Đại Giả Thạch 1 lạng

Đại Táo 12 quả Chích Thảo 2 lạng Bán Hạ ½ thăng (rửa)

7 vị trên,dùng 1 đấu nước sắc lấy 6 thăng,bỏ bả,lại sắc lấy 3 thăng,uống ấm 1 thăng,ngày 3 lần.

BẢN NGHĨA (20/1)

*Túc Thiếu Dương Kết tại Đái.

- Phát Hãn, Thổ Hạ sau khi giải: các Bộ Vị đã giải, chỉ tại Đới phần chưa giải.

- Dưới Tâm Bĩ rắn: thọ Dương Hàn Âm Nhiệt Kết tại dưới Tâm.

- Ợ hơi không khỏi: Kết ở dưới mà Khí thăng lên trên.

- Toàn Phúc Hoa Đại Giả Thạch thang làm chủ.


.

143
NGUYÊN VĂN (164)

Sau khi Hạ, không thể lại dùng Quế Chi thang, nếu Hãn ra mà Suyễn, không nóng lắm, có thể
dùng Ma Hoàng Thạch Cao Hạnh Nhân Cam Thảo thang.

BẢN NGHĨA (20/2)

*Túc Thiếu Dương Kết tại Cơ.

- Sau khi Hạ, không thể lại dùng Quế Chi thang: cùng với ‘sau khi Hãn, không thể lại dùng Quế
Chi thang’ xem xét; Kia nói tại Biểu đến Cơ, đây nói tại Lý đến Cơ.

- Hãn ra mà Suyễn: tại Cơ phần Dương Nhiệt.

- Không nóng lắm: Âm Nhiệt chuyển sang Dương Nhiệt.

- Ma Hoàng Thạch Cao Hạnh Nhân Cam Thảo thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (165)

Thái Dương Bệnh, Ngoại chứng chưa trừ, mà cho Hạ mấy lần, bèn ‘hiệp Nhiệt’ mà lợi, hạ
không dứt, dưới Tâm Bĩ rắn, Biểu Lý không giải, Quế Chi Nhân Sâm thang làm chủ.

QUẾ CHI NHÂN SÂM THANG PHƯƠNG

Quế Chi 4 lạng Nhân Sâm 3 lạng Bạch Truật 3 lạng

Chích Thảo 4 lạng Can Khương 3 lạng

5 vị trên, dùng 9 thăng nước, trước nấu 4 vị lấy 5 thăng rồi cho Quế Chi vào, lại sắc lấy 3 thăng,
bỏ bả, uống ấm 1 thăng, ngày 2 lần đêm 1 lần.

BẢN NGHĨA (20/3)

*Túc Thiếu Dương Kết tại Biểu tại Lý.

- Thái Dương Bệnh Ngoại chứng chưa trừ: Bản Hàn chưa giải,Tiêu Dương cũng chưa giải.

- Mấy lần cho Hạ bèn hiệp Nhiệt mà lợi, lợi hạ không dứt: Tiêu Dương hiệp Bản Hàn mà lợi,
Bản Hàn cũng hiệp Tiêu Âm mà lợi không dứt.

- Dưới Tâm Bĩ rắn: Kết tại Bán Lý.

- Biểu Lý không giải: cớ bởi Kết tại Tấu không giải. - Quế Chi Nhân Sâm thang làm chủ.
144
NGUYÊN VĂN (166)

Thương Hàn, sau khi đại Hạ, lại Phát Hãn, dưới Tâm Bĩ, sợ lạnh là Biểu chưa giải, không thể
Công Bĩ. Phải nên trước Giải Biểu, Biểu giải rồi mới có thể Công Bĩ. Giải Biểu nên dùng Quế Chi
thang, Công Bĩ nên dùng Đại Hoàng Hoàng Liên Tả Tâm thang.

BẢN NGHĨA (20/4)

*Túc Thiếu Dương tại Bán Biểu Bán Lý phân trị.

- Sau khi đại Hạ: Lý hư.

- Lại Phát Hãn: Biểu hư.

- Dưới Tâm Bĩ: Kết tại Tấu.

- Sợ lạnh là Biểu chưa giải:

. Trước Giải Bản Hàn tại Biểu, dùng Quế Chi thang.

. Sau Giải Bản Nhiệt tại Tấu, dùng Đại Hoàng Hoàng Liên Tả Tâm thang.

*Thái Dương Thiếu Âm nên phân trị vậy.

NGUYÊN VĂN (167)

Thương Hàn phát sốt, đổ mồ hôi không giải, dưới Tâm Bĩ rắn, nôn mửa mà Hạ lợi, Đại Sài Hồ
thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (20/5)

*Túc Thiếu Dương tại Bán Biểu Bán Lý hiệp trị .

- Phát sốt đổ mồ hôi không giải: tại Bán Biểu.

- Dưới Tâm Bĩ rắn: tại Bán Lý.

- Nôn mửa: Hàn Nhiệt hiệp ở trên.

- Hạ lợi : Hàn Nhiệt hiệp ở dưới.

- Đại Sài Hồ thang làm chủ.

145
NGUYÊN VĂN (168)

Bệnh như chứng Quế Chi, đầu không đau, gáy không cứng, mạch Thốn hơi Phù, trong Hung Bĩ
rắn,Khí xung lên Yết hầu,không thở được.Đấy là Hung có Hàn, nên cho Thổ, dùng Qua Đế tán.

QUA ĐẾ TÁN PHƯƠNG

Qua Đế 1 phân Xích Tiểu Đậu 1 phân

2 vị trên tán riêng, rây rồi trộn làm một, lấy 1 thìa tiền xúc. Dùng Hương Xị 1 cáp, nước sôi 7
cáp, nấu thành cháo nhừ, bỏ bả, lấy nước trấp, hòa thuốc bột vào, uống ấm 1 lần, khôngThổ
thêm 1 ít thuốc nữa, Thổ được thoải mái thời thôi. Phàm các bệnh vong huyết không thể uống
tán này.

BẢN NGHĨA (20/6)

*Túc Thiếu Dương Kết tại Cách.

- Quế Chi chứng: Dương Hàn.

- Như chứng Quế Chi: Âm Hàn.

- Đầu không đau, gáy không cứng: bệnh không do Dương Hàn.

- Mạch Thốn hơi Phù: Bệnh tại Âm Hàn.

- Trong Hung Bĩ rắn: Túc Thiếu Dương Kết.

- Khí xung lên Yết hầu không thở được: Kết tại Cách.

- Đấy là Âm phần Hàn Nhiệt lên ở Cách, nên cho Thổ, dùng Qua Đế Tán.

- Các bệnh vong Huyết không thể uống : nói Thủ Tam Âm Kinh Huyết hư, không thể dùng.

NGUYÊN VĂN (169)

Người bệnh dưới Hiếp vốn có Bĩ, lan đến bên rốn, đau dẫn xuống bụng dưới, vào cả Âm cân
(tức Âm hành). Đấy gọi là Tạng Kết, chết.

BẢN NGHĨA (20/7)

*Túc Thiếu Dương Kết tại Tấu truyền các Kỳ Kinh.

- Dưới Hiếp vốn có Bĩ: bình thời vốn có chứng Kết tại Đởm Kinh.
146
- Lan đến bên rốn: truyền Xung Kinh.

- Đau dẫn xuống bụng dưới: truyền Đốc Kinh.

- Vào Âm cân: truyền Nhâm Kinh.

- Đây là Thận Tạng thọ Kết, chứng chết vậy.

(Trên đây, chương thứ 20, 7 tiết, giải thích Túc Thiếu Dương Bộ vị).

147
CHƯƠNG 21 : PHONG HÀN TẠI CÁCH MÔ
(11 Tiết, từ 170 đến 180)

1- Tại Cách chư Lạc thọ Bản Nhiệt làm Thương Hàn.
2- Tại Cách chư Kinh thọ Bản Nhiệt làm Thương Hàn.
3- Tại Cách chư Khí thọ Bản Nhiệt làm Thương Hàn.
4- Tại Cách chư Kỳ Kinh thọ Bản Hàn truyền Âm Nhiệt làm Phong Ôn.
5- Tại Cách chư Kỳ Kinh thọ Bản Hàn truyền Dương Nhiệt làm Ôn Bệnh.
6- Tại Cách Khí Kinh Lạc thọ Bản Nhiệt chuyển Bản Hàn làm Thương Hàn.
7- Tại Cách chư Kỳ Kinh thọ Dương Hàn chuyển Âm Hàn làm Hàn Thấp.
8- Tại Cách chư Kỳ Kinh thọ Âm Hàn chuyển Dương Hàn làm Phong Thấp.
9- Tại Cách chư Lạc Mạch làm Thương Hàn.
10- Tại Cách chư Kinh Mạch làm Thương Hàn.
11- Tại Cách chư Khí Tích làm Mạch.

NGUYÊN VĂN (170)


Thương Hàn sau khi cho Thổ cho Hạ, 7-8 ngày không giải, Nhiệt Kết tại Lý, Biểu Lý đều
Nhiệt, thỉnh thoảng sợ gió, khát lắm, trên lưỡi khô ráo mà phiền, muốn uống nước vài
thăng, Bạch Hổ gia Nhân Sâm thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (21/1)


* Tại Cách chư Lạc thọ Bản Nhiệt làm Thương Hàn.

- Thương Hàn: chư Lạc thương bởi Hàn thì làm Nhiệt bệnh.

- Sau khi Thổ Hạ: chư Âm Lạc tại Lý đến Cách.

- 7 - 8 ngày không giải: chư Dương Lạc tại Biểu đến Cách.

- Nhiệt Kết tại Lý, Biểu Lý đều Nhiệt: chư Lạc Kết Nhiệt tại Cách Lý, sở dĩ Biểu Lý đều Nhiệt.

- Thỉnh thoảng sợ gió: Lạc của chư Hàn Kinh thọ Nhiệt.

- Khát lắm trên lưỡi khô ráo mà phiền, muốn uống nước vài thăng: chư Nhiệt Kinh Lạc thọ
Nhiệt. - Bạch Hổ gia Nhân Sâm thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (171)

Thương Hàn, không đại Nhiệt, miệng ráo khát, tâm phiền, lưng hơi sợ lạnh, Bạch Hổ gia Nhân
Sâm thang làm chủ.

148
BẢN NGHĨA (21/2)

*Tại Cách chư Kinh thọ Bản Nhiệt làm Thương Hàn.

- Thương Hàn: chư Kinh thương bởi Hàn thì làm Nhiệt.

- Không đại Nhiệt: Nhiệt nhập Kinh.

- Miệng ráo khát, Tâm phiền: chư Nhiệt Kinh thọ Bản Nhiệt.

- Lưng hơi sợ lạnh: chư Hàn Kinh thọ Bản Nhiệt. - Bạch Hổ gia Nhân Sâm thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (172)

Thương Hàn mạch Phù, phát sốt không mồ hôi, Biểu không giải thì không thể dùng Bạch Hổ
thang; khát muốn uống nước không Biểu chứng, Bạch Hổ gia Nhân Sâm thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (21/3)

*Tại Cách chư Khí thọ Bản Nhiệt làm Thương Hàn.

- Thương Hàn: chư Khí thương bởi Hàn thì làm Nhiệt.

- Mạch Phù, phát sốt, không mồ hôi: tại Cách chư Khí thọ Nhiệt.

- Biểu không giải thì không thể dùng Bạch Hổ thang: tại Cách chư Hàn Khí vậy.

- Khát muốn uống nước không Biểu chứng: tại Cách chư Nhiệt Khí vậy.

- Bạch Hổ gia Nhân Sâm thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (173)

Thái Dương Thiếu Dương ‘tinh bệnh’, dưới Tâm rắn, cổ gáy cứng mà hoa mắt nên châm Đại
Chùy, Phế Du, Can Du, cẩn thận không thể Hạ.

BẢN NGHĨA (21/4)

* Chư Kỳ Kinh tại Cách, Phong Ôn chứng.

- Thái Dương Thiếu Dương ‘tinh bệnh’: 2 Dương ‘tinh’(dồn)vào Thiếu Âm, Phong Ôn chứng
vậy.

149
- Dưới Tâm rắn: chư Kỳ Kinh thọ Phong Ôn tại Hung (ngực) phần.

- Cổ gáy cứng mà hoa mắt: chư Kỳ Kinh thọ Phong Ôn tại Bối (lưng) phần.

- Châm Đại Chùy, Phế Du, Can Du: trị chư Kỳ Kinh tại Bối phần.

- Cẩn thận không thể Hạ: chư Kỳ Kinh tại Hung phần không thể Hạ. Hoặc châm Kỳ Môn, hoặc
dùng các thang Tả Tâm, có thể được.

NGUYÊN VĂN (174)

Thái Dương với Thiếu Dương hiệp bệnh, tự hạ lợi, dùng Hoàng Cầm thang. Nếu nôn thì
Hoàng Cầm gia Bán Hạ Sinh Cương thang làm chủ.

HOÀNG CẦM THANG PHƯƠNG

Hoàng Cầm 3 lạng Chích Thảo 2 lạng Bạch Thược 2 lạng Đại Táo 12 trái

4 vị trên, nước 1 đấu, nấu lấy 3 thăng, uống ấm 1 thăng, ngày 2, đêm 1 lần.

HOÀNG CẦM GIA BÁN HẠ SINH CƯƠNG THANG PHƯƠNG

Hoàng cầm thang nguyên phương gia Bán hạ ½ thăng, Sinh khương 1,5 lạng (1 phương 3 lạng)

6 vị, nước 1 đấu, nấu lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm ngày 2, đêm 1 lần.

BẢN NGHĨA (21/5)

* Chư Kỳ Kinh tại Cách, Ôn bệnh.

- Thái Dương với Thiếu Dương hiệp bệnh: Dương Hàn truyền Dương Nhiệt làm Ôn bệnh.

- Tự Hạ lợi dùng Hoàng Cầm thang: Bản Hàn truyền Tiêu Dương làm Ôn bệnh.

- Nếu nôn, Hoàng Cầm gia Bán Hạ Sinh Cương thang làm chủ: Ôn bệnh chuyển làm Thương
Hàn.

NGUYÊN VĂN (175)

Thương Hàn trong Hung có Nhiệt, trong Vỵ có Tà khí, trong bụng đau muốn nôn, Hoàng Liên
thang làm chủ.
.
150
HOÀNG LIÊN THANG PHƯƠNG

Hoàng Liên 3 lạng Chích Thảo 3 lạng Can Khương 3 lạng Quế Chi 3 lạng
Nhân Sâm 2 lạng Bán Hạ ½ thăng Đại Táo 12 trái

7 vị trên, nước 1 đấu, nấu lấy 6 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, ngày 3, đêm 2 lần.

BẢN NGHĨA (21/6)

*Chư Khí Kinh Lạc tại Cách làm Thương Hàn.

- Trong Hung có Nhiệt: văn trên, Ôn bệnh chuyển làm Thương Hàn loại.

- Trong Vỵ có Tà khí: Phong Ôn chuyển làm Phong Thấp.

- Trong bụng đau: Phong Thấp chuyển làm Hàn Thấp.

- Muốn nôn: Hàn Thấp trở lại làm Thương Hàn.

- Hoàng Liên thang làm chủ.

*Có thể thấy, Thương Hàn là 2 Khí Âm Dương, cùng nhau ly hợp, cùng nhau tuần hoàn. Từ đó
phát sinh các tên bệnh vậy.

NGUYÊN VĂN (176)

Thương Hàn 8-9 ngày, Phong Thấp tương bác, thân thể đau nhức, không thể tự xoay trở
được, không nôn, không khát, mạch Phù Hư mà Sáp, Quế Chi Phụ Tử thang làm chủ. Nếu đại
tiện rắn, tiểu tiện tự lợi thì khứ Quế gia Bạch Truật thang làm chủ.

QUẾ CHI PHỤ TỬ THANG PHƯƠNG

Quế Chi 4 lạng. Phụ Tử 1 củ. Đại Táo 12 trái. Chích Thảo 2 lạng. Sinh Khương 3 lạng

5 vị trên, nước 6 thăng, nấu lấy 2 thăng, bỏ bả, chia uống 3 lần.

QUẾ CHI PHỤ TỬ KHỨ QUẾ GIA BẠCH TRUẬT THANG PHƯƠNG

Phương thang trên, bỏ Quế chi, gia Bạch truật 4 lạng.

Sắc uống như trên. Uống lần đầu người bệnh thấy thân như tê, chừng ½ ngày lại uống lần nữa,
uống hết 3 lần người bệnh có trạng như Mạo (đầu nặng mắt tối), đừng lấy làm lạ mà sợ. Đấy là
bởi Phụ tử Bạch truật dồn cả ra da thịt để trục Thủy Khí mà chưa trừ hết khiến nên như vậy.
Phải nên gia Quế chi 2 lạng. Đấy là gốc 1 phương mà dùng 2 pháp vậy.
151
BẢN NGHĨA (21/7)

* Chư Kỳ Kinh tại Cách thọ Hàn Thấp.

- Thương Hàn 8 – 9 ngày: do Thương Hàn chuyển làm Hàn Thấp.

- Phong Thấp tương bác: Hàn Thấp chuyển sang Phong Thấp.

- Thân thể đau nhức không thể tự xoay trở được: chư Kỳ Kinh thọ Hàn Thấp.

- Không nôn không khát: Khí của chư Kỳ Kinh thọ Hàn Thấp.

- Mạch Phù Hư mà Sáp: Lạc của chư Kỳ Kinh thọ Hàn Thấp. - Quế Chi Phụ Tử thang làm chủ.

- Nếu đại tiện rắn: Hàn Thấp chuyển sang Phong Ôn.

- Tiểu tiện tự lợi: Hàn Thấp chuyển sang Phong Thấp. - Khứ Quế gia Bạch Truật thang làm chủ:
Khứ Quế Chi vì cớ chuyển sang Phong Ôn, gia Bạch Truật vì cớ chuyển sang Phong Thấp.

NGUYÊN VĂN (177)

Phong Thấp tương bác, xương khớp phiền nhức, đau xiết không co duỗi được, sờ đến thì đau
dữ dội, đổ mồ hôi, hơi thở ngắn, tiểu tiện không lợi, sợ gió không muốn cởi áo, hoặc mình
hơi sưng, Cam Thảo Phụ Tử thang làm chủ.

CAM THẢO PHỤ TỬ THANG PHƯƠNG

Cam Thảo 2 lạng. Phụ Tử 2 củ (bào, bỏ vỏ, bổ ra).

Bạch Truật 2 lạng. Quế Chi 4 lạng.

4 vị trên, dùng 6 thăng nước nấu lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần. Uống lần đầu
ra được chút ít mồ hôi thì giải. Nếu ăn được, mồ hôi ngừng mà lại phiền thì uống 5 cáp, sợ 1
thăng nhiều thì lúc đầu cho uống 6-7 cáp.

BẢN NGHĨA (21/8)

*Chư Kỳ Kinh tại Cách thọ Thái Dương Thiếu Âm làm Phong Thấp.

- Phong Thấp tương bác: do Hàn Thấp chuyển làm Phong Thấp.

- Xương khớp phiền nhức, đau xiết, sờ đến thì đau dữ dội: chư Kỳ Kinh tại Cách thọ Thái
Dương Thiếu Âm làm Phong Thấp.

152
- Đổ mồ hôi, hơi thở ngắn, tiểu tiện không lợi: chư Kỳ Kinh thọ Thiếu Âm ‘chi’ Phong Thấp.

- Sợ gió,không muốn cởi áo,hoặc mình hơi sưng:chư Kỳ Kinh thọ Thái Dương‘vi’Phong Thấp.

- Cam Thảo Phụ Tử thang làm chủ.

*Tiết trên Thái Dương chuyển sang Thiếu Âm cho nên khứ bỏ Quế Chi. Tiết này Thiếu Âm chuyển
sang Thái Dương cho nên lại dùng Quế Chi, xem thêm chương Bệnh Kĩnh Thấp Yết (Tạp Bệnh
Luận).

NGUYÊN VĂN (178)

Thương Hàn mạch Phù Hoạt, đấy là Biểu có Nhiệt Lý có Hàn, Bạch Hổ thang làm chủ.

BẠCH HỔ THANG PHƯƠNG

Tri Mẫu 6 lạng Thạch Cao 1 cân Cam Thảo 2 lạng Ngạnh Mễ 6 cáp

4 vị, nước 1 đấu, nấu gạo chín nhừ là được, bỏ bả uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần.

BẢN NGHĨA (21/9)

*Lạc mạch tại Cách làm Thương Hàn.

- Thương Hàn: Lạc mạch thọ Hàn truyền Kinh.

- Mạch Phù Hoạt : Lạc mạch thương bởi Hàn mà thành Nhiệt.

- Đấy là Biểu ‘Lạc’ làm thành Nhiệt bệnh, do Lý ‘Kinh’ bị thương bởi Hàn.

- Lạc mạch thọ Nhiệt, Bạch Hổ thang làm chủ.

*Kinh là Lý, phàm thấy ở ngoài đều là Lạc mạch (xem Mạch độ luận). Luận điều này tìm trong
sách Thương Hàn không chỉ thấy một lần, riêng chưa nói rõ như ở Tiết này, là chỗ Trọng Sư
‘phụng hát’ (như Thiền Sư ‘đánh hét’ Thiền sinh) khiến cho người học thức tỉnh mãnh liệt về
Thương Hàn.

NGUYÊN VĂN (179)

Thương Hàn mạch Kết Đại, Tâm động quý (tim đập hồi hộp) Chích Cam Thảo thang làm chủ.

153
CHÍCH CAM THẢO THANG PHƯƠNG

Chích Thảo 4 lạng Quế Chi 3 lạng Sinh Cương 3 lạng

Nhân Sâm 3 lạng Sinh Địa 1 cân A Giao 2 lạng

Mạch Môn ½ thăng Ma Nhân ½ thăng Đại Táo 30 quả

9 vị trên, dùng rượu trắng 7 thăng, nước 8 thăng, nấu trước 8 vị lấy 3 thăng, bỏ bả, cho A giao
vào nấu cho tan hết, uống ấm 1 thăng, ngày uống 3 lần, còn gọi là Phục mạch thang.

BẢN NGHĨA (21/10)

*Kinh mạch tại Cách làm Thương Hàn.

- Mạch do chư Khí tích Đãn Trung, từ Cách đến Tấu rồi đến Cơ, Kinh mạch Lạc mạch đều như
vậy.

- Mạch Kết là chư Kinh ‘Kết’ tại Cách.

- Mạch Đại là chư Kinh mạch ‘Đại’ tại Cách.

- Tâm động quý: chư Âm Kinh hư thì Tâm động, chư Dương Kinh hư thì Tâm quý.

- Chích Cam Thảo thang làm chủ: còn gọi là Phục Mạch thang, bổ ích Kinh mạch vậy.

NGUYÊN VĂN (180)

Mạch án thấy đến Hoãn, có lúc ngừng 1 lần rồi lại đến, gọi là Kết. Lại như, mạch đến Động mà
giữa chừng ngừng lại đến Tiểu Sác, giữa đó có quay trở lại Động, gọi là Kết, Âm vậy. Mạch
đến Động mà giữa chừng ngừng không thể tự quay về nhân đó trở lại Động, gọi là Đại, Âm
vậy. Xem thấy mạch ấy là khó trị.

BẢN NGHĨA (21/11)

*Lạc mạch Kinh mạch đều thọ Cách Khí.

- Mạch đến Hoãn có lúc ngừng một lần rồi lại đến: đấy là Âm Dương Khí tương Kết.

- Mạch đến Động mà giữa chừng ngừng lại đến Tiểu Sác, giữa đó có quay trở lại Động: đấy là
Âm Khí bị Dương Kết, không thể đạt ra Ngoại.

- Mạch đến Động mà giữa chừng ngừng không thể tự quay về nhân đó trở lại Động, lấy mạch
khác để Đại (thay thế) nó : đấy là Dương Khí bị Âm Kết, không thể đạt vào Nội.
154
- Phàm xem thấy mạch Kết Đại đều khó trị: tại Cách Vỵ Khí Kiệt vậy.

*Trong Luận phàm 2 chữ ‘ danh viết’ ( tên là) , là chổ Trọng Sư kêu gọi Học giả thức tỉnh, thể
nhận Âm Dương trải khắp thân người, mỗi mỗi đều có Bộ Vị rõ ràng. Ở đây, gọi là Kết, gọi là
Đại là chỉ Âm Dương tại Cách Bộ.

(Trên đây, chương thứ 21, 11 tiết, giải thích Phong Hàn truyền Cách Mô).
155
THƯƠNG HÀN LUẬN QUYỂN IV
___________________________________________

THIÊN LUẬN MẠCH CHỨNG BỆNH DƯƠNG MINH


(10 chương, từ 22 đến 31)

CHƯƠNG 22 : DƯƠNG MINH THỂ LỆ

(9 Tiết, từ 181 đến 189)

1- Thể lệ liên hệ với Tam Dương Tam Âm.


2- Thể lệ thọ Thái Dương Thiếu Âm.
3- Thể lệ thọ Thái Dương.
4- Thể lệ thọ Thiếu Âm.
5- Thể lệ truyền Kinh 3 Âm.
6- Thể lệ không truyền Kinh 3 Âm.
7- Thể lệ thọ Thái Dương truyền Kinh Thiếu Dương.
8- Thể lệ thọ Thái Dương không truyền Kinh Thiếu Dương.
9- Thể lệ Bản Hàn truyền Kinh, Bản Nhiệt chuyển Hệ.

NGUYÊN VĂN (181)

Hỏi: Bệnh có Thái Dương Dương Minh, có Chính Dương Dương Minh, có Thiếu Dương Dương
Minh, là thế nào ?

Đáp: Thái Dương Dương Minh là chứng Tỳ Ước. Chính Dương Dương Minh là chứng Vỵ gia
thực. Thiếu Dương Dương Minh là chứng sau khi Phát Hãn, lợi tiểu tiện, trong Vỵ táo (ráo)
phiền, đại tiện khó đi.

BẢN NGHĨA (22/1)

*Thể lệ Dương Minh với tam Dương, tam Âm liên hệ.

- Thái Dương Dương Minh là Dương Minh thọ Thái Dương truyền Thái Âm làm chứng Tỳ Ước.

- Chính Dương Dương Minh là Dương Minh thọ Thái Dương truyền Thiếu Âm làm chứng Vỵ
gia thực.

- Thiếu Dương Dương Minh là Dương Minh thọ Thái Dương truyền Thiếu Dương Khuyết Âm
làm chứng Vỵ táo, đại tiện khó đi.
156
NGUYÊN VĂN (182)

Dương Minh ‘chi vi’ bệnh, là Vỵ gia thực.

BẢN NGHĨA (22/2)

*Thể lệ Dương Minh thọ Thái Dương Thiếu Âm.

- Vỵ gia thực: là thọ Dương Hàn Âm Nhiệt vậy.

NGUYÊN VĂN (183)

Hỏi: Duyên cớ nào mắc Dương Minh Bệnh ?

Đáp: Thái Dương Bệnh, nếu Phát Hãn, nếu Hạ, nếu Lợi tiểu tiện làm mất tân dịch thì trong Vỵ
khô ráo, nhân đó chuyển thuộc Dương Minh, không đi ngoài, Nội thực, đại tiện khó, đấy là
Dương Minh.

BẢN NGHĨA (22/3)

*Thể lệ Dương Minh thọ Thái Dương Tiêu Dương làm Bản Kinh Táo Khí.

NGUYÊN VĂN (184)

Hỏi: Ngoại chứng của bệnh Dương Minh thế nào?

Đáp: Mình nóng, tự đổ mồ hôi, không sợ lạnh trái lại sợ nóng.

BẢN NGHĨA (22/4)

*Thể lệ Dương Minh thọ Thiếu Âm Bản Nhiệt làm Bản Kinh Táo Khí.

- Dương Minh Dương Nhiệt là Ngoại chứng của Thiếu Âm, Âm Nhiệt.

NGUYÊN VĂN (185)

Hỏi: Bệnh có khi mắc phải 1 ngày, không phát sốt mà sợ lạnh là vì sao?

Đáp: Tuy mắc phải 1 ngày, chứng sợ lạnh sẽ tự hết, rồi tự đổ mồ hôi mà sợ nóng.
.

157
BẢN NGHĨA (22/5)

*Thể lệ Dương Minh truyền Kinh tam Âm.

- Không phát sốt mà sợ lạnh: truyền Âm Hàn Kinh.

- Chứng sợ lạnh sẽ tự hết, rồi tự đổ mồ hôi mà sợ nóng: Dương Minh truyền Âm Nhiệt Kinh.

NGUYÊN VĂN (186)

Hỏi: Sợ lạnh cớ gì tự hết ?

Đáp: Dương Minh ở nơi Trung Thổ, chỗ vạn vật quay về, không có chỗ lại truyền; ban đầu tuy
sợ lạnh, 2 ngày tự hết. Đấy là Dương Minh.

BẢN NGHĨA (22/6)

*Thể lệ Dương Minh không truyền tam Âm.

- Ban đầu tuy sợ lạnh: thọ Thái Dương.

- 2 ngày tự hết: không truyền Tam Âm.

NGUYÊN VĂN (187)

Vốn Thái Dương Bệnh lúc mới mắc cho Phát Hãn, mồ hôi ra không triệt để, nhân đó chuyển
thuộc Dương Minh.Thương Hàn phát sốt không mồ hôi, nôn, không ăn được, mà trái lại mồ
hôi ra dâm dấp, là chuyển thuộc Dương Minh vậy.

BẢN NGHĨA (22/7)

*Thể lệ Dương Minh thọ Thái Dương truyền Thiếu Dương.

- Mồ hôi ra không triệt để: do Thái Dương chuyển thuộc Dương Minh.

- Nôn, không ăn được mà mồ hôi ra dâm dấp: do Dương Minh chuyển thuộc Thiếu Dương.

NGUYÊN VĂN (188)

Thương Hàn 3 ngày, Dương Minh mạch Đại.

158
BẢN NGHĨA (22/8)

*Thể lệ Dương Minh tự bệnh.

- 3 ngày : ngày tam Dương hành Kinh.

- Chỉ tự bệnh cho nên mạch Đại: Dương Minh là Kinh đa Khí, đa Huyết vậy.

NGUYÊN VĂN (189)

Thương Hàn mạch Phù mà Hoãn, tay chân tự ấm là hệ tại Thái Âm, Thái Âm nên phát mình
vàng. Nếu tiểu tiện tự lợi thì không phát vàng. Đến 7-8 ngày đại tiện rắn là Dương Minh.
Thương Hàn ‘chuyển hệ’ Dương Minh thì dâm dấp hơi ra mồ hôi.

BẢN NGHĨA (22/9)

*Dương Minh thọ Bản Hàn truyền Kinh tất thọ Bản Nhiệt chuyển Hệ.

- Mạch Phù: Mạch Dương Minh thọ Thái Dương.

- Mà Hoãn: Dương Minh thọ Bản Hàn truyền.

- Tay chân tự ấm: Dương Minh thọ Bản Nhiệt.

- Hệ tại Thái Âm: Dương Minh thọ Tiêu Âm.

- Thái Âm nên phát mình vàng: tại Tấu Thái Âm chuyển hệ Dương Minh, tức tại Tấu Thiếu Âm
chuyển hệ Dương Minh.

- Tiểu tiện tự lợi thì không phát vàng: tại Lý Dương Minh thọ Bản Hàn truyền Kinh.

- Đến 7 - 8 ngày đại tiện rắn: tại Lý Dương Minh thọ Bản Nhiệt chuyển hệ,

- Thương Hàn ‘chuyển hệ’ Dương Minh: tại Biểu Dương Minh thọ Bản Hàn truyền Kinh.

- Dâm dấp hơi ra mồ hôi : tại Biểu Dương Minh thọ Bản Nhiệt chuyển hệ.

(Trên đây, chương thứ 22, 9 tiết giải thích Dương Minh thể lệ).

159
CHƯƠNG 23 : DƯƠNG MINH THỌ PHONG HÀN TẠI TẤU BÁN BIỂU

(18 Tiết, từ 190 đến 207)

1- Thọ Thiếu Âm Trúng Phong.


2- Thọ Thái Dương Trúng Hàn.
3- Thọ Trúng Hàn truyền Dương Kinh.
4- Thọ Trúng Phong truyền Dương Kinh.
5- Truyền Kinh vượng thời.
6- Thọ Trúng Hàn truyền Âm Kinh.
7- Thọ Trúng Phong truyền Âm Kinh.
8- Thọ Phong Hàn truyền Túc Thái Dương Kinh.
9- Thọ Phong Hàn truyền Túc Dương Minh Kinh.
10- Thọ Phong Hàn truyền Túc Thiếu Dương Kinh.
11- Thọ Phong Hàn truyền Thủ Thái Âm Kinh.
12- Thọ Phong Hàn truyền Thủ Thiếu Âm Kinh.
13- Thọ Phong Hàn truyền Thủ Thiếu Dương Kinh.
14- Thọ Phong Hàn truyền Thủ Thái Dương Kinh.
15- Thọ Phong Hàn truyền Thủ Dương Minh Kinh.
16- Thọ Phong Hàn truyền Túc Khuyết Âm Kinh.
17- Thọ Phong Hàn truyền Túc Thái Âm Kinh.
18- Thọ Phong Hàn truyền Túc Thiếu Âm Kinh.

NGUYÊN VĂN (190)

Dương Minh Trúng Phong, miệng đắng yết khô, bụng đầy mà Suyễn, phát sốt sợ lạnh, mạch
Phù mà Khẩn. Nếu cho Hạ thì bụng đầy, tiểu tiện khó.

BẢN NGHĨA (23/1)

* Dương Minh thọ Thiếu Âm Trúng Phong.

- Miệng đắng yết khô: thọ Trúng Phong tại Tấu đến Cách.

- Bụng đầy mà Suyễn: thọ Trúng Phong tại Tấu đến Đái.

- Phát sốt sợ lạnh, mạch Phù mà Khẩn: thọ Trúng Phong tại Tấu ra Biểu.

- Nếu cho Hạ thì bụng đầy, tiểu tiện khó: thọ Trúng Phong tại Tấu vào Lý.

160
NGUYÊN VĂN (191)

Dương Minh Bệnh, nếu ăn được gọi Trúng Phong, không ăn được gọi Trúng Hàn.

BẢN NGHĨA (23/2)

* Dương Minh thọ Thái Dương Trúng Hàn.

- Phong với Hàn chẳng phải 1,chẳng phải 2,mà là‘Thái DươngTiêu Bản’ truyền Dương Minh vậy.

Thọ Thái Dương Tiêu Dương ăn được gọi Trúng Phong.

Thọ Thái Dương Bản Hàn không ăn được gọi Trúng Hàn.

*Nếu chia ra mà nói thì Trúng Phong thuộc Thiếu Âm, Trúng Hàn thuộc Thái Dương.

Từ Bì Nhục đến Phủ Tạng, Phong Hàn mỗi mỗi cùng nêu lên. Đấy là yếu điểm học giả tất phải
biện xét.

NGUYÊN VĂN (192)

Dương Minh Bệnh, nếu Trúng Hàn không ăn được, tiểu tiện không lợi, chân tay dâm dấp ra
mồ hôi, đấy là muốn làm bệnh ‘cố hà’, tất đại tiện lúc đầu rắn sau nhão nát, sở dĩ như vậy vì
trong Vỵ hư lạnh, thủy cốc (cơm nước) không phân biệt.

BẢN NGHĨA (23/3)

*Dương Minh Trúng Hàn truyền các Dương Kinh.

- Không ăn được: Trúng Hàn.

- Tiểu tiện không lợi, chân tay dâm dấp ra mồ hôi: truyền các Dương Nhiệt Kinh.

- Muốn làm bệnh ‘cố hà’ tất đại tiện lúc đầu rắn sau nhão nát: truyền các Dương Hàn Kinh.

- Sở dĩ như vậy, vì Dương Minh thọ Bản Hàn truyền Kinh, trong Vỵ hư lạnh, cơm nước không
phân biệt, cho nên vậy.

NGUYÊN VĂN (193)

Dương Minh Bệnh, muốn ăn, tiểu tiện không lợi, đại tiện tự điều, người bệnh nhức xương
khớp, hâm hấp như trạng có Nhiệt, bỗng nhiên phát cuồng, dâm dấp đổ mồ hôi rồi giải. Đấy
161
là Thủy không thắng cốc Khí cùng với hãn cộng lại, mạch Khẩn thì khỏi.

BẢN NGHĨA (23/4)

*Dương Minh Trúng Phong truyền các Dương Kinh.

- Muốn ăn, tiểu tiện trái lại không lợi: thọ Thiếu Âm tại Tấu.

- Đại tiện tự điều: tại Tấu thọ Thiếu Âm tất có Thái Dương.

- Xương khớp nhức, như trạng có Nhiệt: thọ Thiếu Âm tại Biểu mà bệnh.

- Bỗng nhiên phát cuồng mồ hôi ra mà giải: thọ Thái Dương tại Biểu rồi giải.

- Đấy là Thủy không thắng cốc Khí cùng với Hãn cộng lại: thọ Thiếu Âm tại Lý mà bệnh.

- Mạch Khẩn thì khỏi: thọ Thái Dương tại Lý mà khỏi.

*Thái Dương Bản Hàn, Thiếu Âm Bản Nhiệt không lúc nào lìa nhau, nghịch nhau thì bệnh, hòa
nhau thì giải.

NGUYÊN VĂN (194)

Dương Minh Bệnh, lúc muốn giải, từ giờ Thân đến giờ Tuất.

BẢN NGHĨA (23/5)

* Dương Minh hành Kinh, giờ Vượng tại Thân Dậu.

NGUYÊN VĂN (195)

Dương Minh Bệnh không ăn được, dùng phép công Nhiệt tất ọe. Sở dĩ như vậy, là bởi trong
Vỵ hư lạnh, vì người bệnh vốn hư, cho nên công Nhiệt tất ọe.

BẢN NGHĨA (23/6)

*Dương Minh Trúng Hàn truyền các Âm Kinh.

- Không ăn được: thọ Bản Hàn.

- Dùng phép công Nhiệt tất ọe: Bản Nhiệt tương ứng vậy.

- Trong Vỵ hư lạnh: Dương Minh thọ Bản Hàn truyền Kinh.


162
- Người bệnh vốn hư cho nên công Nhiệt tất ọe: Bản Nhiệt (chủ Vỵ ) hư cho nên truyền các
Âm Kinh mà ọe.

NGUYÊN VĂN (196)

Dương Minh Bệnh mạch Trì, khó ăn được no, no thì hơi phiền, đầu váng, tất tiểu tiện khó;
đấy là muốn làm bệnh Cốc đản. Tuy cho Hạ, bụng vẫn đầy như cũ. Sở dĩ như vậy, là bởi mạch
Trì.

