You are on page 1of 7

Cấu trúc thanh toán sản phầm.

I. Đặc điểm của dự án phù hợp với cấu trúc thanh toán sản phẩm.
1. Khái niệm sản phẩm là gì?
Sản phẩm (product) là bất cứ cái gì có thể đưa vào thị trường để tạo sự
chú ý, mua sắm, sử dụng hay tiêu dung nhằm thỏa mãn một nhu cầu hay
ước muốn. Nó có thể là những vật thể, dịch vụ, con người, địa điểm, tổ
chức và ý tưởng.
2. Cấu trúc của sản phẩm.
Phần lớn các sản phẩm được cấu trúc ở năm mức độ: lợi ích cốt lõi, sản
phẩm chung, sản phẩm mong đợi, sản phẩm hoàn thiện và sản phẩm tiềm
ẩn.
Mức cơ bản là lợi ích cốt lõi, chính là dịch vụ hay lợi ích cơ bản mà
khách hàng mua. Chẳng hạn đối với một chiếc áo đi mưa, khách hàng
mua “sự khô ráo”; đối với một lọ nước hoa, khách hàng mua “một niềm
hy vọng”; đối với một chuyến du lịch thiên nhiên, khách hàng mua “sự
thư giãn và bầu không khí trong lành”. Nhà kinh doanh phải xem mình là
nhà cung ứng lợi ích.
Nhà kinh doanh phải biết biến lợi ích cốt lõi thành sản phẩm chung,
chính là dạng cơ bản của sản phẩm đó. Vì thế một khách sạn phải là một
tòa nhà có các phòng để cho thuê. Tương tự như vậy, ta có thể nhận ra
những sản phẩm khác như một chiếc ôtô, một lần khám bệnh, một buổi
hòa nhạc,…

Tiếp theo, nhà kinh doanh phải chuẩn bị một sản phẩm mong đợi, tức là
tập hợp những thuộc tính và điều kiện mà người mua thường mong đợi
và chấp thuận khi họ mua sản phẩm đó. Ví dụ, khách đến khách sạn
mong có được một cái giường sạch sẽ, xà phòng và khăn tắm, điện thoại,
tủ để quần áo và một mức độ yên tĩnh tương đối. Vì đa số các khách sạn
đều có thể đáp ứng được mong muốn tối thiểu này, nên khách du lịch
không thiên vị đối với khách sạn nào mà sẽ vào bất kỳ khách sạn nào
thuận tiện nhất.
Mức độ thứ tư, nhà kinh doanh chuẩn bị một sản phẩm hoàn thiện thêm,
tức là một sản phẩm bao gồm cả những dịch vụ và lợi ích phụ thêm làm
cho sản phẩm của doanh nghiệp khác với sản phẩm của đối thủ cạnh
tranh. Ví dụ, khách sạn có thể hoàn thiện thêm sản phẩm của mình bằng
cách trang bị máy thu hình, bổ sung dầu gội đầu và hoa tươi, dịch vụ
đăng ký và trả phòng nhanh chóng,…
Ở mức độ thứ năm là sản phẩm tiềm ẩn, tức là những sự hoàn thiện và
biến đối mà sản phẩm đó có thể có được trong tương lai. Trong khi sản
phẩm hoàn thiện thể hiện những gì đã được đưa vào sản phẩm hiện nay,
thì sản phẩm tiềm ẩn chỉ nêu ra hướng phát triển có thể của nó. Vì thế các
doanh nghiệp tích cực tìm kiếm những cách thức mới để thỏa mãn khách
hàng và tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm của mình. Như vậy, sản phẩm
bao gồm nhiều thuộc tính cung ứng sự thỏa mãn nhu cầu khác nhau của
khách hàng. Hay nói cách khác, khi mua một sản phẩm người mua mong
muốn thỏa mãn cho cả một chuỗi nhu cầu, và các nhu cầu đó có quan hệ
tác động qua lại chặt chẽ với nhau trong quá trình quyết định mua của
khách hàng.
