You are on page 1of 30

ĐỀ CƯƠNG ĐƯỜNG LỐI ĐẢNG CỘNG SẢN KÌ 192

Câu 1: Sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản
ở Việt Nam (cần phân tích để làm rõ sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong vận dụng lý luận
Mác – Lênin để xây dựng lý luận cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam). Phân tích nội
dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên và giá trị của văn kiện này đối với sự nghiệp giải
phóng dân tộc và phát triển đất nước.

a) Đặc điểm chính trị xã hội Việt Nam dưới chính sách cai trị của thực dân Pháp
(Đọc thêm, lấy kiến thức chung để có thể phân tích làm rõ các nội dung khác)
 Chính sách cai trị của thực dân Pháp

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược Việt Nam. Sau khi tạm thời dập tắt
được các phong trào đấu tranh của nhân dân ta, thực dân Pháp từng bước thiết lập bộ máy
thống trị ở Việt Nam.

Về chính trị:

- Thực dân Pháp thực hiện 3 vấn đề: áp đặt chính sách cai trị thực dân; tước bỏ quyền
lực đối nội và đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn
- Thực hiện chính sách chia để trị: chia Việt Nam thành 3 xứ: Bắc Kỳ, Trung kỳ, Nam
kỳ và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng.
- Câu kết với giai cấp địa chủ trong việc bóc lột kinh tế và áp bức chính trị đối với nhân
dân ta.

Về kinh tế:

- Thực dân Pháp tiến hành cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; đầu tư vốn khai thác tài
nguyên; xây dựng một số cơ sở công nghiệp; xây dựng hệ thống đường giao thông,
bến cảng phục vụ cho lợi ích của chúng. Chính sách khai thác thuộc địa của Pháp đã
tạo sự chuyển biến đối với nền kinh tế Việt nhưng cũng dẫn đến hậu quả là nền kinh
tế nước ta bị lệ thuộc vào tư bản Pháp, bị kìm hãm trong vòng lạc hậu.

Về văn hóa:

- Thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa giáo dục thực dân (Chính sách ngu dân);
dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu… Nguyễn Ái Quốc đã vạch rõ tội ác của chế độ
cai trị thực dân ở Đông Dương: “chúng tôi không những bị áp bức và bóc lột một cách
nhục nhã, mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm… bằng thuốc phiện, bằng
rượu… chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự
do học tập”.
 Đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội ở Việt Nam

Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân, xã
hội Việt Nam diễn ra quá trình phân hóa ngày càng sâu sắc:

Hồ Văn Rồi 1
 Giai cấp địa chủ: Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc
lột, áp bức nông dân. Tuy nhiên, trong nội bộ giai cấp địa chủ Việt Nam lúc này có sự phân
hóa: một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham gia đấu tranh
chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau.
 Giai cấp nông dân: Giai cấp nông dân là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội
Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Tình cảnh khốn khổ, bần cùng
của giai cấp nông dân Việt Nam đã làm tăng thêm lòng căm thù đế quốc và phong kiến tay
sai, làm tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền
sống tự do.
 Giai cấp công nhân Việt Nam: Ra đời từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất
của thực dân Pháp, giai cấp công nhân tập trung nhiều ở các thành phố và vùng mỏ như: Hà
Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Quảng Ninh. Đa số công nhân Việt Nam trực tiếp
xuất thân từ giai cấp nông dân, nạn nhân của chính sách chiếm đoạt ruộng đất mà thực dân
Pháp thi hành ở Việt Nam. Vì vậy, giai cấp công nhân Việt Nam có quan hệ trực tiếp và chặt
chẽ với giai cấp nông dân. Giai cấp công nhân Việt Nam bị đế quốc, phong kiến áp bức, bóc
lột. Đặc điểm nổi bật là: “ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam, và vừa lớn lên nó đã
sớm tiếp thu ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin”
 Giai cấp tư sản Việt Nam: bao gồm tư sản công nghiệp, tư sản thương nghiệp...
Ngay từ khi ra đời, giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh,
chèn ép, do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị của giai cấp tư sản Việt Nam nhỏ bé, yếu ớt.
Vì vậy, giai cấp tư sản Việt Nam không đủ điều kiện để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc,
dân chủ đi đến thành công.
 Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam: Bao gồm học sinh, trí thức, viên chức và những
người làm nghề tự do. Trong đó, giới trí thức và học sinh là bộ phận quan trọng của tầng lớp
tiểu tư sản. Đời sống của tiểu tư sản Việt Nam bấp bênh và dễ bị phá sản trở thành những
người vô sản. Tiểu tư sản Việt Nam có lòng yêu nước, căm thù đế quốc thực dân, lại chịu ảnh
hưởng của những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài truyền vào. Vì vậy, đây là lực lượng có tinh
thần cách mạng cao.

Tóm lại, chính sách thống trị của thực dân Pháp đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt
Nam trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong đó đặc biệt là sự ra đời của 2
giai cấp mới: công nhân và tư sản Việt Nam.

Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân
mất nước và ở những mức độ khác nhau đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột.

Chính sách cai trị, áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và phong kiến tay sai đã tạo ra
hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam: mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân Việt Nam
với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) với
giai cấp địa chủ phong kiến. Trong đó, mâu thuẫn chủ yếu nhất là: mâu thuẫn giữa toàn thể
nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.

Tính chất xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Thực tiễn lịch sử Việt
Nam đặt ra hai nhiệm vụ cách mạng:
Hồ Văn Rồi 2
- Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự do cho
nhân dân
- Hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng
đất cho nông dân

Trong đó chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.

b) Sự chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản
ở Việt Nam (cần phân tích để làm rõ sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc trong vận dụng
lý luận Mác – Lênin để xây dựng lý luận cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam).

- Tại Pháp (1921-1023):

+ 1921: Thành lập Hội liên hiệp thuộc địa, báo Người cùng khổ (Le Paria)

+ Cuối 1921: dự Đại hội I của ĐCS Pháp ở Mác-xây - Trình bày Dự thảo nghị
quyết về "Chủ nghĩa cộng sản và các thuộc địa"; Kiến nghị thành lập Ban nghiên cứu
thuộc địa trực thuộc UBTƯ ĐCS Pháp

+ 1922: trưởng tiểu ban nghiên cứu về Đông Dương

+ Viết báo: Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công nhân

+ Viết Bản án chế độ thực dân Pháp

- Tại Liên Xô (1923-1924):

+ Tháng 6-1923, đi Mát-xcơ-va dự Hội nghị nông dân quốc tế

+ Nghiên cứu kinh nghiệm cách mạng tháng Mười và chủ nghĩa Lênin.

+ Viết bài cho báo Sự thật và tạp chí Thư tín quốc tế

+ 1924, trình bày tham luận tại Đại hội V của QTCS và các đại hội quốc tế

- Tại Trung Quốc và Thái Lan (1924-1929)

+ 1924: thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở á Đông.

+ Tháng 6-1925, sáng lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên,

+ Báo Thanh niên

+ Mở các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ

+ Tác phẩm Đường Kách mệnh

Từ nước ngoài Người đã viết và gửi các sách báo, tài liệu về Việt Nam như các báo
Việt Nam hồn, Người cùng khổ, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp tác phẩm Đường

Hồ Văn Rồi 3
cách Mệnh để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và chỉ rõ con đường cách mạng mà nhân dân
ta cần đi theo.

 Các tác phẩm, bài viết của Người từ 1921-1927 toát lên những quan điểm sau:
+ Chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên
toàn thế giới, là kẻ thù trực tiếp, nguy hại nhất của nhân dân các nước thuộc địa.

+ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con
đường cách mạng vô sản.

+ Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận cách mạng của thời đại - cách mạng vô
sản. Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này
chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới.

+ Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa có mối liên hệ khăng khít với
cách mạng vô sản ở chính quốc, nhưng cách mạng thuộc địa không phụ thuộc vào cách mạng
chính quốc mà có tính độc lập, có thể giành thắng lợi trước và góp phần thúc đẩy làm cho
cách mạng ở chính quốc tiến lên.

+ Tư tưởng về đường lối chiến lược của cách mạng ở thuộc địa là tiến hành giải phóng
dân tộc, mở đưòng tiến lên giải phóng hoàn toàn những người lao động, giải phóng con người,
tức là làm cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên làm cách mạng XHCN. Song trước hết phải
giải phóng dân tộc.

+ Lực lượng của cách mạng: Công nông là gốc của cách mạng, trong đó công nhân là giai
cấp lãnh đạo thông qua đảng tiên phong. Học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn của công
nông. Cách mạng là sự nghiệp của cả dân chúng.

+ Phương pháp cách mạng: Cách mạng Việt Nam phải sử dụng phương pháp bạo lực
cách mạng.

+ Vấn đề đoàn kết quốc tế: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng quốc
tế, nên cách mạng Việt Nam phải tranh thủ, liên minh với cách mạng quốc tế, nhưng đồng
thời phải đề cao tính độc lập tự cường.

+ Vai trò lãnh đạo của Đảng: Đảng lãnh đạo giữ vai trò quyết định cho thắng lợi của
cách mạng.

=> Kết quả của sự chuẩn bị:

- Chủ nghĩa Mác- Lênin và đường lối cách mạng vô sản được truyền bá ngày càng sâu
rộng vào Việt Nam.

- Tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên phát triển mạnh mẽ trên khắp các miền
của đất nước và kiều bào nước ngoài.