BẢN NGHĨA (23/7)

* Dương Minh Trúng Phong truyền các Âm Kinh.

- Mạch Trì: thọ Bản Hàn truyền Kinh.

- Khó ăn được no: cớ bởi Hàn truyền.

- No thì hơi phiền,đầu váng,tiểu tiện tất khó: thọ Thái Dương Trúng Hàn tất thọ Thiếu Âm
Trúng Phong.

- Đấy là muốn làm bệnh Cốc đản: Phong Hàn súc tích tại Vỵ.

- Tuy cho Hạ, bụng vẫn đầy như cũ: Âm Nhiệt có thể Hạ, Dương Hàn không thể Hạ.

NGUYÊN VĂN (197)

Dương Minh Bệnh phép nó nhiều mồ hôi; trái lại không mồ hôi, thân mình trạng như có trùng
bò trong da, đấy là vì người bệnh hư lâu ngày.

BẢN NGHĨA (23/8)

*Dương Minh thọ Phong Hàn truyền Túc Thái Dương Kinh.

- Dương Minh Kinh nhiều Khí Huyết, phép nó nhiều mồ hôi.

- Trái lại không mồ hôi: là không có Bản Nhiệt.

- Thân mình như trạng trùng bò trong da: không Bản Nhiệt thì Bản Hàn hóa Thủy như trùng bò
trong da.

- Đấy là vì hư lâu ngày: không Bản Nhiệt đã lâu vậy.

163
NGUYÊN VĂN (198)

Dương Minh Bệnh, trái lại không mồ hôi mà tiểu tiện lợi; 2-3 ngày nôn mà ho, tay chân quyết
(lãnh), tất khổ vì đau đầu; nếu như không nôn không ho, tay chân không quyết (lãnh) thì đầu
cũng không đau.

BẢN NGHĨA (23/9)

*Dương Minh thọ Phong Hàn truyền Túc Dương Minh Kinh.

- Trái lại không mồ hôi: thọ Thiếu Âm Phong.

- Tiểu tiện lợi: thọ Thái Dương Hàn.

- 2 - 3 ngày nôn mà ho chân tay quyết lãnh: cùng thọ Phong Hàn.

- Tất khổ vì đau đầu: tất truyền đến Túc Kinh.

- Nếu như không nôn không ho, tay chân không quyết lãnh: Dương Minh không thọ Phong
Hàn.

- Đầu cũng không đau: cũng không truyền đến Túc Kinh.

NGUYÊN VĂN (199)

Dương Minh Bệnh, chỉ đầu váng không sợ lạnh, cho nên ăn được mà ho, người bệnh tất yết
đau, nếu không ho thì yết cũng không đau.

BẢN NGHĨA (23/10)

* Dương Minh thọ Phong Hàn truyền Túc Thiếu Dương Kinh.

- Đầu váng, không sợ lạnh: Dương Minh thọ Phong Hàn.

- Phong truyền ở Dương Minh nên ăn được, Hàn truyền ở Dương Minh nên ho.

- Người bệnh tất yết đau: truyền Dương Minh tất truyền Thiếu Dương.

- Nếu Dương Minh không thọ Hàn mà không ho, thì không truyền Thiếu Dương nên yết cũng
không đau.

*Đấy bởi vì Dương Minh Thiếu Dương đồng là Dương Nhiệt Kinh.

164
NGUYÊN VĂN (200)

Dương Minh Bệnh không mồ hôi, tiểu tiện không lợi, trong Tâm áo nùng (buồn bực), mình tất
phát hoàng.

BẢN NGHĨA (23/11)

*Dương Minh Phong Hàn truyền Thủ Thái Âm Kinh.

- Không mồ hôi, tiểu tiện không lợi: Phong Hàn ứ tại Dương Minh Kinh.

- Trong Tâm áo nùng mình tất phát hoàng: truyền đến Thủ Thái Âm Kinh.

NGUYÊN VĂN (201)

Dương Minh bệnh ‘Bị Hỏa’, trên trán hơi đổ mồ hôi, tiểu tiện không lợi, tất phát hoàng.

BẢN NGHĨA (23/12)

*Dương Minh thọ Phong Hàn truyền Thủ Thiếu Âm Kinh.

- ‘Bị Hỏa’: nói Thủ Thiếu Âm Tâm Hỏa ‘bị’ Dương Minh Phong Hàn truyền.

- Trên trán hơi đổ mồ hôi: Hàn.

- Tiểu tiện không lợi: Phong.

- Tất phát hoàng: truyền đến Thủ Thiếu Âm Kinh.

NGUYÊN VĂN (202)

Dương Minh Bệnh, mạch Phù mà Khẩn, tất triều Nhiệt (sốt cơn) phát tác có lúc, mạch chỉ Phù
tất ra mồ hôi trộm.

BẢN NGHĨA (23/13)

*Dương Minh thọ Phong Hàn truyền Thủ Thiếu Dương Kinh.

- Mạch Phù: thọ Thiếu Âm Phong, mà Khẩn: thọ Thái Dương Hàn.

- Tất triều Nhiệt phát tác có lúc: Thủ Thiếu Dương Kinh thọ truyền.

- Chỉ thọ Thiếu Âm Phong mạch Phù, tất ‘trộm’ mồ hôi của Thái Dương để xuất ra.
165
NGUYÊN VĂN (203)

Dương Minh Bệnh miệng ráo, chỉ muốn súc miệng, không muốn nuốt nước, như thế tất chảy
máu mũi.

BẢN NGHĨA (23/14)

*Dương Minh thọ Phong Hàn truyền Thủ Thái Dương Kinh.

- Miệng ráo: thọ Phong.

- Muốn súc miệng không muốn nuốt nước: thọ Hàn.

- Tất chảy máu mũi: Thủ Thái Dương Kinh thọ truyền.

NGUYÊN VĂN (204)

Dương Minh Bệnh, vốn tự đổ mồ hôi, thầy thuốc lại cho Phát hãn nữa. Bệnh đã bớt, nhưng
còn hơi phiền không tỉnh táo, đấy là bởi cớ đại tiện rắn, vì mất tân dịch, trong Vỵ ráo nên
khiến cho đại tiện rắn; nên hỏi người bệnh ngày đi tiểu mấy lần, nếu như vốn tiểu tiện ngày
3-4 lần, nay chỉ 2 lần cho nên biết không lâu sẽ đại tiện được; nay vì số tiểu tiện ít đi là bởi
tân dịch phải nhập lại trong Vỵ, cho nên biết không lâu tất đại tiện được.

BẢN NGHĨA (23/15)

*Dương Minh thọ Phong Hàn truyền Thủ Dương Minh Kinh.

- Vốn tự đổ mồ hôi: Dương Minh ‘pháp’ nhiều mồ hôi.

- Thầy thuốc phát Hãn, bệnh đã bớt: Dương MInh Trúng Hàn đã bớt.

- Vẫn còn hơi phiền, không tỉnh táo: Dương Minh Trúng Phong chưa bớt.

- Đại tiện tất rắn, vì mất tân dịch trong Vỵ ráo: Thủ Dương Minh thọ Trúng Phong.

- Tiểu tiện ngày đi 3 -4 lần: Hàn vậy.

- Nay ngày đi 2 lần, cho nên biết không lâu sẽ đại tiện được, vì tân dịch phải nhập lại trong
Vỵ, được Hàn truyền Kinh mà Phong (bệnh) tự dứt vậy.

166
NGUYÊN VĂN (205)

Thương Hàn nôn ói nhiều, tuy có chứng Dương Minh, cũng không thể Công vậy.

BẢN NGHĨA (23/16)

*Dương Minh thọ Phong Hàn truyền Túc Khuyết Âm Kinh.

- Khuyết Âm Bản (vốn,gốc) là Phong Hàn Kinh, tuy thọ truyền bởi Dương Minh, không thể
Công vậy.

NGUYÊN VĂN (206)

Dương Minh Bệnh, dưới Tâm cứng đầy, không thể Công. Nếu Công rồi lợi không dứt là chết,
lợi dứt thì khỏi.

BẢN NGHĨA (23/17)

*Dương Minh thọ Phong Hàn truyền Túc Thái Âm Kinh.

- Dưới Tâm cứng đầy: Túc Thái Âm thọ Kết bởi Phong Hàn.

- Công rồi lợi không dứt là chết: Dương Minh hư Thái Âm cũng hư.

- Lợi dứt thì khỏi: Thái Âm thực, Dương Minh cũng thực.

NGUYÊN VĂN (207)

Dương Minh Bệnh, mặt hiệp sắc đỏ không thể Công. Nếu cho Công tất phát sốt, sắc vàng, tiểu
tiện không lợi.

BẢN NGHĨA (23/18)

*Dương Minh thọ Phong Hàn truyền Túc Thiếu Âm Kinh.

- Mặt hiệp sắc đỏ, không thể công: Dương Minh thọ Phong Hàn truyền Túc Thiếu Âm Kinh.

- Nếu cho công tất phát sốt sắc vàng: thọ Trúng Hàn truyền.

- Tiểu tiện không lợi: thọ Trúng Phong truyền.

(Trên đây, chương thứ 23, 18 tiết, giải thích Dương Minh thọ Phong Hàn tại Tấu Bán Biểu).

167
CHƯƠNG 24 : DƯƠNG MINH THỌ PHONG HÀN TẠI TẤU BÁN LÝ

(6 Tiết, từ 208 đến 213)

1- Thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu Bán Lý.

2- Thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền các Dương Kinh.

3- Thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền các Âm Kinh.

4- Thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền Xung Kinh.

5- Thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền Đốc Kinh.

6- Thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền Nhâm Kinh.

NGUYÊN VĂN (208)

Dương Minh Bệnh không Thổ, không Hạ, Tâm phiền, có thể cho dùng Điều Vỵ Thừa Khí thang.

BẢN NGHĨA (24/1)

*Dương Minh thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu Bán Lý.

- Không Thổ, không Hạ : nói Thái Dương do Ngoại nhập Tấu Bán Lý (khác với tại Nội rồi đến Bán
Lý).

- Tâm phiền: cùng với Bán Lý Thiếu Âm làm bệnh.

- Có thể dùng Điều Vỵ Thừa Khí thang : Bản phương chủ trị Thiếu Âm Nhiệt Khí tại Tấu Bán Lý;
mà Dương Minh ‘thừa’ Thái Dương Hàn Khí tại đó cũng có thể dùng. Cho thấy Dương Minh
‘thừa’ Thái Dương, tức ‘thừa’ Thiếu Âm vậy.

NGUYÊN VĂN (209)

Dương Minh Bệnh mạch Trì, tuy ra mồ hôi không sợ lạnh, mình tất nặng, Khí đoản, bụng đầy
mà Suyễn, có sốt cơn, đấy là Ngoại đã giải, có thể công Lý. Tay chân dâm dấp ra mồ hôi, đấy là
đại tiện đã rắn, Đại Thừa Khí thang làm chủ. Nếu nhiều mồ hôi, phát sốt nhẹ, sợ lạnh là Ngoại
chưa giải. Sốt không có cơn, chưa có thể dùng Thừa Khí thang, Nếu bụng đầy lắm không
thông được, có thể dùng Tiểu Thừa Khí thang hơi hòa Vỵ Khí, đừng cho xổ mạnh.

168
ĐẠI THỪA KHÍ THANG PHƯƠNG

Đại Hoàng 4 lạng (rửa rượu) Hậu Phác (chích) ½ cân

Chỉ Thực (chích) 5 quả Mang Tiêu 3 cáp

4 vị trên, dùng 1 đấu nước, trước nấu 2 vị lấy 5 thăng, bỏ bả, cho Đại Hoàng vào lại sắc lấy 2
thăng, bỏ bả, cho Mang Tiêu vào lại đặt lên lửa nhỏ cho sôi vài dạo, chia uống ấm 2 lần, hạ
được thì thôi không uống lần sau.

TIỂU THỪA KHÍ THANG PHƯƠNG

Đại Hoàng 4 lạng (rửa rượu) Hậu Phác 2 lạng (chích, cạo bỏ vỏ) Chỉ Thực 3 quả

3 vị trên, dùng 4 thăng nước, sắc lấy 1 thăng 2 cáp, bỏ bả, chia uống ấm 2 lần, uống lần đầu nên
đi ngoài được ; nếu chưa đi được thì uống hết lần sau, nếu đi ngoài được thì đừng uống nữa.

BẢN NGHĨA (24/2)

*Dương Minh thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền các Dương Kinh tại Tấu Bán Lý.

- Mạch Trì: Mạch của Bản Hàn truyền Kinh.

- Tuy ra mồ hôi, không sợ lạnh mình tất nặng: tuy có Dương Minh Nhiệt chứng, nhưng có Thái
Dương Hàn chứng.

- Thở ngắn, bụng đầy mà Suyễn: thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Bán Lý.

- Có sốt cơn: quyết chắc tại Bán Lý vậy, đấy là bệnh tại Bán Biểu đã giải, toàn nhập vào Bán Lý,
có thể công.

- Tay chân dâm dấp ra mồ hôi, đấy là đại tiện đã rắn: Thái Dương Bản Hàn ’tinh’ (dồn) vào
Thiếu Âm Bản Nhiệt, Đại Thừa Khí thang làm chủ.

- Nếu mồ hôi nhiều, phát sốt nhẹ,sợ lạnh: tại Bán Biểu Dương Hàn chưa giải.

- Sốt không có cơn: tại Bán Lý Âm Nhiệt chưa bệnh, Đại Tiểu Thừa Khí thang chưa thể dùng.

- Nếu các Dương Kinh thọ Dương Hàn nhập Lý bụng đầy lắm không thông, có thể dùng Tiểu
Thừa Khí thang: chỉ Dương Hàn bệnh vậy.

- Hơi hòa Vỵ Khí: làm cho Âm Nhiệt hòa.

- Đừng cho xổ mạnh: mà thương Vỵ Khí.

169
NGUYÊN VĂN (210)

Dương Minh Bệnh sốt cơn, đại tiện rắn, có thể dùng Đại Thừa Khí thang. Nếu phân không rắn
không thể cho dùng. Nếu không đi ngoài 5 – 6 ngày, sợ có phân táo ; phép muốn biết có phân
táo hay không thì cho uống 1 ít Tiểu Thừa Khí thang, thuốc vào trong bụng chuyển Thất Khí
(trung tiện) được, đấy là có phân táo, có thể cho công. Nếu không trung tiện, đấy chỉ lúc đầu
rắn sau tất nhão nát, không thể công, công thì tất trướng đầy không ăn được ; muốn uống
nước mà uống vào thì ọe, sau đó phát sốt đại tiện rắn mà lại ít, dùng Tiểu Thừa Khí thang để
hòa. Không chuyển Thất Khí, cẩn thận không thể công.

BẢN NGHĨA (24/3)

*Dương Minh thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền các Âm Kinh tại Tấu Bán Lý.

- Sốt cơn, đại tiện rắn, có thể dùng Đại Thừa Khí thang: Dương Minh thọ Bản Hàn Bản Nhiệt
truyền các Âm Kinh.

- Nếu phân không rắn không thể cho dùng: còn chưa truyền các Âm Kinh.

- Nếu không đại tiện, muốn biết có phân táo hay không,để thăm dò trong Vỵ hư thực, cho
uống (1 ít) Tiểu Thừa Khí thang, thuốc vào trong bụng chuyển Thất Khí (trung tiện): do
Dương Kinh chuyển nhập Âm Kinh.

- Đấy là có phân táo, có thể cho công: tại Vỵ có Bản Nhiệt.

- Không chuyển Thất Khí: tại Vỵ không Bản Nhiệt.

- Cho công thì phân lúc đầu rắn sau nhão nát, trướng đầy, không ăn được: Thái Âm.

- Uống nước vào ọe: Khuyết Âm.

- Sau đó phát sốt, tất đại tiện rắn mà lại ít: Thiếu Âm vậy ! dùng Tiểu Thừa Khí thang để hòa.

- Không chuyển Thất Khí, cẩn thận không thể công: Vỵ Khí với Thận Khí không tiếp nối nhau.

NGUYÊN VĂN (211)

(Bệnh Dương Minh) hễ thực thì nói xàm, hư thì nói lắp ; nói lắp là nói lặp đi lặp lại. Mắt trực
thị nói xàm, Suyễn đầy thì chết, hạ lợi cũng chết.

BẢN NGHĨA (24/4)

*Dương Minh thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền Xung Kinh.


170
- Thực thì nói xàm: Dương Minh thọ Bản Hàn Bản Nhiệt thực.

- Hư thì nói lắp: Dương Minh Chính Khí hư.

- Trực thị nói xàm: Vỵ thượng quản với Xung Kinh.

- Suyễn đầy thì chết: Vỵ trung quản với Xung Kinh.

- Hạ lợi cũng chết: Vỵ hạ quản với Xung Kinh.

NGUYÊN VĂN (212)

Phát Hãn nhiều, nếu lại Phát Hãn lần nữa, vong Dương nói xàm, mạch Đoản thì chết ; mạch
tự hòa thì không chết.

BẢN NGHĨA (24/5)

*Dương Minh thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền Đốc Kinh.

- Phát Hãn nhiều: mất Thái Dương tân dịch.

- Nếu lại Phát Hãn lần nữa: mất Thiếu Âm tân dịch.

- Vong Dương nói xàm: Vong Thái Dương tức vong Thiếu Âm.

- Mạch Đoản thì chết: Dương Minh tân dịch kiệt tức Đốc Kinh kiệt.

- Mạch tự hòa thì không chết: Dương Minh tân dịch còn thì Đốc Kinh còn.

NGUYÊN VĂN (213)

Thương Hàn nếu cho Thổ cho Hạ rồi, bệnh vẫn không giải, không đại tiện 5 – 6 ngày, lên đến
hơn 10 ngày, xế chiều phát sốt cơn, không sợ lạnh, nói một mình như trạng thấy quỷ ; nếu
nặng thì không biết người, măn áo sờ giường, sợ sệt không yên, hơi Suyễn, mắt trực thị,
mạch Huyền thì sống, mạch Sáp thì chết ; nếu nhẹ thì chỉ phát sốt nói xàm, Đại Thừa Khí
thang làm chủ. Nếu uống 1 lần đi ngoài được, thôi không uống lần sau.

BẢN NGHĨA (24/6)

*Dương Minh thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền Nhâm Kinh.

- Sau Thổ Hạ bệnh vẫn không giải: Dương Hàn Âm Nhiệt vẫn còn tại Tấu Bán Lý.
171
- Không đại tiện 5 - 6 ngày lên đến hơn 10 ngày: Dương Minh thọ Dương Nhiệt.

- Xế chiều phát sốt cơn, không sợ lạnh: cùng thọ Dương Hàn.

- Nói một mình như trạng thấy quỷ: truyền Nhâm Kinh.

- Nếu nặng: Bệnh do Tấu nhập Cách.

- Không biết người : Tà nhập Túc Dương Minh.

- Măn áo sờ giường: Tà nhập Thủ Dương Minh.

- Sợ sệt không yên: Tà nhập Đốc Kinh.

- Hơi Suyễn, mắt trực thị: Tà nhập Xung Kinh.

- Mạch Huyền thì sống: tại Cách tân dịch còn.

- Mạch Sáp thì chết: tại Cách tân dịch mất.

- Nếu nhẹ: Tà do Cách ra Tấu.

- Phát sốt nói xàm: chứng tại Tấu.

- Đại Thừa Khí thang làm chủ, nếu uống 1 lần đi ngoài được, thôi không uống lần sau: Tà
được tiết ra ngoài vậy.

(Trên đây, chương thứ 24, 6 tiết, giải thích Dương Minh thọ Phong Hàn tại Tấu Bán Lý).

172
CHƯƠNG 25 : TÚC DƯƠNG MINH TẠI TẤU ĐẾN LÝ

(8 Tiết, từ 214 đến 221)

1- Thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền Thủ Dương Kinh.

2- Thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền Thủ Âm Kinh.

3- Thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền Túc Dương Kinh.

4- Thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền Túc Âm Kinh.

5- Thọ Thái Dương Thiếu Âm làm Phong Thấp.

6- Thọ Thái Dương truyền Âm Hàn làm Hàn Thấp.

7- Thọ Thái Dương truyền Dương Nhiệt làm Ôn Bệnh.

8- Thọ Thái Dương truyền Âm Nhiệt làm Phong Ôn.

NGUYÊN VĂN (214)

Dương Minh Bệnh, người bệnh nhiều mồ hôi, vì tân dịch ra ngoài, trong Vỵ ráo, đại tiện rắn,
rắn thì nói xàm, Tiểu Thừa Khí thang làm chủ. Nếu uống 1 lần hết nói xàm, thì thôi chớ uống
nữa.

BẢN NGHĨA (25/1)

* Túc Dương Minh thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền Thủ Dương Kinh.

- Nhiều mồ hôi, tân dịch ra ngoài: Dương Hàn ở ngoài Vỵ.

- Trong Vỵ ráo: Âm Nhiệt vào trong Vỵ.

- Đại tiện tất rắn, rắn thì nói xàm: truyền Thủ Dương Kinh, Tiểu Thừa Khí thang làm chủ.

- Nếu uống một lần hết nói xàm: phân táo đã hạ, thì thôi chớ uống nữa.

173
NGUYÊN VĂN (215)

Dương Minh Bệnh nói xàm, phát sốt cơn, Mạch Hoạt mà Tật, Tiểu Thừa Khí thang làm chủ.
Cho uống Thừa Khí thang 1 thăng, trong bụng chuyển thất khí, lại uống 1 thăng nữa. Nếu như
không chuyển thất khí thì chớ lại cho uống. Hôm sau không đi ngoài, Mạch trái lại Vi Sáp đó là
Lý hư, là khó trị, không thể lại cho dùng Thừa Khí thang.

BẢN NGHĨA (25/2)

*Túc Dương Minh thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền Thủ Âm Kinh.

- Nói xàm, phát sốt cơn: Vỵ thọ Dương Hàn Âm Nhiệt tại Tấu Bán Lý.

- Mạch Hoạt mà tật: truyền Thủ Âm Kinh; Tiểu Thừa Khí thang làm chủ.

- Uống thang vào chuyển thất Khí: Vỵ có Âm Nhiệt,lại uống 1 thăng nữa.

- Nếu không chuyển thất Khí: Vỵ không có Âm Nhiệt, không thể cho uống.

- Hôm sau không đi ngoài, mạch trái lại Vi Sáp: Thủ Âm hư vậy, không thể lại cho dùng Thừa
Khí thang.

NGUYÊN VĂN (216)

Dương Minh Bệnh, nói xàm, có sốt cơn, trái lại không ăn được là trong ‘Vỵ’ tất có phân táo 5
– 6 cục ; Nếu ăn được chỉ phân rắn, Đại Thừa Khí thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (25/3)

*Túc Dương Minh thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền Túc Dương Kinh.

- Nói xàm, có sốt cơn: Vỵ thọ Dương Hàn Âm Nhiệt tại Bán Lý.

- Trái lại không ăn được, trong Vỵ ắt có phân táo 5 – 6 cục (Dương Minh gồm Vỵ - Đại Trường)
: thọ Dương Hàn.

- Nếu ăn được, chỉ phân rắn: thọ Âm Nhiệt. - Đại Thừa Khí thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (217)

Dương Minh Bệnh, hạ huyết, nói xàm, đấy là Nhiệt nhập Huyết thất, chỉ đầu đổ mồ hôi, châm
huyệt Kỳ Môn, tùy chứng thực mà tả, dâm dấp ra mồ hôi thì khỏi.
174
BẢN NGHĨA (25/4)

*Túc Dương Minh thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền Túc Âm Kinh.

- Hạ Huyết nói sảng: Túc Âm Kinh thọ truyền bởi Dương Minh Phong Hàn.

- Đấy là Nhiệt nhập Huyết thất: Dương Kinh hiệp Âm Kinh đi xuống.

- Chỉ đầu đổ mồ hôi: Âm Kinh hiệp Dương Kinh đi lên.

- Châm Huyệt Kỳ Môn: Âm Dương hội huyệt.

- Tùy thực chứng tại Dương Kinh Âm Kinh mà tả, khiến cho theo Dương Minh ra mồ hôi thì
khỏi.

NGUYÊN VĂN (218)

Ra mồ hôi, nói xàm, là bởi trong Vỵ có phân táo, đấy là Phong, cần cho Hạ. Quá Kinh mới có
thể Hạ, nếu Hạ sớm nói năng tất loạn, vì là Biểu hư, Lý thực cho nên thế. Cho Hạ thì khỏi, nên
dùng Đại Thừa Khí thang.

BẢN NGHĨA (25/5)

*Túc Dương Minh thọ Thái Dương Thiếu Âm làm Phong Thấp.

- Ra mồ hôi, nói xàm: Dương Hàn tại Vỵ.

- Là bởi trong Vỵ có phân táo: Âm Nhiệt tại Vỵ.

- Đấy là chứng Dương Minh Phong Thấp.

- Âm Nhiệt tại Lý cần cho Hạ.

- Dương Hàn chưa nhập Lý, quá Kinh mới có thể Hạ: cần phải xét Dương Hàn đã nhập vào
trong Vỵ chưa ?

- Nếu Hạ sớm, nói năng tất loạn: bởi cớ chỉ Hạ được Âm Nhiệt, mà không Hạ được Dương Hàn.

- Dương Hàn nhập Lý nên Biểu hư, nhập Lý hiệp với Âm Nhiệt nên Lý thực.

- Thực tại Vỵ cho Hạ thì khỏi, nên dùng Đại Thừa Khí thang, đấy là phép trị Dương Minh Phong
Thấp.

175
NGUYÊN VĂN (219)

Thương Hàn 4 – 5 ngày, mạch Trầm mà Suyễn đầy. Trầm là tại Lý mà trái lại cho Phát Hãn, tân
dịch vượt ra, đại tiện trở nên khó, Biểu hư Lý thực, lâu ngày thì nói xàm.

BẢN NGHĨA (25/6)

*Túc Dương Minh thọ Thái Dương chuyển Âm Hàn làm Hàn Thấp.

- Thương Hàn: Thái Dương.

- 4 - 5 ngày: chuyển Thiếu Âm Tiêu Âm.

- Thái Dương nhập Lý thì mạch Trầm, hiệp Tiêu Âm thì Suyễn đầy.

- Trầm là tại Lý: Hàn Thấp.

- Trái lại cho phát Hãn, tân dịch vượt ra: tại Biểu Thái Dương hư.

- Đại tiện trở nên khó: tại Lý Thiếu Âm thực.

- Lâu ngày thì nói xàm: bởi Thiếu Âm tại Lý thực. Đấy là Dương Minh Hàn Thấp.

NGUYÊN VĂN (220)

Tam Dương hiệp bệnh, bụng đầy mình nặng khó xoay trở, miệng mất cảm giác, sắc mặt bẩn,
nói xàm, đái són, Phát Hãn thì nói xàm, cho Hạ thì trên trán đổ mồ hôi, tay chân nghịch lạnh.
Nếu tự đổ mồ hôi, Bạch Hổ thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (25/7)

*Túc Dương Minh thọ Thái Dương chuyển Dương Nhiệt làm Ôn Bệnh.

- Hiệp: là Dương Hàn Dương Nhiệt hiệp lại.

- Bụng đầy, mình nặng khó xoay trở: Tam Dương hiệp bệnh tất có tam Âm tại Nội.

- Miệng mất cảm giác, sắc mặt bẩn: tại Cách.

- Nói xàm: thọ Bản Nhiệt.

- Đái són: thọ Bản Hàn.

- Phát Hãn thì nói xàm: cớ bởi Bản Nhiệt chuyển hệ.

176
- Cho Hạ thì trên trán đổ mồ hôi, tay chân nghịch lãnh: cớ bởi Bản Hàn truyền Kinh.

- Nếu tự đổ mồ hôi: ly khai Bản Hàn Bản Nhiệt làm Ôn Bệnh.

- Bạch Hổ thang làm chủ.

*.Thiếu Âm [bệnh] tự đổ mồ hôi là Âm Nhiệt vong [mất].

. Dương Minh [bệnh] tự đổ mồ hôi là Dương Nhiệt thậm [quá nhiều].

. Dùng Tứ Nghịch thang, Bạch Hổ thang nên biện rõ.

NGUYÊN VĂN (221)

Nhị Dương tinh bệnh, chứng Thái Dương đã dứt, chỉ phát sốt cơn, tay chân dâm dấp ra mồ
hôi, đại tiện khó mà nói xàm, cho Hạ thì khỏi, nên dùng Đại Thừa Khí thang.

BẢN NGHĨA (25/8)

*Túc Dương Minh thọ Thái Dương chuyển Thiếu Âm làm Phong Ôn.

- Nhị Dương tinh bệnh: Dương Hàn Dương Nhiệt dồn vào Thiếu Âm.

- Chứng Thái Dương đã dứt: Thái Dương chuyển qua Thiếu Âm.

- Chỉ phát sốt cơn: Bản Hàn dồn vào Bản Nhiệt.

- Chân tay dâm dấp ra mồ hôi: Bản Hàn dồn vào Tiêu Âm.

- Đại tiện khó mà nói xàm: Tiêu Dương dồn vào Bản Nhiệt, cho Hạ nên dùng Đại Thừa Khí
thang; đấy là Dương Minh Phong Ôn.

(Trên đây, chương thứ 25, 8 tiết, giải thích Túc Dương Minh tại Tấu đến Lý).
177
CHƯƠNG 26 : THỦ DƯƠNG MINH TẠI TẤU ĐẾN LÝ

(10 Tiết, từ 222 đến 231)

1- Thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu, tại Cách.


2- Thọ Dương Nhiệt làm Ôn Bệnh.
3- Thọ Âm Nhiệt làm Phong Ôn.
4- Thọ Âm Dương Nhiệt truyền nhau làm Ôn Bệnh Phong Ôn.
5- Thọ Âm Hàn làm Hàn Thấp.
6- Thọ Âm Hàn làm Hàn Thấp chuyển Thái Dương Phong Thấp.
7- Thọ Âm Hàn làm Hàn Thấp chuyển Thiếu Âm Phong Thấp.
8- Khí phần thọ Thái Dương Thiếu Âm.
9- Lạc phần thọ Thái Dương Thiếu Âm.
10- Kinh phần thọ Thái Dương Thiếu Âm.

NGUYÊN VĂN (222)

Dương Minh Bệnh, mạch Phù mà Khẩn, yết ráo miệng đắng, bụng đầy mà Suyễn, phát sốt đổ
mồ hôi, không sợ lạnh trái lại sợ nóng, mình nặng; Nếu Phát Hãn tất vật vã, Tâm bồi hồi, nói
xàm; Nếu thêm Thiêu châm thì kinh sợ, phiền táo không ngủ được; Nếu cho Hạ thì trong Vỵ
hư rỗng, khách Khí động Cách, trong Tâm áo nùng, trên lưỡi đóng rêu, Chi Tử Xị thang làm
chủ.

BẢN NGHĨA (26/1)

*Thủ Dương Minh thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Cách tại Tấu.

- Mạch Phù: thọ Âm Nhiệt tại Cách, mà Khẩn: thọ Dương Hàn tại Tấu.

- Yết ráo: thọ Âm Nhiệt; miệng đắng: thọ Dương Hàn.

- Bụng đầy mà Suyễn: cùng thọ tại Cách.

- Phát sốt đổ mồ hôi, không sợ lạnh trái lại sợ nóng, mình nặng: cùng thọ tại Tấu.

- Phát Hãn tất vật vã, Tâm bồi hồi, nói xàm: tại Cách thọ Nhiệt hóa.

- Thêm Thiêu Châm thì kinh sợ, phiền táo không ngủ được: tại Tấu thọ Hàn hóa.

- Cho Hạ, trong Vỵ hư rỗng, khách Khí động Cách, trên lưỡi đóng rêu: cùng thọ Hàn Nhiệt tại
Cách tại Tấu. - Chi Tử Xị thang làm chủ.

178
NGUYÊN VĂN (223)

Nếu khát, miệng khô lưỡi ráo, muốn uống nước thì Bạch Hổ gia Nhân Sâm thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (26/2)

*Thủ Dương Minh thọ Dương Nhiệt làm Ôn Bệnh.

- Khát, miệng khô lưỡi ráo muốn uống nước: Ôn Bệnh.

- Bạch Hổ gia Nhân Sâm thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (224)

Nếu mạch Phù phát sốt, khát muốn uống nước, tiểu tiện không lợi thì Trư Linh thang làm chủ.

TRƯ LINH THANG PHƯƠNG

Phục Linh 1 lạng Trư Linh 1 lạng Hoạt Thạch 1 lạng A Giao 1 lạng Trạch Tả 1 lạng

5 vị trên, dùng 4 thăng nước, trước sắc 4 vị còn 2 thăng, bỏ bả, cho A giao vào quấy tan, uống
ấm 7 cáp, ngày 3 lần.

BẢN NGHĨA (26/3)

*Thủ Dương Minh thọ Âm Nhiệt làm Phong Ôn.

- Mạch Phù phát sốt: Ôn Bệnh.

- Khát muốn uống nước, tiểu tiện không lợi: chuyển làm Phong Ôn. -Trư Linh thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (225)

Dương Minh Bệnh, đổ nhiều mồ hôi mà khát, không thể cho dùng Trư Linh thang, bởi vì mồ
hôi ra nhiều, trong Vỵ ráo, Trư Linh thang lại lợi tiểu tiện vậy.

BẢN NGHĨA (26/4)

*Thủ Dương Minh thọ Dương Nhiệt làm Ôn Bệnh, thọ Âm Nhiệt làm Phong Ôn.

- Đổ nhiều mồ hôi mà khát: là Ôn Bệnh.

- Mồ hôi ra nhiều, trong Vỵ ráo: chuyển làm Phong Ôn.


179
- Trư Linh thang lợi tiểu tiện không thích nghi với Dương Minh Phong Ôn. (!)

(!) Lời chú ngắn gọn này dễ có lầm lẫn và mâu thuẩn với tiết trên. Thực tế thì Phong Ôn là bệnh
hiệp bởi 2 Khí Dương Minh Táo và Thiếu Âm Nhiệt; cần thận trọng trong trường hợp bệnh đã
mất nhiều tân dịch mà Trư Linh thang lại lợi tiểu tiện.

NGUYÊN VĂN (226)

Mạch Phù mà Trì, Biểu Nhiệt Lý hàn, hạ lợi thanh cốc (ỉa chảy nguyên cơm nước không tiêu),
Tứ Nghịch thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (26/5)

*Thủ Dương Minh thọ Âm Hàn làm Hàn Thấp.

- Mạch Phù: Thái Dương; mà Trì: Hàn Khí.

- Biểu Nhiệt: Thái Dương; Lý Hàn: Hàn Khí.

- Hạ lợi thanh cốc: Dương Hàn nhập Lý chuyển Âm Hàn làm Hàn Thấp.

- Tứ Nghịch thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (227)

Nếu trong Vỵ hư lạnh, không ăn được, uống nước thì ọe.

BẢN NGHĨA (26/6)

*Thủ Dương Minh thọ Hàn Thấp chuyển làm Thái Dương Phong Thấp.

- Trong Vỵ hư lạnh không ăn được: Hàn Thấp.

- Uống nước thì ọe: chuyển làm Thái Dương Phong Thấp.

NGUYÊN VĂN (228)

Mạch Phù phát sốt, miệng khô mũi ráo, ăn được thì chảy máu mũi.
.

180
BẢN NGHĨA (26/7)

*Thủ Dương Minh thọ Hàn Thấp chuyển làm Thiếu Âm Phong Thấp.

- Mạch Phù phát sốt: Thủ Dương Minh Táo Khí.

- Miệng khô mũi ráo, ăn được thì chảy máu mũi: chuyển làm Thiếu Âm Phong Thấp.

NGUYÊN VĂN (229)

Dương Minh Bệnh, bên ngoài có sốt, tay chân ấm, không Kết hung, trong Tâm áo nùng, đói
không ăn được, chỉ đổ mồ hôi đầu, Chi tử Xị thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (26/8)

*Thủ Dương Minh Khí thọ Thái Dương Thiếu Âm.

- Bên ngoài có sốt, chân tay ấm: thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Biểu.

- Không Kết Hung: không thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu.

- Trong Tâm áo nùng, đói không ăn được: thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Lý.

- Chỉ đổ mồ hôi đầu: thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Cơ.

- Chi Tử Xị thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (230)

Dương Minh Bệnh, phát sốt cơn, đại tiện phân nhão, tiểu tiện bình thường, ngực hông đầy
không khỏi, Tiểu Sài Hồ thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (26/9)

*Thủ Dương Minh Lạc thọ Thái Dương Thiếu Âm.

- Phát sốt cơn: thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu Bán Lý.

- Đại tiện nhão, tiểu tiện bình thường: tại Tấu Thái Dương Bệnh,nhưng Thiếu Âm không bệnh.

- Ngực hông đầy không khỏi: tại Tấu Lạc bệnh nhưng Kinh không bệnh.

- Tiểu Sài Hồ thang làm chủ.


181
NGUYÊN VĂN (231)

Dương Minh Bệnh, dưới hông rắn đầy, không đi ngoài mà nôn, trên lưỡi rêu trắng, có thể
dùng Tiểu Sài Hồ thang, thượng tiêu được thông, tân dịch được hạ, Vỵ Khí nhân đó điều hòa,
thân mình dâm dấp ra mồ hôi mà giải.

BẢN NGHĨA (26/10)

*Thủ Dương Minh Kinh thọ Thái Dương Thiếu Âm.

- Dưới hông rắn đầy: thọ tại Trung tiêu.

- Không đi ngoài: thọ tại Hạ tiêu.

- Nôn, trên lưỡi rêu trắng: thọ tại Thượng tiêu.

- Thượng tiêu được thông: rêu trắng hết.

- Tân dịch được hạ: đại tiện thông.

- Vỵ Khí nhân đó điều hòa: ngực hông kết rắn trừ (khỏi).

- Mình dâm dấp ra mồ hôi mà giải: Thượng Hạ an, Nội Ngoại hòa vậy.

- Tiểu Sài Hồ thang kiêm trị.

(Trên đây, chương thứ 26, 10 tiết, giải thích Thủ Dương Minh tại Tấu đến Lý).
182
CHƯƠNG 27 : TÚC DƯƠNG MINH TẠI TẤU ĐẾN BIỂU

(6 Tiết, từ 232 đến 237)

1- Thọ Thiếu Âm truyền Xung Nhâm Kinh.


2- Thọ Thiếu Âm truyền Đốc Kinh.
3- Thọ Thái Dương truyền Xung Nhâm Kinh.
4- Thọ Thái Dương truyền Đốc Kinh.
5- Chuyển Âm Hàn ra Ngoại, Dương Nhiệt vào Nội.
6- Chuyển Âm Nhiệt lên thượng, Dương Hàn xuống hạ.

