You are on page 1of 600

Mã số: TPG/K - 20 - 22

1277-2020/CXBIPH/02-150/TP
CHỦ BIÊN:
PGS.TS. Nguyễn Minh Hằng

TẬP THỂ TÁC GIẢ:

TS. Lê Thu Hà Mục 1 Chương 1; Chương 9


ThS. Nguyễn Thị Hạnh Mục 1 Chương 1; Chương 10
TS. Hà Hữu Dụng Tiết 2.1 mục 2 Chương 1
ThS. Nguyễn Thị Minh Huệ Tiết 2.2 mục 2 Chương 1
TS. Vũ Thị Thu Hiền Tiết 2.3 mục 2 Chương 1; tiết 2.3
mục 2 Chương 3
ThS. Nguyễn Thị An Na Tiết 2.4 mục 2 Chương 1; tiết 2.4
mục 2 Chương 4; Chương 7
PGS.TS. Nguyễn Minh Hằng Chương 2; tiết 2.1 mục 2
Chương 4
ThS. LS. Ân Thanh Sơn Mục 1 Chương 3; tiết 2.1, 2.2
mục 2 Chương 3
ThS. Nguyễn Thị Hương Giang Tiết 2.4 mục 2 Chương 3
ThS. Trần Minh Tiến Mục 1, tiết 2.3 mục 2 Chương 4
TS. Nguyễn Thị Vân Anh Tiết 2.2 mục 2 Chương 4
PGS.TS. Nguyễn Thị Hoài Phương Chương 5
PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Hà Chương 6
TS. Nguyễn Hải An Chương 7
PGS.TS. Trần Anh Tuấn Chương 8
ThS. Nguyễn Thị Hạnh Chương 10
ThS. Nguyễn Thị Phíp Chương 11
ThS. Bùi Nguyễn Phương Lê Chương 11

4
HỘI ĐỒNG THẨM ĐỊNH
(Theo Quyết định số 1370/QĐ-HVTP
ngày 16/12/2016 của Giám đốc Học viện Tư pháp)

Chủ tịch Hội đồng:


TS. NGUYỄN XUÂN THU
Phó Giám đốc Học viện Tư pháp

Phản biện 1:
PGS.TS. NGÔ HUY CƯƠNG
Trưởng bộ môn Luật Dân sự, Khoa Luật, Đại học Quốc gia
Hà Nội

Phản biện 2:
PGS.TS. DƯƠNG ĐĂNG HUỆ
Phó Chủ nhiệm Câu lạc bộ pháp chế doanh nghiệp, Bộ Tư pháp

Ủy viên:
LS. NGUYỄN THỊ KIM THANH
Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội

Ủy viên Thư ký:


TS. NGUYỄN THANH PHÚ
Trưởng phòng Quản lý khoa học và Trị sự, Tạp chí Nghề luật,
Học viện Tư pháp

5
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS : Bộ luật Dân sự


BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự
HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
UBND : Ủy ban nhân dân
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn

6
LỜI GIỚI THIỆU

Giáo trình “Kỹ năng cơ bản của Luật sư tham gia giải quyết
các vụ việc dân sự” được tái bản có sửa đổi, bổ sung dùng cho
chương trình đào tạo nghề Luật sư, phần đào tạo kỹ năng cơ bản.
Cuốn Giáo trình được xây dựng trên các nguyên tắc căn bản: (i) Đảm
bảo chuẩn kiến thức, kỹ năng, phẩm chất đạo đức và chuẩn đầu ra
của chương trình khung đào tạo nghề Luật sư do Bộ trưởng Bộ Tư
pháp ban hành; (ii) Đảm bảo sự kết nối với Giáo trình Kỹ năng
chuyên sâu của Luật sư trong giải quyết các vụ án dân sự; (iii) Tiếp
cận nội dung nghiên cứu từ góc độ kỹ năng nghề nghiệp cơ bản của
Luật sư tham gia giải quyết một số loại án điển hình, phổ biến nhất
trong thực tiễn xét xử mà Luật sư tham gia.
Cuốn Giáo trình được hoàn thành bởi tập thể tác giả là các
giảng viên, các chuyên gia, các Luật sư, Thẩm phán có uy tín, kinh
nghiệm giảng dạy và hoạt động thực tiễn nghề nghiệp. Nội dung Giáo
trình được xây dựng theo tiến trình tố tụng, cung cấp kiến thức cốt lõi,
kỹ năng nghề cơ bản của Luật sư tham gia giải quyết các vụ việc
dân sự. Giáo trình này cũng là tư liệu tốt để các nhà khoa học, những
người làm công tác thực tiễn tham khảo trong nghiên cứu để có thể
tìm hiểu được một cách hệ thống, toàn diện và vận dụng đúng đắn các
quy định của pháp luật trong thực tiễn hành nghề.
Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng Giáo trình khó tránh khỏi
những thiếu sót nhất định, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến góp ý
để Giáo trình “Kỹ năng cơ bản của Luật sư tham gia giải quyết các
vụ việc dân sự” của Học viện Tư pháp ngày càng hoàn thiện.
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Hà Nội, tháng 4 năm 2020
HỌC VIỆN TƯ PHÁP

7
8
Chương 1
KỸ NĂNG KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này sẽ trang bị cho 1. Kỹ năng chung về khởi kiện
người học: vụ án dân sự
- Về kiến thức, giúp người học có 2. Kỹ năng đặc thù trong tiếp xúc,
những kiến thức chung, cơ bản trao đổi với khách hàng và chuẩn
về kỹ năng khởi kiện vụ án dân bị hồ sơ khởi kiện tranh chấp dân
sự; kinh doanh, thương mại; lao sự; kinh doanh, thương mại; lao
động và kỹ năng khởi kiện các động; hôn nhân và gia đình
loại vụ án dân sự; kinh doanh, 3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
thương mại; lao động.
- Về kỹ năng, củng cố, rèn luyện
cho người học vận dụng được
những kiến thức về kỹ năng
trong hoạt động nghề nghiệp ở
giai đoạn khởi kiện.
- Về thái độ, giúp người học có
tác phong làm việc chuyên
nghiệp; có thái độ, ứng xử chuẩn
mực phù hợp với quy tắc đạo
đức nghề nghiệp của Luật sư khi
khởi kiện vụ án dân sự.

1. Kỹ năng chung về khởi kiện vụ án dân sự


Khởi kiện theo quy định của BLTTDS bao gồm khởi kiện của
người khởi kiện (khởi kiện của nguyên đơn), khởi kiện của bị đơn
(trong trường hợp có yêu cầu phản tố) và khởi kiện của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan (trong trường hợp có yêu cầu độc lập). Tuy
nhiên, phạm vi bài học chỉ đề cập nội dung khởi kiện vụ án dân sự nên
chương này không phân tích kỹ năng khởi kiện của bị đơn; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Thực hiện tốt kỹ năng khởi kiện vụ án

9
dân sự, tạo tiền đề thực hiện tốt các kỹ năng khác trong quá trình tham
gia tranh tụng vụ án dân sự, Luật sư cần nắm vững các kỹ năng cơ bản
bao gồm: kỹ năng xác định điều kiện khởi kiện; tiếp xúc, trao đổi với
khách hàng; chuẩn bị hồ sơ khởi kiện, nộp hồ sơ khởi kiện và tư vấn
khiếu nại khi Tòa án trả lại đơn khởi kiện, chuyển đơn khởi kiện.
1.1. Kỹ năng xác định điều kiện khởi kiện vụ án dân sự
Xác định điều kiện khởi kiện là kỹ năng cơ bản, cốt lõi Luật sư
cần phải nắm vững khi thực hiện việc khởi kiện vụ án dân sự. Trên cơ
sở đánh giá, xác định điều kiện khởi kiện, Luật sư thực hiện các chuỗi
kỹ năng khác trong giai đoạn khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự như tiếp
xúc, trao đổi với khách hàng, chuẩn bị hồ sơ khởi kiện; khiếu nại về
việc trả lại đơn khởi kiện.
Khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức có đủ
điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật yêu cầu Tòa án giải
quyết vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của
người khác hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước.
Việc khởi kiện vụ án dân sự phải bảo đảm điều kiện khởi kiện
theo quy định của pháp luật. Xác định điều kiện khởi kiện vụ án dân
sự căn cứ quy định tại Điều 192 BLTTDS năm 2015 và các quy định
khác của pháp luật.
1.1.1. Điều kiện về chủ thể khởi kiện
Để khởi kiện vụ án dân sự, chủ thể khởi kiện phải có quyền khởi
kiện và có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Đây là điều kiện đầu
tiên phải xác định khi đương sự thực hiện việc khởi kiện và được quy
định tại điểm a khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015.
Thứ nhất, người khởi kiện phải là người có quyền, lợi ích hợp
pháp về dân sự; HN&GĐ; kinh doanh, thương mại; lao động (sau đây
gọi tắt là dân sự). Về nguyên tắc, quyền, lợi ích hợp pháp về dân sự
chỉ có được khi chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật nội dung:
quan hệ dân sự; HN&GĐ; kinh doanh, thương mại; lao động (viết tắt
là quan hệ dân sự). Chủ thể không có quyền, lợi ích dân sự không có
quyền khởi kiện trừ một số trường hợp ngoại lệ theo quy định của
pháp luật. Luật sư cần lưu ý rằng, có quyền, lợi ích dân sự hợp pháp
chỉ là điều kiện cần trong quyền khởi kiện của chủ thể khởi kiện. Mặc

10
dù người khởi kiện có quyền, lợi ích dân sự nhưng quyền, lợi ích đó
không hoặc chưa bị xâm phạm thì cũng chưa đủ điều kiện khởi kiện
vụ án dân sự.
Ví dụ:
Ông A (bên mua) và ông B (bên bán) giao kết và thực hiện hợp
đồng mua bán tài sản là phân bón. Đến thời hạn ngày 12/3/2016,
ông A phải thanh toán cho ông B số tiền 120.000.000 đồng còn thiếu
nhưng do ông A không thực hiện nên ngày 13/3/2016, ông A và ông B
lập văn bản thỏa thuận gia hạn thanh toán cho ông B vào ngày
13/6/2016. Ông B biết được thông tin ông A bán nhà nên ngày
10/4/2016, ông B gặp Luật sư trình bày muốn khởi kiện ông A yêu
cầu thanh toán tiền và tiền lãi chậm thanh toán.
Trong tình huống này, ông B có quyền dân sự phát sinh từ quan
hệ hợp đồng mua bán tài sản nhưng quyền dân sự của ông chưa bị
xâm phạm nên ông B chưa có quyền khởi kiện ông A. Nếu đến thời
hạn thực hiện nghĩa vụ (ngày 13/6/2016) mà ông A không thực
hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thanh toán thì
quyền dân sự của ông B mới bị xâm phạm.

Về nguyên tắc, chỉ có cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền, lợi ích


bị xâm phạm mới có quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền
lợi của mình. Bên cạnh đó, để bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của
người khác hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc
lĩnh vực mình phụ trách, trong một số trường hợp đặc biệt, pháp luật
quy định quyền khởi kiện của các cá nhân, cơ quan, tổ chức gồm:
Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về
trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có quyền khởi kiện trong trường hợp cần bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của những người quy định tại khoản 5 Điều 84; khoản 2 Điều
86; khoản 3 Điều 102; khoản 2 Điều 119 Luật HN&GĐ năm 2014. Tổ
chức đại diện tập thể lao động có quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động hoặc khi được người
lao động ủy quyền. Việc khởi kiện của tổ chức đại diện tập thể lao động
được thực hiện theo quy định của Bộ luật Lao động năm 20121.

1
Xem thêm Bộ luật Lao động năm 2019 (có hiệu lực thi hành từ 01/01/2021).

11
Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có
quyền đại diện cho người tiêu dùng khởi kiện bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng hoặc vì lợi ích công cộng theo quy định của Luật Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.
Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích
công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách hoặc
theo quy định của pháp luật. Theo đó, cơ quan, tổ chức có quyền khởi
kiện vụ án dân sự khi có đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Cơ quan, tổ chức đó có những nhiệm vụ, quyền hạn trong việc
thực hiện chức năng quản lý nhà nước, quản lý xã hội về một lĩnh vực
nhất định.
- Lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước cần yêu cầu Tòa án
bảo vệ phải thuộc lĩnh vực do cơ quan, tổ chức đó phụ trách.
Ví dụ, cơ quan Tài nguyên và Môi trường có quyền khởi kiện vụ
án dân sự để yêu cầu Tòa án buộc cá nhân, cơ quan, tổ chức có hành
vi gây ô nhiễm môi trường phải bồi thường thiệt hại, khắc phục sự cố
gây ô nhiễm môi trường công cộng. Cơ quan Văn hóa - Thông tin có
quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án buộc cá nhân, cơ
quan, tổ chức có hành vi xâm phạm di sản văn hóa thuộc sở hữu toàn
dân phải bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra.
Ngoài ra, BLTTDS năm 2015 còn quy định cá nhân có quyền
khởi kiện vụ án HN&GĐ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người
khác theo quy định tại khoản 2 Điều 51; khoản 5 Điều 84; khoản 2
Điều 86; Điều 92; khoản 3 Điều 102; khoản 2 Điều 119 Luật HN&GĐ
năm 2014. Đây là quy định mới được bổ sung trong Luật HN&GĐ
năm 2014, BLTTDS năm 2015. Cá nhân có quyền khởi kiện trong các
trường hợp nêu trên được quy định tại khoản 1 Điều 3; điểm a khoản 3
Điều 102 Luật HN&GĐ năm 2014 chỉ quy định cha, mẹ, con, người
giám hộ mới có quyền khởi kiện.
Thứ hai, ngoài quyền khởi kiện, người khởi kiện phải có đủ năng
lực hành vi tố tụng dân sự. Năng lực hành vi tố tụng dân sự là khả năng
tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho
người đại diện tham gia tố tụng dân sự. Người khởi kiện không có đủ
năng lực hành vi tố tụng dân sự là người không có khả năng tự mình

12
thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại
diện tham gia tố tụng dân sự theo quy định tại Điều 69 BLTTDS
năm 2015. Người khởi kiện vụ án dân sự là cá nhân phải là con người
cụ thể, không phân biệt là người nước ngoài hay người Việt Nam ở
trong nước hay người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập, công tác ở
nước ngoài hoặc người nước ngoài không ở Việt Nam có mặt tại Việt
Nam. Tuy nhiên, họ phải là người đạt độ tuổi nhất định, sức khỏe bình
thường, không bị mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của
mình. Luật sư cần căn cứ quy định tại Điều 69 BLTTDS năm 2015 để
xác định năng lực hành vi tố tụng dân sự của cá nhân. Người từ đủ
mười tám tuổi trở lên có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự, trừ
người mất năng lực hành vi dân sự hoặc pháp luật có quy định khác.
Trường hợp cá nhân là người chưa có đủ năng lực hành vi tố
tụng dân sự, mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức và làm chủ hành vi dân sự họ không thể thực hiện được
quyền khởi kiện do đó người đại diện hợp pháp thực hiện quyền khởi
kiện. Tuy nhiên, người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi mặc dù năng
lực hành vi tố tụng dân sự chưa đầy đủ nhưng họ vẫn có quyền khởi
kiện khi thuộc các trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 69 BLTTDS
năm 2015.
Ví dụ:
Vợ chồng ông A, bà B có ba người con chung là N, M, P, trong đó
P bị mất năng lực hành vi dân sự. Trước khi chết, ông A lập di chúc
cho P hưởng diện tích nhà, đất tại số 12, đường T, phường TX, quận
HK. Sau khi ông A mất, N đã chiếm nhà, đất trên, bà B và M yêu cầu
N trả lại nhà, đất cho P nhưng N không trả.
P là người có quyền thừa kế di sản của ông A (nhà, đất tại
số 12, đường T, phường TX, quận HK sau khi ông A chết) nhưng do P
bị mất năng lực hành vi dân sự nên cũng không có năng lực hành vi
tố tụng dân sự để thực hiện quyền khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa
kế của ông A. Theo quy định của BLDS, bà B là người đại diện hợp
pháp của P (đại diện theo pháp luật) nên bà B có quyền khởi kiện
yêu cầu N phải trả lại nhà, đất tại số 12, đường T, phường TX, quận HK
cho P.

13
Người khởi kiện là cơ quan, tổ chức thực hiện quyền khởi kiện
thông qua người đại diện hợp pháp. Người đại diện hợp pháp của cơ
quan, tổ chức là người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy
quyền. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân được quy định trong
điều lệ của pháp nhân; giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (hoặc
giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp) hoặc trong quyết định thành
lập pháp nhân. Năng lực hành vi tố tụng dân sự của cơ quan, tổ chức
được xác định thông qua năng lực hành vi tố tụng dân sự của cá nhân
người đại diện hợp pháp. Nếu cơ quan, tổ chức bị sáp nhập, phân chia,
giải thể thì cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ được
thực hiện quyền khởi kiện. Cơ quan, tổ chức muốn thực hiện quyền
khởi kiện phải có tư cách pháp nhân2. Các đơn vị phụ thuộc của pháp
nhân như chi nhánh, văn phòng đại diện không phải là pháp nhân,
không có tư cách chủ thể khởi kiện nên không có quyền khởi kiện vụ
án dân sự. Việc khởi kiện bảo vệ quyền lợi của hộ gia đình, tổ hợp tác,
tổ chức khác không có tư cách pháp nhân được pháp luật quy định cụ
thể. Theo Điều 101 BLDS năm 2015, trường hợp hộ gia đình, tổ hợp
tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự
thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có
tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao
dịch dân sự. Vì vậy, việc khởi kiện trong trường hợp này do cá nhân
thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách
pháp nhân thực hiện. Ví dụ: doanh nghiệp tư nhân là một tổ chức
không có tư cách pháp nhân. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp
năm 2014, người khởi kiện là chủ doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp tư nhân không phải là chủ thể khởi kiện.
1.1.2. Đủ điều kiện khởi kiện
Điều kiện này được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 192
BLTTDS năm 2015. Theo đó, “chưa có đủ điều kiện khởi kiện là
trường hợp pháp luật có quy định về các điều kiện khởi kiện nhưng
người khởi kiện đã khởi kiện đến Toà án khi còn thiếu một trong các
điều kiện đó”. Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp các

2
Vấn đề pháp nhân được quy định tại các điều từ Điều 74 đến Điều 96 Chương IV
Phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLDS năm 2015.

14
đương sự có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định về các điều kiện
để khởi kiện (kể cả quy định về hình thức, nội dung đơn khởi kiện),
nhưng đương sự đã khởi kiện khi còn thiếu một trong các điều kiện đó.
So với nội dung hướng dẫn trên, điều cần chú ý là BLTTDS năm 2015
chỉ quy định điều kiện khởi kiện do pháp luật quy định, không quy
định điều kiện khởi kiện do các đương sự có thoả thuận. Khi xác định
điều kiện khởi kiện do pháp luật quy định, Luật sư cần nghiên cứu quy
định của pháp luật nội dung như BLDS năm 2005, BLDS năm 2015,
Luật Đất đai năm 2013, Bộ luật Lao động năm 20123, Luật HN&GĐ
năm 2014… Ngoài các quy định của pháp luật nêu trên về điều kiện
khởi kiện, Luật sư cần xác định các trường hợp khác mà pháp luật có
quy định tranh chấp cần phải được giải quyết bởi cơ quan, tổ chức
khác trước khi khởi kiện vụ án dân sự.
Tuy nhiên, Luật sư cần lưu ý điều kiện này không áp dụng đối
với tất cả các tranh chấp mà chỉ giới hạn đối với một số tranh chấp. Cụ
thể là: tranh chấp đất đai; tranh chấp về bồi thường thiệt hại do người
thi hành công vụ của nhà nước gây ra; tranh chấp liên quan đến hoạt
động nghiệp vụ báo chí; tranh chấp lao động cá nhân, tranh chấp lao
động tập thể về quyền; một số loại tranh chấp như đòi nhà cho thuê, cho
mượn, cho ở nhờ… theo quy định của Nghị quyết số 1037/2006/NQ-
UBTVQH11 ngày 27/7/2006 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về giao
dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 có người Việt
Nam định cư ở nước ngoài tham gia; tranh chấp về ly hôn theo quy
định tại khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014; tranh chấp thừa kế
theo quy định tại Điều 661 BLDS năm 2015...
1.1.3. Sự việc chưa được Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giải quyết bằng một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp
luật hoặc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án nhưng người khởi kiện có quyền khởi kiện lại
theo quy định của pháp luật
Chủ thể khởi kiện chỉ được quyền khởi kiện đối với sự việc chưa
được Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết bằng
một bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc trong trường
hợp sự việc đã được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định có hiệu

3
Xem thêm Bộ luật Lao động năm 2019 (có hiệu lực thi hành từ 01/01/2021).

15
lực nhưng theo quy định của pháp luật thì người khởi kiện có quyền
khởi kiện lại, trong các trường hợp sau:
- Yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau
khi ly hôn, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại; yêu cầu
thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản; thay đổi
người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn,
đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà
trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và theo quy định của pháp
luật đương sự được quyền khởi kiện lại.
- Trường hợp Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo
quy định tại khoản 3 Điều 192, điểm c khoản 1 Điều 217 BLTTDS
năm 2015 bao gồm: người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện
hoặc nguyên đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng
mặt thì đương sự vẫn có quyền khởi kiện lại. Đối với trường hợp Tòa
án đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án do chưa có đủ điều kiện
hoặc do yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án thì người khởi kiện có quyền khởi kiện
lại khi đã có đủ điều kiện khởi kiện hoặc khi vụ án thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án.
- Đối với tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài, nếu vụ việc đã
được giải quyết bằng bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài hoặc
phán quyết của Trọng tài nước ngoài, người khởi kiện không có quyền
khởi kiện lại trừ trường hợp bản án, quyết định của Tòa án nước
ngoài, phán quyết của Trọng tài nước ngoài không được Tòa án
Việt Nam công nhận thì người khởi kiện vẫn có quyền khởi kiện lại tại
Tòa án Việt Nam (Điều 472 BLTTDS năm 2015).
- Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Đây là các
trường hợp trong BLTTDS chưa quy định nhưng đã được quy định
trong các văn bản quy phạm pháp luật khác hoặc trong các điều ước
quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
1.1.4. Yêu cầu khởi kiện phải thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án
Xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án là một trong những
điều kiện quan trọng của điều kiện khởi kiện vụ án dân sự. Điều 192

16
BLTTDS năm 2015 quy định Tòa án trả lại đơn khởi kiện trong
trường hợp: “Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án”.
Tiếp cận theo góc độ điều kiện khởi kiện, vụ án không thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án là trường hợp theo quy định của pháp luật
tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan, tổ chức khác.
Các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án quy định
tại các điều 26, 28, 30 và 32 BLTTDS năm 2015. Theo đó, Toà án có
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ bốn loại quan hệ
pháp luật, đó là những tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật dân
sự (Điều 26 BLTTDS năm 2015), những tranh chấp phát sinh từ quan
hệ pháp luật HN&GĐ (Điều 28 BLTTDS năm 2015), những tranh
chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại (Điều 30
BLTTDS năm 2015), những tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp luật
lao động (Điều 32 BLTTDS năm 2015).
Điểm cần lưu ý là so với quy định của BLTTDS năm 2004, sửa đổi,
bổ sung năm 2011 thì thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với các tranh
chấp quy định tại Điều 26, 28, 30, 32 BLTTDS năm 2015 được mở rộng
hơn, phù hợp với các quy định của luật nội dung như BLDS năm 2015,
Luật HN&GĐ năm 2014, Bộ luật Lao động năm 2012, Luật Đất đai
năm 2013... theo đó, Tòa án có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh
chấp dân sự, HN&GĐ, kinh doanh, thương mại, lao động trừ những
tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác.
Ví dụ: Tranh chấp liên quan đến việc ký kết, thực hiện hoặc chấm dứt
hợp đồng làm việc; tranh chấp liên quan đến xử lý kỷ luật, tạm đình
chỉ công tác, bồi thường thiệt hại hoặc hoàn trả chi phí đào tạo... giữa
viên chức và đơn vị sự nghiệp công lập không được liệt kê trong các
loại tranh chấp lao động quy định tại Điều 32 BLTTDS nhưng theo
quy định tại Điều 30, khoản 6 Điều 56 Luật Viên chức, tranh chấp này
không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác mà đây
là tranh chấp lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Ngoài ra, BLTTDS năm 2015 cũng quy định Tòa án: “không
được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều
luật để áp dụng” (khoản 2 Điều 4 BLTTDS năm 2015). Đây là quy

17
định mới, mang tính đột phá, mở rộng thẩm quyền giải quyết tranh
chấp dân sự; HN&GĐ; kinh doanh, thương mại; lao động của Tòa án.
Mục tiêu nhằm đảm bảo mọi tranh chấp dân sự đều phải được Tòa án
thụ lý, giải quyết; bảo đảm quyền được tiếp cận công lý của chủ thể
quan hệ pháp luật khi có tranh chấp, phù hợp với quy định của Hiến
pháp năm 2013 về quyền con người, quyền tư pháp.
Xác định điều kiện yêu cầu khởi kiện thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án cần chú ý phân biệt thẩm quyền giải quyết tranh
chấp dân sự của Tòa án với thẩm quyền giải quyết vụ việc của các cơ
quan, tổ chức khác (cơ quan hành chính nhà nước, Trọng tài thương
mại). Tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của chủ thể phát sinh từ quan
hệ pháp luật hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan
hành chính nhà nước, không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Các chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính khi có tranh chấp có
quyền khiếu nại, yêu cầu cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động
thương mại; tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một
bên có hoạt động thương mại; hoặc các tranh chấp khác giữa các bên
mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài thuộc thẩm
quyền giải quyết của Trọng tài thương mại nếu các bên có thoả thuận
trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy
ra tranh chấp (khoản 1 Điều 5 Luật Trọng tài thương mại năm 2010).
Do đó, khi có tranh chấp, các bên không có quyền khởi kiện yêu cầu
Tòa án giải quyết trừ trường hợp thoả thuận trọng tài vô hiệu theo quy
định tại Điều 18 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 hoặc thoả thuận
trọng tài không thể thực hiện được.
Đối với điều kiện về thẩm quyền của Tòa án khi giải quyết
tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài cần chú ý các quy định của
BLTTDS về thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam trong giải
quyết các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài (Điều 469
BLTTDS năm 2015); thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam
(Điều 470 BLTTDS năm 2015), thỏa thuận của các bên đương
sự về lựa chọn Trọng tài, Tòa án nước ngoài (Điều 472 BLTTDS
năm 2015).

18
1.1.5. Điều kiện về đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ
Đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo là điều kiện về
thủ tục của việc khởi kiện. Theo quy định tại Điều 192 BLTTDS
năm 2015, Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong trường hợp “người
khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của
Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 193 của Bộ luật này”. Khoản 5
Điều 189 BLTTDS năm 2015 quy định: Kèm theo đơn khởi kiện phải
có tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người
khởi kiện bị xâm phạm.
* Điều kiện về đơn khởi kiện
Chủ thể thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự phải bằng hình
thức văn bản (đơn khởi kiện) và phải viết bằng tiếng Việt. So với quy
định của pháp luật tố tụng dân sự trước đây thì quy định về hình thức, nội
dung đơn khởi kiện tại BLTTDS năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung
theo hướng quy định cụ thể cách thức làm đơn khởi kiện đối với từng
chủ thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức. BLTTDS năm 2015 đã pháp điển
hóa nội dung này từ hướng dẫn trong Nghị quyết của Hội đồng Thẩm
phán TANDTC, giúp cho các chủ thể thực hiện quyền khởi kiện dễ dàng,
thuận lợi hơn và tạo sự thống nhất trong việc áp dụng của các cơ quan
tiến hành tố tụng. Đơn khởi kiện phải bảo đảm yêu cầu về hình thức cũng
như nội dung theo quy định tại Điều 189 BLTTDS năm 2015.
- Điều kiện về hình thức đơn khởi kiện: phải thực hiện theo đúng
quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 189 BLTTDS năm 2015. Tùy thuộc
từng trường hợp người khởi kiện là cá nhân hay cơ quan, tổ chức mà
hình thức đơn khởi kiện phải đáp ứng yêu cầu khác nhau.
Trường hợp người khởi kiện là cá nhân có đầy đủ năng lực hành
vi tố tụng dân sự thì tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi kiện
trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của cá nhân đó. Ở cuối
đơn, do BLTTDS năm 2015 quy định người khởi kiện phải trực tiếp
thể hiện ý chí về việc khởi kiện của mình nên chính cá nhân đó phải
ký tên hoặc điểm chỉ. Tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong
đơn khởi kiện phải ghi họ tên, địa chỉ của cá nhân đó. Nếu cá nhân
người khởi kiện là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người
đại diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ

19
đơn khởi kiện vụ án. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người khởi
kiện trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của người đại diện
hợp pháp của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp
đó phải ký tên hoặc điểm chỉ. Tuy nhiên, cá nhân là người đủ 15 tuổi
đến chưa đủ 18 tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động
hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình thì họ là người khởi
kiện về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ
dân sự đó, vì vậy tại mục tên, địa chỉ của người khởi kiện trong đơn
khởi kiện phải ghi họ tên, địa chỉ của họ; ở phần cuối đơn, họ phải ký
tên hoặc điểm chỉ. Trường hợp đối với cá nhân có đầy đủ năng lực
hành vi tố tụng dân sự hoặc cá nhân là người đại diện hợp pháp của
người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (người khởi kiện) là người
không biết chữ, người khuyết tật nhìn, người không thể tự mình làm
đơn khởi kiện hay không thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ thì có thể
nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện và bắt buộc phải có người làm
chứng là người có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự theo quy định
tại Điều 69 BLTTDS năm 2015. Người làm chứng phải ký xác nhận
vào đơn khởi kiện.
Đối với cơ quan, tổ chức là người khởi kiện thì tại mục tên, địa
chỉ của người khởi kiện phải ghi tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức và
họ, tên, chức vụ của người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó;
ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải
ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó; trường hợp tổ chức khởi
kiện là doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu được thực hiện theo
quy định của Luật Doanh nghiệp. Cần lưu ý trường hợp pháp nhân có
nhiều người đại diện theo pháp luật, Luật sư phải xem xét kỹ điều lệ
doanh nghiệp quy định cụ thể về số lượng, chức danh quản lý, quyền
và nghĩa vụ, thẩm quyền của từng người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp.
- Điều kiện về nội dung đơn khởi kiện: Nội dung của đơn khởi
kiện phải thực hiện theo đúng quy định tại khoản 4 Điều 189 BLTTDS
năm 20154. Theo đó, đơn khởi kiện phải có đầy đủ các nội dung chính
sau đây:

4
Tham khảo Mẫu số 23-DS Đơn khởi kiện (ban hành kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ-
HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC).

20
+ Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;
+ Tên Tòa án nhận đơn khởi kiện;
+ Tên, nơi cư trú, làm việc của người khởi kiện là cá nhân hoặc
trụ sở của người khởi kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và
địa chỉ thư điện tử (nếu có). Trường hợp các bên thỏa thuận địa chỉ
để Tòa án liên hệ thì trong nội dung đơn khởi kiện phải ghi cụ thể địa
chỉ đó;
+ Tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền và lợi ích được
bảo vệ là cá nhân hoặc trụ sở của người có quyền và lợi ích được bảo vệ
là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có);
+ Tên, nơi cư trú, làm việc của người bị kiện là cá nhân hoặc trụ
sở của người bị kiện là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ
thư điện tử (nếu có). Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ
sở của người bị kiện thì trong nội dung đơn khởi kiện ghi cụ thể địa chỉ
nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của người bị kiện;
+ Tên, nơi cư trú, làm việc của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan là cá nhân hoặc trụ sở của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
là cơ quan, tổ chức; số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có).
Trường hợp không rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì trong nội dung đơn khởi kiện ghi
cụ thể địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở cuối cùng của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
+ Quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm;
những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với người bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
+ Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng (nếu có);
+ Danh mục tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện.
So với quy định của pháp luật tố tụng dân sự trước đây về nội
dung đơn khởi kiện, BLTTDS năm 2015 đã bổ sung một số nội dung
như số điện thoại, fax và địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người khởi
kiện; người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và địa chỉ
do các bên thỏa thuận để Tòa án liên hệ. Đồng thời, tại Điều 189
BLTTDS năm 2015 cũng quy định bổ sung trường hợp không rõ nơi

21
cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người bị kiện, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan thì ghi rõ địa chỉ nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có
trụ sở cuối cùng của người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan. Bổ sung các quy định này, BLTTDS năm 2015 đã khắc phục
vướng mắc và giải quyết không thống nhất đối với trường hợp không
rõ nơi cư trú, làm việc hoặc trụ sở của người bị kiện, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đối với trường hợp khởi kiện vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài,
ngoài việc tuân thủ quy định về nội dung và hình thức tại Điều 189
BLTTDS năm 2015 đơn khởi kiện còn phải ghi rõ quốc tịch của người
bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở nước ngoài.
* Điều kiện về tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện
Người khởi kiện phải nộp kèm theo đơn khởi kiện các tài liệu,
chứng cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện là có căn cứ để Tòa án thụ lý
vụ án. Tài liệu, chứng cứ phải bảo đảm tính đầy đủ và tính hợp pháp.
Các tài liệu, chứng cứ này được liệt kê trong danh mục tài liệu, chứng
cứ của nội dung đơn khởi kiện. Về tính đầy đủ, yêu cầu đặt ra là các
tài liệu, chứng cứ này phải phù hợp về hình thức, nội dung đơn khởi
kiện, yêu cầu khởi kiện. Tùy thuộc vào từng loại tranh chấp và từng
tranh chấp cụ thể mà yêu cầu về tài liệu, chứng cứ phù hợp. Tuy
nhiên, bất kỳ tranh chấp nào người khởi kiện cũng phải có các tài liệu,
chứng cứ chứng minh tư cách của chủ thể khởi kiện và chứng minh
quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm, yêu cầu
khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp.
Việc xác định các tài liệu chứng minh tư cách chủ thể khởi
kiện trong trường hợp người khởi kiện là cá nhân khác với người
khởi kiện là cơ quan, tổ chức. Chẳng hạn, đối với cá nhân phải có
chứng minh thư, sổ hộ khẩu hoặc các tài liệu hợp lệ khác. Đối với
pháp nhân là hồ sơ pháp lý của pháp nhân. Xác định tài liệu, chứng
cứ chứng minh yêu cầu khởi kiện tùy thuộc vào từng loại tranh
chấp cũng như từng tranh chấp cụ thể. Ví dụ, tranh chấp ly hôn phải
nộp giấy chứng nhận kết hôn hoặc giấy tờ hợp lệ khác chứng minh
quan hệ hôn nhân hợp pháp; tranh chấp hợp đồng phải có tài liệu,
chứng cứ chứng minh việc xác lập quan hệ hợp đồng giữa các bên...
Đối với tính hợp pháp của tài liệu, chứng cứ mà người khởi kiện
nộp kèm theo đơn khởi kiện, căn cứ vào quy định của pháp luật tố

22
tụng dân sự (Điều 95 và các quy định khác của BLTTDS năm 2015)
để xác định.
Về nguyên tắc, khi gửi đơn khởi kiện cho Tòa án, người khởi
kiện phải gửi kèm theo các tài liệu, chứng cứ để chứng minh họ là
người có quyền khởi kiện và những yêu cầu của họ là có căn cứ và
hợp pháp. Tuy nhiên, trong trường hợp vì lý do khách quan nên người
khởi kiện không thể thu thập được tài liệu, chứng cứ để nộp đầy đủ
khi khởi kiện thì họ phải nộp tài liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh
quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Người khởi kiện bổ sung hoặc
giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ khác theo yêu cầu của Tòa án
trong quá trình giải quyết vụ án. Như vậy, cần lưu ý rằng tài liệu,
chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện chỉ là những tài liệu, chứng cứ
đủ để Tòa án thụ lý vụ án, không phải là tài liệu, chứng cứ để giải
quyết vụ án. Quy định bổ sung trong BLTTDS năm 2015 về người
khởi kiện nộp tài liệu, chứng cứ hiện có nhằm bảo đảm tối đa việc
thực hiện quyền khởi kiện của các chủ thể trong thực tế, tránh việc
gây khó khăn, phiền hà cho người khởi kiện cũng như sự tùy tiện
trong việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án.
1.2. Kỹ năng tiếp xúc, trao đổi với khách hàng và chuẩn bị hồ
sơ khởi kiện
Tiếp xúc với khách hàng của Luật sư trong giai đoạn khởi kiện
vụ án dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc giúp khách hàng xác
định những thuận lợi, khó khăn khi khởi kiện, từ đó tư vấn cho khách
hàng quyết định khởi kiện hay không khởi kiện trên cơ sở đánh giá
điều kiện khởi kiện vụ án dân sự. Trong trường hợp khách hàng quyết
định việc khởi kiện, Luật sư hỗ trợ về mặt pháp lý cho họ bằng việc
chuẩn bị bộ hồ sơ khởi kiện cho khách hàng, nộp hồ sơ khởi kiện và
tư vấn cho khách hàng khiếu nại trong trường hợp Tòa án trả lại đơn
khởi kiện, chuyển đơn khởi kiện.
1.2.1. Kỹ năng tiếp xúc, trao đổi với khách hàng
Khi tiếp xúc với khách hàng ở giai đoạn khởi kiện vụ án, Luật sư
cần có kỹ năng lắng nghe lời trình bày của khách hàng về các tình tiết
vụ việc, xác định nội dung tranh chấp và mong muốn, yêu cầu của họ.
Trên cơ sở đó, Luật sư đối chiếu tài liệu, chứng cứ do khách hàng
cung cấp và trao đổi về những tình tiết pháp lý của tranh chấp mà
khách hàng chưa trình bày, trình bày còn thiếu, chưa rõ ràng, có sự

23
mâu thuẫn. Ví dụ: khi khách hàng có tranh chấp ly hôn, họ chỉ trình
bày về quan hệ hôn nhân, mâu thuẫn vợ chồng và yêu cầu: vợ chồng
kết hôn năm 1999, sau đó có sự mâu thuẫn và khách hàng muốn ly
hôn. Luật sư phải xác định được các tình tiết khách hàng trình bày còn
thiếu như việc họ kết hôn có đăng ký kết hôn hay chỉ chung sống như
vợ chồng, thời điểm vợ chồng mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn;
hiện tại họ sống chung hay ly thân... Từ đó, Luật sư sử dụng kỹ năng
hỏi, trao đổi với khách hàng, xác định thêm các tình tiết này mới có
thể hiểu rõ được tương đối đầy đủ về căn cứ ly hôn.
Ngoài các tình tiết pháp lý, Luật sư cần trao đổi, xác định đầy đủ
các tình tiết khác, lưu ý các tình tiết liên quan đến bối cảnh của tranh
chấp, cũng như mong muốn, nguyện vọng, yêu cầu cụ thể ban đầu của
khách hàng. Đó là các tình tiết liên quan đến chủ thể tranh chấp, mối
quan hệ giữa các bên tranh chấp, nguyên nhân, động cơ dẫn đến tranh
chấp... Nhiều tranh chấp dân sự có chủ thể là người già, trẻ em, phụ
nữ; người dân tộc thiểu số, một số ít vụ án dân sự có đương sự là
người có nhược điểm về thể chất, tâm thần như người khuyết tật,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người mất năng
lực hành vi dân sự. Đây là những khách hàng thuộc nhóm người yếu
thế trong xã hội so với chủ thể dân sự khác. Điều này đòi hỏi Luật sư
có sự tận tâm, chân thành và kỹ năng đặc biệt trong tiếp xúc với các
khách hàng thuộc nhóm người yếu thế, tạo niềm tin cho họ.
Tùy thuộc vào từng tranh chấp mà Luật sư xác định các tình
tiết phù hợp. Thông thường, Luật sư trao đổi, xác định các nhóm
tình tiết sau:
- Nhóm tình tiết xác định việc xác lập quan hệ pháp luật nội
dung phát sinh tranh chấp;
- Nhóm tình tiết xác định việc thực hiện quan hệ pháp luật nội dung;
- Nhóm tình tiết xác định nguyên nhân tranh chấp;
- Nhóm tình tiết xác định người bị kiện; người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan (họ tên, nơi cư trú, làm việc, nơi có trụ sở);
- Các tình tiết xác định đối tượng tranh chấp, quá trình giải quyết
tranh chấp, thủ tục tiền tố tụng (nếu có);
- Các tình tiết xác định thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự. Mặc
dù thời hiệu khởi kiện không còn là điều kiện thụ lý vụ án dân sự

24
tuy nhiên, Luật sư vẫn phải xác định để có sự tư vấn phù hợp cho
khách hàng.

