Professional Documents
Culture Documents
Á ĐÔNG
2006 - 2012
1
DANH SÁCH *
___________________________
2
LỜI NGƯỜI DỊCH
_____________________
Đức Trọng Cảnh làm sách Thương Hàn Luận và Tạp Bệnh Luận chỉ có chung một bài tựa,
Ngài còn nói “hiệp thành 16 quyển”. Chứng tỏ Ngài chỉ làm một bộ sách, một bộ Thái Cực Luận
bệnh gồm :
Nhất Dương là Thương Hàn Luận, nói về Thái Dương làm bệnh, Thái Dương là
Dương Hàn làm bệnh tại Biểu, Dương bị Thương bởi Hàn mà bệnh nên sách gọi là Thương Hàn.
Nhất Âm là Tạp Bệnh Luận, nói về Thiếu Âm làm bệnh, Thiếu Âm là Âm Nhiệt làm
bệnh tại Lý, vì Âm tính đa đoan, phức tạp, nghĩa này đã từng tỏ lộ ở Kinh Dịch cho nên gọi là
Tạp Bệnh.
Như vậy 2 sách này không thể đọc xa rời nhau và cái nghĩa “Nhất Âm Nhất Dương chi vi
Đạo “ đã được tác giả cụ thể tuân thủ.
Người đời sau đổi tên Tạp Bệnh Luận thành “Kim Quỷ Yếu Lược” chẳng những không
hiểu thâm nghĩa của chữ Tạp mà còn không thấy được ý nghĩa làm sách của Trọng Sư, khiến cho
Tiên sinh Việt Nhân Lưu Thủy phải chê trách nơi lời tựa.
Chúng tôi do tuân thủ ý nghĩa làm sách này, cho nên dịch thuật, trình bày cũng y theo
phương thức đã làm tại Thương Hàn Luận Bản Nghĩa, nói rõ nơi phàm lệ của sách, ở đây không
lập lại.
Ước mong các bằng hữu từng đọc sách Thương Hàn Luận Bản Nghĩa, tiếp tục đọc sách
này cho khỏi thiếu xót. Trước khi đọc sách này nên đọc Thương Hàn Bản Nghĩa, mới mong thấu
rõ cội nguồn truyền thống của Đông Y.
3
Tiểu sử Cụ Lưu Thủy
Cụ Lưu Thủy tiên sanh sinh giờ Thìn, ngày mồng 3 tháng 5 năm Mậu Tý (1887). Sinh
chánh quán tại làng La Thọ, tổng Hạ-Nông phủ Viện-Bàn, tỉnh Quảng Nam. Nay đổi lại là: thôn
La Thọ, xã Thanh Phong, quận Điện Bàn, Quảng Nam.
Thân sinh của Cụ là ông Nguyễn Văn Ý, xuất thân trong hàng Nho Giáo, học vấn uyên
thâm, đậu tiếp 3 khoa Tú Tài, học trò theo học rất đông, thành đạt rất nhiều.
Cụ Lưu Thủy nhờ nền nếp nhà nho, học hành mau giỏi, 16 tuổi đã vào trường Đốc học
tỉnh, 19 tuổi khoa ngọ thi hương,, Cụ đậu đến trường nhì, vào đặng trường ba, rồi kế tiếp học
sanh tại trường tỉnh. Tài hoa lổi lạc, nhưng chẳng gặp thời.
Ngay lúc bây giờ, văn học nước nhà chia phôi nhiều nẽo; Âu Á trộn nhầu, nửa cũ nửa mới,
lăn xăn không nhứt định. Cụ đành quyết chí vào Nam, trãi khắp sơn lam thắng cảnh, dưa muối
một bầu, tìm đường giải thoát; lúc bây giờ Cụ lo lễ Phật tụng kinh, đánh chuông gõ mỏ.
Cụ để tâm nghiên cứu Triết lý nhà Phật, có hồi ở Nam bộ giảng kinh, cũng có lúc về Quảng
Nam thuyết pháp. Cụ thường vãng du giao thiệp với chùa Chúc Thánh Hội An, và chùa Phổ
Thiên Đà Nẳng. Các chùa ở Quảng Nam, cử Cụ làm thượng tọa thuyết pháp.
Cụ ăn chay, niệm Phật, thường khảo cứu kinh Phật sách Nho, đặng rõ thấy cái thâm ý của
Thánh hiền xưa, lấy sự độ sanh làm mục đích, và lấy sự cứu thế làm phương châm.
Sẵn nền Nho học, nên Cụ hết lòng nghiên cứu các sách thuốc Đông Y; trãi 36 năm đăng
đẳng, đã lắm công phu.
4
Ngoài Tố Vấn, Nan Kinh, Cụ chăm ý nhứt tìm tâm cởi mở. Các sách Thương Hàn Luận và
Tạp Bệnh Luận của Thánh y Trương Trọng Cảnh; ấy là tinh lực trong một đời của Cụ đó.
Cụ chú thích luận Thương Hàn và luận Tạp Bệnh, nhơn khi chưa bệnh, mà đã biết trước
lúc ốm đau, nhơn sự ốm đau, mà ấn định chứng bệnh để mà trị bệnh đó. Ấy là pháp môn rất
giản tiện về sự nhận bệnh và trị bệnh vậy.
Cụ chú thích 2 bộ sách Thương Hàn và Tạp Bệnh đã thành trãi nhiều phen lo xuất bản, mà
chưa kịp; Bị tuổi cao, thân già, sức yếu, Cụ giao 2 bộ sách đó cho quý liệt vị NAM DƯƠNG HỌC
PHÁI, gia tâm nghiên cứu thêm, để lần lần xuất bản.
Giờ Mùi,ngày 21,tháng 9, năm Giáp Thìn.Tức là 3 giờ chiều,ngày 26,tháng 10, năm 1964.
Qua giờ Thìn, ngày 23, tháng chín, năm Giáp Thìn.Tức là 10 giờ sáng, ngày 28, tháng 10
năm 1964. Ninh thố Cụ tại Hoa Viên.
Thống tích tai ! Thương Hàn Tạp Bệnh, thượng vị thành công;
Cháu,
______________________________________________________________________________
*Lời người dịch: Có nhiều đoạn dông dài hoặc trùng ý với lời tựa của tác giả, xin lược bớt cho
được giản dị.
5
TẠP BỆNH LUẬN BẢN NGHĨA
___________________________________
BÀI TỰA
Tạp Bệnh Luận chủ trương Thiếu Âm, tiết thứ 10 trong chương Thể lệ của luận này đã
nói rõ.
Thưa : Thiếu Âm không thể làm chủ. Chủ là ở Thái Dương, tiết thứ 11 tiếp theo đó có
dẫn Nội Kinh rằng : ‘Khuyết Dương độc hành’ là nói cái gì ?
Giải đáp rằng : ‘Đó là có Dương không Âm’ , ý nói rằng Khuyết Dương là Thái Dương Hàn
Khí, trong Dương đã có Âm không cần Thiếu Âm làm ra.
Đọc 2 tiết này (tiết 10 và 11) một chữ Tạp đã mặc nhiên ngụ ý này rồi ! chẳng dè người
đời sau không rõ nghĩa của chữ Tạp, mà xưng là Kim Quỷ, chuộng hư danh mà bỏ mất hiện
thực. Cho nên người chú giải tuy rất nhiều, nhưng đều gãi không đúng chỗ ngứa.
Bởi đó, nên tôi cảm thấy Y Đạo sở dĩ không tiến hành là do không thấu rõ học thuyết Âm
Dương mà ra, Âm Dương không phải là vật vu vơ không thể chỉ đích xác. Luận điều Tam Dương
Tam Âm không thông, thì công dụng của Thái Dương và Thiếu Âm không rõ rệt. Thái Dương
Thiếu Âm không rõ rệt thì tông chỉ Thái Dương thống lãnh tất cả sẽ mù mờ.
Y Đạo đã thiếu cội nguồn thì cái gọi là ‘thực học cứu đời’ ở đâu ?
- Thiếu Dương là Dương mới sinh. – Dương Minh là Dương đã lớn mạnh (tráng Dương). – Thái
Dương là Dương cùng tột, Dương cùng tột rồi Âm sinh, do đó Thái Dương chủ Hàn Khí, một câu
‘Thái Dương Kinh’ là đủ cả Âm Dương rồi.
- Thái Âm là Âm cùng tột. – Khuyết Âm là Âm cùng tột rồi hết. – Thiếu Âm là Âm hết rồi Dương
sinh, do đó Thiếu Âm chủ Nhiệt Khí, một câu ‘Thiếu Âm Kinh’ là đủ cả Âm Dương rồi.
6
Ngoài ra như Thiếu Dương Hỏa Khí, Dương Minh Táo Khí, Thái Âm Thấp Khí, Khuyết Âm
Phong Khí đều theo trong Thái Dương Hàn Khí và Thiếu Âm Nhiệt Khí biến hóa mà ra các thứ
bệnh danh. Sở dĩ như thế là sao ? Bởi Thái Dương Thiếu Âm gồm đủ tính Âm Dương, đủ tính
Hàn Nhiệt, đủ tính căn nguyên của các bệnh tật. Cho nên gọi là Âm Dương, quyết nhiên chỉ là 2
Kinh này (Thái Dương Thiếu Âm).
- Như trên đã nói, Thái Dương Thiếu Âm đủ tính Âm Dương, đủ tính Hàn Nhiệt. Các Kinh
Khí khác đều thuộc dưới Thái Dương Hàn Khí. Tuy Thiếu Âm có đủ tính Âm Dương, đủ tính Hàn
Nhiệt nhưng không được làm chủ vì chỉ là hóa thân của Thái Dương. Sở dĩ như thế là vì Thái
Dương Thiếu Âm bản lai nhất Kinh, Chủ Hàn chủ Nhiệt bản lai nhất Khí, làm sao biết như thế ? Ở
tiết cứu Biểu cứu Lý trong chương Thể lệ của bản luận đã nêu rõ ý này. Đó là ‘đệ nhất nghĩa’ khi
đọc Thương Hàn Tạp Bệnh Luận.
Hoặc giả hỏi rằng : Thánh xưa cố ý an bày như thế chăng ?
Thưa rằng : cổ thánh ‘gần lấy xa cầu’, theo đó để nhòm thấu chỗ sâu kín của Âm Dương,
thuận lẽ tự nhiên của tính mệnh. Chẳng phải chỉ riêng Y Đạo mới như thế ! thử xem từ xưa đến
nay, người nói Đạo Âm Dương của Trời Đất chưa ai bằng Phục Hy, Văn Vương, tới Khổng Tử viết
Hệ Từ thì là rốt ráo vậy. Xưa nay người nói được Âm Dương trong thân người, chưa ai bằng
Hiên Viên, Kỳ Bá, tới Trọng Cảnh viết Thương Hàn Luận thì là rốt ráo vậy.
Cô Dương không sanh, Độc Âm chẳng lớn, Âm Dương đối lập rồi sau nhân loại mới sinh
tồn. Càn là Kiện Dương, Khôn là Thuận Âm. Âm tất theo Dương rồi sau xã hội mới thành lập. Bởi
Âm Dương đối lập cho nên Thái Dương Thiếu Âm chẳng lúc nào xa rời nhau, đó là tông chỉ của
Thương Hàn Luận. Bởi Âm tất theo Dương, cho nên Thái Dương bao gồm Thiếu Âm, đó là tông
chỉ của Tạp Bệnh Luận.
Âm Dương của cá nhân tức Âm Dương của xã hội. Âm Dương phản nghịch thì xã hội
bệnh, Âm Dương hòa thuận thì xã hội bình, Y Đạo thông với Trị Đạo.
Hỏi rằng : Trọng Cảnh làm luận chủ trương Thái Dương vốn để cứu đời bệnh tật, học
thuyết này nay còn dùng được không ?
Đáp rằng : nơi lời tựa Trọng Cảnh chê trách các Y gia thuận cựu, nói làm thuốc cần phải
tùy thời bệnh tật để thích ứng nhu cầu. Lúc này là lúc nào ? là lúc nhân loại rất hổn tạp ! Bệnh
rất phức tạp ; nên theo phép trị Tạp Bệnh, chủ trương nghiên cứu phản ảnh của Thái Dương,
‘Tạp Bệnh Luận Bản Nghĩa’ còn đó, nay tựa.
7
TẠP BỆNH LUẬN QUYỂN I
Nguyên Văn : Hán, Trương Trọng Cảnh.
_________________________________
8- Thể Lệ phối hợp bắt mạch vọng sắc biết sự truyền Kinh.
12- Thể Lệ Kinh Lạc vốn tại Tấu mà đi đến Phủ Tạng.
13- Thể Lệ Kinh Lạc hành Biểu Lý mà tập trung tại Tấu.
8
17- Thể Lệ phép trị các Kinh tùy các Khí.
Hỏi rằng : Bậc Thượng công trị ‘vị bệnh’ là thế nào ?
Thầy bảo rằng : Trị ‘vị bệnh’ nghĩa là thấy bệnh ở Can, biết rằng Can sẽ truyền cho Tạng chưa
bệnh là Tỳ. Nên trước phải làm cho Tỳ mạnh lên.
Bốn tháng Quí Tỳ vượng không thọ Tà, chớ nên bổ nó.
Bậc Trung công không hiểu lệ tương truyền, thấy Can bệnh không giải bằng cách làm cho Tỳ
mạnh lên mà chỉ trị ở Can.
Phàm trị bệnh của Can, bổ nó dùng vị chua, trợ nó dùng vị đắng khét, ích nó dùng vị ngọt để
điều hòa. Vị chua vào Can, đắng khét vào Tâm, ngọt vào Tỳ.
Tỳ có thể làm tổn thương Thận, Thận Khí suy yếu thì Thủy không hành, Thủy không hành thì
Hỏa Khí của Tâm thịnh lên làm tổn thương Phế. Phế bị tổn thương thì Kim Khí không hành,
Kim Khí không hành Can Khí thịnh lên, bệnh của Can tự hết. Đó là diệu pháp trị Can bằng cách
bổ Tỳ. Can hư dùng phép này, còn Can thực thì không dùng.
Kinh nói : không được làm hư thêm cái đã hư, làm thực thêm cái đã thực ; nhưng phải bổ chỗ
không đủ, Tả bớt chỗ có thừa, là như thế.
- Sách Thương Hàn Luận bệnh tại Biểu lấy Thái Dương làm chủ.
- Sách Tạp Bệnh Luận bệnh tại Lý lấy Thiếu Âm làm chủ.
Nhiệt Khí của Thiếu Âm làm bệnh tại Lý do Hàn Khí của Thái Dương làm bệnh tại Biểu
biến tướng mà đến, cho nên gọi là Tạp.
Thương Hàn Luận Truyền Kinh là nói sự truyền của Lục Khí tại Biểu, lấy Thái Dương Hàn Khí
thọ Khuyết Âm Phong Khí làm sơ khởi.
9
Tạp Bệnh Luận Truyền Kinh là nói sự truyền của Ngũ Hành tại Lý, lấy Thiếu Âm Tâm Thận
thọ Can truyền làm sơ khởi.
Luận điểm này nói Biểu Lý tương ứng, Học giả nên rõ.
- Bậc Thượng Công hiểu lý tương truyền, biết Can bệnh trước phải làm cho Tỳ mạnh lên:
Tương khắc truyền Kinh.
- Bậc Trung Công thì không như vậy, thấy Can bệnh không giải bằng cách làm cho Tỳ mạnh
lên: không hiểu tương khắc truyền Kinh.
- Chỉ duy trị bệnh ở Can: không hiểu tương sinh truyền Kinh.
- Phàm trị bệnh của Can, bổ nó dùng vị chua, trợ nó dùng vị đắng khét, ích nó dùng vị ngọt để
điều hòa: Nói Can bệnh không tương sinh truyền cũng không tương khắc truyền, chỉ tại Bản
Kinh, cho nên chỉ dùng phép trị Bản Kinh.
- Chua vào Can, đắng khét vào Tâm, ngọt vào Tỳ: Nói Thiếu Âm Tâm thọ truyền của Can rồi
truyền sang Tỳ là tương sinh truyền vậy.
- Tỳ có thể làm tổn thương Thận: Nói Thiếu Âm Thận thọ truyền của Tỳ, do Tỳ thọ truyền của
Can mà đến là tương khắc truyền Kinh vậy.
*Như vậy tương khắc truyền Kinh làm bệnh thì tương sinh truyền Kinh cũng làm bệnh, riêng tại
Can Tạng không truyền cũng bệnh; ba trường hợp này ắt chung một mối, người khéo trị bệnh
một khi thấy là biết ngay.
- Thận Khí suy yếu thì Thủy không hành, Thủy không hành thì Tâm Hỏa thịnh, Tâm Hỏa thịnh
thì tổn thương Phế, Phế bị thương thì Kim Khí không hành thì Can thịnh; đó là diệu pháp trị
Can bằng cách bổ Tỳ: có thể thấy bệnh tại Can Thực truyền Tỳ Hư làm khởi đầu, mà chỗ yếu
diệu của nó là do Thận Thủy Tâm Hỏa đưa tới.
- Can hư thì dụng phép này : Can truyền Tâm, Tâm truyền Tỳ.
- Thực thì không tại đây mà tại kia : Can truyền Tỳ, Tỳ truyền Thận.
10
Bệnh tại Kinh nào lấy Kinh đó làm Tiên , Tạng thọ truyền làm Hậu, đều theo nghĩa lấy Can
làm sơ khởi.
Con người bẩm Ngũ Thường, nhân Phong Khí mà sinh trưởng. Phong Khí tuy có thể sinh vạn
vật, cũng có thể hại vạn vật, như nước có thể nâng thuyền cũng có thể làm đắm thuyền. Nếu
cái Nguyên chân của Ngũ Tạng thông sướng, thì người được an hòa. Khách Khí, Tà Phong
trúng vào người phần nhiều làm chết.
- Một là Kinh Lạc thọ Tà nhập Phủ Tạng là nguyên nhân bên trong.
- Hai là Tứ Chi, Cửu Khiếu Huyết Mạch tương truyền bị Hàn ủng tắc không thông là cái trúng
Bì Phu ở bên ngoài.
- Ba là chuyện buồng the, tai nạn dao búa, trùng thú làm bị thương, lấy đó để hiểu rõ hết mọi
nguyên do của bệnh tật.
Nếu con người biết cẩn thận giữ gìn, không để cho Tà Phong can phạm tới Kinh Lạc ; mới vừa
trúng Kinh Lạc chưa truyền vào Phủ Tạng thì liền điều trị ngay. Tứ Chi vừa cảm thấy nặng nề
thì lập tức Đạo dẫn, Hô hấp, Châm cứu, dán cao xoa bóp, chớ để cho cửu khiếu bế tắc, càng
không nên phạm vào vương pháp, hoặc để cho trùng thú làm tổn thương, việc buồng thechớ
để cho kiệt quệ, việc ăn mặc điều độ, nóng lạnh, đắng chua cay ngọt, không để cho hình thể
bị suy yếu, thì bệnh không còn do đâu để nhập vào Tấu Lý. Tấu chính là chỗ Tam Tiêu thông
hội Nguyên chân. Lý là Văn lý của Bì Phu Phủ Tạng.
- Con người bẫm Ngũ Thường : gốc ở Thuyết Ngũ Vận Nội Kinh.
- Nhân Phong Khí mà sinh trưởng: gốc ở Thuyết Lục Khí Nội Kinh.
- Phong Khí tuy có thể sinh vạn vật cũng có thể hại vạn vật: Sinh lý tại đó, bệnh lý cũng tại đó,
là Triết học bất dịch của y gia tự ngàn xưa.
11
- Như nước có thể nâng thuyền cũng có thể làm đắm thuyền: không cần viện dẫn học thuyết
vi trùng khuẩn độc.
- Từ Tấu Lý đến Phủ Tạng Kinh Lạc cùng nhau qua lại thông sướng thì con người được an hòa.
- Từ Tấu Lý đến Bì Phu Khách Khí Tà Phong theo Kinh Lạc vào thẳng Phủ Tạng, trúng người
phần nhiều làm chết.
- Ngàn thứ tật bệnh không ra ngoài ba điều: đều tóm tại Kinh Lạc mà thôi:
Ba là Kinh Lạc tại Tấu Lý bị phòng thất làm hao kiệt, trùng thú làm tổn thương.
Thầy thuốc cần phải nhận rõ chỗ Kinh Lạc này là nguyên nhân dẫn bệnh ra vào. Lại càng
phải nhận rõ nơi Tấu Lý là chỗ Kinh Lạc trong ngoài tụ tập.
- Không để cho Tà Phong can phạm tới Kinh Lạc, chưa truyền vào Phủ Tạng thì trị ngay: Khiến
cho Kinh Lạc không do Tấu nhập Phủ Tạng.
- Tay chân nặng nề cửu khiếu bế tắc liền trị ngay: khiến cho Kinh Lạc thọ Biểu Tà không ủng tắc
tại Tấu.
- Càng không nên phạm vào Vương pháp, không để trùng thú làm bị thương: không làm hao
tổn hệ thống Kinh Lạc tại Tấu.
- Chuyện buồng the chớ để suy kiệt: không làm hao tổn Khí Huyết của Kinh Lạc tại Tấu.
- Việc ăn mặc điều độ, nóng lạnh, đắng chua cay ngọt không sơ sót: Bồi dưỡng nhu cầu của
Kinh Lạc tại Tấu. Tuy hình thể có tổn thương nhưng bệnh không có con đường nhập vào Tấu
Lý.
- Tấu là chỗ Tam Tiêu thông hội nguyên chân. Lý là Văn Lý của Bì Phu Phủ Tạng: là khu cơ
(then máy) tối yếu của thân người.
- Chỗ Kinh Lạc phát bệnh là Tiên, chỗ Kinh Lạc lưu truyền là Hậu. Kinh Lạc tại Tấu là Tiên, Kinh
Lạc tại Biểu Lý là Hậu. Biết rõ Tiên Hậu thì trị pháp sáng tỏ.
12
NGUYÊN VĂN (3)
Hỏi rằng : Bệnh nhân có khí sắc hiện lên bộ mặt, xin được nghe thuyết này.
Thầy đáp : Đầu mũi màu xanh là trong bụng đau, lại khó chịu vì lạnh là chết. Đầu mũi sắc hơi
đen là có Thủy Khí ; sắc vàng là trên ngực có lạnh ; sắc trắng mất máu. Nếu như sắc hơi đỏ mà
không hợp lúc là chết. Mắt người bệnh tròn xoe đứng tròng là chứng Kỉnh không trị được.
- Đầu mũi mắt xanh: Can; trong bụng đau lại khó chịu vì lạnh là chết: Can truyền Tỳ.
- Đầu mũi sắc hơi đen: Thận; có Thủy Khí chỉ tại Bản Kinh.
- Nếu như sắc hơi đỏ không hợp lúc là chết. Mắt người bệnh tròn xoe không nháy là chứng
Kỉnh không trị được: Tái truyền ở Can, thất truyền [7 lần truyền theo vòng Ngũ Hành tương
khắc] thì chết, là lệ vậy.
Lại sắc xanh là đau, sắc đen là lao, sắc đỏ là phong, sắc vàng là đi cầu khó, sắc tươi sáng là có
lưu ẩm (đọng nước).
13
NGUYÊN VĂN (5)
Thầy nói : người bệnh im lặng, không nói hay kinh sợ, kêu la là bệnh trong các khớp xương.
Tiếng nói ấm ớ không thấu rõ là bệnh giữa Tâm Cách, tiếng nói lí nhí nhỏ mà dài là bệnh ở
trong đầu.
*Đây, Thể Lệ nghe tiếng nói biết các Kinh mắc bệnh.
- Nghe tiếng nói im lặng hoặc không nói, thường kinh sợ, kêu la biết bệnh trong các khớp
xương: Tại Túc Âm Kinh (Tỳ - Can – Thận).
- Nghe tiếng nói ấm ớ không thấu rõ biết bệnh giữa Tâm Cách: Tại Thủ Tam Âm Kinh (Phế -
Bào – Tâm).
- Nghe tiếng nói lí nhí nhỏ mà dài biết bệnh đau trong đầu: tại Thủ Túc Tam Dương Kinh (Đại
Trường – Tiểu Trường – Tam Tiêu – Vỵ - Đởm – Bàng Quang).
Thầy nói thở lay động vai là trong Tâm cứng (Tà Khí thực). Thở kéo hơi lên từ trong ngực là
ho. Thở há miệng, hơi ngắn là Phế Nuy (Phổi teo), nhổ bọt giải.
*Đây, Thể Lệ nghe tiếng thở biết các Lạc mắc bệnh.
- Thở lay động vai là trong Tâm cứng : bệnh tại các Lạc phần giữa.
- Thở kéo hơi lên từ trong ngực là ho : bệnh tại các Lạc phần dưới.
- Thở há miệng, hơi ngắn là Phế nuy, nhổ bọt giải : bệnh các Lạc phần trên.
Thầy nói : Thở hít vào hơi nhanh là bệnh tại Trung tiêu thực, nên cho Hạ thì khỏi, người hư
thì không trị được. Bệnh tại Thượng tiêu thì hơi hít vào gấp rút. Bệnh tại Hạ tiêu thì hơi hít
vào dài, xa, đều là khó trị. Thở ra hít vào lay động run run là không trị được.
.
14
BẢN NGHĨA (1/7)
*Đây, Thể Lệ Nghe tiếng thở biết các Khí mắc bệnh.
- Trung tiêu Khí Thực mà hít vào hơi nhanh, cho Hạ thì lành; Trung tiêu Hư mà hít vào hơi
nhanh thì không trị được.
- Thượng tiêu hít vào gấp rút, Hạ tiêu hít vào dài xa: đều do các Khí ở Trung tiêu hư mà ra,
đều là khó trị.
- Tiếng thở đều, từ dưới mà lên lay động run run là không trị được.
Thầy nói : Thốn khẩu mạch Động, nhân khi vượng thời mà động, giá như Can vượng sắc xanh,
bốn mùa, mỗi mùa tùy sắc của nó. Nếu Can sắc xanh mà trái lại sắc trắng, Sắc Mạch chẳng
hợp thời, đều phải bệnh.
*Đây, Thể Lệ bắt Mạch hiệp với Sắc biết Ngũ Tạng truyền Kinh.
- Bốn mùa đều tùy sắc của nó, đều tùy mạch của nó, đó là Sắc hợp Mạch tương ứng vậy.
- Giá như Can sắc xanh mạch Huyền Cấp, trái lại được sắc trắng của Phế, mạch Phù Sáp mà
Đoản. Do đó mà suy:
. Được Tỳ sắc vàng mạch Hoãn mà Đại, đấy là Sắc hiệp với mạch tương thắng, là khó trị.
. Được Tâm sắc đỏ mạch Phù Đại mà Tán; được Thận sắc đen mạch Trầm Tiểu mà Hoạt, đấy
là Sắc hiệp với Mạch tương sinh, là dễ trị.
*Kinh nói: Thấy Sắc mà không được Mạch của Bản Tạng, trái lại thấy Mạch của tương thắng thì
chết, được mạch của tương sinh thì khỏi, là như thế.
15
NGUYÊN VĂN (9)
Hỏi rằng : có khi chưa đến mà đến rồi, có khi đã đến mà chưa đến, có khi đến rồi lại không đi,
có khi đến mà thái quá ; là thế nào ?
Thầy đáp : Sau tiết Đông Chí ngày Giáp Tý nửa đêm Thiếu Dương khởi, thời của Thiếu Dương
là lúc Dương mới sinh, tiết Trời được ôn hòa.
Chưa đến Giáp Tý mà Trời đã ôn hòa, đấy là chưa đến mà đến rồi.
Đã đến Giáp Tý mà Khí Trời Đại hàn chưa giải, đấy là đến mà không đi.
Đã đến Giáp Tý mà khí Trời ôn như thịnh Hạ lúc tháng năm tháng sáu, đấy là đến mà thái quá.
*Đây, Thể Lệ nghiệm thời tiết với Tạp Bệnh tương ứng.
- Sau Đông chí ngày Giáp Tý nửa đêm Thiếu Dương khởi: cử một Giáp Tý để làm đầu mối cho
vô số Giáp Tý.
- Thời của Thiếu Dương là lúc Dương mới sinh, tiết trời được ôn hòa: Nêu lên Khí Thiếu
Dương ôn hòa, cho thấy duyên cớ không ôn hòa là nguyên do sinh ra tật bệnh.
- Giáp Tý chưa đến mà khí ôn hòa đã đến cùng với Giáp Tý đã đến mà khí ôn hòa không đến:
Khí với Tiết không đều (không đồng thời) là nguyên do sinh bệnh tật.
- Giáp Tý đến mà Đại hàn không giải cùng với Giáp Tý đến mà Đại nhiệt chợt đến: Khí với Tiết
bất cập, thái quá là nguyên do bệnh tật thêm nặng.
Mạch Phù ở trước bộ Quan là bệnh tại Biểu, Phù ở sau bộ Quan là bệnh tại Lý. Eo lưng đau,
xương sống cứng không đi được ắt thở ngắn hơi cùng cực.
*Đây, Thể Lệ Tạp Bệnh, Thiết Mạch biện chứng lấy Thiếu Âm làm chuẩn.
- Thở ngắn hơi cùng cực: chứng của Thủ Thiếu Âm Tâm.
*Nhất thiết Mạch, nhất thiết Chứng lấy đây làm chuẩn, bởi vì Thiếu Âm làm chủ Tạp Bệnh.
Hỏi rằng : Kinh nói ‘Khuyết Dương độc hành’ là như thế nào ?
Thầy đáp : đấy là có Dương không Âm cho nên xưng là ‘Khuyết Dương’.
- Đấy là có Thái Dương Thương Hàn chủ Biểu thì có Thái Dương biến tướng Tạp Bệnh chủ Lý, có
thể gọi đó là vô Âm, cho nên xưng là Khuyết Dương.
Hỏi rằng : Mạch Thốn Trầm mà Huợt, Trầm đó là Thực ; Hượt đó là Khí, Thực Khí chọi nhau,
Khí Huyết nhập Tạng thì chết ; nhập Phủ thì khỏi, đó là chứng Thốt quyết (thình lình xây xẩm,
té ngã) là thế nào ?
Thầy đáp : môi miệng xanh, mình lạnh là nhập Tạng thì chết ; như thân mình nóng lạnh điều
hòa, mồ hôi tự ra là nhập Phủ nên khỏi.
*Đây, Thể Lệ Kinh Lạc gốc tại Tấu mà đi đến Phủ Tạng.
17
- Huợt đó là Khí: Âm Nhiệt Khí tại Tấu.
- Dương Hàn do Tấu nhập Tạng thì chết: Bởi cớ Dương Hàn Thực.
- Đó là chứng Thốt quyết: Dương Hàn tại Tấu thốt nhiên nhập Lý.
- Môi miệng xanh, mình lạnh: là tại Tấu Âm Nhiệt vong, cho nên Dương Hàn từ Tấu nhập Tạng
thì chết.
- Thân điều hòa mồ hôi tự ra: là tại Tấu Âm Nhiệt còn, cho nên Dương Hàn từ Tấu nhập Phủ
nên khỏi.
Hỏi rằng : Mạch Thoát nhập Tạng thì chết, nhập Phủ thì khỏi là tại sao ?
Thầy đáp : không phải là một bệnh mà trăm bệnh đều như vậy. Thí dụ : như Tẩm dâm sang
bắt đầu mọc từ miệng lan ra tay chân thì có thể trị được, từ tay chân chảy lan tới miệng thì
không trị được. Bệnh ở ngoài có thể trị, nhập Lý thì chết.
*Đây, Thể Lệ Kinh Lạc tại Biểu tại Lý nhưng tập trung tại Tấu.
- Cho nên hết thảy bệnh đều như vậy: Từ Tấu ra Biểu có thể trị, từ Tấu vào Lý không trị được.
- Như Tẩm dâm sang tại ngoại có thể trị: Âm Nhiệt vẫn còn tại Tấu; vào Lý thì chết: Âm Nhiệt
tại Tấu đã vong.
Thầy đáp : Đầu đau, gáy, eo lưng, xương sống, cánh tay, chân rút đau.
18
- Âm bệnh có 18 thứ là sao ?
Thầy đáp : Ho, hơi đưa lên, suyễn, ọe, nghẹn, ruột sôi, trướng đầy, Tâm đau, co quắp.
Ngũ Lao (5 thứ lao), Thất thương (7 thứ tổn thương), Lục cực (6 thứ cực) ; Ba mươi
sáu bệnh đàn bà không nằm số này.
Thanh Tà ở trên, Trọc Tà ở dưới, Đại Tà ở Biểu, Tiểu Tà ở Lý, Tà của cơm nước vào từ
miệng là túc thực (đồ ăn cũ không tiêu).
Phong làm cho mạch Phù, Hàn làm cho mạch Khẩn ;
Sương mù làm tổn thương Bì Tấu ; Thấp chạy nơi khớp xương.
- Ngũ Tạng, mỗi Tạng có 3 Âm, 3 Dương, Khí, Kinh, Lạc, công kích nhau thì mỗi Tạng có 18 thứ
bệnh, hiệp lại thành 90 thứ bệnh.
- Lục Vi là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Không, là tạo ra từ những vi trần cực nhỏ, mỗi vi có 18
hiệp lại thành 108 thứ bệnh.
- Đàn bà 36 thứ bệnh không nằm trong số này: riêng thuộc Huyết chứng không phải bệnh
thông thường.
19
- Thanh Tà thuộc Vinh, Vinh gốc Tâm Huyết ở trên.
- Phong trúng đằng trước: Phong từ Âm (ngực, bụng) rồi đến Dương (lưng).
- Hàn trúng đằng sau: Hàn từ Dương (lưng) rồi đến Âm (ngực, bụng).
- Sương mù lạnh nên tổn thương Bì; sương mù nóng tổn thương Tấu.
- Thấp tổn thương tại khớp xương; ăn uống tổn thương tại Tỳ Vỵ.
- Kinh mạch thuộc Lý, Hàn Khí chủ Biểu; cực Hàn thì nhập Lý thương Kinh.
- Chia nhánh rồi đi ngang là Lạc, đều thấy ở ngoài ; Nhiệt Khí chủ Lý; cực Nhiệt thì xuất ngoại
thương Lạc.
*Ý nói suốt Nội Ngoại đều là Kinh Lạc, cho nên Kinh Lạc thống bách bệnh.
Hỏi rằng : Bệnh có lúc gấp nên cứu Lý, cứu Biểu là sao ?
Thầy đáp : Thầy thuốc cho Hạ, tiếp theo ỉa chảy phân sống không dứt, thân thể đau nhức gấp
nên cứu Lý. Sau đó thân còn đau nhức, đại tiện tự điều hòa gấp nên cứu Biểu.
- Kinh suốt Biểu Lý vì thế phải gấp cứu: Biểu Lý tuy bất đồng nhưng Kinh thì chỉ có một.
20
- Tại Biểu thuộc Thái Dương Kinh, cho Hạ tiếp đó bị tiêu chảy nước trong không dứt, mình đau
nhức: chuyển sang tại Lý thuộc Thiếu Âm Kinh.
- Gấp nên cứu Lý: là Biểu chuyển sang Lý, Dương chuyển sang Âm.
- Sau đó mình còn đau nhức, đại tiện tự điều hòa: Bệnh tại Biểu mà không tại Lý.
- Gấp nên cứu Biểu: Biểu thuộc Thái Dương tức Lý thuộc Thiếu Âm, bởi cớ nó vốn là một Kinh.
*Vì thế trị chứng Biểu không giải xét đến Thiếu Âm, trị chứng Lý không giải xét đến Thái Dương.
Đó là bí quyết vậy.
Phàm người bệnh cố tật, lại mắc thêm bệnh đột nhiên, nên trị bệnh đột nhiên trước rồi sau
mới trị cố tật.
Thầy nói : Tạng nào trong 5 Tạng bệnh mà gặp sở đắc (cái nó thích hợp) thì khỏi. Tạng nào
trong 5 Tạng Bệnh mà gặp sở ố (cái nó ghét) hoặc là cái nó không ưa thì làm thành bệnh.
Người bệnh vốn không chịu ăn mà trái lại bắt ép họ ăn, tất phải phát sốt.
- Tạng nào trong 5 Tạng bệnh mà gặp sở đắc thì khỏi: như các loại bệnh, Hàn gặp được Nhiệt;
bệnh Nhiệt gặp được Hàn thì giải.
- Tạng nào trong 5 Tạng gặp sở ố thì bệnh: như các loại bệnh Hàn nhập Nhiệt Kinh, Nhiệt nhập
Hàn Kinh.
21
- Tạng nào gặp chỗ nó không ưa thì bệnh: như các loại bệnh Hàn không ưa Hàn; Nhiệt lại
không ưa Nhiệt.
- Không chịu ăn mà bắt ép ăn, tất phát sốt: Đó là Hàn cực phản Nhiệt như loại bệnh ‘Trừ
Trung’; Nhiệt cực phản Hàn như loại phải dùng Bạch Hổ thang để trị ; có chứng lưng sợ lạnh,
tay chân nghịch lãnh ‘Biểu hữu Nhiệt, Lý hữu Hàn’.
Phàm các bệnh tại Tạng muốn công nó đều tùy chỗ sở đắc mà công ; như người bệnh khát
cho uống Trư Linh thang. Còn lại đều phỏng theo đó.
- Muốn công bệnh tại các Tạng đều tùy chỗ sở đắc của bản Tạng Khí mà công.
- Như người bệnh khát tùy Nhiệt Khí của Thiếu Âm Tạng, cho uống Trư Linh thang.
*Nêu lên chứng khát của Thiếu Âm để làm lệ cho các bệnh còn lại. Đấy là cái lý Tạp Bệnh Luận
chủ trương Thiếu Âm.
(Trên đây, chương thứ 1, 18 tiết, luận Phủ Tạng Kinh Lạc Tiên Hậu).
22
CHƯƠNG 2 : KỈNH – THẤP – YẾT
(26 Tiết, từ 19 đến 44)
LUẬN TAM ÂM
1- Khuyết Âm thọ Thái Dương tại Nhục phần làm Kỉnh.
3- Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Nhục phần làm Kỉnh.
7- Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu phần làm Kỉnh.
10- Khuyết Âm thọ Thái Dương tại Biểu đến Tấu làm Kỉnh.
11- Khuyết Âm thọ Thiếu Âm tại Tấu đến Biểu làm Kỉnh.
12- Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu Cách làm Kỉnh.
13- Thái Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu làm Thấp.
14- Thái Âm thọ thọ Thiếu Âm tại Tấu đến Biểu làm Thấp.
15- Thái Âm thọ Thái Dương tại Biểu đến Tấu làm Thấp.
16- Thái Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm làm Thấp truyền Xung Kinh.
17- Thái Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm làm Thấp truyền Nhâm Kinh.
18- Thái Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm làm Thấp truyền Đốc Kinh.
19- Thái Âm thọ Thái Dương Hàn Thấp tại Tấu phần.
20- Thái Âm làm Thấp có thọ Thái Dương Phong Thấp, có thọ Thiếu Âm Phong Thấp.
23- Thái Âm thọ Thiếu Âm Phong Thấp tại Tấu đến Biểu.
Thái Dương Bệnh phát sốt không mồ hôi, trái lại sợ lạnh, gọi là Cương Kỉnh.
*Đây, Khuyết Âm thọ Thái Dương tại Nhục phần làm Kỉnh.
Thái Dương Bệnh phát sốt mồ hôi ra mà không sợ lạnh, gọi là Nhu Kỉnh.
Thái Dương Bệnh phát sốt mạch Trầm mà Tế, gọi là Kỉnh, là khó trị.
24
BẢN NGHĨA (2/3)
*Đây, Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Nhục phần làm Kỉnh.
- Khuyết Âm thọ Dương Hàn thì mạch Trầm, thọ Âm Nhiệt thì mạch Tế.
Thái Dương Bệnh Phát Hãn quá nhiều nhân đó làm Kỉnh.
- Thái Dương Kinh hành Thủy, Khuyết Âm Kinh hành Huyết, Phát Hãn quá nhiều thì Thủy kiệt
Huyết Táo cho nên làm Kỉnh.
Phàm Phong Bệnh cho Hạ thì làm Kỉnh, cho Phát Hãn thì co quắp.
- Thọ Dương Hàn tại Ngoại làm Trúng Phong, thọ Âm Nhiệt tại Nội làm Phong bệnh.
- Cho Hạ thì làm Kỉnh: Âm Nhiệt Khí dồn vào Khuyết Âm.
- Cho Phát Hãn thì co quắp: Dương Hàn Khí dồn vào Khuyết Âm.
Người bệnh ghẻ, tuy mình đau nhức không thể cho Phát Hãn, mồ hôi ra thì làm Kỉnh.
25
- Thái Dương Thủy với Thiếu Âm Huyết hiệp bệnh tại Bì làm bệnh ghẻ, tuy mình đau nhức,
không nên Phát hãn, mồ hôi ra thì làm Kỉnh.
Người bệnh mình nóng chân lạnh ; cổ gáy cứng gấp, sợ lạnh ; có lúc đầu nóng, mặt đỏ, mắt
đỏ, riêng đầu lắc lư, đột nhiên khẩu cấm, lưng ển ; làm bệnh Kỉnh. Nếu cho Phát Hãn bệnh
này thì Hàn Thấp gặp nhau, liền sợ lạnh nhiều, Phát Hãn rồi mạch người bệnh như rắn bò.
*Đây, Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Tấu làm Kỉnh.
- Có lúc đầu nóng, mặt đỏ, mắt đỏ: Bản Nhiệt chuyển hệ.
- Riêng đầu lắc lư: Thái Dương tại đầu, Thiếu Âm cùng hiệp tại đầu.
- Đột nhiên khẩu cấm: Bản Nhiệt tại Cách, Bản Hàn cùng hiệp tại Cách.
- Lưng ển:Dương Hàn Âm Nhiệt tranh nhau tại ngực lưng.Đó là Âm Dương hiệp làm Kỉnh tại Tấu.
