Professional Documents
Culture Documents
SỰ PHỨC TẠP
KHẢ NĂNG THÍCH
ỨNG
IDT
Thái độ: là các ý kiến và niềm tin của một cá nhân liên quan đối với hành vi của cá nhân
khác có ảnh hưởng đến kết quả mong đợi đạt được từ hành vi đó Ajzen và Fishbein (2000);
Ajzen (1991); Li (2007); Ajzen & Fishbein (2005).
Quy chuẩn chủ quan: còn được gọi là chuẩn mực xã hội, tham khảo những ý kiến chấp
nhận hoặc không chấp nhận bởi các những người gần gũi của các cá nhân với việc thực hiện
một số hành vi. Quy chuẩn chủ quan phù hợp như một yếu tố dự báo ý định kinh doanh đã
được nghiên cứu bởi nhiều nhà nghiên cứu Krueger et al (2000); Autio et al (2001); Linan
(2004); Tkachev và Kolvereid (1999) và Kolveriel và Isaksen (2006); Souitarie et al (2007).
Nhận thức kiểm soát hành vi: nhận thức kiểm soát hành vi đề cập đến cảm nhận về sự
dễ dàng hay khó khăn khi thực hiện hành vi, thể hiện cảm nhận của cá nhân là bản thân có
khả năng và đủ nguồn lực để thực hiện hành vi hay không ? Phan Anh Tú (2015); (Ajzen,
1991); Bandura (1977); Wood và Bandura (1989); Basu và Virick (2008); Obschonka,
Silbereisen và Schmitt-Rodermund (2010); Kolvereid (1996); Chen và cộng sự (1998);
Kristiansen và Indarti (2004); Zaidatol Akmaliah Lope Pihie (2009); Ruhle, Mühlbauer,
Grünhagen và Rothenstein (2010); Paco và cộng sự (2011).
Lợi thế tương đối được Rogers (2003) định nghĩa là mức độ mà một sự đổi mới được
coi là tốt hơn so với những thứ mà nó đã thay thế trong cũng một điều kiện. Các khía cạnh về
chi phí và động lực xã hội của đổi mới là các yếu tố của lợi thế tương đối. Ví dụ, trong khi
những người đổi mới, những người chấp nhận sớm và đa số sớm có động cơ hơn để chấp
nhận đổi mới thì ngược lại đa số những người chấp nhận muộn hay những người chậm trong
việc nhận thấy tầm quan trọng của sự đổi mới thường có ít động cơ hơn
Sự phức tạp là mức độ mà một sự đổi mới được coi là tương đối khó hiểu khi nó được
áp dụng. Như Rogers đã nêu, ngược lại với các thuộc tính khác, độ phức tạp có tương quan
nghịch với tỷ lệ chấp nhận. Do đó, sự phức tạp quá mức của một sự đổi mới là một trở ngại
Hình 1 Mô hình (01) nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi sự kinh doanh
rất lớn trong việc áp dụng nó (Rogers, 2003).
trên internet
Khả năng thích ứng là mức độ mà một sự đổi mới được coi là phù hợp với các giá trị
hiện có, kinh nghiệm trong quá khứ và nhu cầu của người nhận. Khả năng thích ứng có thể
được xem là khả năng tương thích của một cá nhân với các giá trị hoặc chuẩn mực khi áp
dụng một sự đổi mới hoặc cũng có thể được xem là sự phù hợp của sự đổi mới với thực tiễn
hiện có của người áp dụng (Rogers và Shoemaker, 1971).
Trong mô hình 01, 02 nhân tố tác động trực tiếp đến Ý định KSKD trên Internet đó là:
Cảm nhận về sự mong muốn và Cảm nhận về tính khả thi. Các nhân tố còn lại bao gồm: Thái
độ đối với KSKD trên Internet; Quy chuẩn chủ quan; Nhận thức kiểm soát hành vi; Lợi thế
tương đối; Sự phức tạp; Khả năng thích ứng sẽ tác động gián tiếp đến Ý định KSKD trên
Internet thông qua việc tác động trực tiếp đến 02 nhân tố Cảm nhân về sự mong muốn và Cảm
nhận về tính khả thi..
2.3. Hệ thống giả thuyết nghiên cứu:
Để kiểm chứng tác động của các nhân tố trong mô hình (01) hệ thống giả thuyết nghiên
cứu được xây dựng tương ứng với sự tác động của từng trong mô hình đến ý định khơi sự
kinh doanh trên internet.
H1: Thái độ đối với KSKD trên Internet tác động thuận chiều đến Cảm nhận về sự
mong muốn.
H2: Thái độ đối với KSKD trên Internet tác động thuận chiều đến Cảm nhận về tính khả
thi.
H3: Quy chuẩn chủ quan tác động thuận chiều đến Cảm nhận về sự mong muốn.
H4: Quy chuẩn chủ quan tác động thuận chiều đến Cảm nhận tính khả thi.
H5: Nhận thức kiểm soát hành vi tác động thuận chiều đến Cảm nhận về sự mong
muốn.
H6: Nhận thức kiểm soát hành vi tác động thuận chiều đến Cảm nhận về tính khả thi.
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 3
H7: Lợi thế tương đối tác động thuận chiều đến Cảm nhận về sự mong muốn.
H8: Lợi thể tương đối tác động thuận chiều đến Cảm nhận về tính khả thi.
H9: Sự phức tạp tác động nghịch chiều đến Cảm nhận về sự mong muốn.
H10: Sự phức tạp tác động nghịch chiều đến Cảm nhận về tính khả thi.
H11: Khả năng thích ứng tác động thuận chiều đến Cảm nhận về sự mong muốn.
H12: Khả năng thích ứng tác động thuận chiều đến Cảm nhận về tính khả thi.
H13: Cảm nhận về sự mong muốn tác động thuận chiều đến Ý định KSKD trên Internet.
H14: Cảm nhận về tính khả thi tác động thuận chiều đến Ý định KSKD trên Internet.
Để kiểm định 12 giả thuyết (H1-H12) tương ứng của 6 nhân tố trong mô hình tác động
gián tiếp đến ý định khởi sự kinh doanh trên internet thông qua tác động trực tiếp đến cảm
nhận về sự mong muốn và cảm nhận về tính khả thi. Giả thuyết nghiên cứu H13 và H14 phản
ánh mức độ tác động trực tiếp của nhân cảm nhận về sự mong muốn và cảm nhận về tính khả
thi đến ý định khởi sự kinh doanh trên internet.
3. Phương pháp phân tích và nguồn dữ liệu
3.1. Phương pháp phân tích
Ngoài các chỉ tiêu thống kê mô tả, bài viết sử dụng chủ yếu các kỹ thuật thống kê:
kiểm định độ tin cậy thang đo; phân tích nhân tố; phân tích mô hình đa cấu trúc; kiểm định
Bootstrap.
Kiểm định đô ̣ tin câ ̣y bằng hê ̣ số Cronbach’s Anpha: là một kỹ thuật nhằm kiểm định
tính đại diện của một tập câu hỏi cho một nhân tố muốn đo lường. Một tập biến có độ chọn
thang đo khi có đô ̣ tin câ ̣y Anpha từ 0,6 trở lên, tốt nhất là 0,7 (Trọng 2008) và biến quan sát
có hê ̣ số tương quan biến tổng từ 0,3 trở lên.
Phân tích nhân tố khám phá (EFA): Một kỹ thuật nhằm xác định số nhân tố trong một
tập hợp các câu hỏi đại diện cho các nhân tố muốn tìm kiếm và đo lường. Nghiên cứu sử dụng
phép trích Principal Axis Factoring với phép quay Promimax. Tổng phương sai trích >=50%
và hê ̣ số KMO>=0,5, Kiểm định Bartlett có ý nghĩa thống kê (Sig<0,05) Gerbing & Anderson
(1988); hê ̣ số tải nhân tố của biến quan sát >=0,5 Hair & cô ̣ng sự ,1998).
Kiểm định thang đo bằng phân tích nhân tố khẳng định: Nhằm khẳng định lại kết quả
phân tích khám phá (EFA), thông qua các chỉ tiêu Chi-square điều chỉnh theo bâ ̣c tự do
(CMIN/df); chỉ số tích hợp so sánh CFI (comparative Fit Index), chỉ số TLI (Tucker & Lewis
index) và chỉ số RMSEA (Root Mean Square Error Approximation) và chỉ số MI
(Modification Indices) ; Nếu mô ̣t mô hình nhâ ̣n được giá tri ̣ TLI, CFI 0,9 ; CMIN/df 2; hoă ̣c
mô ̣t số trường hợp CMIN/df 3; RMSEA 0,08 thì sữ liê ̣u được xem là phù hợp Hair & cô ̣ng sự
(1998).
Mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM): được dùng để kiểm định mô hình cấu trúc tuyến
tính, mô hình chỉ rõ mối quan hệ giữa các biến tiềm ẩn với nhau. Mô hình này có lợi thế hơn
các phương pháp truyền thống như hồi quy đa biến vì nó có thể tính được sai số đo lường.
Hơn nữa, phương pháp này cho phép kết hợp được các khái niệm tiềm ẩn với các biến đo
lường của chúng và có thể xem xét các đo lường độc lập hay kết hợp chung với mô hình lý
thuyết cùng một lúc. Dựa vào mức xác suất 5% để đưa ra các kết luận cho mối quan hệ giữa
các nhân tố.
Phân tích Bootstrap: là phương pháp chọn mẫu lặp trong mẫu với n=500 để kiểm
chứng lại kết quả phân tích đa cấu trúc và căn cứ để kết luận là chỉ tiêu giá trị tuyệt đối của
CR <2.
3.2. Nguồn dữ liệu
Kích thước mẫu thường được xác định dựa vào “kích thước tối thiểu” và “số lượng biến
đo lường đưa vào phân tích”, sau đây là một vài ý kiến, đề nghị từ các chuyên gia về phân tích
nhân tố, chúng ta có thể xem xét:
i) Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), số lượng quan sát (cỡ mẫu) ít nhất
phải gấp 4 đến 5 lần số biến trong phân tích nhân tố.
ii) Theo Hair và cộng sự (2014), những bài nghiên cứu có kích thước mẫu ít hơn 50
quan sát thì không nên phân tích, tốt nhất kích thước mẫu tối thiếu là 100 quan sát. Theo
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 4
nguyên tắc chung, số quan sát tối thiểu ít nhất gấp năm lần số lượng biến được phân tích và cỡ
mẫu dễ chấp nhận hơn sẽ có tỷ lệ 10: 1. Một số nhà nghiên cứu thậm chí còn đề xuất tối thiểu
20 quan sát cho mỗi biến.
iii) Stevens (2002) một nhân tố được gọi là tin cậy nếu nhân tố này có từ 3 biến đo
lường trở lên.
Qua quá trình điều tra, nhóm nghiên cứu đã thu thập được tổng cộng 402 quan sát từ các
sinh viên đang học tập tại các trường đại học tại Thành phố Đà Nẵng. Do quá trình thu thập
dữ liệu được thực hiện online thông qua Google Form nên vẫn còn nhiều câu trả lời chưa hợp
lệ. Sau khi xem xét, nhóm đã loại 34 quan sát không hợp lệ và đồng thời đưa 367 quan sát còn
lại vào phân tích.
Bảng câu hỏi được nhóm dùng để thu thập dữ liệu bao gồm 9 nhân tố và tổng cộng 46
câu hỏi. Tất cả các nhân tố phân tích đều bao gồm tối thiểu 3 biến đo lường. Do đó, theo
Stevens (2002), Habing (2003) thì tất cả các nhân tố đều được coi là tin cậy để tiến hành phân
tích. Ngoài ra, với số lượng 46 câu hỏi thì quy mô mẫu tối thiểu phải đạt được 240 quan sát.
Trong thực tế, nhóm đã thu thập được 367 quan sát hợp lệ, qua đạt được yêu cầu về kích
thước mẫu tối thiểu.
Nội dung của bảng hỏi được xây dựng dựa trên quá trình tổng quan và dịch thuật từ các
nghiên cứu của các tác giả: Christopher Schlaegel, Michael Koenig (2014); Diane
H.Sonnenwald, Kelly L. Maglaughlin, Mary C. Whitton (2015); Fawwaaz Davids (2017);
Maribel Guerrero, Josep Rialp, David Urbano (2006); Yu-Min Wang, Yi-Shuan Lin (2016);
Marina (2013).
4. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm tác động của nhân tố đến tiềm năng khởi nghiệp
kinh doanh của sinh viên
4.1. Mô tả mẫu nghiên cứu
Bảng 1 Cơ cấu quy mô mẫu theo tiêu thức Giới tính
Chỉ tiêu Tần số Tần suất
Nữ 271 73.8%
Nam 96 26.2%
Tổng cộng 367 100%
Trong 367 quan sát hợp lệ được đưa vào phân tích bao gồm 271 nữ (chiếm 74%) và 96
nam (chiếm 26%). Mặc dù có mất cân đối về mẫu nghiên cứu theo giới tính, tuy nhiên hiện
nay tỷ lệ chung của các trường đại học tại Thành phố Đà Nẵng thì nữ chiếm tỷ lệ hơn 70%
nên cơ cấu mẫu như vậy là chấp nhận được.
Bảng 2 Cơ cấu quy mô mẫu theo tiêu thức Xuất thân
Chỉ tiêu Tần số Tần suất
Thành thị 134 36.5%
Nông thôn 233 63.5%
Bảng 3 Cơ cấu quy mô mẫu theo tiêu thức Người ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn
nghề nghiệp
Người ảnh hưởng Tần số Tần suất
Bố mẹ 199 54.2%
Anh, chị 44 12.0%
Bạn bè 28 7.6%
Thầy cô 19 5.2%
Thần tượng 23 6.3%
Bản thân 43 11.7%
Khác 11 3.0%
Tổng cộng 367 100%
Trung bình thang đo Phương sai thang đo Tương quan Cronbach’s Alpha
Biến quan sát
nếu loại biến nếu loại biến biến-tổng nếu loại biến
TD5 0.937
TD6 0.698
TD3 0.565
TD1 0.557
TD4 0.53
PT2 0.732
PT3 0.707
Đối với các nhân tố mô hình SEE, phân tích khám phá nhân tố EFA được tiến hành chỉ
một lần duy nhất nhằm khám phá các cấu trúc tìm ẩn giữa các biến quan sát. Ở lần phân tích
duy nhất này, 07 biến quan sát được đưa vào phân tích với phương pháp trích hệ số Principal
Axis Factoring và phép quay Promax. Hệ số Kaiser-Meyer-Olkin (KMO), giá trị pvalue, tổng
phương sai trích nói lên mức độ giải thích sự biến thiên của dữ liệu đều phù hợp (KMO =
0.81, pvalue = 0.000, tổng phương sai trích bằng 55.28%). Trong số 07 biến quan sát được
đưa vào phân tích, không có biến nào có hệ số tải nhân tố nhỏ hơn 0,5. Ngoài ra, có 02 nhân
tố đã được khám phá và cả 02 nhân tố này đều có hệ số eigenvalue lớn hơn 1. Kết quả chi tiết
cuối cùng được trình bày chi tiết tại Bảng 6.
Bảng 6 Kết quả phân tích nhân tố khám phá lần cuối của nhóm nhân tố SEE
Nhân tố
Biến mã hóa
1 2
KT2 0.837
KT3 0.802
KT4 0.699
KT1 0.637
MM3 0.803
MM2 0.735
MM1 0.599
Hệ số
3.497 1.254
Eigenvalues
Tổng phương sai
55.28%
trích (%)
KMO 0.81
P value 0.000
Bảng 7 Kết quả phân tích nhân tố khám phá lần cuối của Ý định KSKD trên internet
Biến mã hóa Nhân tố
Đối với nhân tố Ý định KSKD trên Internet, phân tích khám phá nhân tố EFA cũng
được tiến hành chỉ một lần duy nhất như phân tích khám phá đối với các biến trong mô hình
SEE nhằm khám phá các cấu trúc tìm ẩn giữa các biến quan sát. Ở lần phân tích duy nhất này,
04 biến quan sát được đưa vào phân tích với phương pháp trích hệ số Principal Axis Factoring
và phép quay Promax. Hệ số Kaiser-Meyer-Olkin (KMO), giá trị pvalue, tổng phương sai
trích nói lên mức độ giải thích sự biến thiên của dữ liệu đều phù hợp (KMO = 0.669, pvalue =
0.000, tổng phương sai trích bằng 56.5%). Trong số 04 biến quan sát được đưa vào phân tích,
không có biến nào có hệ số tải nhân tố nhỏ hơn 0,5. Ngoài ra, chỉ có 01 nhân tố đã được khám
phá và nhân tố nàycó hệ số eigenvalue lớn hơn 1. Kết quả chi tiết cuối cùng được trình bày
chi tiết tại Bảng 7.
4.4. Kết quả phân tích nhân tố khẳng định (CFA)
Hình 2 Mô hình tới hạn đo lường các khái niệm trong mô hình (đã chuẩn hóa)
Kết quả phân tích nhân tố khẳng định CFA cho thấy các kiểm định chi square đạt giá trị
tới hạn có giá trị pvalue = 0.000<0.05, các chỉ tiêu Chisquare\df = 2.019 <3, các chỉ số CFI,
TLI đều lớn hơn 0.9, chỉ số RMSEA =0.053<0.08.Như vậy các chỉ tiêu đạt yêu cầu, mô hình
đo lường này phù hợp với dữ liệu thực tế, và không có tương quan giữa các sai số đo lường
nên nó đạt được tính đơn nguyên. Các trọng số chuẩn hóa đều lớn hơn 0.5 vì vậy có ý nghĩa
thống kê , nên các khái niệm đạt được giá trị hội tụ.
4.5. Kết quả phân tích đa cấu trúc (SEM)
Kết quả phân tích trên mô hình đa cấu trúc SEM cho thấy các kiểm định chi square đạt
giá trị tới hạn có giá trị pvalue = 0.000<0.05, các chỉ tiêu Chisquare\df = 2.339 < 3, các chỉ số
CFI, TLI đều lớn hơn 0.9, chỉ số RMSEA =0.06 < 0.08. Như vậy các chỉ tiêu đạt yêu cầu, mô
hình đo lường này phù hợp với dữ liệu thực tế.
Bảng 8 Kết quả kiểm định lần cuối tác động giữa các nhân tố bằng SEM
Estimat
Quan hệ tác động S.E. C.R. P Label
e
0.07
KT <--- TD 0.166 2.325 0.02 Chấp nhận
1
0.08
MM <--- TD 0.041 0.495 0.021 Chấp nhận
2
0.05
KT <--- NT 0.139 2.338 0.019 Chấp nhận
9
0.07
MM <--- NT 0.224 2.862 0.004 Chấp nhận
8
0.07
KT <--- TU 0.518 6.703 *** Chấp nhận
7
0.08
MM <--- TU 0.477 5.451 *** Chấp nhận
8
0.08
MM <--- QC 0.014 0.169 0.036 Chấp nhận
1
0.06
YD <--- KT 0.332 5.188 *** Chấp nhận
4
0.06
YD <--- MM 0.29 4.649 *** Chấp nhận
2
Vì các nhân tố Lợi thế tương đối, Sự phức tạp bị loại bỏ hoàn toàn khỏi mô hình và mối
quan hệ giữa nhân tố Quy chuẩn chủ quan với nhân tố Cảm nhận về tính khả thi cũng được
loại bỏ nên mô hình điều chỉnh (02) được thay thế cho mô hình (01) và hệ thống giả thuyết
nghiên cứu của mô hình (02) được kế thừa từ mô hình (01) trừ các giả thuyết H4, H7, H8,
H9, H10 đã được loại bỏ.
Bảng 9 Ước lượng Bootstrap với mẫu N=500
0,166
0,041
0.014
TÓM TẮT
Ở Việt Nam hiện nay, đặc biệt Đà Nẵng - “thành phố đáng sống” của hàng
nghìn người dân, đang ngày càng phát triển thu hút nhiều khách du lịch khắp nơi
trên thế giới, gây nhiều ảnh hưởng về mặc tích cực cũng như không ít tiêu cực
đến chất lượng đời sống của người dân về các vấn đề môi trường, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Bài viết này sử dụng các công cụ định lượng để phân tích các nhóm
nhân tố tác động của du lịch ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của người dân
thành phố Đà Nẵng. Đề xuất và kiến nghị để Đà Nẵng có thể đi theo đúng định
hướng phát triển du lịch của thành phố nhằm giảm bớt những mặt tiêu cực do
phát triển du lịch mang lại và cải thiện đời sống của người dân theo những chiều
hướng tích cực.
Từ khóa: Tác động du lịch, chất lượng cuộc sống.
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay cùng với sự phát triển kinh tế trên thế giới, du lịch đã trở thành một bộ phận
không thể thiếu trong đời sống văn hóa-xã hội của con người. Du lịch không những là một
ngành kinh tế góp phần nâng cao đời sống vật chất mà còn giúp con người có điều kiện giao
lưu văn hóa giữa các quốc gia vùng miền. Chính vì vậy ngày nay du lịch đã nằm trong chiến
lược phát triển của rất nhiều quốc gia, trở thành nền kinh tế quan trọng có đóng góp lớn trong
sự phát triển của các nước. Ở Việt Nam cũng không ngoại lệ, đặc biệt Đà Nẵng - “thành phố
đáng sống” của hàng nghìn người dân, đang ngày càng phát triển thu hút nhiều khách du lịch
khắp nơi trên thế giới, gây nhiều ảnh hưởng về mặc tích cực cũng như không ít tiêu cực đến
chất lượng đời sống của người dân về các vấn đề môi trường, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Với sự phát triển về du lịch như vậy, biển Đà Nẵng hàng ngày phải chịu áp lực của sự ô
nhiễm. Bên cạnh đó, môi trường biển Đà Nẵng còn phải “gánh” rác thải từ hệ thống cống thu
gom nước mưa của thành phố chung với thu gom nước thải sinh hoạt, khi mưa lớn thoát
không kịp tràn ra biển mang theo rác và tình trạng xả rác bừa bãi tại các âu thuyền, bến bãi…
chủ yếu là rác thải nhựa. Các chủ đầu tư tranh thủ xây dựng những công trình phục vụ nơi ở
cho khách du lịch khi chưa được cấp phép, ví dụ cụ thể là ở bán đảo Sơn Trà. Họ đã biến 1/4
bán đảo Sơn Trà thành khu du lịch nghỉ dưỡng, bất chấp việc nơi đây có vị thế đặc biệt quan
trọng về quốc phòng, an ninh.
Để Đà Nẵng có thể đi theo đúng định hướng phát triển du lịch của thành phố nhằm giảm
bớt những mặt tiêu cực do phát triển du lịch mang lại và cải thiện đời sống của người dân theo
những chiều hướng tích cực thì lãnh đạo thành phố, các quận huyện, Sở Du lịch Đà Nẵng nắm
bắt kịp thời, đầy đủ các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hài lòng của đời sống người dân thành
phố Đà Nẵng .
2. Đề xuất mô hình nghiên cứu
2.1. Khái quát các khái niệm
Du lịch:
Du lịch là đi để vui chơi, giải trí là việc thực hiện chuyến đi khỏi nơi cư trú, có tiêu tiền,
có lưu trú qua đêm và có sự trở về. Mục đích của chuyến đi là giải trí, nghỉ dưỡng, thăm thân
nhân, công tác, hội nghị khách hàng hay du lịch khen thưởng, hoặc nhằm mục đích kinh
doanh. Các Tổ chức Du lịch Thế giới định nghĩa khách du lịch như những người "đi du lịch
đến và ở lại ở những nơi bên ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ trong hơn 24 giờ và không
quá một năm liên tiếp cho giải trí, kinh doanh và các mục đích khác không liên đến những
Hình 2: Mô hình tác động của du lịch đến chất lượng cuộc sống
2.2.1. Tác động kinh tế
Du lịch có thể tạo việc làm, cung cấp ngoại hối, tạo ra lợi tức đầu tư cho nền kinh tế mới
nổi, mang công nghệ và cải thiện mức sống.
2.2.2. Tác động xã hội
Du lịch làm tăng tắc nghẽn giao thông và đông đúc ở khu vực công cộng, và mang lại
các vấn đề xã hội.
2.2.3. Tác động văn hóa
Du lịch làm biến đổi văn hóa khi hai hoặc nhiều nền văn hóa tiếp xúc trong một thời
gian bền vững và các ý tưởng được trao đổi
2.2.4. Tác động môi trường
Trong tổng số 307 người được điều tra, có 245 người giới tính nữ chiếm tỷ trọng 79.8%,
và 62 nam chiếm 20.2%.
Với tổng số 307 người được hỏi, có 73.3 % người thuộc nhóm tuổi từ 20-29, 16% thuộc
nhóm từ 30-39 tuổi, 6.2 % thuộc nhóm từ 40-50 tuổi, và 4.6 % từ 50 tuổi trở lên.
Trong 307 người được khảo sát, có 16 người tốt nghiệp trung cấp, chiếm 5.25%; 16
người tốt nghiệp cao đẳng chiếm 11.7 %; 235 người tốt nghiệp đại học, chiếm 76.5 %; 16
người có trình độ học vấn trên đại học chiếm 5.2 % và 4 người có trình độ học vấn khác
chiếm tỷ trọng rất nhỏ, chỉ 1.3%.
Khi được hỏi về qui mô hộ gia đình, có 26 câu trả lời 1 chiếm 8.5%, 7 câu trả lời là 2
chiếm 2.3%, 27 câu trả lời là 3 chiếm 8.8%, 78 câu trả lời là 4 chiếm 25.4%, 62 câu trả lời là
5 chiếm 20.2%, 59 câu trả lời là 6 chiếm 19.2%, 42 câu trả lời là 7 chiếm 13.7%, chỉ có 6 câu
trả lời trên 8 và chiếm 2%
Đa số người được hỏi (53.1%) có thu nhập dưới 5 triệu, số người có thu nhập từ 5-10
triệu và 10-15 triệu gần bằng nhau (chiếm 15.6% và 16.6%), số người có thu nhập từ 20-25
triệu chiếm 6.8%, còn lại số người có thu nhập từ 25-30 triệu và trên 30 triệu chiếm tỷ trọng
bằng nhau và rất nhỏ (2.6%)
Hộ gia đình có thu nhập dưới 10 triệu chiếm 39.7%, hộ đình có thu nhập 10-20 triệu
chiếm 23.8%, hộ gia đình có thu nhập 20-30 triệu chiếm 19.5%, hộ gia đình có thu nhập trên
30 triệu chiếm 16.9%.
Bảng 7: Bảng thống kê mô tả phần thu nhập của gia đình từ du lịch trong thành phố
Phần thu nhập hiện tại của Tần suất (người) Tỷ trọng (%)
gia đình ông/bà từ du lịch
trong thành phố (%)
Dưới 5 189 61.6
5-10 51 16.6
10-15 36 11.7
15-20 15 4.9
Đa số các gia đình (61.6%) đều có thu nhập từ du lịch rất ít là dưới 5%, có 16.6 % hộ
gia đình có thu nhập từ du lịch từ 5-10%, 11.7 hộ gia đình có thu nhập từ du lịch từ 15-20%,
4.9% hộ gia đình có thu nhập từ du lịch từ 20-25%, tỷ trọng hộ gia đình có thu nhập từ 20-
25% và trên 25% rất nhỏ (2.6%)
8.2. Kiểm định thang đo likert
Nghiên cứu này chủ yếu nghiên cứu những vấn đề mang tính định tính, nên để định
lượng thì tác giả sử dụng thang đo Liker – thang điểm 5 (từ 1 – Hoàn toàn không đồng ý, 5 –
Hoàn toàn đồng ý).
Bảng 8: Kiểm định thang đo likert tác động của du lịch
Trung bình Phương sai Cronbach’s
Tương quan
Biến quan sát thang đo nếu thang đo nếu Alpha nếu loại
biến-tổng
loại biến loại biến biến
1.Tác động kinh tế: cronbach’s alpha = 0.965
KT1 8.29 2.519 0.947 0.933
KT4 8.35 2.562 0.914 0.957
KT5 8.33 2.58 0.916 0.956
2.Tác động xã hội: cronbach’s alpha = 0.891
XH1 9.89 3.912 0.845 0.828
XH2 9.96 4.126 0.829 0.837
XH3 10.02 4.506 0.693 0.885
XH4 9.88 3.847 0.706 0.889
3.Tác động văn hóa: cronbach’s alpha = 0.939
VH2
3.74 0.533 .
0.887
VH4 3.79 0.594 0.887 .
4.Tác động môi trường: cronbach’s alpha = 0.929
MT1 3.54 0.608 0.868 .
MT4 3.48 0.564 0.868 .
Kết quả phân tích độ tin cậy về Tác động kinh tế ban đầu cho thấy hệ số Cronbach’s
Alpha là 0.931, đảm bảo độ tin cậy cần thiết. Tuy nhiên nếu loại biến KT2 thì sẽ làm tăng độ
tin cậy của thang đo Cronbach’s Alpha lên 0.937 (cao hơn trước khi loại biến) nên biến này
được loại khỏi nhân tố Tác động kinh tế. Tiếp tục, ta cũng loại biến KT3 ra khỏi nhân tố Tác
động kinh tế. Ta tiến hành kiểm định tương tự với các nhân tố còn lại, loại biến VH1 và VH2
ra khỏi nhân tố Tác động văn hóa và loại hai biến MT2, MT3 ra khỏi nhân tố Tác động môi
trường.
Như vậy, các thang đo là đáng tin cậy và có 11 biến được giữ lại để đưa vào phân tích
nhân tố khám phá EFA.
Bảng 9: Kiểm định thang đo likert hài lòng cuộc sống lần cuối
Trung bình Phương sai Cronbach’s
Tương quan
Biến quan sát thang đo nếu thang đo nếu Alpha nếu loại
biến-tổng
loại biến loại biến biến
1.Miền vật chất: cronbach’s alpha: 0.807
HLVC1 10.9 4.179 0.683 0.735
HLVC2 11.05 4.116 0.529 0.805
HLVC3 10.91 3.811 0.575 0.788
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 21
HLVC4 10.79 3.987 0.747 0.705
2.Miền cuộc sống cộng đồng: cronbach’s alpha: 0.079
HLCD3 3.48 0.564 0.959 .
HLCD4 3.46 0.557 0.959 .
3.Miền tinh thần: cronbach’s alpha: 0.97
HLTT1
3.00 0.954 .
0.942
HLTT3 2.98 0.898 0.942 .
4.Miền sức khỏe và an toàn: cronbach’s alpha: 0.997
HLSK2
3.36 0.994 .
0.543
HLSK4
0.519 0.994 .
3.36
Tiến hành kiểm định thang đo likert cho các nhóm nhân tố Hài lòng cuộc sống tương tự
như các nhóm nhân tố Tác động của du lịch, sau khi loại bỏ biến, ta được kết quả như bảng
1.9, tức loại biến HL1, HL2 ra khỏi nhân tố Miền cuộc sống cộng động, loại biến HLTT2,
HLTT4 ra khỏi nhân tố Miền tinh thần, và cuối cùng loại biến HLSK1, HLSK3 ra khỏi nhân
tố Miền sức khỏe và an toàn. Như vậy, các thang đo là đáng tin cậy và có 27 biến được giữ
lại để đưa vào phân tích nhân tố khám phá EFA.
Như vậy, các thang đo là đáng tin cậy và có 10 biến được giữ lại để đưa vào phân tích
nhân tố khám phá EFA.
Qua kết quả EFA lần đầu cho thấy, ta có KMO = 0.691, Sig. = 0.000, có 8 nhóm nhân
tố được rút trích ra với tổng phương sai rút trích bằng 87.472% > 50%, do đó kết quả phân
tích nhân rố EFA là phù hợp và có ý nghĩa thống kê.
-Nhóm nhân tố 1: bao gồm 4 biến XH1, XH2, XH3, XH4.
-Nhóm nhân tố 2: bao gồm 5 biến KT1, KT4, KT5.
-Nhóm nhân tố 3: bao gồm 4 biến HLVC1, HLVC2, HLVC3, HLVC4.
-Nhóm nhân tố 4: bao gồm 4 biến HLSK2, HLSK4.
-Nhóm nhân tố 5: bao gồm 4 biến HLCD3, HLCD4.
-Nhóm nhân tố 6: bao gồm 3 biến HLTT1, HLTT3.
-Nhóm nhân tố 7: bao gồm 4 biến VH2, VH4.
-Nhóm nhân tố 8: bao gồm 5 biến MT1, MT4.
Và nhân tố 9 về Hài lòng cuộc sống bao gồm 1 biến phụ thuộc CX
Sau quá trình phân tích nhân tố khám phá EFA, không có biến nào bị loại bỏ, vì vậy tên
gọi các khái niệm ban đầu vẫn được giữ nguyên.
8.4. Phân tích tương quan
Sau khi phân tích nhân tố khám phá EFA, không có khái niệm nào được loại bỏ, vì vậy
mô hình nghiên cứu đề xuất vẫn được giữ nguyên.
Để chuẩn bị phân tích mô hình hồi quy, đầu tiên phải tiến hành phân tích tương quan
giữa các biến độc lập và biến phụ thuộc, kết quả được trình bày ở bảng 1.11
Ta có hệ số tương quan của các biến độc lập với biến phụ thuộc từ 0.000 đến 0.31 nên
biến phụ thuộc có quan hệ với tất cả các biến độc lập.
Bảng 11: Phân tích tương quan giữa biến phụ thuộc và các biến độc lập
CX KT XH VH MT HLVC HLCD HLTT HLSK
Pearson ** * ** ** ** * *
1 .150 .146 .227 .496 .159 .139 .139 .123*
Correlation
CX Sig. (2-
.008 .010 .000 .000 .005 .015 .015 .031
tailed)
N 307 307 307 307 307 307 307 307 307
Pearson ** ** ** ** ** * *
.150 1 .189 .373 .214 .402 .137 .129 .023
Correlation
KT Sig. (2-
.008 .001 .000 .000 .000 .017 .023 .690
tailed)
N 307 307 307 307 307 307 307 307 307
Pearson * ** ** *
.146 .189 1 .046 .329 .090 -.119 -.065 .105
Correlation
XH Sig. (2-
.010 .001 .424 .000 .117 .037 .255 .067
tailed)
N 307 307 307 307 307 307 307 307 307
Pearson ** ** ** ** ** **
.227 .373 .046 1 .253 .474 .207 .230 .039
Correlation
VH Sig. (2-
.000 .000 .424 .000 .000 .000 .000 .491
tailed)
N 307 307 307 307 307 307 307 307 307
Pearson ** ** ** ** **
.496 .214 .329 .253 1 .352 .001 .019 .062
Correlation
MT Sig. (2-
.000 .000 .000 .000 .000 .992 .743 .281
tailed)
N 307 307 307 307 307 307 307 307 307
Pearson ** ** ** ** **
.159 .402 .090 .474 .352 1 .238 .093 .015
Correlation
HLVC Sig. (2-
.005 .000 .117 .000 .000 .000 .104 .790
tailed)
N 307 307 307 307 307 307 307 307 307
HLCD Pearson .139* .137* -.119* .207** .001 .238** 1 .205** .063
ABSTRACT
This study aims to examine whether increasing leverages would
significantly change the firm risks in the innovative industry or not. By using the
CHS model (Campbell, Hilscher & Szilagyi, 2008) to test 395 American
innovation companies categorized into four groups of debt ratio (<30%;
30%<debt<50%; 50%<debt<70% and >70%), in three separate periods 2007-
2009, 2010-2012 and 2013-2015, in the NYSE and NASDAQ stock exchanges, it
revealed that there was no statistically significant difference in the P (probability)
among the four debt groups, yet there are other differences in their external and
internal performance. In other words, innovation companies with higher debt rate
are not riskier than that with lower debt rate or even more stabilized in some
periods of time. The result also recommended the empirically investment trend
matrix in the way of seizing and capturing the stock markets (innovation
industry).
Keywords: Debt financing (liabilities); Equity financing (equities); CHS Model.
The study has its own significance for the applied finance because of its considerable
data of more than 80% of the Innovation Companies in the NASDAQ and NYSE markets
from 2007-2015. Moreover, the research paper were divided into two parts including P
(probability of failure) analysis is the academic contribution and technical analysis are the
empirical recommendations.
First of all, the P analysis result indicated that there was no statistically significant
difference of P probability (CHS model) among four groups (debt ratio) < 30%, 30% < (debt
ratio) < 50%, 50% < (debt ratio) < 70% and (debt ratio) > 70%.) in the three periods. It means
that most of the innovation companies in two stock exchanges (NYSE and NASDAQ)
followed market trends from 2007-2015, yet it does not mean there was no difference in the
performance. The research paper indirectly answered the hypotheses in detail that debt ratios
have their own weaknesses and strengths in different periods and in two different stock
exchanges. To make it clearer, should understand innovation is one of the determining
business trends, thus these innovation companies should be considered the independent and
proportionate data. Moreover, all of outliers were taken out and the data was re-categorized
and revolved after three years, based on the debt ratio, thus the results are expected to be
comprehensive and objective (not biased). These three periods represent three different status
points of the whole market in the U.S (pre-crisis, post-crisis and rebounding time), hence it
would be a good reference for the future market trend.
Secondly, the paper indirectly showed that measuring financing risks for innovation
projects should be more complicated, should not mainly depend on pure NPVs anymore or
finding an “appropriate balance between debt and equity based on the nature of the income”
(Ben-Ari & Vonortas, 2007). Besides, the paper partly exposed that increasing leverages does
not mean the firm risks will increase in the innovative industry or even, in reality, innovation
companies permanently or cyclically change their debt policies and make their projects
aligned to the performance, stages and customer demands. It seems to contradict to the so-
called paradox of “the riskier and the more profitable” investors can make (Myers & Rajan,
1995) or against the theoretical thinking of “debts are hard commitments as if the
management is unable to meet the debt payments the firm will go bankrupt” (Czarnitzki &
Kraft, 2009, p. 24). The paper also partly answer many questions that whether or not
increasing leverages boosts or hurts firm performance (Campello, 2006); whether it
significantly increases more costs of debt financing (Reeb, Mansi, & Allee, 2001); or whether
TÓM TẮT
Bài viết nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa mở cửa thương
mại, mở cửa tài chính và sự phát triển hệ thống tài chính ở các thị trường mới nổi
hiện nay thông qua hai bộ tiêu chí phát triển tài chính quy mô và hiệu quả. Tác
giả sử dụng phương pháp ước lượng GMM do Arellano và Bond (1991) đề xuất
cho bộ dữ liệu bảng động gồm 30 quốc gia thuộc danh sách thị trường mới nổi
trong khoảng thời gian 15 năm từ 2000 đến 2015.
Thông qua các kiểm định Chi Squared test, Arellano- Bond test và Sargan
test, bài nghiên cứu đã đưa ra một số phát hiện quan trọng như sau:
Thứ nhất, tồn tại mối liên hệ giữa mở cửa thương mại và phát triển hệ
thống tài chính. Cụ thể, mở cửa thương mại ảnh hưởng tích cực đến cả trên quy
mô và hiệu quả tài chính.
Thứ hai, tồn tại mối quan hệ giữa mở cửa tài chính và phát triển tài chính.
Mở cửa tài chính có tác động tiêu cực đến quy mô tài chính nhưng tích cực đến
hiệu quả tài chính.
Thứ ba, hiệu ứng biên của mở cửa thương mại đến tăng trưởng quy mô tài
chính là tích cực trong môi trường tồn tại mở cửa tài chính. Ngược lại, hiệu ứng
biên của mở cửa tài chính đến phát triển quy mô tài chính là tiêu cực khi có mặt
của mở cửa thương mại.
Từ những kết quả đó, Chính phủ của các thị trường mới nổi này có thể đưa
ra những định hướng phát triển kinh tế phù hợp với thực trạng của mỗi quốc gia.
Từ khóa: Mở cửa thương mại, mở cửa tài chính, phát triển tài chính.
Nhìn lại năm 2017, nền kinh tế thế giới đồng loạt khởi sắc. Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)
và phần lớn các tổ chức tài chính khác trên thế giới đồng loạt nâng mức dự báo tăng trưởng
kinh tế toàn cầu lên 3,6-3,7% cao hơn nhiều so với kết quả đạt được năm 2016 là 3,2%. Điều
này đã phần nào khẳng định được sự hồi phục mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới sau cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế toàn cầu hiện
nay, việc tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới, ký kết những hiệp định đối tác thương mại
của nhiều quốc gia đã tạo nên xu hướng tự do hóa thương mại ngày càng lớn. Bên cạnh đó, sự
mở cửa ngày càng rõ rệt trong hệ thống tài chính của các quốc gia đã tạo điều kiện cho các
dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào ngày càng tăng. Theo đó, sự tương tác giữa mở cửa
thương mại, mở cửa tài chính và phát triển hệ thống tài chính quốc gia càng trở nên mật thiết
và tương hỗ lẫn nhau. Đặc biệt trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế thịnh vượng hiện nay, tự do
hóa tài chính cũng khiến cho hoạt động đầu tư trên thị trường tài chính trở nên sôi động, hệ
thống tài chính ngày càng phát triển, các nhà hoạch định cần hiểu rõ được sự liên kết giữa ba
yếu tố trên và theo đó đặt ra các chính sách kịp thời thích hợp với mục tiêu của mỗi quốc gia.
Chính vì tính cấp thiết của vấn đề này, tác giả đã thực hiện nghiên cứu mối quan hệ giữa mở
cửa thương mại, mở cửa tài chính và phát triển triển: bằng chứng thực nghiệm ở các thị
trường mới nổi trong giai đoạn 2000-2015.
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp ước lượng DGMM được giới thiệu bởi Arellano
và Bond (1991) cho dữ liệu bảng 30 nền kinh tế mới nổi trong khoảng thời gian từ 2000 đến
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 28
2015. Dựa trên mô hình và kết quả của những công trình nghiên cứu đi trước, tác giả thêm
vào một số biến kiểm soát thể hiện sự riêng biệt của từng quốc gia về tình hình xã hội, chính
trị và tăng trưởng kinh tế nhằm tăng tính hiệu quả của ước lượng. Phần mềm hỗ trợ tính toán
và ước lượng là STATA 12. Dữ liệu nghiên cứu là dữ liệu thứ cấp được thu thập và tổng hợp
từ trang web chính thức của tổ chức Ngân hàng Thế giới.
Mối quan hệ giữa ba yếu tố phát triển tài chính và mở cửa trong thương mại và tài
chính không phải là vấn đề nghiên cứu mới, tuy nhiên những nghiên cứu trước đây vẫn chưa
đưa ra bằng chứng thực nghiệm cho các nền kinh tế mới nổi trên thế giới- những quốc gia có
tiềm năng phát triển mạnh mẽ trong thập niên tới và cũng đang gặp rất nhiều khó khăn trong
việc cải cách hệ thống tài chính. Sử dụng phương pháp ước lượng DGMM trên một mẫu dữ
liệu có số quan sát lớn sẽ thu được những kết quả hồi quy vững, không chệch và tính hiệu quả
cao. Mô hình hồi quy sử dụng hàm log tuyến tính sẽ giảm mức độ biến động cao của số liệu,
đồng thời thể hiện chính xác hơn các biến số kinh tế khi trình bày ý nghĩa dưới dạng %. Bên
cạnh đó, việc nghiên cứu về tác động biên của mở cửa tài chính (thương mại) đến phát triển
tài chính trên từng nước trong mẫu cũng đem lại những gợi ý cụ thể cho các nhà hoạch định
chính sách mỗi quốc gia.
Đã có rất nhiều các tài liệu liên quan nghiên cứu chuyên sâu về mối quan hệ giữa mở
cửa thương mại và phát triển tài chính (Beck, 2002); sự cởi mở tài chính và phát triển tài
chính (Levine, 2001), sự cởi mở về tài chính và sự mở cửa thương mại (Aizenman and Noy,
2009). Những nghiên cứu này đã chỉ ra rằng có mối liên hệ tích cực giữa sự mở cửa tài chính
và phát triển tài chính; giữa mở cửa thương mại và mở cửa tài chính trên mẫu dữ liệu các
nước phát triển và đang phát triển.
Tuy nhiên, Rajan và Zingales (2003) trong bài ngiên cứu của mình đã gợi ý rằng kết
quả khi xem xét sự liên quan giữa hai biến mở cửa thương mại và mở cửa tài chính có thể sẽ
không hoàn thiện và thậm chí là sai lệch. Từ đây, Rajan và Zingales đã đề xuất một mối liên
hệ ba biến giữa mở cửa thương mại, mở cửa tài chính và phát triển tài chính.