Ví dụ:
Bà Nguyễn Thị Trúc đến văn phòng luật sư trình bày: Bố mẹ bà là
cụ Nguyễn Quang Mai, cụ Nguyễn Thị Tuyết. Hai cụ chung sống với
nhau từ năm 1948, sinh được 04 người con là:
1. Bà Nguyễn Thị Trúc, sinh năm 1949.
2. Bà Nguyễn Thị Thu, sinh năm 1951.
3. Bà Nguyễn Thị Dung, sinh năm 1952.
4. Ông Nguyễn Tân Quang, sinh năm 1953 là Liệt sỹ, hy sinh
năm 1972.
Cụ Mai, cụ Tuyết đều đã chết. Di sản hai cụ để lại gồm: 01 gian
nhà cấp 4, 01 gian nhà 03 tầng xây năm 1995 trên thửa đất diện tích
120,1m2 tại số 271, đường NVL, phường T, thành phố B, tỉnh BN.
Thửa đất này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang
tên cụ Mai và cụ Tuyết. Năm 2010, theo chủ trương mở đường, thửa
đất sau khi bị thu hồi còn 100,1m2. Hiện giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất do bà giữ, còn toàn bộ khối di sản này do bà Thu quản lý.
Bà Trúc muốn khởi kiện bà Thu để được hưởng di sản thừa kế của
bố mẹ để lại. Bà đề nghị anh (chị) bảo vệ quyền lợi cho bà.
Luật sư cần xác định các tình tiết sau:
- Tình tiết xác định thời điểm mở thừa kế: thời điểm cụ Mai, cụ
Tuyết chết (ngày, tháng, năm)?
- Tình tiết xác định người thừa kế: Cụ Mai, cụ Tuyết có con riêng,
con nuôi nào ngoài bà Trúc, bà Thu, bà Dung, ông Quang không.
Ông Quang có vợ, con không?
- Tình tiết xác định di sản thừa kế:
+ Ngoài nhà đất tại số 271, đường NVL, phường T, thành phố B,
tỉnh BN, cụ Tuyết, cụ Mai còn có tài sản nào khác không?
+ Số tiền đền bù diện tích đất bị thu hồi năm 2010 là bao nhiêu,
do ai nhận và quản lý?
- Tình tiết xác định có thừa kế theo di chúc: cụ Tuyết, cụ Mai có
để lại di chúc riêng hoặc chung không?

25
Để xác định được chính xác các tình tiết ban đầu của sự việc, về
kỹ năng, Luật sư cần đối chiếu các tình tiết khách hàng trình bày sau
khi đã xem xét các tài liệu, chứng cứ mà khách hàng cung cấp. Sau
khi xác định được các tình tiết, Luật sư xâu chuỗi các tình tiết, bước
đầu đánh giá nội dung tranh chấp, nhận diện quan hệ pháp luật tranh
chấp, yêu cầu của khách hàng và điều kiện khởi kiện vụ án dân sự.
Nếu như xác định điều kiện thụ lý là trách nhiệm của Tòa án (Thẩm
phán) thì xác định điều kiện khởi kiện thuộc trách nhiệm của người
khởi kiện (Luật sư). Trường hợp xác định điều kiện khởi kiện không
chính xác thì hậu quả pháp lý là Toà án trả lại đơn khởi kiện nếu chưa
thụ lý vụ án; nếu đã thụ lý, Toà án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ
án và trả lại đơn khởi kiện. Vì thế, khi thực hiện kỹ năng khởi kiện
một vụ án dân sự, Luật sư cần phải chú ý phân tích, xác định điều kiện
khởi kiện trong từng tranh chấp cụ thể (Kỹ năng xác định điều kiện
khởi kiện vụ án dân sự đã được trình bày tại mục 1.1). Từ đó, Luật sư
mới tư vấn cho khách hàng việc khởi kiện hay không khởi kiện vụ án
dân sự và nếu khởi kiện thì các thủ tục phải thực hiện, việc lựa chọn
quan hệ pháp luật tranh chấp để khởi kiện và đưa ra yêu cầu khởi kiện
như thế nào; cung cấp các tài liệu, chứng cứ ra sao cũng như nghĩa vụ
nộp tiền tạm ứng án phí của người khởi kiện (trong trường hợp họ
phải nộp tiền tạm ứng án phí) và nộp đơn khởi kiện đến Tòa án có
thẩm quyền giải quyết nào. Ví dụ, đối với tranh chấp về quyền sử dụng
đất, Luật sư tư vấn cho khách hàng trước khi khởi kiện yêu cầu Tòa án
giải quyết tranh chấp, người khởi kiện phải chủ động gửi đơn đến
UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp đề nghị hòa giải theo quy định tại
Điều 202 Luật Đất đai năm 2013.
Nếu có đủ điều kiện khởi kiện vụ án dân sự, Luật sư phân tích
các ưu điểm cũng như phương án giải quyết tranh chấp khác như
thương lượng, hòa giải ngoài tố tụng giữa các bên tranh chấp cho
khách hàng để họ lựa chọn cách thương lượng, hòa giải ngoài tố tụng
hay khởi kiện vụ án dân sự. Trường hợp khách hàng quyết định khởi
kiện, trước hết Luật sư phân tích để khách hàng hiểu những điểm lợi
thế và bất lợi của việc khởi kiện cũng như quyền lợi của họ theo quy
định của pháp luật, các thủ tục họ phải thực hiện và tiền tạm ứng án
phí họ phải nộp (trừ trường hợp họ không phải nộp hoặc được miễn
nộp tiền tạm ứng án phí).

26
Xác định người có nghĩa vụ nộp tiền tạm ứng án phí, những
trường hợp người khởi kiện không phải nộp, được miễn nộp tiền tạm
ứng án phí và dự tính số tiền tạm ứng án phí người khởi kiện phải nộp
là một trong những kỹ năng quan trọng của Luật sư khi tiếp xúc, trao
đổi với khách hàng. Xác định người khởi kiện có nghĩa vụ phải nộp
tiền tạm ứng án phí cũng như mức tiền tạm ứng án phí Luật sư căn cứ
vào nội dung tranh chấp, đối tượng tranh chấp, phạm vi yêu cầu của
người khởi kiện cũng như các quy định của pháp luật về án phí, cụ thể
là Điều 143, 146, 147 BLTTDS; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án (Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14).
Căn cứ trên cơ sở tính chất của vụ án dân sự khác nhau pháp luật quy
định hai loại án phí dân sự sơ thẩm khác nhau: Án phí dân sự sơ thẩm
đối với vụ án dân sự không có giá ngạch và án phí dân sự sơ thẩm đối
với vụ án dân sự có giá ngạch. Vụ án dân sự không có giá ngạch là vụ
án mà trong đó yêu cầu của đương sự không phải là một số tiền hoặc
không thể xác định được giá trị bằng một số tiền cụ thể nên pháp luật
quy định một mức án phí dân sự sơ thẩm chung đối với vụ án dân sự
không có giá ngạch5. Các vụ án dân sự không có giá ngạch là các vụ
án ly hôn không có yêu cầu chia tài sản, yêu cầu cấp dưỡng; tranh
chấp về đòi tài sản cho mượn, cho ở nhờ... Vụ án dân sự có giá ngạch
là vụ án mà trong đó yêu cầu của đương sự là một số tiền hoặc tài sản
có thể xác định được bằng một số tiền cụ thể. Tùy vào tính chất của
từng loại tranh chấp (dân sự, HN&GĐ, kinh doanh, thương mại, lao
động) mà mức án phí dân sự sơ thẩm khởi điểm đối với mỗi loại vụ án
dân sự là khác nhau (Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm
theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14).
Luật sư căn cứ vào yêu cầu khởi kiện, phạm vi yêu cầu khởi
kiện; các tài liệu, chứng cứ kèm theo và quan hệ pháp luật tranh chấp
để xác định và tư vấn cho khách hàng số tiền tạm ứng án phí mà họ
phải nộp. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào Luật sư cũng có thể
dễ dàng xác định được số tiền tạm ứng án phí cụ thể, nhất là các tranh
chấp tài sản cần xác định giá trị. Trong trường hợp như vậy, các căn
cứ là cơ sở tính tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm như sau:

5
Hiện nay, theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 thì mức án phí đối với
vụ án dân sự không có giá ngạch là 300.000 đồng.

27
- Giá tài sản theo quy định của UBND cấp tỉnh.
- Bảng giá của các Tổ chức thẩm định giá.
- Giá tài sản tại thị trường địa phương.
Trường hợp vụ án có nhiều người khởi kiện mà mỗi người khởi
kiện có yêu cầu độc lập thì từng người khởi kiện phải nộp tiền tạm
ứng án phí theo yêu cầu riêng của họ; nếu tất cả người khởi kiện cùng
chung một yêu cầu thì họ phải nộp chung tiền tạm ứng án phí.
Xác định các trường hợp không phải nộp tiền tạm ứng án phí,
Luật sư cũng căn cứ yêu cầu khởi kiện, quan hệ pháp luật tranh chấp
và quy định tại Điều 11 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14. Đối với
trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí (miễn
nộp toàn bộ hoặc một phần tiền tạm ứng án phí) Luật sư giúp khách
hàng chuẩn bị hồ sơ nộp cho Tòa án. Hồ sơ đề nghị miễn nộp tiền tạm
ứng án phí bao gồm: (1) đơn đề nghị miễn nộp tiền tạm ứng án phí.
Đơn đề nghị miễn nộp tiền tạm ứng án phí Luật sư soạn thảo phải bảo
đảm điều kiện về hình thức và có đầy đủ các nội dung theo quy định
tại Điều 14 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; (2) các tài liệu,
chứng cứ chứng minh thuộc trường hợp được miễn theo quy định tại
Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.
Xác định và tư vấn cho khách hàng về yêu cầu khởi kiện là
một nội dung quan trọng trong kỹ năng của Luật sư khi tiếp xúc,
trao đổi với họ ở giai đoạn khởi kiện. Ngoài yếu tố là cơ sở để đánh
giá Luật sư hoàn thành hay không hoàn thành công việc theo hợp
đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng, yêu cầu khởi kiện của khách
hàng còn là một trong những yếu tố để xác định quan hệ pháp luật
tranh chấp, thẩm quyền giải quyết của Toà án và tài liệu, chứng cứ
chứng minh yêu cầu khởi kiện. Vì vậy, khi tiếp xúc, trao đổi, Luật
sư phải xác định chính xác các yêu cầu khởi kiện của khách hàng
dưới góc độ pháp lý. Trong thực tiễn, khách hàng có trình độ, nhận
thức pháp lý rất khác nhau. Sự hiểu biết, cách trình bày mong
muốn, các yêu cầu khởi kiện của khách hàng cũng khác nhau.
Khách hàng do không hoặc thiếu hiểu biết về pháp luật nên có thể
họ đưa ra những yêu cầu không phù hợp với quy định của pháp luật
hoặc không đảm bảo được quyền, lợi ích của mình. Luật sư phân
tích cho người khởi kiện biết được họ có quyền yêu cầu như thế

28
nào; yêu cầu nào của họ thuộc, không thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án; khả năng yêu cầu nào được chấp nhận, yêu cầu nào
không được chấp nhận hoặc yêu cầu nào được chấp nhận một phần,
yêu cầu nào được chấp nhận toàn bộ. Tư vấn yêu cầu cho khách
hàng phải bảo đảm được tốt nhất quyền lợi của họ. Khi tư vấn cho
khách hàng về yêu cầu khởi kiện, Luật sư tư vấn cụ thể cho khách
hàng cần đưa ra yêu cầu khởi kiện gì (ví dụ: yêu cầu chia di sản
thừa kế; yêu cầu hủy hợp đồng…); yêu cầu đối với ai? (liên quan
đến tư vấn về người bị kiện); những người nào có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến yêu cầu và phạm vi của yêu cầu như thế nào?.
Trường hợp xác định có quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ
quan, tổ chức, người có thẩm quyền xâm phạm quyền, lợi ích hợp
pháp của người khởi kiện, Luật sư tư vấn cho họ về yêu cầu hủy
quyết định cá biệt ngay từ khi khởi kiện.
Ví dụ:
Ngày 15/11/2015, chị Phùng Thu Hoan (cư trú tại nhà số 25/32,
phố C, quận H, thành phố Đ) vay của vợ chồng chị Nguyễn Thị Lan
và anh Lê Văn Quang (cư trú tại số 4, cụm 2, tổ 13, phường X,
quận H, thành phố Đ) số tiền 100.000 USD (đô la Mỹ). Trong giấy
vay hai bên thỏa thuận thời hạn vay 1 năm, lãi suất là 2%/tháng,
đến hạn trả nợ ngày 15/11/2016 bên vay phải thanh toán đầy đủ
cho bên cho vay. Để đảm bảo cho khoản vay trên, chị Hoan đã giao
cho chị Lan, anh Quang giấy chứng nhận số 10004344017 ngày
12/8/2008 về sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở mang tên vợ
chồng chị là ngôi nhà số 25/32, phố C, quận H, thành phố Đ. Hai
bên thỏa thuận khi nào trả hết số tiền gốc và lãi bên cho vay tiền sẽ
hoàn lại mọi thủ tục, giấy tờ giữ của bên vay. Nếu bên vay tiền
không trả tiền gốc và tiền lãi thì nhà, đất trên thuộc quyền sở hữu
của vợ chồng chị Lan, anh Quang.
Đến hạn, chị Hoan không trả tiền gốc và lãi nên vợ chồng chị
Lan, anh Quang muốn khởi kiện chị Hoan yêu cầu trả gốc và lãi
theo thỏa thuận; nếu chị Hoan không trả được tiền gốc và lãi thì yêu
cầu xác định vợ chồng anh chị là chủ sở hữu ngôi nhà số 25/32,
phố C, quận H, thành phố Đ.
* Với tình huống trên, các vấn đề Luật sư tư vấn cho chị Lan, anh
Quang về yêu cầu khởi kiện như sau:

29
- Về yêu cầu trả tiền gốc và lãi: đây là hợp đồng vay tiền ngoại tệ,
vi phạm quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối nên vô hiệu, vì
vậy yêu cầu trả tiền lãi không được chấp nhận.
- Về yêu cầu xác định vợ chồng anh chị là chủ sở hữu ngôi nhà số
25/32, phố C, quận H, thành phố Đ: do biện pháp thế chấp tài sản
giữa chị Hoan và vợ chồng chị Lan, anh Quang không đúng quy
định của pháp luật nên yêu cầu này không được chấp nhận.

Thực hiện tốt kỹ năng tư vấn yêu cầu cho khách hàng đảm bảo
được quyền lợi của họ, Luật sư phải thông hiểu được các quy định
của pháp luật có nội dung về quyền dân sự của các chủ thể quan hệ
pháp luật. Việc tư vấn yêu cầu khởi kiện gắn liền với tư vấn cho
khách hàng lựa chọn quan hệ pháp luật tranh chấp ban đầu để khởi
kiện; người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng như
số tiền tạm ứng án phí mà khách hàng phải nộp (trừ trường hợp họ
được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí). Điều này đòi
hỏi Luật sư phải có kỹ năng xác định chính xác quan hệ pháp luật
tranh chấp. Có hai yếu tố căn bản để xác định quan hệ pháp luật
tranh chấp. Yếu tố thứ nhất là bản chất của quan hệ pháp luật nội
dung đã xác lập, thực hiện giữa các bên tranh chấp. Yếu tố thứ hai là
nội dung yêu cầu của khách hàng.
Cùng với tư vấn yêu cầu, quan hệ pháp luật tranh chấp, người bị
kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Luật sư xác định và tư
vấn cho khách hàng Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
Thực hiện tốt kỹ năng tư vấn cho khách hàng về Tòa án có thẩm
quyền giải quyết yêu cầu khởi kiện của họ đòi hỏi Luật sư phải nắm
vững các quy định của BLTTDS năm 2015 về thẩm quyền của Tòa án
các cấp và thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ.
Về thẩm quyền của Tòa án các cấp, Luật sư cần chú ý những sửa
đổi, bổ sung của BLTTDS năm 2015. Các tranh chấp dân sự được giải
quyết theo thủ tục sơ thẩm ở Toà án cấp huyện hoặc Toà án cấp tỉnh
quy định tại Điều 35, 36, 37, 38 BLTTDS năm 2015. Theo đó, Tòa án
cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm đối với hầu
hết các tranh chấp dân sự được quy định tại Điều 26, Điều 28, Điều 30,
Điều 32 BLTTDS năm 2015 trừ tranh chấp quy định tại khoản 7

30
Điều 26; khoản 2, 3, 4 Điều 30 thuộc thẩm quyền giải quyết của
TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (Tòa án cấp tỉnh) và
những tranh chấp có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần
phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của
nước ngoài. Tuy nhiên, có trường hợp ngoại lệ, đó là các tranh chấp
về ly hôn, về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng; cha mẹ và con; về nhận
cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư
trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú
ở khu vực biên giới với Việt Nam do Tòa án cấp huyện nơi cư trú của
công dân Việt Nam thụ lý, giải quyết (Điều 123 Luật HN&GĐ
năm 2014; khoản 4 Điều 35 BLTTDS năm 2015).
Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự
quy định tại khoản 7 Điều 26; khoản 2, 3, 4 Điều 30; khoản 3 Điều 35;
khoản 2 Điều 37 BLTTDS năm 2015. Cụ thể, Tòa án cấp tỉnh có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp sau:
Thứ nhất, tranh chấp về bồi thường thiệt hại do áp dụng biện
pháp ngăn chặn hành chính không đúng theo pháp luật cạnh tranh quy
định tại khoản 7 Điều 26 BLTTDS năm 2015 và những tranh chấp có
tính chất phức tạp trong các lĩnh vực kinh doanh, thương mại quy định
tại khoản 2, 3, 4 Điều 30 BLTTDS năm 2015.
Thứ hai, tranh chấp có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc
cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền
của nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp
huyện, trừ các tranh chấp về HN&GĐ giữa công dân Việt Nam cư trú
ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở
khu vực biên giới với Việt Nam theo quy định tại khoản 4 Điều 35
BLTTDS năm 2015, Điều 123 Luật HN&GĐ năm 2014.
“Đương sự ở nước ngoài” đã từng được TANDTC xác định là
người nước ngoài không định cư, làm ăn, học tập, công tác ở Việt Nam
có mặt hoặc không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm Tòa án thụ lý
vụ việc dân sự; là người Việt Nam định cư, làm ăn, học tập, công tác ở
nước ngoài có mặt hoặc không có mặt tại Việt Nam vào thời điểm
Tòa án thụ lý vụ việc dân sự; là người nước ngoài định cư, làm ăn, học

31
tập, công tác ở Việt Nam nhưng không có mặt tại Việt Nam vào thời
điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự; là người Việt Nam định cư, làm ăn,
học tập, công tác ở Việt Nam nhưng không có mặt tại Việt Nam vào
thời điểm Tòa án thụ lý vụ việc dân sự. Cơ quan, tổ chức không phân
biệt là cơ quan, tổ chức nước ngoài hay cơ quan, tổ chức Việt Nam mà
không có trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam vào thời
điểm Tòa án thụ lý vụ án dân sự. Tài sản ở nước ngoài là tài sản được
xác định theo quy định của BLDS là ở ngoài biên giới lãnh thổ của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại thời điểm Tòa án thụ lý
vụ việc dân sự. Cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ
quan có thẩm quyền của nước ngoài là trường hợp trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự cần phải tiến hành một hoặc một số hoạt
động tố tụng dân sự ở nước ngoài mà Tòa án Việt Nam không thể
thực hiện được, cần phải yêu cầu cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài thực hiện hoặc đề nghị Tòa án,
cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thực hiện theo quy định của
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên hoặc theo nguyên tắc có
đi có lại6.
Thứ ba, những tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án cấp huyện mà Tòa án cấp tỉnh tự mình lấy lên giải quyết
khi xét thấy cần thiết hoặc theo đề nghị của Tòa án cấp huyện.
BLTTDS năm 2015 không quy định cụ thể những tranh chấp nào
thuộc trường hợp Tòa án cấp tỉnh xét thấy cần thiết hoặc Tòa án cấp
huyện đề nghị Tòa án cấp tỉnh giải quyết. Tuy nhiên, cần lưu ý đối với
những vụ án phức tạp, việc xác minh, thu thập chứng cứ có nhiều khó
khăn hoặc cần đảm bảo tính khách quan trong quá trình giải quyết;
phải giám định kỹ thuật phức tạp; vụ án liên quan tới nhiều đương sự,
tài sản tranh chấp ở nhiều địa phương khác nhau; đương sự là cán bộ
chủ chốt ở địa phương, những người có uy tín trong tôn giáo mà xét
thấy việc xét xử ở Tòa án cấp huyện không có lợi về chính trị hoặc vụ
việc có liên quan đến Thẩm phán, Phó Chánh án, Chánh án tòa cấp
huyện; vụ án được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm.
6
Điều 7 Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định
chung” của BLTTDS đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLTTDS.

32
Một vấn đề Luật sư cần lưu ý liên quan đến điều kiện thẩm
quyền của TAND các cấp khi giải quyết vụ án dân sự có việc xem xét
hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có
thẩm quyền. BLTTDS năm 2015 đã sửa đổi về thẩm quyền theo cấp
của Tòa án trong trường hợp xem xét hủy quyết định cá biệt của cơ
quan, tổ chức, người có thẩm quyền. Theo đó, thẩm quyền theo cấp
Tòa án giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp có xem xét việc
hủy quyết định cá biệt được xác định theo quy định tương ứng của
Luật Tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án cấp huyện, Tòa án
cấp tỉnh (khoản 4 Điều 34 BLTTDS năm 2015). Tuy nhiên, ở giai
đoạn khởi kiện, thụ lý vụ án dân sự, tranh chấp dân sự thuộc thẩm
quyền của Tòa án cấp huyện, nhưng trong đơn khởi kiện người khởi
kiện yêu cầu hủy quyết định cá biệt mà quyết định này thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh theo quy định của Luật Tố tụng
hành chính thì Tòa án cấp huyện vẫn có thẩm quyền thụ lý, giải quyết.
Trong quá trình giải quyết có căn cứ xác định quyết định cá biệt trái
pháp luật phải hủy thì Tòa án cấp huyện chuyển vụ án lên Tòa án cấp
tỉnh giải quyết theo thẩm quyền.
Đối với thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ, Luật sư căn cứ
Điều 39 BLTTDS năm 2015 để xác định. Theo đó, thẩm quyền của Tòa
án theo lãnh thổ đối với các tranh chấp dân sự được xác định như sau:
- Đối với tranh chấp có đối tượng tranh chấp là bất động sản,
Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi có bất động sản.
BLTTDS năm 2015 quy định: “đối tượng tranh chấp là bất động sản
thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết”. Nguyên
tắc xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án đối với tranh chấp có
đối tượng là bất động sản đã loại trừ thẩm quyền của Tòa án theo sự
lựa chọn của nguyên đơn (trường hợp bất động sản có ở nhiều địa
phương khác nhau thì nguyên đơn cũng chỉ được lựa chọn Tòa án nơi
có một trong các bất động sản giải quyết), theo thỏa thuận của các bên
đương sự.
Ví dụ:
Nguyên đơn ông Nguyễn Văn A cư trú tại quận T, thành phố ĐN, bị
đơn ông Nguyễn Văn B cư trú tại huyện TĐ, tỉnh LĐ. Nguyên đơn
yêu cầu xác định diện tích 300 m2 đất ở tại thửa số 3, tờ bản đồ

33
số 12, thôn D, xã M, huyện QA, thành phố H do bị đơn đang chiếm
hữu, sử dụng thuộc sử dụng của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả
lại diện tích đất trên cho nguyên đơn. Đây là tranh chấp về quyền
sử dụng đất. Đối tượng tranh chấp là bất động sản tại huyện QA
nên chỉ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện QA, thành
phố H.

Các tranh chấp liên quan đến bất động sản không phải là tranh
chấp có đối tượng tranh chấp là bất động sản như trong vụ án về
HN&GĐ, thừa kế tài sản... mà yêu cầu của các bên có liên quan đến
việc giải quyết bất động sản thì thẩm quyền giải quyết của Tòa án
được áp dụng theo nguyên tắc nơi cư trú của bị đơn; hoặc tranh chấp
hợp đồng có đối tượng là bất động sản thì thẩm quyền được xác định
theo lựa chọn của nguyên đơn, theo thỏa thuận của các bên (nếu có);
theo nơi cư trú của bị đơn.
Ví dụ:
Vợ chồng chị A và anh B kết hôn hợp pháp sinh được hai con
chung là cháu D, cháu C. Quá trình chung sống, vợ chồng dựng
được nhà đất tại thị trấn LN, huyện K, tỉnh BG. Năm 2016 phát sinh
mâu thuẫn, vợ chồng sống ly thân. Chị A cùng cháu D, cháu C sống
tại quận N, thành phố H. Anh B sống tại quận HC, thành phố ĐN.
Anh B muốn khởi kiện chị A yêu cầu ly hôn, nuôi con chung và chia
tài sản chung.
Đây là tranh chấp về ly hôn, không phải tranh chấp có đối tượng
tranh chấp là bất động sản nên Tòa án có thẩm quyền giải quyết là
Tòa án quận N, thành phố H, nơi chị A cư trú.

- Đối với các tranh chấp có đối tượng tranh chấp không phải là bất
động sản, thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án được xác định như sau:
+ Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn (nếu nguyên đơn
là cá nhân), nơi có trụ sở của nguyên đơn (nếu nguyên đơn là cơ quan,
tổ chức) trong trường hợp các đương sự có thoả thuận với nhau bằng
văn bản Tòa án nơi cư trú, làm việc hoặc nơi có trụ sở của nguyên
đơn. Trụ sở của pháp nhân là nơi đặt cơ quan điều hành của pháp
nhân. Cần lưu ý, thỏa thuận của các đương sự không được trái với quy
định của pháp luật tố tụng dân sự về thẩm quyền của Tòa án các cấp

34
và thẩm quyền của Tòa án về giải quyết tranh chấp có đối tượng là bất
động sản. Trong giai đoạn khởi kiện, thụ lý vụ án văn bản thỏa thuận
của các bên tranh chấp phải được nộp cho Tòa án cùng với đơn khởi
kiện và các tài liệu, chứng cứ khác để làm căn cứ xác định thẩm quyền
theo lãnh thổ của Tòa án.
+ Trường hợp nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết
thì việc lựa chọn phải theo quy định tại Điều 40 BLTTDS năm 2015.
Nguyên đơn chỉ được lựa chọn Tòa án giải quyết khi có các điều kiện
cụ thể mà pháp luật quy định như tranh chấp về bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú,
làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết.
Ví dụ:
Ngày 25/3/2016, ông Nguyễn Văn M, cư trú tại quận B, thành
phố Hà Nội có đơn khởi kiện ông Nguyễn Văn N cư trú tại quận T,
thành phố ĐN vì đã có hành vi gây thiệt hại về sức khỏe cho mình
tại huyện Đ, tỉnh QB. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 40 BLTTDS
năm 2015, ông M có quyền lựa chọn Toà án nơi cư trú của nguyên
đơn (Tòa án quận B, thành phố Hà Nội); hoặc Toà án nơi xảy ra
việc gây thiệt hại giải quyết tranh chấp (Tòa án huyện Đ, tỉnh QB).

+ Trường hợp không có thỏa thuận của các bên đương sự về Tòa
án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn (cá nhân), nơi có trụ sở của
nguyên đơn (cơ quan, tổ chức) giải quyết hoặc có thỏa thuận nhưng
thỏa thuận đó vô hiệu; không thuộc trường hợp nguyên đơn có quyền
lựa chọn Tòa án giải quyết thì Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc có
thẩm quyền giải quyết (nếu là cá nhân) hoặc nơi bị đơn có trụ sở (nếu
là cơ quan, tổ chức).
Trong trường hợp người khởi kiện được quyền lựa chọn Tòa án
có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, Luật sư tư vấn cho họ lựa chọn
Tòa án để nộp đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo. Lựa
chọn Tòa án có thẩm quyền giải quyết cần được xác định trên cơ sở
nguyên tắc bảo đảm sự thuận lợi cho người khởi kiện trong việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Đối với trường hợp khởi kiện vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài,
trường hợp không xác định được địa chỉ của người bị kiện; người có

35
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở nước ngoài thì Luật sư tư vấn cho khách
hàng (người khởi kiện) có thể yêu cầu Tòa án Việt Nam đề nghị cơ quan
có thẩm quyền của nước ngoài xác định địa chỉ của họ hoặc có thể yêu
cầu cơ quan có thẩm quyền tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú hoặc
yêu cầu Tòa án Việt Nam hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài
tuyên bố họ mất tích hoặc đã chết theo quy định của pháp luật Việt Nam
hoặc pháp luật nước ngoài hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là thành viên (Điều 473 BLTTDS năm 2015).
Ngoài ra, Luật sư cần hướng dẫn khách hàng xác định và thu
thập các tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc khởi kiện vụ án dân sự.
Có những tài liệu, chứng cứ khách hàng không lưu giữ mà đang lưu
giữ tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các cá nhân, tổ chức và
khách hàng không thể tự thu thập được. Ví dụ: hồ sơ về quyền sử dụng
đất; hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, các giấy tờ liên
quan đến quá trình sử dụng đất… Vì vậy, Luật sư có thể trợ giúp
khách hàng thu thập tài liệu, chứng cứ làm cơ sở cho việc khởi kiện vụ
án dân sự. Thực hiện tốt kỹ năng trao đổi, tư vấn về yêu cầu khởi kiện,
quan hệ pháp luật tranh chấp, Tòa án có thẩm quyền giải quyết, xác
định và hỗ trợ khách hàng thu thập tài liệu, chứng cứ là tiền đề để
Luật sư thực hiện tốt các kỹ năng tiếp theo trong giai đoạn khởi kiện
như soạn thảo đơn khởi kiện, chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ nộp kèm
theo đơn khởi kiện…
Ở giai đoạn khởi kiện, do ban đầu tiếp xúc với khách hàng nên
Luật sư cần kết hợp sử dụng các kỹ năng mềm tạo không khí giao tiếp,
trao đổi cởi mở, thân thiện. Chính vì vậy, việc sử dụng giọng nói,
ngôn ngữ, cử chỉ, ánh mắt, thái độ chân thành của Luật sư và sự tinh
thông về nghiệp vụ có vai trò quan trọng đối với việc tạo cho khách
hàng có niềm tin đối với Luật sư trong việc bảo vệ quyền lợi cho họ.
1.2.2. Kỹ năng chuẩn bị hồ sơ khởi kiện vụ án dân sự
Hồ sơ khởi kiện gồm đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ nộp
kèm theo. Khi chuẩn bị hồ sơ khởi kiện cho khách hàng, Luật sư cần
đảm bảo rằng việc khởi kiện của đương sự là có đủ điều kiện khởi
kiện và Toà án phải thụ lý vụ việc. Các tài liệu, chứng cứ nộp kèm
theo đơn khởi kiện phải đảm bảo tính đầy đủ và tính hợp pháp, phù
hợp với hình thức và các nội dung, tình tiết, yêu cầu trình bày trong
đơn khởi kiện.

36
Thứ nhất, tính đầy đủ của tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ khởi kiện
Tùy thuộc vào từng loại tranh chấp và từng tranh chấp cụ thể mà
yêu cầu về tính đầy đủ của hồ sơ khởi kiện có sự khác nhau. Thông
thường, hồ sơ khởi kiện vụ án dân sự phải có các tài liệu, chứng cứ sau:
* Đơn khởi kiện vụ án dân sự: Soạn thảo đơn khởi kiện là một
công việc quan trọng của Luật sư. Nếu việc soạn thảo đơn khởi kiện
không tốt, không đầy đủ và đáp ứng yêu cầu mà quy định pháp luật
đặt ra thì Toà án sẽ yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện. Nếu
không sửa đổi, bổ sung thì Tòa án trả lại đơn khởi kiện. Chủ thể khởi
kiện phải soạn thảo đơn khởi kiện. Tuy nhiên, nếu tham gia từ giai
đoạn khởi kiện bảo vệ quyền lợi cho khách hàng thì việc soạn thảo
đơn khởi kiện là trách nhiệm của Luật sư. Đơn khởi kiện vụ án dân
sự phải bảo đảm điều kiện về hình thức và nội dung quy định tại
Điều 189 BLTTDS năm 2015 (xem mục 1.1.5 chương 1). Luật sư chú
ý, khi soạn thảo nội dung đơn khởi kiện cần rõ ràng, chứa đựng phần
trình bày về lý do khởi kiện, chi tiết vụ việc, những vấn đề cụ thể yêu
cầu Toà án giải quyết đối với bị đơn và các quy định của pháp luật
làm căn cứ cho yêu cầu khởi kiện. Đối với trường hợp người khởi kiện
là doanh nghiệp có nhiều người đại diện theo pháp luật, Luật sư căn
cứ vào điều lệ hoạt động, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp xác định phạm vi đại diện và thẩm
quyền ký đơn khởi kiện để từ đó xác định được chính xác người có
thẩm quyền ký đơn khởi kiện, bảo đảm tính chính xác về hình thức
đơn khởi kiện.
Yêu cầu đặt ra khi soạn thảo nội dung đơn khởi kiện là phải bảo
đảm điều kiện về nội dung đơn khởi kiện quy định tại khoản 4 Điều 189
BLTTDS năm 2015. Tại các mục tên, nơi cư trú, làm việc (đối với cá
nhân), trụ sở (đối với pháp nhân) của người khởi kiện; người bị kiện;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (nếu có); người có quyền và lợi
ích hợp pháp được bảo vệ (nếu có), Luật sư cần chú ý ghi đầy đủ, cụ
thể, đúng tên, địa chỉ của họ phù hợp với các tài liệu nộp kèm theo
đơn khởi kiện, là cơ sở Tòa án thực hiện được việc cấp, tống đạt các
văn bản tố tụng cho các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án.
Soạn thảo chính xác nội dung này, đòi hỏi Luật sư phải có kỹ năng
xác định chính xác nơi cư trú, làm việc (đối với cá nhân); nơi có trụ sở
(đối với pháp nhân) của người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ

37
liên quan. Nơi cư trú của cá nhân được xác định theo nguyên tắc quy
định tại Điều 40 BLDS năm 2015 và Điều 12 Luật Cư trú năm 2006 là
nơi người đó thường xuyên sinh sống. Trường hợp không xác định
được nơi cư trú của cá nhân là nơi thường xuyên sinh sống thì nơi cư
trú là nơi người đó đang sinh sống. Trường hợp một bên trong quan hệ
dân sự thay đổi nơi cư trú gắn với việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thì
phải thông báo cho bên kia biết về nơi cư trú mới. Nơi cư trú của
người chưa thành niên; nơi cư trú của người được giám hộ; nơi cư trú
của vợ, chồng; nơi cư trú của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân; nơi cư trú của người làm nghề lưu động được xác
định theo quy định tại Điều 41, 42, 43, 44, 45 BLDS năm 2015 và
Điều 13, 14, 15, 16, 17 Luật Cư trú năm 2006. Trụ sở của pháp nhân
được xác định theo Điều 79 BLDS năm 2015. Căn cứ vào quyết định
thành lập, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp, Luật sư xác định trụ sở của pháp nhân khởi
kiện, bị kiện, có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nếu không xác định
được nơi cư trú, làm việc, trụ sở của người bị kiện; người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan thì Luật sư ghi địa chỉ của người bị kiện; người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là nơi cư trú, làm việc cuối cùng, nơi
có trụ sở cuối cùng hoặc nơi người bị kiện có tài sản giải quyết theo
quy định tại điểm a khoản 1 Điều 40 BLTTDS. Ngoài ra, Điều 189
BLTTDS năm 2015 còn yêu cầu ghi rõ số điện thoại, fax và địa chỉ
thư điện tử (nếu có) của người khởi kiện, người có quyền và lợi ích
hợp pháp được bảo vệ, người bị kiện và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong đơn khởi kiện để tạo điều kiện thuận lợi cho việc liên
hệ giữa Tòa án và các bên đương sự trong quá trình giải quyết vụ án.
Liên quan đến vấn đề ghi địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Luật sư cần lưu ý trường hợp
người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có địa chỉ nơi cư
trú nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi
cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi
kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa
vụ đối với người khởi kiện. Đối với trường hợp này, trong đơn khởi
kiện Luật sư ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và trình bày rõ việc họ không
có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở và họ

38
không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật về cư trú dẫn đến việc người khởi kiện không
biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với
người khởi kiện. Theo quy định bổ sung của BLTTDS năm 2015,
Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến
hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung (điểm e khoản 1 Điều 192).
Tại mục quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm
phạm; những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết đối với người bị
kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Luật sư cần chú ý trình
bày nội dung tranh chấp, yêu cầu khởi kiện, lưu ý việc sắp xếp các
tình tiết của tranh chấp và yêu cầu khởi kiện theo trật tự logic sau:
- Tóm tắt các tình tiết về xác lập quan hệ pháp luật nội dung giữa
các chủ thể tranh chấp;
- Tóm tắt các tình tiết về việc thực hiện quan hệ pháp luật nội
dung của các chủ thể;
- Tóm tắt các tình tiết về quá trình tranh chấp và giải quyết tranh
chấp tiền tố tụng (nếu có);
- Các yêu cầu đối với người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan: Đây là các yêu cầu khởi kiện sau khi tư vấn và thống
nhất với khách hàng. Luật sư cần ghi cụ thể, rõ ràng; tránh việc ghi
yêu cầu chung chung như đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của
pháp luật. Trường hợp người khởi kiện có nhiều yêu cầu, việc sắp xếp
các yêu cầu cần theo một trật tự logic. Trường hợp có yêu cầu hủy
quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền thì ghi
rõ hủy quyết định số...; ngày..., tháng..., năm... của cơ quan, tổ chức
nào. Đối với yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải thực
hiện theo thủ tục riêng, không viết trong mục này của đơn khởi kiện.
Ví dụ:
Ngày 15/7/2015, Công ty TNHH C có ký với Công ty Cổ phần
tư vấn đầu tư điện lực hạ tầng N hợp đồng giao khoán xây lắp công
trình số 12/HĐKT-XL về việc thi công “nhánh rẽ đường dây và trạm
biến áp” tại lô 46 khu công nghiệp N, huyện S của Công ty TNHH
Công nghiệp KWANG YANG mà Công ty TNHH C đã trúng thầu.
Trị giá hợp đồng là 505.000.000 đồng (bao gồm thuế giá trị gia

39
tăng). Do Công ty Cổ phần tư vấn đầu tư điện lực hạ tầng N vi phạm
hợp đồng, chậm tiến độ, không hoàn thành công trình nên Công ty
TNHH C muốn khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết buộc Công ty Cổ
phần tư vấn đầu tư điện lực hạ tầng N phải chịu phạt vi phạm hợp
đồng là 5% trị giá hợp đồng theo đúng thỏa thuận trong hợp đồng,
trả tiền lãi chậm trả của số tiền 150.000.000 đồng Công ty TNHH C
đã ứng từ 01/11/2015 đến 31/12/2016 với lãi suất 1%/tháng; trả lại
tiền tạm ứng thi công còn thừa 150.000.000 đồng. Trao đổi và xem
xét tài liệu, chứng cứ do Công ty TNHH C cung cấp, Luật sư xác
định khối lượng đã thi công của Công ty Cổ phần tư vấn đầu tư điện
lực hạ tầng N có trị giá 50.000.000 đồng.
Sau khi tư vấn cho khách hàng về yêu cầu khởi kiện, Luật sư cần
trình bày trong đơn khởi kiện về yêu cầu khởi kiện theo thứ tự sau:
Buộc Công ty Cổ phần tư vấn đầu tư điện lực hạ tầng N phải
thanh toán cho Công ty TNHH C:
1. Tiền tạm ứng thi công còn thừa 150.000.000 đồng.
2. Tiền lãi chậm trả của số tiền 150.000.000 đồng Công ty Cổ
phần tư vấn đầu tư điện lực hạ tầng N đã ứng từ 01/11/2015 đến
31/12/2016 theo mức lãi suất 1%/tháng.
3. Tiền phạt vi phạm hợp đồng: 5% trị giá phần hợp đồng bị
vi phạm.