NGUYÊN VĂN (232)

Dương Minh Trúng Phong, mạch Huyền Phù Đại, mà Khí đoản, cả bụng đầy, dưới sườn đau
đến Tâm, án vào lâu thì Khí không thông, mũi khô, không ra được mồ hôi, ưa nằm, cả người
và mặt mắt đều vàng, tiểu tiện khó, có sốt cơn, thỉnh thoảng ọe, trước sau tai sưng, châm vào
bớt một ít. Ngoại chứng không giải, đến 10 ngày mạch tiếp tục Phù, có thể dùng Tiểu Sài Hồ
thang. Mạch chỉ Phù, không có chứng khác, dùng Ma Hoàng thang. Nếu không đái được, bụng
đầy lại thêm ọe, không trị được.

BẢN NGHĨA (27/1)

*Túc Dương Minh thọ Thiếu Âm truyền Xung Nhâm Kinh.

- Dương Minh Trúng Phong: Trúng Thiếu Âm Phong.

- Mạch Huyền Phù Đại:

. Huyền là Dương Nhiệt Kinh thọ Hàn truyền.

. Phù là tại Biểu.

. Đại là Dương Nhiệt hiệp Âm Nhiệt.

- Khí đoản, cả bụng đầy: thọ Thiếu Âm rồi Thái Dương ứng theo.

- Dưới hông đau đến Tâm, án vào lâu thì Khí không thông, mũi khô, không ra được mồ hôi:
thọ Bản Nhiệt rồi truyền Xung Nhâm Kinh.

- Ưa nằm, cả người và mặt mắt đều vàng: thọ Bản Hàn truyền Xung Nhâm Kinh.

- Tiểu tiện khó, có sốt cơn, thỉnh thoảng ọe! Tịnh (cùng) thọ Bản Hàn Bản Nhiệt truyền Xung
Nhâm Kinh.

183
- Trước sau tai sưng, châm vào bớt một ít: thọ Phong Hàn truyền chư Dương Kinh tại Cơ.

- Ngoại chứng không giải, đến 10 ngày, mạch tiếp tục Phù có thể dùng Tiểu Sài Hồ thang: thọ
Phong Hàn truyền chư Dương Kinh tại Tấu.

- Mạch chỉ Phù, không có chứng khác, dùng Ma Hoàng thang: thọ Phong Hàn truyền chư
Dương Kinh tại Bì.

- Không đái được: Thận, bụng đầy: Tỳ, thêm ọe: Can.

- Không trị được: thọ Phong Hàn truyền chư Âm Kinh tại Lý.

NGUYÊN VĂN (233)

Dương Minh Bệnh, tự đổ mồ hôi, nếu Phát hãn, tiểu tiện tự lợi, đấy là tân dịch kiệt ở trong,
tuy phân rắn cũng không thể công; cần phải tự mót đi ra ngoài. Như Mật tiển (mật thắng),
Thổ qua căn, Trư đởm trấp (nước mật lợn) đều có thể dùng để ‘đạo’ (thông khoan).

MẬT TIỂN ĐẠO PHƯƠNG (Phép thông khoan bằng mật thắng) : Mật ong 7 cáp : Cho vào nồi
đồng, đun nhỏ lửa, sắc đặc như kẹo Mạch nha, cần khuấy luôn tay chớ để cho cháy khét. Đến
khi có thể làm hoàn thì dùng tay nặn thành thỏi đầu hơi nhọn, lớn bằng ngón tay, dài chừng 2
thốn, phải làm nhanh lúc đang nóng vì nguội thì nó cứng đi. Đem nhét vào hậu môn, dùng tay
giữ lại, khi mót đi ngoài thì bỏ đi.

THỔ QUA CĂN PHƯƠNG (thất lạc)

TRƯ ĐỞM TRẤP PHƯƠNG : Mật lợn 1 cái to : Chích cho chảy nước mật, hòa với 1 ít dấm, đem
rót vào trong hậu môn, khoảng ăn xong bữa cơm thì đi ngoài.

BẢN NGHĨA (27/2)

*Túc Dương Minh thọ Thiếu Âm truyền Đốc Kinh.

- Tự đổ mồ hôi: mất tân dịch ở Tấu.

- Phát Hãn: mất tân dịch ở Biểu.

- Tiểu tiện tự lợi: mất tân dịch ở Lý.

- Đấy là Dương Minh tân dịch kiệt ở trong, tuy phân rắn không thể công: Dương Minh tân
dịch kiệt tức Đốc Kinh tân dịch kiệt.

- Cần phải tự mót đi ngoài: hộ (giúp) Dương Minh tức giúp Đốc Kinh tân dịch.
184
- Thông khoan bằng Mật thắng, Thổ Qua Căn, nước mật lợn: phép làm cho tự mót đi ngoài.

NGUYÊN VĂN (234)

Dương Minh Bệnh, mạch Trì, ra nhiều mồ hôi, hơi sợ lạnh, có thể Phát Hãn, nên dùng Quế chi
thang.

BẢN NGHĨA (27/3)

*Túc Dương Minh thọ Thái Dương truyền Xung Nhâm Kinh.

- Mạch Trì: thọ Hàn.

- Ra nhiều mồ hôi, hơi sợ lạnh: truyền Xung Nhâm KInh. - Nên dùng Quế Chi thang.

NGUYÊN VĂN (235)

Dương Minh Bệnh mạch Phù, không mồ hôi mà Suyễn, Phát Hãn thì khỏi, nên dùng Ma hoàng
thang.

BẢN NGHĨA (27/4)

*Túc Dương Minh thọ Thái Dương truyền Đốc Kinh.

- Mạch Phù: tại Biểu.

- Không mồ hôi mà Suyễn: Bản Hàn truyền Đốc Kinh. - Phát Hãn nên dùng Ma Hoàng thang.

NGUYÊN VĂN (236)

Dương Minh Bệnh, phát sốt đổ mồ hôi, đấy là Nhiệt bốc ra, không thể phát hoàng; chỉ đầu đổ
mồ hôi đến cổ thì hết, mình không có mồ hôi, tiểu tiện không lợi, khát muốn uống nước, đấy
là ứ Nhiệt tại Lý, mình tất phát hoàng, Nhân Trần cao thang làm chủ.

NHÂN TRẦN CAO THANG PHƯƠNG

Nhân Trần cao 6 lạng Chi Tử 14 trái Đại Hoàng 2 lạng

185
3 vị trên dùng 1 đấu nước, trước nấu Nhân trần giảm còn 6 thăng, cho các thuốc vào sắc lấy 3
thăng, bỏ bả, phân uống ấm 3 lần, tiểu tiện phải lợi, nước tiểu đỏ như nước Bồ kết, 1 đêm thì
bụng xẹp, vàng theo nước tiểu mà lui đi.

BẢN NGHĨA (27/5)

*Túc Dương Minh tại Tấu chuyển Âm Hàn ra Ngoại, Dương Nhiệt vào Nội.

- Phát sốt đổ mồ hôi: Túc Dương Minh bệnh tại Tấu.

- Nhiệt bốc ra không thể phát hoàng: chuyển Âm Hàn ra Ngoại.

- Chỉ đầu đổ mồ hôi đến cổ thì hết, mình không có mồ hôi: Âm Hàn ở Ngoại, Âm Nhiệt theo
cùng ra Ngoại.

- Tiểu tiện không lợi: chứng Túc Dương Minh tại Tấu.

- Khát muốn uống nước: chuyển Dương Nhiệt vào Nội.

- Ứ Nhiệt tại Lý, mình tất phát hoàng: Dương Nhiệt ở Nội, Dương Hàn theo cùng vào Nội.

- Nhân Trần Cao thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (237)

Dương Minh chứng, người bệnh hay quên tất có súc huyết, sở dĩ như vậy là vốn có ứ huyết
lâu ngày khiến cho hay quên; phân tuy rắn đại tiện trái lại dễ, sắc phân ắt đen, Để đáng thang
làm chủ.

BẢN NGHĨA (27/6)

*Túc Dương Minh tại Cách chuyển Âm Nhiệt lên Thượng, Dương Hàn xuống Hạ.

- Người bệnh hay quên tất có súc Huyết:Túc Dương Minh chuyển Âm Nhiệt lên Cách Thượng.

- Vốn có ứ Huyết lâu ngày khiến cho hay quên: chuyển Âm Nhiệt lên Thượng, Dương Hàn theo
đó cùng lên.

- Phân tuy rắn: chuyển Âm Nhiệt xuống Hạ.

- Đại tiện trái lại dễ,sắc phân ắt đen: chuyển Âm Nhiệt xuống Hạ,Dương Hàn theo đó cùng
xuống. - Để Đáng thang làm chủ.

(Trên đây, chương thứ 27, 6 tiết, giải thích Túc Dương Minh tại Tấu đến Biểu).
186
CHƯƠNG 28 : THỦ DƯƠNG MINH TẠI TẤU ĐẾN BIỂU

(6 Tiết, từ 238 đến 243)

1- Thủ Dương Minh với Dương Nhiệt Âm Hàn.


2- Thủ Dương Minh với Dương Hàn Âm Nhiệt.
3- Thủ Dương Minh với Thái Dương Thiếu Âm.
4- Thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền Nhâm Kinh.
5- Thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền Đốc Kinh.
6- Thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền Xung Kinh.

NGUYÊN VĂN (238)

Dương Minh Bệnh cho Hạ, trong Tâm bực bội mà phiền là trong Vỵ có phân táo; trong bụng
đầy, phân lúc đầu rắn sau nhão thì không thể Công. Nếu có phân táo, dùng Đại Thừa Khí
thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (28/1)

*Đây Thủ Dương Minh tại Cách với Dương Nhiệt Âm Hàn.

- Cho Hạ trong Tâm bực bội mà phiền: Dương Nhiệt hiệp Âm Hàn đi lên,Âm tòng Dương vậy.

- Trong Vỵ có phân Táo: Âm Hàn ở trên Âm Nhiệt theo cùng lên trên, Âm tòng Âm vậy.

- Trong bụng đầy, phân lúc đầu rắn sau nhão: Âm Hàn hiệp Dương Nhiệt đi xuống, Nhiệt tòng
Hàn không thể công vậy.

- Nếu như có phân táo: Dương Nhiệt ở dưới Âm Nhiệt theo cùng ở dưới, Nhiệt tòng Nhiệt vậy,
Đại Thừa Khí thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (239)

Bệnh nhân không đi ngoài 5-6 ngày, quanh rún đau, phiền táo phát lên có lúc, đấy là có phân
táo làm cho không đại tiện được.

BẢN NGHĨA (28/2)

*Thủ Dương Minh tại Tấu với Dương Hàn Âm Nhiệt.

- Không đi ngoài 5 - 6 ngày : Thủ Dương Minh Táo Khí tức Thiếu Âm Nhiệt Khí.

187
- Quanh rún đau, phiền táo phát lên có lúc: Âm Nhiệt tại Ngoại tất tòng Dương Hàn.

- Đấy là có phân táo làm cho không đại tiện được: Dương Hàn tại Nội tất tòng Âm Nhiệt.

*Dương chủ Ngoại, Âm chủ Nội cho nên vậy. Hiệp với trên xem xét, Âm Dương theo nhau,
Hàn Nhiệt đổi dời, tương ly tương hiệp, ‘huyền minh u vi’ (sâu xa kín nhiệm), chưa từng thấy ở
sách khác, Trọng Sư quả là chân Thánh Y.

NGUYÊN VĂN (240)

Bệnh nhân phiền Nhiệt, mồ hôi ra thì giải, lại giống như sốt rét, xế chiều phát sốt cơn là thuộc
Dương Minh; Mạch Thực thì cho Hạ, mạch Phù thì Phát Hãn; cho Hạ nên dùng Đại Thừa Khí
thang, Phát Hãn nên dùng Quế Chi thang.

BẢN NGHĨA (28/3)

*Thủ Dương Minh tại Tấu với Thái Dương Thiếu Âm.

- Phiền Nhiệt: Thái Dương tại Nội (ở trong) tòng (theo) Thiếu Âm.

- Mồ hôi ra thì giải: Thiếu Âm tại Ngoại theo Thái Dương.

- Giống như sốt rét, xế chiều phát sốt cơn: Đấy là thuộc Thủ Dương Minh, có Bản Nhiệt tất có
Bản Hàn.

- Mạch thực thì cho Hạ: trị tại Nội Thái Dương Thiếu Âm, nên dùng Đại Thừa Khí thang.

- Mạch Phù thì phát Hãn: trị tại Ngoại Thái Dương Thiếu Âm, nên dùng Quế Chi thang.

NGUYÊN VĂN (241)

Sau khi cho xổ mạnh, 6-7 ngày không đại tiện, phiền không giải được, bụng đầy đau, đấy là có
phân táo. Sở dĩ như vậy, là vốn có túc thực (thức ăn lâu cũ), Đại Thừa Khí thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (28/4)

*Thủ Dương Minh thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền Nhâm Kinh.

- 6 -7 ngày không đại tiện, phiền không giải được: thọ Bản Nhiệt, lại thọ Bản Hàn.

- Bụng đầy đau, đấy là có phân táo: truyền Nhâm Kinh.

188
- Vốn có túc thực: nói Bản Nhiệt bất ly (không lìa) Bản Hàn, nên dùng Đại Thừa Khí thang.

NGUYÊN VĂN (242)

Bệnh nhân tiểu tiện không lợi, đại tiện khi khó khi dễ, thỉnh thoảng có sốt nhẹ, Suyễn choáng
váng không nằm được là có phân táo, nên dùng Đại Thừa Khí thang.

BẢN NGHĨA (28/5)

*Thủ Dương Minh thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền Đốc Kinh.

- Tiểu tiện không lợi, đại tiện khi khó khi dễ: thọ Âm Nhiệt truyền Đốc Kinh.

- Suyễn choáng váng không nằm được: thọ Dương Hàn truyền Đốc Kinh.

- Đấy là có phân táo: nói nguyên do Đại Trường bệnh truyền đến Đốc Kinh, nên dùng Đại Thừa
Khí thang.

NGUYÊN VĂN (243)

Ăn cơm muốn nôn là thuộc Dương Minh, Ngô thù du thang làm chủ; uống thuốc vào trái lại
nặng hơn là thuộc Thượng tiêu.

NGÔ THÙ DU THANG PHƯƠNG

Ngô thù du 1 thăng (rửa rượu) Nhân sâm 3 lạng

Sinh cương 6 lạng (cắt lát) Đại táo 12 quả (bổ ra)

4 vị trên, dùng 7 thăng nước sắc lấy 2 thăng, lọc bỏ bả, uống ấm 7 cáp, ngày 3 lần.

BẢN NGHĨA (28/6)

*Thủ Dương Minh thọ Thái Dương Thiếu Âm truyền Xung Kinh.

- Ăn cơm muốn nôn: thọ Dương Hàn truyền Xung Kinh, Ngô Thù Du thang làm chủ.

- Uống thuốc vào lại nặng hơn: thọ Âm Nhiệt truyền Xung Kinh, không thể dùng.

(Trên đây, chương thứ 28, 6 tiết, giải thích Thủ Dương Minh tại Tấu đến Biểu).

189
CHƯƠNG 29 : DƯƠNG MINH TẠI TẤU CHUYỂN THUỘC NHAU

(6 Tiết, từ 244 đến 249)

1- Với các Kinh chuyển thuộc nhau.


2- Với Thái Dương chuyển thuộc.
3- Với Thiếu Âm chuyển thuộc.
4- Với Thái Âm chuyển thuộc.
5- Với Thiếu Dương chuyển thuộc.
6- Với Khuyết Âm chuyển thuộc.

NGUYÊN VĂN (244)

Dương Minh Bệnh mạch thốn Hoãn, quan Phù, xích Nhược, người bệnh phát sốt đổ mồ hôi,
lại sợ rét không nôn, chỉ dưới Tâm Bĩ (đầy tức), đấy là vì thầy thuốc cho Hạ. Nếu như không
hạ, bệnh nhân không sợ lạnh mà khát, đấy là chuyển thuộc Dương Minh; Tiểu tiện đi luôn,
đại tiện tất rắn, không đi ngoài 10 ngày vẫn không thấy khó chịu, khát muốn uống nước thì
cho uống từng chút một là dùng ‘pháp’ cứu chữa, khát thì nên dùng Ngũ Linh tán.

BẢN NGHĨA (29/1)

*Dương Minh tại Tấu với các Kinh chuyển thuộc.

- Thốn Hoãn: Dương Minh tại Biểu hư. Quan Phù: Dương Minh tại Tấu hư. Xích Nhược: Dương
Minh tại Lý hư.

- Phát sốt đổ mồ hôi: tại Cơ hư [1]. Lại sợ rét không nôn: tại Bì hư [2]. Dưới Tâm đầy tức: tại
Tấu hư [3].

Đấy là mạch chứng các Kinh chuyển thuộc Dương Minh.

- Nếu như không hạ: là Dương Minh thực các Kinh trái lại chuyển thuộc các Kinh.

- Không sợ lạnh mà khát: chuyển thuộc Dương Nhiệt Kinh.

- Không đi ngoài 10 ngày vẫn không thấy khó chịu: chuyển thuộc Âm Hàn Kinh.

- Khát muốn uống nước, dùng pháp cứu chữa: chuyển thuộc Âm Nhiệt Kinh.

- Khát thì nên dùng Ngũ Linh Tán: chuyển thuộc Dương Hàn Kinh.

* Theo Thương Hàn Giáo Khoa thì :

[1] tại Biểu hư, [2] tại Tấu hư, [3] tại Lý hư.
190
NGUYÊN VĂN (245)

Mạch Dương Vi mà mồ hôi ra ít là tự hòa; mồ hôi ra nhiều là thái quá. Mạch Dương Thực cho
Phát hãn, mồ hôi ra nhiều cũng là thái quá. Thái quá là Dương tuyệt ở Lý, vong tân dịch, đại
tiện nhân đó rắn.

BẢN NGHĨA (29/2)

*Dương Minh với Thái Dương chuyển thuộc.

- Mạch Dương Vi là chỉ Dương Hàn bệnh; chỉ Dương Hàn mồ hôi ra ít là hòa, mồ hôi ra nhiều
là thái quá.

- Mạch Dương Thực: có Dương Nhiệt hiệp, mồ hôi ra nhiều thì Vỵ Thủy kiệt,cũng là thái quá.

- Thái quá thì Dương Hàn tuyệt ở Lý, vong tân dịch, đại tiện nhân đó rắn, đấy là Dương Minh
với Thái Dương chuyển thuộc nhau và không chuyển thuộc vậy.

NGUYÊN VĂN (246)

Mạch Phù mà Khâu, Phù là Dương, Khâu là Âm; Phù Khâu tương bác, Vỵ Khí sinh Nhiệt, phần
Dương sẽ tuyệt.

BẢN NGHĨA (29/3)

*Dương Minh với Thiếu Âm chuyển thuộc.

- Phù là Dương Minh, Khâu là Thiếu Âm.

- Dương Minh Thiếu Âm tương bác, Vỵ Khí sinh Nhiệt: thọ Thiếu Âm Nhiệt.

- Phần Dương sẽ tuyệt: Dương Hàn tuyệt ở Lý.

NGUYÊN VĂN (247)

Phu Dương mạch Phù mà Sáp, Phù thì Vỵ Khí cường, Sáp thì tiểu tiện đi luôn, Phù Sáp tương
bác thì đại tiện khó, thành chứng Tỳ ước, Ma Tử Nhân hoàn làm chủ.

191
MA TỬ NHÂN HOÀN PHƯƠNG

Ma Tử nhân 2 thăng Thược Dược ½ cân Chỉ Thực ½ cân [chích]

Đại Hoàng 1 cân [bỏ vỏ] Hậu Phác 1 cân [chích, bỏ vỏ]

Hạnh Nhân 1 thăng [bỏ vỏ và đầu nhọn]

6 vị trên, tán nhuyễn, luyện mật làm hoàn bằng hạt Ngô đồng, mỗi lần uống 10 hoàn, ngày 3
lần, tăng dần thêm lấy nhuận trường làm mức độ.

BẢN NGHĨA (29/4)

*Dương Minh với Thái Âm chuyển thuộc.

- Mạch Phù là Dương Minh, Sáp là Thái Âm.

- Dương Minh Phù thì Vỵ Khí cường(khỏe).

- Thái Âm Sáp thì tiểu tiện đi luôn.

- Thái Âm bị Dương Minh ‘bác’ (lấn áp) thì đại tiện khó, Tỳ bị Vỵ Ước (bó buộc), Ma Tử Nhân
Hoàn làm chủ.

NGUYÊN VĂN (248)

Thái Dương Bệnh 3 ngày, Phát Hãn không giải, hầm hầm phát sốt là thuộc Điều Vỵ Thừa Khí
thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (29/5)

*Dương Minh với Thiếu Dương chuyển thuộc.

- 3 ngày: Thiếu Dương.

- Phát Hãn không giải, hầm hầm phát sốt: Thiếu Dương chuyển thuộc Dương Minh.

- Điều Vỵ Thừa Khí thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (249)

Thương Hàn sau khi cho thổ, bụng trướng đầy, dùng Điều Vỵ Thừa Khí thang.

192
BẢN NGHĨA (29/6)

*Dương Minh với Khuyết Âm chuyển thuộc.

- Sau khi cho Thổ bụng trướng đầy: Khuyết Âm chuyển thuộc Dương Minh, dùng Điều Vỵ
Thừa Khí thang.

(Trên đây, chương thứ 29, 6 tiết, giải thích Dương Minh tại Tấu chuyển thuộc nhau ).

193
CHƯƠNG 30 : DƯƠNG MINH TÁO HÓA CHƯ KINH

(6 Tiết, từ 250 đến 255)

1- Táo hóa Thái Dương Kinh.

2- Táo hóa Khuyết Âm Kinh.

3- Táo hóa Thiếu Dương Kinh.

4- Táo hóa Bản Kinh.

5- Táo hóa Thiếu Âm Kinh.

6- Táo hóa Thái Âm Kinh.

NGUYÊN VĂN (250)

Thái Dương Bệnh, nếu cho Thổ, cho Hạ, cho Phát Hãn rồi, hơi phiền, tiểu tiện luôn, đại tiện
nhân đó rắn, dùng Tiểu Thừa Khí thang để hòa đi thì khỏi.

BẢN NGHĨA (30/1)

* Dương Minh Táo hóa Thái Dương.

- Thổ ,Hạ, Phát Hãn: thì Thái Dương thủy kiệt mà táo (ráo).

- Tiểu tiện luôn, đại tiện nhân đó rắn: thọ Dương Minh táo hóa.

- Dùng Tiểu Thừa Khí thang để hòa đi.

NGUYÊN VĂN (251)

Mắc bệnh 2 – 3 ngày, mạch Nhược, không có chứng Thái Dương Sài Hồ, phiền táo, dưới Tâm
rắn, đến 4 – 5 ngày tuy ăn được, dùng Tiểu Thừa Khí thang, dùng ít ít để hơi hòa, cho đỡ một
chút ; đến 6 ngày dùng 1 thăng Thừa Khí thang. Nếu không đại tiện 6 – 7 ngày, tiểu tiện ít, tuy
không ăn được, phân lúc đầu rắn sau tất nát, chưa định thành rắn, cho công tất phân nát. Cần
phải đợi tiểu tiện lợi, phân chắc hẳn rắn mới có thể công, nên dùng Đại Thừa Khí thang.
.

194
BẢN NGHĨA (30/2)

*Dương Minh táo hóa Khuyết Âm

- Dương Hàn Dương Nhiệt hiệp bệnh là chứng Tiểu Sài Hồ.

- Dương Hàn Âm Nhiệt hiệp bệnh là chứng Đại Sài Hồ.

- Mắc bệnh 2 - 3 ngày: là Dương Nhiệt.

- Mạch Nhược: là Âm Hàn, gọi là không có chứng Thái Dương Sài Hồ.

- Phiền táo: Dương Nhiệt táo hóa Âm Hàn.

- Dưới Tâm rắn: Dương Nhiệt Âm Hàn Kết.

- Đến 4 - 5 ngày: là ngày Âm Nhiệt hành Kinh, tức là ngày Dương Nhiệt được trợ, tuy ăn được,
dùng Tiểu Thừa Khí thang để hòa, cho đỡ chút ít.

- Đến 6 ngày: là ngày Âm Hàn hành Kinh, thọ táo hóa bởi Dương Nhiệt. Dùng Tiểu Thừa Khí để
công.

- Nếu không đại tiện 6 - 7 ngày, tiểu tiện ít: 6 ngày là Âm Hàn, 7 ngày là Dương Hàn, đấy là Âm
Hàn được Dương Hàn trợ (giúp).

- Tuy không ăn được, phân lúc đầu rắn, sau tất nát, cho công thì phân nát: có Dương Hàn trợ
thì không thể táo hóa.

- Nếu tiểu tiện lợi, phân định (chắc hẳn) rắn: có Âm Nhiệt trợ tất táo hóa, nên dùng Đại Thừa
Khí thang.

*Nói Dương Nhiệt Âm Hàn đều là Tiêu Khí, đều do Bản Khí đưa đến chỗ bị bệnh; đấy là Thái
Dương Thiếu Âm sở dĩ thống hết thảy các Kinh.

NGUYÊN VĂN (252)

Thương Hàn 6 – 7 ngày, trong mắt không tỉnh táo, con ngươi không hòa, không có chứng Biểu
Lý, đại tiện khó, mình hơi nóng, đấy là thực, gấp cho Hạ, nên dùng Đại Thừa Khí thang.

BẢN NGHĨA (30/3)

*Dương Minh táo hóa Thiếu Dương.

- 6 - 7 ngày: ngày do Biểu nhập Lý, Thiếu Dương là Kinh Bán Biểu Bán Lý.
195
- Trong mắt không tỉnh táo, con ngươi không hòa: Thiếu Dương thọ Dương Minh.

- Không có chứng Biểu Lý: nói tại Tấu.

- Đại tiện khó, mình hơi nóng: đấy là Dương Nhiệt thực, do Âm Nhiệt mà thực.

- Gấp cho Hạ: (bảo) tồn Âm dịch, nên dùng Đại Thừa Khí thang.

NGUYÊN VĂN (253)

Dương Minh Bệnh phát sốt, nhiều mồ hôi, gấp cho Hạ, nên dùng Đại Thừa Khí thang.

BẢN NGHĨA (30/4)

*Dương Minh tự táo hóa.

- Dương Minh phát sốt: do thọ Thái Dương Hàn mà phát sốt.

- Dương Minh nhiều mồ hôi: do Thái Dương Hàn Khí mà nhiều mồ hôi.

- Gấp cho Hạ: bảo(tồn) Dương dịch, nên dùng Đại Thừa Khí thang.

NGUYÊN VĂN (254)

Phát Hãn không giải, bụng đầy đau, gấp cho Hạ, nên dùng Đại Thừa Khí thang.

BẢN NGHĨA (30/5)

*Dương Minh táo hóa Thiếu Âm.

- Phát Hãn không giải: Dương Minh tại Ngoại không giải.

- Bụng đầy đau: chứng của Thiếu Âm tại Nội tức chứng của Dương Minh nhập Nội.

- Gấp cho Hạ: sợ Âm Dương đều sẽ vong, nên dùng Đại Thừa Khí thang.

*Xem xét 3 chứng Hạ gấp trên, Dương Minh đều thừa (thuận theo) Thái Dương Thiếu Âm mà
đến vậy.

196
NGUYÊN VĂN (255)

Bụng đầy không giảm, giảm không đáng kể, phải cho Hạ, nên dùng Đại Thừa Khí thang.

BẢN NGHĨA (30/6)

*Dương Minh táo hóa Thái Âm.

- Bụng đầy không giảm: Dương Nhiệt nhập Âm Hàn.

- Giảm không đáng kể: chỉ giảm Dương phần, chưa giảm Âm phần.

- Phải cho Hạ, nên dùng Đại Thừa Khí thang.

(Trên đây, chương thứ 30, 6 tiết, giải thích Dương Minh tại Tấu táo hóa chư Kinh).

197
CHƯƠNG 31 : DƯƠNG MINH LÀM THƯƠNG HÀN LOẠI

( 6 Tiết, từ 256 đến 261)

1- Tại Tấu làm Thương Hàn rồi chuyển bệnh khác.

2- Tại Tấu làm Thương Hàn rồi đến Nhiệt Bệnh.

3- Tại Tấu làm Thương Hàn rồi đến Hàn Thấp.

4- Tại Tấu làm Thương Hàn rồi đến Phong Thấp.

5- Tại Tấu làm Thương Hàn rồi đến Ôn Bệnh.

6- Tại Tấu làm Thương Hàn rồi đến Phong Ôn.

NGUYÊN VĂN (256)

Dương Minh Thiếu Dương hiệp bệnh tất hạ lợi, mạch không phụ (thua) là thuận, phụ là thất
(mất), khắc hại lẫn nhau gọi là ‘ phụ ‘. Mạch Hoạt mà Sác là có túc thực, cần cho Hạ, nên dùng
Đại Thừa Khí thang.

BẢN NGHĨA (31/1)

*Dương Minh tại Tấu thọ Thương Hàn chuyển làm bệnh khác.

- Dương Minh Thiếu Dương hiệp bệnh: đồng Dương Nhiệt chứng.

- Tất hạ lợi: đồng thọ Dương Hàn truyền Kinh tới.

- Mạch không thua là thuận: Dương Hàn không thua Dương Nhiệt là thuận.

- Khắc hại lẫn nhau: Dương Hàn bị Dương Nhiệt khắc hại gọi là ‘phụ’.

- Mạch Hoạt: Dương Nhiệt thực, mà Sác: Dương Hàn hư. Trong Hàn có Nhiệt là chứng túc
thực, cần cho Hạ, nên dùng Đại Thừa Khí thang.

198
NGUYÊN VĂN (257)

Bệnh nhân không Biểu Lý chứng, phát sốt 7 – 8 ngày, tuy mạch Phù Sác cũng có thể cho Hạ.
Giả như đã Hạ rồi, mạch Sác không giải, hợp Nhiệt thì tiêu cơm chóng đói, đến 7 – 8 ngày
không đại tiện là có ứ huyết nên dùng Để Đáng thang. Nếu mạch Sác không giải mà hạ (đi
ngoài) không dứt, tất hiệp Nhiệt mà đại tiện ra mủ máu.

BẢN NGHĨA (31/2)

*Dương Minh tại Tấu làm Thương Hàn rồi đến Nhiệt Bệnh.

- Không Biểu Lý chứng: nói tại Tấu.

- Phát sốt 7 - 8 ngày: Dương Minh tại Tấu.

- Tuy mạch Phù Sác: tại Tấu Âm Nhiệt hư.

- Có thể cho Hạ: cớ bởi Dương Nhiệt cũng tại Tấu.

- Giả như đã Hạ rồi: Dương Nhiệt không giải, hiệp Âm Nhiệt thì tiêu cơm chóng đói.

- Đến 7 - 8 ngày không đại tiện là thọ Âm Nhiệt ứ Huyết, Để Đáng thang làm chủ.

- Nếu mạch Sác không giải mà đi ngoài không dứt, ấy là chuyển Âm Hàn đại tiện ra mủ máu
vậy.

NGUYÊN VĂN (258)

Thương Hàn Phát Hãn rồi, mình mắt đều vàng, sở dĩ như vậy là vì Hàn Thấp tại Lý không giải,
cho nên không thể Hạ, phải cầu tìm (phép trị) trong môn Hàn Thấp.

BẢN NGHĨA (31/3)

*Dương Minh tại Tấu làm Thương Hàn rồi đến Hàn Thấp.

- Phát Hãn rồi mình mắt vàng: thọ Lý Âm Hàn.

- Âm Hàn không thể Hạ, cầu tìm (phép trị) trong môn Hàn Thấp.

199
NGUYÊN VĂN (259)

Thương Hàn 6 - 7 ngày, mình vàng như màu quả quít, tiểu tiện không lợi, bụng hơi đầy, Nhân
Trần Cao thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (31/4)

*Dương Minh tại Tấu làm Thương Hàn rồi đến Phong Thấp.

- Mình vàng như màu quả quít: tại Ngoại Dương Nhiệt thọ Dương Hàn.

- Tiểu tiện không lợi, bụng hơi đầy: tại Nội Dương Nhiệt thọ Dương Hàn.

- Nhân Trần Cao thang làm chủ: trị tại Tấu mà Nội Ngoại giải vậy.

NGUYÊN VĂN (260)

Thương Hàn mình vàng phát sốt, Chi Tử Bá Bì thang làm chủ.

CHI TỬ BÁ BÌ THANG PHƯƠNG

Phì Chi tử 15 trái Bá Bì 2 lạng Chích Thảo 1 lạng

3 vị trên, dùng 4 thăng nước, nấu lấy 1 thăng rưỡi, bỏ bả, chia uống ấm 2 lần.

BẢN NGHĨA (31/5)

*Dương Minh tại Tấu làm Thương Hàn rồi đến Ôn Bệnh.

- (Dương Minh là Nhiệt, tại Tấu cũng là Nhiệt phần) Hai Nhiệt xông đốt nhau, mình vàng phát
sốt, Chi Tử Bá Bì thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (261)

Thương Hàn ứ Nhiệt tại Lý, mình tất phát vàng, Ma Hoàng Liên Kiều Xích Tiểu Đậu thang làm
chủ.

200
MA HOÀNG LIÊN KIỀU XÍCH TIỂU ĐẬU THANG PHƯƠNG

Ma Hoàng 2 lạng Liên Kiều Căn 2 lạng Xích Tiểu Đậu 1 thăng

Hạnh Nhân 40 hạt (bỏ vỏ,đầu nhọn) Sinh tử Bạch Bì 1 thăng (thái mỏng)

Đại Táo 12 quả (xẻ ra) Sinh Cương 2 lạng (thái mỏng) Chích Thảo 2 lạng

8 vị trên, dùng nước lã 1 đấu, nấu Ma Hoàng trước sôi 1 – 2 dạo, vớt bỏ bọt, cho các vị thuốc
vào nấu lấy 3 thăng, bỏ bả, chia uống ấm 3 lần, uống hết trong nửa ngày.

BẢN NGHĨA (31/6)

*Dương MInh tại Tấu làm Thương Hàn rồi đến Phong Ôn.

- Kinh Khuyết Âm (Túc Âm Hàn) hành Huyết với Kinh Dương Nhiệt (Túc Thiếu Dương) hành
Thủy (Khí)cùng nhau ứ Nhiệt tại Lý tất cùng nhau phát vàng ở ngoài. Ma Hoàng Liên Kiều
Xích Tiểu Đậu thang làm chủ.

(Trên đây, chương thứ 31, 6 tiết, giải thích Dương Minh làm Thương Hàn Loại).

201
THƯƠNG HÀN LUẬN QUYỂN V
___________________________________________

THIÊN LUẬN MẠCH CHỨNG BỆNH THIẾU DƯƠNG


(1 chương)

CHƯƠNG 32 : THIẾU DƯƠNG THỂ LỆ

(10 Tiết, từ 262 đến 271)

1- Thể lệ Thiếu Dương thọ Thái Dương Thiếu Âm.

2- Thể lệ Thiếu Dương Trúng Phong.

3- Thể Lệ Thiếu Dương Thương Hàn.

4- Thể Lệ Thiếu Dương Hàn Thấp không chuyển Phong Thấp.

5- Thể Lệ Thiếu Dương Ôn Bệnh chuyển sang Phong Ôn.

6- Thể Lệ Thiếu Dương thọ tam Dương truyền Kinh.

7- Thể lệ Thiếu Dương truyền Kinh tam Âm.

8- Thể lệ Thiếu Dương không truyền tam Âm.

9- Thể lệ Thiếu Dương không thọ tam Dương truyền Kinh.

10- Thể lệ Thiếu Dương hành Kinh vượng thời.

NGUYÊN VĂN (262)

Thiếu Dương ‘chi vi’ bệnh, miệng đắng, họng khô, mắt hoa.

BẢN NGHĨA (32/1)

*Thể lệ Thiếu Dương thọ Thái Dương Thiếu Âm.

- Thiếu Dương là Hỏa Khí.

- Miệng đắng: thọ Thái Dương Hàn Khí.

202
- Họng khô: thọ Thiếu Âm Nhiệt Khí.

- Mắt hoa: cùng thọ vậy.

NGUYÊN VĂN (263)

Thiếu Dương Trúng Phong, hai tai không nghe được, mắt đỏ, trong ngực đầy mà phiền,
không thể cho Thổ Hạ ; cho Thổ Hạ thì hồi hộp mà kinh sợ.

BẢN NGHĨA (32/2)

*Thể lệ Thiếu Dương Trúng Phong.

- Hai tai không nghe được: Kinh đi mé bên thân Trúng Phong.

- Mắt đỏ: Kinh của Hỏa Khí.

- Trong ngực đầy mà phiền: thọ Thái Dương Thiếu Âm.

- Không thể cho Thổ Hạ: không phải thuần chứng Lý.

- Thổ Hạ thì Bản Hàn truyền Tam Tiêu Kinh nên hồi hộp, truyền Đởm Kinh nên kinh sợ.

NGUYÊN VĂN (264)

Thương Hàn mạch Huyền Tế, đầu đau, phát sốt là thuộc Thiếu Dương. Thiếu Dương không
thể Phát Hãn, Phát Hãn thì nói xàm, đấy là thuộc Vỵ, Vỵ hòa thì khỏi, không hòa thì phiền (bứt
rứt) mà quý (hồi hộp).

BẢN NGHĨA (32/3)

*Thể lệ Thiếu Dương Thương Hàn.

- Mạch Huyền Tế: Dương Vi cho nên Tế, mà thọ Hàn cho nên Huyền.

- Đầu đau: thọ Dương Hàn.

- Phát Nhiệt: thọ Âm Nhiệt.

- Thuộc Thiếu Dương: Kinh bán Dương bán Âm.

- Thiếu Dương không thể phát Hãn: không phải thuần Biểu Kinh.

203
- Phát Hãn thì nói xàm: Dương Hàn đi mà Âm Nhiệt lại.

- Đấy là thuộc Vỵ : Âm Dương hòa.

- Vỵ hòa thì khỏi: cớ bởi Âm Dương hòa.

- Không hòa thì thọ Âm Nhiệt bệnh mà phiền, thọ Dương Hàn bệnh mà quý.

NGUYÊN VĂN (265)

Vốn Thái Dương Bệnh không giải, chuyển nhập Thiếu Dương, dưới Hiếp đầy đau, nôn khan
không ăn được, nóng lạnh qua lại ; còn chưa cho Thổ Hạ, mạch Trầm Khẩn, Tiểu Sài Hồ thang
làm chủ.