2.1 Mối quan hệ giữa mở cửa thương mại và phát triển tài chính
Nhóm tác giả Do và Levchenko (2004) tìm hiểu xem liệu mở cửa thương mại có tác
động đến phát triển tài chính của một quốc gia không. Kết quả chỉ ra rằng, mức độ ảnh hưởng
của mở cửa thương mại lên phát triển tài chính phụ thuộc vào mức thu nhập trung bình của
mỗi quốc gia. Ở các nước có mức thu nhập trung bình cao, mở cửa thương mại có ảnh hưởng
tích cực lên phát triển tài chính và xảy ra ngược lại ở các nước có mức thu nhập trung bình
thấp. Từ đó, có thể kết luận rằng, ảnh hưởng của cởi mở thương mại lên phát triển tài chính
khác nhau ở các nước có thu nhập trung bình khác nhau.
Kế thừa từ nghiên cứu của nhóm tác giả Do và Levchenko, tác giả Kim và cộng sự
(2009) cũng mở rộng nghiên cứu về mở cửa thương mại tác động đến phát triển hệ thống tài
chính quốc gia trong cả ngắn hạn và dài hạn. Tác giả chỉ ra rằng, tác động của mở cửa thương
mại lên phát triển tài chính còn phụ thuộc vào mức thu nhập trung bình của từng quốc gia. Ở
các nước có thu nhập trung bình thấp, tác động này là ngược chiều trong ngắn hạn và cùng
chiều trong dài hạn. Ở các nước có thu nhập trung bình cao, trong ngắn hạn không có tác
động và có tác động cùng chiều trong dài hạn.
2.2 Mối quan hệ giữa mở cửa tài chính và phát triển tài chính
Ross Levine (2001) đã đưa ra những bằng chứng có được từ thực nghiệm hiện có
nhằm xác định việc mở cửa tài chính cải thiện hoạt động của hệ thống tài chính của một nước,
qua đó đẩy mạnh phát triển kinh tế hay không. Hiển nhiên, câu trả lời mà R. Levine là có. Đầu
tiên, việc tự do hóa các dòng vốn quốc tế có xu hướng làm tăng tính thanh khoản của thị
trường chứng khoán, vì thế thúc đẩy đầu tư vào sản xuất dẫn đến tăng trưởng kinh tế. Thứ hai,
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 29
sự xuất hiện của các ngân hàng nước ngoài lớn khi tự do hóa tài chính sẽ góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động của cả hệ thống ngân hàng. Qua đó, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế thông
qua việc thực hiện các cải cách hệ thống tài chính của một quốc gia.
Bài nghiên cứu Chinn và Ito (2006) tập trung xem xét về câu hỏi liệu sự cởi mở về tài
chính có dẫn đến sự phát triển tài chính sau khi kiểm soát mức độ phát triển pháp lý, nghiên
cứu cụ thể trong thị trường chứng khoán. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy mức độ tự
do hóa tài chính cao hơn góp phần thúc đẩy phát triển thị trường chứng khoán chỉ khi nào hệ
thống pháp lý, thể chế được hoàn thiện. Kết quả này phổ biến hơn ở những thị trường mới
nổi. Ngoài ra, tác giả còn cho thấy rằng mở cửa tự do hóa thương mại là điều kiện then chốt
cho việc tự do hóa tài khoản vốn trong khi phát triển hệ thống ngân hàng là điều kiện then
chốt để phát triển thị trường chứng khoán.
2.3 Mối liên hệ giữa mở cửa thương mại và mở cửa tài chính
J. Aizenman và I. Noy (2009) nghiên cứu xây dựng một khung lý thuyết về tương tác
hai chiều giữa sự mở cửa tài chính và mở cửa thương mại. Tác giả nhận thấy rằng một độ lệch
tiêu chuẩn gia tăng trong độ mở cửa thương mại có liên quan với sự gia tăng về cởi mở tài
chính trên thực tế là 9,5% (% của GDP). Tương tự, sự gia tăng về cởi mở tài chính thực tế có
những ảnh hưởng mạnh mẽ đối với sự mở cửa thương mại trong tương lai. Và kết luận rằng,
trong thời đại hội nhập thương mại tăng cao, các quốc gia không thể chọn mở cửa tài chính
độc lập với mở cửa thương mại.
Mối quan hệ giữa phát triển tài chính và mở cửa tài chính, mở cửa thương mại được
Asongu Simplice Anutechia (2010) tiến hành kiểm định dựa trên bộ dữ liệu của 29 quốc gia
châu Phi trong vòng 21 năm. Các biến được sử dụng khi ước lượng mô hình là: biến phát triển
tài chính được thể hiện thông qua hai chỉ số lần lượt là tỷ lệ giữa cung tiền M3 so với GDP và
tỷ lệ tín dụng khu vực tư nhân bằng tiền gửi ngân hàng so với GDP; mở cửa tài chính được đo
lường qua hai chỉ số là tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI so với GDP và tỷ lệ giữa
dòng vốn tư nhân so với GDP; mở cửa thương mại được tính bằng tổng giá trị xuất nhập khẩu
trên GDP. Kết quả cho thấy có quan hệ nhân quả giữa mở cửa tài chính và mở cửa thương
mại và đều là quan hệ cùng chiều. Và phát triển tài chính không có liên kết đáng kể nào đối
với hai chỉ số về mở cửa và ngược lại.
2.4 Tác động của mở cửa thương mại, mở cửa tài chính lên phát triển tài chính
Rajan và Zingales (2003) cho rằng nếu thiết lập sự mở cửa thương mại mà không có
sự hiện diện của mở cửa tài chính sẽ không dẫn đến phát triển tài chính. Tác giả đưa ra lý
thuyết nhóm lợi ích để tóm tắt kết quả nghiên cứu của mình. Tác giả cho rằng các nhóm lợi
ích, đặc biệt là các công ty công nghiệp và tài chính thường phải chịu thua lỗ từ phát triển tài
chính. Điều này là do phát triển tài chính tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mới thành lập, từ
đó gây ra sự cạnh tranh và làm giảm lợi ích hiện có của các công ty công nghiệp và tài chính.
Nhìn chung, kết quả cho thấy phát triển tài chính có tương quan dương với mở cửa thương
mại trong các thời kỳ khi các dòng vốn xuyên biên giới cao, nhưng ít hơn hoặc bằng không
khi các dòng vốn xuyên biên giới thấp.
Baltagi và cộng sự (2009) đã dựa trên giả thuyết của Rajan và Zingales (2003) và tìm
kiếm thêm bằng chứng thực nghiệm làm rõ những tác động đồng thời của mở cửa thương mại,
mở cửa tài chính lên phát triển hệ thống tài chính. Sự tương tác giữa thương mại và sự cởi mở
tài chính có thể được sử dụng để đánh giá tác động cận biên của việc gia tăng cởi mở thương
mại (tài chính) lên phát triển tài chính với điều kiện có mặt của cởi mở tài chính (thương mại).
Các kết quả cho thấy cả sự mở cửa về thương mại và tài chính đều là các yếu tố then chốt
quan trọng trong phát triển ngành ngân hàng. Đồng thời, hiệu ứng biên của mở cửa thương
mại (tài chính) có liên quan tiêu cực đến mức độ mở cửa tài chính (thương mại).
Nhóm tác giả Zhang và cộng sự (2015) tìm kiếm bằng chứng thực nghiệm cụ thể của
mối liên hệ giữa mở cửa thương mại, mở cửa tài chính và phát triển kinh tế tại Trung Quốc.
Phát triển tài chính được thể hiện thông qua ba mặt: quy mô, hiệu quả và cạnh tranh. Bài
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 30
nghiên cứu đóng góp nhiều kết quả quan trọng cho khung lý thuyết tài chính: Mở cửa thương
mại và mở cửa tài chính có tác động tích cực đến hiệu quả và cạnh tranh tài chính nhưng lại
có ảnh hưởng tiêu cực đến quy mô tài chính. Đồng thời, hiệu ứng biên của mở cửa thương
mại và tài chính trên hiệu quả và cạnh trạnh tài chính thì tích cực hơn cho các tỉnh mở cửa
nhiều nhất và tiêu cực cho các tỉnh ít mở cửa. Và tác động biên trên quy mô thì đều tiêu cực ở
tất cả các nước.
Tổng nợ và tiền FIR Tỷ lệ giữa tổng nợ và tiền World Development Zhang (2015)
gửi /GDP gửi của hệ thống tài chính Indicators; Financial
chia GDP danh nghĩa Development and
Structure Dataset
Tín dụng tư nhân / PRV Tỷ lệ giữa tín dụng nội địa World Development Hanh (2009); Asongu (2010)
tổng tín dụng nội cung cấp cho khu vực tư Indicators
địa nhân chia tổng tín dụng nội
địa
Nợ có tính thanh LLY Tỷ lệ nợ có tính thanh Financial Development King&Levine (1993); Kim
khoản / GDP khoản chia GDP danh nghĩa and Structure Dataset & cộng sự (2009);
Tổng giá trị xuất TO Tỷ lệ giữa tổng giá trị xuất World Development Baltagi (2009); Asongu
nhập khẩu/ GDP nhập khẩu chia cho GDP Indicators (2010)
FDI /GDP FDI Tỷ lệ giữa vốn đầu tư trực World Development Baltagi(2009)
tiếp nước ngoài FDI chia Indicators Hanh (2009)
GDP danh nghĩa
GDP thực bình rgdp World Development Zhang (2015);
quân đầu người Indicators Kim và cộng sự (2009);
Aizenman &Noy (2009)
Chi tiêu chính gov Tỷ lệ giữa chi tiêu chính World Development Zhang (2015); Kim và cộng
phủ /GDP phủ chia GDP Indicators sự (2009); Lu và Yao(2009)
Tỷ lệ lạm phát infla World Development Chinn và Ito (2006); Kim và
Indicators cộng sự(2009);
Aizenman và Noy (2009)
3.3 Mô hình nghiên cứu
Mô hình hồi quy thực nghiệm được sử dụng để xác định mối quan hệ giữa ba biến số
kinh tế và cụ thể là sự tác động của mở cửa tài chính, mở cửa thương mại đến từng chỉ báo thể
hiện sự phát triển kinh tế. Dựa trên kết quả thống kê mô tả và các kiểm định có liên quan, mô
hình log tuyến tính động được sử dụng để hồi quy thực nghiệm trong bài nghiên cứu. Mô hình
log-log giúp làm giảm biến động của số liệu và hoàn toàn phù hợp khi số liệu kinh tế trong
bài được hiểu với ý nghĩa dạng %.
Theo kết quả bảng 3, chỉ có hệ số tương quan giữa DEPT và FIR là lớn hơn 0.8- mốc
được cho là xuất hiện đa cộng tuyến. Tuy nhiên, vì DEPT và FIR không hồi quy trong cùng
một mô hình nên không xuất hiện đa cộng tuyến trong trường hợp này.
Bảng 12: Kết quả ma trận tự tương quan
DEPT 1
FIR 0.952 1
PRV 0.012 0.012 1
LLY 0.680 0.742 0.067 1
TO 0.297 0.376 0.221 0.399 1
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 34
FDI 0.031 0.017 0.158 0.044 0.238 1
rgdp 0.085 0.136 0.051 0.048 0.183 0.046 1
gov 0.180 0.209 0.091 0.031 0.165 0.145 0.312 1
infla -0.28 -0.32 -0.16 -0.29 -0.18 -0.06 -0.19 -0.14 1
Nguồn: Tổng hợp kết quả tính toán từ phần mềm Stata 12
Bên cạnh đó, tác giả sử dụng thêm nhân tử phóng đại phương sai VIF để thấy được
mối tương quan giữa một biến và một nhóm biến. VIFi =1 nghĩa là không có đa cộng tuyến
giữa biến i và các biến độc lập còn lại. Hệ số VIF càng lớn, đa cộng tuyến càng mạnh. Và VIF
> 10 mô hình có hiện tượng đa cộng tuyến mạnh.
Bảng 13: Kết quả kiểm tra nhân tử phóng đại phương sai
Biến VIF 1/ VIF
rgdp 1.16 0.862041
gov 1.15 0.872380
TO 1.13 0.888761
FDI 1.07 0.933216
infla 1.07 0.934967
Mean 1.11
VIF
Nguồn: Tổng hợp kết quả tính toán từ phần mềm Stata 12
Dựa vào kết quả bảng 4, giá trị VIF của tất cả các biến đều nhỏ hơn 2. Vì vậy có thể đi
đến kết luận không xuất hiện hiện tượng đa cộng tuyến mạnh trong mô hình hồi quy.
4.3 Phân tích kết quả hồi quy mô hình thực nghiệm
4.3.1 Kết quả hồi quy
Bảng 14: Kết quả hồi quy theo phương pháp DGMM trên hai bộ chỉ tiêu phát triển tài
chính
Biến phụ thuộc
Nguồn: tác giả tự tính toán trên Excel dựa trên hệ số thu được từ bảng 5
Chú thích: số liệu trong ngoặc vuông là phạm vi của các dẫn xuất từng phần của phát
triển tài chính tương ứng với mỗi loại mở cửa
Nhìn vào kết quả bảng 6, xét trên từng dòng, có thể thấy được tại ba mức độ trung
bình, tối thiểu và tối đa của chỉ số mở cửa tài chính, mở cửa thương mại có ảnh hưởng tích
cực phát triển tài chính trên cả quy mô và hiệu quả. Trong một kịch bản khác, tại mức trung
bình và tối đa của mở cửa thương mại, mở cửa tài chính có tác động tiêu cực đến tiêu chí quy
mô nhưng tác động tích cực đến chỉ số hiệu quả và cạnh tranh, trong khi ở cả ba mức tối thiểu
mở cửa thương mại, mở cửa tài chính có tác động tích cực đối với cả hai tiêu chí của phát
triển tài chính. Ngoại trừ ảnh hưởng biên của mở cửa tài chính trên tiêu chí hiệu quả theo giá
trị tối đa của mở cửa thương mại. Kết quả này gần như phù hợp với các kết quả thu được từ
mô hình hồi quy thực nghiệm. Lấy ví dụ là các khoảng giá trị âm đạt được khi tính tác động
biên của mở cửa tài chính đến quy mô tài chính tại mức trung bình của mở cửa thương mại.
Có thể một lần nữa phản ánh sự phân bổ không hợp lý nguồn lực tài chính ở các quốc gia mới
nổi này, khiến cho các doanh nghiệp tìm đến nguồn lực nước ngoài và cản trở sự tăng trưởng
trong quy mô hệ thống tài chính.
Xem xét kết quả thu được nhìn chung trong toàn mẫu, sự mở cửa trong lĩnh vực
thương mại có ảnh hưởng tích cực ngày càng tăng đến quy mô tài chính như là kết quả của sự
mở cửa về tài chính, thể hiện ở hầu hết các quốc gia có độ mở tài chính lớn trong mẫu. Như
vậy phù hợp với phát biểu của Rajan và Zingales (2003) về nhóm lợi ích, ngành công nghiệp
hiện tại sẽ thay đổi thái độ khi mở cửa tài chính và thương mại đạt đến một mức độ nhất định.
Sự gia tăng trong tác động biên của mở cửa thương mại lên quy mô tài chính đã thể hiện sự
thay đổi này. Bên cạnh đó, tác động biên của mở cửa tài chính trên quy mô lại giảm như là kết
quả của mở cửa thương mại.
Nhìn chung, ảnh hưởng biên của mở cửa thương mại (tài chính) lên tiêu chí quy mô có
sự khác biệt với ảnh hưởng biên lên hiệu quả tài chính như là kết quả của việc gia tăng độ mở
tài chính (thương mại).
4.3.4 Kiểm định tính vững
TÓM TẮT
Nghiên cứu này nhằm làm rõ các giá trị cảm nhận tác động thế nào đến
việc sử dụng thương mại điện tử trong các hoạt động tiêu dùng hàng hóa của sinh
viên tại Viê ̣t Nam. Cụ thể, đề tài đánh giá các tác động từ giá trị hữu dụng, giá trị
tiêu khiển, giá trị xã hội và rủi ro được cảm nhận từ khách hàng đối với sự hài
lòng và ý định mua hàng của họ trong tương lai. Với giới hạn của nguồn lực, tác
giả lựa chọn đối tượng thực hiện nghiên cứu là sinh viên trường Đại học Kinh tế
thành phố Hồ Chí Minh (UEH) làm đại diê ̣n. Nghiên cứu thứ thực hiê ̣n với số
lượng phiếu khảo sát được phát ra là 400 bảng, thu được 380 bảng và trong đó
có 33 bảng thì sinh viên không chưa từng mua hàng và 347 đối tượng được sử
dụng để nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, một số giá trị cảm nhận có tác
động đến hai biến nhóm nghiên cứu đang quan tâm, tuy nhiên, rủi ro cảm nhận
vẫn chưa có bằng chứng bằng chứng minh cho sự tác động đến sự hài lòng và ý
định mua hàng của sinh viên.
Từ khóa: Mua hàng trực tuyến, sinh viên, sự hài lòng, ý định mua hàng.
1. GIỚI THIỆU
Với sự phát triển mạnh mẽ và đạt được những thành công to lớn mà các trang thương
mại điê ̣n tử trên thế giới đã thành công như ở Mỹ có Amazon, ở Trung Quốc có Alibaba. Vả ở
Viê ̣t Nam, theo báo cáo của Hiê ̣p hô ̣i thương mại điê ̣n tử Viê ̣t Nam trong báo cáo chỉ số
thương mại điê ̣n tử Viê ̣t Nam về tốc đô ̣ tăng trưởng của thương mại điê ̣n tử trong lĩnh vực bán
lẻ trực tuyến cho thấy tỷ lê ̣ tăng trưởng doanh thu đã tăng 35% trong năm 2017. Báo cáo trên
cho thấy tiềm năng phát triển của ngành trong năm vừa qua cho thấy vai trò của thương mại
điê ̣n tử đã và đang thay đổi phương thức bán hàng của hàng loạt các doanh nghiê ̣p với những
ưu thế vượt trô ̣i khi giúp các doanh nghiê ̣p giảm được các chi phí, thúc đẩy hoạt đô ̣ng tiếp thị
và tăng tính tương tác của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, viê ̣c xuất hiê ̣n của cuô ̣c cách mạng
công nghiê ̣p 4.0 đã giúp các nhà sản xuất và các doanh nghiê ̣p có thể dự đoán được nhu cầu
khách hàng, tối ưu hóa các hoạt đô ̣ng kinh doanh. Nhờ đó, nhà sản xuất có thể đến gần hơn
với nhu cầu hiê ̣n hữu của người tiêu dùng hiê ̣n nay thông qua các dữ liê ̣u thu thâ ̣p từ những
trang mạng điê ̣n tử. Đồng thời, sự phát triển mạnh mẽ của internet và cô ̣ng đồng mạng, khách
hàng đang dần nhạy cảm hơn với các sản phẩm được bày bán trên thị trường. Cụ thể, trước
khi ra quyết định mua hàng, họ thường sẽ tìm các thông tin về sản phẩm, các nhâ ̣n định từ
cô ̣ng đồng mạng mà công cụ thường dùng là google, facebook hay các blog cá nhân. Do đó,
trong giai đoạn gần đây, các doanh nghiê ̣p cần quan tâm hơn về trải nghiê ̣m của các khách
hàng tham gia các giao dịch tại trang web.
Bên cạnh những tình huống thực tế đã chứng minh, nhiều nghiên cứu trước đã có thực
hiê ̣n đề tài nghiên cứu các giá trị cảm nhâ ̣n của khách hàng. Tuy nhiên, tác giả nhâ ̣n thấy, các
giá trị về rủi ro cảm nhâ ̣n còn mang tính chất tổng quát và theo kết quả nghiên cứu của Gan
Chunmei và Wang Weijun (2016), dữ liê ̣u cho thấy không có bằng chứng chứng minh giả
thuyết RSK có tác đô ̣ng đến PI, để kiểm tra mô hình và khắc phục hạn chế của bài nghiên cứu
trước đó, nhóm tác giả đã thực hiê ̣n nghiên cứu để phân tích mối quan hê ̣ giữa các giá trị cảm
nhâ ̣n của khách hàng.
H1
UV (+)
H2 a SAT
(+)
HV
H3
H5 (+)
SV (+)
Hình 1: Mô hình nghiên cứu
FR
H4 PI
PF RS b
(-)
R K
TR
Hình 1: Mô hình nghiên cứu
3. PHƯƠNG PHÁP VÀ DỮ LIỆU
Viê ̣c lấy mẫu của nghiên cứu được lấy theo phương pháp lấy mẫu thuâ ̣n tiê ̣n với số
lượng mẫu lớn (có tỷ lê ̣ 11 mẫu cho 1 biến quan sát theo Henson và Roberts (2006)). Nhóm
nghiên cứu thực hiê ̣n đánh giá mô hình đo lường lần lượt qua các bước như đánh giá đô ̣ tin
câ ̣y, kiểm định EFA, đánh giá CFA và kiểm định mô hình SEM thông qua công cụ SPSS và
AMOS.
Nhóm tác giả đã thực hiê ̣n lấy 400 mẫu thuâ ̣n tiê ̣n để thực hiê ̣n khảo sát, sử dụng 347
mẫu, loại 20 mẫu do người thực hiê ̣n không hoàn thành phiếu khảo sát, 33 mẫu do người thực
hiê ̣n ghi nhâ ̣n mình chưa từng sử dụng website để mua sắm, trong đó tất cả 380 mẫu khảo sát
thu thâ ̣p trực tiếp thông qua viê ̣c phát phiếu khảo sát, nhằm tối thiểu hóa chi phí đối với nhóm
khi thực hiê ̣n đề tài trong thời gian cho phép.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Phân tích kết quả nhân khẩu học
Bảng 10 cho thấy tính chất của mẫu được sử dụng, với 73,5% đối tượng là nữ và 26,5%
là nam. Sinh viên thực hiê ̣n khảo sát dao đô ̣ng từ sinh viên năm 1 đến năm 4, trong đó 6,3% là
sinh viên năm 1; 25,9% là sinh viên năm 2; 45,8% là sinh viên năm 3; 21,9 % là sinh viên
năm 4. Hai website được các sinh viên sử dụng nhiều nhất đó là Tiki với 45,2% và Shopee
với 28,8%.
Bảng 1: Bảng thống kê mô tả mẫu nghiên cứu
Giới tính Sinh viên Website
Các
tiêu Nam Nữ Năm 1 Năm 2 Năm 3 Năm 4 Lazada Tiki Shopee Khác
chí
Qua bảng kết quả EFA, nhóm nghiên cứu nhâ ̣n thấy UV3, UV4 và SAT1 có hê ̣ số tải
nhân tố còn thấp nhưng vẫn còn nằm trong mức chấp nhâ ̣n được và quan trọng theo nghiên
cứu của (Hair và cô ̣ng sự, 2014). Nhóm tác giả tiến hành đánh giá lại thang đo và nhâ ̣n thấy
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 47
UV3, UV4 và SAT1 là các giá trị quan trọng thể hiê ̣n giá trị hữu dụng và sự hài lòng nên
nhóm tác giả quyết định giữ lại và tiếp tục thực hiê ̣n các nghiên cứu sau.
4.2.3. Phân tích nhân tố khẳng định (CFA)
Phân tích nhân tố khẳng định giúp nhà nghiên cứu đánh giá giá trị của các thang đo.
Nhóm thực hiện đánh giá giá trị hội tụ của các thang đo thông qua chạy sơ đồ tương quan
giữa các biến. Kết quả lần một cho thấy giá trị của thang đo UV4 và UV3 vẫn không đạt
chuẩn và trọng số chuẩn hóa nhỏ hơn nên nhóm loại UV4 trước và bắt đầu chạy lại mô hình.
Kết quả lần hai tiếp tục cho thấy UV3 không đạt giá trị hội tụ yêu cầu nên nhóm tiếp tục loại
UV3 và tiếp tục chạy lại mô hình. Sau khi loại UV4 và UV3 ra khỏi mô hình, ta thu được kết
quả là các biến quan sát đều có hê ̣ số tương quan lớn hơn 0,5. Các giá trị đã đạt được giá trị
hội tụ (các trọng số chuẩn hóa > 0,5 và các trọng số chưa chuẩn hóa đều có ý nghĩa thống kê).
Bên cạnh đó, theo mô hình tương quan giữa các biến, nhóm nhận thấy các hệ số tương quan
đều khác 1, cho ta thấy các biến cho thấy có sự phân biệt giữ các giá trị với nhau.
Bảng 4: Bảng trọng số hồi quy chuẩn hóa
Mối quan hê ̣ Hê ̣ số hồi quy chuẩn hóa
FR RSK 0,71
PFR RSK 0,84
TR RSK 0,70
FR1 FR 0,63
FR2 FR 0,81
FR3 FR 0,76
PFR2 PFR 0,66
PFR3 PFR 0,75
PFR4 PFR 0,67
PFR5 PFR 0,67
TR1 TR 0,74
TR2 TR 0,74
TR3 TR 0,77
TR4 TR 0,72
UV1 UV 0,70
UV2 UV 0,71
HV4 HV 0,59
HV3 HV 0,74
HV2 HV 0,70
HV1 HV 0,78
SV4 SV 0,87
SV3 SV 0,89
SV2 SV 0,85
SV1 SV 0,74
SAT3 SAT 0,76
SAT2 SAT 0,65
SAT1 SAT 0,79
PI3 PI 0,68
PI2 PI 0,86
PI1 PI 0,79
TÓM TẮT
Tăng trưởng kinh tế luôn là đề tài thu hút nhiều sự quan tâm của các quốc
gia trên thế giới. Có thể nói động lực của phát triển kinh tế phải được đi cùng
trên bốn nhân tố là vốn con người, vốn tài nguyên, công nghệ và tư bản. Ở mỗi
quốc gia, bốn nhân tố này là khác nhau và sự phối hợp giữa chúng cũng khác
nhau và sẽ tạo ra kết quả tương ứng. Tuy nhiên, vốn con người được xem là nhân
tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế, vì hầu hết các nhân tố khác đều có
thể mua hoặc vay mượn nhưng vốn con người thì không thể. Kết quả thực nghiệm
của nhóm tác giả cho thấy hai yếu tố giáo dục và sức khỏe của vốn con người đều
có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, mặc dù đóng góp của giáo dục
tương đối lớn hơn tác động của sức khỏe. Phát hiện này nhấn mạnh thêm tầm
quan trọng của cả hai yếu tố của vốn con người và cũng phù hợp với lập luận
trong văn phong kinh tế rằng giáo dục và sức khỏe không thể là một sự bù đắp
lâu dài cho nhau. Bài viết này xem xét lại các tranh luận về tác động của vốn con
người đối với tăng trưởng kinh tế ở vùng Châu Phi Hạ Sahara (SSA) và xem xét
hai biến thay thế về nguồn nhân lực: sức khỏe và giáo dục. Nghiên cứu sử dụng
phương pháp System GMM và phân tích dữ liệu bảng động bao gồm 129 quốc gia
từ 2002-2016. Nghiên cứu này xem xét vấn đề liệu nguồn vốn con người có ảnh
hưởng đến tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia có nền kinh tế mới nổi và đang
phát triển hay không bằng cách mô hình hóa các yếu tố giáo dục và sức khỏe
trong nguồn vốn con người.
Từ khóa: Vốn con người, giáo dục, sức khỏe, tăng trưởng kinh tế, nền kinh
tế mới nổi và đang phát triển
1.Giới thiêu:
̣
Vốn con người là động lực cho nghiên cứu và phát triển (R&D), giúp tăng cường sự đổi
mới và tiến bộ công nghệ, dẫn đến tăng năng suất và tạo ra các sản phẩm mới (Romer 1990).
Điều này có nghĩa là lực lượng lao động có trình độ học vấn cao hơn của một quốc gia, lợi ích
của hoạt động R&D càng lớn về mặt tăng trưởng kinh tế. Vốn con người thúc đẩy sự hấp thụ
các ý tưởng mới (khả năng hấp thụ) và các sản phẩm được các nước khác phát triển. Điều này
thúc đẩy một nền kinh tế hội tụ nhanh hơn bằng cách nhập khẩu thiết bị và công nghệ (Nelson
& Phelps 1966).
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa chi tiêu chăm sóc sức khỏe, giáo dục và tăng trưởng
kinh tế là một thay đổi mới trong văn học kinh tế. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu trong
văn học đều chỉ tập trung vào một phân đoạn chi tiêu xã hội - các chỉ số xã hội tác động đến
sự tăng trưởng kinh tế. Đó là những nghiên cứu đánh giá hiệu quả tăng trưởng của việc chi
tiêu công cho giáo dục hoặc y tế. Do đó, các nghiên cứu gần đây về vốn con người ảnh hưởng
đến sự tăng trưởng kinh tế đã nhận được rất nhiều sự quan tâm.
Barro & Lee (1994) đã tiến hành nghiên cứu dữ liệu bảng tại 116 quốc gia trong giai
đoạn 1965-1985 về nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế và đưa ra kết luận rằng trung bình số
năm đi học của nam có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng GDP bình quân đầu người nhưng
ngược lại đối với nữ là ảnh hưởng tiêu cực. Gyimah-Brempong et al. (2006) tiến hành nghiên
cứu tại các nước ở Châu Phi và cũng đưa ra kết luận rằng việc tăng vốn con người ở tất cả các
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 55
yếu tố, bao gồm giáo dục đại học, đã có những tác động tích cực đến tốc độ tăng trưởng GDP
đầu người. Bằng phương pháp hồi quy nhiều lần, Wolff (2000) đưa ra kết quả rằng có một
hiệu quả tích cực và quan trọng của giáo dục đến tăng trưởng năng suất của 24 quốc gia
OECD trong giai đoạn 1950-1990.
Isola & Alani (2012) đưa ra kết luận khi nghiên cứu tại Nigeria giai đoạn từ 1980-2010
là giáo dục (được đo bằng tỷ lệ biết chữ của người lớn) và sức khỏe (được đo bằng tuổi thọ)
có mối quan hệ tích cực với tăng trưởng kinh tế.
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa chi tiêu chăm sóc sức khỏe và tăng trưởng kinh tế là
một thay đổi mới trong văn học kinh tế và nó đã nhận được rất nhiều sự chú ý trong thời gian
gần đây. Sức khỏe cũng như vốn con người phát triển trực tiếp thông qua tác động của nó đến
năng suất lao động và gánh nặng kinh tế. Bloom & Canning (2003) mô tả cách thức các quần
thể khỏe mạnh có xu hướng có năng suất cao hơn, làm cho năng lực thể chất và tinh thần của
họ trở nên mạnh mẽ hơn. Theo họ, các cá nhân khỏe mạnh có thể ảnh hưởng đến kinh tế học
theo bốn cách: (a) Họ có thể làm việc hiệu quả hơn và kiếm được thu nhập cao hơn; (b) Họ có
thể dành nhiều thời gian hơn trong lực lượng lao động, vì ít người khỏe mạnh nghỉ ốm hoặc
nghỉ hưu sớm; (c) Họ có thể đầu tư nhiều hơn vào giáo dục của họ, điều này sẽ làm tăng năng
suất của họ; và (d) Họ có thể tiết kiệm được nhiều chi phí cho một cuộc sống lâu hơn - ví dụ,
để nghỉ hưu - tăng số tiền có sẵn để đầu tư vào kinh tế học. Sức khỏe rất quan trọng như cả
một nguồn phúc lợi của con người và là yếu tố quyết định đến sự phát triển kinh tế tổng thể.
Các nghiên cứu thực nghiệm hoặc bán thực nghiệm gần đây, chẳng hạn như (Thomas &
Frankenberg 2002) và (Thomas et al. 2003), thấy rằng các can thiệp cụ thể của ngành y tế
giúp tăng thu nhập đáng kể và các chỉ số chung về tình trạng sức khỏe và dinh dưỡng là
những yếu tố dự báo về thành công kinh tế. Nghiên cứu ở cấp độ vĩ mô có thể nắm bắt tốt hơn
các tiềm năng bên ngoài can thiệp vào ngành y tế, và một số nghiên cứu gần đây hỗ trợ sự
đóng góp tích cực của nguồn vốn y tế cho tăng trưởng. Barro (1996), Bloom & Canning
(2003), Bloom et al. (2004) và Gyimah-Brempong & Wilson (2004) thấy rằng chỉ số vốn sức
khỏe ảnh hưởng tích cực đến sản lượng tổng hợp. Đối với các nước trong mẫu của họ, khoảng
một phần tư tăng trưởng kinh tế là do cải thiện về nguồn vốn y tế, và cải thiện điều kiện sức
khỏe tương đương với một năm tuổi thọ..
Kết hợp phương pháp nghiên cứu OLS và GMM, Sala & Trivín (2014) nghiên cứu tại
vùng Châu Phi Hạ Sahara giai đoạn 1980 – 2009 đã đưa ra kết quả rằng tác động của FDI và
DI đối với tăng trưởng lớn hơn là sự thay đổi về mức độ cởi mở kinh tế, nhưng có hiệu ứng
chồng chéo giữa hai loại vốn: số tiền lớn hơn của FDI làm giảm tác động của DI lên tăng
trưởng kinh tế, và ngược lại. Những hiểu biết mới này về khả năng thay thế giữa các loại nhu
cầu cần được giải thích một cách thận trọng. Karimi & Yusop (2009) dựa trên một hồi quy
OLS đơn giản, nghiên cứu liên kết “tăng trưởng FDI” của Malaysia. Theo họ, có một loạt các
yếu tố có thể đảm bảo rằng FDI thúc đẩy hoặc cản trở tăng trưởng kinh tế. Đồng thời, các yếu
tố quyết định này có thể khác nhau giữa các quốc gia và giữa các loại FDI và các lĩnh vực
đích. Ước lượng GMM của (Anwar & Nguyen 2010), người tập trung vào kết nối “tăng
trưởng FDI” của Việt Nam, cho thấy tầm quan trọng của vai trò của giáo dục và đào tạo. Kết
quả cho thấy tác động của FDI đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam sẽ lớn hơn nếu nhiều
nguồn lực hơn được đầu tư vào giáo dục và đào tạo, và phát triển thị trường tài chính, cũng
đầu tư vào việc giảm khoảng cách công nghệ giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Hơn nữa, Wijeweera et al. (2010) cho rằng dòng vốn FDI tác động tích cực đến tăng trưởng
kinh tế, tuy nhiên, chỉ khi có lao động có tay nghề cao. Hơn nữa, họ thấy rằng tham nhũng có
tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế, và sự cởi mở thương mại làm tăng tăng trưởng kinh
tế bằng các lợi ích hiệu quả. Nhóm tác giả quan sát thấy rằng một số nghiên cứu đã tập trung
vào trường hợp của các nước đang phát triển và phần lớn, nhấn mạnh rằng FDI, được điều
chỉnh theo các yếu tố quyết định khác, có tác động tích cực đáng kể đến tăng trưởng kinh tế.
Lee (2005) đã phân tích dữ liệu bảng và đưa ra kết luận rằng việc tăng cường vốn vật
chất và vốn con người, cũng như công nghệ kỹ thuật đã giúp nền kinh tế Hàn Quốc đi vào
guồng quay phát triển một cách bền vững. Hàn Quốc phải làm mọi cách để tăng năng suất
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 56
trong mọi lĩnh vực bằng cách thúc đẩy tối đa đổi mới công nghệ hiện tại. Teixeira & Queirós
(2016) cũng đã phân tích dữ liệu bảng điều khiển động tại các nước OECD giai đoạn 1960-
2011 và đưa ra kết luận rằng việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế không nên chỉ xem xét đầu tư
vốn con người thông qua giáo dục chính thức mà còn đầu tư vào các hoạt động công nghệ để
tạo ra giá trị gia tăng cao cho nền kinh tế.
Nói chung, mặc dù tài chính và tăng trưởng phần lớn dựa trên các mô hình tăng trưởng
nội sinh. Tuy nhiên, tích lũy vốn con người là một kênh quan trọng mà qua đó phát triển tài
chính có thể ảnh hưởng đến sản lượng trong bối cảnh các mô hình tăng trưởng nội sinh.
Đặc biệt, nghiên cứu gần đây cũng đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của các thể chế và
quản trị trong việc trung hòa mối quan hệ giữa chi tiêu xã hội, chỉ số và tăng trưởng. Quản trị
kém đã được xác định là nguyên nhân chính của chi tiêu xã hội không hiệu quả (Abed &
Gupta 2002). Rodrik et al. (2004) và Hausmann et al. (2005) đã nhấn mạnh hơn tầm quan
trọng của quản trị trong việc duy trì tăng trưởng kinh tế. Một vài nghiên cứu đã xem xét các
hiệu ứng phản hồi giữa chi tiêu xã hội, chỉ số xã hội và tăng trưởng trong một hệ thống tích
hợp. Trong một vài nghiên cứu, nơi những tương tác này đã được kết hợp, các tác dụng phụ
đã được tìm thấy là có ý nghĩa.
2.Lý thuyết về vốn con người và tăng trưởng kinh tế:
2.1.Lý thuyết về tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế bình quân đầu người chủ yếu được thúc đẩy bởi những sự cải thiện
về năng suất, còn được gọi là hiệu quả kinh tế. Tăng năng suất có nghĩa là sản xuất nhiều
hàng hóa và dịch vụ hơn với cùng một yếu tố đầu vào như lao động, vốn, năng lượng hoặc
nguyên vật liệu.
Tỷ lệ tiết kiệm cao cũng được liên kết với tiêu chuẩn sống. Tiết kiệm nhiều hơn trong
dài hạn sẽ dẫn đến thu nhập bình quân đầu người cao hơn và sự tích lũy vốn cho mỗi cá nhân
cũng tăng lên. Do đó, tăng trưởng thường được tính theo các điều kiện thực tế, lấy ví dụ là
điều chỉnh lạm phát, để giảm bớt hiệu ứng bóp méo của lạm phát lên giá của hàng hóa được
sản xuất. Trong kinh tế học, "tăng trưởng kinh tế" hoặc "lý thuyết tăng trưởng kinh tế" thường
đề cập đến sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng, ví dụ là, sự sản xuất tại "không có thất
nghiệp", được gây ra bởi sự tăng trưởng về tổng cầu hoặc sản lượng quan sát được. Nó
thường được đo lường bằng tỷ lệ phần trăm của sự gia tăng trong tổng số thực trong nước sản
phẩm (GDP). Tăng trưởng GDP là một dấu hiệu cho thấy các doanh nghiệp đang tuyển dụng
và đầu tư. Các chỉ báo này là phần lớn các thống kê cho thấy “sức khỏe” và sự phát triển của
Chính phủ, đặc biệt là trong mặt trận kinh tế (Almfraji & Almsafir 2014).
2.2.Lý thuyết về Vốn con người
Vốn con người được hiểu đơn giản, là bất cứ điều gì nhưng không thuộc vốn vật chất
như tài sản, thiết bị và vốn tài chính. Sự gia tăng tỷ trọng vốn con người trong tổng sản phẩm
quốc nội hiện nay đã tạo ra khái niệm về kinh tế tri thức. Có nhiều loại vốn khác nhau được
coi là đầu vào của quá trình sản xuất hàng hóa và dịch vụ, tuy nhiên vốn con người không
được coi là đầu vào đơn giản vì nó đóng vai trò phức tạp hơn trong quá trình sản xuất hàng
hóa và cung cấp dịch vụ (Pasban & Nojedeh 2016).
Khái niệm vốn con người bắt nguồn từ văn học kinh tế (Becker & Gerhart 1996). Vốn
con người không phải là vốn vật chất hay vốn tài chính. Trên thực tế, vốn này đã được định
nghĩa là kiến thức, kỹ năng, sáng tạo và sức khỏe của cá nhân. Vốn con người, vốn vật chất và
vốn tài chính là các khía cạnh khác nhau về vốn, tuy nhiên, sự khác biệt của nó bắt nguồn từ
thực tế là một cá nhân không thể tách rời khỏi kỹ năng, sức khỏe và giá trị của họ. Do đó, vốn
bền vững nhất là vốn con người. Và thực tế, chi phí đầu tư này được cung cấp để sử dụng
trong tương lai. Để vận hành nền kinh tế của một quốc gia trở nên thịnh vượng phải phụ thuộc
vào vốn vật chất và vốn con người của quốc gia đó (Olaniyan & Okemakinde 2008). Becker
& Woessmann (2009) đã nhấn mạnh vốn con người là một yếu tố quan trọng trong việc tăng
trưởng nền kinh tế.
Hình 4. 1 Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người của các quốc gia có nền kinh tế
mới nổi và đang phát triển giai đoạn 2002-2016.
Nguồn: World Bank
Độ mở thương mại ở đây có số liệu dao động từ 0,167% đến 442,620% với giá trị trung
bình là 86,495%. Giá trị nhỏ nhất thuộc Myanmar năm 2009 và giá trị lớn nhất là Đặc khu
hành chính Hong Kong năm 2013. Không chỉ năm 2009 mà các năm từ 2002-2011 độ mở
thương mại của Myanmar vẫn luôn thấp nhất trong các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển.
Sở dĩ như vậy là vì Myanmar bị Mỹ và Liên Minh Châu Âu cấm vận. Bên cạnh đó, năm 2011
là năm có nhiều chuyển biến tích cực trong nền kinh tế của Myanmar, trong đó có việc đẩy
mạnh mở cửa thương mại. Khác với Myanmar, Đặc khu hành chính Hong Kong là một khu
vực có độ mở kinh tế đạt tỷ lệ cao. Trong suốt giai đoạn từ 2002-2016, Hong Kong luôn thuộc
top khu vực có độ mở kinh tế cao nhất. Bên cạnh đó, đây là khu vực có thuế suất thấp và nền
kinh tế ít bị can thiệp bởi Chính phủ nên Hong Kong là một trung tâm kinh tế, tài chính
thương mại quan trọng.
Biến đầu tư có số liệu dao động từ -52,629% đến 340,597% và có giá trị trung bình là
30,184%. Giá trị nhỏ nhất thuộc Mauritius năm 2011 và giá trị lớn nhất thuộc về Timor-Leste
năm 2008.
Chi tiêu Chính phủ cho Giáo dục, Độ mở thương mại và Đầu tư
Phần trăm (%) theo GDP
100
80
60
40
20
0
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Hình 4. 2 Chi tiêu chính phú cho giáo dục, độ mở thương mai và đầu tư của các quốc gia
có nền kinh tế mới nổi và đang phát triển giai đoạn 2002-2016.
Nguồn: World Bank
66
65
64
63
62
61
2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016
Năm
Hình 4. 3 Tuổi thọ trung bình của dân số ở các quốc gia có nền kinh tế mới nổi và đang
phát triển giai đoạn 2002-2016.
Nguồn: World Bank
Hình 4.3 cho thấy tuổi thọ trung bình của người dân ngày càng được nâng cao. Có thể
nói, sự đầu tư cho y tế của các nước ngày càng được chú trọng và có hiệu quả. Bên cạnh đó,
sự ổn định về chính trị cũng góp phần làm tuổi thọ trung bình tăng cao.
5.Kết quả nghiên cứu
Bảng 5. 1 Kết quả nghiên cứu mô hình 1
(1) (2)
GDPPC_Growth Coef. [SE] Coef. [SE]
GDPPCGrowth, L1 0,214*** [0,006] 0,205*** [0,007]
Expenedu, L1 -0,231*** [0,047] -0,238*** [0,039]
LifeExpt, L1 -0,123*** [0,006] -0,086*** [0,005]
Invest, L1 0,0007 [0,001] -0,004*** [0,001]
TradeOp, L1 -0,013*** [0,001] -0,002** [0,001]
PopuGrowth, L1 -0,278*** [0,028] -0,446*** [0,021]
CtrlCorrupt, L1 2,098*** [0,126]
0,810*** [0,058]
Political, L1
Constant 13,600*** [0,316] 10,222*** [0,413]
Number of Instruments 92 92
Observation 765 765
AR(1) p-value 0,001 0,001
AR(2) p-value 0,743 0,718
Hansen test p-value 0,428 0,483
Ghi chú: ***, ** và * đại diện cho mức ý nghĩa 1%, 5% và 10% tương ứng.
Nguồn: Tính toán của tác giả
Kết quả nghiên cứu ở phương trình (1) và (2) của mô hình 1 đã được thể hiện trong
Bảng 5.1. Ở phương trình (1), nghiên cứu này sử dụng biến khả năng kiểm soát tham nhũng
đại diện cho biến thể chế. Kết quả cho thấy rằng tác động của sức khỏe trong vốn con người
(đo lường bằng tuổi thọ trung bình) cho tăng trưởng kinh tế là âm và có ý nghĩa thống kê. Cụ
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 62
thể, kết quả cho thấy mức tăng 10% tuổi thọ trung bình của dân số sẽ giảm khoảng 1,23% của
tăng trưởng GDP bình quân đầu người. Và yếu tố giáo dục (chi tiêu của Chính phủ cho giáo
dục) cũng có tác động âm đến tăng trưởng kinh tế và có ý nghĩa thống kê. Cụ thể, kết quả cho
thấy tăng trưởng GDP bình quân đầu người sẽ giảm 2,31% khi tăng 10% chi tiêu của Chính
phủ cho giáo dục.