* Các tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện: Các tài
liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện để chứng minh hình thức,
nội dung đơn khởi kiện, yêu cầu khởi kiện và là cơ sở để Tòa án thụ lý
vụ án nên có ý nghĩa rất quan trọng. Tùy thuộc từng loại tranh chấp và
người khởi kiện là cá nhân hay pháp nhân mà đòi hỏi các tài liệu,
chứng cứ phù hợp. Nhìn chung, các tài liệu, chứng cứ cần nộp cho
Tòa án ở giai đoạn khởi kiện gồm:
- Tài liệu chứng minh tư cách pháp lý của chủ thể khởi kiện:
+ Trường hợp người khởi kiện là cá nhân: chứng minh thư nhân
dân của người khởi kiện, sổ hộ khẩu, hộ chiếu hoặc giấy tờ hợp lệ
thay thế.

40
+ Đối với pháp nhân: quyết định thành lập, giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy
phép kinh doanh, điều lệ hoạt động, quyết định bổ nhiệm người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp, văn bản ủy quyền của người đại
diện theo pháp luật (nếu có).
- Tài liệu, chứng cứ chứng minh việc xác lập quan hệ pháp luật
tranh chấp giữa các bên, đối tượng tranh chấp. Các tài liệu, chứng cứ
này có ý nghĩa chứng minh các tình tiết trình bày trong đơn khởi kiện
và yêu cầu khởi kiện. Các tài liệu, chứng cứ này khác nhau phù hợp
với từng loại tranh chấp. Ví dụ, tranh chấp hợp đồng phải có hợp đồng
hoặc các tài liệu, chứng cứ khác chứng minh việc xác lập quan hệ hợp
đồng; tranh chấp thừa kế phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh việc
xác lập quan hệ thừa kế giữa các chủ thể, thời điểm mở thừa kế (giấy
chứng tử hoặc giấy tờ hợp lệ khác; giấy khai sinh hoặc giấy tờ hợp lệ
khác); tài liệu, chứng cứ chứng minh di sản thừa kế: giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, sở hữu tài sản của người để lại di sản, giấy tờ
chứng minh nguồn gốc di sản của người để lại di sản; giấy tờ về giao
dịch dân sự có đối tượng là di sản thừa kế (nếu có)...
- Các tài liệu, chứng cứ chứng minh đã thực hiện điều kiện khởi
kiện do pháp luật quy định (đối với các tranh chấp phải bảo đảm điều
kiện khởi kiện do pháp luật quy định): biên bản hòa giải tranh chấp
đất đai của UBND xã, phường, thị trấn...
Cần lưu ý đối với trường hợp khởi kiện vụ án dân sự có yếu tố
nước ngoài, Luật sư cần hướng dẫn người khởi kiện thu thập và nộp
kèm theo đơn khởi kiện giấy tờ, tài liệu xác thực họ tên, địa chỉ, quốc
tịch của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở nước
ngoài (Điều 473 BLTTDS năm 2015).
Trường hợp vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể
nộp đầy đủ tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện ngoài các tài
liệu, chứng cứ hiện có để chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của
mình bị xâm phạm, Luật sư giúp khách hàng soạn thảo văn bản giải
trình rõ lý do khách quan họ chưa thể thu thập được tài liệu, chứng cứ
và nộp văn bản này cùng với đơn khởi kiện cho Tòa án. Ngoài các tài
liệu, chứng cứ trên, trong hồ sơ khởi kiện còn phải có bản kê danh
mục các tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện. Bản kê này
ghi rõ tên gọi, hình thức, nội dung, đặc điểm của tài liệu, chứng cứ; số

41
bản, số trang của từng tài liệu, chứng cứ. Luật sư hướng dẫn đương sự
lập và sắp xếp hồ sơ khởi kiện. Hồ sơ khởi kiện phải được sắp xếp
khoa học, có tính hệ thống và theo thứ tự phù hợp thể hiện cơ sở pháp
lý của yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp. Hồ sơ khởi kiện
nên lập ít nhất 03 bộ: 01 bộ gửi cho Toà án có thẩm quyền giải quyết;
01 bộ người khởi kiện giữ và 01 bộ của Luật sư.
Thứ hai, tính hợp pháp của tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ khởi kiện
Luật sư căn cứ quy định tại Điều 95 BLTTDS năm 2015 về xác
định chứng cứ và các quy định khác có liên quan của BLTTDS để xác
định tính hợp pháp của tài liệu, chứng cứ.
1.2.3. Nộp hồ sơ khởi kiện; tư vấn khiếu nại việc trả lại đơn khởi
kiện, chuyển đơn khởi kiện
a) Nộp hồ sơ khởi kiện
BLTTDS năm 2015 không có quy định không cho phép ủy
quyền nộp đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ kèm theo nên
người nộp có thể là người khởi kiện hoặc người được ủy quyền của
người khởi kiện. Vì vậy, người khởi kiện có thể trực tiếp nộp đơn
khởi kiện hoặc Luật sư có thể được khách hàng ủy quyền nộp đơn
khởi kiện. Luật sư cần tư vấn cho khách hàng các phương thức nộp
hồ sơ khởi kiện và các thủ tục phải thực hiện theo quy định của
BLTTDS năm 2015.
Có ba phương thức nộp hồ sơ khởi kiện: nộp trực tiếp tại Tòa án;
gửi đến Tòa án qua đường dịch vụ bưu chính và gửi trực tuyến bằng
hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có). Như
vậy, BLTTDS năm 2015 đã quy định bổ sung phương thức gửi đơn
khởi kiện trực tuyến bằng hình thức điện tử thông qua Cổng thông tin
điện tử của Tòa án (nếu có). Việc cho phép gửi đơn khởi kiện bằng
hình thức thư điện tử là một bước phát triển trong quá trình điện tử
hóa thủ tục hành chính. Với quy định này, thay bằng việc phải đến
Tòa án hoặc tới các địa điểm có dịch vụ bưu chính để gửi đơn khởi
kiện, thì người khởi kiện chỉ cần một thiết bị điện tử có kết nối mạng
là có thể gửi đơn khởi kiện đến Tòa án. Đây là một quy định mới, phù
hợp với thực tiễn phát triển của xã hội, thực hiện mục tiêu xây dựng
Tòa án điện tử, nhằm nâng cao quyền tiếp cận công lý của người dân.
Tuy nhiên, không phải Tòa án nào hiện nay cũng có đầy đủ điều kiện

42
để thiết lập Cổng thông tin điện tử nên chỉ những Tòa án có Cổng
thông tin điện tử người khởi kiện mới có điều kiện để áp dụng phương
thức gửi hồ sơ khởi kiện trực tuyến. Trên thực tế hiện nay, các Tòa án
có Cổng thông tin điện tử không nhiều và chủ yếu tập trung ở các tỉnh,
thành phố lớn, khu vực đồng bằng mà chưa phổ biến ở các Tòa án cấp
huyện và vùng sâu, vùng xa. Do đó, Luật sư cần xác định Tòa án có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp nào có Cổng thông tin điện tử để tư
vấn cho khách hàng thực hiện việc gửi đơn khởi kiện theo phương
thức gửi trực tuyến.
Dù nộp hồ sơ khởi kiện trực tiếp tại Tòa án, gửi đến Tòa án theo
đường dịch vụ bưu chính hoặc gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử
qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án thì người nộp (người khởi kiện
hoặc Luật sư) đều cần phải lưu giữ tài liệu chứng minh việc đã nộp và
thời điểm (ngày, tháng, năm) nộp hồ sơ khởi kiện. Theo quy định của
BLTTDS năm 2015 trường hợp nộp trực tiếp hồ sơ khởi kiện tại Tòa
án thì người có trách nhiệm nhận đơn khởi kiện thực hiện các hoạt
động nghiệp vụ và có trách nhiệm cấp ngay giấy xác nhận đã nhận
đơn khởi kiện7. Nếu hồ sơ khởi kiện được gửi đến Tòa án thông qua
dịch vụ bưu chính thì phải lưu giữ tài liệu chứng minh thời điểm gửi.
Trường hợp này, trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận
đơn, Tòa án phải gửi giấy báo xác nhận đã nhận đơn khởi kiện cho
người khởi kiện thông qua dịch vụ bưu chính. Giấy báo nhận đơn khởi
kiện là căn cứ để chứng minh người khởi kiện đã nộp đơn khởi kiện
tại thời điểm được ghi trong giấy. Đối với trường hợp gửi đơn khởi
kiện và tài liệu, chứng cứ là thông điệp dữ liệu điện tử theo phương
thức gửi trực tuyến qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án thì Tòa án
phải thông báo ngay việc nhận đơn cho người khởi kiện qua Cổng
thông tin điện tử của Tòa án (thông báo bằng hình thức điện tử thông
qua Cổng thông tin điện tử hoặc hình thức khác).
Về việc giao nộp tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện, Luật
sư cần lưu ý nếu tài liệu đọc được là văn bản không được phép chứng
thực thì có thể sử dụng bản sao nhưng khi nộp đơn khởi kiện phải
mang bản chính đến để Thẩm phán đối chiếu và ghi rõ vào bản sao đã
đối chiếu với bản chính. Tòa án phải lập biên bản giao nhận tài liệu,

7
Tham khảo Mẫu số 02-HC Giấy xác nhận đã nhận đơn khởi kiện (ban hành kèm theo
Nghị quyết số 01/2017/NQ-HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC).

43
chứng cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 96 BLTTDS năm 2015. Biên
bản này phải được người có thẩm quyền ký tên xác nhận và đóng dấu
của Tòa án. Do đó, Luật sư chú ý khi nộp tài liệu, chứng cứ phải yêu
cầu Tòa án cung cấp biên bản giao nhận tài liệu, chứng cứ lập theo
quy định của pháp luật.
b) Tư vấn khiếu nại việc trả lại đơn khởi kiện
Trả lại đơn khởi kiện thực chất là việc Tòa án từ chối thụ lý yêu
cầu của người khởi kiện, không giải quyết tranh chấp dân sự. Để bảo
đảm quyền của người khởi kiện, BLTTDS năm 2015 có nhiều sửa đổi,
bổ sung quan trọng về khiếu nại, kiến nghị và thủ tục giải quyết khiếu
nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện tại Điều 194. BLTTDS
năm 2015 đã quy định cụ thể thẩm quyền trả lại đơn khởi kiện thuộc
về Thẩm phán được phân công xem xét đơn mà không quy định chung
chung là Tòa án như trước đây. Luật sư căn cứ quy định tại Điều 192,
193, 194 và các quy định khác có liên quan của BLTTDS năm 2015
để thực hiện kỹ năng tư vấn việc trả lại đơn khởi kiện. Trên cơ sở đó,
Luật sư tư vấn cho khách hàng về thời hạn khiếu nại, kiến nghị; thời
hạn giải quyết khiếu nại, kiến nghị; thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải
quyết khiếu nại, kiến nghị. Đồng thời, Luật sư giúp khách hàng soạn
thảo đơn khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện và đơn khiếu nại đối
với quyết định trả lời khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện.
Luật sư nghiên cứu các quy định của BLTTDS, pháp luật nội
dung, đối chiếu với hồ sơ khởi kiện và biên lai nộp tiền tạm ứng án
phí để tư vấn chính xác cho người khởi kiện thực hiện khiếu nại về
việc trả lại đơn khởi kiện. Khi nhận được văn bản trả lại đơn khởi kiện
của Tòa án, Luật sư nghiên cứu nội dung văn bản này, phân tích, đánh
giá việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án có đúng quy định của pháp
luật không. Điểm cần chú ý là Luật sư cần tập trung nghiên cứu, phân
tích căn cứ Tòa án trả lại đơn khởi kiện của khách hàng. Các căn cứ
thường được nêu ra trong đơn khởi kiện có thể là: người khởi kiện
không có quyền khởi kiện, vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án, chưa đủ điều kiện khởi kiện, sự việc đã được giải quyết
bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án… Đồng
thời, Luật sư nghiên cứu nội dung đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng
cứ cũng như thực hiện việc phân tích, đánh giá điều kiện thụ lý vụ án
có đảm bảo không. Từ đó, Luật sư đối chiếu căn cứ Tòa án trả lại đơn

44
khởi kiện với điều kiện thụ lý vụ án để kết luận việc trả lại đơn khởi
kiện là đúng hay không đúng pháp luật. Trường hợp xác định việc trả
lại đơn khởi kiện của Tòa án không đúng pháp luật, Luật sư giúp
khách hàng soạn thảo đơn khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện, gửi
đến Chánh án Tòa án cấp sơ thẩm yêu cầu xem xét việc trả lại đơn
khởi kiện. Trong đơn khiếu nại phải ghi rõ ngày, tháng, năm; họ, tên,
địa chỉ của người khiếu nại; nội dung, lý do khiếu nại, yêu cầu của
người khiếu nại, nếu người khiếu nại là cá nhân phải ký tên hoặc điểm
chỉ, nếu là tổ chức, cơ quan thì ký tên người đại diện hợp pháp và
đóng dấu.
Luật sư đánh giá, sử dụng tài liệu, chứng cứ người khởi kiện
nộp kèm theo đơn khởi kiện và phân tích về hình thức, nội dung
đơn khởi kiện, yêu cầu khởi kiện, viện dẫn các quy định của pháp
luật nội dung, tố tụng đề nghị Tòa án nhận lại đơn khởi kiện và tài
liệu, chứng cứ kèm theo, tiến hành việc thụ lý vụ án. Theo quy định
tại Điều 194 BLTTDS năm 2015 thì ngay sau khi nhận được khiếu
nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, Chánh án Tòa án phải
phân công một Thẩm phán khác xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến
nghị. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày được phân công,
Thẩm phán phải mở phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến
nghị về việc trả lại đơn khởi kiện. Phiên họp xem xét, giải quyết
khiếu nại, kiến nghị có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát cùng
cấp và đương sự có khiếu nại. Đây là quy định hoàn toàn mới được
bổ sung trong BLTTDS năm 2015, bảo đảm sự minh bạch trong
giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, quyền
được tham gia vào hoạt động tố tụng tại giai đoạn khởi kiện của
người khởi kiện. Tại phiên họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến
nghị về việc trả lại đơn khởi kiện, người khởi kiện trình bày ý kiến
về việc trả lại đơn khởi kiện, đề nghị Thẩm phán nhận lại đơn khởi
kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, tiến hành việc thụ lý vụ án. Ý
kiến trình bày và đề nghị của người khởi kiện dựa trên cơ sở các
căn cứ pháp lý và căn cứ thực tế đã được phân tích trong đơn khiếu
nại về việc trả lại đơn khởi kiện. Thẩm phán, Kiểm sát viên cũng
nghiên cứu đơn khiếu nại, xem xét các căn cứ và đề nghị của người
khiếu nại. Kiểm sát viên tham gia phiên họp phải phát biểu ý kiến
về việc trả lại đơn khởi kiện. Do đó, đơn khiếu nại về việc trả lại
đơn khởi kiện là văn bản quan trọng.

45
Ví dụ:
Công ty lương thực thành phố H có trụ sở tại số 57, Nguyễn Thị
Minh Khai, quận 1, thành phố P và Doanh nghiệp tư nhân Trần
Hoàng có trụ sở tại huyện CL, tỉnh TG ký với nhau Hợp đồng mua
bán số 08/HĐMB/2015 ngày 08/11/2015; theo đó, Công ty lương
thực thành phố H mua của Doanh nghiệp Trần Hoàng 280.000
kilôgam lúa Jasmin trị giá 1.064.000.000 đồng, thời hạn nhận hàng
từ ngày ký hợp đồng đến hết ngày 31/12/2015. Theo thỏa thuận tại
Điều 3 của Hợp đồng thì địa điểm giao hàng (nơi thực hiện hợp
đồng) là thị xã V, tỉnh VL. Trong hợp đồng các bên lựa chọn Tòa
Kinh tế TAND thành phố H giải quyết tranh chấp xảy ra (nếu có).
Tranh chấp xảy ra, đơn khởi kiện của Công ty lương thực thành phố
H đã được gửi đến Tòa án thành phố H. TAND thành phố H đã áp
dụng điểm đ khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015 “vụ án không
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án” ra văn bản trả lại đơn
khởi kiện cho Công ty lương thực thành phố H.
Luật sư cần phân tích căn cứ trả lại đơn khởi kiện của Tòa án
thành phố H là không đúng pháp luật. Việc các đương sự khi ký hợp
đồng đã lựa chọn Tòa Kinh tế TAND thành phố H giải quyết tranh
chấp là không phù hợp với quy định của BLTTDS năm 2015 về thẩm
quyền của TAND các cấp. Tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án và thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện nên trong
trường hợp này, Tòa án thành phố H phải áp dụng điểm b khoản 1
Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm c (hoặc điểm g) khoản 1
Điều 40; điểm c khoản 3 Điều 191 BLTTDS năm 2015 để chuyển
đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo đến Tòa án cấp huyện
nơi có trụ sở của bị đơn hoặc nơi thực hiện hợp đồng giải quyết.
Từ phân tích trên, Luật sư tư vấn cho Công ty lương thực thành
phố H khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án thành phố H.

Trong trường hợp Thẩm phán ra quyết định giữ nguyên việc trả
lại đơn khởi kiện, nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu
nại về việc trả lại đơn khởi kiện của Thẩm phán, người khởi kiện có
quyền tiếp tục khiếu nại tới Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp
xem xét, giải quyết. Đây là việc thực hiện quyền khiếu nại lần hai và
thời hạn thực hiện quyền này là 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết

46
định trả lời khiếu nại, kiến nghị lần một. Vì vậy, Luật sư cần tư vấn
cho người khởi kiện tiếp tục khiếu nại quyết định giải quyết khiếu nại
lần một này lên Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp để xem xét,
giải quyết. Đơn khiếu nại đối với quyết định trả lời khiếu nại về việc
trả lại đơn khởi kiện lần một này do Luật sư soạn thảo cho khách hàng
khởi kiện. Trong đơn, Luật sư phân tích điều kiện thụ lý vụ án, các
căn cứ không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại về việc trả lại
đơn lần một của Chánh án Tòa án cấp sơ thẩm và đề nghị cụ thể với
Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm
nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, tiến hành việc
thụ lý vụ án.
Theo quy định tại khoản 6 Điều 194 BLTTDS năm 2015 thì
“Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án trên
một cấp trực tiếp có hiệu lực thi hành và được gửi ngay cho người
khởi kiện, Viện kiểm sát cùng cấp, Viện kiểm sát đã kiến nghị và
Tòa án đã ra quyết định trả lại đơn khởi kiện”. Như vậy, khác với quy
định tại khoản 4 Điều 170 BLTTDS năm 2004, sửa đổi, bổ sung
năm 2011 quy định quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của
Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp là quyết định giải quyết khiếu nại,
kiến nghị cuối cùng thì BLTTDS năm 2015 chỉ quy định quyết định
giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án trên một cấp có
hiệu lực thi hành mà chưa phải là quyết định cuối cùng. Theo quy định
tại khoản 7 Điều 194 BLTTDS năm 2015, đương sự, Viện kiểm sát có
quyền tiếp tục khiếu nại, kiến nghị lên Chánh án Tòa án cấp cao (đối
với quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án
cấp tỉnh) hoặc Chánh án Tòa án tối cao (đối với quyết định giải quyết
khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án cấp cao). Quyết định giải
quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án cấp cao và quyết định
giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án tối cao mới là
quyết định giải quyết cuối cùng. Do đó, nếu không đồng ý với quyết
định giải quyết khiếu nại của Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp, Luật
sư tư vấn cho khách hàng tiếp tục làm đơn khiếu nại gửi đến Chánh án
Tòa án cấp cao hoặc Chánh án Tòa án tối cao. Trong đơn này vẫn tiếp
tục phân tích các điều kiện thụ lý vụ án, các căn cứ trả lại đơn khởi
kiện của Tòa án cấp sơ thẩm là không đúng pháp luật và quyết định
giải quyết khiếu nại lần một, lần hai là không đúng pháp luật; đề nghị
Chánh án Tòa án cấp cao, Chánh án Tòa án tối cao yêu cầu Tòa án sơ

47
thẩm phải nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, tiến
hành việc thụ lý vụ án.
c) Tư vấn khiếu nại việc chuyển đơn khởi kiện
Chuyển đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Tòa án
khác có thẩm quyền giải quyết quy định tại điểm c khoản 3 Điều 191
BLTTDS năm 2015. Theo nội dung quy định này, Thẩm phán được
phân công xem xét đơn khởi kiện chỉ quyết định chuyển đơn khởi kiện
và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Tòa án khác có thẩm quyền giải
quyết khi người khởi kiện có đủ điều kiện khởi kiện, nhưng tranh chấp
đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác (theo cấp, theo lãnh
thổ). Thủ tục chuyển đơn khởi kiện được thực hiện theo quy định tại
Điều 41, điểm c khoản 3 Điều 191 BLTTDS. Theo đó, Toà án phải ra
quyết định chuyển đơn khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền. Quyết
định này phải được gửi ngay cho đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức
có liên quan. Đồng thời Tòa án đã ra quyết định chuyển đơn khởi kiện
phải thông báo cho người khởi kiện biết việc chuyển hồ sơ khởi kiện
của họ đến Tòa án khác có thẩm quyền giải quyết. Sau khi nhận được
quyết định chuyển đơn khởi kiện, thông báo về việc chuyển đơn khởi
kiện; nếu thấy việc Tòa án đã nhận đơn khởi kiện chuyển đơn khởi
kiện đến Tòa án khác không đúng quy định của pháp luật về thẩm
quyền theo cấp hoặc theo lãnh thổ dẫn đến khó khăn cho việc tham gia
tố tụng của khách hàng, thì Luật sư cần tư vấn cho khách hàng khiếu
nại về việc chuyển đơn khởi kiện. Khác với thời hạn khiếu nại việc trả
lại đơn khởi kiện, thời hạn khiếu nại việc chuyển đơn khởi kiện rất
ngắn, chỉ trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết
định, thông báo về việc chuyển đơn khởi kiện. Do đó, trong trường
hợp đương sự khiếu nại về việc chuyển đơn khởi kiện, Luật sư cần
soạn thảo ngay đơn khiếu nại gửi Chánh án Tòa án đã ra quyết định
chuyển đơn khởi kiện. Nội dung đơn khiếu nại tập trung phân tích yêu
cầu khởi kiện thuộc thẩm quyền giải quyết theo cấp hoặc theo lãnh thổ
của Tòa án mà người khởi kiện đã nộp hồ sơ khởi kiện và đề nghị Tòa
án xem xét, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật về thẩm
quyền của Tòa án theo cấp hoặc theo lãnh thổ. Trong thời hạn 03 ngày
làm việc, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị, Chánh án Tòa án
đã ra quyết định chuyển đơn khởi kiện phải giải quyết khiếu nại, kiến
nghị. Khác với quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả

48
lại đơn khởi kiện, quyết định giải quyết khiếu nại về việc chuyển đơn
khởi kiện của Chánh án Tòa án đã ra quyết định chuyển đơn khởi kiện
là quyết định cuối cùng.
2. Kỹ năng đặc thù theo loại án trong tiếp xúc, trao đổi với
khách hàng và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện
2.1. Kỹ năng tiếp xúc, trao đổi với khách hàng và chuẩn bị hồ
sơ khởi kiện tranh chấp dân sự
2.1.1. Tiếp xúc, trao đổi với khách hàng trong giai đoạn khởi
kiện và thụ lý vụ án dân sự
Trong thực tiễn hoạt động nghề của Luật sư khi tham gia giải
quyết các tranh chấp, thì tranh chấp dân sự là một dạng tranh chấp
thường gặp, phổ biến và phức tạp. Nhiều vụ án dân sự, khi giải quyết
yêu cầu chính, đồng thời phải giải quyết các quan hệ khác có liên quan
như quan hệ trong lĩnh vực đất đai, nhà ở, thừa kế, hợp đồng, bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng… Ngoài ra, còn có các quan hệ pháp
luật “Giáp ranh” giữa dân sự và hình sự; dân sự với kinh doanh,
thương mại; dân sự với lao động; dân sự với HN&GĐ… Vì thế, ngoài
những kỹ năng chung, tiếp xúc, trao đổi với khách hàng trong giai
đoạn khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự, Luật sư cần lưu ý những vấn đề
đặc thù của loại án dân sự so với các án khác như lao động, HN&GĐ,
kinh doanh, thương mại.
Thứ nhất, về chủ thể khởi kiện.
Khi trao đổi với khách hàng trong các tranh chấp dân sự, Luật sư
cần lưu ý ba tiêu chí cơ bản xác định quyền khởi kiện: (i) Về nguyên
tắc, các chủ thể này phải là một bên chủ thể của quan hệ pháp luật dân
sự, HN&GĐ, kinh doanh, thương mại, lao động. Chủ thể không có
quyền lợi chỉ được coi là nguyên đơn trong trường hợp đặc biệt khi họ
khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh
vực mình phụ trách; (ii) Họ là người cho rằng quyền và lợi ích hợp
pháp của mình đang bị tranh chấp hoặc bị xâm hại; (iii) Để có thể tự
mình thực hiện việc khởi kiện với tư cách là nguyên đơn họ phải có
năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng dân sự. Trường hợp cá
nhân không có năng lực hành vi tố tụng dân sự thì việc khởi kiện để
bảo vệ quyền lợi của họ do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
Đây là cơ sở để đưa ra các nhận định ban đầu cho các lựa chọn tiếp

49
theo về nội dung vụ việc, trong đó có tư vấn lựa chọn, xác định quan
hệ pháp luật tranh chấp.

Ví dụ:
Căn nhà thuộc sở hữu của ông A, bà B tọa lạc tại số 20, đường D,
quận H, thành phố Hà Nội giáp với căn nhà số 21 của bà T.
Giữa hai căn nhà có phần đất trống 1m x 3,5m. Thực tế nguồn gốc
khoảng đất trống đó thuộc quyền quản lý của Nhà nước. Bà T cho
rằng “Đất đó không của ai” nên đã lấn chiếm, sử dụng. Ông A,
bà B muốn khởi kiện bà T ra Tòa với yêu cầu bà T “Trả lại hiện
trạng đất về vị trí ban đầu”; và “Công nhận diện tích đất thuộc sở
hữu Nhà nước”.

Khi tư vấn cho ông A, bà B trong trường hợp này, Luật sư sẽ


phải căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành để phân tích,
đánh giá liệu các yêu cầu mà ông A, bà B đưa ra là có cơ sở pháp lý
hay không? Ông A, bà B phải đưa ra các chứng cứ chứng minh cho tư
cách chủ thể của mình. Đó chính là việc ông A, bà B phải chứng minh
mối liên hệ pháp lý của mình với diện tích đất 1m x 3,5m. Nguồn gốc
đất này có phải thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông, bà hay
không? (xuất trình các giấy tờ liên quan đến việc Nhà nước giao đất,
cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; các loại giấy tờ liên quan
đến tặng cho quyền sử dụng đất; nhận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất…). Giả định ông A, bà B không có các tài liệu đã nêu và như dữ
kiện đã đưa ra là diện tích thửa đất thuộc quyền quản lý của Nhà nước,
nên căn cứ vào khoản 9 Điều 26, Điều 186 BLTTDS; khoản 2 Điều 5
Luật Đất đai năm 2013 thì việc lấn chiếm, sử dụng diện tích đất nêu
trên của bà T không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông A
và bà B. Cho nên với các yêu cầu mà ông A, bà B đã đưa ra là khó có
thể được Tòa án chấp nhận thụ lý. Tuy nhiên, trong quá trình lấn
chiếm, sử dụng diện tích đất nêu trên, bà T có thể đã gây ra một số
thiệt hại cho ông A, bà B như làm sụt móng, lở tường nhà… thì Luật
sư có thể tư vấn cho ông A, bà B khởi kiện yêu cầu bà T phải bồi
thường thiệt hại theo quan hệ pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng (căn cứ Điều 163, khoản 1 Điều 584, khoản 1 Điều 585
BLDS; khoản 6 Điều 26, Điều 186 BLTTDS).

50
Thứ hai, trao đổi về việc xác định thời hiệu khởi kiện.
Trong hoạt động chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các đương sự, vấn đề thời hiệu luôn đóng một vai trò đặc
biệt quan trọng. Mặc dù thời hiệu khởi kiện không phải là điều kiện
bắt buộc để thụ lý giải quyết vụ án, tuy nhiên nếu vụ án hết thời hiệu
khởi kiện mà đương sự không chứng minh được căn cứ bắt đầu lại
thời hiệu khởi kiện, thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện (trừ
những vụ án không áp dụng thời hiệu khởi kiện hoặc thời hiệu khởi
kiện không bị hạn chế), thì đương sự sẽ bị mất quyền khởi kiện. Khi
trao đổi với khách hàng, Luật sư cần hết sức lưu ý, nắm vững các
quy định của BLDS và BLTTDS về thời hiệu khởi kiện với các nội
dung như cách tính thời hiệu; thời điểm bắt đầu thời hiệu; bắt đầu
thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu; thời gian không tính vào thời
hiệu khởi kiện; không áp dụng thời hiệu khởi kiện; bắt đầu lại thời
hiệu khởi kiện… Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được thực hiện
theo quy định của BLDS. Đồng thời, việc áp dụng thời hiệu khởi
kiện được dựa trên nguyên tắc: đối với tranh chấp dân sự mà văn bản
quy phạm pháp luật có quy định về thời hiệu khởi kiện thì áp dụng
thời hiệu khởi kiện được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật
đó. Ví dụ, đối với tranh chấp về chia di sản thừa kế thì thời hiệu khởi
kiện là ba mươi năm đối với tranh chấp về bất động sản và mười năm
đối với tranh chấp về động sản (khoản 1 Điều 623 BLDS năm 2015);
thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình
hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời
điểm mở thừa kế (khoản 2 Điều 623 BLDS năm 2015). Trong lĩnh
vực hợp đồng nói chung, thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải
quyết tranh chấp hợp đồng là ba năm, kể từ ngày người có quyền yêu
cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
phạm (Điều 429 BLDS năm 2015). Luật sư cần lưu ý, với quy định
tại điểm e khoản 1 Điều 217 BLTTDS, Tòa án có thể đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự nếu đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước
khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời
hiệu khởi kiện đã hết.
Khi phân tích, đánh giá các yếu tố liên quan đến thời hiệu khởi
kiện, thời hiệu yêu cầu, Luật sư cần xem xét kỹ các nội dung cơ bản
sau đây:
Một là, ngày chủ thể “biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp

51
pháp bị xâm phạm”. Khái niệm này được đề cập tại khoản 1 Điều 154
BLDS năm 2015, theo đó thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự “được tính
từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp
pháp của mình bị xâm phạm, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác”. Ví dụ: Phiên hòa giải được kết thúc bằng việc lập Biên bản hòa
giải; các chứng cứ liên quan đến việc thừa nhận nghĩa vụ hoặc công
nhận thực hiện một phần nghĩa vụ… Các mốc thời gian được thể hiện
thông qua các sự kiện pháp lý đó chính là bằng chứng để chứng minh
chủ thể đã biết hoặc buộc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của
mình đã bị xâm phạm hay chưa. Khoản 1 Điều 157 BLDS cũng đã
quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được bắt đầu lại trong
các trường hợp sau đây: “a) Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần
hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện; b) Bên có
nghĩa vụ thừa nhận hoặc thực hiện xong một phần nghĩa vụ của mình
đối với người khởi kiện; c) Các bên đã tự hòa giải với nhau”.
Hai là, tuân thủ điều kiện áp dụng thời hiệu khởi kiện trong
BLTTDS năm 2015, theo đó, việc áp dụng thời hiệu khởi kiện được
tuân theo nguyên tắc chung tại khoản 2 Điều 184 BLTTDS năm 2015:
“Yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên hoặc các bên với điều kiện
yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản
án, quyết định giải quyết vụ việc”.
Thứ ba, về thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
Thực tiễn giải quyết tranh chấp chỉ ra rằng các vụ việc dân sự có
thể được giải quyết bằng nhiều phương thức khác nhau (theo thủ tục
hành chính, thương lượng hòa giải, Tòa án…). Khi khách hàng quyết
định lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án
bằng con đường tố tụng dân sự, bên cạnh những nguyên tắc chung về
xác định thẩm quyền, Luật sư cần lưu ý một số đặc thù cơ bản khi xác
định thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự được các Luật chuyên
ngành điều chỉnh.
* Xác định thẩm quyền đối với tranh chấp quyền sử dụng đất.
Đối với quy định tại Điều 203 Luật Đất đai năm 2013 về thẩm quyền
giải quyết tranh chấp đất đai, Luật sư cần xác định tranh chấp đất đai
thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND hay của UBND. Luật sư cần
phải có sự phân loại đối với các tranh chấp có liên quan đến đất đai.
Thông thường, các tranh chấp liên quan đến đất đai tập trung vào ba

52
nhóm cơ bản sau đây: 1) Tranh chấp về quyền sử dụng đất (xác định
chủ sử dụng đất hợp pháp là ai); 2) Tranh chấp liên quan đến các giao
dịch về đất; 3) Tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất.
- Đối với tranh chấp về quyền sử dụng đất, Luật sư cần xác định
bản chất của loại tranh chấp này, đó chính là giải quyết mâu thuẫn về
chủ quyền đất đai (ai là chủ sử dụng đất hợp pháp). Loại tranh chấp
này được phát sinh trong quá trình sử dụng đất, không liên quan đến
các giao dịch về đất. Như vậy, đối với loại tranh chấp này nếu đương
sự có giấy chứng nhận sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND;
nếu không có giấy chứng nhận hoặc không có một trong các loại giấy
tờ khác quy định tại Điều 100 Luật Đất đai thì đương sự chỉ được lựa
chọn một trong hai hình thức giải quyết: hoặc là nộp đơn yêu cầu giải
quyết tranh chấp tại UBND cấp có thẩm quyền hoặc khởi kiện ra
TAND có thẩm quyền.
- Tranh chấp liên quan đến giao dịch về đất bao gồm các tranh
chấp về chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho,
thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Không phụ thuộc vào việc
đương sự có hay không các loại giấy tờ liên quan đến đất đai, mọi
tranh chấp liên quan đến giao dịch về đất sẽ thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án.
- Tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất là các
tranh chấp về tài sản gắn với đất, bao gồm nhà ở, vật kiến trúc khác
(nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ,
tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở; các công trình trên đất được
giao hoặc cho thuê để sản xuất, kinh doanh; tài sản khác như cây lấy
gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, các loại cây lâu năm khác…) thuộc thẩm
quyền giải quyết của TAND.
* Xác định thẩm quyền đối với tranh chấp về thừa kế: Ngoài việc
lưu ý nguyên tắc xác định thẩm quyền theo Tòa án các cấp, Luật sư cần
lưu ý xác định những người mặc dù không phải là người thừa kế nhưng có
quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ kiện mà ở nước ngoài hoặc việc giải
quyết vụ án cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở
nước ngoài thì sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh.
Trong các vụ án thừa kế có thể có tranh chấp di sản là bất động
sản, khi xác định và tư vấn cho khách hàng Tòa án có thẩm quyền giải

53
quyết tranh chấp, Luật sư cần lưu ý quy định tại điểm c khoản 1
Điều 39 BLTTDS năm 2015: “Đối tượng tranh chấp là bất động sản
thì chỉ có Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết”.
* Đối với các tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng: Do tính chất của loại tranh chấp này có thể xảy ra “mọi lúc, mọi
nơi” nên Luật sư cần tư vấn cho các đương sự lựa chọn một cách tối
ưu Tòa án có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu của họ. Luật sư phải
lưu ý các quy định tại khoản 6 Điều 26; điểm a, b khoản 1 Điều 39;
điểm d khoản 1 Điều 40 BLTTDS năm 2015 để xem xét, đánh giá
việc lựa chọn cho phù hợp với điều kiện của khách hàng. Đặc biệt cần
lưu ý nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì
nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở
hoặc nơi xảy việc gây thiệt hại để giải quyết.
- Thứ tư, trao đổi, xác định các điều kiện khác khi khởi kiện
tranh chấp dân sự.
(i) Điều kiện về hòa giải ở cơ sở
Đối với những vụ án pháp luật quy định phải yêu cầu cơ quan
khác giải quyết trước và chủ thể khởi kiện chỉ được khởi kiện vụ án khi
các cơ quan đó đã giải quyết mà họ không đồng ý với việc giải quyết
đó thì Luật sư cần hướng dẫn cho khách hàng làm thủ tục đề nghị cơ
quan có thẩm quyền giải quyết để làm căn cứ cho việc khởi kiện.
* Đối với các tranh chấp về quyền sử dụng đất: Với các quy
định tại Điều 202 và 203 Luật Đất đai năm 2013 thì tranh chấp đất đai
sau khi các bên tự hòa giải với nhau không có kết quả sẽ được giải
quyết thông qua hòa giải ở cơ sở và hòa giải tại UBND cấp xã nơi có
đất tranh chấp. Luật sư sẽ phải hướng dẫn cho khách hàng nộp đơn
yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã nơi có đất
tranh chấp để tiến hành thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai. Tranh chấp
đất đai đã được hòa giải tại UBND cấp xã mà không thành thì sẽ được
giải quyết theo quy định của pháp luật.
* Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền
của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra: Đối với tranh chấp về bồi
thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự gây ra là một loại bồi thường thiệt hại xảy ra
trong lĩnh vực hình sự.