3. Cấu trúc thanh toán sản phẩm
Cấu trúc thanh toán sản phẩm thường được sử dụng để tài trợ cho các dự
án khai thác dầu khí và khoáng sản ở Mỹ. Đây là cấu trúc tài trợ không
truy đòi hoặc truy đòi giới hạn được đảm bảo đầu đủ thông tin qua hình
thức các TCTD nắm giữ quyền sở hữu một lượng sản phẩm do dự án sản
xuất ra, khác với các cấu trúc tài trợ khác là các TCTD sẽ được DNDA
đảm bảo bằng hình thức thế chấp toàn bộ tài sản, sản phẩm và doanh thu
của dự án. Để thực hiện tài trợ dự án theo cấu trúc thanh toán sản phẩm,
đòi hỏi người khởi xướng hoặc người cho vay phải thành lập một SPV để
mua toàn bộ sản phẩm từ dự án. Các TCTD sẽ cho SPV vay tiền để thanh
toán tiền mua sản phẩm cho công ty khai thác khoáng sản. Công ty khai
thác khoáng sản sẽ sử dụng số tiền thanh toán từ SPV để thanh toán cho
các nhà thầu xây dựng và cung cấp thiết bị. Trong giai đoạn hoạt động,
công ty khai thác khoáng sản giao sản phẩm cho SPV để hoàn tất nghĩa
vụ thanh toán sản phẩm. Nói tóm lại, một cấu trúc TTDA thanh toán sản
phẩm thường mang các đặc điểm sau:
- Nguồn trả nợ duy nhất cho các TCTD là từ sản phẩm đầu ra của dự
án.
- Thời gian trả nợ phải ngắn hơn tuổi thọ kinh tế ước tính của dự án.
- Các TCTD không chịu trách nhiệm tài trợ cho các chi phí hoạt động
của dự án; (4) Chi phí xây dựng (2) Bảo lãnh thực hiện hợp đồng (3)
Cho vay (lãi nhập vốn) (1) Bảo lãnh DNDA TCTD cho vay TCTD
bảo lãnh Nhà thầu Người khởi xướng.
- Các TCTD sẽ được nắm giữ quyền sở hữu đối với toàn bộ hoặc một tỷ
lệ phần tram sản phẩm dự án như đã thỏa thuận cho đến khi nợ gốc và
lãi được trả hết.
- Thông thường, trong cấu trúc thanh toán sản phẩm, các TCTD không
muốn nhận hàng. Do đó, họ thường bắt buộc DNDA phải mua lại khối
lượng sản phẩm đã thanh toán cho họ hoặc bán số lượng sản phẩm đó
với tư cách là đại lý cho người vay. Giá bán có thể ước tính theo giá
thị trường hoặc là giá theo hợp đồng đã ký.
II. Khái niệm dự án
4. Khái niệm và đặc điểm của dự án.
Để giúp chúng ta hiểu được dự án là gì, trước hết chúng ta nêu một khái
niệm chung về dự án.
Dự án là một nỗ lực phức tạp, không thường xuyên, mang tính đơn nhất
được thực hiện trong điều kiện rang buộc nhất định về thời gian, ngân
sách, nguồn lực và các tiêu chuẩn chất lượng để đáp ứng yêu cầu của
khách hàng. Ví dụ về dự án bao gồm, nhưng không giới hạn, trong các
trường hợp sau:
 Phát triển sản phẩm và dịch vụ mới.
 Tiến hành những thay đổi, cải tiến, tái cấu trúc về bộ máy, tổ chức
nhân sự và phương thức kinh doanh.
 Phát triển hay ứng dụng, triển khai một hệ thống lý chất lượng.
 Xây dựng nhà máy, lắp đặt dây chuyền sản xuất mới.
 Thực hiện quy trình sản xuất mới.
Các hoạt động thường xuyên lặp lại hàng ngày trong công ty được thiết kế và tổ
chức thực hiện một cách ổn định dựa trên sự chuyên môn hóa cao để đảm bảo các
hoạt động diễn ra liên tục, nhịp nhàng và hiệu quả với chi phí thấp nhất có thể. Dự
án khác với các hoạt động thường xuyên lặp lại hàng ngày trong công ty là dự án là
các hoạt động không lặp lại và thường gắn với những yếu tố mới đòi hỏi sự sáng
tạo nhất định nhằm tạo thêm năng lực mới cho công ty, ví dụ như sản xuất ra sản
phẩm mới. Để phân biệt dự án khác với các hoạt động thường xuyên đang diễn ra
hàng ngày trong công ty, chúng ta hãy nêu một số đặc điểm của dự án.
 Dự án có 5 đặc điểm chính sau đây
1. Có mục tiêu xác định
2. Được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định có thời điểm bắt đầu và
thời điểm kết thúc
3. Thường liên quan đến nhiều bộ phận trong công ty và lĩnh vực chuyên môn khác
nhau
4. Liên quan đến việc thực hiện một điều mà chưa từng được làm trước đó
5. Đáp ứng các yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng đầu ra, chi phí và thời gian cụ thể
Thứ nhất, dự án có mục tiêu xác định – dù là xây dựng một tổ hợp chung cư cao 28
tầng hoàn thành vào ngày 30 tháng 11 hoặc phải hoàn thành việc chuyển đổi sang
hệ thống thông tin mới trong vòng 1 năm. Tính mục tiêu thường không đặt ra đối
với các hoạt động thường ngày đang diễn ra trong công ty ví dụ như đối với những
người công nhân trong một phân xưởng may.