Ngoài ra, các biến kinh tế vĩ mô khác cũng có đóng góp đến tăng trưởng kinh tế và có
ý nghĩa thống kê. Cụ thể, độ mở thương mại và tăng trưởng dân số có ảnh hưởng âm đến tăng
trưởng kinh tế, với mức tăng 10% độ mở thương mại và tăng trưởng dân số thì sẽ làm giảm
tương ứng 0,13% và 2,78% tăng trưởng GDP bình quân đầu người. Và theo bảng 5.1, khả
năng kiểm soát tham nhũng của Chính phủ có tác động tích cực và có ý nghĩa thống kê mạnh
mẽ đối với tăng trưởng kinh tế.
Ở phương trình (2), nghiên cứu này sử dụng biến Sự ổn định chính trị và sự vắng mặt
của bạo lực đại diện cho biến thể chế. Kết quả cho thấy rằng tác động cả hai yếu tố của vốn
con người: sức khỏe và giáo dục, đều có tác động âm đến tăng trưởng kinh tế và có ý nghĩa
thống kê. Tiếp đó, kết quả phân tích cũng phản ánh các biến kinh tế vĩ mô khác cũng có đóng
góp mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế. Kết quả này có ý nghĩa tương đồng với phương trình
(1).
Tóm lại, kết quả chạy hồi quy theo phương pháp System GMM cho thấy vốn con người
(giáo dục và sức khỏe) có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tăng trưởng của các nền kinh tế mới nổi
và đang phát triển giai đoạn 2002-2016. Trong đó, yếu tố giáo dục có tác động mạnh hơn yếu
tố sức khỏe. Tuy nhiên cả hai yếu tố này hầu như có tác động âm đến tăng trưởng kinh tế ở
các nước này. Điều này mâu thuẫn với các lý thuyết về tác động giữa vốn con người và tăng
trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, các yếu tố kinh tế vĩ mô mà nhóm tác giả đưa vào mô hình cũng
có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế. Điểm khác biệt trong nghiên cứu của bài viết
này so với các nghiên cứu trước là ảnh hưởng âm của yếu tố tuổi thọ trung bình, tỷ lệ nhập
học ở bậc trung học, đại học và chi tiêu của Chính phủ cho giáo dục. Cụ thể như sau:
Chi tiêu của Chính phủ cho giáo dục ở các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển có tác
động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia này. Điều này được giải thích rằng:
mặc dù tỷ lệ nhập học ở bậc trung học và đại học cao nhưng nếu không đem lại hiệu quả
tương xứng thì sẽ là gánh nặng cho nền kinh tế. Cũng như chi tiêu của Chính phủ cho giáo
dục tăng nhưng chính sách giáo dục đề ra không hợp lý, không hiệu quả thì sẽ kéo theo tăng
trưởng kinh tế giảm. Trong khi đó, tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển việc chi tiêu có
hiệu quả là động lực cho tăng trưởng kinh tế. Hiện nay tại các quốc gia phát triển, nhân lực có
xu hướng lựa chọn trường dạy nghề sau trung học để theo học các ngành nghề phù hợp với thị
trường lao động.
Tuổi thọ trung bình tăng có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia
có nền kinh tế mới nổi và đang phát triển. Tại các quốc gia này, tuổi thọ trung bình càng tăng
thì tăng trưởng kinh tế càng giảm. Bởi vì tuổi thọ trung bình tăng đồng nghĩa với dân số ở độ
tuổi ngoài lao động tăng khiến ngân sách quốc gia phải tăng chi tiêu nhiều hơn cho chăm sóc
y tế, sức khỏe, các chương trình bảo trợ xã hội và lương hưu, điều đó ảnh hưởng đến việc tiết
kiệm, đầu tư cho phát triển kinh tế. Tại các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển nguồn lực
tài chính của họ không mạnh, nếu phải chi tiêu cho những hoạt động không đem lại lợi ích
kinh tế tương xứng thì sẽ là gánh nặng cho quốc gia đó. Ngược lại, tại các quốc gia phát triển,
nguồn lực tài chính vững chắc thì tuổi thọ trung bình tăng lại là bằng chứng cho thấy hiệu quả
của các chính sách nâng cao sức khỏe của người dân là rất tốt.
Đối với các biến kinh tế vĩ mô như: đầu tư, độ mở thương mại, tăng trưởng dân số và
thể chế (đại diện là khả năng kiểm soát tham nhũng và sự ổn định chính trị) cũng có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển. Cụ
thể là:
Tỷ lệ đầu tư có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia có nền kinh tế
mới nổi và đang phát triển. Điều này có thể được giải thích dựa trên mức độ hiệu quả của các
chính sách sử dụng vốn đầu tư trong nước và ngoài nước. Ở các quốc gia trong phạm vi
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 63
nghiên cứu vẫn còn tồn đọng rất nhiều vấn đề tiêu cực trong xã hội dẫn đến hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư thấp.
Độ mở thương mại là một trong những yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế của
một quốc gia. Tuy nhiên, các chỉ số ước tính của độ mở thương mại ở các quốc gia này cho
thấy nó có tác động âm đối với tăng trưởng kinh tế. Điều này một phần phản ánh rằng việc
thực hiện chính sách bảo hộ cho sản phẩm nội địa của các quốc gia này vẫn chưa đạt được
hiệu quả nhất định khi tiến hành mở cửa thương mại.
Tăng trưởng dân số tại các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển càng tăng thì tăng
trưởng kinh tế càng giảm. Điều này là hợp lý với các lập luận trong kinh tế. Khi dân số gia
tăng sẽ đem lại những điều kiện tiềm năng cho phát triển kinh tế nhưng nếu không kiểm soát
tốt thì sẽ trở thành một gánh nặng và áp lực cho xã hội.
Ngoài ra, các yếu tố thể chế (đại diện là khả năng kiểm soát tham nhũng và sự ổn định
chính trị) có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế của các nền kinh tế mới nổi và đang
phát triển càng nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của thể chế chính trị đến tăng trưởng kinh tế
của quốc gia. Các quốc gia nào có hệ thống chính trị càng minh bạch, càng thực hiện các
chính sách kiểm soát tham nhũng, kiểm soát bạo động tốt thì sẽ thúc đẩy mạnh mẽ đến tăng
trưởng kinh tế.
Ở mặt khác, nhóm tác giả cũng tiến hành nghiên cứu với mô hình (2) để tăng thêm bằng
chứng cho kết quả của mô hình (1). Bằng cách sử dụng chỉ tiêu về giáo dục là tỷ lệ nhập học
các cấp đưa vào mô hình. Nhóm tác giả nhận thấy kết quả của mô hình (2) cho ra kết quả ý
nghĩa tương đồng với mô hình (1).
Bảng 5. 2 Kết quả nghiên cứu mô hình 2
(3) (4)
GDPPCGrowth Coef. [SE] Coef. [SE]
GDPPCGrowth, L1 0,161*** [0,004] 0,170*** [0,006]
Primary, L1 0,014** [0,007] 0,010 [0,006]
Secondary, L1 -0,013*** [0,005] -0,017*** [0,006]
Tertiary, L1 -0,016*** [0,004] -0,021*** [0,004]
LifeExpt, L1 -0,029* [0,015] 0,015 [0,017]
Invest, L1 -0,015*** [0,003] -0,012*** [0,002]
TradeOp, L1 -0,007*** [0,002] -0,008*** [0,002]
PopuGrowth, L1 -0,690*** [0,032] -0,677*** [0,036]
Ctrlcorrupt, L1 0,910*** [0,117]
Political, L1 0,804*** [0,054]
Constant 6,503*** [1,179] 4,456*** [1,402]
Number of Instruments 92 92
Observation 699 699
AR(1) p-value 0,000 0,001
AR(2) p-value 0,394 0,417
Hansen test p-value 0,400 0,341
Ghi chú: ***, ** và * đại diện cho mức ý nghĩa 1%, 5% và 10% tương ứng.
Nguồn: Tính toán của tác giả
GDPPC Primary Secondary Tertiary Expenedu LifeExpt Invest TradeOp Popu Ctrl Polit
Growth Growt corrupt ical
. h
GDPPCGrowth 1
Primary 0,054 1
Ctrlcorrupt -0,058 0,047 0,558 0,421 0,255 0,557 0,211 0,324 -0,211 1
Political -0,023 0,094 0,348 0,239 0,296 0,238 0,153 0,348 -0,228 0,603 1
Như đã đề cập ở trên, hai chỉ tiêu về giáo dục khác nhau được xem xét trong nghiên cứu
là chi tiêu Chính phủ cho giáo dục và tỷ lệ nhập học các cấp. Chi tiêu Chính phủ cho giáo dục
chỉ được đưa vào mô hình 1 và tỷ lệ nhập học các cấp chỉ được đưa vào mô hình 2. Ở mỗi mô
hình, biến tuổi thọ trung bình được dùng làm đại diện cho tình trạng sức khỏe. Bên cạnh đó
các biến kinh tế vĩ mô được sử dụng ở đây lần lượt là: độ mở thương mại, đầu tư, tăng trưởng
dân số và thể chế chính trị
TÓM TẮT
Dựa trên dữ liệu thị trường Việt Nam, giai đoạn 2008-2016, chúng tôi sử
dụng 549 quan sát công ty từ 61 công ty để thực hiện nghiên cứu này. Chúng tôi
tìm hiểu về mối quan hệ giữa sự sở hữu của nhà sáng lập và nguồn vốn đầu tư từ
nước ngoài. Kết quả cho thấy những nhà đầu tư nước ngoài ít đầu tư vào những
công ty có quyền sở hữu sáng lập cao hơn, bởi vì những công ty này có nhiều rủi
ro từ vấn đề thông tin và sự chiếm hữu các tài sản không rõ ràng. Biểu hiện này
càng thể hiện mạnh hơn khi mà quyền sở hữu của nhà sáng lập vượt quá ngưỡng
mà được xem là hiệu quả nhất đối với công ty. Chúng tôi cho rằng vấn đề thông
tin là nguyên nhân chính trong mối quan hệ giữa đầu tư nước ngoài và quyền sở
hữu sáng lập. Điều này là do mối quan hệ được thể hiện rõ trong trường hợp
những công ty tập đoàn và những công ty mà có quyền quản trị tài chính cao.
Ngoài ra, chúng tôi còn tìm thấy sự ảnh hưởng của một số biến kiểm soát ảnh
hưởng đến tâm lý đầu tư của người nước ngoài. Khi quy mô công ty, tỷ suất sinh
lợi của hoạt động kinh doanh, giá trị thị trường càng cao thì nguồn vốn càng lớn.
Đồng thời, sẽ giảm mạnh khi khả năng thanh toán nợ, đòn bẩy tài chính lớn. Và
nguồn đầu tư còn tăng cao khi số lượng thành viên độc lập trong ban quản trị
càng nhiều.
Từ khóa: Công ty độc lập, tập đoàn, cổ đông sáng lập, nhà đầu tư nước
ngoài,...
1.Giới thiệu:
Đối với một thị trường kinh tế mới nổi, việc nhận đầu tư từ nước ngoài giúp mang lại
rất nhiều lợi ích, từ vốn đầu tư cho đến những hoạt động, kinh nghiệm, sự kiểm soát hiệu quả.
Điều này đặc biệt thuận lợi cho các công ty có quyền sở hữu của cổ đông sáng lập cao hơn bởi
vì các công ty này dễ bị đánh giá thấp do hậu quả của rủi ro tước đoạt tiềm năng (Mahajan,
1990; Villalonga và Amit, 2006). Những người sáng lập của các công ty này có thể sử dụng
quyền sở hữu nước ngoài, như là một cơ chế quản lý thay thế, truyền đạt tín hiệu cho các cổ
đông thiểu số rằng lợi ích của họ sẽ không bị tịch thu, đặc biệt xảy ra ở những quốc gia mà sự
bảo vệ hợp pháp của các cổ đông thiểu số còn yếu. Có thể thấy rằng, vốn đầu tư nước ngoài
mang lại rất nhiều lợi ích cho một đất nước nói chung và một công ty nói riêng. Và các công
ty cổ phần ở Việt Nam để trở thành một thị trường thu hút vốn mạnh phải đối mặt trước
quyền sở hữu của cổ đông sáng lập.
Liệu những yếu tố nào của thị trường, của các công ty cổ phần ảnh hưởng đến mối quan
hệ này. Để làm rõ vấn đề trên, chúng tôi đã chọn đề tài: “Mối quan hệ giữa quyền sở hữu cổ
đông sáng lập và đầu tư nước ngoài: Bằng chứng thực nghiệm ở Việt Nam” cho nghiên cứu
của chúng tôi với mong muốn kết quả tại Việt Nam sẽ giúp các công ty tìm ra được các yếu tố
ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa quyền sở hữu của cổ đông sáng lập và vốn đầu tư nước
ngoài.
Việc lựa chọn thị trường Việt Nam để nghiên cứu là bởi vì các nguyên nhân sau:
Bảng 2: Thống kê mô tả
Số quan Giá trị trung Độ lệch Giá trị nhỏ Giá trị lớn
Biến
sát bình chuẩn nhất nhất
FI 549 0,19 0,20 0 0,88
Size 549 27,74 1,15 25,38 31,13
Lev 549 0,48 0,22 0,03 0,88
ROA 549 0,08 0,08 -0,12 0,61
FO 549 0,31 0,21 0 1,28
Tobinq 549 1,09 0,43 0,37 4,39
CR 549 2,15 1,93 0,11 18,17
Beta 549 0,62 0,78 -13,54 1,92
Boardsize 549 7,44 1,85 2 18
Ind 549 0,51 0,16 0 0,88
Nguồn: Tự tổng hợp của chúng tôi
Danh mục biến bao gồm: FI: biến đầu tư nước ngoài; Size: biến quy mô công ty; Lev:
biến đòn bẩy tài chính; ROA: tỷ suất sinh lợi hoạt động kinh doanh trên tổng tài sản sổ sách;
FO: biến quyền sở hữu của cổ đông sáng lập; Tobinq: tổng giá trị vốn hóa thị trường và tổng
nợ sổ sách trên tổng tài sản sổ sách; CR: hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn; Beta: hệ số
của mô hình giá thị trường của chứng khoán; Boardsize: tổng thành viên ban hội đồng quản
trị; Ind: tỷ lệ số thành viên độc lập trong hội đồng quản trị trên số thành viên hội đồng quản
trị.
Từ kết quả bảng này, chúng tôi cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài (FI) sở hữu với giá
trị trung bình là 19% quyền sở hữu trên tổng cổ phiếu đang lưu hành, cho thấy Việt Nam có
sự sở hữu lớn, rộng từ các nhà đầu tư nước ngoài. Các công ty ở Việt Nam có giá trị trung
bình quyền sở hữu của cổ đông sáng lập (FO) khoảng 31% trên tổng số cổ phiếu đang lưu
hành, đại diện cho năng lực của người sáng lập để kiểm soát chính sách của công ty. Quy mô
trung bình của các công ty Việt Nam (Size) nằm trong khoảng e 27,74. Liên quan đến quản trị
doanh nghiệp ở cấp độ công ty, chúng tôi thấy rằng kích thước bình quân của hội đồng quản
trị là 7,43. Và tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị độc lập trong toàn hội đồng quản trị (Ind)
chiếm giá trị trung bình khoảng 51%. Tiếp theo là kết quả trung bình Tobinq là 1,09 cho thấy
triển vọng tăng trưởng tiềm năng cho các công ty Việt Nam. Mẫu dữ liệu cũng cho thấy các
doanh nghiệp tương đối mạnh về mặt tài chính với đòn bẩy trung bình là 0,62 và hệ số khả
năng thanh toán nợ ngắn hạn (CR) trung bình là 2,15.
Tiếp theo, chúng tôi phân tích mối tương quan ban đầu của biến phụ thuộc và các biến
độc lập qua Bảng 3 và để phát hiện các biến có đa cộng tuyến với nhau hay không. Từ đó,
chúng tôi sẽ đưa ra hướng giải quyết tốt nhất cho mô hình nghiên cứu.
Bảng 3 : Ma trận tương quan
ln_Boardsiz
FI Size Lev ROA FO Tobin q CR Divi Beta Ind
e
FI 1
Size 0,29 1
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 72
Lev -0,26 0,31 1
Tại Bảng 3, FI có mối quan hệ ngược chiều với quyền sở hữu của cổ đông sáng lập
(FO), cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài không tham gia vào các công ty được kiểm soát
chặt chẽ. Tiếp theo, sự tương quan giữa FI và Size là cùng chiều (0,29), cho thấy các nhà đầu
tư nước ngoài thường lựa chọn các công ty lớn hơn là các công ty nhỏ. Và nhà đầu tư nước
ngoài nhạy cảm với tỷ lệ nợ sổ sách trên tổng tài sản sổ sách vì hệ số tương quan giữa FI và
Lev là ngược chiều (-0,26). Tương quan dương cao nhất trong bảng báo cáo là tỷ suất sinh lợi
của hoạt động kinh doanh của công ty (ROA) và Tobinq là 0,58, có thể thấy tình hình hoạt
động kinh doanh sẽ phát triển cùng chiều với sự tăng trưởng của công ty. Nhiều mối tương
quan khác có giá trị khác không, cho thấy tầm quan trọng của việc kết hợp các biến này như
một sự kiểm soát trong phân tích thực nghiệm chính của chúng tôi và không có mối tương
quan nào là cực kỳ cao, biểu thị rằng sự đa cộng tuyến sẽ không phải là một vấn đề quan trọng
trong phân tích hồi quy này.
1 0,26 0,23
2 0,21 0,13
3 0,19 0,09
4 0,18 0,13
5 0,13 0,05
Chúng tôi tiếp tục xem xét giả thuyết H1 mà chúng tôi đã đặt ra, trong khung hồi quy đa
biến. Chúng tôi chạy theo hồi quy theo phương trình (1) như đề cập ở trên.
FI =∝+ β FOit + δ ¿ controlvariables+ ε it
Ở đây, công ty và năm được xác định tương ứng bởi hai giá trị i và t. FI là biến phụ
thuộc, biến độc lập chính FO và các biến kiểm soát được mô tả trong bảng 3.1 là quy mô công
ty (Size), đòn bẩy tài chính (Lev), tỷ suất sinh lợi hoạt động kinh doanh trên giá trị sổ sách
của tổng tài sản (ROA), hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn (CR), tổng giá trị vốn hóa thị
trường và tổng nợ sổ sách trên tổng tài sản sổ sách (Tobinq), giá trị Beta của chứng khoán
trong thị trường, biến kiểm soát quản trị công ty ln_Boardsize và Ind. Ngoài ra, chúng tôi
cũng sử dụng biến giả cho phân ngành thể hiện ảnh hưởng của ngành và biến giả cho năm để
nhìn thấy xu hướng đầu tư nước ngoài qua từng năm. Chúng tôi sử dụng hai chữ số chỉ số
ngành theo Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam năm 2007 (VietNam Standard Industrial
Classification 2007 – VSIC 2007) - quy định về nội dung các ngành kinh tế thuộc Hệ thống
ngành kinh tế của Việt Nam đã được Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư phê duyệt và ban
hành tại Quyết định số 337/QĐ-BKH ngày 10 tháng 4 năm 2007. Chúng tôi dựa theo Petersen
(2009) để tính toán các sai số tiêu chuẩn được nhóm lại ở các cấp độ công ty.
Kết quả của hồi quy chính của chúng tôi được trình bày trong Bảng 5. Mối quan hệ
tuyến tính giữa sở hữu sáng lập và đầu tư nước ngoài là ngược chiều và có ý nghĩa thống kê
cao, khi sở hữu sáng lập tăng 1% thì đầu tư nước ngoài sẽ giảm 0,96%. Ở cột (2) chúng tôi
nghiên cứu mối quan hệ phi tuyến giữa FI và FO và cho kết quả với hệ số âm.
Bảng 5 : Mối quan hệ giữa đầu tư nước ngoài và quyền sở hữu của cổ đông sáng lập.
Biến 1 2 3 4 5 6
0.01
ln_boardsize
(0,23)
1,37***
Ind
(5,22)
Industry fixed
Yes Yes No Yes Yes
effects
Firm fixed effects No No Yes No No
Danh mục biến bao gồm: Intercept: hệ số chặn; FO: quyền sở hữu của cổ đông sáng lập;
2
FO : bình
phương của biến quyền sở hữu của cổ đông sáng lập; Group: biến giả của nhóm công ty
thuộc tập đoàn (nhận giá trị 1 khi công ty thuộc tập đoàn và nhận giá trị 0 khi công ty là độc
lập); Size: biến quy mô công ty; Lev: biến đòn bẩy tài chính; ROA: tỷ suất sinh lợi hoạt động
kinh doanh trên tổng tài sản sổ sách; Tobinq: tổng giá trị vốn hóa thị trường và tổng nợ sổ
sách trên tổng tài sản sổ sách; CR: hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn; Divi: biến giả cho
cổ tức (nhận giá trị 1 khi công ty có chia cổ tức và ngược lại nhận giá trị 0); Beta: hệ số của
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 75
mô hình giá thị trường của chứng khoán; ln_boardsize: logarit tự nhiên của biến Boardsize
(tổng thành viên trong ban hội đồng quản trị); Ind: tỷ lệ số thành viên độc lập trong ban quản
trị trên số thành viên hội đồng quản trị; N: tổng số quan sát. Giá trị z được trình bày trong
ngoặc đơn của cột (1), (2), (3), (4), (5). Và giá trị t trong dấu ngoặc đơn tại cột (6). *, ** và
*** cho thấy mức ý nghĩa thống kê ở mức 10%, 5% và 1% tương ứng.
Kết luận này phù hợp với giả thiết H1 khi cho rằng mối quan hệ giữa đầu tư nước ngoài
và quyền sở hữu của cổ đông sáng lập là hình chữ U ngược. Yogesh Chauhan và Satish
Kumar (2017) khi nghiên cứu về thị trường Ấn Độ cũng đưa ra mối quan hệ phi tuyến hình
chữ U ngược giữa đầu tư nước ngoài và quyền sở hữu của cổ đông sáng lập. Trong bài nghiên
cứu này, khi chúng tôi dựa trên thị trường Việt Nam, thì vẫn thấy được mối quan hệ chữ U
ngược giữa FO và FI. Kết quả không tồn tại giá trị ngưỡng ở Việt Nam trong dữ liệu này, vì
thế cần nghiên cứu thêm trên mẫu quan sát rộng hơn và trong thời gian dài hơn nữa, để có kết
quả chính xác và tìm ra được giá trị ngưỡng. Trong cột (3), chúng tôi đưa ra hiệu ứng cận biên
của các biến số, được đánh giá tại mức trung bình của dữ liệu. Kết quả của FO cho thấy rằng
khi có sự gia tăng 1% quyền sở hữu của cổ đông sáng lập dẫn đến sự giảm xuống 0,07% của
các khoản đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, tăng 1% của quy mô công ty sẽ làm cho đầu tư nước
ngoài tăng 0,06%. Khi đòn bẩy tài chính (Lev) tăng lên 1%, điều này khiến cho đầu tư nước
ngoài giảm 0,32% với mức ý nghĩa 1%. Trong cột (4), chúng tôi trình bày mối quan hệ giữa
quyền sở hữu của cổ đông sáng lập và đầu tư nước ngoài sau khi kiểm soát ảnh hưởng cố định
của công ty và không có nhiều giá trị mang ý nghĩa thống kê, trừ Size, ROA cùng chiều đầu
tư nước ngoài và ngược chiều với Lev, CR có ý nghĩa thống kê. Điều này giúp chúng tôi
khẳng định quy mô công ty (được đo lường bởi tổng tài sản của công ty) và tình hình kinh
doanh cũng như đòn bẩy tài chính, khả năng thanh toán nợ ngắn hạn là những yếu tố quan tâm
của nhà đầu tư nước ngoài đối với các công ty ở Việt Nam. Trong cột (5), chúng tôi sử dụng
thêm các biến số về tổng số thành viên của hội đồng quản trị và tỷ lệ giữa các thành viên
không tham gia điều hành trên số thành viên hội đồng quản trị để kiểm soát quản trị doanh
nghiệp ở cấp độ công ty, vì mong đợi rằng hội đồng quản trị, bộ phận cấp cao trong công ty
có thể ảnh hưởng đến mối quan hệ của chúng tôi (Miletkov và cộng sự, 2014). Như mong đợi,
chúng tôi thấy rằng kết quả của các biến số vẫn giữ nguyên cả sau khi kiểm soát quản trị
doanh nghiệp ở mức độ công ty và điểm đáng chú ý là hệ số biến kiểm soát Ind mang dấu
dương và có ý nghĩa ở mức 1%, phù hợp với lập luận của Miletkov (2014) khi cho rằng các
nhà đầu tư nước ngoài có khuynh hướng đầu tư các công ty có nhiều thành viên độc lập trong
hội đồng quản trị. Trong cột (6), chúng tôi tiến hành phân tích dưới dạng hồi quy khác biệt.
Chúng tôi sử dụng hồi quy OLS để ước lượng các tham số. Kết quả hệ số của FO là cùng
chiều nhưng không có ý nghĩa thống kê. Vì thế điều này không thể hàm ý rằng trong các công
ty mà người sáng lập gia tăng quyền sở hữu từ năm trước, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ giảm
tỷ lệ nắm giữ. Kết quả của các biến còn lại không thay đổi. Tóm lại, phân tích ở bảng này cho
thấy mối quan hệ phi tuyến ngược chiều giữa quyền sở hữu của cổ đông sáng lập và đầu tư
nước ngoài. Tuy chưa mang ý nghĩa về mặt thống kê, nguyên nhân bởi mẫu quan sát thấp nên
chưa mang tính đại diện cao. Hệ số của nhiều biến số kiểm soát là phù hợp với các tài liệu. Ví
dụ, hệ số của Size cùng chiều với FI, có ý nghĩa ở hầu hết các cột, khẳng định các nhà đầu tư
nước ngoài rất chú ý đến các công ty lớn của Việt Nam, quan tâm về quy mô tài sản của
doanh nghiệp. Hệ số âm của Lev cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài đang đầu tư vào các
công ty có vốn vay thấp, họ không tin tưởng vào một công ty có nhiều nợ. Hệ số của Beta là
dương và có ý nghĩa cao về mặt thống kê, có thể nói rằng nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm
về giá trị chứng khoán của các công ty, ngoài ra họ còn chú ý đến số lượng thành viên độc lập
trong ban quản trị. Và với quan điểm cho rằng nhà đầu tư nước ngoài thích đầu tư vào các
doanh nghiệp hoạt động, tăng trưởng cao, báo cáo của chúng tôi là một hệ số dương và ý
nghĩa đáng kể của ROA.
Ngoài ra, đối với nguồn vốn từ nước ngoài thì khi một công ty có quy mô tăng trưởng
mạnh, nhà đầu tư thích những công ty tập đoàn hơn là các công ty độc lập, vì những công ty
lớn mang đến lợi nhuận cho nhà đầu tư có thể cao hơn. Và họ hạn chế đầu tư vào những các
công ty thuộc tập đoàn có tỷ lệ nợ cao, thay vào đó là đầu tư vào công ty độc lập. Hai kết quả
trên phù hợp với Kang và Stulz (1997) khi cho rằng người nước ngoài đầu tư nhiều vào các
công ty lớn và có đòn bẩy thấp. Chính Dahlquist và Robertsson (2001) cũng chứng minh đầu
tư nước ngoài thích các công ty lớn, trả cổ tức thấp và giữ tiền mặt cao hơn. Ngoài ra, còn có
biến ROA, cho thấy sự khác biệt rõ, khi nguồn vốn nước ngoài chảy mạnh vào những công ty
độc lập hơn tập đoàn. Và họ cũng quan tâm đến hoạt động kinh doanh giữa tập đoàn và công
ty độc lập. Giá trị biến Beta đại diện cho mức rủi ro của cổ phiếu công ty cũng như là mức lợi
nhuận mà công ty đó đạt được. Rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng cao. Chúng tôi cho rằng khi
Beta càng cao có nghĩa lợi nhuận càng cao đi theo là mức độ rủi ro so với thị trường càng cao
thì các nhà đầu tư nước ngoài hứng thú đầu tư vào các công ty độc lập hơn là công ty thuộc
tập đoàn. Vì những công ty thuộc tập đoàn khi rủi ro tăng cao, nguy cơ hệ lụy, chịu ảnh
hưởng mạnh đối với nhà đầu tư nước ngoài nếu như công ty bị thất bại hay phá sản. Ngoài ra,
Theo nghiên cứu của Jones (1991), cho rằng giá trị REV thể hiện sự biến động doanh
thu thuần của công ty trong kỳ kế toán, phản ánh được tình hình hoạt động kinh doanh và là
khoản mục mang tính khách quan không bị nhà quản trị lợi dụng để điều chỉnh lợi nhuận
trong kỳ. Sau đó, chúng tôi phân chia công ty mẫu ban đầu thành các công ty tham gia quản
trị tài chính cao và thấp. Bảng 7 trình bày kết quả trên.
Trong cột (1), hệ số biến FO mang dấu âm thể hiện mối quan hệ tuyến tính ngược chiều
của sở hữu sáng lập và nhà đầu tư nước ngoài. Còn biến High EM có mối quan hệ cùng chiều
với đầu tư nước ngoài. Tuy ngược lại với kỳ vọng của chúng tôi, nhưng đây chỉ là cái nhìn
chung ban đầu, chúng tôi cần phân tích thêm những giá trị tiếp theo. Chúng tôi cũng tạo ra
biến tương tác giữa High EM và FO, kết quả là âm, thể hiện sự khác biệt giữa nhóm quản trị
tài chính cao và thấp. Tuy giá trị ngưỡng không tìm được nhưng quyền sở hữu của cổ đông
sáng lập tác động đến đầu tư nước ngoài sẽ giảm mạnh hơn ở những công ty thuộc nhóm tham
gia quản trị tài chính cao so với các công ty thuộc nhóm quản trị tài chính thấp. Do đó các nhà
đầu tư nước ngoài có xu hướng ngại đầu tư vào những công ty mà quyền quản trị tài chính
cao.
Trong cột (2), chúng tôi cũng thêm biến tương tác giữa giá trị bình phương của FO và
High EM. Chúng tôi thấy rằng mối quan hệ phi tuyến giữa biến FI và FO, chữ U ngược với hệ
số âm của FO2; còn khi có thêm biến High EM tạo ra biến tương tác High EM*FO và biến
High EM*FO2 thì mối quan hệ là chữ U thuận. Tuy kết quả về biến tương tác không có giá trị
thống kê, nhưng cũng một phần thấy rằng việc quản trị tài chính kết hợp với quyền sở hữu của
nhà sáng lập sẽ ảnh hưởng đến nguồn vốn từ nước ngoài. Điều này giúp chúng tôi nhận thấy
khi có sự phân chia về quản trị tài chính, thì giữa đầu tư nước ngoài và quyền sở hữu của cổ
đông sáng lập vẫn tác động theo hình chữ U thuận, hiệu ứng liên kết và hiệu ứng ngăn chặn
khi quyền sở hữu của cổ đông sáng lập chạm một ngưỡng nhất định. Còn về các biến kiểm
soát thì kết quả vẫn giữ nguyên. Hệ số dương đối với biến Size, ROA, Ind, Beta; hệ số âm với
Lev, CR, đều có ý nghĩa trong thống kê. Chúng tôi chắc chắn người nước ngoài khi đầu tư
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 79
vào thị trường Việt Nam thích đưa vốn vào những công ty có quy mô lớn, kết quả hoạt động
kinh doanh tốt, đòn bẩy tài chính thấp bởi họ lo ngại khi nợ tăng. Và có số lượng thành viên
độc lập trong ban hội đồng quản trị cao, điều này rất quan trọng vì nếu số lượng thành viên
độc lập thấp có thể dẫn đến vấn đề sở hữu của nhà sáng lập trong ban hội đồng quản trị lớn
làm cho quyền kiểm soát của nhà sáng lập lớn hơn cổ phần mà họ nắm giữ, khi đó nhà đầu tư
nước ngoài sẽ phải gia tăng chi phí giám sát (Choe và cộng sự, 2014).
Bảng 7 : Đầu tư nước ngoài, quyền sở hữu của cổ đông sáng lập và quản trị tài chính.
Biến 1 2
-13,99*** -14,21***
Intercept
(-12,64) (26,67)
-0,63 0,15
FO
(-2,47) (0,21)
-1,09
2
FO (-1,15)
0,33** 0,45**
High_EM
(2,28) (2,39)
-0,53 -1,79
High_EM*FO
(-1,42) (-1,44)
1,78
2
High_EM*FO (1,04)
-0,08 -0,09
Group
(0,71) (-0,83)
0,47*** 0,48***
Size
(11,40) (11,35)
-2,02*** -2,03***
Lev
(-8,08) (-8,11)
1,33** 1,26*
ROA
(2,05) (1,94)
0,11 0,12
Tobinq
(0,95) (1,04)
-0,11*** -0,11***
CR
(-4,29) (-4,28)
-0,08 -0,09
Divi
(-0,67) (-0,78)
0,14** 0,15**
Beta
(2,02) (2,09)
-0,00 -0,00
ln_boardsize
(-0,11) (-0,02)
1,41*** 1,45***
Ind
(5,37) (5,45)
N 549 549
Danh mục biến bao gồm: Intercept: hệ số chặn; FO: quyền sở hữu của cổ đông sáng lập;
FO2: bình phương của biến quyền sở hữu của cổ đông sáng lập; High_EM: biến giả cho sự
tham gia quản trị tài chính (nhận giá trị 1 cho nhóm công ty trên trung vị JONES_DA, và
ngược lại nhận giá trị 0); High_EM_FO: biến tương tác giữa quyền sở hữu của cổ đông sáng
lập và biến giả cho tham gia quản trị tài chính; Group: biến giả của nhóm công ty thuộc tập
đoàn (nhận giá trị 1 khi công ty thuộc tập đoàn và nhận giá trị 0 khi công ty là độc lập); Size:
Để hiểu rõ hơn vấn đề trên, chúng tôi chạy lại phân tích và được báo cáo trong Bảng 8.
Bảng này cũng trình bày mối quan hệ giữa quyền sở hữu của cổ đông sáng lập và đầu tư nước
ngoài dựa trên quản trị tài chính. Nhưng chúng tôi phân chia mẫu thành các công ty có thu
nhập cao và thấp. Hàng năm, chúng tôi sắp xếp các công ty mẫu dựa trên JONES_DA và sau
đó tách các công ty mẫu thành hai nhóm sử dụng trung vị của JONES_DA. Các công ty mẫu
trên trung vị được gọi là nhóm High và các công ty dưới trung vị là nhóm Low. Để dễ quan
sát và chạy mô hình giữa hai phần A và phần B trong Bảng 8, chúng tôi gọi riêng biệt hai
nhóm là Low-A, High-A và Low-B, High-B và có kết hợp chạy hiệu ứng cận biên. Phần A
chạy tuyến tính giữa FI và các biến độc lập. Phần B chạy phi tuyến giữa FI và FO, FO2.
Trong phần A của Bảng 8, giá trị biên cho thấy khi quyền sở hữu của cổ đông sáng lập
tăng 1% thì ở những công ty thuộc nhóm High-A có đầu tư nước ngoài giảm 0,17%. Còn ở
những công ty thuộc nhóm Low-A thì đầu tư nước ngoài giảm 0,09% khi quyền sở hữu của
cổ đông sáng lập tăng 1%. Qua đó thấy rằng, đầu tư nước ngoài sẽ giảm mạnh hơn ở những
công ty tham gia vào quản trị tài chính cao so với nhóm công ty tham gia quản trị tài chính
thấp khi quyền sáng lập tăng. Chúng tôi nghĩ rằng bởi vì ở những công ty có tham gia vào
quản trị tài chính nhiều khiến cho thông tin đưa ra cho các nhà đầu tư nước ngoài nghèo nàn,
dễ sai lệch khiến cho rủi ro bất bình đẳng thông tin cao hơn.
Tại phần B của Bảng 8, chúng tôi chạy thêm biến FO 2 thể hiện mối quan hệ phi tuyến
giữa đầu tư nước ngoài và quyền sở hữu của cổ đông sáng lập. Ở nhóm Low-B có hệ số FO là
0,33 và hệ số FO2 là -1,37. Còn ở nhóm High-B cho hệ số FO là -1,63 và hệ số FO 2 là 0,78.
Khi sự quản trị tài chính của các công ty thấp thì thì mối quan hệ phi tuyến giữa FI và FO là
chữ U ngược, cho thấy có một giá trị ngưỡng cho FO để trong giới hạn đó thì FO tăng thu hút
đầu tư nước ngoài, nhưng nếu vượt qua ngưỡng thì FI giảm. Còn đối với High-B thì mối quan
hệ phi tuyến này là chữ U thuận. Các giá trị của FO và FI đều không có ý nghĩa thống kê vì
thế cần nghiên cứu thêm trên dữ liệu rộng để có kết quả chính xác hơn. Nhưng một phần cũng
thấy được ảnh hưởng của việc tham gia quản trị tài chính cao, chặt chẽ sẽ làm đầu tư nước
ngoài mạnh hơn so với việc tham gia quản trị thấp. Theo chúng tôi lý giải thì thị trường kinh
tế Việt Nam đang trong giai đoạn thu hút vốn đầu tư nước ngoài, là một thị trường mới nổi. Ở
những công ty tham gia quản trị tài chính cao, những người sáng lập sẽ trở nên vững chắc với
sự kiểm soát hiệu quả của họ, do đó các quyết định của họ có thể tước đi quyền của các đầu tư
bên ngoài (Claessens và cộng sự, 2002). Hoặc những công ty này sẽ giấu đi hành vi của cổ
đông sáng lập, cung cấp thông tin ít cụ thể, đôi khi có thể bị sai lệch. Và khi nhà đầu tư gặp
các vấn đề về thông tin kém, đòi hỏi phải có giám sát chặt chẽ, dẫn đến tăng chi phí đại diện
của nhà đầu tư nước ngoài (Kang và Stulz, 1997; Brennan và Cao, 1997; Choe và cộng sự,
2005) để người nước ngoài có thể an toàn trong đầu tư. Vì thế, tham gia vào quản trị tài chính
là một yếu tố quan trọng để quyết định đầu tư nước ngoài.
Bảng 8 : Đầu tư nước ngoài, quyền sở hữu của cổ đông sáng lập và quản trị tài
chính
Quản trị tài chính
-
15,65** - -
* -12,98*** 16,14*** 12,82***
Intercept
(9,91) (-8,20) (-9,98) (-7,94)
0,08**
0,51*** 0,08*** 0,45*** 0,07*** 0,53*** * 0,44*** 0,07***
Size
(8,85) (9,14) (7,34) (7,43) (8,97) (9,29) (7,16) (7,25)
-
0,32**
-2,14*** -0,32*** -1,97*** -0,30*** -2,16*** * 1,96*** -0,29***
Lev
(-5,85) (-5,92) (-5,63) (-5,68) (-5,92) (-5,99) (-5,60) (-5,66)
0,08**
0,57*** 0,08*** -0,06 -0,01 0,57*** * 0,05 -0,01
Tobinq
(2,68) (2,70) (-0,38) (-0,38) (2,71) (2,73) (-0,31) (-0,31)
-
0,02**
-0,12*** -0,02*** -1,04*** -0,02*** -0,13*** * -0,10** -0,02***
CR
(-3,34) (-3,35) (-2,59) (-2,60) (-3,37) (-3,39) (2,57) (-2,58)
Year fixed
Yes Yes Yes Yes
effects
Industry
Yes Yes Yes Yes
fixed effects
N 241 241 308 308 241 241 308 308
Danh mục biến bao gồm: Intercept: hệ số chặn; FO: quyền sở hữu của cổ đông sáng lập;
2
FO : bình phương của biến quyền sở hữu của cổ đông sáng lập; Group: biến giả của nhóm
công ty thuộc tập đoàn (nhận giá trị 1 khi công ty thuộc tập đoàn và nhận giá trị 0 khi công ty
là độc lập); Size: biến quy mô công ty; Lev: biến đòn bẩy tài chính; ROA: tỷ suất sinh lợi hoạt
động kinh doanh trên tổng tài sản sổ sách; Tobinq: tổng giá trị vốn hóa thị trường và tổng nợ
sổ sách trên tài sản sổ sách; CR: hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn; Divi: biến giả cho cổ
tức (nhận giá trị 1 khi công ty có chia cổ tức và ngược lại nhận giá trị 0); Beta: hệ số của mô
hình giá thị trường của chứng khoán; ln_boardsize: logarit tự nhiên của biến Boardsize (tổng
thành viên trong ban hội đồng quản trị); Ind: tỷ lệ số thành viên độc lập trong ban hội đồng
quản trị trên số thành viên hội đồng quản trị; N: tổng số quan sát; Margins: Giá trị cận biên;
Giá trị z được trình bày trong ngoặc đơn. *, ** và *** cho thấy mức ý nghĩa thống kê ở mức
10%, 5% và 1% tương ứng.
Ngoài ra, chúng tôi cũng phân tích hiệu ứng cận biên của các biến kiểm soát thể hiện tác
động của nền kinh tế. Kết quả của các biến kiểm soát cũng không thay đổi. Với hệ số dương
giữa quy mô công ty và đầu tư nước ngoài, điều này cho thấy các nhà đầu tư rất quan tâm đến
quy mô công ty. Hệ số biến Lev cũng cho giá trị âm và ý nghĩa, thấy rằng nhà đầu tư nước
ngoài ngại đầu tư vào những công ty có đòn bẩy tài chính cao. Và họ còn quan tâm đến số
lượng thành viên hội đồng quản trị và lợi nhuận của cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
hàng ngày.
4. Nội dung và kết quả thực nghiệm với phương pháp fracreg
Để củng cố cho kết quả nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành chạy lại bài nghiên cứu với
phương pháp fracreg. Nhìn chung, kết quả cho thấy sự thống nhất với kết quả thực nghiệm
bằng phương pháp betareg mà chúng tôi đã làm.
Kết quả về mối quan hệ giữa đầu tư nước ngoài và quyền sở hữu của cổ đông sáng lập
cho thấy sự ảnh hưởng ngược chiều mạnh mẽ hơn của quyền sở hữu của cổ đông sáng lập đối
với đầu tư nước ngoài. Biến phi tuyến của đầu tư nước ngoài cũng cho kết quả tương tự (-
0,41) với trước đó (-0,71). Kết quả này đã lần nữa cho thấy được tầm quan trọng của quyền sở
hữu của cổ đông sáng lập trong việc thu hút đầu tư nước ngoài và đồng thời chứng minh giả
thiết H1 là đúng. Các giá trị của hiệu ứng cận biên ở cột (3) cũng như các cột còn lại có kết
quả về của biến chính và các biến điều khiển gần như đồng nhất.
Với giả thuyết H2, các kết quả của phương pháp fracreg cũng được tiến hành thành hai
phần A và B như Bảng 6. Dù thay đổi phương pháp nghiên cứu nhưng chúng tôi vẫn thu được
kết quả chứng minh giả thiết H2 là đúng. Hơn thế nữa, giá trị biên của biến quyền sở hữu của
cổ đông sáng lập cho thấy các khoản đầu tư nước ngoài giảm 6,15% khi chủ sở hữu sáng lập
của các công ty độc lập tăng 1% và có ý nghĩa thống kê ở mức 10% (trong Bảng 6, kết quả
này không có ý nghĩa thống kê). Đối với các biến kiểm soát, đòn bẩy tài chính mặc dù cho
thấy sự chênh lệch trong tác động ở công ty độc lập và tập đoàn là khác nhau so với phần B
5.Kết luận
Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của chúng tôi cho thấy người nước ngoài không thích
các công ty có mức độ sở hữu người sáng lập cao hơn, phù hợp với giả thuyết ngăn chặn.
Chúng tôi đặc biệt chứng minh rằng mối quan hệ giữa đầu tư nước ngoài và quyền sở hữu
người sáng lập là phi tuyến, ngụ ý rằng các nhà đầu tư nước ngoài chỉ giảm đầu tư khi quyền
sở hữu của người sáng lập vượt qua mức ngưỡng mà người sáng lập nắm giữ một sự kiểm
soát hiệu quả đối với công ty. Điều này phù hợp với cả hiệu ứng khuyến khích căn chỉnh và
hiệu ứng cố thủ khi mức độ kiểm soát của người sáng lập tăng. Hơn nữa, quyền sở hữu cổ
đông sáng lập có tác động tiêu cực mạnh hơn so với với các công ty nhóm kinh doanh và các
công ty đang tham gia quản trị tài chính. Điều này cho thấy rằng chi phí đại diện và rủi ro
sung công mà các nhà đầu tư nước ngoài phải đối mặt góp phần thúc đẩy kết quả của chúng
tôi. Kết quả của chúng tôi cũng nhấn mạnh với sự khác biệt khuôn khổ được sử dụng quanh
sự can thiệp của quy định buộc những người sáng lập phải chia sẻ việc nắm giữ của họ.