- Phát Hãn liền sợ lạnh nhiều: Dương Khí đi mà Hàn Khí hiệp Nội.
- Phát Hãn rồi mạch người bệnh như rắn bò: bởi cớ có Âm không Dương.
Thình lình bụng trướng to là bệnh muốn giải. Mạch như cũ trái lại Phục Huyền làm Kỉnh.
- Thình lình bụng trướng to: Thái Dương bỗng nhiên nhập Lý hiệp Khuyết Âm.
26
- Trái lại Phục Huyền là Kỉnh: Dương Hàn tại Tấu ắt thọ Âm Nhiệt thì mạch Khẩn Phục Huyền.
Phàm bệnh Kỉnh, án thấy Khẩn như dây cung căng thẳng đi lên xuống. Kỉnh bệnh có vết phỏng
do cứu là khó trị.
- Dương Hàn làm Kỉnh thì mạch Khẩn,hiệp Âm Nhiệt thì như dây cung căng thẳng đi lên xuống.
- Chỉ Dương Hàn làm Kỉnh thì có thể trị, hiệp Âm Nhiệt làm Kỉnh là khó trị.
Thái Dương Bệnh chứng đầy đủ, thân thể cứng đơ lan cả cổ gáy, mạch trái lại Trầm Trì đấy là
Kỉnh, Quát Lâu Quế Chi thang làm chủ.
Quát Lâu Căn 3 lạng Chích Thảo 2 lạng Quế Chi 2 lạng
6 vị trên, nước 9 thăng, nấu lấy 3 thăng, chia uống ấm 3 lần, cho đổ mồ hôi ít ít. Nếu mồ hôi
không ra, khoảng sau bữa ăn húp cháo nóng để Phát Hãn.
*Đây, Khuyết Âm thọ Thái Dương từ Biểu đến Tấu làm Kỉnh.
- Thái Dương chứng đầy đủ, thân thể cứng đơ lan đến cổ gáy: Đây chứng Kỉnh tại Biểu.
- Mạch trái lại Trầm Trì: Thái Dương nhập Tấu thì mạch Trầm cùng với Thiếu Âm tại Tấu bằng
nhau thì mạch Trầm Trì, đây là Kỉnh tại Tấu. Quát Lâu Quế Chi thang làm chủ.
27
NGUYÊN VĂN (29)
Thái Dương Bệnh không mồ hôi mà trái lại tiểu tiện ít, khí xung lên yết hầu, miệng ngậm cứng
không nói được muốn là Cương Kỉnh, Cát Căn thang làm chủ.
Cát Căn 4 lạng Chích Thảo 2 lạng Ma Hoàng 3 lạng Bạch Thược 3 lạng
7 vị trên, nước 1 đấu, trước nấu Cát Căn, Ma Hoàng giảm 2 thăng, vớt bỏ bọt, cho các thuốc vào
nấu lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, đắp chăn cho đổ chút ít mồ hôi không cần húp cháo,
còn lại việc nghỉ ngơi và cấm kỵ như phép dùng Quế Chi thang.
*Đây, Khuyết Âm thọ Thiếu Âm tại Tấu đến Biểu làm Kỉnh.
- Thái Dương bệnh không mồ hôi: Tại Tấu Thái Dương chuyển sang Thiếu Âm.
- Tiểu tiện trái lại ít: Thọ Túc Thiếu Âm Trúng Phong.
- Miệng ngậm cứng không nói được: Thọ Thủ Thiếu Âm Trúng Phong.
Kỉnh làm bệnh, ngực đầy, miệng ngậm cứng, nằm không dính chiếu, chân co quắp ắt nghiến
răng, có thể cho uống Đại Thừa Khí thang.
4 vị trên, nước 1 đấu, trước nấu Hậu Phác, Chỉ Thực lấy 5 thăng, bỏ bả cho Đại Hoàng vào nấu
lấy 2 thăng, bỏ bả cho Mang Tiêu vào lại đặt lên lửa nhỏ nấu sôi 1 – 2 dạo, chia uống ấm 2 lần,
nếu đi cầu được thì khỏi uống lần sau.
28
BẢN NGHĨA (2/12)
*Đây, Khuyết Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm từ Tấu đến Cách làm Kỉnh.
- Nằm không dính chiếu: Dương Hàn Âm Nhiệt tranh nhau tại ngực và lưng.
- Chân co quắp ắt nghiến răng: Dương Hàn Âm Nhiệt làm hại nhau ở trên dưới, có thể cho
uống Đại Thừa Khí thang.
Thái Dương Bệnh các khớp xương đau nhức mà phiền, mạch Trầm mà Tế, đó gọi là Trúng
Thấp cũng tên là Thấp Tý.
Chứng hậu của Thấp Tý là tiểu tiện không lợi, đại tiện trái lại dễ, chỉ cần lợi tiểu tiện là được.
*Đây, Thái Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm làm Thấp tại Tấu.
- Khớp xương đau nhức mà phiền: chứng Thái Âm Thấp tại Tấu.
- Đây, là tại Tấu thọ Thái Dương tên là Trúng Thấp, tại Tấu thọ Thiếu Âm tên là Thấp Tý.
- Chứng hậu của Thấp Tý là tiểu tiện không lợi: Bởi cớ thọ Âm Nhiệt.
- Đại tiện trái lại dễ: cớ bởi Âm Hàn thọ Dương Hàn.
- Chỉ cần lợi tiểu tiện: Âm Nhiệt giải thì Âm Hàn giải, Dương Hàn tự giải vậy.
29
NGUYÊN VĂN (32)
Thấp gia (người bệnh Thấp) khi phát tán khắp cả mình đau nhức, phát sốt, mình vàng như
xông cho vàng.
Thấp gia chỉ đầu ra mồ hôi, lưng gáy cứng, muốn được đắp chăn và hơ lửa. Nếu như cho Hạ
quá sớm thì sinh ọe hoặc ngực đầy, tiểu tiện không lợi, trên lưỡi có rêu, là vì Đơn Điền có
Nhiệt, trên ngực có Hàn, khát muốn uống nước nhưng không uống được cho nên miệng ráo
và phiền.
*Đây, Thái Âm thọ Thái Dương làm Thấp tại Biểu đến Tấu.
- Chỉ đầu ra mồ hôi: Dương Hàn tại đầu thọ Tấu Nhiệt.
- Lưng gáy cứng muốn được đắp chăn và hơ lửa: Dương Hàn truyền Kinh tại Tấu.
- Cho Hạ quá sớm thì sinh ọe: Bởi cớ Dương Hàn tại Tấu nhập Lý.
- Hoặc ngực đầy tiểu tiện không lợi: Bởi cớ có Truyền Kinh ắt có Chuyển Thuộc.
30
* Ba tiết kể trên nói: . Trúng Thấp là Thái Dương.
Thấp gia cho Hạ, trên trán ra mồ hôi, hơi suyễn, tiểu tiện lợi là chết, nếu Hạ lợi không dứt thì
cũng chết.
- Trên trán ra mồ hôi, hơi suyễn: Xung Kinh ở dưới thọ Thấp mà thoát lên.
- Hạ lợi không dứt thì cũng chết: Dương Hàn hãm vào trong, Âm Nhiệt vong.
Phong Thấp tương bác, khắp mình đau nhức, theo phép nên cho ra mồ hôi mà giải, gặp ngày
trời mưa âm u không dứt, Thầy thuốc bảo rằng trường hợp này, không thể Phát Hạn, mồ hôi
ra bệnh không khỏi, cớ sao vậy ? Bởi vì Phát Hạn mà mồ hôi ra nhiều thì chỉ có Phong Khí bị
trừ đi, Thấp Khí vẫn còn cho nên không khỏi. Nếu muốn trị Phong Thấp thì nên cho ra mồ hôi
ít ít, Phong Thấp đều bị trừ.
- Phong Thấp chọi nhau: Nói chứng Thấp do Thái Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Lý.
- Bệnh tại Biểu nên cho ra mồ hôi mà giải: Theo phép vốn nó là thế.
31
- Gặp ngày trời mưa âm u không dứt: Bảo rằng Thái Âm thọ Thấp nhập Nhâm Kinh, rồi lại thọ
Thấp.
- Thầy thuốc bảo rằng trường hợp này không thể Phát Hãn: Đúng vậy.
- Mồ hôi ra bệnh không khỏi là vì sao: vì Phong nhập Nhâm Kinh đã trừ mà Thấp nhập Nhâm
Kinh chưa trừ.
- Trị Phong Thấp nên cho ra mồ hôi ít ít: Rồi sau đó Phong Thấp trong phần Huyết của Nhâm
Kinh mới có thể theo mồ hôi mà giải.
Thấp gia mình nhức, phát sốt, mặt vàng mà suyễn, đầu đau, mũi nghẹt mà phiền, người bệnh
mạch Đại, tự ăn uống được, trong bụng điều hòa không bệnh. Bệnh Phong Thấp ở trong đầu
cho nên mũi nghẹt, nhét thuốc vào lỗ mũi thì khỏi.
- Mình nhức, phát sốt, mặt vàng mà suyễn: Thọ Thiếu Âm Phong Thấp nhập Đốc Kinh.
- Đầu đau mũi nghẹt mà phiền: Thọ Thái Dương Phong Thấp nhập Đốc Kinh.
- Tự ăn uống được, trong bụng không bệnh: không bệnh ở Xung Nhâm Kinh.
- Nhét thuốc vào lỗ mũi thì khỏi: chuyên trị Đốc Kinh.
*Ba tiết ở trên nói: Thái Âm thọ Thái Dương Thiếu Âm làm bệnh Thấp nhập 3 Kỳ Kinh, mỗi tiết
đều có biện chứng của Bản Kinh.
Thấp gia mình nhức phiền, có thể cho uống Ma Hoàng gia Bạch Truật thang, cẩn thận không
nên dùng phép cứu để công.
.
32
MA HOÀNG GIA BẠCH TRUẬT THANG PHƯƠNG
(Trị Thái Dương Hàn Thấp nhập nội ; Thấp gia là Thấp tại Nội, là Thấp tại bên trong Tạng làm
bệnh).
5 vị trên, nước 9 thăng, trước nấu Ma Hoàng giảm 2 thăng bỏ bọt nổi lên, cho các thuốc vào
nấu lấy 2 thăng, bỏ bả uống ấm 8 cáp, đắp chăn cho ra chút ít mồ hôi.
- Có thể cho uống Ma Hoàng gia Bạch Truật thang, cẩn thận không dùng phép cứu để công:
Nói bệnh tại Tấu thọ Hàn Thấp, cho nên dùng Bản phương trong đó có Quế Chi.
Người bệnh khắp mình nhức, phát sốt, xế chiều thì bệnh nặng thêm, đó là Phong Thấp. Bệnh
này mắc phải do đổ mồ hôi mà ra gió, hoặc bị tổn thương lâu ngày do lạnh làm bệnh, có thể
cho uống Ma Hoàng Hạnh Nhân Dĩ Nhân Cam Thảo thang.
Các vị trên chặt nhỏ bằng hạt đậu mè, mỗi lần uống lấy 4 chỉ tiền xúc, 1 chén rưỡi nước, nấu
còn 8 phân, bỏ bả uống ấm cho ra chút ít mồ hôi, kiêng gió.
*Đây, Thái Âm bệnh Thấp do Thái Dương Phong Thấp, có mắc phải Thiếu Âm Phong Thấp.
- Khắp mình nhức phát sốt, xế chiều thêm nặng, đó là Thiếu Âm Phong Thấp cũng là Thái
Dương Phong Thấp làm sao biết như vậy ?
- Có thể cho uống Ma Hoàng Hạnh Nhân Dĩ Nhân Cam Thảo thang.
*Cùng tham khảo với Thái Dương thiên, Phong Thấp tương bác (Thương Hàn Luận).
Bệnh Phong Thấp mạch Phù, mình nặng, ra mồ hôi, sợ gió ; Phòng Kỷ Hoàng Kỳ thang làm
chủ.
Phòng Kỷ 1 lạng Hoàng Kỳ 1 lạng Bạch Truật 7 chỉ rưỡi Chích Thảo ½ lạng
Các vị trên chặt nhỏ như hạt đậu mè, mỗi lần dùng 5 chỉ tiền xúc, Sinh Cương 4 lát, Đại Táo 2
trái, nước 1 chén rưỡi nấu lấy 8 phân, bỏ bả uống ấm.
- Trong Vỵ bất hòa gia Bạch Thược 3 phân (có chuyển thuộc Bản Nhiệt).
- Bên dưới có lạnh lâu ngày gia Tế Tân 3 phân (có truyền Kinh Bản Hàn).
Sau khi uống như có trùng bò trong da từ eo lưng trở xuống lạnh như băng (là Thủy Khí bị trục).
Sau đó ngồi trên nệm, rồi dùng 1 tấm chăn quấn quanh eo lưng làm cho ra mồ hôi chút ít, bệnh
bớt.
34
NGUYÊN VĂN (40)
Thương Hàn 8 – 9 ngày Phong Thấp tương bác, thân thể nhức phiền, không thể xoay chuyển,
không ụa, không khát, mạch Phù Hư mà Sáp ; Quế Chi Phụ Tử thang làm chủ. Nếu đại tiện
rắn, tiểu tiện tự lợi khứ Quế Chi gia Bạch Truật thang làm chủ.
Quế Chi 4 lạng, Phụ Tử 3 củ (bào), Chích Thảo 2 lạng, Đại Táo 12 trái, Sinh Cương 3 lạng
Bạch Truật 4 lạng, Phụ Tử 3 củ (bào), Chích Thảo 2 lạng, Đại Táo 12 trái, Sinh Cương 3 lạng.
5 vị trên, nước 3 thăng nấu lấy 1 thăng, bỏ bả chia uống ấm 3 lần. Uống lần đầu cảm giác mình
tê, độ nửa ngày uống lần sau, uống hết 3 lần, người bệnh trạng như xây xẩm, chớ có sợ, đó chỉ
là Bạch Truật Phụ Tử cùng chạy trong da để trục thủy khí, mà chưa trừ hết cho nên như vậy.
*Đây, Thái Âm thọ Thái Dương Hàn Thấp tại Biểu nhập Tấu.
- Thương Hàn 8 – 9 ngày: Thương Hàn nhập Lý chuyển làm Hàn Thấp.
- Phong Thấp tương bác: Hàn Thấp chuyển làm Phong Thấp.
- Thân thể nhức phiền không thể tự xoay chuyển: Bởi cớ Hàn Thấp tại Tấu.
- Không ụa, không khát: Bởi cớ không truyền Kinh Bản Hàn cũng như không chuyển thuộc Bản
Nhiệt.
- Quế chi Phụ Tử thang làm chủ: trị Hàn Thấp chuyển làm Thái Dương Phong Thấp.
- Nếu Tấu Nhiệt thực thì đại tiện rắn: Hàn truyền kinh thì tiểu tiện tự lợi: Hàn Thấp chuyển làm
Thiếu Âm Phong Thấp; Quế chi gia Bạch Truật thang làm chủ.
*Đây là 2 loại Phong Thấp không thể trị lẫn lộn, Học giả nên rõ.
35
NGUYÊN VĂN (41)
Phong Thấp tương bác, khớp xương phiền nhức, đau rút, không thể co duỗi, chạm vào thì
đau nặng thêm ; ra mồ hôi, đoản khí, tiểu tiện không lợi, sợ gió, không muốn cởi áo hoặc
mình có hơi thủng ; Cam Thảo Phụ Tử thang làm chủ.
Chích Thảo 2 lạng Phụ Tử 2 củ Bạch Truật 2 lạng Quế Chi 4 lạng
4 vị trên, nước 6 thăng nấu lấy 3 thăng, bỏ bả uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần. Sau khi uống lần
đầu hơi ra mồ hôi thì giải. Nếu ăn được, mồ hôi ra rồi lại phiền thì chỉ uống 5 cáp ; sợ 1 thăng là
nhiều thì nên uống 6 – 7 cáp.
- Phong Thấp tương bác, khớp xương phiền nhức, đau rút, không thể co duỗi, chạm vào thì
đau nặng thêm: Tại Tấu Hàn Thấp chuyển làm Phong Thấp.
- Ra mồ hôi, đoản khí, tiểu tiện không lợi: chuyển làm Thiếu Âm Phong Thấp.
- Sợ gió không muốn cởi áo hoặc mình hơi thủng: chuyển làm Thái Dương Phong Thấp.
. Thọ Thái Dương làm Hàn Thấp; thọ Thiếu Âm làm Phong Thấp.
. Thọ tại Tấu thì đồng mà mạch chứng khác thì trị khác.
. Phát Hãn tại Tấu là khó mà Phát Hãn của Thiếu Âm tại Tấu càng khó.
. Vã chăng tại Biểu làm Thương Hàn, nhập Lý làm Hàn Thấp :
. Đây là Thái Dương Thiếu Âm cùng nhau làm Biểu Lý, cùng nhau chuyển biến, không thể
không biết vậy.
.
36
NGUYÊN VĂN (42)
Bệnh Thái Dương Trúng Yết, phát sốt sợ lạnh, mình nặng mà đau nhức, mạch Huyền Tế Khâu
Trì, đi tiểu tiện xong, ớn lạnh lông dựng đứng (nổi da gà), tay chân nghịch lãnh, làm việc một
chút thì người nóng lên, miệng há, răng cửa khô. Nếu Phát Hãn thì sợ lạnh nhiều ; gia Ôn
châm thì phát sốt dữ, cho Hạ thì đi tiểu rất khó.
- Thái Dương không nói bệnh : Thái Dương đã chuyển sang Thiếu Âm.
- Không nói Trúng Nhiệt mà nói Trúng Yết: cũng như Dương Minh Thiếu Dương thuộc Táo Hỏa
Khí mà gọi là Ôn, đều là nghĩa thọ Thái Dương Bản Hàn truyền Kinh. Đó là ‘Tự gia sở tập’ của
Trọng Sư, thuật theo Hiên Viên, Kỳ Bá mà có cải tiến vậy.
- Tiểu tiện xong, ớn lạnh nổi da gà: truyền Dương Hàn Kinh.
- Làm việc một chút thì người nóng lên: truyền Âm Nhiệt Kinh.
- Nếu cho Phát Hãn thì sợ lạnh: Âm Nhiệt đi mà Âm Hàn hiện ra.
- Gia ôn châm thì phát sốt nhiều: Bản Hàn Truyền kinh thì Bản Nhiệt Chuyển thuộc.
- Cho Hạ thì tiểu tiện rất khó: Hàn Nhiệt cùng hạ.
37
NGUYÊN VĂN (43)
Thái Dương Trúng Yết là Trúng Nhiệt vậy ; ra mồ hôi, sợ lạnh, mình nóng mà khát. Bạch Hổ
gia Nhân Sâm thang làm chủ.
Tri Mẫu 6 lạng Thạch Cao 1 cân (đâm, bọc vải) Cánh Mễ 6 cáp
5 vị trên, nước 1 đấu, nấu gạo chín thang thành, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần.
Thái Dương Trúng Yết, mình nóng, nhức nhói nặng nề mà mạch Vi Nhược, đó là tháng hè bị
thương bởi nước lạnh, nước chạy trong da làm nên. Nhất Vật Qua Đế thang làm chủ.
Qua Đế 20 cái : 1 vị trên, bâm nhỏ, dùng 1 thăng nước nấu lấy 5 cáp, bỏ bả uống ấm.
- Nhức nhói nặng nề: thọ Thái Dương Bản Hàn truyền Kinh.
*Nhìn lại câu ‘Thủy hành bì trung’ này, thấy Thương Hàn Luận, Thái Dương Hàn Khí ‘kết tinh’
tại đây; để tiếp diễn Tạp Bệnh Luận do Thiếu Âm chủ trương.
(Trên đây, chương thứ 2, 26 tiết, luận bệnh Kỉnh Thấp Yết)
39
TẠP BỆNH LUẬN QUYỂN II
_______________________________
Luận rằng: Bệnh Bách Hợp, trăm mạch đồng một mối dẫn đến bệnh này. Ý muốn ăn lại không
ăn được, thường im lặng, muốn nằm không nằm được, muốn đi không đi được, ăn uống có
lúc biết ngon hoặc có lúc không thích nghe mùi đồ ăn, như lạnh mà không lạnh, như nóng mà
không nóng, miệng đắng, tiểu tiện đỏ, các thuốc không trị được. Uống thuốc vào thì thổ lợi
nhiều. Như có thần linh, mà thân mình như bình thường không bệnh, mạch hơi Súc. Mỗi khi
đi tiểu nhức đầu thì 60 ngày khỏi. Nếu đi tiểu đầu không đau, chỉ ớn lạnh thì 40 ngày khỏi.
Nếu đi tiểu dễ dàng, chỉ đầu xây xẩm thì 20 ngày khỏi. Chứng của nó hoặc khi chưa bệnh mà
đã dự kiến; hoặc đã bệnh 4 – 5 ngày rồi mới hiện ra; hoặc có khi bệnh 20 ngày, hoặc 1 tháng
sau mới thấy, tùy chứng của từng trường hợp mà chữa.
40
- Chương Kỉnh Thấp Yết trước đây nói Thương Hàn Tạp Bệnh nên hiệp đọc, tiết này hai chữ
Luận Viết nói nên phân đọc.
- Phàm bệnh lấy mạch làm gốc, chẩn mạch ở Kinh Thủ Thái Âm, ý nói Thủ Kinh là nơi trăm
mạch gồm về một mối đều có thể dẫn đến bệnh, cho nên gọi là Bách Hợp Bệnh.
- Phàm nhận thức Kinh Lạc khởi đầu là tại Thủ Kinh; Thủ Tam Âm với Thủ Tam Dương là Lạc;
Bản luận trước đề ra các Thủ Kinh Lạc là ý này.
- Ý muốn ăn trái lại không ăn được: nói Kinh Lạc đều tập trung tại Cách Tấu, địa điểm này Vỵ
Khí làm chủ, Vỵ Khí hư đó là nguyên do sinh bệnh Bách Hợp.
- Muốn nằm: Thủ Âm Kinh. Không nằm được: bởi vì ‘Lạc’ với Thủ Dương Kinh.
- Muốn đi: Thủ Dương Kinh. Không đi được: bởi vì ‘Lạc’ với Thủ Âm Kinh.
- Hoặc có lúc không muốn nghe mùi đồ ăn: Vỵ Khí bất hòa.
- Thủ Dương tại Ngoại thọ Dương Hàn cho nên như lạnh, nhập Nội thọ Âm Nhiệt cho nên
không lạnh.
- Thủ Âm tại Nội thọ Âm Nhiệt cho nên như nóng, xuất Ngoại thọ Dương Hàn cho nên không
nóng.
- Miệng đắng: Thủ Âm thọ Hàn. Tiểu tiện đỏ: Thủ Dương thọ Nhiệt.
- Các thuốc không trị được: bởi cớ không biết các Thủ Kinh Lạc cùng với bệnh của chúng.
- Uống thuốc vào thì bệnh nặng: không biết phép trị Thủ Kinh.
- Mỗi khi đi tiểu thì nhức đầu: Thủ Âm tại Thượng mà bệnh tại Hạ làm đi tiểu; Thủ Dương tại
Hạ mà bệnh tại Thượng làm đau đầu. Thủ với Thủ tương ứng vậy.
- 60 ngày khỏi: các Thủ Kinh hành một Giáp Tý là một chu kỳ lên xuống vào ra.
41
- Mỗi lần đi tiểu không đau đầu, chỉ ớn lạnh thì 40 ngày khỏi: tại Trung Hạ, Kinh hành 40 ngày
một chu kỳ.
- Nếu đi tiểu dễ dàng, chỉ đầu xây xẩm thì 20 ngày khỏi: tại Thượng, Kinh hành 20 ngày một
chu kỳ.
- Chứng của nó hoặc chưa bệnh mà đã dự kiến: Thủ Kinh tại Cách.
- Kinh Lạc khởi đầu tại Cách Tấu rồi đi đến Biểu Lý, cho nên bệnh có lâu có mau không giống
nhau, có thể tùy chứng mà trị.
Bệnh Bách Hợp, sau khi Phát Hãn dùng Bách Hợp Tri Mẫu thang làm chủ.
Trước dùng nước rửa Bách Hợp, ngâm 1 đêm cho ra bọt trắng, bỏ nước đi. Lấy riêng nước suối
2 thăng nấu Bách Hợp lấy 1 thăng, bỏ bả, lấy riêng 2 thăng nước suối nấu Tri Mẫu còn lại 1
thăng, bỏ bả. Sau đó hiệp 2 nước lại, cô còn 1 thăng 5 cáp, chia uống ấm 2 lần.
BẢN NGHĨA
Bệnh Bách Hợp sau khi cho Hạ, Bách Hợp Hoạt Thạch Đại Giả Thạch thang làm chủ.
Hoạt Thạch 3 lạng, Đại Giả Thạch to như viên đạn (2 thứ đồng giả nát, bọc vải)
42
Đầu tiên nấu Bách Hợp như phép trước, lấy riêng 2 thăng nước suối nấu 2 vị còn lại 1 thăng, bỏ
bả, sau đó hiệp 2 nước lại nấu còn 1 thăng 5 cáp, chia uống ấm 2 lần.
Bệnh Bách Hợp sau khi cho thổ, Bách Hợp Kê Tử hoàng thang làm chủ.
Đầu tiên nấu Bách Hợp như phép trước, rồi cho Kê Tử hoàng vào khuấy đều cô lại còn 5 phân,
uống ấm.
Bệnh Bách Hợp chưa trải qua Hãn, Thổ, Hạ, chứng trạng còn như lúc ban đầu, Bách Hợp Địa
Hoàng thang làm chủ.
Đầu tiên nấu Bách Hợp như phép trước, cho Địa Hoàng trấp vào nấu còn 1 thăng 5 cáp, chia
uống ấm 2 lần, trúng bệnh chớ uống lần sau, đại tiện phân đen như sơn.
- Chứng trạng còn như lúc ban đầu: ý nói cùng với tại Cách đến Tấu có đồng chứng trạng, tức
phép trị cũng đồng.
.
43
NGUYÊN VĂN (50)
Bệnh Bách Hợp một tháng không giải biến thành chứng khát, Bách Hợp Tẩy phương làm chủ.
Bách Hợp 1 thăng : Dùng 1 đấu nước, ngâm Bách Hợp 1 đêm, lấy nước đó rửa mình. Rửa xong
ăn bánh lạt, chớ dùng đậu tương mặn.
Bệnh Bách hợp khát mãi không dứt, Quát Lâu Mẫu Lệ tán làm chủ.
2 vị đồng cân lượng tán thành bột, uống mỗi lần 1 thìa phương thốn, ngày 3 lần.
Bệnh Bách Hợp biến chứng phát sốt, Bách Hợp Hoạt Thạch tán làm chủ.
2 vị tán bột, uống 1 thìa phương thốn, ngày 3 lần, đi cầu được thì ngưng, vì nhiệt đã trừ.
44
NGUYÊN VĂN (53)
Bệnh Bách Hợp hiện ở Âm thì dùng phép Dương mà trị. Hiện ở Dương thì dùng phép Âm mà
trị. Bệnh hiện ở Dương mà công Âm lại cho Phát Hãn , đó là nghịch; bệnh hiện ở Âm mà công
Dương lại cho Hạ , đó cũng là nghịch.
* Đây, các Thủ Khí trên dưới của Cách, trong ngoài của Tấu.
- Thấy Thủ Âm tại Hạ dùng phép trị Thủ Dương tại Hạ, cứu giúp nó.
- Thấy Thủ Dương tại Thượng dùng phép trị Thủ Âm tại Thượng, cứu giúp nó. Ý nói bệnh tại
Cách Thượng thì trị Thượng, tại Cách Hạ thì trị Hạ, nhưng nắm chắc ở chỗ Thủ Âm trị tại
Thượng còn Thủ Dương trị tại Hạ.
- Thấy Thủ Dương bệnh tại Ngoại mà dùng phép công Thủ Âm tại Ngoại để trị, đó là Nghịch.
- Thấy Thủ Âm bệnh tại Nội mà dùng phép công Thủ Dương tại Nội để trị, đó cũng là Nghịch. Ý
nói Thủ Âm Thủ Dương tại Tấu vào Nội ra Ngoại tùy theo Bản Kinh, chẳng thể vay mượn chi
khác.
Hồ Hoặc ‘chi vi’ bệnh, chứng trạng giống như Thương Hàn, lìm lịm muốn ngủ mà mắt không
nhắm được, nằm ngồi không yên, trùng đục khoét ở hầu gọi là hoặc, đục khoét ở Âm bộ gọi
là hồ, không muốn ăn uống, sợ nghe mùi đồ ăn, mặt mắt người bệnh chợt đỏ, chợt đen, chợt
trắng. Trùng đục khoét ở Thượng bộ thì thinh âm khàn khàn, Cam Thảo Tả Tâm thang làm
chủ. Trùng đục khoét ở Hạ bộ thì yết khô, dùng Khổ Sâm thang rửa nó. Trùng đục khoét ở
giang môn, dùng Hùng Hoàng đốt xông nó.
Chích Thảo 4 lạng Hoàng Cầm 3 lạng Càn Cương 3 lạng Nhân Sâm 3 lạng
7 vị trên dùng một đấu nước nấu lấy 6 thăng, bỏ bả, lại nấu lấy 3 thăng, uống ấm 1 thăng, ngày
3 lần.
45
KHỔ SÂM TẨY PHƯƠNG
Khổ Sâm 1 thăng : Nước 1 đấu, nấu lấy 7 thăng, bỏ bã xông rửa 3 lần.
Hùng Hoàng 1 vị tán nhuyễn - Dùng 2 miếng ngói ống hiệp lại, đốt Hùng Hoàng xông khói
hướng hậu môn.
* Đây, các Thủ Kinh tại Thượng Hạ của Cách, tại Nội Ngoại của Tấu.
Các Thủ Kinh u uẩn khó thấy, cho nên dùng 2 vật này để so sánh.
- Chứng trạng giống như Thương Hàn: ý nói, có Kinh Lạc thì có thể tìm thấy.
- Ngồi nằm không yên: Thủ Kinh không thuận tiếp với Thủ Lạc.
- Không muốn ăn uống, sợ nghe mùi đồ ăn: Thủ Kinh tại Tấu bất hòa với Vỵ Khí.
- Mặt mắt chợt đỏ, chợt đen, chợt trắng: Thủ Dương hành Thủy, Thủ Âm hành Huyết, tại Cách
2 chức năng này không bí biệt (chia riêng) được.
- Trùng đục khoét ở Thượng bộ thì thinh âm khàn khàn: Thủ Dương tại Đới Hạ nhưng Kinh
hành ở Cách Thượng.
- Trùng đục khoét ở Hạ bộ thì yết khô: Thủ Âm tại Cách Thượng nhưng Kinh hành tới Đới Hạ,
dùng Khổ Sâm thang rửa nó, Hùng Hoàng xông nó.
46
NGUYÊN VĂN (55)
Người bệnh mạch Sác không sốt, hơi phiền, lìm lịm chỉ muốn nằm, ra mồ hôi; mới mắc phải
3- 4 ngày, mắt đỏ như chim Tu hú, bởi 7 – 8 ngày thì xung quanh mí mắt đen. Nếu như ăn
được là mủ đã thành, Đương Qui Xích Tiểu Đậu tán làm chủ.
Xích Tiểu Đậu 3 thăng ngâm cho ra mầm rồi sấy khô Đương Qui 10 phân
2 vị trên tán bột, uống 1 thìa phương thốn, ngày 3 lần với nước tương thủy (nấu chín gạo đổ
vào trong nước lạnh ngâm trong 5 -6 ngày thành nước có vị chua, sắc trắng.
* Đây, các Thủ Lạc tại Thượng Hạ của Cách, tại Nội Ngoại của Tấu.
- Chỉ muốn nằm: Thủ Lạc tại Tấu thọ Dương Hàn.
- Mới mắc phải: Thủ Lạc mới đầu tại Cách Tấu rồi đi đến Biểu Lý.
- 3 – 4 ngày mắt đỏ như mắt chim Tu hú: Thủ Âm Lạc hành Huyết tại Cách Thượng Hạ.
- 7 – 8 ngày xung quanh mí mắt đen: Thủ Dương Lạc hành Thủy tại Tấu Nội Ngoại.
- Nếu muốn ăn được: Các Thủ Lạc từ Nội xuất Ngoại làm thành nùng (mủ).
Dương độc chi vi bệnh, Mặt mắt loang lổ như vân gấm, yết hầu đau, mửa mủ máu 5 ngày có
thể trị, 7 ngày không thể trị, Thăng Ma Miết Giáp thang làm chủ.
Thăng Ma, Đương Qui, Cam Thảo mỗi thứ 2 lạng, Xuyên Tiêu sao khứ mồ hôi 1 lạng, Miết
Giáp 1 miếng to bằng ngón tay nướng, Hùng Hoàng ½ lạng nghiền.
47
6 vị trên, dùng 4 thăng nước nấu lấy 1 thăng, uống hết 1 lần, người già và trẻ nhỏ chia làm 2 lần
uống, cho ra mồ hôi.
- Huyết dồn đến Thủ Kinh cho nên mặt mắt loang lổ như vân gấm.
- Các Thủ Kinh đều hội tại Yết hầu cho nên đau, thọ chịu sự dồn của Huyết cho nên mửa mủ
máu. - Ngũ nhật khả trị: Ngũ Tạng truyền Kinh một chu kỳ.
- Thất nhật không trị được: Thất truyền thì chết là nghịch truyền. Thăng Ma Miết Giáp thang
làm chủ.
Âm độc ‘chi vi’ bệnh, mặt mắt xanh, mình đau như bị gậy đánh, Yết hầu đau 5 – 6 ngày có
thể trị, 7 ngày không thể trị, Thăng Ma Miết Giáp khứ Xuyên Tiêu, Hùng Hoàng thang làm chủ.
* Đây, Thủ Dương Kinh hành Thủy dồn đến Thủ Âm.
- Thọ độc tại Cách cho nên mình đau như bị gậy đánh.
- Yết hầu đau 5 ngày có thể trị, 7 ngày không thể trị: xem tiết trên.
- Bệnh Thủ Dương không cần trị Huyết cho nên khứ Xuyên Tiêu, Hùng Hoàng.
(Trên đây, chương thứ 3, 13 tiết, luận bệnh Bách Hợp Hồ Hoặc Âm Dương Độc)
48
CHƯƠNG 4: NGƯỢC TẬT
(5 Tiết, từ 58 đến 62)
1- Ngược mạch của Tiêu Kinh tại Tấu với tại Cách.
2- Tiêu Kinh tại Đới thọ Âm phần Hàn Nhiệt làm Ngược mẫu.
3- Tiêu Kinh tại Cách thọ Âm phần Hàn Nhiệt làm Đan ngược.
4- Tiêu Kinh tại Cách thọ Dương phần Hàn Nhiệt làm Ôn ngược.
5- Tiêu Kinh tại Đới thọ Dương phần Hàn Nhiệt làm Mẫu ngược.
Thầy nói : Mạch của bệnh sốt rét vốn là Huyền, Huyền Sác là Nhiệt nhiều, Huyền Trì là Hàn
nhiều, Huyền Tiểu Khẩn cho Hạ thì bớt, Huyền Trì thì có thể dùng phép Ôn, Huyền Khẩn thì có
thể Phát hãn hoặc Ôn châm, Phù Đại thì có thể cho Thổ, Huyền Sác là do Phong phát, dùng
phép ăn uống và nghỉ ngơi để trị dứt nó.
* Đây, Tam Tiêu Kinh tại Nội Ngoại của Tấu và tại Thượng Hạ của Cách làm bệnh Ngược.
- Thương Hàn Luận nói bệnh sốt rét tại Biểu, phần nhiều chú trọng tại Tấu.
- Tạp Bệnh Luận nói bệnh sốt rét tại Lý, phần nhiều chú trọng tại Cách.
Cách là khu vực của Bán Dương Bán Âm là do Tam Tiêu Kinh đảm đương.
- Mạch bệnh sốt rét vốn Huyền: Mạch Huyền đi căng thẳng lên xuống là hiệp mạch của Dương
Hàn Âm Nhiệt, lại cũng là hiệp mạch của Dương Nhiệt Âm Hàn.
- Huyền Trì thì Hàn nhiều: thọ Thái Dương Hàn Khí.
- Huyền Tiểu Khẩn cho Hạ thì bớt: thọ Âm Nhiệt tại Cách Hạ.
- Huyền Trì thì dùng phép Ôn: thọ Âm Hàn tại Cách Nội.
- Huyền Khẩn thì có thể Phát Hãn hoặc Ôn châm: Dương Hàn tại Cách Ngoại.
49
- Mạch Phù Đại thì cho mửa: thọ Dương Nhiệt tại Cách Thượng.
- Mạch Huyền Sác là do Phong phát: thọ Thái Dương Thiếu Âm tại Cách.
- Dùng phép ăn uống, nghỉ ngơi để trị dứt nó: nói phải nên hòa Vỵ Khí.
Bệnh sốt rét phát ngày 1 của tháng nên đến ngày 15 thì khỏi, nếu như không bớt thì giải ở
cuối tháng, nếu lại không bớt thì phải như thế nào ?
Thầy nói: Đó là Kết làm Trưng Hà gọi là Ngược mẫu, phải trị gấp nên dùng Miết Giáp Tiển
hoàn làm chủ.
Miết Giáp 13 phân Xạ Can 3 phân đốt Hoàng Cầm 3 phân Sài Hồ 6 phân
Càn Khương, Đại Hoàng, Quế Chi, Thạch Vi (bỏ lông), Hậu Phác, Tử Uy, Bán Hạ, A Giao, Thược
Dược, Mẫu Đơn, Giá Trùng mỗi vị 5 phân,
Đình Lịch, Nhân Sâm mỗi vị 1 phân Cù Mạch 2 phân Xích Tiêu 12 phân
Phong Oa đem nướng 4 phân Khương Lang 6 phân Đào Nhân 12 phân
23 vị trên tán bột, lấy 1 đấu tro bếp lò rèn, rượu trong 1 hộc 5 đấu, ngâm tro đợi cho rượu cạn
hết phân nửa cho Miết Giáp vào trong nấu nát nhừ như keo sơn, vắt lấy nước cốt cho các thuốc
vào cô đặc làm hoàn to bằng hạt ngô đồng, lúc bụng đói uống 7 hoàn, ngày 3 lần.
* Đây, Tam Tiêu Kinh tại Đới thọ Âm phần Hàn Nhiệt làm Ngược Mẫu
- Chương Bách Hợp nói các Thủ Kinh hành 1 giáp tý là 1 chu: tại thượng phần hành 20 ngày, tại
Trung Hạ phần hành 40 ngày, theo 60 là 1 giáp tý truyền kinh mà nói.
Đây Thủ Tiêu Kinh hành 15 ngày, theo 24 Khí hành Kinh mà nói, cùng hành không trái nhau.
Ban đầu hành Thượng Tiêu 15 ngày, Trung Tiêu 15 ngày, Hạ Tiêu 15 ngày; vừa vặn tại Đới
phần thọ 3 Âm Kinh Huyết Kết làm Trưng Hà, gọi là Ngược Mẫu. Mẫu là mẹ ý gọi sinh ra nhiều
chứng khác, gấp trị đi nên dùng Miết Giáp Tiển hoàn.
.
50
NGUYÊN VĂN (60)
Thầy nói Âm Khí cô tuyệt (một mình Âm Khí tuyệt), Dương Khí độc phát (một mình Dương Khí
phát), thì Nhiệt mà thiểu Khí, bứt rứt khó chịu, tay chân nóng mà muốn mửa, gọi là Đơn
Ngược. Nếu chỉ nóng mà không lạnh là Dương Khí trọng ở Tâm, Ngoại trú ở khoản phân Nhục
khiến cho người bệnh teo rút cơ nhục.
* Đây,Tam Tiêu Kinh tại Cách thọ Âm phần Hàn Nhiệt làm Đơn Ngược
- Âm Khí cô tuyệt: là Thủ Âm Bào Phế không được Túc Âm Can Tỳ hổ trợ.
- Dương Khí độc phát: là Túc Âm Thận Kinh không thể tư dưỡng Tâm Dương cho nên Nhiệt Khí
độc phát.
- Nhiệt mà thiểu Khí, bứt rứt khó chịu: chứng ngược của Phế Tỳ.
- Tay chân nóng mà muốn mửa: chứng ngược của Can Bào.
- Nếu chỉ nóng mà không lạnh là Tâm Dương không được Thận Thủy chu cấp.
- Nhiệt chứa ở Tâm,Ngoại trú ở khoảng phân nhục khiến cho người bệnh teo rút cơ nhục:
chứng ngược tại Thủ Túc Âm Nhiệt Kinh.
Bệnh Ôn Ngược mạch như Bình, mình không lạnh chỉ có nóng, xương khớp nhức khó chịu,
thỉnh thoảng ói, Bạch Hổ gia Quế Chi thang làm chủ.
Tri Mẫu 6 lạng Thạch Cao 1 cân đâm bọc vải Ngạnh Mễ 2 cáp
Chích Thảo 2 lạng Quế Chi 2 lạng
5 vị trên, dùng một đấu nước nấu gạo chín là được, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần.
* Đây, Tam Tiêu Kinh tại Cách thọ Dương phần Hàn Nhiệt làm Ôn Ngược
51
- Ôn Ngược là: Dương Hàn Dương Nhiệt tại Cách làm Ngược.
- Mình không lạnh chỉ có nóng: Vỵ Trường, Tiêu, Đởm, chứng Ngược của các Dương Nhiệt tại
Cách.
- Xương khớp nhức khó chịu, thỉnh thoảng ói: Bàng Quang, Tiểu Trường, chứng Ngược của
các Dương Hàn tại Cách.
Bệnh rét lạnh nhiều gọi là Mẫu Ngược, Thục Tất tán làm chủ.