BẢN NGHĨA (32/4)

*Thể lệ Thiếu Dương Hàn Thấp không chuyển Phong Thấp.

- Vốn Thái Dương bệnh không giải, chuyển nhập Thiếu Dương, dưới Hiếp đầy đau: làm
Thương Hàn vậy.

- Nôn khan không ăn được: Thương Hàn chuyển làm Hàn Thấp.

- Nóng lạnh qua lại: cớ bởi tại Bán Biểu làm Hàn Thấp.

- Còn chưa cho Thổ Hạ, mạch Trầm Khẩn: chưa nhập Bán Lý, không chuyển làm Thiếu Âm
Phong Thấp, Tiểu Sài Hồ thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (266)

Nếu đã cho Phát Hãn, Thổ, Hạ, Ôn châm rồi mà nói xàm, Sài Hồ thang chứng đã dứt, đấy là
Hoại bệnh. Tìm xem phạm về nghịch nào, dùng ‘pháp’ trị đi.

BẢN NGHĨA (32/5)

*Thể lệ Thiếu Dương Ôn Bệnh chuyển làm Phong Ôn.

- Đã cho phát Hãn, cho Thổ, cho Hạ, cho Ôn châm: trị Thiếu Dương Ôn Bệnh.

- Nói xàm, Sài Hồ thang chứng đã dứt: Thiếu Dương Ôn Bệnh chuyển làm Phong Ôn.

- Đấy là Hoại Bệnh: Bản Hàn đã hoại, chuyển sang Bản Nhiệt vậy.
204
- Tìm xem phạm ở nghịch nào, dùng ‘pháp’ trị đi: hoặc là Ôn Bệnh, hoặc là Phong Ôn; nhất
thiết mọi chứng nghịch phạm ở Thiếu Dương đều theo ‘pháp’ Dương Minh, ‘pháp’ Thái
Dương để trị. Sở dĩ Bản Kinh chỉ có 10 Tiết tự đủ.

NGUYÊN VĂN (267)

Tam Dương hiệp bệnh, mạch Phù Đại lên trên Bộ Quan, chỉ muốn ngủ, nhắm mắt thì đổ mồ
hôi.

BẢN NGHĨA (32/6)

*Thể lệ Thiếu Dương thọ tam Dương truyền Kinh.

- Mạch Phù Đại: Dương Hàn hiệp Dương Nhiệt.

- Lên trên Bộ Quan: Bộ vị của chư Dương.

- Chỉ muốn ngủ: thọ Dương Hàn.

- Nhắm mắt thì đổ mồ hôi: thọ Dương Nhiệt.

NGUYÊN VĂN (268)

Thương Hàn 6 – 7 ngày, không sốt cao, người bệnh phiền táo, đấy là Dương nhập vào Âm.

BẢN NGHĨA (32/7)

*Thể lệ Thiếu Dương truyền Kinh tam Âm.

- 6 - 7 ngày: ngày Âm Dương giao giới.

- Không sốt cao: do đã nhập Âm Kinh.

- Phiền táo: do bởi Dương nhập vào Âm.

*Đây là Thiếu Dương thọ tam Dương truyền vào tam Âm. Các chú gia bảo rằng tam Âm là trực
trúng, là chưa từng đọc kỷ thiên này.

.
205
NGUYÊN VĂN (269)

Thương Hàn 3 ngày, tam Dương hành Kinh đã dứt, tam Âm đáng lý thọ tà, người bệnh trái lại
ăn được mà không nôn, đấy là tam Âm không thọ tà.

BẢN NGHĨA (32/8)

*Thể lệ Thiếu Dương không truyền tam Âm.

- Tam Dương hành Kinh đã dứt, Tam Âm đáng lẽ thọ tà: thọ truyền từ Thiếu Dương.

- Trái lại ăn được mà không nôn: Thiếu Dương không thọ tam Dương cho nên không truyền
tam Âm.

NGUYÊN VĂN (270)

Thương Hàn 3 ngày, Thiếu Dương mạch Tiểu là muốn khỏi.

BẢN NGHĨA (32/9)

*Thể lệ Thiếu Dương không thọ tam Dương truyền Kinh.

- Thọ tam Dương thì mạch Đại, không thọ tam Dương thì mạch Tiểu.

- Muốn khỏi: không truyền vào tam Âm.

NGUYÊN VĂN (271)

Bệnh Thiếu Dương, lúc muốn giải là từ giờ Dần đến giờ Thìn.

BẢN NGHĨA (32/10)

*Thể lệ Thiếu Dương hành Kinh vượng thời.

- Giờ Vượng của Thiếu Dương hành Kinh là giờ Mão (từ Dần đến Thìn).

(Trên đây, chương thứ 32, 10 tiết, giải thích Thiếu Dương thể lệ).
206
THIÊN LUẬN MẠCH CHỨNG BỆNH THÁI ÂM
(1 chương)

CHƯƠNG 33 : THÁI ÂM THỂ LỆ.

(8 Tiết, từ 272 đến 279)

1- Thể lệ Thái Âm thọ truyền tại Cơ rồi đến Tấu.

2- Thể lệ Thái Âm Trúng Phong.

3- Thể lệ Thái Âm hành Kinh vượng thời.

4- Thể lệ Thái Âm Thương Hàn.

5- Thể lệ Thái Âm Hàn Thấp.

6- Thể lệ Thái Âm Phong Thấp.

7- Thể lệ Thái Âm Ôn Bệnh Phong Ôn.

8- Thể lệ Thái Âm không bị Ôn Bệnh Phong Ôn.

NGUYÊN VĂN (272)

Thái Âm ‘chi vi’ bệnh, bụng đầy mà mửa, ăn không xuống, tự ỉa chảy thêm nặng, có lúc bụng
tự đau. Nếu cho Hạ thì trong ngực Bĩ rắn.

BẢN NGHĨA (33/1)

*Thể lệ Thái Âm thọ truyền tại Cơ rồi đến Tấu.

- Bụng đầy mà mửa: thọ Dương Hàn.

- Ăn không xuống: thọ Âm Nhiệt.

- Tự ỉa chảy thêm nặng: thọ Âm Hàn.

- Có lúc bụng tự đau: thọ Dương Nhiệt.

- Cho Hạ thì trong ngực Bĩ rắn: thọ truyền tại Cơ rồi đến Tấu.
207
NGUYÊN VĂN (273)

Thái Âm Trúng Phong, tứ chi phiền nhức, mạch Dương Vi, Âm Sáp mà Trường là muốn khỏi.

BẢN NGHĨA (33/2)

*Thể lệ Thái Âm Trúng Phong.

- Tứ chi phiền nhức: thọ tại Biểu.

- Mạch Dương Vi: không thọ Dương Hàn; Mạch Âm Sác: không thọ Âm Nhiệt; mà Trường là
đắc Vỵ Khí hòa, là muốn khỏi.

NGUYÊN VĂN (274)

Thái Âm Bệnh, lúc muốn giải là từ giờ Hợi đến giờ Sửu.

BẢN NGHĨA (33/3)

*Thể lệ Thái Âm hành Kinh Vượng thời.

- Giờ Vượng của Thái Âm hành Kinh là giờ Tý ( từ giờ Hợi đến giờ Sửu).

NGUYÊN VĂN (275)

Thái Âm Bệnh mạch Phù, có thể Phát Hãn, Quế Chi thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (33/4)

*Thể lệ Thái Âm Thương Hàn.

NGUYÊN VĂN (276)

Tự ỉa chảy không khát là thuộc Thái Âm, bởi vì Tạng nó có Hàn, phải làm cho Ôn, nên dùng
loại Tứ Nghịch.

BẢN NGHĨA (33/5)

*Thể lệ Thái Âm thọ Dương Hàn làm Hàn Thấp.

- Ỉa chảy không khát là thuộc Thái Âm: Thái Dương Bản Hàn truyền vào Thái Âm.
208
- Bởi vì Tạng nó có Hàn: Thái Âm Tạng Hàn, Thấp là Bản Khí của Thái Dương.

- Phải làm cho Ôn, nên dùng loại Tứ Nghịch: nhất thiết mạch chứng bệnh Thái Âm chọn lấy nơi
Thái Dương. Sở dĩ Thiên này chỉ có 1 Chương 8 Tiết !

NGUYÊN VĂN (277)

Thương Hàn mạch Phù mà Hoãn, chân tay tự ấm là hệ tại Thái Âm ; Thái Âm đáng lý phát
mình vàng. Nếu tiểu tiện tự lợi thì không thể phát vàng. Đến 7 – 8 ngày tuy bạo phiền, hạ lợi,
hơn 10 ngày tất tự dứt, bởi Tỳ gia thực, vật thối nát phải tự trừ (khứ) đi.

BẢN NGHĨA (33/6)

*Thể lệ Thái Âm thọ Âm Nhiệt làm Phong Thấp.

- Mạch Phù: Âm Nhiệt, mà Hoãn: Âm Hàn.

- Tay chân tự ấm là hệ tại Thái Âm: Thiếu Âm hệ với Thái Âm.

- Thái Âm đáng lý phát mình vàng: Thái Âm hệ với Thiếu Âm.

- Nếu Thái Âm không hệ với Thiếu Âm mà tiểu tiện tự lợi thì Thiếu Âm cũng không hệ với Thái
Âm mà không thể phát vàng.

- Nếu Thiếu Âm hệ với Thái Âm mà bạo phiền hạ lợi thì Thái Âm cũng hệ với Thiếu Âm, hơn 10
ngày tất tự dứt. Đấy là Thái Âm Thiếu Âm không rời nhau.

- Tỳ gia thực, vật thối nát phải tự trừ đi: cùng nhau làm bệnh lại cùng nhau trừ bệnh, Đạo của
Âm Dương vậy.

NGUYÊN VĂN (278)

Vốn Thái Dương Bệnh, thầy thuốc trái lại cho Hạ, nhân đó mà bụng đầy, có lúc đau, là thuộc
Thái Âm, Quế Chi gia Thược Dược thang làm chủ. Nếu rất thực và đau, Quế Chi gia Đại Hoàng
thang làm chủ.

QUẾ CHI GIA THƯỢC DƯỢC THANG PHƯƠNG

Quế Chi 3 lạng (bỏ vỏ) Thược Dược 6 lạng Chích Thảo 2 lạng.

Sinh Cương 3 lạng (thái mỏng) Đại Táo 12 quả (xẻ ra)

209
5 vị trên, dùng 7 thăng nước sắc lấy 3 thăng, bỏ bả, chia uống ấm 3 lần.

QUẾ CHI GIA ĐẠI HOÀNG THANG PHƯƠNG

Phương trên gia Đại Hoàng 2 lạng.

6 vị trên, dùng 7 thăng nước, sắc lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng ngày 3 lần.

BẢN NGHĨA (33/7)

*Thể lệ Thái Âm thọ Dương Nhiệt làm Ôn Bệnh, chuyển Âm Nhiệt làm Phong Ôn.

- Bụng đầy, có lúc đau: Ôn Bệnh, Quế Chi gia Thược Dược thang làm chủ.

- Rất thực và đau: Phong Ôn, Quế Chi gia Đại Hoàng thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (279)

Thái Âm Bệnh mạch Nhược, người bệnh tiếp tục đi ỉa. Giả thiết phải dùng Đại Hoàng Thược
Dược, nên giảm bớt (lượng), bởi vì người bệnh Vỵ Khí yếu dễ động.

BẢN NGHĨA (33/8)

*Thể lệ Thái Âm không làm Ôn Bệnh, không làm Phong Ôn.

- Mạch Nhược: tại Tấu Dương Nhiệt hư không làm Ôn Bệnh.

- Người bệnh tiếp tục đi ỉa: Dương Nhiệt hư, Âm Nhiệt cũng hư không làm Phong Ôn.

- Giả thiết phải dùng Đại Hoàng Thược Dược, nên giảm bớt (lượng), bởi vì Vỵ Khí yếu, tức
Dương Nhiệt Âm Nhiệt yếu vậy.

(Trên đây, chương thứ 33, 8 tiết, giải thích Thái Âm thể lệ).
210
THƯƠNG HÀN LUẬN QUYỂN VI
___________________________________________

THIÊN LUẬN MẠCH CHỨNG BỆNH THIẾU ÂM


(6 chương, từ 34 đến 39)

CHƯƠNG 34 : THIẾU ÂM THỂ LỆ

(4 Tiết, từ 280 đến 283)

1- Thể lệ Thiếu Âm Thái Dương Kinh Khí liên quan.

2- Thể lệ Thiếu Âm Thái Dương Tiêu Bản liên quan.

3- Thể lệ Thiếu Âm Thái Dương Bản Khí liên quan.

4- Thể lệ Thiếu Âm Thái Dương Tiêu Khí liên quan.

NGUYÊN VĂN (280)

Thiếu Âm ‘chi vi’ bệnh, mạch Vi Tế, chỉ muốn ngủ.

BẢN NGHĨA (34/1)

*Thể lệ Thiếu Âm Kinh Khí với Thái Dương liên quan.

- Mạch Vi Tế : Vi là Nhiệt Khí Vi, Tế là Âm Kinh Tế, Nhiệt Khí bị Âm Kinh làm cho Tế tiểu. Nhiệt
Khí Vi tức ‘Thái Dương’ tại Lý Vi. Âm Kinh Tế tức ‘Hàn Khí’ tại Lý thực.

- Chỉ muốn ngủ: tại Lý Nhiệt Khí thọ chịu Âm Kinh ức chế; tại Biểu Thái Dương Kinh thọ chịu
Hàn Khí ức chế cũng vậy.

NGUYÊN VĂN (281)

Thiếu Âm Bệnh muốn mửa không mửa, Tâm phiền chỉ muốn ngủ, 5 – 6 ngày tự ỉa chảy mà
khát là thuộc Thiếu Âm, hư cho nên đòi nước để tự cứu. Nếu tiểu tiện sắc trắng, đấy là Thiếu
Âm Bệnh hình đầy đủ ; tiểu tiện sắc trắng là vì Hạ tiêu hư có Hàn, không thể chế thủy, nên
khiến cho sắc trắng vậy.
211
BẢN NGHĨA (34/2)

*Thể lệ Thiếu Âm Tiêu Bản với Thái Dương liên quan.

- Muốn mửa mà không mửa: cớ bởi Thiếu Âm Tiêu Âm mà Bản Nhiệt, với Thái Dương Bản Hàn
mà Tiêu Dương đồng.

- Tâm phiền chỉ muốn ngủ: cớ bởi Thiếu Âm Bản Nhiệt mà Tiêu Âm, với Thái Dương Tiêu
Dương mà Bản Hàn đồng.

- 5 - 6 ngày tự ỉa chảy: Tiêu Âm; mà khát: Bản Nhiệt.

- Đấy là thuộc Thiếu Âm: Kinh Hàn mà Khí Nhiệt.

- Hư cho nên đòi nước để tự cứu: Thái Dương, ‘là’ Dương Kinh.

- Nếu tiểu tiện sắc trắng: Thái Dương, ‘chủ’ Hàn Khí.

- Đấy là Thiếu Âm Bệnh hình đầy đủ: Thái Dương Bệnh hình vậy.

- Tiểu tiện sắc trắng là nói hạ tiêu Thiếu Âm Bản Nhiệt hư cho nên thọ Tiêu Âm không chế
được thủy; cũng như ở hạ tiêu Bản Hàn thực, tiểu tiện sắc trắng, mà Tiêu Dương ở trên hư
không chế được thủy vậy.

*Thiếu Âm Thái Dương không chỉ Nội Ngoại đồng mà Thượng Hạ cũng không bất đồng.

NGUYÊN VĂN (282)

Bệnh nhân mạch Âm Dương đều Khẩn, trái lại đổ mồ hôi là vong Dương, đấy là thuộc Thiếu
Âm, ‘pháp đương’ (đáng lý) phải đau họng mà lại mửa ỉa.

BẢN NGHĨA (34/3)

*Thể lệ Thiếu Âm Bản Khí với Thái Dương liên quan.

- Mạch Âm Dương đều Khẩn: Khẩn tại Thái Dương là ‘không mồ hôi’ Bản Hàn bế ngăn làm cho
Bản Nhiệt không ra ngoài được. Khẩn tại Thiếu Âm ‘trái lại đổ mồ hôi’ là Vong Dương, Bản
Hàn ép bức Bản Nhiệt ra ngoài.

- ‘Pháp’ , ấy là Thiếu Âm tất thọ Thái Dương truyền Kinh, ‘pháp’ nhất định vậy.

- Phải đau họng: Thiếu Âm Nhiệt Khí.

- Mà lại mửa ỉa: tất thọ Thái Dương Hàn Khí truyền Kinh.
212
NGUYÊN VĂN (283)

Thiếu Âm Bệnh, ho mà ỉa chảy, nói xàm là bởi bị hỏa bức ép, tiểu tiện tất khó, là vì cưỡng ép
phát Thiếu Âm hãn vậy.

BẢN NGHĨA (34/4)

*Thể lệ Thiếu Âm Tiêu Khí với Thái Dương liên quan.

- Ho: là Âm Nhiệt thọ Dương Hàn.

Tại Tấu Tiêu Dương thọ Tiêu Âm cũng ho.

- Hạ lợi: Bản Nhiệt thọ Bản Hàn.

Tại Tấu Tiêu Dương thọ Tiêu Âm cũng hạ lợi.

- Tiêu Âm tại Tấu thọ Bản Nhiệt sinh nói xàm.

Tiêu Dương tại Tấu bị hỏa bức ép cũng nói xàm.

- Tiêu Dương tại Tấu tiểu tiện khó, Tiêu Âm tại Tấu mà cưỡng Phát Hãn cũng tiểu tiện khó.

*Tiêu Khí có liên quan do Bản Khí liên quan đưa đến, cho nên ‘kiêm ngôn’ vậy.

(Trên đây, chương thứ 34, 4 tiết, giải thích Thiếu Âm thể lệ).

213
CHƯƠNG 35 : THIẾU ÂM TẠI LÝ ĐẾN BIỂU.

(10 Tiết, từ 284 đến 293)

1- Thiếu Âm chủ Lý.

2- Thiếu Âm tại Cách và tại Đới.

3- Thiếu Âm tại Biểu và tại Lý.

4- Thiếu Âm tại Tấu Bán Biểu.

5- Thiếu Âm tại Tấu Bán Lý.

6- Thiếu Âm tại Cơ.

7- Thiếu Âm vượng thời.

8- Thọ Bản Nhiệt truyền Xung Nhâm mạch.

9- Thọ Bản Nhiệt truyền Đốc mạch.

10- Thọ Bản Hàn chuyển Bản Nhiệt truyền chư Kỳ Kinh.

NGUYÊN VĂN (284)

Thiếu Âm Bệnh, mạch Tế Trầm Sác, là bệnh tại Lý, không thể Phát Hãn.

BẢN NGHĨA (35/1)

*Thiếu Âm chủ Lý.

- Thái Dương chủ Biểu mạch Phù, Thiếu Âm tại Biểu theo Thái Dương trị pháp, Thái Dương
nên Phát Hãn, Thiếu Âm cũng nên Phát Hãn.

- Thiếu Âm chủ Lý mạch Tế Trầm Sác, Thái Dương tại Lý theo Thiếu Âm trị pháp. Thiếu Âm
không thể Phát Hãn, Thái Dương cũng không thể Phát Hãn.

NGUYÊN VĂN (285)

Thiếu Âm Bệnh mạch Vi không thể Phát Hãn, vong Dương cho nên thế. Dương đã hư mạch
Xích Nhược, lại cũng không thể cho Hạ.
214
BẢN NGHĨA (35/2)

*Thiếu Âm tại Cách và Đái.

- Tại Cách mạch Vi không thể Phát Hãn, vong Thái Dương tức vong Thiếu Âm vậy.

- Tại Cách Thái Dương hư thì tại Đái Thiếu Âm mạch Xích Nhược, lại cũng không thể cho Hạ.

*Tại Cách tại Đái nhất Khí quán thông, Thái Dương Thiếu Âm nhất Khí quán thông vậy.

NGUYÊN VĂN (286)

Thiếu Âm Bệnh mạch Khẩn, đến 7 – 8 ngày tự ỉa chảy, đột nhiên mạch Vi, tay chân lại ấm,
mạch lại hết Khẩn là muốn giải vậy, tuy phiền ỉa chảy tất cũng tự khỏi.

BẢN NGHĨA (35/3)

*Thiếu Âm tại Biểu và Lý.

- Mạch Khẩn: mạch Thiếu Âm Thái Dương tại Biểu.

- Đến 7 - 8 ngày tự ỉa chảy, đột nhiên mạch Vi: mạch chứng Thiếu Âm tại Lý, cũng là mạch
chứng Thái Dương tại Lý.

- Tay chân lại ấm, mạch lại hết Khẩn: Thiếu Âm tại Biểu giải, Thái Dương tại Biểu cũng giải.

- Tuy phiền ỉa chảy tất tự khỏi: Thiếu Âm tại Lý giải, Thái Dương tại Lý cũng giải.

*Tại Biểu tại Lý nhất Khí quán thông, Thiếu Âm Thái Dương nhất Khí quán thông vậy.

NGUYÊN VĂN (287)

Thiếu Âm Bệnh hạ lợi (ỉa chảy), nếu lợi tự hết, sợ lạnh mà nằm co, tay chân ấm là có thể trị.

BẢN NGHĨA (35/4)

*Thiếu Âm tại Tấu Bán Biểu

- Hạ lợi: Thái Dương Bản Hàn tại Bán Biểu.

- Lợi tự dứt: Thiếu Âm Bản Nhiệt cũng tại Bán Biểu.

- Sợ lạnh mà nằm co: Bản Hàn tại Bán Biểu rồi ra Bì Cơ.
215
- Tay chân ấm, có thể trị: Bản Nhiệt cũng tại Bán Biểu rồi ra Bì Cơ.

NGUYÊN VĂN (288)

Thiếu Âm Bệnh sợ lạnh mà nằm co, có lúc tự phiền muốn cởi bỏ áo chăn, là có thể trị.

BẢN NGHĨA (35/5)

*Thiếu Âm tại Tấu Bán Lý.

- Sợ lạnh mà nằm co: Bản Hàn thực tại Bán Lý.

- Tự phiền muốn cởi bỏ áo chăn: Bản Nhiệt cũng thực tại Bán Lý.

Hàn Nhiệt đều thực nên có thể trị.

NGUYÊN VĂN (289)

Thiếu Âm Trúng Phong, mạch Dương Vi, mạch Âm Sác là muốn khỏi.

BẢN NGHĨA (35/6)

*Thiếu Âm Trúng Phong tại Cơ.

- Mạch Dương Vi: không truyền tam Dương.

- Mạch Âm Sác: không truyền tam Âm.

- Là muốn khỏi: chỉ riêng tại Cơ vậy.

NGUYÊN VĂN (290)

Thiếu Âm Bệnh, lúc muốn giải là từ giờ Tý đến giờ Dần.

BẢN NGHĨA (35/7)

*Thiếu Âm Vượng thời.

- Giờ Vượng của Thiếu Âm hành Kinh là giờ Sửu (từ giờ Tý đến giờ Dần).

216
NGUYÊN VĂN (291)

Thiếu Âm Bệnh mửa ỉa, tay chân không nghịch lãnh, trái lại phát sốt là không chết, mạch
không đến thì cứu Thiếu Âm 7 tráng.

BẢN NGHĨA (35/8)

*Thiếu Âm Bản Nhiệt truyền Xung Nhâm Kinh .

- Thiếu Âm Bệnh mửa ỉa: Xung Kinh thọ (bệnh) nên mửa, Nhâm Kinh thọ (bệnh) nên ỉa.

- Tay chân không nghịch lãnh, trái lại phát sốt là không chết: Xung Nhâm Kinh thọ Âm Nhiệt.

- Mạch không đến : thọ Âm Hàn.

- Cứu Thiếu Âm 7 tráng: Quan Nguyên là chổ hội của Xung Nhâm, cứu huyệt Thái Khê là Du
huyệt của Túc Thiếu Âm Thận Kinh, huyệt Công Tôn tại Tỳ Kinh thông Xung mạch.

NGUYÊN VĂN (292)

Thiếu Âm Bệnh 8 - 9 ngày, cả người tay chân đều nóng, là vì Nhiệt tại Bàng Quang. Tất đi
(tiện) ra máu.

BẢN NGHĨA (35/9)

*Thiếu Âm Bản Nhiệt truyền Đốc Kinh.

- 8 - 9 ngày, cả người chân tay đều nóng: Dương Nhiệt hiệp Âm Nhiệt.

- Nhiệt tại Bàng Quang, tất tiểu tiện ra máu: Bàng Quang thọ Thiếu Âm Nhiệt Khí hành Thủy.
Đốc Kinh thọ Thiếu Âm Nhiệt Khí hành Huyết, Thủy tận (hết) thì Huyết chí (đến) vậy.

NGUYÊN VĂN (293)

Thiếu Âm Bệnh, chỉ quyết (lãnh) không mồ hôi, nếu cưỡng Phát Hãn tất động đến Huyết,
chưa biết sẽ ra theo lối nào, hoặc theo miệng mũi, hoặc theo mắt ra, gọi là ‘hạ quyết thượng
kiệt’ , là khó trị.

217
BẢN NGHĨA (35/10)

*Thiếu Âm Bản Nhiệt thọ Thái Dương Bản Hàn truyền Xung Nhâm Đốc Kinh.

- Chư Kỳ Kinh thọ Thái Dương Hàn truyền mà quyết, tất thọ Thiếu Âm Nhiệt hệ mà không mồ
hôi.

- Nếu cưỡng Phát Hãn của Thiếu Âm, tất động đến huyết của các Kỳ Kinh, hoặc do Xung Nhâm
Kinh theo mắt ra, hoặc do Đốc Kinh theo miệng mũi ra.

- Gọi là ‘Hạ thọ Hàn truyền Kinh mà quyết, Thượng thọ Nhiệt chuyển hệ mà Kiệt’.

- Hàn Nhiệt cùng bệnh cho nên khó trị.

(Trên đây, chương thứ 35, 10 tiết, giải thích Thiếu Âm tại Lý đến Biểu).
218
CHƯƠNG 36 : THIẾU ÂM TỬ CHỨNG
(6 Tiết, từ 294 đến 299)

1- Bản Nhiệt tại Tấu vong.

2- Bản Nhiệt tại Lý vong.

3- Bản Nhiệt tại Cách vong.

4- Bản Nhiệt tại Đới vong.

5- Bản Nhiệt thọ Bản Hàn bức bách, ra ngoài rồi vong.

6- Bản Nhiệt thọ Bản Hàn bức bách, ở trong đến vong.

NGUYÊN VĂN (294)

Thiếu Âm Bệnh, sợ lạnh mình co mà ỉa chảy, tay chân nghịch lãnh là không trị được.

BẢN NGHĨA (36/1)

*Thiếu Âm Bản Nhiệt tại Tấu Vong.

- Sợ lạnh mình co: tại Tấu Bản Nhiệt vong (mất).

- Mà ỉa chảy: Tấu Nhiệt vong, Lý Nhiệt cũng vong.

- Tay chân nghịch lãnh: Tấu Nhiệt vong, Biểu Nhiệt cũng vong.

- 3 bộ phận cùng vong là chứng không trị được.

NGUYÊN VĂN (295)

Thiếu Âm Bệnh mửa ỉa phiền táo, tay chân nghịch lãnh là chết.

BẢN NGHĨA (36/2)

*Thiếu Âm Bản Nhiệt tại Lý Vong.

- Mửa ỉa: Bản Hàn nhập Lý.

- Phiền táo: với Lý Nhiệt bức bách nhau.


219
- Tay chân nghịch lãnh là chết : Lý Nhiệt vong, Biểu Nhiệt cũng vong.

NGUYÊN VĂN (296)

Thiếu Âm Bệnh, ỉa chảy dứt mà đầu váng, thỉnh thoảng tự tối mắt là chết.

BẢN NGHĨA (36/3)

*Thiếu Âm Bản Nhiệt tại Cách Vong.

- Ỉa chảy dứt: Bản Nhiệt tại Cách hạ vong.

- Đầu váng, thỉnh thoảng tự tối mắt là chết: Bản Nhiệt tại Cách thượng vong.

NGUYÊN VĂN (297)

Thiếu Âm Bệnh, 6 – 7 ngày thở dốc lên là chết.

BẢN NGHĨA (36/4)

*Thiếu Âm Bản Nhiệt tại Đái Vong.

- 6 - 7 ngày: ngày Dương Hàn tái Kinh nhập Lý.

- Thở dốc lên là chết: Âm Nhiệt từ Đái thoát lên.

NGUYÊN VĂN (298)

Thiếu Âm Bệnh tay chân quyết nghịch, sợ lạnh, mình co, mạch không đến, không phiền mà
táo (vật vã) là chết.

BẢN NGHĨA (36/5)

* Thiếu Âm Bản Nhiệt thọ Hàn tại Ngoại, Bản Hàn bức bách cho đến Vong.

- Tay chân quyết nghịch sợ lạnh: Hàn thực tại Biểu.

- Mình co: Hàn thực tại Tấu.

- Mạch không đến : Hàn thực tại Lý.

220
- Không phiền mà vật vã là chết: Ngoại Hàn bức ép Nội Nhiệt đến vong.

NGUYÊN VĂN (299)

Thiếu Âm Bệnh, mạch Trầm Vi Tế, chỉ muốn nằm, đổ mồ hôi, không phiền, tự muốn mửa ;
đến 4 – 5 ngày tự ỉa chảy, rồi lại phiền táo không nằm ngủ được là chết.

BẢN NGHĨA (36/6)

*Thiếu Âm Bản Nhiệt thọ Hàn tại Nội, Bản Hàn bức bách cho đến Vong.

- Mạch Trầm Vi Tế: Hàn thực tại Lý.

- Chỉ muốn nằm, đổ mồ hôi, không phiền, tự muốn mửa: Hàn thực tại Biểu.

- Đến 4 - 5 ngày tự ỉa chảy: Hàn thực tại Tấu.

- Rồi lại phiền táo không nằm ngủ được là chết: bức bách tại Tấu đến vong Bản Nhiệt.

(Trên đây, chương thứ 36, 6 tiết, giải thích Thiếu Âm tử chứng).

221
CHƯƠNG 37 : THIẾU ÂM TẠI BIỂU ĐẾN LÝ

(9 Tiết, từ 300 đến 308)

1- Khí thọ Bản Hàn tại Cơ đến Bì.

2- Khí thọ Bản Hàn tại Cơ.

3- Khí thọ Bản Hàn tại Cơ đến Tấu.

4- Kinh thọ Bản Hàn tại Bì.

5- Kinh thọ Bản Hàn tại Cơ.

6- Kinh thọ Bản Hàn tại Tấu.

7- Lạc thọ Bản Hàn tại Tấu.

8- Lạc thọ Bản Nhiệt tại Tấu.

9- Lạc thọ Bản Hàn Bản Nhiệt tại Tấu đến Cách.

NGUYÊN VĂN (300)

Thiếu Âm Bệnh mới mắc phải, lại phát sốt, mạch Trầm, Ma Hoàng Phụ Tử Tế Tân thang làm
chủ.

MA HOÀNG PHỤ TỬ TẾ TÂN THANG PHƯƠNG

Ma Hoàng 2 lạng (bỏ mắt) Phụ Tử 1 củ (bào, bỏ vỏ, xẻ làm 8) Tế Tân 2 lạng

3 vị trên, dùng 1 đấu nước, trước nấu Ma Hoàng giảm 2 thăng, vớt bỏ bọt, cho các vị thuốc kia
vào sắc lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần.

BẢN NGHĨA (37/1)

*Thiếu Âm Khí thọ Bản Hàn truyền Kinh tại Cơ đến Bì.

- Mới mắc phải: mới đầu tại Cơ Nhục.

- Lại phát sốt: thọ Bản Hàn mà lại phát Thiếu Âm Bản Nhiệt.

- Mạch Trầm: cớ bởi Âm Kinh tại Biểu thọ Hàn truyền.Ma Hoàng Phụ Tử Tế Tân thang làm chủ.

222
NGUYÊN VĂN (301)

Thiếu Âm Bệnh mắc phải 2 – 3 ngày, dùng Ma Hoàng Phụ Tử Cam Thảo thang để Phát Hãn
nhẹ, bởi vì 2 – 3 ngày không có Lý chứng, cho nên Phát Hãn nhẹ vậy.

MA HOÀNG PHỤ TỬ CAM THẢO THANG PHƯƠNG

Ma Hoàng 2 lạng (bỏ mắt) Phụ Tử 1 củ (bào, bỏ vỏ, xẻ làm 8) Chích Thảo 2 lạng

3 vị trên, dùng 7 thăng nước, trước nấu Ma Hoàng sôi 1 – 2 dạo, vớt bỏ bọt, cho các vị kia vào
sắc lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần.

BẢN NGHĨA (37/2)

*Thiếu Âm Khí thọ Bản Hàn truyền Kinh tại Cơ Nhục.

- Mắc phải: mắc tại Cơ Nhục.

- 2 - 3 ngày: tại Cơ Nhục thọ Bản Hàn truyền Kinh.

- Dùng Ma Hoàng Phụ Tử Cam Thảo thang để Phát Hãn nhẹ: phát Thiếu Âm Bản Nhiệt thọ Hàn
bởi vì 2 - 3 ngày không có Thiếu Âm Lý chứng, có thể Phát Hãn nhẹ vậy.

NGUYÊN VĂN (302)

Thiếu Âm Bệnh mắc phải 2 – 3 ngày trở lên, trong Tâm phiền không nằm được, Hoàng Liên A
Giao thang làm chủ.

HOÀNG LIÊN A GIAO THANG PHƯƠNG

Hoàng Liên 4 lạng A Giao 3 lạng Hoàng Cầm 2 lạng

Thược Dược 2 lạng Kê Tử Hoàng 2 quả

5 vị trên, dùng 5 thăng nước, nấu 3 vị lấy 2 thăng, bỏ bả, cho A Giao vào quấy tan hết, thuốc hơi
nguội cho lòng đỏ trứng gà vào quấy cho hòa tan nhau, uống ấm 7 cáp ngày uống 3 lần.

BẢN NGHĨA (37/3)

*Thiếu Âm Khí thọ Bản Hàn truyền Kinh tại Cơ đến Tấu.

- Mắc phải 2 -3 ngày trở lên: tại Cơ rồi đến Tấu.

223
- Trong Tâm phiền không nằm được: bởi vì Bản Hàn mà truyền Bản Nhiệt Kinh, lại tại Tấu là
Nhiệt phần.

- Hoàng Liên A Giao thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (303)

Thiếu Âm Bệnh mắc phải 1 – 2 ngày, trong miệng hòa, lưng hơi lạnh, nên cứu đi, Phụ Tử
thang làm chủ.

PHỤ TỬ THANG PHƯƠNG

Phụ Tử 2 củ (bào, bỏ vỏ, xẻ làm 8) Phục Linh 3 lạng Nhân Sâm 2 lạng

Bạch Truật 4 lạng Thược Dược 3 lạng

5 vị trên, dùng 8 thăng nước, sắc lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần.

BẢN NGHĨA (37/4)

*Thiếu Âm Kinh thọ Bản Hàn tại Bì.

- Mắc phải 1 - 2 ngày: mắc tại Bì Cơ.

- Trong miệng hòa: Bệnh không tại Khí phần.

- Lưng sợ lạnh: Thiếu Âm Kinh thông với Bối (lưng).

- Nên cứu đi: trị tại Kinh (cứu huyệt Cách Du).

- Phụ Tử thang làm chủ: trị Kinh tất trị Khí.

NGUYÊN VĂN (304)

Thiếu Âm Bệnh, mình mẩy đau, tay chân lạnh, xương khớp nhức mạch Trầm, Phụ Tử thang
làm chủ.

BẢN NGHĨA (37/5)

*Thiếu Âm Kinh thọ Bản Hàn tại Cơ.

- Mình mẩy đau: thọ Hàn tại Cơ.

224
- Tay chân lạnh: từ Cơ đến Bì.

- Xương khớp nhức: từ Cơ đến Tấu.

- Mạch Trầm: thọ Bản Hàn tại Lý đến Cơ.

- Phụ Tử thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (305)

Thiếu Âm Bệnh ỉa chảy ra mủ máu, Đào Hoa thang làm chủ.

ĐÀO HOA THANG PHƯƠNG

Xích Thạch Chỉ : 1 cân ( ½ toàn dụng để nấu, ½ giả nát rây lấy bột)

Càn Cương 1 lạng Gạo tẻ 1 thăng

3 vị trên, dùng 7 thăng nước, nấu gạo chín là được, lọc bỏ bả, uống ấm 7 cáp cho bột Xích Thạch
Chỉ 1 muỗng phương thốn, ngày uống 3 lần. Nếu uống 1 lần khỏi, đừng uống thêm nữa.

BẢN NGHĨA (37/6)

*Thiếu Âm Kinh thọ Bản Hàn tại Tấu.

- Ỉa chảy: thọ Bản Hàn truyền.

- Ra mủ máu: Hàn nhập Âm Nhiệt Kinh.

- Đào Hoa thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (306)

Thiếu Âm Bệnh, 2 – 3 ngày đến 4 – 5 ngày, bụng đau, tiểu tiện không lợi, ỉa chảy không dứt, ỉa
mủ máu, Đào Hoa thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (37/7)

*Thiếu Âm Lạc thọ Bản Hàn tại Tấu.

- 2 - 3 ngày: chư Dương Lạc.

- 4 - 5 ngày: chư Âm Lạc.


225
- Bụng đau: Âm Dương Lạc giao tập tại Tấu.

- Tiểu tiện không lợi: Bản Nhiệt chuyển hệ.

- Hạ lợi không dứt: Bản Hàn truyền Kinh.

- Ỉa mủ máu: Hàn nhập Nhiệt Lạc.

NGUYÊN VĂN (307)

Thiếu Âm Bệnh hạ lợi, ỉa mủ máu, có thể châm thích.

BẢN NGHĨA (37/8)

*Thiếu Âm Lạc thọ Bản Nhiệt tại Tấu.

- Hạ lợi: thọ Bản Hàn truyền.

- Ỉa mủ máu: thọ Bản Nhiệt tại Tấu.

- Có thể Châm thích: trị Kinh mà Lạc tự giải.

(Châm Thiếu Âm Huyệt: U Môn, Giao Tín, Kỳ Môn).

NGUYÊN VĂN (308)

Thiếu Âm Bệnh mửa ỉa, tay chân quyết lãnh, phiền táo muốn chết, Ngô Thù Du thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (37/9)

*Thiếu Âm Lạc thọ Bản Hàn Bản Nhiệt tại Tấu đến Cách.