54
(ii) Xác định yêu cầu khởi kiện của khách hàng đã được giải
quyết bằng một bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật chưa
Luật sư cần xác định yêu cầu khởi kiện của khách hàng trong các
tranh chấp dân sự đã được giải quyết bằng một bản án hay quyết định
đã có hiệu lực pháp luật hay chưa. Nếu một vụ án đã được Tòa án của
Việt Nam giải quyết bằng một bản án hay quyết định đã có hiệu lực
pháp luật thì khách hàng không được khởi kiện đối với vụ án đó nữa.
Tuy nhiên, Luật sư cũng cần xác định các trường hợp ngoại lệ trong
tranh chấp dân sự mà khi nằm trong trường hợp này khách hàng vẫn
có quyền khởi kiện lại. Ví dụ, yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng, mức
bồi thường thiệt hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi
người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi
tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê,
cho mượn, cho ở nhờ mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và
theo quy định của pháp luật đương sự được quyền khởi kiện lại.
2.1.2. Hướng dẫn khách hàng chuẩn bị hồ sơ khởi kiện với một
số tranh chấp dân sự phổ biến
Ngoài các giấy tờ chứng minh tư cách chủ thể khởi kiện, Luật sư
cần lưu ý hướng dẫn khách hàng chuẩn bị các giấy tờ chứng minh cho
yêu cầu khởi kiện tương ứng với đặc trưng của vụ án.
* Đối với vụ án tranh chấp về quyền sở hữu:
- Giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu như giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở; giấy chứng nhận
đăng ký ô tô, xe máy; cổ phần, cổ phiếu...
- Các giấy tờ khác có liên quan như giấy tặng cho…
* Đối với vụ án tranh chấp về đất đai: Luật sư cần hướng dẫn
khách hàng thu thập các tài liệu, chứng cứ liên quan đến chủ thể sử
dụng đất và nguồn gốc đất như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
hoặc một trong các giấy tờ theo quy định tại Điều 100, Điều 101 Luật
Đất đai năm 2013.
* Đối với vụ án thừa kế: Luật sư cần hướng dẫn cho khách hàng
thu thập các chứng cứ chuẩn bị hồ sơ khởi kiện như:
- Giấy chứng tử của người để lại di sản thừa kế hoặc quyết định
tuyên bố chết của Tòa án có thẩm quyền. Trường hợp các chứng cứ

55
mà khách hàng cung cấp cho thấy đã hết thời hiệu khởi kiện về quyền
thừa kế, Luật sư cần xác định và hướng dẫn, giúp đương sự thu thập
các chứng cứ chứng minh việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện về
quyền thừa kế để lựa chọn khởi kiện theo một quan hệ khác. Ví dụ,
quan hệ chia tài sản chung (Điều 623 BLDS năm 2015 quy định thời
hiệu khởi kiện chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối
với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế).
- Chứng cứ về diện và hàng thừa kế (những người có khả năng
thừa kế theo quy định của pháp luật: quan hệ huyết thống, hôn nhân,
nuôi dưỡng). Luật sư nên lập sơ đồ thừa kế để xác định những người
thừa kế, xác định đương sự trong vụ án. Việc lập sơ đồ thừa kế phải
đảm bảo các nội dung sau: Xác định người để lại di sản, các thời điểm
mở thừa kế (một hay hai… thời điểm mở thừa kế), hàng thừa kế và
diện thừa kế theo quy định của pháp luật, mối quan hệ giữa các thừa
kế với nhau và giữa những người thừa kế với những người để lại di
sản thừa kế.
- Di chúc (nếu có);
- Các tài liệu, chứng cứ chứng minh tài sản là di sản thừa kế thuộc
quyền sở hữu, sử dụng hợp pháp của người để lại di sản (đối với di sản
thừa kế là quyền sử dụng đất là các chứng cứ xác định các điều kiện để
quyền sử dụng đất là di sản theo quy định của pháp luật); xác định đồng
sở hữu của người để lại di sản; các chứng cứ để xác định tổng thể di
sản; xác định phần góp vốn của những người liên quan; các chứng cứ
về nghĩa vụ tài sản và chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán từ
di sản; các chứng cứ liên quan đến việc xác nhận quyền thừa kế hay
bác bỏ quyền thừa kế của người khác. Bản kê khai các di sản.
- Các giấy tờ khác: Biên bản giải quyết trong họ tộc, biên bản
giải quyết tại UBND xã, phường, thị trấn (nếu có), văn bản từ chối
nhận di sản (nếu có).
* Đối với tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng:
Luật sư cần hướng dẫn cho khách hàng thu thập các chứng cứ:
- Chứng cứ liên quan đến việc xác định lỗi của người gây ra thiệt
hại và mức thiệt hại phải bồi thường do lỗi đó gây ra cũng như mức
yêu cầu bồi thường phù hợp với quy định của pháp luật hoặc được các
bên chấp nhận.

56
- Các giấy tờ về các khoản chi phí hợp lý (những chi phí thực tế
cần thiết, phù hợp với tính chất, mức độ của thiệt hại…) như: Bảng kê
các chi phí tính được bằng tiền về những thiệt hại; chứng từ điều trị
của bệnh viện; chi phí mai táng; giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài
sản; các hóa đơn thu tiền sửa chữa; hóa đơn thuê phương tiện đi cấp
cứu tại cơ sở y tế; các hóa đơn mua thuốc và mua các thiết bị y tế, chi
phí chiếu, chụp Xquang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ,
truyền máu, tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức
khỏe… kèm theo đơn thuốc chỉ định của bác sỹ; hóa đơn thu tiền viện
phí; hóa đơn về các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mua xe lăn,
nạng chống… để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng cơ thể (nếu
có); các chi phí thực tế, cần thiết khác (nếu có).
- Các văn bản, tài liệu giải quyết của cơ quan chức năng.
- Các giấy tờ, tài liệu khác...
* Đối với các vụ án tranh chấp về nhà ở:
Hồ sơ cần có các giấy tờ:
- Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà.
- Các giấy tờ xác nhận chủ quyền nhà (trong trường hợp chưa có
giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà).
- Các giấy tờ liên quan đến giao dịch nhà có tranh chấp: giấy cho
mượn, cho thuê, cho ở nhờ, mua bán, tặng cho... hoặc các giấy tờ thể
hiện có quan hệ này.
- Các giấy tờ, tài liệu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về
việc giải quyết nhà đang có tranh chấp (nếu có).
* Đối với vụ án tranh chấp về hợp đồng:
Hồ sơ cần có các giấy tờ:
- Các giấy tờ chứng minh nguồn gốc tài sản là đối tượng giao
dịch của hợp đồng. Ví dụ, tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở thì
đương sự phải nộp các giấy tờ về nguồn gốc nhà; Tranh chấp hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì đương sự phải nộp các
giấy tờ chứng minh về nguồn gốc đất…
- Các giấy tờ chứng minh việc xác lập quan hệ hợp đồng giữa
các bên, đó là bản hợp đồng, phụ lục hợp đồng, các giấy tờ, tài liệu

57
liên quan đến thỏa thuận bổ sung hợp đồng. Ví dụ, người khởi kiện
yêu cầu bên vay trả tiền nợ gốc và lãi trong tranh chấp hợp đồng vay
tiền thì phải xuất trình các tài liệu, giấy tờ như hợp đồng vay, giấy
biên nhận vay tiền, giấy khất nợ, tài liệu thừa nhận việc vay nợ, băng
ghi âm, ghi hình, giấy xác nhận của người làm chứng chứng kiến việc
cho vay…; Riêng đối với tài liệu là băng ghi âm, ghi hình người khởi
kiện phải xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ về băng ghi
âm, ghi hình đó.
- Các giấy tờ liên quan đến quá trình thực hiện quyền và nghĩa
vụ theo hợp đồng của các bên trong quan hệ hợp đồng. Ví dụ, người
khởi kiện là bên bán tài sản yêu cầu bên mua thanh toán tiền còn thiếu
và lãi suất chậm thanh toán trong tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản
phải nộp kèm theo đơn khởi kiện giấy tờ chứng minh việc đã giao
hàng cho bên mua.
2.2. Kỹ năng tiếp xúc, trao đổi với khách hàng và chuẩn bị hồ
sơ khởi kiện tranh chấp kinh doanh, thương mại
2.2.1. Kỹ năng tiếp xúc, trao đổi với khách hàng về việc khởi
kiện tranh chấp kinh doanh, thương mại
Theo Điều 30 BLTTDS năm 2015, Toà án có thẩm quyền giải
quyết các loại tranh chấp về kinh doanh, thương mại như sau: (i) tranh
chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ
chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; (ii)
tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá
nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; (iii) tranh chấp
giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về
chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty; (iv) tranh
chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công
ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên
Hội đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa
các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt
động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công
ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty; (v) các tranh chấp khác về
kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết
của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
Với quy định nêu trên, có thể nhận thấy phần lớn các tranh chấp

58
kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án,
ngoại trừ các tranh chấp kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền
của Trọng tài thương mại. Để có thể tư vấn cho khách hàng trong việc
giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án, Luật sư
cần lưu ý một số đặc thù sau khi tiếp xúc, trao đổi với khách hàng:
- Về thời hiệu khởi kiện: thời hiệu khởi kiện các tranh chấp về
kinh doanh, thương mại được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Trường hợp pháp luật không có quy định thì thời hiệu khởi kiện vụ án
kinh doanh, thương mại là 02 năm, kể từ ngày đương sự biết được
quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm. Để xác định được
thời hiệu khởi kiện cho một vụ việc cụ thể, trước hết Luật sư cần xác
định xem quy định pháp luật chuyên ngành nào sẽ điều chỉnh vụ việc
đó. Chỉ trong trường hợp pháp luật chuyên ngành không có quy định về
thời hiệu khởi kiện thì mới áp dụng quy định của BLDS và BLTTDS.
Dưới đây là một số ví dụ về thời hiệu khởi kiện đối với một số
tranh chấp nhất định được quy định trong pháp luật chuyên ngành.

QUAN HỆ
THỜI HIỆU KHỞI KIỆN
PHÁP LUẬT
Các tranh chấp thương 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích
mại hợp pháp bị xâm phạm, trừ trường hợp
sau khi bị khiếu nại, thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics không nhận được
thông báo về việc bị kiện tại Trọng tài
hoặc Tòa án trong thời hạn 09 tháng kể từ
ngày giao hàng (Điều 319 Luật Thương
mại năm 2005).
Hợp đồng bảo hiểm 03 năm, kể từ thời điểm phát sinh tranh
chấp (Điều 30 Luật Kinh doanh bảo hiểm
năm 2000).
Yêu cầu bồi thường 02 năm, kể từ ngày tàu bay đến địa điểm
thiệt hại xảy ra cho đến, ngày tàu bay phải đến địa điểm đến
hành khách, hành lý, hoặc từ ngày việc vận chuyển bị chấm
hàng hóa trong vận tải dứt, tùy thuộc vào thời điểm nào muộn
hàng không nhất (Điều 174 Luật Hàng không dân
dụng Việt Nam năm 2006).

59
QUAN HỆ
THỜI HIỆU KHỞI KIỆN
PHÁP LUẬT
Về hư hỏng, mất mát 01 năm, kể từ ngày trả hàng hoặc lẽ
hàng hoá ra phải trả hàng cho người nhận hàng
(Điều 169 Bộ luật Hàng hải Việt Nam
năm 2015).
Về việc thực hiện hợp 02 năm, kể từ ngày người khởi kiện biết
đồng vận chuyển theo hoặc phải biết quyền lợi của mình bị xâm
chuyến phạm (Điều 195 Bộ luật Hàng hải Việt
Nam năm 2015).

Về vận chuyển hành 02 năm. Thời hiệu khởi kiện quy định tại
khách và hành lý Điều 214 Bộ luật Hàng hải Việt Nam
năm 2015 được tính như sau: a) Trường
hợp hành khách bị thương thì tính từ ngày
hành khách rời tàu; b) Trường hợp hành
khách chết trong thời gian vận chuyển thì
tính từ ngày lẽ ra hành khách rời tàu.
Trường hợp hành khách bị thương trong
quá trình vận chuyển dẫn đến hậu quả
hành khách đó chết sau khi rời tàu thì tính
từ ngày người đó chết, nhưng không được
quá 03 năm kể từ ngày rời tàu; c) Trường
hợp mất mát, hư hỏng hành lý thì tính từ
ngày hành khách rời tàu hoặc ngày lẽ ra
hành khách rời tàu, tùy thuộc vào thời
điểm nào muộn hơn.
Mặc dù có việc tạm đình chỉ hoặc gián
đoạn thời hiệu khởi kiện đòi bồi thường
quy định tại khoản 1 Điều 214 Bộ luật
Hàng hải Việt Nam năm 2015 thì thời
hiệu khởi kiện cũng không được quá 03
năm kể từ ngày hành khách rời tàu hoặc
ngày lẽ ra hành khách rời tàu, tùy thuộc
vào thời điểm nào muộn hơn (Điều 214
Bộ luật Hàng hải Việt Nam năm 2015).

60
QUAN HỆ
THỜI HIỆU KHỞI KIỆN
PHÁP LUẬT
Hợp đồng thuê tàu 02 năm, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng
(Điều 219 Bộ luật Hàng hải Việt Nam
năm 2015).
Hợp đồng đại lý tàu biển 02 năm, kể từ ngày phát sinh tranh chấp
(Điều 241 Bộ luật Hàng hải Việt Nam
năm 2015).
Hợp đồng môi giới 02 năm, kể từ ngày phát sinh tranh chấp
hàng hải (Điều 246 Bộ luật Hàng hải Việt Nam
năm 2015).
Hợp đồng lai dắt tàu biển 02 năm, kể từ ngày phát sinh tranh chấp
(Điều 262 Bộ luật Hàng hải Việt Nam
năm 2015).

- Về khách hàng: khách hàng trong các tranh chấp về kinh


doanh, thương mại thường là tổ chức và đa phần là các doanh nghiệp.
Đối với các tranh chấp có giá trị lớn hoặc có ảnh hưởng lớn đến uy tín
của doanh nghiệp, có thể người đại diện theo pháp luật, ban giám đốc
doanh nghiệp sẽ làm việc trực tiếp với Luật sư. Một số công ty, tập
đoàn có quy mô lớn, tổ chức chặt chẽ, bộ phận pháp chế sẽ làm việc
trực tiếp với Luật sư. Một số doanh nghiệp sẽ cử một số cá nhân có
liên quan trực tiếp đến tranh chấp làm việc với Luật sư. Buổi họp với
khách hàng trong nhiều trường hợp sẽ không diễn ra tại tổ chức hành
nghề luật sư mà sẽ diễn ra tại địa điểm mà khách hàng đề xuất, thường
là trụ sở, văn phòng của khách hàng. Với thực tế nêu trên nên trước
khi tiếp xúc khách hàng, Luật sư cần tìm hiểu xem nhân sự tham gia
buổi họp với Luật sư là ai, tư cách đại diện như thế nào, có quyền đại
diện, quyền cung cấp thông tin cũng như quyết định các vấn đề liên
quan đến việc giải quyết tranh chấp hay không. Nếu việc giải quyết
tranh chấp được giao cho một hoặc một số nhân sự hiểu về tranh chấp,
có khả năng cung cấp các thông tin, tài liệu cần thiết cho việc giải
quyết tranh chấp và phối hợp chặt chẽ với Luật sư trong việc giải
quyết tranh chấp thì tiến độ giải quyết công việc sẽ nhanh hơn. Việc

61
tìm hiểu trước nhân sự của khách hàng tham gia cuộc họp sẽ giúp Luật
sư phối hợp với các nhân sự, chuyên gia khác của các hãng luật chuẩn
bị và tham gia buổi làm việc được tốt hơn.
- Về tính chất phức tạp của vụ việc: các tranh chấp về kinh
doanh, thương mại thường có những phức tạp đặc thù xuất phát từ giá
trị tranh chấp, các vấn đề kinh tế, kỹ thuật, văn hoá, ảnh hưởng của
tranh chấp đến uy tín kinh doanh của các bên... Do đó, để có thể tư
vấn cho khách hàng về việc giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại trong giai đoạn chuẩn bị khởi kiện, Luật sư cần phải hiểu nguyên
nhân chính của tranh chấp cũng như những vấn đề chuyên môn của
giao dịch để có thể tư vấn cho khách hàng hiệu quả (xem thêm ví dụ
dưới đây).
- Về sự ảnh hưởng của việc khởi kiện đến quan hệ, uy tín của các
bên trong tranh chấp: khi có tranh chấp xảy ra, các bên thường đứng
trên lập trường của mình để đưa ra các yêu cầu hoặc từ chối yêu cầu
của bên kia. Bên đưa ra yêu cầu nếu không đạt được yêu cầu thường
mong muốn đưa tranh chấp ra giải quyết tại Toà án. Bên bị yêu cầu,
trong một số trường hợp do muốn bảo vệ quan điểm, lập trường của
mình hay vì một lý do nào khác thường không đồng ý giải quyết tranh
chấp thông qua thương lượng, hoà giải nên dẫn đến việc tranh chấp
phải đưa ra giải quyết tại Toà án. Tuy nhiên, các bên thường chưa ý
thức hết được ảnh hưởng của việc giải quyết tranh chấp đến quan hệ
của các bên. Bản án của Toà án thường là dấu chấm hết cho quan hệ
của các bên. Hậu quả xa hơn nữa là các bên dù là bên thắng hay thua
sẽ ít nhiều bị ảnh hưởng đến uy tín vì các lý do như các bên sử dụng
các phương tiện truyền thông và việc xét xử tranh chấp thường diễn ra
công khai (trong một số trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật kinh
doanh thì các bên có thể đề nghị Toà án xử kín). Tranh chấp dưới đây
là một trong những tranh chấp đã được rất nhiều các phương tiện
thông tin đại chúng đưa tin.

Ví dụ:
Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng vốn giữa nguyên đơn là
Công ty TNHH Vạn Lợi và bị đơn là CTCP Tập đoàn đầu tư IPA
(Công ty IPA)8

8
http://tinnhanhchungkhoan.vn/phap-luat/van-loi-va-ipa-tranh-chap-tai-san-34021.html

62
Ngày 13/12/2010, Công ty IPA cùng ông Nguyễn Cao Bằng,
Công ty TNHH Vạn Lợi và Công ty Vạn Lợi - Bắc Kạn đã ký Hợp
đồng số 13/12/2010/HĐ-IPA về chuyển nhượng vốn góp, cam kết
chuyển giao tài sản doanh nghiệp và dự án khai thác khoáng sản
trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn (Hợp đồng số 13).
Theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 4700151178, Công
ty Vạn Lợi - Bắc Kạn có vốn điều lệ 180 tỷ đồng, gồm 3 cổ đông là
Công ty TNHH Vạn Lợi chiếm 52%, ông Nguyễn Cao Bằng chiếm
18%, Công ty IPA chiếm 30%. Tuy nhiên, tại thời điểm đăng ký kinh
doanh ngày 30/6/2010, số vốn điều lệ thực góp chưa đạt 180 tỷ đồng
như đăng ký.
Theo đó, các bên xác định được số vốn điều lệ mà các cổ đông đã
thực góp vào Công ty Vạn Lợi - Bắc Kạn tính đến thời điểm ký Hợp
đồng số 13 (ngày 13/12/2010) là 86,5 tỷ đồng (còn thiếu 93,5 tỷ đồng,
các cổ đông chưa góp); hai cổ đông là ông Nguyễn Cao Bằng và
Công ty TNHH Vạn Lợi đồng ý chuyển nhượng toàn bộ 70% cổ
phần (gồm số cổ phần tính theo vốn thực góp và quyền góp vốn)
thuộc quyền sở hữu của họ cho Công ty IPA. Đồng thời với việc
chuyển nhượng cổ phần này, Công ty TNHH Vạn Lợi có nghĩa vụ
chuyển giao một số tài sản và quyền tài sản cho Công ty Vạn Lợi -
Bắc Kạn, trong đó có 14 mỏ quặng sắt và quặng sắt - mangan.
Căn cứ Hợp đồng số 13, Công ty IPA, Công ty TNHH Vạn Lợi và
Công ty Vạn Lợi - Bắc Kạn đã ký kết các hợp đồng khác để thực
hiện nội dung nêu trong Hợp đồng này như: (i) Công ty TNHH Vạn
Lợi chuyển giao các quyền liên quan đến các mỏ khoáng sản,
chuyển giao dự án đầu tư xây dựng khu liên hợp gang thép công
suất 250.000 tấn/năm, dự án đầu tư xây dựng nhà máy nung tuyển
quặng sắt công suất 600.000 tấn/năm cho Công ty Vạn Lợi - Bắc
Kạn; (ii) Công ty Vạn Lợi - Bắc Kạn nhận tiền từ Công ty IPA để
chi đầu tư, thanh toán và số tiền này sẽ chuyển thành cổ phần sở
hữu của IPA tại Vạn Lợi - Bắc Kạn theo tỷ lệ 1:1. Từ ngày
01/01/2011 đến 31/8/2011, Công ty IPA đã chuyển vào tài khoản
của Công ty Vạn Lợi - Bắc Kạn tổng cộng 131 tỷ đồng.

63
Tuy nhiên, tranh chấp phát sinh khi ngay sau đó, Công ty
TNHH Vạn Lợi đề nghị không tiếp tục thực hiện Hợp đồng số 13
với lý do cho rằng Hợp đồng số 13 là vô hiệu, vì trong số tài sản
phải chuyển giao có 3 mỏ sắt Sỹ Bình, Bản Lác đang được thế
chấp tại Ngân hàng BIDV - Chi nhánh Bắc Hà Nội. Các thỏa
thuận liên quan đến chuyển giao 3 mỏ nói trên vi phạm điều cấm
của pháp luật (tài sản đang thế chấp không được chuyển
nhượng), Ngân hàng không đồng ý cho Công ty Vạn Lợi - Bắc
Kạn nhận nợ thay Công ty TNHH Vạn Lợi, nên Hợp đồng số
13/12/2010/HĐ-IPA không thể thực hiện được.
Không thống nhất được quan điểm giải quyết vụ việc nên Công ty
TNHH Vạn Lợi đã khởi kiện tranh chấp ra TAND TP. Hà Nội. Đơn
khởi kiện của Công ty TNHH Vạn Lợi cho rằng, Công ty IPA không
thanh toán tiền. Song Công ty IPA cho biết, đã thực hiện nghĩa vụ
thanh toán như chuyển tiền vào tài khoản, đối trừ công nợ, xóa nợ
như trả cho Hợp tác xã Toàn Diện 10 tỷ đồng, CTCK VNDirect 22,2
tỷ đồng, xóa nợ 30,5 tỷ đồng...
Mặc dù vậy, Công ty IPA thừa nhận, số tiền 150 tỷ đồng liên
quan đến 3 mỏ sắt chưa thanh toán, do có tranh chấp về thời gian,
phương thức thanh toán và Công ty TNHH Vạn Lợi chưa làm thủ
tục chuyển giao. Cũng trong đơn khởi kiện, Công ty TNHH Vạn Lợi
cho rằng, Hợp đồng số 13 không có giá trị pháp lý, vì người ký là
ông Nguyễn Cao Bằng (chức danh chủ tịch hội đồng thành viên
Công ty TNHH Vạn Lợi, không phải đại diện theo pháp luật) không
đủ tư cách pháp lý. Hợp đồng cũng không được Hội đồng thành viên
Công ty TNHH Vạn Lợi thông qua.
Phản bác lại, Công ty IPA cho hay, với tỷ lệ vốn góp chiếm
99,91% trong Công ty TNHH Vạn Lợi, quyết định của ông Nguyễn
Cao Bằng mặc nhiên được Hội đồng thành viên thông qua. Việc Hội
đồng thành viên Công ty TNHH Vạn Lợi ra văn bản thông qua việc
chuyển nhượng vốn là trách nhiệm của ông Bằng và chỉ mang tính
thủ tục để các bên hoàn tất Hợp đồng số 13/12/2010/HĐ-IPA.

64
Về lý do ông Bằng không phải là người đại diện theo pháp luật,
Công ty IPA cho biết, sau khi ký hợp đồng, ông Trần Mạnh Hùng,
Tổng giám đốc, đại diện theo pháp luật của Công ty TNHH Vạn Lợi
không có ý kiến hay văn bản phản đối nào. Ông Hùng cũng tham dự
phiên họp Hội đồng thành viên Công ty TNHH Vạn Lợi để thông qua
việc chuyển nhượng dự án cho Công ty Vạn Lợi - Bắc Kạn.

- Sự lạc quan của khách hàng về phương thức giải quyết tại Toà
án: không phải doanh nghiệp nào, khách hàng nào cũng hiểu về quy
trình giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại tại Toà án. Có một
số doanh nghiệp khá lạc quan về phương thức giải quyết tranh chấp
này mà bỏ qua việc lựa chọn những phương thức giải quyết tranh chấp
khác. Trách nhiệm của Luật sư trong giai đoạn tiếp xúc khách hàng
trước khi khởi kiện là cung cấp, giải thích cho khách hàng hiểu rõ về
thủ tục tố tụng dân sự đối với các vụ án kinh doanh, thương mại, ưu
điểm và hạn chế của phương thức giải quyết tranh chấp này để khách
hàng cân nhắc trước khi quyết định khởi kiện. Việc giải quyết một
tranh chấp kinh doanh, thương mại theo ví dụ dưới đây sẽ giúp khách
hàng có thể hình dung ít nhiều về quy trình giải quyết tranh chấp tại
Toà án và những vấn đề có thể phát sinh. Khi đưa tranh chấp ra giải
quyết tại Toà án cũng đồng nghĩa với việc khả năng kiểm soát việc
giải quyết tranh chấp của khách hàng đã bị hạn chế, thay vào đó là
công việc chuyên môn của Toà án.

Ví dụ:
Tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa9
Ngày 03/10/2006, Công ty cổ phần thép Việt Ý (sau đây gọi tắt là
Công ty thép Việt Ý) ký Hợp đồng kinh tế số 03/2006-HĐKT với
Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên (sau đây gọi tắt là Công ty kim
khí Hưng Yên); do ông Nguyễn Văn Tỉnh - Phó Tổng Giám đốc làm
đại diện theo Giấy ủy quyền số 621 ngày 10/9/2005 của Tổng Giám
đốc Công ty. Theo Hợp đồng này, Công ty thép Việt Ý (bên A) mua

9
Án lệ số 09/2016/AL về xác định lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường và việc trả
lãi trên số tiền phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại (được Hội đồng Thẩm phán TANDTC
thông qua ngày 07/10/2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày
17/10/2016 của Chánh án TANDTC).

65
hàng hóa là phôi thép đúc liên tục CTS-5SP/PS hàng rời, theo tiêu
chuẩn GOST 380-94 của Công ty kim khí Hưng Yên (bên B) với số
lượng 3.000 tấn +/- 5%, đơn giá 6.750.000 đồng/tấn; thời gian giao
hàng từ 25 đến 31/10/2006; tổng giá trị hợp đồng là 20.250.000.000
đồng +/-5%.
Ngày 04/10/2006, Công ty thép Việt Ý đã chuyển toàn bộ số tiền
20.250.000.000 đồng cho Công ty kim khí Hưng Yên theo ủy nhiệm
chi thông qua Ngân hàng ngoại thương Hải Dương. Công ty kim khí
Hưng Yên cũng đã giao cho Công ty thép Việt Ý tổng số lượng hàng
là 2.992,820 tấn phôi thép, còn thiếu 7,180 tấn tương ứng với số
tiền 48.465.000 đồng.
Ngày 20/12/2006, hai bên ký tiếp Hợp đồng số 05/2006-HĐKT.
Đại diện cho Công ty kim khí Hưng Yên ký hợp đồng là ông Lê Văn
Mạnh - Phó Tổng Giám đốc (theo Giấy ủy quyền số 1296/UQ/HYM
của Tổng Giám đốc Công ty). Theo hợp đồng này, Công ty thép Việt
Ý mua 5.000 tấn phôi thép (tiêu chuẩn và chất lượng giống như Hợp
đồng số 03), đơn giá 7.290.000 đồng/tấn (kể cả thuế VAT và cước
phí vận chuyển). Tổng giá trị hợp đồng là 36.450.000.000 đồng +/-
5%; thời gian giao hàng từ ngày 18/01/2007 đến ngày 30/01/2007;
Công ty thép Việt Ý sẽ ứng trước 500.000.000 đồng cho Công ty kim
khí Hưng Yên ngay sau khi ký hợp đồng; số tiền còn lại sẽ thanh
toán theo hai đợt sau khi Công ty thép Việt Ý nhận hàng. Hợp đồng
còn quy định nghĩa vụ của Công ty kim khí Hưng Yên phải chịu phạt
2% giá trị hợp đồng nếu không giao hàng đúng chủng loại hoặc
không giao hàng. Theo đại diện của Công ty thép Việt Ý thì ngày
21/12/2006, Công ty thép Việt Ý đã chuyển cho Công ty kim khí
Hưng Yên 500.000.000 đồng tiền ứng trước, nhưng hợp đồng này
Công ty kim khí Hưng Yên không thực hiện mà không có lý do.
Cùng ngày 20/12/2006, Công ty thép Việt Ý cũng đã ký kết Hợp
đồng số 06/2006 với Công ty kim khí Hưng Yên (do ông Lê Văn
Mạnh - Phó Tổng Giám đốc làm đại diện) để mua của Công ty kim
khí Hưng Yên 3.000 tấn phôi thép, đơn giá 7.200.000 đồng/tấn.
Tổng giá trị hợp đồng là 21.600.000.000 đồng; thời gian giao hàng
từ ngày 05/01/2007 đến ngày 15/01/2007. Ngày 22/12/2006, Công
ty thép Việt Ý đã chuyển cho Công ty kim khí Hưng Yên đủ
21.600.000.000 đồng theo ủy nhiệm chi tại Ngân hàng

66
Techcombank Chi nhánh Hưng Yên, nhưng Công ty kim khí Hưng
Yên mới chuyển cho Công ty thép Việt Ý 2.989,890 tấn phôi thép,
còn thiếu 7,640 tấn, tương đương số tiền là 55.008.000 đồng.
Ngày 01/02/2007, Công ty thép Việt Ý ký kết Hợp đồng số
01/2007 với Công ty kim khí Hưng Yên (do ông Lê Văn Mạnh - Phó
Tổng Giám đốc làm đại diện) để mua 5.000 tấn phôi thép của Công
ty kim khí Hưng Yên, đơn giá 7.800.000 đồng/tấn. Tổng giá trị hợp
đồng là 39.000.000.000 đồng +/- 5%. Quá trình thực hiện hợp
đồng, Công ty thép Việt Ý đã chuyển cho Công ty kim khí Hưng Yên
37.710.000.000 đồng và Công ty kim khí Hưng Yên đã chuyển cho
Công ty thép Việt Ý 3.906,390 tấn phôi thép, thành tiền là
30.469.842.000 đồng. Số phôi thép Công ty kim khí Hưng Yên chưa
trả cho Công ty thép Việt Ý là 928,25538 tấn, tương đương số tiền là
7.240.158.000 đồng.
Công ty thép Việt Ý đã nhiều lần gửi công văn đề nghị Công ty
kim khí Hưng Yên thực hiện hợp đồng nhưng Công ty kim khí Hưng
Yên vẫn không thực hiện, buộc Công ty thép Việt Ý phải mua phôi
thép của nhà sản xuất khác để đảm bảo cho việc sản xuất và kinh
doanh của Công ty.
Do Công ty kim khí Hưng Yên vi phạm các hợp đồng hai bên đã
ký kết nên Công ty thép Việt Ý đã khởi kiện yêu cầu Công ty kim khí
Hưng Yên có trách nhiệm thanh toán và bồi thường mọi thiệt hại do
vi phạm nghĩa vụ giao hàng trong các Hợp đồng số 03/2006,
05/2006, 06/2006, 01/2007 tại thời điểm khởi kiện là
12.874.298.683 đồng, trong đó tiền hàng tương ứng với 1.777.020
kg phôi thép = 11.181.662.503 đồng, tiền phạt vi phạm
1.316.490.480 đồng, tiền lãi quá hạn 376.145.700 đồng.
Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 03/9/2009, đại diện cho nguyên đơn
yêu cầu Công ty kim khí Hưng Yên phải thanh toán cho Công ty thép
Việt Ý tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm ngày 03/9/2009 là
28.145.956.647 đồng và buộc Công ty kim khí Hưng Yên phải xuất
hóa đơn giá trị gia tăng cho Công ty thép Việt Ý tương đương với số
lượng hàng đã giao ở Hợp đồng số 06/2006 là 21.544.992.000 đồng
và Hợp đồng số 01/2007 là 30.469.842.000 đồng.

67
Tại các biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải, biên bản phiên
tòa, đại diện Bị đơn trình bày:
Thời điểm Công ty kim khí Hưng Yên ký kết các hợp đồng trên với
Công ty thép Việt Ý là thời kỳ bà Lê Thị Ngọc Lan vẫn là Tổng Giám
đốc, ông Lê Văn Dũng (chồng bà Lan) là cố vấn kinh doanh. Ngày
22/3/2007, bà Lê Thị Ngọc Lan đã nhượng lại toàn bộ số cổ phần của
mình ở Công ty kim khí Hưng Yên cho bà Nguyễn Thị Toàn và bà Toàn
nhận chức vụ Quyền Tổng Giám đốc từ ngày 02/4/2007. Trong bản
thỏa thuận phân chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân giữa vợ chồng ông
Lê Văn Dũng và bà Lê Thị Ngọc Lan cũng như bản cam kết về nợ của
Công ty, ông Lê Văn Dũng nhận sẽ có trách nhiệm trả tất cả các khoản
nợ của Công ty kim khí Hưng Yên được thiết lập từ trước ngày
01/4/2007. Nay Công ty thép Việt Ý kiện đòi bồi thường thiệt hại các
Hợp đồng số 03/2006, 05/2006, 06/2006, 01/2007, Công ty kim khí
Hưng Yên không đồng ý vì trách nhiệm trả nợ thuộc về ông Dũng, bà
Lan và những người lãnh đạo, quản lý cũ của Công ty kim khí Hưng
Yên. Công ty kim khí Hưng Yên đang cố gắng làm việc chính thức với
ông Dũng để ông Dũng trả trực tiếp cho Công ty thép Việt Ý hoặc ông
Dũng trả cho Công ty kim khí Hưng Yên để Công ty kim khí Hưng Yên
trả cho Công ty thép Việt Ý.
Công ty kim khí Hưng Yên đề nghị Tòa án xem xét, đánh giá lại
giá trị pháp lý của các Hợp đồng số 03/2006, 05/2006, 06/2006,
01/2007 do ông Tỉnh, ông Mạnh nhân danh Công ty kim khí Hưng
Yên ký với Công ty thép Việt Ý ngay trong vụ án này và xem xét
trách nhiệm của ông Dũng, ông Mạnh, ông Tỉnh, bà Lan đối với các
khoản nợ mà Công ty thép Việt Ý yêu cầu. Tại phiên tòa sơ thẩm lần 1,
Công ty kim khí Hưng Yên về cơ bản thống nhất với số liệu thực
hiện hợp đồng mà Công ty thép Việt Ý đưa ra, còn về số liệu tài
chính thì chưa công nhận vì chưa đối chiếu công nợ; về số tiền lãi
của các hợp đồng cần phải tính lại, riêng đối với hợp đồng số 05
phía bị đơn không đồng ý vì hai bên đã thỏa thuận hủy hợp đồng và
chuyển 500.000.000 đồng mà Công ty thép Việt Ý đã ứng trước sang
để thực hiện hợp đồng số 01/2007, nên đối với Hợp đồng số 05
Công ty kim khí Hưng Yên không có vi phạm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Lê Thị Ngọc Lan

68
trình bày: Đầu năm 2004, vợ chồng bà mua lại cổ phần của ông
Nguyễn Lương Tuấn và ông Nguyễn Văn Thành ở Công ty kim khí
Hưng Yên, lúc đó Công ty kim khí Hưng Yên đang trong thời kỳ xây
dựng. Cũng chính từ đó, bà Lan trở thành Tổng Giám đốc kiêm Chủ
tịch Hội đồng quản trị, còn ông Dũng chồng bà Lan làm cố vấn kinh
doanh của Công ty kim khí Hưng Yên. Do mâu thuẫn trong quan hệ
vợ chồng, ngày 05/9/2005, bà Lan và ông Dũng có làm Bản thỏa
thuận chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân tại Văn phòng luật sư
Hồng Hà (thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội). Theo bản thỏa
thuận này, bà Lan được sở hữu ngôi nhà số 250 phố Bà Triệu, còn
ông Dũng được sở hữu toàn bộ 48 tỷ đồng là cổ phần của vợ chồng
tại Công ty kim khí Hưng Yên nhưng ông Dũng phải có trách nhiệm
trả các khoản nợ của Công ty kim khí Hưng Yên trong thời kỳ xây
dựng nhà máy cán thép Hưng Tài (thuộc Công ty kim khí Hưng
Yên). Do không còn cổ phần và cổ phần đã được giao cho ông Dũng
nên việc điều hành công ty bà Lan đã uỷ quyền cho ông Tỉnh và sau
đó là ông Mạnh. Tuy không còn cổ phần nhưng bà Lan vẫn là Tổng
Giám đốc, song thực tế việc điều hành Công ty kim khí Hưng Yên là
do ông Dũng (chồng bà Lan), ông Tỉnh và ông Mạnh điều hành.
Đến tháng 07/2007, bà Lan mới bàn giao dư nợ vay và chức vụ
Tổng Giám đốc cho bà Toàn. Bà Lan cũng xác nhận việc ông Mạnh
và ông Tỉnh (cả hai ông này lúc đó đều là Phó Giám đốc Công ty
kim khí Hưng Yên) đã ký kết các hợp đồng kinh tế với Công ty thép
Việt Ý là có sự ủy quyền thường xuyên của bà Lan. Nhưng khi bàn
giao cho bà Toàn (quyền và nghĩa vụ) là do ông Dũng với bà Toàn,
bà Lan khẳng định trách nhiệm trả nợ đối với Công ty thép Việt Ý
không thuộc nghĩa vụ của bà Lan.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Lê Văn Dũng trình
bày: Mặc dù vợ chồng ông có sự phân chia tài sản trong thời kỳ hôn
nhân và ông Dũng được sở hữu cổ phần trong Công ty kim khí
Hưng Yên nhưng ông Dũng cũng chỉ giữ vai trò cố vấn kinh doanh
mà không được quyền tham gia ký kết các hợp đồng kinh tế cũng
như việc thanh quyết toán nên ông không có trách nhiệm. Ông Dũng
không nhất trí việc Công ty kim khí Hưng Yên cho rằng ông phải là
người có nghĩa vụ trả nợ mà nghĩa vụ đó phải thuộc về Công ty kim
khí Hưng Yên và bà Toàn. Ông Dũng xác nhận ngày 01/4/2007, ông
có ký bản cam kết với bà Nguyễn Thị Toàn. Bản cam kết đó thể hiện

69
tổng giá trị công nợ để hai bên thanh quyết toán với nhau và chỉ có
ý nghĩa nội bộ cá nhân ông Dũng với bà Toàn để làm cơ sở cho việc
thanh quyết toán, bàn giao, nhưng thực sự chưa có việc mua bán cổ
phần trong công ty giữa ông và bà Toàn. Hai bên chưa ký kết một
hợp đồng mua bán cổ phần nào, còn việc chuyển nhượng cổ phần
công ty giữa bà Lan với bà Toàn thế nào ông không biết. Việc Công
ty thép Việt Ý khởi kiện yêu cầu Công ty kim khí Hưng Yên thanh
toán nghĩa vụ theo hợp đồng, ông Dũng cho rằng về mặt pháp lý thì
Công ty kim khí Hưng Yên phải chịu trách nhiệm với tư cách pháp
nhân. Còn ông không có trách nhiệm với bất cứ khách hàng, đối tác
nào, nếu có thì chỉ là trách nhiệm của ông với Công ty kim khí Hưng
Yên. Ông Dũng xin vắng mặt tại tất cả các phiên toà.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 01/2007/KDTM-ST
ngày 14/11/2007, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã quyết định:
“Buộc Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên phải trả cho Công ty cổ
phần thép Việt Ý tổng số tiền của 04 hợp đồng số 03 ngày
03/10/2006; số 05 ngày 20/12/2006; số 06 ngày 20/12/2006 và
số 01 ngày 01/02/2007 là: 24.674.428.500 đồng”. Ngoài ra Tòa án
cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các
đương sự.
Ngày 27/11/2007, Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên có đơn
kháng cáo.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số
120/2008/KDTM-PT ngày 18/6/2008, Toà phúc thẩm Toà án nhân
dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định: “Hủy Bản án kinh doanh,
thương mại sơ thẩm số 01/2007/KDTM-ST ngày 14/11/2007 của
Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh. Chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án
nhân dân tỉnh Bắc Ninh để giải quyết lại vụ án theo quy định của
pháp luật” với lý do: Toà án cấp sơ thẩm chưa lấy lời khai của
bà Lan, ông Dũng, bà Toàn, ông Tỉnh, ông Mạnh và xác định
người tham gia tố tụng từ đó làm rõ trách nhiệm ai là người phải
trả nợ cho Công ty thép Việt Ý; ngoài ra các tài liệu như bản cam
kết nhận nợ, các giấy nhận tiền của ông Dũng, giấy ủy quyền
quản lý điều hành công ty... đều là bản phô tô không có công
chứng, chứng thực hợp pháp hoặc có sự đối chiếu với bản chính
của Toà án cấp sơ thẩm.