Làm rõ lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc

Hồ Văn Rồi 4
 Tính chất, nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc: Giải phóng dân
tộc để đi lên Chủ nghĩa xã hội, hai nhiệm vụ này có mối quan hệ mật thiết với nhau.
- Theo lý luận Mác – Lênin, ở các nước tư bản tiến hành cuộc cách mạng vô sản, sau đó
đi lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Lý luận này hoàn toàn phù hợp với phương Tây do
mâu thuẫn chủ yếu ở phương Tây và trên thế giới là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản. Nhưng cách mạng Việt Nam không phải cách mạng vô sản mà là cách
mạng giải phóng dân tộc đi lên Chủ nghĩa xã hội.
- Từ thực tiễn dân tộc, xác định kẻ thù của dân tộc là thực dân Pháp. Xác định như vậy
là hợp lý. Dưới chính sách của thực dân Pháp, mỗi một giai cấp, mỗi cá nhân con người
Việt Nam, họ chịu chung số phận là người nô lệ mất nước
- Mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân và địa chủ đã tồn tại ở Việt Nam từ rất lâu, tuy nhiên
nó không gay gắt như ở phương Tây, nền kinh tế đất nước còn lạc hậu, khi nông dân
không có tài sản thì địa chủ cũng chẳng có gì. Đồng thời lịch sử cũng đã chứng minh,
mỗi khi vấn đề dân tộc bị xâm phạm thì mâu thuẫn giai cấp được bỏ qua để cùng chung
tay giải quyết vấn đề dân tộc
- Hồ Chí Minh khẳng định giai cấp địa chủ ở Việt Nam thì “không có máy móc, ruộng
đồng thuộc sở hữu của những địa chủ hạng trung và hạng nhỏ và những kẻ ở đó được
coi là đại địa chủ thì chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên ở châu
Âu và châu Mỹ”.
- Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư bản ở Việt Nam: giai cấp tư bản ở
Việt Nam ra đời muộn, số lượng ít, tiềm lực kinh tế không có, mâu thuẫn chưa sâu sắc.
Tư sản ở Việt Nam ra đời đã là giai cấp bị trị
- Mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là mâu thuẫn dân tộc, quy định tính chất và nhiệm vụ
hàng đầu của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc.
 Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng
vô sản
- Đây chính là kết quả qua sự sàng lọc của lịch sử.
- Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, ông cha ta đã sử dụng
nhiều con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng những vũ
khí tư tưởng khác nhau.
- Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, phong trào theo hệ tư tưởng phong kế diễn ra vô
cùng mạnh mẽ với tinh thần “người trước ngã, người sau đứng dậy”, nhưng rốt cuộc
đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Nguyên nhân thất bại là hệ tư tưởng lạc hậu,
không còn phù hợp với thực tiễn đất nước. Mặt khác, triều đình phong kiến nhà Nguyễn
đã đánh mất niềm tin của nhân dân, không còn đủ năng lực để lãnh đạo cách mạng.
- Phong trào theo hệ tư tưởng tư bản nổ ra. Tiêu biểu có các phong trào của Phan bội
Châu, Phan Châu Trinh,… Song vẫn thất bại. Nguyên nhân do giai cấp tư sản Việt
Nam còn non trẻ, tiềm lực kinh tế, chính trị và lực lượng còn yếu. Đồng thời, dưới
quan điểm chủ quan, giai cấp tư sản chưa đánh giá đúng được vai trò to lớn của giai
cấp công nhân và nông dân
- Đồng thời, qua quá trình nghiên cứu thực tiễn, Hồ Chí Minh nhận thấy các cuộc cách
mạng tư sản trên thế giới tuy thành công nhưng chưa triệt để, lợi ích chưa thuộc về đại

Hồ Văn Rồi 5
bộ phân nhân dân, bên cạnh đó, cách mạng vô sản điển hình Cách mạng Tháng Mười
Nga đã thắng lợi. Và đây là một cuộc cách mạng triệt để.
- Hồ Chí Minh thấy được Cách mạng Tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc cách
mạng vô sản, mà còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Nó nêu tấm gương
sáng về sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa và “mở ra trước mắt họ thời đại
cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc”.
- Phong trào theo khuynh hướng vô sản (Nguyễn Ái Quốc) dẫn dắt phong trào yêu nước
của nhân dân ta và phát triển nhanh chóng. Với dân số trên 90% là nông dân, công
nhân, phong trào vô sản đã trở thành phong trào lớn mạnh nhất nước và có khả năng
tập hợp được các lực lượng giai cấp khác.
 Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng cộng sản lãnh đạo

Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người khẳng định: Trước hết phải có đảng cách mệnh,
để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản
giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy”.

Phát triển sáng tạo học thuyết Mac – Lênin về Đảng Cộng sản, Người cho rằng, Đảng
Cộng sản Việt Nam là “Đảng của giai cấp vô sản”, đồng thời là “Đảng của dân tộc”. “Đảng
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và
lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự tổ
quốc và nhân dân”.

Hồ Chí Minh đã xây dựng được một Đảng cách mạng tiên phong, phù hợp với thực tiễn
Việt Nam, gắn bó với nhân dân, với dân tộc, một lòng một dạ phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân
dân, được nhân dân, được dân tộc thừa nhận là đội tiên phong của mình.

Ngay từ khi mới ra đời, Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập đã quy tụ được lực lượng và sức
mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt Nam. Đó là một đặc điểm đồng thời
là một ưu điểm của Đảng. Nhờ đó, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo
duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm cho mọi thắng
lợi của cách mạng.

 Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc

Công nông là gốc của cách mạng, trong đó công nhân là giai cấp lãnh đạo thông qua
đảng tiên phong. Học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn của công nông. Cách mạng
là sự nghiệp của cả dân chúng.

Hồ Chí Minh cho rằng: “Để có cơ thắng lợi, một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông
Dương phải có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn.
Cuộc khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng…”.

Hồ Văn Rồi 6
Người khẳng định “cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một
hai người”. Người phân tích: ‘…dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, nông,
công, thương đều nhất trí chống cường quyền”.

Hồ Chí Minh hết sức nhấn mạnh vai trò động lực cách mạng của công nhân và nông
dân. Người phân tích: Các giai cấp công nhân và nông dân có số lượng đông nhất, nên có sức
mạnh lớn nhất. Họ lại bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất, nên “lòng cách mệnh càng bền, chí
cách mệnh càng quyết…công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp
khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”. Từ đó, Người khẳng định: công,
nông là “gốc cách mệnh”. Khẳng định vai trò đọng lực cách mạng của công nhân và nông dân
là một vấn đề hết sức mới mẻ so với nhận thức của những nhà yêu nước trước
đó.

Trong khi hết sức nhấn mạnh vai trò của công nhân và nông dân, Hồ Chí Minh không
coi nhẹ khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các giai cấp và tầng lớp khác.
Người coi tiểu tư sản, tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp địa chủ là bạn đồng minh của
cách mạng. Người chỉ rõ: “…học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song
không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”.

Thế nên, cách mạng là sự nghiệp của cả dân chúng, có như vậy mới phát huy được sức
mạnh to lớn của dân tộc – sức mạnh của lòng yêu nước, của sự đại đoàn kết.

 Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả
năng giành được thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc

Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng
thuộc địa phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Quan điểm này, vô
hình trung đã làm giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.

Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản
ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu
tranhchống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải
là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính – phụ.

Nhận thức đúng vai trò, vị trí chiến lược của cách mạng thuộc địa và sức mạnh dân tộc,
Nguyến Ái Quốc cho rằng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có thể giành thắng lợi
trước cách mạng vô sản ở chính quốc.

Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn; một cống hiến rất
quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mac – Lênin, đã được thắng
lợi của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên toàn thế giới trong gần một thế kỷ qua
chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.

 Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành bằng con đường cách mạng
bạo lực

Hồ Văn Rồi 7
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp dã man
các phong trào yêu nước. “Chế độ thực dân, tự bản thân nó, đã là một hành động bạo lực của
kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi”. Chưa đánh bại được lực lượng và đè bẹp ý chí xâm lược của
chúng thì chưa thể có thắng lợi hoàn toàn, vì thế, con đường để giành và giữ độc lập dân tộc
chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực.

Hồ Chí Minh vạch rõ tính tất yếu của bạo lực cách mạng: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ
chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản
cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”.

Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin, coi sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng bạo lực cách mạng là bạo lực của quần chúng.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng khác hẳn tư tưởng hiếu chiến của các thế
lực đế quốc xâm lược. Xuất phát từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con
người, Người luôn tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu. Người tìm mọi
cách ngăn chặn xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp
hòa bình, chủ động đàm phán, thương lượng, chấp nhận những nhượng bộ có nguyên tắc.
Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi không còn khả
năng hòa hoãn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, chỉ muốn giành thắng lợi
bằng quân sự thì Hồ Chí Minh mới kiên quyết phát động chiến tranh.

c) Phân tích nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên và giá trị của văn kiện này đối
với sự nghiệp giải phóng dân tộc và phát triển đất nước. (Tư tưởng Hồ Chí Minh
về cách mạng giải phóng dân tộc là dự thảo, là tiền đề cho Cương lĩnh đầu tiên, có thể
lấy ý câu b làm rõ thêm)

Văn kiện được thông qua trong Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (6/1 –
7/2/1930). Cương lĩnh xác định các vấn đề cơ bản của cách mạng Viêt Nam:

- Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “tư sản dân quyền
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Ta thấy có 3 vấn đề được nêu ra:
+ Tư sản dân quyền
+ Thổ địa cách mạng
+ Xây dựng xã hội chủ nghĩa
Đề ra hai nhiệm vụ là tư sản dân quyền nhằm đánh đổ thực dân Pháp xâm lược và thổ địa
cách mạng nhằm giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, sau khi giành được độc lập cho
dân tộc, giành được lợi ích cho nhân dân, tiến lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhiệm
vụ giải phóng dân tộc là cái cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền.
Việc xác định như vậy là hoàn toàn đúng đắn, đáp ứng nhu cầu bức thiết của xã hội Việt
Nam lúc bấy giờ là giành độc lập dân tộc.
Hồ Văn Rồi 8
- Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng:
+ Về chính trị: Đề cao nhiệm vụ chống đế quốc, đưa nhiêm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu. Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt Nam được
hoàn toàn độc lập; lập chính phủ công nông binh; tổ chức quân đội công nông.