Thục Tất rửa bỏ mùi tanh (ngọn non của Thường Sơn)
Vân Mẫu (thiêu 2 ngày đêm) Long Cốt các vị đồng phân lượng
3 vị trên tán bột, trước lúc chưa phát uống với nước Tương thủy ½ tiền.
* Đây, Tam Tiêu Kinh tại Đới thọ Dương phần Hàn Nhiệt làm Mẫu Ngược
- Gọi là Mẫu (con đực) Ngược: gọi Dương Kinh tại Đới Hạ làm rét.
LUẬN BÀO
Phàm Phong ‘chi vi’ bệnh, làm chứng bại liệt nửa người, hoặc chỉ bại cánh tay đó gọi là bệnh
Tý, mạch Vi mà Sác do Trúng Phong làm ra như thế.
* Đây, Bào Kinh thọ Phong tại Lý đến Cách và tại Biểu đến Cách.
- Bại liệt nửa người hoặc chỉ bại cánh tay: tại Lý đến Cách.
- Mạch Vi mà Sác do Trúng Phong làm ra: tại Biểu đến Cách.
Hai trường hợp này với trị pháp tại Cách là một.
Thốn khẩu mạch Phù mà Khẩn, khẩn là Hàn, Phù là Hư, Hư Hàn tương bác, Tà tại Bì Phu.
Phù là Huyết Hư, Lạc mạch trống rổng, Tặc Tà không tiết được hoặc ở bên trái hoặc ở bên
phải, Tà Khí làm giản, Chính Khí làm rút, Chính Khí dẫn kéo Tà Khí làm miệng mắt méo lệch,
tay chân bất toại, Tà ở Lạc thì cơ phu tê dại (mất cảm giác), Tà ở Kinh thì tay chân nặng nề
53
không cử động được, Tà nhập vào Phủ thì không biết ai là ai, Tà nhập vào Tạng lưỡi không
nói được, miệng mửa nước dãi.
- Khẩn là Dương Hàn thực. Phù là Âm Nhiệt Hư. Âm Nhiệt cùng với Dương Hàn tương bác tại
Bì Phu.
- Bào Kinh thọ Dương Hàn thì Huyết Hư, Lạc mạch trống rỗng đó là nguyên do Trúng Phong.
- Tặc Tà nhập vào hoặc ở bên trái hoặc ở bên phải, Tà kết với Chính làm chứng hoãn (giãn).
Chính Khí không hành được nên hành chứng cấp (rút).
- Chính Khí bị Tà làm hoãn cho nên méo lệch, bất toại.
- Tà nhập Tâm Tạng nên lưỡi khó nói, miệng mữa nước dãi.
Hậu thị hắc tán trị Đại Phong, tứ chi bứt rứt, nặng nề, trong Tâm sợ lạnh, bất túc.
Tế Tân, Càn Khương, Nhân Sâm, Đương Qui, Xuyên khung, Mẫu Lệ, Phàn Thạch, Quế Chi
mỗi vị 3 phân.
54
14 vị trên tán bột uống 1 thìa phương thốn, ngày 1 lần. Ban đầu uống với rượu ấm 20 ngày,
kiêng tất cả Cá, Thịt, Tỏi. Nên thường ăn lạnh đến 60 ngày ngưng, tức là thuốc sẽ tích lại trong
bụng không xuống, ăn nóng vào thì xổ, ăn lạnh là trợ được dược lực.
- Huyết tại Phế thì trắng, Huyết tại Tâm thì đỏ, tại Bào thì đen. Nguồn gốc bởi Tâm sinh Huyết
rồi do Cách Khí điều hòa phân bố trong ngoài trên dưới. Nay gọi là Hắc tán là nói Huyết tại
Bào Trúng Phong.
Tấu là Kinh Lạc lên xuống ra vào Tấu tập (nhóm họp), tại đây thọ Phong cho nên gọi là Đại.
- Tay chân bứt rứt nặng nề: Âm Nhiệt tại Tấu xuất Ngoại.
- Trong Tâm sợ lạnh, bất túc: Dương Hàn tại Biểu nhập Tấu.
- Ban đầu uống thuốc với rượu ấm 20 ngày: trị Bào Kinh hành Tấu Thượng phần.
- Sau 40 ngày ăn thức ăn lạnh: trị Bào Kinh hành Tấu Trung phần, Hạ phần.
- 60 ngày: Bào Kinh cùng với các Kinh hành Nội Ngoại Thượng Hạ một giáp tý là một chu.
- Nên dùng thức ăn lạnh thì thuốc tích lại trong bụng không xuống: làm cho Nội Ngoại Bào
Kinh đều hành, không bị Bào Phong chiếm đoạt.
- Ăn nóng: thì trợ được Khí của Tấu Nhiệt, thuốc tích lại liền xổ.
- Ăn lạnh trợ được sức thuốc: Ngăn chặn Bào Phong hoành hành.
Thốn khẩu mạch Trì mà Hoãn, Trì là Hàn, Hoãn là Hư, Vinh hoãn thì là mất máu, Vệ hoãn thì là
Trúng Phong, Tà Phong Trúng Kinh thì mình ngứa mà nổi mề đay, Tâm Khí bất túc, Tà nhập
Tâm thì ngực đầy, hơi ngắn.
Hoạt Thạch, Xích Thạch Chỉ, Bạch Thạch Chỉ, Tử Thạch Anh, Thạch Cao mỗi vị 6 lạng.
12 vị trên, giả thô rồi rây đựng trong túi da, mỗi lần lấy một nhúm 3 ngón tay thuốc; 3 thăng
nước giếng nấu sôi 3 dạo, uống ấm 1 thăng.
Trị người lớn Phong dẫn, trẻ con Kinh giản co giật, ngày phát nhiều lần, thầy thuốc không trị
được.
* Đây, Bào Kinh tại Cách Trúng Phong nhập các Âm Kinh.
- Phong dẫn thang: tên thuốc lấy nghĩa người lớn. Bệnh Phong dẫn, trẻ con Kinh giản, ngày
phát nhiều lần cũng có thể dùng.
- Thầy thuốc không trị được: không biết tại Cách các Âm Kinh Trúng Phong.
Phòng Kỷ Địa Hoàng thang trị bệnh trạng như cuồng, chạy bậy, nói một mình không thôi,
mạch Phù.
56
PHÒNG KỶ ĐỊA HOÀNG THANG PHƯƠNG
4 vị trên, dùng 1 chén rượu ngâm, vắt lấy nước cốt. Sinh Địa Hoàng 4 lạng xé nhỏ, đem chưng
thời gian như nấu 1 đấu gạo, dùng dụng cụ bằng đồng đựng nước cốt thuốc, sau đó đổ nước
cốt Địa Hoàng vào, phân uống 2 lần.
* Đây, Bào Kinh tại Cách Trúng Phong nhập các Dương Kinh.
- Bệnh trạng như cuồng: các Dương Kinh tại Cách Trúng Phong.
- Nói một mình không thôi: Thủ Dương Kinh Trúng Phong.
- Các bệnh trong chương Trúng Phong Lịch Tiết đều có thể dùng.
Đại Phụ Tử 1 củ
2 vị tán nhuyễn, tắm xong dùng 1 thìa phương thốn, chà sát trên chỗ bệnh, để cho sức thuốc
chạy.
- Tùy bệnh ở chỗ nào để uống các phương trên. Dùng phương này chà sát trên chỗ bệnh khiến
cho sức thuốc trong ngoài trợ lẫn nhau.
57
NGUYÊN VĂN (70)
Thốn khẩu mạch Trầm mà Nhược, Trầm chủ cốt, Nhược chủ Cân, Trầm tức là Thận, Nhược
tức là Can. Người bệnh ra mồ hôi lại vào trong nước, nếu như thủy thương Tâm thì các khớp
xương đau, đổ mồ hôi vàng nên gọi là Lịch Tiết.
* Đây, Bào Kinh cùng các Túc Kinh làm Lịch Tiết.
- Trầm chủ cốt, Nhược chủ cân: tuần hành ở gân xương nhưng Bào Kinh bị Hư.
- Trầm tức là Thận, Nhược tức là Can: Bào Kinh Huyết Hư do Túc Âm Kinh Huyết hư dẫn đến.
- Người bệnh ra mồ hôi lại vào trong nước, nếu như thủy thương Tâm: Bào Kinh có Thủy là
do Túc Dương Kinh thủy nhập mà ra.
Phu Dương mạch Phù mà Hoạt, Hoạt thì Cốc Khí thực, Phù thì mồ hôi tự ra. Thiếu Âm mạch
Phù mà Nhược, Nhược thì Huyết không đủ, Phù thì là Phong, Phong Huyết tương bác thì đau
nhức như bị kéo rút. Người mập mạp mà mạch Sáp Tiểu, thở ngắn, tự ra mồ hôi, khớp xương
không dễ co duỗi, như thế đều bởi uống rượu, đổ mồ hôi rồi ra gió mà bệnh.
* Đây, Bào Kinh cùng các Thủ Kinh làm Lịch Tiết.
- Phu Dương mạch Hoạt thì Cốc Khí thực;Phù thì tự ra mồ hôi: Bào thọ Thủ Dương Kinh Thủy
Thực.
- Thiếu Âm mạch Nhược thì Huyết không đủ, mạch Phù là Phong: Bào thọ Thủ Âm Kinh Huyết
Hư.
- Phong Huyết tương bác thì đau nhức như bị kéo rút: Bào Huyết hư thọ thủy thì Phong khởi
mà đau nhức.
58
- Người mập mạp mà mạch Sáp Tiểu: nói người xương yếu mà da thịt đầy đặn.
- Tâm Khí hư, Tâm Huyết tý (tắc nghẽn) thì mạch tiểu mà thở ngắn, tự ra mồ hôi.
- Chứng Bào Kinh Lịch Tiết không thể co duỗi: là do Thủ Âm Tâm dẫn đến, không cần chọn lấy
Kinh khác.
- Uống rượu: Nói Huyết Hư; Đổ mồ hôi: nói Thủy Thực; Ra gió: nói Bào là Phong Kinh.
Các chứng khớp xương đau nhức, thân thể gầy ốm, chân sưng đến nứt da, đầu xây xẩm, thở
ngắn, hơi nôn nao muốn mửa, Quế Chi Bạch Thược Tri Mẫu thang làm chủ.
9 vị dùng 7 thăng nước, nấu lấy 2 thăng uống ấm 7 cáp, ngày 3 lần.
- Các khớp xương đau nhức: Bào Kinh nhập các Túc Kinh.
- Chân sưng đến nứt da: Bào Thủy tý các Túc Âm Kinh.
- Đầu xây xẩm, thở ngắn hơi: Bào Huyết tý các Túc Dương Kinh.
- Nôn nao muốn mửa: Bào Thủy tý các Túc Dương Kinh.
59
NGUYÊN VĂN (73)
Vị toan thì thương Cân, Cân bị thương thì hoãn, gọi là Tiết. Vị hàm thì thương Cốt, Cốt bị
thương thì xụi, gọi là khô.
Khô và Tiết tương bác gọi là Đoạn Tiết. Vinh Khí không thông, Vệ Khí không vận hành một
mình, Vinh Vệ đều yếu, Tam Tiêu không có gì chế ngự nó, bốn bên Khí Huyết không tới, thân
thể gầy ốm, chỉ có chân là sưng to, đổ mồ hôi vàng, ống chân lạnh; giá như phát sốt thì là Lịch
Tiết.
- Vị chua tổn thương làm Gân giản, Vị mặn tổn thương xương làm xụi: Bào Thủy nhập các
Thủ Kinh cho nên làm Tiết; các Thủ Kinh không Bào Huyết cho nên bệnh khô.
- Huyết bị Thủy đánh bạt thì Huyết đoạn (không tới) mà Thủy Tiết (qua) gọi là Đoạn Tiết.
- Vinh Vệ đều yếu, Tam Tiêu trên dưới không có quyền thống ngự.
- Bốn bên trong ngoài bị hại thì Khí Huyết không tới.
- Đổ mồ hôi vàng: Thủy Huyết giao khốn (chuyển hóa không được).
Bệnh Lịch Tiết không thể co duỗi, đau nhức, Ô đầu thang làm chủ, cũng có thể trị cước khí,
đau nhức không thể co duỗi.
60
Ô ĐẦU THANG PHƯƠNG
Dùng mật 2 thăng nấu Ô Đầu lấy 1 thăng,hoặc thay Đại Phụ Tử cũng được. 4 vị trước dùng 3
thăng nước nấu lấy 1 thăng bỏ bả, cho mật vào trong lại nấu tiếp, uống 7 cáp không thấy hiệu
quả thì uống hết luôn.
- Bệnh Lịch Tiết: Tức các chứng Lịch Tiết ở 4 Tiết trên.
- Đau nhức: chứng của Bào với các Thủ Túc Kinh.
- Bản phương có thể trị Lịch Tiết từ Nội đến Ngoại, cũng có thể trị cước khí từ Hạ đến Thượng.
Phàn Thạch 2 lạng - Tương thủy 1 đấu 5 thăng, nấu sôi 3 đến 5 dạo, dùng ngâm chân rất tốt.
* Đây, Bào Kinh từ Nội đến Ngoại làm Lịch Tiết, từ Hạ đến Thượng làm Cước Khí.
(Trên đây, chương thứ 5, 13 tiết, luận bệnh Trúng Phong Lịch Tiết)
61
TẠP BỆNH LUẬN QUYỂN III
_________________________________
LUẬN TÂM
Thầy đáp : Người giàu sang xương yếu mà da thịt đầy đặn, lại thêm mệt nhọc đổ mồ hôi, nằm
ngủ xoay trở không hợp lúc, bị thêm gió nhẹ bèn mắc phải. Chỉ nên căn cứ vào mạch tự Vi
Sáp tại Thốn khẩu, Quan thượng Tiểu Khẩn. Nên châm dẫn Dương Khí để mạch Hòa, mạch
Khẩn không còn thì bệnh lành.
- Xương yếu da thịt đầy đặn: Vinh Huyết không rót vào bên trong Tấu mà rót vào bên ngoài
Tấu.
62
- Lại nhân mệt nhọc đổ mồ hôi, nằm ngủ xoay trở không hợp lúc: Vệ Khí không gìn giữ ở ngoài
Tấu mà nhiểu loạn ở bên trong Tấu.
- Lại thêm tại Cách Âm Nhiệt Hư, cho nên bị gió nhẹ làm cho tại Tấu mắc chứng Huyết Tý.
- Mạch Vi Sáp tại Thốn khẩu: Tâm Kinh tại Cách thọ Dương Hàn.
- Quan thượng Tiểu Khẩn: Tâm Kinh Âm Nhiệt thọ Kết của Dương Hàn.
- Nên châm dẫn Dương Khí để cho Âm Nhiệt với Dương Hàn hòa nhau, mạch Khẩn không còn
thì bệnh lành.
Bệnh Huyết Tý mạch Âm Dương đều Vi, Thốn khẩu, Quan thượng, Xích trung Tiểu khẩn;
ngoại chứng thân thể mất cảm giác như trạng Phong Tý, Hoàng Kỳ Ngũ Vật thang làm chủ.
5 vị trên, nước 6 thăng nấu lấy 2 thăng, uống ấm 7 cáp, ngày 3 lần.
- Mạch Âm Dương đều Vi: Tại Cách Huyết Tý tức tại Tấu Huyết Tý.
- Thốn khẩu, Quan thượng, Xích trung Tiểu Khẩn: Thượng Hạ của Cách đều bị Huyết Tý.
- Chứng ngoài mình mẩy mất cảm giác như Trạng Phong Tý: Nội Ngoại của Tấu đều bị Huyết
Tý.
Phàm đàn ông bình thường, mạch Đại là Lao, mạch cực Hư cũng là Lao.
63
BẢN NGHĨA (6/3)
* Đây, Tâm Kinh tại Tấu làm Huyết Tý, tại Cách làm Hư Lao.
- Đàn ông: phân biệt với đàn bà; người bình thường: phân biệt với người bệnh. Ý nói đàn bà
thường Huyết Hư, người bệnh thì Huyết kém, không phải là chứng Huyết Tý Hư Lao.
- Mạch Đại: Âm Nhiệt chuyển sang Dương Hàn, Âm Dương hiệp bệnh cho nên mạch Đại là Hư
Lao.
- Mạch cực Hư:Tâm Kinh vốn là Âm Nhiệt không được Dương Hàn điều hòa, cho nên mạch cực
Hư.
- Cũng là Lao.
*Âm Dương ly thì bệnh, Âm Dương hiệp cũng bệnh, Học giả nên rõ.
Đàn ông sắc mặt nhợt nhạt, chủ bệnh Khát và mất máu; thình lình Suyễn,hồi hộp,mạch Phù là
Lý Hư.
. Dương hư không thể hóa Khí cho nên chủ bệnh khát.
. Dương hư thì Huyết mất chỗ dựa cho nên vong Huyết (mất máu).
. Dương hư thì Huyết Tý, làm trở ngại Khí nên Suyễn,Huyết kém thì Thần khiếp sợ nên hồi
hộp.
- Đây, tại Cách Huyết hư mạch Phù do Lý Tâm Tạng hư dẫn đến.
Đàn ông mạch Hư Trầm Huyền, không chứng Hàn Nhiệt, thở ngắn, Lý cấp, tiểu tiện không lợi,
sắc mặt trắng, có lúc mắt mờ kiêm chảy máu mũi, bụng dưới đầy, đấy là Lao làm ra như thế.
64
BẢN NGHĨA (6/5)
- Mạch Hư: Tại Tấu Âm Nhiệt Hư. Trầm là tại Biểu Dương Hàn nhập Tấu. Huyền là Dương Hàn
Âm Nhiệt hiệp tại Tấu.
- Không chứng Hàn Nhiệt, thở ngắn, Lý cấp (trong bụng co thắt): do Tấu nhập Cách.
- Tiểu tiện không lợi, sắc mặt trắng: Tâm Kinh chuyển Dương Nhiệt xuống dưới, Âm Hàn lên
trên.
- Có lúc mắt mờ, kiêm chảy máu mũi, bụng dưới đầy: Tâm Kinh chuyển Âm Nhiệt lên trên,
Dương Hàn xuống dưới.
Lao ‘chi vi’ bệnh, mạch Phù Đại, tay chân bứt rứt, mùa Xuân Hạ nặng, mùa Thu Đông nhẹ,
dương vật lạnh, tinh tự ra, chân tê teo không thể đi lại. Đàn ông mạch Phù Nhược mà Sáp là
không sinh được con, Tinh Khí trong và lạnh.
- Tay chân bứt rứt: Âm Nhiệt hiệp Dương Hàn tại Biểu.
- Thu Đông nhẹ: Tâm Kinh theo thiên khí thâu liễm.
- Dương vật lạnh, tinh tự ra: bởi cớ từ Biểu Dương Hàn nhập Lý.
- Mạch Phù Nhược: Âm Nhiệt Hư. Sáp là Dương Hàn Nội kết.
- Là không sinh được con,tinh khí trong và lạnh:tại Cách Tâm Kinh chuyển Âm Nhiệt sang
Dương Hàn.
65
NGUYÊN VĂN (82)
Phàm người bệnh mất tinh kinh niên, bụng dưới gồng thắt, đầu dương vật lạnh, mắt xây
xẩm, tóc rụng, mạch cực Hư Khâu Trì là ỉa chảy, mất máu, mất tinh. Khám thấy các mạch Khâu
Động Vi Khẩn, con trai mất tinh, con gái mộng giao, Quế Chi Cam Thảo Long Cốt Mẫu Lệ thang
làm chủ.
Quế Chi, Bạch Thược, Sinh Khương mỗi vị 3 lạng, Cam Thảo 2 lạng
4 vị tán nhuyễn,uống nửa thìa phương thốn với rượu,ngày 3 lần, không hiệu quả thì tăng thêm
chút ít.
- Tâm Kinh chủ Cách,Thận Kinh chủ Đái,đồng là Kinh Thiếu Âm,đồng thọ Dương Hàn gọi là Thất
tinh gia.
- Bụng dưới gồng thắt, đầu dương vật lạnh: Tâm Kinh tại Đái chuyển Âm Nhiệt sang Dương
Hàn.
- Mắt xây xẩm, tóc rụng: Thận Kinh tại Cách chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn.
- Mạch cực Hư Khâu Trì: Tâm Kinh thọ Hàn, bệnh tới Tỳ,Can,Thận làm ỉa chảy, mất máu, mất
tinh.
- Khám thấy mạch Khâu Động Vi Khẩn: Tâm Kinh thọ Hàn,bệnh tới Tâm Bào Phế làm mất tinh,
mộng giao.
- Quế Chi Cam Thảo Long Cốt Mẫu Lệ thang: trị Tâm Kinh tại Cách thọ Hàn.
- Thiên Hùng tán: trị Tâm Kinh tại Đái thọ Hàn.
66
NGUYÊN VĂN (83)
Đàn ông bình thường mạch Hư Nhược Vi Tế thì hay đổ mồ hôi trộm. Người tuổi 50 mạch Đại
là có chứng Tý (tê đau) dọc hai bên sống lưng, lại thêm sôi ruột, Mã đao (kết hạch dưới nách),
Hiệp anh (kết hạch hai bên cổ), đều do lao sinh ra.
- Mạch Hư Nhược Vi Tế hay đổ mồ hôi trộm: Đây là mạch chứng còn tại Tâm Kinh chưa
truyền.
- Mạch Đại: là Âm Nhiệt của Tâm chuyển sang Dương Hàn mà truyền Kinh.
- Lại thêm sôi ruột,Mã đao,Hiệp anh: đều là chỗ Đốc Kinh đi qua,đều thọ Hư lao của Tâm mà
mắc phải.
Mạch Tiểu Trầm Trì gọi là thoát Khí, người bệnh nếu đi nhanh thì suyễn hen, tay chân nghịch
lãnh, bụng đầy, nặng nữa thì đi cầu lỏng, ăn không tiêu hóa.
- Mạch Tiểu: Tâm Âm Nhiệt Hư. - Trầm Trì: chuyển sang Dương Hàn.
- Tay chân nghịch lãnh: Huyết Tý tại Ngoại. - Bụng đầy: Huyết Tý tại Nội.
*Đều là Xung Kinh hành ở Nội Ngoại Thượng Hạ thọ Huyết Tý.
67
NGUYÊN VĂN (85)
Mạch Huyền mà Đại, Huyền là giảm (bớt), Đại là Khâu. Giảm thì là Hàn, Khâu thì là Hư, Hư
Hàn tương bác đó gọi là Cách, đàn bà thì sanh non, lậu hạ; đàn ông thì mất máu, di tinh.
- Hư Hàn tương bác tại Tấu, nay đổi thành tương kết đó gọi là Cách.
- Đàn bà thì sanh non, rong Huyết: Huyết Hàn kết thì không dưỡng thai nên ‘sanh non’; Huyết
Tý thì Thủy tự hành nên ‘lậu hạ’.
- Đàn ông thì mất máu, di tinh: Tâm Khí Hàn thì ‘Huyết vong’, Tâm Huyết Hàn thì ‘Thất tinh’.
Hư Lao Lý cấp (trong bụng co thắt), hồi hộp, chảy máu mũi, trong bụng đau, mộng tinh, tứ chi
ê nhức, tay chân nóng bứt rứt, yết khô, miệng ráo, Tiểu Kiến Trung thang làm chủ.
6 vị trên, nước 7 thăng nấu lấy 3 thăng bỏ bả, cho Di Đường vào, lại đặt lên lửa riêu riêu cho
tan, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần.
68
- Dương Hàn nhập Lý thì Quý (hồi hộp).
- Tay chân nóng bứt rứt, yết khô, miệng ráo: tại Tấu hiệp Dương Hàn Âm Nhiệt. - Tiểu Kiến
Trung thang làm chủ.
Hư Lao Lý cấp, các chứng không đủ, Hoàng Kỳ Kiến Trung thang làm chủ.
Tiểu Kiến Trung thang nguyên phương gia Hoàng Kỳ 1 lạng rưỡi.
. Cùng trị liệu Phế Hư tổn không đủ, bổ khí gia Bán Hạ 3 lạng.
- Các chứng không đủ: là Tâm Huyết tại Cách bất túc, nhất thiết Kinh Huyết bất túc, Hoàng Kỳ
Kiến Trung thang làm chủ.
- Thở ngắn, ngực đầy gia Sinh Khương: trị tại Cách chuyển sang Dương Hàn.
- Bụng đầy khứ Đại Táo gia Phục Linh 1 lạng rưỡi: Huyết không lợi là do Thủy, cho nên trị Thủy
tại Hạ phần.
- Cùng trị liệu Phế Hư tổn: trị Thủy tại Thượng phần.
69
NGUYÊN VĂN (88)
Hư Lao eo lưng đau, bụng dưới co thắt, tiểu tiện không lợi, Bát Vị Thận Khí hoàn làm chủ
(xem phương ở chương Phụ Nhơn Tạp Bệnh).
- Tiểu tiện không lợi: chuyển tại Đái Hạ, Bát Vị Thận Khí hoàn làm chủ.
Hư Lao các chứng bất túc, Phong Khí bách bệnh, Thự Dự hoàn làm chủ.
Thự Dự 30 phân, Nhân Sâm 7 phân, Bạch Truật 6 phân, Phục Linh 5 phân, Bạch Liễm 2 phân
A Giao 7 phân, Đại Táo 100 trái vi cao (làm cao), Cát Cánh 5 phân, Quế Chi 10 phân,
Sài Hồ 9 phân, Hoàng Đậu Uyển 10 phân, Cam Thảo 20 phân, Đương Qui 10 phân,
Bạch Thược 6 phân, Xuyên Khung 6 phân, Mạch Môn Đông 6 phân, Can Khương 5 phân,
Hạnh Nhân 6 phân, Phòng Phong 6 phân, Thần Khúc 10 phân, Địa Hoàng 10 phân
20 vị trên tán nhuyễn, làm hoàn mật to bằng viên đạn, uống 1 hoàn với rượu lúc bụng đói, 100
hoàn là 1 tể.
- Các Kinh đều tập trung tại Tấu, Tấu Hư bất túc thì các Kinh đều bất túc.
- Thiếu Âm là Nội Phong bao gồm hết thảy bệnh, Phong Khí trăm bệnh; sinh ra từ đó.
70
NGUYÊN VĂN (90)
Hư Lao hư phiền không ngủ được, Toan Táo Nhân thang làm chủ.
5 vị trên nước 8 thăng, trước nấu Táo Nhân giảm 2 thăng, cho các thuốc vào nấu lấy 3 thăng,
chia uống ấm 3 lần.
- Không ngủ được: Vinh Huyết Tý không cùng hòa hài với Vệ Khí.
5 chứng Lao cực hư gầy ốm, bụng đầy không ăn uống được; các chứng thương bởi ăn,
thương bởi ưu phiền, thương bởi uống, thương bởi phòng thất, thương bởi đói, thương bởi
lao nhọc, thương đến Kinh Lạc Vinh Vệ Khí; bên trong có càn Huyết, da thịt đóng vẩy, mặt
mắt đen tối. Phép chữa nên hoãn trung, bổ hư, dùng Đại Hoàng Già Trùng hoàn làm chủ.
Đại Hoàng 10 phân chưng, Đào Nhân 1 thăng, Hoàng Cầm 2 lạng Hạnh Nhân 1 thăng
Thược Dược 4 lạng, Cam Thảo 3 lạng, Can Địa Hoàng 10 lạng, Thủy Điệt 100 con,
Càn Tất 1 lạng, Tề Tào 1 thăng, Manh Trùng 1 phân, Già Trùng ½ thăng.
12 vị trên tán nhuyễn luyện mật hoàn to bằng hạt tiểu đậu, mỗi lần uống với rượu 5 hoàn, ngày
3 lần.
72
CHƯƠNG 7: PHẾ NUY – PHẾ UNG – KHÁI THẤU – THƯỢNG KHÍ
(13 Tiết, từ 92 đến 104)
LUẬN PHẾ
Hỏi rằng : Nhiệt tại Thượng tiêu nhân ho làm bệnh Phế Nuy.Bệnh Phế Nuy do đâu mắc phải ?
Thầy đáp : Hoặc do đổ mồ hôi, hoặc do ói mữa, hoặc do Tiêu khát, tiểu tiện lợi mà nhiều lần,
hoặc do đại tiện khó lại bị thuốc xổ làm cho tiêu chảy nhiều lần bị mất tân dịch cho nên mắc
phải.
Hỏi rằng : Thốn khẩu mạch Sác, người bệnh ho, trong miệng trái lại nhổ nước bọt đục là thế
nào ?
Nếu trong miệng khô ráo, ho thì trong ngực ngầm ngầm đau, mạch trái lại Sác Hoạt đó là Phế
Ung. Ho nhổ mủ máu, mạch Sác Hư là Phế Nuy; mạch Sác Thực là Phế Ung.
- Nuy là do Phế Kinh vong tân dịch dẫn đến, đầu mối của nó không phải một.
73
- Thốn khẩu mạch Sác, người bệnh ho: Phế tòng (theo) Âm Nhiệt.
- Trong miệng, trái lại nhổ nước bọt đục: Âm Hàn không lìa Âm Nhiệt, đó là bệnh Phế Nuy.
- Nếu như trong miệng ráo, ho thì trong ngực ngầm ngầm đau: Phế thọ Dương Hàn.
- Mạch trái lại Sác Hoạt: Dương Nhiệt không lìa Dương Hàn, đó là Phế Ung.
- Ho nhổ mủ máu: Nuy và Ung đều có chứng này, chỉ khác nhau là Nuy thuộc Âm mạch Sác Hư.
Ung thuộc Dương mạch Sác Thực.
Hỏi rằng : Xem mạch bệnh Khái nghịch, làm sao biết đó là bệnh Phế Ung ? Bệnh này đương
nhiên có mủ máu, đến lúc thổ ra thì chết, mạch đó thuộc loại nào ?
Thầy đáp : Thốn khẩu mạch Vi mà Sác; Vi là Phong, Sác là Nhiệt. Vi thì đổ mồ hôi, Sác thì sợ
lạnh. Phong trúng vào Vệ thì thở ra mà không hít vào. Nhiệt đến ở Vinh thì hít vào mà không
thở ra. Phong tổn thương Bì Mao, Nhiệt tổn thương Huyết Mạch. Phong ghé vào Phế thì
người bệnh ho, miệng khô, suyễn đầy, yết ráo, không khát, nhổ nhiều nước bọt đục, thỉnh
thoảng lạnh run; Nhiệt đến chỗ bệnh thì huyết bị ngưng trệ, chứa kết thành Ung Nùng, thổ ra
như cháo, bệnh đến lúc Nùng (mủ) thành thì chết.
- Khái nghịch là do Ngoại nhập Phế hoặc do Nội nhập Phế, Ung và Nuy đều có chứng này.
- Làm sao biết đó là Phế Ung? Bệnh này đương nhiên có mủ máu, đến lúc thổ ra thì chết: Ung
và Nuy đều có chứng chết khi thổ mủ máu.
- Mạch của nó thuộc loại nào? Đáp rằng Thốn khẩu mạch Vi mà Sác: Phế mạch.
- Sác thì sợ lạnh: Dương Nhiệt nhập Phế chuyển sang Âm Hàn.
74
- Phong trúng vào Vệ thì thở ra mà không hít vào được: Dương Hàn tại Ngoại, Phế không nạp
vào được.
- Nhiệt đến ở Vinh thì hít vào mà không thở ra được: Âm Nhiệt tại Nội, Phế không phát ra
được.
- Phong tổn thương Bì Mao: Dương phần Hàn Nhiệt thương Phế Ngoại.
- Nhiệt tổn thương Huyết mạch: Âm phần Hàn Nhiệt thương Phế Nội.
- Phong là gọi Dương Tà, Âm Tà cùng ghé vào Phế thì người bệnh ho: đó là chổ sở dĩ Ung Khái,
Nuy Khái giống nhau.
- Nhổ nhiều nước bọt đục, thỉnh thoảng lạnh run: cùng thọ Dương Hàn Âm Hàn.
- Nhiệt đến chổ bệnh thì Huyết bị ngưng trệ: cùng thọ Dương Nhiệt Âm Nhiệt.
- Chứa kết thành Ung Nùng: đó là Ung Nuy đều có chứng này, cho nên giống nhau.
- Mửa ra như cháo: Dương phần Hàn Nhiệt có thể thổ rồi giải.
- Mủ thành thì chết: Âm phần Hàn Nhiệt kết thành mủ thì chết.
Người bệnh kéo hơi lên, mặt phù thũng, thở cử động vai, mạch Phù Đại thì không trị được,
lại thêm ỉa chảy càng nặng.
- Mạch người bệnh Phù Đại là bất trị: Dương Hàn theo cùng nhập vào.
75
- Lại thêm ỉa chảy càng nặng: Âm Hàn cùng nhập.
Suyễn kéo hơi lên mà vật vã, đó là Phế trướng muốn làm Phong thủy, Phát hãn thì lành.
- Muốn làm Phong thủy: do Dương Kinh xuất Ngoại. Phát hãn thì khỏi.
Phế Nuy mửa bọt dãi mà không ho; người bệnh không khát ắt đái són, tiểu tiện nhiều lần; sở
dĩ như thế vì bởi trên Hư không chế được dưới. Đó là trong Phế lạnh, ắt xây xẩm, nhổ nhiều
nước dãi, nên dùng Cam thảo Càn Cương thang để Ôn. Nếu uống thang rồi mà khát là thuộc
chứng Tiêu khát.
2 vị xé nhỏ dùng 3 thăng nước, nấu lấy 1 thăng 5 cáp, bỏ bả, chia uống ấm 2 lần.
- Phế thọ Dương Hàn truyền Nhâm Kinh thì mửa bọt dãi mà không ho, không khát, đái són,
tiểu tiện nhiều lần.
- Nhâm Kinh thọ Dương Hàn truyền Phế thì trong Phổi lạnh, ắt xây xẩm, nhổ nhiều nước dãi.
- Nhâm Kinh và Phế thọ Dương Hàn nên dùng Cam Thảo Can Khương thang.
76
- Nhâm Kinh và Phế thọ Âm Nhiệt thì theo phép trị chứng Tiêu khát.
Ho mà kéo hơi lên, trong hầu như có tiếng gà nước, Xạ Can Ma Hoàng thang làm chủ.
9 vị trên, nước 1 đấu 2 thăng, trước nấu Ma Hoàng sôi 1 – 2 dạo, vớt bỏ bọt, cho các thuốc vào
nấu lấy 3 thăng, chia uống ấm 3 lần.
Ho nghịch kéo hơi lên,thỉnh thoảng mửa đàm đục, chỉ ngồi không ngủ được Tạo giác hoàn
làm chủ.
Tán bột luyện mật, làm hoàn to bằng hạt ngô đồng, uống mỗi lần 3 hoàn với táo cao. Ngày 3
đêm 1.
77
- Ho nghịch kéo hơi lên, thỉnh thoảng mửa đàm đục: Đốc Kinh truyền Phế.
Ho mà mạch Phù, Hậu Phác Ma Hoàng thang làm chủ. Ho mà mạch Trầm, Trạch Tất thang làm
chủ
9 vị trên, dùng 1 đấu 2 thăng nước, trước nấu Tiểu Mạch chín, bỏ xác, cho các thuốc vào nấu lấy
3 thăng, uống 1 thăng ngày 3 lần.
Bán Hạ ½ thăng
Cam Thảo, Hoàng Cầm, Nhân Sâm, Quế Chi mỗi vị 3 lạng
Trạch Tất 3 thăng (dùng nước chảy hướng Đông 5 đấu, nấu lấy 1 đấu 5 thăng).
Cho 9 vị trên vào trong thang Trạch Tất nấu còn 5 thăng, uống ấm 5 cáp, tới đêm thì hết.
- Mạch Phù : thọ Tấu Âm Nhiệt mà ho. Hậu Phác Ma Hoàng thang làm chủ.
- Mạch Trầm : thọ Tấu Dương Hàn mà ho.
- Trạch Tất thang làm chủ.
78
NGUYÊN VĂN (100)
Hỏa nghịch kéo hơi lên, yết hầu không lợi, dùng phép chỉ nghịch Hạ khí, Mạch Môn Đông
thang làm chủ.
Nhân Sâm, Cam Thảo mỗi thứ 1 lạng Ngạnh Mễ 3 cáp Đại Táo 12 trái
6 vị trên, nước 1 đấu 2 thăng, nấu lấy 6 thăng, uống ấm 1 thăng, ngày 3 đêm 1.
- Yết hầu không lợi: Phế Kinh tại Cách cùng thọ.
Phế Ung, Suyễn không nằm được, Đình Lịch Đại Táo Tả Phế thang làm chủ.
Đình Lịch rang vàng quết nhuyễn làm hoàn to bằng viên đạn Đại Táo 12 trái
Trước dùng 3 thăng nước nấu Đại Táo lấy 2 thăng bỏ xác, cho 1 viên Đình Lịch vào nấu lấy 1
thăng, uống hết 1 lần.
- Phế thọ các Dương làm Ung. Từ Dương đến Âm tức là từ Ung đến Nuy, cho nên Suyễn không
nằm được, Đình Lịch Đại Táo Tả Phế thang làm chủ.
79
NGUYÊN VĂN (102)
Ho mà ngực đầy, lạnh run, mạch Sác, yết khô, không khát, có lúc nhổ ra nước đục tanh hôi,
lâu ngày mửa mủ như cháo, đó là Phế Ung, Kiết Cánh Cam Thảo thang làm chủ.
Nước 3 thăng nấu lấy 1 thăng, chia uống ấm 2 lần thì mửa mủ máu.
- Không khát, có lúc nhổ ra nước đục tanh hôi: Âm Hàn nhập Phế chuyển sang Dương Hàn.
- Lâu ngày mửa mủ như cháo: Âm Nhiệt nhập Phế chuyển sang Dương Nhiệt.
- Đây là từ Âm chuyển Dương, từ Nuy chuyển Ung làm chứng Phế Ung, Cát Cánh Cam Thảo
thang làm chủ, mửa được mủ máu là có thể trị.
Ho mà kéo hơi lên đó là Phế trướng, người bệnh suyễn mắt như lồi ra, mạch Phù Đại, Việt Tỳ
gia Bán Hạ thang làm chủ.
6 vị trên, nước 6 thăng, trước nấu Ma Hoàng vớt bỏ bọt, cho các thuốc vào nấu lấy 3 thăng, chia
uống ấm 3 lần.
80
- Ho mà kéo hơi lên đó là Phế trướng: Các Dương nhập Phế.
- Suyễn mắt như lồi ra: Dương Hàn Dương Nhiệt cùng nhập Phế Kinh.
Phế trướng, ho mà kéo hơi lên, bứt rứt vật vã mà suyễn, mạch Phù là dưới Tâm có Thủy Khí,
Tiểu Thanh Long gia Thạch Cao thang làm chủ.
Ma Hoàng, Bạch Thược, Quế Chi, Can Khương, Tế Tân mỗi vị 3 lạng
Ngũ Vị Tử ½ thăng Bán Hạ ½ thăng Cam Thảo 2 lạng Thạch Cao 2 lạng
9 vị trên, nước 1 đấu, trước nấu Ma Hoàng vớt bỏ bọt, cho các thuốc vào nấu lấy 3 thăng.
Người mạnh uống 1 thăng, người gầy yếu thì giảm bớt, ngày 3 lần, trẻ con uống 4 cáp.
- Tiểu Thanh Long thang trị Dương Hàn gia Thạch Cao trị Dương Nhiệt.
(Trên đây, chương thứ 7, 13 tiết, luận bệnh Phế Nuy - Phế Ung - Khái Thấu -Thượng Khí)
81
TẠP BỆNH LUẬN QUYỂN IV
_________________________________
Thầy nói : Bệnh có Bôn Đồn (khí từ dưới lên như con heo con chạy), có thổ nùng (mửa mủ),
Kinh bố (sợ sệt), Hỏa tà. Bốn bộ bệnh đó đều do kinh sợ phát bệnh.
12 Kinh Lạc với Phủ Tạng đều như thế, chẳng phải riêng Tiểu Trường mới có.
- Đều do kinh sợ phát bệnh: nói Tiểu Trường có tính của Thủ Dương Hàn, cùng với tứ bộ bệnh,
đều phát bệnh do kinh sợ.
82
NGUYÊN VĂN (106)
Thầy nói : bệnh Bôn Đồn phát khởi từ bụng dưới xung lên yết hầu, lúc phát cơn người bệnh
muốn chết, rồi trở lại ngưng, đều do kinh khủng gây ra.
*Đây, Tiểu Trường Kinh tại Cách cùng với Thượng Hạ liên quan.
- Từ bụng dưới xung lên yết hầu: Tiểu Trường Kinh quán suốt Cách Thượng Hạ.
- Lúc phát cơn người bệnh muốn chết: bệnh tại Cách.
- Đều do kinh khủng gây ra: Kinh là thọ Tâm chứng tại Cách thượng. Khủng là thọ Thận chứng
tại Cách hạ.
*Nói rằng Tiểu Trường Kinh Thượng ‘tế’ Tâm Hỏa, Hạ ‘giao’ Thận Thủy.
Bôn Đồn, Khí xung lên ngực, bụng đau, vãng lai Hàn Nhiệt, Bôn Đồn thang làm chủ.
Cam Thảo, Đương Qui, Xuyên Khung, Hoàng Cầm, Bạch Thược mỗi vị 2 lạng
9 vị trên, nước 2 đấu nấu lấy 5 thăng, uống ấm 1 thăng, ngày 3 đêm 1.
*Đây,Tiểu Trường Kinh tại Tấu cùng với Nội Ngoại liên quan.
- Vãng lai Hàn Nhiệt: tại Tấu Bán Biểu. - Bôn Đồn thang làm chủ.
83
NGUYÊN VĂN (108)
Sau khi Phát Hạn, lại ‘Thiêu châm’ làm cho đổ mồ hôi, chỗ châm bị lạnh, nổi mụn đỏ ắt phát
Bôn Đồn, hơi từ bụng dưới xung lên Tâm ; cứu trên mụn mỗi chỗ một tráng, Quế Chi gia Quế
thang làm chủ.