70
Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 09/2008/KDTM-
ST ngày 23/10/2008, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã quyết định:
“Buộc Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên phải có trách nhiệm trả
cho Công ty cổ phần thép Việt Ý số tiền của 04 hợp đồng số 03 ngày
03/10/2006; số 05 ngày 20/12/2006; số 06 ngày 20/12/2006 và số 01
ngày 01/02/2007 là: 31.902.035.179,56 đồng”.
Ngày 05/11/2008, Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên có đơn
kháng cáo.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số
32/2009/KDTM-PT ngày 19/02/2009, Toà phúc thẩm Toà án nhân
dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định: “1. Hủy Bản án kinh doanh,
thương mại sơ thẩm số 09/2008/KDTM-ST ngày 23/10/2008 của
Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh về việc “Tranh chấp hợp đồng mua
bán hàng hóa” giữa Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên với Công ty
cổ phần thép Việt Ý. 2. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm
để giải quyết lại vụ án”, với lý do: Ông Tổng giám đốc Đinh Văn Vì
chỉ khởi kiện đòi Công ty kim khí Hưng Yên là 12.874.298.683 đồng
nhưng người đại diện theo ủy quyền đã thay đổi liên tục bổ sung yêu
cầu khởi kiện là vượt quá phạm vi khởi kiện, vi phạm điểm 1 khoản 2
Điều 164 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP
ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Tất cả các đơn thay đổi bổ sung yêu cầu khởi kiện này là không phù
hợp với pháp luật, Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận tất cả yêu cầu của
người đại diện là vi phạm nghiêm trọng về tố tụng dân sự nên Toà
án cấp phúc thẩm không xét phần kháng cáo về nội dung của Công
ty kim khí Hưng Yên.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 18/2009/KDTM-
ST ngày 03/9/2009, Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã quyết định:
“1. Buộc Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên phải có trách nhiệm
thanh toán trả Công ty cổ phần thép Việt Ý số tiền của 04 hợp đồng
kinh tế: Hợp đồng số 03/2006 ngày 03/10/2006; Hợp đồng số
05/2006 ngày 20/12/2006; Hợp đồng số 06/2006 ngày 20/12/2006
và Hợp đồng số 01/2007 ngày 01/02/2007 với tổng số tiền là
28.145.956.647 đồng và phải xuất hóa đơn giá trị gia tăng trả cho
Thép Việt Ý của 2 hợp đồng gồm Hợp đồng số 06/2006 tương ứng
với số tiền hàng là 21.544.992.000 đồng và Hợp đồng số 01/2007

71
tương ứng với số tiền hàng là 30.469.842.000 đồng”. Ngoài ra, Tòa
án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, về việc thi hành án và
quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 23/9/2009, Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên có đơn
kháng cáo.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 63/KDTM-PT
ngày 05/4/2010, Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội
đã quyết định: “Huỷ Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số
18/2009/KDTM-ST ngày 03/9/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc
Ninh. Chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh để
giải quyết lại theo quy định của pháp luật”.
Ngày 25/7/2010, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh có Công văn số
110/2010/CV-TA đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét
lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Quyết định kháng nghị số 17/2012/KDTM-KN ngày
25/6/2012, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc
thẩm theo hướng hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số
63/KDTM-PT ngày 05/4/2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân
tối cao tại Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án
nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy
định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân
tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân
tối cao.
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định:
1. Từ tháng 10/2006 đến tháng 02/2007, Công ty thép Việt Ý và
Công ty kim khí Hưng Yên đã ký với nhau 4 hợp đồng kinh tế (số
03/2006-HĐKT ngày 03/10/2006, số 05/2006-HĐKT, số 06/2006-HĐKT
ngày 20/12/2006 và số 01/2007-HĐKT ngày 01/02/2007).
Thời điểm các bên ký kết hợp đồng, về phía Công ty kim khí
Hưng Yên, bà Lê Thị Ngọc Lan vẫn là người đại diện theo pháp luật
(căn cứ theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thay đổi lần 5
ngày 12/8/2005 và lần 6 ngày 06/7/2007 của Công ty kim khí Hưng

72
Yên và Quyết định về việc thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh số
140/QĐ-HĐCĐ ngày 02/7/2007 của Công ty kim khí Hưng Yên).
Tại Giấy ủy quyền số 621/UQ-KKHY ngày 10/9/2005, bà Lan đã “1.
Ủy quyền quản lý và điều hành Công ty cổ phần kim khí Hưng Yên
cho ông Nguyễn Văn Tỉnh. 2. Ông Nguyễn Văn Tỉnh chịu trách
nhiệm: a/Đại diện Công ty trong các mối quan hệ với Ngân hàng,
các tổ chức, cá nhân và các cơ quan hữu quan khác để bảo đảm cho
sự hoạt động bình thường của công ty; b/ Thay mặt Công ty thực
hiện các giao dịch dân sự, kinh tế và thương mại trong phạm vi
ngành nghề kinh doanh của Công ty...”. Ngày 20/11/2006, bà Lan
có Giấy ủy quyền số 1296/UQ/HYM ủy quyền quản lý và điều hành
Công ty cho ông Lê Văn Mạnh (nội dung ủy quyền tương tự như nội
dung ủy quyền cho ông Tỉnh).
Việc bà Lan có các giấy ủy quyền nói trên cho ông Nguyễn Văn
Tỉnh, ông Lê Văn Mạnh (là các Phó Tổng giám đốc Công ty) được
quyền ký kết các hợp đồng kinh tế là hoàn toàn hợp pháp. Ông Tỉnh,
ông Mạnh là người ký kết hợp đồng nhân danh pháp nhân, không
phải nhân danh cá nhân nên không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trong vụ án. Vì vậy, không thể xác định ông Tỉnh và ông Mạnh là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án này như yêu cầu
của phía bị đơn cũng như nhận định của Toà án cấp phúc thẩm.
Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào Bản thỏa thuận chia tài sản
chung trong thời kỳ hôn nhân giữa bà Lê Thị Ngọc Lan và ông Lê
Văn Dũng và Bản cam kết về nợ của Công ty giữa ông Lê Văn Dũng
và bà Nguyễn Thị Toàn để cho rằng ông Dũng, bà Lan, bà Toàn đều
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng là không đúng. Bởi
lẽ, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân giữa
ông Lê Văn Dũng và bà Lê Thị Ngọc Lan; việc bà Nguyễn Thị Toàn
và ông Lê Văn Dũng có thỏa thuận với nhau về trách nhiệm thanh
toán các khoản nợ là việc nội bộ của Công ty kim khí Hưng Yên.
Việc cam kết về nợ giữa ông Dũng và bà Toàn chưa được bên có quyền
là Công ty thép Việt Ý đồng ý. Theo quy định tại khoản 1 Điều 315
Bộ luật dân sự năm 2005 thì: “Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao
nghĩa vụ dân sự cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền
đồng ý”. Quá trình giải quyết vụ án, ông Dũng, bà Lan đã có lời
khai rõ ràng về việc thoả thuận chia tài sản chung của vợ chồng về

73
việc ký kết hợp đồng với Công ty thép Việt Ý, về trách nhiệm của
Công ty kim khí Hưng Yên trong việc thực hiện nghĩa vụ theo hợp
đồng; ông Dũng cũng đã có yêu cầu không tham gia phiên toà. Vì
vậy, việc triệu tập ông Dũng, bà Lan để lấy lời khai và đối chất như
nhận định của Toà án cấp phúc thẩm là không cần thiết. Từ đó, Tòa
án cấp phúc thẩm đã tuyên hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ
thẩm số 18/2009/KDTM-ST ngày 03/9/2009 của Tòa án nhân dân
tỉnh Bắc Ninh; chuyển hồ sơ vụ án đến Tòa án nhân dân tỉnh Bắc
Ninh để giải quyết lại là không đúng pháp luật.
2. Về nội dung: Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty thép Việt
Ý đã chuyển tiền bằng ủy nhiệm chi cho Công ty kim khí Hưng Yên;
Công ty kim khí Hưng Yên cũng đã giao hàng cho Công ty thép Việt
Ý (thể hiện qua các Biên bản giao hàng đều có dấu của Công ty kim
khí Hưng Yên). Theo quy định tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật dân sự
2005 thì: “Pháp nhân phải chịu trách nhiệm dân sự về việc thực
hiện quyền, nghĩa vụ dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện
nhân danh pháp nhân”. Do đó, trong trường hợp này, Công ty kim
khí Hưng Yên phải có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ cho
Công ty thép Việt Ý.
Công ty kim khí Hưng Yên thực hiện không đúng cam kết như
trong hợp đồng (giao không đủ hàng cho Công ty thép Việt Ý), nên
Công ty thép Việt Ý đã khởi kiện yêu cầu Toà án buộc Công ty kim
khí Hưng Yên phải hoàn trả số tiền hàng đã nhận (tương đương với
số hàng chưa giao), tiền lãi do chậm thanh toán, tiền phạt hợp
đồng, tiền bồi thường thiệt hại (do không giao hàng nên Công ty
thép Việt Ý đã phải mua của đơn vị khác và phải trả tiền cao hơn so
với giá đã thoả thuận với Công ty kim khí Hưng Yên) là có căn cứ
đúng theo quy định tại Điều 34, khoản 3 Điều 297, các Điều 300,
301, 302, 306, 307 Luật thương mại năm 2005.
Tuy nhiên, khi quyết định về những khoản tiền mà Công ty kim
khí Hưng Yên phải trả cho Công ty thép Việt Ý, Tòa án cấp sơ thẩm
đã tính toán chưa chính xác, cụ thể như sau:
Đối với số tiền ứng trước mà không nhận được hàng của 4 Hợp
đồng kinh tế, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định chính xác số tiền và
buộc Công ty kim khí Hưng Yên phải trả lại cho Công ty thép Việt Ý
là đúng. Tuy nhiên, khi tính tiền lãi do chậm thanh toán số tiền nêu

74
trên, Tòa án cấp sơ thẩm mặc dù áp dụng Điều 306 Luật thương
mại năm 2005 nhưng không lấy mức lãi suất quá hạn trung bình
trên thị trường tại thời điểm thanh toán (xét xử sơ thẩm) để tính, mà
lại áp dụng mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố
tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo yêu cầu của nguyên đơn để áp
dụng mức lãi suất quá hạn (là 10,5%/năm) là không đúng. Trong
trường hợp này, Tòa án cần lấy mức lãi suất quá hạn trung bình của
ít nhất ba Ngân hàng tại địa phương (Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần Công
thương Việt Nam...) để tính lại tiền lãi do chậm thanh toán cho đúng
quy định của pháp luật.
Về phạt vi phạm hợp đồng: hai bên thỏa thuận: Bên B phải chịu
phạt 2% giá trị đơn hàng đã được xác nhận khi bên B vi phạm một
trong các trường hợp sau: giao hàng không đúng chủng loại, không
giao hàng. Như vậy, Công ty kim khí Hưng Yên không giao đủ hàng
cho Công ty thép Việt Ý thì phải bị phạt vi phạm là 2% trên giá trị
phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm theo quy định tại Điều 300 và
Điều 301 Luật thương mại năm 2005. Tòa án cấp sơ thẩm chấp
nhận yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng của Công ty thép Việt Ý là có
căn cứ tuy nhiên lại tính lãi trên số tiền phạt vi phạm hợp đồng là
không đúng.
Về số tiền bồi thường thiệt hại: Theo trình bày của đại diện Công
ty thép Việt Ý là do Công ty kim khí Hưng Yên vi phạm hợp đồng
không giao đủ hàng, nên Công ty thép Việt Ý phải mua phôi thép
của nhà sản xuất khác để đảm bảo cho việc sản xuất và kinh doanh
của Công ty với giá cao hơn. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ căn cứ vào các
Hợp đồng mua bán phôi thép mà Công ty thép Việt Ý ký với nhà sản
xuất khác để buộc Công ty kim khí Hưng Yên phải trả cho Công ty
thép Việt Ý khoản tiền chênh lệch do phải mua hàng với giá cao
hơn, nhưng chưa xem xét làm rõ, việc mua hàng của nhà sản xuất
khác này có đúng là để bù vào số hàng còn thiếu do Công ty kim khí
Hưng Yên không giao đủ để đảm bảo cho việc sản xuất kinh doanh
theo kế hoạch đã đặt ra hay không, về vấn đề này Tòa án cần phải
yêu cầu Công ty thép Việt Ý cung cấp tài liệu, chứng cứ (như đơn
đặt hàng của bên thứ ba, kế hoạch sản xuất kinh doanh...) để chứng

75
minh thiệt hại thực tế xảy ra, từ đó mới có căn cứ buộc Công ty kim
khí Hưng Yên thanh toán số tiền bồi thường thiệt hại cho phù hợp.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tính cả tiền lãi của khoản tiền bồi
thường thiệt hại là không đúng với quy định tại Điều 302 Luật
thương mại năm 2005.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 3 Điều 291, khoản 3 Điều 297,
Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2011),
QUYẾT ĐỊNH
Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 63/KDTM-PT
ngày 05/4/2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà
Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 18/2009/KDTM-
ST ngày 03/9/2009 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh; giao hồ sơ
vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm lại theo
đúng quy định của pháp luật.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“Đối với số tiền ứng trước mà không nhận được hàng của 4 hợp
đồng kinh tế, Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định chính xác số tiền và
buộc Công ty Hưng Yên phải trả lại cho Công ty Việt Ý là đúng. Tuy
nhiên, khi tính tiền lãi do chậm thanh toán số tiền nêu trên, Tòa án
cấp sơ thẩm mặc dù áp dụng Điều 306 Luật thương mại năm 2005
nhưng không lấy mức lãi suất quá hạn trung bình trên thị trường tại
thời điểm thanh toán (xét xử sơ thẩm) để tính, mà lại áp dụng mức
lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm xét xử
sơ thẩm theo yêu cầu của nguyên đơn để áp dụng mức lãi quá hạn
(là 10,5%/năm) là không đúng. Trong trường hợp này, Tòa án cần
lấy mức lãi suất quá hạn trung bình của ít nhất ba ngân hàng tại địa
phương (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam,
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng
thương mại cổ phần Công thương Việt Nam...) để tính lại tiền lãi do
chậm thanh toán cho đúng quy định của pháp luật”.
“Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng
của Công ty Việt Ý là có căn cứ tuy nhiên lại tính lãi trên số tiền
phạt vi phạm hợp đồng là không đúng”.

76
“Tòa án cấp sơ thẩm còn tính cả tiền lãi của khoản tiền bồi
thường thiệt hại là không đúng với quy định tại Điều 302 Luật
thương mại năm 2005”.

- Về điều khoản trọng tài: theo quy định tại Điều 6 Luật Trọng tài
thương mại năm 2010: “Trong trường hợp các bên tranh chấp đã có
thỏa thuận trọng tài mà một bên khởi kiện tại Tòa án thì Tòa án phải từ
chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu hoặc thỏa
thuận trọng tài không thể thực hiện được”. Luật sư cần kiểm tra điều
khoản giải quyết tranh chấp trong hợp đồng, thoả thuận để kiểm tra
xem thoả thuận trọng tài có hiệu lực hay không. Nếu thoả thuận trọng
tài có hiệu lực thì Luật sư cần trao đổi với khách hàng về phương thức
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Luật sư có thể phân tích ưu và
nhược điểm của phương thức này để khách hàng đưa ra lựa chọn.
- Về khả năng lựa chọn các hình thức giải quyết tranh chấp
khác: trước khi tư vấn cho khách hàng về thủ tục khởi kiện, Luật sư
cần giới thiệu cho khách hàng về thủ tục khởi kiện, tư vấn cho khách
hàng các hình thức giải quyết tranh chấp khác như thương lượng, hoà
giải. Trước khi đến gặp Luật sư tư vấn giải quyết tranh chấp về kinh
doanh, thương mại, khách hàng thường đã tiến hành việc thương
lượng nhưng không đạt hiệu quả. Để có thể thuyết phục khách hàng
sử dụng các phương thức giải quyết tranh chấp khác ngoài Toà án,
Luật sư cần phân tích cho khách hàng đặc điểm của mỗi phương
thức, đặc biệt là việc sử dụng các phương thức giải quyết tranh chấp
này khi có sự tham gia của Luật sư. Với kiến thức chuyên môn và kỹ
năng của Luật sư trong việc thương lượng, đàm phán giải quyết các
tranh chấp, Luật sư có thể giúp các bên hiểu rõ vị thế pháp lý của
mình cũng như hệ quả của việc đưa tranh chấp ra giải quyết tại Toà
án. Đặc biệt, việc Luật sư tư vấn cho khách hàng đánh giá, so sánh
ưu và nhược điểm của các phương thức giải quyết tranh chấp dưới
góc độ lý thuyết và thực tiễn sẽ là thông tin hữu ích để khách hàng
cân nhắc trước khi quyết định có đưa tranh chấp ra giải quyết tại Toà
án luôn hay không.
- Án phí, lệ phí thi hành án và khả năng thi hành án: Thông tin
về phí, lệ phí thi hành án và khả năng thi hành án là những thông tin
Luật sư cần cung cấp cho khách hàng khi trao đổi với khách hàng về

77
yêu cầu khởi kiện. Việc xác định án phí, lệ phí thi hành án và đặc biệt
là khả năng thi hành án là điều mà các bên tham gia tranh chấp quan
tâm vì đa phần các chủ thể trong quan hệ này là các doanh nghiệp và
doanh nhân.
Mức án phí sơ thẩm đối với các vụ án về tranh chấp kinh doanh,
thương mại căn cứ theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 để Luật
sư tư vấn cho khách hàng.
Nếu các bên đương sự không tự nguyện thi hành án với nhau mà
yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức thi hành án thì phải nộp phí thi
hành án. Luật sư cần căn cứ theo hướng dẫn tại Điều 46 Nghị định
số 62/2015/NĐ-CP để hướng dẫn khách hàng.
Khả năng thi hành án đối với các tranh chấp kinh doanh, thương
mại là điều mà nhiều nguyên đơn vì quá chủ quan đã không đánh giá
hết. Có rất nhiều tranh chấp với giá trị lớn và nguyên đơn thắng kiện ở
cả hai cấp toà nhưng không thể thi hành án được vì bị đơn không có
khả năng thi hành án hoặc cố tình trốn tránh việc thi hành án. Kết quả
là bên nguyên không những không thi hành được bản án mà còn thiệt
hại nhiều chi phí trong quá trình tố tụng tại hai cấp toà.
- Lựa chọn Toà án giải quyết tranh chấp: Đối với tranh chấp
về kinh doanh, thương mại việc lựa chọn Toà án giải quyết tranh
chấp cần có sự cân nhắc nhằm các mục đích sau: (i) tiết kiệm chi
phí trong quá trình giải quyết tranh chấp; (ii) thuận tiện trong việc
giải quyết tranh chấp; (iii) thuận lợi cho việc thi hành án. Đối với
một tranh chấp về kinh doanh, thương mại thì việc lựa chọn Toà án
theo lãnh thổ, theo sự lựa chọn của nguyên đơn có thể căn cứ vào
các quy định như sau:

Điểm a khoản 1 Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là
Điều 39 BLTTDS cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là
cơ quan, tổ chức.
Điểm b khoản 1 Các đương sự có quyền tự thoả thuận với nhau
Điều 39 BLTTDS bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc
của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc
nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là
cơ quan, tổ chức.

78
Điểm c khoản 1 Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa
Điều 39 BLTTDS án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết.
Điểm a khoản 1 Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị
Điều 40 BLTTDS đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị
đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc
nơi bị đơn có tài sản giải quyết.
Điểm b khoản 1 Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi
Điều 40 BLTTDS nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa
án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi
nhánh giải quyết.
Điểm c khoản 1 Nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở
Điều 40 BLTTDS ở Việt Nam hoặc vụ án về tranh chấp việc cấp
dưỡng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi
mình cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết.
Điểm g khoản 1 Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng
Điều 40 BLTTDS thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp
đồng được thực hiện giải quyết.

2.2.2. Kỹ năng chuẩn bị hồ sơ khởi kiện tranh chấp kinh doanh,


thương mại
Tùy từng vụ việc, hồ sơ khởi kiện tranh chấp kinh doanh, thương
mại sẽ khác nhau, nhưng về cơ bản có những loại sau:
- Đơn khởi kiện;
- Hợp đồng kinh doanh, thương mại hoặc văn bản, tài liệu giao
dịch có giá trị như hợp đồng kinh doanh, thương mại; biên bản bổ
sung, phụ lục hợp đồng (nếu có);
- Tài liệu về bảo đảm thực hiện hợp đồng như bảo lãnh, thế chấp,
cầm cố (nếu có);
- Các tài liệu, chứng cứ về việc thực hiện hợp đồng như việc giao
nhận hàng, biên bản nghiệm thu, chứng từ thanh toán, biên bản thanh
lý hợp đồng, các biên bản làm việc về công nợ tồn đọng,…
- Các tài liệu giao dịch khác (nếu có);
- Tài liệu về tư cách pháp lý của người khởi kiện, các đương sự
khác và người liên quan như: Giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận

79
đăng ký doanh nghiệp, quyết định thành lập doanh nghiệp, điều lệ
hoạt động, quyết định bổ nhiệm hoặc cử người đại diện doanh nghiệp
(bản sao có chứng thực);
- Bản kê các tài liệu nộp kèm theo đơn khởi kiện (ghi rõ số bản
chính, bản sao);
- Nếu các tài liệu nêu trên bằng tiếng nước ngoài thì phải dịch
sang tiếng Việt Nam theo quy định trước khi nộp và nộp kèm theo bản
gốc để đối chiếu. Nếu các tài liệu của các cá nhân, tổ chức nước ngoài
thì phải được hợp pháp hoá lãnh sự theo quy định của pháp luật.
Để tư vấn cho khách hàng chuẩn bị hồ sơ khởi kiện trong các
tranh chấp về kinh doanh, thương mại, Luật sư cần có một số lưu ý sau:
- Về đơn khởi kiện: Các vụ án kinh doanh, thương mại phức tạp
thường có nhiều tình tiết, chứng cứ và khách hàng thường có tâm lý
đưa tối đa vào nội dung đơn khởi kiện. Tuy nhiên, nếu không biết
chọn lọc những tình tiết, chứng cứ quan trọng để đưa vào đơn khởi
kiện thì sẽ dẫn đến tình trạng đơn khởi kiện không cô đọng, không rõ
ràng, khó hiểu. Đối với nội dung yêu cầu khởi kiện, Luật sư cần giúp
khách hàng xác định chính xác mong muốn, yêu cầu của mình.
Trong trường hợp vụ án có giá ngạch, có những yêu cầu liên quan
đến một khoản tiền nhất định, Luật sư tư vấn cho khách hàng xác
định, tính toán chính xác số tiền, khoản lãi (nếu có) để làm cơ sở cho
Toà án xác định án phí và thụ lý vụ án. Chữ ký trong đơn khởi kiện
phải là chữ ký của người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó.
Ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải
ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó; trường hợp tổ chức khởi
kiện là doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu theo quy định của
Luật Doanh nghiệp. Ngay cả trong trường hợp nguyên đơn ủy quyền
cho người khác làm đại diện theo ủy quyền giải quyết toàn bộ vụ án
thì đơn khởi kiện vẫn phải có chữ ký của người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp.
- Về các tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp
của người khởi kiện bị xâm phạm: trong hồ sơ các tranh chấp về kinh
doanh, thương mại thường có nhiều loại tài liệu, chứng cứ đặc thù mà

80
chỉ có trong loại hồ sơ này như: hợp đồng kinh doanh, thương mại
hoặc văn bản, tài liệu giao dịch có giá trị như hợp đồng kinh doanh,
thương mại, biên bản bổ sung, phụ lục hợp đồng (nếu có); tài liệu về
bảo đảm thực hiện hợp đồng như bảo lãnh, thế chấp, cầm cố (nếu có);
các tài liệu, chứng cứ về việc thực hiện hợp đồng như việc giao nhận
hàng, biên bản nghiệm thu, chứng từ thanh toán, biên bản thanh lý hợp
đồng, các biên bản làm việc về công nợ tồn đọng. Trên cơ sở các
thông tin, tài liệu khách hàng cung cấp trong quá trình tiếp xúc và kết
quả của việc nghiên cứu hồ sơ, Luật sư tư vấn cho khách hàng lựa
chọn những tài liệu, chứng cứ có liên quan trực tiếp, có giá trị chứng
minh và đặc biệt là có ý nghĩa bảo vệ, củng cố vị thế pháp lý của
khách hàng trong quá trình giải quyết tranh chấp. Luật sư cũng cần
lưu ý đến chiến thuật, thời điểm cung cấp chứng cứ.
Trong một số vụ án có một loại chứng cứ là đối tượng của tranh
chấp hoặc có liên quan đến việc giải quyết tranh chấp đó là bí mật
kinh doanh. Theo khoản 23 Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa
đổi, bổ sung năm 2009: “Bí mật kinh doanh là thông tin thu được từ
hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng
sử dụng trong kinh doanh”. Bí mật kinh doanh tạo cho người nắm giữ
những ưu thế kinh doanh lớn nên thường được các doanh nghiệp
thực hiện nhiều biện pháp để bảo mật. Việc nộp chứng cứ là bí mật
kinh doanh trong hồ sơ khởi kiện là vấn đề Luật sư và khách hàng
cần cân nhắc và lưu ý để tránh trường hợp bí mật kinh doanh bị lộ
ngoài ý muốn. Khi giao nộp loại chứng cứ này cho Toà án, Luật sư
tư vấn cho khách hàng việc giao nhận tài liệu. Trong biên bản giao
nhận tài liệu cần đề nghị ghi nhận và lưu ý đặc điểm của loại chứng
cứ này để Toà án có biện pháp bảo mật thích hợp trong quá trình lưu
giữ, sử dụng hồ sơ.
- Tài liệu về tư cách pháp lý của người khởi kiện, các đương sự
khác và người liên quan: Giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp, quyết định thành lập doanh nghiệp, điều lệ
hoạt động, quyết định bổ nhiệm hoặc cử người đại diện doanh nghiệp
là những tài liệu mà khách hàng cần phải nộp kèm đơn khởi kiện. Luật
sư tư vấn cho khách hàng nộp bản mới nhất vì có một số tài liệu như
giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có thể được sửa đổi, bổ sung.
Đối với tài liệu về tư cách pháp lý của bị đơn, Luật sư cần tiến hành

81
việc thu thập. Trong một số trường hợp, quá trình làm việc trước đó,
nguyên đơn chưa nhận được các giấy tờ, tài liệu này từ đối tác nên
tranh chấp xảy ra, nguyên đơn thường khó có thể yêu cầu bị đơn cung
cấp mà phải đề nghị cơ quan quản lý doanh nghiệp cung cấp tài liệu
này. Nếu nguyên đơn có được tài liệu này trong hồ sơ khởi kiện thì
việc thụ lý, cũng như giải quyết vụ án sẽ tiết kiệm thời gian hơn.
2.3. Kỹ năng đặc thù trong tiếp xúc, trao đổi với khách hàng và
chuẩn bị hồ sơ khởi kiện tranh chấp lao động
2.3.1. Kỹ năng tiếp xúc, trao đổi với khách hàng trong các vụ án
tranh chấp lao động
Cũng giống như việc khởi kiện tranh chấp dân sự, HN&GĐ,
kinh doanh, thương mại, trước khi tư vấn cho khách hàng khởi kiện
tranh chấp lao động đến Toà án, Luật sư cũng phải tiếp xúc, trao đổi
với khách hàng để nắm được nội dung vụ việc, mong muốn (yêu cầu)
của khách hàng và điều kiện khởi kiện.
Theo quy định tại Điều 32 BLTTDS năm 201510, phạm vi các
tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án rất
rộng. Toà án không chỉ giải quyết các tranh chấp lao động (bao gồm
tranh chấp lao động cá nhân; tranh chấp lao động tập thể về quyền) mà
còn có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp liên quan đến lao động
(bao gồm tranh chấp về học nghề, tập nghề; tranh chấp về cho thuê lại
lao động; tranh chấp về quyền công đoàn, kinh phí công đoàn; tranh
chấp về an toàn lao động, vệ sinh lao động); tranh chấp về bồi thường
thiệt hại do đình công bất hợp pháp và các tranh chấp khác về lao
động, trừ trường hợp tranh chấp đó thuộc thẩm quyền giải quyết của
cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. Chính vì vậy, khi
tiếp xúc, trao đổi với khách hàng, Luật sư cần làm rõ được nội dung
tranh chấp giữa các bên, mong muốn (yêu cầu) của khách hàng khi
khởi kiện và điều kiện khởi kiện của khách hàng.
* Xác định nội dung tranh chấp giữa các bên
Khi trao đổi với khách hàng về nội dung tranh chấp, Luật sư cần
làm rõ mối quan hệ giữa các bên tranh chấp và sự kiện tranh chấp.

10
Điều 32 BLTTDS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi điểm a khoản 2 Điều 219 Bộ luật
Lao động năm 2019 (có hiệu lực thi hành từ 01/01/2021).

82
- Quan hệ giữa các bên tranh chấp: Luật sư cần làm rõ mối quan
hệ giữa các bên tranh chấp được xác lập dưới hình thức nào (hợp đồng
lao động/hợp đồng làm việc/hợp đồng cộng tác viên/hợp đồng thuê
chuyên gia/hợp đồng thuê lại lao động…). Hình thức ghi nhận mối
quan hệ giữa hai bên có hợp pháp không? Tuỳ thuộc quan hệ giữa hai
bên tranh chấp là quan hệ gì (quan hệ giữa người lao động với người sử
dụng lao động; quan hệ giữa viên chức nhà nước với đơn vị sự nghiệp
công lập; quan hệ giữa bên cho thuê và bên thuê lại lao động…) mà
Luật sư hỏi để làm rõ những vấn đề có liên quan. Chẳng hạn, nếu quan
hệ giữa hai bên tranh chấp là quan hệ giữa người lao động và người sử
dụng lao động thì Luật sư cần làm rõ: hợp đồng lao động ký giữa hai
bên có hợp pháp không? Thời hạn của hợp đồng lao động; mức lương
và các quyền lợi khác hai bên đã thoả thuận trong hợp đồng lao động…
- Sự kiện tranh chấp: Phạm vi các tranh chấp lao động thuộc
thẩm quyền giải quyết của Toà án rất rộng, do đó, việc làm rõ sự kiện
tranh chấp phụ thuộc vào từng vụ việc cụ thể. Chẳng hạn, trong những
vụ tranh chấp mà khách hàng cho rằng họ bị kỷ luật sa thải trái pháp
luật thì Luật sư thường làm rõ xem quyết định kỷ luật sa thải của
người sử dụng lao động có đúng pháp luật không bằng cách hỏi làm
rõ: căn cứ người sử dụng lao động áp dụng để kỷ luật sa thải người lao
động; thời hiệu xử lý kỷ luật đối với hành vi vi phạm (nếu có) của
người lao động còn hay đã hết; việc xử lý kỷ luật của người sử dụng
lao động có tuân thủ đúng nguyên tắc, trình tự, thủ tục pháp luật hiện
hành quy định không? Ai là người ký quyết định kỷ luật. Nếu khách
hàng muốn Luật sư tư vấn để khởi kiện tranh chấp về đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động (người lao động bị người sử dụng lao
động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động do thường xuyên
không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động) thì Luật sư cần
tập trung làm rõ: quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
có căn cứ không? Số ngày người sử dụng lao động đã báo trước cho
người lao động? Người lao động có đang trong thời gian quy định tại
Điều 39 Bộ luật Lao động năm 201211 khi bị đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động không? Ngoài ra, nếu người lao động là cán bộ
công đoàn không chuyên trách/thành viên ban lãnh đạo tổ chức đại
diện người lao động tại doanh nghiệp thì Luật sư cần làm rõ thêm
11
Xem thêm Điều 37 Bộ luật Lao động năm 2019 (có hiệu lực thi hành từ 01/01/2021).

83
người sử dụng lao động có thực hiện đúng quy định của pháp luật khi
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với cán bộ công đoàn không
chuyên trách/thành viên ban lãnh đạo tổ chức đại diện người lao động
tại doanh nghiệp không? Nếu khách hàng muốn Luật sư tư vấn khởi
kiện tranh chấp về bồi thường thiệt hại do cuộc đình công bất hợp
pháp gây ra thì Luật sư cần làm rõ: cuộc đình công có do tổ chức đại
diện tập thể lao động lãnh đạo không? Đã có quyết định của Toà án
tuyên bố cuộc đình công bất hợp pháp chưa? Các thiệt hại do cuộc
đình công gây ra là bao nhiêu? Nếu khách hàng muốn khởi kiện người
lao động yêu cầu hoàn trả chi phí đào tạo thì Luật sư cần tập trung làm
rõ: có việc đào tạo từ phía người sử dụng lao động không? Giữa hai
bên có ký hợp đồng đào tạo không? Nội dung cụ thể của hợp đồng đào
tạo, đặc biệt là thoả thuận về thời gian làm việc sau khi đào tạo? Hành
vi vi phạm của người lao động là hành vi gì?...
* Mong muốn/yêu cầu của khách hàng khi khởi kiện
Việc xác định rõ mong muốn/yêu cầu của khách hàng sẽ giúp
Luật sư có thể đưa ra lời khuyên thích hợp cho khách hàng. Chẳng
hạn, trong những vụ tranh chấp mà người lao động khởi kiện người sử
dụng lao động vì cho rằng mình bị kỷ luật sa thải trái pháp luật, Luật
sư cần hỏi rõ xem người lao động muốn được trở lại làm việc tại
doanh nghiệp hay chỉ muốn bồi thường các khoản tiền do bị kỷ luật sa
thải trái pháp luật? Ngoài các yêu cầu liên quan đến việc bị kỷ luật sa
thải trái pháp luật, người lao động còn có yêu cầu nào khác không?
* Điều kiện khởi kiện của khách hàng
Để có thể tư vấn cho khách hàng khởi kiện hay không nên khởi
kiện, Luật sư còn phải làm rõ các điều kiện khởi kiện của khách hàng
như thủ tục tiền tố tụng; vụ tranh chấp đã được giải quyết bằng bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật chưa?…
2.3.2. Kiểm tra điều kiện khởi kiện của khách hàng
Khi tư vấn cho khách hàng khởi kiện một tranh chấp lao động
đến Toà án, ngoài việc kiểm tra những điều kiện khởi kiện khác như
sự việc thuộc thẩm quyền của Tòa án; sự việc chưa được giải quyết
bằng bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm
quyền…, Luật sư cần kiểm tra những điều kiện khởi kiện đặc thù sau:

84
* Quyền khởi kiện của khách hàng
Khi kiểm tra quyền khởi kiện của khách hàng trong vụ án lao
động, Luật sư cần lưu ý từng đối tượng cụ thể:
- Khách hàng khởi kiện là người lao động: Theo quy định tại
khoản 6 Điều 69 BLTTDS năm 2015, người lao động từ đủ 15 tuổi trở
lên có quyền tự mình khởi kiện. Đây là điểm khác với chủ thể khởi
kiện trong hầu hết các tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh doanh,
thương mại. Nếu người lao động dưới 15 tuổi (trong trường hợp họ
được tham gia một số quan hệ lao động) có quyền, lợi ích bị xâm
phạm thì phải khởi kiện thông qua người đại diện hợp pháp (cha, mẹ
hoặc người giám hộ).
- Khách hàng khởi kiện là người sử dụng lao động: Nếu người
sử dụng lao động là cá nhân thì họ phải trực tiếp ký vào đơn khởi kiện.
Nếu người sử dụng lao động là cơ quan, tổ chức thì người đại diện
hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký vào đơn khởi kiện.
* Thủ tục tiền tố tụng
Trong số các tranh chấp lao động thuộc thẩm quyền giải quyết
của Toà án được quy định tại Điều 32 BLTTDS năm 201512, điều kiện
về thủ tục tiền tố tụng chỉ đặt ra với tranh chấp lao động cá nhân và tranh
chấp lao động tập thể về quyền.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 201 Bộ luật Lao động năm 2012
và khoản 1 Điều 32 BLTTDS năm 2015, đối với những tranh chấp lao
động cá nhân, Tòa án chỉ thụ lý giải quyết khi tranh chấp đó đã được
Hoà giải viên lao động tiến hành hoà giải thành nhưng các bên không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng, hoà giải không thành hoặc
không hoà giải trong thời hạn do pháp luật quy định, trừ các tranh
chấp sau đây không nhất thiết phải qua hoà giải tại cơ sở: về xử lý kỷ
luật lao động theo hình thức sa thải hoặc về trường hợp bị đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động; về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm
dứt hợp đồng lao động; giữa người giúp việc gia đình với người sử
dụng lao động; về bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo
hiểm xã hội, về bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật về bảo hiểm
y tế, về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định

12
Điều 32 BLTTDS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung bởi điểm a khoản 2 Điều 219 Bộ luật
Lao động năm 2019 (có hiệu lực thi hành từ 01/01/2021).

85
của pháp luật về an toàn, vệ sinh lao động; về bồi thường thiệt hại
giữa người lao động với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập đưa
người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Đối với tranh
chấp lao động tập thể về quyền giữa tập thể lao động với người sử
dụng lao động: Toà án chỉ thụ lý nếu tranh chấp đó đã được Chủ tịch
UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết mà tập thể
lao động hoặc người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định
đó hoặc quá thời hạn mà Chủ tịch UBND huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh không giải quyết.
Quy định về thủ tục tiền tố tụng đối với tranh chấp lao động cá
nhân và tranh chấp lao động tập thể về quyền của Bộ luật Lao động
năm 2019 có một số thay đổi so với Bộ luật Lao động năm 2012. Trước
khi khởi kiện đến Toà án, tranh chấp lao động cá nhân (trừ một số tranh
chấp lao động cá nhân được quy định tại khoản 1 Điều 188 Bộ luật Lao
động năm 201913) và tranh chấp lao động tập thể về quyền đều bắt
buộc phải qua thủ tục hoà giải của Hoà giải viên lao động. Chủ tịch
UBND cấp huyện sẽ không có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp lao
động tập thể về quyền nữa. Ngoài ra, Bộ luật Lao động năm 2019 cho
phép các bên của tranh chấp lao động (bao gồm tranh chấp lao động cá
nhân, tranh chấp lao động tập thể về quyền và tranh chấp lao động tập
thể về lợi ích) được tự nguyện thoả thuận yêu cầu Hội đồng trọng tài
lao động giải quyết. Trường hợp đã yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động
giải quyết thì các bên của tranh chấp lao động cá nhân, tranh chấp lao
động tập thể về quyền được quyền yêu cầu Toà án giải quyết trong các
trường hợp sau: Ban trọng tài lao động không được thành lập trong thời
hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu giải quyết; Ban trọng tài lao
động không ra quyết định giải quyết vụ tranh chấp trong thời hạn 30
ngày, kể từ ngày được thành lập hoặc Ban trọng tài lao động đã giải
quyết nhưng một trong các bên không thi hành quyết định giải quyết
của Ban trọng tài lao động14.
Do đó, khi kiểm tra điều kiện khởi kiện liên quan đến thủ tục tiền
tố tụng của khách hàng, Luật sư cần lưu ý:

13
Khoản 1 Điều 188 Bộ luật Lao động năm 2019 bổ sung 01 tranh chấp lao động cá nhân
không bắt buộc phải qua thủ tục hoà giải của Hòa giải viên lao động trước khi khởi kiện đến
Toà án, đó là tranh chấp giữa người lao động thuê lại với người sử dụng lao động thuê lại.
14
Điều 189, 193 Bộ luật Lao động năm 2019.