Lúc bấy giờ, nhân dân Việt Nam chịu chung số phận là người nô lệ mất nước. Việc
xác định nhiệm vụ như vậy là vô cùng đúng đắn. Có giải quyết xong vấn đề của dân tộc, thì
vấn đề giai cấp mới có thể được giải quyết. Tiến đến xây dựng nhà nước của đại đa số nhân
dân – chính phủ công nông binh.

+ Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn
(như công nghiệp, vận tải, ngân hàng v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho
Chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm
của công chia cho dân cày nghèo; bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và
nông nghiệp; thi hành luật ngày làm 8 giờ.

Qua nội dung trên lĩnh vực kinh tế ta thấy, Nguyễn Ái Quốc đánh Pháp trên các mặt
trận. Tuy nhiên, đối với tư sản dân tộc và địa chủ yêu nước, nhìn chung chỉ đánh trên mặt trận
chính trị, không đánh trên mặt trận kinh tế, vẫn đảm bảo quyền lợi các giai cấp. Có như vậy,
phong trào vô sản mới có thể tập hợp đầy đủ các giai cấp có tinh thần yêu nước dốc sức tham
gia phong trào cách mạng, phát huy đầy đủ tinh thần dân tộc. Nâng cao vai trò của giai cấp
công – nông nhưng vẫn có cái nhìn khách quan, toàn diện về vấn đề dân tộc. Sau khi giành
được độc lập, tiến hành hành giải quyết vấn đề giai cấp, giành quyền lợi cho giai cấp nông
dân và công nhân.

+ Về văn hóa - xã hội: dân chúng được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, v.v; phổ
thông giáo dục theo hướng công nông hóa.

- Về lực lượng cách mạng: Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải
dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến;
phải làm cho các đoàn thể thợ thuyền và dân cày (công hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền
lực và ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia; phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Đối với phú nông,
trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu
mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (như Đảng lập hiến,
v.v.) thì phải đánh đổ.
Ở đây khẳng định: lực lượng cách mạng là cả dân tộc. Không phân biệt miễn có tinh thần
yêu nước. Đây cũng là điểm sáng tạo của Bác so với lý luận Mác – Lênin. Lý luận Mác –
Lênin giải quyết mâu thuẫn giai cấp vô sản và tư sản nên chỉ xác định lực lượng là giai cấp
vô sản. Nhưng đối với thực tiễn ở Việt Nam, đây là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc giải
quyết vấn đề của dân tộc nên lực lượng là toàn thể nhân dân, là tất cả những người yêu nước.

- Về lãnh đạo cách mạng: Giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Hồ Văn Rồi 9
“Muốn cách mệnh thành công, trước hết phải có đảng cách mệnh”. Đảng là đội tiên
phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho
giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng; trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận,
không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào con đường thỏa hiệp.

Đảng là yếu tố quyết định sự thắng lợi của cách mạng. Đây là sự vận dụng theo chủ nghĩa
Mác – Lênin một cách sáng tạo. Bác khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là chính Đảng
của giai cấp công nhân, là đảng của nhân dân Việt Nam.

Một lần nữa khẳng định vai trò của giai cấp công nhân. Động lực cách mạng của giai cấp
vô sản. Đây là kết quả qua quá trình sàng lọc của lịch sử trên thực tiễn. Từ giai đoạn trước,
phong trào cách mạng theo khuynh hướng phong kiến, tiếp đến là tư sản với sự lãnh đạo của
các giai cấp phong kiến, nông dân, tư sản nhưng tất cả đều thất bại. Sự xuất hiện của cách
mạng vô sản chính là ánh sáng cuối đường hầm cho cách mạng Việt Nam mà lãnh đạo chính
là giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản.

- Về quan hệ cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới: Cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, phải thực hành liên lạc với các dân
tộc bị áp bức và giai cấp vô sản trên thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
 Đồng thời, Hồ Chí Minh nhận thức được vai trò của cách mạng thuộc địa.Bác
nhận định: cách mạng thuộc địa có mối quan hệ mật thiết với cách mạng vô sản ở chính quốc.
Nhưng đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải mối quan hệ phụ thuộc và có khả năng
giành thắng lợi trước cách mạng ở chính quốc. Muốn thắng lợi phải tự thân vận động không
thể chỉ phụ thuộc vào các yếu tố khác

- Về phương pháp cách mạng: Phương pháp cách mạng cơ bản của Việt Nam
là dùng sức mạng tổng hợp của quần chúng nhân dân, đó là bạo lực cách mạng:
đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và phong kiến, đánh đổ các Đảng phản cách mạng, đánh trúc
bọn đại địa chủ và phong kiến.

 Ý nghĩa cương lĩnh chính trị đầu tiên


Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã phản ánh một cách súc tích các luận điểm cơ
bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó, thể hiện bản lĩnh chính trị độc lập, tự chủ, sáng tạo
trong việc đánh giá đặc điểm, tính chất xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam trong
những năm 20 của thế kỷ XX, chỉ rõ những mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của dân tộc Việt
Nam lúc đó, đặc biệt là việc đánh giá đúng đắn, sát thực thái độ các giai tầng xã hội đối với
nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Từ đó, đã xác định đường lối chiến lược và sách lược của cách
mạng Việt Nam, đồng thời xác định phương pháp cách mạng, nhiệm vụ cách mạng và lực
lượng của cách mạng để thực hiện đường lối chiến lược và sách lược đã đề ra.

Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là sự vận dụng đúng
đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa nửa phong

Hồ Văn Rồi 10
kiến. Đó chính là giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cốt lõi trong cách mạng Việt Nam: kết
hợp đúng đắn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc; kết hợp truyền thống yêu nước và tinh thần
cách mạng của nhân dân ta với những kinh nghiệm của cách mạng thế giới; kết hợp chủ nghĩa
yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Đặc biệt là sự kết hợp nhuần nhuyễn và đầy sáng
tạo, đặc điểm thực tiễn, yêu cầu của cách mạng Việt Nam với tư tưởng tiên tiến cách mạng
của thời đại. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách
đúng đắn, sáng tạo và có phát triển trong điều kiện lịch sử mới.

Những nội dung cơ bản ấy đã khẳng định lần đầu tiên cách mạng Việt Nam có một bản
cương lĩnh chính trị phản ánh được quy luật khách quan của xã hội Việt Nam, đáp ứng những
nhu cầu cơ bản và cấp bách của xã hội Việt Nam, phù hợp với xu thế của thời đại, định hướng
chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách mạng Việt Nam.

Cương lĩnh cũng đánh dấu bước phát triển về chất của cách mạng Việt Nam chứng tỏ giai
cấp công nhân và đội tiên phong là Đảng đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi đến thắng
lợi.

Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt đã trở thành ngọn cờ đoàn kết toàn Đảng toàn dân,
là vũ khí chiến đấu sắc bén của Cộng sản Việt Nam trước mọi kẻ thù, là cơ sở cho các đường
lối chủ trương của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua và là nhân tố quan trọng để
chỉ đường cho nhân dân ta đạt nhiều thành tựu to lớn.

Câu 2: Luận cương chính trị (10/1930) (Phân tích nội dung và đánh giá ưu điểm, hạn chế)

Theo Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Đảng đã phát động cao trào cách mạng 1930-1931 mà
đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, qua đó đã khẳng định trong thực tiễn vai trò lãnh đạo cách
mạng của Đảng và sức mạnh của khối liên minh công nông. Tuy nhiên, vấp phải sự không
đồng thuận của Quốc tế Cộng sản về một số vấn đề trong Hội nghị hợp nhất Đảng như xác
định lực lượng cách mạng, phạm vi cách mạng, nhiệm vụ chiến lược,… Quốc tế Cộng sản chỉ
đạo Trần Phú lúc bấy giờ đang học ở Nga về nước.

Tháng 4/1930, Trần Phú về nước. Tháng 7/1930, Trần Phú được bổ sung vào BCHTW
Đảng và chuẩn bị nội dung cho Hội nghị BCHTW sắp tới của Đảng. Đến 10/1930, Trần Phú
chủ trì Hội nghị BCHTW Đảng lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc). Hội nghị đã thông
qua một số vấn đề như:

- Quyết định đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương
- Nghị quyết "Về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng"
- Điều lệ Đảng
- Thảo luận Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú soạn
thảo
- Thành lập Ban chấp hành Trung ương mới của Đảng. Thống nhất chọn đồng chí Trần
Phú là Tổng bí thư

Hồ Văn Rồi 11
Nội dung của Luận cương:

 Xác định mâu thuẫn xã hội Việt Nam: Trần Phú xác định có 2 mâu thuẫn chính và để
cao mâu thuẫn giai cấp trong xã hội Việt Nam; chỉ rõ mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt giữa
một bên là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến và
tư bản đế quốc.
 Xác định như vậy là chưa phù hợp với thực tiễn xã hội Việt Nam. Thực tế, ở Việt Nam,
mâu thuẫn giai cấp vẫn còn tồn tại tuy nhiên không gay gắt như xã hội phương Tây. Trần
Phú xác định các thành phần phong kiến, tư sản là đối tượng của cách mạng, cùng phe
với đế quốc như vậy là không phù hợp, thực tế chỉ có một bộ phận đại địa chủ, tư sản mại
bản làm việc cho Pháp; vẫn còn một bộ phận phong kiến, tư sản yêu nước.
 Phân tích và xác định mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ, là điều kiện, cơ sở
để phân tích xác định các vấn đề cơ bản khác
 Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc xác định mâu thuẫn cốt yếu trong
xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và thực dân Pháp. Do chịu ảnh
hưởng của quốc tế cộng sản và chưa nhận thức được sâu sắc thực tiễn xã hội Việt Nam,
khác với Cương lĩnh, Luận cương chính trị quá nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp, chưa nêu
được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp, chưa thấy
được hết khả năng tham gia đấu tranh giải phóng dân tộc của các giai cấp, đặc biệt là còn
có các giai cấp phong kiến, tư sản có tinh thần yêu nước, có khả năng ủng hộ cách mạng.