Bài viết của chúng tôi cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài thì không thích những công
ty được kiểm soát chặt chẽ bởi cổ đông sáng lập, điều này quy cho vấn đề bất bình đẳng thông
tin và có thể dẫn đến rủi ro sung công, khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài e ngại khi quyết
định lựa chọn một công ty mà quyền kiểm soát và điều khiển đều nằm trong tay cổ đông sáng
lập với tỷ lệ cổ phiếu nắm giữ khổng lồ.
TÓM TẮT
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành kiểm định mô hình Fama – French 5 nhân
tố với mẫu nghiên cứu gồm các cổ phiếu niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán
Thành phố Hồ Chí Minh trong 2 giai đoạn từ đầu tháng 7/2008 đến cuối tháng
6/2013 và từ đầu tháng 7/2013 đến cuối tháng 6/2017. Kết quả kiểm định chỉ ra
rằng, mô hình Fama - French 5 nhân tố giải thích tốt biến động lợi suất cổ phiếu
trong giai đoạn thị trường ổn định và tăng trưởng, tuy nhiên vẫn chưa thể giải
thích hoàn toàn biến động lợi suất trong giai đoạn suy thoái. Kết quả này đã bổ
sung một cách rõ ràng và đầy đủ hơn về độ giải thích của mô hình Fama - French
với biến động lợi suất cổ phiếu trên thị trường Việt Nam so với các nghiên cứu
trước đó.
Từ khóa: Mô hình Fama – French, rủi ro, tỷ suất sinh lời, 5 nhân tố
1.Giới thiệu đề tài nghiên cứu
Sau bước chuyển mình phục hồi mạnh mẽ từ khủng hoảng vào năm 2013, đến nay
TTCK Việt Nam tuy vẫn còn non trẻ và đầy biến động nhưng chứa đựng nhiều tiềm năng phát
triển. TTCK đóng vai trò là nơi huy động vốn cho doanh nghiệp, điều tiết nguồn vốn cho nền
kinh tế, cung cấp nền tảng đầu tư cho công chúng và là công cụ hỗ trợ thực hiện các chính
sách vĩ mô của chính phủ. Chính vì vậy, để kinh tế Việt Nam phát triển ổn định và bền vững,
cần phải có các công cụ giúp định hướng TTCK phát triển năng động, minh bạch và hiệu quả.
Một trong những công cụ ấy chính là các mô hình định giá tài sản. Trên thế giới đã phát
triển nhiều mô hình định giá giúp NĐT dự đoán lợi suất cổ phiếu, từ đó đưa ra quyết định đầu
tư thông minh. Đầu tiên phải kể đến mô hình định giá tài sản vốn CAPM của Sharpe (1964)
và Lintner (1965) định lượng mối tương quan đơn giữa TSSL cổ phiếu và rủi ro thị trường.
Mô hình này gây ra nhiều tranh cãi vì những hạn chế của nó, đơn cử như: toàn bộ rủi ro đều
được đưa vào một chỉ số β, thị trường phải hoàn hảo, có tồn tại lãi suất phi rủi ro nhưng trong
thực tế rất khó tồn tại một lãi suất mà hoàn toàn không có rủi ro. Sau mô hình CAPM, nhiều
nghiên cứu về các mô hình định giá tài sản lần lượt ra đời. Điển hình là mô hình Fama -
French 3 nhân tố của Fama & French (1993), trong đó lợi suất cổ phiếu được giải thích bởi:
rủi ro thị trường, quy mô doanh nghiệp, và BE/ME. Tiếp theo đó, nghiên cứu của Carhart
(1997) đưa ra mô hình 4 nhân tố, bổ sung nhân tố quán tính (momentum); nghiên cứu của
Fama & French (2014) đưa ra mô hình 5 nhân tố, bổ sung nhân tố lợi nhuận và khuynh hướng
đầu tư.
Tại TTCK Việt Nam, việc kiểm định các mô hình trên cũng được thực hiện bởi nhiều
nhà nghiên cứu nhưng nổi bật vẫn là các nghiên cứu về mô hình Fama - French 3 nhân tố. Kết
quả từ các nghiên cứu này đều chỉ ra rằng mô hình Fama - French 3 nhân tố giải thích lợi suất
cổ phiếu tốt hơn mô hình CAPM, nhưng vẫn chưa giải thích hết được hiện tượng lợi suất bất
thường của TTCK Việt Nam. Hơn nữa, cũng chưa có nhiều mô hình nghiên cứu đề cập đến
những nhân tố cơ bản nhất tác động đến lợi suất cổ phiếu như lợi nhuận hay khuynh hướng
đầu tư. Xuất phát từ những quan điểm trên, nhóm tác giả quyết định chọn đề tài “Kiểm định
mô hình Fama – French 5 nhân tố để ước lượng TSSL của các cổ phiếu niêm yết trên Sở Giao
dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu nhằm mục tiêu: (i) Nghiên
cứu nền tảng lý thuyết của mô hình định giá tài sản vốn CAPM, mô hình Fama - French 3
nhân tố và mô hình Fama - French 5 nhân tố; (ii) Kiểm định mô hình Fama - French 5 nhân tố
Bảng 1: Bảng tóm tắt thống kê mô tả về TSSL trung bình của các danh mục đầu tư và 5
nhân tố trong mô hình
Giá trị Giá trị
Biến Trung bình Trung vị Độ lệch chuẩn
lớn nhất nhỏ nhất
SH 0,00182 0,00339 0,07115 -0,07024 0,03648
SNhml 0,00292 0,00295 0,05810 -0,05207 0,02798
SL 0,00250 0,00238 0,08414 -0,07631 0,03932
BH 0,00160 0,00170 0,09223 -0,08383 0,04678
BNhml 0,00087 -0,00168 0,07650 -0,06484 0,03619
BL 0,00287 0,00250 0,07310 -0,06054 0,03310
SR 0,00215 0,00220 0,05924 -0,05935 0,02949
SNrmw 0,00261 0,00390 0,06158 -0,06053 0,03114
SW 0,00228 0,00136 0,07257 -0,07053 0,03731
BR 0,00383 0,00215 0,07224 -0,06014 0,03325
BNrmw 0,00102 -0,00043 0,07501 -0,06436 0,03491
BW -0,00072 -0,00087 0,08445 -0,07648 0,04249
SC 0,00296 0,00135 0,06822 -0,05942 0,03254
SNcma 0,00199 0,00282 0,06240 -0,06507 0,03248
SA 0,00180 0,00098 0,06333 -0,06144 0,03292
BC 0,00002 -0,00079 0,06634 -0,06636 0,03452
BNcma 0,00322 0,00073 0,07777 -0,06880 0,03764
BA 0,00157 0,00027 0,06816 -0,05940 0,03197
Rm - Rf 0,00037 -0,00015 0,05786 -0,05908 0,02967
SMB 0,00093 0,00151 0,03260 -0,03613 0,01738
HML -0,00053 -0,00020 0,04225 -0,04629 0,02347
RMW 0,00241 0,00427 0,04480 -0,04580 0,02398
CMA 0,00007 -0,00007 0,02523 -0,02614 0,01382
Kết quả cho thấy, nếu kiểm soát lần lượt từng nhân tố giá trị, lợi nhuận, khuynh hướng
đầu tư và chỉ xét trên khía cạnh quy mô thì nhóm chứng khoán công ty quy mô nhỏ đem lại
TSSL cao hơn so với nhóm chứng khoán công ty quy mô lớn. Tuy nhiên, độ chênh lệch này là
không cao, chứng tỏ không có sự chênh lệch lớn giữa các công ty trong mẫu.
Giá trị trung bình của biến SMB mang dấu dương, điều này cho thấy rằng có mối tương
quan nghịch giữa quy mô công ty và TSSL chứng khoán. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với
kết quả nghiên cứu mô hình 3 nhân tố tại các thị trường phát triển như: Fama & French (1993)
và Michael A. O’Brien (2007).
Giá trị trung bình của biến HML mang dấu âm. Nghĩa là, các công ty có tỷ số BE/ME
thấp cho TSSL cao hơn nhóm công ty có tỷ số BE/ME cao. Kết quả này lại trái ngược hoàn
toàn với kết luận của Fama & French (1993) khi phát hiện có tương quan thuận giữa tỷ lệ
BE/ME và TSSL.
Giá trị trung bình của biến RMW mang dấu dương, điều này cho thấy các công ty có lợi
nhuận cao cho TSSL cao hơn nhóm công ty có lợi nhuận thấp. Giá trị trung bình của biến
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 92
CMA mang dấu dương thể hiện các công ty đầu tư cao có TSSL thấp hơn các công ty đầu tư
thấp. Hai kết quả của RMW và CMA đều phù hợp với kết luận của Fama & French (2014)
nghiên cứu cho TTCK Mỹ.
4.1.2.Phân tích tương quan
Nhằm đảm bảo không có hiện tượng đa cộng tuyến làm ảnh hưởng đến kết quả hồi quy,
nhóm nghiên cứu đã tiến hành kiểm định và phân tích sự tương quan giữa các biến trong mô
hình.
Bảng 2: Ma trận tương quan giữa các biến độc lập trong mô hình
Rm - Rf SMB HML RMW CMA
Rm - Rf 1,0000
SMB -0,3145* 1,0000
HML 0,0934* 0,1037* 1,0000
RMW -0,1880* -0,1448* -0,5947* 1,0000
CMA 0,0083 0,1776* 0,3009* -0,2267* 1,0000
* Tương quan ở mức ý nghĩa 5%
Nhìn vào ma trận tương quan giữa các biến độc lập của mô hình, ta thấy giữa RMW và
HML có tương quan khá cao, -0,5947 và tương quan ở mức ý nghĩa 5%. Ngoài ra, giá trị tuyệt
đối của các hệ số tương quan còn lại nằm trong khoảng [0,0083; 0,3145] cho thấy tương quan
không cao. Đối với hai biến RMW và HML, khi chạy kết quả hồi quy mô hình, nhóm tác giả
thấy rằng dù chịu ảnh hưởng bởi tương quan tuyến tính, RMW và HML vẫn cho kết quả có ý
nghĩa thống kê.
Kết quả hồi quy cho thấy tất cả các hệ số hồi quy đều có ý nghĩa thống kê, R2 trung bình
đạt khoảng 42,45%. Tuy nhiên, hệ số chặn α của 9 trên 18 danh mục là khác 0 và có ý nghĩa
thống kê, điều này cho thấy mô hình CAPM chưa thể giải thích hoàn toàn tổng phần bù rủi ro
của lợi suất cổ phiếu. Tuy nhiên, hệ số β của mô hình đều mang dấu dương và có ý nghĩa
thống kê cho thấy TSSL thị trường có mối tương quan đồng biến với TSSL cổ phiếu. Nhìn
chung, mô hình CAPM có xu hướng giải thích TSSL của chứng khoán có quy mô vốn hóa lớn
tốt hơn chứng khoán có quy mô vốn hóa nhỏ. Trong đó, với các chứng khoán quy mô vốn hóa
nhỏ thì CAPM giải thích lợi suất của chứng khoán có tỷ lệ BE/ME lớn tốt hơn là lợi suất của
chứng khoán có tỷ lệ BE/ME nhỏ và ngược lại. Điều này có thể được giải thích bởi ba lý do
chính: (i) Phần bù rủi ro thị trường được đo lường bằng chỉ số VN-Index, tức tổng bình quân
gia quyền giá của tất cả các chứng khoán trên HOSE với quyền số là mức vốn hóa thị trường.
Vì vậy các công ty có mức vốn hóa thị trường lớn sẽ có ảnh hưởng lớn đến thị trường HOSE;
(ii) Danh mục cổ phiếu vừa có quy mô vốn hóa nhỏ và tỷ lệ BE/ME nhỏ (danh mục SL)
thường có số lượng cổ phiếu ít hơn so với các danh mục khác. Vì vậy, nhóm danh mục này
chiếm tỷ trọng ít nên mối tương quan với chỉ số VN-Index là rất thấp; (iii) Danh mục cổ phiếu
có quy mô vốn hóa lớn thường có giá trị thị trường (ME) lớn dẫn đến tỷ lệ BE/ME nhỏ, vì vậy
sẽ tác động nhiều đến chỉ số VN-Index.
Mô hình Fama - French 3 nhân tố
Bảng 4: Kết quả hồi quy mô hình Fama - French 3 nhân tố
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 94
Danh R2 điều R2 bình
α β si hi R2
mục chỉnh quân
-0,000268 0,904*** 0,924*** 0,739*** 0,8660***
SH 0,8639
(0,722) (0,000) (0,000) (0,000) (0,0000)
0,00150** 0,717*** 0,726*** 0,230*** 0,7150***
SNhml 0,7106
(0,039) (0,000) (0,000) (0,000) (0,0000)
-
-0,00109 0,750*** 1,276*** 0,5266***
SL 0,174*** 0,5193
(0,348) (0,000) (0,000) (0,002) (0,0000)
0,000477 0,722*** 0,0670 1,102*** 0,7973***
BH 0,7942
(0,668) (0,000) (0,458) (0,000) (0,0000)
-0,00119 0,731*** 0,152** 0,491*** 0,7039***
BNhml 0,6993
(0,204) (0,000) (0,046) (0,000) (0,0000)
- -
0,000917 0,900*** 0,8393***
BL 0,218*** 0,0728** 0,8368
(0,166) (0,000) (0,000) (0,023) (0,0000)
0,00131 0,681*** 0,980*** -0,0344 0,5015***
SR 0,4938
(0,205) (0,000) (0,000) (0,490) (0,0000)
0,000587 0,739*** 0,731*** 0,306*** 0,7356***
SNrmw 0,7315
(0,430) (0,000) (0,000) (0,000) (0,0000)
-0,000578 0,940*** 1,010*** 0,735*** 0,7726***
SW 0,7691
(0,588) (0,000) (0,000) (0,000) (0,0000)
- - 0,7092
0,00137 0,921*** 0,7741***
0,212*** 0,117***
BR ( 0,7706
(0,000) (0,002) (0,004) (0,0000)
0,100)
-0,000768 0,796*** -0,114 0,289*** 0,6769***
BNrmw 0,6719
(0,444) (0,000) (0,161) (0,000) (0,0000)
-0,000492 0,694*** 0,0701 0,873*** 0,7296***
BW 0,7254
(0,666) (0,000) (0,449) (0,000) (0,0000)
0,000766 0,831*** 0,861*** 0,417*** 0,7537***
SC 0,7499
(0,364) (0,000) (0,000) (0,000) (0,0000)
0,00101 0,699*** 0,844*** 0,381*** 0,7273***
SNcma 0,7232
(0,207) (0,000) (0,000) (0,000) (0,0000)
-0,00115 0,878*** 0,991*** 0,283*** 0,6748***
SA 0,6698
(0,249) (0,000) (0,000) (0,000) (0,0000)
-0,000302 0,750*** 0,0744 0,372*** 0,6418***
BC 0,6362
(0,769) (0,000) (0,371) (0,000) (0,0000)
0,00198* 1,003*** -0,201** 0,0856* 0,7408***
BNcma 0,7368
(0,050) (0,000) (0,014) (0,080) (0,0000)
0,000128 0,725*** -0,163** 0,0560 0,6683***
(
BA 0,6632
(0,884) (0,022) (0,185) (0,0000)
0,000)
*, **, *** ứng với mức ý nghĩa 10%, 5%, 1%. Giá trị trong ngoặc () là p-value
Kết quả hồi quy cho thấy mô hình Fama - French 3 nhân tố giải thích tốt hơn mô hình
CAPM, R2 tăng mạnh từ 42,45% lên 70,92%. Ngoài ra, chỉ 2/18 danh mục có hệ số chặn α
khác không và có ý nghĩa thống kê cho thấy sự tiến bộ vượt bậc của mô hình Fama - French 3
Kết quả mô hình hồi quy cho thấy, mô hình Fama – French 5 nhân tố giải thích biến
động lợi suất cổ phiếu tốt hơn mô hình 3 nhân tố. Cụ thể R2 trung bình tăng từ 70,92% lên
74,96% ở mô hình 5 nhân tố. Các hệ số hồi quy đều có ý nghĩa thống kê, vì vậy, kết quả hồi
quy là đáng tin cậy. Tuy nhiên, hệ số chặn α có 3/18 danh mục có ý nghĩa thống kê nên mô
hình này vẫn chưa phải là mô hình tối ưu giải thích hoàn toàn sự biến động của TSSL cổ
phiếu trên HOSE.
Hệ số β có ý nghĩa thống kê với 18/18 danh mục và thể hiện những đặc điểm tương tự
như trong kết quả kiểm định mô hình Fama – French 3 nhân tố. Hệ số hồi quy ri của nhân tố
phần bù rủi ro lợi nhuận có ý nghĩa thống kê với 14/18 danh mục, cho thấy nhân tố này thực
sự tác động đến TSSL chứng khoán. Kết quả hồi quy r i mang dấu âm với các danh mục SW,
BW và mang dấu dương với các danh mục SR, BR. Điều này cho thấy nhóm công ty có lợi
nhuận cao mang lại lợi suất cổ phiếu cao hơn, vì tình hình lợi nhuận cũng như hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp chính là thước đo cơ bản cho thấy giá trị nội tại của công ty, từ đó dự
đoán được những ảnh hưởng lên giá cổ phiếu. Kết quả này hoàn toàn phù hợp với kết quả
nghiên cứu của Novy – Marx (2013) và Fama - French (2014). Tuy nhiên, hệ số hồi quy r i
cũng cho kết quả âm và có ý nghĩa thống kê ở nhiều danh mục khác. Điều này phản ánh hiện
tượng bất thường xảy ra ở TTCK Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu. Nhìn chung, biến lợi
nhuận (RMW) vẫn còn nhiều biến động và chưa thể đưa ra kết luận chính xác ở TTCK Việt
Nam trong giai đoạn này, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan như hiện tượng đội lái,
tâm lý NĐT, “đổi chiều” lợi nhuận đến từ các tài sản bất thường, …
TÓM TẮT
Thời gian kiểm toán ảnh hưởng trực tiếp đến công ty kiểm toán, cổ đông
của công ty niêm yết, công ty niêm yết và những người có nhu cầu sử dụng thông
tin trên BCTC thông qua chi phí kiểm toán và chất lượng cuộc kiểm toán. Đồng
thời, thời gian kiểm toán giúp đánh giá thông tin doanh nghiệp công bố trên thị
trường là minh bạch và trung thực. Bài nghiên cứu này của nhóm tác giả tập
trung vào việc kiểm định các yếu tố ảnh hưởng đến thời gian kiểm toán BCTC của
tất cả các công ty niêm yết trên hai sở giao dịch chứng khoán Hà Nội và TPHCM
– đó là quy mô, chất lượng các khoản dồn tích, tỷ suất sinh lời, tỷ lệ đòn bẩy, tính
thanh khoản, độ tuổi của công ty niêm yết, trình độ chuyên môn của kiểm toán
viên và các loại ý kiến kiểm toán ngoại trừ của kiểm toán viên. Kết quả nghiên
cứu ngoài ra cũng ủng hộ giả thuyết ban đầu rằng những doanh nghiệp có báo
cáo kiểm toán đưa ra ý kiến ngoại trừ, cụ thể là ngoại trừ về khoản phải thu, dự
phòng khoản phải thu khó đòi sẽ có thời gian kiểm toán dài hơn.
Từ khóa: Thời gian kiểm toán, chi phí kiểm toán, tính kịp thời, ý kiến ngoại trừ.
1. Giới thiệu
Với tốc độ kinh tế phát triển ngày càng nhanh, hoạt động giao dịch kinh tế theo đó cũng
đa dạng và phức tạp hơn trước. Điều này khiến cho thông tin trên BCTC cũng có khả năng
kém tin cậy dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho người sử dụng thông tin khi quyết định đầu tư
vào một cổ phiếu, nhất là các nhà đầu tư cá nhân - những người có ít thông tin về doanh
nghiệp nhất. Vì vậy, không chỉ chất lượng kiểm toán BCTC mà thời gian kiểm toán viên ký
báo cáo kiểm toán đều có vai trò quan trọng đảm bảo sự minh bạch và công bằng cho nền
kinh tế. Thời gian kiểm toán có thể phản ánh tương đối mức độ rủi ro của doanh nghiệp. Nếu
kiểm toán viên đánh giá rủi ro có sai sót trọng yếu của khách hàng là lớn, cuộc kiểm toán sẽ
có thể cần nhiều thời gian hơn để thu thập các bằng chứng xác đáng trước khi đưa ra ý kiến
(Mai, 2018). BCTC của doanh nghiệp xảy ra những vấn đề phức tạp, kiểm toán viên và doanh
nghiệp sẽ phải tốn nhiều thời gian tranh luận để thống nhất ý kiến và tìm ra hướng giải quyết.
Đối với những người sử dụng BCTC để ra quyết định đầu tư, thời gian kiểm toán dài bất
thường có thể là tín hiệu tiêu cực cho thấy mức độ nghiêm trọng của vấn đề doanh nghiệp
đang mắc phải. Theo Blankey và cộng sự (2014), thời gian kiểm toán càng dài thì thường khả
năng chỉnh sửa BCTC của năm đó càng lớn.
Không chỉ đối với các nhà đầu tư, thời gian kiểm toán còn đóng vai trò quyết định đến
tính hiệu quả, hiệu năng của cuộc kiểm toán BCTC của kiểm toán độc lập. Cụ thể, thời gian
kiểm toán được các công ty kiểm toán chú trọng vì có liên quan trực tiếp tới chất lượng và chi
phí của cuộc kiểm toán. Do đó, những yếu tố liên quan đến việc cắt giảm chi phí trực tiếp để
thực hiện cuộc kiểm toán, trong đó có thời gian kiểm toán là vấn đề được nhiều hãng kiểm
toán chú trọng nhằm tạo lợi thế cạnh tranh. Thời gian kiểm toán cũng được dùng để đánh giá
chất lượng cuộc kiểm toán. Cụ thể, việc sắp xếp, lên kế hoạch cho số giờ thực hiện một cuộc
kiểm toán có ảnh hưởng đến khối lượng và phạm vi công việc mà các kiểm toán viên thực
hiện. Thời gian kiểm toán phải đảm bảo các thủ tục theo hướng dẫn của chuẩn mực kiểm toán
đã được thực hiện đầy đủ bởi kiểm toán viên, từ đó có thể gây ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng của cuộc kiểm toán.
Với:
ACCAt là tổng các khoản dồn tích
Net_op_profitt là lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh
Cash_opt là dòng tiền từ hoạt động kinh doanh
Assett-1 là tổng tài sản đầu kỳ
Ở đây, tổng các khoản dồn tích ACCAt được chia cho tổng tài sản đầu kỳ Asset t-1 để loại
bỏ ảnh hưởng về quy mô của doanh nghiệp.
Thực tế, đã có rất nhiều các mô hình được sử dụng để tính các khoản dồn tích bẩm sinh
và các khoản dồn tích tùy nghi, bao gồm mô hình phổ biến nhất là mô hình của Jones (1991),
mô hình Modified Jones được thực hiện bởi Dechow và cộng sự (1995) và mô hình kết hợp
Bảng 4.3: Kết quả hồi quy sử dụng OLS Fixed Effect - Robust
Mô hình (1) (2) (3)
Biến Mô hình 1 Mô hình 2 Mô hình 3
2.3.3. Mối quan hệ giữa ĐMST và NLCT quốc gia và giả thuyết H8
Nhóm tác giả nhận thấy ĐMST và NLCT thực sự có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Xét về khung cấu trúc chỉ số NLCT, đổi mới được xem là một trong các trụ cột quan trọng để
đánh giá NLCT của một quốc gia.
Giả thuyết H8: ĐMST có tác động cùng chiều đến NLCT.
2.4. Mô hình đề xuất và giả thuyết nghiên cứu
Tổng hợp tất cả những phân tích và các giả thuyết đã được đưa ra ở mục 2.3.1 và 2.3.3,
nhóm tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu như hình 2.4 dưới đây:
Hình 2. Mô hình nghiên cứu đề xuất
140
120
100
80
Xếp hạng
60
40
20
0
09 10 11 12 13 14 15 16 17 18
0 8- 09
-
10
-
11
-
12
-
13
-
14
-
15
-
16
-
17
-
20 20 20 20 20 20 20 20 20 20
Nguồn: Chỉ số NCLT toàn cầu do nhóm tác giả tự tổng hợp
Ở nhóm nước thu nhập cao, trong khoảng thời gian 2008-2017, Xin-ga-po đã có một sự
phát triển vượt bậc để từ vị trí thứ 5 lên vị trí thứ 2 toàn cầu và giữ vị trí này liên tục 6 năm
liên
tiếp nhưng đến 2017-2018 thì vị trí này bị Mỹ chiếm mất với 0,14 điểm chênh lệch. Nguyên
nhân là ở yếu tố môi trường kinh tế vĩ mô của Xin-ga-po đã xấu đi do tình trạng giảm phát
kéo dài. Quốc gia thứ hai thuộc cùng nhóm là Bru-nây, 26 là vị trí cao nhất mà Bru-nây đã đạt
được trong khoảng thời gian từ 2008-2014. Tuy nhiên, khoảng thời gian 2014-2016, Bru-nây
lại không có mặt trong bảng xếp hạng NLCT toàn cầu. Nguyên nhân có thể dự đoán là trong
khoảng thời gian này, giá dầu trên thế giới có dấu hiệu lao dốc không phanh dẫn đến việc
quốc gia này không tham gia vào khảo sát NLCT toàn cầu.
Nhóm thu nhập trung bình cao gồm Ma-lay-xia và Thái Lan có khá nhiều biến động về
vị trí trong suốt 10 năm qua. Mặc dù có thể xem Ma-lay-xia là quốc gia mạnh thứ hai ở khu
vực Đông Nam Á, nhưng NLCT của quốc gia này trên bảng xếp hạng toàn cầu lại không được
dễ dàng khi liên tục có những thay đổi lên xuống với thứ hạng cao nhất đạt được là 18 và thấp
nhất là 26. Cũng tương tự, NLCT của Thái Lan cũng thay đổi khá nhiều qua các năm khi
khoảng thời gian đầu, NCLT của nước này liên tục giảm nhưng đến khoảng năm 2015, Thái
Lan đã tăng được 6 bậc liên tiếp để chiếm vị trí 31 - cũng là vị trí cao nhất của nước này trong
bảng xếp hạng toàn cầu. Nguyên nhân của việc tụt giảm trên bảng xếp hạng ở cả hai quốc gia
đến từ những bất ổn chính trị, dẫn đến tình trạng quan ngại đầu tư từ khu vực nước ngoài.
Trong nhóm có thu nhập trung bình thấp bao gồm In-đô-nê-xia, Phi-líp-pin và Việt
Nam,
NLCT của ba quốc gia này có sự biến động khá mạnh dù nhìn chung cả 3 nước đều có xu
hướng
tăng hạng. Đây là ba quốc gia đang trên đà phát triển, các nỗ lực trong các thể chế chính phủ
120
100
Xếp hạng
80
60
40
20
24,885***
-0,035***
-0,009**
4.1 Kết quả mô hình hồi quy với các hiệu ứng cố định theo năm và ngành.
0,00933
0,0706*
0,0621*
(-3,33)
(-2,20)
(-1,02)
0,0219
0,0387
-0,166
(5,12)
(0,84)
(1,77)
(0,56)
(1,02)
NCSKEW~e DUVOL_~e EXTR_S~e ZVD ILLIQU~Y SIZE PB ROA DIV LEV AGE INTROD~N GROWTH MATURE
(1,7)
(2)
NCSKEW_fut~e 1.0000
DUVOL_future 0.8647 1.0000
EXTR_SIGMA~e 0.7258 0.5446 1.0000
-0,00945**
DUVOLt+1
ILLIQUIDITY 0.1182 0.1234 0.0720 0.8220 1.0000
25,031***
-0,035***
0,00900
0,0699*
0,0607*
SIZE -0.0510 -0.0804 -0.0405 -0.3583 -0.3299 1.0000
(-3,37)
(-2,21)
(-1,05)
0,0206
0,0377
-0,169
(5,19)
(0,81)
(1,75)
(0,52)
(1,66)
(0,99)
PB -0.0791 -0.1023 -0.0355 0.0449 0.0001 0.1530 1.0000
(1)
ROA -0.0348 -0.0373 0.0209 -0.0264 -0.1002 -0.1250 0.3652 1.0000
DIV -0.0824 -0.0855 -0.0414 0.0357 -0.0131 -0.0605 0.0900 0.1608 1.0000
LEV -0.0271 -0.0219 -0.0507 0.0064 0.0379 0.3131 -0.0731 -0.4917 -0.0837 1.0000
AGE -0.0922 -0.1233 -0.0337 -0.0949 0.0155 0.0690 -0.0584 -0.0567 0.0211 -0.1067 1.0000
INTRODUCTION 0.0115 0.0496 -0.0183 -0.0265 -0.0571 0.0726 -0.0971 -0.1711 -0.0626 0.2136 -0.0728 1.0000
-0,0401***
0,134***
-0,0094*
0,0881*
MATURE 0.0285 -0.0046 0.0509 -0.0027 0.0037 -0.0290 0.1488 0.2206 0.0712 -0.1508 0.0155 -0.3211 -0.3267 1.0000
(-2,81)
(-1,70)
(-1,15)
0,0536
-0,257
(5,24)
(1,46)
(1,51)
(1,74)
(2,93)
(1,09)
0,021
0,076
SHAKEOUT -0.0251 -0.0064 -0.0076 0.0681 0.0657 -0.1284 -0.0215 0.0264 0.0620 -0.0963 0.0498 -0.2312 -0.2353 -0.3463
(2)
DECLINE -0.0314 -0.0174 -0.0479 0.0072 0.0266 -0.0368 -0.1262 -0.1229 -0.0212 0.0196 -0.0074 -0.1689 -0.1719 -0.2530
SIGMA 0.1106 0.1310 0.0288 0.2425 0.3257 -0.2187 -0.1626 -0.2041 -0.2275 0.0941 -0.1321 0.0800 0.0063 -0.0905
RETURN -0.1119 -0.1277 -0.0373 -0.2313 -0.2908 0.1915 0.1280 0.1578 0.1954 -0.0550 0.1137 -0.0610 -0.0132 0.0675
NCSKEW 0.0350 0.0551 0.0017 0.1962 0.1579 -0.0390 -0.0418 -0.0331 -0.0518 -0.0114 -0.1096 0.0056 0.0246 -0.0269
NCSKEWt+1
DUVOL 0.0503 0.0743 0.0075 0.2271 0.1821 -0.0646 -0.0789 -0.0665 -0.0603 -0.0185 -0.1201 0.0064 0.0159 -0.0392
-0,0405***
EXTR_SIGMA 0.0000 0.0060 0.0139 0.1097 0.0749 -0.0353 0.0238 0.0223 0.0042 -0.0355 -0.0382 -0.0029 -0.0038 0.0043
32,78***
0,132***
-0,0094*
0,0864*
(-2,85)
(-1,70)
(-1,16)
0,0208
0,0524
-0,259
(5,29)
(1,45)
(1,49)
(1,71)
(2,89)
(1,07)
0,075
SHAKEOUT DECLINE SIGMA RETURN NCSKEW DUVOL EXTR_S~A
(1)
4. Kết quả nghiên cứu
SHAKEOUT 1.0000
DECLINE -0.1822 1.0000
INTRODUCTIONt
SIGMA -0.0183 0.0520 1.0000
RETURN 0.0165 -0.0306 -0.9636 1.0000
ILLIQUIDITYt
NCSKEW -0.0025 0.0061 0.3602 -0.3922 1.0000
SHAKEOUTt
GROWTHt
DUVOL -0.0021 0.0330 0.3516 -0.3784 0.8879 1.0000
MATUREt
EXTR_SIGMA 0.0216 -0.0251 0.2450 -0.2782 0.7930 0.6398 1.0000
SIZEt
ROAt
AGEt
PBt
DIVt -0,0909*** -0,0906*** -0,0714*** -0,0707***
(-2,63) (-2,60) (-2,72) (-2,67)
LEVt -0,209*** -0,213*** -0,146** -0,149**
(-2,62) (-2,67) (-2,34) (-2,39)
NCSKEWt -0,028 -0,0234
(-1,40) (-1,20)
DUVOLt -0,00353 -0,00003
(-0,16) (-0,00)
RETURNt -32,455*** -23,468**
(-2,57) (-2,47)
SIGMAt 1,766** 1,335**
(2,07) (2,06)
Year effect Có Có Có Có
Industry effect Có Có Có Có
Hằng số -0,489 -0,539 -0,159 -0,203
(-1,24) (-1,34) (-0,52) (-0,65)
Số quan sát 1558 1558 1558 1558
R-squared 0,0802 0,0792 0,0936 0,0929
Trong dấu ngoặc đơn là t-statistic
(***), (** ), (*) thể hiện các mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%
Với biến giải thích
Kết quả hồi quy cho thấy biến ILLIQUIDITYt (tỷ lệ bất thanh khoản) có ý nghĩa thống
kê ở mức 1% trong cả hai mô hình theo NCSKEWt+1 và DUVOLt+1. Hệ số hồi quy lớn hơn 0
với giá trị ở các mô hình lần lượt là (32,78; 32,721; 25,031; 24,885) thể hiện mối quan hệ
cùng chiều giữa tính bất thanh thanh khoản cổ phiếu và rủi ro trượt giá. Hệ số hồi quy của
biến ILLIQUIDITYt trong các mô hình lần lượt là (32, 78; 32, 72; 25, 031; 24,885) thể hiện
rằng gia tăng 1 đơn vị bất thanh khoản có thể là gia tăng 32 đơn vị trượt giá (NCSKEW t+1),
hoặc 25 đơn vị trượt giá (DUVOLt+1) trong tương lai. Hay nói cách khác, việc gia tăng tính
thanh khoản của cổ phiếu có thể làm giảm rủi ro trượt giá trong tương lai. Kết quả trên thống
nhất với nghiên cứu của YChauhan và cộng sự (2015) và cung cấp thêm một chứng cứ mới về
mối quan hệ thuận chiều giữa thanh khoản cổ phiếu và hiệu quả hoạt động TTCK các quốc
gia mới nổi và đang phát triển.
Với biến kiểm soát
Các biến PBt, AGEt, DIVt và LEVt đều có ý nghĩa thống kê và cho hệ số hồi quy bé hơn
0, thể hiện rằng các chỉ số trên càng gia tăng sẽ làm hạn chế rủi ro trượt giá của doanh nghiệp.
Trong đó, biến PBt, DIVt, LEVt có ý nghĩa 1% trong cả hai cách tiếp cận theo NCSKEW t+1 và
DUVOLt+1 ; biến AGEt có ý nghĩa 10% khi tiếp cận bằng NCSKEWt+1 và 5% khi tiếp cận
bằng DUVOLt+1.
Ngoại trừ hai biến PBt và RETURNt cho kết quả trái dấu với kì vọng, các biến độc lập
còn lại đều cho kết quả hồi quy cùng dấu với kì vọng.
Trong đó, biến DIVt cho dấu âm với hệ số hồi quy là -0,09, thể hiện việc gia tăng tỷ lệ
chi trả cổ tức sẽ góp phần làm giảm hiện tượng trượt giá ở năm sau. Kết quả trên thống nhất
với nghiên cứu của Kim và cộng sự (2018) tại thị trường Mỹ khi tác giả cho rằng việc gia tăng
tỷ lệ chi trả cổ tức bằng tiền mặt sẽ gia tăng cơ chế quản trị từ các cổ đông và làm giảm (1)
hành động che giấu thông tin của nhà quản trị, giảm lượng tiền nội bộ trong doanh nghiệp,
qua đó giảm (2) các hành vi đầu tư quá mức với các dự án có NPV âm, từ đó giảm hiện tượng
trượt giá ở năm sau.
Biến LEVt cho hệ số hồi quy âm với giá trị -0,209 thể hiện rằng việc gia tăng tỷ lệ nợ
trong doanh nghiệp sẽ làm giảm rủi ro trượt giá của doanh nghiệp 1 năm sau thời điểm quan
sát. Kết quả hồi quy cùng dấu với hầu hết các nghiên cứu trong đề tài (Hutton và cộng sự,
2009), từ đó, hàm ý rằng các doanh nghiệp sẵn sàng phát hành nợ và có tỷ lệ nợ cao trên thị
trường Việt Nam thường là những doanh nghiệp có tình hình hoạt động ổn định và rủi ro về
giá thấp hơn. Bên cạnh đó, việc phát hành thêm nợ cũng góp phần gia tăng cơ chế quản trị từ
bên ngoài của các chủ nợ, giảm bất cân xứng thông tin và giảm rủi ro trượt giá. Một cách lý
giải khác, các công ty có tỷ lệ nợ cao (vốn chủ sở hữu thấp) thường ít phụ thuộc vào thị
P( y =1)
Trong đó, Odds=
P( y =0)
3.2 Giải thích các biến trong mô hình
3.2.1. Biến phụ thuộc – kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp
Chỉ số về KQTC của công ty được đo lường bởi biến giả có hai giá trị 0 và 1. Biến giả
bằng 1 nếu công ty bị KQTC và bằng 0 nếu công ty không KQTC. Trong phạm vi bài viết
này, KQTC được tác giả đo lường dựa trên các công ty bị hủy niêm yết vì tình hình hoạt động
kinh doanh yếu kém vi phạm quy chế niêm yết của Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ
Chí Minh. Cụ thể, các công ty bị KQTC là các công ty có kết quả sản xuất, kinh doanh bị thua
lỗ liên tục trong 3 năm hoặc các công ty có tổng số lỗ lũy kế vượt quá số vốn điều lệ thực góp
trong báo cáo tài chính kiểm toán năm gần nhất trước thời điểm xem xét.
3.2.2 Biến độc lập
Biến quy mô doanh nghiệp
Quy mô doanh nghiệp thể hiện tình hình hoạt động kinh doanh cũng như sức mạnh tài
chính của doanh nghiệp. Theo nghiên cứu của Bradley, Jarrell, & Kim, (1984) trên thị trường
Mỹ cho thấy KQTC là khác nhau đối với mỗi doanh nghiệp khác nhau vì KQTC chủ yếu phụ
thuộc vào tổng tài sản của doanh nghiệp. Vì vậy, trong bài viết này, quy mô doanh nghiệp
được đo lường bằng logarithm tự nhiên của tổng tài sản. Quy mô doanh nghiệp càng lớn thì
doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh với đối thủ cùng ngành cũng như tình hình tài chính
TÓM TẮT
Theo Bộ Thông tin và truyền thông, tháng 01/2018 số lượng người Việt
Nam sử dụng Internet chiếm khoảng 66.66% dân số và sẽ còn tăng thêm trong
thời gian tới. Điều này chứng tỏ Internet hiện nay là một công cụ phổ biến và
quan trọng trong đời sống của con người Việt Nam. Ngoài ra, nhiều chuyên gia
đánh giá Việt Nam là một thị trường cực kỳ quan trọng và tiềm năng trên toàn
cầu, là cửa ngõ chinh phục thị trường Đông Nam Á của nhiều hãng sản xuất lớn.
Có 48% người dùng tìm kiếm thông tin sản phẩm trước khi mua thông qua
Internet (We Are Social Singapore, 2018). Chính vì vậy, việc xây dựng trang web
của doanh nghiệp là hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp, phục vụ cho mục
đích giới thiệu và quảng bá sản phẩm của họ để thu hút tối đa lượng khách hàng
Việt Nam. Thông qua đánh giá tác động của các yếu tố văn hóa trên trang web
của các doanh nghiệp nước ngoài, trong ngành hàng đáp ứng nhu cầu thiết yếu,
bài nghiên cứu mang đến một bài học về thành công trong chiến lược hội nhập,
chiếm lĩnh thị trường Việt Nam của các doanh nghiệp đó, từ đó, doanh nghiệp
trong nước có thể tìm cho mình những chiến lược hợp lý nhằm cạnh tranh thị
phần và mở rộng trong tương lai.
Từ khóa: trang web, hội nhập, doanh nghiệp nước ngoài, Internet.
1.Tổng quan về đề tài nghiên cứu
1.1.Tính cấp thiết
Theo Bộ Thông tin và truyền thông, hiện có khoảng 64 triệu người Việt Nam đang sử
dụng Internet chiếm khoảng 66.66% tổng dân số trong khi đó số liệu báo cáo từ tổ chức We
Are Social Singapore về mức độ sử dụng Internet tại Việt Nam, thị trường thương mại điện tử
tại Việt Nam vẫn còn khá non trẻ với rất nhiều tiềm năng có thể phát triển trong tương lai.
Theo Fletcher (2016), trang web là một phương tiện toàn cầu khi nó có thể được sử
dụng xuyên quốc gia, mà trong đó, cần có sự cân bằng giữa khía cạnh tiêu chuẩn hóa và địa
phương hóa các nội dung, tính chất được thể hiện trên trang web, và cả hai khía cạnh này đều
nằm trong chiến lược thâm nhập thị trường thế giới hay chiến lược địa phương hóa toàn cầu
của các doanh nghiệp (Fletcher, 2006; Maynard & Tian, 2004; Tixier, 2005).
Nhóm tác giả nhận thấy rằng việc nghiên cứu chiến lược hội nhập của doanh nghiệp
quốc tế hoạt động tại Việt Nam là việc làm rất quan trọng và cấp thiết vì nghiên cứu không
chỉ mang đến cái nhìn khái quát về phương thức thâm nhập thị trường thông qua website của
các doanh nghiệp mà còn là các bài học thành công về chiến lược hội nhập trong thị trường
Việt Nam.
1.2.Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1.Tổng quan tình hình trong nước
Tại Việt Nam, việc nghiên cứu chiến lược hội nhập thông qua thích ứng văn hoá của các
doanh nghiệp nước ngoài chưa có tiền lệ. Hiện tại chỉ có một số ít đề tài được thực hiện trong
phạm vi nghiên cứu tác động của văn hoá đến hoạt động của doanh nghiệp.
Đề tài “Ảnh hưởng của văn hoá Việt Nam (cấp độ cá nhân) đến hoạt động của doanh
nghiệp nước ngoài tại Việt Nam” năm 2014 của nhóm sinh viên trường Đại học Kinh tế Tp.
HCM được thực hiện dưới hình thức một bài tiểu luận. Đề tài này đơn thuần nêu lên các chiều
Văn hoá giàu High 2 Cách tiếp cận bán hàng nhẹ nhàng Singh và Pereira (2005)
ngữ cảnh
(HIGH) High 3 Tính thẩm mỹ
Dịch vụ 28 38,36% 2 15 0 11
Hàng hóa tiêu dùng
30 41,10% 0 16 7 7
nhanh
Hàng hóa lâu bền 15 20,55% 0 12 1 2
Tổng cộng 2 43 8 20
Tổng tỉ trọng 2,74% 58,90% 10,96% 27,40%
Nguồn: nhóm tác giả tổng hợp.
4.4.Kiểm định tính đồng nhất của ma trận hiệp phương sai
Bảng 5. Kết quả kiểm định tính đồng nhất của ma trận hiệp phương sai
Box’s M 37,682
F 1,002
df1 30,000
df2 1.466,027
Sig. 0,464
Địa
phương 3.94 3.64 4.11 0.010
hóa
0.098 0.912 0.095 0.083
Toàn cầu
2.43 2.73 1.84 0.003
hóa
Chủ
nghĩa tập 2.15 2.01 2.58 0.041
thể
Lo ngại
2.77 3.19 3.48 0.001
rủi ro
Sự nam
2.40 3.04 3.07 0.003
tính
Giàu ngữ
2.66 3.06 3.12 0.026
cảnh
Bảng 8. Kết quả kiểm tra sự tương quan giữa các biến
Tổng bình
Biến phụ Trung bình
phương loại df Kiểm định F Sig. Kết quả
Nguồn thuộc bình phương
III
ABSTRACT:
In the era of globalization, firm productivity has become a crucial factor
determining profitability, competitiveness and the growth of a firm. Thus, the
mission to improve labour productivity has been one of the topics of interest
among economist around the world. This paper is to investigate the determinants
of labour productivity at the firm-level in Vietnamese’ manufacturing SMEs. The
analysis is basd on descriptive statistics and panel data regression models with a
sample of 2,763 firms from 10 provinces in Vietnam in the period of 2011 – 2015.
The results reveals that labour productitivy has positive correlation with capital
intensity, innovation, wage, exporting status, share of professional labour,
international standard certification owning, governmental support and firm
location. On the other hand, firm size and firm age has statiscally negative impact
on labour productivity. Interestingly, training does not influence the labour
productivity of Vietnamese SMEs. Finally, recommendations are implicated to
stakeholders to develop suitable policies and strategies to increase labour
productivity of Vietnamese manufacturing SMEs.
Keywords: determinants, labour productivity, Vietnam, manufacturing firms,
SMEs
1.Introduction
In the context of international integration and fierce competition, labour productivity is
a key indicator of the labour market, reflecting sustainable economic growth, competitiveness
and efficiency in employment of every country. At firm level, labour productivity is a key
factor determining the competitiveness and long-term survival of an enterprise. Higher
productivity producers are more likely to survive than their less efficient industry competitors.