86
- Đối với tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động
tập thể về quyền mà hành vi làm phát sinh tranh chấp xảy ra trước
ngày 01/01/2021:
+ Tranh chấp lao động cá nhân: Luật sư cần xác định xem tranh
chấp của khách hàng có bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải của Hoà giải
viên lao động trước khi khởi kiện không? Nếu tranh chấp của khách hàng
là tranh chấp bắt buộc phải hoà giải thông qua thủ tục của Hòa giải viên
lao động, thì Luật sư cần kiểm tra xem khách hàng đã hoà giải chưa?
Nếu khách hàng chưa hoà giải thì Luật sư cần tư vấn để khách hàng làm
đơn yêu cầu Hoà giải viên lao động tiến hành hòa giải trước khi khởi
kiện đến Toà án. Chỉ khi Hoà giải viên lao động đã hòa giải thành nhưng
một trong hai bên không thực hiện các thoả thuận trong biên bản hoà giải
thành; Hòa giải viên đã hoà giải nhưng không thành hoặc các bên đã yêu
cầu Hoà giải viên lao động hoà giải nhưng tranh chấp không được hoà
giải trong thời hạn do pháp luật quy định (05 ngày làm việc) thì Luật sư
mới tư vấn để khách hàng khởi kiện đến Toà án.
+ Tranh chấp lao động tập thể về quyền: Luật sư cần kiểm tra xem
tranh chấp đó đã được Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết chưa? Nếu
tranh chấp chưa được Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết thì Luật sư
cần tư vấn để khách hàng làm đơn yêu cầu Chủ tịch UBND cấp huyện
giải quyết. Chỉ sau khi Chủ tịch UBND đã giải quyết nhưng các bên
không đồng ý hoặc quá thời hạn luật định (05 ngày làm việc) mà Chủ
tịch UBND cấp huyện không giải quyết thì Luật sư mới tư vấn để
khách hàng khởi kiện. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật, Chủ tịch
UBND cấp huyện chỉ giải quyết tranh chấp lao động tập thể về quyền
trong trường hợp vụ tranh chấp đã được Hoà giải viên lao động hoà giải
nhưng không thành; vụ tranh chấp đã được Hoà giải viên lao động hoà
giải thành nhưng một trong hai bên không thực hiện các thoả thuận
trong biên bản hoà giải thành hoặc hết thời hạn 05 ngày làm việc mà
Hoà giải viên lao động không tiến hành hoà giải tranh chấp. Chính vì
vậy, khi kiểm tra điều kiện khởi kiện cho khách hàng, nếu vụ tranh
chấp chưa qua thủ tục giải quyết của Chủ tịch UBND cấp huyện thì
Luật sư cần hỏi rõ xem vụ tranh chấp đã qua thủ tục hoà giải của Hoà
giải viên lao động chưa? Nếu vụ tranh chấp chưa qua thủ tục hoà giải
của Hoà giải viên lao động thì Luật sư cần hướng dẫn khách hàng hoà
giải trước khi yêu cầu Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết.

87
- Đối với các tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao
động tập thể về quyền mà hành vi làm phát sinh tranh chấp xảy ra từ
ngày 01/01/2021 trở đi: Ngoài việc trao đổi với khách hàng để kiểm
tra về thủ tục hoà giải tranh chấp của Hoà giải viên lao động, Luật sư
cần làm rõ các bên có thoả thuận yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động
giải quyết không? Nếu đã yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động giải
quyết thì lý do vì sao khách hàng lại muốn khởi kiện vụ tranh chấp
đến Toà án? Trường hợp Ban trọng tài lao động đã ban hành quyết
định giải quyết vụ tranh chấp lao động, bên có nghĩa vụ đã thực hiện
đúng nghĩa vụ của mình theo quyết định giải quyết của Ban trọng tài
lao động thì Luật sư cần tư vấn để khách hàng không nên khởi kiện vụ
tranh chấp lao động đến Toà án.
Ngoài việc kiểm tra các điều kiện khởi kiện trên, Luật sư cũng cần
lưu ý: theo quy định của BLTTDS năm 2015, Toà án chỉ áp dụng thời
hiệu khởi kiện để giải quyết vụ tranh chấp dân sự (theo nghĩa rộng) khi
có yêu cầu của một bên hoặc các bên. Khi xem xét quyết định thụ lý
một tranh chấp lao động, Toà án sẽ không kiểm tra điều kiện thời hiệu
khởi kiện. Tuy nhiên, Luật sư cũng cần căn cứ vào quy định tại khoản 2
Điều 202, Điều 207 Bộ luật Lao động năm 201215 để kiểm tra thời hiệu
khởi kiện. Nếu tranh chấp của khách hàng đã hết thời hiệu khởi kiện thì
Luật sư cần trao đổi để khách hàng biết vì đây là căn cứ để Toà án đình
chỉ giải quyết vụ án nếu có đương sự yêu cầu Toà án áp dụng thời hiệu
khởi kiện để giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết16.
2.3.3. Kỹ năng chuẩn bị hồ sơ khởi kiện cho khách hàng trong
các tranh chấp lao động
Sau khi trao đổi, tiếp xúc và kiểm tra điều kiện khởi kiện của
khách hàng, nếu khách hàng quyết định khởi kiện thì Luật sư cần giúp
khách hàng chuẩn bị hồ sơ khởi kiện.
Tài liệu cần thiết đầu tiên trong hồ sơ khởi kiện là đơn khởi kiện.
Cũng giống như đơn khởi kiện trong các vụ án dân sự, kinh doanh,
thương mại, về nguyên tắc, đơn khởi kiện trong các vụ án lao động cũng
phải có đầy đủ nội dung được quy định tại Điều 189 BLTTDS năm 2015.

15
Xem thêm khoản 3 Điều 190, Điều 194 Bộ luật Lao động năm 2019 (có hiệu lực thi hành
từ 01/01/2021).
16
Xem điểm e khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015.

88
Luật sư có thể làm đơn khởi kiện giúp khách hàng hoặc kiểm tra đơn
khởi kiện mà khách hàng đã viết và giúp họ sửa lại nếu thấy cần thiết.
Cùng với đơn khởi kiện, Luật sư cần giúp khách hàng chuẩn bị
các tài liệu cần thiết nộp kèm theo đơn để chứng minh yêu cầu khởi
kiện của khách hàng là có căn cứ và hợp pháp. Trong vụ án lao động,
tùy thuộc vào tranh chấp khách hàng khởi kiện yêu cầu Tòa án giải
quyết là tranh chấp gì mà Luật sư hướng dẫn khách hàng các tài liệu
cần thiết. Nhưng nhìn chung, trong vụ án lao động, tài liệu cần gửi
kèm theo đơn khởi kiện thông thường bao gồm:
- Tài liệu chứng minh tư cách người khởi kiện: chứng minh nhân
dân, sổ hộ khẩu, điều lệ…
- Tài liệu chứng minh giữa hai bên tồn tại quan hệ lao động: hợp
đồng lao động; phụ lục hợp đồng lao động; bảng lương cá nhân hoặc
giấy tờ chuyển khoản lương…
- Tài liệu chứng minh sự kiện tranh chấp giữa các bên: Quyết
định kỷ luật sa thải; quyết định chấm dứt hợp đồng lao động; hợp
đồng đào tạo…
Ngoài ra, tùy thuộc tranh chấp của khách hàng là tranh chấp lao
động cá nhân hay tranh chấp lao động tập thể về quyền, có bắt buộc
phải qua thủ tục tiền tố tụng hay không mà Luật sư cần hướng dẫn
khách hàng nộp kèm theo các giấy tờ/tài liệu chứng minh tranh chấp
đã được giải quyết qua thủ tục tiền tố tụng.
2.4. Kỹ năng đặc thù trong tiếp xúc, trao đổi với khách hàng và
chuẩn bị hồ sơ khởi kiện tranh chấp hôn nhân và gia đình
2.4.1. Kỹ năng tiếp xúc, trao đổi với khách hàng trong tranh
chấp hôn nhân và gia đình
* Trao đổi với khách hàng về nội dung tranh chấp
Xuất phát từ bản chất quan hệ tranh chấp trong lĩnh vực
HN&GĐ, dù khách hàng là nguyên đơn, bị đơn, hay người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan thì khi tiếp xúc, trao đổi với khách hàng, Luật
sư cần phải làm rõ đồng thời hoặc một trong các nội dung sau tùy từng
quan hệ tranh chấp:

89
Thứ nhất, trao đổi xác định tính hợp pháp của quan hệ hôn nhân.
Quan hệ hôn nhân có vai trò quan trọng trong việc xác định chế
độ tài sản giữa vợ và chồng (tài sản chung hợp nhất hay tài sản chung
theo phần) và là cơ sở để Tòa án ra phán quyết khi các bên tranh chấp
về quan hệ hôn nhân (ly hôn, hủy kết hôn trái pháp luật hay không
công nhận quan hệ vợ chồng) hoặc để xác định quan hệ pháp luật
tranh chấp (cùng có yêu cầu ly hôn, chia tài sản vợ chồng, nuôi con thì
tùy vào tính hợp pháp của quan hệ hôn nhân để xác định đây là tranh
chấp thuộc khoản 1 Điều 28 (ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài
sản khi ly hôn; chia tài sản sau khi ly hôn) hay thuộc khoản 7 Điều 28
(tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với
nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn
trái pháp luật)). Nếu vợ chồng có quan hệ hôn nhân hợp pháp thì quan
hệ tranh chấp của các bên trong trường hợp này được xác định theo
khoản 1 Điều 28 BLTTDS năm 2015. Nếu giữa vợ và chồng không
tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp thì quan hệ pháp luật tranh chấp
được xác định theo khoản 7 Điều 28 BLTTDS năm 2015.
Để xác định được quan hệ hôn nhân hợp pháp, Luật sư phải xác
định được: (i) thời điểm nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng
và tại thời điểm khởi kiện có chung sống với nhau như vợ chồng hay
không (hoặc thời điểm vợ chồng đăng ký kết hôn); (ii) các điều kiện
xác định hôn nhân hợp pháp như điều kiện kết hôn, các trường hợp
cấm kết hôn, thủ tục đăng ký kết hôn được quy định trong các văn bản
pháp luật HN&GĐ có hiệu lực tại thời điểm nam nữ chung sống với
nhau như vợ chồng hoặc thời điểm đăng ký kết hôn, các trường hợp
công nhận quan hệ hôn nhân hợp pháp dù vi phạm một trong các điều
kiện kết hôn; quan hệ hôn nhân trong trường hợp vợ (chồng) được
tuyên bố chết trở về, các trường hợp chuyển hóa quan hệ hôn nhân từ
hôn nhân không hợp pháp (do vi phạm điều kiện kết hôn) sang quan
hệ hôn nhân hợp pháp; (iii) xác định được các tài liệu, chứng cứ ban
đầu chứng minh cho nội dung (i) và (ii) như Giấy chứng nhận đăng ký
kết hôn, xác nhận của họ hàng, cơ quan, đoàn thể về thời điểm chung
sống với nhau như vợ chồng,...
Thứ hai, các vấn đề liên quan đến tài sản của vợ và chồng.
Các vấn đề liên quan đến tài sản của vợ chồng như số lượng tài
sản, giá trị tài sản, vị trí địa lý tài sản, quyền sở hữu tài sản, hiện tài sản

90
đang được ai quản lý, sử dụng, nguồn gốc, công sức đóng góp của vợ
chồng đối với khối tài sản. Trong các nội dung kể trên thì nội dung
quyền sở hữu tài sản thuộc về ai là vấn đề có tính quyết định để xác
định được tài sản chung, tài sản riêng của vợ và chồng. Đây cũng là căn
cứ để Tòa án lựa chọn phương thức chia tài sản theo nguyên tắc chia tài
sản chung hợp nhất hay chia tài sản theo nguyên tắc chia tài sản chung
theo phần khi đương sự có yêu cầu (nguyên đơn khởi kiện, bị đơn có
yêu cầu phản tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập) hoặc để xác định trách nhiệm cũng như nghĩa vụ của vợ/chồng đối
với người thứ ba. Để xác định được tài sản chung và riêng của vợ và
chồng, Luật sư phải làm rõ các vấn đề sau: (i) Tính hợp pháp của quan
hệ hôn nhân; (ii) Thời điểm phát sinh tài sản; (iii) Nguồn gốc phát sinh
tài sản của vợ/chồng như được tặng cho riêng, thừa kế riêng,… hay tài
sản do vợ chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh
doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp
khác trong thời kỳ hôn nhân,…; (iv) Thỏa thuận của vợ chồng về tài
sản (thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, thỏa thuận về chia tài
sản vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thỏa thuận về nhập tài sản riêng
vào tài sản chung). Trên cơ sở làm rõ được những vấn đề cụ thể nêu
trên, Luật sư đối chiếu các quy định của pháp luật HN&GĐ tại thời
điểm phát sinh quan hệ hôn nhân, thời điểm yêu cầu khởi kiện để xác
định tài sản chung và tài sản riêng của vợ và chồng.
Thứ ba, các vấn đề liên quan đến quan hệ giữa cha, mẹ, con.
Xác định chính xác quan hệ cha, mẹ, con là cơ sở để Luật sư trao
đổi và tư vấn cho khách hàng về quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng và
con trong thời kỳ hôn nhân và sau khi ly hôn. Khi xác định các vấn đề
liên quan đến quan hệ giữa cha, mẹ, con thì tùy từng trường hợp, Luật
sư có thể phải làm rõ các vấn đề sau đây:
(1) Xác định con chung của vợ và chồng: Cơ sở để Luật sư xác
định được con chung của vợ chồng có thể thông qua các căn cứ sau:
(i) thời điểm thành thai hoặc thời điểm sinh con của người mẹ; (ii) sự
thừa nhận của vợ và chồng về con chung. Con được thành thai hoặc
được sinh ra trong các thời điểm sau thì được xác định là con chung
của vợ và chồng: sinh ra trong thời kỳ hôn nhân; do người vợ có thai
trong thời kỳ hôn nhân; sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời
điểm chấm dứt hôn nhân hoặc con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn

91
và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ, chồng17. Các tài liệu,
giấy tờ mà Luật sư cần phải xem xét trong trường hợp xác định con
chung của vợ chồng có thể là: Giấy khai sinh, sổ hộ khẩu,…
(2) Xác định con nuôi của vợ chồng: Cha nuôi, mẹ nuôi, con nuôi
có quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con theo quy định của Luật
HN&GĐ năm 201418 và quy định của Luật Nuôi con nuôi. Để xác định
quan hệ nuôi con nuôi hợp pháp giữa vợ chồng và con nuôi, Luật sư
phải căn cứ vào quy định của pháp luật về nuôi con nuôi có hiệu lực tại
thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi và thời điểm phát sinh tranh
chấp. Theo quy định của Luật Nuôi con nuôi năm 2010, để quan hệ
nuôi con nuôi hợp pháp thì phải đáp ứng các quy định của pháp luật về
người nhận nuôi con nuôi (Điều 14), người được nhận làm con nuôi
(Điều 8) và phải tiến hành thủ tục đăng ký nhận nuôi con nuôi tại cơ
quan có thẩm quyền19. Trường hợp nuôi con nuôi thực tế không tiến
hành thủ tục đăng ký nhận nuôi con nuôi tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền (trước thời điểm ngày 31/12/2015) thì Luật sư có thể xác định
qua quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục giữa các bên trong quan
hệ nuôi con nuôi, các sự kiện trong gia đình và dư luận xã hội... để
chứng minh tồn tại quan hệ nuôi con nuôi trên thực tế giữa các bên.
Thứ tư, các vấn đề liên quan đến nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các
thành viên trong gia đình.
Khi khách hàng có tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ cấp dưỡng
trong quan hệ hôn nhân và gia đình, Luật sư phải trao đổi làm sáng tỏ:
(i) Quan hệ giữa người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng; (ii) Độ
tuổi, năng lực hành vi dân sự của người được cấp dưỡng, điều kiện,
chi phí sinh hoạt, học tập, nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người được
cấp dưỡng, điều kiện kinh tế, thu nhập của người cấp dưỡng, yêu cầu
mức cấp dưỡng, phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.
Thứ năm, các giao dịch dân sự giữa vợ chồng với bên thứ ba.
Xác định giao dịch dân sự giữa vợ và chồng với bên thứ ba chính
là căn cứ để xác định quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với người

17
Khoản 1 Điều 88 Luật HN&GĐ năm 2014.
18
Xem khoản 1 Điều 78 Luật HN&GĐ năm 2014.
19
Xem Điều 17, 18, 19, 20, 21, 22 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 và Nghị định số
19/2011/NĐ-CP ngày 21/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Nuôi con nuôi.

92
thứ ba trong các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của vợ và
chồng. Các giao dịch này được thể hiện dưới dạng như hợp đồng vay
tài sản giữa vợ chồng và cá nhân, pháp nhân, hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, sở hữu nhà và các tài sản khác của vợ và
chồng (ô tô, xe máy,…). Để làm rõ được nội dung này, Luật sư cần
xác định: thời điểm phát sinh giao dịch, giao dịch có phát sinh hiệu
lực pháp lý không (hình thức giao dịch, các bên trong giao dịch, ý chí
vợ chồng khi tham gia giao dịch, nguồn gốc, đối tượng giao dịch,…),
nội dung giao dịch quy định như thế nào về quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng? Ngoài ra, Luật sư phải xác định được ý kiến của bên thứ ba
yêu cầu vợ, chồng thực hiện nghĩa vụ như thế nào?,…
Thứ sáu, yêu cầu của khách hàng và quan hệ pháp luật tranh chấp.
Đối với tranh chấp về HN&GĐ, yêu cầu của khách hàng thường
chỉ liên quan đến các quan hệ sau: (i) Quan hệ nhân thân giữa các thành
viên trong gia đình như yêu cầu ly hôn, yêu cầu xác nhận cha, mẹ cho
con, con cho cha, mẹ,…; (ii) Quan hệ tài sản giữa các thành viên trong
gia đình như yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân,…; (iii) Quyền và
nghĩa vụ giữa vợ và chồng đối với người thứ ba khi ly hôn. Khách hàng
trong tranh chấp HN&GĐ có thể là nguyên đơn (vợ/chồng) có yêu cầu
khởi kiện, bị đơn (chồng/vợ) có ý kiến phản bác và yêu cầu phản tố
hoặc có thể là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (bên thứ ba là cá
nhân, pháp nhân trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng hoặc trong các
giao dịch dân sự mà vợ/chồng hoặc cả vợ chồng cùng xác lập). Tùy
thuộc vào từng vai trò tố tụng của khách hàng và tùy từng nội dung vụ
việc cụ thể mà Luật sư có kỹ năng riêng trong việc xác định yêu cầu
của khách hàng và xác định quan hệ pháp luật tranh chấp.
- Trường hợp khách hàng là nguyên đơn: Khác với các vụ án về
thừa kế, hợp đồng, lao động, kinh doanh, thương mại, để ra bản án
giải quyết vụ án HN&GĐ, Tòa án thường phải giải quyết nhiều quan
hệ nhân thân và tài sản liên quan mật thiết với nhau trên cơ sở đối
chiếu các căn cứ pháp lý và chứng cứ do đương sự cung cấp. Đặc
điểm này xuất phát từ sự liên kết chặt chẽ quan hệ nhân thân và quan
hệ tài sản khó tách rời giữa các thành viên trong gia đình trên cơ sở
hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng. Căn cứ để Tòa án ra bản án
không chấp nhận yêu cầu hay chấp nhận yêu cầu của đương sự khi
giải quyết vụ án HN&GĐ trước hết phải xuất phát từ yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn chứ Tòa án không ra các phán quyết về những

93
vấn đề mà các đương sự không yêu cầu (trong đó có nguyên đơn).
Thực tế xét xử đã chứng minh cùng là yêu cầu khởi kiện liên quan đến
quan hệ hôn nhân, có trường hợp nguyên đơn yêu cầu được ly hôn với
vợ (chồng) nhưng cũng có trường hợp chỉ yêu cầu Tòa án hủy kết hôn
trái pháp luật hoặc không công nhận quan hệ vợ chồng. Hay như cùng
tranh chấp tài sản giữa vợ và chồng, nguyên đơn có thể đưa ra yêu cầu
chia tài sản khi ly hôn, chia tài sản vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân,
chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng khi hủy
kết hôn trái pháp luật… Hoặc tranh chấp về quan hệ giữa cha mẹ và
con, nguyên đơn có thể đưa ra yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc
con cho cha, mẹ hoặc có thể yêu cầu về người trực tiếp nuôi con, về
thay đổi người trực tiếp nuôi con,… Tranh chấp về quan hệ cấp
dưỡng, nguyên đơn có thể yêu cầu bị đơn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho
con hoặc có thể yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng khi thấy mức cấp
dưỡng hiện tại không phù hợp… Vì thế, xác định yêu cầu khởi kiện cụ
thể của khách hàng không chỉ giúp Luật sư có căn cứ để tìm luật nội
dung áp dụng, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định
đúng quyền và nghĩa vụ của các bên mà còn giúp Luật sư có định
hướng cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của
khách hàng là có căn cứ và hợp pháp.
Ví dụ: Cùng là ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi
ly hôn theo khoản 1 Điều 28 BLTTDS năm 2015, nguyên đơn có
thể đồng thời yêu cầu Tòa án giải quyết cả ba vấn đề là tình cảm,
chia tài sản và nuôi con, cấp dưỡng. Tuy nhiên có những trường
hợp, nguyên đơn chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết về tình cảm (được ly
hôn với vợ, chồng) mà không yêu cầu Tòa án giải quyết hai vấn đề
còn lại hoặc cũng có trường hợp nguyên đơn yêu cầu giải quyết vấn
đề tình cảm và chia tài sản, còn nuôi con hai bên đã tự thỏa thuận
và thống nhất,….
Dựa trên cơ sở yêu cầu cụ thể của khách hàng, Luật sư xác định
trường hợp nào chỉ giải quyết về tình cảm, trường hợp nào giải quyết về
tình cảm và các vấn đề còn lại (chia tài sản hoặc nuôi con, cấp dưỡng),
trường hợp nào giải quyết cả ba quan hệ. Nếu khách hàng chỉ yêu cầu
giải quyết về tình cảm thì khi tiếp xúc, trao đổi với khách hàng, Luật sư
chỉ cần làm rõ các nội dung để xác định tính hợp pháp của quan hệ hôn
nhân (nếu hôn nhân hợp pháp thì khách hàng mới có cơ sở đưa ra yêu
cầu khởi kiện là được ly hôn với vợ/chồng), người vợ có thai hoặc đang

94
nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi không (trường hợp người chồng yêu
cầu ly hôn), căn cứ ly hôn, lỗi của các bên,… và thu thập chứng cứ để
chứng minh như giấy chứng nhận kết hôn giữa vợ và chồng, sổ hộ
khẩu, biên bản hòa giải tổ dân phố,… Trường hợp khách hàng tranh
chấp cả việc nuôi con/chia tài sản khi ly hôn hoặc cả hai nội dung này
thì Luật sư cần làm rõ các vấn đề như: con chung, con nuôi của vợ
chồng, độ tuổi của các con, năng lực hành vi dân sự của các con, xác
định khối tài sản chung và riêng của vợ và chồng, công sức đóng góp
duy trì, tôn tạo, phát triển khối tài sản chung, các khoản nợ chung, nợ
riêng, vay chung, vay riêng của vợ và chồng, mục đích vay, sử dụng
tiền vay như thế nào, làm rõ việc xác lập giao dịch dân sự với người thứ
ba giữa vợ và chồng,…
- Trường hợp khách hàng là bị đơn: Bị đơn có thể nhờ Luật sư
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp ngay từ thời điểm nguyên đơn chưa
nộp đơn khởi kiện/ Tòa án chưa thụ lý và gửi thông báo thụ lý cho bị
đơn. Dù được bị đơn nhờ vào thời điểm nào, để xác định được ý kiến
thống nhất và phản bác với yêu cầu của nguyên đơn/yêu cầu phản tố
của bị đơn thì Luật sư cũng phải trao đổi với bị đơn để làm rõ được
các nội dung sau:
Một là, yêu cầu cụ thể của nguyên đơn: trường hợp Tòa án đã
gửi thông báo thụ lý vụ án thì căn cứ vào văn bản tố tụng này của Tòa
án để xác định. Trường hợp nguyên đơn chưa khởi kiện hoặc bị đơn
chưa nhận được thông báo thụ lý vụ án của Tòa án thì có thể xác định
qua lời trình bày của bị đơn.
Hai là, trao đổi và xác định ý kiến của khách hàng về yêu cầu
của nguyên đơn: (i) Luật sư phải làm rõ khách hàng thống nhất với
nguyên đơn những nội dung và yêu cầu gì do nguyên đơn đề cập trong
đơn khởi kiện; (ii) Đồng thời Luật sư cần phải xác định những nội
dung và yêu cầu nào của nguyên đơn mà khách hàng không thống
nhất. Đối với những yêu cầu không thống nhất thì Luật sư phải xác
định được căn cứ pháp lý của ý kiến phản bác đó và xác định khách
hàng có tài liệu, chứng cứ chứng minh cho ý kiến phản bác đó không?
Ba là, xác định có yêu cầu phản tố của bị đơn hay không, căn
cứ pháp lý và tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu phản tố đó như
thế nào?

95
- Trường hợp khách hàng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án HN&GĐ
tham gia tố tụng có thể do Tòa án xác định theo đơn khởi kiện của
nguyên đơn, lời khai của các đương sự, do Tòa án triệu tập hoặc có
thể do chính người này có đơn yêu cầu độc lập gửi Tòa án. Người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án HN&GĐ có thể là bên thứ
ba xác lập giao dịch dân sự với vợ và chồng khi vợ/chồng có yêu cầu
khởi kiện ly hôn và chia tài sản khi ly hôn; hoặc là chủ thể tranh chấp
về quyền sở hữu đối với tài sản của vợ chồng khi vợ/chồng (cả vợ
chồng) có yêu cầu chia,… Để làm rõ yêu cầu độc lập của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Luật sư phải xác định được:
Một là, yêu cầu cụ thể của khách hàng: Yêu cầu vợ/chồng thực
hiện nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận trong hợp đồng vay hay công
nhận quyền sở hữu đối với tài sản được vợ/chồng xác định là tài sản
chung của vợ, chồng,…
Hai là, quan hệ pháp luật mà khách hàng tranh chấp với nguyên
đơn/bị đơn (cả nguyên đơn và bị đơn) đó là tranh chấp về hợp đồng
vay tài sản (thông thường là hợp đồng vay tiền với cá nhân hoặc tổ
chức tín dụng,…) hay tranh chấp về quyền sở hữu (xác định bên thứ
ba hay vợ, chồng có quyền sở hữu hợp pháp với tài sản được vợ/chồng
xác định là tài sản chung của vợ, chồng,…).
Ba là, các bên có thống nhất lại quyền và nghĩa vụ của các bên
trong giao dịch không?
Ví dụ: Trước khi vợ, chồng ly hôn theo yêu cầu của một bên vợ
hoặc chồng có xác lập hợp đồng tín dụng với Ngân hàng B. Với tư cách là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia phiên tòa giải quyết yêu
cầu ly hôn, chia tài sản khi ly hôn thì Ngân hàng B và vợ chồng có thỏa
thuận với nhau vợ hoặc chồng sẽ chịu trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng
B khi đến hạn thanh toán theo hợp đồng và người chồng hoặc vợ còn lại
sẽ thực hiện nghĩa vụ cho người chồng hoặc người vợ đó hay không?,...
* Kiểm tra điều kiện khởi kiện của khách hàng
Khi tư vấn cho khách hàng khởi kiện một tranh chấp HN&GĐ ở
Toà án, ngoài kỹ năng kiểm tra điều kiện khởi kiện chung, Luật sư cần
lưu ý tới những điều kiện khởi kiện đặc thù đối với tranh chấp
HN&GĐ như sau:

96
- Về quyền khởi kiện: Nguyên đơn trong tranh chấp HN&GĐ
thường là cá nhân (là các thành viên trong quan hệ HN&GĐ) có
quyền và lợi ích bị xâm phạm trong quan hệ tranh chấp được liệt kê tại
Điều 28 BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, trong vấn đề ly hôn, để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho một bên vợ hoặc chồng do bị bệnh
tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được
hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do
chồng hoặc vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính
mạng, sức khỏe, tinh thần của họ thì Luật HN&GĐ cho phép cha, mẹ,
người thân thích khác của những người này có quyền yêu cầu Tòa án
giải quyết ly hôn20. Trong trường hợp này, cha, mẹ, người thân thích
khác là người đại diện của nguyên đơn21.
Theo quy định của BLTTDS, người khởi kiện có quyền tự mình
hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại Tòa án có
thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình22.
Đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người khác
thay mặt mình tham gia tố tụng23. Tuy nhiên, đối với các tranh chấp về
cấp dưỡng, tranh chấp về việc giao con, tranh chấp về chia tài sản
chung khi ly hôn, chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân… thì
không bị giới hạn bởi quy định này24.
- Về điều kiện chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của
pháp luật25, là trường hợp pháp luật có quy định về các điều kiện khởi
kiện nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một
trong các điều kiện đó. Trong tranh chấp về HN&GĐ, Luật sư cần lưu
ý điều kiện khởi kiện như sau:
Nếu nguyên đơn là người chồng xin ly hôn với vợ thì người
chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có
thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi26. Điều kiện này
20
Xem khoản 2 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014.
21
Xem Điều 85 BLTTDS năm 2015.
22
Xem Điều 186 BLTTDS năm 2015.
23
Xem Điều 85 BLTTDS năm 2015
24
Xem Học viện Tư pháp, Giáo trình Kỹ năng chuyên sâu của Luật sư trong việc giải quyết
các vụ việc dân sự, Nxb. Tư pháp, 2014, tr. 432.
25
Xem điểm b khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015.
26
Xem khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014.

97
không áp dụng với trường hợp người vợ đang có thai hoặc nuôi con
dưới 12 tháng tuổi yêu cầu ly hôn.
- Điều kiện yêu cầu khởi kiện chưa được giải quyết bằng một
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật27. Về nguyên tắc, nếu yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu
độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu được giải
quyết bằng một bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì khi khởi kiện lại theo thủ
tục tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền sẽ không thụ lý và trả lại hồ
sơ khởi kiện. Tuy nhiên, đối với tranh chấp về nuôi con, thay đổi mức
cấp dưỡng của vợ/chồng không trực tiếp nuôi con,… thì đương sự có
quyền khởi kiện lại28.
- Về điều kiện thẩm quyền của Tòa án: Xác định thẩm quyền của
Tòa án khi giải quyết các tranh chấp về HN&GĐ tương tự nguyên tắc
xác định thẩm quyền của Tòa án khi giải quyết các tranh chấp về dân
sự theo nghĩa rộng. Bên cạnh những nguyên tắc chung, Luật sư cũng
lưu ý những đặc thù trong xác định thẩm quyền của Tòa án đối với các
tranh chấp về HN&GĐ:
+ Những tranh chấp về HN&GĐ thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án là những tranh chấp được liệt kê tại Điều 28 BLTTDS
năm 2015.
+ Nguyên tắc chung trong xác định thẩm quyền của Tòa án theo
lãnh thổ đối với các tranh chấp về HN&GĐ là Tòa án nơi bị đơn cư
trú. Vì thế, Luật sư lưu ý trong vụ án ly hôn, ngay cả khi bị đơn thống
nhất với yêu cầu ly hôn, nuôi con của nguyên đơn, các bên chỉ tranh
chấp về tài sản khi ly hôn là bất động sản (nhà và đất) thì Tòa án có
thẩm quyền giải quyết vẫn là Tòa án nơi bị đơn cư trú chứ không phải
Tòa án nơi có đối tượng tranh chấp là bất động sản theo điểm c khoản 1
Điều 39 BLTTDS năm 2015. Quy định này xuất phát từ quan hệ tranh
chấp chính trong vụ án ly hôn là quan hệ nhân thân (yêu cầu chấm dứt
quan hệ vợ chồng giữa các bên) chứ không phải tranh chấp chính là
quan hệ về tài sản. Quan hệ về tài sản được giải quyết trên cơ sở quan
hệ vợ và chồng đã được xác định.
27
Xem điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015.
28
Xem điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015.

98
+ Tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và
con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân
Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng
giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam: Đây là quan hệ
tranh chấp có yếu tố nước ngoài, tuy nhiên theo khoản 3 Điều 123
Luật HN&GĐ năm 2014, khoản 4 Điều 35 BLTTDS năm 2015 thì
những tranh chấp này vẫn thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện.
Quy định đặc thù này tạo điều kiện cho người dân ở các vùng miền
núi xa xôi thực hiện quyền khởi kiện tại Tòa án một cách nhanh chóng
và thuận lợi.
- Về vấn đề thời hiệu khởi kiện không áp dụng đối với tất cả
các quan hệ tranh chấp về HN&GĐ. Quan hệ HN&GĐ được pháp
luật điều chỉnh luôn hướng tới mục tiêu xây dựng chế độ HN&GĐ
Việt Nam hạnh phúc, bền vững, lâu dài. Mặt khác, quan hệ nhân
thân trong sự điều chỉnh của pháp luật HN&GĐ là nhóm quan hệ
chủ đạo nên cần có một cơ chế pháp lý riêng để bảo vệ cho các
quan hệ đó. Thời hiệu khởi kiện chỉ áp dụng cho một số trường
hợp tranh chấp có liên quan đến quyền tài sản, còn những tranh
chấp liên quan đến quyền nhân thân thì thời hiệu khởi kiện không
bị hạn chế29.
- Về điều kiện tiền tố tụng: Điều kiện hòa giải ở cơ sở không
phải là điều kiện bắt buộc cần phải có để Tòa án có thẩm quyền thụ lý
các tranh chấp về HN&GĐ ngay cả trong trường hợp một bên vợ
(chồng) có yêu cầu ly hôn. Nhà nước và xã hội khuyến khích việc hòa
giải ở cơ sở khi vợ, chồng có yêu cầu ly hôn30. Tuy nhiên thủ tục hòa
giải này là một trong các tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn cần phải
có để chứng minh cho Tòa án yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là có
căn cứ. Thủ tục hòa giải trong vụ án một bên vợ (chồng) yêu cầu ly
hôn không nhất thiết phải được tiến hành tại UBND cấp xã. Theo pháp
luật về hòa giải ở cơ sở, việc ly hôn có thể hòa giải trong nội bộ gia
đình, cộng đồng dân cư từ thôn, ấp, bản, làng đến UBND xã, thị trấn
(nếu ở nông thôn); hòa giải từ tổ dân phố, khu phố, đến UBND
phường (nếu ở đô thị). Ngoài ra, việc hòa giải ở cơ sở cũng có thể
được tiến hành tại cơ quan làm việc của cả vợ, chồng.
29
PGS.TS. Nguyễn Thị Hoài Phương, Thủ tục khởi kiện và giải quyết tranh chấp tại Tòa
án, trọng tài - Cơ chế hiện hữu bảo vệ quyền dân sự, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2011, tr. 115.
30
Xem Điều 52 Luật HN&GĐ năm 2014.

99
2.4.2. Kỹ năng chuẩn bị hồ sơ khởi kiện trong các vụ án
hôn nhân và gia đình
Sau khi tiếp xúc, trao đổi với khách hàng và kiểm tra điều kiện
khởi kiện của khách hàng, nếu khách hàng quyết định khởi kiện thì
Luật sư cần giúp khách hàng chuẩn bị hồ sơ khởi kiện. Hồ sơ khởi
kiện vụ án HN&GĐ gồm: đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ gửi
kèm đơn khởi kiện để chứng minh cho yêu cầu của đương sự là có căn
cứ và hợp pháp. Ngoài những điểm chung về kỹ năng soạn thảo đơn
khởi kiện, kỹ năng chuẩn bị giấy tờ, tài liệu chứng minh cho tư cách
chủ thể người khởi kiện thì sự khác nhau của hồ sơ khởi kiện đối với
các lĩnh vực lao động, kinh doanh, thương mại, dân sự theo nghĩa hẹp
so với hồ sơ khởi kiện tranh chấp về HN&GĐ chính là ở các giấy tờ,
tài liệu chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của đương sự là có căn cứ.
Giấy tờ, tài liệu này được Luật sư xác định và chuẩn bị dựa trên yêu
cầu cụ thể của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan liên quan đến quan hệ pháp luật HN&GĐ mà các bên có tranh
chấp. Đơn cử việc chuẩn bị hồ sơ khởi kiện trong một số tranh chấp
HN&GĐ phổ biến sau:
- Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn:
+ Trường hợp khách hàng là nguyên đơn: Các giấy tờ, tài liệu có
thể cung cấp là Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, giấy tờ, tài liệu
chứng minh căn cứ cho ly hôn như biên bản hòa giải cơ sở, biên bản
ghi lời khai của người làm chứng (họ hàng, đoàn thể, đồng nghiệp,
hàng xóm) về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi
phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân
lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích của hôn nhân không đạt được31; Giấy tờ chứng minh cho quyền
sở hữu tài sản của vợ và chồng; công sức đóng góp, duy trì, tôn tạo,
phát triển tài sản chung của vợ và chồng; Giấy khai sinh của con;
Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi (nếu có), ý kiến của con
trên 7 tuổi về nguyện vọng ở với bố/mẹ?,...
+ Trường hợp khách hàng là bị đơn: Những vấn đề gì thống nhất
với nguyên đơn, khách hàng không cần cung cấp chứng cứ chứng minh.
Những nội dung không thống nhất thì khách hàng phải cung cấp chứng
cứ để phản bác lại yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Chẳng hạn, phản
31
Khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014.

100
bác lại ý kiến về việc xác định nhà và đất đang ở là tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân thì bị đơn phải cung cấp giấy tờ chứng
minh nhà và đất là tài sản riêng của bị đơn (được tặng cho riêng, được
thừa kế riêng hoặc được hình thành trước thời kỳ hôn nhân) hoặc là tài
sản của người thứ ba (bố mẹ của bị đơn cho vợ, chồng ở nhờ,...) thông
qua các hợp đồng như tặng cho tài sản, các giấy tờ, tài liệu về phân chia
di sản thừa kế... mà bị đơn được hưởng riêng hoặc giấy tờ, tài liệu
chứng minh thời điểm hình thành tài sản trước hôn nhân,...
+ Trường hợp khách hàng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan: cung cấp các giấy tờ, tài liệu chứng minh vợ chồng có quyền
lợi/nghĩa vụ đối với khách hàng thông qua các giao dịch dân sự mà
khách hàng đã giao kết với nguyên đơn/bị đơn hoặc giấy tờ, tài liệu
chứng minh quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản mà vợ/chồng (là
nguyên đơn/bị đơn) trong vụ án hoặc cả hai vợ chồng cho rằng đó là
tài sản chung của vợ chồng,...
- Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân:
+ Khách hàng là nguyên đơn sẽ cung cấp các giấy tờ, tài liệu
như: Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, hoặc các giấy tờ khác chứng
minh quan hệ hôn nhân hợp pháp, các giấy tờ chứng minh cho khối tài
sản chung (giấy tờ chứng minh quyền sở hữu chung của vợ và chồng
đối với tài sản chung như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu
nhà, Giấy đăng ký xe ô tô, xe máy,... biên bản thỏa thuận tài sản
chung đã chia, chưa chia,...).
+ Khách hàng là bị đơn, tùy từng nội dung phản bác (phản bác
về khối tài sản chung để chia, cách chia, phần được chia...) để đưa ra
chứng cứ phù hợp. Chẳng hạn, bị đơn thống nhất được khối tài sản
chung được chia nhưng phản bác ý kiến về phần được chia vì cho rằng
công sức đóng góp của bị đơn đối với tài sản chung được chia nhiều
hơn nguyên đơn thì phải cung cấp giấy tờ, tài liệu như: các biên lai thu
tiền, nộp tiền để có được tài sản chung đó, giấy tờ chứng minh bị đơn
có thu nhập nhiều hơn nguyên đơn nên tích lũy để hình thành tài sản
chung lớn hơn (bảng lương, thu nhập thêm ngoài lương,...).
- Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho
cha, mẹ:

101
+ Khách hàng là nguyên đơn cung cấp các giấy tờ, tài liệu chứng
minh con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân; do người vợ có thai trong
thời kỳ hôn nhân; sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm
chấm dứt hôn nhân hoặc con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và
được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ, chồng (giấy chứng tử,
giấy chứng nhận kết hôn), hoặc các tài liệu, chứng cứ gián tiếp chứng
minh trong thời gian thụ thai đứa trẻ, người đàn ông bị kiện và mẹ đứa
trẻ đã yêu thương nhau, hứa hẹn kết hôn nhưng sau đó không kết hôn
nữa; trong thời gian thụ thai đứa trẻ, người đàn ông bị kiện và mẹ đứa
trẻ đã chung sống như vợ chồng, khi đứa trẻ sinh ra, người đàn ông bị
kiện đã yêu thương đứa trẻ như con của mình; Các giấy tờ hay thư từ
do người đàn ông bị kiện viết xác nhận đứa trẻ là con của họ…; kết
luận giám định ADN giữa con và cha/mẹ.
+ Khách hàng là bị đơn thì cung cấp các chứng cứ ngược lại với
những chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp như thời điểm thành thai
trước thời kỳ hôn nhân, con sinh ra trước thời kỳ hôn nhân,… chứng cứ
chứng minh kết luận giám định ADN giữa bị đơn và con là giả mạo,…
- Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo: Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc
sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống
nghiệm. Theo khoản 22, khoản 23 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014,
mang thai hộ có hai hình thức: Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo32 và
mang thai hộ vì mục đích thương mại33. Theo quy định tại khoản 6
Điều 28 BLTTDS năm 2015, chỉ có tranh chấp phát sinh từ việc mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo mới thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án. Trên thực tế, có nhiều tình huống tranh chấp có thể xảy ra khi thực
hiện mang thai hộ bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh
trong ống nghiệm như: người mang thai hộ không giao con cho bố mẹ
hoặc bố mẹ không nhận con khi con được sinh ra hay ban đầu là mang
thai hộ vì mục đích giúp đỡ nhưng sau phát sinh tranh chấp đòi tiền

32
Đây là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai
cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ
tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để
người này mang thai và sinh con.
33
Đây là việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác.