- Mửa ỉa: tại Lý thọ Bản Hàn.

- Tay chân quyết lãnh: tại Biểu thọ Bản Hàn.

- Phiền táo muốn chết: bởi vì Bản Nhiệt mà thọ Bản Hàn tại Tấu đến Cách.

- Ngô Thù Du thang làm chủ.

(Trên đây, chương thứ 37, 9 tiết, giải thích Thiếu Âm từ Biểu đến Lý).

226
CHƯƠNG 38 : THIẾU ÂM BỆNH TẠI CÁCH PHẦN
(10 Tiết, từ 309 đến 318)

1- Thiếu Âm Lạc Nhiệt bệnh.

2- Thiếu Âm Khí Nhiệt bệnh.

3- Thiếu Âm Kinh Nhiệt bệnh.

4- Thiếu Âm Khí Thương Hàn.

5- Thiếu Âm Lạc Thương Hàn.

6- Thiếu Âm Kinh Thương Hàn.

7- Thiếu Âm Hàn Thấp.

8- Thiếu Âm Phong Thấp.

9- Thiếu Âm Ôn Bệnh.

10- Thiếu Âm Phong Ôn.

NGUYÊN VĂN (309)

Thiếu Âm ỉa chảy, yết đau, ngực đầy, Tâm phiền, Trư Phu thang làm chủ.

TRƯ PHU THANG PHƯƠNG

Trư Phu (bong bóng lợn) 1 cân : Dùng 1 đấu nước nấu lấy 5 thăng, bỏ bả, gia Mật Ong 1 thăng.
Bạch Phấn (bột gạo tẻ) 5 cáp rang thơm, hòa cho tan đều, chia uống ấm 6 lần.

BẢN NGHĨA (38/1)

*Thiếu Âm Lạc tại Cách thọ Bản Nhiệt.

- Hạ lợi: thọ Hàn truyền.

- Yết đau: thọ Nhiệt hệ.

- Ngực đầy Tâm phiền: cùng thọ, Trư Phu thang làm chủ.
.

227
NGUYÊN VĂN (310)

Thiếu Âm Bệnh 2 – 3 ngày, yết đau, có thể dùng Cam Thảo thang ; không bớt thì dùng Cát
Cánh thang.

CAM THẢO THANG PHƯƠNG

Cam Thảo 2 lạng : 1 vị trên, dùng 3 thăng nước, sắc lấy 1 thăng rưỡi, bỏ bả, uống ấm 7 cáp, ngày
2 lần.

CÁT CÁNH THANG PHƯƠNG

Cát Cánh 1 lạng Cam Thảo 2 lạng

2 vị trên, dùng 3 thăng nước, sắc lấy 1 thăng, bỏ bả, chia uống ấm 2 lần.

BẢN NGHĨA (38/2)

*Thiếu Âm Khí tại Cách thọ Bản Nhiệt.

- 2 - 3 ngày yết đau: nói Thiếu Âm thọ Hàn tại Cách chuyển thành Nhiệt, có thể dùng Cam Thảo
thang.

- Không bớt thì dùng Cát Cánh thang: trị Cách kiêm trị tại Tấu.

NGUYÊN VĂN (311)

Thiếu Âm Bệnh trong yết bị thương, sinh mụn lở, nói năng không ra tiếng, dùng Khổ Tửu
thang làm chủ.

KHỔ TỬU THANG PHƯƠNG

Bán Hạ 14 hạt (rửa, đập vở ra như hạt táo)

Trứng gà 1 quả (bỏ lòng đỏ, để lòng trắng y trong xác vỏ, cho dấm vào)

2 vị trên, cho Bán Hạ vào trong dấm, đem cả vỏ trứng gà để trong cái khâu dao đặt trên lửa cho
sôi 3 dạo, lọc bỏ bả, rồi ngậm ít ít một mà nuốt, không khỏi lại làm 3 lần như vậy.

BẢN NGHĨA (38/3)

*Thiếu Âm Kinh tại Cách thọ Bản Nhiệt.

- Trong Yết bị thương sinh mụn lở: tại Cách thọ Nhiệt.
228
- Nói năng không ra tiếng: Thiếu Âm Kinh không Thái Dương tân dịch.

- Dùng Khổ Tửu thang làm chủ: (Thiếu Âm Kinh hệ thiệt bản).

NGUYÊN VĂN (312)

Thiếu Âm Bệnh trong yết đau, dùng Bán Hạ tán Cập thang làm chủ.

BÁN HẠ TÁN CẬP THANG PHƯƠNG

Bán Hạ (rửa) Quế Chi (bỏ vỏ) Chích Thảo

3 vị trên, phân lượng bằng nhau, tán riêng rây riêng hợp lại mà dùng. Nước sôi hòa uống 1 thìa
phương thốn, ngày 3 lần.

Nếu không thể uống thuốc tán được, thì dùng nước 1 thăng sắc sôi 7 dạo rồi cho thuốc tán 2
thìa vào, lại sắc sôi 3 dạo, nhắc xuống để hơi nguội, rồi nuốt nuốt ít ít một.

BẢN NGHĨA (38/4)

*Thiếu Âm Khí tại Cách thọ Bản Hàn.

- Trong Yết đau: Thiếu Âm Nhiệt Kinh thọ Hàn.

- Bán Hạ tán: trị Kinh.

- Cập thang: Kiêm trị Khí.

NGUYÊN VĂN (313)

Thiếu Âm Bệnh hạ lợi (ỉa chảy), Bạch Thông thang làm chủ.

BẠCH THÔNG THANG PHƯƠNG

Thông Bạch 4 củ (cả lá) Can Khương 1 lạng Phụ Tử 1 củ (dùng sống, bỏ vỏ, bổ làm 8)

3 vị trên, dùng 3 thăng nước, sắc lấy 1 thăng, bỏ bả, chia uống ấm 2 lần.

BẢN NGHĨA (38/5)

*Thiếu Âm Lạc tại Cách thọ Bản Hàn.

- Ỉa chảy: thọ Hàn truyền, Bạch Thông thang làm chủ.


229
NGUYÊN VĂN (314)

Thiếu Âm Bệnh ỉa chảy mạch Vi, dùng Bạch Thông thang, ỉa chảy không dứt quyết nghịch
không có mạch, nôn khan mà phiền, Bạch Thông gia Trư Đởm Trấp thang làm chủ ; uống
thuốc rồi mạch vụt hiện ra đột ngột thì chết, hơi đến dần dần thì sống.

BẠCH THÔNG GIA TRƯ ĐỞM TRẤP THANG PHƯƠNG

Thông Bạch 4 củ Can Khương 1 lạng Phụ Tử 1 củ (dùng sống, bỏ vỏ, bổ làm 8)

Nhân Niệu 5 cáp Trư Đởm Trấp 1 cáp

3 vị trên, dùng 3 thăng nước sắc lấy 1 thăng, bỏ bả, rồi cho nước mật lợn, nước tiểu vào hòa
cho tan hết, chia uống ấm 2 lần. Nếu không có mật cũng dùng được.

BẢN NGHĨA (38/6)

*Thiếu Âm Kinh tại Cách thọ Bản Hàn.

- Ỉa chảy mạch Vi: chỉ có Bản Hàn mà không Bản Nhiệt.

- Dùng Bạch Thông thang ỉa chảy không dứt: thọ Bản Hàn truyền Kinh.

- Quyết nghịch: thọ tại Biểu.

- Không có mạch: thọ tại Lý.

- Nôn khan : Bản Hàn hiệp Tiêu Âm.

- Phiền: Bản Hàn hiệp Bản Nhiệt.

- Bạch Thông gia Trư Đởm Trấp thang làm cho Bản Nhiệt hòa Bản Hàn.

- Mạch hiện ra đột ngột thì chết: Bản Hàn bức Bản Nhiệt ra ngoài.

- Hơi đến dần dần thì sống: Bản Hàn với Bản Nhiệt tương đắc.

NGUYÊN VĂN (315)

Thiếu Âm Bệnh, 2 – 3 ngày không khỏi, đến 4 – 5 ngày đau bụng, tiểu tiện không lợi tay chân
nặng nề, đau nhức, tự ỉa chảy, đấy là có thủy khí ; người bệnh hoặc ho hoặc tiểu tiện tự lợi,
hoặc ỉa chảy hoặc nôn, Chân Võ thang làm chủ.
.

230
CHÂN VÕ THANG PHƯƠNG (Xem Thái Dương thiên trung)

Phép gia giảm :

- Nếu ho : gia Ngũ Vị Tử ½ cân, Tế Tân 1 lạng, Can Khương 1 lạng.

- Nếu tiểu tiện tự lợi : bỏ Phục Linh.

- Nếu hạ lợi : bỏ Thược Dược, gia Can Khương 2 lạng.

- Nếu nôn : bỏ Phụ Tử, gia Sinh Khương cộng với trước thành ½ cân.

BẢN NGHĨA (38/7)

*Thiếu Âm Hàn Thấp.

- 2 - 3 ngày : chư Dương Kinh.

- 4 - 5 ngày : chư Âm Kinh.

- Đau bụng : chư Kinh đều tập trung tại Tấu.

- Tiểu tiện tự lợi, tay chân nặng nề : chư Dương Kinh thọ Hàn Thấp.

- Đau nhức tự ỉa chảy : chư Âm Kinh thọ Hàn Thấp.

- Đấy là có thủy khí : Thái Dương chuyển sang Thiếu Âm Hàn Thấp.

- Người bệnh hoặc ho : Bản Nhiệt chuyển sang Bản Hàn.

- Hoặc tiểu tiện tự lợi, hoặc ỉa chảy, hoặc nôn : đấy là Thiếu Âm chuyển sang Thái Dương Hàn
Thấp.

- Chân Võ thang làm chủ.

- Ho thì gia Ngũ Vị Tử: liễm nạp Bản Nhiệt. Gia Tế Tân, Can Khương: làm cho Bản Hàn tương
hòa với Bản Nhiệt, trị Thiếu Âm Hàn Thấp vậy.

- Tiểu tiện tự lợi: bỏ Phục Linh.

- Nếu Hạ lợi: bỏ Thược Dược gia Can Khương 2 lạng.

- Nếu nôn: bỏ Phụ Tử, gia Sinh Khương cộng với trước thành ½ cân.Trị Thái Dương Hàn Thấp
vậy.
.

231
NGUYÊN VĂN (316)

Thiếu Âm Bệnh ỉa chảy nguyên cơm nước, Lý Hàn ngoại Nhiệt, tay chân quyết Nhiệt, mạch Vi
muốn tuyệt ; mình trái lại không sợ lạnh, người bệnh sắc mặt đỏ, hoặc đau bụng hoặc nôn
khan, hoặc yết đau, hoặc lợi dứt, mạch không xuất hiện, Thông Mạch tứ Nghịch thang làm
chủ.

THÔNG MẠCH TỨ NGHỊCH THANG PHƯƠNG

Cam Thảo 2 lạng (chích) Phụ Tử 1 củ (dùng sống, bỏ vỏ, xẻ làm 8) Can Khương 3 lạng

3 vị trên dùng 3 thăng, sắc lấy 1 thăng 2 cáp, bỏ bả, chia uống ấm 2 lần mạch sẽ hiện dần ra là
khỏi (không phải vụt nổi lên như từ không bỗng có, đã có lai hoàn không, như ánh lửa ngọn đèn
bùng lên rồi vụt tắt).

- Sắc mặt đỏ : gia hành 9 nhánh.

- Đau bụng : bỏ hành, gia Thược Dược 2 lạng.

- Nôn khan : gia Sinh Khương 2 lạng.

- Yết đau : bỏ Thược Dược, gia Cát Cánh 1 lạng.

- Lợi dứt, mạch không thấy : bỏ Cát Cánh gia Nhân Sâm 2 lạng.

BẢN NGHĨA (38/8)

*Thiếu Âm Phong Thấp.

- Ỉa chảy nguyên cơm nước: Thiếu Âm thọ Bản Hàn truyền Kinh.

- Lý Hàn ngoại Nhiệt: Bản Hàn nhập Lý cho nên Bản Nhiệt xuất Ngoại.

- Tay chân quyết Nhiệt: Bản Nhiệt ra ngoài, Bản Hàn cùng theo ra ngoài.

- Mạch Vi muốn tuyệt: Bản Hàn bức bách ở trong, Bản Nhiệt cơ hồ tuyệt. Đấy là Thiếu Âm
chuyển Thái Dương Phong Thấp.

- Mình trái lại không sợ lạnh, người bệnh sắc mặt đỏ hoặc bụng đau: đấy là Thái Dương
chuyển Thiếu Âm Phong Thấp.

- Hoặc nôn khan hoặc yết đau: Thái Dương Bệnh tức Thiếu Âm Bệnh.

- Hoặc lợi dứt, mạch không thấy: Thái Dương vong tức Thiếu Âm vong. Dùng Thông mạch Tứ
Nghịch thang làm chủ.

232
- Mặt đỏ, gia hành 9 nhánh : Thiếu Âm tại Ngoại Phong Thấp.

- Bụng đau, bỏ hành gia Bạch Thược : Thiếu Âm tại Nội Phong Thấp.

- Nôn khan gia Sinh Khương, yết đau bỏ Thược Dược gia Cát Cánh: Thái Dương tại Biểu Phong
Thấp.

- Lợi dứt, mạch không thấy, bỏ Cát Cánh gia Nhân Sâm: Thái Dương tại Lý Phong Thấp.

NGUYÊN VĂN (317)

Thiếu Âm Bệnh tay chân giá lạnh, người bệnh hoặc ho, hoặc hồi hộp, hoặc tiểu tiện không
lợi, hoặc trong bụng đau, hoặc ỉa chảy mót rặn, Tứ Nghịch tán làm chủ.

TỨ NGHỊCH TÁN PHƯƠNG

Chích Thảo. Chỉ Thực (xẻ ra, ngâm nước rồi nướng khô). Sài Hồ. Thược Dược.

các vị đều 10 phân. – 4 vị trên giả rây kỹ, hòa nước đun sôi, uống mỗi lần 1 thìa phương thốn,
ngày 3 lần. Sau đây là phép gia giảm :

- Nếu ho : thì gia Ngũ Vị Tử, Can Khương mỗi thứ 5 phân. Cùng chủ trị ỉa chảy.

- Hồi hộp : gia Quế Chi 5 phân.

- Tiểu tiện không lợi : gia Phục Linh 5 phân.

- Trong bụng đau : gia Phụ Tử 1 củ, nướng cho nứt ra.

- Ỉa chảy mót rặn : trước dùng 5 thăng nước nấu Phỉ bạch (củ Kiệu) 3 thăng, lấy 3 thăng, bỏ bả,
dùng 3 thìa phương thốn thuốc tán cho vào nước thuốc sắc lấy 1 thăng rưỡi, chia uống ấm 2
lần.

BẢN NGHĨA (38/9)

*Thiếu Âm Ôn Bệnh.

- Tứ Nghịch tán trị Dương Minh Ôn Bệnh,có thể trị Thiếu Âm Ôn Bệnh, Âm Nhiệt trực tiếp
Dương Nhiệt vậy.

- Hoặc Ho: là Âm Nhiệt thọ Bản Hàn làm ho, Dương Nhiệt thọ Bản Hàn cũng làm ho.

- Hoặc hồi hộp: thọ Dương Hàn.

233
- Hoặc tiểu tiện không lợi: thọ Âm Nhiệt.

- Hoặc trong bụng đau: thọ Âm Hàn.

- Hoặc ỉa chảy mót rặn: thọ Dương Nhiệt. Thiếu Âm Ôn Bệnh chuyển sang Dương Minh Ôn
Bệnh.

- Ho thì gia Ngũ Vị Tử trị Bản Nhiệt, Can Khương trị Bản Hàn, cùng chủ trị ỉa chảy. Là phép trị
Hàn nhập Nhiệt Kinh làm ho làm ỉa chảy.

- Hồi hộp gia Quế Chi: trị Dương Hàn.

- Tiểu tiện không lợi gia Phục Linh: trị Âm Nhiệt.

- Trong bụng đau gia Phụ Tử: trị Âm Hàn.

- Ỉa chảy mót rặn, dùng phép nấu Phỉ bạch: trị Dương Nhiệt hạ lợi.

- Tứ Nghịch tán làm chủ.

NGUYÊN VĂN (318)

Thiếu Âm Bệnh ỉa chảy 6 – 7 ngày ho mà nôn, khát nước, Tâm phiền không ngủ được, Trư
Linh thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (38/10)

*Thiếu Âm Phong Ôn.

- Hạ lợi: thọ Hàn truyền.

- 6 - 7 ngày ho mà nôn: ngày từ Âm sang Dương, từ Thiếu Âm Phong Ôn chuyển sang Thái
Dương Thương Hàn.

- Khát, Tâm phiền, không ngủ được : Thiếu Âm Phong Ôn, dùng Trư Linh thang làm chủ.

*Thiếu Âm Ôn Bệnh, Phong Ôn đều trực tiếp đến, đều có thể chuyển làm Thái Dương Thương
Hàn ; hiệp với Thái Dương hạ thiên, tìm tòi nơi các Tiết, tự thấy được cái ý lập ngôn của Trọng
Sư.

(Trên đây, chương thứ 38, 10 tiết, giải thích Thiếu Âm tại Cách).

234
CHƯƠNG 39 : THIẾU ÂM TẠI TẤU.

(6 Tiết, từ 319 đến 324)

1- Dương Minh Thiếu Dương tòng Bản Nhiệt.

2- Thái Dương tòng Bản Nhiệt.

3- Tam Dương tòng Bản Nhiệt.

4- Tam Âm tòng Tiêu Âm.

5- Dương Minh Thiếu Dương tòng Tiêu Âm.

6- Thái Dương tòng Tiêu Âm.

NGUYÊN VĂN (319)

Thiếu Âm Bệnh, mắc phải 2 – 3 ngày, miệng ráo yết khô, gấp Hạ ngay, Đại Thừa Khí thang làm
chủ.

BẢN NGHĨA (39/1)

* Dương Minh Thiếu Dương tòng Thiếu Âm Bản Nhiệt.

- Mắc phải: mắc Thái Dương Hàn truyền tại Cơ Nhục.

- 2 - 3 ngày: Dương Minh, Thiếu Dương.

- Miệng ráo: Dương Minh tòng Bản Nhiệt.

- Yết khô: Thiếu Dương tòng Bản Nhiệt.

- Gấp Hạ ngay: Âm Dương cùng Nhiệt, nguy trong sớm chiều. Dùng Đại Thừa Khí thang làm
chủ.

NGUYÊN VĂN (320)

Thiếu Âm Bệnh, tự ỉa nước trong, sắc xanh ròng, dưới Tâm tất đau, miệng khô ráo gấp Hạ
ngay, nên dùng Đại Thừa Khí thang.
.

235
BẢN NGHĨA (39/2)

*Thái Dương tòng Thiếu Âm Bản Nhiệt.

- Thái Dương tòng Bản Nhiệt thì Hàn Khí tòng Tiêu Âm, Nhiệt tòng Nhiệt thì Hàn tòng Hàn vậy.

- Tự ỉa nước trong sắc xanh ròng : Hàn tòng Hàn.

- Dưới Tâm ắt đau, miệng khô ráo: Nhiệt tòng Nhiệt.

- Gấp Hạ ngay: sợ Nhiệt cực trở lại Hàn thì chết.

- Nên dùng Đại Thừa Khí thang.

NGUYÊN VĂN (321)

Thiếu Âm Bệnh 6 – 7 ngày bụng trướng không đi ngoài được, gấp Hạ ngay, nên dùng Đại
Thừa Khí thang.

BẢN NGHĨA (39/3)

*Tam Dương tòng Thiếu Âm Bản Nhiệt.

- Tam Dương thống (gồm) ở Thái Dương, Tam Âm thống ở Thiếu Âm.

- 6 - 7 ngày là ngày Âm Dương giao giới.

- Bụng trướng không đi ngoài được: Tam Âm Tam Dương thực tại Thiếu Âm là chứng chết.

- Gấp Hạ ngay, nên dùng Đại Thừa Khí thang.

NGUYÊN VĂN (322)

Thiếu Âm Bệnh mạch Trầm, gấp Ôn ngay, Tứ Nghịch thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (39/4)

*Tam Âm tòng Thiếu Âm Tiêu Âm.

- Mạch Trầm: bởi vì Âm tòng Âm,chứng chết !

- Gấp Ôn ngay ; Tứ Nghịch thang làm chủ.

236
NGUYÊN VĂN (323)

Thiếu Âm Bệnh, ăn uống vào miệng thì mửa, trong Tâm ôn ôn (cuồn cuộn) muốn mửa lại
không mửa được, lúc mới mắc phải tay chân nóng mạch Huyền Trì , đấy là trong ngực lạnh
không thể cho Hạ, phải nên cho Thổ, nếu như trên Cách có Hàn ẩm nôn khan thì không thể
cho Thổ, gấp Ôn ngay, nên dùng Tứ Nghịch thang.

BẢN NGHĨA (39/5)

*Dương Minh Thiếu Dương tòng Thiếu Âm Tiêu Âm.

- Ăn uống vào miệng thì mửa: tòng Tiêu Âm.

- Trong Tâm cuồn cuộn muốn mửa lại không mửa được: bởi Nhiệt tại Dương Nhiệt.

- Dương Nhiệt mới mắc phải Dương Hàn tại Nhục phần truyền Kinh, tay chân nóng mạch
Huyền Trì, đấy là Dương Nhiệt tòng Dương Hàn tại trong ngực, không thể Hạ mà nên cho
Thổ vậy.

- Nếu như trên Cách có Hàn ẩm nôn khan: đấy là Dương Hàn tòng Tiêu Âm tại Cách thượng
không thể cho Thổ.

- Gấp Ôn ngay : Hàn thực mà Dương vong vậy. - Nên dùng Tứ Nghịch thang.

NGUYÊN VĂN (324)

Thiếu Âm Bệnh ỉa chảy mạch Vi Sáp, nôn mà đổ mồ hôi, tất đi ngoài nhiều lần trái lại ít phân,
nên làm ấm bộ phận trên, dùng phép cứu.

BẢN NGHĨA (39/6)

*Thái Dương Tiêu Dương tòng Thiếu Âm Tiêu Âm.

- Hạ lợi (ỉa chảy) : tòng Tiêu Âm. - Mạch Vi Sáp : bởi bệnh tại Tiêu Dương.

- Nôn: tòng Tiêu Âm. - Đổ mồ hôi: bởi bệnh tại Tiêu Dương.

- Tất đi ngoài nhiều lần: tòng Tiêu Âm.

- Trái lại ít phân: bởi bệnh tại Tiêu Dương.

- Tiêu Âm tại hạ cần Ôn, Tiêu Dương tại thượng nên dùng phép cứu.

(Trên đây, chương thứ 39, 6 tiết, giải thích Thiếu Âm tại Tấu).
237
THƯƠNG HÀN LUẬN QUYỂN VII
____________________________________________

THIÊN LUẬN MẠCH CHỨNG BỆNH KHUYẾT ÂM


(6 chương, từ 40 đến 45)

CHƯƠNG 40 : KHUYẾT ÂM THỂ LỆ

( 5 Tiết, từ 325 đến 329)

1- Thể lệ Khuyết Âm Thương Hàn.


2- Thể lệ Khuyết Âm Trúng Phong.
3- Thể lệ Khuyết Âm vượng thời.
4- Thể lệ Khuyết Âm Ôn Bệnh Phong Ôn.
5- Thể lệ Khuyết Âm Hàn Thấp Phong Thấp.

NGUYÊN VĂN (325)

Khuyết Âm ‘chi vi’ Bệnh, tiêu khát, Khí xung lên Tâm, trong Tâm nhức nóng, đói mà không
muốn ăn, ăn thì mửa giun, cho Hạ thì ỉa không dứt.

BẢN NGHĨA (40/1)

*Thể lệ Khuyết Âm thọ Thái Dương Thương Hàn.

- Tiêu khát : thọ Túc Thái Dương Khí.

- Khí xung lên Tâm : thọ Thủ Thái Dương Khí.

- Trong Tâm nhức nóng, đói mà không muốn ăn: thọ Thái Dương Tiêu Dương.

- Ăn thì mửa giun, cho Hạ thì ỉa không dứt: thọ Thái Dương Bản Hàn.

NGUYÊN VĂN (326)

Khuyết Âm Trúng Phong, mạch hơi Phù là muốn khỏi, mạch không Phù là chưa khỏi.

BẢN NGHĨA (40/2)

*Thể lệ Khuyết Âm thọ Thiếu Âm Trúng Phong.


238
- Mạch hơi Phù là muốn khỏi: tại Biểu thọ Thiếu Âm vi (nhẹ).

- Mạch không Phù là chưa khỏi: tại Biểu thọ Thiếu Âm thậm (nặng).

NGUYÊN VĂN (327)

Khuyết Âm Bệnh lúc muốn giải là từ giờ Sửu đến giờ Mão.

BẢN NGHĨA (40/3)

*Thể lệ Khuyết Âm Vượng thời.

- Giờ Vượng của Khuyết Âm hành Kinh là giờ Dần.

NGUYÊN VĂN (328)

Khuyết Âm Bệnh, khát muốn uống nước, cho uống ít ít, khỏi.

BẢN NGHĨA (40/4)

*Thể lệ Khuyết Âm Ôn Bệnh Phong Ôn.

- Khát muốn uống nước: thọ Dương Minh làm Ôn Bệnh, thọ Thiếu Âm làm Phong Ôn.

- Cho uống ít ít, khỏi : Khuyết Âm là Âm tận, Dương Khí còn thiểu (nhỏ, ít).

NGUYÊN VĂN (329)

Các chứng ‘tứ nghịch quyết’ (tay chân lạnh giá) thì không thể cho Hạ, ‘hư gia’ (người hư yếu)
cũng thế.

BẢN NGHĨA (40/5)

*Thể lệ Khuyết Âm Hàn Thấp Phong Thấp.

- Thọ Thái Âm làm Hàn Thấp, thọ Thái Dương làm Phong Thấp, có chứng ‘quyết nghịch’ không
thể cho Hạ, vì không có Thiếu Âm Nhiệt Khí vậy.

-Phàm bệnh không có Thiếu Âm Nhiệt Khí là ‘hư gia’ không thể Hạ.

(Trên đây, chương thứ 40, 5 tiết, giải thích Khuyết Âm thể lệ).
239
CHƯƠNG 41 : KHUYẾT ÂM THỌ PHONG HÀN TẠI BIỂU TẠI LÝ

(12 Tiết, từ 330 đến 341)

1- Thọ Thái Dương truyền Kinh.


2- Thọ Thiếu Âm truyền Kinh.
3- Thọ Dương Hàn Âm Hàn làm quyết.
4- Thọ Dương Nhiệt Âm Nhiệt làm Nhiệt.
5- Thọ Thái Dương Thiếu Âm làm quyết làm Nhiệt.
6- Thọ Thiếu Âm truyền Kinh tại Biểu.
7- Thọ Thái Dương truyền Kinh tại Biểu.
8- Thọ Phong Hàn truyền Xung Kinh.
9- Thọ Phong Hàn truyền Nhâm Kinh.
10- Thọ Phong Hàn truyền Đốc Kinh.
11- Thọ Thiếu Âm truyền Kinh tại Lý.
12- Thọ Thái Dương truyền Kinh tại Lý.

NGUYÊN VĂN (330)

Thương Hàn trước quyết lãnh sau phát sốt mà đi ỉa, tất tự dứt. Thấy quyết thì đi ỉa trở lại.

BẢN NGHĨA (41/1)

*Khuyết Âm thọ Thái Dương truyền Kinh.

- Trước quyết lãnh : trước thọ Bản Hàn.

- Sau phát sốt : sau thọ Tiêu Dương.

- Đi ỉa tất tự dứt : bởi cớ thọ Tiêu Dương.

- Thấy Quyết thì đi ỉa trở lại : bởi cớ thọ Bản Hàn.

NGUYÊN VĂN (331)

Thương Hàn mới đầu trước phát sốt 6 ngày, quyết lãnh trái lại 9 ngày mà ỉa chảy. Phàm
quyết lãnh ỉa chảy đáng lý không ăn được, nay trái lại ăn được, sợ là chứng ‘trừ trung’; cho
ăn miến mà không phát sốt thì biết là Vỵ Khí vẫn còn, tất khỏi. Sợ đột nhiên sốt đến rồi lại lui,
sau 3 ngày chẩn mạch thấy sốt vẫn tiếp tục thì hẹn đến nửa đêm rạng sáng khỏi. Sở dĩ như
thế, là vốn phát sốt 6 ngày, quyết lãnh lại 9 ngày, lại phát sốt 3 ngày cộng với 6 ngày trước
cũng là 9 ngày, số ngày sốt tương ứng với số ngày quyết lãnh, cho nên hẹn đến nửa đêm rạng

240
sáng khỏi. Sau 3 ngày nữa lại chẩn mạch, thấy sốt vẫn còn, đấy là Nhiệt Khí có dư, tất phát
ung nùng(ung nhọt có mủ).

BẢN NGHĨA (41/2)

*Khuyết Âm thọ Thiếu Âm truyền Kinh.

- Mới đầu: mới đầu thọ truyền tại Cơ Nhục.

- Trước là trước thọ Thiếu Âm Bản Nhiệt 6 ngày, Tiêu Âm ứng theo quyết 9 ngày mà ỉa chảy.

- Phàm thọ Tiêu Âm tất quyết lãnh ỉa chảy, đáng lý không ăn được, nay trái lại ăn được sợ
Bản Nhiệt ra ngoài do Tiêu Âm ‘trừ’ nơi ‘trung’ vậy.

- Cho ăn miến mà không phát sốt thì biết là Vỵ Khí vẫn còn, tức Bản Nhiệt vẫn còn, bệnh tất
khỏi.

- Sợ đột nhiên sốt đến rồi lại lui thì là không Vỵ Khí, không Bản Nhiệt vậy.

- Sau 3 ngày chẩn mạch thấy sốt vẫn tiếp tục, Bản Nhiệt còn tức Vỵ Khí còn, hẹn đến nửa đêm
rạng sáng khỏi.

- Sở dĩ như thế, vì Khuyết Âm hành (đi) giữa Thái Dương Thiếu Âm, chỗ tiếp với Thái Dương
giao với Thiếu Âm là nửa đêm rạng sáng,cho nên quyết Nhiệt tương ứng, không lỗi ngày hẹn.

- Nếu thiên về Thiếu Âm Bản Nhiệt, đấy là Nhiệt Khí có dư, tất phát ung nùng.

thiên về Tiêu Âm tức làm ‘trừ trung’.

NGUYÊN VĂN (332)

Thương Hàn mạch Trì 6 -7 ngày mà trái lại cho dùng Hoàng Cầm thang để triệt Nhiệt; mạch
Trì là Hàn, nay lại cho dùng Hoàng Cầm thang để triệt Nhiệt, trong bụng phát lạnh, đáng lý
không ăn được, nay trái lại ăn được, đấy gọi là ‘trừ trung’ tất chết.

BẢN NGHĨA (41/3)

*Khuyết Âm thọ Dương Hàn Âm Hàn làm quyết.

- Mạch Trì: thọ Dương Hàn. - Trái lại cho dùng Hoàng Cầm thang để triệt Nhiệt : triệt Dương
Nhiệt.

- Trì là Hàn: Âm Hàn. - Trái lại dùng Hoàng Cầm thang để triệt Nhiệt : triệt Âm Nhiệt.

241
- Trong bụng lạnh đáng lý không ăn được: thọ Dương Hàn lại thọ Âm Hàn.

- Nay lại ăn được gọi là ‘trừ trung’, chết: Trừ Khí Khuyết Âm Trung Hiện, tức Khí Thiếu Dương
xung hòa, lại là Vỵ Khí, là Bản Nhiệt Khí, tùy chổ ‘tại’ mà tên gọi khác nhau vậy.

NGUYÊN VĂN (333)

Thương Hàn trước quyết lãnh sau phát sốt, ỉa chảy tất tự dứt; đổ mồ hôi, trong họng đau là
hầu người bệnh tất tý (sưng tắc); phát sốt không mồ hôi thì ỉa chảy tự dứt, nếu không dứt tất
sẽ ỉa ra mủ máu; ỉa ra mủ máu thì hầu người bệnh không sưng tắc.

BẢN NGHĨA (41/4)

*Khuyết Âm thọ Dương Nhiệt Âm Nhiệt làm Nhiệt.

- Trước quyết lãnh sau phát sốt: trước thọ Dương Hàn, sau thọ Dương Nhiệt, ỉa chảy tất tự
dứt: cớ bởi thọ Dương Nhiệt.

- Đổ mồ hôi,trong họng đau: đã thọ Âm Hàn, lại thọ Âm Nhiệt, Hầu người bệnh tất sưng tắc:
cớ bởi thọ Âm Nhiệt.

- Phát sốt không mồ hôi:bệnh ở ngoài,thì ỉa chảy tự dứt: bệnh ở ngoài thì không bệnh ở trong.

- Nếu không dứt tất sẽ ỉa ra mủ máu: bệnh ở dưới, ỉa ra mủ máu thì hầu người bệnh không
sưng tắc: bệnh ở dưới thì không bệnh ở trên.

*Nói Khuyết Âm với Dương Nhiệt tương ứng ở trong ngoài.

Với Âm Nhiệt tương ứng ở trên dưới vậy.

NGUYÊN VĂN (334)

Thương Hàn 2 - 3 ngày đến 4 - 5 ngày mà quyết tất phát Nhiệt; trước Nhiệt thì sau tất quyết,
quyết nhiều thì Nhiệt cũng nhiều, quyết ít thì Nhiệt cũng ít. Quyết là phải cho Hạ mà trái lại
Phát Hãn thì tất miệng bị thương lở đỏ.

BẢN NGHĨA (41/5)

*Biện Khuyết Âm Nhiệt quyết có nặng nhẹ.

- 2 - 3 ngày: Dương Kinh.

242
- 4 - 5 ngày: Âm Kinh.

- Bệnh tại Dương Kinh trước thọ Dương Hàn mà quyết tất thọ Dương Nhiệt mà phát Nhiệt.

- Bệnh tại Âm Kinh trước thọ Âm Nhiệt mà Nhiệt tất thọ Âm Hàn mà quyết.

- Quyết nhiều thì Nhiệt cũng nhiều: thọ Thiếu Âm.

- Quyết ít thì Nhiệt cũng ít: thọ Thái Dương.

- Tại Âm nên Hạ mà trái lại Phát Hãn: Âm tà do hãn mà đi lên tất miệng bị thương lở đỏ.

NGUYÊN VĂN (335)

Thương Hàn quyết 5 ngày Nhiệt cũng 5 ngày; giả thiết đến 6 ngày đáng lẽ quyết trở lại mà
không quyết, nên tự khỏi. Vì quyết rốt cục không quá 5 ngày, với Nhiệt 5 ngày, cho nên biết
bệnh tự khỏi.

BẢN NGHĨA (41/6)

*Khuyết Âm tại Biểu thọ Thiếu Âm.

- Quyết 5 ngày Nhiệt cũng 5 ngày : là tương ứng.

- 6 ngày đáng lẽ quyết, mà không quyết là tự khỏi : còn có Bản Nhiệt.

- Quyết rốt cục không quá 5 ngày, vì 5 ngày là ngày Thiếu Âm hành Kinh tại Ngoại, cho nên biết
bệnh tự khỏi.

NGUYÊN VĂN (336)

Phàm ‘quyết’ là Âm Dương Khí không thuận tiếp nhau làm nên quyết. Quyết là tay chân
nghịch lãnh vậy.

BẢN NGHĨA (41/7)

*Khuyết Âm tại Biểu thọ Thái Dương.

- Phàm Lục Kinh, mỗi Kinh hành Khí của nó để thuận tiếp nhau, Khuyết Âm không cùng với Thái
Dương thuận tiếp làm nên quyết.

243
- Khuyết Âm là Âm Hàn mà thọ truyền bởi Thái Dương Hàn Khí là nghịch, vì Hàn thọ Hàn cho
nên lãnh.

NGUYÊN VĂN (337)

Thương Hàn mạch Vi mà quyết, đến 6 - 7 ngày da lạnh, người bệnh vật vã không lúc tạm yên,
đấy là Tạng quyết, không phải là Vưu quyết. Vưu quyết thì người bệnh phải mửa giun, nay
người bệnh yên tĩnh mà lại có lúc phiền. Đấy là vì Tạng Hàn giun ngoi lên vào Cách cho nên
phiền, giây lát lại hết, ăn vào thì nôn lại phiền, là giun nghe mùi đồ ăn ngoi ra, người bệnh
phải mửa giun. Vưu quyết dùng Ô Mai hoàn làm chủ, lại chủ chứng ‘lợi’ kéo dài.

Ô MAI HOÀN PHƯƠNG

Ô Mai 300 quả Can Khương 10 lạng

Đương Qui 4 lạng Xuyên Tiêu 4 lạng (sao, khứ hạn)

Nhân Sâm 6 lạng Tế Tân 6 lạng

Hoàng Liên 6 lạng Phụ Tử 6 lạng (bào)

Quế Chi 6 lạng Hoàng Bá 6 lạng

10 vị trên, giả và rây riêng rồi hợp lại mà dùng. Dùng giấm ngâm Ô mai 1 đêm, bỏ hạt nấu với 5
đấu gạo tẻ, gạo chín giả nát như bùn, trộn với thuốc bột cho đều, để vào cối cho Mật ong vào
quết 2000 chày, viên bằng hạt ngô đồng, trước khi ăn uống 10 hoàn, ngày 3 lần, thêm dần đến
20 hoàn. Kiêng ăn vật sống lạnh, béo, hôi tanh.

BẢN NGHĨA (41/8)

*Khuyết Âm thọ Phong Hàn truyền Xung Kinh.

- Mạch Vi mà quyết: Dương Vi cho nên Âm quyết.

- 6 - 7 ngày da lạnh: Thái Dương Khuyết Âm liên tiếp.

- Vật vã không lúc tạm yên: Thái Dương Thiếu Âm thay nhau làm bệnh, Khuyết Âm (ở giữa hai
Kinh này) thọ chịu không có lúc dứt.

- Đấy là chứng Khuyết Âm Tạng Quyết : chứng Can Hàn, không phải chứng Vưu Quyết.

- Can Hàn truyền Xung Kinh làm Vưu Quyết, Vưu Quyết là người bệnh phải mửa giun, với
Tạng Quyết không truyền Xung Kinh có khác.
244
- Nay người bệnh yên tĩnh mà lại có lúc phiền, đấy là vì Can Tạng lạnh ở dưới, do Can thọ
Phong Hàn truyền Xung Kinh mà lên vào Cách cho nên phiền giây lát lại hết.