SMEs in Vietnam is considered as a significant element assisting the great growth of the
economy, contributing. 45% of GDP, 31% of total state budget revenue and attracts more than
5 millions labourers. Vietnamese economy witnessed a significant rise in the number of
SMEs from 174,000 enterprises in 2012 to 507,860 enprises in 2017.
However, SMEs have low competitiveness, production and business efficiency is not
high. There are many difficulties and potential risks due to many reasons. Therefore, the
Ministry of Planning and Investment's Small and Medium Enterprise Support Plan for 2016 -
2016 stated that: Overview from 2011 - 2015, SMEs' production and business performance,
has not yet grown clearly amd remarkably, negatively affecting the competitiveness of
enterprises and the whole economy. The gap in labour productivity by enterprises size is still
relatively large, averaging over 10%.
From those above, at this time, improving productivity is even more important to the
quality of life and ensuring a better society, strenthening the country economy. Therefore, it is
important for the enterprises to continuously boost development and improve the efficiency of
production activities through clear strategies with support from organization and competent
authorities. Additionally, it is neccesary for government to introduce advanced support
programs to help enterprise increase their labour productivity, especially the SMEs sector.
In order to provide timely and appropriate policies and supports, it is significant to
understand the current situation and the underlying causes of low productivity in Vietnam
SMEs. Thus, the author conduct the study “Factors affecting labour productivity in
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 177
Vietnamese manufacturing SMEs” with the aim to finding the key drivers for this economic
indicators and suggesting recommendations to improve it.
2.Literature review
From the analysis of Vietnamese SMEs and premise research explained in the previous
chapter on determinants of labour productivity at firm-level, the author has summarized and
evaluated the outcomes of empirical research models of Papadogonas (2005), Goedhuys
(2006), Niringiye (2010), Firouz (2010), Ngombo (2015), Ngoc (2017), Long (2017), Calza
(2017) and Cong (2017). From the table and due to the limitation of time, the author
determine to obtain 6 main factors of value-added based labour productivity in Vietnamese
manufacturing SMEs: Capital intensity, Firm size by total labour, Innovative technology,
Wage, Exporting Status and Professional workers and 5 control variables obtained from
previous empirical researches including Internation Standard Certification Possession, Firm
age, Training, Governmental support, Location.
2.1.Capital intensity
Capital intensity is the amount of fixed or physical capital present in relation to other
factors of production, especially labor. Productivity has conventionally focused on labor
productivity and considered capital intensity as one of the drivers of the difference in labor
productivity (Axel Borsch-Supan, 1998). Productivity per worker has become a decisive
indicator for the firm performance as they need to gain a return on their assets and equipment,
as well as on their operating costs (Porter, 1985). To clarify this, Hayes and Wheelwright
(1984) stated that it is crucial for firms to obtain higher productivity as it forces newcomers to
the industry to make major investments in facilities, equipment or others such as plan or
building.
The major investments firms of this nature make require exploiting economies of scale.
According to Datta et al (2005), high capital-intensive firms tend to focus on exploiting their
investments, which can lead to a bigger concern for costs and efficiency, whereby they are
more liable to improve their labour productivity. As per Papadogonas (2005), capital intensity
is the most signficiant factor of labour productivity. Moreover, it is suggested in growth
models that support the view that greater capital accumulation leads to greater variety of
capital goods and thus greater capital quality (Romer, 1994).
H1: Cetaris paribus, the higher the capital intensity records the higher a firm’s labour
productivity
2.2.Firm size by employment
Firm size in this thesis is based on employee size, which is compliance with Decree No.
39/2018/NNĐCP. SMEs pay much attention to obtaining economies of scale through capital
acquisition, specially technology and equipment. This trend helps firms to increase the
quantity of output with expected growth rate. Support the idea that bigger firm size increases
firm labour productivity, Niringiye (2010) and Cong (2017) shows the evidence that there
exists a positive relationship between firm size measured by total employment and firm labour
productivity at the significant level of 10%. However, according to the law of diminishing
marginal productivity, as more of the variable factor such as labour is added to the fixed
factor, output tends to increase at a decreasing rate (Nicholson, 1998). What could have been
expected is that as more labour is hired, output growth should equally rise. This could be true
up to a certain maximum level of output though, of which beyond this point, output tends to
decline as more labour is hired. However, with the available dataset of Vietnamese SMEs, the
author supposes that with this size, those firms still can obtain the economies of scale, thus,
proposing testing hypothesis as follows:
H2: Cetaris paribus, firm size by employment is positively correlated with labour
productivity.
2.3.Innovation
Spurred by endogenous growth theories (Romer 1994), technological innovation
outputs and innovation activities have been lying at the core of the empirical literature
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 178
investigating the drivers of productivity at the micro level. According to Greenhalgh and
Rogers (2010), innovation can be defined as the application of new ideas to the products,
processes, or other aspects of the activities of a firm, such as management and marketing
systems, that lead to increased value added for the firm and also benefits to consumers or
other firms. By introducing new products, adopting new technologies, and reorganizing firms
remain competitive; by investing in research, patenting and licensing they stay at the cutting
edge of technologies (Baumol, 2002). Griffith et al (2006) found that product innovation was
associated with higher productivity. Similarly, Masso and Vahter (2008) suggested that firms,
who have more resources to invest in innovative activities and a higher ability to undertake
R&D will get the improvement in productivity.
H3: Cetaris paribus, firm performing innovation in production process or technology
have higher labour productivity than non-innovative firms.
2.4.Wage
Based on models of wage-efficiency, the wage rate above the market clearing level will
increase labour productivity. Various reasons for this phenomenon is presented that can be
divided in the form of two models: Incentives-driven model and gift exchange model.
Shirking model or incentives-driven model states that as wage level increases, labour force
will be more motivated to keep their jobs and thus put efforts on increasing level of their
productivity to avoid being sacked (Lööf and Heshmati, 2002). Gift exchange model assumes
that high wages modify the relationship between employer and employee. An employee will
be more attached to employer and try to increase his own productivity (Mühlau and
Lindenberg, 2003). A number of empirical studies confirm the validity of wage-efficiency
phenomenon including reseaches by Huang et at (1998) , Mühlau and Lindenberg (2003).
Ahmad Afrooz et al (2010) observed that there exists a positive relationship between
productivity and real wages.
H4: Cetaris paribus, firm paying higher labour cost per employee has higher labour
productivity than others paying less labour cost per employee.
2.5.Exporting status
The learning-by-exporting hypothesis stipulates that firms increase their productivity as
a consequence of exporting. Accordingly the productivity-increasing effect of a firm’s
international activity is a consequence of increased competition stemming from the larger
international market and knowledge and expertise related to the foreign market, which non-
exporters do not possess. The evidence for this positive and significant effect of being an
exporter on labour productivity so far is mentioned in: Bernard and Jensen (1995), conducted
his study for Mexico; Clerides et al (1998) got the same result for Morocco. As well as studies
of Liu et al. (1999), Aw and Hwang (1995), and the study of Van Biesebroeck (2003) for nine
African countries, confirm this idea.
H5: Cetaris paribus, firms being exporters obtain higher labour productivity than firms
being non-exporters.
2.6.Professional workers
Higher level educated workers are supposed to be more efficient in working with
production resources. To Welch (1970), this is a result of the worker effect indicated as
positive marginal productivity of education regarding a particular good. Resulting from the
allocative effect, an increase in the relative proportions of intermediate and highly-skilled
workforce is expected to lead to a higher productivity level. Nelson and Phelps (1966) state
that because educated people tend make good innovators, thus, education speeds the process
of technological diffusion. A study of Corvers (1996) show that both intermediate and highly-
skilled labour is positively correlated with the sectoral labour productivity level. Findings in
the research using firm-level data of Black and Lynch (1996) and Niringiye et al (2010) show
that the level of education has a positive and significant effect on productivity.
H6: Cetaris paribus, firms with higher share of professional labours in total labour
obtain higher labour productivity
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 179
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 180
2.7 Control factors
International standard certification The internal advantage linked with international
quality management system standards ultimately reflect into higher productivity levels. The
literature, however, recognizes that, in parallel with improving managerial and operational
practices, the adherence to management standards may also promote positive changes in other
domains, potentially leading to productivity increases: human resources management and
technological innovation. Evidence has also been found that firms adhering to standards are
more likely to provide better work conditions for their labour force, experiencing positive
effects on the employees (Levine and Toffel 2010; Trifković 2015). Standards may also
positively contribute to the innovation performance of firms (Manders 2016; Pekovic and
Galia 2009; Ratnasingam et al. 2013; Sadikoglu and Zehir 2010), and consequently the labour
productivity.
Training In line with human capital theory, one of the most common way to increase the
professional and skillful level of workers is training. This prevents human capital depreciation
and warrants an effective use of new technologies imbedded in new equipment (Acemoglu
and Zilibotti, 2001). For instance, a number of studies find that a skilled workforce tends to
promote innovation, which, in turn, raises productivity (Sondermann, 2012). Recent
researches share the same viewpoint of this positive relationship between training and labour
productivity such as ones of Bartel (1987), Almeida and Carneiro (2008), Niringiye et al
(2010), that their results indicate firm trainings have positive and significant effect on firm
productivity.
Governmental support. For the government, increased productivity results in higher tax
revenues. Thus, helping firms to increase their labour productivity is also one of the main
targets of government. Specifically, at firm level, governmental assistance is the main driver
of innovation thus indirectly and directly affects the labour productivity growth. There is an
important role for government in building human capital and supporting R&D where the
knowledge will be made generally available (Australian Productivity Commission, 2000). In
the research of Cong (2017), the positive relationship of governmental support and firm
labour productivity in Vietnam is also mentioned.
Firm age Bradford Jensen, McGuckin and Stiroh (2001) find that new cohorts enter
with productivity levels lower than that of incumbents, although new entrants exhibit higher
productivity levels than earlier entrants did. At the same time surviving cohorts show
increases in productivity levels over time. Taken together this leads to a convergence in
productivity levels between different age cohorts. Similarly, Taymaz (2002) argues that new
firms become aware of their actual productivity after observing their performance in the
industry. New firms, which survive, experience higher productivity growth rates than existing
firms. Taymaz (2002) and Huergo and Jaumandreu (2004) also finds that productivity growth
rates are negatively correlated with age and size of firms.
Firm Location This viewpoint is based on the rationale that firm in urban area is easy to
approach suppliers, infrastructure, information and communication technology. Regarding
this relation, Nagler and Naudé (2014) measured labour productivity in rural African
enterprises and found that rural enterprises were on average less productive than those in
urban areas. In researches of Long (2017) and Cong (2017), firms in big cities or urban area
tend to have higher labour productivity than other area.
Figure 1. Conceptual framework of determinants of Vietnamese manufacturing firms’
labour productivtiy
Capital
intensity
REFERENCES
[1] Ahmad Afrooz, Khalid. A. R., Chin L., Zaleha M. N., 2010. Human Capital and Labor
Productivity in Food Industries of Iran.
[2] Almeida R., Carneiro R., 2008. The Return to firm Investments in Human Capital.
[3] Aw, Bee Yan, Amy R. Hwang, 1995. Productivity and the export market: A firm-level
analysis,’ Journal of Development Economics.
[4] Gupta B., 1975. Labour Incentive in India of Iron and Steel Industry Research
Abstract Quarterly, 171-176.
TÓM TẮT
Nhóm nghiên cứu đã tiến hành kiểm hình mối tương quan giữa thông báo
điều chỉnh mức cổ tức bằng tiền mặt hiện tại và sự thay đổi lợi nhuận trong trong
tương lai của các doanh nghiệp niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán thành
phố Hồ Chí Minh (HOSE) trong giai đoạn năm 2008 đến 2018 dựa trên lý thuyết
phát tín hiệu cổ tức. Nhóm nghiên cứu đưa ra bằng chứng bác bỏ lý thuyết phát
tín hiệu cổ tức trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam. Ngoài ra, nhóm
nghiên cứu không tìm thấy bằng chứng ủng hộ cho giả định có sự phản ứng của
thị trường dựa trên thông tin về lợi nhuận tương lai mà thông báo cổ tức mang
lại.
Từ khóa: Cổ tức bằng tiền, lí thuyết phát tín hiệu của cổ tức, lợi nhuận tương lai.
1. Giới thiệu đề tài nghiên cứu
1.1. Lý do chọn đề tài
Chi trả cổ tức được coi là một hoạt động tài chính cơ bản và quan trọng của hầu hết các doanh
nghiệp trên toàn thế giới. Điều này bắt nguồn từ mục tiêu nhất quán của các công ty đều là tối đa hóa lợi
ích của các cổ đông. Do vậy, phần lợi nhuận của hoạt động kinh doanh thường sẽ được phân phối cho cổ
đông dưới dạng cổ tức, một phần được giữ lại dùng để tái đầu tư cho các dự án tương lai. Tùy vào mục
đích của nhà quản trị và tình hình cụ thể của doanh nghiệp, các hình thức chi trả cổ tức như bằng tiền
mặt, cổ tức bằng cổ phiếu hoặc mua lại cổ phiếu sẽ được cân nhắc sử dụng. Tuy nhiên, cổ tức bằng tiền
mặt vẫn là hình thức được ưa chuộng và sử dụng rộng rãi bởi hầu hết các doanh nghiệp trên thế giới.
Trong thực tế, nghiên cứu ảnh hưởng của cổ tức bằng tiền đã trở thành đề tài kinh điển của các nhà
nghiên cứu ở khắp các thị trường tài chính.
Ở Việt Nam, thị trường chứng khoán bắt đầu hình thành từ những năm 2000 và có những bước
phát triển rất nhanh chóng trong khoản thời gian gần đây, cả về quy mô và thanh khoản thị trường. Các
nhà đầu tư cũng đã tích lũy cho mình nhiều kinh nghiệm và nhạy cảm hơn với các thông tin được công
bố trên các phương tiện truyền thông, nhiều trong số đó là các thông tin về chi trả cổ tức. Dẫn đến các
nhà quản trị doanh nghiệp cũng chú ý hơn trong việc sử dụng cổ tức như một công cụ đưa tín hiệu đến
thị trường. Đã có những nghiên cứu của các tác giả Việt Nam đánh giá tác động của cổ tức đến giá cổ
phiếu hay giá trị doanh nghiệp được tiến hành trong những năm gần đây. Tuy nhiên, vẫn chưa có nhiều
nghiên cứu được thực hiện liên quan đến khía cạnh lợi nhuận tương lai của doanh nghiệp – một nội dung
mà nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới cho rằng rất quan trọng khi quyết định đầu tư vào một công ty.
Chính vì vậy, việc tìm hiểu liệu thông tin chi trả cổ tức, cụ thể là kiểm định liệu mức chi trả cổ tức bằng
tiền có dự báo được lợi nhuận tương lai của doanh nghiệp hay không là một vấn đề tương đối mới và
cần thiết được đặt ra trong thời điểm hiện nay.
1.2. Tổng quan nghiên cứu
1.2.1. Nghiên cứu nước ngoài
Lintner (1956) là người đầu tiên nghiên cứu cách thức các nhà quản trị quyết định chi trả cổ tức.
Nghiên cứu cho thấy rằng các nhà quản trị mong muốn có mức chi trả cổ tức ổn định. Còn Miller và
Modigliani (1961) cho rằng nguyên nhân của việc chi trả cổ tức là bởi vì nó mang thông tin về dòng tiền
trong tương lai. Bhattacharya (1979) khẳng định rằng chi phí giao dịch phát sinh từ việc trả cổ tức là chi
phí sử dụng cổ tức làm tín hiệu. Các nghiên cứu của Brickley (1983), John và Williams (1985), Miller
và Rock (1985), Bernheim (1991), Healy và Palepu (1988), Aharony and Dotan (1994), Fama và French
(2001), Nissim và Ziv (2001), Arnott and Asness (2003) cũng lần lượt đưa ra những bằng chứng ủng hộ
mối quan hệ đồng biến giữa điều chỉnh cổ tức và lợi nhuận tương lai của doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng
3,980,686.0 6,507,513.0
Tổng tài sản (triệu VNĐ) 854 18,100,000.00 186,421.10 1,097,928.00
0 0
6,194,018.0 8,805,461.0
Tổng tài sản (triệu VNĐ) 385 24,500,000.00 212,397.40 1,100,662.00
0 0
% Thay đổi cổ Giá trị trả cổ tức trung bình %Thay đổi cổ Giá trị trả cổ tức trung bình
Năm Năm
tức (VNĐ) tức (VNĐ)
4.2.2.2 Sự kiện thay đổi cổ tức bằng tiền dẫn đến mức lợi nhuận tích lũy bất thường có ý nghĩa kinh
tế
Các sự kiện có ý nghĩa kinh tế được dùng để kiểm định giả thuyết H2 sẽ được lọc theo 2 tiêu chí
sau:
Các sự kiện thay đổi cổ tức phải có mức thay đổi lớn hơn hoặc bằng 5%.
Các sự kiện thay đổi cổ tức dẫn đến mức lợi suất bất thường tích lũy lớn hơn hoặc bằng 1%.
Với mẫu quan sát còn lại, nhóm tiến hành chạy hồi quy kiểm định giả thuyết H2 theo mô hình
tương tự như giả thuyết H1. Kết quả hồi quy kiểm định H2 được trình bày ở bảng sau:
Bảng 11. Kết quả hồi quy H2
EARNING T = β 0 + β 1 P DIV_INC+ β 1 N DIV_DEC + β2 ROET −1 + β 3 EARNING 0 + ε T
Năm β0 β1P β1N β2 β3
Trung bình 0.0380*** -0.00151 -0.0404** -0.208** 0.233*
T=1
T-statistic 2.71 -1.27 -2.29 -2.47 1.7
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 201
Trung bình 0.0381*** -0.0141** 0.000629 -0.102 -0.124*
T=2
T-statistic 3.25 -2.08 0.04 -1.42 -1.67
Nguồn: Stata 13.0
Với T=1, DIV_INC và DIV_DEC đều mang giá trị âm, với DIV_DEC mang ý nghĩa thống kê ở
mức ý nghĩa 5%, chỉ ra sự tăng trưởng lợi nhuận ngay trong năm kế tiếp cho các công ty giảm mức chi
trả cổ tức. Nếu các nhà quản lý doanh nghiệp dự phóng một bức tranh hoạt động không mấy khả quan
trong tương lai, trong nhiều trường hợp họ sẽ dùng phương pháp gột rửa báo cáo tài chính (big bath)
bằng nhiều cách như lập các khoản dự phòng cho dòng tiền ra trong tương lai, giảm các khoản khấu hao
trong tương lai bằng cách giảm giá (write off) tài sản,... làm sụt giảm lợi nhuận của năm xảy ra sự kiện
giảm cổ tức, và tạo đà tăng cho lợi nhuận trong tương lai, giải thích cho giá trị âm của biến độc lập
DIV_DEC.
Trong khi đó, với T=2, 2 biến độc lập này lại cho kết quả trái ngược, với DIV_DEC mang giá trị
dương nhưng không có ý nghĩa thống kê và DIV_INC có giá trị âm, ý nghĩa ở mức 5%, thể hiện sự sụt
giảm lợi nhuận 2 năm sau khi doanh nghiệp tăng cổ tức. ROET-1 vẫn mang đúng giá trị kỳ vọng cho cả
T=1 và T=2, có ý nghĩa 5% ở T=1. Kết quả hồi quy trên tương đồng với nghiên cứu trước đây của
Sebastien (2013), vì dù các hệ số tương quan của Sebastien (2013) ủng hộ lý thuyết phát tín hiệu của cổ
tức, phép kiểm định t-test cho các hệ số trên cho kết quả không có ý nghĩa thống kê. Vì vậy, kết quả hồi
quy của nhóm tác giả không cung cấp đủ cơ sở để chấp nhận giả thuyết sau đây:
H2: “Những sự kiện thay đổi cổ tức bằng tiền dẫn đến mức lợi suất bất thường lũy kế có ý
nghĩa kinh tế sẽ có mối quan hệ đồng biến với sự thay đổi lợi nhuận trong tương lai”.
Tuy kết quả hồi quy kiểm định H2 cho kết quả có ý nghĩa thống kê về mối quan hệ nghịch biến
giữa hiện tượng giảm cổ tức và lợi nhuận 1 năm liền sau đó, cũng như mối quan hệ nghịch biến giữa
hiện tượng tăng cổ tức và lợi nhuận 2 năm tiếp theo, nhóm tác giả vẫn không đủ bằng chứng thuyết phục
để khẳng định hay phủ định sự hiện diện của lý thuyết phát tín hiệu cổ tức ở thị trường chứng khoán Việt
Nam, nói cách khác, nhóm tác giả không đủ cơ sở để đưa ra kết luận về mối quan hệ giữa thay đổi cổ tức
bằng tiền và sự thay đổi lợi nhuận trong tương lai.
Các nghiên cứu của DeAngelo, DeAngelo và Skinner (1996), Benartzi, Michealy và Thaler
(1997), Abeyratna và Power (2002), Vieira (2007), Sebastien (2013) cũng cho kết luận tương tự khi
không tìm được bằng chứng ủng hộ lý thuyết phát tín hiệu cổ tức tại các thị trường Mỹ, Anh, Đức, Pháp
và Thổ Nhĩ Kỳ. Kết quả của nhóm tác giả, cũng như những bài nghiên cứu trên, cho thấy sự kiện thay
đổi cổ tức không có nhiều ý nghĩa trong việc báo hiệu lợi nhuận tương lai, mà có thể báo hiệu cho những
khía cạnh khác trong hoạt động của doanh nghiệp. Nghiên cứu của Lintner (1956) cho thấy sự thay đổi
cổ tức bằng tiền sẽ báo hiệu sự mức độ ổn định trong thu nhập của doanh nghiệp, thay vì báo hiệu sự
thay đổi lợi nhuận trong tương lai. Jensen (1986) và Stulz (1990) cùng chỉ ra mối quan hệ đồng biến
giữa biến động giá cổ phiếu và thay đổi cổ tức bằng tiền, vì việc tăng mức cổ tức bằng tiền sẽ ngăn
doanh nghiệp tái đầu tư vào các dự án thua lỗ. Grullon (2002) thông qua lập luận việc tăng cổ tức bằng
tiền sẽ làm giảm tính rủi ro hệ thống (systematic risk) của doanh nghiệp, cũng đã chỉ ra được mối quan
hệ đồng biến giữa biến động giá cổ phiếu và thay đổi cổ tức bằng tiền. Giả thuyết dòng tiền tự do của
Jensen (1985) chứng minh rằng việc chi trả cổ tức bằng tiền sẽ làm giảm rủi ro chủ sở hữu - người đại
diện (principal - agent problem) của doanh nghiệp. Do đó, bên cạnh lợi nhuận tương lai, những nhân tố
đã được chứng minh trên đều có khả năng tác động đến giá cổ phiếu của doanh nghiệp khi có sự kiện
thay đổi cổ tức, từ đó dẫn đến việc không thể đưa ra kết luận chính xác về lý thuyết phát tín hiệu của cổ
tức.
5. Kết luận và kiến nghị
5.1 Kết luận
Bằng cách sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau, nhóm nghiên cứu đưa ra bằng chứng
bác bỏ lý thuyết phát tín hiệu cổ tức trong bối cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam. Kết quả này khá
quan trọng, đặc biệt là khi các bài nghiên cứu tương tự đưa ra giả thuyết rằng liệu với các thị trường khác
nhau thì lý thuyết phát tín hiệu cổ tức có còn đúng đắn hay không. Ngoài ra, nhóm nghiên cứu không
tìm thấy bằng chứng ủng hộ cho giả định có sự phản ứng của thị trường dựa trên thông tin về lợi nhuận
tương lai mà thông báo cổ tức mang lại.
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 202
5.2 Kiến nghị
Đối với Nhà đầu tư
Dựa theo kết quả nghiên cứu, nhà đầu tư có thể tham khảo tín hiệu từ việc điều chỉnh tăng hoặc
giảm cổ tức trước khi đưa ra quyết định đầu tư. Tuy nhiên, nên thận trọng trong việc tiếp nhận và xử lý
các thông tin về thông báo chi trả cổ tức.
Đối với Doanh nghiệp
Cần xác định rõ: Mục đích trả cổ tức, nguồn tiền dùng để chi trả và mức chi trả
5.3 Hạn chế của đề tài và đề xuất cho các nghiên cứu tiếp theo
5.3.1 Hạn chế của đề tài
Hạn chế trong việc thu thập mẫu nghiên cứu
Sử dụng ngày GDKHQ thay cho ngày công bố ở một số doanh nghiệp do hạn chế về mặt lưu trữ thông
tin.
5.3.2 Đề xuất cho các nghiên cứu tiếp theo
Nhóm tác giả mong muốn các nghiên cứu tiếp theo sẽ tiến hành nghiên cứu trên toàn bộ thị trường
chứng khoán Việt Nam. Bên cạnh đó, đề tài được mở rộng qua cổ tức bằng cổ phiếu và hoạt động mua
lại cổ phiếu để kiểm định lý thuyết phát tín hiệu cổ tức một cách chặt chẽ hơn.
TÓM TẮT
Trong quá trình hình thành và phát triển, thị trường chứng khoán tại Việt
Nam đã phải đối mặt hàng loạt những cuộc khủng hoảng tài chính lớn như khủng
hoảng tài chính Châu Á 1997, khủng hoảng Hoa Kỳ 2007-2009,… tác động mạnh
mẽ đến xu hướng quyết định và hành vi giao dịch trên thị trường chứng khoán
của các nhà đầu tư/ Đồng thời, khi thị trường trở nên không hiệu quả với việc
thiếu đi các thông tin chính xác, kịp thời và tâm lý lo ngại rủi ro của nhà đầu tư
đối với các sự kiện khủng hoảng làm cho các quyết định giao dịch có xu hướng
dựa trên xu hướng của thị trường và các khuyết nghị của nhà đầu tư khác, còn
được gọi là hành vi đám đông. Để kiểm chứng và đo lường tác động của hành vi
đám đông trên thị trường chứng khoán Việt Nam, nhóm nghiên cứu tiến hành
định lượng hành vi đám đông theo nghiên cứu của Christie và Huang (1995) và
Chang và đồng sự (2000), thông qua nghiên cứu việc biến động của suất sinh lợi
của từ mã cổ phiếu trên sàn chứng khoán HSX đối với suất sinh lợi của thị trường
để tính toán chỉ số CSAD (the cross-sectional standard deviation of returns), kết
hợp sử dụng phương pháp hồi quy ngưỡng (threshold regression) được đề xuất
bởi Hansen (1999) để phân tích giai đoạn thị trường xảy ra khủng hoảng sẽ tác
động như thế nào đến tâm lý nhà đầu tư. Nội dung nghiên cứu này đóng góp ý
nghĩa khoa học đối với các nhà đầu tư, nhà tạo lập thị trường, các nhà quản lý
nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán và sự phát triển bền vững của Thị trường
chứng khoán Việt Nam.
Từ khóa: Hành vi đám đông, khủng hoảng tài chính, CSAD, hồi quy
ngưỡng.
1. GIỚI THIỆU Ý TƯỞNG NGHIÊN CỨU
1.1. Tính cấp thiết và tính mới của đề tài
1.1.1. Tính cấp thiết
Sau cuộc khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ năm 2007, nhiều mô hình quản trị và dự báo
rủi ro tài chính được ra đời nhằm ước tính những nguy cơ có thể xảy ra để kịp thời đưa các
biện pháp hạn chế sự đổ vỡ hệ thống toàn cầu. Đồng thời, để giải thích các hành vi cực đoan
trên thị trường dẫn đến bong bóng bất động sản vỡ và khởi đầu cho sự bùng nổ khủng hoảng
kinh tế toàn cầu, kinh tế học hành vi cũng ngày càng trở thành một lĩnh vực được quan tâm và
chú trọng.
Đối với một đất nước đang phát triển như Việt Nam, các nghiên cứu thực nghiệm cũng
như nghiên cứu tài chính hành vi được xem là một lĩnh vực còn rất mới, thiếu đi các nghiên
cứu cơ sở gây nên nhiều khó khăn cho việc đánh giá xu hướng của thị trường. Đặc biệt, đối
thị trường chứng khoán (TTCK) tại Việt Nam, là một kênh đầu tư hấp dẫn và có nhiều tiềm
năng để tăng trưởng trong tương lai, vẫn còn non trẻ khi chỉ có hơn 15 năm kinh nghiệm,
chưa thực sự ổn định cũng như còn tiềm tàng nhiều rủi ro và khuyết điểm, việc bùng phát các
sự kiện về chính trị và kinh tế, dù tốt hay xấu, điều gây hậu quả nghiêm trọng đối với TTCK.
Vì vậy, việc đòi hỏi các công cụ nhận biết và dự báo đối với các hành vi mua, bán ồ ạt không
tuân theo bất kỳ nguyên tắc nào của các đám đông trên thị trường đối với các nhà đầu tư và
các nhà chính sách là việc cấp thiết hiện nay.
1.1.2. Tính mới
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 204
Đề tài đạt được những tính mới cụ thể trong nghiên cứu như sau:
- Thứ nhất, nhóm tác giả sử dụng chỉ số CSAD (the cross-sectional standard deviation
of returns) theo phương pháp trung bình tỷ trọng của các cổ phiếu trên thị trường. Phương
pháp này được nhận định tốt hơn so với trung bình cộng khi đánh giá cụ thể hành vi đám đông
của từng cổ phiếu theo giá trị đóng góp của các cổ phiếu đó trên giá trị của thị trường và được
sự dụng rất phổ biến trong các nghiên cứu về hành vi đám đông trên thế giới, như rất ít được
xem xét đối với các nghiên cứu đám đông tại Việt Nam.
- Thứ hai, việc sử dụng mô hình Hồi quy ngưỡng (threshold regression) như một công
cụ phát hiện khủng hoảng và kiểm soát yếu tố đám đông theo hai vùng trước và sau khủng
hoảng được xem là hiệu quả hơn so với phương pháp tách dữ liệu thành các giai đoạn (Trước,
sau và trong khi khủng hoảng), vì thiếu các lý thuyết cơ sở khẳng định khoảng thời gian xảy
ra và kéo dài khủng hoảng chính xác.
- Thứ ba, nhóm tác giả đã sử dụng dữ liệu giao dịch của tất cả cổ phiếu (khoảng 389 cổ
phiếu) có trên sàn giao dịch Hồ Chí Minh (HSX) và chỉ số VN-Index từ giai đoạn Sàn giao
dịch thành lập cho đến nay. Việc sử dụng số lượng dữ liệu tổng quát và đầy đủ giúp nhóm
nghiên cứu nhận được kết quả tốt hơn, đồng thời nhận được các nhận định tổng quan về thị
trường chứng khoán Việt Nam.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Nhận định và đánh giá được thị trường chứng khoán Việt Nam xảy ra hành vi đám
đông trong quá trình đưa ra quyết định của các nhà đầu tư.
- Đánh giá sự hiệu quả của chỉ số CSAD đối với thị trường Việt Nam và kết quả của mô
hình Hồi Quy Ngưỡng đối với yếu tố khủng hoảng.
- Đưa ra các khuyến nghị, dự báo cho các nhà đầu tư phòng ngừa rủi ro và cho các nhà
làm chính sách đề ra các hướng dẫn hổ trợ thị trường trở nên hiệu quả và kịp thời hơn.
1.2.2. Câu hỏi nghiên cứu
- Thị trường chứng khoán Việt Nam có xuất hiện hành vi đám đông không?
- Các sự kiện cực đoan như khủng hoảng có gây ra hiện tượng đám đông tại Việt Nam
hay không?
- Chỉ số CSAD theo phương pháp tỷ trọng và mô hình hồi quy ngưỡng có phù hợp với
việc đánh giá hành vi đám đông trên thị trường Việt Nam hay không?
- Các khuyến nghị nào được đưa ra cho nhà đầu tư và nhà làm chính sách trước các xự
kiện cực đoan để hạn chế hành vi đám đông?
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hiện tượng đám đông của các nhà đầu tư cá nhân và các tổ chức tài chính trên thị
trường chứng khoán Việt Nam, cụ thể là sàn chứng khoán HSX thuộc Sở chứng khoán Thành
phố Hồ Chính Minh (HoSE)
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Chỉ số giá đóng cửa, khối lượng giao dịch và giá trị vốn hóa của tất cả cổ phiếu có xảy
ra giao dịch trên sàn chứng khoán HSX. Thời gian nghiên cứu từ ngày 28/07/2000 đến ngày
31/12/2018
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Thống kê mô tả (Mean, Median, Standard deviation, Kurtosis, Skewness)
- Mô hình hồi quy OLS để đánh giá sự tương quan giữa chỉ số CSAD đối với thị trường
theo dữ liệu giao dịch hàng ngày và hàng tuần.
- Mô hình hồi quy ngưỡng dung để xem xét thời điểm xảy ra hiện tượng cực đoan và
xem xét mức mức độ tương quan giữa CSAD và giá trị thị trường trong hai gia đoạn: Trước
và sau thời điểm xảy ra hiện tương cực đoan với dữ liệu giao dịch hàng tuần.
1.5. Đóng góp của đề tài
1.5.1. Đóng góp về lý luận:
CSSD ❑t =
3.2.2. Hệ số CSAD
√ ∑ ( Ri ,t −Rm , t )2
i=1
N t−1
Đều đáng chú ý ở đây là CSSD, được xem là một thước đo hoàn toàn về tính phân tán
của mặt cắt ngang có thể nắm bắt được hiện tượng đám đông, chỉ có giá trị trong giai đoạn
biến động cực lớn, không xem xét đến các tài sản bất đối xứng trong phân phối lợi nhuận và
bị ảnh hưởng đáng kể bởi các biến ngoại lệ khác. Vì vậy, Chang và đồng sự (2000) đã đề xuất
một phương pháp khác là the cross-sectional absolute deviation (CSAD), một đại diện mạnh
mẽ hơn của hành vi đám đông, bắt nguồn từ the capital asset pricing model (CAPM) được đề
xuất bởi Black (1972) dưới dạng mô hình CAPM có điều kiện, khi:
E ( Ri , t )=R f + β i E ( R m ,t −R f )
Với E ( Ri , t ) là lợi suất kỳ vọng trên tài sản vốn ở thời gian t; R f là tỷ suất lợi nhuận đối
với tài sản phi rủi ro; β i là hệ số đo lường rủi ro thị trường bất biến theo thời gian còn gọi là
“market sensitivity” của tài sản i. Khi E ( Rm , t ) =Rf + βm∗E(R m ,t −Rf ), ta có:
|E ( Ri , t ) −E ( Rmt )|=|β i−β m|∗|E ( R mt−R f )| (1)
β
Khi đó, m là rủi ro có hệ thống của danh mục có trọng số như nhau với công thức:
N
1
β m= ∑ β i
N i=1
Trong đó, N là số lượng danh mục trên thị trường xem xét. The absolute value of the
deviation (AVD) của lợi nhuận kỳ vọng chứng khoán i trong giai đoạn t được tính toán như:
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 211
AVD=|E ( Ri , t )− E ( R m ,t )| (2)
Từ (1) và (2), hệ số the arithmetic average cross-sectional absolute value of the
deviation of all individual stocks (AAVD) được tính toán như sau:
N N
1 1
AAVD= ∑ |E ( Ri ,t )−E ( R mt )|= ∑ |β i−β m|∗|E ( Rmt −Rf )|
N i=1 N i=1
Phương trình trên có thể cho thấy AAVD là một hàm dương và tuyến tính với giá trị
tuyệt đối của lợi tức thị trường khi:
N
∂ AAVD 1 0∧∂2 AAVD
= ∑ |β i−β m|> =0
∂|E ( Rmt )| N i=1 ∂ E ( R mt )2
Đối với bất cứ trường hợp xuất hiện mối quan hệ phi tuyến tính giữa AAVD và lợi
nhuận thị trường đều cho thấy sự bất hợp lý của nhà đầu tư cũng như market friction, có thể
gọi trường hợp này là irrational trading behavior. Đối với trường hợp thị trường biến động
hoặc xảy ra các hiện tượng cực đoan, mối quan hệ nghịch biến của AAVD và E ( Rmt ) cho thấy
hiệu ứng đám đông là một nhân tố tác động đồng biến phát sinh từ chiến lược giao dịch một
cách lý trí. Do đó, mối tương quan nghịch giữa AAVD và E ( Rmt ) có thể được sử dụng làm
bằng chúng về hành vi đám đông trên thị trường. Và theo Chang và đồng sự (2000), cross-
sectional absolute deviation for arithmetic average of returns ( CSA Da) là một đại diện cho
AAVD theo giả định rằng lợi nhuận thực có thể đại điện cho lợi nhuận dự kiến và đo lường
được mức độ lệch giữ lợi nhuận cổ phiếu cá nhân và xu hướng lợi nhuận của thị trường, được
tính theo công thức:
N
1
CSA Da ,t = ∑ |R i ,t −R m ,t|
N i=1
Tuy nhiên, khi tiến thành nghiên cứu, nhóm tác giả nhận thấy việc nhìn nhận thị trường
dưới dạng một danh mục tài sản gồm các cổ phiếu thì từng cổ phiếu chỉ chiếm một tỷ trọng
nhất định đối với thị trường, vì vậy yếu tố đám đông ở từng quan sát chỉ ảnh hưởng một phần
không bằng nhau (Fama và French, 1992). Khi đó, β m là rủi ro có hệ thống của danh mục có
trọng số khác nhau:
N
β m= ∑ w i β i
i =1
Hệ số the weighted average cross-sectional absolute value of the deviation of all
individual stocks (WAVD) được tính toán như sau:
N N
WAVD=∑ wi|E ( Ri ,t )−E ( R mt )|=∑ w i|β i−β m|∗|E ( R mt−R f )|
i =1 i=1
Với w i là tỷ trọng của tổng giá trị danh mục đối với thị trường tại thời điểm t. Đồng
thời, nhóm tác giả nhận thấy WAVD cũng tương tự như AAVD là một hàm dương và tuyến
tính với lợi tức thị trường:
N
∂ WAVD 0∧∂2 WAVD
=∑ wi|β i−β m|> =0
∂|E ( Rm , t )| i=1 ∂ E ( R m ,t ) 2
Phương pháp xác định phân tán mới được nhóm tác giả đưa vào kiểm tra là Cross-
Sectional Absolute Deviation for weighted average of return (CSA Dw )
N
CSA Dw ,t =∑ wi| Ri ,t −Rm , t|
i=1
3.2.3. Hàm hồi quy tuyến tính OLS của CSAD trong giai đoạn khủng hoảng
Hệ số CSAD có thể được xem là đại diện cho hiện tượng đám đông khi cho thấy được
mối quan hệ tương quan giữa sự phân tán lợi nhuận của tài sản thuộc danh mục và lợi nhuận
của thị trường. Cụ thể, nếu các nhà đầu tư đầu tư theo lý trí và ước tính giá trị theo mô hình
CAPM thì mối quan hệ giữa CSAD và Rm , t là tuyến tính và đạt giá trị dương. Nhưng điều đó
không mang ý nghĩa là xuất hiện hành vi đám đông trên thị trường mà hiện tượng này được
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 212
xác định khi các nhà đầu tư trở nên phụ thuộc và giao dịch dựa theo xu hướng chung của thị
trường thì sự phân tán sẽ giảm dần và tiến về giá trị trung bình của thị trường, dẫn đến mối
quan hệ phi tuyến tính và đạt giá trị âm giữa CSAD và lợi nhuận của thị trường được thể hiện
qua ( R¿¿ m , t)2 ¿. Do đó, một phương pháp thực nghiệm được đưa ra dựa trên mối quan hệ
bậc hai giữa CSAD và lợi nhuận của thị trường được đề xuất dưới dạng mô hình hồi quy
tuyến tính (Chang và đồng sự, 2000; Henker và đồng sự, 2006):
CSAD=α + γ 1|Rm ,t|+ γ 2 ( Rm , t )2 + ε t
Đối với thị trường hợp lý, khi không xảy ra hành vi đám đông thì sự phân tán của lợi
nhuận danh mục có mối quan hệ tương quan trực tiếp đối với lợi nhuận của thị trường (
γ 1 >0 , γ 2=0). Nhưng khi thị trường trở nên căng thẳng, biến động tăng hoặc giảm từ sự phân
tán của lợi nhuận chứng khoán có giá trị nhỏ hơn rất nhiều so với biến động lợi nhuận của thị
2
trường, từ đó hành vi đám đông trở khó xác định. Vì vậy, giá trị ( Rm ,t ) giúp cho việc nắm bắt
mối quan hệ phi tuyến giữa CASD và lợi nhuận trung bình của thị trường trở nên dể dàng
hơn, nghĩa là khi hành vi đám đông xảy ra thì hệ số γ 2 đạt giá trị âm (Economou và đồng sự,
2011). Đối với trường hợp lợi nhuận thị trường tăng, hàm bậc 2 của CSAD có thể được biểu
diễn dưới dạng phân phối:
^
độ lệch của phần dư, uớc lượng bình phương tối thiểu của ngưỡng λ=argmin S 1( λ) λ
Điều kiện để điểm ngưỡng có ý nghĩa thống kê với giả thuyết hàm (1) bác bỏ H 0 :γ 1=γ 2
để ngưỡng có thể được xác định theo nghiên cứu của Davies (1977,1987), Andrews và
Ploberger (1994) và Hansen (1999). Kiểm định tỷ lệ khả năng xảy ra của H 0 được đề xuất:
( S0−S 1 ( λ^ ) )
F=
σ^ 2
Trong bài nghiên cứu này, nhóm tác giả thuyết các ngưỡng của mô hình bị gây ra do các
sự kiện cực đoan, hàm hồi quy ngưỡng được nhóm tác giả đưa ra theo biến thời gian:
CSAD=α + γ 1|Rm ,t| I ( t ≥ λ )+ γ 2 ( Rm ,t )2 I ( t ≥ λ )
+ γ ' 1|R m ,t| I (t < λ)+γ ' 2 ( R m ,t )2 I ( t < λ )+ ε t
Chỉ số CSAD bị tác động như thế nào trước và sau thời điểm khủng hoảng xảy ra. Đồng
thời, đối với các ngưỡng được tìm thấy do sự thay đổi một cách đột ngột của tỷ suất sinh lời
của thị trường, hàm hồi quy ngưỡng được xác định dưới dạng:
CSAD=α + γ 1|Rm ,t| I ( R m ≥ λ )+ γ 2 ( Rm ,t ) 2 I ( R m ≥ λ )
+ γ ' 1|R m ,t| I ( Rm < λ)+ γ ' 2 ( Rm , t )2 I ( Rm < λ ) + ε t
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Thống kê mô tả dữ liệu
[17] NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT NHẬP KHẨU NÔNG
SẢN CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2010-2018 VÀ DỰ BÁO TỚI NĂM
2025 DỰA TRÊN MÔ HÌNH CÂN BẰNG RIÊNG SAU KHI HIỆP ĐỊNH
CPTPP CÓ HIỆU LỰC.
SV: Đào Thị Huê, Phan Văn Nhân, Nguyễn Thị Oanh
Đại học Thủy Lợi
GVHD: NGƯT.PGS.TS.Bùi Duy Phú
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Tổng quan hiệp định CPTPP
Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and
Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership - CPTPP), tên gọi khác: TPP11 là một
hiệp định về nguyên tắc thương mại giữa: Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản,
Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam (bao gồm 11 quốc gia) và hiệp
định có hiệu lực chính thức vào 1/2019.
Tác động của kinh tế của hiệp định CPTPP tới các quốc gia theo đánh giá của các tổ
chức và chuyên gia kinh tế cho biết Tất cả 11 thành viên của CPTPP sẽ nhận được nhiều lợi
ích hơn so với khi không tham gia Hiệp định. Trong các thành viên của Châu Á, Malaysia sẽ
có thể có được nhiều lợi ích nhất (bằng 2% GDP), theo sau là Việt Nam và Brunei với khoảng
1,5% GDP, tiếp nữa là New Zealand và Singapore với tỉ lệ 1%. Với các nước Mỹ Latinh,
Mexico và Chile nhận được nhiều lợi ích nhất so với các nước khác trong vùng với tỉ lệ 0,4%.
Theo báo cáo này, những hiệp định thương mại đa phương như CPTPP sẽ bổ sung động
lực cho mô hình tăng trưởng dựa trên đầu tư và xuất khẩu của Việt Nam.
Dựa trên những giả định khiêm tốn, Hiệp định CPTPP dự kiến sẽ góp phần làm tăng
thêm 1,1% GDP tính đến thời điểm 2030. Với thêm giả định tăng năng suất vừa phải, CPTPP
sẽ góp phần làm GDP tăng thêm 3,5%, ông Ousmane Dione, Giám đốc quốc gia WB tại Việt
Nam cho biết.
1.2. Tổng quan một số nghiên cứu về CPTPP
Sau khi hiệp định CPTPP được hình thành đã có một số tổ chức quốc tế thực hiện đánh
giá các tác tộng của hiệp định tới các quốc gia thành viên và tác động của nó tới nền kinh tế
toàn cầu. Cụ thể sau khi hiệp định được hình thành WB đã có những đánh giá ban đầu kỳ
vọng sự phát triển và tác động của hiệp định tới thị trường Việt Nam.