102
công hoặc lợi ích vật chất từ người nhờ mang thai hộ; tranh chấp thừa
kế giữa đứa trẻ được sinh ra và người mang thai hộ,...
+ Khách hàng là nguyên đơn: dựa vào từng yêu cầu cụ thể
trong quan hệ tranh chấp để cung cấp các giấy tờ, tài liệu như sinh
con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm,
mang thai hộ giữa bệnh viện có thẩm quyền và nguyên đơn, các hóa
đơn viện phí, giường bệnh, giám định ADN của con được sinh ra nếu
có,... hoặc thỏa thuận về việc mang thai hộ giữa vợ/chồng và người
mang thai hộ, giám định ADN của trẻ được sinh ra theo phương pháp
mang thai hộ,...
+ Khách hàng là bị đơn: dựa vào từng ý kiến phản bác và yêu
cầu phản tố để đưa ra giấy tờ, tài liệu phù hợp.
Tương tự, đối với các tranh chấp khác về HN&GĐ được quy
định tại Điều 28 BLTTDS năm 2015, trên cơ sở xác định tư cách
đương sự của khách hàng mà Luật sư bảo vệ, yêu cầu cụ thể của
khách hàng, quan hệ pháp luật tranh chấp mà Luật sư sẽ cung cấp giấy
tờ, tài liệu ban đầu đủ để chứng minh yêu cầu của khách hàng là có
căn cứ và hợp pháp để Tòa án thụ lý đơn khởi kiện, đơn yêu cầu phản
tố và đơn yêu cầu độc lập của khách hàng.
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Phân tích các điều kiện khởi kiện và thụ lý vụ án của Tòa án?
2. Những lưu ý cơ bản của Luật sư khi tiếp xúc, trao đổi với
khách hàng trong các tranh chấp dân sự?
3. Những lưu ý cơ bản của Luật sư khi tiếp xúc, trao đổi với
khách hàng trong các tranh chấp kinh doanh, thương mại?
4. Những lưu ý cơ bản của Luật sư khi tiếp xúc, trao đổi với
khách hàng trong các tranh chấp lao động?
5. Những lưu ý cơ bản của Luật sư khi tiếp xúc, trao đổi với
khách hàng trong các tranh chấp HN&GĐ?
Tình huống 1:
Ngày 20/01/2014, vợ chồng ông Hồ Thế Ngọc và bà Nguyễn Thị
Loan cho anh Nguyễn Quang Tân vay số tiền là 100.000 USD (một

103
trăm ngàn đô la Mỹ). Đây là số tiền do con gái ông bà ở nước ngoài
gửi về. Hai bên thoả thuận lãi suất 1,7%/tháng, thời hạn thanh toán khi
nào ông Ngọc, bà Loan có yêu cầu. Sau đó, kể từ ngày 21/6/2014, ông
Ngọc, bà Loan đã nhiều lần yêu cầu anh Tân trả nợ, nhưng anh Tân
vẫn khất lần và đưa ra nhiều lý do. Ngày 28/6/2015, anh Tân trả được
10.000 USD (mười ngàn đô la Mỹ). Ngày 16/10/2015, anh Tân trả
được 10.000 USD (mười ngàn đô la Mỹ). Ngày 08/11/2015, anh Tân
trả được 20.000 USD (hai mươi ngàn đô la Mỹ). Như vậy, tính đến
ngày 08/11/2015, anh Tân còn nợ của vợ chồng ông Ngọc, bà Loan số
tiền là 60.000 USD. Gia đình ông Ngọc đã nhiều lần yêu cầu anh Tân
thanh toán nốt số tiền nợ này. Lúc đầu anh Tân còn khất nợ, nhưng
sau đó anh Tân lẩn tránh. Tháng 12/2015, gia đình ông Ngọc đến gặp
Luật sư để nhờ tư vấn, yêu cầu khởi kiện tới Toà án buộc anh Tân
phải trả số tiền nợ, bao gồm tiền gốc và tiền lãi tính từ ngày 21/6/2014
cho vợ chồng ông.
Anh (chị) cần trao đổi vấn đề gì với ông Ngọc, bà Loan trước khi
khởi kiện?
Tình huống 2:
Ngày 15/6/2009, công ty Orange Co.ltd có trụ sở đặt tại số 05,
thành phố Seongnam, tỉnh Kyungky, Hàn Quốc giao kết hợp đồng
dịch vụ với công ty cổ phần phát triển Mỹ Hạnh, địa chỉ trụ sở chính
tại phường X, quận K, thành phố Đ. Theo hợp đồng dịch vụ được
giao kết giữa hai công ty, công ty Mỹ Hạnh chỉ định công ty Orange
cung cấp dịch vụ thiết kế cho dự án “Câu lạc bộ sân golf Nhật Minh”
của công ty Mỹ Hạnh tại xã P, thị xã K, tỉnh H. Tổng giá trị hợp
đồng là 400.000.000 KRW (đơn vị tiền tệ của Hàn Quốc), được
thanh toán làm 03 lần: Lần 1 là 30% giá trị hợp đồng trong thời
hạn 07 ngày kể từ ngày hợp đồng dịch vụ được ký kết; Lần 2 là 30%
giá trị hợp đồng theo tiến độ công việc hoàn thành; Lần 3 thanh toán
nốt 40% giá trị hợp đồng khi nhận được CD và toàn bộ bản vẽ thiết
kế chi tiết dự án. Sau khi hợp đồng dịch vụ được ký kết, công ty
Orange đã triển khai ngay các công việc theo hợp đồng dịch vụ và
công ty Mỹ Hạnh đã thực hiện theo đúng thỏa thuận của hợp đồng về
thanh toán tiền lần 1 và lần 2. Theo đại diện hợp pháp của công ty
Orange, ngày 20/9/2010, công ty Orange đã hoàn tất và bàn giao cho
công ty Mỹ Hạnh toàn bộ bản vẽ thiết kế chi tiết của dự án theo đúng

104
khối lượng và tiến độ cam kết tại hợp đồng. Theo thỏa thuận, công ty
Mỹ Hạnh phải có nghĩa vụ kiểm tra, thông báo kết quả sản phẩm do
công ty Orange thực hiện trong vòng 10 ngày, kể từ ngày nhận được
sản phẩm từ công ty Orange, nhưng công ty Orange không nhận
được bất kỳ phản hồi nào từ phía công ty Mỹ Hạnh. Vì vậy, ngày
10/11/2016, đại diện công ty Orange đến văn phòng luật sư, nhờ tư
vấn khởi kiện công ty Mỹ Hạnh tới Tòa án có thẩm quyền và tham
gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công ty Orange. Công ty Orange yêu cầu công ty Mỹ Hạnh thanh
toán số tiền còn thiếu là 160.000.000 KRW quy đổi theo tỷ giá Việt
Nam đồng tại thời điểm khởi kiện. Ngoài ra, công ty Orange còn yêu
cầu công ty Mỹ Hạnh phải trả cho công ty Orange tiền lãi chậm thực
hiện nghĩa vụ tính từ ngày 01/10/2010 đến thời điểm bản án của Tòa
án có hiệu lực pháp luật.
Anh (chị) cần trao đổi với công ty Orange vấn đề gì trước khi
khởi kiện?

105
Chương 2
KỸ NĂNG THU THẬP, CUNG CẤP,
GIAO NỘP CHỨNG CỨ

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này sẽ trang bị cho 1. Tư vấn cho khách hàng về
người học: nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao
nộp chứng cứ và hậu quả pháp lý
- Về kiến thức, chương này sẽ
của việc vi phạm nghĩa vụ
trang bị cho người học về thủ
tục thu thập, cung cấp, giao nộp 2. Kỹ năng của Luật sư trong hoạt
chứng cứ trong tố tụng dân sự động thu thập chứng cứ
Việt Nam. 3. Kỹ năng của Luật sư trong hoạt
- Về kỹ năng, người học vận động cung cấp, giao nộp chứng cứ
dụng kiến thức thực hiện được 4. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
hoạt động tư vấn cho khách
hàng và/hoặc trực tiếp tiến
hành thu thập, cung cấp và giao
nộp chứng cứ khi tham gia
tranh tụng giải quyết các vụ án
dân sự.
- Về thái độ, người học có ý
thức sâu sắc về tầm quan trọng
của hoạt động thu thập chứng
cứ, hậu quả của việc vi phạm
nghĩa vụ thu thập chứng cứ.
Người học có thái độ, ứng xử
chuẩn mực phù hợp với quy tắc
nghề nghiệp của Luật sư khi
tham gia hoạt động thu thập,
cung cấp, giao nộp chứng cứ.

106
1. Tư vấn cho khách hàng về nghĩa vụ thu thập, cung cấp,
giao nộp chứng cứ và hậu quả pháp lý của việc vi phạm nghĩa vụ
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự được hiểu là tổng
thể các hoạt động của Tòa án và các chủ thể tham gia tố tụng trong
việc thu thập, cung cấp, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ nhằm mục
đích sử dụng chứng cứ để xác định sự thật khách quan của vụ, việc
dân sự. Trong tố tụng dân sự, chứng minh cũng là một dạng hoạt động
tố tụng, cụ thể là hoạt động sử dụng chứng cứ với mục đích tái hiện lại
trước Tòa án vụ việc dân sự đã xảy ra trong quá khứ một cách chính
xác và tỉ mỉ nhất có thể có, qua đó Tòa án có thể khẳng định có hay
không có các sự kiện, tình tiết khách quan làm cơ sở cho yêu cầu hay
phản đối của các bên đương sự trong vụ việc dân sự. Tuy nhiên, hoạt
động sử dụng chứng cứ trong tố tụng dân sự không thể được tiến hành
một cách tùy tiện theo ý chí chủ quan của Tòa án hay của các chủ thể
tham gia tố tụng mà phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự về sử dụng chứng cứ thông qua các hoạt động tố
tụng cụ thể, bao gồm hoạt động thu thập, cung cấp, giao nộp, nghiên
cứu và đánh giá chứng cứ. Tất cả các hoạt động này là các yếu tố hợp
thành chứng minh hay nội dung của hoạt động chứng minh trong tố
tụng dân sự.
BLTTDS năm 2015 đã xác định quyền và nghĩa vụ của đương sự
là: “Đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp
chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn
cứ và hợp pháp” (Điều 6). Quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp là quyền tố tụng của cá nhân, cơ quan, tổ chức được
Hiến pháp thừa nhận và cụ thể hóa trong BLTTDS. Tòa án không
được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do “chưa có điều luật để
áp dụng”, đồng nghĩa với việc các cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền
yêu cầu Toà án giải quyết tất cả mọi vấn đề không phụ thuộc vấn đề
đó đã được pháp luật điều chỉnh hay chưa.
Khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự, Luật sư phải nắm
chắc kiến thức cốt lõi về quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự,
hậu quả của việc vi phạm nghĩa vụ này để tư vấn cho khách hàng.
Quyền chứng minh là khả năng của các chủ thể chứng minh (trong đó
vai trò trung tâm là đương sự) bằng hành vi tố tụng của mình tham gia

107
vào hoạt động chứng minh. Việc thực hiện quyền chứng minh do các
chủ thể chứng minh quyết định. Ngược lại, nghĩa vụ chứng minh bao
gồm những hành vi tố tụng nhất định trong hoạt động chứng minh mà
các chủ thể chứng minh bắt buộc phải tiến hành hoặc không được tiến
hành theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp nghĩa vụ chứng
minh bị vi phạm, chủ thể vi phạm phải gánh chịu những hậu quả pháp
lý bất lợi. Chủ thể chứng minh có quyền, nghĩa vụ chứng minh, tham
gia vào hoạt động chứng minh, tuy nhiên không phải tất cả các chủ thể
chứng minh đều có quyền, nghĩa vụ chứng minh như nhau. Tùy thuộc
vào vai trò, địa vị tố tụng của các chủ thể này và ở từng giai đoạn tố
tụng cụ thể, các chủ thể chứng minh có quyền, nghĩa vụ tham gia vào
quá trình chứng minh các sự kiện, tình tiết của vụ việc ở những phạm
vi và mức độ khác nhau. Ví dụ, quyền, nghĩa vụ chứng minh của
đương sự khác với trách nhiệm chứng minh của Tòa án; quyền, nghĩa
vụ chứng minh của người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự khác với trách nhiệm chứng minh
của Viện kiểm sát...
Xuất phát từ việc xác định chứng minh là “làm cho thấy rõ là
có thật, là đúng bằng lý lẽ cứ liệu”34, khi tư vấn cho khách hàng,
trước tiên Luật sư phải lưu ý về quyền và nghĩa vụ chủ động thu
thập chứng cứ của đương sự. Đương sự là người chủ động đưa ra
yêu cầu, phản đối yêu cầu của đương sự phía bên kia, chủ động đề
nghị Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nên trước
tiên đương sự là chủ thể có nghĩa vụ chứng minh. Để chứng minh
cho yêu cầu của mình là đúng, đương sự có nghĩa vụ thu thập, cung
cấp, giao nộp các chứng cứ, căn cứ pháp lý thuyết phục Tòa án. Thu
thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ chỉ là một trong các biện pháp
chứng minh của đương sự.
Hoạt động xét xử các vụ án dân sự là hoạt động phát sinh trên cơ
sở có sự tranh chấp trong quan hệ pháp luật nội dung giữa các bên có
lợi ích đối lập nhau nhưng bình đẳng về địa vị pháp lý mà trong đó có
một quy tắc chung cho cả hai bên đương sự: “Người nào đề ra một

34
Nguyễn Như Ý (Chủ biên), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đại học quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh, 2007, tr. 316.

108
luận điểm cần có chứng cứ thì phải chứng minh”35. Theo quy tắc này,
mỗi bên đương sự có nghĩa vụ phải chứng minh những sự kiện, tình
tiết mà mình đã viện dẫn làm cơ sở cho những yêu cầu và phản đối
của mình, hay nói cách khác ai khẳng định một sự việc gì thì phải
chứng minh sự việc ấy. Quy định này xuất phát từ cơ sở khi yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền lợi cho mình với tư cách là người trực tiếp tham
gia vào các quan hệ pháp luật nội dung có vi phạm hay tranh chấp,
đương sự là người hiểu rõ nhất vì sao họ có yêu cầu đó, họ biết được
những tình tiết, sự kiện trong vụ việc, do đó có khả năng cung cấp
chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình. Về tâm lý, khi đưa ra
yêu cầu của mình bao giờ đương sự cũng là người đứng ở thế chủ
động, tự nguyện đưa ra những lý lẽ để chứng minh, bênh vực cho
quyền lợi của mình. Sự thật là cơ sở của yêu cầu và phản đối của các
bên nên các bên sẽ quan tâm và tìm mọi cách để khẳng định sự thật
này. Khi đưa ra yêu cầu, nguyên đơn phải chứng minh cho yêu cầu
của mình đối với bị đơn, tức là phải có nghĩa vụ thu thập, cung cấp
chứng cứ, tham gia nghiên cứu chứng cứ, tham gia hỏi, tranh luận... để
chứng minh, bởi vì bị đơn được suy đoán là không có bất cứ trách
nhiệm gì với nguyên đơn cho đến khi trách nhiệm của bị đơn được
chứng minh.
Bên cạnh đó, trong tiến trình phát triển của hoạt động chứng
minh, quyền và nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể chứng minh
không bất biến mà trong điều kiện nhất định, nó có thể di chuyển từ
một bên đương sự này sang một bên đương sự khác. Khi đưa ra yêu
cầu, nguyên đơn phải có nghĩa vụ chứng minh. Tuy nhiên, nghĩa vụ
chứng minh (cũng là nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ,
tham gia nghiên cứu chứng cứ, tranh tụng...) sẽ được di chuyển từ
nguyên đơn sang bị đơn khi bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố đối với
nguyên đơn, hoặc khi bị đơn muốn viện dẫn những sự kiện, tình tiết
nhằm bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn.
Như vậy, quy tắc chung về quyền, nghĩa vụ chứng minh của
đương sự được Luật sư tư vấn dựa trên ba luận điểm cơ bản sau đây:

35
Học viện Tư pháp, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam (Chương II. Các nguyên tắc cơ
bản của Luật tố tụng dân sự - TS. Nguyễn Ngọc Khánh), Nxb. Công an nhân dân, 2007, tr. 79.

109
Thứ nhất, nghĩa vụ chứng minh sẽ thuộc về bên đương sự nào
muốn viện dẫn những sự kiện, tình tiết để làm cơ sở cho những yêu
cầu hoặc phản đối của mình đối với đương sự phía đối lập. Kể từ
khi làm đơn khởi kiện, việc chứng minh yêu cầu đối với nguyên
đơn là nghĩa vụ, Tòa án được quyền từ chối thụ lý vụ án nếu đương
sự không xuất trình được chứng cứ cần thiết để chứng minh các
điều kiện khởi kiện của mình. Nếu nguyên đơn đưa ra yêu cầu mà
không chứng minh được yêu cầu của mình là có căn cứ, có trong
thực tế hoặc đưa ra những chứng cứ không có giá trị chứng minh,
trong khi đó bị đơn lại đưa ra được chứng cứ có tính thuyết phục để
phản đối yêu cầu của nguyên đơn thì yêu cầu của nguyên đơn sẽ bị
Tòa án bác bỏ.
Về phía bị đơn, họ là người bị kiện nên họ có quyền chứng minh
để bảo vệ quyền lợi của mình trước Tòa án. Tuy nhiên, việc chứng
minh sẽ trở thành nghĩa vụ đối với bị đơn nếu:
- Bị đơn có yêu cầu phản tố đối với yêu cầu của nguyên đơn
hoặc bị đơn đưa ra yêu cầu liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn.
Trường hợp bị đơn đưa ra yêu cầu có liên quan đến yêu cầu của
nguyên đơn thì bị đơn phải cung cấp chứng cứ để chỉ ra yêu cầu đó có
cơ sở thực tế, cơ sở pháp lý hay không, có đúng đắn không? Khi đó
nguyên đơn cũng có quyền phản đối lại yêu cầu đó của bị đơn đồng
thời phải chứng minh cho việc phản đối yêu cầu của mình.
- Bị đơn không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn (có thể bị đơn
chỉ chấp nhận một phần yêu cầu và phản đối phần còn lại của yêu cầu
đó hoặc không chấp nhận hoàn toàn) hoặc thậm chí chỉ trong trường
hợp bị đơn đang nắm giữ chứng cứ liên quan đến nguyên đơn.
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập, họ có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ.
Chẳng hạn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập
tham gia vào vụ kiện giữa nguyên đơn và bị đơn, họ cho rằng đối
tượng đang tranh chấp là thuộc sở hữu của họ chứ không phải thuộc
sở hữu của nguyên đơn hay bị đơn. Trong trường hợp này, nghĩa vụ
chứng minh của họ cũng giống như nghĩa vụ của nguyên đơn khi
chứng minh cho yêu cầu của mình.
110
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập
dù đứng về phía nguyên đơn hay bị đơn, họ đều có nghĩa vụ cung cấp
chứng cứ chứng minh cùng nguyên đơn hay bị đơn vì lợi ích của họ
liên quan đến vụ kiện. Việc cung cấp chứng cứ của họ để chứng minh
làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện của vụ kiện nhằm bảo vệ quyền lợi
cho đương sự mà họ đứng về phía đương sự đó, hoặc có thể làm căn
cứ cho yêu cầu của họ đối với một trong các bên đương sự; hoặc
chứng cứ do họ cung cấp làm căn cứ để họ phản đối về việc kiện đòi
hoàn lại mà một bên đương sự đặt ra cho họ.
Thứ hai, theo sự tiến triển của hoạt động chứng minh, trong
những điều kiện nhất định nghĩa vụ chứng minh có thể di chuyển từ
một bên đương sự này sang một bên đương sự khác và ngược lại.
Thứ ba, phạm vi quyền, nghĩa vụ chứng minh của các bên đương
sự phụ thuộc vào phạm vi yêu cầu hoặc phạm vi ý kiến phản đối của
họ. Phạm vi yêu cầu hoặc phạm vi ý kiến phản đối đưa ra đến đâu thì
phạm vi nghĩa vụ chứng minh đến đó. Nằm ngoài phạm vi nghĩa vụ
chứng minh (hay kết thúc phạm vi nghĩa vụ chứng minh) là quyền
chứng minh của đương sự.
Trên thực tế, ranh giới giữa quyền và nghĩa vụ chứng minh của
đương sự rất mong manh, bản thân ranh giới này cũng rất co dãn,
không thể bó hẹp trước, trong một quy tắc hay một quy định chắc
chắn. Thậm chí, ngay cả khi nguyên đơn có nghĩa vụ chứng minh cho
yêu cầu của mình, thì nguyên đơn cũng có quyền rút lại chứng cứ đó,
hoặc quyết định không cung cấp chứng cứ đó để chứng minh nữa.
Trong trường hợp này quyền và nghĩa vụ chứng minh (bao gồm cả
quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ) là đan xen. Nếu nguyên đơn
không muốn sử dụng quyền chứng minh, không thực hiện nghĩa vụ
chứng minh, mà cụ thể là không cung cấp chứng cứ, không xuất trình
chứng cứ thì cũng đồng nghĩa với việc nguyên đơn khước từ quyền
đưa ra yêu cầu, từ bỏ yêu cầu của mình và Tòa án sẽ ra phán quyết bất
lợi cho nguyên đơn.
Luật sư cần lưu ý cho khách hàng, việc thực hiện nghĩa vụ chứng
minh của đương sự trước tiên thông qua hoạt động thu thập, cung cấp,
giao nộp chứng cứ cho Tòa án. Nguyên tắc chung, đương sự có yêu
cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; cơ quan, tổ
chức, cá nhân khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà

111
nước hoặc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
khác phải thu thập, cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ
để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Ngoài các
đương sự, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi
ích công cộng, lợi ích của Nhà nước cũng có nghĩa vụ chứng minh.
Tuy không có quyền và lợi ích gắn liền với vụ việc dân sự như đương
sự, nhưng các cá nhân, cơ quan, tổ chức này cũng đưa ra yêu cầu và
biết rõ sự việc. Tương tự như đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức
khởi kiện yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà
nước hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của người khác cũng có nghĩa
vụ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Trong trường hợp các cá nhân, cơ quan, tổ chức này không thực hiện
được nghĩa vụ chứng minh của mình sẽ dẫn đến sự bất lợi cho các
đương sự.
Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ chứng minh của đương sự không
chỉ thể hiện qua hoạt động thu thập, cung cấp, giao nộp chứng cứ mà
tùy thuộc ở vị trí tố tụng, tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng đương
sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tranh tụng khác như nghiên cứu,
đánh giá, sử dụng chứng cứ trong hoạt động chứng minh.
Nghĩa vụ chứng minh của đương sự cần được hiểu là đương sự
phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, đưa ra các căn cứ pháp lý, lý lẽ,
lập luận để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp. Điều đó có nghĩa, khi đương sự không thể tự thu thập được
chứng cứ và có đơn yêu cầu hoặc các trường hợp Tòa án buộc phải
chủ động thu thập chứng cứ mới có thể giải quyết được vụ án thì Tòa
án mới xác minh, thu thập chứng cứ. Mức độ hỗ trợ của Tòa án đối
với hoạt động chứng minh của các đương sự phụ thuộc rất nhiều vào
trình độ hiểu biết pháp luật của đương sự, mức độ tham gia tố tụng
của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cơ chế tố
tụng và các điều kiện kinh tế - xã hội khác. Sự hỗ trợ của Toà án đối
với việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của đương sự nhằm bảo đảm
tìm ra chân lý, có thể làm giảm được những hậu quả bất lợi cho đương
sự trong trường hợp họ không thực hiện được nghĩa vụ chứng minh
của mình chứ không phải Tòa án làm thay đương sự.

112
Ví dụ:
Ông Nguyễn Văn A ký hợp đồng mua bán căn hộ với Công ty cổ
phần B (có trụ sở chính tại quận T, thành phố Hà Nội). Công ty B đã
nhận đặt cọc 80% giá trị căn hộ, nhưng đến thời hạn vẫn chưa bàn
giao nhà cho ông A. Vì vậy, ngày 23/8/2016, ông A đã khởi kiện
Công ty B ra TAND quận T, Hà Nội. Khi tiếp nhận hồ sơ, cán bộ
Tòa án yêu cầu ông A cung cấp bản sao có công chứng Giấy chứng
nhận đăng ký thành lập doanh nghiệp của Công ty B thì mới thụ lý
hồ sơ để xác định Công ty B thực sự có trụ sở tại quận T, thành phố
Hà Nội hay không. Ông A không thể cung cấp được tài liệu này nên
đã làm đơn gửi đến Phòng Đăng ký kinh doanh, Sở Kế hoạch - Đầu
tư Hà Nội xin được cung cấp thông tin về doanh nghiệp, nhưng
không nhận được công văn phúc đáp của cơ quan trên. Vì vậy, ông
A lại làm đơn đề nghị TAND quận T tiến hành thu thập tài liệu,
chứng cứ trên, nhưng yêu cầu này của ông A không được chấp nhận,
vì Tòa án cho rằng đây là nghĩa vụ của người khởi kiện, đương sự
chỉ được quyền đề nghị Toà án thu thập chứng cứ khi vụ án đã được
Tòa án thụ lý giải quyết. Tòa án không áp dụng các biện pháp thu
thập chứng cứ trong giai đoạn tiền tố tụng.

Cơ sở để TAND thực hiện trách nhiệm hỗ trợ đương sự thu thập


chứng cứ trước tiên phải xuất phát từ đề nghị của đương sự. TAND có
quyền xem xét lý do đương sự đưa ra để toàn quyền quyết định có hỗ
trợ đương sự thu thập chứng cứ hay không trong tố tụng dân sự. Trong
trường hợp này, mặc dù Điều 7 BLTTDS năm 2015 về “trách nhiệm
cung cấp tài liệu, chứng cứ của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền” không giới hạn trong tố tụng. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng
quy định này Tòa án thường chỉ xác định trách nhiệm thu thập chứng
cứ của mình khi đã thụ lý vụ việc dân sự. Để có đủ cơ sở chứng minh
cho yêu cầu của khách hàng khi khởi kiện, Luật sư cần hướng dẫn cho
khách hàng thu thập các chứng cứ chứng minh đã đề nghị cơ quan có
thẩm quyền cung cấp chứng cứ mà không được cung cấp, đồng thời
thời thu thập các chứng cứ gián tiếp khác (nếu có) để chứng minh như
tìm kiếm thông tin doanh nghiệp được đăng tải trên cổng thông tin
quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và đề nghị Thừa phát lại lập vi
bằng xác định thông tin này.

113
Bên cạnh nghĩa vụ chứng minh được quy định chung, Luật sư
cần xác định yêu cầu khởi kiện của khách hàng mình có nằm trong
một số các vụ án đặc thù được BLTTDS năm 2015 ghi nhận loại trừ
cho đương sự khỏi nghĩa vụ chứng minh. Đây là những quy định
nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, bảo vệ các nhà sản xuất,
kinh doanh chân chính, bảo vệ người lao động, cụ thể là:
- Người tiêu dùng khởi kiện không có nghĩa vụ chứng minh lỗi
của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Tổ chức, cá nhân
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ bị kiện có nghĩa vụ chứng minh mình
không có lỗi gây ra thiệt hại theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng.
- Đương sự là người lao động trong vụ án lao động mà không
cung cấp, giao nộp được cho Tòa án tài liệu, chứng cứ vì lý do tài liệu,
chứng cứ đó đang do người sử dụng lao động quản lý, lưu giữ thì
người sử dụng lao động có trách nhiệm cung cấp, giao nộp tài liệu,
chứng cứ đó cho Tòa án.
- Người lao động khởi kiện vụ án đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động thuộc trường hợp người sử dụng lao động không được
thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc trường
hợp không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động theo
quy định của pháp luật về lao động thì nghĩa vụ chứng minh thuộc về
người sử dụng lao động.
- Các trường hợp pháp luật có quy định khác về nghĩa vụ
chứng minh.
Trong quá trình chứng minh, các chủ thể tham gia vào hoạt động
chứng minh với những vị trí tố tụng khác nhau. Hành vi tố tụng của
mỗi chủ thể được quy định bởi vị trí tố tụng của họ, vì vậy chủ thể
chứng minh thực hiện những hành vi tố tụng của mình trong phạm vi
quyền và nghĩa vụ mà pháp luật tố tụng dân sự cho phép. Ví dụ, cùng
là thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự nhưng khác với đương
sự, người đại diện theo ủy quyền của đương sự chỉ được thực hiện
quyền và nghĩa vụ của đương sự trong phạm vi ủy quyền.
Luật sư cần lưu ý với khách hàng về hậu quả của việc đương sự
có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được
chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ án

114
dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được. Trong trường hợp
đương sự không đưa ra được hoặc đưa ra không đầy đủ chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu, phản đối yêu cầu của phía đối tụng, Toà án
vẫn tiến hành giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục chung. Trong
trường hợp này, Tòa án ra quyết định trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ
đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc dân sự được kiểm tra, xem
xét tại phiên toà, kết quả việc hỏi tại phiên toà và ý kiến của người
tham gia tố tụng, Kiểm sát viên. Với quy định này thì có thể hiểu
rằng hậu quả của việc các đương sự không cung cấp hoặc cung cấp
không đầy đủ chứng cứ cho Tòa án là phải chấp nhận phán quyết của
Tòa án có thể bất lợi cho mình. Việc giải thích, tư vấn cho đương sự
thực hiện đúng và đầy đủ nghĩa vụ chứng minh là cơ sở để đương sự
đảm bảo thực hiện quyền tranh tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
2. Kỹ năng của Luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ
Thu thập chứng cứ là tìm ra các chứng cứ, tập hợp đưa vào hồ sơ
vụ việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng trong quá trình Tòa
án giải quyết vụ việc dân sự. Nói cách khác, hoạt động thu thập chứng
cứ của Luật sư chính là chuỗi các hoạt động của Luật sư nhằm phát
hiện, ghi nhận, thu giữ và bảo quản chứng cứ bằng các phương pháp,
biện pháp theo một trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng dân sự quy
định. Những công việc cần thiết Luật sư thực hiện trong hoạt động này
là: (1) Xác định được vai trò, vị trí của hoạt động thu thập chứng cứ
trong quá trình chứng minh giải quyết các tranh chấp dân sự - định
hướng nhận thức; (2) Kiểm tra, xác định đối tượng chứng minh và
trọng tâm vấn đề cần chứng minh - định hướng hoạt động; (3) Kiểm
tra, xác định chứng cứ; (4) Xác định các thời điểm thu thập chứng cứ:
thu thập chứng cứ trước khi khách hàng khởi kiện; thu thập chứng cứ
trong giai đoạn Tòa án chuẩn bị xét xử sơ thẩm, tại phiên tòa sơ thẩm
và thu thập chứng cứ ở cấp phúc thẩm; (5) Xác định và lựa chọn linh
hoạt các hình thức thu thập chứng cứ phù hợp.
2.1. Thu thập chứng cứ trong mối quan hệ với các hoạt động
khác của quá trình chứng minh
Hoạt động chứng minh là một quá trình nhận thức được diễn ra
trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự gồm nhiều hoạt
động khác nhau của các chủ thể chứng minh. Cụ thể, hoạt động này

115
bao gồm: thu thập, cung cấp, giao nộp, nghiên cứu và đánh giá chứng
cứ. Các hoạt động này được thực hiện dựa trên quy luật của hoạt động
nhận thức các quy định của pháp luật nội dung, pháp luật tố tụng, tập
quán, án lệ, lẽ công bằng, các tình tiết, sự kiện cần chứng minh và
bằng niềm tin nội tâm của các chủ thể chứng minh trong mỗi quan hệ
pháp luật dân sự cụ thể nhằm xác định sự thật khách quan của vụ, việc
dân sự. Dưới khía cạnh của quá trình tố tụng, các hoạt động này được
phân ra làm các giai đoạn: (i) giai đoạn thu thập, cung cấp, giao nộp
chứng cứ khi khởi kiện; (ii) giai đoạn thu thập, cung cấp, giao nộp
chứng cứ trong quá trình tố tụng; (iii) giai đoạn nghiên cứu chứng cứ,
đánh giá chứng cứ. Các giai đoạn của quá trình chứng minh tổng hợp
thành một thể thống nhất trong hoạt động chứng minh của Tòa án và
những người tham gia tố tụng khác. Xét trên phương diện logíc, các
hoạt động thu thập, cung cấp, giao nộp, nghiên cứu, đánh giá chứng
cứ có mối quan hệ biện chứng với nhau, hoạt động này là nền tảng của
hoạt động kia và ngược lại.
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự được bắt đầu từ thời
điểm đương sự khởi kiện ra Tòa và Tòa án tiến hành các hoạt động thụ
lý giải quyết vụ, việc dân sự. Hoạt động này khép lại bằng việc đánh
giá, sử dụng chứng cứ. Các phán quyết của Tòa án đối với yêu cầu của
đương sự là kết quả của hoạt động này.
Hoạt động thu thập, cung cấp, giao nộp, nghiên cứu và đánh giá
chứng cứ do các chủ thể chứng minh thực hiện phải tuân thủ đúng các
quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhằm làm sáng tỏ sự thật khách
quan của vụ, việc dân sự. Các giai đoạn của hoạt động chứng minh có
mối quan hệ khăng khít với nhau tạo thành một quá trình thống nhất.
Giai đoạn trước là điều kiện, tiền đề cho giai đoạn sau, giai đoạn sau
kiểm tra giai đoạn trước. Nếu không có hoạt động thu thập, cung cấp,
giao nộp chứng cứ khi khởi kiện thì không mở ra quá trình tố tụng và
không có hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ trong tố tụng.
Hoạt động đánh giá chứng cứ là cơ sở để xác định kết quả, chất lượng
của hoạt động thu thập, cung cấp, nghiên cứu chứng cứ. Việc phân
chia hoạt động chứng minh thành các giai đoạn cụ thể nhằm giúp định
hướng những nhiệm vụ mà các chủ thể chứng minh phải giải quyết,
hướng tới mục đích cuối cùng là xác định chân lý khách quan, tạo cơ
sở để giải quyết đúng đắn vụ, việc dân sự.

116
Hoạt động chứng minh thực chất là hoạt động sử dụng chứng cứ
thông qua các hoạt động thu thập, cung cấp, giao nộp, nghiên cứu và
đánh giá chứng cứ. Trong hoạt động thu thập, cung cấp, giao nộp
chứng cứ, đương sự sử dụng chứng cứ bằng cách áp dụng những quy
định của pháp luật về cung cấp chứng cứ. Trong hoạt động thu thập
chứng cứ, Tòa án và các chủ thể tham gia tố tụng sử dụng chứng cứ
bằng cách áp dụng những quy định của pháp luật về thu thập chứng
cứ. Cũng như vậy, trong hoạt động nghiên cứu và đánh giá chứng cứ,
các chủ thể chứng minh sử dụng chứng cứ bằng cách áp dụng quy
định của pháp luật về nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Luật sư cần
lưu ý rằng, chứng cứ trong hoạt động thu thập chỉ mang tính tương đối
vì hoạt động thu thập chứng cứ chỉ là suy đoán về sự tồn tại của chứng
cứ. Khi tiến hành các biện pháp đánh giá chứng cứ thì chứng cứ mà
chủ thể thu thập được có thể sẽ không thỏa mãn điều kiện của chứng
cứ trong tố tụng dân sự.
2.2. Xác định đối tượng chứng minh, nội dung, phạm vi thu
thập chứng cứ
Hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự luôn rất phong
phú, đa dạng về nội dung, đối tượng, hình thức và biện pháp thu thập.
Trong các vụ việc dân sự, nội dung của hoạt động chứng minh phải
xuất phát từ yêu cầu của đương sự, nên mỗi nội dung vụ việc khác
nhau sẽ đặt ra yêu cầu thu thập chứng cứ khác nhau. Ngay cả khi cùng
một loại vụ việc thì việc đưa ra nội dung thu thập chứng cứ cũng có
đặc thù riêng. Ví dụ, cùng là tranh chấp về hợp đồng, nhưng tranh
chấp về việc thực hiện hợp đồng thì chứng cứ cần tiến hành thu thập
sẽ khác so với yêu cầu bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
Nội dung của hoạt động thu thập chứng cứ trong vụ việc dân
sự phụ thuộc vào yêu cầu của đương sự và yêu cầu của chủ thể tiến
hành hoạt động thu thập chứng cứ và ở từng thời điểm tố tụng. Yêu
cầu ở đây phải hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ là yêu cầu của
nguyên đơn mà còn là yêu cầu của bị đơn, yêu cầu của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Vì vậy, đối tượng của hoạt động thu
thập chứng cứ rất đa dạng gồm: chứng cứ dùng để khẳng định và
chứng cứ dùng để phủ định, chứng cứ trực tiếp, chứng cứ gián tiếp,
chứng cứ chứng minh cho yêu cầu về nội dung, chứng cứ dùng để
giải quyết yêu cầu về tố tụng.

117
2.2.1. Xác định nội dung, phạm vi thu thập chứng cứ
Hoạt động thu thập chứng cứ trong vụ việc dân sự phải được tiến
hành trong khuôn khổ của pháp luật thì chứng cứ được thu thập mới
có giá trị chứng minh. Trong quá trình chứng minh, nếu không xác
định được nội dung cần chứng minh là định hướng để thu thập chứng
cứ hoặc xác định không chính xác nội dung thu thập thì sẽ dẫn đến hệ
quả là quá trình thu thập chứng cứ sẽ tràn lan, Luật sư sẽ thu thập cả
những thông tin, tài liệu không liên quan đến vụ việc hoặc không liên
quan đến những tình tiết, sự kiện cần phải chứng minh36. Hoặc ngược
lại, quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ bị thu hẹp, bỏ sót, không thu
thập hết những thông tin, tài liệu cần thiết có liên quan đến vụ việc,
dẫn đến việc không có đủ những tài liệu, chứng cứ để chứng minh
những thông tin, mâu thuẫn của sự việc. Việc không xác định được
chính xác nội dung, phạm vi thu thập chứng cứ sẽ làm cho hoạt động
thu thập chứng cứ của Luật sư lâm vào tình trạng không thể xác định,
không cụ thể, mơ hồ, xa rời mục đích chứng minh.
Hoạt động thu thập chứng cứ nhằm chuẩn bị cơ sở pháp lý, căn
cứ để đáp ứng những yêu cầu về đối tượng cần phải chứng minh. Do
đó, để xác định được nội dung cần tiến hành xác minh, thu thập phải
căn cứ vào đối tượng chứng minh. Xem xét quy định của pháp luật
hiện hành, các nội dung thu thập chứng cứ Luật sư cần đặt trọng tâm
vào những điều kiện sau:
* Xác định quan hệ pháp luật đang tranh chấp
Đây là yếu tố đầu tiên có ý nghĩa định hướng cho quá trình giải
quyết vụ việc dân sự cũng như việc xác định thủ tục tố tụng để giải
quyết. Về nguyên tắc, quan hệ xã hội xảy ra tại thời điểm nào thì áp
dụng pháp luật đang có hiệu lực ở thời điểm đó để giải quyết, trừ các
trường hợp pháp luật có quy định khác. Việc xác định quan hệ pháp
luật cần giải quyết dựa trên cơ sở yêu cầu của các đương sự và bản
chất của từng loại vụ việc dân sự đó được luật nội dung điều chỉnh.
Do đó, Luật sư xác định quan hệ pháp luật tranh chấp sẽ tìm ra được
đặc trưng của loại án, từ đó là cơ sở để xác định những vấn đề cần
chứng minh của vụ án.