Thứ hai, do có mục tiêu xác định nên dự án có thời điểm bắt đầu và kết thúc xác
định. Ví dụ sau khi hoàn thành dự án xây cầu vượt qua ngã tư đường Láng Hạ thì
một người kỹ sư có thể được chuyển sang làm việc cho một dự án xây cầu khác.
Thứ ba, dự án thường đòi hỏi những nỗ lực chung từ nhiều chuyên gia có chuyên
môn khác nhau đến từ các bộ phận và phòng ban chuyên môn khác nhau. Thay vì
làm việc biệt lập tại văn phòng dưới sự quản lý của các trưởng bộ phân, các thành
viên dự án gồm các kỹ sư thiết kế, các kỹ sư chế tạo, chuyên gia marketing, nhà
phân tích tài chính cùng phối hợp làm việc chặt chẽ với nhau dưới sự hướng dẫn
của nhà quản lý dự án để cùng nhau hoàn thành một dự án.
Thứ tư, dự án là hoạt động không lặp lại và có tính chất đơn nhất. Ví dụ sản xuất ra
một mẫu ô tô mới với hệ thống phanh thắng tự động khi xe đột ngột tăng tốc quá
nhanh đòi hỏi phải giải quyết rất nhiều vấn đề chưa từng được giải quyết trước đó
và thường đi kèm với việc áp dụng những thành tựu mới nhất và có bước đột phá
về công nghệ. Mặt khác, các dự án xây dựng thông thường như xây dựng các tổ
hợp văn phòng chung cư sử dụng các vật liệu hiện có và áp dụng các công nghệ và
quy trình thi công đã được công ty thiết lập từ trước nhưng vẫn đòi hỏi nhiều yếu
tố mới như xây dựng trên địa điểm mới, tuân thủ các quy định nhất định áp dụng
cho từng dự án xây dựng, khách hàng mới với những yêu cầu và khả năng thanh
toán nhất định khác với các dự án cùng loại đã được công ty tiến hành trước đó.
Thứ năm, dự án phải đáp ứng các tiêu chuẩn nhất định về đầu ra, thời gian, và chi
phí. Thành công của dự án được đánh giá dựa trên mức độ mà dự án đáp ứng các
tiêu chất lượng đầu ra, thời hạn hoàn thành dự án và chi phí thực hiện dự án.
 Đặc điểm của một dự án:
 Có một hoặc một số mục tiêu rõ ràng: Thông thường người ta cố gắng lượng
hoá mục tiêu thành ra các chỉ tiêu cụ thể. Mỗi dự án là một quá trình tạo ra
một kết quả cụ thể. Nếu chỉ có kết quả cuối cùng mà kết quả đó không phải
là kết quả của một tiến trình thì kết quả đó không được gọi là dự án.
 Có một thời hạn nhất định: Nghĩa là phải có thời điểm bắt đầu và thời điểm
kết thúc. Dự án được xem là một chuỗi các hoạt động nhất thời. Tổ chức của
dự án mang tính chất tạm thời, được tạo dựng lên trong một thời hạn nhất
định để đạt được mục tiêu đề ra, sau đó tổ chức này sẽ giải tán hay thay đổi
cơ cấu tổ chức cho phù hợp với mục tiêu mới. Sử dụng nguồn lực bị hạn
chế. Nguồn lực gồm: nhân lực, nguyên vật liệu, ngân sách.
Bảng dưới đây thống kê những đặc điểm của quy mô một dự án, cho phép nhà
quản lý xác định phạm vi dự án và từ đó tiến hành những bước tiếp theo:
TÀI LIỆU THAM KHẢO
https://resources.base.vn/productivity/toan-tap-cac-phuong-phap-quan-ly-du-an-
pho-bien-nhat-hien-nay-644
TÀI LIỆU QUẢN TRỊ DỰ ÁN
(Tài liệu dành cho đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp nhỏ và
vừa)
Biênsoạn:TS.NguyễnQuốcDuy.
http://www.business.gov.vn/Portals/0/GIAO%20TRINH%20DAO
%20TAO/Quyen11.pdf

You might also like