Theo báo cáo Tác động kinh tế và phân bổ thu nhập của Hiệp định Đối tác Toàn diện
và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương: Trường hợp Việt Nam do Ngân hàng thế giới thực hiện,
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 220
CPTPP sẽ bổ sung động lực cho mô hình tăng trưởng dựa trên đầu tư và xuất khẩu của Việt
Nam.
1.3. Cơ sở lý thuyết về mô hình Var
1.3.1. Mô hình Var dạng rút gọn
Khi trình bày mô hình VAR , người ta có thể trình bày về mô hình VAR dạng cấu trúc
và sau đó là mô hình VAR dạng rút gọn. Nhưng vì mục đích của chúng ta là dự báo nên có
thể sử dụng các thông tin từ kết quả ước lượng của mô hình rút gọn để thực hiện dự báo, nên
không đi sâu vào chi tiết lý thuyết trong việc trình bày mô hình dạng cấu trúc để tránh những
phức tạp không cần thiết mà chỉ trình bày mô hình dạng rút gọn phục vụ cho phân tích thực
nghiệm.
Một mô hình VAR rút gọn tổng quát có dạng sau:
y t = A1y t - 1 + ... + A py t - p + B 0x t + ... + B qx t - q + CDt + u t
, (1.1)
'
y t = ( y 1t ,..., y Kt )
trong đó là một K véc-tơ các biến nội sinh quan sát được,
'
x t = ( x 1t ,..., x Mt ) D
là một M véc-tơ các biến ngoại sinh quan sát được, t chứa các biến tất
định như các hằng số, xu thế tuyến tính, các biến giả mùa vụ cũng như các biến giả khác do
ut
người dùng định nghĩa, là quá trình nhiễu trắng K chiều vớ kỳ vọng 0 và ma trận hiệp
Trong đó
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 222
-Emm là độ co giãn riêng của cầu hàng nhập khẩu theo giá của nó . Nó chỉ ra rằng 1%
tăng lên của giá hàng hoá nhập khẩu dẫn tới Emm% suy giảm trong cầu hàng hoá đó vì vậy ta
kỳ vọng Emm<0.
-Emd là độ co giãn chéo của cầu hàng hoá nhập khẩu theo giá hàng sản xuất trong nước.
Vì hàng nhập khẩu và hàng sản xuất trong nước được giả thiết là các hàng hoá có thể thay thế
cho nhau nên nó chỉ ra rằng 1% tăng lên của giá hàng hoá sản xuất trong nước thì có thể làm
tăng Emd % trong cầu hàng hoá nhập khẩu vì vậy ta kỳ vọng Emd >0.
Phương trình (1.22) biểu thị cung của hàng hoá nhập khẩu là hoàn toàn co giãn và do đó
giá thế giới Pm’’ là bằng Pm/(1 +t).
Hệ thống phương trình của hàm cầu và hàm cung có thể đưa về dạng loga như sau:
lnQd = lna + EddlnPd + EdmlnPm (1.8)
lnQs = lnb + EslnPd (1.9)
lnQm = lnc + EmdlnPd + EmmlnPm (1.10)
lnPm = ln[Pm” (1+ t)] (1.11)
1.4.3.1. Trường hợp: Tính ảnh hưởng của thuế quan
Bước 1: Sử dụng số liệu giá và lượng, cùng với ước lượng của độ co giãn để giải các
phương trình (1.8), (1.9) và (1.10) nhằm tìm ra các hằng số chưa biết là lna, lnb và lnc.
Bước 2: Căn cứ vào phương trình (1.11) và mức giảm thuế quan để tính P’m, nghĩa là
lnPm’ = ln[Pm” (1+ t’)] (1.11’)
Bước 3: Sử dụng kết quả việc giảm thuế quan, ta giải phương trình (1.8) và (1.9) để tìm
ra giá mới của hàng hoá nội địa :
lnPd’ = (lna - lnb)/ (Es - Edd) + [Edm/(Es - Edd)]* lnPm’ (1.11”)
lnPm’ biểu thị bởi giá nhập khẩu trước (tương ứng với Pm trong H1) trừ đi sự thay đổi
trong giá mới sinh ra bởi việc loại bỏ thuế quan (tương ứng với sự khác nhau giữa Pm - Pm’).
Bước 4: Sử dụng kết quả Pm’ và Pd’ tính được từ (1.11’) và (1.11”) thay vào các
phương trình(1.23) và (1.25) để tính Qd’,Qs’, Qm’
lnQd’ = lna + EddlnPd’ + EdmlnPm’ (1.12)
lnQm’ = lnc + EmdlnPd’ + EmmlnPm’ (1.13)
Bước 5: Sử dụng kết quả tính được của Pm’, Pd’, Qd’, Qs’, Qm’ để tính ảnh hưởng
phúc lợi của thuế quan
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM VÀ THỰC TRẠNG
XUẤT NHẬP KHẨU NÔNG SẢN GIAI ĐOẠN 2010 – 2018
2.1. Tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 2010 – 2018
Giai đoạn 2010-2015 nền kinh tế Việt Nam đối mặt với những khó khăn lớn tác động từ
cả trong và ngoài nước. Sự suy thoái kinh tế toàn cầu có tác động không nhỏ tới nền kinh tế
còn đang phát triển nhỏ bé như Việt Nam. Những biến động đó làm cho tăng trưởng giai đoạn
2010-2015 của chúng ta bình quân đạt 5.91% không đạt như kế hoạch đề ra 6.5-7%. Trong
khi giai đoạn 2006-2010 đạt 6.32% như vậy tăng trưởng giai đoạn 2010-2015 là âm và giảm
0.41% so với giai đoạn trước. Nền kinh tế Việt Nam biến động cùng với kinh tế thế giới do dư
âm của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008.
Đơn vị: %
4
3
2
1
0
2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
GDP
Nguồn: Tổng cục thống kê
Biểu đồ 2.1 Tăng trưởng GDP từ năm 2005-2018
Năm 2010 nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi tăng lên 6.78% vượt 0.28% kế hoạch đề ra
của chính phủ là 6.5% trong bối cảnh bấp bênh của nền kinh tế toàn cầu thời kỳ hậu khủng
hoảng. Nguyên nhân một phần là do các đối tác trên thị trường của Việt Nam đã bước ra khỏi
thời kỳ khủng hoảng mặc dù đang trong thời kỳ phục hồi làm cho hoạt động xuất nhập khẩu
năng động hơn tạo điều kiện cho GDP tăng trưởng cao. Và cũng phải kể đến những nỗ lực của
chính phủ trong thay đổi chính sách và các biện pháp khuyến khích phát triển kinh tế đặc biệt
là khu vực kinh tế tư nhân. Tất cả làm cho nền kinh tế nước ta phục hồi thời kỳ hậu khủng
hoảng.
Mặc dù có những dấu hiệu tích cực trong tăng trưởng kinh tế 3 quý đầu năm 2010
nhưng đến quý IV nền kinh tế cho thấy những bất ổn định khi lạm phát gia tăng trở lại tháng
10/2010 chri số giá tiêu dùng so với kỳ trước lên tới 9.5%. Tỷ giá USD/VND tăng mạnh,
nhập siêu vẫn ổ mức cao mặc dù có giảm. Điều này đã đặt ra những quan ngại về phát triển
kinh tế năm 2011 đặc biệt là các vấn đề lớn như tỷ giá, nhập siêu và lạm phát. Và theo đà đi
xuống của quý IV năm 2011 tốc độ tăng trưởng kinh tế đã giảm 0.89% xuống còn 5.89%. Đà
sụt giảm này lại kéo tiếp sang năm 2012 giảm 0.64% còn 5.25%. Năm 2011 mặc dù được kỳ
vọng lớn vì đây là năm đầu tiên trong thực hiện kế hoạch 5 năm 2011-2015 của chính phủ.
Điều này cho thấy Việt Nam muốn tăng trưởng ổn định cần có những chính sách hợp lý hơn
của chính phủ trong cả vĩ mô và vi mô để mang lại hiệu quả lâu dài.
Thông qua việc tung ra các gói giải cứu trong năm 2013 tăng trưởng bắt đầu có dấu hiệu
phục hồi vào năm 2013 khi tăng nhẹ 0.17% đạt 5.42%. Năm 2013 là năm nhiều biến động,
diễn ra nhiều hoạt động quan trọng tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Chính
phủ thành công trong kiềm chế lạm phát điều này làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước
ta được duy trì ổn định đến năm 2014. Năm 2014 tăng 0.56% so với 2013 đạt 5.98%. Tuy
nhiên vẫn chưa đạt được đến mức 6.78% như năm 2010. Mặc dù nền kinh tế thế giới đang có
những bất ổn và đối mặt với những rủi ro lớn nhưng năm 2015 ghi nhận sự tăng vượt bậc của
tốc độ tăng trưởng kinh tế lên con số là 6.68% gần bằng năm 2010 là 6.78%. Trong đó quý I
tăng 6.12%, quý II tăng 6.47%, quý III tăng 6.87% và quý IV tăng 7.01%. Cao hơn mục tiêu
đề ra là 6.2%.
2.2. Tình hình xuất khẩu
Với đặc thù là nước nông nghiệp thì nông sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu
chủ lực của nước ta. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, những tiến bộ của khoa học công
nghệ, những hiệp định được ký kết mới, những chính sách của nhà nước làm cho sản lượng và
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 224
giá trị nông sản ngày càng tăng. Việt Nam luôn là nước xuất siêu sản phẩm nông sản mặc dù
giá trị còn thấp. Trong 10 năm qua kim ngạch xuất khẩu nông nghiệp tăng từ 18.484 tỷ USD
(năm 2009) lên mức 36.37 tỷ USD( năm 2017). Trong đó, các sản phẩm nông sản tăng từ 8.75
tỷ USD (năm 2008) lên 18.96 tỷ USD(năm 2017) gấp 2.17 lần, thủy sản tăng 1.84 lần từ 4.51
tỷ USD lên 8.32 tỷ USD, lâm sản tăng từ 3.01 tỷ USD lên 7.97 tỷ USD gấp 2.67 lần.
12000
10000
8000
4000
2000
0
2010
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
Trung Quốc
19% EU
39% Hoa Kỳ
16% Nhật Bản
Hàn Quốc
13%
8% Các nước khác
5%
CHƯƠNG 3: ỨNG DỤNG MÔ HÌNH KINH TẾ LƯỢNG XEM XÉT CÁC NHÂN TỐ
ẢNH HƯỞNG TỚI XUẤT NHẬP KHẨU NÔNG SẢN
3.1. Phân tích số liệu
Số liệu được nhóm thu thập từ tổng cục thống kê với tổng hợp các biến được sử dụng
trong mô hình bao gồm: giá trị xuất nhập khẩu nông sản, giá xuất nhập khẩu nông sản, GDP
và tỷ giá
3.2. Mô hình Var và dự báo
3.2.1. Kiểm tra tính dừng của chuỗi số liệu
Từ kết quả kiểm định nghiệm đơn vị được trình bày trong bảng tóm tắt (phụ lục 1) cho
ta biết trong 6 biến thì tất cả 6 biến đều không dừng. Do đó ta cần lấy sai phân đối với cả 6
biến trên nhằm thu được các chuỗi số liệu là dừng để từ đó tiến hành chạy mô hình. Đặc biệt
trong đó có GDP là dừng bậc 2 nên ta cần lấy sai phân bậc 2 đối với biến này.
3.2.2. Lựa chọn độ trễ tối ưu cho mô hình
Sau khi kiểm định tính dừng của chuỗi số liệu các biến, ta tiến hành lựa chọn độ trễ tối
ưu cho mô hình bằng cách sử dụng phần mềm Eviews, ta sẽ lựa chọn được chiều dài độ trễ k
dựa trên các tiêu chí AIC, SC, hàm loglikelihood. Trong đó, 2 tiêu chí được xem xét là quan
trọng nhất để lựa chọn độ trễ thích hợp nhất cho các biến là AIC và SC, cụ thể là giá trị k
được lựa chọn sao cho AIC và SC nhỏ nhất. Để thực hiện ước lượng mô hình VAR, điều cần
làm là xác định độ trễ thích hợp cho tất cả các biến. Một phương pháp thường được sử dụng
là dựa vào Lag Structure trong mô hình VAR với các tiêu chí AIC, SC, loglikelihood để lựa
chọn.
Kết quả kiểm định cho ta thấy độ trễ 2 là độ trễ tối ưu của mô hình.
3.2.3. Ước lượng mô hình Var
Mô hình ước lượng
CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG BẰNG MÔ HÌNH CÂN BẰNG RIÊNG
4.1. Nguồn số liệu
Số liệu được sử dụng trong nghiên cứu này là Ps, Qs, Pm, Qm theo quý của Việt Nam,
dữ liệu này được thu thập từ Tổng Cục Thống Kê từ quý 1 năm 2010 đến quý 4 năm 2018.
Tổng cộng bao gồm 36 quan sát (9 năm). Tất cả các quan sát này được sử dụng vào việc thiết
lập mô hình. Các biến được sử dụng trong mô hình: Qs lượng cung nội địa; Ps Giá cung nội
địa; Qm Lượng nhập khẩu; Pm Giá nhập khẩu; Qd Lượng cầu nội địa và Pd Giá cầu nội địa.
4.2. Phân tích kết quả thực nghiệm
Dựa vào mô hình cân bằng riêng ta xem xét ảnh hưởng CPTPP đến xuất khẩu nông sản
ở Việt Nam. Ước lượng ảnh hưởng của việc thay đổi trong bảo hộ sản xuất trong nước đối với
cạnh tranh với nước ngoài bằng việc sử dụng hai bước sau:
Bước 1: Ước lượng các phương trình (1.8), (1.9) và (1.10) trên phần mềm Eviews 8, ta
có kết quả như sau:
lnQd = 7.503306 – 1.135249 lnPd + 1.183421lnPm (R2 = 0.52)
lnQs = 5.542688 – 0.104653 lnPd R2 = 0.42
lnQm = 5.438945 - 0.879609 lnPd – 1.548413 lnPm (R2 = 0.57)
lna = 5.503306
lnb = 7.542688
lnc = 5.438945
Edd = - 1.135249 < 0: Nghĩa là 1% tăng lên của giá hạt nông sản được sản xuất trong
nước thì giảm 1.135249% trong cầu nông sản đó. Khi giá hàng nông sản nội địa tăng làm cho
lượng cầu hàng hóa trong nước giảm.
H3
Ý thức và hành động bảo
vệ môi trường (FE)
Hình 02. Mô hình nghiên cứu đo lường hành vi tiêu dùng bền vững cho mục đích ăn uống
Giả thuyết:
H1. Lựa chọn mua bền vững trong ăn uống (FP) có ảnh hưởng tích cực đến đo lường
hành vi tiêu dùng bền vững cho mục đích ăn uống (SCf) (Food)
Trong đó: Lựa chọn mua bền vững trong ăn uống hàm ý về cách thức lựa chọn tiêu
dùng của người tiêu dùng, lựa chọn mua thực phẩm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và
đảm bảo đầy đủ chất dinh dưỡng
H2: Lựa chọn tiết kiệm và hiệu quả (FF) có ảnh hưởng tích cực đến đo lường hành vi
tiêu dùng bền vững cho mục đích ăn uống (SCf) (Food)
Trong đó: Lựa chọn tiết kiệm và hiệu quả trong tiêu dùng cho mục đích ăn uống vừa
mang lại hiệu quả cho tài chính cá nhân vừa góp phần sử dụng hiệu quả nguồn lực hữu hạn.
H3: Ý thức và hành động bảo vệ môi trường (FE) có ảnh hưởng tích cực đến đo lường
hành vi tiêu dùng bền vững cho mục đích ăn uống (SCf) (Food)
Hình 03. Mô hình nghiên cứu đo lường hành vi tiêu dùng bền vững cho trang phục.
Giả thuyết:
H1: Lựa chọn mua bền vững cho trang phục (CP) có ảnh hưởng tích cực đến đo lường
hành vi tiêu dùng bền vững cho trang phục (SCc) (Clothing).
Trong đó: Lựa chọn mua bền vững trong tiêu dùng cho trang phục, hàm ý về cách thức
lựa chọn tiêu dùng của người tiêu dùng, lựa chọn mua những trang phục có nguồn gốc xuất
xứ rõ ràng, đảm bảo chất lượng và đảm bảo công bằng thương mại (fairtrade) vì trang phục là
hàng hóa thường được xuất và nhập khẩu.
H2: Lựa chọn tiết kiệm và hiệu quả (CF) có ảnh hưởng tích cực đến đo lường hành vi
tiêu dùng bền vững cho cho trang phục (SCc) (Clothing).
Trong đó: Lựa chọn tiết kiệm và hiệu quả trong tiêu dùng cho trang phục vừa mang lại
hiệu quả cho tài chính cá nhân vừa góp phần sử dụng hiệu quả nguồn lực hữu hạn.
H3: Ý thức và hành động bảo vệ môi trường (CE) có ảnh hưởng tích cực đến đo lường
hành vi tiêu dùng bền vững cho trang phục (SCc) (Clothing).
Trong đó: Ý thức và hành động bảo vệ môi trường trong việc tiêu dùng cho mục đích ăn
uống, hàm ý khi cân nhắc lựa chọn hành vi tiêu dùng của mình, người tiêu dùng cần có nhận
thức trong việc hành vi đó ảnh hưởng có lợi hay hại cho môi trường sống hay không.
4. Phương pháp phân tích và nguồn dữ liệu
4.1. Phương pháp ngiên cứu
Khái quát phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập dữ liệu: Nghiên cứu được thực hiê ̣n qua thông qua 01 bảng câu
hỏi với thang đo cấp bậc Likert 5 điểm và mức độ thực hiện tăng dần từ 1 đến 5.
Phương pháp chọn mẫu thuận tiện để khảo sát: sinh viên tại các trường trên địa bàn Hà
Nội.
Nhóm nghiên cứu sử dụng hai phương pháp nghiên cứu chính, đó là nghiên cứu định
tính và nghiên cứu định lượng. Trong đó:
- Nghiên cứu được tiến hành thông qua việc tìm hiểu, đánh giá và tổng hợp tài liệu, lựa
chọn thang đo và điều chỉnh để phù hợp với bài nghiên cứu
- Dữ liệu được thu thập bằng bàng câu hỏi, mã hóa và xử lý bằng phần mềm SPSS. Từ
đó thực hiện các phân tích: Kiểm định Cronbach’s Alpha, phân tích mô tả, phân tích nhân tố
khám phá EFA, phân tích phương trình cấu trúc.
Phương pháp phân tích dữ liệu
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 235
Bước 1: Chuẩn bị thông tin
Hơn 1000 phiếu điều tra được phát ra. Sau đó tiến hành thu nhân bảng trả lời, làm sạch
thông tin, mã hóa các thông tin cần thiết trong bảng trả lời, nhập liệu và phân tích dữ liệu
bằng phần mềm SPSS 20.0.
Bước 2: Thống kê mô tả mẫu
Các biến phân loại giới tính, năm học vấn, tôn giáo,… được phân loại bằng các chỉ số
thống kê mô tả cơ bản qua số quan sát và bảng tần suất theo các dấu diệu phân biệt đã được
định sẵn
Bước 3: Đánh giá sơ bộ thang đo
Đánh giá sơ bộ thang đo là tiến hành đánh giá mức độ phù hợp của các nhân tố được
đưa ra trong thang đo thông qua hệ số Cronbach’s Alpha. Một tập biến có độ chọn thang đo
khi có độ tin cây Alpha từ 0,6 trở lên, tốt nhất là 0,7 (Trọng 2008) và biến quan sát có hê ̣số
tương quan biến tổng từ 0,3 trở lên.
Bước 4: Phân tích nhân tố khám phá EFA
Phân tích nhân tố khám phá EFA dùng để rút gọn một tập k biến quan sát thành một tập
F (F<k) các nhân tố có ý nghĩa hơn. Điều kiện để phân tích nhân tố khám phá là phải thỏa
mãn các yêu cầu: (1) Hệ số tải nhân tố (Factor loading) > 0,5; (2) Hệ số KMO (Kaiser-Meyer-
Olkin) nằm trong khoảng [0,5; 1]; (3) Kiểm định Bartlett có ý nghĩa thống kê Significant
(Sig.)< 0,05; (5) Phần trăm phương sai toàn bộ (Percentage of variance) > 50% (Hair, J.F.,
Black, W.C., Babin, B.J., Anderson, R.E. & Tatham, R, L, 2006).
Bước 5: Phân tích khẳng định nhân tố CFA
Phân tích khẳng định nhân tố nhằm kiểm định lại kết quả phân tích nhân tố khám phá
(EFA). Nghiên cứu sử dụng phép kiểm định Chi - bình phương (CMIN: biểu thị mức độ phù
hợp tổng quát của toàn bộ mô hình ở mức ý nghĩa 5%), chỉ số CFI, TLI, RMSEA, GFI. Trong
thực tế, chỉ tiêu Chi - bình phương theo bậc tự do (CMIN/df) nếu cỡ mẫu nhỏ hơn 200 thì chỉ
tiêu này phải nhỏ hơn 3, còn nếu cỡ mẫu lớn hơn 200 thì chỉ tiêu này phải nhỏ hơn 5
(Kettinger and Lee, 1995; Arbuckle and Wothke, 1999). Giá trị CFI, TLI, GFI lớn hơn 0.95
nếu mẫu nhỏ hơn 250 và số biến quan sát trong mô hình dưới 30, lớn hơn 0.92 nếu mẫu lớn
hơn 250 và số biến quan sát trong mô hình lớn hơn 30 (Hair và cộng sự, 2006). Hệ số
RMSEA nhỏ hơn 0.05 được xem là tốt, nhỏ hơn 0.08 cũng có thể chấp nhận được (Hooper và
cộng sự, 2008).
Ngoài ra trong phần phân tích CFA, nhóm nghiên cứu còn tiến hành một số đánh giá
khác như: Đánh giá độ tin cậy của thang đo thông qua: (a) Hệ số tin cậy tổng hợp (Composite
reliability), (b) Tổng phương sai trích được (variance extracted). Trong đó:
Độ tin cậy tổng hợp (c) (Joreskog 1971), và tổng phương sai trích (vc) (Fornell &
Larcker 1981) được tính theo công thức sau:
Trong đó, i là trọng số chuẩn hóa của biến quan sát thứ i, 1- i2 là phương sai của sai số
đo lường biến quan sát thứ i, p là số biến quan sát của thang đo.
Chỉ tiêu c, vc đạt yêu cầu là từ 0.5 trở lên.
Theo Hair (1998), phương sai trích của mỗi khái niệm nên vượt 0.5, tức là 50%, tuy
nhiên nếu khái niệm có phương sai trích nhỏ hơn 50% mà độ tin cậy tổng hợp của khái niệm
này lớn hơn 0.6 thì vẫn được chấp nhận vì giá trị hội tụ của thang đo vẫn được đảm bảo (C.
Fornell và D. F. Larcker, 1981).
Bước 6: Phân tích bằng mô hình cấu trúc tuyến tính
Component
1 2 3 4
FF2 .797
FF3 .703
FF4 .702
FF5 .689
FF1 .637
FE2 .830
FE1 .776
FE3 .679
FE4 .612
SCf2 .701
SCf4 .695
SCf1 .690
SCf3 .601
FP3 .721
FP1 .712
FP2 .349 .689
FP4 .522
Hình 04: Kết quả sơ bộ đánh giá thang đo hạng mục ăn uống
(Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS)
5.2.2. Kết quả sơ bộ đánh giá thang đo tới hạng mục: Trang phục (Clothing)
Tại hạng mục trang phục cho thấy cả bốn nhân tố CP, CF, CE và SCc đều có hệ số lớn
hơn 0.6 (cụ thể theo thứ tự tương ứng là 0.748, 0.783, 0.620 và 0.641), đồng thời các hệ số
tương quan biến tổng của các biến quan sát của hai nhân tố này đều lớn hơn 0.3.
Kết quả cho thấy hệ số KMO là lớn hơn 0.5 (0.831), p-value = 0.000 nhỏ hơn 0.05,
phương sai giải thích lớn hơn 50% (51.806%) và tất cả các hệ số tải nhân tố đều lớn hơn 0.3
(Phụ lục 3). Điều này cho thấy thang đo của các nhân tố trong hạng mục Trang phục đạt tính
tin cậy cần thiết và thang đo của mỗi nhân tố đều có tính đơn hướng.
Component
1 2 3 4
CF1 .719
CF3 .715
CF2 .697
CF5 .678
CF4 .669
CP3 .787
CP5 .769
CP4 .663
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 238
CP2 .600
CP1 .566
SCc4 .796
SCc1 .664
SCc3 .654
SCc2 .532
CE3 .687
CE4 .659
CE1 .642
CE2 .586
Hình 05: Kết quả sơ bộ đánh giá thang đo hạng mục trang phục
(Nguồn: Kết quả phân tích dữ liệu với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS)
5.3. Kết quả phân tích mô hình tới hạn
5.3.1. Kết quả phân tích mô hình tới hạn hạng mục: Ăn uống (Food)
Kết quả phân tích CFA sau khi đã điều chỉnh các mối quan hệ khả dĩ giữa các biến quan
sát trong mô hình qua chỉ bảo của hệ số MI cho thấy Chi-square/df = 2.483 nhỏ hơn 3, CFI =
0.960, GFI = 0.965, AGFI = 0.949, đều lớn hơn 0.9. Giá trị p-value = 0.000<0.05, RMSEA =
0.043 nhỏ hơn 0.08. Do đó có thể kết luận mô hình phù hợp với dữ liệu thị trường (Hair et al
(2006)), Byrne (2001), Vakata et al (2006)).
Trong đó đặt tên viết tắt cho các nhân tố:
Lựa chọn mua bền vững trong ăn uống: FP
Lựa chọn tiết kiệm và hiệu quả bền vững trong ăn uống: FF
Ý thức và hành động bảo vệ môi trường trong tiêu dùng cho ăn uống: FE
Đo lường hành vi tiêu dùng bền vững trong ăn uống: SCf
TÓM TẮT
Mục tiêu của bài viết là phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định sử
dụng phần mềm diệt virus của nước ngoài của người dùng dựa trên các mô hình
thái độ như:lý thuyết hoạch định TPB,thuyết hành động hợp lý TRA và mô hình
chấp nhận công nghệ TAM. Sử dụng mẫu khảo sát gồm 210 người dùng tại một
số trường đại học ở địa bàn Hà Nội và các công cụ phân tích định lượng, kết quả
khẳng định có 6 trên 7 nhân tố có ảnh hưởng dương đến quyết định sử dụng phần
mềm diệt virus của nước ngoài của người dùng. Nghiên cứu đề xuất một số kiến
nghị, giải pháp cho nhà cung cấp, nhà phân phối nâng cao thị trường phần mềm
diệt virus và đề xuất cho khách hàng một số giải pháp khi quyết định sử dụng
phần mềm diệt virus.
Từ khóa: Phần mềm diệt virus của nước ngoài, TPB, TRA, TAM, chuẩn chủ
quan, thái độ, giá cả, chất lượng, kiểm soát hành vi tài chính, mức độ phổ biến
1. Giới thiệu
Theo thống kê từ chương trình đánh giá an ninh mạng do BKAV thực hiện vào tháng
12/2017, thiệt hại do virus máy tính gây ra đối với người dùng Việt Nam đã lên tới 12.300 tỷ
đồng, tương đương 540 triệu USD, vượt xa mốc 10.400 tỷ đồng của năm 2016. BKAV cho
biết mức thiệt hại tại Việt Nam đã đạt kỷ lục trong nhiều năm trở lại đây. Thống kê từ hệ
thống giám sát virus của BKAV, đã có hơn 23.000 máy tính tại Việt Nam nhiễm loại mã độc
đào tiền ảo thông qua mạng xã hội (Facebook) ngày 19/12 và làm náo loạn Internet tại Việt
Nam. Chuyên gia BKAV nhận định, trong thời gian tới hình thức đào tiền ảo bằng cách phát
tán virus có xu hướng tiếp tục bùng nổ thông qua facebook, email, qua lỗ hổng hệ điều hành,
USB. Từ số liệu an toàn thông tin tháng 2/2018 của Cục an toàn thông tin, Việt Nam là nước
đứng thứ 30 trên thế giới và 21 tại châu Á trong tháng 2/2018 về tỉ lệ lây nhiễm phần mềm
độc hại với 27,5% thiết bị công nghệ thông tin bị lây nhiễm, hàng nghìn tỷ đồng bị thiệt hại
bởi virus máy tính.
Theo một nghiên cứu của Viện Hasso-Plattner năm 2018 cho thấy các lỗ hổng bảo mật
phần mềm công nghệ thông tin đang ở mức cao nhất mọi thời đại, với 11.150 rủi ro bảo mật
được đăng ký trên toàn cầu. Các tổng thiệt hại toàn cầu cho các doanh nghiệp do hậu quả của
tội phạm mạng đã được ước tính khoảng 1,5 tỷ USD mỗi năm. Con số đó đã tăng theo cấp số
nhân từ đầu những năm 2000, mặc dù phần lớn sự gia tăng có thể được quy cho sự gia tăng
chung về giá trị của các doanh nghiệp trực tuyến. Năm 2017, tổng số tiền thiệt hại do tội
phạm mạng gây ra ước tính 1418,7 triệu đô la Mỹ. Các khảo sát toàn cầu đã chỉ ra rằng hơn
một nửa dân số đều nhận thức được và lo ngại về các rủi ro bảo mật trực tuyến tiềm ẩn. Tuy
nhiên, ước tính một phần tư số máy tính cá nhân (PC- personal computer) không được bảo vệ
bằng phần mềm chống virus, khiến chúng có khả năng bị nhiễm trung bình gấp 5,5 lần. Đối
với máy tính để bàn và máy tính xách tay, trojan là bệnh lây nhiễm phổ biến nhất, tiếp theo là
PUP (các chương trình không mong muốn).
Có thể thấy, với những con số trên thì quy mô và tiềm năng thị trường phần mềm bảo
vệ máy tính cá nhân nói chung và phần mềm diệt virus nói riêng ở Việt Nam là rất lớn. Các
thương hiệu trong ngành bảo mật nước ngoài xâm nhập vào Việt Nam cùng các thương hiệu
trong nước đã làm thị trường phần mềm diệt virus ngày càng sôi động. Nhận thấy được tiềm
năng của thị trường phần mềm diệt virus tại nước ta vô cùng lớn, nhưng đa số thương hiệu nổi
bật được người dùng phổ biến là các thương hiệu nước ngoài. Các yếu tố nào ảnh hưởng tới
Ý định
Chuẩn chủ quan hành vi Hành vi
Hình 4 : Mô hình đơn giản của Thuyết hành vi hoạch định (TPB)
(Nguồn: Armitage & Conner, 2001, tr.472)
Lý thuyết hành vi hoạch định có thể bao gồm các yếu tố dự báo bổ sung, nếu nó có
được hiển thị và chiếm một tỷ lệ đáng kể trong ý định và hành vi (Ajzen, 1991). Nếu lý thuyết
hành vi hoạch định bổ sung yếu tố “ Kiểm soát nhận thức hành vi” như là sự bổ sung nhận
thức về khả năng thực hiện hành vi, thì yếu tố “ kiểm soát nhận thức tài chính” nhằm hỗ trợ
nhận thức về khả năng nguồn lực tài chính trong việc thực hiện hành vi (Sahni, 1994). Theo
Sahni (1997) trong lý thuyết kinh tế đã thừa nhận rằng các cá nhân sẽ cố gắng tối ưu hoá tiện
ích bằng đường ngân sách của họ, do đó tâm lý trong quá trình mua sản phẩm, khách hàng sẽ
bị ảnh hưởng bởi cân nhắc năng lực tài chính của bản thân đặc biệt là những sản phẩm đắt
tiền, yếu tố Kiểm soát nhận thức tài chính như biến kinh tế nhằm thể hiện về nhận thức khả
năng chi trả.
Mô hình chấp nhận công nghệ ( TAM – Technology Acceptance Model ):
Một trong những công cụ hữu ích trong việc giải thích ý định chấp nhận một sản phẩm
mới là mô hình chấp nhận công nghệ TAM. Theo Legris và cộng sự (2003, trích trong Teo,
T., Su luan, W., & Sing, C.C., 2008, tr. 266), mô hình TAM đã dự đoán thành công khoảng
40% việc sử dụng hệ thống mới.
Nam 94 44,76
Giới tính
Nữ 116 55,24
Dưới 18 tuổi 0 0
Từ 18 – 22 tuổi 187 89,05
Nhóm tuổi
Từ 22- 30 tuổi 20 9,52
Trên 30 tuổi 3 1,43
Giáo viên, giảng viên 3 1,43
Nhân viên văn phòng 5 2,38
Nghề ghiệp Học sinh, sinh viên 187 89,05
Nhân viên trong lĩnh vực IT 4 1,9
Nghề nghiệp khác 11 5,24
Dưới 5 triệu đồng 190 90,48
Từ 5- 10 triệu đồng 15 7,14
Thu nhập
Từ 10 đến 15 triệu đồng 3 1,43
Trên 15 triệu đồng 2 0,95
Phần mềm Kaspersky AntiVirus (Mỹ) 26 12,38
Phần mềm Symantec AntiVirus (Mỹ) 20 9,52
Phần mềm Norton AntiVirus (Mỹ) 9 4,29
Phần mềm Bitdefender AntiVirus (Rumani) 19 9,05
Phần mềm diệt virus Phần mềm AVG AntiVirus (Séc) 30 14,29
nước ngoài đang sử Phần mềm Avira AntiVirus (Séc) 23 10,95
dụng Phần mềm Avast AntiVirus (Séc) 42 20
Phần mềm Panda AntiVirus (Trung Quốc) 9 4,29
Phần mềm ESET Smart Security (Mỹ) 10 4,76
Phần mềm Windows Defender (Mỹ) 22 10,47
(Nguồn: Kết quả phân tích của nhóm nghiên cứu)
Kiểm định thang đo và mô hình đo lường
Bảng 2 cho thấy hệ số Cronbach’s Alpha của tất cả các thang đo đều lớn hơn 0.6, do đó
tất cả các thang đo đều được sử dụng trong bước phân tích EFA và hồi quy tiếp theo.
Bảng 2: Kết quả kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha các thang đo
Hệ số
ST Biến quan Biến Số biến
Thang đo Cronbach’s
T sát loại giữ lại
Alpha
1 Thái độ (TD) 4 0,875 0 4
2 Chuẩn chủ quan (CCQ) 4 0,84 0 4
3 Kiểm soát nhận thức hành vi tài chính (NT) 4 0,896 0 4
4 Cảm nhận về chất lượng (CL) 5 0,874 0 5
5 Cảm nhận về giá cả (GC) 5 0,871 0 5
6 Mức độ phổ biến (MD) 4 0,815 0 4
7 Chương trình khuyến mãi (KM) 3 0,721 0 3
(Nguồn: Kết quả phân tích SPSS)
Kết quả phân tích nhân tố khám phá cho thấy 29 biến quan sát trong 7 nhân tố ảnh
hưởng đến quyết định sử dụng phần mềm diệt virus của nước ngoài. Hệ số KMO = 0.84 > 0.5
nên EFA phù hợp với dữ liệu, giá trị Sig. của các biến CL, GC, NT, TD, CCQ, MD, KM
trong kiểm định Person lần lượt là 0,000; 0,000; 0,000; 0,000; 0,022; 0,000; 0,000 đều nhỏ
hơn 0,05 nghĩa là biến độc lập tương quan với biến phụ thuộc. Phương sai trích bằng 70,013%
có thể giải thích được 70,013% sự biến thiên của mô hình (Giải thích được càng gần 100% độ
biến thiên của mô hình càng tốt). Như vậy khi chia thành 7 nhóm nhân tố mô hình có giá trị
khá cao.
Xây dựng mô hình hồi quy đơn tuyến tính
Kết quả hồi quy tuyến tính cho thấy hệ số xác định R của mô hình như sau:
Adjusted R Square (hoặc R Square- R bình phương hiệu chỉnh): Phản ánh mức độ ảnh
hưởng của các biến độc lập lên biến phụ thuộc. Ở đây, các biến đưa vào ảnh hưởng 43,9% sự
thay đổi của biến phụ thuộc quyết định sử dụng phần mềm diệt virus của nước ngoài, còn lại
là do các biến ngoài mô hình và sai số ngẫu nhiên.
Bảng 3: Confficient
Coefficientsa
Unstandardized Standardized
Collinearity Statistics
Model Coefficients Coefficients t Sig.
B Std. Error Beta Tolerance VIF
(Constant) -1,640 ,437 -3,750 ,000
CL ,299 ,086 ,208 3,467 ,001 ,772 1,296
GC ,244 ,080 ,177 3,037 ,003 ,817 1,224
NT ,234 ,074 ,187 3,166 ,002 ,792 1,263
1
TD ,213 ,085 ,154 2,511 ,013 ,734 1,362
CCQ ,064 ,089 ,039 ,719 ,473 ,939 1,066
MD ,237 ,106 ,152 2,229 ,027 ,601 1,664
KM ,239 ,114 ,129 2,100 ,037 ,741 1,350
a. Dependent Variable: QD
(Nguồn: Kết quả phân tích SPSS)
Giá trị Sig. kiểm định t từng biến độc lập, Sig. nhỏ hơn 0,05 có nghĩa là biến đó có ý
nghĩa trong mô hình, ngược lại Sig. lớn hơn 0,05 có nghĩa là biến độc lập cần được loại bỏ. Vì
vậy, trong mô hình này chỉ giữ lại biến CL, GC, NT, TD, MD, KM.
Hệ số hồi quy chuẩn hóa Beta, trong tất cả các hệ số hồi quy, biến độc lập nào có Beta
lớn nhất thì biến đó có ảnh hưởng nhiều nhất đến sự thay đổi của biến phụ thuộc QD. Cụ thể
mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến QD như sau:
QD = 0,208*CL + 0,177*GC + 0,187*NT + 0,154*TD + 0,152*MD + 0,129*KM
Giá trị VIF dùng để kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến. Theo lý thuyết nhiều tài liệu
viết, VIF <10 sẽ không có hiện tượng đa cộng tuyến. Tuy nhiên, trên thực tế với nhiều đề tài
có mô hình cộng thêm bảng câu hỏi có sử dụng thang đo Likert thì VIF < 2 sẽ không có đa
cộng tuyến giữa các biến độc lập. Vì vậy, từ kết quả trên có thể nhận thấy mô hình không xảy
ra hiện tượng đa cộng tuyến giữa các biến độc lập.
Biểu đồ tần số phần dư chuẩn hóa Histogram
TÓM TẮT
Bài nghiên cứu phân tích tác động của đòn bẩy tài chính đến lợi nhuận của
các doanh nghiệp Bất động sản niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Thành
phố Hồ Chí Minh (HOSE). Ngoài biến đòn bẩy tài chính, chúng tôi sử dụng thêm
một số biến khác để phân tích xu hướng tác động đến lợi nhuận công ty. Kết quả
cho thấy đòn bẩy có tác động thuận chiều đến lợi nhuận các công ty trong lĩnh
vực Bất động sản, ngoài ra yếu tố cổ tức cũng có ảnh hưởng tích cực đến tỉ suất
sinh lời. Tuy nhiên, số lượng thành viên Hội đồng quản trị có ảnh hưởng ngược
chiều đến lợi nhuận. Vì vậy, chúng tôi khuyến nghị các doanh nghiệp Bất động
sản nên nâng cao yếu tố đòn bẩy tài chính, đồng thời chú ý đến chính sách chi trả
cổ tức và đảm bảo quy mô ban quản trị của doanh nghiệp ở mức phù hợp.
Từ khóa: Đòn bẩy tài chính, lợi nhuận, Bất động sản
1.Cơ sở lí luận
Đòn bẩy tài chính được coi là một công cụ hữu ích làm tăng giá trị công ty bằng nợ vay
trong điều kiện các công ty có nhu cầu vốn cho đầu tư khá cao mà vốn chủ sở hữu không đủ
để trả nợ. Các nghiên cứu về lí thuyết đòn bẩy tài chính cho rằng, đòn bẩy tài chính có hai ưu
điểm đáng kể đến tình hình tài chính của doanh nghiêp. Một là, công ty được miễn thuế lãi
suất phải trả trên nợ trong khi cổ tức hay các hình thức khác cho chủ sở hữu bị đánh thuế. Hai
là, có quan điểm rằng huy động vốn bằng nợ thì “rẻ” hơn vốn chủ sở hữu, nghĩa là, lãi suất
trái phiếu hay lãi suất ngân hàng thường thấp hơn nhiều lãi suất kỳ vọng của các nhà đầu tư.
Tuy nhiên, đòn bẩy tài chính cũng có mặt tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của công ty khi mà
mức sử dụng đòn bẩy tài chính vượt ngoài ngưỡng kiểm soát, công ty phải đối mặt với phá
sản do mất khả năng hoàn thành nghĩa vụ trả nợ.
Trên thế giới, có rất nhiều những nghiên cứu về cấu trúc vốn và tác động của nó đến giá
trị doanh nghiệp và đưa ra các quan điểm khác nhau. Bài nghiên cứu này, nhóm chỉ xin đề cập
đến một lí thuyết nổi tiếng nhất về cấu trúc vốn của Modilligani và Miller (1958) với luận
điểm chỉ ra việc sử dụng nợ trong cấu trúc vốn sẽ làm tăng giá trị doanh nghiệp. Tuy nhiên
Modilligani và Miller nghiên cứu trong các giả định không giống như thực tế: thị trường vốn
hoàn hảo, không bị đánh thuế, không bị giới hạn về chi phí và vấn đề bất cân xứng thông tin.
Như vậy, vấn đề đòn bẩy tài chính trong kinh doanh đã được quan tâm từ rất sớm nhằm
mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư. Tại mỗi lĩnh vực đều có cách áp dụng phù hợp về đòn bẩy
tài chính trong các doanh nghiệp đặc thù khác nhau.
Tại Việt Nam, theo các nhận định của một số chuyên gia kinh tế, thị trường bất động
sản hiện nay được đánh giá là tương đối ổn định, lành mạnh và cả cạnh tranh hơn so với một
thập kỷ trước. Một trong các yếu tố then chốt, được coi là chìa khóa đưa chiến lược kinh
doanh từ bàn giấy vào thực tiễn đó là tiềm lực tài chính của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, lợi
nhuận từ hoạt
động kinh doanh bất động sản tương đối cao đã thu hút các doanh nghiệp nên gặp nhiều
khó
khăn, thách thức và rủi ro là điều không thể tránh khỏi. Khó khăn lớn nhất đó chính là
sự cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường, với các doanh nghiệp có thế mạnh về vốn, về
công nghệ, khôn ngoan hơn trong việc sử dụng vốn, cách thức quản lý. Trong điều kiện cạnh
tranh gay gắt ấy, để duy trì hiệu quả hoạt động kinh doanh, tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp
là câu hỏi lớn và không dễ để trả lời đối với các doanh nghiệp trong ngành bất động sản. Từ
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 261
thực tế đó, phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp bất
động sản đang niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam là vấn đề cần được quan tâm
trong bối cảnh hiện nay.
Với các lí do trên, nhóm chúng tôi đã quyết định đi sâu vào nghiên cứu đề tài là “Tác
động của đòn bẩy đến lợi nhuận của các doanh nghiệp Bất động sản niêm yết trên Sở giao
dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE)”
2. Tổng quan nghiên cứu
2.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
Aburub (2012) nghiên cứu về ảnh hưởng của cấu trúc vốn đến hiệu quả doanh nghiệp
của các công ty niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Palestine trong giai đoạn từ 2006
đến 2010. Cuối cùng, kết quả cho thấy cấu trúc nợ của doanh nghiệp có hiệu quả thuận chiều
đến hiệu quả của doanh nghiệp. Quan điểm này giống với Rehman (2013) trong bài nghiên
cứu ngành công nghiệp đường tại Pakistan, cũng khẳng định mối quan hệ cùng chiều của tỷ lệ
nợ trên vốn chủ sở hữu (DER) với lợi nhuận trên tài sản (ROA) và tăng trưởng doanh thu
(Sales growth). Ngược lại, kết quả cũng đưa ra mối quan hệ tỷ lệ nghịch của tỷ lệ nợ trên vốn
chủ sở hữu (DER) và lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE).
Tuy nhiên, các nghiên cứu khác lại cho ra kết quả hầu như ngược lại với các kết luận
của hai nghiên cứu trên.