5 vị trên, nước 7 thăng, dùng lửa nhỏ nấu lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng ngày 3 lần.
- Sau khi Phát hạn : trị Khí nhưng không trị Kinh.
- Thiêu châm làm cho đổ mồ hôi : trị Nhiệt Kinh mà không trị Hàn Kinh.
- Phát Bôn Đồn, Khí từ bụng dưới xung lên Tâm : Khí cùng với Kinh liên quan làm bệnh.
- Cứu trên mụn mỗi chỗ 1 tráng : trị sai thất của Thiêu châm.
- Quế Chi gia Quế thang : Phép trị Kinh Khí cùng bị Hàn.
Sau khi Phát Hạn, dưới rún hồi hộp muốn phát Bôn Đồn, Phục Linh Quế Chi Cam Thảo thang
làm chủ.
PHỤC LINH QUẾ CHI CAM THẢO ĐẠI TÁO THANG PHƯƠNG
Phục Linh ½ cân Quế Chi 4 lạng Cam Thảo 2 lạng Đại Táo 15 trái
Dùng Cam Lan Thủy 1 đấu, trước nấu Phục Linh giảm 2 thăng, cho các thuốc vào nấu lấy 3
thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng ngày 3 lần.
84
BẢN NGHĨA (8/5)
*Đây, Tiểu Trường Khí cùng với Kinh Lạc liên quan.
- Phục Linh Quế Chi Cam Thảo Đại Táo thang làm chủ: phép chế Cam lan thủy xem ở Thái
Dương thiên trung (Thương Hàn Luận).
(Trên đây, chương thứ 8, 5 tiết, luận bệnh Bôn Đồn Khí).
85
CHƯƠNG 9: HUNG TÝ – TÂM THỐNG – ĐOẢN KHÍ
(9 Tiết, từ 110 đến 118)
LUẬN ĐỞM
Thầy nói : Phàm xem mạch nên xét chỗ thái quá, bất cập. Dương mạch Vi Âm mạch Huyền
tức là Hung Tý Tâm thống.
Sở dĩ như thế là trách lỗi, tại cực hư. Dương mạch hư, biết tại Thượng tiêu làm ra Hung Tý
Tâm thống, bởi cớ Âm mạch Huyền.
- Xem mạch là nắm lấy chỗ thái quá, bất cập của Âm Dương.
- Đấy là chứng Hung tý Tâm thống, trách lỗi tại Đởm Kinh Dương Khí bất cập.
- Tại Thượng Dương Khí hư thì Hung tý Tâm thống, bởi vì tại Hạ Âm mạch Huyền.
Người bình thường không nóng lạnh, hơi ngắn không đủ thở là Thực.
86
BẢN NGHĨA (9/2)
- Không nóng lạnh: Đởm tại Bán Biểu không thọ Dương phần Hàn Nhiệt.
- Hơi ngắn không đủ thở: Đởm tại Bán Lý thọ Âm phần Hàn Nhiệt.
Hung tý ‘chi vi’ bệnh, suyễn thở, ho khạc, ngực lưng đau, hơi ngắn, Thốn khẩu mạch Trầm
mà Trì, bộ Quan mạch Tiểu Khẩn Sác, Quát Lâu Giới Bạch Bạch Tửu thang làm chủ.
Quát Lâu thực 1 trái Giới Bạch ½ thăng Bạch Tửu 7 thăng
- Thốn khẩu mạch Trầm mà Trì: tại Cách thọ Dương Hàn.
Hung tý không nằm được, Tâm đau thấu đến lưng, Quát Lâu Giới Bạch Bạch Tửu Bán Hạ
thang làm chủ.
.
87
QUÁT LÂU GIỚI BẠCH BẠCH TỬU BÁN HẠ THANG PHƯƠNG
Quát Lâu thực 1 trái Giới Bạch 3 lạng Bạch Tửu 1 đấu Bán Hạ ½ thăng
- Không nằm được: Đởm Kinh tại sau lưng thọ Tà.
- Tâm đau thấu đến lưng: Đởm Kinh đi 2 mé bên thân (nối liền trước sau).
- Quát Lâu Giới Bạch Bạch Tửu Bán Hạ thang làm chủ.
Hung tý trong Tâm bỉ, Khí đọng lại Kết tại Hung, ngực đầy, dưới hiếp nghịch thượng đến Tâm,
Chỉ Thực Giới Bạch Quế Chi thang làm chủ; Nhân Sâm thang cũng làm chủ.
5 vị trên, nước 5 thăng, trước nấu Chỉ thực, Hậu phác lấy 2 thăng bỏ bả, cho các thuốc vào nấu
sôi vài dạo, chia uống ấm 3 lần.
Các vị trên, nước 9 thăng, trước nấu lấy 5 thăng, cho Quế Chi vào nấu lấy 3 thăng, uống ấm 1
thăng, ngày 3 lần.
* Đây, Đởm Kinh thọ Dương Hàn Âm Nhiệt tại Nội Ngoại của Tấu.
88
- Trong Tâm bỉ: thọ tại Tấu Nội.
- Khí đọng lại kết tại Hung: thọ tại Tấu Ngoại.
- Ngực đầy dưới sườn nghịch lên Tâm: thọ tại Tấu.
- Chỉ Thực Giới Bạch Quế Chi thang làm chủ: trị tại Tấu Ngoại.
- Nhân Sâm thang cũng làm chủ: trị tại Tấu Nội.
Hung tý, trong ngực Khí tắc, thở ngắn, Phục Linh Hạnh Nhân Cam Thảo thang làm chủ, Quất Bì
Chỉ Thực Sinh Khương thang cũng làm chủ.
3 vị trên, nước 1 đấu nấu lấy 5 thăng, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần, không bớt thì uống tiếp.
3 vị trên, nước 5 thăng nấu lấy 2 thăng, bỏ bả, chia uống ấm 2 lần.
* Đây, Đởm Kinh thọ Dương Hàn Âm Nhiệt tại thượng hạ của Cách.
- Tại Cách Thượng Phục Linh Hạnh Nhân Cam Thảo thang làm chủ.
- Tại Cách Hạ Quất Bì Chỉ Thực Sinh Khương thang làm chủ.
Chứng Hung tý hoặc Hoãn, hoặc Cấp, Dĩ Nhân Phụ tử tán làm chủ.
89
DĨ NHÂN PHỤ TỬ TÁN PHƯƠNG
2 vị trên tán nhuyễn, uống mỗi lần 1 thìa phương thốn, ngày 3 lần.
- Thọ Dương Nhiệt thì Hoãn, thọ Dương Hàn thì Cấp.
Trong Tâm bỉ, các chứng nghịch Tâm đau như bị treo, Quế Chi Sinh Khương Chỉ thực thang
làm chủ.
3 vị trên, nước 6 thăng nấu lấy 3 thăng, chia uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần.
- Các chứng nghịch Tâm đau như bị treo: Đởm kết ở các Dương Kinh.
Tâm đau thấu lưng, lưng đau thấu Tâm, Ô Đầu Xích Thạch Chỉ hoàn làm chủ.
90
Ô ĐẦU XÍCH THẠCH CHỈ HOÀN PHƯƠNG
5 vị trên tán nhuyễn, hoàn mật to như hạt ngô đồng, trước khi ăn uống 1 hoàn, ngày 3 lần,
không thấy hiệu nghiệm thì tăng chút ít.
(Trên đây, chương thứ 9, 9 tiết, luận bệnh Hung Tý- Tâm Thống- Đoản Khí)
91
CHƯƠNG 10 : PHÚC MÃN – HÀN SÁN – TÚC THỰC
(26 Tiết, từ 119 đến 144)
Mạch Phu Dương Vi Huyền, ‘Pháp đương’ bụng đầy; nếu không đầy ắt đại tiện khó, hai bên
sườn đau nhức, đó là Hư Hàn muốn từ dưới đi lên phải dùng thuốc ấm mà trị.
92
- ‘Pháp đương’ bụng đầy: Bởi cớ thọ Âm Hàn.
- Hai bên sườn đau nhức: Đại Trường tại Hạ nhưng Kinh hành ở Thượng.
Người bệnh bụng đầy, đè vào không đau là Hư, đau là Thực có thể cho Hạ, lưỡi vàng là chưa
được Hạ, Hạ rồi thì lưỡi vàng tự hết.
Bụng đầy có lúc giảm rồi trở lại như cũ đó là Hàn; phải uống Ôn dược.
- Rồi trở lại như cũ: Đầy tại Đại Trường, phải uống Ôn dược.
Người bệnh vàng da, héo úa, vật vã mà không khát, trong bụng Thực Hàn lại đi lợi không dứt
thì chết.
- Trong bụng thực Hàn lại đi lợi không dứt thì chết: vì cớ Đại Trường với Nhâm Kinh cùng thọ
Hàn.
Thốn khẩu mạch Huyền, dưới sườn co thắt mà đau, người bệnh ơn ớn sợ lạnh.
- Người bệnh ớn ớn sợ lạnh: Đại Trường với Xung Kinh cùng thọ Hàn.
Người bệnh trúng Hàn hay ngáp, chảy mũi nước trong, phát sốt, sắc hòa thì hay hắt hơi.
- Người bệnh Trúng Hàn: Nói Đại Trường thương phải Hàn thì phát Nhiệt.
- Hay hắt hơi: bệnh không tại Khí phần, chỉ tại 2 Kinh từ dưới mà đi lên.
Người trúng Hàn hạ lợi là vì Lý Hư. Muốn hắt hơi mà không được, đó là trong bụng lạnh.
94
BẢN NGHĨA (10/7)
Phàm người gầy, đau quanh rún ắt có Phong lãnh, cốc khí không vận hành mà trái lại cho Hạ,
Khí người bệnh ắt xung lên, nếu không xung lên thì dưới Tâm Bỉ.
- Người gầy: Đại Trường hư. - Đau quanh rún: Xung Kinh hư.
- Tất có Phong lãnh tại Xung Kinh, bởi cớ Cốc Khí tại Đại Trường không vận hành.
- Cho Hạ thì Khí ắt xung lên: Đại Trường hiệp Xung Kinh mà đi lên.
- Nếu không xung lên thì làm Bỉ: Đại Trường hiệp Xung Kinh tại Hạ làm Bỉ.
Bụng đầy phát sốt 10 ngày, mạch Phù mà Sác, ăn uống như thường, Hậu Phác Thất Vật thang
làm chủ.
Hậu Phác ½ cân Đại Táo 10 trái Chỉ Thực 5 quả Quế Chi 2 lạng Sinh Khương 5 lạng
7 vị trên, nước 1 đấu, nấu lấy 4 thăng bỏ bả, uống ấm 8 cáp, ngày 3 lần.
* Đây, Đại Trường thọ Dương Hàn Âm Nhiệt tại Tấu đến Đới
- Bụng đầy phát sốt 10 ngày: Đại Trường Kinh đi từ Tấu đến Đới 1 chu trong Giáp Tý.
- Ăn uống như thường: bệnh không tại Tấu, Cách mà là tại Đới.
Trong bụng có Hàn Khí, sôi ruột, đau như cắt, ngực sườn nghịch đầy, ói mửa, Phụ Tử Ngạnh
Mễ thang làm chủ.
5 vị trên, nước 8 thăng, nấu đến gạo chín là thang được, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần.
* Đây, Đại Trường thọ Dương Hàn tại Biểu nhập Tấu
- Hàn Khí, ruột sôi, đau như cắt: Biểu Hàn đuổi Tấu Nhiệt.
- Ngực sườn nghịch đầy, ói mửa: Tấu Nhiệt thọ Biểu Hàn.
Đau bụng mà đại tiện không thông, Hậu Phác Tam Vật thang làm chủ.
96
HẬU PHÁC TAM VẬT THANG PHƯƠNG
Đại Hoàng 4 lạng Chỉ Thực 5 quả Hậu Phác 8 lạng Sinh Khương 5 lạng
Các vị trên, nước 1 đấu 2 thăng, trước nấu 2 vị giảm phân nửa nước, cho Đại Hoàng vào lại nấu
lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, lấy đi cầu được làm độ.
- Tấu Nhiệt bị Biểu Hàn bế cho nên đau. Hậu Phác Tam Vật thang làm chủ.
Đè tay vào dưới Tâm đầy đau, đó là Thực; phải cho Hạ, nên dùng Đại Sài Hồ thang.
8 vị trên, nước 1 đấu 2 thăng, nấu lấy 6 thăng, bỏ bả, lại nấu tiếp, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần.
* Đây, Đại Trường thọ Dương Hàn Âm Nhiệt tại Cách đến Đới
- Dưới Tâm đầy đau, đó là Dương Hàn Âm Nhiệt thực tại Cách mà đến Đới, phải cho Hạ, nên
dùng Đại Sài Hồ thang.
Bụng đầy không giảm, giảm không đáng kể, phải cho Hạ, nên dùng Đại Thừa Khí thang (xem
phương tại chương bệnh Kỉnh).
97
- Bụng đầy không giảm: tại Cách.
- Tại Cách đến Biểu cho nên giảm không đáng kể.
- Phải cho Hạ: Bệnh tại Nội nên Hạ, nên dùng Đại Thừa Khí thang.
Trong Tâm ngực rất lạnh và đau, không thể ăn uống, trong bụng đầy, khí xung lên xuất hiện ra
da, có đầu chân lên xuống, đau không thể sờ vào, Đại Kiến Trung thang làm chủ.
Xuyên Tiêu 2 cáp (sao bỏ mồ hôi) Can Khương 4 lạng Nhân Sâm 2 lạng
3 vị trên, nước 4 thăng nấu lấy 2 thăng, bỏ bả, cho Di Đường 1 thăng vào, dùng lửa nhỏ nấu còn
1 thăng rưỡi, chia uống ấm 2 lần. Sau thời gian khoảng nấu 1 bữa cơm, có thể ăn 2 thăng cháo.
Sau đó lại uống thuốc, phải ăn cháo nhừ 1 ngày và đắp chăn cho ấm.
* Đây, Đại Trường thọ Dương Hàn tại Biểu nhập Cách.
- Trong bụng đầy, Khí xung lên xuất hiện ra da: Nội Ngoại cùng bệnh.
- Có đầu chân lên xuống, đau không thể sờ vào: Thượng Hạ cùng bệnh.
Dưới một bên sườn đau, phát sốt mạch Huyền Khẩn, đó là Hàn, lấy thuốc ấm để Hạ nó, nên
dùng Đại Hoàng Phụ Tử thang làm chủ.
98
3 vị trên, nước 5 thăng nấu lấy 2 thăng, chia uống ấm 3 lần. Nếu người khỏe thì nấu lấy 2 thăng
rưỡi, chia uống ấm 2 lần. Sau khi uống thời gian khoảng như người bộ hành 4 -5 dặm thì uống
tiếp lần nữa.
* Đây, Đại Trường chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn, nguyên do của Hàn sán.
- Dưới một bên sườn đau, phát sốt: Đại Trường thọ Âm Nhiệt.
- Nên dùng Ôn dược để Hạ, Đại Hoàng Phụ Tử thang làm chủ.
Ô Đầu 2 lạng (bào) Tế Tân 1 lạng Phục Linh 4 lạng Bán Hạ 4 lạng
4 vị trên, tán nhuyễn hoàn mật to bằng hạt mè, Chu Sa làm áo, trước khi ăn, uống với rượu 3
hoàn, Ngày 2 đêm 1 lần, không thấy hiệu nghiệm thì tăng chút ít, lấy hiệu nghiệm làm mức độ.
* Đây, Hàn Sán chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn truyền Thủ Âm Kinh.
- Xích hoàn làm chủ: là nghĩa của Thủ Âm tại Thượng tiêu, lấy khí, lấy trấp biến hóa ra màu đỏ,
lại dùng Chu Sa làm áo.
Bụng đầy mạch Huyền mà Khẩn, Huyền thì Vệ Khí không hành tức sợ lạnh, Khẩn thì không
muốn ăn, Tà Chính tương bác tức làm Hàn Sán, Hàn Sán quanh rún đau, nếu phát hạn thì
Bạch Tân (nước tân dịch màu trắng) ra, tay chân lạnh móp, mạch Trầm Khẩn, Đại Ô Đầu tiển
làm chủ.
99
ĐẠI Ô ĐẦU TIỂN PHƯƠNG
Nước 3 thăng nấu lấy 1 thăng, bỏ bả, cho vào 3 thăng mật, cô lại cho hết thủy khí còn 2 thăng,
uống 7 cáp, người yếu uống 5 cáp, không bớt thì hôm sau lại uống, không nên một ngày uống 2
lần.
* Đây, Hàn Sán chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn truyền Thủ Dương Kinh.
- Âm Nhiệt là chính, Dương Hàn là tà, tương bác tức làm bệnh Hàn Sán.
Hàn Sán trong bụng đau đến sườn cũng đau, Lý cấp Đương Qui Sinh Khương Dương Nhục
thang làm chủ.
3 vị trên, nước 8 thăng nấu còn 3 thăng, uống ấm 7 cáp, ngày 3 lần.
100
. Hàn nhiều gia Sinh Khương thành 1 cân.
. Đau nhiều mà ói gia Quất Bì 2 lạng, Bạch Truật 1 lạng, gia thêm Sinh Khương, cũng
gia thêm nước 5 thăng, nấu lấy 3 thăng 2 cáp để uống.
* Đây, Hàn Sán chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn truyền Túc Tam Âm.
Hàn Sán trong bụng đau, lạnh móp, tay chân tê mất cảm giác, nếu như mình đau nhức, châm
cứu và các thuốc không trị được, Ô Đầu Quế Chi Để Đương thang làm chủ.
Ô Đầu 5 củ - 1 vị này dùng 2 thăng mật cô giảm phân nửa, bỏ bả, lấy 5 cáp Quế Chi thang hiệp
với Ô Đầu thành 1 thăng hòa đều để uống. Lúc đầu uống 2 cáp, thấy không hiệu quả thì uống 3
cáp, lại thấy không hiệu quả nữa thì gia thêm đến 5 cáp. Hiệu nghiệm thì như người say, mửa
được là trúng bệnh.
* Đây, Hàn Sán chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn truyền Túc Tam Dương.
- Châm cứu và các thuốc không trị được: Thủ Túc cùng bệnh, Kinh Lạc cùng bệnh vậy.
Mạch Sác mà Khẩn, lại Huyền trạng như dây cung, đè vào không dời chỗ. Mạch Huyền Sác thì
nên cho Hạ cái lạnh. Mạch Khẩn Đại mà Trì thì dưới Tâm ắt phải cứng. Mạch Đại mà Khẩn là
trong Dương có Âm, có thể cho Hạ.
* Đây, Đại Trường thọ kết của Dương Hàn Âm Nhiệt làm Túc thực.
- Mạch Huyền Sác: là Âm Nhiệt nhiều hơn Dương Hàn, nên cho Hạ cái lạnh.
- Mạch Khẩn Đại mà Trì: là Dương Hàn nhiều hơn Âm Nhiệt; dưới Tâm ắt phải cứng.
- Mạch Đại mà Khẩn là trong Dương có Âm: là Dương Hàn Âm Nhiệt tương kết, nguyên do của
bệnh Túc thực, có thể cho Hạ.
Thầy đáp : Thốn khẩu mạch Phù mà Đại, án vào trái lại Sáp, bộ Xích cũng Vi mà Sáp, cho nên
biết có Túc thực, Đại Thừa Khí thang làm chủ.
* Đây, Đại Trường Kinh tại Nội Ngoại của Tấu làm Túc thực.
Túc thực là Dương Hàn Âm Nhiệt tương kết. Đó là chỗ phân biệt.
- Mạch Phù là Âm Nhiệt tại Tấu ra Ngoại. Đại là Âm Nhiệt xuất Ngoại hiệp Dương Hàn.
- Án vào trái lại Sáp: Dương Hàn tại Ngoại kết Âm Nhiệt ở Ngoại.
- Bộ Xích cũng Vi mà Sáp: Dương Hàn nhập Nội kết Âm Nhiệt ở Nội. Đó là Túc thực, Đại Thừa
Khí thang làm chủ.
.
102
NGUYÊN VĂN (140)
Mạch Sác mà Hoạt, đó là Thực. Như thế đoán có Túc thực, cho Hạ thì khỏi, nên dùng Đại
Thừa Khí thang.
- Mạch Sác mà Hoạt, đó là Âm Nhiệt Thực tại Tấu, Dương Hàn cũng Thực tại Tấu.
- Có mạch này tại Tấu tức có Túc thực tại Đại Trường, có thể đoán mà biết, cho Hạ nên dùng
Đại Thừa Khí thang.
Hạ lợi không muốn ăn, đó là có Túc thực, phải cho Hạ nên dùng Đại Thừa Khí thang.
* Đây, Đại Trường Kinh tại Thượng Hạ của Cách làm Túc Thực.
- Đó là Đại Trường Kinh tại Cách làm Túc thực, phải cho Hạ nên dùng Đại Thừa Khí thang.
Túc thực tại Thượng quản, phải cho Thổ nên dùng Qua Đế tán.
1 vị Qua Đế tán bột, dùng Hương Xị 7 cáp, nấu lấy nước cốt hòa với 1 thìa phương thốn thuốc
tán, uống ấm. Nếu không thổ gia thêm chút ít, lấy thổ được làm độ.
103
- Tại Cách phải cho Thổ nên dùng Qua Đế tán.
Mạch Khẩn như sơi dây chuyển vặn, vô thường là có Túc thực.
- Mạch Khẩn như sợi dây chuyển vặn: là mạch Dương Hàn Âm Nhiệt đều có.
Mạch Khẩn đầu đau có chứng Phong Hàn, trong bụng có Túc thực do không tiêu hóa.
* Đây, Đại Trường Kinh có Túc thực tại Biểu đến Lý.
- Mạch Khẩn, đầu đau có chứng Phong Hàn: Nói Thái Dương Thương Hàn có chứng mạch
Khẩn, đầu đau, Thiếu Âm Trúng Phong cũng có chứng mạch Khẩn, đầu đau.
- Bởi cớ có 2 chứng này, cho nên tại Đại Trường, trong bụng có Túc thực do không tiêu hóa, đó
là Túc thực từ Biểu đến Lý.
(Trên đây, chương thứ 10, 26 tiết, luận bệnh Phúc Mãn – Hàn Sán – Túc Thực)
104
CHƯƠNG 11: NGŨ TẠNG – PHONG HÀN – TÍCH TỤ
(21 Tiết, từ 145 đến 165)
18- Vỵ Quang Đởm tụ Khí tại Vỵ Trung quản rồi phân ra Thượng Hạ.
19- Tam Tiêu Đại Tiểu Trường tụ Khí tại Trung Tiêu rồi phân ra Thượng Hạ.
21- Phủ Tạng tích tụ Khí xuất làm mạch đều tùy theo Phế Vỵ.
105
NGUYÊN VĂN (145)
Phế Trúng Phong miệng ráo mà Suyễn, thân chuyển động mà nặng nề, đầu nặng, mắt tối mà
thũng trướng.
- Mạo (đầu nặng, mắt tối) mà thũng trướng: thọ tại Phế Lạc.
- Âm phần Hàn Nhiệt tích ở Phế cho nên mửa nước mũi đục.
- Trúng Hàn là gọi Âm Hàn Âm Nhiệt. Còn lại phỏng theo đó.
Phế Tử Tạng (Tạng Phế chết), mạch nó nhẹ tay thì Hư, ấn vào thì nhược như cọng hành, đi
xuống (bộ Xích), vô căn là chết.
- Ấn vào thấy nhược như cọng hành, vô căn là chết: Âm Nhiệt tại Nội Hư.
106
NGUYÊN VĂN (148)
Can Trúng Phong, đầu mắt máy giật, hai bên sườn nhức, lúc đi thường khờm lưng, người
bệnh thích ngọt.
- Hai bên sườn nhức: cùng thọ Dương Hàn Dương Nhiệt.
Bệnh Can Trúng Hàn, hai cánh tay không đưa lên được, lưỡi ráo, thường thở dài, trong ngực
đau không xoay chuyển được, ăn vào thì mửa mà đổ mồ hôi.
- Trong ngực đau không xoay chuyển được: Can liền Cách.
Mạch chết của Can, nhẹ tay thấy Nhược, ấn vào sợi dây không lại (không đi lại) hoặc uốn khúc
như rắn bò là chết.
107
- Nhẹ tay thấy nhược: Âm Nhiệt xuất Ngoại mà Hư.
- Như sợi dây không đi lại hoặc uốn khúc như rắn bò là chết: Âm Hàn thực ở Nội.
Người bệnh Can trước (có Huyết ứ tại gan) thường muốn được dẫm đạp lên ngực, trước khi
mắc bệnh chỉ muốn uống nóng, Triền Phúc Hoa thang làm chủ.
3 vị trên, dùng nước 3 thăng, nấu lấy 1 thăng, uống hết 1 lần.
- Can Huyết tý tại trên ngực, cho nên thường muốn được dẫm đạp.
- Chỉ muốn uống nóng: Can Huyết kết. Triền Phúc Hoa thang làm chủ.
Tâm Trúng Phong thì hâm hấp phát sốt, không đứng dậy được, trong Tâm đói, ăn vào liền ói
mửa.
108
NGUYÊN VĂN (153)
Tâm Trúng Hàn, người bệnh khổ sở như trạng ăn phải tỏi, nặng hơn thì Tâm đau thấu đến
lưng, lưng đau thấu đến Tâm, giống như có trùng bò, mạch người bệnh Phù, tự mửa được thì
lành.
- Khó chịu như Trạng ăn phải tỏi : Tâm Kinh tại Cách thọ Âm phần Hàn Nhiệt.
- Nặng hơn thì Tâm đau thấu đến lưng, lưng đau thấu đến Tâm: tại Cách đến Tấu.
- Mạch người bệnh Phù, tự mửa được thì lành: tại Tấu đến Biểu.
Tâm bị thương, người bệnh mệt nhọc thì đầu mặt liền đỏ và nặng trằn phần dưới, trong Tâm
đau mà tự bứt rứt, phát sốt, tại rún nhảy động, mạch người bệnh Huyền, đó là do Tâm bị
thương làm ra.
Mạch Tâm Tạng chết, nhẹ tay thấy thực như hạt đậu mè, ấn vào càng thấy táo tật (nhanh gấp)
là chết.
109
BẢN NGHĨA (11/11)
- Nhẹ tay thấy thực như hạt đậu mè: Âm Hàn nhập Tâm.
- Ấn vào càng thấy táo tật là chết: Đánh bạt Âm Nhiệt ra ngoài.
Bệnh Tà khốc, Hồn phách không yên là do Huyết Khí kém, Huyết Khí kém là thuộc về Tâm.
Tâm Khí hư thì người bệnh hay sợ, hễ nhắm mắt muốn ngủ thì chiêm bao thấy đi xa mà tinh
thần ly tán, Hồn Phách chạy bậy. Âm khí suy thì làm điên, Dương Khí suy thì làm cuồng.
- Sợ sệt mà muốn ngủ: Bào thọ Âm Hàn. Âm Hàn đánh bạt Âm Nhiệt tán mạn (tan tràn ra) ở
Tâm Can Tỳ Thận làm cho tinh thần hồn phách bất an.
- Bào Khí suy tại Cách các Dương Kinh làm cuồng.
Tỳ Trúng Phong, hâm hấp phát sốt, hình như người say, trong bụng khó chịu, nặng nề, da mắt
giật giật mà hơi thở ngắn.
110
- Trong bụng khó chịu, nặng nề : Tích Âm Khí.
Mạch chết của Tạng Tỳ, nhẹ tay thấy Đại kiên, ấn xuống thấy như chén úp trống rỗng, trạng
như lay động là chết.
- Nhẹ tay thấy Đại kiên (to cứng) : Âm Dương của Tỳ tự ra ngoài.
- Ấn xuống thấy như chén úp trống rổng, trạng như lay động : Âm Dương muốn thoát.
Mạch Phu Dương Phù mà Sáp, Phù thì Vỵ Khí cường, Sáp thì tiểu tiện khó, Phù Sáp tương bác
thì đại tiện rắn, Tỳ bị ước (bó buộc), Ma Nhân hoàn làm chủ.
Chỉ Thực ½ cân Hậu Phác 1 xích Hạnh Nhân 1 thăng bỏ vỏ nghiền thành mỡ.
6 vị trên tán nhuyễn hoàn mật to bằng hạt ngô đồng, uống với nước chín 10 hoàn, ngày 3 lần,
lấy hiệu nghiệm làm độ.
111
- Đại tiện rắn, Tỳ bị ước: Tỳ Kinh thọ Âm phần Hàn Nhiệt kết tại Cách Hạ Đái Thượng. Ma Nhân
hoàn làm chủ.
Bệnh Thận ‘Trước’, người bệnh thân thể nặng nề, trong eo lưng lạnh như trạng ngồi trong
nước, trái lại không khát, tiểu tiện tự lợi, ăn uống như thường, bệnh thuộc Hạ tiêu, thân thể
mệt nhọc, đổ mồ hôi. Ăn mặc để bị thấp lạnh lâu ngày dễ bị mắc phải, từ eo lưng trở xuống
lạnh đau, vùng bụng nặng nề như đeo mang năm ngàn đồng tiền, Cam Thảo Càn Cương Phục
Linh Bạch Truật thang làm chủ.
CAM THẢO CÀN CƯƠNG PHỤC LINH BẠCH TRUẬT THANG PHƯƠNG
4 vị trên, nước 5 thăng nấu lấy 3 thăng, chia uống ấm 3 lần, trong eo lưng liền ấm.
- Eo lưng lạnh như ngồi trong nước: tích tại Thận Lạc.
- Trái lại không khát, tiểu tiện tự lợi: tích tại Thận Kinh.
- Ăn uống như thường, bệnh thuộc Hạ tiêu: Thận tại Đái Hạ.
- Thân thể mệt nhọc, đổ mồ hôi: Thận liên quan tới Tâm.
- Vùng bụng nặng nề như đeo mang 5000 đồng tiền: chỗ của Thận ‘trước’.
- Cam Thảo Càn Cương Phục Linh Bạch Truật thang làm chủ.
Mạch chết của Tạng Thận, nhẹ tay thấy kiên (cứng), ấn xuống thấy như viên đạn loạn chuyển,
càng đi xuống bộ Xích là chết.
112
BẢN NGHĨA (11/17)
- Mạch thấy cứng đồng với mạch chết của Tỳ, khác với mạch chết của Can xem thấy Nhược. Có
thể căn cứ vào Bản Khí của Tạng mà xem xét.
- Ấn xuống thấy như viên đạn loạn chuyển: cùng với ấn xuống thấy trống rổng trạng như lay
động, lại có thể dựa vào phép tỷ giảo mà xem xét.
- Đi xuống bộ Xích là chết: cùng với mạch Phế đi xuống ‘vô căn’ là chết. Biết chỗ khác lại biết
chỗ đồng đều là tập sự khi học mạch.
Hỏi rằng : về bộ Tam Tiêu kiệt, Thượng Tiêu kiệt thì hay ợ hơi là tại sao ?
Thầy đáp : Thượng Tiêu thọ Khí của Trung Tiêu chưa hòa, không thể tiêu hóa thức ăn, cho
nên thường hay ở hơi đó thôi. Hạ Tiêu kiệt, đái dầm, són đái, Khí của nó bất hòa không thể
tự kiềm chế, không cần trị, lâu ngày thì khỏi.
*Đây,Túc Dương tụ Khí tại Vỵ Trung quản mà phân ra hành Thượng Hạ làm mạch.
- Đởm ở Thượng Tiêu thọ Trung Tiêu Vỵ Khí, Khí này kiệt thì không tiêu hóa thức ăn mà hay ợ
hơi.
- Bàng Quang tại Hạ Tiêu thọ Trung Tiêu Vỵ Khí, Khí này kiệt thì đái dầm và són đái.
- Phàm các Túc Dương Khí không hòa, không cần trị, chỉ đắc Trung Quản Vỵ khí hòa thì lành.
Thầy nói : Thượng Tiêu Nhiệt thì nhân ho làm bệnh Phế Nuy, Nhiệt tại Trung Tiêu làm chứng
‘Kiên’, Nhiệt tại Hạ Tiêu làm chứng đái ra máu, cũng làm chứng đái khó, đái không thông.Đại
Trường có Hàn thì làm chứng ỉa lỏng, phân như cứt vịt, có Nhiệt thì đại tiện ra chất bẩn của
ruột. Tiểu Trường có Hàn thì người bệnh mót rặn, đại tiện ra máu, có Nhiệt thì ắt bị bệnh Trĩ.
113
BẢN NGHĨA (11/19)
*Đây, các Thủ Âm từ Thượng mà xuống Hạ, các Thủ Dương từ Hạ mà lên Thượng đều do Tam
Tiêu phân bố làm mạch.
- Phế Nuy ở Thượng cùng với Trung Tiêu làm chứng ‘Kiên’ của Tâm bệnh; Hạ Tiêu, đái ra máu,
đái khó, đái không thông của Bào Kinh, đó là Thủ Âm Kinh đều thọ Âm Nhiệt tại Hạ đi lên
Thượng làm mạch.
- Đại Trường có Hàn làm ỉa chảy, phân như cứt vịt, có Nhiệt đại tiện ra chất bẩn của ruột,
cùng với Tiểu Trường có Hàn thì mót rặn, đại tiện ra máu, có Nhiệt thì ắt bị Trỉ; đó là các Thủ
Dương Kinh đều thọ Dương Hàn tại Thượng mà đi xuống Hạ làm mạch.
Thầy đáp : Tích là Tạng bệnh, Tụ là Phủ bệnh, phát tác có lúc, xoay chuyển, có dời đổi chỗ
đau, là có thể trị.
Nhẩm Khí là dưới sườn đau, ấn vào thì hết, rồi lại phát ra là Nhẩm Khí.
- Khí của Phủ Tạng phát tác hữu thời, thuận nghịch lưu chuyển đều có thường độ, phép nó
xem rõ ở Nội Nạn.
- Nhẩm Khí là Khí của thức ăn uống trong Vỵ từ dưới sườn phân bố khắp bộ phận bên ngoài,
rồi lại từ dưới sườn phân bố khắp bộ phận bên trong, ấn vào thì hết, rồi lại phát ra là Nhẩm
Khí, đó là nghĩa của nó.
Phép lớn xem các bệnh Tích, mạch đến Tế mà sát xương ấy là Tích. Thốn khẩu là tích tại Hung
Trung (giữa ngực), hơi ra khỏi thốn khẩu là tích tại Hầu trung (trong hầu), bộ Quan là tích tại
Tề bàng (bên rún), lên trên bộ Quan là tích tại Tâm Hạ (dưới Tâm), hơi xuống tại bộ Quan là
tích tại Thiếu phúc (bụng dưới), bộ Xích là tích tại Khí xung.
114
Mạch ra bên tả là tích tại tả, mạch ra bên hữu là tích tại hữu, mạch ra cả hai bên là tích tại
trung ương, mỗi mỗi đều theo bộ vị của nó mà xác định.
*Đây, Phủ Tạng Tích Khí làm mạch, mỗi mỗi đều tùy theo Bộ vị.
Thử xem bộ Quan với trên bộ Quan cùng dưới bộ Quan, đều là chỗ của Can Tỳ Thận, Đởm Vỵ
Bàng Quang tùy theo đó. Đến như: Tâm, Bào Phế, Vỵ tại Thượng mà Kinh hành ở Hạ; Tam Tiêu,
Đại Tiểu Trường, Vỵ tại Hạ mà Kinh hành ở Thượng tức là Thốn khẩu; hơi ra Thốn khẩu cùng là
bộ Xích đều có thể án tay mà thấy được.
Xem ở tiết Thượng Tiêu kiệt cùng với tiết Nhiệt tại Thượng Tiêu có thể biết.
Tóm lại Nam Dương mạch pháp biến thông, linh hoạt, có thể khéo quan sát mà nắm bắt được.
(Trên đây, chương thứ 11, 21 tiết, luận Ngũ Tạng – Phong Hàn – Tích Tụ)
115
TẠP BỆNH LUẬN QUYỂN V
_______________________________
LUẬN VỴ
116
19- Đàm Ẩm nhập Bào Tiêu.
Thầy đáp: Có Đàm Ẩm, có Huyền Ẩm, có Dật Ẩm, có Chi Ẩm.
Thầy đáp : Người bệnh vốn mập mạp nay gầy, có tiếng nước chảy rốc rách trong khoảng ruột,
gọi là Đàm Ẩm.
117
. Sau khi uống nước đọng lại dưới sườn, ho khạc dẫn đau gọi là Huyền Ẩm.
. Nước chảy gom về tứ chi, đáng lẽ ra mồ hôi mà không ra được, thân thể nhức nặng gọi
là Dật Ẩm.
. Ho nghịch phải ngồi dựa để thở, không nằm được hình dạng như thũng, gọi là Chi Ẩm.
- Vốn mập mạp nay gầy ốm: Vỵ Thủy hóa Khí ở Cơ cùng với không hóa Khí ở Cơ.
- Nước chảy trong khoảng ruột có tiếng rốc rách: không hóa Khí ở Cơ, trái lại nhập vào Lý làm
Đàm Ẩm.
- Nước đọng lại dưới sườn, ho khạc dẫn đau làm Huyền Ẩm: gọi là Thủy tại Cách.
- Nước chảy đến tứ chi không ra mồ hôi, thân thể nặng nề là Dật Ẩm: gọi là Thủy tại Bì.
- Ho nghịch phải ngồi dựa để thở, không nằm được: tại Tấu Âm Nhiệt thọ Dương Hàn.
- Hình dạng như thũng: Hàn đánh bạt Nhiệt ra ngoài làm Chi Ẩm, gọi là Thủy tại Tấu.
Thủy tại Tâm, dưới Tâm cứng, óc ách, hơi ngắn, sợ nước không muốn uống.
Thủy tại Phế, mửa nước bọt, nước dãi, muốn uống nước.
Thủy tại Can, dưới sườn đầy một bên, hắt hơi thì đau.
. Uống nước vào Vỵ không hóa Khí được, đọng lại làm Đàm Ẩm.
118
- Thủy tại Tâm hạ là tại Vỵ. Thủy ngưng đọng tại Vỵ Kinh thì kiên (cứng). Thủy hành Vỵ Kinh thì
trúc (óc ách). Thủy làm trở ngại hô hấp thì đoản khí (thở ngắn); trong Vỵ ứ đọng Thủy cho nên
sợ nước không muốn uống.
- Thủy tại Phế Kinh thì mửa ra nước dãi, nước bọt, mửa ra hết thì muốn uống nước.
- Thủy tại Tỳ Kinh hiệp Thấp, cho nên thiếu hơi, mình nặng.
- Thủy tại Can Kinh hiệp Phong, cho nên dưới sườn đầy một bên, hắt hơi thì đau.
- Vỵ Thủy nhập Thận Kinh, cho nên dưới Tâm hồi hộp.
Dưới Tâm có lưu Ẩm, lưng người bệnh có vùng lạnh bằng bàn tay. Người có lưu Ẩm đau dẫn
đến Khuyết bồn (hỏm vai), ho khạc được thì hết. Trong ngực có lưu Ẩm, người bệnh thở ngắn
hơi mà khát, các khớp tay chân nhức, mạch Trầm là có lưu Ẩm.
- Lưng có vùng lạnh bằng bàn tay: tại Biểu Dương Hàn Kinh thọ Vỵ Ẩm.
- Dưới sườn đau dẫn đến hỏm vai, ho khạc được thì hết: tại Biểu Dương Nhiệt Kinh thọ Vỵ
Ẩm.
- Thở ngắn hơi mà khát: tại Biểu Âm Nhiệt Kinh thọ Vỵ Ẩm.
- Tay chân nhức, mạch Trầm: tại Biểu Âm Hàn Kinh thọ Vỵ Ẩm.
Bệnh tại Cách Thượng, đầy nhiều đờm, ho mửa, phát bệnh nóng lạnh, lưng đau, eo lưng
nhức, nước mắt tự ra, người bệnh run run, mình máy giật, nặng hơn nữa thì có Phục Ẩm.
- Đầy nhiều đờm, ho mửa, phát bệnh nóng lạnh, lưng đau, eo nhức : tại Tấu các Dương Kinh
thọ Vỵ Ẩm.
119
- Nước mắt tự ra, run run,mình máy giật : tại Tấu các Âm Kinh thọ Vỵ Ẩm.
- Nặng hơn nữa thì có Phục Ẩm : Tấu thọ Vỵ Ẩm, gốc của Vỵ Ẩm phục (núp) tại Cách.
Người bệnh uống nước nhiều, ắt bạo phát suyễn đầy. Phàm ăn ít, uống nhiều, nước đọng lại
dưới Tâm, nặng thì làm hồi hộp, nhẹ thì làm hơi thở ngắn.
Mạch song Huyền (2 bên tay) là Hàn, đều do xổ mạnh làm Lý hư.
Bệnh Phế Ẩm mạch không Huyền, chỉ khổ sở vì thở suyễn ngắn hơi.
Bệnh Chi Ẩm cũng suyễn mà không nằm được, thêm thở ngắn hơi, mạch người ấy Bình.
- Uống nước nhiều, ắt bạo phát suyễn đầy: Vỵ Ẩm tại Cách Thượng.
- Ăn ít uống nhiều, nước đọng lại dưới Tâm: Vỵ Ẩm tại Cách Hạ.
- Mạch song Huyền là Vỵ có Ẩm, Cách cũng có Ẩm. Đó là vì sau khi xổ mạnh Vỵ và Cách đều
hư.
- Phế thọ Vỵ Ẩm mạch không Huyền, chỉ khổ sở vì thở suyễn ngắn hơi.
Nếu như thêm thở ngắn là Cách mạch Huyền cùng với Tấu mạch Huyền tương Bình.