 Chiến lược cách mạng Đông Dương: Tiến hành cách mạng Tư sản dân quyền có tính chất
thổ địa và phản đế. Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng. Sau khi
cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản mà tranh đấu
thẳng lên con đường XHCN.
 Ở đây, Trần Phú xác định thực hiện tư sản dân quyền sau đó bỏ qua thời kì tư bản chủ nghĩa đi
lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, Trần Phú xác định tư sản dân quyền có tính chất thổ
địa và phản đế, thổ địa là nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền. Ở đây, Trần Phú đã gộp
chung việc phản đế và thổ địa bản chất của cách mạng tư sản dân quyền có sự khác so với
Cương lĩnh chính trị của Nguyễn Ái Quốc.
 Cương lĩnh đầu tiên xác định thực hiện tư sản dân quyền kết hợp thổ địa cách mạng sau đó đi
lên xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, thổ địa cách mạng không phải là nhiệm vụ của tư
sản dân quyền, trong cách mạng tư sản dân quyền không có thổ địa
 Cùng thực hiện tư sản dân quyền đi đến xã hội chủ nghĩa, song về bản chất có sự khác biệt dẫn
đến việc xác định nhiệm vụ hàng đầu cho cách mạng Việt Nam là khác nhau.

 Nhiệm vụ của cách mạng Tư sản dân quyền: Đánh đổ phong kiến để thực hiện cách
mạng ruộng đất triệt để; đánh đổ đế quốc để Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ
này có quan hệ khăng khít, trong đó vấn đề đánh đổ phong kiến đem lại ruộng đất cho nông
dân là vấn đề cốt lõi của Cách mạng Tư sản dân quyền.
 Trong khi, Cương lĩnh chính trị đề cao nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập cho dân
tộc, giành quyền tự quyết cho dân tộc, chống phong kiến chỉ dừng lại ở mức độ chính trị.

Hồ Văn Rồi 12
Thổ địa cách mạng được đặt ra ngoài cách mạng tư sản dân quyền (để có thể tập hợp toàn
bộ các tầng lớp, giai cấp tham gia đấu tranh giải phóng dân tộc)
 Thì trong Luận cương chính trị, do quá nhấn manh tập trung vào mâu thuẫn giai cấp, Trần
Phú cho rằng đánh đổ phong kiến là vấn đề cốt lõi, nhấn mạnh nhiệm vụ chống phong
kiến. Như vậy không thể tranh thủ sự hỗ trợ của các thành phần phong kiến, tư sản yêu
nước, không phát huy được hết được yếu tố dân tộc trong công cuộc cách mạng.

 Lực lượng cách mạng: Công nhân - nông dân là lực lượng chính, trong đó công nhân
là giai cấp lãnh đạo. Đánh giá thái độ đối với cách mạng của các giai tầng khác như sau: Tư
sản thương nghiệp thì đứng về phe đế quốc và địa chủ chống lại cách mạng, còn tư sản công
nghiệp thì đứng về phía quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế
quốc. Trong giai cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ công nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư sản
thƣơng gia thì không tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc gia chủ
nghĩa và chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế quốc trong thời kỳ đầu
 Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc xác định ngoài công nông, Đảng
lôi kéo thêm tiểu tư sản, tư sản, địa chủ vừa và nhỏ có tinh thần yêu nước, phát huy vai
trò sức mạnh của cả khối đại đoàn kết toàn dân. Nhưng do quá nhấn mạng mâu thuẫn giai
cấp và đứng trên quan điểm của giai cấp vô sản khẳng định một cách chủ quan, trong
Luận cương chính trị, Trần Phú đã chưa đánh giá đúng được thái độ cách mạng các giai
tầng khác, không tranh thủ được sự ủng hộ triệt để của giai cấp khác, không phát huy
được sức mạnh nhân dân, tinh thần yêu nước một cách triệt để

 Phương pháp cách mạng: Thực hiện vũ trang bạo động, sử dụng bạo lực cách mạng
một cách linh hoạt, phù hợp với tình hình. Võ trang bạo động để giành chính quyền là một
nghệ thuật, “phải tuân theo khuôn phép nhà binh”.
 Đảng lãnh đạo: Đảng phải có đường lối đúng, liên hệ mật thiết với quần chúng. Đảng
là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy Chủ nghĩa Mác- Lênin làm nền tảng, phấn đấu vì
mục tiêu chủ nghĩa cộng sản.
 Nêu và khẳng định được vai trò của Đảng Cộng sản, có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp
cách mạng.
 Quan hệ quốc tế: Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới,
phải đoàn kết với vô sản thế giới, trước hết là vô sản Pháp.
 Ý nghĩa của Luận cương.
Luận cương chính trị tháng 10/1930 đã vạch ra nhiều vấn đề cơ bản thuộc về chiến
lược cách mạng. Khẳng định lại nhiều vấn đề đã được khẳng định trong Cương lĩnh chính trị.
Điểm đồng nhất của Luận cương chính trị 10/1930 và Cương lĩnh chính trị. Đây cũng chính
là ưu điểm của Luận cương:

- Xác định phương hướng chiến lược của cách mạng là đều đi lên CNXH
- Xác định 2 nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến
- Lực lượng cách mạng là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân
- Phương pháp cách mạng: sử dụng bạo lực cách mạng

Hồ Văn Rồi 13
- Quan hệ với cách mạng thế giới: xác định Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới, phải đoàn kết gắn bó với CMVS thế giới, CMVS Pháp.
- Lãnh đạo cách mạng: Đảng cộng sản
Tuy nhiên do nhận thức giáo điều, máy móc về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và
giai cấp trong cách mạng thuộc địa, đồng thời chịu ảnh hưởng trực tiếp khuynh hướng “tả”
của QTCS, nên Luận cương có nhiều hạn chế. Những hạn chế này cũng chính là điểm khác
biệt so với Cương lĩnh trong phần phân tích nội dung:

- Không nêu được nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu mà nặng về đấu tranh giai
cấp, về cách mạng ruộng đất (Hạn chế trong xác định phương hướng và chiến lược
- Không đề ra được một chiến lược liên minh dân tộc và giai cấp rộng rãi (Hạn chế trong
xác định lực lượng)
- Trong giải quyết vấn đề dân tộc:
o Cương lĩnh chính trị: xác đinh phạm vi là Việt Nam
o Luận cương chính trị: xác định phạm vi là ba nước Đông Dương
Theo Hồ Chí Minh thì mỗi nước láng giềng có quan hệ với nhau về nhiều mặt, tuy
nhiên, mỗi nước đều có đặc điểm, vấn đề khác nhau, cho nên đảng phải là đảng riêng của từng
dân tộc. Việc đổi tên Đảng cộng sản Việt Nam thành Đảng cộng sản Đông dương, không phát
huy được quyền tự quyết dân tộc.

Từ nhận thức hạn chế như vậy, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã phê phán gay gắt
quan điểm đúng trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Hội nghị hợp nhất thông
qua. Đó là quyết định không đúng. Sau này trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta từng
bước sửa chữa khắc phục những hạn chế đó và đưa cách mạng đến thành công.

Câu 3: Đường lối kháng chiến chống Pháp (Làm rõ những nguyên nhân Đảng quyết định
phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp, phân tích nội dung đường lối
kháng chiến và những tác dụng đối với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp)

a) Nguyên nhân Đảng quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực
dân Pháp
 Hoàn cảnh lịch sử
Quốc tế: Việt Nam bị bao vây cô lập
- Liên Xô và các nước Đông Âu chưa công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
 Chưa đặt ngoại giao được với bất kì nước nào.
- Cách mạng Trung Quốc chưa thành công.
 Chưa được sự hỗ trợ cũng như công nhận của các nước phe xã hội chủ nghĩa.
Trong nước:
- Thực dân Pháp liên tục khiêu khích, lấn chiếm, quyết cướp nước ta một lần nữa.
 Ngoan cố, không công nhận Việt Nam là một nước độc lập có chủ quyền. Tuy nhiên,
để là rõ cũng như nhận định đúng nhất kẻ thù của dân tộc, Bác đã từng nói không đánh

Hồ Văn Rồi 14
đồng chính phủ Pháp, nhân dân Pháp mà kẻ thù là bọn thực dân tay sai phản động
Pháp.
- Việt Nam đã nỗ lực cứu vãn hòa bình bằng giải pháp thương lượng nhưng chưa mang
lại kết quả; Việt Nam tích cực chuẩn bị lực lượng
 Trong văn bản nhận định “Tình hình và chủ trương” (3/3/1946), khẳng định: “Lập
trường giảng hòa của ta đi với Pháp là độc lập nhưng liên minh với Pháp. Pháp phải
thừa nhận quyền dân tộc tự quyết của dân ta “Chính phủ, quân đội, nghị viện, tài chính,
ngoại giao,v.v.” và “sự thống nhất quốc gia của ta”.
 Như kí hiệp định sơ bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946), chủ trương hòa hoãn với
Pháp. Hay tham gia cuộc đàm phán Việt – Pháp Fôngtenbờlô, nhưng thực dân Pháp
giữ thái độ ngoan cố, chúng muốn cướp nước ta một lần nữa!
- So sánh lực lượng Việt Nam và Pháp chênh lệch về nhiều mặt như quân đội, kinh tế,
kỹ thuật,…
Phân tích tương quan lực lượng của Việt Nam và Pháp
 Pháp
- Là một cường quốc, có khoa học kỹ thuật hiện đại phát triển, quân đội hùng mạnh
nuôi hy vọng giành thắng lợi nhờ quân sự và vô cùng hiếu chiến
- Có sự hậu thuẫn của Anh, Mỹ