Emamgholipour & cộng sự (2012) nghiên cứu về mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và hiệu
quả doanh nghiệp niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Tehran. Nghiên cứu sử dụng các
biến ROA (Return on assets- tỉ suất sinh lời trên tài sản) và ROE (Return on equity- tỉ suất
sinh lời trên vốn chủ sở hữu) để đo lường hiệu quả của công ty. Kết quả đã cho thấy mối quan
hệ ngược chiều giữa đòn bẩy tài chính và hiệu quả doanh nghiệp, ngoài ra bài viết cũng sử
dụng các biến phụ thuộc khác như doanh thu, quy mô công ty, tỉ lệ tài sản hữu hình, tốc độ
tăng trưởng để tìm ra mối liên hệ.
Ahmadimousaabad & cộng sự (2013) nghiên cứu về cấu trúc vốn của các doanh nghiệp
niêm yết trên Sở Giao dịch Chứng khoán Tehran trong giai đoạn từ 2001 đến 2010. Kết quả
cho thấy yếu tố lợi nhuận có mối quan hệ ngược chiều với nợ. Các công ty có lợi nhuận cao sẽ
hạn chế sử dụng đòn bẩy tài chính hơn.
Tharmila K & Arulve K.K (2013) nghiên cứu mối quan hệ giữa cấu trúc vốn và hiệu
quả tài chính của các công ty niêm yết trên thi trường chứng khoán Colombo (CSE) với số
lượng mẫu gồm 30 công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán Colombo trong giai đoạn
5 năm từ 2007 đến 2011 và dữ liệu được tập hợp từ các báo cáo thường niên, facebook và
trang web chính của các công ty. Dựa trên phân tích mô hình ảnh hưởng của cơ cấu vốn đến
tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), tác giả đã kết luận lợi nhuận của doanh nghiệp
và tỷ số nợ có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với nhau.
Mangalam & Govindasamy (2010) đã phân tích tác động của đòn bẩy tài chính tới lợi
nhuận của công ty bằng cách nghiên cứu mối quan hệ giữa đòn bẩy và thu nhập trên
mỗi cổ phiếu. Kết quả cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa đòn bẩy tài chính và thu nhập
trên cổ phần (EPS), và tác giả cũng khẳng định rằng đòn bẩy tài chính là một yếu tố quan
trọng có ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty và khuyến nghị các nhà đầu tư rằng lợi nhuận
của các cổ đông sẽ có thể được tối đa hóa khi công ty sử dụng tỉ lệ nợ cao hơn.
Akinmulegun (2012) nghiên cứu về tác động của đòn bẩy tài chính lên hiệu quả doanh
nghiệp ở Nigeria cũng sử dụng EPS là chỉ số quan trọng để phân tích tác động của đòn bẩy tài
chính. Nghiên cứu chỉ ra đòn bẩy tài chính tác động tới thu nhập trên cổ phiếu (EPS); sẽ có
tác động gián tiếp đến giá trị tài sản ròng trên cổ phiếu (NAPS) của doanh nghiệp bởi phần
lớn sự thay đổi của giá trị tài sản ròng trên cổ phiếu (NAPS) là do thu nhập trên cổ phiếu của
công ty.
Lucy W.M & các cộng sự (2014) cũng nghiên cứu mối quan hệ giữa cấu trúc vốn đến
hiệu hoạt động của doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch Chứng khoán
Nairobi (NSE), Kenya. Kết quả nghiên cứu cho rằng đòn bẩy tài chính có tác động tiêu cực
đến tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE).
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 262
Nhóm tác giả khuyến nghị các nhà quản lí của các công ty phi tài chính niêm yết trên NSE
nên giảm vay nợ dài hạn như một công cụ chính cho hoạt động tài chính của công ty.
Enekwe & cộng sự (2014) đưa thêm nhân tố mới để đánh giá đòn bẩy tài chính – hệ số
khả năng thanh toán lãi vay (ICR). Cuối cùng, kết quả phân tích cho thấy tỷ lệ nợ (DR) và tỷ
lệ nợ trên vốn chủ sở hữu (DER) có mối quan hệ ngược chiều với Lợi nhuận trên tài sản
(ROA). Ngoài ra, hệ số khả năng thanh toán lãi vay (ICR) có kết quả thuận chiều với lợi
nhuận trên tài sản (ROA) trong ngành dược phẩm Nigeria.
Alghusin (2015) cũng đặt ra giả thuyết kiểm định về tác động của đòn bẩy tài chính đến
lợi nhuận của các doanh nghiệp sử dụng biến ROA (tỉ lệ sinh lời trên tài sản), kết luận mối
quan hệ ngược chiều giữa đòn bẩy tài chính (FL) và lợi nhuận của doanh nghiệp (ROA), hay
nói cách khác, lợi nhuận công ty sẽ giảm khi đòn bẩy tài chính lớn và ngược lại.
Cùng năm, Ahmad & cộng sự (2015) đã nghiên cứu để kiểm định mối quan hệ giữa đòn
bẩy tài chính và khả năng sinh lời của ngành xi măng hoạt động tại Pakistan. Kết quả kiểm tra
thống kê mô hình OLS cho thấy có một mối quan hệ ngược chiều giữa đòn bẩy tài chính và
lợi nhuận của công ty trong sản xuất xi măng ở Pakistan.Tác giả khẳng định rằng các công ty
đòn bẩy cao sẽ có lợi nhuận thấp hơn, và các công ty đòn bẩy thấp hơn sẽ có lợi nhuận cao
hơn.
2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước về tác động của đòn bẩy tài chính đến khả
năng sinh lời của doanh nghiệp
Châu Văn Thường & cộng sự (2017) nghiên cứu tác động của đòn bẩy tài chính lên hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp với sử dụng dữ liệu bảng của 302 doanh nghiệp niêm yết trên
Sở giao dịch Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) giai đoạn 2007 – 2015. Kết quả
nghiên cứu chỉ ra tác động tích cực của tỉ lệ nợ lên hiệu quả hoạt động tài chính của doanh
nghiệp thông qua hệ số tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA). Tác giả đưa ra khuyến nghị các
công ty nên tăng mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính để cải thiện tình hình tài chính của công
ty.
Tuy nhiên, các bài khác lại đưa ra kết quả ngược lại. Phạm Thị Hồng Vân & Nguyễn
Thị Minh Nghi (2018) đã xác định được đòn bẩy tài chính và quy mô theo tài sản có tác động
ngược chiều đến khả năng sinh lời, trong khi quy mô theo doanh thu tác động cùng chiều đến
khả năng sinh lời. Tương tự, Chu Thị Thu Thủy & cộng sự (2014) có bài nghiên cứu “Phân
tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của các công ty cổ phần phi tài chính niêm
yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh”sử dụng mô hình hồi quy bội ROA
cho thấy đòn bẩy tài chính có ý nghĩa thống kê tại mức 5% và có tác động âm đến hiệu quả tài
chính. Lê Hoàng Vinh (2018) nghiên cứu tác động của cơ cấu vốn đến lợi nhuận của doanh
nghiệp phi tài chính niêm yết trên HOSE. Dựa trên xây dựng mô hình có biến phụ thuộc là tỷ
suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), tác giả kết luận đòn bẩy tài chính có tác động
ngược chiều đến lợi nhuận của doanh nghiệp và đưa ra các chính sách khuyên nghị đến các
doanh nghiệp cần điều chỉnh cơ cấu vốn cho hợp lí.
Ngoài ra, Nguyễn Thị Ngọc Trang & Trang Thúy Quyên (2013) đã nghiên cứu về tác
động của đòn bẩy tài chính đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Từ đó, bài viết đã đi đến
kết luận cho rằng tùy thuộc vào đối tượng công ty áp dụng mà sẽ có hai chiều hướng khác
nhau. Đối với công ty có tốc độ tăng trưởng cao, đòn bẩy tài chính sẽ có tác động tích cực,
hay nói cách khác, giúp công ty mang lại lợi nhuận cao hơn và giúp công ty phát triển mạnh.
Tuy nhiên, với các đối tượng công ty có tốc độ tăng trưởng thấp, đòn bẩy tài chính sẽ không
phát huy được tác dụng thuận chiều, mà ngược lại, nó sẽ có tác động xấu đến kết quả đầu tư
của doanh nghiệp.
2.3. Tổng quan về doanh nghiệp và doanh nghiệp bất động sản
2.3.1. Khái niệm doanh nghiệp, doanh nghiệp Bất động sản
Khái niệm doanh nghiệp :
Theo Bộ Luật Doanh nghiệp năm 2014 của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam, tại Chương 1 Điều 1 Mục 7 có quy định: “Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, có tài
Với biến độc lập FL, giá trị trung bình của đòn bẩy tài chính tại các doanh nghiệp là
2,717204 với độ lệch chuẩn là 1,97256; Giá trị nhỏ nhất là 0,1532879 và giá trị lớn nhất là
10,22507, có thể thấy mức dao động khá lớn giữa hai giá trị này.
Với biến độc lập STD, giá trị trung bình là 0,6186025 với độ lệch chuẩn 0,2334554; giá
trị nhỏ nhất là 0,0755147 và giá trị lớn nhất là 0,9996632.
Với biến độc lập LTD, giá trị trung bình là 0,3813975 với độ lệch chuẩn 0,2334554; giá
trị nhỏ nhất là 0,0003368 và giá trị lớn nhất là 0,9244853.
Với biến kiểm soát DIV, giá trị trung bình là 415,3123 với độ lệch chuẩn 744,0806; giá
trị nhỏ nhất là 0 và giá trị lớn nhất là 5856,515, đây là biên độ dao động khá lớn.
Với biến kiểm soát BS, giá trị trung bình là 6,055556 với độ lệch chuẩn 1,483762; giá
trị nhỏ nhất là 4 và giá trị lớn nhất là 13.
Với biến kiểm soát GOV, giá trị trung bình là 0,3194444 với độ lệch chuẩn 0,4673445;
giá trị nhỏ nhất là 0 và giá trị lớn nhất là 1.
Với biến kiểm soát INT, giá trị trung bình là 0,9722222 với độ lệch chuẩn 0,1647173;
giá trị nhỏ nhất là 0 và giá trị lớn nhất là 1.
4.2. Kiểm định mô hình đa cộng tuyến
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 267
Ta sử dụng mô hình đa cộng tuyến để kiểm định sự tương quan giữa các biến độc lập và
phụ thuộc trong mô hình xây dựng. Bảng ma trận Pearson được vận dụng làm phương pháp
kiểm định mô hình này.
Bảng 3. Bảng hệ số tương quan Pearson
ROA ROE FL DIV STD LTD BS GOV INT
ROA 1,0000
ROE 0,6129 1,0000
FL 0,1046 0,4721 1,0000
0,1255 0,0000
DIV 0,2411 0,4237 0,2669 1,0000
0,0033 0,0000 0,0001
STD 0,0410 -0,0722 -0,2400 0,0688 1,0000
0,5494 0,2905 0,0004 0,3141
LTD -0,0410 0,0722 0,2400 -0,0688 -1,0000 1,0000
0,5494 0,2905 0,0004 0,3141 0,0000
BS -0,1956 0,0065 0,0350 -0,0934 0,0022 -0,0022 1,0000
0,0039 0,9245 0,6094 0,1712 0,9742 0,9742
GOV 0,0458 0,1018 0,1214 0,2786 0,1042 -0,1042 -0,0123 1,0000
0,5028 0,1360 0,0750 0,0000 0,1267 0,1267 0,8574
INT -0,0572 -0,0701 0,0342 0,0648 0,0235 0,0349 0,0063 0,1158 1,0000
0,4026 0,3048 0,6171 0,3430 0,7310 0,6104 0,9261 0,0895
(Nguồn : Bảng số liệu từ phần mềm Stata 14.2)
Các số Sig. thể hiện mức ý nghĩa tương quan trong từng cặp biến đều khá lớn (lớn hơn
5%), chứng tỏ các cặp biến ít xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến, ngoại trừ số Sig. của một số
cặp biến đáng chú ý, bao gồm ROA, ROE, FL, DIV và FL, STD, LTD nhỏ hơn 5%, tuy nhiên
nhìn chung hiện tượng này sẽ không ảnh hưởng đến chất lượng của mô hình.
Độ lớn của hệ số tương quan cũng tương đối thấp, tuy nhiên có một số cặp biến đáng
chú ý với hệ số cao hơn như ROA, ROE (61.29%), FL, ROE (47.21%) có thể dẫn đến hiện
tượng đa cộng tuyến cho mô hình trong bài. Tuy nhiên, nhìn trên tổng thể, hiện tượng này sẽ
không quá ảnh hưởng đến kết luận của bài nghiên cứu. Riêng giữa cặp biến độc lập STD và
LTD có xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến (-100%) nên nhóm chúng tôi sẽ loại trừ biến STD ra
khỏi mô hình.
Ta có mô hình cuối cùng:
Mô hình [1]:
ROAit = β0 + β1FLit + β2LTDit + β3DIVit + β4BSit + β5GOVit + β6INTit + Ɛit
Mô hình [2]:
ROEit = β0 + β1FLit + β2LTDit + β3DIVit + β4BSit + β5GOVit + β6INTit + Ɛit
Từ đây, chúng ta có thể kết luận rằng hầu như không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến
giữa các biến mà ta đã xây dựng trong mô hình này. Đây là cơ sở và là điều kiện thuận lợi cho
nghiên cứu được tiếp tục và kiểm định ở mô hình tiếp theo, từ đó đưa ra các khuyến nghị
thích hợp và chính xác cho các nhà quản trị.
Ngoài ra, ROA với các biến độc lập khác hầu như không có hiện tượng đa cộng tuyến,
ngoài trừ với biến DIV có số Sig. là 0.33% (nhỏ hơn 5%), tuy nhiên hệ số tương quan không
quá cao (24.11%).
4.2. Kiểm định mô hình OLS
4.2.1. Kiểm định mô hình [1]
Bảng 4. Bảng kiểm định mô hình OLS với mô hình 1.1. và 1.2.
Source SS df MS Number of obs = 216
F(7, 208) = 3,8
Giới thiệu
Hội đồng quản trị là một yếu tố rất quan trọng trong bộ máy điều hành, HĐQT thay mặt
các cổ đông của công ty thực hiện giám sát hoạt động của những người quản lý điều hành,
ngăn ngừa các mâu thuẫn và xung đột lợi ích giữa các cổ đông và ban lãnh đạo công ty, nhằm
bảo vệ quyền lợi, đồng vốn của các cổ đông. HĐQT không can thiệp vào hoạt động hàng ngày
mà chỉ tư vấn và giám sát hoạt động của ban điều hành, dựa trên các chiến lược kinh doanh đã
được HĐQT đề ra và được đại hội đồng cổ đông thông qua (Mạn Đình, 2015). Để có một hội
đồng quản trị chuyên nghiệp, hiệu quả thì mỗi vị trị thành viên trong HĐQT cần phải được
lựa chọn, xem xét kỹ lưỡng. Tuy nhiên, đối với hầu hết các doanh nghiệp ở Việt Nam, mặc dù
hiệu quả hoạt động của HĐQT đang dần được cải thiện vẫn còn nhiều thiếu sót và bộc lộ
nhiều mặt hạn chế. Theo báo The Leader (2018), khi HOSE tiến hành chấm điểm quản trị của
các công ty thành viên và mang ra so sánh với các công ty khác trong khu vực ASEAN 6
(Singapore, Malaysia, Philippines, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam), điểm số của Việt Nam
thấp nhất. Như vậy, trong môi trường kinh doanh đầy tính cạnh tranh hiện nay, doanh nghiệp
càng phải nâng cao tính quản lý, xây dựng chặt chẽ bộ máy quản lý của HĐQT.
Trong cơ cấu của HĐQT, tỷ lệ sở hữu của thành viên hội đồng quản trị là một yếu tố
quan trọng tác động tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Tỷ lệ sở hữu thành viên hội
đồng quản trị là phần trăm cổ phần mà các thành viên HĐQT nắm giữ (Đoàn Ngọc Phúc & Lê
Văn Thông, 2014). Như vậy, tỷ lệ sở hữu của các thành viên HĐQT càng lớn thì HĐQT càng
có quyền hợp pháp giám sát sự vận hành của công ty để đạt được hiệu quả kinh doanh. Từ đó,
việc xây dựng đúng vị trí, chức năng của mỗi một thành viên trong HĐQT là rất cần thiết, đặc
biệt là lựa chọn ra thành viên HĐQT độc lập uy tín. Nghiên cứu của Đoàn Ngọc Phúc & Lê
Văn Thông (2014) kết luận rằng sự độc lập của thành viên HĐQT trong công ty có tác động
tích cực đến lợi nhuận. Đồng quan điểm với vấn đề trên, báo The Leader (2018) cho rằng để
chuyên nghiệp hóa hội đồng quản trị doanh nghiệp cần bổ sung thành viên HĐQT độc lập để
giám sát và tăng tính minh bạch trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, chúng
tôi muốn nghiên cứu tác động của tỷ lệ sở hữu thành viên hội đồng quản trị, bên cạnh đó còn
có các yếu tố như quy mô, cổ tức, năm niêm yết, .... đến lợi nhuận của các doanh nghiệp. Đây
là những vấn đề các nhà quản lý cần quan tâm để quản trị doanh nghiệp một cách hiệu quả,
góp phần tăng giá trị và doanh thu cho doanh nghiệp của mình.
Bài viết của chúng tôi nghiên cứu về tác động của tỷ lệ sở hữu thành viên HĐQT đến
lợi nhuận của doanh nghiệp ngành công nghiệp được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán
Việt Nam. Bài viết của chúng tôi theo kết cấu như sau:
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 273
Chương 1. Tổng quan nghiên cứu
Chương 2. Cơ sở lý luận
Chương 3. Phương pháp nghiên cứu
Chương 4. Kết quả nghiên cứu
Chương 5. Kết luận và khuyến nghị
Chương 1. Tổng quan nghiên cứu
1.1. Các nghiên cứu nước ngoài
Năm 2007, Zeitun và Tian đã đưa ra nghiên cứu về mối quan hệ giữa cấu trúc sở hữu và
hiệu quả hoạt động kinh doanh với những dẫn chứng cụ thể từ các doanh nghiệp ở Jordan.
Tác giả đã tìm hiểu dữ liệu của 167 công ty niêm yết trên sàn chứng khoán tại nước này trong
giai đoạn 1989 – 2003. Trong bài nghiên cứu, biến phụ thuộc là biến về các chỉ số lợi nhuận
(như ROA, ROE, PROF, Tobin’s Q, MBVR, MBVE, P/E) và biến độc lập bao gồm: đòn bẩy
tài chính (Leverage), tăng trưởng (Growth), quy mô (Size), độ lệch chuẩn của dòng tiền
(STDVCF), thuế (TAX), tài sản hữu hình (Tangibility). Trong đó, có năm thước đo chỉ tiêu
đòn bẩy tài chính: tổng nợ trên tổng tài sản (TDTA), tổng nợ trên tổng vốn chủ sở hữu
(TDTE), nợ dài hạn trên tổng tài sản (LTDTA), nợ ngắn hạn trên tổng tài sản (STDTA), và
tổng nợ trên tổng vốn (TDTC). Bằng việc sử dụng phương pháp hồi quy tương quan và bình
phương nhỏ nhất (OLS), nghiên cứu đưa ra kết luận: tỷ suất nợ ngắn hạn trên tổng tài sản
(STDTA), thuế (TAX) và quy mô (Size) có ảnh hưởng cùng chiều với kết quả hoạt động của
doanh nghiệp; trong khi mối quan hệ của cấu trúc vốn và kết quả kinh doanh là ngược chiều
nhau.
Taghizadeh và Saremi (2013) đã tìm hiểu về tác động của đặc điểm HĐQT (tần suất họp
HĐQT, sự độc lập của giám đốc điều hành) và sự đa dạng giới tính các thành viên HĐQT đến
hiệu quả của doanh nghiệp. Tác giả sử dụng phương pháp định lượng và tất cả dữ liệu là dữ
liệu thứ cấp: bao gồm 150 công ty niêm yết công khai ở Malaysia vào cuối năm 2008. Kết quả
nghiên cứu cho thấy tần suất họp HĐQT cao, tỷ lệ cao các giám đốc không điều hành độc lập
tác động ngược chiều tới ROE, tỷ lệ cao các thành viên trong HĐQT là nữ có tác động tích
cực tới ROE. Ngoài ra, quy mô lớn làm tăng ROE và tỷ lệ đòn bẩy cao làm giảm ROE.
Khoảng thời gian công ty niêm yết là biến kiểm soát và ROE không bị ảnh hưởng bởi biến
này. Còn đối với ROA, tần suất họp HĐQT và tỷ lệ đòn bẩy cao có tác động ngược chiều tới
ROA trong khi quy mô lớn làm tăng ROA. Kết quả của nghiên cứu này đã rất hữu ích cho các
nhà hoạch định chính sách quản trị doanh nghiệp ở Malaysia.
Doğan (2013) đã sử dụng dữ liệu của 200 công ty hoạt động tại Sở giao dịch chứng
khoán Istanbul (ISE) tại Thổ Nhĩ Kỳđể nghiên cứu tác động của quy mô doanh nghiệp đến lợi
nhuận của công ty. Lợi nhuận trên tài sản (ROA) được sử dụng làm chỉ số về lợi nhuận của
công ty và tổng tài sản (SIZE_TA), tổng doanh số (SIZE_TS) và số lượng nhân viên
(SIZE_EMP) đã được sử dụng làm chỉ số về quy mô trong khi đó các biến độc lập là yếu tố
tuổi của công ty (Firm age), đòn bẩy tài chính (LEV), tỷ lệ thanh khoản (Liquidity). Kết quả
nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa các chỉ số quy mô và lợi nhuận của các công ty.
Bên cạnh đó, các biến kiểm soát theo tuổi của các công ty và tỷ lệ đòn bẩy có mối quan hệ
tiêu cực với ROA, trong khi tỷ lệ thanh khoản và ROA đã được xác định là có mối quan hệ
tích cực. Nói cách khác, các công ty được liệt kê trong ISE có lợi nhuận cao hơn khi quy mô
của họ mở rộng. Điều này có thể được giải thích thực tế là các doanh nghiệp lớn có hiệu quả
hơn các doanh nghiệp nhỏ kể từ khi họ sử dụng nền kinh tế quy mô.
Năm 2013, Omondi và Muturi đã đưa ra những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động của các công ty niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán Nairobi tại Kenya. Qua nghiên
cứu này, các tác giả cho rằng những yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc cải thiện hiệu
quả tài chính của công ty là: đòn bẩy, tính thanh khoản, quy mô doanh nghiệp và tuổi thọ của
công ty. Những yếu tố này có tác động tỷ lệ thuận với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp,
cụ thể là tỷ số lợi nhuận trên tài sản (ROA). Ví dụ, các báo cáo tài chính sẽ tốt hơn khi tính
thanh khoản tối ưu; ngoài ra, các công ty có tuổi đời và quy mô lớn nhờ nguồn lực và quy mô
kinh tế sẽ có vị thế cạnh tranh tốt hơn trên thị trường nếu không xảy ra tham nhũng hay một
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 274
số hiện tượng khác. Có thể thấy, khi các yếu tố trên tăng thì lợi nhuận của công ty cũng được
cải thiện rõ rệt.
Niresh & Velnampy (2014) đã nghiên cứu về quy mô và lợi nhuận của các công ty sản
xuất được niêm yết ở Sri Lanka, đăng trên Tạp chí quốc tế về kinh doanh và quản lý. Trong
nghiên cứu này, tác giả đã sử dụng dữ liệu của 15 công ty đang hoạt động tại Sở giao dịch
chứng khoán Colombo (CSE) giai đoạn 2008-2012. Biến phụ thuộc được chọn là NP (Net
Profit) và ROA; biến độc lập là Firm Size 1 (Size_TA), Firm Size 2 (Size_TS), và biến kiểm
soát doanh số/tổng tài sản (Asset tunover). Bằng phương pháp hồi quy và tương quan đã được
sử dụng trong phân tích thực nghiệm, kết quả cho thấy, quy mô của công ty không có tác
động sâu sắc đến lợi nhuận của các công ty sản xuất niêm yết ở Sri Lanka. Tuy nhiên, hạn chế
của nghiên cứu này là việc sử dụng dữ liệu thuộc các năm từ 2008 đến 2012 và chỉ các công
ty trong Sở giao dịch chứng khoán Colombo (CSE) hoạt động trong lĩnh vực sản xuất. Trong
các nghiên cứu trong tương lai ảnh hưởng của quy mô doanh nghiệp đến lợi nhuận có thể
được phân tích bằng cách phân biệt theo ngành.
Nghiên cứu vào năm 2014 của Johl và Salami về sự tác động của thành phần HĐQT đến
hiệu suất công ty. Cụ thể, các yếu tố được nhắc tới là trình độ chuyên môn khác nhau của
thành viên HĐQT, tuổi của thành viên HĐQT, giám đốc có chuyên môn kế toán có ảnh
hưởng thế nào đối với ROEvà ROA. Kết quả nghiên cứu cho thấy độ tuổi của các thành viên
HĐQT không ảnh hưởng đến hoạt động của công ty, trong khi trình độ của các thành viên
HĐQT và giám đốc có chuyên môn kế toán lại có tác động cùng chiều với hiệu quả doanh
nghiệp. Hai năm sau, Veklenko cũng đã nghiên cứu về chủ đề này nhưng dữ liệu được thu
thập từ các công ty ở châu Âu. Cụ thể, ba chỉ số hiệu suất đã được sử dụng –ROA, ROE và hệ
số Tobin’s Q. Phân tích cho thấy một dấu hiệu nhỏ cho mối quan hệ hình chữ U giữa kích
thước HĐQT với ROA và mối quan hệ hình chữ U ngược với ROE và Tobin’s Q. Tuy nhiên,
cả hai đều không có ý nghĩa thống kê để đưa ra kết luận. Đồng thời, nghiên cứu đã xác nhận
giả thuyết rằng các hội đồng có tỷ lệ giám đốc độc lập cao có mức ROE cao hơn, nhưng kết
quả điều tra ảnh hưởng đối với ROA và Tobin’s Q không có ý nghĩa thống kê.
Vào tháng 11 năm 2014, Thafani và Abdullah đã nghiên cứu về sự ảnh hưởng của việc
chi trả cổ tức lên kết quả hoạt động của công ty. Các dữ liệu được thu thập từ các báo cáo
hàng năm của những doanh nghiệp sản xuất niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán
Colombo tại Sri Lanka trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2011. Hai tác giả đã chỉ rõ mối
quan hệ giữa việc chi trả cổ tức với ROA vàROE là cùng chiều và với lợi nhuận tính trên một
cổ phiếu là ngược chiều. Ba năm sau, trong Tạp chí nghiên cứu về kinh doanh và quản lý, số
4, Kanwal và Hameed đã sử dụng dữ liệu của 20 công ty Pakistan được niêm yết trên Sở giao
dịch chứng khoán Karachi trong năm năm từ 2008 đến 2012 và đưa ra kết luận tương tự. Với
bốn biến phụ thuộc là hiệu quả tài chính của công ty, ROA, ROE, lợi nhuận ròng và một biến
độc lập là tỷ lệ chi trả cổ tức, kết quả nghiên cứu cho thấy mối liên hệ giữa khoản thanh toán
cổ tức với hiệu quả tài chính, lợi nhuận sau thuế, ROA, và ROE đều là tích cực. Từ đó, nghiên
cứu tổng thể khẳng định hiệu suất tài chính vững chắc chịu ảnh hưởng của khoản chi trả cổ
tức.
Onanjiri và Korankye (2014) đã đưa ra nghiên cứu về chính sách chi trả cổ tức và hiệu
quả hoạt động của các công ty trong lĩnh vực sản xuất ở Ghana, đăng trong Tạp chí nghiên
cứu tài chính kế toán, số 6. Tác giả đã lựa chọn mẫu nghiên cứu bao gồm tất cả các công ty
sản xuất được ở GSE trong giai đoạn 2004 đến 2011. Biến phụ thuộc được chọn là ROA, và
biến độc lập bao gồm: Cổ tức (DPOUT), tỷ lệ nợ (LEVE), quy mô doanh nghiệp (SIZE), sự
tăng trưởng doanh thu (SGRTH). Tác giả đã sử dụng mô hình ảnh hưởng cố định (FEM), mô
hình ảnh hưởng ngẫu nhiên (REM), thống kê mô tả, ma trận tương quan và sau đó sử dụng
các kiểm định như Pearson, Hausman, Breusch-Godfrey/Wooldridge, Breusch-Pagan. Kết quả
cuối cùng là các biến kiểm soát như quy mô (SIZE) và đòn bẩy tài chính (LEVE) có tác động
tiêu cực đối với lợi nhuận của công ty trong khi sự tăng trưởng doanh thu (SGRTH) có mối
tương quan tích cực.
Khoảng thời gian công ty niêm yết trên sàn giao Biến
9 Năm niêm yết LISTED
dịch chứng khoán kiểm soát
* Chú thích: Mệnh giá cổ phiếu tại Việt Nam là 10.000 VND.
3.3. Mô hình nghiên cứu
Dựa theo nghiên cứu của Đoàn Ngọc Phúc, Lê Văn Thông (2014), bài viết sử dụng kỹ
thuật mô hình hồi quy giản đơn OLS để kiểm định mối quan hệ giữa tỷ lệ sở hữu của thành
viên hội đồng quản trị và lợi nhuận của doanh nghiệp. Đồng thời, bài cũng xem xét sự tác
động của các biến còn lại trong mô hình lên khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
Mô hình:
ROAit = β1 + β2 ORDit + β3 NDit + β4 LEVit + β5 SIZEit + β6 DIVit + β7 FOUNDit
+ β8 LISTEDit + εit
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 282
ROEit = β1 + β2 ORDit + β3 NDit + β4 LEVit + β5 SIZEit + β6 DIVit + β7 FOUNDit
+ β8 LISTEDit + εit
Trong đó: β1: Hệ số chặn
β2, β3, …, β8: Các hệ số
ε: sai số mô hình
i: doanh nghiệp
t: năm
3.4. Xây dựng các biến trong mô hình
Giả thuyết nghiên cứu:
H0: Tỷ lệ sở hữu của thành viên HĐQT có tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
H1: Tỷ lệ sở hữu của thành viên HĐQT không tác động đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Chương 4. Kết quả nghiên cứu
4.1. Thống kê mô tả
Bảng 4.1: Thống kê mô tả giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, giá trị nhỏ nhất, giá trị lớn
nhất
Biến Số quan sát Trung bình Độ lệch chuẩn Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất
ROA 496 0,0494 0,1045 -1,7787 0,2821
ROE 496 0,2342 0,3268 -2,3349 2,1092
ORD 494 0,2789 0,2276 0,0000 0,9710
ND 496 5,7944 1,3551 3 11,0000
LEV 496 0,5239 0,2150 0,0061 0,9439
SIZE 496 27,8379 1,0124 25,7617 30,6616
DIV 496 628,4875 885,7035 0,0000 6818,1820
FOUND 496 12,7258 4,0925 3 24,0000
LISTED 496 9,4032 2,6451 7 17,0000
(Nguồn: Bảng số liệu từ phần mềm Eview 9)
Dựa vào bảng thống kê mô tả 4.1, ta có thể đưa ra một số nhận xét tổng quan về lợi
nhuận các doanh nghiệp ngành công nghiệp, cũng như các yếu tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của
95 doanh nghiệp này. Bảng 4.1 cho thấy ROA có giá trị trung bình là 4,94%, với khoảng biến
thiên từ -177,87% đến 28,21%. ROE có giá trị trung bình cao hơn, khoảng 23,42%, với
khoảng biến thiên từ -233,49% đến 210,92%. Qua đây, có thể thấy ROA và ROE giữa các
công ty được lựa chọn có sự chênh lệch đáng kể.
Ngoài ra, dựa vào bảng ta cũng có thể có những đánh giá khái quát chung về các biến
độc lập – các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp: giá trị trung bình, độ lệch
chuẩn và biên độ biến động. Đối với biến tỷ lệ sở hữu của các thành viên HĐQT, ta có thể
thấy giá trị trung bình của ORD là 23,42%, biến thiên từ 0 tới 97,10%. Tiếp theo là số thành
viên HĐQT, biến ND biến thiên từ 3 tới 11 thành viên. Cán cân tài chính LEV có giá trị trung
bình là 52,39%, giá trị nhỏ nhất là 0,61%, giá trị lớn nhất là 94,39%. Giá trị trung bình của
quy mô doanh nghiệp là 27,8379, với độ biến thiên không lớn, trong khoảng từ 25,7617 tới
30,6616. Biến cổ tức có giá trị trung bình là 628,4875 VND/cổ phiếu, với giá trị nhỏ nhất là 0
(đối với các doanh nghiệp trả cổ tức bằng cổ phiếu) và giá trị cao nhất là 6818,182 VND/cổ
phiếu. Cuối cùng là hai biến số năm thành lập của doanh nghiệp và số năm doanh nghiệp
niêm yết trên sàn giao dịch chứngkhoán. Biến FOUND có khoảng biến thiên từ 3 cho đến 24
năm, biến LISTED biến thiên từ 7 đến 17 năm.
4.2. Kiểm tra đa cộng tuyến
Bảng 4.2: Bảng ma trận tương quan Pearson giữa các biến trong mô hình
ROA ROE ORD ND LEV SIZE DIV FOUND LISTED
ROA 1,0000
ROE 0,6901 1,0000
ORD 0,0658 0,0498 1,0000
TÓM TẮT
Nghiên cứu sử dụng số liệu của 27 công ty đang niêm yết trên Sở giao dịch
chứng khoán..., các biến được đưa vào nghiên cứu là các biến liên quan đến lợi
nhuận , để xem tác động của chúng đến hiệu quả tài chính của doanh nghiệp. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, biến Thành viên Hội đồng quản trị là người nước ngoài,
biến quy mô doanh nghiệp, biến đòn bẩy tài chính và biến lượng chi trả cổ tức có
tác động đến lợi nhuận công ty. Bên cạnh đó, biến quy mô doanh nghiệp và biến
đòn bấy tài chính cho thấy tác động cùng chiều với lợi nhuận , trong khi biến biến
Thành viên Hội đồng quản trị là người nước ngoài và biến lượng chi trả cổ tức
được xác định rằng có tác động ngược chiều.
Từ khóa: Yếu tố quản trị, lợi nhuận, quy mô, doanh nghiệp bất động sản,
đòn bẩy tài chính, chi trả cổ tức.
1.Giới thiệu chung
Để một doanh nghiệp có thể vận hành tốt, việc có một Hội đồng Quản trị là vô cùng quan
trọng. Là cơ quan quản lý công ty, nhân danh công ty để đưa ra các quyết định thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của công ty, mọi quyết định của Hội đồng Quản trị đều có giá trị pháp lý
và ảnh hưởng đến sự hoạt động, phát triển và lợi nhuận của doanh nghiệp. Cụ thể hơn, Hội
đồng Quản trị đưa ra mọi quyết định liên quan đến chiến lược, kế hoạch phát triển, kinh
doanh ngắn và dài hạn, các hình thức đầu tư, phát triển thị trường; các quyết định liên quan
đến các hình thức huy động vốn như chào bán cổ phần, phát hành trái phiếu, …; các quyết
định về bổ nhiệm Tổng giám đốc, giám đốc hay nhân sự nội bộ công ty và còn có thể đưa ra
các kiến nghị về tái cấu trúc, giải thể hay phá sản công ty. Với quyền hạn lớn đến vậy, việc
Hội đồng Quản trị hoạt động hiệu quả sẽ đem lại doanh thu lớn, đảm bảo thu nhập nhân viên,
đem lại giá trị cho xã hội, cho nền kinh tế, và quan trọng nhất là quyết định sự tồn vong của
doanh nghiệp. Dù có tầm quan trọng lớn đến vậy, tuy nhiên trên thực tế, Hội đồng Quản trị
của các doanh nghiệp Việt vẫn đang hoạt động với hiệu quả thấp, thấp hơn rất nhiều so với
các công ty khác trong khu vực ASEAN 6 (Singapore, Malaysia, Philippines, Indonesia, Thái
Lan và Việt Nam).
Theo nhận định của ông Lê Hải Trà, chủ tịch HOSE, các thành viên Hội đồng Quản trị tại
Việt Nam thiếu nhiều kiến thức và kỹ năng để đóng góp vào việc phát triển chiến lược công ty
một cách tốt nhất. Bên cạnh đó, hệ thống phúc lợi cho Hội đồng Quản trị chưa được rõ ràng,
ảnh hưởng nhiều đến quyết tâm cống hiến của các thành viên Hội đồng Quản trị. Cuối cùng,
các chương trình đào tạo, phát triển cho công việc kế nhiệm vẫn chưa được xem trọng, vì vậy
các thế hệ Hội đồng Quản trị tiếp theo của doanh nghiệp thường gặp rất nhiều khó khăn trong
việc tiếp quản, điều hành doanh nghiệp và hiểu rõ quyền hạn, phân công công việc của từng
thành viên. Tất cả những điều trên cho thấy sự khó khăn của đa số Hội đồng Quản trị các
doanh nghiệp Việt hiện tại trong việc hoạt động hiệu quả để đem lại lợi nhuận cao từ việc
điều hành doanh nghiệp, cũng như thể hiện sự thiếu hụt trong các tiêu chí chọn lựa thành viên
Hội đồng Quản trị để đảm bảo lợi nhuận doanh nghiệp.
Thông thường chúng ta sẽ nghĩ rằng ban Quản trị càng có thâm niên, kinh nghiệm trong
ngành và nhiều kiến thức trong ngành, doanh nghiệp càng hoạt động tốt và càng có cơ hội thu
được lợi nhuận cao điển hình như nghiên cứu của Kor và Sundaramurthy (2006). Việc Hội
đồng Quản trị có nhiều kinh nghiệm cũng thúc đẩy việc trao đổi thông tin với các ban Quản
trị của các doanh nghiệp khác trong ngành hay với Chính phủ hiện tại, tạo lợi thế cạnh tranh
cho doanh nghiệp nói riêng và ngành kinh doanh nói chung (Milliken và Martin – 1996). Tuy
nhiên, một nghiên cứu khác lại đưa ra góc nhìn khá độc đáo về mặt thâm niên trong ngành của
thành viên Hội đồng Quản trị, khi nghiên cứu này chỉ ra rằng sự đa dạng trong thâm niên giữa
các thành viên Hội đồng Quản trị mới đem lại hiệu quả hoạt động cao nhất cho doanh nghiệp
(Wellalage và Locke - 2013). 2 tác giả cho rằng, việc đa dạng trong thâm niên giúp doanh
nghiệp hưởng lợi thế phát triển bền vững từ những thành viên với thâm niên cao, trong khi
những thành viên thâm niên thấp có thể đưa ra những phương hướng kinh doanh đột phá,
sáng tạo hơn, tạo ra môi trường làm việc đa chiều, tìm kiếm những thị trường mới tốt hơn, bởi
họ không bị giới hạn bởi những kiến thức và kinh nghiệm đã biết về ngành và doanh nghiệp.
Tóm lại, các nghiên cứu trước đây về tác động của thâm niên nghề nghiệp của thành viên Hội
đồng Quản trị đưa ra những kết luận theo nhiều chiều hướng khác nhau, không có sự thống
nhất giữa các doanh nghiệp hay môi trường nghiên cứu. Dù vậy, đa số nghiên cứu có điểm
chung rằng, để đảm bảo lợi nhuận cho doanh nghiệp, Hội đồng Quản trị vẫn cần một số lượng
thành viên với thâm niên nghề nghiệp nhất định.
Quy mô hội đồng quản trị
Horváth và Spirollari đưa ra giả thiết rằng số lượng thành viên trong hội đồng quản trị
ảnh hưởng ngược chiều đến hiệu quả của công ty. Theo Jensen (1993) doanh nghiệp có quy
mô hội đồng quản trị lớn thường có hiệu suất kém hơn so với doanh nghiệp có hội đồng quản
trị quy mô nhỏ và làm tăng tỉ lệ xuất hiện hiện tượng “free-riding” (trường hợp một cá nhân
nào đó được hưởng lợi ích từ việc mà anh ta/cô ta không cần bỏ công sức vào). Siti
Norwahida Shukeri et al (2012) đưa ra giả định “Có mối quan hệ thuận chiều giữa quy mô
HĐQT và lợi ích doanh nghiệp.” Gỉa định của nhóm tác giả dựa trên cơ sở nhiều thành viên
trong ban quản trị sẽ đẩy mạnh sự kiểm soát và quản, giúp tăng hiệu quả hoạt động tài chính và
phi tài chính của doanh giúp tăng hiệu quả hoạt động tài chính và phi tài chính của doanh nghiệp.
Kết quả nghiên cứu của nhóm 3 tác giả đã chỉ ra được quy mô hội đồng quản trị tương quan
thuận với lợi ích doanh nghiệp.
Sự đa dạng về giới tính trong HĐQT
Dẫn chứng ra nghiên cứu của Campbell và Minguez-Vera (2007) cho thấy tỉ lệ phụ nữ
trong HĐQT có ảnh hưởng đáng kể đến hệ số q-Tobin (tỷ số giữa giá trị thị trường và giá trị
thay thế của một tài sản hữu hình) và nghiên cứu của Dobbin và Jung (2011) lại cho thấy việc
có nhiều phụ nữ trong HĐQT không làm tăng hay giảm lợi nhuận của doanh nghiệp.
Sự đa dạng chủng tộc trong doanh nghiệp
Nghiên cứu của Vafeas (1999) cho thấy, công ty có tần suất họp hội đồng quản trị ít thì
có giá trị sổ sách cao hơn. Theo Vafeas, cơ sở cho việc này là tần suất họp ban quản trị dày
đặc là dấu hiệu của sự yếu kém thiếu hiệu quả của thành viên hội đồng và cũng thể hiện các
vấn đề liên quan đến tương tác giữa các thành viên ban quản trị với nhau.
Thành phần ban quản trị (thành viên HĐQT độc lập)
Horváth và Spirollari đưa ra kết luận các giám đốc độc lập làm giảm hiệu suất doanh
nghiệp. Đưa ra giả định rằng các giám đốc độc lập ưa dùng các chiến lược kinh doanh bảo thủ
quá mức để bảo vệ nhóm cổ đông, nhưng điều này phải đánh đổi lại bằng hiệu suất thấp hơn
cho công ty. Nghiên cứu của Shukeri et al (2012) cũng đưa ra giả định “Có mối tương quan
thuận chiều giữa thành viên hội đồng quản trị độc lập với hiệu suất hoạt động của công ty.” Theo
Beasly, các ý kiến và đánh giá của thành viên độc lập thường trung thực và khách quan hơn cho
việc quản lí doanh nghiệp. Không chỉ thế, họ chỉ tập trung vào mục tiêu duy đó là phát triển công
ty, tăng lợi nhuận cho cổ đông. Kết quả nghiên cứu của Shukeri và cộng sự (2012) lcho thấy có
mối tương quan nghịch giữa thành viên hội đồng quản trị độc lập và hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp.
Dual CEO/Chairman
Nghiên cứu có tựa đề “ Ảnh hưởng của đặc điểm tổng giám đốc điều hành đến hiệu
quả hoạt động doanh nghiệp” của tác giả Phan Bùi Gia Thủy, Trần Đức Tài và Trần Thị Tú
Anh đăng trong tạp chí khoa học Đại học mở TP.HCM tháng 3/2017 kết luận rằng, những
công ty có CEO kiêm nhiệm chức danh chủ tịch HĐQT sẽ tạo ra khả năng sinh lời, có hiệu
quả hoạt động cao hơn so với những công ty không hoạt động theo cấu trúc này. Hơn thế nữa,
khi độ tuổi của CEO gia tăng đến khoảng 44 hay 45 tuổi, hiệu quả hoạt động công ty gia tăng.
Đây được xem là độ tuổi năng động, có nhiều sáng tạo, khả năng tư duy, học hỏi và ghi nhớ
tốt, làm tăng hiệu quả hoạt động của công ty. Bên cạnh đó, khi CEO vượt qua ngưỡng tuổi
này, đồng nghĩa tuổi đời CEO càng cao, sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động công ty. Bởi vì CEO
lớn tuổi thường xem trọng cả an toàn về tài chính lẫn an toàn về sự nghiệp. Họ có khuynh
hướng bảo thủ, độc đoán, e ngại rủi ro, ít nhanh nhạy và sáng tạo trong khi sự cạnh tranh của
thị trường ngày càng khốc liệt và gay gắt.
Nghiên cứu của Hoàng Thị Phương Thảo và cộng sự (2015) chỉ ra CEO là nữ giới
sẽ làm gia tăng thành quả ở những công ty không thuộc sở hữu nhà nước. Trong đó, các công
ty có CEO là nam giới có xu hướng chấp nhận rủi ro cao hơn so với các công ty có CEO là nữ
giới. Bên cạnh đó, tác giả không tìm thấy về tác động tích cực của tỉ lệ nữ giới trong hội đồng
quản trị và thành quả công ti. Nghiên cứu cũng kết luận rằng, kết quả này ủng hộ cho vai trò
lãnh đạo của nữ giới trong các doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước.