*Nói Cách cùng với Tấu, Bộ vị rất gần, mạch chứng liền nhau, phép trị hơi giống nhau.
120
NGUYÊN VĂN (172)
Bệnh Đờm Ẩm nên dùng thuốc Ôn Dược để hòa dưới Tâm có Đờm Ẩm, ngực sườn đầy một
bên, mắt xây xẩm, Quế Chi Phục Linh Cam Thảo Bạch Truật thang làm chủ.
QUẾ CHI PHỤC LINH CAM THẢO BẠCH TRUẬT THANG PHƯƠNG
Quế Chi, Phục Linh, Bạch Truật mỗi vị 3 lạng Cam Thảo 2 lạng
4 vị trên, nước 6 thăng nấu lấy 3 thăng, chia uống ấm 3 lần, thì tiểu tiện được lợi.
- Bệnh Đàm Ẩm nên dùng ôn dược để hòa : Trị các Âm Kinh Thủy nhập Vỵ.
- Bệnh Đàm Ẩm ngực sườn đầy một bên, mắt xây xẩm: Trị các Dương Kinh Thủy nhập Vỵ.
- Quế Linh Cam Truật thang làm chủ: Lợi Thủy tại Thượng Tiêu, có thể thông dụng.
Phàm thở ngắn hơi là có chút ít Ẩm, phải trừ khử nó theo đường tiểu tiện, Quế Linh Cam
Truật thang làm chủ. Thận Khí hoàn cũng làm chủ (Phương xem ở chương Phụ Nhơn Tạp
Bệnh).
- Thở ngắn hơi là có chút ít Ẩm, phải trừ khử nó theo đường tiểu tiện : Phép trị Vỵ Ẩm thông
dụng.
- Quế Linh Cam Truật thang : trị Vỵ Ẩm nhập các Dương Kinh.
- Thận Khí hoàn cũng làm chủ : trị Vỵ Ẩm nhập các Âm Kinh.
Người bệnh mạch Phục, muốn tự lợi, lợi rồi trái lại dễ chịu, tuy lợi vẫn tiếp tục đầy cứng, đó
bởi vì có lưu Ẩm muốn được trừ đi, Cam Toại Bán Hạ thang làm chủ.
121
CAM TOẠI BÁN HẠ THANG PHƯƠNG
Bán Hạ 12 củ , Cam Thảo bằng ngón tay, chích (2 vị nước 1 thăng nấu còn ½ thăng, bỏ bả).
Dùng ½ thăng mật hòa với nước trấp của thuốc, cô lại còn 8 cáp, uống hết một lần.
- Vỵ thọ Thủy của các Âm Kinh do Tấu nhập Cách; cho nên mạch không thể từ Tấu ra Cách mà
Phục.
- Muốn tự lợi, lợi rồi trái lại dễ chịu: Ẩm tại các Thủ Âm được trừ.
- Tuy lợi vẫn tiếp tục đầy cứng: Ẩm tại các Túc Âm chưa được trừ.
Mạch Huyền Sác là có Hàn Ẩm. Mùa Đông mùa Hạ khó trị.
122
Đó là Âm Kinh có Hàn Ẩm.
Mạch Trầm mà Huyền là Huyền Ẩm, đau bên trong. Bệnh Huyền Ẩm, Thập Táo thang làm chủ.
Nguyên Hoa (rang), Cam Toại, Đại Kích các vị đồng phân lượng
3 vị trên, đâm nhỏ rây mịn, nước 1 thăng 5 cáp, trước nấu 10 trái Táo lớn lấy 8 cáp, bỏ bả, rồi
cho thuốc bột vào uống. Người khỏe uống 4 tiền chủy (thìa đồng tiền). Người gầy uống ½ tiền.
Sáng sớm uống ấm, không Hạ thì sáng hôm sau lại uống gia thêm nửa tiền, cho được lợi dễ
dàng, dùng cháo nhừ để tự dưỡng.
*Đây, Tại Tấu các Dương Kinh Thủy do Cách nhập Vỵ.
- Mạch Trầm: Dương Khí phục (ẩn núp), mà Huyền : Thủy Ẩm thực.
- Huyền Ẩm, đau bên trong: Ý nói các Dương Kinh do Tấu Huyền hệ (treo buộc) ở Cách, là chỗ
Đàm Ẩm đọng lại. Bệnh ở chỗ này dùng Thập Táo thang làm chủ.
Bệnh Dật Ẩm, phải cho Phát Hạn, Đại Thanh Long thang làm chủ, Tiểu Thanh Long thang cũng
làm chủ.
Ma Hoàng 6 lạng Hạnh Nhơn 40 hạt Đại táo 12 trái Sinh Khương 3 lạng
Quế Chi, Cam Thảo mỗi vị 2 lạng ; Thạch Cao to bằng trứng gà lớn.
7 vị trên, nước 9 thăng, trước nấu Ma Hoàng giảm 2 thăng, vớt bỏ bọt, cho các thuốc vào nấu
lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng cho ra mồ hôi rịn rịn, mồ hôi nhiều thì dùng ôn phấn để
xoa.
123
TIỂU THANH LONG THANG PHƯƠNG
Ma Hoàng khứ tiết (bỏ mắt), Thược Dược, Càn Cương, Cam Thảo chích, Tế Tân, Quế Chi
mỗi vị 3 lạng
8 vị trên, nước 1 đấu, trước nấu Ma Hoàng giảm 2 thăng, vớt bỏ bọt, cho các thuốc vào nấu lấy
3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng.
*Đây, tại Biểu các Kinh với Vỵ Ẩm hổ tương nhập vào nhau.
Phát hạn của Nhiệt Kinh nên dùng Đại Thanh Long thang.
Phát hạn của Hàn Kinh nên dùng Tiểu Thanh Long thang.
Chi Ẩm ở khoảng Cách, người bệnh suyễn đầy, dưới Tâm Bỉ cứng, sắc mặt đen tối, mạch
Trầm Khẩn, mắc phải vài mươi ngày, thầy thuốc đã cho Thổ Hạ vẫn không lành. Cho uống
Mộc Phòng Kỷ thang, người hư khỏi liền. Người thực, ba ngày sau lại phát, lại cho uống thuốc
như trước không khỏi, nên dùng bản phương, khứ Thạch Cao gia Phục Linh Mang Tiêu thang
làm chủ.
Mộc Phòng Kỷ, Quế Chi mỗi vị 3 lạng, Nhân Sâm 4 lạng, Thạch Cao (bằng trứng gà lớn) 2 miếng.
MỘC PHÒNG KỶ KHỨ THẠCH CAO GIA PHỤC LINH MANG TIÊU THANG PHƯƠNG
Mộc Phòng Kỷ, Quế Chi mỗi vị 3 lạng, Nhân Sâm 4 lạng, Phục Linh 4 lạng, Mang Tiêu 3 cáp.
5 vị trên, nước 6 thăng, nấu lấy 2 thăng, bỏ bả, cho Mang Tiêu vào lại nấu lửa nhỏ cho tan, phân
uống ấm 2 lần, hơi đi cầu được thì khỏi.
124
BẢN NGHĨA (12/13)
*Đây, tại Cách Vỵ Ẩm cùng với các Kinh hổ tương nhập vào nhau.
- Người bệnh suyễn đầy: Các Khí tại Cách thọ Vỵ Ẩm.
- Sắc mặt đen tối: Các Lạc tại Cách thọ Vỵ Ẩm.
- Mắc phải vài mươi ngày: Nói nhật kỳ của các Kinh hành tại Cách Thượng Hạ.
- Cho uống Mộc Phòng Kỷ thang, người Hư liền khỏi: Trị Vỵ Ẩm nhập các Kinh.
- Người thực không lành: Bởi vì các Kinh nhập làm Vỵ Ẩm.
Bản phương khứ Thạch Cao gia Phục Linh Mang Tiêu thang làm chủ.
Dưới Tâm có Chi Ẩm, người bệnh khổ vì xây xẩm, nặng đầu, tối mắt, Trạch Tả thang làm chủ.
2 vị trên, nước 2 thăng, nấu lấy 1 thăng, bỏ bả, chia uống ấm 2 lần.
- Thủy tại Thận thì khổ vì xây xẩm, nặng đầu, tối mắt.
- Chi Ẩm: Nói tại Tấu (sau này phỏng theo đó).
Chi Ẩm ngực đầy, Hậu Phác Đại Hoàng thang làm chủ.
3 vị trên, nước 5 thăng nấu lấy 2 thăng, bỏ bả, chia uống ấm 2 lần.
- Có thể thấy đạo lộ của 12 Kinh du nhập với nhau đều tại Tấu.
Chi Ẩm không thở được, Đình Lịch Đại Táo thang làm chủ (phương xem ở Phế Ung).
Ẩu gia (người thường ói) vốn khát, khát là muốn giải, nay trái lại không khát, là vì dưới Tâm
có Chi Ẩm, Tiểu Bán Hạ thang làm chủ.
2 vị trên, nước 7 thăng nấu lấy 1 thăng rưỡi, chia uống ấm 2 lần.
126
- Nay trái lại không khát: Đây là Vỵ Ẩm nhập Can.
Bụng đầy, miệng khô, lưỡi ráo, đó là vì trong ruột có Thủy Khí, Đình Lịch Phòng Kỷ Xuyên Tiêu
Đại Hoàng hoàn làm chủ, xảo tăng (hơi tăng thêm), trong miệng có tân dịch, khát thì gia Mang
Tiêu nửa lạng.
Đình Lịch, Phòng Kỷ, Xuyên Tiêu, Đại Hoàng mỗi vị 1 lạng
4 vị trên, tán nhuyễn luyện mật làm hoàn, to bằng hạt ngô đồng, trước khi ăn uống 1 hoàn,
ngày 3 lần.
- Bụng đầy, miệng khô, lưỡi ráo: Đó là trong Đại Tiểu Trường có Vỵ Ẩm, Lịch Kỷ Tiêu Hoàng
hoàn làm chủ.
- Xảo tăng: chứng trước do Khí không hóa. Chứng này là Thủy không hóa, cho nên trong miệng
có tân dịch mà vẫn khát, gia Mang Tiêu để trừ Thủy Ẩm.
Thình lình ói mửa, dưới Tâm Bỉ, trong Cách có Thủy Khí, xây xẩm, hồi hộp, Tiểu Bán Hạ gia
Phục Linh thang làm chủ.
3 vị trên, nước 7 thăng nấu lấy 1 thăng 5 cáp, chia uống ấm 2 lần.
127
- Thình lình ói mửa: Tiêu Bào Kinh tại Cách Thượng thọ Vỵ Ẩm.
- Dưới Tâm Bỉ: Tiêu Bào Kinh tại Cách Hạ thọ Vỵ Ẩm.
- Đó là trong Cách có Thủy Khí, nhập Bào thì xây xẩm, nhập Tiêu thì hồi hộp, Tiểu Bán Hạ gia
Phục Linh thang làm chủ.
Giả như người gầy, dưới rún hồi hộp, mửa bọt dãi mà chóng mặt, đó là bệnh Thủy, Ngũ Linh
tán làm chủ.
Trạch Tả 1 lạng 6 thù, Quế Chi ½ lạng, Trư Linh, Phục Linh, Bạch Truật mỗi vị 18 thù.
5 vị trên, tán nhuyễn, uống 1 thìa phương thốn với nước chín, ngày 3 lần. Uống nhiều nước ấm
ra được mồ hôi thì khỏe.
- Dưới rún hồi hộp : Bàng Quang tại Nội thọ Vỵ Ẩm.
- Mửa bọt dãi mà chóng mặt : Bàng Quang tại Hạ mà Kinh hành ở Thượng. Ngũ Linh tán làm
chủ.
Khái gia (người thường bệnh ho), mạch Huyền là có Thủy, Thập Táo thang làm chủ.
128
- Thập Táo thang làm chủ.
Có người bệnh Chi Ẩm, ho phiền, đau trong ngực, không chết ngay, kéo dài một tháng hoặc
nửa năm, nên dùng Thập Táo thang.
- Có người bệnh Chi Ẩm, ho phiền, đau trong ngực: nói Vỵ Ẩm tại trong khoảng Tấu Cách, qua
lại nhau cho nên ho phiền; lôi kéo nhau cho nên đau trong ngực.
- Kéo dài một tháng hoặc nửa năm: khác với chứng ho thuộc Phế, nên dùng Thập Táo thang.
Ho lâu vài năm, mạch Nhược là có thể trị, mạch Thực Đại Sác thì chết. Mạch Hư thì khổ vì
mạo (nặng đầu, tối mắt), bởi vì người bệnh vốn có Chi Ẩm ở trong ngực, phép trị thuộc Ẩm
gia.
- Ho lâu vài năm, mạch Nhược có thể trị: chứng hư của Vỵ Ẩm tại Cách.
- Mạch Thực Đại Sác thì chết: chứng thực của Vỵ Ẩm tại Cách.
- Mạch Hư thì khổ vì mạo: Vỵ Ẩm hư cho nên không nhập Tâm, chỉ tại Cách làm ra khổ vì mạo.
- Tại Cách là do Tấu mà đến, cho nên nói vốn có Chi Ẩm, phép trị nên thuộc Vỵ Ẩm gia tại Tấu.
Ho nghịch, phải dựa để thở, không nằm được, Tiểu Thanh Long thang làm chủ.
129
BẢN NGHĨA (12/24)
- Ho nghịch: Đốc Kinh tại lưng thọ Vỵ Ẩm tại ngực làm ra khái nghịch.
- Phải dựa để thở, không nằm được: Bởi cớ Đốc Kinh tại lưng có Ẩm, Tiểu Thanh Long thang
làm chủ.
Uống thang Tiểu Thanh Long rồi, người bệnh nhổ nhiều, miệng ráo, mạch Thốn Trầm, mạch
Xích Vi, tay chân nghịch lãnh, khí theo bụng dưới xung lên ngực và yết (họng nuốt), tay chân
tê, mặt nóng hâm hấp như trạng nười say, nhân đó chảy xuống mé trong đùi, tiểu tiện khó,
có lúc lại Mạo, Quế Chi Phục Linh Cam Thảo Ngũ Vị Tử thang làm chủ.
Quế Chi, Phục Linh mỗi vị 4 lạng, Cam Thảo 3 lạng, Ngũ Vị Tử ½ thăng
- Tiểu Thanh Long thang: trị Ẩm tại Đốc Kinh không phải trị tại Xung Kinh.
- Dương Nhiệt Trầm thì Âm Hàn thạnh, cho nên tay chân nghịch lãnh, Âm Nhiệt Vi thì Dương
Hàn nhập Nội.
- Khí theo bụng dưới xung lên ngực, họng: đó là Xung Kinh tại Nội thọ Ẩm.
- Tay chân tê, mặt nóng hâm hấp như trạng người say: đó là Xung Kinh tại Ngoại thọ Ẩm.
- Nhân đó chảy xuống mé trong đùi, tiểu tiện khó, có lúc lại mạo: đó là Xung Kinh trên dưới
thọ Ẩm, Quế Linh Cam Vị thang làm chủ.
130
NGUYÊN VĂN (191)
Xung Khí liền hạ xuống mà trái lại càng ho thêm, ngực đầy, dùng phương thang trên, khứ Quế
gia Càn Cương Tế Tân để trị chứng ho đầy.
Phục Linh 4 lạng, Ngũ Vị Tử ½ thăng, Tế Tân, Cam thảo, Càn Cương mỗi vị 3 lạng.
5 vị trên, nước 8 thăng nấu lấy 3 thăng, uống ấm ½ thăng, ngày 3 lần.
- Lại càng ho đầy: Vỵ Ẩm nhập Nhâm Kinh. - Linh Cam Vị Khương Tân thang làm chủ.
Nhâm mạch thọ Ẩm dùng Can Khương, trường hợp nào cũng thích nghi vậy.
Ho đầy liền dứt mà trở lại khát, xung Khí phát trở lại, vì bởi Càn Cương, Tế Tân là thuốc
Nhiệt, uống vào phải khát mà trái lại không khát là thuộc Chi Ẩm, ‘pháp đương’ mạo, mạo thì
ắt phải ói, ói thì lại cho Bán Hạ vào để trừ Thủy.
Tế Tân, Càn Cương mỗi vị 2 lạng, Bán Hạ, Ngũ Vị Tử mỗi vị ½ thăng
6 vị trên, nước 8 thăng nấu lấy 3 thăng, uống ấm ½ thăng, ngày 3 lần.
- Uống thuốc Nhiệt phải nên khát mà trái lại khát dứt là vì Xung Lạc thọ Ẩm.
- Xung Lạc thọ Ẩm ‘pháp đương’ mạo, mạo thì ắt ói: Mạo với ói đều là Xung Lạc thọ Ẩm, nên
lại cho thêm Bán Hạ để trừ Thủy Ẩm.
131
NGUYÊN VĂN (193)
Thủy trừ ói dứt, người bệnh thân hình thũng, dùng bản phương gia Hạnh Nhân thang làm
chủ. Chứng này nên cho thêm Ma Hoàng, nhưng vì người bệnh có chứng tê nên không cho
vào. Nếu như nghịch mà cho vào ắt phát quyết, bởi vì người bệnh Huyết Hư còn Ma Hoàng
thì ‘phát Dương’.
Phục Linh 4 lạng, Cam Thảo, Càn Cương, Tế Tân mỗi vị 3 lạng
7 vị trên, nước 1 đấu nấu lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm ½ thăng, ngày 3 lần.
- Dùng Bán Hạ trừ Ẩm tại Xung Lạc, cho nên Thủy trừ ói dứt.
- Nay thì Nhâm Lạc có Thủy Ẩm, cho nên hình như thũng, dùng bản phương gia Hạnh Nhân
thang làm chủ.
- Chứng này nên cho thêm Ma Hoàng vào mà không cho, bởi vì Nhâm Lạc Huyết hư thọ Ẩm,
còn Ma Hoàng thì phát Dương Khí ở trong Huyết.
Mặt nóng như trạng say rượu, đó là Vỵ Nhiệt xung lên mặt, gia Đại Hoàng để cho lợi.
LINH CAM VỊ TÂN KHƯƠNG BÁN HẠ HẠNH NHÂN GIA ĐẠI HOÀNG THANG PHƯƠNG
Phục Linh 4 lạng Cam Thảo 2 lạng Càn Cương, Tế Tân mỗi vị 3 lạng
Ngũ Vị Tử, Bán Hạ, Hạnh Nhân mỗi vị ½ thăng Đại Hoàng 2 lạng
8 vị trên, nước 1 đấu, nấu lấy 3 thăng, bỏ bả, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần.
132
- Mặt nóng như trạng say rượu: đó là Đốc Lạc thọ Vỵ Ẩm xung lên. Dùng bản phương gia Đại
Hoàng để cho lợi.
Trước khát rồi sau ói là Thủy đình dưới Tâm, đó là thuộc Ẩm gia, Tiểu Bán Hạ gia Phục Linh
thang làm chủ.
- Tiên khát là Vỵ Khí thọ Âm Nhiệt để làm Bản Khí, đó là ‘Kỳ tiên’.
- Âm Nhiệt hư thì Âm Hàn thực, nên Thủy đình dưới Tâm, đó là nguyên do của Đờm Ẩm.
(Trên đây, chương thứ 12, 30 tiết, luận bệnh Đàm Ẩm – Khái Thấu).
133
CHƯƠNG 13: TIÊU KHÁT – TIỂU TIỆN BẤT LỢI – LÂM BỆNH
(13 Tiết, từ 196 đến 208)
Khuyết Âm ‘chi vi bệnh’, Tiêu khát Khí xung lên Tâm, trong Tâm nhức nóng, đói không muốn
ăn, ăn thì mửa giun, cho Hạ thì lợi không dứt.
- Bàng Quang không thể tiêu Thủy mà khát với Khuyết Âm giống nhau.
- Cho Hạ thì lợi không dứt: bởi vì Khuyết Âm là Kinh cực Âm, là gốc của Hàn Khí.
134
NGUYÊN VĂN (197)
Thốn khẩu mạch Phù mà Trì, Phù tức là Hư, Trì tức là Lao, Lao thì Vệ Khí không đủ, Hư thì
Vinh Khí kiệt. Phu Dương mạch Phù mà Sác, Phù tức là Khí, Sác tức tiêu cơm mà ‘đại tiện rắn’,
Khí thạnh thì tiểu tiện nhiều, tiểu tiện nhiều thì ‘kiên’, kiên Sác tương bác tức làm Tiêu khát.
- Bàng Quang tại Tấu bộ thọ Âm Nhiệt ra ngoài nên Phù mà Hư, thọ Dương Hàn vào trong nên
Trì mà Lao.
- Dương Hàn bị Lao thì tại Tấu Ngoại Vệ Khí không đủ.
Thọ cái Sác của Âm Nhiệt nên tiêu cơm đại tiện rắn.
- Do đó Bàng Quang tại Lý bộ Khí thạnh mà tiểu tiện nhiều, tiểu tiện nhiều mà đại tiện rắn. Đại
tiện rắn cùng với tiểu tiện nhiều đồng thời làm bệnh, đó là nguyên do của chứng Tiêu khát.
Đàn ông tiêu khát, tiểu tiện trái lại nhiều, như uống nước một đấu, tiểu tiện cũng một đấu,
Thận Khí hoàn làm chủ (xem phương ở Chương Phụ Nhơn Tạp Bệnh).
- Đàn ông Tiêu khát: bệnh tại Âm Khí hư chẳng phải Âm Huyết hư.
- Uống nước một đấu, tiểu tiện cũng một đấu: Bàng Quang không được Âm Nhiệt Khí trợ giúp
nên không thể tiêu Thủy.
135
NGUYÊN VĂN (199)
Mạch Phù, tiểu tiện không lợi, hơi sốt, Tiêu khát, nên lợi tiểu tiện Phát hạn, Ngũ Linh tán làm
chủ (xem phương ở chương Đàm Ẩm).
Khát muốn uống nước, nước vào thì mửa, gọi là Thủy nghịch, Ngũ linh tán làm chủ.
- Khát muốn uống nước: các Dương Kinh Thủy không hóa.
- Nước vào thì mửa, gọi là Thủy nghịch: bởi vì các Dương Kinh hành Thủy, trái lại thọ Bàng
Quang Thủy, cho nên gọi Thủy nghịch. - Ngũ Linh tán làm chủ.
Khát muốn uống nước không thôi, Văn Cáp tán làm chủ.
Văn Cáp 5 lạng : 1 vị tán nhuyễn, dùng 5 cáp nước sôi, hòa 1 thìa phương thốn uống.
136
BẢN NGHĨA (13/6)
- Không thôi là Âm Kinh Thủy do Dương Kinh Thủy liên tục mà đến.
Lâm ‘chi vi’ bệnh, tiểu tiện trạng như hạt thóc, bụng dưới gồng thắt đau dẫn tới trong rún.
*Đây, Bàng Quang Thủy cùng với Thủ Âm chuyển nhập nhau.
- Tiểu tiện trạng như hạt thóc: Thủ Âm Kinh Thủy nhập Bàng Quang.
- Bụng dưới gồng thắt đau dẫn tới trong rún: Bàng Quang Kinh Thủy chuyển nhập Thủ Âm.
Phu Dương mạch Sác, trong Vỵ có Nhiệt tức là Tiêu khát dẫn tới phải uống, đại tiện ắt rắn,
tiểu tiện ắt nhiều lần.
*Đây, Bàng Quang Thủy cùng với Thủ Dương chuyển nhập nhau.
- Mạch Sác trong Vỵ có Nhiệt: Thủ Dương Kinh Thủy thọ Vỵ Nhiệt nhập Bàng Quang tức là Tiêu
khát dẫn đến phải uống.
- Đại tiện rắn,tiểu tiện nhiều lần: Bàng Quang Kinh thọ Vỵ Nhiệt chuyển nhập Thủ Dương.
Lâm gia (người vốn có bệnh đái khó) không nên Phát Hạn, Phát Hạn ắt tiểu tiện ra máu.
.
137
BẢN NGHĨA (13/9)
*Đây, Bàng Quang Thủy cùng với Túc Dương chuyển nhập nhau.
- Lâm gia: Túc Dương Kinh Thủy thọ Vỵ Nhiệt nhập Bàng Quang, cho nên không thể Phát hạn.
- Phát hạn ắt tiểu tiện ra máu: Bàng Quang Kinh Thủy thọ Vỵ Nhiệt chuyển nhập Túc Dương.
Tiểu tiện không lợi là có Thủy Khí, người bệnh khổ vì khát, Quát Lâu Cù Mạch hoàn làm chủ.
5 vị trên, tán nhuyễn luyện mật làm hoàn to bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 2 hoàn với nước
chín, nếu chưa thấy hiệu nghiệm thì tăng đến 7 - 8 hoàn, lấy tiểu tiện lợi trong bụng ấm, làm độ.
* Đây, Bàng Quang Thủy cùng với Túc Âm chuyển nhập nhau.
- Tiểu tiện không lợi có Thủy Khí: Túc Âm Kinh Thủy nhập Bàng Quang.
- Người bệnh khổ vì khát: Bàng Quang Kinh Thủy nhập Túc Âm.
Tiểu tiện không lợi, Bồ Khôi tán làm chủ, Hoạt Thạch Bạch Ngư tán làm chủ, Phục Linh Nhung
Diêm thang làm chủ.
2 vị tán nhuyễn, mỗi lần uống 1 thìa phương thốn, ngày 3 lần.
.
138
HOẠT THẠCH BẠCH NGƯ TÁN PHƯƠNG
Hoạt Thạch, Loạn phát (tóc rối), Bạch Ngư (Cá diếc) mỗi vị 3 lạng
Phục Linh ½ cân Bạch Truật 2 lạng Nhung Diêm to bằng viên đạn 1 viên
3 vị trên, trước nấu Phục Linh, Bạch Truật cho thành, rồi cho Nhung Diêm vào sắc tiếp, chia làm
3 lần uống ấm.
- Phàm tiểu tiện không lợi đều do Bàng Quang thọ Tấu Nhiệt.
- Tấu chủ Nhiệt Khí lại chủ hành Huyết. Bồ Khôi tán làm chủ: Thủy Huyết cùng trị.
Các Dương Kinh tại Tấu làm tiểu tiện không lợi, Hoạt Thạch Bạch Ngư tán làm chủ.
Các Âm Kinh tại Tấu làm tiểu tiện không lợi, Phục Linh Nhung Diêm thang làm chủ.
Khát muốn uống nước, miệng khô, lưỡi ráo, Bạch Hổ gia Nhân Sâm thang làm chủ. (xem
phương ở chương Kỉnh – Thấp - Yết ).
* Đây, Bàng Quang Kinh tại Cách Thượng cùng với các Dương Kinh.
- Miệng khô, lưỡi ráo: các Dương Kinh thọ Cách Nhiệt. Bạch Hổ gia Nhân Sâm thang làm chủ.
Mạch Phù, Phát sốt, khát muốn uống nước, tiểu tiện không lợi. Trư Linh thang làm chủ.
139
TRƯ LINH THANG PHƯƠNG
Trư Linh khứ bì (bỏ vỏ ngoài), Phục Linh, A Giao, Trạch Tả, Hoạt Thạch mỗi vị 1 lạng.
5 vị trên, nước 4 thăng, trước nấu 4 vị lấy 2 thăng, bỏ bả, cho A Giao vào hòa tan, uống ấm 7
cáp, ngày 3 lần.
* Đây, Bàng Quang Kinh tại Cách Hạ cùng với các Âm Kinh.
- Tiểu tiện không lợi: Bàng Quang Kinh thọ Tấu Nhiệt.
(Trên đây, chương thứ 13, 13 tiết, luận bệnh Tiêu Khát – Tiểu Tiện bất lợi – Lâm bệnh)
140
TẠP BỆNH LUẬN QUYỂN VI
__________________________________
141
NGUYÊN VĂN (209)
Thầy nói : bệnh có Phong Thủy, có Bì Thủy, có Chính Thủy, có Thạch Thủy, có Hoàng Hãn.
- Tại Cách làm Chính Thủy. - Tại Đái làm Thạch Thủy.
Phong Thủy mạch nó tự Phù, chứng ngoài là khớp xương đau nhức, sợ gió. Bì Thủy mạch nó
cũng Phù, chứng ngoài là mu bàn chân thũng, đè vào thì lún ngón tay, không sợ gió, bụng to
như cái trống, không khát nên Phát hãn. Chính Thủy mạch nó Trầm Trì, chứng ngoài là tự
suyễn. Thạch Thủy mạch nó tự Trầm, chứng ngoài là bụng đầy, không suyễn. Hoàng hãn mạch
nó trầm Trì, mình phát sốt, ngực đầy, tay chân đầu mặt thũng, lâu ngày không khỏi ắt phát
ung nùng (nhọt có mủ).
*Đây, Túc Dương Kinh hành Thủy cùng với Túc Âm Kinh hành Huyết chuyển chú nhau ở Nội
Ngoại.
- Phong Thủy mạch nó tự Phù: tại Ngoại Túc Dương Hàn Kinh Thủy thọ chú của tại Nội Túc Âm
Nhiệt Kinh Huyết.
Chứng ngoài là khớp xương đau nhức, sợ gió: Dương Thủy Âm Huyết tương hội tại Cơ.
- Bì Thủy mạch nó cũng Phù: tại Ngoại Túc Dương Nhiệt Kinh Thủy thọ chú của tại Nội Túc Âm
Hàn Kinh Huyết.
Chứng ngoài là mu bàn chân thũng, đè vào thì lún ngón tay: Nhiệt Thủy với Hàn Huyết
đều là Túc Kinh tại Hạ.
Bụng lớn như cái trống: Âm Hàn Kinh Huyết làm bệnh.
142
Không khát nên cho Phát hạn: bởi là Bì Thủy.
- Chính Thủy mạch nó Trầm Trì: tại Nội Túc Âm Hàn Kinh Huyết thọ chú của Túc Dương Nhiệt
Kinh Thủy.
Chứng ngoài là tự Suyễn: bởi vì Hàn Kinh thọ Thủy tại Cách.
- Thạch Thủy mạch nó tự Trầm: tại Nội Túc Âm Nhiệt Kinh Huyết thọ chú của Túc Dương Hàn
Kinh Thủy.
Chứng ngoài là bụng đầy, không Suyễn: bởi vì Nhiệt Kinh thọ Thủy tại Đái.
Mạch nó Trầm Trì: Dương Hàn nhập Tấu thì mạch Trầm. Tại Tấu Âm Nhiệt thọ phải thì
mạch Trì.
Tay chân, đầu mặt thũng: các Dương Thủy và các Âm Huyết hệ (ràng buộc nhau), do Tấu
mà làm ra thũng ở tay chân đầu mặt.
Mạch Phù mà Hồng, Phù thì là Phong, Hồng thì là Khí, Phong mạnh thì làm ẩn chẩn (mần đai),
thân thể bị ngứa, ngứa là do Phong rỉ ra, Phong lâu ngày thì làm da sần sùi.
Khí mạnh thì là Thủy làm cho khó cúi ngữa. Phong Khí hại nhau, thân thể phù thũng, mồ hôi
ra được thì khỏi. Sợ gió là hư, đó là Phong Thủy; không sợ gió, tiểu tiện thông lợi là Thượng
tiêu có Hàn, miệng có nhiều nước miếng đó là Hoàng hãn.
* Đây, Túc Dương Hàn Thủy Kinh tại Biểu Tấu Lý [Tấu Biểu] làm Phong Thủy.
- Phong mạnh thì làm ẩn chẩn, già lại (da sần sùi): Đây là tại Biểu chứng Phong Thủy bởi Âm
Nhiệt mạnh.
143
- Khí mạnh thì là Thủy làm cho khó cúi ngữa: Đây là tại Biểu chứng Phong Thủy bởi Dương Hàn
làm mạnh.
- Âm Nhiệt Kinh hệ ở Dương Hàn, Dương Hàn Kinh hệ ở Âm Nhiệt, vì thế thân thể phù thũng.
- Ra được mồ hôi thì khỏi: đó là tại Biểu chứng Phong Thủy bởi Dương Hàn Âm Nhiệt bình
(bằng nhau).
- Sợ gió là hư: đó là tại Tấu chứng Phong Thủy bởi Âm Nhiệt yếu.
- Không sợ gió, tiểu tiện thông lợi, Thượng Tiêu có Hàn, miệng có nhiều nước miếng: đó là tại
Tấu Dương Hàn cường (mạnh).
- Không gọi Phong Thủy mà gọi Hoàng Hãn, bởi vì chứng của nó tại Tấu.
Mạch Thốn khẩu Trầm Hoạt là bên trong có Thủy Khí, mặt mắt sưng to, có sốt gọi là Phong
Thủy. Nhìn thấy trên bao mắt người bệnh hơi sưng, trạng như con tầm mới ngủ dậy, mạch ở
cổ (mạch Nhân Nghinh) người bệnh động, thỉnh thoảng ho, ấn trên tay chân người bệnh thấy
lõm xuống mà không nổi lên, đó là Phong Thủy.
* Đây, Túc Dương Hàn Thủy Kinh tại Cách làm Phong Thủy.
- Mạch Thốn khẩu Trầm Hoạt: Trầm là Dương Hàn nhập Tấu, Hoạt là tại Tấu Âm Nhiệt, đó là
Dương Hàn Âm Nhiệt hệ nhau, bên trong có Thủy Khí.
- Mặt mắt sưng to, có sốt gọi là Phong Thủy: đó là tại Cách bởi Âm Nhiệt mạnh.
- Bao mắt hơi sưng và trên tay chân đè vào lõm xuống mà không thể nổi lên, đó là Phong
Thủy: đây là tại Cách Phong Thủy do bởi Dương Hàn mạnh.
Thái Dương Bệnh mạch Phù mà Khẩn, ‘pháp đương’ khớp xương đau nhức, trái lại không
nhức, thân thể trái lại nặng nề mà ê buốt, người bệnh không khát, ra được mồ hôi liền khỏi,
đó là Phong Thủy.
Sợ lạnh, đó là cực hư mắc phải do Phát hãn; khát mà không sợ lạnh, đó là Bì Thủy.
144
Mình nặng mà lạnh như trạng chu tý, trong ngực tắc nghẹn không ăn được, trái lại cái đau
dồn lại, chiều tối vật vã không ngủ được, đó là Hoàng hãn.
Đau tại khớp xương, ho mà suyễn không khát, đó là Phế trướng, trạng nó như thũng, Phát
hãn thì khỏi. Nhưng các bệnh đó, khát mà hạ lợi, tiểu tiện thường đều không thể Phát hãn.
* Đây, Túc Dương Nhiệt Thủy Kinh tại Biểu Tấu Lý làm Bì Thủy.
- Khẩn là tại Biểu hiệp Dương Hàn, hiệp thì pháp đương (đáng lẽ) khớp xương đau nhức:
‘pháp’ là Dương Hàn Âm Nhiệt làm tôn chủ.
- Trái lại không nhức, thân thể trái lại nặng mà ê buốt: Dương Nhiệt Âm Hàn làm bệnh, trái với
nó là Dương Hàn Âm Nhiệt làm bệnh, cũng không khác, pháp nó vốn như thế.
- Người bệnh không khát, ra mồ hôi bèn khỏi, đó là chứng Bì Thủy, bởi Dương Nhiệt Âm Hàn
cùng với chứng Phong Thủy, bởi Dương Hàn Âm Nhiệt không khác.
- Sợ lạnh, đó là cực hư mắc phải do Phát hãn: đó là chứng Bì Thủy bởi Dương Nhiệt Âm Hàn
tại Lý cùng với chứng Phong Thủy bởi Dương Hàn Âm Nhiệt tại Lý không khác. Vì lẽ đó Bì
Thủy tức là Phong Thủy, theo pháp vậy.
- Khát mà không sợ lạnh, đó là Bì Thủy tại Tấu, không chỉ tại Biểu tại Lý là vậy, tại Tấu cũng vậy.
- Mình nặng mà lạnh, trạng giống như Chu tý, trong ngực nghẹn tắc không ăn được: chứng tại
Tấu của Dương Nhiệt Âm Hàn cũng không khác với chứng của Dương Hàn Âm Nhiệt.
- Trái lại cái đau dồn lại, chiều tối vật vã không ngủ được: chứng tại Tấu Dương Nhiệt thắng
Âm Hàn cũng không khác chứng tại Tấu Âm Nhiệt thắng Dương Hàn.
- Đó là Hoàng hãn: tức là Bì Thủy tại Tấu bởi Dương Nhiệt cường làm ra Hoàng hãn, cũng
không khác với chứng Phong Thủy tại Tấu bởi Âm Nhiệt cường làm ra Hoàng hãn, không chỉ
như thế, chứng Phế trướng cũng vậy.
- Đau tại khớp xương: Dương Nhiệt Âm Hàn tại Tấu làm bệnh, Dương Hàn Âm Nhiệt làm bệnh
cũng vậy.
- Ho mà Suyễn, không khát: Âm Hàn thắng Dương Nhiệt tại Tấu làm bệnh, Dương Hàn thắng
Âm Nhiệt tại Tấu làm bệnh cũng như vậy.
.
145
Tóm lại tại Tấu Phong Thủy, Bì Thủy, Phế trướng các chứng, phàm:
Chủ Tấu Nhiệt Khí thắng mà thũng, có thể Phát Hãn thì khỏi.
Chủ Tấu Nhiệt Khí hư, khát mà hạ lợi, tiểu tiện thường thì đều không thể Phát hãn.
Bệnh Lý Thủy, cả mình, mặt mắt vàng thũng, mạch Trầm, tiểu tiện không lợi, cho nên bệnh
Thủy. Nếu như tiểu tiện tự lợi, đó là vong tân dịch, cho nên khát, Việt Tỳ gia Truật thang làm
chủ.
* Đây, Túc Dương Nhiệt Kinh Thủy tại Cách làm Lý Thủy.
- Lý Thủy: là nói ‘tùy bệnh sở tại’, tuy có 5 tên bệnh Thủy, kỳ thật chỉ một Lý Thủy.
- Cả mình, mặt mắt vàng thũng: Dương Nhiệt Thủy tại Cách ra Ngoại.
- Mạch Trầm, tiểu tiện không lợi: Dương Nhiệt Thủy tại Cách vào Nội.
- Cho nên Dương Nhiệt Thủy tại Cách ra vào làm bệnh Thủy.
- Nếu như tiểu tiện tự lợi, đó là Dương Hàn không tư trợ Dương Nhiệt tại Cách mà độc hành ở
Hạ, làm cho tại Cách vong tân dịch cho nên khát, Việt Tỳ gia Truật thang làm chủ.
*Nội Ngoại Thượng Hạ làm bệnh không là một nhưng Dương Nhiệt tại Cách thì là một, cho nên
dùng bản phương.
Phu Dương mạch ‘đương’ [đáng lẽ] Phục nay trái lại Khẩn là vốn tự có Hàn, Sán hà trong bụng
đau, Thầy thuốc trái lại cho Hạ liền bị ngực đầy, thở ngắn hơi; Phu Dương mạch ‘đương’ Phục
nay trái lại Sác là vốn tự có Nhiệt, tiêu cốc, tiểu tiện thường nay trái lại tiểu tiện không lợi, đó
là muốn làm bệnh Thủy.
* Đây, Dương Hàn Thủy với Dương Nhiệt Thủy cùng hành ở Thượng Hạ của Cách.
146
- Dương Hàn Kinh có Thủy thì mạch Phục tại Cách, nay trái lại Khẩn là gốc của Dương Hàn tại
Cách Hạ làm bệnh Sán hà, trong bụng đau, nay lại từ Cách Hạ mà đi lên Cách Thượng, nên
ngực đầy, thở ngắn hơi.
- Dương Nhiệt Kinh có Thủy thì mạch Phục tại Cách, nay trái lại Sác là gốc của Dương Nhiệt tại
Cách Thượng làm tiêu cốc, tiểu tiện thường; nay lại từ Cách Thượng mà đi xuống Cách Hạ,
nên tiểu tiện không lợi, muốn làm bệnh Thủy.
*Ý nói Dương Hàn Kinh Thủy từ Hạ lên Thượng. Dương Nhiệt Kinh Thủy từ Thượng xuống Hạ
cùng đi lại không trái nhau, sinh lý hành Kinh như vậy, bệnh lý hành Kinh cũng vậy.
Mạch Thốn khẩu Phù mà Trì, Phù thì là Nhiệt, Trì thì là Tiềm, Tiềm Nhiệt tương bác gọi tên là
Trầm. Mạch Phu Dương Phù mà Sác, Phù thì là Nhiệt, Sác thì là Chỉ, Nhiệt Chỉ tương bác gọi
tên là Phục.
Trầm Phục tương bác gọi tên là Thủy, Trầm thì Lạc mạch hư, Phục thì tiểu tiện nan (khó), hư
nan tương bác, Thủy chạy ở Bì Phu nên làm bệnh Thủy.
* Đây, Dương Hàn Thủy với Dương Nhiệt Thủy cùng hành ở Nội Ngoại của Tấu.
- Dương Hàn ‘bác’ Dương Nhiệt thì Dương Nhiệt Khí Trầm, do đó tại Tấu Ngoại có Thủy.
- Âm Hàn ‘bác’ Âm Nhiệt thì Âm Nhiệt Phục, do đó tại Tấu Nội có Thủy.
- Dương Nhiệt ở Tấu Ngoại Trầm. Âm Nhiệt ở Tấu Nội Phục, do đó ỏ Tấu có Thủy.
- Dương Nhiệt Trầm thì Lạc mạch hư. Âm Nhiệt Phục thì tiểu tiện nan, Lạc hư tiện nan là
nguyên do của Thủy chạy ở Bì Phu.
.
147
*Ý nói Dương Hàn Thủy từ Ngoại vào Nội,
Mạch Thốn khẩu Huyền mà Khẩn, Huyền thì Vệ Khí không hành, Khẩn thì sợ lạnh, Thủy không
chảy theo Kinh mà chạy ở trong ruột.