 Việt Nam
- Vừa giành được độc lập
- Quân đội còn non trẻ
- Khó khăn về nhiều mặt

 Hồ Chí Minh phân tích sự chuyển biến so sánh lực lượng giữa ta và địch. “Lúc bắt đầu
kháng chiến, quân đội ta là một quân đội thơ ấu. Tinh thần dũng cảm có thừa, nhưng
thiếu vũ khí, thiếu kinh nghiệm, thiếu cán bộ, thiếu mọi mặt. Quân đội địch là quân
đội nổi tiếng trong Thế giới. Chúng có hải, lục, không quân. Chúng lại có đế quốc Anh
– Mỹ giúp, nhất là Mỹ. Lực lượng ta và địch so le nhiều như thế, cho nên lúc đó có
người cho rằng. Cuộc kháng chiến của ta là “châu chấu đá voi”. Nếu chỉ nhìn về vật
chất, nhìn ở hiện trạng thì con mắt hẹp hòi chỉ thấy thế thật. Vì để chống máy bay, đại
bác của giặc, ta chỉ có gậy tầm vông. Nhưng chúng ta không chỉ nhìn vào hiện tại mà
nhìn vào tương lai, chúng ta ti chắc vào tinh thần và lực lượng của quần chúng, của
dân tộc. Cho nên chúng ta quả quyết trả lời những người lừng chừng và bi quan kia:
Nay tuy châu chấu đá voi
Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra.
Đây cũng chính là niềm tin chắc thắng của Bác trong cuộc kháng chiến này
 Nguyên nhân tiến hành kháng chiến chống Pháp
- Việt Nam đã cố gắng hết sức để hòa hoãn, gìn gữa hòa bình. Song thực dân Pháp vẫn
ngoan cố muốn cướp nước ta bằng sức mạnh quân sự.
- Tháng 11/1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng cả thành phố Hải Phòng và
thị xã Lạng Sơn, đổ bộ lên Đà Nẵng và gây ra nhiều cuộc khiêu khích, tàn sát đồng

Hồ Văn Rồi 15
bào ta ở Hà Nội. Trung ương Đảng đã chỉ đạo tìm cách liên lạc với phía Pháp để giải
quyết vấn đề bằng biện pháp đàm phán, thương lượng.
- Trước việc Pháp gửi tối hậu thư đòi ta tước vũ khí của tự vệ Hà Nội, để cho chúng
kiểm soát an ninh trật tự ở Thủ đô, ngày 19/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
đã họp Hội nghị mở rộng tại làng Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự chủ trì của Hồ Chí
Minh để hoạch định chủ trương đối phó. Hội nghị đã cử phái viên đi gặp phía Pháp để
đàm pháp song không có kết quả. Hội nghị cho rằng, hành động của Pháp chứng tỏ
chúng cố ý muốn cướp nước ta một lần nữa. Khả năng hòa hoãn không còn. Hòa hoãn
nữa sẽ dẫn đến họa mất nước.
- Trong “Lời kêu gọi đồng bào toàn quốc, nhân dân Pháp, nhân sĩ toàn thế giới”, Bác
đã nói: “Sự thật rõ ràng, bọn thực dân Pháp muốn cướp nước ta một lần nữa. Nay Việt
Nam ta chỉ có hai đường: hoặc bó tay chịu mất nước, cúi đầu làm nô lệ cho thực dân
Pháp, hoặc kiên quyết phấn đấu để gữ quyền độc lập, tự do. Không! Dân Việt Nam
quyết không chịu mất nước, quyết khôgn chịu làm nô lệ. Dù phải hy sinh, đau khổ đến
mấy, dân Việt Nam cũng quyết giữ lấy quyền độc lập tự do”.
- Trong thời điểm lịch sử phải quyết đoán ngay, Hội nghị đã hạ quyết tâm phát động
cuộc kháng chiến trong cả nước và chủ động tiến công trước khi thực dân Pháp thực
hiện màn kịch đảo chính quân sự ở Hà Nội. Mệnh lệnh kháng chiến được phát đi. Vào
lúc 20 giờ ngày 19/12/1946, tất cả các chiến trường trong cả nước đã đồng loạt nổ
súng. Rạng sáng ngày 20/12/1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí
Minh được phát đi trên Đài tiếng nói Việt Nam.
“Hỡi đồng bào toàn quốc.
Chúng ta muốn hòa bình. Chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng càng nhân
nhượng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng kiên quyết cướp nước ta
một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!”
- Khi phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Việt Nam có những thuận lợi
và khó khăn như sau:
 Thuận lợi:
- Ta chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc và đánh địch trên đất nước mình
nên có chính nghĩa, có “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”. Ta cũng có sự chuẩn bị cần thiết
về mọi mặt nên về lâu dài ta sẽ có khả năng đánh thắng quân xâm lược.
- Thành công của cách mạng tháng Tám (1945), thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã củng cố cũng như khẳng định những đường lối, quyết định đúng đắn của Đảng,
nhân dân đặt niềm tin vào Đảng hơn
- Trong khi đó, thực dân Pháp có nhiều khó khăn về chính trị, kinh tế, quân sự ở trong
nước và tại Đông Dương không dễ gì khắc phục được ngay.
 Khó khăn:

Hồ Văn Rồi 16
- Tương quan lực lượng quân sự yếu hơn địch. Ta bị bao vây 4 phía, chưa được nước
nào công nhận, giúp đỡ. Còn quân Pháp lại có vũ khí tối tân, đã chiếm đóng được 2
nước Lào, Campuchia và một số nơi ở Nam Bộ Việt Nam, có quân đội đứng chân trong
các thành thị lớn ở miền Bắc.
b) Phân tích nội dung đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp
Từ những đặc điểm của sự khởi đầu và các thuận lợi, khó khăn là cơ sở để Đảng xác định
đường lối cho cuộc kháng chiến. Và đường lối kháng chiến của Đảng được hình thành, bổ
sung, hoàn chỉnh qua thực tiễn.

Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được hoàn chỉnh và thể hiện tập trung trong 3
văn kiện lớn được soạn thảo và công bố sát trước và sau ngày cuộc kháng chiến toàn quốc
bùng nổ. Đó là văn kiện Toàn quốc kháng chiến của Trung ương Đảng (12/12/1946), Lời kêu
gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (19/12/1946) và tác phẩm Kháng chiến nhất định
thắng lợi của Trường Chinh.

Nội dung đường lối:

 Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng tháng Tám, “Đánh
phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và độc lập”.
 Tính chất kháng chiến: “Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc chiến
tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính chất toàn dân, toàn diện
và lâu dài”. “Là cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình”. Đó là cuộc
kháng chiến có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
 Chính sách kháng chiến: “Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp.
Đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn
dân. Thực hiện toàn dân kháng chiến… Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt”.
 Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến:
Đoàn kết toàn dân. Động viên nhân lực, vật lực, tải lực thực hiện kháng chiến
toàn dân toàn diện, trường kỳ. Giành quyền độc lập, bảo toàn lãnh thổ, thống nhất đất
nước.
Củng cố chế độ dân chủ cộng hòa, tăng gia sản xuất, thực hiện kinh tế tự túc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chia cuộc kháng chiến chống Pháp thành ba giai đoạn chiến lược:

- Giai đoạn thứ nhất: Ta cốt giữ vưng và phát triển chủ lực. Giai đoạn này từ 23/9/1945
đến hết chiến thắng Việt Bắc 1947.
- Giai đoạn thứ hai: Chuẩn bị tổng phản công, giai đoạn này từ sau chiến thắng Việt Bắc
đến chiến thắng Biên Giới.
- Giai đoạn thứ ba là Tổng phản công từ sau chiến thắng Biên Giới đến kết thúc kháng
chiến chống Pháp.

Các giai đoạn có mối quan hệ hữu cơ với nhau, giai đoạn sau kế tiếp giai đoạn trước. Có
nhiều sự biến đổi mới sinh ra từ một giai đoạn này đến một giai đoạn khác. Trong một giai
đoạn cũng có sự biến đổi của nó. Một giai đoạn dài hay ngắn phải tuỳ theo tình hình trong

Hồ Văn Rồi 17
nước và thế giới, tuỳ theo sự biến đổi lực lượng địch và lực lượng ta. Người nhắc nhở: “Vô
luận thế nào, chuẩn bị càng cẩn thận, càng đầy đủ, thì tổng phản công càng chắc chắn, càng
thuận lợi”

 Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện
kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính.
Kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái,
dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam phải đứng lên đánh thực dân
Pháp”, thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài.
- Nhân dân VN phải chiến đấu với kẻ thù mạnh hơn rất nhiều lần, chúng ta phải lấy nhỏ
đánh lớn. Chúng ta không cho phép sử dụng lực lượng chính trị đơn thuần, tiến hành
chiến tranh thông thường mà có thể thắng được giặc, ta phải huy động sức mạnh của
toàn dân tộc, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, tiến hành đấu tranh trên
tất cả các mặt trận, tiến hành đấu tranh quân sự là quan trọng nhất
- Do tương quan lực lượng giữa ta và Pháp chênh lệch về nhiều mặt nên chúng ta phải
tiến hành kháng chiến toàn dân.
- KCTD là huy động toàn dân tham gia kháng chiến. Thực hiện mỗi người là một người
lính, mỗi làng xóm là một pháo đài, mỗi khu phố là một trận địa; đánh giặc bằng mọi
vũ khí có trong tay
- Đảng đã phát động cuộc chiến tranh nhân dân, không chỉ dựa vào quân đội mà dựa vào
lực lượng của toàn dân, có lực lượng vũ trang 3 thứ quân làm nòng cốt( bộ đội chủ lực,
bộ đội địa phương, dân quân du kích); là cuộc chiến tranh hậu phương và tiền tuyến
đan xen nhau, hậu phương tại chỗ, tiền tuyến cũng tại chỗ
- Chúng ta không so sánh về sức mạnh vật chất với thực dân Pháp mà chúng ta so sánh
sức mạnh tổng hợp của tinh thần toàn dân tộc. Vì vậy chúng ta huy động sức mạnh
toàn dân tham gia kháng chiến,
- “ Giặc chiếm trời, chiếm đất, nhưng chúng không sao chiểm được tinh thần yêu nước
của nhân dân ta”,” dân khí mạnh thì không quân lính nào, không súng ống nào có thể
chống lại nổi” – Hồ Chí Minh -
- Trong “ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến “, Hồ Chí Minh kêu gọi tất cả mọi người “
không phân biệt già, trẻ, trai, gái, không phân biệt tôn giáo, hễ là người Việt Nam hãy
tham gia cuộc chiến này bằng mọi vũ khí có trong tay.”
- Trong lời kêu gọi những người macxit Đông Dương, Hồ Chí Minh nhận định:

- Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến

Hồ Văn Rồi 18
- Nêu cao khẩu hiệu đoàn kết toàn dân nhằm chống lại âm mưu chia rẽ của địch.
Một lần nữa khẳng định sức mạnh toàn dân, sức mạnh dân tộc một lòng kháng chiến
chống thực dân Pháp.

Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh tế, văn
hóa, ngoại giao.
- Việt Nam phải tiến hành đánh Pháp trên tất cả các mặt trận vì:
+ Một là, thực dân Pháp dùng nhiều thủ đoạn để xâm lược nước ta lần nữa, thống trị
và bóc lột nhân dân Việt Nam: tiến công về quân sự; về chính trị thì gây chia rẽ tôn
giáo, thành lập chính quyền tai sai, các đảng phái chính trị phản động; về kinh tế thì
tàn phá nền kinh tế kháng chiến, vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh; gieo
rắc văn hoá thực dân, tuyên truyền xuyên tạc chính sách của Đảng và nhà nước; cô lập
cuộc kháng chiến về ngoại giao,…
 Muốn thắng Pháp phải làm thất bại mọi thủ đoạn của Pháp.
+ Hai là, để tiến hành kháng chiến thành công phải xây dựng một hậu phương vững
mạnh, cung cấp đủ sức người, sức của.

- Phải xây dụng hậu phương kháng chiến về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội,
đồng thời tranh thủ ủng hộ của quốc tế.
Trong đó:

+ Về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền,
các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa
bình. Tranh thủ hết sức có thể sự ủng hộ của thế giới.
- Phát huy chỗ mạnh cơ bản của VN – chiến tranh chính nghĩa chống xâm lược, khoét
sâu chỗ yếu cơ bản của Pháp – chiến tranh xâm lược phi nghĩa. Đây cũng là một trong
những lý do khiến Pháp tiến hành “Đánh nhanh, thắng nhanh”.
- Phải xây dựng, củng cố tổ chức Đảng vững mạnh, tuyên truyền sâu, rộng đường lối
kháng chiến của Đảng trong nhân dân;

Hồ Văn Rồi 19
- Xây dựng củng cố chính quyền dân chủ, tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất, phát
triển các đoàn thể quần chúng;
- Xoá bỏ bộ máy chính quyền địch, các tổ chức phản động, chống lại chính sách chia rẽ
dân tộc, tôn giáo …
+ Về quân sự: Là mặt trận hết sức quan trọng. Kháng chiến về quân sự giữ vị trí quyết
định trong tiêu diệt lực lượng quân sự địch, làm thất bại các âm mưu quân sự, qua đó
làm thất bại các âm mưu chính trị của địch. Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch, giải phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du
kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy, là “Triệt để dùng du kích, vận
động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài… Vừa đánh vừa võ trang thêm;
vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ”.
- Phải xây dựng lực lượng vũ trang 3 thứ quân lớn mạnh.
- Kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy.
- Nguyễn Ái Quốc khái quát du kích đánh giặc chủ yếu bằng mưu mẹo và sự bất ngờ,
chưa chắc thắng thì chưa đánh. Du kích tiến công khi kẻ địch bất ngờ nhất, kẻ địch đi
tìm thì chúng không thấy du kích đâu cả. Du kích tổ chức ở cả rừng núi, nông thôn
đồng bằng và thành thị. Du kích bao gồm cả công nhân, nông dân, đàn ông, đàn bà,
thậm chí cả trẻ em. Du kích hút cả những ngưòi ngoại quốc có tinh thần chống phát
xít.
- Kết hợp đánh Pháp trên cả mặt trận chính diện và sau lưng, kết hợp đánh tập trung và
đánh phân tán.
- Kết hợp đánh tiêu diệt và tiêu hao.
+ Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung tự túc, tập trung phát
triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng.
- Nhằm làm thất bại âm mưu vơ vét sức người, sức của phục vụ chiến tranh của thực
dân Pháp.
- Phá hoại hậu phương chiến tranh của Pháp.
- Xây dựng nền kinh tế kháng chiến tự cung tự cấp, đảm bảo đời sống của bộ đội, sản
xuất vũ khí cho lực lượng vũ trang.
- Làm thất bại âm mưu lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của Pháp.
- Vừa kháng chiến vừa kiến quốc!
+ Về văn hóa: Xây dựng nền văn hoá kháng chiến, phản ánh cuộc kháng chiến và con
người kháng chiến, động viên, cổ vũ tinh thần kháng chiến của bộ đội. Xóa bỏ văn hóa
thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hóa dân chủ mới theo 3 nguyên tắc: dân tộc
hóa, khoa học hóa và đại chúng hóa.
- Giáo dục phổ thông, bổ túc văn hoá, di chuyển các trường đại học ra vùng tự do, đào
tạo cán bộ phục vụ kháng chiến.
- Chống mê tín, dị đoan, bài trừ các tệ nạn xã hội, xây dựng nếp văn hoá tiết kiệm, giản
dị, …
+ Về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực. “Liên hiệp với dân
tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận
Việt Nam độc lập.

Hồ Văn Rồi 20
- Ra sức tuyên truyền quốc tế, tranh thủ mọi sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế cả về vật
chất lẫn tinh thần.
- Tiến hành đấu tranh ngoại giao nhằm tố cáo cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân
Pháp, tuyên truyền cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
- Cùng với thắng lợi trên mặt trận quân sự đi đến giải pháp về ngoại giao để kết thúc
cuộc kháng chiến.
Kháng chiến lâu dài: Là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của
Pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của ta, chuyển hóa
tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng địch.
- Kháng chiến lâu dài, vì trên thực tế khi so sánh tương quan lực lượng, Pháp mạnh hơn
ta rất nhiều, đó là một quân đội nhà nghề, có trang bị vũ khí hiện đại, lại có sự hậu
thuẫn của các nước đế quốc. Âm mưu của Pháp là “đánh nhanh thắng nhanh” để kết
thúc chiến tranh. Còn Việt Nam, quân đội mới được thành lập, còn non trẻ, vũ khí thô
sơ. Nên buộc ta phải vừa đánh vừa xây dựng lực lượng, nên ta phải tiến hành kháng
chiến lâu dài, đợi đến khi mạnh hơn Pháp mới đánh bại được chúng.
- Thông qua cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16 và Chiến dịch Việt Bắc
thu - đông năm 1947 thấy rõ chủ trương đánh bại kế hoạch “Đánh nhanh thắng nhanh”,
buộc thực dân Pháp phải chuyển qua đánh lâu dài của Đảng ta.
- Kháng chiến lâu dài nhằm làm cho những chỗ yếu cơ bản của địch ngày càng bộc lộ,
chỗ mạnh của địch ngày càng hạn chế,chỗ yếu của ta từng bước đc khắc phục, chỗ
mạnh của ta ngày càng được phát huy
Dựa vào sức mình là chính: “Phải tự cấp, tự túc về mọi mặt” vì ta bị bao
vây 4 phía, chưa được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh. Khi nào có điều kiện
ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó cũng không được ỷ lại.
 Trong cuộc kháng chiến trường kỳ, tư tưởng tự lực cánh sinh vô cùng quan trọng. Đây
là một chủ trương lớn chỉ đạo chiến tranh cách mạng. Nó xuất phát từ lòng tin tuyệt
đối của Đảng Cộng sản Việt Nam vào năng lực của dân tộc Việt Nam, của con người
Việt Nam. Một khi dân tộc Việt Nam được tổ chức, động viên và tập hợp theo những
đường lối đúng đắn, thì có thể sáng tạo ra những điều kỳ diệu và vượt qua những tình
thế khó khăn, hiểm nghèo nhất.
 Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, với tư tưởng dựa vào sức mình là
chính, chủ động ứng phó với mọi biến đổi của tình hình, trong điều kiện mọi sự giúp
đỡ từ bên ngoài lúc này đều hoặc không có, hoặc rất khó khăn, Đảng Cộng sản Việt
Nam đã đề ra nhiều biện pháp sáng tạo, nhằm không ngừng củng cố thực lực của đất
nước.
 Trong Lời tuyên bố với quốc dân sau khi đi Pháp về, ngày 23-10-1946, Hồ Chí Minh
đã nêu lên những việc cần phải làm: Chính phủ và nhân dân phải đồng tâm nhất trí, ra
sức tổ chức, ra sức công tác, đoàn kết hơn nữa, mở mang kinh tế, xây dựng nước nhà,
thực hành đời sống mới khắp mọi phương diện. Bất kỳ gái, trai, già, trẻ, bất kỳ sĩ, nông,
công, thương, toàn thể quốc dân phải ra sức làm việc; làm cho Chính phủ và nhân dân
Pháp trông thấy, làm cho toàn thế giới trông thấy rằng: Dân Việt Nam đã đủ tư cách
độc lập, tự do, không thừa nhận tự do độc lập thì không được. Đảng Cộng sản Việt

Hồ Văn Rồi 21
Nam cũng nhận thức được rằng, phải ra sức bồi dưỡng lực lượng, phải làm cho lực
lượng đó ngày càng lớn mạnh, lúc đó mới thực hiện được tự lực cánh sinh. Từ sau khi
Cách mạng tháng Tám thành công đến trước chiến thắng Biên giới Thu - Đông 1950,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân đã tự mình xây dựng được
một lực lượng chính trị, quân sự hùng hậu, một nền kinh tế, văn hoá, giáo dục ngày
càng phát triển, một nhà nước tuy còn non trẻ, nhưng mang bản chất của dân, do dân,
vì dân.

 Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn song nhất
định thắng lợi. Niềm tin chắc thắng được thể hiện xuyên suốt trong quá trình kháng chiến
chống Pháp
- Lời kêu gọi những người macxit Đông Dương

- Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến:

Và nổi bật là tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của Trường Chinh

c) Đánh giá giá trị của đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp đối với sự phát
triển của cách mạng Việt Nam.
Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng
tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách
mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin, vừa phù hợp với thực tế đất nước lúc bấy giờ. Đường lối
kháng chiến của Đảng được công bố sớm có tác dụng đưa cuộc kháng chiến nhanh chóng đi
vào ổn định và phát triển đúng hướng, từng bước đi tới thắng lợi. Tháng 1/1948, Hội nghị
Trung ương Đảng mở rộng đã đề ra nhiệm vụ và biện pháp về quân sự, chính trị, văn hóa
nhằm thúc đẩy cuộc kháng chiến, phát động phong trào thi đua yêu nước xây dựng hậu
phƣơng vững mạnh về mọi mặt. Tháng 1/1950, Hội nghị toàn quốc của Đảng chủ trương gấp
rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công…

Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, từ năm 1947 – 1950, Đảng đã tập trung chỉ
đạo cuộc chiến đấu giam chân địch trong các đô thị, củng cố các vùng tự do lớn, đánh bại
cuộc hành quân lớn của địch lên Việt Bắc; lãnh đạo đẩy mạnh xây dựng hậu phương, tìm cách
chống phá thủ đoạn “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của
thực dân Pháp. Thắng lợi của chiến dịch Biên Giới cuối năm 1950 đã giáng một đòn nặng nề

Hồ Văn Rồi 22
vào ý chí xâm lược của địch, quân ta giành được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường
chính Bắc Bộ.

Không những có ý nghĩa to lớn trong kháng chiến chống Pháp, đường lối ấy vẫn đúng cho
đến tận hôm nay. Vận dụng một cách đúng đắn các phương châm kháng chiến.

Ngày nay, Việt Nam nỗ lực thực hiện biện pháp hòa bình, đàm phán chiến tranh chỉ là biện
pháp cuối cùng khi không còn bất kì một con đường nào khác. Gần nhất như tình hình biển
đảo Việt Nam, không bị kích động bởi bất kì một thế lực nào. Việt Nam không bao giờ là
nước nổ sung trước.

Trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tiến trình hội nhập quốc tế, Việt Nam phát
huy tối đã sức mạnh tổng hợp đất nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa
học – kỹ thuật,…

Câu 4: Quan điểm chỉ đạo của Đảng về công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay (Phân
tích các quan điểm chỉ đạo của Đảng, vận dụng trong thực tiễn đề ra những giải pháp góp
phần cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước)

Bước vào thời kỳ đổi mới, trên cơ sở phân tích khoa học các điều kiện trong nước và
quốc tế, Đảng nêu ra những quan điểm mới chỉ đạo quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước trong điều kiện mới. Những quan điểm này được hội nghị lần thứ 7 Ban chấp
hành Trung ương khóa VII nêu ra và được phát triển, bổ sung qua các Đại hội VIII, IX, X,
XI, XII của Đảng. Dưới đây khái quát lại những quan điểm cơ bản của Đảng về công nghiệp
hóa, hiện đại hóa thời kỳ đổi mới:

Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.

Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa


- Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại tác động sâu rộng tới mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội.
- Xu thế hội nhập và tác động của quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra nhiều cơ hội cũng
như thách thức đối với đất nước. (Có thể làm rõ thêm cơ hội và thách thức như thế nào?)
- Trong bối cảnh đó, nước ta cần phải và có thể tiến hành công nghiệp hóa theo kiểu rút
ngắn thời gian khi biết lựa chọn con đường phát triển kết hợp công nghiệp hóa với hiện đại
hóa.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên,
môi trường
- Kinh tế tri thức là gì? Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đưa ra định nghĩa:
Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò
quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là những
ngành dựa nhiều vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới của khoa học, công nghệ. Đó là
những ngành kinh tế mới dựa trên công nghệ cao như công nghệ thông tin, công nghệ sinh

Hồ Văn Rồi 23
học và cả những ngành kinh tế truyền thống như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ đƣợc
ứng dụng khoa học, công nghệ cao.
- Công nghiệp hóa gắn với kinh tế tri thức vì: nước ta thực hiện công nghiệp hóa – hiện
đại hóa khi trên thế giới kinh tế tri thức đã phát triển. Chúng ta có thể không cần phải trải qua
các bước phát triển tuần tự từ kinh tế nông nghiệp lên kinh tế công nghiệp rồi mới phát triển
kinh tế tri thức.Đó là lợi thế của các nước đi sau, không phải nóng vội, duy ý chí. Do đó, Đại
hội X của Đảng đã chỉ rõ: phát triển kinh tế tri thức coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng
của nền kinh tế và của công nghiệp hóa -–hiện đại hóa.

Công nghiệp hóa -–hiện đại hóa phải gắn với việc bảo vệ tài nguyên và môi trường vì: đẩy
mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa sẽ kéo theo hàng loạt vấn đề như chất thải công nghiệp,
bụi, không khí ô nhiễm, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt... Do đó công nghiệp hóa -–hiện đại
hóa phải gắn liền với giải quyết các tồn tại trên thì mới đảm bảo sự phát triển bền vững , đảm
bảo chất lượng cuộc sống của con người.

Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Thời kỳ đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa được tiến hành trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều thành phần. Do đó, công nghiệp hóa, hiện đại hóa không
phải chỉ là việc của Nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế.

Phương thức phân bổ nguồn lực để công nghiệp hóa được thực hiện bằng cơ chế thị trường,
không những khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực trong nền kinh tế, mà còn sử dụng chúng
có hiệu quả để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh toàn
cầu hóa kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế nhằm thu hút nguồn
vốn đầu tư nước ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học hỏi kinh nghiệm quản lý tiên tiến của
thế giới… sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Đó là việc kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nói riêng đƣợc nhanh hơn, hiệu quả hơn.

Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh, bền
vững.

Trong các yếu tố tham gia vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, yếu tố con người
luôn được coi là yếu tố cơ bản. Vì yếu tố con người là chủ thể nhận thức, hành động và tác
động trực tiếp đến các yếu tố khác.

Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu là: vốn, khoa học và công nghệ, con người,
cơ cấu kinh tế, thể chế chính trị và quản lý nhà nước, trong đó con người là yếu tố quyết định.

Hồ Văn Rồi 24
Để phát triển nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần
đặc biệt chú ý đến phát triển giáo dục, đào tạo.

Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải đủ số lượng, cân đối về
cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ tiên
tiến của thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới.

Đại hội XI chỉ rõ: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghiệp, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trƣởng và là
lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững”

Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.

Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định đến tăng năng suất lao động, giảm chi phí
sản xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung.

Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển và tiềm lực khoa học,
công nghệ còn ở trình độ thấp. Muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với kinh tế tri thức thì phát triển khoa học và công nghệ là yêu cầu tất yếu và bức xúc. Phải
đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển công nghệ nội
sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, nhất là công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học và công nghệ vật liệu mới.

Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát
triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta thực chất là nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để thực hiện mục tiêu đó, trước hết kinh tế phải
phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Chỉ có như vậy mới có khả năng xóa đói, giảm nghèo,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, y tế, rút ngắn
khoảng cách chênh lệch giữa các vùng… Mục tiêu đó thể hiện sự phát triển vì con người, mọi
con người đều được hưởng thành quả của sự phát triển.

Mục tiêu của cách mạng xã hội chủ nghĩa là để giải phóng những giá trị văn hóa tích
cực nhất cho loài người. Phát triển kinh tế đồng thời giúp cho con ngƣời có nhiều cơ hội,
khả năng tiếp nhận các giá trị văn hóa. Phát triển kinh tế nhằm mục tiêu văn hóa chính là
“đặc sắc” của cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mục tiêu đó thể hiện sự phát triển vì
con người, mọi con ngƣời đều được hưởng thành quả của phát triển.
Mỗi bước tăng trưởng kinh tế lại tạo ra điều kiện để thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội cao hơn nữa. Vì vậy cần “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và từng chính sách phát triển”.

Hồ Văn Rồi 25
 Đảng luôn khẳng định, giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội có mối
quan hệ biện chứng, tác động qua lại, làm tiền đề cho nhau cùng phát triển: Tăng trưởng kinh
tế là điều kiện tiền đề để thực hiện công bằng xã hội thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là
động lực, điều kiện quan trọng có tác dụng thúc đẩy, bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao, bền
vững.