- Ăn vào thì nôn rồi lại phiền: từ Can nhập Vỵ, Xung Kinh bám theo Dương Minh mà đi lên.

- Giun nghe mùi đồ ăn ngoi ra, người bệnh phải mửa giun: cớ bởi dính bám Dương Minh Vỵ.

- Vưu Quyết là Xung Kinh thọ Khuyết Âm Phong Hàn truyền, dùng Ô Mai hoàn làm chủ.

- Lại chủ chứng lợi kéo dài: có thể trị chứng lợi kéo dài của Xung Kinh, cũng có thể trị chứng lợi
kéo dài của Đốc, Nhâm Kinh. Tam Kỳ Kinh vốn 1 nguồn vậy.

NGUYÊN VĂN (338)

Thương Hàn sốt nhẹ quyết ít, đầu ngón tay lạnh, lìm lịm không muốn ăn, phiền táo vài ngày,
tiểu tiện lợi sắc trắng, đấy là Nhiệt đã trừ, muốn được ăn là bệnh sẽ khỏi. Nếu như quyết mà
nôn, ngực sườn đầy phiền, sau đó tất đi ỉa mủ máu.

BẢN NGHĨA (41/9)

*Khuyết Âm thọ Phong Hàn truyền Nhâm Kinh.

- Sốt nhẹ quyết ít, đầu ngón tay lạnh: truyền Nhâm Kinh tại Biểu.

- Lìm lịm không muốn ăn: truyền Nhâm Kinh tại Lý.

- Phiền táo: từ Biểu vào Lý.

- Tiểu tiện lợi sắc trắng: Bản Hàn nhập mà Bản Nhiệt trừ.

- Muốn được ăn là bệnh sẽ khỏi: Nhiệt trừ hết mà Vỵ Khí còn.

- Quyết mà nôn, ngực sườn đầy phiền: truyền Nhâm Kinh tại Tấu.

- Sau đó tất đi ỉa mủ máu: tại Tấu hành Huyết phần.

NGUYÊN VĂN (339)

Người bệnh tay chân quyết lãnh, nói tôi không Kết hung, bụng dưới đầy, ấn vào đau, đấy là
lạnh kết tại Bàng Quang, Quan Nguyên vậy.
.

245
BẢN NGHĨA (41/10)

*Khuyết Âm thọ Phong Hàn truyền Đốc Kinh.

- Tay chân quyết lãnh: truyền Đốc Kinh tại Biểu.

- Không Kết Hung: Đốc Kinh ở tại lưng (bối).

- Bụng dưới đầy ấn vào đau: chổ hội của Đốc với Xung Nhâm.

- Lạnh Kết tại Bàng Quang,Quan Nguyên: chổ phân kỳ (chia nhánh) của Đốc với Xung Nhâm.

NGUYÊN VĂN (340)

Thương Hàn phát sốt 4 ngày, quyết trái lại 3 ngày, sau lại sốt 4 ngày, quyết ít sốt nhiều là
bệnh đáng lý khỏi. Bốn ngày đến 7 ngày sốt không dứt, sau đó tất ỉa mủ máu.

BẢN NGHĨA (41/11)

*Khuyết Âm thọ Thiếu Âm truyền Kinh tại Lý

- Thọ Tiêu Âm thiểu mà Bản Nhiệt đa, bệnh đó đáng lý khỏi.

- 4 ngày đến 7 ngày sốt không dứt là Bản Nhiệt thái quá tất sẽ ỉa mủ máu.

NGUYÊN VĂN (341)

Thương Hàn quyết 4 ngày, sốt lại 3 ngày, rồi sau quyết 5 ngày, là bệnh tiến tới. Lạnh nhiều
nóng ít, Dương Khí thoái, cho nên bệnh tiến.

BẢN NGHĨA (41/12)

*Khuyết Âm thọ Thái Dương truyền Kinh tại Lý.

- Thọ Tiêu Dương ít mà Bản Hàn nhiều là bệnh tiến tới.

- Dương Khí thoái thì Hàn Khí tiến vậy.

(Trên đây, chương thứ 41, 12 tiết, giải thích Khuyết Âm tại Biểu tại Lý).
246
CHƯƠNG 42 : KHUYẾT ÂM TỬ CHỨNG

(6 Tiết, từ 342 đến 347)

1- Dương Hàn nhập Lý tử chứng.


2- Âm Nhiệt Ngoại vong tử chứng.
3- Hạ lợi Âm vong tử chứng.
4- Hãn xuất Dương vong tử chứng.
5- Tại Cách Âm Dương đều hư tử chứng.
6- Tại Tấu Dương Hàn thực, Âm Nhiệt hư khó trị.

NGUYÊN VĂN (342)

Thương Hàn 6 - 7 ngày tay chân nghịch lãnh, phiền táo, cứu Khuyết Âm. Quyết không dứt là
chết.

BẢN NGHĨA (42/1)

*Dương Hàn nhập Lý tử chứng.

- 6 - 7 ngày tay chân nghịch lãnh: Âm Hàn ra ngoài hợp với Dương Hàn.

- Phiền táo: Dương Hàn vào trong hợp với Âm Hàn.

- Cứu Khuyết Âm để làm ấm, không ấm, chứng chết vậy.

(cứu 2 huyệt Quan Nguyên, Thái Xung)

NGUYÊN VĂN (343)

Thương Hàn phát sốt, ỉa chảy, quyết nghịch, vật vã không nằm được thì chết.

BẢN NGHĨA (42/2)

*Âm Dương Ngoại Vong tử chứng.

- Phát sốt: Âm Nhiệt ra ngoài.

- Ỉa chảy Quyết nghịch: Âm Hàn bức bách bên trong.

- Vật vã không nằm được: chỉ thọ Âm Hàn, chứng chết vậy !

247
NGUYÊN VĂN (344)

Thương Hàn phát sốt, ỉa chảy rất nặng, quyết không dứt là chết.

BẢN NGHĨA (42/3)

*Hạ lợi vong Âm tử chứng.

- Phát sốt ỉa chảy rất nặng: Âm Nhiệt vong.

- Quyết không dứt là chết: Âm Hàn cũng vong vậy.

NGUYÊN VĂN (345)

Thương Hàn 6 -7 ngày không đi ngoài, bứt rứt phát sốt rồi ỉa chảy, người bệnh đổ mồ hôi
không ngừng là chết.

BẢN NGHĨA (42/4)

*Hãn xuất vong Dương tử chứng.

- 6 - 7 ngày không đi ngoài: Dương Hàn vong.

- Bứt rứt phát sốt rồi ỉa chảy : Âm Nhiệt vong.

- Đổ mồ hôi không ngừng: Âm Hàn theo đó cùng vong.

NGUYÊN VĂN (346)

Thương Hàn 5 - 6 ngày, không Kết hung, bụng mềm, mạch Hư, lại quyết không thể Hạ, đấy là
vong huyết, Hạ thì chết.

BẢN NGHĨA (42/5)

*Âm Dương tại Cách đều hư.

- 5 - 6 ngày không Kết Hung: Âm Nhiệt hư không kết với Dương Hàn.

- Bụng mềm, mạch Hư, lại Quyết: Dương Nhiệt hư không kết với Âm Hàn.

- Không thể Hạ, đấy là vong Huyết: Âm Nhiệt Dương Nhiệt đều vong vậy.

248
NGUYÊN VĂN (347)

Phát sốt mà quyết, 7 ngày hạ lợi là khó trị.

BẢN NGHĨA (42/6)

*Tại Tấu Dương Hàn thực, Âm Nhiệt hư.

- Phát sốt: Dương Hàn thực.

- Mà Quyết: Âm Nhiệt hư.

- 7 ngày hạ lợi là khó trị: ngày Dương Hàn hành Kinh tại Tấu.

(Trên đây, chương thứ 42, 6 tiết, giải thích Khuyết Âm tử chứng).

249
CHƯƠNG 43 : KHUYẾT ÂM THỌ PHONG HÀN TẠI TẤU TẠI CÁCH

(10 Tiết, từ 348 đến 357)

1- Tại Tấu chuyển Bản Hàn ở ‘Ngoại’ Tiêu Âm theo đó cùng ra ‘Ngoại’.
2- Tại Tấu chuyển Bản Nhiệt ở ‘Nội’ Tiêu Dương theo đó cùng vào ‘Nội’.
3- Thọ Bản Hàn Bản Nhiệt tại Tấu.
4- Thọ Bản Hàn Bản Nhiệt tại Tấu đến Biểu.
5- Thọ Bản Hàn Bản Nhiệt tại Tấu đến Lý.
6- Thọ Bản Hàn Bản Nhiệt tại Cách thượng.
7- Thọ Bản Hàn Bản Nhiệt tại Cách hạ.
8- Thọ Bản Hàn Bản Nhiệt tại Cách.
9- Tại Cách chuyển Tiêu Dương Tiêu Âm xuống ‘Hạ’.
10- Tại Cách chuyển Bản Hàn Bản Nhiệt lên ‘Thượng’.

NGUYÊN VĂN (348)

Thương Hàn mạch Xúc, tay chân quyết nghịch, thì có thể dùng cứu.

BẢN NGHĨA (43/1)

*Khuyết Âm tại Tấu chuyển Bản Hàn ở Ngoại Tiêu Âm theo đó cùng ra Ngoại.

- Mạch Xúc: chuyển Bản Hàn ở Ngoại.

- Tay chân quyết nghịch: Tiêu Âm theo đó cùng ra Ngoại.

- Có thể dùng cứu: bệnh tại Ngoại.

Cứu Thủ Túc Khuyết Âm Kinh, 2 Huyệt Nội Quan, Thái Xung.

NGUYÊN VĂN (349)

Thương Hàn mạch Hoạt mà quyết là Lý có Nhiệt, Bạch Hổ thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (43/2)

*Khuyết Âm tại Tấu chuyển Bản Nhiệt ở Nội Tiêu Dương theo đó cùng vào Nội.

- Mạch Hoạt: Bản Nhiệt tại Tấu.

- Mà Quyết: Bản Nhiệt tại Tấu nhập Lý, Tiêu Dương theo đó cùng vào, đấy là Lý có Nhiệt, Bạch
Hổ thang làm chủ.
250
NGUYÊN VĂN (350)

Tay chân quyết Hàn (lãnh), mạch Tế muốn tuyệt, dùng Đương Qui Tứ Nghịch gia Ngô Thù Du
Sinh Khương thang làm chủ.

ĐƯƠNG QUI TỨ NGHỊCH THANG PHƯƠNG

Đương Qui 3 lạng Quế Chi 3 lạng Thược Dược 3 lạng Tế Tân 3 lạng

Chích Thảo 2 lạng Mộc Thông 2 lạng Đại Táo 25 quả

7 vị trên, dùng 8 thăng nước sắc lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần.

ĐƯƠNG QUI TỨ NGHỊCH GIA NGÔ THÙ DU SINH KHƯƠNG THANG PHƯƠNG

Tức thang trên thêm vào : Sinh Khương ½ cân, Ngô Thù Du 2 thăng. 9 vị trên,dùng 6 thăng nước
hòa với 6 thăng rượu trắng sắc lấy 5 thăng,bỏ bả,chia uống ấm 5 lần.

BẢN NGHĨA (43/3)

*Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu.

- Tay chân quyết Hàn: thọ Thái Dương tại Tấu.

- Mạch Tế muốn tuyệt: tại Tấu không Thiếu Âm.

- Âm Dương bất tương cộng là nghịch, dùng Đương Qui Tứ Nghịch thang làm chủ.

- Người bệnh bên trong có cửu Hàn: thọ Bản Hàn truyền Kinh, Khuyết Âm là Thái Dương Bản
Khí, cho nên nói ‘cửu Hàn’ , dùng Đương Qui Tứ Nghịch gia Ngô Thù Du Sinh Khương thang
làm chủ.

NGUYÊN VĂN (351)

Ra nhiều mồ hôi, sốt không lui, trong bụng co thắt, tay chân nhức lại ỉa chảy, quyết nghịch mà
sợ lạnh, dùng Tứ Nghịch thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (43/4)

*Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu rồi đến Biểu.

- Ra nhiều mồ hôi, sốt không lui: thọ Thiếu Âm Tiêu Bản.

- Trong bụng co thắt, tay chân nhức: thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu.
251
- Lại ỉa chảy quyết nghịch mà sợ lạnh: thọ Thái Dương tại Tấu đến Biểu.

- Dùng Tứ Nghịch thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (352)

Phát Hãn nhiều, nếu hạ lợi nhiều mà quyết lãnh, Tứ Nghịch thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (43/5)

*Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu rồi đến Lý.

- Hãn nhiều: thọ Thiếu Âm Tiêu Bản.

- Hạ lợi nhiều: thọ Thái Dương Tiêu Bản.

- Quyết lãnh: thọ Truyền Kinh.

- Dùng Tứ Nghịch thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (353)

Người bệnh tay chân quyết lãnh, mạch sạ (chợt) Khẩn, đấy là tà kết ở trong ngực, dưới Tâm
đầy mà phiền, đói không ăn được là bệnh tại trong ngực, cần phải cho Thổ, nên dùng Qua đế
tán.

BẢN NGHĨA (43/6)

*Khuyết Âm thọ Bản Hàn Bản Nhiệt tại Cách thượng.

- Tay chân quyết lãnh: Khuyết Âm bệnh thì quyết, lại thọ Dương Hàn thì lãnh.

- Mạch sạ Khẩn: Khuyết Âm thọ Bản Hàn thì Khẩn, lại thọ Bản Nhiệt thì sạ Khẩn.

- Đấy là tà Kết ở trong ngực: Khuyết Âm là chính, thọ Hàn Nhiệt là tà.

- Dưới Tâm đầy mà phiền: thọ tại Cách.

- Đói mà không ăn được: thọ tại Cách thượng.

- Đấy là bệnh tại trong ngực: tại Cách vậy, cho Thổ nên dùng Qua Đế tán.

252
NGUYÊN VĂN (354)

Thương Hàn quyết mà dưới Tâm hồi hộp, nên trước trị chứng thủy, phải uống Phục Linh Cam
Thảo thang; rồi trị đến chứng quyết, không thế thì thủy ẩm ngấm vào Vỵ tất sinh ỉa chảy.

BẢN NGHĨA (43/7)

*Khuyết Âm thọ Bản Hàn Bản Nhiệt tại Cách hạ.

- Quyết: Bản Hàn thực.

- Dưới Tâm hồi hộp: Bản Nhiệt hư.

- Nên trước trị chứng thủy: trị Bản Hàn tại Cách hạ.

- Rồi trị đến chứng Quyết: trị Bản Nhiệt hư.

- Không như thế thì thủy ẩm ngấm vào Vỵ sinh ỉa chảy: Bản Nhiệt hư thì Bản Hàn truyền Kinh
vậy.

NGUYÊN VĂN (355)

Thương Hàn 6-7 ngày, sau khi đại Hạ, mạch thốn Trầm mà Trì, tay chân quyết lãnh, mạch ở hạ
bộ không đến, yết hầu không lợi, nhổ ra mủ máu, ỉa chảy không dứt, Ma Hoàng Thăng Ma
thang làm chủ.

MA HOÀNG THĂNG MA THANG PHƯƠNG

Ma Hoàng 1 lạng rưỡi (bỏ mắt). Thăng Ma 1 lạng 1 phân.

Đương Qui 1 lạng 1 phân. Tri Mẫu 18 thù.

Nuy Di (Ngọc trúc?) 18 thù. Hoàng Cầm 18 thù.

Thạch Cao 6 thù (giả nát đựng vào túi vải). Bạch Truật 6 thù.

Can Khương 6 thù. Bạch Thược 6 thù.

Thiên Môn Đông 6 thù (bỏ tim). Quế Chi 6 thù.

Phục Linh 6 thù. Chích Thảo 6 thù.

253
14 vị trên, dùng 1 đấu nước, trước nấu Ma hoàng sôi 1-2 dạo, vớt bỏ bọt rồi cho các vị kia vào
sắc lấy 3 thăng, bỏ bả, chia uống ấm 3 lần, trong khoảng 1-2 ngày uống hết thuốc, đổ mồ hôi thì
khỏi.

BẢN NGHĨA (43/8)

*Khuyết Âm thọ Bản Hàn Bản Nhiệt tại Cách.

- 6 - 7 ngày : từ Biểu nhập Lý đang ở Cách phần.

- Sau khi đại Hạ: Cách Khí hư.

- Mạch Thốn Trầm mà Trì: Bản Hàn nhập Cách thì mạch Trầm.

Bản Nhiệt tại Cách hư thì Trầm mà Trì.

- Tay chân quyết lãnh: Bản Hàn thực.

- Hạ bộ mạch không đến: Bản Nhiệt hư.

- Yết hầu không lợi nhổ ra mủ máu: Bản Nhiệt hiệp Bản Hàn rồi đi lên.

- Ỉa chảy không dứt: Bản Hàn hiệp Bản Nhiệt rồi đi xuống.

- Ma Hoàng Thăng Ma thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (356)

Thương Hàn 4-5 ngày, trong bụng đau, nếu chuyển Khí hướng xuống bụng dưới đấy là muốn
sinh ỉa chảy.

BẢN NGHĨA (43/9)

*Khuyết Âm tại Cách chuyển Tiêu Dương Tiêu Âm xuống dưới.

- 4 - 5 ngày: ngày Tiêu Âm hành Kinh.

- Trong bụng đau: Tiêu Âm ở dưới.

- Nếu chuyển Khí hướng xuống bụng dưới: Tiêu Âm ở dưới, Tiêu Dương theo đó xuống dưới.

- Đấy là muốn sinh ỉa chảy mà chưa ỉa: có Tiêu Dương tại Nội vậy.

254
NGUYÊN VĂN (357)

Thương Hàn vốn tự ỉa do lạnh, thầy thuốc lại cho mửa, ‘Hàn cách’, càng nghịch càng mửa ỉa.
Nếu ăn vào miệng liền mửa, Can Khương Hoàng Cầm Hoàng Liên Nhân Sâm thang làm chủ.

CAN KHƯƠNG HOÀNG CẦM HOÀNG LIÊN NHÂN SÂM THANG PHƯƠNG

Can Khương 3 lạng Hoàng Cầm 3 lạng Hoàng Liên 3 lạng Nhân Sâm 3 lạng

4 vị trên, dùng 6 thăng nước, sắc lấy 2 thăng, bỏ bả, chia uống ấm 2 lần.

BẢN NGHĨA (43/10)

*Khuyết Âm tại Cách chuyển Bản Hàn Bản Nhiệt lên trên.

-Vốn tự ỉa do lạnh, thầy thuốc lại cho mửa, Hàn Cách: chuyển Bản Hàn lên trên.

-Càng nghịch càng mửa ỉa, nếu ăn vào miệng liền mửa ngay: Bản Hàn đã nghịch lên trên, Bản
Nhiệt cùng theo lên trên, dùng Can Khương Hoàng Cầm Hoàng Liên Nhân Sâm thang làm chủ.

(Trên đây, chương thứ 43, 10 tiết, giải thích Khuyết Âm thọ Phong Hàn tại Tấu tại Cách).
255
CHƯƠNG 44 : THỦ KHUYẾT ÂM

(12 Tiết, từ 358 đến 369)

1- Tại Tấu thọ Âm Nhiệt.


2- Tại Tấu thọ Dương Hàn.
3- Tại Tấu thọ Âm Hàn.
4- Tại Tấu thọ Dương Nhiệt.
5- Tại Biểu tại Lý thọ Âm Nhiệt.
6- Tại Biểu tại Lý thọ Âm Hàn.
7- Tại Biểu tại Lý thọ Dương Hàn.
8- Tại Biểu tại Lý thọ Dương Nhiệt.
9- Tại Cách thọ Âm Nhiệt.
10- Tại Cách thọ Âm Hàn.
11- Tại Cách thọ Dương Hàn.
12- Tại Cách thọ Dương Nhiệt.

NGUYÊN VĂN (358)

Ỉa chảy, có sốt nhẹ mà khát, mạch Nhược, nay tự khỏi.

BẢN NGHĨA (44/1)

*Thủ Khuyết Âm tại Tấu thọ Âm Nhiệt.

- Tam Âm đều có chứng hạ lợi do thọ Hàn truyền Kinh, còn lại phỏng theo đó.

- Có sốt nhẹ mà khát: thọ Âm Nhiệt.

- Mạch Nhược, nay tự khỏi: không còn thọ Hàn truyền Kinh.

NGUYÊN VĂN (359)

Ỉa chảy mạch Sác, có sốt nhẹ, đổ mồ hôi, nay tự khỏi. Ví như mạch lại Khẩn là chưa giải.

BẢN NGHĨA (44/2)

*Thủ Khuyết Âm tại Tấu thọ Dương Hàn.

- Mạch Sác có sốt nhẹ: Dương Hàn có Dương Nhiệt.

- Đổ mồ hôi nay tự khỏi: Dương Hàn giải.

256
- Ví như mạch lại Khẩn là chưa giải: Thương Hàn truyền Kinh vậy.

NGUYÊN VĂN (360)

Ỉa chảy, tay chân quyết lãnh, không có mạch, dùng phép Ôn không ấm. Nếu mạch không trở
lại mà hơi Suyễn là chết, mạch Thiếu Âm thua kém mạch Phu Dương là thuận.

BẢN NGHĨA (44/3)

*Thủ Khuyết Âm tại Tấu thọ Âm Hàn.

- Tay chân quyết lãnh không có mạch (Vô mạch): Âm Hàn tại Ngoại Âm Nhiệt cũng tại Ngoại.

- Dùng phép Ôn không ấm: không Âm Nhiệt.

- Mạch không trở lại mà hơi Suyễn là thọ Âm Hàn.

- Mạch Thiếu Âm thua kém Phu Dương là thuận, mà kém Âm Hàn là nghịch, cho nên chết.

NGUYÊN VĂN (361)

Ỉa chảy, mạch Thốn trái lại Phù Sác, giữa bộ Xích mạch tự Sáp, tất đái ỉa mủ máu.

BẢN NGHĨA (44/4)

*Thủ Khuyết Âm tại Tấu thọ Dương Nhiệt.

- Mạch Thốn trái lại Phù Sác : Dương Nhiệt hư.

- Giữa bộ Xích mạch tự Sáp : Âm Hàn Kết.

- Tất đái ỉa mủ máu : đại tiểu tiện có máu, thọ Dương Hàn truyền Kinh.

NGUYÊN VĂN (362)

Ỉa chảy nguyên cơm nước không tiêu, không thể công Biểu, đổ mồ hôi tất trướng đầy.

BẢN NGHĨA (44/5)

*Thủ Khuyết Âm tại Biểu tại Lý thọ Âm Nhiệt.

257
- Ỉa chảy nguyên cơm nước không tiêu: tại Lý không Âm Nhiệt.

- Không thể công Biểu, đổ mồ hôi tất trướng đầy : tại Lý Âm Nhiệt hư thì tại Biểu Dương Hàn
nhập vào.

NGUYÊN VĂN (363)

Ỉa chảy, mạch Trầm Huyền là Hạ hư, mạch Đại là chưa dứt, mạch Vi Nhược Sác là muốn tự
dứt, tuy phát sốt cũng không chết.

BẢN NGHĨA (44/6)

*Thủ Khuyết Âm tại Biểu tại Lý thọ Âm Hàn.

- Mạch Trầm, Huyền là Hạ hư: thọ Âm Hàn tại Hạ mà không có Âm Nhiệt.

- Mạch Đại là chưa dứt: thọ Âm Hàn mà có Dương Nhiệt.

- Mạch Vi Nhược Sác là muốn tự dứt: thọ Âm Hàn mà có Âm Nhiệt.

- Tuy phát sốt, không chết: Âm Nhiệt hòa Âm Hàn.

NGUYÊN VĂN (364)

Ỉa chảy, mạch Trầm mà Trì, mặt người bệnh hơi đỏ, mình có hơi nóng, ỉa chảy thanh cốc
(nguyên cơm nước), tất uất mạo rồi giải. Bệnh nhân hơi quyết, sở dĩ như thế, vì mặt ‘Đới
Dương’ do hạ hư vậy.

BẢN NGHĨA (44/7)

*Thủ Khuyết Âm tại Biểu tại Lý thọ Dương Hàn.

- Mạch Trầm: Dương Hàn nhập Lý.

- Mà Trì: tại Lý Thủ Khuyết Âm thọ phải.

- Mặt người bệnh hơi đỏ, mình có hơi nóng: Âm Nhiệt ra Biểu, Thủ Khuyết Âm thọ phải.

- Ỉa chảy nguyên cơm nước: Dương Hàn nhập Lý với Âm Hàn.

- Tất uất mạo rồi giải, bệnh nhân hơi Quyết: Âm Nhiệt xuất Biểu với Dương Hàn.

258
- Sở dĩ mặt hơi đỏ là vì Âm Nhiệt tại Hạ hư thì lên trên mặt gọi là ‘Đới Dương’ vậy.

NGUYÊN VĂN (365)

Ỉa chảy mạch Vi mà khát, nay tự khỏi. Ví như không bớt, tất đi ngoài ra mủ máu, vì có Nhiệt
cho nên thế.

BẢN NGHĨA (44/8)

*Thủ Khuyết Âm tại Biểu tại Lý thọ Dương Nhiệt.

- Mạch Vi mà khát: thọ Dương Nhiệt.

- Nay tự khỏi: không hiệp Dương Hàn Âm Nhiệt.

- Ví như không bớt, tất đi ngoài ra mủ máu: hiệp Âm Hàn.

NGUYÊN VĂN (366)

Ỉa chảy rồi mạch Tuyệt, tay chân quyết lãnh, 24 giờ sau có mạch trở lại tay chân ấm là sống,
không có mạch trở lại là chết.

BẢN NGHĨA (44/9)

*Thủ Khuyết Âm tại Cách với Âm Nhiệt.

- Mạch Tuyệt: tại Cách không Âm Nhiệt.

- Tay chân Quyết lãnh: tại Biểu không Âm Nhiệt.

- 24 giờ sau có mạch trở lại tay chân ấm là sống: tại Cách có Âm Nhiệt thì tại Biểu có Âm Nhiệt.

- Không có mạch trở lại là chết: tại Cách không Âm Nhiệt thì tại Lý không Âm Nhiệt.

NGUYÊN VĂN (367)

Thương Hàn ỉa chảy, ngày mười mấy lần, mạch trái lại thực là chết.

BẢN NGHĨA (44/10)

*Thủ Khuyết Âm tại Cách với Âm Hàn.


259
- Ỉa chảy ngày mười mấy lần: tại Cách Âm Hàn Thực.

- Mạch trái lại Thực: tại Cách Âm Hàn Thực, Âm Nhiệt cũng Thực, chứng chết vậy.

NGUYÊN VĂN (368)

Hạ lợi thanh cốc, Lý Hàn Ngoại Nhiệt, mồ hôi ra mà quyết, Thông mạch tứ nghịch thang làm
chủ.

BẢN NGHĨA (44/11)

*Thủ Khuyết Âm tại Cách với Dương Hàn.

- Hạ lợi thanh cốc: thọ Hàn truyền.

- Lý Hàn Ngoại Nhiệt: Dương Hàn tại Lý bức bách Âm Nhiệt ra ngoài.

- Mồ hôi ra mà quyết: Âm Nhiệt ra ngoài, Âm Hàn cũng ra ngoài.

- Thông Mạch Tứ Nghịch thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (369)

Tiết lợi hạ trọng (Kiết lỵ mót rặn), Bạch đầu ông thang làm chủ.

BẠCH ĐẦU ÔNG THANG PHƯƠNG

Bạch đầu ông 2 lạng Hoàng liên 3 lạng Hoàng bá 3 lạng Trần bì 3 lạng

4 vị trên, dùng 7 thăng nước sắc lấy 2 thăng, lọc bỏ bả, uống ấm 1 thăng, không khỏi lại uống 1
thăng nữa.

BẢN NGHĨA (44/12)

*Thủ Khuyết Âm tại Cách với Dương Nhiệt.

- Dương Nhiệt gốc ở Âm Nhiệt, có thể kiêm bệnh, có thể kiêm trị.

- Thủ Khuyết Âm Hàn Kinh mà tại Cách thọ Nhiệt, cho nên Kiết lỵ mót rặn.

- Bạch Đầu Ông thang làm chủ.

(Trên đây, chương thứ 44, 12 tiết, giải thích Thủ Khuyết Âm).
260
CHƯƠNG 45 : TÚC KHUYẾT ÂM

(10 Tiết, từ 370 đến 379)

1- Thọ Bản Hàn tại Biểu tại Lý.


2- Thọ Tiêu Dương tại Biểu tại Lý.
3- Thọ Bản Nhiệt tại Biểu tại Lý.
4- Thọ Tiêu Âm tại Biểu tại Lý.
5- Thọ Thiếu Âm Tiêu Bản tại Tấu.
6- Thọ Thái Dương Tiêu Bản tại Tấu.
7- Thọ Bản Hàn Bản Nhiệt tại Tấu.
8- Thọ Tiêu Dương Tiêu Âm tại Tấu.
9- Thương Hàn nhất thiết Nội Ngoại đều thọ Khuyết Âm tại Tấu.
10- Thương Hàn nhất thiết Thượng Hạ đều thọ Khuyết Âm tại Cách.

NGUYÊN VĂN (370)

Hạ lợi, bụng trướng đầy, mình mẩy đau nhức, trước Ôn Lý rồi mới Công Biểu, Ôn Lý nên dùng
Tứ Nghịch thang, Công Biểu nên dùng Quế Chi thang.

BẢN NGHĨA (45/1)

*Túc Khuyết Âm tại Biểu tại Lý thọ Bản Hàn.

- Hạ lợi, tại Lý thọ Bản Hàn tất có Tiêu Âm ứng, cho nên bụng trướng đầy.

- Tại Biểu thọ Bản Hàn tất có Bản Nhiệt ứng, cho nên mình đau nhức.

- Trước Ôn Lý nên dùng Tứ Nghịch thang: Bản Hàn giải thì Tiêu Âm giải.

- Rồi Công Biểu nên dùng Quế Chi thang: Bản Hàn giải thì Bản Nhiệt giải.

NGUYÊN VĂN (371)

Hạ lợi muốn uống nước là vì có Nhiệt, Bạch Đầu Ông thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (45/2)

*Túc Khuyết Âm tại Biểu tại Lý thọ Tiêu Dương.

- Đi ỉa muốn uống nước: thọ Tiêu Dương nhập Nội.

- Là vì có Nhiệt: tại Nội Bản Nhiệt ứng. - Dùng Bạch Đầu Ông thang làm chủ.
261
NGUYÊN VĂN (372)

Hạ lợi nói xàm là vì có phân táo, dùng Tiểu Thừa Khí thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (45/3)

*Túc Khuyết Âm tại Biểu tại Lý thọ Bản Nhiệt.

- Đi ngoài mà nói xàm: thọ Bản Nhiệt tại Lý.

- Là vì có phân táo: Tiêu Dương tại Biểu nhập vào.

- Dùng Tiểu Thừa Khí thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (373)

Sau khi hạ lợi lại phiền, ấn vào dưới Tâm thấy mềm, là hư phiền, Chi Tử Xị thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (45/4)

*Túc Khuyết Âm tại Biểu tại Lý thọ Tiêu Âm.

- Sau khi hạ lợi lại phiền: Tiêu Âm bệnh mà Bản Nhiệt ứng theo.

- Ấn vào dưới Tâm thấy mềm là hư phiền: Tiêu Âm hư, Bản Nhiệt cũng hư.

- Chi Tử Xị thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (374)

Ẩu gia (người bệnh nôn) có ung nùng (nhọt mủ) không thể trị chứng nôn, nùng hết thì tự khỏi.

BẢN NGHĨA (45/5)

*Túc Khuyết Âm thọ Thiếu Âm Tiêu Bản tại Tấu.

- Ẩu gia: Khuyết Âm.

- Có ung nùng: thọ Bản Nhiệt.

- Không thể trị chứng nôn, mủ hết thì tự khỏi: không cần trị Tiêu, chú ý ở Bản.

*Túc Khuyết Âm lấy Thiếu Âm Nhiệt Khí làm Bản.

262
NGUYÊN VĂN (375)

Nôn mà mạch Nhược, tiểu tiện lại lợi, mình có hơi nóng thấy quyết là khó trị, Tứ Nghịch
thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (45/6)

*Túc Khuyết Âm thọ Thái Dương Tiêu Bản tại Tấu.

- Nôn: Bản Hàn.

- Mà Mạch Nhược: Ly khai (lìa bỏ) Tiêu Dương.

- Tiểu tiện lại lợi: Bản Hàn hiệp Tiêu Âm.

- Mình có hơi nóng thấy Quyết: Bản Hàn hiệp Tiêu Âm, cũng hiệp Bản Nhiệt.

- Khó trị: vì Hàn Nhiệt cùng bệnh. - Tứ Nghịch thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (376)

Nôn khan, mửa bọt dãi, đau đầu, Ngô Thù Du thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (45/7)

*Túc Khuyết Âm thọ Bản Hàn Bản Nhiệt tại Tấu.

- Nôn khan mửa bọt dãi: thọ Bản Hàn truyền.

- Đau đầu: có Bản Hàn truyền tất có Bản Nhiệt hệ. - Ngô Thù Du thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (377)

Nôn mà phát sốt, Tiểu Sài Hồ thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (45/8)

*Túc Khuyết Âm thọ Tiêu Dương Tiêu Âm tại Tấu.

- Nôn: thọ Tiêu Âm.

- Phát sốt: thọ Tiêu Dương. - Dùng Tiểu Sài Hồ thang làm chủ.

263
NGUYÊN VĂN (378)

Thương Hàn sau khi cho Thổ mạnh, Hạ mạnh, hư cực rồi lại ra rất nhiều mồ hôi, vì người
bệnh ‘ngoại Khí phất uất’, lại còn dùng nước để làm cho ra mồ hôi, nhân đó sinh ọe. Sở dĩ
như thế, vì trong Vỵ hư lạnh.

BẢN NGHĨA (45/9)

*Thương Hàn nhất thiết các Kinh Nội Ngoại đều thọ Khuyết Âm tại Tấu.

- Thổ mạnh, Hạ mạnh: Khuyết Âm là tận cùng của tam Âm.

- Hư cực rồi lại ra rất nhiều mồ hôi: Khuyết Âm là khởi thỉ của tam Dương.

- ‘Ngoại Khí phất uất’: Âm Nhiệt tại Nội mà ra ngoài hiệp với Dương Hàn tại Ngoại.

- Lại còn dùng nước để làm cho ra mồ hôi: Dương Hàn tại Ngoại mà vào trong hiệp với Âm
Nhiệt tại Nội.

- Sở dĩ như thế, vì trong Vỵ hư lạnh: nhất thiết Kinh Nội Ngoại đều thọ Vỵ Khí, Vỵ hư do Can
lạnh dẫn đến, cho nên nhất thiết Kinh liên quan với Can.

NGUYÊN VĂN ( 379)

Thương Hàn ọe mà bụng đầy, xem trước sau nó, biết được bộ nào không lợi, làm cho lợi đi
thì khỏi.

BẢN NGHĨA (45/10)

*Thương Hàn nhất thiết các Kinh Thượng Hạ (lên xuống) đều thọ Khuyết Âm tại Cách.

- Ọe: Túc Khuyết Âm chuyển tam Âm từ dưới đi lên.

- Bụng đầy: Túc Khuyết Âm chuyển tam Dương từ trên đi xuống.

- Trước Khuyết Âm là tam Dương tức Dương Hàn, Dương Nhiệt bộ.

- Sau Khuyết Âm là tam Âm tức Âm Hàn, Âm Nhiệt bộ. Đấy là ‘Tứ bộ’.

- Biết được bộ nào không lợi, làm cho lợi đi thì khỏi: Tứ bộ đều thống (gồm) tại Cách, Túc
Khuyết Âm Kinh. Nắm biết điều đó để cầu tìm ’Thương Hàn trị pháp’ thì ‘tất’ (xong, hết) vậy!

(Trên đây, chương thứ 45, 10 tiết, giải thích Túc Khuyết Âm).

264
THIÊN LUẬN KINH LẠC
(2 chương, từ 46 đến 47)

CHƯƠNG 46 : HOẮC LOẠN NÓI VỀ KINH

(11 Tiết, từ 380 đến 390)

1- Tại Lý Kinh Thượng Hạ hành (đi lên đi xuống).

2- Tại Biểu Kinh Nội Ngoại hành (đi ra đi vào).

3- Kinh giao đại (trao đổi) ra vào lên xuống.

4- Kinh thuận nghịch ra vào lên xuống.

5- Âm Dương Kinh tại Tấu thống nơi Thái Dương.

6- Âm Dương Kinh tại Biểu tại Lý thống nơi Thái Dương.

7- Âm Dương Kinh tại Cơ, thỉ (bắt đầu) nơi Thái Dương.

8- Dương Hàn Kinh hành (đi) Bì, Cơ, Tấu, Lý.

9- Âm Nhiệt Kinh hành Bì, Cơ, Tấu, Lý.

10- Âm Hàn Kinh hành Bì, Cơ, Tấu, Lý.

11- Dương Nhiệt Kinh hành Bì, Cơ, Tấu, Lý.

NGUYÊN VĂN (380)

Hỏi : Bệnh Hoắc loạn là thế nào ?

Đáp : Ói mửa mà lại ỉa, tên là Hoắc loạn.

BẢN NGHĨA (46/1)

*Tại Lý Kinh đi lên đi xuống.

- Hoắc loạn: chứng tại Lý.

- Ói mửa mà lại ỉa: nói Kinh hành thủy, tại Lý thì đi lên đi xuống.

- Tên là Hoắc loạn.

265
NGUYÊN VĂN (381)

Hỏi : Bệnh có phát sốt, đầu đau mình nhức, sợ lạnh, mửa ỉa là thuộc bệnh gì ?

Đáp : đấy gọi là Hoắc loạn, từ mửa ỉa, rồi hết ỉa, trở lại phát sốt vậy.

BẢN NGHĨA (46/2)

*Tại Biểu, Kinh đi ra đi vào.

- Phát sốt, đầu đau, mình nhức, sợ lạnh: Biểu Kinh chứng.

- Mửa ỉa: Lý chứng.

- Tiết trên chứng Hoắc loạn Lý Kinh tại Nội, nó đi Tung.

- Tiết này chứng Hoắc loạn nêu rõ Biểu Kinh nhập Lý đi từ Hoành đến Tung.

- Từ mửa ỉa, rồi hết ỉa, trở lại phát sốt: từ Lý đến Biểu, Kinh lại đi từ Tung đến Hoành, tuần
hoàn không dứt vậy !