- Thủy không theo Tam Tiêu Kinh mà hành tẩu (đi lại) ở trong Đại Tiểu Trường làm bệnh Thủy.
Thiếu Âm mạch Trầm mà Khẩn, Khẩn thì là đau, Trầm thì là Thủy, tiểu tiện khó.
148
NGUYÊN VĂN (219)
Xem thấy các loại mạch Trầm, nên trách là có Thủy, thân thể phù thũng nặng nề, bệnh Thủy
mạch ‘xuất’ là chết.
- Mạch Trầm, nên trách có Thủy: Túc Âm Kinh tại Nội có Thủy.
- Thân thể phù thũng nặng nề: Túc Âm Kinh tại Ngoại có Thủy.
- Bệnh Thủy mạch ‘xuất’ (Phù vô căn) là chết. Bởi Âm Nhiệt tại Nội hư mà ra hết ở ngoài.
Phàm người bệnh Thủy, dưới mắt như có con tằm nằm, mặt mắt tươi nhuận, mạch Phục.
Người bệnh Tiêu khát, bụng lớn, tiểu tiện không lợi, mạch Trầm tuyệt là có Thủy, có thể cho
Hạ.
- Người bệnh Thủy: Túc Dương Kinh hành Thủy mà trái lại bệnh Thủy.
- Dưới mắt như có con tằm nằm, mặt mắt tươi nhuận, mạch Phục: thọ Dương Nhiệt Thủy.
- Bụng lớn, tiểu tiện không lợi, mạch Trầm tuyệt: cùng thọ Dương Hàn Dương Nhiệt Thủy, có
thể cho Hạ.
Hỏi rằng : sau khi bệnh Hạ lợi, khát uống nước, tiểu tiện không lợi, bụng đầy, nhân đó thũng
là cớ sao ?
Đáp rằng : ‘pháp đương’ đó là bệnh Thủy. Nếu như tiểu tiện tự lợi, còn ra được mồ hôi, thì
tự khỏi.
149
BẢN NGHĨA (14/13)
- Sau khi Hạ lợi, khát uống nước: Dương Nhiệt Thủy tại Tấu.
- Tiểu tiện không lợi, bụng đầy, nhân đó thũng: Dương Hàn Thủy tại Tấu hiệp bệnh.
- ‘Pháp đương’ bệnh Thủy: Ý nói pháp trị Thủy tại Tấu.
Người bệnh Tâm Thủy, mình nặng, kém hơi, không nằm được, bứt rứt mà vật vã, âm vật
sưng thũng.
Người bệnh Can Thủy, bụng lớn không thể tự xoay chuyển, dưới sườn đau, thỉnh thoảng sinh
ra tân dịch chút ít, tiểu tiện tiếp tục thông.
Người bệnh Phế Thủy, tiểu tiện khó, mình thũng có lúc đi lỏng như phân vịt.
Người bệnh Tỳ Thủy, bụng lớn, tay chân khó chịu nặng nề, tân dịch không sinh, khổ vì ít hơi,
tiểu tiện khó.
Người bệnh Thận Thủy, bụng lớn, rún thủng, eo lưng đau, không đi tiểu được, âm vật ẩm ướt
như mồ hôi trên mũi trâu, chân lạnh đến gối, mặt trái lại gầy.
- Mình nặng, kém hơi, không nằm được: tại Lý Nhiệt Thủy nhập Tâm.
- Bứt rứt mà vật vã, âm vật thũng: tại Biểu Hàn Thủy hiệp nhập Tâm.
- Bụng lớn không thể xoay chuyển: tại Lý Nhiệt Thủy nhập Can.
Dưới sườn đau, thỉnh thoảng tân dịch sinh chút ít, tiểu tiện tiếp tục thông: tại Biểu
Hàn Thủy hiệp nhập Can.
- Tiểu tiện khó, mình thũng: tại Lý Nhiệt Thủy nhập Phế.
150
Có lúc đi lỏng như phân vịt: tại Biểu Hàn Thủy hiệp nhập Phế.
- Bụng lớn, tay chân khó chịu nặng nề, tân dịch không sinh: tại Lý Nhiệt Thủy nhập Tỳ.
Khổ vì thiếu hơi, tiểu tiện khó: tại Biểu Hàn Thủy hiệp nhập Tỳ.
- Bụng lớn, rún thũng, eo lưng đau, không đi tiểu được: tại Lý Nhiệt Thủy nhập Thận.
Âm vật ẩm ướt như mũi trâu luôn có mồ hôi, chân lạnh đến gối, mặt trái lại gầy: tại
Biểu Hàn Thủy hiệp nhập Thận.
Thầy nói : các loại bệnh có Thủy, từ eo lưng trở xuống thũng, nên lợi tiểu tiện; từ eo lưng trở
lên thũng, nên Phát hạn thì khỏi.
- Eo lưng trở xuống thũng, nên lợi tiểu tiện: Phép trị Thủy tại Cách Hạ.
- Eo lưng trở lên thũng,Phát hạn thì khỏi: Phép trị Thủy tại Cách Thượng.
Thầy nói : Thốn khẩu mạch Trầm mà Trì, Trầm thì là Thủy, Trì thì là Hàn, Hàn Thủy tương bác.
Phu Dương mạch Phục, cơm nước không tiêu, Vỵ Khí suy thì thân thũng.
Thiếu Dương mạch ‘Ti’ (nhược), Thiếu Âm mạch Tế, đàn ông thì tiểu tiện không lợi, đàn bà thì
Kinh Thủy không thông. Kinh hành Huyết, Huyết không lợi thì bị Thủy, tên gọi Huyết phần.
- Trầm là Thủy, Trì là Hàn: Dương Hàn Thủy nhập Âm Nhiệt Huyết tại Thượng phần.
151
- Mạch Phục, cơm nước không tiêu, Vỵ hư thân thũng: Dương Hàn Thủy nhập Âm Nhiệt Huyết
tại Trung phần.
- Thiếu Dương mạch ‘Ti’, Thiếu Âm mạch Tế, đàn ông tiểu tiện không lợi, đàn bà Kinh Thủy
không thông: Dương Hàn Thủy nhập Âm Nhiệt Huyết tại Hạ phần.
- Âm Nhiệt Kinh hành Huyết, Huyết không lợi thì bị Dương Hàn Thủy chú nhập (rót vào) gọi là
Âm Nhiệt Kinh Huyết phần thọ Thủy.
Thầy nói : Thốn khẩu mạch Trầm mà Sác, Sác thì là xuất, Trầm thì là nhập, xuất thì là Dương
thực, nhập thì là Âm kết.
Phu Dương mạch Vi mà Huyền, Vi thì không Vỵ Khí, Huyền thì không thở được.
Thiếu Âm mạch Trầm mà Hoạt, Trầm thì là tại Lý, Hoạt thì là Thực, Trầm Hoạt tương bác,
Huyết kết bào môn, chứng Hà không tả ra được, Kinh Lạc không thông, tên gọi Huyết phần.
Đó là Dương Nhiệt Kinh Thủy nhập cùng với Âm Hàn Kinh Huyết tại Thượng phần.
- Phu Dương mạch Vi thì không Vỵ Khí, mạch Huyền thì Thủy thạnh không thở được.
- Trầm Hoạt tại Hạ tương bác, Huyết kết bào môn, chứng Hà không tả: không trừ được chứng
Hà thì Kinh Lạc không thông, gọi là Dương Nhiệt Thủy nhập Âm Hàn Kinh Huyết phần.
152
NGUYÊN VĂN (226)
Thầy nói : Kinh Thủy dứt trước rồi sau bệnh Thủy, gọi là Huyết phần đó là khó trị.
Trước bệnh Thủy rồi sau Kinh Thủy mới dứt, gọi là Thủy phần,Kinh này dễ trị, cớ sao vậy ?
- Đốc Kinh thọ Thủy làm cho Kinh Thủy dứt trước rồi sau bệnh Thủy, gọi là Huyết phần thọ
Thủy.
- Đốc Kinh chủ hành Nhiệt Huyết của Tâm Thận, thọ Thủy thì khó trị.
- Xung Nhâm Kinh thọ Thủy làm cho trước bệnh thủy rồi sau Kinh Thủy mới dứt, gọi là Thủy
phần thọ Huyết.
- Xung Nhâm Kinh chủ hành Hàn Huyết ở Can Tỳ, thọ Thủy thì dễ trị, trừ được Thủy thì Kinh tự
ra.
Hỏi rằng : Người bệnh khổ vì Thủy, mặt mắt thân thể tay chân đều thũng, tiểu tiện không
thông, khi xem mạch không nói bệnh Thủy, trái lại nói đau trong ngực, Khí xung lên, yết giống
như bị nướng thịt, nên có chứng ho suyễn nhẹ, xét lại đúng như lời thầy, mạch nó thuộc loại
nào ?
Thầy nói : Thốn khẩu mạch Trầm mà Khẩn, Trầm là Thủy, Khẩn là Hàn, Trầm Khẩn tương bác
kết tại Quan Nguyên.
Lúc mới mắc còn nhẹ, nhiều năm không biết, sau khi Dương suy, Doanh Vệ phạm nhau,
Dương tổn Âm thịnh, kết Hàn động nhẹ, Thận Khí xung lên, yết hầu tắc nghẹn, dưới sườn
đau ngặt. Thầy thuốc cho là lưu ẩm nên cho là xổ mạnh, Khí dính lại không đi, bệnh chứng
không trừ, thầy thuốc lại còn cho thổ làm cho Vỵ hư, bứt rứt, họng khô muốn uống nước,
tiểu tiện không lợi, cơm nước không tiêu, mặt mắt tay chân phù thũng.
153
Lại uống Đình Lịch hoàn để xổ Thủy, ngay lúc đó có bớt chút ít, ăn uống quá độ thũng trở lại
như trước, ngực sườn đau khó chịu, tượng như Bôn đồn, chứng Thủy tràn lên thì nổi cơn ho
suyễn nghịch. Phải trước tiên công kích xung khí cho dứt rồi trị ho, ho dứt thì suyễn tự bớt.
Trị bệnh mới trước còn bệnh cũ trị sau.
- Mặt mắt thân thể tay chân đều thũng, tiểu tiện không thông: Thủy nhập các Lạc.
- Trong ngực đau: do từ Cách Lạc nhập chỗ liên hệ của Xung Nhâm Đốc Lạc.
- Khí xung lên, yết giống như bị nướng thịt, nên có chứng ho suyễn nhẹ: Thủy nhập Xung
Nhâm Đốc Lạc.
- Thốn khẩu mạch Trầm thì là Thủy: Dương Hàn Thủy nhập Tấu.
- Trầm Khẩn tương bác kết tại Quan Nguyên: 3 Kỳ Kinh một nguồn mà 3 nhánh.
- Lúc đầu bệnh còn đương tại Kinh Khí nên nhiều năm không biết.
- Vinh bị Vệ xâm phạm, Âm Nhiệt là Dương che chở bên ngoài, ngày càng hao tổn, Dương Hàn
là Âm ngày càng thạnh. Hàn kết Quan nguyên độn đến Thận Khí xung lên, yết hầu tắc nghẽn,
dưới sườn đau ngặt là Đốc Xung Nhâm Lạc bệnh.
- Thầy thuốc cho là lưu ẩm: nói Thủy tại Kinh Khí mà cho xổ mạnh; Khí cùng với Kinh Lạc ràng
buộc nhau không đi, bệnh không trừ.
- Lại thêm cho Thổ, Vỵ gia hư phiền: làm tổn thương Vỵ Khí là chủ ở Cách.
- Cơm nước không tiêu, mặt mắt tay chân phù thũng: tổn thương Nhâm Lạc.
- Lại uống Đình Lịch hoàn để xổ Thủy, lúc đó bệnh như hơi bớt, là vì vẫn trị Thủy tại Kinh Khí
nên không trị được Thủy trong Lạc.
154
- Ăn uống quá độ thũng trở lại như trước: Vỵ Khí lại thọ thương.
- Ngực sườn đau khó chịu, giống như Bôn đồn: Xung Nhâm Lạc lại thọ thương.
- Thủy tràn lên thì ho suyễn: Đốc Lạc lại thọ thương.
- Nên trước công kích Xung Khí cho dứt: trị Thủy Khí tại Lạc hệ ở Khí.
- Rồi trị đến ho, ho dứt thì suyễn tự bớt: trị Thủy Khí tại Lạc hệ ở Kinh.
- Trước trị bệnh mới sinh, rồi sau trị bệnh cũ do các Kỳ Kinh thọ Thủy Khí.
*Nguyên trước khi bệnh nói: mới đầu còn tại Kinh Khí và lúc thanh xuân Khí Huyết cường tráng
nên không biết. Đến tuổi trung niên, sau khi Dương suy Âm Nhiệt suy mà biến chứng đua nhau
sinh khởi, lại gặp thầy thuốc tầm thường không rõ nhân do của Khí Kinh Lạc, thấy bệnh ở đầu trị
đầu, thấy bệnh ở chân trị chân, chỉ trị ngọn không lưu tâm đến căn bản.
Phong Thủy mạch Phù, mình nặng đổ mồ hôi, sợ gió, Phòng Kỷ Hoàng Kỳ thang làm chủ, bụng
đau gia Bạch Thược (xem phương ở chương Kỉnh -Thấp – Yết , tiết 39).
- Đổ mồ hôi, sợ gió: Âm Nhiệt hư mà ra mồ hôi nên Dương Hàn nhập vào mà sợ gió.
- Phòng Kỷ Hoàng Kỳ thang làm chủ, bụng đau gia Bạch Thược: kiêm trị Âm Nhiệt.
Phong Thủy sợ gió, khắp mình sưng thũng, mạch Phù không khát, liên tục tự đổ mồ hôi, mình
không nóng lắm, Việt Tỳ thang làm chủ. Sợ gió gia Phụ Tử, Phong Thủy gia Bạch Truật.
155
VIỆT TỲ THANG PHƯƠNG
Ma Hoàng 6 lạng, Thạch Cao ½ cân, Cam Thảo 2 lạng, Sinh Khương 3 lạng, Đại Táo 12 trái
5 vị trên, nước 6 thăng, trước nấu Ma Hoàng vớt bỏ bọt, cho các thuốc vào nấu lấy 2 thăng, chia
uống ấm 3 lần. Sợ gió gia Phụ Tử 1 củ, Phong Thủy gia Bạch Truật 4 lạng.
- Liên tục ra mồ hôi mình không nóng lắm: Âm Nhiệt tại Tấu.
Bì Thủy làm bệnh tứ chi thũng, Thủy Khí rung động trong Bì Phu, Phòng Kỷ Phục Linh thang
làm chủ.
Phòng Kỷ, Hoàng Kỳ, Quế Chi mỗi vị 3 lạng Phục Linh 6 lạng Cam Thảo 2 lạng
* Đây, Thủy Khí từ Biểu vào Lý.(thọ Biểu Dương Hàn nhập vào mà làm bệnh Thủy).
- Nhiệt Thủy Khí tại Lý do Hàn Thủy ở Bì Phu nhưng có khác, trong Hàn có Nhiệt cho nên Bì Phu
rung động.
156
NGUYÊN VĂN (231)
Lý Thủy, Việt Tỳ gia Truật thang làm chủ (Việt Tỳ gia Truật xem ở trước). Cam Thảo Ma Hoàng
thang cũng làm chủ.
Nước 5 thăng, trước nấu Ma Hoàng vớt bỏ bọt, cho Cam Thảo vào nấu lấy 2 thăng, uống ấm 1
thăng, đắp chăn cho ra mồ hôi lại uống lần nữa. Cẩn thận không để bị gió lạnh.
* Đây, Thủy Khí từ Lý ra Biểu (thọ Lý Âm Nhiệt xuất ra mà làm bệnh Thủy).
Thủy ‘chi vi’ bệnh, mạch Trầm Tiểu thuộc Thiếu Âm, mạch Phù là Phong, là không có Thủy; hư
trướng là Khí, hai chứng này cho Phát hạn liền dứt. Mạch Trầm nên dùng Ma Hoàng Phụ Tử
Cam Thảo thang. Mạch Phù nên dùng Hạnh Tử thang.
3 vị trên, nước 7 thăng, trước nấu Ma Hoàng vớt bỏ bọt, cho các thuốc vào nấu 2 thăng rưỡi,
uống ấm 8 cáp, ngày 3 lần.
- Phàm Thủy bệnh mạch Trầm Tiểu: Thiếu Âm tại Tấu hư.
157
Phù là: Thiếu Âm tại Tấu thực.
- Mạch Trầm là Thiếu Âm tại Tấu có Thủy tức Nhiệt Khí yếu.
- Mạch Phù là Thiếu Âm tại Tấu có Khí tức Nhiệt Khí mạnh.
- Bì Thủy tức do Lý Thủy là tổng xưng của 5 chứng Thủy. - Bồ Khôi tán làm chủ.
Hỏi rằng : bệnh Hoàng hãn, thân thể thũng phát sốt, đổ mồ hôi mà khát như trạng Phong
Thủy, mồ hôi ra ướt áo màu thật vàng như nước trấp Hoàng Bá. Mạch tự Trầm do đâu mắc
phải ?
Thầy nói : vì lúc ra mồ hôi vào trong nước tắm rửa, nước theo lổ chân lông vào mà mắc bệnh,
nên dùng Hoàng Kỳ Bạch Thược Quế Chi Khổ Tửu thang làm chủ.
3 vị trên, dùng Khổ Tửu (dấm) 1 thăng, nước 7 thăng hiệp lại nấu còn 3 thăng uống ấm 1 thăng,
uống thuốc vào thì Tâm phiền đến 6 – 7 ngày thì giải, Tâm phiền không dứt là vì Khổ tửu làm trở
ngại.
158
BẢN NGHĨA (14/26)
* Đây, Túc Âm Huyết chú nhập Túc Dương Thủy tại Cách.
- Bệnh Hoàng hãn thân thể thũng: Huyết thũng không phải Thủy thũng.
- Trạng như Phong Thủy: Phong Thủy là Thủy nhập Huyết Kinh.
Hoàng Hãn là Huyết nhập Thủy Kinh, cho nên nói là ‘như ’.
- Mồ hôi ướt áo mà vàng như nước trấp Hoàng Bá: Huyết tại Cách thọ Thủy làm ra.
- Vì sao như vậy: Âm Huyết do Cách mà xuất, Dương Thủy do Cách mà nhập, Cách Khí hư
không thể bí biệt (lựa chọn chia riêng), Hoàng Kỳ Bạch Thược Quế Chi Khổ tửu thang làm
chủ.
Bệnh Hoàng hãn, hai ống chân tự lạnh, nếu như phát sốt đấy là thuộc Lịch tiết, ăn rồi đổ mồ
hôi lại thân thường ra mồ hôi trộm, đó là thuộc Vinh Khí.
Nếu như đổ mồ hôi rồi, trái lại phát sốt, lâu ngày thân mình ắt đóng vẩy, phát sốt không dứt
thì ắt sinh ác sang.
Nếu như mình nặng đổ mồ hôi rồi, thân liền nhẹ nhàng, lâu ngày ắt mình máy giật tức trong
ngực đau, lại nửa từ eo lưng trở lên ra mồ hôi, phía dưới không mồ hôi, eo lưng, khớp chân
đau rã rời trạng như có vật ở trong da, nặng hơn thì không ăn được, mình nhức nặng, bứt
rứt vật vã, tiểu tiện không lợi đó là Hoàng hãn, Quế Chi gia Hoàng Kỳ thang làm chủ.
Quế Chi, Bạch Thược mỗi vị 3 lạng Cam Thảo, Hoàng Kỳ mỗi vị 2 lạng
6 vị trên, nước 8 thăng nấu lấy 3 thăng, uống ấm 1 thăng, chốc lát húp 1 thăng cháo nóng để trợ
sức thuốc, đắp chăn cho hơi ra mồ hôi, nếu chưa ra mồ hôi lại uống tiếp.
.
159
BẢN NGHĨA (14/27)
* Đây, Túc Âm Huyết chú nhập Túc Dương Thủy tại Tấu.
- Ống chân lạnh phát sốt: đó là Bào Huyết thọ Thủy làm Lịch Tiết.
- Thân mình thường ra mồ hôi trộm: đó là Tâm Huyết thọ Thủy làm Vinh Khí.
- Đổ mồ hôi trái lại phát sốt, lâu ngày mình nổi vẩy, phát sốt không dứt sẽ sinh ác sang: đó là
tại Biểu Nhiệt Kinh Huyết thọ Thủy.
- Mình nặng đổ mồ hôi liền nhẹ, da thịt máy giật, trong ngực đau: đó là tại Biểu Hàn Kinh
Huyết thọ Thủy.
- Từ eo lưng trở lên có mồ hôi, dưới không mồ hôi, eo lưng, khớp chân đau rã rời, trạng như
có vật ở trong da: đó là tại Tấu Hàn Kinh Huyết thọ Thủy.
- Không ăn được, mình nặng bứt rứt vật vã, tiểu tiện không lợi: đó là tại Tấu Nhiệt Kinh Huyết
thọ Thủy. Như thế đều là chứng Hoàng hãn dùng Quế Chi gia Hoàng Kỳ thang làm chủ.
Thầy nói : thốn khẩu mạch Trì mà Sáp, Trì thì là Hàn, Sáp thì là Huyết không đủ.
Phu Dương mạch Vi mà Trì, Vi thì là Khí, Trì thì là Hàn, ‘Hàn khí bất túc’ thì tay chân nghịch
lãnh, tay chân nghịch lãnh tức là Vinh Vệ không lợi thì bụng đầy, ruột sôi đuổi nhau, Khí
chuyển Bàng Quang Vinh Vệ đều lao. Dương Khí không thông thì thân mình lạnh, Âm Khí
không thông thì xương nhức.
Dương thông trước thì sợ lạnh, Âm thông trước thì tê mất cảm giác, Âm Dương tương đắc
thì Khí mới hành; một lần Đại Khí chuyển thì Khí mới phân tán, thực thì đánh rấm, hư thì són
đái gọi là Khí phần.
* Đây, Túc Âm Huyết chú nhập Túc Dương Thủy tại Biểu tại Lý.
- Thốn khẩu mạch Trì là Hàn Thủy, mà Sáp là Huyết không đủ; đây là Huyết tại Thượng phần
thọ Thủy.
- Thủy nhập Huyết thì Huyết Hàn, Huyết thọ Thủy thì Khí bị trở ngại: gọi là ‘Hàn Khí bất túc’.
- Tại Hạ thì Thủy Huyết đuổi nhau, Khí chuyển Bàng Quang.
- Tại Thượng thì Thủy Huyết tương bác Vinh Vệ đều lao.
- Thủy Huyết tại Ngoại thọ Dương Hàn thì mình lạnh,
Dương Thủy Âm Huyết có tương đắc thì Khí của nó mới phân bố khắp châu thân.
- Đại Khí là Thiếu Âm Nhiệt Khí tại Tấu. Tại Tấu một lần đại Khí chuyển thì Khí này mới phân
tán ở Biểu Lý.
Cho nên, tại Tấu Nhiệt Khí thực thì bệnh Huyết làm ra đánh rấm.
Tại Tấu Nhiệt Khí hư thì bệnh Thủy làm ra són đái.
- Tên gọi Khí phần: Ý nói tại Tấu gồm hết Thủy Khí phần.
Khí phần, dưới Tâm như cái mâm, bìa như vành mâm, Quế Chi Phụ Tử Ma Hoàng Tế Tân Sinh
Khương Đại Táo Cam Thảo thang làm chủ.
QUẾ CAM TÂN KHƯƠNG PHỤ TỬ MA HOÀNG ĐẠI TÁO THANG PHƯƠNG
Quế Chi, Sinh Khương mỗi vị 3 lạng Tế Tân, Cam Thảo, Ma Hoàng mỗi vị 2 lạng
161
7 vị trên, nước 7 thăng, trước nấu Ma Hoàng vớt bỏ bọt, cho các thuốc vào nấu lấy 2 thăng, chia
uống ấm 2 lần. Nên đổ mồ hôi và cảm giác như có sâu bò trong da thì khỏi .
- Dưới Tâm như cái mâm: Khí hư cho nên Huyết không hành.
- Bìa như cái vành mâm: Khí hư cho nên Thủy không hành.
- Quế Chi Ma Hoàng Tế Tân Phụ Tử Sinh Khương Cam Thảo Đại Táo thang làm chủ.
Dưới Tâm cứng lớn như cái mâm, bìa như cái vành mâm do Thủy Ẩm làm ra, Chỉ Thực Bạch
Truật thang làm chủ.
2 vị nước 5 thăng nấu lấy 3 thăng, mỗi lần uống 1 thăng, ngày 3 lần trong bụng mềm thì bệnh
tan.
- Dưới Tâm cứng lớn như cái mâm: Tấu Huyết không hành.
- Bìa như cái vành mâm, Thủy Ẩm làm nên: Tấu Thủy không hành.
(Trên đây, chương thứ 14, 30 tiết, luận Thủy Khí Bệnh)
162
TẠP BỆNH LUẬN QUYỂN VII
__________________________________
LUẬN TỲ
Thốn khẩu mạch Phù mà Hoãn, Phù thì là Phong, Hoãn thì là Tý, Tý chẳng phải Trúng Phong,
tay chân bứt rứt rất khó chịu, màu sắc của Tỳ ắt vàng, do ứ Nhiệt làm ra.
163
BẢN NGHĨA (15/1)
- Hoãn thì là Tý: Tỳ gốc thuộc Âm Hàn Kinh ắt tùy Âm Nhiệt xuất Ngoại làm mạch Hoãn,Phong
Tý vậy.
- Tỳ chẳng phải Trúng Phong: Phong Tý của Thái Dương tại Ngoại.
- Tay chân bứt rứt khó chịu: thọ Phong Tý của Thiếu Âm tại Nội.
- Màu sắc Tỳ ắt vàng do ứ Nhiệt làm ra: Tỳ sở dĩ làm bệnh Hoàng Đãn là Tỳ gốc sắc vàng thọ ứ
của Âm Nhiệt ở trong rồi đi ra ngoài.
Phu Dương mạch Khẩn mà Sác, Sác thì là Nhiệt, Nhiệt thì tiêu hóa thức ăn, Khẩn thì là Hàn, ăn
vào liền bị đầy.
Phong Hàn tương bác, ăn cơm liền xây xẩm, cốc Khí không tiêu, trong Vỵ khó chịu vì chất dơ,
trọc Khí chảy xuống, tiểu tiện không thông.
Âm riêng bị Hàn, Nhiệt chảy vào Bàng Quang, cả người đều vàng, tên gọi Cốc đãn.
- Phu Dương mạch Sác là Nhiệt thì tiêu hóa thức ăn: Nói Tỳ thọ Âm Nhiệt nên tiêu hóa thức
ăn.
- Mạch Khẩn là Hàn, ăn vào liền bị đầy: Nói Âm Nhiệt hư thì Tỳ Hàn, ăn vào liền bị đầy.
- Tỳ nhờ Vỵ lưu hành tân dịch, Tỳ Hàn thì trọc Khí trong Vỵ chảy xuống cho nên tiểu tiện không
thông.
- Tỳ là Âm phần Hàn Nhiệt đầy đủ, nay chỉ ‘bị’ Hàn mà không bị Nhiệt, cho nên Nhiệt chảy vào
Bàng Quang mà cả người đều vàng, tên gọi Cốc Đãn.
Trên trán đen hơi đổ mồ hôi, lòng bàn tay chân nóng, gần tối thì phát, Bàng Quang đau ngặt,
tiểu tiện tự lợi, tên gọi Nữ lao đãn, bụng như trạng bệnh Thủy là không trị được.
- Lòng bàn tay chân nóng, gần tối thì phát: Tỳ Huyết thọ Thận Âm Nhiệt.
- Bàng Quang đau ngặt: bởi cớ Nhiệt chảy xuống Bàng Quang.
- Bụng như trạng bệnh Thủy là không trị được: Huyết bệnh dẫn tới Thủy bệnh; Thủy Huyết
cùng bệnh cho nên không trị được.
Trong Tâm áo nùng (buồn bực) mà sốt không ăn được, có lúc muốn mửa, tên gọi Tửu đãn.
- Trong Tâm buồn bực mà sốt, không ăn được: Tỳ Huyết thọ Dương Nhiệt Thủy.
- Có lúc muốn mửa: Dương Nhiệt Thủy thọ Tỳ Hàn. Tên gọi Tửu Đãn.
165
NGUYÊN VĂN (243)
Dương Minh bệnh mạch Trì, khó ăn cơm no, no thì hơi bứt rứt, đầu xây xẩm, tiểu tiện ắt khó,
đó là muốn làm Cốc đãn, tuy cho Hạ bụng đầy như cũ, vì sao như vậy ? vì bởi mạch Trì.
* Đây, Tỳ Huyết thọ Dương Hàn Thủy muốn làm Cốc Đãn.
- Đó là muốn làm Cốc Đãn: thọ Âm phần Hàn Nhiệt thì làm Cốc Đãn,
Còn thọ Dương phần Hàn Nhiệt thì ‘muốn’ làm Cốc Đãn.
- Sở dĩ như vậy là vì mạch Trì; nên khảo sát duyên cớ của nó:
Bệnh Tửu Hoàng đãn, ắt tiểu tiện không lợi, xem thấy trong Tâm nóng, dưới bàn chân nóng,
đấy là chứng của nó.
* Đây, Tỳ Huyết thọ Dương Hàn Dương Nhiệt Thủy tại Tấu.
- Trong Tâm nóng, dưới bàn chân nóng: Hàn nhập Nội thì Nhiệt, tùy Kinh mà ra Ngoại.
166
NGUYÊN VĂN (245)
Tửu Hoàng đãn, hoặc không sốt, nói năng tỉnh táo, bụng đầy muốn mửa, mũi ráo, mạch Phù
nên trước cho Thổ, mạch Trầm Huyền nên trước cho Hạ.
* Đây, Tỳ Huyết thọ Dương Hàn Dương Nhiệt Thủy tại Nội Ngoại của Tấu.
Chữ ‘trước’ là nói lúc còn ở Nội Ngoại nên trị, để không nhập Tấu.
Bệnh Tửu đãn trong Tâm nóng muốn mửa, cho mửa thì khỏi.
* Đây, Tỳ Huyết thọ Dương Hàn Dương Nhiệt Thủy tại Cách.
Bệnh Tửu đãn cho Hạ, lâu ngày làm thành Hắc đãn, mắt xanh, mặt đen trong Tâm giống như
trạng ăn tỏi, đại tiện thật đen, da thịt cào vào không có cảm giác, mạch Trầm Nhược, tuy đen
mà hơi vàng cho nên biết là nó.
167
BẢN NGHĨA (15/9)
* Đây, Tỳ Huyết thọ Dương Hàn Dương Nhiệt Thủy tại Thượng Hạ của Cách.
- Tửu Đãn cho Hạ: nói Hàn Nhiệt Thủy nhập Cách.
- Tuy đen mà hơi vàng cho nên biết: bệnh do Tỳ Huyết tại Cách dẫn đến.
Thầy nói : bệnh Hoàng đãn, phát sốt phiền khát, ngực đầy miệng ráo, là vì lúc phát bệnh dùng
lửa cưỡng ép phát hãn, hai cái nóng gặp nhau, tuy nhiên người mắc bệnh ‘Hoàng gia’ theo
Thấp mắc phải, cả người phát sốt mà vàng, bụng nóng nhiệt tại Lý, nên cho Hạ.
- Phát sốt phiền khát: tại Tấu Xung Kinh thọ Tỳ Thủy Huyết.
- Ngực đầy miệng ráo: tại Cách Xung Kinh thọ Tỳ Thủy Huyết.
- Dùng lửa cưỡng ép phát hãn, hai cái nóng gặp nhau: nói lúc bệnh tại Tấu còn dùng lửa bên
ngoài cưỡng ép phát hãn.
- Lúc bệnh tại cách ‘Hoàng gia’ là do Nội Thấp mà mắc phải.
168
- Cả người phát sốt mà vàng: Xung Kinh tại Tấu thọ Tỳ Thủy Huyết mà đi ra ngoài làm vàng da.
- Bụng nóng Nhiệt tại Lý: Xung Kinh tại Cách thọ Tỳ Thấp mà hành ở Lý làm vàng da.
Mạch Trầm, khát muốn uống nước, tiểu tiện không lợi, đều phát vàng.
- Đều là nguyên do phát vàng: chẳng phải riêng một Đốc Kinh.
Bụng đầy, lưỡi vàng héo, vật vã không ngủ được thuộc Hoàng gia (bệnh vàng da kinh niên).
- Vật vã không ngủ được: Nhâm Kinh thọ Nhiệt của Tỳ Huyết.
- Thuộc vàng da: chỉ cần trị Tỳ Huyết thọ Hàn Nhiệt của Thủy,mà Nhâm Kinh tự dứt.
169
NGUYÊN VĂN (251)
Bệnh Hoàng đãn nên lấy 18 ngày làm kỳ hạn để trị, 18 ngày trở lên bệnh nên bớt, trái lại nặng
hơn là khó trị.
- Tỳ với các Kinh lưu chuyển Nội Ngoại 1 chu kỳ là 12 ngày,nay nói 18 ngày là ngày tái Kinh tại
Tấu.
- Nặng hơn là khó trị: ngày tại Tấu, từ Dương vào Âm (6 ngày là 1 kỳ, Tấu nhập Nội, Tấu xuất
Ngoại là 2 kỳ, tái Kinh lại nhập Tấu 1 kỳ, gọi là tái tức 3 kỳ vậy).
Bệnh Đãn (vàng da) mà khát là khó trị ; Bệnh Đãn mà không khát là có thể trị. Phát ở Âm bộ
người bệnh ắt ói; phát ở Dương bộ người bệnh lạnh run mà phát sốt.
- Phàm 12 Kinh đều tụ hội ở Cách, cho nên bất luận Kinh nào, ắt tại Cách cũng nhận lấy chỗ
tòng Âm, tòng Dương của nó, như:
Bệnh Đãn mà khát là tại Cách tòng Thiếu Âm, bệnh Đãn này khó trị.
Bệnh Đãn mà không khát là tại Cách tòng Thái Dương, bệnh Đãn này có thể trị.
- Phát ở Dương bộ ắt lạnh run phát sốt: tòng Thái Dương tại Thượng.
170
*Nói nhật số hành Kinh theo bệnh mà tính toán.
Bệnh Cốc đãn nóng lạnh không ăn, ăn thì đầu xây xẩm, Tâm ngực không an, lâu ngày phát
vàng làm Cốc đãn, Nhân Trần Cao thang làm chủ.
3 vị trên, nước 1 đấu, trước nấu Nhân Trần nước còn 6 thăng, cho 2 vị vào nấu lấy 3 thăng bỏ
bả, chia uống ấm 3 lần. Tiểu tiện nên lợi, nước tiểu như nước trấp Tạo giác màu thật đỏ, qua 1
đêm bụng giảm, màu vàng được trừ theo tiểu tiện.
* Đây, Tỳ Huyết theo Dương phần Hàn Nhiệt làm Cốc Đãn.
- Lâu ngày phát vàng làm Cốc Đãn: Tỳ Huyết theo Dương tà, lâu lâu phát ra ngoài, Nhân Trần
Cao thang làm chủ.
Hoàng gia, xế chiều phát sốt mà trái lại sợ lạnh, đấy là do Nữ lao mắc phải, Bàng Quang đau
ngặt, bụng dưới đầy, khắp mình vàng, trên trán đen, lòng bàn chân nóng, nhân đó làm Hắc
đãn, bụng người bệnh trướng như trạng bệnh Thủy, đại tiện ắt đen có lúc đi lỏng, đấy là
bệnh Nữ lao chẳng phải bệnh Thủy, bụng đầy là khó trị, Tiêu Thạch Phàn Thạch Tán làm chủ.
171
TIÊU THẠCH PHÀN THẠCH TÁN PHƯƠNG
2 vị tán nhuyễn hòa uống với nước trấp cháo Đại Mạch, 1 thìa phương thốn, ngày 3 lần, bệnh
được trừ theo đường đại tiểu tiện.
Tiểu tiện màu thật vàng, đại tiện màu thật đen, là dấu hiệu để xét.
- Đấy là Tỳ Huyết mắc bệnh ở Âm phần Hàn Nhiệt làm Nữ Lao Đãn.
- Bàng Quang đau ngặt, bụng dưới đầy, khắp mình vàng: đấy là Tỳ Huyết thọ Âm tà hành ở
các Dương Kinh.
- Trên trán đen nhân đó làm Hắc Đãn: bệnh tại Tỳ Lạc nhân đó lan đến Thận Lạc.
- Bụng người bệnh trướng như trạng bệnh Thủy: bệnh tại Tỳ Lạc nhân đó lan tới Can Lạc.
- Đại tiện ắt đen, có lúc đi lỏng: đây là Tỳ Huyết thọ Âm tà hành ở các Âm Kinh.
- Đây là bệnh Nữ Lao Huyết trướng chẳng phải bệnh Thủy trướng.
- Tiêu Thạch Phàn Thạch tán làm chủ: Kinh Lạc tinh (cùng) trị.
Tửu đãn trong Tâm buồn bực hoặc nóng đau, Chi Tử Đại Hoàng thang làm chủ.
Chi Tử 14 trái Đại Hoàng 2 lạng Chỉ Thực 5 trái Đậu Xị 1 thăng
- Trong Tâm buồn bực: Thủ Dương Kinh có Hàn Thủy Kinh.
Các bệnh ‘Hoàng gia’ chỉ lợi tiểu tiện để trị. Nếu như mạch Phù phải dùng phép Hãn để giải
nó, nên dùng Quế Chi gia Hoàng Kỳ thang làm chủ (xem phương ở chương Thủy Khí).
- Các bệnh ‘Hoàng gia’: bệnh vàng da của các Thủ Dương Kinh.
- Mạch Phù phải dùng phép Hãn để giải: trị bệnh Đãn tại Ngoại.
Các bệnh vàng da, Trư Cao Phát tiển làm chủ.
Trư Cao (mỡ lợn) : ½ cân Loạn Phát (tóc rối) như trứng gà lớn 3 cuộn.
2 vị trên hòa vào trong mỡ lợn để cô, tóc tiêu đi là thuốc thành, chia uống ấm 2 lần, bệnh ra
theo đường tiểu.
Bệnh Hoàng đãn, Nhân Trần Ngũ Linh tán làm chủ.
2 vị trên hòa lại, trước khi ăn, uống 1 thìa phương thốn, ngày 3 lần.
Bệnh Hoàng đãn bụng đầy, tiểu tiện không lợi mà đỏ, tự ra mồ hôi, đấy là Biểu hòa Lý thực
cho nên Hạ, nên dùng Đại Hoàng Tiêu Thạch thang.
Đại Hoàng, Hoàng Bá, Tiêu Thạch mỗi vị 4 lạng Chi Tử 15 trái
4 vị trên, nước 6 thăng, nấu lấy 2 thăng bỏ bả, cho Mang Tiêu vào nấu đặc còn 1 thăng, uống 1
lần.
- Tiểu tiện không lợi mà đỏ, tự ra mồ hôi: Túc Âm Nhiệt Kinh thọ Tỳ Huyết.
- Đây là hòa tại Biểu mà thực tại Lý, cho Hạ nên dùng Đại Hoàng Tiêu Thạch thang.
Bệnh Hoàng đãn, màu nước tiểu không đổi, tiểu tiện muốn tự lợi, bụng đầy mà suyễn, không
thể trừ Nhiệt, nếu trừ thì ọe, Tiểu Bán Hạ thang làm chủ (xem phương ở chương Đàm Ẩm).
174
BẢN NGHĨA (15/22)
- Màu nước tiểu không đổi, tiểu tiện muốn tự lợi: bệnh Đãn tại Can Hàn Kinh.
- Không thể trừ Nhiệt, Nhiệt bị trừ thì ọe: Tỳ Can là Âm Hàn ắt phải cậy nhờ Thận Nhiệt.
Các bệnh vàng da, đau bụng mà ói, nên dùng Tiểu Sài Hồ thang (xem phương ở chương Phụ
Nhơn Tạp Bệnh).
- Ói là Tỳ Huyết thọ Túc Dương Thủy. - Tiểu Sài Hồ thang làm chủ.
Đàn ông vàng da, tiểu tiện tự lợi, nên uống Hư Lao Tiểu Kiến Trung thang (xem phương ở
chương Hư lao).
- Đàn ông vàng da: (không phải đàn bà bệnh Huyết làm vàng da).
- Nên uống Hư Lao Tiểu Kiến Trung thang: theo phép trị Tâm Huyết Hư Hàn.
(Trên đây, chương thứ 15, 24 tiết, luận Bệnh Hoàng Đãn)
175
CHƯƠNG 16 : KINH QUÝ – NỤC HUYẾT – THỔ HUYẾT - HẠ HUYẾT -
Thốn khẩu mạch Động mà Nhược, Động tức làm Kinh (sợ sệt), Nhược tức làm Quý (hồi hộp).
* Đây, Thủ Dương Kinh hành Thủy, Thủ Âm Kinh hành Huyết.
- Thủ Dương Thủy Thực cho nên mạch Động làm Kinh.
Thầy nói : mạch Xích Phù, con ngươi mắt quáng vàng, chảy máu mũi chưa dứt. Quáng vàng
hết, con ngươi mắt sáng tỏ, biết là chảy máu mũi đã hết.
176
BẢN NGHĨA (16/2)
- Con ngươi mắt quáng vàng, chảy máu mũi chưa dứt: Kinh hành ở Thượng thọ Thủ Âm
Huyết.
- Quáng vàng hết, con ngươi mắt sáng tỏ, biết là chảy máu mũi đã dứt: Huyết không bệnh thì
Thủy không bệnh.
Lại nói : Từ Xuân đến Hạ Nục Huyết (chảy máu mũi) là thuộc Thái Dương.
- Dương Minh chủ Hạp, Thủ Âm Huyết không yên ở Nội mà ra Ngoại.