3.Số liệu, phương pháp và mô hình nghiên cứu
3.1.Số liệu
Tính đến ngày 29/12/2017, tổng cộng có 771 công ty đang niêm yết trên thị trường
chứng khoán. Trong đó, SDG Chứng khoán Hà Nội có 384 công ty niêm yết và SDG Chứng
khoán Hồ Chí Minh có 387 công ty niêm yết. Bài nghiên cứu sử dụng thông tin của 27 công
ty bất động sản được lựa chọn dựa trên các tiêu chí: doanh nghiệp niêm yết cung cấp đầy đủ
thông tin cần thiết phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
Để thực hiện việc kiểm định 7 giả thiết nghiên cứu và đo lường sự ảnh hướng của mối
quan hệ giữa các biến và lợi nhuận của doanh nghiệp đo lường theo mô hình hồi quy OLS.
Mô hình:
Lợi nhuận = β0 + β1 * TĐ + β2 * ĐT + β3 * SL TVHĐQT + β4 * SL TVHĐQT + Ɛ
Trong đó:
β0: Hệ số chặn
β1, β2,…: Các hệ số
Ɛ: sai số mô hình
4.Kết quả nghiên cứu
4.1. Phân tích tổng quan số liệu
Dựa vào bảng phân tích tổng quan dưới đây, ta có thể đưa ra một số nhận xét tổng quan
về mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới lợi nhuận của các công ty Bất động sản niêm yết
trên sàn Chứng khoán Hà Nội (HNX) và sàn Chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE).
Bảng chỉ ra rằng sự ảnh hưởng của các nhân tố đến lợi nhuận của các công ty niêm yết là
21,5357% với độ lệch chuẩn là 74,7763%. Có thể thấy biên độ biến động mức độ ảnh hưởng
của các nhân tố lên các công ty niêm yết với giá trị nhỏ nhất là -48,3912% và giá trị lớn nhất
là 71,4929%.
Ngoài ra, dựa vào bảng ta cũng cũng có thể có những đánh giá khái quát chung về các
biến độc lập – các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của các công ty bất động sản niêm yết:
Giá trị trung bình, độ lệch chuẩn và biên độ biến động.
Bảng 2: Thống kê, mô tả giá trị trung bình, phương sai, độ lệch chuẩn, giá trị lớn nhất,
nhỏ nhất
Variable Mean Standard Deviation Minimum Maximum
LNST 2,15357E+11 7,47763E+11 -4,83912E+11 7,14929E+12
HV 0,25 0,43401854 0 1
ĐT 47,56661966 4,903923141 37,6 65,2
SL TVHĐQT 6,046296296 1,468327695 4 13
SL TVHĐQTNN 0,236111111 0,664580068 0 3
DBTC 2,717204289 1,972560236 0,153287886 10,22506535
QM 12,39844263 0,513677915 9,987515321 14,32999157
CT 123984,4263 5136,779154 99875,15321 143299,9157
Bảng 4: Kết quả chạy mô hình OLS với biến phụ thuộc ROA
Standard Lower Upper Lower Upper
Coefficients Error t Stat P-value 95% 95% 95.0% 95.0%
2,78167 0,00590
Intercept 81,14073 29,16974 5 5 23,6345 138,647 23,6345 138,647
0,59646 0,00585
SLTVHDQT -0,00215 0,004061 -0,5303 6 -0,01016 2 -0,01016 0,005852
SLTVHDQTN
N -0,04533 0,009974 -4,5453 9,3E-06 -0,065 -0,02567 -0,065 -0,02567
0,41305 0,00118
Độ tuổi -0,00085 0,001031 -0,82018 4 -0,00288 7 -0,00288 0,001187
0,07372 0,94129 0,02442
Học vấn 0,00088 0,011942 9 7 -0,02266 3 -0,02266 0,024423
1,26141 0,20857 0,00849
DBTC 0,003316 0,002629 3 3 -0,00187 9 -0,00187 0,008499
Cổ tức -7,5603 2,719845 -2,77968 0,00594 -12,9223 -2,19831 -12,9223 -2,19831
2,78605 0,00582 0,17938 1,04762 0,17938
Quy mô 0,613506 0,220206 3 9 4 8 4 1,047628
Significance F 0,00000
R Square 0,141371813
Nguồn: Bảng số liệu từ Excel 2013
Bảng 5: Kết quả chạy mô hình OLS với biến phụ thuộc ROE
Standard Lower Upper Lower Upper
Coefficients Error t Stat P-value 95% 95% 95.0% 95.0%
Intercept 69,67155 96,41681 0,722608 0,470733 -120,408 259,751 -120,408 259,751
SLTVHDQT 0,016268 0,013422 1,212075 0,226859 -0,01019 0,042728 -0,01019 0,042728
SLTVHDQTN
N -0,06405 0,032967 -1,94272 0,0534 -0,12904 0,000947 -0,12904 0,000947
Độ tuổi 0,003982 0,003407 1,16884 0,243806 -0,00273 0,010699 -0,00273 0,010699
Học vấn -0,02091 0,039473 -0,52982 0,596805 -0,09873 0,056905 -0,09873 0,056905
DBTC 0,074029 0,008689 8,51935 3,24E-15 0,056898 0,091159 0,056898 0,091159
Cổ tức -6,41626 8,990097 -0,7137 0,476211 -24,1396 11,30713 -24,1396 11,30713
Quy mô 0,426663 0,727863 0,586186 0,558386 -1,00827 1,861597 -1,00827 1,861597
Significance F 1,72165E-12
R Square 0,281868017
Nguồn: Bảng số liệu từ Excel 2013
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 296
* Mô hình biến phụ thuộc ROE: Mô hình có R square ~ 28,19%, Adjusted R square ~
25,77%, như vậy biến phụ thuộc được giải thích bởi các biến độc lập lên tới 28% Trừ biến
đòn bẩy tài chính, tất cả các biến (4 biến độc lập và 3 biến kiểm soát) đều không tác động đến
biến phụ thuộc. Hệ số hồi quy của biến đòn bẩy tài chính trong mô hình là 0,0740287 > 0; hai
biến có mối quan hệ cùng chiều. Điều này ngược với giả thuyết đã đưa ra ban đầu, khác với
kết quả nghiên cứu của Ahmad et al (2015) chỉ ra đòn bẩy tài chính có mối quan hệ ngược
chiều với lợi ích doanh nghiệp với độ tin cậy 99%.
TÓM TẮT
Nghiên cứu này nhằm nghiên cứu tác động của thông báo giao dịch cổ
phiếu quỹ; thông báo giao dịch thành viên hội đồng quản trị và những người liên
quan đến thị giá cổ phiếu. Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của doanh nghiệp hoạt
động thuộc lĩnh vực tài chính niêm yết trên Sở GDCK HNX và Sở GDCK HOSE
trong giai đoạn 2010-2018. Sử dụng phương pháp nghiên cứu sự kiện và phương
pháp kiểm định T-test, đã làm rõ tác động của việc công bố thông tin ảnh hưởng
của thị giá cổ phiếu như thế nào trong khoảng trước và sau thông báo giao dịch
15 ngày.
Từ khóa: Thông báo giao dịch cổ phiếu quỹ, Thông báo giao dịch thành viên
HĐQT và những người liên quan, Thị giá cổ phiếu, Thị trường chứng khoán
Việt Nam.
1. Giới thiệu
Nghiên cứu này nghiên cứu về sự phản ứng của giá cổ phiếu khi doanh nghiệp công
bố thông tin giao dịch cổ phiếu quỹ; giao dịch của thành viên HĐQT và những người liên
quan. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng xem xét tác động của việc công bố thông tin lên lợi
nhuận trung bình bất thường và lợi nhuận bất thường tích lũy trung bình từ trước và sau 15
ngày từ ngày sự kiện (ngày công bố thông tin giao dịch). Dữ liệu được sử dụng bao gồm các
công ty tài chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam từ năm 2010 đến năm 2018
và áp dụng phương pháp nghiên cứu sự kiện trong tài chính cùng với phương pháp kiểm định
T-test.
Vấn đề mua lại cổ phiếu ảnh hưởng tới thị giá cổ phiếu cũng đã được nghiên cứu trong
nước bởi một số tác giả: Hạ Tấn Minh (2013) với đề tài nghiên cứu Tác động của việc mua lại
cổ phần lên giá cổ phiếu giá cổ phiếu – Bằng chứng ở Việt Nam hay Trịnh Thị Minh Hoa
(2015) với nghiên cứu “Phản ứng của giá cổ phiếu đối với các thông báo mua lại cổ phần của
các doanh nghiệp – Bằng chứng tại Việt Nam”. Tuy nhiên, các nghiên cứu về việc công bố
thông tin liên quan tới các giao dịch cổ phiếu quỹ và những người có liên quan còn rất hạn
chế ở cả trong và ngoài nước, do đó mà nhóm nghiên cứu quyết định lựa chọn đề tài “Tác
động của việc công bố thông tin giao dịch cổ phiếu quỹ, giao dịch của thành viên HĐQT và
những người có liên quan đến thị giá cổ phiếu” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tổng quan các công trình đã nghiên cứu trước đây
Có khá nhiều các công trình nước ngoài nghiên cứu về giao dịch cổ phiếu quỹ. Nghiên
cứu của Jurgita Stankeviþienơ, Simas Akelaitis (2014) đã chỉ ra rằng có một mối quan hệ giữa
giá trị của giá cổ phiếu và sự thay đổi giá gây ra bởi thông báo giao dịch cổ phiếu quỹ. Nghiên
cứu bao gồm các thông báo công khai được phát hành bởi các công ty niêm yết tại Sở GDCK
Vilnius. Phiên bản đơn giản hóa của phương pháp nghiên cứu sự kiện đã được sử dụng trong
bài báo này và lợi nhuận trung bình tuyệt đối và bất thường đã được tính toán. Hầu hết các kết
quả trong bài nghiên cứu này phù hợp với các nghiên cứu trước đây và mối tương quan
nghịch giữa giá trị của giá cổ phiếu và sự thay đổi giá gây ra bởi thông báo công khai là ước
tính. Phân tích dựa trên so sánh thay đổi giá trung bình trong giá cổ phiếu khác nhau trong
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 299
phạm vi TTCK Litva đã chỉ ra rằng sự biến dạng lớn nhất của kết quả có liên quan đến các cổ
phiếu có giá thấp nhất trong phạm vi giá các cổ phiếu thấp, lợi nhuận bất thường trung bình
cao nhất được tin tức tài chính của các công ty ước tính là âm (giá cổ phiếu giảm cao nhất)
tương đương với -7,07%, và tin tức của công ty tài chính khác (giá cổ phiếu tăng cao nhất)
tương đương với +13,47%. Sự khác nhau đáng kể của kết quả đã được quan sát trong phạm vi
giữa giá cổ phiếu giảm cao nhất cũng như tăng cao nhất là ước tính liên quan đến các tin tức
cuộc họp chung của các cổ đông: các tin tức về nội dung tích cực giá cổ phiếu tăng trung bình
+ 4,58%, trong khi tin tức về nội dung tiêu cực làm giá cổ phiếu trung bình giảm -5,56%. Các
hoạt động ít quan trọng nhất trong biến động giá cổ phiếu đã được quan sát thấy trong phạm
vi cao nhất của giá cổ phiếu, lợi nhuận bất thường trung bình âm cao nhất ước tính cho các
vấn đề tái cấu trúc (-3,46%) trong khi lợi nhuận bất thường trung bình dương cao nhất ước
tính cho tin tức liên quan đến các cuộc họp chung của các cổ đông (+3,59%). Mặc dù những
phát hiện của nghiên cứu này đã cho thấy mối tương quan tiêu cực rõ ràng giữa các giá trị của
chứng khoán giá cả và sự thay đổi giá cổ phiếu gây ra bởi thông báo công khai là một số hạn
chế phải được thực hiện vào tài khoản. Mẫu được chọn tương đối nhỏ và chỉ có một TTCK
được chọn. Do đó, kết quả có thể được coi là phổ biến được chấp nhận.
Theo Fama (1970), giá cổ phiếu phải phản ánh đầy đủ tất cả các thông tin có sẵn cho
tiềm năng nhà đầu tư trên một thị trường hiệu quả. Trên thực tế, nguồn chính của thông tin
mới về bất kỳ công ty có được bởi các bên liên quan thường là các thông báo công khai được
cung cấp bởi các công ty theo nhiều cách khác nhau, giá cổ phiếu trên thị trường sẽ phản ứng
trực tiếp với tất cả các thông tin mới được công bố bởi các công ty. Tuy nhiên, số lượng
nghiên cứu ngày càng tăng cho thấy hoạt động của thị trường tài chính được phản ánh bởi
diễn biến của giá cổ phiếu không phải lúc nào cũng tuân thủ Giả thuyết thị trường hiệu quả
theo như nghiên cứu Fama (1970). Có một tài liệu bao quát kiểm tra sự phản ánh của thông
tin công cộng trong giá cổ phiếu. Qua hàng thập kỷ, nội dung thông tin của tin tức và hiệu quả
thị trường vốn đã được kiểm tra bằng cách tập trung vào cách thức thị trường phản ứng với
các thông báo công khai (do các công ty phát hành và được các nhà đầu tư cảm nhận) bao
gồm cả việc tiếp quản thông báo, chi tiết cổ đông, báo cáo định kỳ, mua lại và xử lý tài sản,
thông báo cổ tức, báo cáo tiến độ,… Tuy nhiên, phải lưu ý rằng sự nhấn mạnh chính trong các
nghiên cứu đang được đưa vào danh mục thông báo công khai (với tất cả các thông tin tài
chính mới hàng năm, thông báo thu nhập 6 tháng, hàng quý, hàng tháng, v.v., dự báo thu nhập
và các thông báo khác thông tin tài chính - là danh mục phổ biến nhất) cũng như các loại
thông báo công khai (nó khá phổ biến để phân loại các thông báo như là “Tốt” và “Xấu”).
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa giá trị của cổ phiếu giá cả và sự thay đổi giá chỉ được phân tích
bởi một vài tác giả.
Đáng chú ý nhất trong những nghiên cứu này là một nghiên cứu được thực hiện bởi
Vega (2006) với những hiểu biết sâu sắc có tầm quan trọng lớn trong ngiên cứu này. Do đó,
mục đích chính của nghiên cứu này là để đánh giá mối quan hệ giữa giá trị của giá cổ phiếu
trên TTCK Litva và giá cổ phiếu thay đổi, được xác định bởi các thông báo công khai trong
bối cảnh của các loại và loại thông báo khác nhau. Sở GDCK Vilnius (SE) đã được chọn cho
nghiên cứu này, cụ thể là vì hai lý do. Thứ nhất, các nghiên cứu tương ứng tập trung chủ yếu
vào các TTCK phát triển (ví dụ: Moshirian và cộng sự, 2012, Ozsab, Overby, 2008,
Pritamani, Singal, 2001) trong khi các TTCK kém phát triển như Vilnius SE chỉ được phân
tích bằng số ít. Thứ hai, theo Kiete và Uloza (2005) TTCK Litva có hình thức hiệu quả bán
mạnh. Điều này cho thấy rằng có một xác suất thu được lợi nhuận từ sự thiếu hiệu quả do đó
một nghiên cứu tương ứng có thể có khả năng ứng dụng thực tế cho các nhà đầu tư. Eizentas
et. al. (2012) đã sử dụng lợi nhuận tuyệt đối của chứng khoán trong nghiên cứu tác động của
tín hiệu thông tin lên giá trị thị trường cổ phiếu của các công ty được liệt kê trong NASDAQ
OMX Vilnius SE và kết quả đã cho thấy rằng đã có một vài loại thông báo gây ra thay đổi
đáng kể của giá cổ phiếu. Kiete và Uloza (2005) đã sử dụng Kiểm tra dư lượng tiêu chuẩn của
Patell, Mô hình cắt ngang được chuẩn hóa và lợi nhuận bất thường tích lũy Phương pháp và
kết quả nghiên cứu của họ đã chỉ ra rằng thị trường Litva đang ở dạng hiệu quả bán mạnh.
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 300
Laidroo và Grigalinjnienơ (2012) đã điều tra sự bất cân xứng trong các phản ứng về
giá đối với các thông báo hàng quý thu nhập và kết quả đã chỉ ra rằng phản ứng với tin tức
tích cực cao hơn tin tức tiêu cực. Tất cả các nghiên cứu đã chỉ ra rằng có một số sự thiếu hiệu
quả trong TTCK Litva có thể bị khai thác bởi các nhà đầu tư để đạt được lợi nhuận, tuy nhiên
không có nghiên cứu nào dựa trên mối liên hệ giữa các giá trị của giá cổ phiếu và thay đổi giá
gây ra bởi thông báo cổ đông, điều này cũng có thể cho thấy một số sự không hiệu quả. Một
giả định đã được thực hiện rằng các kết quả là có ý nghĩa nếu danh mục bao gồm ít nhất 1%
của tất cả thông báo được ban hành tại Vilnius SE trong giai đoạn tương ứng (tương đương
với 130 thông báo).
Theo nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ của Joop de Bruijn về Hiệu ứng thị trường của
thông báo mua lại cổ phiếu – So sánh giữa các công ty châu Âu và Mỹ (2017). Phản ứng thị
trường xung quanh một thông báo mua lại cổ phần được thử nghiệm. Một lượng lớn dữ liệu
châu Mỹ và dữ liệu châu Âu được thu thập, chia thành hai mẫu để so sánh giữa kết quả ở hai
châu lục này. Cả hai mẫu đều có trung bình tích lũy dương và có ý nghĩa trả lại bất thường
(CAAR) trong thời gian ngắn (-1, +1) xung quanh một thông báo. Ngoài ra, quan sát trung
bình của Hoa Kỳ có CAAR (2,45%) cao hơn đáng kể so với trung bình châu Âu quan sát
(1,3%). Việc tách các quan sát của cả hai mẫu ở mỗi năm cho phép phân tích ảnh hưởng của
biến động trên thị trường tài chính đối với CAAR. Đối với tổng số mẫu dữ liệu và mẫu dữ liệu
tại Hoa Kỳ, thời gian suy thoái dẫn đến CAAR cao hơn mức trung bình của năm sau. Dựa trên
những kết quả này, thời điểm tốt nhất để thông báo mua lại cổ phần là một năm sau năm tổn
thất lớn trên thị trường tài chính. Mẫu số liệu châu Âu cho thấy lợi nhuận của chỉ số thị
trường ít hơn CAAR trong năm tương ứng (hoặc một năm sau). Mặc dù kết quả cho thấy
không có mối quan hệ rõ ràng, không có kết luận nào được đưa ra do một lượng lớn kết quả
không rõ ràng.
Năm 2014, S. Kumar Pradhan và R. Kasilingam với nghiên cứu “Impact of Buyback
Announcement on Share Price: A Company and Industry Wise Analysis” cố gắng tìm hiểu tác
động của thông báo mua lại đối với giá cổ phiếu. Thử nghiệm T-sample mẫu được sử dụng để
so sánh giá cổ phiếu trước và sau thông báo mua lại. Phân tích phương sai cũng được sử dụng
để tìm hiểu xem có sự khác biệt đáng kể nào giữa các ngành trong việc thay đổi giá do thông
báo mua lại hay không. Nghiên cứu này được thực hiện từ ngày 01 tháng 01 năm 2005 đến 31
tháng 12 năm 2012. Thời gian cửa sổ ước tính được thực hiện là 10 ngày trước và sau khi
thông báo mua lại. Mô hình điều chỉnh thị trường được sử dụng để tính toán lợi nhuận bất
thường trong giai đoạn cửa sổ. Nghiên cứu kết luận rằng thông báo mua lại không có tác động
đến giá cổ phiếu trong phân tích khôn ngoan của ngành nhưng có tác động một phần đến giá
cổ phiếu theo phân tích khôn ngoan của công ty. Lợi nhuận bất thường và lợi nhuận bất
thường tích lũy của hầu hết các công ty đều tích cực trong cả dài hạn và ngắn hạn.
Karamjit Kaur và Prof.Neelam Dhanda (2016) đã xem xét tác động của mua lại cổ
phiếu với sự trợ giúp của T-Test và T Paired Sample Test ở TTCK Ấn Độ. Bài viết nghiên
cứu tập trung vào tác động của việc mua lại cổ phiếu đối với lợi nhuận cổ phiếu trong thời
gian nghiên cứu. Nghiên cứu dựa trên hai giai đoạn cửa sổ sự kiện, tức là 61 ngày (-30, +30)
và 181 ngày (-90 đến +90) trong thời gian nghiên cứu. Nghiên cứu đã sử dụng mô hình thị
trường để phân tích lợi nhuận bất thường trung bình bất thường và tích lũy trung bình cho thời
gian cửa sổ sự kiện 61 và 181 ngày. Ngoài ra, đề tài nghiên cứu cũng đo lường hiệu suất trước
và sau khi mua lại cổ phần trong thời gian nghiên cứu. Kết quả cho thấy mua lại cổ phiếu
được coi là tín hiệu tích cực cho các nhà đầu tư, nhưng tiêu cực cho bài đăng và mua lại trước.
Theo đó, đề tài chỉ ra rằng không có sự khác biệt đáng kể giữa lợi nhuận bất thường sau khi
đăng và trung bình của mua lại.
Mishra (2005) đã kiểm tra thực nghiệm phản ứng về giá khi công bố và liệu ban lãnh
đạo có hành động vì lợi ích cao nhất của các cổ đông không đấu thầu hay không khi công ty
muốn tiếp tục mua lại cổ phiếu mục tiêu. Trong nhiều trường hợp, quan sát thấy rằng công ty
cung cấp giá mua lại vượt xa phí bảo hiểm đã vượt quá đăng ký và giá giảm sau khi mua lại.
Mua lại cổ phần không thể đảm bảo sự gia tăng bền vững của giá chứng khoán. Nghiên cứu
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 301
chỉ ra rằng các chỉ tiêu mua lại nên được thực hiện nghiêm ngặt hơn nếu các công ty phải có
tầm nhìn dài hạn.
Doan et al. (2012) đã kiểm tra xem các công ty Australia có sử dụng cổ phần không
mua lại để ngăn chặn rủi ro tiếp quản không mong muốn. Kết quả cho thấy các hoạt động mua
lại cổ phiếu của công ty sẽ tăng lên nếu nhận thấy rủi ro tiếp quản cao từ thị trường.
Việt Nam, nghiên cứu của tác giả Võ Xuân Vinh và Trịnh Tấn Lực với tiêu đề “Lợi
nhuận bất thường và cung cầu của cổ phiếu đối với thông báo mua cổ phiếu quỹ: Bằng chứng
thực nghiệm từ TTCK Việt Nam” – Luận văn thạc sỹ Tài chính – Ngân hàng, trường Đại học
mở Thành phố Hồ Chí Minh (2015). Luận văn này là một nghiên cứu về sự phản ứng của thị
trường khi DN công bố thông tin mua cổ phiếu quỹ. Các thay đổi đột biến của giá và khối
lượng giao dịch là các hình thức thể hiện phản ứng của TTCK đã được tìm hiểu và phân tích.
Bên cạnh đó, luận văn cũng xem xét các tác động của cung cầu cổ phiếu, khối lượng giao dịch
bất thường, quy mô của đợt mua lại cổ phiếu quỹ và các yếu tố đặc trưng của DN lên lợi
nhuận bất thường mà đại diện là lợi nhuận bất thường tích lũy từ ngày sự kiện và một ngày
sau đó.
Dữ liệu đuộc sử dụng bao gồm các công ty phi tài chính niêm yết trên TTCK Việt
Nam từ tháng 01/2008 đến tháng 12/2014. Áp dụng phương pháp nghiên cứu sự kiện trong tài
chính, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng thị trường phản ứng nhưng phản ứng chậm thông qua
việc giá cổ phiếu tăng trong một giai đoạn sau khi thông tin được công bố. Nghiên cứu cho
thấy không tồn tại hiện tượng rò rỉ thông tin hoặc nếu tồn tại thì nhà đầu tư hầu như không
phản ứng cho đến khi thông tin được chính thức công bố. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu
cũng cho thấy thị trường có sự phản ứng thông qua khối lượng giao dịch và khối lượng giao
dịch đã tăng trong một giai đoạn. Nhà đầu tư thực sự phản ứng mạnh sau ngày DN chính thức
bắt đầu tiến hành mua cổ phiếu quỹ. Mặt khác, qua đây cũng hàm ý sự hoài nghi của nhà đầu
tư về thông tin công bố và dường như họ có động thái quan sát đón chờ hành động thật sự của
DN.
Ngoài ra, luận văn còn xem xét các tác động của cung cầu cổ phiếu, khối lượng giao
dịch bất thường, quy mô của đợt mua lại cổ phiếu quỹ và các yếu tố đặc trưng của DN lên lợi
nhuận bất thường mà đại diện là lợi nhuận bât thường tích lũy từ ngày sự kiện và một ngày
sau đó. Kết quả cho thấy sự chênh lệch cung cầu càng cao thì kỳ vọng mang lại lợi nhuận bất
thường cao. Kết quả cũng chỉ ra dường như các yếu tố đặc trưng của DN như chỉ số giá trên
thị giá (BM), lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) hay lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) của
năm liền trước năm xảy ra sự kiện không có ảnh hưởng nào đến giá cổ phiếu đối với việc mua
cổ phiếu quỹ mà các yếu tố thị trường có sự phản ánh rõ ràng hơn đối với hiện tượng này.
Từ Thị Kim Thoa và các cộng sự (2015) đã kiểm định một số lý thuyết ảnh hưởng đến
việc mua lại cổ phiếu ở một TTCK non trẻ thông qua sử dụng sữ liệu của các DN niêm yết
Việt Nam trong giai đoạn 2006-2013. Sử dụng phương pháp hồi quy Tobit, nghiên cứu đã tìm
thấy bằng chứng có tương quan thuận chiều giữa nắm giữ tiền mặt và mua lại cổ phiếu ở mức
ý nghĩa cao. Đồng thời, tác giả cũng tìm thấy bằng chứng cho thấy khi cổ phiếu phát tín hiệu
định dưới giá thì tỷ lệ mua lại sẽ tăng và ngược lại tỷ lệ nợ nghịch biến với tỷ lệ mua lại. Ở
Việt Nam, các DN lớn thường mua lại cổ phiếu hơn là các DN nhỏ. Ngoài ra, nghiên cứu
cũng tìm thấy quan hệ giữa tỷ lệ mua lại cổ phiếu và dòng tiền tạm thời có tương quan dương
và tỷ lệ chi trả cổ tức có tương quan âm theo đúng kỳ vọng nhưng chưa đủ bằng chứng khẳng
định.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Quy trình nghiên cứu
Bước 1: Thu thập số liệu
Bước 2: Chọn mấu số liệu và phân tích số liệu
Bước 3: Đánh giá các tác động của việc công bố thông tin và đưa ra kết quả nghiên cứu
Bước 4: Kết luận và đề xuất khuyến nghị
3.2. Phương pháp nghiên cứu
GD CP quỹ
Thông báo Thực hiện
Xét trên cả hai sàn HSX và HNX, biến động giá được biểu diễn theo sơ đồ sau:
AAR
0.02
0.01
0.01
0.01
0.01
0.01
0
0
0
- - - - - - -9 -8 -7 -6 -5 -4 -3 -2 -1 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15
015 14 13 12 11 10
0
Biểu đồ 4.1: Biến động lợi nhuận trung bình bất thường trước và sau khi công bố thông
tin giao dịch cổ phiếu quỹ.
Nhìn vào biểu đồ trên, ta thấy trong 31 ngày theo dõi biến động của lợi nhuận trung
bình bất thường có 13 ngày lợi nhuận tăng và 18 ngày lợi nhuận biến động giảm. Nhìn chung,
qua diễ biến của lợi nhuận trung bình bất thường ta có thể thấy biên độ giảm giá của cổ phiếu
là lớn hơn so với biên độ tăng giá. Giá cố phiếu tăng liên tục 3 ngày liên tiếp, từ ngày t-3 đến
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 305
ngày t-1. Đây là dấu hiệu cho thấy nhà đầu tư tin tưởng vào DN và bản thân DN cũng mua lại
cổ phiếu vào những ngày cuối cùng trước ngày thông báo chính thức giao dịch cổ phiếu, có
thể thấy sự kỳ vọng rất lớn của DN rằng giá cổ phiếu có thể sẽ tăng sau khi chính thức công
bố thông tin giao dịch hoặc có thể do việc rò gỉ thông tin nội bộ tạo nên tâm lý kỳ vọng tăng
giá của nhà đầu tư. Sau ngày công bố thông tin giao dịch, giá cổ phiếu có sự tăng giảm không
ổn định. Ngay sau ngày công bố thông tin giao dịch, giá cổ phiếu có biến động giảm nhẹ, có
thể do DN đã hoàn thành số lượng cổ phiếu cần mua lại và và kết thúc giao dịch mua lại cổ
phiếu sớm hơn so với ngày kết thúc thông báo mua lại, có thể do nhà đầu tư có hiện tượng
bán tháo ra vì lo ngại sau ngày kết thúc thông báo mua lại giá cổ phiếu sẽ biến động giảm. Từ
ngày t+1 đến ngày t+12 giá cổ phiếu có biến động tăng giảm khá mạnh, xu hướng này tạo
động lực cho các nhà đầu tư mạo hiểm đưa ra quyết định mua/bán để thu lợi nhuận trong ngắn
hạn.
CAAR
CAAR
0.3
0.25
0.2
0.15
0.1
0.05
0
- - - - - - -9 -8 -7 -6 -5 -4 -3 -2 -1 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15
-0.0515 14 13 12 11 10
CAAR
Biểu đồ 4.2: Biến động lợi nhuận bất thường tích lũy trung bình trước và sau khi công
bố thông tin giao dịch cổ phiếu quỹ.
Lợi nhuận bất thường tích lũy trung bình (CAAR) tăng dẫn đều kể từ ngày t-15 đến
ngày t+15. Như vậy việc công bố thông tin giao dịch cổ phiếu quỹ tạo đà cho việc tăng giá cổ
phiếu, các nhà đầu tư đã nhận thấy tín hiệu tốt từ đó đưa ra quyết định mua vào.
4.2.2. Đối với thông báo giao dịch của thành viên HĐQT và những người có liên quan
AAR
-1.18
-1.2
-1.22
-1.24
-1.26
AAR
Biểu đồ 4.3: Biến động lợi nhuận trung bình bất thường trước và sau khi công bố thông
tin giao dịch cổ phiếu của thành viên HĐQT và những người liên quan.
Nhìn vào hình vẽ trên, ta thấy trong 31 ngày theo dõi biến động lợi nhuận trung bình
bất thường cổ phiếu có 16 ngày lợi nhuận biến động tăng và 15 ngày lợi nhuận biến động
giảm biến động giảm. Nhìn chung, biên độ tăng giá của cổ phiếu là lớn hơn so với biên độ
giảm giá. Khoảng thời gian trước ngày công bố thông tin giao dịch, giá cổ phiếu nhìn chung
có xu hướng giảm mạnh, tuy nhiên vẫn có khoảng tăng nhẹ nhưng không đáng kể. Dựa theo
bảng 4.1: Thống kê số liệu, ta thấy khối lượng thông báo và thực hiện bán nhiều hơn là khối
lượng thông báo và thực hiện mua, điều này cho thấy đã có những thông tin xấu về DN làm
ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư dẫn đến việc bán tháo.
CAAR
0
- - - - - - -9 -8 -7 -6 -5 -4 -3 -2 -1 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15
-515 14 13 12 11 10
-10
-15
-20
-25
-30
-35
-40
-45
CAAR
Biểu đồ 4.4: Biến động lợi nhuận bất thường tích lũy trung bình trước và sau khi công
bố thông tin giao dịch cổ phiếu của thành viên HĐQT và những người liên quan.
Lợi nhuận bất thường tích lũy trung bình (CAAR) Có xu hướng giảm dần đều kể từ
ngày t -15 đến ngày t+15. Xu hướng giảm này là do thành viên HĐQT và những người có liên
quan của DN đã có những động thái bán cổ phiếu. Qua bảng 4.1 Thống kê số liệu có thể thấy
các giao dịch bán cổ phiếu được thực hiện nhiều hơn là các giao dịch mua cổ phiếu. Nhà đầu
AAR
-1.02
5 3 1 -9 -7 -5 -3 -1 1 3 5 7 9 11 13 15
-1.03-1 -1 -1
-1.04
-1.05
-1.06
-1.07
-1.08
-1.09
-1.1
-1.11
-1.12
Biểu đồ 4.5: Tổng hợp biến động lợi nhuận trung bình bất thường trước và sau khi công
bố thông tin giao dịch cổ phiếu
CAAR
CAAR
0
15 -1
3
-1
1 -9 -7 -5 -3 -1 1 3 5 7 9 11 13 15
-5-
-10
-15
-20
-25
-30
-35
-40
Biểu đồ 4.6: Tổng hợp biến động lợi nhuận bất thường tích lũy trung bình trước và sau
khi công bố thông tin giao dịch cổ phiếu.
Biều đồ tổng hợp lợi nhuận trung bình bất thường (AAR) và lợi nhuận bất thường tích
lũy trung bình (CAAR) có diễn biến giống với biểu đồ AAR và CAAR của giao dịch của
thành viên HĐQT và những người có liên quan. Như vậy, tổng hợp chung lại thì việc công bố
thông tin giao dịch của thành viên HĐQT và người có liên quan là nhân tố chính tác động làm
ảnh hưởng đến thị giá cổ phiếu.
5. Kết luận
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp nghiên cứu sự kiện và kiểm định T-test để
nghiên cứu tác động của việc công bố thông tin giao dịch cổ phiếu quỹ; giao dịch của thành
viên HĐQT và những người liên quan đến thị giá cổ phiếu. Kết quả cho thấy, việc công bố
Olympic kinh tế lượng và ứng dụng năm 2019 308
thông tin giao dịch cổ phiếu quỹ làm cho lợi nhuận bất thường tích lũy trung bình tăng kể từ
ngày t-15 đến ngày t+15. Điều này cho thấy TTCK Việt Nam thể hiện tính hiệu quả và giá cổ
phiếu phản ứng theo thông tin DN mua lại cổ phiếu quỹ. Ngoài ra, kết quả cho thấy trước khi
thông tin mua cổ phiếu quỹ được công bố thì lợi nhuận trung bình bất thường và lợi nhuận bất
thường tích lũy trung bình là dương. Kết quả này cũng hàm ý là có hiện tượng rò rỉ thông tin
mua cổ phiếu quỹ. Bên cạnh đó, tại những ngày t-3 và những ngày sau khi chính thức công bố
thông tin giao dịch cổ phiếu quỹ tồn tại khối lượng giao dịch bất thường. Điều này cho thấy
nhà đầu tư hoàn toàn tin tưởng trước thông tin công bố của DN.
Nghiên cứu cũng chỉ ra tác động của thông báo giao dịch thành viên HĐQT và những
người có liên quan đến giá cổ phiếu. Kết quả cho thấy việc công bố thông tin này làm cho lợi
nhuận bất thường tích lũy trung bình giảm dần kể từ ngày t-15 đến ngày t+15. Ngoài ra, kết
quả cho thấy trước khi thông tin giao dịch của thành viên HĐQT và những người có liên quan
được công bố thì lợi nhuận trung bình bất thường và lợi nhuận bất thường tích lũy trung bình
là âm. Có nghĩa là không có hiện tượng rò rỉ thông tin giao dịch cổ phiếu hoặc nếu có thì nhà
đầu tư cũng có phản ứng khá chậm trước khi thông tin chính thức được công bố.Tổng hợp
chung thì chính việc công bố thông tin giao dịch của thành viên HĐQT và những người có
liên quan là tác nhân chính khiến thị giá cổ phiếu có những biến động mạnh.
[1]. Luật chứng khoán số 27/2013/VBHN-VPQH được quốc hội thông qua ngày
18/12/2013.
[2]. Thông tư 155/2015/TT-BTC Hướng dẫn công bố thông tin trên TTCK Bộ trưởng Bộ
Tài chính ban hành ngày 06/10/2015.
[3]. Luật DN số 68/2014/QH13 ngày 26/11/2014.
Từ Thị Kim Thoa, Nguyễn Thị Uyên Uyên, Vũ Minh Hà, Nhân tố nào tác động đến mua
lại cổ phiếu? Trường hợpViệt Nam, Tạp trí phát triển hội nhập, số 23, 65-70, 7-8/2015.
[4]. Võ Xuân Vinh và Trịnh Tấn Lực, “Lợi nhuận bất thường và cung cầu của cổ phiếu
đối với thông báo mua cổ phiếu quỹ: Bằng chứng thực nghiệm từ TTCK Việt Nam” –
Luận văn thạc sỹ Tài chính – Ngân hàng, trường Đại học mở Thành phố Hồ Chí Minh,
2015.
II. Tài liệu tiếng Anh
TÓM TẮT
Nghiên cứu sử dụng số liệu của 26 công ty đang niêm yết trên Sở giao dịch
chứng khoán Hồ Chí Minh (HOSE), các biến số được đưa vào nghiên cứu là các
biến liên quan đến cấu trúc sở hữu, để xem tác động của chúng như thế nào đến
chỉ số thị giá cổ phiếu của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu cho thấy, biến cổ
đông lớn công ty, biến quy mô của công ty và biến lợi nhuận sau thuế có tác động
đến thị giá cổ phiếu. Cụ thể, biến cổ đông lớn công ty và lợi nhuận sau thuế được
nghiên cứu cho thấy có tác động cùng chiều với thị giá cổ phiếu, trong khi quy mô
của công ty được xác định rằng có tác động ngược chiều.
Từ khóa: Cấu trúc sở hữu, thị giá cổ phiếu, cổ đông lớn công ty, quy mô,
lợi nhuận sau thuế.
Giới thiệu chung
Thị giá cổ phiếu luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư, các doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, cấu trúc sở hữu trong các doanh nghiệp cũng tác động đến xu hướng
biến động của giá cổ phiếu thông qua việc tác động đến vấn đề quản lý, quản trị doanh
nghiệp. Hiện nay, giá cổ phiếu của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực hàng hóa tiêu dùng thiết
yếu như thực phẩm, mỹ phẩm, nước giải khát… có xu hướng tăng trưởng mạnh và các nhóm
ngành này có sức cầu khá ổn định và ít nhạy cảm với chu kỳ kinh tế. Bên cạnh đó, cổ phiếu
của ngành dịch vụ thiết yếu có những doanh nghiệp có vốn hóa thị trường lớn dẫn đầu ngành
và giá của chúng ảnh hưởng lớn đến thị giá thị trường. Do đó, các nhà đầu tư đặc biệt quan
tâm đến thị giá các cổ phiếu của ngành này khi thị trường chứng khoán và chu kỳ kinh tế tăng
trưởng và chu kỳ suy thoái.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này tuy nhiên đối tượng nghiên cứu
khác nhau do đó mức độ tác động đến giá cổ phiếu cũng khác nhau. Cho đến nay có khá ít
nghiên cứu về vấn đề này tại Việt Nam vì vậy nhóm chọn đề tài “Tác động của cấu trúc sở
hữu đến giá cổ phiếu của các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực hàng hóa tiêu dùng thiết yếu trên
Sở giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh giai đoạn 2010 – 2017.”
Mục tiêu nhóm chọn đề tài này để tìm ra câu trả lời cho câu hỏi “Cấu trúc sở hữu của
một doanh nghiệp có tác động như thế nào đến thị giá cổ phiếu của công ty đó”, và cụ thể ở
bài nghiên cứu này, là tìm ra tác động của cấu trúc sở hữu lên thị giá cổ phiếu trong ngành
hàng hóa tiêu dùng thiết yếu. Qua đó nghiên cứu sử dụng các mô hình kinh tế lượng để đánh
giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố ảnh hưởng đến thị giá cổ phiếu. Nhóm đã nghiên cứu
và sử dụng 7 yếu tố được chia làm 2 nhóm: Nhóm các loại hình sở hữu (các biến độc lập)
gồm: sở hữu của Hô ̣i đồng quản trị, sở hữu của Nhà nước, sở hữu của Cổ đông lớn công ty;
Nhóm các thuô ̣c tính của công ty (các biến kiểm soát) gồm: quy mô của công ty, đòn bẩy tài
chính của công ty, lợi nhuận sau thuế và số năm thành lập công ty. Trên cơ sở đó đề xuất một
số khuyến nghị đối với các bên liên quan.
1.Cơ sở lý thuyết
Về mặt lý thuyết, cấu trúc sở hữu trong doanh nghiệp là cơ cấu phản ánh tổng thể các
mối quan hệ về quyền lợi và trách nghiệm đối với phần vốn đã góp của chủ sở hữu từ đó xác
định được mối quan hệ khác trong sản xuất và quan hệ phân phối các sản phẩm cũng như
những lợi ích kinh tế mà việc sản xuất, kinh doanh mang lại. Dựa vào quyền kiểm soát hay
Tổng tỷ lệ sở hữu của các thành viên hội đồng quản trị AC
Mô hình:
PRIit = β0 + β1 ACit + β2 STAit + β3 ENTit + β4 SIZEit + β5 LEVit + β6 NIit + β7
YEARit + Ɛ.
Trong đó:
β0: Hệ số chặn
β1, β2: Các hệ số
Ɛ: Sai số mô hình
i: Doanh nghiệp i
t: Năm t
3.4.2. Xây dựng các biến trong mô hình
Dựa trên nghiên cứu các mô hình liên quan đến tác động của cấu trúc sở hữu và biến
động thị giá cổ phiếu, xác định các yếu tố ảnh hưởng có liên quan, phù hợp với đặc điểm môi
trường kinh tế tại Việt Nam, nhóm chọn ra 7 biến. Biến độc lập là các biến sở hữu, biến kiểm
soát là các biến ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của các công ty, biến phụ
thuộc là giá cổ phiếu.
Sau đây bảng 2 sẽ tóm tắt cách tính các biến trong mô hình mà nhóm đã nghiên cứu.
Bảng 2: Bảng tóm tắt cách tính các biến trong mô hình
Tên biến Viết tắt Cách tính Điều kiện Loại biến
Thị giá cổ Biến phụ
PRI Giá đóng cửa của ngày giao dịch cuối cùng trong năm
phiếu thuộc
Sở hữu của AC=
thành viên hội
đồng quản trị AC Tổng số cổ phiếu sở hữu của thành viên HĐQT Biến độc lập
Tổng số cổ phiếu đanglưu hànhtrong năm
Sở hữu của S ố vốn góp của Nhà nước
Nhà nước STA = Tỷ lệ sở hữu
STA Tổng nguồn vốn Biến độc lập
trên 5%
Bảng 6: Tổng hợp kết quả kiểm định các giả thiết
Tổng tỷ lệ sở hữu của các thành viên HĐQT (AC) Không ảnh hưởng
Tỉ suất lợi nhuận trên tổng tài sản ROA ( Lợi nhuận sau thuế)/ Tổng tài sản Biến phụ thuộc
Tỉ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở ROE ( Lợi nhuận sau thuế)/ Vốn chủ sở hữu Biến phụ thuộc
hữu
Đòn bẩy tài chính LEV ( Tổng nợ)/Vốn chủ sở hữu Biến kiểm soát +
Cố tức bằng tiền mặt CT TM Tỷ lệ chi trả cổ tức * 10000 Biến kiểm soát -
Kiểm toán lớn * KTL Ngân hàng có sử dụng công ty kiểm Biến kiểm soát +
toán lớn hay không.
Biến giả, bằng 1 nếu có sử dụng kiểm
toán lớn
Bằng 0 nếu không sử dụng kiểm toán
lớn.
* Tại Việt Nam, theo Bộ Tài chính (2017), top 10 công ty kiểm toán lớn nhất đang hoạt động
tại Việt Nam bao gồm: KPMG, Deloitte Vietnam, E&Y, PwC, A&C, AASC, GT, UHY ACA,
DTL, CPA.
Observations 104
R Square 0,903807912
Significance F 0,00000000
∑ δ 5ΔLnUNEt-j + εt
j=0
Trong đó, p, q là độ trễ, Δ là sai phân, εt là nhiễu trắng.
3. Kết quả thực nghiệm
Cũng giống như các mô hình phân tích dữ liệu dạng chuỗi thời gian khác, trước khi xây
dựng mô hình ARDL, cần đảm bảo các biến số đều có tính dừng. Nghiên cứu sử dụng kiểm
định nghiệm đơn vị (Unit Root Test) với phương pháp ADF và kết quả cho thấy, chỉ có
LnUNE là chuỗi dừng. Sau khi khắc phục hiện tượng chuỗi không dừng bằng cách lấy sai
phân, LnFDI, LnGDP, LnOPEN, LnINR đều dừng tại bậc 1. Điều này thỏa mãn giả định của
mô hình: các chuỗi thời gian phải có tính dừng hoặc dừng ở sai phân bậc 1, không có biến nào
dừng ở sai phân bậc 2.
7.5
1.2
5.0
2.5
0.8
0.0
-2.5 0.4
-5.0
0.0
-7.5
-10.0 -0.4
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017