NGUYÊN VĂN (382)

Thương Hàn mạch Vi Sáp, vốn là Hoắc loạn, nay là Thương Hàn, đã 4 – 5 ngày là lúc đến Âm
Kinh, chuyển nhập Âm thì tất đi ỉa, vốn đã nôn và ỉa chảy là không thể trị ; muốn đại tiện mà
trái lại chỉ trung tiện nhưng không ỉa được là thuộc Dương Minh, đại tiện tất rắn, 13 ngày
khỏi. Sở dĩ như thế là vì hành Kinh tận (hết) vậy.

BẢN NGHĨA (46/3)

*Kinh đi ra vào lên xuống có giao đại (trao đổi).

- Thương Hàn: Dương Kinh tại Ngoại.

- Mạch Vi Sáp: nhập Nội chuyển sang Âm Kinh.

- Vốn là Hoắc loạn: Âm Kinh tại Nội.

- Nay là Thương Hàn: xuất Ngoại chuyển sang Dương Kinh.

Đấy là Âm Dương Kinh ra vào trao đổi nhau.

- Đã 4 - 5 ngày: Âm Kinh.

266
- Đến trên Âm KInh, chuyển nhập Âm tất đi ỉa: Thủ Âm KInh ở trên chuyển xuống Túc Âm Kinh
ở dưới.

- Vốn nôn mà ỉa chảy là không thể trị : cớ bởi do Thủ Âm chuyển Túc Âm.

- Muốn đại tiện : Túc Kinh ở dưới.

- Trái lại chỉ trung tiện nhưng không ỉa : ở dưới Túc Kinh chuyển lên Thủ Kinh ở trên.

- Thuộc Dương Minh, đại tiện tất rắn : cớ bởi do Túc Dương chuyển Thủ Dương.

Đấy là Thủ Túc Kinh lên xuống trao đổi nhau.

- Tại Lý thì lên xuống trao đổi 6 ngày 1 chu.

Tại Biểu thì vào ra trao đổi 7 ngày 1 chu.

13 ngày ra vào lên xuống Kinh đi khắp hết vậy.

NGUYÊN VĂN (383)

Sau khi ỉa chảy, đáng lý tiện rắn, rắn thì ăn được thì khỏi ; nay trái lại không ăn được, đến
giữa Kinh sau hơi ăn được, lại quá 1 Kinh ăn được, qua đi 1 ngày là phải khỏi ; không khỏi là
không thuộc Dương Minh.

BẢN NGHĨA (46/4)

*Kinh đi ra vào lên xuống có thuận nghịch.

- Ỉa chảy: do Thủ Âm đến Túc Âm.

- Đáng lý tiện rắn : do Túc Âm đến Túc Dương.

- Rắn thì ăn được là khỏi : do Túc Dương đến Thủ Dương.

Đấy là Âm Dương Kinh lên xuống đi thuận.

- Trái lại không ăn được : do Dương đến Âm.

Đấy là Âm Dương Kinh lên xuống đi nghịch.

- Đến giữa Kinh sau hơi ăn được : Dương Kinh từ ngoài vào trong.

- Lại quá 1 Kinh ăn được : Âm Kinh từ trong ra ngoài.

267
- Qua đi 1 ngày là phải khỏi :

Đấy là Âm Dương Kinh vào ra đi thuận.

- Không khỏi là không thuộc Dương Minh :

Đấy là Âm Dương Kinh vào ra đi nghịch.

NGUYÊN VĂN (384)

Sợ lạnh mạch Vi mà lại ỉa chảy ; hết ỉa chảy là vong huyết (mất máu), Tứ Nghịch gia Nhân Sâm
thang làm chủ.

TỨ NGHỊCH GIA NHÂN SÂM THANG PHƯƠNG

Chích Thảo 2 lạng Phụ Tử 1 củ (dùng sống, xẻ làm 8)

Can Khương 1 lạng rưỡi Nhân Sâm 1 lạng

4 vị trên, dùng 3 thăng nước sắc lấy 1 thăng 2 cáp, lọc bỏ bả, chia uống ấm 2 lần.

BẢN NGHĨA (46/5)

*Âm Dương Kinh tại Tấu Lý thống (gồm,tóm) nơi Thái Dương Hàn Khí.

- Sợ lạnh, mạch Vi mà lại ỉa chảy: tại Tấu chư Dương Kinh thống nơi Thái Dương Hàn Khí.

- Hết ỉa chảy là vong Huyết: tại Tấu chư Âm Kinh cũng thống nơi Thái Dương Hàn Khí.

- Tứ Nghịch gia Nhân Sâm thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (385)

Hoắc loạn đầu đau, phát sốt, mình đau nhức ; nóng nhiều muốn uống nước dùng Ngũ Linh
tán làm chủ ; lạnh nhiều không uống nước dùng Lý Trung hoàn làm chủ.

LÝ TRUNG HOÀN PHƯƠNG

Nhân Sâm 3 lạng Bạch Truật 3 lạng Chích Thảo 3 lạng Can Khương 3 lạng
4 vị trên, giã rây nhỏ, luyện mật làm viên bằng lòng đỏ trứng gà, dùng vài cáp nước sôi hòa 1
hoàn nghiền nát uống ấm, ngày 3 lần, đêm 2 lần. Trong bụng chưa nóng thì uống thêm đến 3 –
4 hoàn, nhưng thuốc hoàn không bằng thuốc thang.
268
Cách làm thuốc thang : Dùng 4 vị y số lượng trên, thái mỏng nước 8 thăng sắc lấy 3 thăng, lọc
bỏ bả, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần.

Phép gia giảm :

- Nếu trên rốn có hơi xục xục, là Thận Khí động : bỏ Bạch Truật, gia Quế 4 lạng.

- Mửa nhiều : bỏ Bạch Truật gia Sinh Khương 3 lạng.

- Ỉa nhiều : lại dùng Bạch Truật.

- Hồi hộp : gia Phục Linh 2 lạng.

- Khát muốn uống nước : gia Bạch Truật lên thành 4,5 lạng.

- Đau bụng : gia Nhân Sâm lên thành 4,5 lạng.

- Lạnh : gia Can Khương lên thành 4,5 lạng.

- Đầy bụng : bỏ Truật gia Phụ Tử 1 củ.

Uống thuốc xong, ăn rồi khoảng 1 bửa cơm, thì húp 1 thăng cháo nóng, hơi tự thấy ấm,
chớ cởi bỏ chăn áo.

BẢN NGHĨA (46/6)

*Âm Dương Kinh tại Biểu tại Lý thống nơi Thái Dương Hàn Khí

- Hoắc loạn : Âm Dương Kinh tại Lý.

- Đầu đau phát sốt mình đau nhức : Âm Dương Kinh tại Biểu.

- Nóng nhiều muốn uống nước : chư Dương Kinh Hoắc loạn, dùng Ngũ Linh Tán làm chủ.

- Lạnh nhiều không muốn uống nước : chư Âm Kinh Hoắc loạn, Lý Trung hoàn làm chủ.

- Trên rốn có hơi xục xục : Thận Kinh có Thủy, động đến Tâm.

- Bỏ Bạch Truật gia Quế:Truật không phải thuốc của Tâm Thận,dùng Quế ôn Tâm để hành thủy.

- Mửa nhiều : Bào Phế Kinh có thủy, gia Sinh Khương.

- Ỉa nhiều: Tỳ Can Kinh có thủy, dùng Truật trở lại.

- Hồi hộp : Thận Kinh có thủy, gia Phục Linh.

- Khát muốn uống nước : Tỳ Kinh có thủy, tăng dùng Truật.


269
- Trong bụng đau : Dương Hàn nhập Âm Nhiệt Kinh, tăng gia Nhân Sâm.

- Lạnh nhiều : Dương Hàn nhập Âm Hàn Kinh, tăng dùng Can Khương.

- Bụng đầy : Dương Hàn nhập tam Âm Kinh, gia Phụ Tử.

- Sau khi uống húp cháo nóng : cũng như Tiểu Kiến Trung dùng Di đường, thang Quế Chi có
húp cháo, đều là trợ Vỵ Khí để trừ Dương Hàn.

NGUYÊN VĂN (386)

Thổ tả dứt mà mình đau không hết, nên ‘tiêu tức’ (châm chước) hòa giải bên ngoài, nên dùng
Quế Chi thang để ‘tiểu hòa’.

BẢN NGHĨA (46/7)

*Âm Dương Kinh mới đầu mắc bệnh ở Thái Dương tại Cơ Nhục.

- Thổ Tả dứt: Thái Dương tại cơ hòa, chư Âm Dương Kinh tự hòa.

- Mình đau không hết: Thái Dương tại Cơ chưa hòa.

- Nên châm chước (xem xét) Thái Dương Kinh để hòa giải bên ngoài.

- Dùng Quế Chi thang để ‘tiểu hòa’: nói Quế Chi thang hòa Thái Dương tại Cơ Nhục, chư Hàn
Kinh có thể hòa, chư Nhiệt Kinh có thể ‘tiểu hòa’.

NGUYÊN VĂN (387)

Thổ tả đổ mồ hôi, phát sốt, sợ lạnh, tứ chi co rút, tay chân quyết lãnh, Tứ Nghịch thang làm
chủ.

BẢN NGHĨA (46/8)

*Dương Hàn Kinh hành (đi) ở Bì, Cơ, Tấu, Lý.

- Thổ Tả: tại Lý Kinh.

- Đổ mồ hôi, phát sốt, sợ lạnh : tại Cơ Kinh.

- Tứ chi co rút : tại Tấu Kinh.

270
- Tay chân quyết lãnh : tại Bì Kinh.

- Dùng Tứ Nghịch thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (388)

Đã thổ lại tả, tiểu tiện lại lợi, mà mồ hôi ra nhiều, ỉa nguyên cơm nước, trong lạnh ngoài
nóng, mạch Vi muốn tuyệt. Tứ Nghịch thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (46/9)

*Âm Hàn Kinh đi ở Bì, Cơ, Tấu, Lý.

- Đã thổ lại tả, tiểu tiện lại lợi : tại Lý Kinh.

- Mồ hôi ra nhiều : tại Cơ Kinh.

- Ỉa nguyên cơm nước, trong lạnh ngoài nóng : tại Bì Kinh.

- Mạch Vi muốn tuyệt : tại Tấu Kinh.

- Tứ Nghịch thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (389)

Thổ hết, tả dứt, đổ mồ hôi mà quyết, tay chân co quắp không giải, mạch Vi muốn tuyệt,
Thông Mạch Tứ Nghịch gia Trư Đởm Trấp thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (46/10)

*Âm Nhiệt Kinh đi ở Biểu Lý.

- Thổ hết Tả dứt : tại Lý có Âm Hàn tất có Âm Nhiệt.

- Đổ mồ hôi mà quyết : tại Biểu có Âm Nhiệt tất có Âm Hàn.

- Chân tay co quắp không giải, mạch Vi muốn tuyệt: tại Tấu Âm Nhiệt Dương Hàn không rời
nhau.

- Thông Mạch Tứ Nghịch gia Trư Đởm Trấp thang làm chủ.

271
NGUYÊN VĂN (390)

Thổ lợi cho ra mồ hôi, mạch Bình, hơi phiền là mới hư không thắng được cốc Khí vậy.

BẢN NGHĨA (46/11)

*Dương Nhiệt Kinh đi ở Bì, Cơ, Tấu.

- Thổ lợi, cho ra mồ hôi : tại Biểu tại Lý Dương Nhiệt không rời Dương Hàn.

- Mạch Bình, hơi phiền : tại Tấu Dương Nhiệt không rời Dương Hàn.

- Mới hư : Dương Nhiệt.

- Không thắng được cốc Khí : Dương Hàn.

Tại Cơ Dương Nhiệt không rời Dương Hàn.

*Nhất thiết không rời Dương Hàn Kinh, cho nên tên sách là Thương Hàn.

(Trên đây, chương thứ 46, 11 tiết, giải thích Hoắc loạn Kinh chứng).

272
CHƯƠNG 47 : ÂM DƯƠNG DỊCH NÓI VỀ LẠC

(7 Tiết, từ 391 đến 397)

1- Thái Dương Thiếu Âm Lạc thống nhất thiết Lạc tại Lý tại Biểu.

2- Thiếu Âm Nhiệt Lạc thọ Hàn tại Tấu.

3- Thái Dương Hàn Lạc thọ Nhiệt tại Tấu.

4- Thiếu Âm Nhiệt Lạc thọ Hàn tại Đới.

5- Thái Dương Hàn Lạc thọ Nhiệt tại Cách.

6- Thiếu Âm Nhiệt Lạc thọ Hàn tại Cách.

7- Thái Dương Hàn Lạc thọ Nhiệt tại Đới.

NGUYÊN VĂN (391)

Thương Hàn Âm Dương dịch ‘chi vi’ bệnh, người bệnh mình mẩy nặng nề, kém hơi, bụng
dưới gò thắt, hoặc dẫn đến bộ sinh dục co rút, nóng xông lên ngực, đầu nặng không muốn cất
lên, trong mắt sinh hoa, chân gối co quắp, dùng Thiêu Côn tán làm chủ.

THIÊU CÔN TÁN PHƯƠNG

Đủng quần (đáy quần) đàn bà, đàn ông lấy gần chỗ kín đem đốt ra tro.

1 vị trên, uống 1 thìa phương thốn với nước, ngày 3 lần, tiểu tiện lợi giải, đầu âm hơi sưng thì
khỏi. Đàn bà bệnh thì lấy đủng quần đàn ông đốt uống.

BẢN NGHĨA (47/1)

* Âm Dương Lạc.

- Thương Hàn : Lạc tại Biểu.

- Âm Dương Dịch : Lạc tại Lý. Nói Thiếu Âm chủ Lý Lạc, chưa có thể ra ngoài Thái Dương Lạc.

- Mình mẩy nặng : Lạc tất y (nương tựa) theo Kinh.

- Kém hơi : Lạc tất y theo Khí.

Nói Lạc bệnh chưa có thể lìa Kinh Khí.


273
- Bụng dưới gò thắt : do Bàng Quang Lạc chuyển nhập Thận Lạc, gọi là Âm Dương Dịch.

- Hoặc dẫn đến bộ sinh dục co rút : Thận Lạc nối liền Nhâm Lạc.

- Khí xung lên ngực: Thận Lạc liền với Xung Lạc.

- Đầu nặng không muốn cất lên, trong mắt sinh hoa: Thận Lạc liền với Đốc Lạc thượng phần.

- Chân gối co quắp: Thận Lạc liền với Đốc Lạc hạ phần.

- Thiêu Côn Tán làm chủ:

. Tiểu tiện lợi giải: Kinh giải Lạc tự giải.

. Đầu Âm hơi sưng thì khỏi: Thận Lạc giải chư Lạc giải.

. Đàn bà đàn ông lấy đũng quần của người khác phái đốt uống: Âm Dương dịch vậy.

NGUYÊN VĂN (392)

Bệnh nặng mới khỏi, vì làm lụng mệt nhọc quá mà bệnh trở lại, dùng Chỉ Thực Chi Tử Xị thang
làm chủ ; nếu có túc thực (đồ ăn cũ không tiêu) gia Đại Hoàng to bằng quân cờ 5 – 6 miếng.

CHỈ THỰC CHI TỬ XỊ THANG PHƯƠNG

Chỉ Thực 3 quả (chích) Chi Tử 14 quả (bổ ra) Hương Xị 1 thăng (bọc vải lụa)

3 vị trên, dùng thanh tương thủy (nước gạo vo) 7 thăng, nấu riêng nước giảm còn ½ , rồi cho Chỉ
Thực, Chi Tử vào nấu lấy 2 thăng, cho Đậu Xị vào lại sắc sôi 5 – 6 dạo, bỏ bả, chia uống ấm 2 lần,
đắp chăn cho ra ít ít mồ hôi.

BẢN NGHĨA (47/2)

*Thiếu Âm Nhiệt Lạc thọ Hàn tại Tấu.

- Bệnh nặng mới khỏi : Thiếu Âm Bệnh tại Tấu đã khỏi.

- Làm lụng mệt nhọc mà bệnh trở lại : Thiếu Âm Lạc tại Tấu chưa khỏi.

Dùng Chỉ Thực Chi Tử Xị thang làm chủ.

- Nếu có túc thực gia Đại Hoàng : Thái Dương Lạc tại Tấu kiêm bệnh vậy.

274
NGUYÊN VĂN (393)

Thương Hàn mới khỏi lại phát sốt, Tiểu Sài Hồ thang làm chủ.

BẢN NGHĨA (47/3)

*Thái Dương Hàn Lạc thọ Nhiệt tại Tấu.

- Thương Hàn mới khỏi : Thái Dương Lạc bệnh tại Ngoại đã khỏi.

- Lại phát sốt : tại Tấu Lạc chưa khỏi.

- Dùng Tiểu Sài Hồ thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (394)

Bệnh nặng mới khỏi, từ eo lưng trở xuống có Thủy Khí, Mẫu Lệ Trạch Tả tán làm chủ.

MẪU LỆ TRẠCH TẢ TÁN PHƯƠNG

Mẫu Lệ Trạch Tả Quát Lâu Căn Thương Lục Căn (sao)

Thục Tất (rửa nước nóng khử mùi tanh). Đình Lịch Tử (sao). Hải Tảo (rửa hết vị mặn).

7 vị trên, phân lượng bằng nhau, giã riêng rây lấy bột, lại cho vào cối trộn lại, mỗi lần uống một
thìa phương thốn với nước đun sôi, ngày 3 lần, tiểu tiện lợi thì thôi không uống lần sau.

BẢN NGHĨA (47/4)

*Thiếu Âm Nhiệt Lạc thọ Hàn tại Đái.

- Bệnh nặng mới khỏi : Thiếu Âm bệnh.

- Từ eo lưng trở xuống có Thủy Khí : chuyển sang Thái Dương Hàn Lạc.

- Mẫu Lệ Trạch Tả Tán làm chủ : nguyên do của Cổ trướng, Ung trướng vậy.

NGUYÊN VĂN (395)

Bệnh nặng khỏi rồi, hay khạc nhổ, lâu ngày không khỏi, là trên Vỵ [Cách] có Hàn, nên dùng
thuốc viên để làm ấm, nên dùng Lý Trung hoàn.

275
BẢN NGHĨA (47/5)

*Thiếu Âm Nhiệt Lạc thọ Hàn tại Cách.

- Hay khạc nhổ lâu ngày không khỏi: trên Cách Nhiệt Lạc chuyển Hàn.

- Nên dùng Lý Trung Hoàn: đấy là nguyên do của Ế cách, Ung nuy vậy.

NGUYÊN VĂN (396)

Thương Hàn giải rồi, người gầy yếu kém hơi, Khí nghịch muốn mửa, Trúc Diệp Thạch Cao
thang làm chủ.

TRÚC DIỆP THẠCH CAO THANG PHƯƠNG

Trúc Diệp 2 nắm Thạch Cao 1 cân Bán Hạ ½ cân (tẩy) Nhân sâm 3 lạng

Mạch Môn Đông ½ thăng (bỏ tim) Chích Thảo 2 lạng Ngạnh Mễ ½ thăng

7 vị trên, dùng 1 đấu nước, sắc lấy 6 thăng, bỏ bả, cho gạo tẻ vào, nấu gạo chín là vừa, bỏ xác
gạo, uống ấm mỗi lần 1 thăng, ngày 3 lần..

BẢN NGHĨA (47/6)

*Thái Dương Hàn Lạc thọ Nhiệt tại Cách.

- Thương Hàn giải rồi : Thái Dương giải.

- Gầy yếu kém hơi, Khí nghịch muốn mửa : chuyển sang Thiếu Âm Nhiệt Lạc.

- Dùng Trúc Diệp Thạch Cao thang làm chủ.

NGUYÊN VĂN (397)

Bệnh nhân mạch đã giải, mà sớm chiều hơi phiền, là vì bệnh mới khỏi, người nhà ép cho ăn
cơm, Tỳ Vỵ Khí còn yếu, không thể tiêu cơm, cho nên hơi phiền, giảm ăn thì khỏi.

BẢN NGHĨA (47/7)

*Thái Dương Hàn Lạc thọ Nhiệt tại Đái.

- Mạch đã giải : Bệnh không ở Cách.

276
- Mà sớm chiều hơi phiền : Bệnh còn ở Đái.

- Bệnh mới khỏi : Thái Dương khỏi.

- Tỳ Vỵ Khí còn yếu : Thiếu Âm Nhiệt Khí còn kém.

- Không thể tiêu cơm cho nên hơi phiền : Hàn Khí vẫn còn.

- Giảm ăn thì khỏi : Khiến cho Hàn Khí không còn chổ dựa núp.

(Trên đây, chương thứ 47, 7 tiết, giải thích Âm Dương dịch, Lạc chứng).

----------------------------------

*Thương Hàn từ Thái Dương đến Kỉnh Thấp Yết ; 3 loại sau này đáng lẽ nên luận riêng,nhưng
vì với Thương Hàn tương tợ, cho nên thấy ở đây.

Thương Hàn là Thái Dương Kinh thương bởi Hàn Khí mà truyền đến các Kinh.

Kỉnh Thấp Yết, 3 loại cũng do Thái Dương Thương Hàn đưa đến.

Đáng lẽ nên luận riêng : Thái Dương truyền Kinh từ Biểu vào Lý. Đây, Kỉnh Thấp Yết thuộc tam
Âm Kinh từ Lý ra Biểu ; nhưng mà cũng không ngoài Thái Dương Thương Hàn. Tam Âm là Thái
Dương Bản Khí, cho nên nói là tương tợ Thương Hàn, cho nên thấy ở đây.

Trọng Sư dùng chương này để kết thúc Thương Hàn Luận, tức lấy đó mở đầu Tạp Bệnh Luận.
Chỗ gọi là Thương Hàn Tạp Bệnh Luận hợp thành 16 quyển, là bảo rằng nên hợp đọc vậy.

HẾT

277
THƯƠNG HÀN LUẬN BẢN NGHĨA
______________________________________________

VIỆT NHÂN LƯU THỦY TỰ TỰ


_________________

A. Hoặc có người hỏi tôi rằng : - Thương Hàn là Ngoại cảm chăng ?

Tôi đáp rằng : - Không !

- Thương Hàn là Nội thương chăng ?

Tôi đáp rằng : - Không !

- Vậy thì, Thương Hàn là gồm Ngoại cảm Nội thương chăng ?

Tôi đáp rằng : - Không ! Không ! Không phải ! Không phải là như thế !

Thương Hàn là Truyền Kinh bệnh.

Thương Hàn Luận thuyết minh sự truyền Kinh của Âm Dương Kinh Lạc. Bách bệnh
không ngoài Âm Dương, Âm Dương không ngoài Kinh Lạc, thống lĩnh Âm Dương Kinh Lạc tại
Thái Dương, Bệnh Thái Dương tại Thương Hàn, vì thế Thương Hàn thống bách bệnh, và được
dùng đặt tên sách.

B.

1- Thương Hàn Luận tuy biện minh Lục Kinh, kỳ thật một Kinh Thái Dương mà thôi. Thái
Dương là sinh khí vậy. Người ta không thể có sinh mà không bệnh, cho nên gọi là Thái
Dương Bệnh.

Thân người có Thái Dương, cũng như Dịch có Thái Cực. Thái Dương có Tiêu Bản hai
khí, cũng như Dịch có ‘Thái cực thị sinh lưỡng nghi’. Y đạo theo trong Dịch đạo đến là thế.

- Thái Dương Trúng Phong là Tiêu Bản làm bệnh.

- Thái Dương Thương Hàn là Bản Khí làm bệnh.

- Có Trúng Phong rồi sau có Thương Hàn là Thái Dương Tiêu Bản trúng phải Bản Khí làm bệnh.

- Có Trúng Phong rồi sau có Ôn Bệnh là Thái Dương Tiêu Bản trúng phải Tiêu Khí làm bệnh.

- Trúng Phong tất do Bản Hàn truyền Kinh.


278
- Ôn Bệnh tất do Bản Hàn truyền Kinh.

- Phong Bệnh lấy Thái Dương làm đầu, lấy Hàn Khí làm cuối.

- Ôn Bệnh phát ở Dương, Phong Ôn phát ở Âm, truyền Kinh tất do Bản Hàn ; huống chi Hàn
Thấp Phong Thấp lại là Bản Khí của nó ?

- Dương Minh Thiếu Dương là Thái Dương Tiêu Khí.

- Thái Âm Khuyết Âm là Thái Dương Bản Khí.

- Thiếu Âm là biến tướng của Thái Dương.

Vậy thì, nhất thiết Âm Dương Tiêu Bản chư Kinh đều không vượt ra ngoài Bản Hàn
truyền Kinh ; Ý nghĩa tên sách Thương Hàn hẳn đã ngụ sẵn trong đó rồi.

 Theo một phương diện xem xét :

- Thái Dương Tiêu Bản làm bệnh gọi là Trúng Phong, truyền nơi Bản Kinh gọi là Thương Hàn :

. Ngày thứ 1 Thái Dương thọ phải, đấy là truyền vậy.

. Ngày thứ 2 – 3 là Dương Minh, Thiếu Dương.

. Ngày thứ 4 là Thái Âm.

. Ngày thứ 5 là Thiếu Âm.

. Ngày thứ 6 là Khuyết Âm.

. Ngày thứ 7 là Thái Dương.

Sở dĩ nhất định như vậy là lúc không bệnh thì truyền Kinh như thế, lúc có bệnh thì
cũng truyền Kinh như thế.

 Theo phương diện khác xem xét :

- 2 – 3 ngày, chứng Dương Minh Thiếu Dương không thấy là không truyền, đấy là Thương Hàn
truyền Kinh mà không tuần tự vậy.

. Truyền Kinh có tuần tự là nhân Chính Khí mà biết bệnh Khí.

. Truyền Kinh không tuần tự là nhân sự truyền của Chính Khí, nhận thức Bệnh Khí hoặc
truyền, hoặc không truyền.

. Nhân Chính để biết Tà, nhân Tà để biết Chính, đấy là yếu quyết truyền Kinh vậy !
279
2- Có lý do truyền Kinh, tất có đạo lộ truyền Kinh, nhiệm vụ của Thương Hàn không gì cấp thiết
hơn thế :

. Gọi là Trúng Phong, là bệnh tại Cơ Nhục bộ vậy.

. Gọi là Thương Hàn, là bệnh tại Bì Phu bộ vậy.

. Gọi là Ôn Bệnh, là bệnh tại Tấu Lý bộ vậy.

Thái Dương thống lĩnh chư Dương từ ngoài vào trong bắt đầu ở Cơ Nhục rồi đến Bì Phu rồi
đến Tấu Lý.

Thái Dương thống lĩnh chư Âm từ trong ra ngoài cũng bắt đầu ở Cơ Nhục rồi đến Bì Phu rồi
đến Tấu Lý.

Sở dĩ như thế là do nguyên lý Vinh Vệ làm ra vậy.

Nói bệnh tại Dương thì chủ về ngoại do Trúng Phong rồi đến Thương Hàn rồi đến Ôn Bệnh
mà rõ là bên ngoài.

Nói bệnh tại Âm thì chủ về nội do Phong Ôn rồi đến Bị Hỏa rồi đến Hỏa Huân mà rõ là bên
trong.

 Có Âm Dương giao thác làm bệnh ; có Dương cực ở trong, có Âm cực ở ngoài, xem xét ở bản
luận thì biết.

. Phép trị Bì Phu lấy Bản Hàn Bản Nhiệt làm chủ.

. Phép trị Cơ Nhục lấy Vinh Khí Vệ Khí làm chủ.

. Phép trị Tấu Lý lấy Âm Dương tất tập làm chủ.

 Tấu Lý có hai phần :

. Trị Tấu Bán Biểu theo Âm Dương xuất nhập nhận chứng gọi là Hoành, là thế !

. Trị Tấu Bán Lý theo Âm Dương thướng há nhận chứng gọi là Tung, là thế !

. Gọi là Kết Hung là Tấu Bán Lý với thượng phần Phủ Tạng.

. Gọi là Tạng Kết là Tấu Bán Lý với trung phần, hạ phần Phủ Tạng.

. Có Thượng Hạ (trên dưới) phân bệnh ; có Thượng Hạ hợp bệnh.

. Có há (xuống) cực rồi thướng (lên), lên cực rồi xuống.

280
. Có Thượng Hạ với Nội Ngoại tương bác (chọi nhau), tương kết (kết nhau).

Tóm lại Thượng Hạ Nội Ngoại Bộ vị phân minh thì Âm Dương thăng giáng xuất nhập, ly ly,
hợp hợp đều có thể tìm đầu mối như trị tơ rối vậy. Đạo lý truyền Kinh sáng tỏ, Bộ vị truyền kinh
rõ ràng, theo đó nhận Mạch chứng, dùng phương thang, đấy là thứ tự cho người học tập sự.

3- Thái Dương là hệ thống của một thân, Hàn Khí cũng là hệ thống của một thân. Khẩn thì là
Hàn ; tự nhiên Mạch Lý nên lấy Mạch Khẩn làm chủ.

- Mạch Âm Dương đều Khẩn :

. Là Mạch Thái Dương Bản Hàn, phát sốt ghét lạnh, trị tại ngoại (tiết 3).

. Lại là Mạch Thiếu Âm Bản Nhiệt, Hạn xuất vong Dương, trị tại Nội (tiết 282).

Đồng một Mạch Khẩn mà chứng trị khác nhau trời vực, bởi lẽ Thái Dương Thiếu Âm một
mà hai, hai mà một vậy.

Nắm đấy để xem xét :

- Mạch Phù Khẩn là Thiếu Âm tại Biểu chuyển sang Thái Dương.

. Biện chứng là Thái Dương Ma Hoàng thang làm chủ (tiết 46).

. Biện chứng là Thiếu Âm Đại Thanh Long thang làm chủ (tiết 38).

Đấy là mạch Phù Khẩn đồng mà chứng khác nên trị khác vậy.

- Mạch Trầm Khẩn là Thái Dương nhập Lý chuyển sang Thiếu Âm.

. Biện chứng là Thái Dương Tiểu Sài Hồ thang làm chủ (tiết 265).

. Biện chứng là Thiếu Âm Đại Hãm Hung thang làm chủ (tiết 142).

Đấy là Trầm Khẩn mạch đồng mà chứng khác nên trị khác vậy.

- Mạch Phù mà Khẩn, Phù là Thiếu Âm tại Ngoại, Khẩn là Thái Dương, đấy là mạch Thái Dương
Thiếu Âm đồng bệnh tại Biểu (tiết 153).

- Mạch Trầm mà Khẩn, Trầm là Thái Dương nhập Lý, Khẩn là Thiếu Âm, đấy là mạch Thiếu Âm
Thái Dương đồng bệnh tại Lý (tiết 137). Hạ một chữ ‘nhi’ (mà) mà mạch lý với trước lại khác
biệt vậy.

- Mặt khác như Khẩn trái lại nhập Lý (tiết 153), mạch Khẩn thì khỏi (tiết 193), mạch chợt Khẩn
(tiết 353), giả như trở lại Khẩn là chưa giải (tiết 359). Cứ rặc ròng lấy mạch Khẩn để nói, thâm

281
ý có thể thấy : hai Kinh Thái Dương Thiếu Âm là kim chỉ nam để nhận thức Mạch Pháp.

Các Kinh khác, đôi bên tương hình, đôi bên ấn chứng, châm chước nhau mà nhận thức,
thì mạch pháp thống nhất, đâu còn có mối nan giải của sự chi ly rối rấm.

- Đồng một mạch Hồng Đại có dùng Quế Chi thang (tiết 25), có dùng Bạch Hổ gia Sâm thang
(tiết 26) thì là trị dị (khác). Đấy chẳng qua, Tiêu Dương ‘vãng tòng’ Bản Hàn thì mạch Hồng
Đại, trái lại Bản Hàn ‘vãng tòng’ Tiêu Dương thì mạch cũng Hồng Đại ; do cớ vãng tòng thì
mạch Hồng Đại đồng ; mà tòng Nhiệt, tòng Hàn thì chứng ‘dị’ (khác), trị dị vậy.

- Đồng một mạch Vi Nhược, có dùng Ma Hoàng Thạch Cao (tiết 27), có dùng Ma Hoàng Thạch
Cao thì là nghịch (tiết 38), tức trị dị. Đấy chẳng qua, Tiêu Dương ‘bất cộng’ Bản Hàn thì mạch
Vi Nhược, trái lại Bản Hàn ‘bất cộng’ Tiêu Dương thì mạch cũng Vi Nhược, do cớ Ly Khai thì
mạch Vi Nhược đồng ; mà là Nhiệt, là Hàn thì chứng dị, trị dị vậy.

. Mạch Phù Tế : Thái Dương Bản Hàn chuyển sang Thiếu Âm Bản Nhiệt (tiết 37).

. Mạch Phù Sác : Thiếu Âm Bản Nhiệt chuyển sang Thái Dương Bản Hàn (tiết 71).

. Mạch Trầm Khẩn : Thái Dương nhập Lý mà Thiếu Âm thắng (tiết 66).

. Mạch Trầm Trì : Thái Dương nhập Lý với Thiếu Âm bình (tiết 61).

. Mạch Trầm Vi : Thái Dương nhập Lý mà Thiếu Âm thua (tiết 60 – 299).

. Mạch Xúc : Âm Nhiệt muốn ra ngoại (tiết 34).

. Mạch Phù Đại : Âm Nhiệt cực ở ngoại.

. Mạch Sác : Dương Hàn muốn vào nội (tiết 299).

. Mạch Trầm Tế : Dương Hàn cực ở nội (tiết 299).

. Khẩn là mạch Dương Hàn Âm Nhiệt (tiết 3 – 282).

. Huyền là mạch Dương Nhiệt Âm Hàn (tiết 142 – 213).

. Hoạt là mạch Nhiệt :

+ Phù Hoạt Nhiệt tại Lạc (tiết 140 – 178).

+ Trầm Hoạt Nhiệt tại Kinh (tiết 349).

. Sáp là mạch Hàn :

+ Phù Sáp là Thái Dương (tiết 176).


282
+ Trầm Sáp là Thiếu Âm.

. Mạch Tế dục tuyệt là mạch chư Lạc (tiết 350).

. Mạch Vi dục tuyệt là mạch chư Kinh (tiết 389).

. Vi Tế là mạch Thiếu Âm chủ Lý (tiết 280).

 Phàm Mạch với Chứng không rời nhau ; thiên một bên luận mạch, thiên một bên luận chứng
là ‘phi pháp’ vậy. Nay để cho người mới học tập nghiên cứu Thương Hàn tiện lợi ‘khởi kiến’,
nên bắt đầu một mặt hiểu rõ về lý do của mạch, một mặt hiểu rõ về nguyên ủy của chứng,
chú tâm phân biệt nắm bắt được chắc rồi sau mới hiệp khảo toàn bộ sách ; có Mạch đó tất có
Chứng đó, có Mạch Chứng đó tất có Phương Thang đó, lấy đó để lý hội thì Thương Hàn dễ
dàng rồi.

C. Thương Hàn Lục Kinh đều có thể lệ của Lục Kinh ; nêu ra nhiều loại tên bệnh, lại là một trong
thể lệ ; như Trúng Phong, Thương Hàn, Ôn Bệnh, Phong Ôn, Hàn Thấp, Phong Thấp, là vậy. Hoặc
nói Thái Dương thể lệ ? sao không nói Hàn Thấp, Phong Thấp ? vì đấy là Bản Hàn Khí, ‘bất ngôn
tự dụ’ (không nói cũng tự hiểu).

Sau đây, Cơ Nhục bộ, Bì Phu bộ, Tấu Lý bộ, xứ xứ phát huy ‘tiện kiến’:

1- Thái Dương Cơ Nhục bộ.

 Quế Chi thang, là phương trị Trúng Phong, lại là phương trị Trúng Phong truyền làm Thương
Hàn. Nếu như, Trúng Phong truyền làm Ôn Bệnh, Phong Ôn không thể dùng.

. Truyền làm Thương Hàn tức Thái Dương Bản Hàn vậy ; Thái Âm, Khuyết Âm với Thiếu Âm
Tiêu Âm làm Hàn Thấp, Phong Thấp, Phong Kỉnh, Trúng Hàn đều là loài của nó.

. Truyền làm Ôn Bệnh tức Thái Dương Tiêu Dương vậy ; Dương Minh, Thiếu Dương với
Thiếu Âm Bản Nhiệt làm Ôn Bệnh, Phong Ôn, Phong Kỉnh, Trúng Hàn đều là loài của nó.

- Quế Chi gia Phụ Tử thang trị Bản Hàn truyền Tam Âm (tiết 21).

- Ma Quế Các Bán thang trị Bản Hàn truyền Tam Dương (tiết 23).

- Bản Hàn vãng tòng tại Kinh thì châm Phong Trì, Phong Phủ (tiết 24).

- Bản Hàn vãng tòng tại Khí với Lạc thì dùng Quế nhị Ma nhất thang (tiết 25).

Trị Hàn Thấp, Phong Thấp đấy là một mối vậy.

 Trái lại, thấy chứng Tiêu Dương tức Ôn Bệnh :

283
. Tại Lạc : Bạch Hổ gia Nhân Sâm thang (tiết 26).

. Tại Khí : Quế nhị Việt Tỳ nhất thang (tiết 27).

. Tại Kinh : Quế Chi khứ Quế gia Linh Truật thang (tiết 28).

Trị Ôn Bệnh, Phong Ôn, đấy là một mối vậy.

 Hàn với Ôn giới hạn phân minh không thể lầm vậy ! Sở dĩ lầm là vì cớ Ôn Bệnh tất do Bản Hàn
truyền Kinh, vì cớ tất do Bản Nhiệt chuyển thuộc.

- Khương Thảo thang : trị truyền Kinh Bản Hàn.

- Thược Thảo thang : trị chuyển thuộc Bản Nhiệt.

- Điều Vỵ Thừa Khí thang : trị chuyển thuộc Bản Nhiệt tại Lý.

- Tứ Nghịch thang : trị truyền Kinh Bản Hàn tại Lý (tiết 29).

Ôn Bệnh trị lầm là vậy, Phong Ôn trị lầm cũng vậy, bất quá Ôn Bệnh do Ngoại nhập, Phong
Ôn do Nội xuất, hơi khác thôi !

Mười hai Kinh Lạc tại Cơ Nhục làm Hàn làm Ôn ; chư Kỳ Kinh tại Cơ Nhục cũng làm Hàn làm Ôn.

- Cát Căn thang, 3 phương trị Xung Nhâm Đốc thọ truyền bởi Tiêu Dương, tức chư
Kỳ Kinh làm Ôn Bệnh, Phong Ôn vậy (tiết 31, 32, 33, 34).

Nhận rõ nhất thiết Bệnh danh mạch chứng, trị pháp tại Cơ Nhục,

Đấy là bước nghiên cứu tối sơ, thứ nhất vậy.