Người vốn có bệnh Nục Huyết không thể Phát Hãn, mồ hôi ra thì trên trán lõm xuống, mạch
Khẩn Cấp, mắt trực thị không nháy, không ngủ được.
Huyết hư thì Thủy hư cho nên Nục gia không thể Phát Hãn.
- Phát Hãn ắt trên trán lõm xuống: bệnh tại chỗ Thủ Dương Thủ Âm giao nhau.
- Mạch Khẩn Cấp: Hiệp mạch của Thủ Dương Thủ Âm.
177
- Mắt trực thị không nháy, không ngủ được: Thủ Dương Thủ Âm cùng hư.
Người bệnh mặt không có sắc (nhợt nhạt), không nóng lạnh, mạch Trầm Huyền là Nục Huyết,
Mạch Phù Nhược ấn xuống thấy Tuyệt là Hạ Huyết; bứt rứt ho ắt là Thổ Huyết.
- Mặt không có sắc, không nóng lạnh, mạch Trầm Huyền là Nục Huyết: Tam Tiêu Kinh Nhiệt
Thủy chú nhập Bào Hàn Huyết.
- Mạch Phù Nhược ấn xuống thấy Tuyệt là Hạ Huyết: Đại Trường Nhiệt Thủy chú nhập Phế
Hàn Huyết.
- Bứt rứt ho ắt là Thổ Huyết: Tiểu Trường Kinh Hàn Thủy chú nhập Tâm Nhiệt Huyết.
Phàm Thổ Huyết ho nghịch Thượng Khí (thở hơi lên), mạch Sác mà có sốt, không nằm được là
chết.
- Mạch Sác mà có sốt: Mạch chứng của các Thủ hiệp bệnh.
- Không nằm được là chết: Thủy Huyết cùng nhập Đốc Kinh.
Người nghiện rượu mà ho ắt sẽ Thổ Huyết, đấy là nhân ‘cực ẩm’, quá độ dẫn tới.
178
BẢN NGHĨA (16/7)
- Ắt sẽ Thổ Huyết: Thủ Dương Thủy bệnh lan đến Thủ Âm Huyết.
*Huyết bệnh lan đến Thủy, trị nó khó; Thủy bệnh lan đến Huyết, trị nó dễ (tham khảo chương
Thủy Khí, mục Thủy phần, Huyết phần).
Thốn khẩu mạch Huyền mà Đại, Huyền thì là Giảm, Đại thì là Khâu, Giảm thì là Hàn, Khâu thì
là Hư, Hàn Hư tương bác gọi là Cách.
Đàn bà thì sanh non, lậu hạ, đàn ông thì mất máu, di tinh.
- Xem lời giải đoạn trên ở chương Hư lao (nguyên văn 85, bản nghĩa 6/10).
*Có thể biết đây là chứng Nhâm Kinh tại Hạ thọ Thủy Huyết.
Người vốn bệnh vong huyết không thể Phát hãn, mồ hôi ra ắt lạnh run lập cập.
.
179
BẢN NGHĨA (16/9)
* Đây, Thủ Dương Thủy, Thủ Âm Huyết liên quan tại Biểu tại Lý.
- Vốn bị vong Huyết không thể Phát hãn: tại Lý Thủ Âm Huyết vong không thể Phát tại Biểu
hãn của Thủ Dương.
- Mồ hôi ra ắt lạnh run lập cập: tại Biểu Thủ Dương Thủy kiệt do tại Lý Thủ Âm Huyết hư.
Người bệnh ngực đầy, môi héo, lưỡi xanh, miệng ráo, chỉ muốn ngậm nước không muốn
nuốt, không nóng lạnh, mạch hơi Đại lại Trì ; bụng không đầy nhưng người bệnh nói tôi đầy,
là có ứ huyết.
- Chỉ muốn ngậm nước (súc miệng) không muốn nuốt : bởi cớ Thủy với Huyết hiệp ứ.
- Mạch hơi Đại lại Trì: bởi Thủy Huyết hiệp hành.
- Bụng không đầy, nói tôi đầy: bởi cớ tại Cách Hạ.
Người bệnh như trạng có Nhiệt, phiền mãn, miệng khô ráo mà khát, mạch trái lại không có
Nhiệt, đấy là Âm phục là ứ huyết vậy, phải cho Hạ.
180
BẢN NGHĨA (16/11)
- Nhiệt tại Thủ Dương cho nên nói như, tại Tấu cho nên có Nhiệt.
- Mạch trái lại không có Nhiệt là tại Tấu Âm Nhiệt làm nơi Thủy Huyết ứ, phải cho hạ.
‘Hỏa tà’ Quế Chi khứ Bạch Thược gia Thục Tất Long Cốt Mẫu Lệ Cứu Nghịch thang làm chủ.
QUẾ CHI KHỨ BẠCH THƯỢC GIA THỤC TẤT LONG CỐT MẪU LỆ
7 vị trên, tán nhỏ, nước 1 đấu 2 thăng, trước nấu Thục Tất giảm 2 thăng rồi cho các thuốc vào
nấu lấy 3 thăng bỏ bả, uống ấm 1 thăng.
- Hàn Thủy gốc tại Ngoại mà nhập Tấu Hỏa phần, gọi là Hỏa tà.
- Túc Dương Hàn Thủy gốc tại Hạ hiệp Thủ Dương đi lên làm nghịch, cho nên có tên Thang cứu
nghịch.
181
BÁN HẠ MA HOÀNG HOÀN PHƯƠNG
Bán Hạ, Ma Hoàng đồng phân lượng : 2 vị tán nhuyễn luyện mật làm hoàn như hạt Tiểu đậu,
mỗi lần uống 3 hoàn với nước chín, ngày 3 lần.
3 vị trên, nước 5 thăng, Mã thông trấp (nước đái ngựa) 1 thăng, nấu còn 1 thăng chia uống ấm
2 lần, không có Mã thông dùng Đồng tiện để thay.
Hạ Huyết (đại tiện ra máu), trước đi phân sau ra Huyết, đấy là Viễn Huyết, Hoàng Thổ thang
làm chủ.
182
HOÀNG THỔ THANG PHƯƠNG
Cam Thảo, Địa Hoàng, Bạch Truật, Phụ tử bào mỗi vị 3 lạng
A Giao, Hoàng Cầm mỗi vị 3 lạng. Hoàng Thổ (đất giữa lòng bếp) ½ thăng
- Trước đi phân (tiện) của Thủ Dương rồi sau ra Huyết của Thủ Âm.
Hạ Huyết, trước ra Huyết sau đi tiện, đấy là Cận huyết, Xích Tiểu Đậu Đương Qui tán làm chủ
(xem phương ở chương Hồ Hoặc).
- Trước ra Huyết của Thủ Âm rồi sau đi tiện của Thủ Dương.
- Đấy là Cận Huyết, Xích Tiểu Đậu Đương Qui tán làm chủ.
Tâm Khí bất túc, Thổ Huyết, Nục Huyết, Tả Tâm thang làm chủ.
183
BẢN NGHĨA (16/17)
- Tâm Khí bất túc: Tâm Âm Khí bất túc do Dương Khí thái quá.
- Tả Tâm thang làm chủ là tả Tâm Dương để cho tương đắc với Tâm Âm.
(Trên đây, chương thứ 16, 17 tiết, luận bệnh Kinh Quý –Nục Huyết –Thổ Huyết –Hạ
Huyết – Hung Mãn – Huyết Ứ)
184
TẠP BỆNH LUẬN QUYỂN VIII
__________________________________
LUẬN CAN
185
34- Can nhập Thủ Âm tại Tấu.
35- Can nhập Túc Âm tại Tấu.
36- Can nhập Túc Dương tại Biểu tại Lý.
37- Can nhập Thủ Dương tại Biểu tại Lý.
38- Can nhập Túc Âm tại Biểu tại Lý.
39- Can nhập Thủ Âm tại Biểu tại Lý.
40- Thủ Âm Hàn Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý.
41- Thủ Âm Nhiệt Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý
42- Túc Âm Hàn Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý.
43- Túc Âm Nhiệt Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý.
44- Thủ Dương Nhiệt Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý.
45- Thủ Dương Hàn Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý.
46- Túc Dương Nhiệt Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý.
47- Túc Dương Hàn Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý.
Người vốn bệnh Ẩu (ói) có ung nùng (nhọt mủ) không thể trị Ẩu, mủ hết thì tự khỏi.
- Không thể trị (Ẩu): Âm Hàn cần phải chú ý tới Âm Nhiệt.
Trước Ẩu rồi tới khát, đấy là muốn giải. Trước khát rồi đến ẩu là Thủy đình dưới Tâm, đấy là
thuộc Ẩm gia. Người bệnh Ẩu vốn khát nay trái lại không khát vì bởi dưới Tâm có Chi Ẩm, trị
thuộc Ẩm gia.
- Trước Ẩu rồi đến khát: nói Can Hàn thọ Dương Nhiệt đấy là muốn giải.
186
- Trước khát rồi đến Ẩu: Dương Nhiệt thọ Can Hàn là Thủy đình dưới Tâm, cần phải trị Can thọ
Vỵ Ẩm, bởi không có Dương Nhiệt Khí.
- Người bệnh Ẩu vốn khát: Can thọ Âm Nhiệt, trái lại không khát dưới Tâm có Chi Ẩm, cần
phải trị Can thọ Vỵ Ẩm bởi không có Âm Nhiệt Khí.
Hỏi rằng : người bệnh mạch Sác, Sác là Nhiệt đáng lẽ tiêu cơm, bắt uống mà trái lại mửa, là vì
sao ?
Thầy đáp : vì Phát Hãn làm cho Dương Khí vi, Cách Khí hư mạch mới Sác. Sác là khách Nhiệt
không thể tiêu cơm, trong Vỵ hư lạnh.
Mạch Huyền là bởi hư, Vỵ Khí không đủ, sáng ăn chiều mửa, biến thành ‘Vỵ phản’ . Hàn ở
trên, thầy thuốc trái lại cho Hạ khiến cho mạch Huyền, cho nên gọi là Hư.
- Cách Nhiệt thì mạch Sác,Sác là Nhiệt mà không thể tiêu cơm, bắt uống mà trái lại mửa,là vì
sao ? Vì tại Cách Nhiệt hư, Vỵ Khí chủ Cách, Cách hư do trong Vỵ hư lãnh dẫn đến. Trong Vỵ
hư lãnh lại do Can Hàn dẫn đến, bởi vì mạch Huyền cho nên biết như vậy.
- Sáng ăn chiều mửa biến thành ‘Vỵ phản’: Can Hàn phản cư Vỵ Thượng.
- Âm Hàn tại Thượng nên dùng phép Ôn mà trái lại cho Hạ, cho nên mạch Huyền và vì thế Cách
hư.
Thốn khẩu mạch Vi mà Sác, Vi thì không có Khí, không có Khí thì Vinh hư, Vinh hư thì Huyết
không đủ, Huyết không đủ thì trong ngực ắt lãnh.
.
187
BẢN NGHĨA (17/4)
- Không có Dương Khí thì Vinh hư mà Huyết không đủ: không có Dương Khí tức là không có
Âm Nhiệt Khí cho nên Huyết không đủ, Hàn Khí cởi lên nó nên trong ngực lạnh.
*Nói Thái Dương tức là Nhiệt Khí, Hàn Khí tức là Thiếu Âm.
Hai chữ Dương Hàn bao quát Thái Dương Thiếu Âm.
Phu Dương mạch Phù mà Sáp, Phù thì là hư, Sáp thì thương Tỳ, Tỳ thương thì không tiêu
cơm, sáng ăn tối mửa, tối ăn sáng mửa, cơm lâu ngày không tiêu hóa gọi là ‘Vỵ phản’, mạch
Vi mà Sáp, bệnh này khó trị.
- Tỳ Hàn cùng với Can Hàn kết nhau thì không chà sát được thức ăn.
- Cơm lâu ngày không tiêu hóa: Can Hàn ‘phản’ tại ‘Vỵ’ Thượng.
- Mạch Vi: Thận Dương Vi, Sáp là Can Tỳ Hàn kết, là khó trị.
188
BẢN NGHĨA (17/6)
- Muốn mửa là Hàn Phong đi lên, Hàn Phong thì không thể cho Hạ.
Ọe mà bụng đầy thì xem xét ‘tiên hậu’ của nó, biết bộ nào không lợi, cho lợi thì khỏi.
- Bụng đầy là Lạc Hàn do bởi Kinh Khí Hàn dẫn đến.
- Xem xét tại Tấu bộ nào không lợi ở Can, cho lợi thì khỏi.
Ngô Thù Du 1 thăng Nhân Sâm 3 lạng Sinh Khương 6 lạng Đại Táo 12 trái
4 vị trên, nước 5 thăng nấu lấy 2 thăng, uống ấm 7 cáp, ngày 3 lần.
- Hàn Nhiệt hiệp bệnh cho nên ngực đầy. - Ngô Thù Du thang làm chủ.
189
NGUYÊN VĂN (288)
Càn ẩu (ói liên thanh), mửa bọt dãi, đau đầu, Ngô Thù Du thang làm chủ.
Ói mà ruột sôi, dưới Tâm Bỉ, Bán Hạ Tả Tâm thang làm chủ.
Bán Hạ ½ cân (rửa). Can Khương, Hoàng Cầm, Nhân Sâm, Chích Thảo mỗi vị 3 lạng
7 vị trên, nước 1 đấu, nấu lấy 6 thăng bỏ bả, lại nấu còn 3 thăng, uống ấm 1 thăng ngày 3 lần.
- Dưới Tâm Bỉ: Can Hàn với Tấu Nhiệt kết bỉ.
Càn ẩu mà hạ lợi, Hoàng Cầm gia Bán Hạ Sinh Khương thang làm chủ.
190
HOÀNG CẦM GIA BÁN HẠ SINH KHƯƠNG THANG PHƯƠNG
6 vị trên, nước 1 đấu, nấu lấy 3 thăng bỏ bả, uống ấm 1 thăng ngày 2 đêm 1 lần.
*Bệnh ở Lạc thì ẩu, ở Kinh thì Càn ẩu, hiệp Tấu Nhiệt thì bỉ, hiệp Cách Nhiệt thì hạ lợi, rất là tinh
tế vậy.
Các chứng ói mửa, cơm nước không xuống được, Tiểu Bán Hạ thang làm chủ (xem phương ở
Đàm Ẩm).
- Cơm nước không xuống được: vì Can Lạc tại Cách bị Hàn.
Ói mửa mà bệnh tại Cách Thượng, sau đó muốn uống nước là bệnh giải, nên cho uống gấp.
Muốn uống nước Trư Linh Bạch Truật tán làm chủ.
191
TRƯ LINH BẠCH TRUẬT TÁN PHƯƠNG
Trư Linh, Phục Linh, Bạch Truật các vị đồng phân lượng.
3 vị tán bột, mỗi lần uống 1 thìa phương thốn với nước chín, ngày 3 lần.
- Ói là Can Huyết.
- Bệnh tại Cách Thượng là chổ Huyết với Thủy hội nhau.
- Sau đó muốn uống nước là bệnh giải, nên cho uống gấp: Can Huyết muốn được Can Thủy để
giải kết.
- Muốn uống nước Trư Linh Bạch Truật tán làm chủ: bổ Cách Dương, lợi Cách Thủy không tổn
thương Cách Huyết.
Ói mà mạch Nhược, tiểu tiện lại lợi, mình có hơi nóng mà thấy quyết (lãnh) là khó trị, Tứ
Nghịch thang làm chủ.
Phụ Tử 1 củ dùng sống Can Khương 1 lạng rưỡi Chích Thảo 2 lạng
3 vị trên, nước 3 thăng nấu lấy 1 thăng, chia uống 2 lần. Người khỏe có thể dùng Phụ Tử 1 củ
lớn, Can Khương 3 lạng.
192
- Thấy quyết lãnh là Âm Nhiệt xuất Ngoại, Âm Hàn cùng xuất Ngoại theo nó.
Ói mà phát sốt, Tiểu Sài Hồ thang làm chủ (xem phương ở mục Hoàng đãn).
- Ói là Can.
3 vị trên, nước 1 đấu 2 thăng, hòa mật khuấy 240 lần cho đến nước thuốc còn lại 2 thăng, chia
uống ấm 2 thăng, còn lại uống hết lần sau.
- ‘Vỵ phản’ là Can Hàn tại Đái mà ‘phản cư Vỵ Thượng’ làm ra ói mửa. Đại Bán Hạ thang làm
chủ.
Ăn xong liền mửa, Đại Hoàng Cam Thảo thang làm chủ.
193
ĐẠI HOÀNG CAM THẢO THANG PHƯƠNG
- Đại Hoàng Cam Thảo thang: Cách Nhiệt bị trừ, Can Hàn tự dứt.
Vỵ phản, mửa mà khát muốn uống nước, Phục Linh Trạch Tả thang làm chủ.
Phục Linh ½ cân Trạch Tả 4 lạng Cam Thảo, Quế Chi mỗi vị 2 lạng
6 vị trên, nước 1 đấu, nấu thuốc còn 3 thăng cho Trạch Tả vào lại nấu còn 2 thăng rưỡi, uống
ấm 8 cáp, ngày 3 lần.
- Mửa mà khát muốn uống nước: Can Hàn không thể hóa Thủy, làm bệnh tới Đốc Kinh.
Sau khi mửa khát, muốn uống nước mà rất háo uống, Văn Cáp thang làm chủ. Thang này
kiêm trị ‘Vi phong’ mạch Khẩn đầu đau.
.
194
VĂN CÁP THANG PHƯƠNG
Cam Thảo, Văn Cáp, Thạch Cao mỗi vị 5 lạng, Ma Hoàng 3 lạng
7 vị trên, nước 6 thăng nấu lấy 2 thăng, uống ấm 1 thăng ra mồ hôi liền khỏi.
- Muốn uống nước mà rất háo uống: Can Hàn đi mà Can Phong nhập Đốc Kinh.
- Văn Cáp thang làm chủ, kiêm trị ‘vi phong’ mạch Khẩn đầu đau: trị Thiếu Âm đầu thống.
Càn ẩu, mửa nghịch, mửa bọt dãi, Bán Hạ Can Khương tán làm chủ.
Bán Hạ, Can Khương đồng phân lượng- 2 vị trên, tán bột, mỗi lần dùng 1 thìa phương thốn với
tương thủy 1 thăng rưỡi nấu còn 7 cáp, uống hết 1 lần.
- Mửa nghịch, mửa bọt dãi: Thủy theo Nhâm Kinh mà đi lên.
Người bệnh trong ngực tựa suyễn mà không suyễn, tựa ói mà không ói, tựa ọe mà không ọe,
suốt trong Tâm bồi hồi không chịu được, Bán Hạ Sinh Khương thang làm chủ.
195
BÁN HẠ SINH KHƯƠNG THANG PHƯƠNG
2 vị trên nước 3 thăng nấu Bán Hạ lấy 2 thăng, cho Sinh Khương trấp nấu lấy 1 thăng rưỡi, để
nguội chia uống ấm 4 lần, ngày 3 đêm 1 lần. Ngưng ói thì sau không uống nữa.
- Không suyễn, không ói, không ọe: lại chứng của Can Lạc.
- Suốt trong Tâm bồi hồi không chịu được: Nhâm Lạc tùy Nhâm Kinh suốt ở trên dưới.
Càn ẩu, ọe nếu như tay chân quyết lãnh, Quất Bì thang làm chủ.
2 vị trên, nước 7 thăng nấu lấy 3 thăng, uống ấm 1 thăng. Thuốc xuống khỏi yết liền khỏi.
- Tay chân quyết lãnh: bệnh tại Ngoại cho nên thuốc xuống dưới yết liền hết. - Quất Bì thang
làm chủ.
6 vị trên, nước 1 đấu 2 thăng nấu lấy 3 thăng bỏ bả, uống ấm 1 thăng, ngày 3 lần.
Lục Phủ Khí tuyệt ở Ngoại thì tay chân lạnh, thở hơi lên, chân co rút. Ngũ Tạng tuyệt ở Nội thì
lợi (ỉa chảy) không cầm, nặng nữa tay chân mất cảm giác.
- Tay chân lạnh, thở hơi lên: tại Ngoại Phế thọ Can Hàn.
- Tay chân mất cảm giác: tại Nội Bào thọ Can Hàn.
Hạ lợi (ỉa lỏng), mạch Trầm Huyền là mót rặn; mạch Đại là chưa dứt; mạch Vi Nhược Sác là
muốn tự dứt.Tuy phát sốt không chết.
- Mạch Đại là chưa dứt: Can Hàn Tâm Nhiệt bằng nhau.
- Mạch Vi Nhược Sác là muốn tự dứt: Can Hàn thua mà Tâm Nhiệt thắng.
- Tuy phát sốt không chết: Hàn thua Nhiệt là nghịch mà không chết.
Hạ lợi tay chân quyết lãnh, không có mạch dùng phép cứu mà không ấm được. Nếu như
mạch không có trở lại, dùng phép cứu mà hơi suyễn là chết.
- Nếu như mạch không có trở lại dùng phép cứu mà hơi suyễn là chết: Âm Hàn bức ép Âm
Nhiệt ở ngoài.
198
NGUYÊN VĂN (307)
- Hạ lợi: là Can.
- Mạch Sác có hơi nóng ra mồ hôi là tự khỏi: Can Hàn được Thận Nhiệt trợ giúp.
- Ví như mạch Khẩn là chưa giải: Can Hàn thọ Dương Hàn.
Hạ lợi, mạch Sác mà khát là tự khỏi. Ví như không bớt ắt đi ra mủ máu, vì bởi có Nhiệt vậy.
- Mạch Sác mà khát là tự khỏi: Can Hàn gặp được Thủ Dương Nhiệt.
- Ví như không bớt ắt đi ra mủ máu: thọ Thủ Dương Nhiệt thái quá.
Hạ lợi mạch trái lại Huyền, phát sốt mình ra mồ hôi là khỏi.
- Phát sốt mình ra mồ hôi là khỏi: Dương Nhiệt giải Âm Hàn tự giải.
199
NGUYÊN VĂN (310)
- Nên cho lợi tiểu tiện: Âm Hàn giải Dương Hàn tự giải.
- Mạch trái lại Trầm Sáp: nhập Thủ Dương Hàn Kinh.
Hạ lợi thanh cốc (ỉa phân sống), không thể công Biểu, mồ hôi ra ắt trướng đầy.
- Không thể công biểu, mồ hôi ra ắt trướng đầy: tại Ngoại Dương Hàn bị trừ thì tại Nội Âm Hàn
thực.
200
NGUYÊN VĂN (313)
Hạ lợi mạch Trầm mà Trì, người bệnh mặt hơi đỏ, mình có hơi nóng, hạ lợi thanh cốc, ắt phải
uất mạo mồ hôi ra mà giải, người bệnh có ‘vi quyết’, bởi vì là ‘đới dương’, Hạ hư cho nên
vậy.
- Mặt hơi đỏ, mình có hơi nóng: Can Hàn muốn bức ép Thủ Âm Nhiệt ở ngoài.
- Hạ lợi thanh cốc: Thủ Âm Hàn Kinh tại Nội, Can Hàn Kinh cũng tại Nội.
- Ắt uất mạo (nặng đầu tối mắt), mồ hôi ra mà giải, người bệnh có hơi quyết: Thủ Âm Nhiệt
Kinh xuất Ngoại, Can Hàn cũng xuất Ngoại.
- Sở dĩ Thủ Âm Nhiệt xuất Ngoại làm chứng ‘đới dương’, bởi vì Túc Âm Nhiệt của người bệnh
tại Hạ hư.
Sau khi hạ lợi mạch Tuyệt, tay chân quyết lãnh, một ngày đêm mạch có trở lại, tay chân ấm là
sống, mạch không trở lại là chết.
- Một ngày đêm mạch có trở lại, tay chân ấm là sống: có Âm Nhiệt.
201
NGUYÊN VĂN (315)
Hạ lợi bụng đầy trướng, thân thể đau nhức, trước tiên ôn Lý rồi mới công Biểu, ôn Lý nên
dùng Tứ Nghịch thang, công Biểu nên dùng Quế Chi thang.
* Đây, Can nhập Túc Dương Kinh tại Biểu tại Lý.
- Thân thể đau nhức: tại Biểu Can nhập Túc Dương Kinh.
- Trước tiên ôn Lý dùng Tứ Nghịch thang rồi sau công Biểu dùng Quế Chi thang.
Hạ lợi ba bộ mạch đều Bình, ấn vào dưới Tâm cứng, gấp cho Hạ nên dùng Đại Thừa Khí thang.
* Đây, Can nhập Thủ Dương Kinh tại Biểu tại Lý.
- 3 bộ mạch đều Bình: nói mạch Thủ Dương thuộc vào Túc Dương không chuyên lấy ở bộ vị
khác.
- Gấp cho Hạ: sợ Âm Hàn thực thì Âm Nhiệt vong, nên dùng Đại Thừa Khí thang.
Hạ lợi mạch Trì mà Hoạt là Thực, lợi chưa muốn dứt, gấp cho Hạ nên dùng Đại Thừa Khí
thang.
- Mà Hoạt: Âm Nhiệt.
202
- Lợi chưa muốn dứt: Âm Nhiệt Thực Âm Hàn cũng Thực.
Hạ lợi mạch trái lại Hoạt, có chỗ cần phải trừ khử cho Hạ thì khỏi, nên dùng Đại Thừa Khí
thang.
- Có chỗ cần phải trừ khử, cho Hạ thì khỏi: cần phải Hạ Nhiệt của Thủ Âm, cũng cần phải Hạ
Hàn của Thủ Âm. Nên dùng Đại Thừa Khí thang.
Hạ lợi đã bớt, đến đúng năm, tháng, ngày, giờ lại phát, bởi vì bệnh chưa tận hết. Nên dùng
Đại Thừa Khí thang.
- Thủ Âm Hàn Kinh thọ Can Hàn hoặc tại Biểu hoặc tại Lý, đến năm tháng ngày giờ hành Kinh,
vừa qua đúng Can Kinh thì lại phát; bởi vì trong lúc bệnh không thể trừ tận hết. Nên dùng
Đại Thừa Khí thang.
Hạ lợi, nói xàm là vì có phân táo, Tiểu Thừa Khí thang làm chủ.
* Đây, Thủ Âm Nhiệt Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý.
203
- Hạ lợi: Can Hàn.
Xích Thạch Chỉ 1 hộc, phân nửa để nguyên, phân nửa nghiền nát
3 vị trên, nước 7 thăng nấu gạo chín, thang thành bỏ bả, uống ấm 7 cáp cho vào bột Thạch chỉ 1
thìa phương thốn, ngày 3 lần. Nếu như 1 lần uống, bệnh hết không cần uống nữa.
* Đây, Túc Âm Hàn Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý.
- Hạ lợi ỉa mủ máu: Can Tỳ đều là Hàn Kinh, đều là Kinh hành Huyết.
Bạch Đầu Ông 2 lạng . Hoàng Liên, Hoàng Bá, Tần Bì mỗi vị 3 lạng
4 vị trên, nước 7 thăng nấu lấy 2 thăng bỏ bả, uống ấm 1 thăng, không khỏi lại uống.
* Đây, Túc Âm Nhiệt Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý.
204
- Nhiệt lợi hạ trọng: Can Hàn thọ Âm Nhiệt.
Sau khi hạ lợi lại phiền, ấn vào dưới Tâm thấy mềm là hư phiền, Chi Tử Xị thang làm chủ.
2 vị trên nước 4 thăng, trước nấu Chi Tử giảm còn phân nửa, cho Xị vào nấu giảm phân nửa bỏ
bả, chia uống ấm 2 lần. Uống 1 lần đổ được mồ hôi [hoặc mửa được ?] liền khỏi.
* Đây, Thủ Dương Nhiệt Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý.
- Sau khi hạ lợi lại phiền: Can Hàn thọ Thủ Dương Nhiệt.
Hạ lợi thanh cốc, Lý Hàn Ngoại Nhiệt, ra mồ hôi mà quyết, Thông Mạch Tứ Nghịch thang làm
chủ.
3 vị trên, nước 3 thăng nấu lấy 1 thăng 2 cáp, bỏ bả, chia uống ấm 3 lần.
* Đây, Thủ Dương Hàn Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý.
205
- Lý hiệp Dương Hàn thì Âm Nhiệt xuất Ngoại, Âm Nhiệt xuất Ngoại nên ra mồ hôi, Âm Hàn
tòng theo nó, nên quyết (lãnh).
2 vị trên, nước 6 thăng, trước nấu Tử Sâm giảm nửa, cho Cam thảo vào lại nấu giảm nửa,chia
uống ấm 3 lần.
* Đây, Túc Dương Nhiệt Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý.
- Can Âm Hàn tại Hạ làm lợi mà lại thọ tại Thượng Dương Nhiệt cho nên Phế đau.
Khí lợi (đi lợi kèm theo nhiều hơi), Kha Lê Lặc tán làm chủ.
Kha Lê Lặc 10 trái - 1 vị trên, tán nhuyễn hòa uống với cháo, uống hết 1 lần.
* Đây, Túc Dương Hàn Kinh nhập Can tại Biểu tại Lý.
- Can Hàn thọ Hàn hạ lợi nặng đến Thủy tận đến Huyết, Huyết tận đến Khí.
(Trên đây, chương thứ 17, 47 tiết, luận bệnh Ẩu Thổ - Uế – Hạ Lợi)
206
CHƯƠNG 18: UNG SANG – TRƯỜNG UNG – TẨM DÂM SANG
(8 Tiết, từ 327 đến 334)
Các mạch Phù Sác đáng lẽ phải sốt mà trái lại ớn ớn lạnh, nếu như có chổ đau thì sẽ phát Ung.
Thầy nói : các chứng Ung thũng muốn biết có nùng (mủ), hay không nùng, dùng tay đè lên chổ
thũng, thấy nóng là độc đã tụ đúng là có nùng, không nóng là không có nùng.
* Đây, các Thủ Lạc tại Thượng Tiêu làm Ung thũng.
- Các mạch Phù Sác: các mạch của Thủ Lạc tại Thượng Tiêu.
- Đáng lẽ phát sốt mà trái lại sợ lạnh: các Thủ Lạc đều có Hàn có Nhiệt.
- Chỗ các Thủ Lạc Thủy Huyết tương bác làm đau là chỗ phát ung.
- Ung thì làm thũng, thũng thì có Nùng, lấy tay đè lên chỗ thũng thấy nóng là Thủy Huyết tụ
mà đã kết thành nùng, không nóng là Thủy Huyết đã tụ mà chưa kết thành nùng.
Trường ung ‘chi vi’ bệnh, mình mẩy đóng vẩy, da bụng căng đè tay thấy mềm như trạng bệnh
thũng, bụng không có tích tụ, mình không nóng mạch Sác, đấy là trong ruột có Ung nùng, Dĩ
Nhân Phụ Tử Bại Tương tán làm chủ.
207
DĨ NHÂN PHỤ TỬ BẠI TƯƠNG TÁN PHƯƠNG
3 vị trên, tán nhuyễn lấy 1 thìa phương thốn, 2 thăng nước nấu giảm phân nửa, uống hết 1 lần
(bệnh hạ theo tiểu tiện).
* Đây, các Thủ Lạc tại Trung Tiêu làm Trường Ung.
- Mình đóng vẩy: Thủy Lạc tại Ngoại không cộng với Huyết Lạc.
- Da bụng căng: Huyết Lạc tại Nội không cộng với Thủy Lạc.
- Bụng không tích tụ: không phải tại Nội tích tụ mà thũng.
- Mình không nóng: không phải tại Ngoại thọ Nhiệt mà thũng.
- Đấy là trong ruột có Ung nùng: Lạc bệnh không phát ở Ngoại vì tại Nội, Kinh Khí yếu kém. Dĩ
Nhân Phụ Tử Bại Tương tán làm chủ.
Bệnh Ung nùng bụng dưới thũng bĩ đè vào đau như chứng Lâm, tiểu tiện tự điều, thỉnh
thoảng phát sốt, tự ra mồ hôi lại sợ lạnh. Mạch người bệnh Trì Khẩn là nùng chưa thành, có
thể cho Hạ. Mạch Hồng Sác là nùng đã thành, không thể cho Hạ. Đại Hoàng Mẫu Đơn thang
làm chủ.
Đại Hoàng 4 lạng Mẫu Đơn 1 lạng Đông Hoa Nhân ½ thăng
5 vị trên, nước 6 thăng nấu lấy 1 thăng bỏ bả, cho Mang Tiêu vào lại nấu cho sôi vài dạo, uống
hết 1 lần, có nùng thì đi hạ ra nùng, không nùng thì đi hạ ra huyết.
208
BẢN NGHĨA (18/3)
- Nùng chưa thành có thể cho Hạ: Thủy có thể Hạ mà Huyết tự Hạ.
- Nùng đã thành không thể cho Hạ: Huyết không thể cho Hạ, Thủy cũng không thể cho Hạ.
*Nói Thủy Huyết đều Hạ một lúc không thể phân ra.
Hỏi rằng : Thốn khẩu mạch Phù Vi mà Sáp, ‘pháp đương’ vong huyết (mất máu).
Đáp rằng : Nếu như mình có ghẻ, bị thương bởi dao rìu, mất máu cho nên thế.
* Đây, Thủ Âm Huyết Lạc cùng với Thủ Dương Thủy Lạc liên quan.
- Mạch Phù Vi mà Sáp, ‘pháp đương’ vong Huyết: Thủ Âm Huyết Lạc.
209
- Bị thương bởi dao rìu, mất máu: Thủy Huyết đều vong. Nói Thủy với Huyết lại cùng liên quan
mật thiết.
Bệnh Kim sang (dao búa tổn thương từ ngoài), Vương Bất Lưu Hành tán làm chủ.
Tang Bạch Bì (rễ hướng Đông Nam) 18 phân Cam Thảo 8 phân
9 vị trên, Tang Căn, Tế Diệp, Lưu Hành đốt tồn tính. Các vị đâm riêng, rây nhuyễn hiệp lại để trị,
mỗi lần uống một thìa phương thốn, vết thương nhỏ thì đắp thuốc, vết thương lớn là chỉ uống,
Sản phụ cũng có thể uống.
- Kim sang: tự Ngoại nhập Tấu. Vương bất lưu hành tán làm chủ.
3 vị trên, tán làm bột, lấy tròng đỏ trứng gà 1 cái, lượng thuốc bột với tròng đỏ trứng bằng
nhau, khuấy cho trứng và thuốc trộn đều, rồi uống ngày 1 lần.
210
BẢN NGHĨA (18/6)
- Chỉ nói phương Bài Nùng tán, không nói chứng là vì Sang nùng tại Đái chứng của nó rất nhiều.
Đây chỉ bài trừ đi thôi.
Cam Thảo 2 lạng Cát Cánh 3 lạng Sinh Khương 1 lạng Đại Táo 10 trái
4 vị trên, nước 3 thăng nấu lấy 1 thăng, uống ấm 5 cáp ngày 2 lần. Đây là tể hành Vinh Vệ.
- Chỉ nói phương Bài Nùng thang, không nói chứng là vì Sang tại Cách chỉ cần điều hòa Vinh Vệ,
Khí Huyết mà thôi.
Tẩm dâm sang khởi từ miệng hướng đến tứ chi là có thể trị, khởi từ tứ chi hướng nhập vào
miệng là không thể trị, Tẩm Dâm Sang Hoàng Liên Phấn làm chủ.
Hoàng Liên 1 vị làm phấn, rịt đắp bên ngoài, nặng thì uống bên trong.
- Bệnh tại Ngoại có thể trị,nhập Nội không thể trị, chẳng phải một bệnh mà trăm bệnh đều như
vậy.
(Trên đây, chương thứ 18, 8 tiết, luận bệnh Ung Sang – Trường Ung – Tẩm Dâm Sang)
211
CHƯƠNG 19 : PHU KHUYẾT – THỦ CHỈ TÝ THŨNG – CHUYỂN CÂN –
Thầy nói : bệnh Phu Khuyết, người bệnh chỉ đi tới trước không đi lùi được, châm bắp chân
sâu 2 thốn (huyệt Thừa Sơn ? ) đấy là Kinh Túc Thái Dương bị thương.
Người bệnh ngón tay sưng thũng, bàn tay cánh tay thường hay lay động, người này thân thể
hay máy giật, Lê Lư Cam Thảo thang làm chủ (chưa thấy phương, tìm xem ở Y học đại từ điển).
Chuyển cân (chuột rút) ‘chi vi’ bệnh, người này tý (cánh tay), cước (cẳng chân), mạch đi lên
xuống hơi Huyền. Bệnh chuyển cân nhập phúc (chuột rút vào bụng), Kê Thỉ Bạch tán làm chủ.
.
212
KÊ THỈ BẠCH TÁN PHƯƠNG
Kê Thỉ Bạch - 1 vị tán nhỏ lấy 1 thìa phương thốn hòa uống với 6 cáp nước ấm.
Bệnh Âm hồ Sán khí, hòn dái có lớn nhỏ thiên một bên, có lúc lên lúc xuống, Tri Thù tán làm
chủ.
2 vị tán bột dùng 8 phân hòa với nước chín uống ngày 2 lần. Làm hoàn mật cũng được.
Hỏi rằng : người bệnh đau bụng có trùng, mạch nó phân biệt thế nào ?
Thầy đáp : trong bụng đau mạch nó nên Trầm, nếu như Huyền trái lại Hồng Đại biết là có Vưu
trùng (sán lãi).
- Bụng đau: nói tại bụng Thủy Kinh thọ nhập của Huyết Kinh.
- Trái lại Hồng Đại biết là có Vưu trùng: thọ Túc Âm Huyết Kinh.
213
NGUYÊN VĂN (340)
Vưu trùng ‘chi vi’ bệnh, làm cho người bệnh mửa nước dãi, Tâm đau phát lên có lúc, dùng
thuốc độc không dứt, Cam Thảo Phấn Mật thang làm chủ.
3 vị trên dùng 3 thăng nước, trước nấu Cam Thảo lấy 2 thăng bỏ bả, cho Phấn mật vào trộn đều
cô thành như cháo loãng, uống ấm 1 thăng, bệnh bớt thời ngưng.
- Tâm đau: nói tại chỗ Cách Huyết Kinh thọ Thủy.
- Dùng thuốc độc không dứt: Kinh hành theo đạo thường,không cần dùng đến thuốc độc.
- Cam Thảo Phấn Mật thang làm chủ: tư dưỡng Kinh Lạc là trị được bệnh.
Bệnh Vưu quyết (sán lãi làm lạnh tay chân), người bệnh nên mửa lãi; nay người bệnh yên tĩnh
mà lại có lúc phiền, đấy là Tạng Hàn, lãi đi lên vào Cách cho nên phiền giây lát rồi dứt. Ăn vào
mà ói lại phiền là lãi nghe mùi đồ ăn, đi ra người bệnh nên mửa lãi. Bệnh Vưu quyết, Ô Mai
hoàn làm chủ.
- Nên mửa lãi: trong Túc Dương Thủy Kinh có Âm Huyết nhập.
- Đấy là Tạng Hàn: các Túc Kinh đều gốc tại Thái Xung Âm Tạng.
- Lãi đi lên vào Cách cho nên phiền: do Thái Xung Kinh mà đi lên nơi ‘quảng minh’.
- Ăn vào nghe mùi đồ ăn: nhờ vào Khí của thức ăn uống, trong Vỵ mới thành được Kinh này.
(Trên đây, chương thứ 19, 7 tiết, luận bệnh Phu Khuyết – Thủ Chỉ - Tí Thũng – Chuyển Cân
– Hồ Sán – Vưu Trùng)
215
TẠP BỆNH LUẬN QUYỂN IX
________________________________
Thầy nói : đàn bà có mạch Bình, Âm mạch (bộ xích) Tiểu Nhược, người đói khát, không ăn
được, không nóng lạnh, gọi là Nhâm thần, Quế Chi thang làm chủ. Theo phép 60 ngày nên có
chứng này; giả như có thầy thuốc trị sai nghịch, đã qua một tháng lại thêm chứng mửa, ỉa thì
tuyệt đối không nên dùng.
- Không nóng lạnh: bệnh tại Lạc không tại Kinh (kinh khí).
- Gọi là Nhâm thần (có thai): Thủy kết tại Bàng Quang Lạc của Huyết thất.
216
- Quế Chi thang làm chủ: Điều Âm Dương hòa Khí Huyết.
- Theo phép nên có chứng mửa: bởi vì Thủy kết tại Bàng Quang Lạc.
- Giả như thầy thuốc không biết phép của nó mà trị nghịch.
- Đã qua một tháng lại thêm chứng mửa, ỉa tuyệt đối không nên dùng: không thể dùng Quế
Chi thang.
*Nói một tháng trước Bàng Quang Lạc chưa thọ kết của thai Thủy nên dùng Quế Chi thang, một
tháng sau có chứng mửa đã thọ kết của thai Thủy, không thể dùng Quế Chi thang vậy.
Đàn bà sẳn có bệnh Trưng, Kinh Thủy ngưng chưa đến 3 tháng mà có lậu hạ không dứt, thai
động tại trên rún, đấy là bệnh Trưng lâu ngày làm hại.
. Sau khi Kinh Thủy ngưng 3 tháng ra huyết là Bội (huyết ứ).
Sở dĩ ra huyết không dứt là vì bệnh Trưng không được trừ. Cần phải cho Hạ chứng Trưng,
Quế Chi Phục Linh hoàn làm chủ.
Quế Chi, Phục Linh, Đơn Bì, Đào Nhân, Bạch Thược các vị đồng phân lượng.
5 vị tán bột luyện mật làm hoàn to như cứt thỏ, mỗi ngày trước khi ăn uống 1 hoàn, không thấy
hiệu nghiệm thì tăng thêm đến 3 hoàn.
- Đàn bà có thai 3 tháng trước do Bàng Quang Thủy Lạc làm chủ; 3 tháng sau do Thận Huyết Lạc
làm chủ.