Câu 5: Quan điểm chỉ đạo của Đảng trong xây dựng, phát triển văn hóa con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (Phân tích quan điểm chỉ đạo của
Đảng trong Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI (5/2014), vận dụng trong thực tiễn đề ra những
giải pháp góp phần xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam hiện nay)

Kế thừa và phát triển 5 quan điểm của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết
Trung ương 9 khóa XI đã nêu ra 5 quan điểm sau:

Một là, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, là động lực phát
triển bền vững đất nước. Văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội và
hội nhập quốc tế.

Quan điểm này chỉ rõ chức năng, vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa đối với sự phát
triển xã hội.

 Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội.

Theo ý kiến của nguyên Tổng giám đốc UNESCO: Văn hóa phản ánh và thể hiện một
cách tổng quát, sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) diễn
ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại; qua hàng bao thế kỷ nó đã cấu thành
nên một hệ thống các giá trị, truyền thống và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định
bản sắc riêng của mình.

Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội – vì nó được thấm nhuần
trong mỗi con người và trong cả cộng đồng; được truyền lại, tiếp nối và phát huy qua các thế
hệ; được vật chất hóa và khẳng định vững chắc trong cấu trúc xã hội của từng dân

 Văn hóa là động lực của phát triển bền vững đất nước

Chúng ta chủ trương làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội
để các giá trị văn hóa trở thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động lực
phát triển kinh tế - xã hội.

Đó cũng là con đường xây dựng con người mới, xây dựng môi trường văn hóa lành
mạnh đủ sức đề kháng và đẩy lùi các tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm nhập của tư tưởng, văn
hóa phản tiến bộ.

Văn hóa thể hiện trong mọi lĩnh vực đời sống – xã hội, phát triển văn hóa góp phần
phát triển một cách bền vững kinh tế - xã hội.

Hồ Văn Rồi 26
 Văn hóa là một mục tiêu của phát triển bền vững đất nước

Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” chính là mục tiêu văn hóa.

Thực tế cho thấy, mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển là vấn đề bức xúc của mọi quốc
gia. Sau khi thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, các nước độc lập đang tìm con
đường dẫn tới ấm no, hạnh phúc thì việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa văn hóa và
phát triển kinh tế - xã hội lại càng có ý nghĩa quan trọng.

 Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.

Trong nhận thức và hành động, mục tiêu kinh tế vẫn thường lất át mục tiêu văn hóa và
thường được đặt vào vị trí ưu tiên trong các kế hoạch, chương trình, chính sách phát triển của
nhiều quốc gia, nhất là các nước nghèo đang phát triển theo con đường công nghiệp hóa.

Về nguyên lý, sản xuất vật chất, phát triển kinh tế là cơ sở nền tảng quyết định sự tồn
tại, phát triển lịch sử xã hội loài người. Song, trong lịch sử phát triển của các nền văn minh,
văn hóa nhân loại, bên cạnh vai trò quyết định của sản xuất vật chất, của yếu tố kinh tế, suy
đến cùng, đối với sự phát triển của xã hội loài người thì các yếu tố chính trị, văn hóa, tinh
thần... có vai trò tác động trở lại rất quan trọng, thậm chí vào những thời điểm lịch sử nhất
định, các yếu tố chính trị, văn hóa, tinh thần có tác dụng quyết định tình hình, diễn biến thời
cuộc với sức mạnh sáng tạo vô cùng to lớn của con người. Lịch sử các nền văn minh, văn hóa
nhân loại đã chỉ ra rằng, không phải cứ quốc gia, dân tộc nào có nền kinh tế phát triển là có
nền văn minh, văn hóa tương ứng phát triển; không có văn hóa, nhân cách đạo đức, cá nhân
dù có tài, song vô dụng; mất văn hóa là mất tất cả.

Để làm cho văn hóa trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển, chúng ta chủ
trương phát triển văn hóa phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội.
Cụ thể là:

 Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế. Xử lý
tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của
xã hội, là một động lực phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế.
 Khi xác định mục tiêu, giải pháp phát triển văn hóa phải căn cứ và hướng tới mục tiêu,
giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, làm cho phát triển văn hóa trở thành động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
 Khi xác định mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội phải đồng thời xác định mục tiêu văn
hóa, hƣớng tới xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Phải có chính sách kinh tế trong
văn hóa để gắn văn hóa với hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính
hỗ trợ cho phát triển văn hóa. Xây dựng chính sách văn hóa trong kinh tế để chủ động
đưa các yếu tố văn hóa thâm nhập vào các hoạt động kinh tế - xã hội, xây dựng văn
hóa kinh doanh, đạo đức kinh doanh, văn minh thương nghiệp; xây dựng đội ngũ doanh
nhân thời hội nhập.

Hồ Văn Rồi 27
- Văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bồi dưỡng, phát huy nhân tố con
người và xây dựng xã hội mới:
 Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực khác nhau: tài nguyên thiên
nhiên, vốn, v.v… tuy nhiên, những nguồn lực này đều có hạn và có thể bị khai thác
cạn kiệt. Chỉ có tri thức con người mới là nguồn lực vô hạn, có khả năng tái sinh và tự
sinh không bao giờ cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ không đƣợc sử dụng có hiệu quả
nếu không có những con ngƣời đủ trí tuệ và năng lực khai thác chúng. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chỉ rõ: muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ
nghĩa.
 Năm 1990, UNDP (Chương trình phát triển của Liên Hiệp Quốc) đưa ra những tiêu
chí mới để đánh giá cao mức độ phát triển của các quốc gia, đó là chỉ số phát triển con
ngƣời. Một trong ba chỉ tiêu của cách tính toán mới này là thành tựu giáo dục (2 chỉ
tiêu kia là tuổi thọ bình quân và mức thu nhập). Chỉ tiêu giáo dục lại được tổng hợp từ
2 chỉ tiêu khác là tình trạng học vấn của nhân dân và số năm được giáo dục tính bình
quân mỗi người.
 Theo đó, quốc gia nào đạt thành tựu giáo dục cao, tức là có vốn trí tuệ toàn dân nhiều
hơn thì chứng tỏ xã hội đó phát triển hơn, có khả năng tăng trƣởng dồidào. “Tài
nguyên” con ngƣời, cái vốn con ngƣời, nói cho cùng là vốn trí tuệ của dân tộc. Như
vậy, văn hóa trực tiếp tạo dựng và nâng cao vốn “tài nguyên người”.
 Từ một nƣớc nông nghiệp lạc hậu đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam
chƣa có lợi thế về chỉ số phát triển con người như mong muốn. Tỷ lệ người biết đọc
biết viết được xếp thứ hạng cao trong khu vực nhưng nguy cơ tái mù đang tăng, đặc
biệt là mù ngoại ngữ và mù tin học.

Hai là, xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa
dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ
và khoa học

Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ với nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con
người. Tiên tiến không chỉ về nội dung, tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các
phương tiện chuyển tải nội dung.

Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của cộng đồng
các dân tộc Việt Nam được vun đắp qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ
nước.

Có thể nói, bản sắc của một dân tộc là tổng thể những phẩm chất, tính cách, sức sống
bên trong của dân tộc, giúp cho dân tộc đó giữ vững được tính duy nhất, tính thống nhất, tính
nhất quán so với bản thân mình trong quá trình phát triển.

Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và được thể hiện
sâu sắc nhất là trong hệ giá trị của dân tộc.

Hồ Văn Rồi 28
Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống những cái lạc hậu, lỗi thời trong phong
tục, tập quán và lề thói cũ.

Nét đặc trưng nổi bật của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng, là sự hòa
quyện bình đẳng, sự phát triển độc lập của văn hóa các dân tộc anh em cùng sống trên lãnh
thổ Việt Nam. Hơn 50 dân tộc trên đất nước ta đều có những giá trị và bản sắc văn hóa riêng.
Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam thống nhất
và củng cố sự thống nhất dân tộc.

Ba là, phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người
để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hoá, trọng tâm là chăm lo xây dựng con
người có nhân cách, lối sống đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình,
trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.

Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con ngƣời và xây dựng con ngƣời để phát triển
văn hóa. Đây là mối quan hệ biện chứng. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây
dựng con ngƣời có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nƣớc, nhân ái,
nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo. Đây là những đặc tính cơ bản nhất của con
ngƣời Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nƣớc.

Muốn xây dựng con ngƣời có những đặc tính trên, cần phải:

- Hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây dựng co người có thế
giới quan khoa học, hƣớng tới chân – thiện – mỹ.
- Xây dựng và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”;
hình thành lối sống có ý thức tự trọng, tự chủ, sống và làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật.
- Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân,
đặc biệt là thanh, thiếu niên.

Bốn là, xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình,
cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn
hóa và con người trong phát triển kinh tế.

Mỗi địa phương, cộng đồng, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải là một môi trƣờng văn hóa lành
mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, lối sống.

Thực hiện chiến lược phát triển gia đình Việt Nam, xây dựng gia đình thực sự là nơi hình
thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người. Phát huy giá trị
truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh.

Gắn kết các hoạt động văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh,
với chương trình xây dựng nông thôn mới, đô thị văn mnh.

Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng; khuyến khích các
hoạt động tôn giáo gắn bó với dân tộc, hướng thiện, nhân đạo, nhân văn, tiến bộ, “tốt đời, đẹp

Hồ Văn Rồi 29
đạo”. Khuyến khích các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”, từ thiện,
nhân đạo.

Năm là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự phát triển chung của toàn dân do Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ tri thức giữ vai trò
quan trọng:

Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà. Công nhân, nông dân,
trí thức là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và
phát triển văn hóa dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó
với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp này. Sự nghiệp xây dựng và phát triển
văn hóa của nước nhà do Đảng lãnh đạo, Nhà nƣớc quản lý, nhân dân làm chủ.

Hồ Văn Rồi 30

You might also like