2- Thái Dương Bì Phu bộ.

Phép trị khác biệt với Cơ Nhục bộ.

- Ma Hoàng thang trị nhất thiết Hàn chứng, Nhiệt chứng tại Bì Phu (tiết 35, 36, 37).

- Chư Kỳ Kinh thọ Hàn mà Suyễn, với thọ Nhiệt mà Suyễn đồng một phép trị, vì cớ đồng tại Bì
Phu vậy.

- Phong Ôn với Ôn Bệnh mạch chứng bất đồng mà ‘đồng’ trị bằng Đại Thanh Long thang (tiết
38,39).

- Hàn Thấp, Phong Thấp đường đến bất nhất, mà ‘nhất’ ở phương Tiểu Thanh Long thang (tiết
40, 41).

284
Có thể thấy sách Thương Hàn, luận Mạch Chứng Thang Phương với mỗi mỗi bệnh danh,
không thiên về Hàn, không thiên về Nhiệt, không sơ sót một tơ tóc,

Đấy là bước nghiên cứu thứ hai vậy.

3- Thái Dương Hàn Khí tại Biểu tại Lý.

 Thái Dương Hàn Khí tại Biểu thì chủ Phát Hãn.

Mười hai Kinh Lạc tại Biểu thọ Hàn của Thái Dương tất cần Phát Hãn, lệ nhất định vậy.

Nhưng mà phép Phát Hãn thì rất có bất đồng :

.Phát Hãn của Thủ Túc Dương Hàn Kinh với Phát Hãn của Thủ Túc Dương Nhiệt Kinh bất đồng.

. Phát Hãn của Thủ Túc Âm Hàn Kinh với Phát Hãn của Thủ Túc Âm Nhiệt Kinh bất đồng.

Tại sao vậy ?

. Hàn nhập Hàn Kinh, Phát Hãn của Phong Hàn : Ma Hoàng thang, Quế Chi thang là đủ vậy (tiết
12,35).

. Hàn nhập Nhiệt Kinh, Phát Hãn của Ôn Nhiệt : Quế nhị Việt Tỳ nhất thang, Đại Thanh Long
thang không thể không biết vậy (tiết 27, 28).

Đấy là khảo sát phép phát Hãn tại Biểu, chỗ đáng chú ý vậy.

 Thái Dương Hàn Khí có tại Lý hóa Âm Nhiệt dùng Can Khương Phụ Tử thang.

có tại Tấu tân gia Âm Nhiệt, Quế Chi tân gia thang (tiết 61).

có tại Biểu chuyển sang Dương Nhiệt,Ma Hạnh Thạch Cam thang(tiết 62).

Đấy là Biểu, Tấu, Lý 3 phần thọ Hàn Khí, tùy Bộ vị mà chứng dị trị dị.

 Thái Dương Hàn Khí có do Thượng Tiêu nhập, Quế Chi Cam Thảo thang (tiết 63)

có do Hạ Tiêu nhập, Quế Chi Cam Táo thang (tiết 64).

có do Trung Tiêu nhập, Phác bán Khương Thảo Sâm thang (tiết 65).

Đấy là Thượng Trung Hạ 3 phần thọ Hàn Khí, tùy Khí Hóa mà chứng dị, trị dị.

 Có Hàn Khí nhập làm bệnh ở Nội, có Nhiệt Khí xuất làm bệnh ở Ngoại đồng dùng Quế Linh
Cam Truật thang (tiết 66).

285
- Có Nhiệt Khí xuất Ngoại thọ hóa bởi Hàn Khí, Thược Thảo phụ thang (tiết 67).

- Có Hàn Khí nhập Nội hóa Nhiệt Khí, Phục Linh Tứ Nghịch thang (tiết 68).

- Có Hàn Khí nhập Tấu với Nhiệt Khí hơn thua nhau, Điều Vỵ Thừa Khí thang (tiết 69).

Đấy là khảo sát Hàn Khí nhập Lý, chỗ đáng chú ý vậy.

Đấy là bước nghiên cứu thứ ba vậy.

4- Mạch chứng thang phương của Thủ Kinh Túc Kinh :

Từ trước đến nay, các chú gia bàn về Mạch chứng thang phương, toàn không đề cập đến
Thủ Kinh Túc Kinh, há không phải là một khuyết điểm lớn sao ?

- Túc Thái Dương, Nhiệt Khí bất túc, trách bởi Thiếu Âm.

riêng trị Hàn Khí bất hóa, trách bởi Thái Dương, Ngũ Linh tán làm chủ (tiết 70,71,73).

- Thủ Thái Dương, Hàn Khí bất túc, trách bởi Thái Dương.

riêng trị Nhiệt Khí hữu dư,trách bởi Thiếu Âm,Chi Tử Xị thang làm chủ (tiết 77, 78, 79).

- Túc Thái Dương Hàn Khí hóa Nhiệt Khí, Chân Võ thang (tiết 83).

Hàn Khí thọ hóa bởi Nhiệt Khí, Võ Dư Lương hoàn (tiết 89).

- Thủ Thái Dương thọ Hàn Khí tại Tấu, Quế Chi Cứu Nghịch thang (tiết 114).

tại Biểu, Quế Chi gia Quế thang (tiết 120).

tại Lý, Quế Cam Long Mẫu thang (tiết 121).

Cho đến Thủ Thái Dương mắc bệnh Huyết dật mình vàng,

Túc Thái Dương mắc bệnh Huyết kết mình vàng. Để Đáng thang hoàn, nên dùng vậy.

Đấy là bước nghiên cứu thứ tư vậy.

5- Thái Dương Hàn Khí nhập Tấu Lý bộ, với Thiếu Âm Nhiệt Khí chủ tại Tấu làm bệnh.

- Tiểu Sài Hồ thang phương là một kiện tướng hòa giải tại địa điểm này. Không chỉ thế, phàm
Thái Dương Bệnh tại Bán Biểu nhập Bán Lý, hoặc đã nhập Lý, xét xu thế có thể dẫn nó xuất
ngoại, đều có thể dùng. Riêng chỉ bệnh đã thuộc Thiếu Âm, chẳng phải chỗ nó tới được.
Nhưng mà, Thiếu Âm Bệnh muốn từ Bán Lý ra Bán Biểu, hoặc Bán Biểu đến Bì Nhục, Tiểu Sài
Hồ thang lại là chỗ phải dùng ; Hàn chứng là vậy, Nhiệt chứng cũng vậy ; Ôn Bệnh Phong Ôn,
286
Hàn Thấp Phong Thấp đều như vậy. Trong luận gọi là ‘Sài Hồ thang bệnh chứng’ tức chỉ điều
đó.

Tiểu Sài Hồ thang có năng lực thích nghi cả tả lẫn hữu, chỉ cần khéo quan sát mạch chứng tại
Tấu ra sao thôi ! (tiết 97, 98, 100).

- Tiểu Kiến Trung thang : trị Bản Hàn (tiết 101).

- Đại Sài Hồ thang : trị Tiêu Dương (tiết 105).

- Tiểu Sài Hồ gia Mang Tiêu thang : trị Bản Hàn Tiêu Dương hợp bệnh (tiết 106).

- Điều Vỵ Thừa Khí thang : trị Tiêu Dương hợp với Thiếu Âm Bản Nhiệt (tiết 107).

- Đào Nhân Thừa Khí thang : trị Bản Hàn hợp với Thiếu Âm Tiêu Âm (tiết 108).

- Sài Hồ gia Long Cốt Mẫu Lệ thang trị Thái Dương Tiêu Bản với Thiếu Âm Tiêu Bản
một đoàn hỗn kích (tiết 109).

 Do tương bác mà làm thành Tiểu Sài Hồ chứng.

Do tương kết mà làm thành Kết Hung chứng – Bĩ chứng, có 2 loại :

+ Kết Hung là Thái Dương Thiếu Âm Kết tại Tấu Lý, chia ra có Hư Kết, Thực Kết, Hợp Kết,
Phân Kết, không ngoài Đại Hãm Hung thang hoàn (tiết 134, 136, 137, 138).

Đây, Tiểu Hãm Hung thang trị Tiêu Dương Bản Nhiệt hiệp Kết (tiết 140).

Kia, Bản Hàn Tiêu Âm không thể Kết, riêng có chứng trị.

. Kết ở Lạc mà Nhiệt Lợi, mà Hạ Huyết.

. Kết ở Khí mà Văn Cáp tán, Ngũ Linh tán trị Dương (tiết 143).

Tam Vật Tiểu Hãm Hung thang (tiết 140), Bạch Tán (tiết 143) trị Âm.

. Kết ở Kinh thì châm Đại Chùy, Phế Du, Can Du (tiết 144).

Đấy là đại lược.

+ Bĩ là riêng chỉ Thiếu Âm Tiêu Bản Kết ở Thủ Túc Thiếu Dương Kinh. Tại Tấu Lý phân ra :

. Tiểu Sài Hồ thang trị Kết của Thủ Thiếu Dương nhập huyết thất (tiết 146, 150).

. Sài Hồ Quế Chi thang trị chi Kết (tiết 148).

287
. Sài Quế Càn Khương thang trị vi Kết (tiết 149).

. Phụ Tử Tả Tâm thang trị Thủ Thiếu Dương Kết ở Nội mà chuyển ra Ngoại (tiết 157).

. Ngũ Linh tán trị Thủ Thiếu Dương Kết ở Thượng mà chuyển xuống Hạ (tiết 158).

. Sinh Khương Tả Tâm thang, Cam Thảo Tả Tâm thang, Xích Thạch Chỉ Võ Dư Lương hoàn
đều là trị Thủ Thiếu Dương phân Kết tại Thượng, Trung, Hạ (tiết 159, 160, 161).

. Bán Hạ Tả Tâm thang trị Túc Thiếu Dương làm Bĩ (tiết 151).

. Thập Táo thang trị Thực Bĩ (tiết 154).

. Sắc mặt xanh vàng là Hư Bĩ.

. Đại Hoàng Tả Tâm thang trị Nhiệt Bĩ (tiết 156).

. Nước cháo không xuống được là Ngạnh Bĩ.

Vã chăng,

. Âm Nhiệt làm Bĩ dùng Toàn Phúc Hoa Đại Giã Thạch thang (tiết 163).

. Dương Nhiệt làm Bĩ dùng Ma Hạnh Thạch Cam thang (tiết 164).

. Âm Hàn làm Bĩ dùng Quế Chi Nhân Sâm thang (tiết 165).

. Dương Hàn làm Bĩ dùng Qua Đế tán (tiết 168).

Đều là Mạch chứng phép trị của Túc Thiếu Dương.

Đấy là bước nghiên cứu thứ năm vậy.

6- Thái Dương tại Tấu nhập Cách Mô bộ.

Bộ phận này do Thiếu Âm Nhiệt Khí làm chủ, Thái Dương Hàn Khí điều tể trong khoảng
này sao cho ấm lạnh vừa phải, thông sướng Ngũ Tạng, đấy là công năng của nó.

 Nếu thiên về Nhiệt thì bệnh tại Thiếu Âm.

. Bạch Hổ gia Sâm thang, 3 phương trị Khí, Kinh, Lạc (tiết 170, 171, 172).

. Nhiệt cực thì truyền Kinh đến Hàn mà Hạ lợi.

. Hoàng Cầm thang, Hoàng Cầm gia Bán Hạ Sinh Khương thang là phép trị các Kinh Khí, lại là
phép trị Ôn Bệnh, Phong Ôn, lại là phép trị 3 mạch Đốc Xung Nhâm (tiết 174).

288
. Sở dĩ như thế là vì nhất thiết Nhiệt Bệnh tất thọ truyền bởi Bản Hàn, không thể không như
vậy.

 Nếu thiên về Hàn thì bệnh tại Thái Dương.

. Hoàng Liên thang trị Hàn của Lạc (tiết 175).

. Quế Phụ thang trị Hàn của Kinh, Khí (tiết 176).

. Khứ Quế gia Truật thang trị Hàn của Kinh Khí mà chuyển sang Nhiệt (tiết 176).

. Cam Thảo Phụ Tử thang trị Hàn của Hàn Thấp Phong Thấp mà chuyển sang Nhiệt, lại là Hàn
của Đốc Xung Nhâm Kinh mà chuyển sang Nhiệt (tiết 177).

Sở dĩ như vậy là vì nhất thiết Hàn cực tất chuyển sang Nhiệt, pháp nó là như vậy ; song
không chỉ như vậy ….

. Phàm Lạc mạch thọ Nhiệt tất truyền sang Hàn mà làm Lý có Hàn dùng Bạch Hổ thang (tiết
178).

. Trái lại Kinh mạch thọ Hàn tất chuyển sang Nhiệt mà làm Tâm động quý dùng Chích Cam
Thảo thang (tiết 179).

Đấy là diệu lý của Âm Dương biến hóa bất trắc, mà là công lớn của người học Thương Hàn
đi vào bước nghiên cứu thứ sáu vậy.

7- Thái Dương nơi thân người quan trọng ra sao ?

- Thái Dương 3 thiên lớn, một trăm tám mươi tiết, chiếm phân nửa toàn luận, bảy mươi bốn
thang chiếm bảy phần mười thang phương, có thể thấy Thái Dương nơi thân người quan
trọng là dường nào ?!

Các Kinh còn lại, bất quá thừa theo Thái Dương Bệnh, lấy làm mạch chứng bản Kinh thôi !

- Xem nơi Dương Minh thiên, 3 thang phương Thừa Khí tức là ý này :

. Điều Vỵ Thừa Khí thang thừa Thái Dương Tiêu Dương (tiết 208).

. Tiểu Thừa Khí thang thừa Thái Dương Bản Hàn (tiết 209).

. Đại Thừa Khí thang thừa Thái Dương Tiêu Bản (tiết 209).

thừa Thái Dương tức thừa Thiếu Âm vậy.

289
- Thiếu Dương thiên chỉ có 10 tiết, Thái Âm thiên chỉ có 8 tiết, chỉ nói Bản Kinh đối với thể lệ
của Thương Hàn, Trúng Phong, Ôn Bệnh, Phong Ôn, Hàn Thấp, Phong Thấp thôi ! xét rõ ra thì
2 Kinh Thiếu Dương Thái Âm :

. Nhiệt chứng chọn lấy ở Thái Dương Tiêu Dương, Tiểu Sài Hồ thang có thể tổng quát.

. Hàn chứng chọn lấy ở Thái Dương Bản Hàn, bọn Tứ Nghịch có thể kiêm cai.

. Thiếu Âm thiên nói rõ Thiếu Âm là phản ánh của Thái Dương.

. Khuyết Âm thiên nói rõ Khuyết Âm là sơ khí của Thái Dương.

. Hoắc loạn chương nói về Kinh bệnh.

. Âm Dương Dịch chương nói về Lạc bệnh.

Sở dĩ sáng tỏ Thương Hàn Luận chuyên nói Bì Tấu Kinh Lạc,

với Tạp Bệnh Luận chuyên nói Phủ Tạng Kinh Lạc.

Hai bên tương đối, mỗi bên mỗi có sở trọng.

- Chấm dứt bằng chương Kỉnh Thấp Yết.

Sở dĩ liên hiệp 2 luận đồng làm một, nhân thân Kinh Lạc đồng là triệt để Thương Hàn
của Thái Dương Kinh.

Đấy là bước nghiên cứu thứ bảy vậy.

D.Đức Khổng Tử nói : “Tinh nghĩa nhập thần sở dĩ trí dụng”. Không tinh được nghĩa thì không
thể nhập thần, không nhập thần thì không thể đi đến chỗ sử dụng được. Tinh nghĩa thì trước
phải đạt sâu văn pháp. Nay xem văn tự luận Thương Hàn của Trọng Sư, Âm Dương biến hóa tận
đến chỗ diệu kỳ, Kinh Lạc tùng giao khởi phục khúc chiết, xun xoe muốn động, rõ ràng sinh hoạt
một ban. Cho nên tôi nói : ‘Xuân thu hóa công !‘ Thương Hàn Luận là ‘Xuân Thu hóa công y
thư’, là ‘văn’ của hệ từ hóa công tô điểm, Thương Hàn Luận là ‘Hệ từ văn’ của Y gia.

Xét về các y thư đời trước truyền lại, những điều rải rác vụn vặt của Linh Tố Nội Nạn
được Thương Hàn Luận chắp nối, thống hội lại, cũng như tiếng vàng tiếng ngọc lại được hòa
hợp sửa sang.

Xét về các y thư đời sau để lại, từ Đường, Tống, Minh, Thanh, Nhật Bản các nhà hiểu
được Thương Hàn rồi ‘trước thư lập ngôn’, đã đủ ân tích cho hậu học hay chưa ?

290
Huống hồ, trên ngàn năm qua, nhưng đại nghĩa chưa mở sáng được, nếu mỗi ngày một
tận ngộ để phát huy, thì lợi ích đối với con người là dường nào ?

Ôi ! Học Y mà không khảo cứu Thương Hàn, đấy là cái học tự dối mình, cái học không
biết yêu người biết người, cái học không biết Âm Dương Khí Hóa, cái học không biết Thiên
Nhân hợp nhất, rốt lại tự dối mình, dối người mà thôi. Hoặc lại hỏi rằng : ‘Học Thương Hàn
chữa khỏi hết các bệnh hay sao ? Đáp rằng : Dĩ nhiên điều này tác giả sớm đã liệu đến. Tạp
Bệnh Luận nói : ‘Con người bẩm ngũ thường, nhân Phong Khí mà sinh trưởng, cũng nhân Phong
Khí mà bệnh ? Khi Phong Khí mới khai mở sự sống con người, tật bệnh tùy Phong Khí mà ít ỏi.
Phong Khí càng khai mở sự sống con người, tật bệnh cũng tùy theo Phong Khí mà tăng nhiều.
Huống hồ ngày nay Phong Khí khai mở rất lớn sự sống con người, tật bệnh theo đó mà gấp bội,
dù cho trăm ngàn lần cũng không ngoài ý này. Tuy nhiên Phong Khí xưa nay có khác, mà con
người bẩm ngũ thường để có Ngũ Tạng, Âm Dương Kinh Lạc chưa từng vì xưa nay mà khác, thì
Thương Hàn Luận đoan quyết không thể thiếu xót vậy.

Tập hợp Tố Vấn Nan Kinh, Âm Dương Đại Luận, Bình Mạch Biện Chứng rèn đúc thành
một sách, khiến cho người học sau này :

. Do Mạch Chứng mà nhận biết Kinh Lạc.

. Do Kinh Lạc mà sáng tỏ Âm Dương.

. Do Âm Dương mà hiểu rõ lý Thiên Nhân hợp nhất.

Nếu chẳng nhờ cậy sách này, còn đâu con đường nào khác đi vào Y Đạo ? Thử nghĩ chúng
ta, ngày ngày khảo sát Âm Dương bên trong da xương của thân ta, lấy làm tận thiện chăng ?
chưa thể biết được !

Người đời ngày ngày khảo sát Âm Dương nơi Trời Đất bay lượn bên ngoài, lấy làm tận
thiện chăng ? chưa thể biết được !

Cần phải ‘ham học nghĩ sâu, mới lại cầu mới’ mà thôi !

Còn như, xả bỏ cổ huấn chẳng biết tìm cầu, gặp người hiền không học hỏi noi gương, lỗ
mảng diệt phá hết để làm thuốc thì gọi là gì ?

Khách im lặng, tôi tỏ hết ngọn ngành để làm tự.

_________________________

291
GHI CHÚ : Nguyên Văn tự tự liên tục không có phân đoạn, trong học tập người dịch tạm phân
làm 4 đoạn ABCD theo đại ý như sau :

A- Dẫn nhập : Thương Hàn là Truyền Kinh bệnh, thống lãnh mọi bệnh.

B- Giải thích :

1. Ý nghĩa tên sách, tên bệnh và lý do truyền Kinh.

2. Đạo lộ truyền Kinh cũng là bộ vị gọi tên bệnh.

3. Mạch chứng pháp.

C- Hướng dẫn cụ thể các bước nghiên cứu :

1. Thái Dương Cơ Nhục bộ.

2. Thái Dương Bì Phu bộ.

3. Thái Dương Hàn Khí tại Biểu tại Lý.

4. Mạch chứng thang phương của Thủ Kinh Túc Kinh.

5. Thái Dương Hàn Khí nhập Tấu Lý bộ, với Thiếu Âm Nhiệt Khí chủ tại Tấu làm bệnh.

6. Thái Dương tại Tấu nhập Cách Mô bộ.

7. Thái Dương nơi thân người quan trọng ra sao ?

D- Kết luận : Sách Thương Hàn là ‘hệ từ văn’ của y gia, khuyên người học Y nên khảo cứu.

(Việc phân đoạn chỉ là thiển ý khi học tập của người dịch xin ghi lại để tham khảo).

292
PHỤ LỤC 1 :

DANH MỤC MẠCH PHÁP


- Âm Dương Câu Đình : tiết 95.
- Bất Chí (không đến) : tiết 291, 298.
- Bình : tiết 390.
- Đại : tiết 188, 363.
- Đoản : tiết 212.
- Hoãn : tiết 2, 244 (bộ Thốn Hoãn), 180 (Hoãn, Kết, Tiểu Sác, Kết Âm, Đại Kết Âm).
- Hoạt : tiết 349.
- Hoạt Sác : tiết 256.

- Hoạt Tật : tiết 215.

- Hồng Đại : tiết 25,26,27.

- Huyền : tiết 101 (Âm Mạch Huyền), 142,144,213.

- Huyền Khẩn : tiết 115.

- Huyền Phù Đại : tiết 232.

- Huyền Sáp : tiết 213 (Huyền thì sống, Sáp thì chết).

- Huyền Tế : tiết 264.

- Huyền Trì : tiết 323.

- Hư : tiết 346.

- Kết Đại :tiết 179, 180 (Kết Đại Âm).

- Khẩn : tiết 3 (Âm Dương đều Khẩn), 87 (Khẩn cấp), 142,193,202,282 (Âm Dương đều Khẩn),
286, 359.

- Nhược : tiết 12 (Âm Nhược),115,244 (Xích Nhược), 251,279,285 (Xích Nhược),358, 375.

- Phù : tiết 1,6 (Âm Dương đều Phù), 12 (Dương Phù, Âm Nhược), 29,37,38 (Dương Phù Âm
Nhược), 45,51,70,114,115,117 (Phù Nhiệt thậm), 119,142,156 (Quan Phù), 168 (Thốn Phù), 172,
202,224,228,232,235,240,244 (Quan Phù), 275,326.

- Phù Đại : 30 (Thốn Phù mà Đại); 135,267 (Phù Đại lên trên bộ Quan).
- Phù Hoãn : 39,189,277.
- Phù Hoạt : 140,142 (Quan Phù Hoạt), 178.
293
- Phù Khẩn :17,38,46,47,50,54.
- Phù Nhược : 12,38,42,244 (Thốn Hoãn, Quan Phù, Xích Nhược).
- Phù Sác : 49,51,56,71,136 (Phù mà Động Sác biến ra Trì), 257,361 (Thốn Phù Sác, giữa bộ
Xích mạch tự Sáp).
- Phù Sáp :176 (Phù Hư mà Sáp), 247.
- Phù Tế : 37.
- Phù Trầm :131 (Thốn Phù, Quan Trầm).
- Phù mà Trì : 226.
- Sạ (chợt) Khẩn : 353.
- Sác :48,101 (Dương Sáp, Âm Huyền), 213,273 (Âm Sáp Trường), 289 (A^m Sáp), 361 (Xích tự
Sáp).
- Thực : 240 (Thực cho Hạ, Phù phát Hãn), 245 Dương Thực cho phát Hãn ), 367.
- Tế : 150.
- Tế Sác : 123 (Quan Tế Sác), 142.
- Tế Trầm Sác : 284.
- Tế muốn Tuyệt : 350.
- Tiểu : 270.
- Tuyệt : 366.
- Trầm : 93,131 (Thốn Phù, Quan Trầm), 150,219,300,304,322.
- Trầm Hoạt : 142.
- Trầm Huyền : 363.
- Trầm Kết :128.
- Trầm Khẩn : 66,132 (bộ Quan Tiểu Trầm Khẩn), 137 (Trầm mà Khẩn), 142,150,265.
- Trầm Trì : 61, 355 (Thốn Trầm mà Trì), 364 (Trầm mà Trì).
- Trầm Vi ; 60,127.
- Trầm Vi Tế : 299.
- Trì : 50 (bộ Xích Trì), 136 (Phù mà Động Sác biến và Trì), 145,196,209,234,332.
- Trì Phù Nhược : 99.
- Tự Hòa thì không chết : 212.
- Vi : 23,49 (Xích Vi),95 (Dương Âm đều Vi),107,162 (Thậm Vi), 285,286,314,337,365,384.
- Dương Vi : 245,273 (Dương Vi, Âm Sáp mà Trường), 314,316,337 (Vi mà Quyết), 365 (Vi mà
Khát), 384,388,389.
- Vi Hoãn : 23.
- Vi Nhược : 27,38,141,285 (Xích Nhược).
- Vi Nhược Sác: 363.
- Vi Sác : 118,289 (Dương Vi, Âm Sác).
- Vi Sáp : 215,273,324,382.
- Vi Tế : 59,280 (Nhiệt Khí Vi, Âm Kinh Tế).
- Vi Trầm : 127.
- Vi muốn Tuyệt : 316,388,389.
- Vô Mạch : 314,360.
- Xúc : 22,34,142,348.
__________________________________________________________________________

294
PHỤ LỤC 2 :

DANH MỤC PHƯƠNG THANG

 Xếp theo mẫu tự ABC.

 Sau mỗi tên thang phương là số Tiết có dùng, số đậm là có thành phần và cách dùng (nơi
bản gốc).

1- Bạch Đầu Ông thang 369, 371

2- Bạch Hổ thang 178, 220, 349.

3- Bạch Hổ gia Nhân Sâm thang 26, 170, 171, 172, 223.

4- Bạch Tán phương 143.

5- Bạch Thông thang 313, 314.

6- Bạch Thông gia Trư Đởm Trấp thang 314.

7- Bán Hạ Tán Cập thang 312.

8- Bán Hạ Tả Tâm thang 151.

9- Cam Thảo thang 310.

10- Cam Thảo Can Khương thang 29, 30.

11- Cam Thảo Phụ Tử thang 177.

12- Cam Thảo Tả Tâm thang 160.

13- Can Khương Phụ Tử thang 60.

14- Can Khương Hoàng Cầm Hoàng Liên Nhân Sâm thang 357.

15- Cát Căn thang 31, 32.

16- Cát Căn gia Bán Hạ thang 33.

17- Cát Căn Hoàng Cầm Hoàng Liên thang 34.

18- Cát Cánh thang 310.

295
19- Chân Võ thang 83, 315.

20- Chi Tử Xị thang 77, 78, 79, 82, 222, 229, 373.

21- Chi Tử Cam Thảo Xị thang 77.

22- Chi Tử Sinh Khương Xị thang 77.

23- Chỉ Thực Chi Tử Xị thang 392.

24- Chi Tử Bá Bì thang 260.

25- Chi Tử Can Khương thang 81.

26- Chi Tử Hậu Phác thang 80.

27- Chích Cam Thảo thang Phục Mạch thang) 179.

28- Đại Hãm Hung Hoàn phương 134.

29- Đại Hãm Hung thang 136, 137, 138, 139, 151.

30- Đại Hoàng Hoàng Liên Tả Tâm thang 156, 166.

31- Đại Sài Hồ thang 105, 138, 167.

32- Đại Thanh Long thang 38, 39.

33- Đại Thừa Khí thang 209, 210, 213, 216, 218, 221, 238, 240, 241, 242, 251, 252, 253, 254,
255, 256, 319, 320, 321.

34- Đào Hạch (Nhân) Thừa Khí thang 108,128.

35- Đào Hoa thang 305, 306.

36- Để Đáng thang 127, 128, 237, 257.

37- Để Đáng Hoàn phương 129.

38- Điều Vị Thừa Khí thang 29, 30, 55, 69, 95, 107, 126, 208, 248, 249.

39- Đương Qui Tứ Nghịch thang 50, 350.

40- Đương Qui Tứ Nghịch gia Ngô Thù Du Sinh Khương thang 350.

41- Hậu Phác Sinh Khương Bán Hạ Cam Thảo Nhân Sâm thang 65.

296
42- Hoàng Cầm thang 174, 332.

43- Hoàng Cầm gia Bán Hạ Sinh Khương thang 174.

44- Hoàng Liên thang 175.

45- Hoàng Liên A Giao thang 302.

46- Khổ Tửu thang 311.

47- Lý Trung thang 161, 385.

48- Lý Trung Hoàn phương 385, 395.

49- Ma Hoàng thang 35, 36, 37, 46, 47, 51, 54, 232, 235.

50- Ma Hoang Phụ Tử Cam Thảo thang 48, 301.

51- Ma Hoàng Phụ Tử Tế Tân thang 48, 300.

52- Ma Hoàng Hạnh Nhân Cam Thảo Thạch Cao thang 62, 164.

53- Ma Hoàng Thăng Ma thang 355.

54- Ma Hoàng Liên Kiều Xích Tiểu Đậu thang 261.

55- Ma Tử Nhân Hoàn phương 247.

56- Mật Tiển Đạo phương 233.

57- Mẫu Lệ Trạch Tả Tán phương 394.

58- Ngô Thù Du thang 243, 308, 376.

59- Ngũ Linh Tán phương 70, 71, 72, 73, 158, 248, 385.

60- Nhân Sâm Tứ Nghịch thang 53, 53b.

61- Nhân Trần Cao thang 236, 259.

62- Ô Mai hoàn phương 337.

63- Phụ Tử thang 303, 304.

64- Phụ Tử Tả Tâm thang 157, 158.

65- Phục Linh Tứ Nghịch thang 49, 68.

297
66- Phục Linh Cam thảo thang 72, 354.

67- Phục Linh Quế Chi Cam Thảo Đại Táo thang 64.

68- Phục Linh Quế Chi bạch Truật Cam thảo thang 66.

69- Qua Để Tán phương 168, 353.

70- Quế Chi thang 12, 13, 15, 16, 17, 18, 20, 24, 25, 26, 28, 29, 30, 42, 44, 45, 52, 53, 55, 56, 62,
92, 96, 164, 234, 275, 370, 386.

71- Quế Chi khứ Bạch Thược thang 22.

72- Quế Chi khứ Bạch Thược gia Phụ Tử thang 22, 176.

73- Quế Chi khứ Bạch Thược gia Thục Tất Mẫu Lệ Long Cốt Cứu Nghịch thang 114.

74- Quế Chi gia Cát Căn thang 14.

75- Quế Chi Cam Thảo thang 63.

76- Quế Chi Cam Thảo Long Cốt Mẫu Lệ thang 121.

77- Quế Chi gia Đại Hoàng thang 278, 279.

78- Quế chi Hậu Phác gia Hạnh Nhân thang 19, 43.

79- Quế Chi Ma Hoàng các bán thang 23.

80- Quế Chi Nhân Sâm thang 165.

81- Quế Chi nhị Ma Hoàng nhất thang 25.

82- Quế Chi nhị Việt Tỳ nhất thang 27.

83- Quế Chi gia Phụ Tử thang 21.

84- Quế Chi gia Quế thang 120.

85- Quế Chi khứ Quế gia Phụ Tử Bạch Truật thang 48, 176.

86- Quế Chi khứ Quế gia Phục Linh Bạch Truật thang 28.

87- Quế Chi gia Thược Dược thang 278.

88- Quế chi Tân gia thang 61.

298
89- Tiểu Sài Hồ thang 37, 97, 98, 99, 100, 101, 103, 105, 106, 146, 150, 151, 230, 231, 232, 265,
266, 377, 393.

90- Sài Hồ gia Mang Tiêu thang 106.

91- Sài Hồ gia Long Cốt Mẫu Lệ thang 109.

92- Sài Hồ Quế Chi thang 148.

93- Sài Hồ Quế Chi Can Khương thang 149.

94- Sinh Khương Tả Tâm thang 159.

95- Toàn Phúc Hoa Đại Giả Thạch thang 163.

96- Tiểu Hãm Hung thang 140, 143.

97- Tiểu Kiến Trung thang 101, 104.

98- Tiểu Thanh Long thang 40, 41.

99- Tiểu Thừa Khí thang 209, 210, 214, 215, 250, 251, 256, 372.

100- Tứ Nghịch Tán phương 317.

101- Tứ Nghịch thang 29, 92, 93, 226, 276, 322, 323, 351, 352, 370, 375, 387, 388.

102- Tứ Nghịch gia Nhân Sâm thang 384.

103- Thập Táo thang 154.

104- Thiêu Côn Tán phương 391.

105- Thổ Qua Căn phương (thất lạc).

106- Thông Mạch Tứ Nghịch thang 316, 368.

107- Thông Mạch Tứ Nghịch gia Trư Đởm Trấp thang 389.

108- Thược Dược Cam Thảo thang 29, 30.

109- Thược Dược Cam Thảo Phụ Tử thang 67.

110- Trúc Diệp Thạch Cao thang 396.

111- Trư Đởm Trấp phương 233.

299
112- Trư Linh thang 224, 225, 318.

113- Trư Phu thang 309.

114- Văn Cáp Tán phương 143.

115- Võ Dư Lương Hoàn phương 89.

116- Xích Thạch Chỉ Võ Dư Lương thang 161.

(Phụ lục 1 & 2 do L.Y. PHẠM TUẤN NGỌC biên tập).

Tôi không giữ bản quyền với kỳ vọng thế hệ nối tiếp làm trong sáng và lợi
ích hơn các di sản văn hóa của dân tộc Việt./.

300
MỤC LỤC

ĐỀ MỤC TRANG

- Danh sách thành viên nhóm học tập Đông Y Hán Việt. 2

- Lời Người dịch. 3

- Tiểu sử Cụ Lưu Thủy. 6

- Bài Tựa Thương Hàn Luận Bản Nghĩa. 8

- Nguyên tự và lời giải. 11

- Đọc pháp. 16

- Phàm lệ. 22

THƯƠNG HÀN LUẬN QUYỂN I

Luận Mạch Chứng Bệnh Thái Dương – Thiên Thượng.

- Chương 1 : Thái Dương Thể lệ. 24

- Chương 2 : Thái Dương Trúng Phong tại Nhục phần. 33

- Chương 3 : Thái Dương Thương Hàn tại Nhục phần. 39

- Chương 4 : Tại Nhục phần Thương Hàn loại. 42

- Chương 5 : Tại Nhục phần Phong Hàn hiệp truyền Kỳ Kinh. 49

- Chương 6 : Thái Dương Bệnh Bì phần. 52

THƯƠNG HÀN LUẬN QUYỂN II

Luận Mạch Chứng Bệnh Thái Dương – Thiên Trung.

- Chương 7 : Thái Dương Bản Hàn truyền Kinh tại Biểu. 59

- Chương 8 : Bản Hàn tại Tấu phần truyền Kinh. 69

- Chương 9 : Túc Thái Dương Khí. 77


.

301
- Chương 10 : Thủ Thái Dương Lạc 81

- Chương 11 : Túc Thái Dương Kinh. 85

- Chương 12 : Thương Hàn trị Pháp. 89

- Chương 13 : Thái Dương Phong Hàn truyền Tấu phần. 93

- Chương 14 : Thủ Thái Dương Kinh Khí. 105

THƯƠNG HÀN LUẬN QUYỂN III

Luận Mạch Chứng Bệnh Thái Dương - Thiên Hạ

- Chương 15 : Túc Thái Dương Lạc. 112

- Chương 16 : Phong Hàn truyền Tấu Bán Lý. 118

- Chương 17 : Thủ Thiếu Dương Kinh Lạc. 129

- Chương 18 : Túc Thiếu Dương Kinh Lạc. 134

- Chương 19 : Thủ Thiếu Dương Bộ Vị. 138

- Chương 20 : Túc Thiếu Dương Bộ Vị. 143

- Chương 21 : Phong Hàn tại Cách Mô. 148

THƯƠNG HÀN LUẬN QUYỂN IV

Thiên Luận Mạch Chứng Bệnh Dương Minh.

- Chương 22 : Dương Minh thể lệ. 156

- Chương 23 : Dương Minh thọ Phong Hàn tại Tấu Bán Biểu. 160

- Chương 24 : Dương Minh thọ Phong Hàn tại Tấu Bán Lý. 168

- Chương 25 : Túc Dương Minh tại Tấu đến Lý. 173

- Chương 26 : Thủ Dương Minh tại Tấu đến Lý. 178

- Chương 27 : Túc Dương Minh tại Tấu đến Biểu. 183


.

302
- Chương 28 : Thủ Dương Minh tại Tấu đến Biểu. 187

- Chương 29 : Dương Minh tại Tấu chuyển thuộc nhau. 190

- Chương 30 : Dương minh Táo Hóa chư Kinh. 194

- Chương 31 : Dương Minh làm Thương Hàn Loại. 198

THƯƠNG HÀN LUẬN QUYỂN V

Thiên Luận Mạch Chứng Bệnh Thiếu Dương

- Chương 32 : Thiếu Dương Thể lệ. 202

Thiên Luận Mạch Chứng Bệnh Thái Âm.

- Chương 33 : Thái Âm Thể lệ. 207

THƯƠNG HÀN LUẬN QUYỂN VI

Thiên Luận Mạch Chứng Bệnh Thiếu Âm.

- Chương 34 : Thiếu Âm Thể lệ. 211

- Chương 35 : Thiếu Âm tại Lý đến Biểu. 214

- Chương 36 : Thiếu Âm Tử Chứng. 219

- Chương 37 : Thiếu Âm tại Biểu đến Lý. 222

- Chương 38 : Thiếu Âm Bệnh tại Cách phần. 227

- Chương 39 : Thiếu Âm tại Tấu. 235

THƯƠNG HÀN LUẬN QUYỂN VII

Thiên Luận Mạch Chứng Bệnh Khuyết Âm.

- Chương 40 : Khuyết Âm Thể lệ 238

- Chương 41 : Khuyết Âm thọ Phong Hàn tại Biểu tại Lý. 240

- Chương 42 : Khuyết âm Tử chứng. 247


.

303
- Chương 43 : Khuyết Âm thọ Phong Hàn tại Tấu tại Cách. 250

- Chương 44 : Thủ Khuyết Âm. 256

- Chương 45 : Túc Khuyết Âm. 261

Thiên Luận Kinh Lạc.

- Chương 46 : Hoắc loạn nói về Kinh. 265

- Chương 47 : Âm Dương Dịch nói về Lạc. 273

- VIỆT NHÂN LƯU THỦY TỰ TỰ 278

- Phụ lục 1 : Danh mục Mạch Pháp. 293

- Phụ lục 2 : Danh mục Phương Thang. 295

- Mục lục. 301

304

304

You might also like