217
- Chưa đến 3 tháng mà có lậu hạ không dứt: bệnh tại thời gian Thủy Lạc với Huyết Lạc giao đại
(trao đổi).
- Thủy Huyết giao kết thai mà động tại trên rún, đấy là bệnh Trưng lâu ngày làm hại: Tức là
Thủy Huyết giao làm bệnh.
- 6 tháng thai động, 3 tháng trước lúc Kinh Thủy lợi: Thủy với Huyết kết thai.
- Ra Huyết sau khi Kinh Thủy ngưng 3 tháng: chỉ là kết của Thủy là Bội.
- Sở dĩ Huyết ra không dứt là chứng Trưng không được trừ: bởi vì không thành thai.
- Cần phải trừ chứng Trưng: nói Thủy Huyết giao đại lúc thai 3 tháng là chổ trị bệnh có thai nên
biết. - Quế Chi Phục Linh hoàn làm chủ.
Đàn bà có thai 6 -7 tháng, mạch Huyền phát sốt, cái thai càng trướng, bụng đau sợ lạnh, bụng
dưới như bị gió quạt; sở dĩ như thế là vì tử cung mở, dùng Phụ Tử thang để làm ấm Tạng.
Phụ Tử 2 củ dùng sống,Phục Linh 3 lạng, Bạch Truật 4 lạng, Nhân Sâm 3 lạng,Bạch Thược 3 lạng.
* Đây, Túc Dương Thủy Lạc, Túc Âm Huyết Lạc chủ thai 6 – 7 tháng.
- Nói 6 – 7 tháng là lúc Túc Dương Nhiệt Lạc, Túc Âm Hàn Lạc giao đại.
218
- Sở dĩ như thế: đã gần lúc sanh cái thai đã lớn tử cung đã mở.
- Nên dùng Phụ Tử thang làm ấm Tạng: trị Túc Âm Hàn Huyết làm chủ lúc có thai.
Thầy nói : Đàn bà có chứng lậu hạ, có chứng sanh non, rồi sau nhân vì thế tiếp tục ra huyết
không dứt, có chứng Nhâm thần hạ huyết. Nếu như đàn bà có thai mà đau trong bụng làm
‘bào trở’, A Giao Ngãi Diệp thang làm chủ.
A Giao, Xuyên Khung, Cam Thảo mỗi vị 2 lạng. Can Địa Hoàng 6 lạng.
7 vị trên, nước 5 thăng, 3 thăng rượu trong hiệp lại nấu lấy 3 thăng bỏ bả, cho A Giao vào tan
hết, uống ấm 1 thăng ngày 3 lần, không bớt nấu uống thêm.
- Có chứng lậu hạ: Bàng Quang Thủy Lạc chủ thai, lúc trước hoặc sau tháng 1 – 2.
- Sau khi sanh non nhân đó tiếp tục ra Huyết không dứt: Thận Huyết Lạc chủ thai, lúc trước
hoặc sau tháng 3 – 4.
- Đàn bà có thai ra Huyết: Dương Nhiệt Âm Hàn chủ thai, lúc trước hoặc sau tháng 6 – 7 .
- Trong bụng đau: sau 9 tháng Thủy Lạc Huyết Lạc bức bách chia xé nhau, có trở ngại tại bào
môn. Cần phải lợi Thủy hành Huyết, Giao Ngãi thang làm chủ.
Đàn bà mang thai, trong bụng quặn đau, Đương Qui Thược Dược tán làm chủ.
- Quặn đau: Âm Nhiệt Huyết Lạc động, Thủy Lạc cũng động.
Nhâm thần ẩu thổ không dứt, Can Khương Nhân Sâm Bán Hạ hoàn làm chủ.
3 vị trên tán bột, dùng nước trấp Sinh Khương hòa làm hoàn to bằng hạt ngô đồng, mỗi lần
uống 10 hoàn ngày 3 lần.
Nhâm thần tiểu tiện khó, ăn uống như thường, Đương Qui Bối Mẫu Khổ Sâm hoàn làm chủ.
3 vị trên, tán bột luyện mật làm hoàn như hạt tiểu đậu, mỗi lần uống 3 hoàn gia đến 10 hoàn.
220
BẢN NGHĨA (20/7)
- Tiểu tiện khó: Túc Dương Nhiệt Thủy tại Đái phần.
Nhâm thần có Thủy Khí, mình nặng, tiểu tiện không lợi, ớn ớn sợ lạnh, khởi dậy đầu liền xây
xẩm, Quì Tử Phục Linh tán làm chủ.
2 vị tán bột uống 1 thìa phương thốn với nước chín ngày 2 lần, tiểu tiện lợi thì khỏi.
- Có Thủy Khí, mình nặng, tiểu tiện không lợi: thọ Dương Hàn Thủy tại Đái.
- Ớn ớn sợ lạnh, khởi dậy đầu liền xây xẩm: Dương Hàn Thủy Lạc tùy Kinh mà đi lên.
Đương Qui, Hoàng Cầm, Bạch Thược, Xuyên Khung mỗi vị 1 cân, Bạch Truật ½ cân
5 vị trên tán bột uống với rượu 1 thìa phương thốn, ngày 2 lần.
Có thai thường uống sẽ dễ sanh,thai không tật bệnh thống khổ,Sản hậu bách bệnh làm chủ hết
thảy.
221
BẢN NGHĨA (20/9)
* Đây, Nhâm thần thọ các Lạc Thủy Huyết nhập Đái.
- Thường uống Đương Qui tán thì các Lạc Thủy Huyết thông lợi dễ sanh.
- Trước có thai có thể uống, sau khi sanh có thể uống, trăm bệnh không ngoài Thủy Huyết, hai
loại này mà thôi.
Bạch Truật, Xuyên Tiêu, Mẫu Lệ, Xuyên Khung mỗi vị 3 lạng
4 vị trên, tán bột uống với rượu 1 thìa phương thốn, ngày 3 đêm 1 lần.
* Đây, Nhâm thần tại Đái Thủy Huyết nhập các Lạc.
- Nếu đau gia Bạch Thược; “độc thống” gia Xuyên Khung: trị tại Đái Huyết bất hành ở các Lạc.
- Tâm bứt rứt, mửa, đau không thể ăn uống được gia Tế Tân, Bán Hạ: trị tại Đái Thủy bất
hành ở các Lạc.
- Nước trấp Tiểu mạch để uống: trị Thủy Lạc tại Đái.
- Nước trấp Đại mạch để uống: cùng trị Thủy Lạc, Huyết Lạc tại Đái.
- Bệnh tuy khỏi vẫn cứ uống chớ bỏ: trị bệnh tại Lạc, uống nhiều có thể trị tại Kinh.
222
NGUYÊN VĂN (352)
Đàn bà tổn thương thai, thân cưu mang bụng đầy, không tiểu tiện được, từ eo lưng trở
xuống nặng như trạng có Thủy.
Mang thai đã 7 tháng, đáng lẽ Kinh Thái Âm phải dưỡng trái lại không dưỡng, đấy là Tâm Khí
Thực, nên châm tả huyệt Lao Cung và Quan Nguyên, tiểu tiện hơi lợi thì khỏi.
* Đây, Các Túc Lạc với các Thủ Lạc liên quan.
- Thân cưu mang bụng đầy, không tiểu tiện được: Túc Lạc Thủy Huyết bị thương, Thủ Lạc Thủy
Huyết không tránh khỏi.
- Eo lưng trở xuống nặng như trạng có Thủy: Túc Lạc Thủy Huyết có Thủ Lạc Thủy Huyết tại
Nội.
- Mang thai 7 tháng, tháng của Túc Thái Âm Huyết Lạc dưỡng thai.
- Đáng lẽ phải dưỡng trái lại không dưỡng là Huyết của Thủ Thái Âm Phế Lạc không cộng với
Huyết của Túc Thái Âm Tỳ Lạc.
*Thủ Thái Âm Phế Huyết không tương cộng, do Thủ Thiếu Âm Tâm Huyết không tương cộng.
- Phần lớn hể Huyết Lạc hư thì Thủy Lạc thực, đấy là Thủy thực tại Thiếu Âm Tâm Lạc.
- Châm tả huyệt Lao Cung : tả Tâm Huyết tại Thượng thọ Thủy.
- Trị Tâm Lạc tức trị Phế Lạc, trị Phế Lạc tức trị Túc Thái Âm Tỳ Lạc, tiểu tiện hơi lợi thì khỏi.
(Trên đây, chương thứ 20, 11 tiết, luận Phụ Nhơn Nhâm Thần)
223
CHƯƠNG 21: PHỤ NHƠN SẢN HẬU
(11 Tiết, từ 353 đến 363)
. 1 là bệnh Kỉnh.
Thầy đáp : mới sanh huyết hư, ra nhiều mồ hôi, dễ bị Trúng phong cho nên bệnh Kỉnh. Mất
máu lại đổ mồ hôi, lạnh nhiều cho nên Uất mạo. Vong tân dịch, Vỵ ráo cho nên đại tiện khó.
- Như vậy là tại sao ? Túc Tam Âm là Kinh hành Huyết, có chứng Lý lại có chứng Biểu.
224
- Mới sanh tại Lý Túc Khuyết Âm Huyết hư, tại Biểu dễ bị Trúng Phong làm bệnh Kỉnh.
- Mới sanh tại Lý Túc Thiếu Âm mất máu, tại Biểu thọ Hàn làm ra Uất mạo.
- Mới sanh tại Lý Túc Thái Âm Huyết hư, vong tân dịch, Vỵ là Biểu của Tỳ cho nên Vỵ ráo đại
tiện khó.
Sản phụ Uất mạo, mạch Vi Nhược, ói không ăn được, đại tiện trái lại cứng, chỉ đầu ra mồ hôi.
Sở dĩ như vậy là vì huyết hư mà ‘quyết’, quyết thì ắt phải mạo, người vốn có chứng Mạo
muốn giải, ắt ra nhiều mồ hôi vì huyết hư phần dưới quyết lạnh, ‘cô dương’ vượt lên cho nên
đầu ra mồ hôi.
Sở dĩ sản phụ dễ ra mồ hôi là do vong Âm huyết hư, Dương Khí độc thạnh cho nên phải ra mồ
hôi, Âm Dương mới phục hồi; đại tiện rắn, ói không ăn được Tiểu Sài Hồ thang làm chủ.
- Đại tiện trái lại rắn, chỉ đầu ra mồ hôi là Âm Nhiệt Huyết.
- Quyết thì ắt phải mạo: chứng Âm Nhiệt, bệnh thì cùng bệnh.
- Mạo gia muốn giải ắt ra nhiều mồ hôi: giải thì cùng giải.
- ‘Cô dương’ vượt lên cho nên đầu ra mồ hôi: Âm Nhiệt Huyết bệnh.
- Sở dĩ như vậy là Túc Âm đồng là Kinh hành Huyết, Huyết hư mà bệnh, tương liên làm bệnh.
- Sản phụ là Huyết hư, hay ra mồ hôi là vong Âm, Huyết hư Dương Khí độc thạnh cho nên
phải ra mồ hôi, Âm Dương mới phục hồi.
225
*Nói Âm hư thì Dương trở lại, Huyết hư thì hạn xuất, không riêng phụ nhơn Huyết hư mới như
thế.
- Tiểu Sài Hồ thang làm chủ: có thể trị Dương phần Hàn Nhiệt cũng có thể trị Âm phần Hàn
Nhiệt, chỉ cần bệnh tại Tấu Bán Biểu là được.
Bệnh giải rồi, ăn được 7 – 8 ngày lại phát sốt, đấy là Vỵ thực, nên dùng Đại Thừa Khí thang
làm chủ.
- Vỵ Khí chủ Tấu, Vỵ hư thì Tấu hư, Vỵ thực thì Tấu thực, Đại Thừa Khí thang làm chủ.
Sau khi sanh trong bụng quặn đau, Đương Qui Sinh Khương Dương Nhục thang làm chủ.
Cùng trị trong bụng Hàn sán, Hư lao bất túc (xem phương ở Hàn sán).
- Sau khi sanh trong bụng quặn đau: tại Đái Âm Huyết hư Hàn, Đương Qui Sinh Khương
Dương Nhục thang làm chủ.
Sau khi sanh bụng đau phiền đầy, không nằm được, Chỉ Thực Bạch Thược tán làm chủ.
Chỉ Thực (đốt cháy đen chớ thái quá), Bạch Thược các vị đồng phân lượng.
2 vị tán bột uống với nước chín 1 thìa phương thốn, ngày 3 lần. Cùng trị Ung nùng dùng cháo
Đại mạch để uống.
- Bụng đau phiền đầy không nằm được: Âm Kinh Huyết Nhiệt tại Đái Thượng, Chỉ Thực Bạch
Thược tán làm chủ.
- Thủy Huyết kết Ung tại Đái Hạ: dùng cháo Đại mạch để uống thuốc.
Thầy nói : Đàn bà sau khi sanh, bụng đau theo Phép nên dùng Chỉ Thực Bạch Thược tán. Giả
như không hết đó là trong bụng có ứ huyết tại dưới rún, Hạ Ứ Huyết thang làm chủ, cùng chủ
trị Kinh Thủy bất lợi.
Đại Hoàng 3 lạng Đào Nhân 30 hạt Manh Trùng 20 con (bỏ chân rang)
3 vị trên, tán bột luyện mật làm thành 4 hoàn, dùng 1 thăng rượu nấu 1 hoàn lấy 8 cáp, uống
hết 1 lần.
* Đây, Túc Tam Âm Kinh Huyết tại Đái mà hành ở Thượng Hạ.
- Bụng đau: tại Đái Thượng theo phép nên dùng Chỉ Thực Bạch Thược tán.
- Bụng có ứ Huyết tại dưới rún: bệnh tại Đái Hạ, nên dùng Hạ Ứ Huyết thang.
227
NGUYÊN VĂN (359)
Sản hậu 7 - 8 ngày không có chứng Thái Dương, bụng dưới rắn đầy, đấy là ác lộ (máu dơ sau
khi sanh) không hết dứt; không đại tiện, bứt rứt vật vã phát sốt. Bắt mạch thấy hơi thực lại
càng phát sốt, lúc xế chiều phiền táo không ăn, ăn thì nói xàm đến đêm thì hết. Nên dùng Đại
Thừa Khí thang làm chủ. Đấy là Nhiệt tại Lý kết tại Bàng Quang.
* Đây, Túc Tam Âm Kinh Huyết tại Tấu mà hành ở Nội Ngoại.
- Bụng dưới rắn đầy, đấy là ác lộ không hết dứt: dư Huyết tại Tấu.
- Không đại tiện, phiền táo phát sốt: tại Tấu Bán Biểu Dương Nhiệt với Dương Hàn làm bệnh.
- Bắt mạch thấy hơi thực, lại thêm phát sốt, xế chiều phiền táo không ăn: tại Tấu Bán Lý Âm
Nhiệt với Âm Hàn làm bệnh.
- Đấy là Âm Nhiệt Huyết tại Tấu Bán Lý cùng với Dương Hàn Thủy kết tại Bàng Quang.
*Chứng bệnh Sản hậu cũng không ngoài Thủy Huyết mà thôi.
Chứng Phong sau khi sanh, liên tục vài mươi ngày không giải, đầu hơi nhức, sợ lạnh thỉnh
thoảng có sốt, dưới Tâm khó chịu, ói liên tục, ra mồ hôi. Tuy lâu ngày chứng Dương đán vẫn
còn, có thể dùng Dương đán thang.
Tức Quế Chi thang tăng Quế 1 lạng gia Phụ Tử 1 củ.
228
BẢN NGHĨA (21/8)
* Đây, Túc Tam Âm tại Tấu chuyển Âm Nhiệt sang Dương Hàn.
- Chứng Phong sau khi sanh: nói Phong do Nội Huyết hư mà phát.
- Liên tục vài mươi ngày không giảm: bệnh tại Tấu cho nên không giải.
- Sợ lạnh thỉnh thoảng có sốt: Dương Nhiệt Kinh thọ Âm Hàn Huyết.
- Dưới Tâm khó chịu: bệnh tại Tấu muốn ra nhưng không ra được.
- Tuy lâu ngày chứng Dương Đán vẫn còn, có thể dùng Dương Đán thang: nửa đêm về sáng,
Âm tận rồi đến Dương gọi là Dương Đán.
Sản hậu Trúng phong, phát sốt mặt đỏ gay, suyễn mà đầu đau, Trúc Diệp thang làm chủ.
Phòng Phong, Cát Cánh, Quế Chi, Nhân Sâm, Cam Thảo mỗi vị 1 lạng
9 vị trên, nước 1 đấu, nấu lấy 2 thăng rưỡi chia uống ấm 3 lần, đắp chăn cho ra mồ hôi.
. Cổ gáy cứng dùng Phụ Tử 1 củ bổ ra như hạt đậu lớn, nấu thành thang bỏ bọt.
* Đây, Túc Tam Âm tại Tấu chuyển Dương Hàn sang Âm Nhiệt.
- Sản hậu Trúng Phong: nói Huyết hư, Phong do Ngoại nhập.
229
- Phát sốt mặt đỏ gay: Âm Nhiệt hiệp Dương Nhiệt nhập Nội.
- Suyễn mà đầu đau: Nhiệt đã hiệp Nhiệt thì Âm Hàn cũng hiệp Dương Hàn mà nhập. Trúc Diệp
thang làm chủ.
- Nấu thang bỏ bọt: để cho thuốc nhập Kinh. Phàm dùng Ma Hoàng bỏ bọt ý đồng.
Đàn bà nhủ trung hư, phiền loạn, ói ngược, An trung ích khí, Trúc Bì Đại hoàn làm chủ.
5 vị trên, tán bột, dùng Táo Nhục (thịt quả táo) hòa hoàn như viên đạn lớn, mỗi lần uống 1
hoàn, ngày 3 đêm 2 lần.
* Đây, Túc Tam Âm tại Đái chuyển Âm Hàn sang Âm Nhiệt mà đi lên.
- An trung ích Khí: an Đái trung Khí, ích Cách trung Huyết. Trúc Bì Đại hoàn làm chủ.
230
NGUYÊN VĂN (363)
Sản hậu, hạ lợi cực hư, Bạch Đầu Ông gia A Giao Cam Thảo thang làm chủ.
6 vị trên, nước 7 thăng nấu lấy 2 thăng rưỡi, bỏ bả, cho A Giao vào tan hết, chia uống ấm 3 lần.
* Đây, Túc Tam Âm tại Đái chuyển Âm Hàn sang Âm Nhiệt mà đi xuống.
- Đấy là Âm Hàn chuyển sang Âm Nhiệt mà hạ lợi: Bạch Đầu Ông gia A Giao Cam Thảo thang
làm chủ.
(Trên đây, chương thứ 21, 11 tiết, luận Phụ Nhơn Sản Hậu)
231
CHƯƠNG 22: PHỤ NHƠN TẠP BỆNH
(23 Tiết, từ 364 đến 386)
LUẬN THẬN
Đàn bà Trúng phong 7 - 8 ngày, liên tục nóng lạnh, phát lên có lúc, Kinh Thủy vừa dứt, đấy là
Nhiệt nhập Huyết thất, Huyết người bệnh ắt kết, khiến cho như trạng sốt rét, phát lên có lúc,
Tiểu Sài Hồ thang làm chủ.
232
- Kinh Thủy vừa dứt: không hiệp với Tấu Huyết.
- Đấy là Nhiệt nhập Huyết thất, huyết người bệnh ắt kết: do Tấu nhập Đái.
- Khiến cho như trạng sốt rét, phát lên có lúc: Dương Hàn tại Đái muốn ra ngoài. Tiểu Sài Hồ
thang làm chủ.
Phụ Nhơn Thương Hàn phát sốt, Kinh Thủy vừa đến, ban ngày tĩnh táo, đêm thì nói xàm như
trạng thấy quỉ, đấy là Nhiệt nhập Huyết thất, trị nó chớ phạm Vỵ Khí, và hai Tiêu trên ắt tự
khỏi.
- Đêm thì nói xàm như trạng thấy quỉ: chỉ riêng Âm Nhiệt làm bệnh.
- Đấy là Nhiệt nhập Huyết thất: Thận Kinh tại Tấu nhập Đái.
- Và hai Tiêu trên ắt tự khỏi: nói chỉ trị Thận Huyết thọ tà, chớ phạm Thận Khí có phương hại
đến hai Tiêu trên.
- Vỵ Khí: tại Thượng là Vỵ Khí, tại Hạ là Thận Khí, chỉ là một Khí vậy.
Đàn bà Trúng Phong, phát sốt sợ lạnh, Kinh Thủy vừa đến, mắc phải 7 - 8 ngày hết sốt, mạch
Trì mình mát, ngực sườn đầy như trạng kết hung, nói xàm, đấy là Nhiệt nhập Huyết thất, cần
phải châm Kỳ Môn, tùy cái thực của nó mà tả đi.
.
233
BẢN NGHĨA (22/3)
- Mắc phải 7 - 8 ngày hết sốt, mạch Trì mình mát: thọ Tấu Âm Hàn nhập Lý.
- Ngực sườn đầy như trạng kết hung, nói xàm: thọ Âm Hàn ắt có Âm Nhiệt tại Nội.
- Đấy là Nhiệt nhập Huyết thất: Thận Kinh tại Tấu nhập Đái.
- Cần phải châm Kỳ Môn: bệnh tại Âm Kinh ắt có Dương Kinh tại Nội.
- Tùy cái thực của nó mà tả đi: biện xem nó thực tại Âm Hàn hoặc Âm Nhiệt.
Dương Minh bệnh ỉa máu, nói xàm, đấy là Nhiệt nhập Huyết thất, chỉ đầu ra mồ hôi, cần phải
châm Kỳ Môn, tùy chứng thực của nó mà tả, dâm dấp ra mồ hôi thì khỏi.
- Dương Minh bệnh ỉa máu, nói xàm, đấy là Nhiệt nhập Huyết thất: Thận Kinh tại Tấu nhập
Đái.
- Tùy thực mà tả, dâm dấp ra mồ hôi thì khỏi: làm cho Dương bệnh theo Âm phần xuất ra.
Đàn bà trong Yết (họng nuốt) như có miếng thịt nướng, Bán Hạ Hậu Phác thang làm chủ.
.
234
BÁN HẠ HẬU PHÁC THANG PHƯƠNG
Bán Hạ 1 thăng, Hậu Phác 3 lạng, Phục Linh 4 lạng, Tô Diệp 2 lạng, Sinh Khương 5 lạng.
5 vị trên, nước 7 thăng nấu lấy 4 thăng, chia uống ấm ngày 3 đêm 1 lần.
Đàn bà Tạng táo, bi thương muốn khóc, tượng như bị Thần linh làm nên, thường ngáp dài,
Cam Mạch Đại Táo thang làm chủ.
3 vị trên, nước 6 thăng nấu lấy 3 thăng, ngày uống 3 lần, cũng bổ Tỳ Khí.
- Buồn thương muốn khóc, giống như bị Thần linh làm nên: Thận Kinh từ Đái mà đi lên đến
Tâm.
- Thường ngáp dài: Huyết ráo. - Cam Mạch Đại Táo thang làm chủ.
Đàn bà mửa bọt dãi, thầy thuốc trái lại cho Hạ, dưới Tâm liền Bỉ, trước tiên phải trị chứng
mửa bọt dãi, Tiểu Thanh Long thang làm chủ. Bọt dãi dứt rồi mới trị Bỉ, dùng Tả Tâm thang
làm chủ.
235
. TIỂU THANH LONG THANG xem phương ở mục Đàm Ẩm.
. TẢ TÂM THANG tức Cam Thảo Tả Tâm thang xem phương ở mục Bách Hợp, Hồ Hoặc.
* Đây, Thận Kinh tại Đái chuyển Dương Hàn Dương Nhiệt ra ngoài.
- Trái lại cho Hạ khiến dưới Tâm Bỉ: Dương Hàn hiệp Dương Nhiệt làm Bỉ.
- Mửa bọt dãi, Tiểu Thanh Long thang làm chủ: trị Dương Hàn.
- Bọt dãi dứt rồi mới trị Bỉ: trước trị Dương Hàn giải rồi, mới trị Dương Nhiệt hiệp làm Bỉ, Tả
Tâm thang làm chủ.
Bệnh của đàn bà nhân bởi hư, tích lãnh, Khí kết làm cho các Kinh Thủy đoạn tuyệt, trải qua
nhiều năm Huyết Hàn tích kết Bào môn, Hàn làm thương Kinh Lạc ngưng cứng.
Tại Thượng ói mửa bọt dãi, lâu ngày thành Phế Ung hình thể hao tổn.
Tại Trung Hàn kết, Hàn sán quanh rún hoặc hai bên sườn đau nhức, tương quan với Tạng (tử
cung) hoặc kết nóng ở trong, đau tại Quan Nguyên, mạch Sác mà không có ghẻ, da thịt giống
như vẩy cá, có lúc thấy cả đàn ông không riêng ở đàn bà.
Tại Hạ bệnh chưa nhiều, Kinh Lạc không cân bằng khiến cho Âm bộ đau rút, bụng dưới sợ
lạnh hoặc dẫn tới eo lưng, xương sống xuống đến gốc Khí nhai, Khí xung đau gấp, đầu gối,
cẳng chân nhức khó chịu, bổng như mạo muội trạng như ‘Khuyết điên’, hoặc có khi sầu thảm,
bi thương hay giận. Như thế đều là bệnh của Đái hạ chẳng phải quỷ thần quấy phá.
Lâu ngày gầy ốm, hình thể hư lạnh nhiều, ba mươi sáu loại bệnh, thiên biến vạn đoan, xem
xét mạch, hoặc Âm Dương, hoặc Hư Thực Khẩn Huyền, tiến hành Châm Cứu hoặc cho thuốc,
trị nguy được an, bệnh tuy có đồng nhưng mạch vẫn khác nguồn gốc, thầy thuốc cần phải
biện xét, ghi nhớ chớ bảo là không thể.
* Đây, Thận Kinh tại Đái thọ Hàn kết Xung Nhâm Đốc Lạc.
236
- Bệnh của đàn bà nhân Huyết hư mà tích lãnh, nhân tích lãnh mà Hàn Khí kết làm cho các
Kinh Thủy đoạn tuyệt, Thận Huyết thọ Hàn lâu ngày kết tại Bào môn.
- Hàn thương Thận Huyết ngày càng sâu, các Kinh Lạc ngưng cứng: Kinh kết Lạc cũng kết.
- Bệnh đến Thượng phần Phủ Tạng các Lạc, như các loại ói mửa bọt dãi, lâu ngày thành Phế
Ung.
- Bệnh đến Trung phần Phủ Tạng các Lạc, như các loại Hàn sán quanh rún, hai bên sườn đau
nhức.
- Bệnh đến Hạ phần Phủ Tạng các Lạc, như loại kết Nhiệt ở trong, đau tại Quan nguyên.
- Mạch Sác không có ghẻ: Thận Huyết thọ Hàn kết ở trong.
- Da thịt giống như vẩy cá: Thận Huyết thọ Hàn kết ở ngoài.
- Có lúc thấy ở đàn ông chẳng phải riêng ở đàn bà: Hàn tích Bào môn.
- Tại Hạ bệnh chưa nhiều, Kinh Lạc không cân bằng: Hàn làm tổn thương Kinh Lạc ngưng cứng.
- Khiến cho âm bộ đau rút, bụng dưới sợ lạnh hoặc dẫn đến eo lưng, xương sống: Thận Huyết
kết Hàn truyền Nhâm Lạc.
- Xuống gốc Khí nhai, Khí xung đau gấp: Thận Huyết kết Hàn truyền Xung Lạc.
- Đầu gối cẳng chân nhức khó chịu, bổng chốc mạo muội trạng như ‘khuyết điên’: Thận Huyết
kết Hàn truyền Đốc Lạc.
- Hoặc có sầu thảm, bi thương hay giận, như thế đều là Thận Huyết kết Hàn tại Đái Hạ truyền
đến Can Tỳ Lạc.
- Chẳng phải có quỉ thần như chứng Huyết kết Tâm Lạc.
- Lâu ngày thì gầy ốm như chứng Huyết kết Bào Lạc.
- Hình thể hư lạnh nhiều như chứng Huyết kết Phế Lạc.
- Ba mươi sáu bệnh, thiên biến vạn đoan như chứng Huyết kết các Thủ Túc Dương Lạc.
237
- Tiến hành châm cứu, cho thuốc trị nguy được an, chứng có tuy đồng là thọ Thận Huyết kết
Hàn mà mạch thì Âm Dương Hư Thực Khẩn Huyền mỗi mỗi đều khác nguồn gốc.
- Cần phải nhận rõ Thận Lạc Huyết hư mà Hàn kết, chớ cho là có nguyên nhân khác.
Hỏi rằng : Đàn bà tuổi 50, bị bệnh hạ lợi vài mươi ngày không dứt, chiều tối phát sốt, bụng
dưới đau ngặt, bụng đầy lòng bàn tay nóng khó chịu, môi miệng khô ráo là sao ?
. Đã từng đẻ non, có ứ huyết bụng dưới chưa trừ, làm sao biết như thế ?
. Chứng của nó môi miệng khô ráo, cho nên biết, Ôn Kinh thang làm chủ.
Đương Qui, Xuyên Khung, Bạch Thược, A Giao, Nhân Sâm, Quế Chi, Đơn Bì, Sinh
Khương, Cam Thảo mỗi vị 2 lạng
. Cũng chủ trị đàn bà bụng dưới lạnh không thọ thai, băng huyết hoặc kinh nguyệt quá
nhiều cùng là đến kỳ không thấy Kinh.
* Đây, Thận Kinh tại Đái thọ Hàn kết Xung Kinh.
- Bệnh hạ lợi vài mươi ngày không dứt: lúc Kinh Thủy cũng kiệt.
- Bụng dưới đau ngặt, bụng đầy: Thận Huyết Hàn kết.
- Lòng bàn tay nóng khó chịu: Tâm Kinh Hàn kết.
238
- Như thế đều là bệnh tại Đái Hạ của chứng Thận Kinh Hàn kết.
- Chứng của nó môi miệng khô ráo: Hàn kết Xung Kinh từ dưới mà lên trên.
Bệnh thuộc Đái Hạ, Kinh Thủy không lợi, bụng dưới đầy đau hoặc một tháng thấy kinh hai
lần, Thổ Qua căn tán làm chủ.
Thổ Qua căn, Bạch Thược, Quế Chi, Giá Trùng mỗi vị 3 phân
4 vị trên tán bột, uống với rượu mỗi lần 1 thìa phương thốn, ngày 3 lần.
* Đây, Thận Kinh tại Đái thọ Hàn kết Đốc Kinh.
- Kinh Thủy không lợi: Đốc Kinh thọ Nhiệt của Thận Huyết.
- Kinh nguyệt một tháng thấy hai lần: Đốc Kinh thọ Hàn của Thận Huyết.
Thốn khẩu mạch Huyền mà Đại, Huyền thì là giảm, Đại thì là Khâu, giảm thì là Hàn, Đại thì là
Hư, Hư Hàn tương bác như thế gọi là Cách. Đàn bà đẻ non, lậu hạ, Triền Phúc Hoa thang làm
chủ.
.
239
TRIỀN PHÚC HOA THANG PHƯƠNG
Triền Phúc Hoa 3 lạng Thông (hành) 14 thân Tân Giáng chút ít.
* Đây, Thận Kinh tại Đái thọ Hàn kết Nhâm Kinh.
- Thốn khẩu mạch Huyền mà Đại: Huyền là tại Biểu Huyết Hàn.
Huyết của Biểu Lý đều Hàn thì Tấu Huyết sao khỏi bị Hàn ?
- Đấy là Thủy Hàn cùng với Huyết Hư tương bác, tên gọi là Cách: cải cách tương bác thành
tương kết tại Nhâm Kinh.
- Triền Phúc Hoa thang làm chủ: trừ kết của Thủy Huyết tại Nhâm Kinh.
Đàn bà hãm Kinh (Kinh Huyết hãm xuống), lậu hạ sắc đen không giải, Giao Khương thang làm
chủ.
A Giao, Sinh Khương đồng phân lượng - 2 vị sắc uống (sách chép thiếu phương này, có chú gia
ghi là Giao Ngãi chương Nhâm Thần).
240
- Lậu hạ là Thủy.
Đàn bà bụng dưới đầy giống như độn dày lên, tiểu tiện hơi khó mà không khát. Sau khi sanh,
đấy là Thủy với Huyết đều kết tại Huyết thất, Đại Hoàng Cam Toại thang làm chủ.
3 vị trên, nước 3 thăng nấu lấy 1 thăng, uống hết 1 lần, Huyết kết phải hạ.
- Bụng đầy như độn dày lên: Thủy Huyết kết tại Thận Kinh.
- Đấy là Thủy Huyết đều kết: tại Thận Kinh của Đái.
Đào Nhân 20 hạt bỏ vỏ và đầu nhọn Đại Hoàng 3 lạng tẩm rượu
4 vị trên tán thô, nước 5 thăng nấu lấy 3 thăng bỏ bả, uống ấm 1 thăng.
241
BẢN NGHĨA (22/14)
- Thủy bị Kinh làm bế, muốn trừ Thủy ắt trước phải trừ Huyết.
Đàn bà Kinh Thủy bế không lợi, tử cung có hòn cứng không dứt, bên trong có càn huyết, ra
vật trắng, Phàn Thạch hoàn làm chủ.
2 vị tán nhuyễn, luyện mật làm hoàn to bằng quả táo, đặt vào tử cung, bệnh nặng thì đặt lần
nữa.
- Kinh bị Thủy làm bế tại Bào môn thành hòn cứng không dứt, Huyết ở trong bị khô, Thủy ở
ngoài ra vật trắng, Phàn Thạch hoàn làm chủ.
Đàn bà 62 loại Phong, trong bụng khí Huyết làm đau nhói, Hồng Lam hoa tửu làm chủ.
Hồng Hoa 1 lạng : 1 vị trên, dùng 1 thăng rượu lớn, nấu giảm phân nửa, uống hết 1 nửa, chưa
dứt thì uống lần 2.
- Sáu mươi hai loại Phong: do Thận Huyết sinh nhất thiết Phong.
242
- Trong bụng Khí Huyết làm đau nhói: tại Đái Thận Huyết làm bệnh.
*Tham khán chương Hư lao Phong Khí bách tật: Nội Phong đều do Thiếu Âm Tâm Thận.
Đàn bà các chứng đau trong bụng, Đương Qui Bạch Thược tán làm chủ. (xem phương chương
Nhâm Thần tiết 346).
Đàn bà trong bụng đau, Tiểu Kiến Trung thang làm chủ (xem phương ở chương Hư Lao).
* Đây, Thận Kinh tại Đái chủ nhất thiết Dương Kinh.
- Trong bụng đau: nhất thiết Thủy Huyết trong Dương Kinh đều gốc ở Thận Kinh tại Đái. Tiểu
Kiến Trung thang làm chủ.
Hỏi rằng : bệnh đàn bà ăn uống như thường, phiền nhiệt không nằm được mà trái lại phải
ngồi dựa để thở là vì sao ?
Thầy đáp : đấy gọi là chuyển Bào không đi tiểu được, vì ‘ Bào hệ’ nhiễu loạn đưa tới bệnh
này; chỉ lợi tiểu tiện thì khỏi. Thận Khí hoàn làm chủ.
243
THẬN KHÍ HOÀN PHƯƠNG
Thục địa 8 lạng Sơn Dược, Sơn Thù mỗi vị 4 lạng Phụ Tử 1 củ
Quế Chi 1 lạng Trạch Tả, Đơn Bì, Phục Linh mỗi vị 3 lạng
8 vị trên, luyện mật làm hoàn to bằng hạt ngô đồng, mỗi lần uống 15 hoàn gia đến 20 hoàn với
rượu, ngày 2 lần.
- Ăn uống như thường: bệnh không tại Thượng mà tại Đái hạ.
- Phiền Nhiệt không nằm được: các Âm Kinh tại Đái phần ở sau lưng.
- Mà trái lại phải ngồi dựa để thở: các Âm Kinh tại Đái phần ở trước ngực.
- Đấy gọi là chuyển Bào không tiểu tiện được: Các Thủ Âm tại Thượng mà chuyển xuống Hạ.
- Vì ‘Bào hệ’ nhiễu loạn: các Túc Âm Kinh tại Hạ nhưng không thuận tiếp.
- Cần phải lợi tiểu tiện mới khỏi, Thận Khí hoàn làm chủ.
Đàn bà âm hộ hàn, làm ấm trong âm hộ bằng thuốc đặt, Xà Sàng Tử tán làm chủ.
Xà Sàng Tử 1 vị tán bột, dùng 1 ít bột trộn đều, viên như hạt táo, bọc vải đặt vào trong âm hộ tự
nhiên sẽ ấm.
* Đây, Thận Kinh tại Đái chủ nhất thiết Hàn Lạc.
- Âm Hàn: Âm hộ Huyết Lạc thọ Hàn dùng bột Xà sàng tử bọc vải đặt vào.
244
NGUYÊN VĂN (384)
Thiếu Âm mạch Hoạt mà Sác là trong Âm sanh ghẻ, trong Âm trùng đục ghẻ lở, dùng Lang Nha
thang để rửa.
Lang Nha 3 lạng : 1 vị nước 4 thăng nấu lấy ½ thăng, dùng bông quấn vòng quanh như cái kén,
tẩm thuốc mà vắt nhỏ giọt vào trong âm hộ, ngày 4 lần.
* Đây, Thận Kinh tại Đái chủ nhất thiết Nhiệt Lạc.
- Trùng đục ghẻ lở: Âm Lạc bị thương, dùng Lang Nha thang để rửa.
Vỵ Khí tiết xuống, âm xuy (trong âm hộ có tiếng kêu) liên tục, đấy là cốc khí thực, Trư Cao Phát
tiển làm chủ. (xem phương ở chương Hoàng Đản).
* Đây, Thận Kinh tại Đái chủ nhất thiết Hậu Thiên chư Khí.
- Đấy là cốc khí thực: nói trong Vỵ thọ Khí của Hậu Thiên Thủy cốc, để bồi dưỡng Khí Tiên Thiên
phát sinh trong Thận. - Trư Cao Phát tiển làm chủ.
Hùng Hoàng, Đình Lịch 2 vị bằng nhau : 2 vị tán bột, lấy mỡ heo thắng ra nước, dùng cành hòe
quấn bông nơi đầu 4 – 5 cái, chấm thuốc, ủi vào chổ răng đau.
245
BẢN NGHĨA (22/23)
* Đây, Thận Kinh tại Đái chủ nhất thiết Tiên Thiên chư Khí.
- Tiểu nhi xỉ (răng trẻ con), Tiên Thiên Khí xung đủ rồi sau mới sinh, có cam trùng dùng
phương này làm chủ.
(Trên đây, chương thứ 22, 23 tiết, luận Phụ Nhơn Tạp Bệnh).
Kinh Lạc sở dĩ làm nên sinh lý của con người ở đó, tức sở dĩ làm bệnh lý nơi con
người cũng ở đó.
Hãy đọc kỹ thì nắm bắt được, không cần cầu ở đâu khác.
246
DANH MỤC PHƯƠNG THANG
Xếp theo mẫu tự ABC.
Sau mỗi tên thang phương là số tiết có dùng phương, số đậm là có thành phần và cách dùng
thuốc (nơi bản gốc).
10- Bạch Đầu Ông gia A Giao Cam Thảo thang 363.
247
22- Bán Hạ Tả Tâm thang 289.
28- Cam Thảo Can Khương Phục Linh Bạch Truật thang 160.
248
47- Đại Hoàng Cam Toại thang 376.
56- Đại Thừa Khí thang 30, 131, 139, 140, 141, 317, 318, 319, 355, 359.
62- Đình Lịch Phòng Kỷ Xuyên Tiêu Đại Hoàng hoàn 183.
66- Đương Qui Sinh Khương Dương Nhục thang 136, 356.
249
72- Hậu Phát Ma Hoàng thang 99.
77- Hoàng Kỳ Bạch thược Quế Chi Khổ Tửu thang 234.
91- Linh Cam Vị Khương Tân Bán Hạ Hạnh Nhân thang 193.
92- Linh Cam Vị Tân Khương Bán Hạ Hạnh Nhân gia Đại Hoàng thang 194.
250
97- Mạch Môn Đông thang 100.
100- Mộc Phòng Kỷ khứ Thạch Cao gia Phục Linh Mang Tiêu thang 178.
251
122- Phục Linh Quế Chi Cam Thảo Đại Táo thang 109.
127- Quát Lâu Giới Bạch Bạch Tửu Bán Hạ thang 113.
135- Quế Chi Cam Thảo Long Cốt Mẫu Lệ thang 82.
138- Quế Chi khứ Bạch Thược gia Thục Tất Long Cốt Mẫu Lệ Cứu Nghịch thang 274.
144- Quế Cam Tân Khương Phụ Tử Ma Hoàng Đại Táo thang 237.
252
147- Tạo Giác hoàn 98.
253
172- Trúc Bì Đại hoàn 362.
Tôi không giữ bản quyền với kỳ vọng thế hệ nối tiếp sẽ làm trong sáng và
lợi ích hơn các di sản văn hóa của dân tôc Việt.
254
MỤC LỤC
ĐỀ MỤC TRANG
Lời Tựa 6
Luận Tam Âm
Luận Bào
Luận Tâm
Luận Phế
Luận Đởm
255
Chương 11 : Ngũ Tạng – Phong Hàn – Tích Tụ 105
Luận Vỵ
Chương 13 : Tiêu Khát – Tiểu tiện bất lợi - Lâm bệnh 134
Luận Tỳ
Chương 16 : Kinh Quý – Nục Huyết – Thổ Huyết – Hạ Huyết – Hung Mãn – Huyết Ứ 176
Luận Can
Chương 19 : Phu Khuyết – Thủ chỉ tí thũng – Chuyển Cân – Hồ Sán – Vưu Trùng 212
Luận Thận
256