36
Việc thu thập những tài liệu không có giá trị chứng minh gây ra sự lãng phí về thời gian,
công sức, sự phân tán, không tập trung vào những vấn đề trọng tâm cần chứng minh.

118
Chứng minh là hoạt động hướng tới một đối tượng cụ thể. Theo
Từ điển tiếng Việt “Đối tượng là người, vật, hiện tượng mà con người
nhằm vào trong suy nghĩ và hành động”37. Đối tượng chứng minh là
tổng hợp những sự kiện, tình tiết làm cơ sở cho yêu cầu của đương sự
và những sự kiện, tình tiết khác có ý nghĩa để giải quyết đúng vụ việc
dân sự cần được xác định bằng chứng cứ trong quá trình giải quyết
các vụ, việc dân sự.
Ví dụ:
Theo nội dung đơn khởi kiện của chị Hoàng Thị Lạnh: Chị và anh
Hoàng Văn Ba là anh em ruột. Năm 2009, chị đi lao động tại Hàn
Quốc, chị gửi hàng cho anh Ba giữ, sau đó anh Ba bán, tổng số tiền
bán được là 130.000 USD (khoảng 2.860.000.000 đồng).
Năm 2014, anh Ba báo cho chị biết địa phương tổ chức bán đất
đấu thầu, chị đã gửi thư cho anh Ba nhờ anh Ba mua hộ 01 suất đất
để sau này về có chỗ ở. Anh Ba đã mua 01 suất đất đấu thầu 100m2
thuộc tờ bản đồ số 04, thửa số 521 tại quận K, thành phố H với giá
750 triệu đồng. Việc anh Ba mua đất đấu thầu có mẹ chị, chị Lành là
chị ruột, ông Sáp là chú ruột, ông Thể là anh con bác ruột, ngoài ra
còn có anh Dũng, anh Chiến và dân làng cùng biết. Năm 2014, chị
để anh Ba đứng tên làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Năm 2015, anh Ba tự làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng
đất chị nhờ mua cho anh Vũ Quang, chị phát hiện nên có đơn đề
nghị cấp có thẩm quyền tạm dừng việc chuyển nhượng và làm đơn
khởi kiện anh Ba với các yêu cầu cụ thể: Trả lại quyền sử dụng đất
chị đã nhờ anh Ba mua hộ bằng tiền từ năm 2014 và số tiền còn
thiếu là 2.110.000 đồng.
Theo lời trình bày của anh Hoàng Văn Ba: Năm 2014, anh mua
đất đấu thầu với giá 750 triệu đồng là tiền của gia đình anh vay
mượn. Anh đã làm thủ tục và đứng tên trong giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất. Nay chị Lạnh khai nhờ anh mua hộ đất đấu thầu bằng
tiền của chị Lạnh là không đúng. Anh không chấp nhận yêu cầu của
chị Lạnh đòi anh trả lại đất và số tiền. Chị Lạnh yêu cầu anh trả lại
130.000 USD anh xác nhận anh còn giữ hộ chị Lạnh 70.000 USD vì

37
Nguyễn Như Ý (Chủ biên), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đại học quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh, 2007, tr. 548.

119
trong lá thư chị Lạnh gửi về ngày 05/10/2014, chị Lạnh nói cho cháu
Yến 60.000 USD, anh nhất trí trả lại cho chị Lạnh 70.000 USD.
Theo lời trình bày của chị Phạm Thị Xuyến: chị là vợ anh Ba, việc
chị Lạnh gửi cho anh Ba hàng, tiền nhờ giữ hộ như thế nào chị không
biết. Chị chỉ biết năm 2014 vợ chồng chị mua đất đấu thầu hoàn toàn
bằng tiền của gia đình chị và vay mượn thêm. Đất đứng tên anh Ba,
gia đình chị có quyền chuyển nhượng cho anh Quang, chị đề nghị Tòa
án không chấp nhận yêu cầu đòi lại đất của chị Lạnh.
Theo lời trình bày của anh Vũ Quang: Ngày 04/4/2015, vợ chồng
anh và vợ chồng anh Ba thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng
100m2 đất nêu trên theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số 00214 QSDĐ ngày 26/5/2014 đứng tên anh Hoàng Văn Ba. Việc
chuyển nhượng là tự nguyện, có chứng thực của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền và đang tiến hành thủ tục sang tên. Vợ chồng anh đã
thực hiện nghiêm túc các thỏa thuận trong hợp đồng. Anh đề nghị
Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
anh và vợ chồng anh Ba.

Căn cứ theo nội dung đơn khởi kiện của nguyên đơn, chị Hoàng
Thị Lạnh yêu cầu đòi quyền sử dụng 100m2 đất và yêu cầu buộc vợ
chồng anh Hoàng Văn Ba trả lại số tiền còn thiếu là 2.110.000 đồng,
đồng thời yêu cầu chấm dứt hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất được xác lập giữa vợ chồng anh Ba và anh Vũ Quang. Về quan hệ
pháp luật tranh chấp - định hướng cho việc thu thập chứng cứ để
chứng minh theo đặc trưng của loại án, Luật sư cần làm rõ những
quan hệ pháp luật sau:
Thứ nhất, về hợp đồng gửi giữ và tặng cho tài sản. Theo quy
định tại khoản 1 Điều 91 BLTTDS năm 2015 đương sự có yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì phải thu thập,
cung cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh
cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ để chứng minh nguyên đơn đã gửi cho bị đơn 130.000 USD
thuộc về phía nguyên đơn - chị Lạnh. Tuy nhiên, lời thừa nhận của
anh Ba xác định anh còn giữ hộ chị Lạnh 130.000 USD, sự thừa
nhận này phù hợp với nội dung lá thư chị Lạnh viết cho anh Ba
ngày 05/10/2014 có đoạn: “… Số tiền anh giữ cho em, em cho cháu

120
Yến 60.000 USD, bây giờ số tiền anh còn cầm của em là 70.000
USD”. Áp dụng khoản 2 Điều 92 BLTTDS năm 2015 có thể khẳng
định thừa nhận này là chứng cứ không cần phải chứng minh. Với
các tình tiết trên, mới chỉ đủ cơ sở để khẳng định có việc gửi giữ
70.000 USD và việc tặng cho tài sản. Căn cứ quy định của BLDS
năm 2005 về tặng cho động sản, hợp đồng tặng cho tài sản đã hoàn
tất khi tài sản được chuyển giao cho người nhận là con anh Ba -
cháu Yến. Trong quan hệ hợp đồng gửi giữ này, anh Ba có nghĩa vụ
trả cho chị Lạnh 70.000 USD quy đổi ra tiền Việt Nam đồng theo
giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.
Thứ hai, tranh chấp về quyền sử dụng đất hay tranh chấp về
thực hiện công việc không có ủy quyền. Về vấn đề này tồn tại hai quan
điểm xác định quan hệ pháp luật: (i) Tranh chấp quyền sử dụng đất,
bản chất xác định ai là người có quyền sử dụng đất mà vấn đề trọng
tâm cần phải chứng minh trong vụ án là căn cứ để xác lập quyền sử
dụng đất. (ii) Quan hệ thực hiện nghĩa vụ không có ủy quyền. Cụ thể
là, xác định sự thật anh Ba mua đấu giá quyền sử dụng đất theo giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số 00214 QSDĐ ngày 26/5/2014 hiện
đứng tên anh Ba là anh Ba mua hay là việc nhận ủy quyền đứng tên
hoặc là việc thực hiện công việc không có ủy quyền.
Khó khăn chính là sự phân biệt bản chất của hai quan hệ pháp
luật ủy quyền nhận chuyển nhượng hay là quan hệ thực hiện công
việc không có ủy quyền. Trong trường hợp này, Luật sư cần xác
định được đối tượng chứng minh của vụ án trên cơ sở luận giải về
bản chất của quan hệ pháp luật. Cơ sở lý luận để phân biệt hai quan
hệ pháp luật: trong quan hệ ủy quyền, căn cứ theo sự thỏa thuận của
các bên, bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân
danh bên ủy quyền. Người được ủy quyền thay mặt người ủy quyền
thực hiện một số hành vi pháp lý nhất định liên quan đến quyền lợi
của các bên trong quan hệ hợp đồng hoặc lợi ích của người đã ủy
quyền. Khi thực hiện công việc của người khác không có ủy quyền,
địa vị pháp lý của người thực hiện công việc không có ủy quyền
tương tự như người được ủy quyền và đều hướng tới mục đích thực
hiện nghĩa vụ vì lợi ích của chủ thể khác. Đây là yếu tố giáp ranh
của hai quan hệ pháp luật.

121
Ở những trường hợp này, Luật sư cần phân tích sâu sắc các quy
định của từng quan hệ pháp luật, xem xét các yếu tố cấu thành quan hệ
để xác định. Cụ thể là, theo quy định tại Điều 594, 595 BLDS năm 2005,
sự khác biệt của việc thực hiện công việc không có ủy quyền với việc
thực hiện công việc có ủy quyền ở những điểm cơ bản sau:
(i) Điều kiện áp dụng Điều 594 BLDS năm 2005 là giữa các bên
không có thỏa thuận ủy quyền (không phụ thuộc vào hình thức biểu
hiện sự thỏa thuận ủy quyền, có thể bằng văn bản, lời nói hoặc bằng
hành vi…). Người thực hiện công việc của người khác phải tự coi đó
là nghĩa vụ của mình. Họ thực hiện công việc của người khác tự giác
như thực hiện công việc cho chính mình. Công việc thực hiện trong
quan hệ pháp luật này không phải là nghĩa vụ pháp lý có tính chất bắt
buộc, trước thời điểm thực hiện công việc hai bên chủ thể hoàn toàn
không có một sự ràng buộc nào. Có thể nói, dấu hiệu thiện chí, tự
nguyện phải là dấu hiệu đầu tiên, tiên quyết để xác định chủ thể thực
hiện công việc không có ủy quyền vì lợi ích của người khác.
(ii) Điều kiện cần và đủ ngoài yếu tố thiện chí, tự nguyện trong
quan hệ thực hiện công việc không có ủy quyền phải là việc thực hiện
vì lợi ích của người có công việc. Quy định của pháp luật hiện hành
không rõ ràng đối với việc xác định thế nào là vì lợi ích của người có
công việc. Tuy nhiên, xét về bản chất vì không phải là nghĩa vụ bắt
buộc và pháp luật chỉ quy định nghĩa vụ của người thực hiện công
việc không có ủy quyền là thực hiện phù hợp với khả năng và điều
kiện của mình. Do vậy, trước khi tiến hành công việc, người thực hiện
công việc phải ý thức được nếu công việc đó không ai quan tâm thực
hiện thì có thể gây thiệt hại cho chủ sở hữu hoặc người có công việc.
Có nghĩa là, công việc phải đặt trong tình trạng cấp thiết mà nếu
không có việc thực hiện công việc không có ủy quyền thì sẽ gây thiệt
hại cho người có công việc được thực hiện, đây là trường hợp khó
khăn mang tính tạm thời. Ví dụ: A nhờ B trông giữ vườn cây vải, tại
thời điểm trông giữ cây vải đã đến mùa thu hoạch, nếu không thu
hoạch đúng thời hạn thì trái vải sẽ hỏng hết. Vì vậy, B đã tiến hành
thu hoạch vải để bảo quản mặc dù không có sự ủy quyền của A. Đây
được hiểu là việc thực hiện công việc vì quyền lợi của A.
Như vậy, khi tư vấn cho khách hàng khởi kiện và giúp khách
hàng tham gia tranh tụng giải quyết vụ, việc dân sự, Luật sư phải xác

122
định được quan hệ pháp luật tranh chấp, đưa ra những quan điểm, lập
luận, đề xuất để Tòa án xác định chính xác quan hệ pháp luật. Chỉ khi
xác định được đúng, đầy đủ quan hệ pháp luật mới là cơ sở lựa chọn
và áp dụng quy phạm pháp luật nội dung phù hợp, tìm định hướng
đúng cho hoạt động thu thập chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của khách hàng mình. Mục đích của hoạt động thu thập chứng
cứ nhằm đạt được sự khẳng định những vấn đề về nội dung của đối
tượng chứng minh là đúng đắn và xác thực. Mỗi vụ kiện dân sự phát
sinh tại Tòa án thường chứa đựng những mâu thuẫn nhất định giữa các
bên đương sự nên rất phức tạp. Để giải quyết được vụ, việc dân sự thì
mọi vấn đề của vụ, việc dân sự đều phải được làm sáng tỏ trước khi
Tòa án quyết định giải quyết vụ, việc dân sự.
Về lý luận, đối tượng chứng minh là tổng hợp những tình tiết, sự
kiện cần phải chứng minh để làm rõ nội dung và bản chất quan hệ
pháp luật giữa các bên đương sự đã xảy ra. Tổng hợp các tình tiết, sự
kiện đó tạo cơ sở cho việc xác định quyền, nghĩa vụ các bên và áp
dụng quy định của pháp luật nội dung để giải quyết tranh chấp. Tuy
nhiên, để giải quyết vụ việc dân sự khách quan, chính xác, đúng pháp
luật, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì không
chỉ những tình tiết, sự kiện thuộc đối tượng chứng minh mà cả những
tình tiết, sự kiện có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ, việc
dân sự dưới khía cạnh tố tụng cũng cần phải được chứng minh, như:
những tình tiết, sự kiện làm căn cứ cho việc Tòa án ban hành quyết
định đình chỉ, quyết định tạm đình chỉ, quyết định chuyển vụ việc dân
sự; những tình tiết, sự kiện làm căn cứ cho việc xác định thẩm quyền
thụ lý vụ việc dân sự của Tòa án… Cùng với đối tượng chứng minh,
những tình tiết, sự kiện này tập hợp thành giới hạn chứng minh hay
phạm vi chứng minh trong tố tụng dân sự.
Ví dụ:
Ngày 04/01/2016, TAND huyện K, tỉnh Hà Nam thụ lý vụ án
HN&GĐ giữa nguyên đơn là anh Lại Thế Việt và bị đơn là chị Đặng
Huyền Ngọc. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thư ký giúp việc cho
Thẩm phán nhiều lần gửi giấy triệu tập nguyên đơn, bị đơn bằng
đường bưu điện không có bảo đảm nhưng các đương sự đều có mặt
đúng thời gian Toà án triệu tập. Khi Thẩm phán ra quyết định đưa
vụ án ra xét xử, Thư ký lại tiếp tục triệu tập đương sự đến phiên tòa

123
theo hình thức cũ, vì vẫn tin chắc rằng đương sự lại đến như những
lần trước. Tuy nhiên, Tòa án đã hai lần gửi giấy triệu tập qua bưu
điện nhưng nguyên đơn vẫn vắng mặt. Vì vậy, Thẩm phán coi đây là
hành vi từ bỏ việc khởi kiện của nguyên đơn nên đã ra Quyết định
đình chỉ số 15/2016/QĐĐC ngày 26/4/2016, đình chỉ việc giải quyết
vụ án. Nguyên đơn làm đơn kháng cáo quyết định của TAND huyện
K lên Toà án cấp phúc thẩm vì cho rằng nguyên đơn không được
triệu tập đến phiên tòa mà Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ án của
nguyên đơn, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

Để đương sự được tham gia phiên toà thì Toà án phải có trách
nhiệm tống đạt hợp lệ các thông báo, giấy triệu tập cho đương sự.
Pháp luật tố tụng dân sự quy định Toà án có thể tống đạt giấy triệu tập
cho đương sự thông qua dịch vụ bưu chính nhưng thực tiễn Tòa án lại
không gửi giấy triệu tập được tống đạt bằng thư bảo đảm dẫn tới vi
phạm quyền tham gia phiên tòa của đương sự. Trong trường hợp này,
Luật sư cần hướng dẫn đương sự soạn thảo đơn kháng cáo đề nghị
Tòa án cấp phúc thẩm hủy quyết định đình chỉ của Tòa án cấp sơ
thẩm với lý do đương sự không tống đạt hợp lệ giấy triệu tập làm ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Nghĩa vụ của đương sự là chứng minh những tình tiết, sự kiện làm
căn cứ cho việc Tòa án ban hành quyết định đình chỉ, việc tống đạt
của TAND huyện K qua dịch vụ bưu chính theo cách thông thường là
chưa hợp lệ, bởi giấy triệu tập nếu gửi qua dịch vụ bưu chính thì phải
gửi có bảo đảm, đích thân bưu tá phải giao tận tay cho người nhận,
có ký xác nhận giấy chuyển bưu kiện và được chuyển trả lại cho Tòa
án lưu hồ sơ. Việc tống đạt giấy triệu tập hợp lệ là cơ sở đảm bảo
quyền tham gia phiên tòa của đương sự.
Có thể nói, phạm vi các sự kiện cần chứng minh rộng hơn các sự
kiện thuộc đối tượng chứng minh, cụ thể bao gồm:
- Những sự kiện pháp lý làm cơ sở cho yêu cầu của nguyên đơn,
yêu cầu phản tố của bị đơn hay yêu cầu độc lập của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan. Đây là nhóm tình tiết, sự kiện phải chứng
minh mang tính chất luật nội dung (các tình tiết, sự kiện thuộc đối
tượng chứng minh). Bên cạnh những tình tiết, sự kiện về nội dung,
còn phải chứng minh những tình tiết, sự kiện mang tính chất thuần túy
“tố tụng”.

124
Với tính chất đối tượng chứng minh được hình thành từ đặc
trưng của loại án, Luật sư cần lưu ý xác định không chỉ quan hệ pháp
luật chính (quan hệ pháp luật theo yêu cầu của nguyên đơn) mà cả các
quan hệ pháp luật phái sinh - các quan hệ pháp luật thuộc yêu cầu
phản tố của bị đơn và/hoặc quan hệ đứng về phía người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, từ đó xác định được đối tượng
chứng minh của vụ án. Luật sư cần dựa vào các quy định của pháp
luật nội dung đối với các quan hệ pháp luật đã được xác định để xác
định những tình tiết, sự kiện cần phải chứng minh.
Quy định về đối tượng chứng minh trong BLTTDS năm 2015 có
sự phân biệt rõ ràng giữa giá trị chứng cứ và giá trị chứng minh.
Những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh thì đương nhiên có
giá trị chứng cứ. Những tình tiết, sự kiện phải chứng minh thì chỉ có
giá trị chứng cứ sau khi những tình tiết, sự kiện đó đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xác định.
* Xác định tư cách của chủ thể tham gia tố tụng
Để xác định được nội dung này đòi hỏi các chủ thể cần nghiên
cứu các quy định của BLTTDS về cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Xuất phát từ việc xác
định quan hệ pháp luật cần giải quyết, Tòa án sẽ tập hợp những chủ
thể có liên quan đến quan hệ pháp luật đó và đặt họ vào đúng vị trí tố
tụng. Tuy nhiên, trong một vụ việc dân sự có thể xuất hiện nhiều quan
hệ pháp luật khác nhau, do vậy cần phải xác định quan hệ pháp luật
nào là quan hệ pháp luật chính, từ đó đặt vị trí tố tụng của nguyên đơn,
bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho phù hợp.
Việc đặt đúng vị trí tố tụng của các đương sự trong vụ việc dân
sự không chỉ có ý nghĩa đảm bảo quyền lợi của các đương sự mà còn
là điều kiện quan trọng để Tòa án có thể giải quyết vụ việc kịp thời,
đúng pháp luật và triệt để. Ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải
quyết vụ việc dân sự Tòa án có quyền xác định một đương sự mới.
Việc không triệu tập đầy đủ đương sự hoặc không đặt họ đúng vị trí tố
tụng là vi phạm thủ tục tố tụng và các quyết định, bản án của Tòa án
có thể bị hủy, sửa, làm cho vụ việc dân sự kéo dài không cần thiết.
* Xác định rõ trọng tâm vấn đề cần phải chứng minh
Điều kiện này giúp cho Luật sư khi thu thập chứng cứ tập trung

125
vào những điểm mấu chốt, trọng tâm cần làm sáng tỏ trong vụ việc
dân sự. Để làm được điều này, trước tiên Luật sư phải dựa vào các quy
định của pháp luật nội dung đối với các quan hệ pháp luật đã được xác
định để xác định những tình tiết, sự kiện cần phải chứng minh. Đồng
thời cũng căn cứ vào yêu cầu của đương sự và những mâu thuẫn giữa
các đương sự mà tìm ra trọng tâm vấn đề cần phải chứng minh. Điều
kiện này hướng Luật sư thu thập chứng cứ tập trung vào những điểm
mấu chốt, trọng tâm cần làm sáng tỏ trong vụ việc dân sự. Với những
sự kiện không liên quan đến việc giải quyết vụ việc thì không cần thiết
phải thu thập.
2.2.2. Xác định những tình tiết, sự kiện không cần phải chứng minh
Khi thu thập chứng cứ phải xuất phát từ quyền lợi của khách
hàng. Mục đích thu thập chứng cứ nhằm chứng minh các tình tiết, sự
kiện để có cơ sở áp dụng các căn cứ pháp lý tương ứng với thời điểm
xác lập quan hệ mà pháp luật nội dung điều chỉnh đề xuất Tòa án ban
hành phán quyết hợp tình, hợp lý, đúng với các quy định của pháp
luật. Về cơ bản, tất cả các tình tiết, sự kiện đều cần phải chứng minh,
trừ những tình tiết, sự kiện sau thì không phải chứng minh:
- Những tình tiết, sự kiện mọi người đều biết và được Tòa án
thừa nhận. Mục đích hướng tới của hoạt động chứng minh là nhằm
làm rõ tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ, việc dân sự để giải quyết
đúng đắn vụ, việc dân sự. Những tình tiết, sự kiện này không chứng
minh thì mọi người cũng đã biết rõ. Ví dụ, sự kiện bão, lụt, động đất,
chiến tranh… và phải được Tòa án thừa nhận. Đây là quy định nhằm
xác định tính rõ ràng của tình tiết, sự kiện. Quyền thừa nhận một sự
kiện nào đó là sự kiện mọi người đều biết không cần chứng minh phải
thuộc về Tòa án, vì Tòa án là cơ quan chịu trách nhiệm giải quyết vụ,
việc dân sự. Thực tế mức độ phổ biến của các tình tiết, sự kiện mọi
người đều biết có thể rất khác nhau, có tình tiết, sự kiện phổ biến ở
phạm vi rất rộng, có thể cả thế giới biết, nhưng cũng có tình tiết, sự
kiện chỉ phổ biến ở phạm vi hẹp (một tỉnh, một huyện thậm chí là
phạm vi của một cụm dân cư). Vấn đề đặt ra là tình tiết, sự kiện phổ
biến ở mức độ nào thì không phải chứng minh? Thực tiễn xét xử tại
các Tòa án cho thấy không thể xác định được chính xác những người
biết được tình tiết, sự kiện. Vì thế, việc đánh giá mức độ phổ biến của

126
tình tiết, sự kiện mọi người đều biết chỉ mang tính tương đối nên
BLTTDS không thể quy định giới hạn tối thiểu về mức độ phổ biến
của tình tiết, sự kiện không cần chứng minh. Khi đương sự viện dẫn
việc xác định tình tiết, sự kiện mọi người đều biết không cần phải
chứng minh trong mỗi trường hợp cụ thể, cần phải căn cứ vào thời
gian xảy ra tình tiết, sự kiện. Bởi vì, tính chất rõ ràng của tình tiết, sự
kiện có thể mất dần đi theo thời gian trong trí nhớ của con người. Do
đó, một sự kiện lúc đầu có thể là sự kiện mọi người đều biết không
cần phải chứng minh nhưng nếu xảy ra đã lâu thì vẫn có thể phải
chứng minh lại trong quá trình tố tụng. Vì vậy, cần xem xét từng
trường hợp cụ thể về mức độ phổ biến tin tức của các tình tiết, sự kiện.
Trường hợp sử dụng các sự kiện phổ biến ở phạm vi lãnh thổ nhất
định để giải quyết vụ, việc dân sự thì phải thuyết phục được Tòa án vì
sao sự kiện này không phải chứng minh để tránh trường hợp có những
vụ, việc dân sự được Tòa án xét xử lại ở cấp xét xử khác mà ở cấp xét
xử đó Tòa án chưa chắc đã biết rõ về sự kiện này. Ngoài ra, trên cơ sở
yêu cầu của việc công khai, minh bạch các hoạt động xét xử, đương sự
đề xuất Tòa án quyết định thừa nhận hay không thừa nhận các tình
tiết, sự kiện mà mọi người đều biết.
- Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong các bản án,
quyết định của Toà án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đã có hiệu lực pháp luật. Một sự kiện xảy ra có thể làm phát
sinh, thay đổi hay chấm dứt một hoặc nhiều quan hệ pháp luật. Những
quan hệ pháp luật này có thể được xem xét ở những thời điểm khác
nhau, trong những vụ án khác nhau, thậm chí ở những Tòa án khác
nhau. Việc thừa nhận sự kiện, tình tiết không cần chứng minh phải là
sự kiện trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật với những
chứng cứ đã được kiểm tra, xác minh. Điều này có ý nghĩa đảm bảo
cho công tác xét xử của Tòa án được nhanh chóng, chính xác, đồng
thời khắc phục tình trạng có thể xảy ra mâu thuẫn giữa những quyết
định của Toà án và các cơ quan có thẩm quyền về cùng một vấn đề.
Mặc dù không phải chứng minh nhưng khi sử dụng những sự kiện
không cần phải chứng minh, đương sự phải nêu rõ nguồn gốc, xuất xứ
của những sự kiện đó… Hơn nữa, việc chứng minh lại một tình tiết, sự
kiện còn có khả năng dẫn đến sự phức tạp trong việc giải quyết vụ,
việc dân sự, kéo dài thủ tục tố tụng dân sự.

127
Mặc dù không xem xét lại tình tiết, sự kiện đã được xác định
trong những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật,
tuy nhiên, trong những trường hợp cá biệt khi có nghi ngờ về tính
đúng đắn của tình tiết, sự kiện thì tùy từng trường hợp, đương sự có
thể đề nghị chủ thể có thẩm quyền kháng nghị xem xét lại bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc
thủ tục tái thẩm.
- Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được
công chứng, chứng thực hợp pháp; trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ
tính khách quan của những tình tiết, sự kiện này hoặc tính khách quan
của văn bản công chứng, chứng thực thì Thẩm phán có thể yêu cầu
đương sự, cơ quan công chứng, chứng thực xuất trình bản gốc. Văn
bản công chứng không có giá trị chứng cứ nếu văn bản đó không hợp
pháp, thực hiện không đúng thẩm quyền, không tuân theo quy định
của pháp luật về công chứng, hoặc bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu.
Trường hợp có dấu hiệu nghi ngờ tính khách quan của những tình tiết,
sự kiện này hoặc tính khách quan của văn bản công chứng, chứng thực
thì Thẩm phán có thể yêu cầu đương sự, cơ quan công chứng, chứng
thực xuất trình bản gốc. Khi vận dụng, viện dẫn tình tiết, sự kiện này
trong quá trình chứng minh, Luật sư cần tư vấn cho khách hàng nên
cân nhắc kiểm tra để xác định có cần đưa ra yêu cầu Tòa án tuyên bố
văn bản công chứng vô hiệu hay không, khi xem xét những tình tiết,
sự kiện mà văn bản công chứng vi phạm điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự nói chung và điều kiện đặc thù của giao dịch công
chứng nói riêng.
- Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình
tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà
bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh.
Sự thừa nhận của một bên đương sự hay người đại diện của họ có giá
trị loại trừ cho đương sự phía bên kia khỏi nghĩa vụ chứng minh. Điều
này xuất phát từ một vấn đề thuộc bản chất của chứng minh là làm cho
đương sự bên kia thấy rõ sự tồn tại của các tình tiết, sự kiện liên quan
đến vụ việc dân sự.
- Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận
của người đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự nếu không
vượt quá phạm vi đại diện. Việc tham gia tố tụng của người đại diện của

128
đương sự trong tố tụng dân sự nói chung và người đại diện theo ủy quyền
nói riêng có ý nghĩa rất lớn đối với việc giải quyết các vụ án dân sự. Khi
không thể trực tiếp tham gia tố tụng dân sự, đương sự có thể ủy quyền
cho người khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Người đại diện theo ủy
quyền thực hiện hành vi nhân danh người đại diện để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho đương sự theo sự ủy quyền trong tố tụng dân sự. Bên
đại diện và bên được đại diện biểu hiện ý chí thông qua hợp đồng ủy
quyền hoặc giấy ủy quyền. Nội dung ủy quyền, phạm vi ủy quyền đại
diện và trách nhiệm của người đại diện theo ủy quyền được xác định
thông qua sự thỏa thuận của người đại diện và người được đại diện.
Đương sự có người đại diện tham gia tố tụng thì sự thừa nhận của người
đại diện được coi là sự thừa nhận của đương sự nếu không vượt quá
phạm vi đại diện phù hợp với quy định về đại diện được ghi nhận từ
pháp luật nội dung đến pháp luật tố tụng dân sự.
2.3. Kỹ năng xác định chứng cứ và sử dụng các biện pháp thu
thập chứng cứ
Khi tiến hành các hoạt động thu thập chứng cứ, Luật sư phải
đảm bảo các trình tự thu thập chứng cứ theo luật định đối với từng loại
chứng cứ. Cơ sở để xác định chứng cứ phụ thuộc vào từng loại nguồn
chứng cứ với những đặc trưng riêng trong việc xác định. Để xác định
được biện pháp thu thập chứng cứ nào cần thiết, phù hợp, Luật sư căn
cứ vào đối tượng chứng minh và quy định của pháp luật nội dung để
định hướng và lựa chọn biện pháp thu thập chứng cứ phù hợp. Sau khi
xác định được hệ thống chứng cứ, Luật sư cần xác định các chứng cứ
thu thập bổ sung. Tùy thuộc vào từng loại tranh chấp, tính chất, bối
cảnh của từng vụ án mà Luật sư quyết định áp dụng từng biện pháp
thu thập chứng cứ hay tổng hợp nhiều biện pháp thu thập chứng cứ
cũng như xác định thời hạn phù hợp cho việc cung cấp các chứng cứ
thu thập được cho Tòa án. Luật sư cần lưu ý các điều kiện để xác
định chứng cứ được ghi nhận trong Chương VII “Chứng minh và
chứng cứ” trong BLTTDS năm 2015.
Thứ nhất, đối với các tài liệu đọc được nội dung. Luật sư cần
hướng dẫn cho khách hàng thu thập bản chính như hợp đồng mua bán,
vay tài sản, thuê tài sản, hợp đồng tặng cho tài sản… Trong trường
hợp không có bản gốc, có thể nộp bản sao các tài liệu đó nhưng bản
sao phải có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc bản sao do cơ

129
quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận. Bản chính có thể là
bản gốc hoặc bản được dùng làm cơ sở để lập ra các bản sao.
Trường hợp tài liệu đọc được nội dung được viết bằng tiếng dân
tộc thiểu số, tiếng nước ngoài thì Luật sư hướng dẫn khách hàng phải
dịch sang tiếng Việt và gửi kèm theo tài liệu này bản dịch sang tiếng
Việt, được công chứng, chứng thực hợp pháp. Thực tiễn việc không
đảm bảo “tính bản gốc” đối với các tài liệu đọc được nội dung đã gây
ra những bất lợi cho đương sự trong các giao dịch dân sự nói chung và
việc không được thừa nhận trong thực tiễn nói riêng.

Ví dụ:
Theo các Thư bảo lãnh mà Ngân hàng A đã phát hành cụ thể là:
Thư bảo lãnh số 10.11.11.BL326: “Thời hạn bảo lãnh từ 16 giờ
ngày 06/10/2011 đến 16 giờ ngày 08/01/2012”; Thư bảo lãnh
số 10.11.11.BL342: “Thời hạn bảo lãnh từ ngày 22/10/2011 đến 16 giờ
ngày 22/01/2012”. Hai Thư bảo lãnh này có thời hạn cuối cùng là
ngày 08/01/2012 và ngày 22/01/2012. Khi bên được bảo lãnh không
thực hiện được nghĩa vụ, bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh
đã thỏa thuận gia hạn thời hạn trả nợ cho bên được bảo lãnh đến
ngày 30/6/2012, việc gia hạn này không được sự đồng ý bằng văn
bản của bên bảo lãnh và không có một Thư bảo lãnh sửa đổi, bổ
sung nào được phát hành bởi bên bảo lãnh. Trong nội dung thư bảo
lãnh có thỏa thuận “Bất cứ yêu cầu nào liên quan đến bảo lãnh phải
được xuất trình tại bên bảo lãnh trong thời hạn của Thư bảo lãnh
kèm theo Thư bảo lãnh gốc này”. Vụ việc xảy ra tranh chấp, bên yêu
cầu bảo lãnh đã không xuất trình được thư bảo lãnh gốc. Bên bảo
lãnh đã từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh do bên yêu cầu bảo lãnh
vi phạm nghĩa vụ cam kết phát hành thư bảo lãnh gốc và quá thời
hạn bảo lãnh. Vụ án này đặt ra vấn đề xem xét giá trị chứng cứ của
tài liệu đọc được nội dung.

Thực tiễn, nhiều trường hợp khi yêu cầu ngân hàng thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh đã không xuất trình được thư
bảo lãnh gốc. Đã có những ý kiến cho rằng, việc ngân hàng từ chối
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi bên nhận bảo lãnh không xuất trình
bản gốc là vi phạm nghĩa vụ vì ngân hàng hoàn toàn có thể đối
chiếu với bản gốc được lưu tại ngân hàng hoặc trong hệ thống thông

130
tin điện tử của ngân hàng để xác nhận. Vấn đề này cần được luận
bàn trên cả phương diện chứng cứ và phương diện giá trị pháp lý
của thỏa thuận.
Về giá trị chứng cứ, cơ sở để xác định chứng cứ phụ thuộc vào
từng loại nguồn chứng cứ với những đặc trưng riêng trong việc xác
định. Áp dụng các quy định về chứng cứ hiện hành, thư bảo lãnh được
xác định là tài liệu đọc được nội dung. Khoản 1 Điều 95 BLTTDS
năm 2015 ghi nhận các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng
cứ phải là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp
pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
Bản chính có thể là bản gốc hoặc bản được dùng làm cơ sở để lập ra
các bản sao. Theo định nghĩa này thì bản gốc chính là bản được dùng
làm cơ sở để lập ra các bản sao. Các tài liệu đọc được nội dung được
coi là chứng cứ trước tiên phải là bản chính (hay còn gọi là bản gốc).
Trong trường hợp không có bản gốc, bên nhận bảo lãnh có thể nộp
bản sao các tài liệu đó nhưng bản sao phải có công chứng, chứng thực
hợp pháp hoặc bản sao do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp,
xác nhận và ngân hàng được quyền đối chiếu bản sao với bản chính
trước khi nhận. Trên phương diện chứng cứ, việc bên bảo lãnh yêu
cầu bên nhận bảo lãnh xuất trình thư bảo lãnh gốc kèm theo yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là phù hợp với các quy định về chứng cứ
hiện hành.
Về phương diện thỏa thuận, sự tự do thỏa thuận giữa các chủ thể
trong giao dịch dân sự nói chung và giao dịch bảo lãnh nói riêng
thường là sự bàn bạc, đi đến thống nhất ý chí của các bên trong việc
làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự nhất
định. Thỏa thuận này không bị cản trở bởi bất cứ yếu tố chủ quan và
khách quan nào, trừ trường hợp vi phạm điều cấm của luật và trái đạo
đức xã hội. Khi giao dịch đã được xác lập thì không ai có quyền thay
đổi, thậm chí cả nhà nước cũng không có quyền can thiệp và có giá trị
bắt buộc thực hiện đối với các bên tham gia. Nếu có sự thay đổi thì chỉ
có thể là do sự thỏa thuận của chính các bên đã xác lập giao dịch đó.
Mặc dù, trong mọi giao dịch, nguyên tắc cam kết, thỏa thuận phù
hợp với ý chí là một nguyên tắc bất biến, nhưng trong thực tiễn không
phải hoàn toàn lúc nào cũng như vậy. Trong nhiều lĩnh vực hoạt động
nhất là lĩnh vực dịch vụ, các giao dịch được lặp đi, lặp lại giữa một

131
chủ thể (bên cung cấp dịch vụ) với nhiều chủ thể khác (bên nhận dịch
vụ) với đối tượng phục vụ như nhau, bên cung cấp dịch vụ thảo sẵn
hợp đồng (gọi là hợp đồng theo mẫu) trong đó quy định sẵn các điều
khoản, còn bên nhận dịch vụ chỉ có quyền tự do chấp nhận hợp đồng
đó hay không, mà không có sự thỏa thuận để bày tỏ ý chí của mình
trong hợp đồng. Khi đã chấp nhận ký kết vào hợp đồng thì đương
nhiên buộc họ phải tuân theo toàn bộ các điều khoản trong hợp đồng.
Với thỏa thuận phải xuất trình bản gốc là một thỏa thuận hợp pháp và
việc bên nhận bảo lãnh vi phạm thỏa thuận này là cơ sở xác định vi
phạm cam kết, dẫn đến phải chịu hậu quả pháp lý là bên bảo lãnh
được áp dụng chế tài từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh do sự vi
phạm thỏa thuận của bên nhận bảo lãnh. Từ thực tế này, Luật sư cần
lưu ý với khách hàng giá trị của bảo lãnh là ở nội dung cam kết của
ngân hàng và thỏa thuận về điều kiện để thực hiện cam kết đó. Việc
doanh nghiệp tự ràng buộc mình bằng thỏa thuận “Bảo lãnh này chỉ có
01 bản chính duy nhất và không có giá trị chuyển nhượng” sẽ dễ dẫn
đến hậu quả khi bị mất bản gốc hoặc vì lý do nào đó mà không thể
cung cấp bản gốc thì đã tạo ra cơ sở để bên bảo lãnh từ chối nghĩa vụ
hợp lý, hợp lệ.
Thứ hai, các tài liệu nghe được, nhìn được. Khi khách hàng xuất
trình tài liệu này, Luật sư cần hướng dẫn cho khách hàng xuất trình
kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài
liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã
cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản
về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó. Trường hợp người
có tài liệu tự thu âm, thu hình thì trực tiếp trình bày về xuất xứ của tài
liệu. Trường hợp người khác cung cấp, thì phải có văn bản xác nhận
của người đã cung cấp cho người xuất trình về sự việc liên quan tới
việc thu âm, thu hình đó.
Các tài liệu nghe được, nhìn được là một nguồn chứng cứ đặc
biệt quan trọng, vì trong các tài liệu, giấy tờ liên quan đến vụ kiện bao
giờ cũng chứa đựng những thông tin, những sự kiện liên quan đến
những tình tiết của vụ, việc dân sự. Từ nguồn chứng cứ này cho phép
các chủ thể chứng minh đặc biệt là Tòa án rút ra được những chứng cứ
quan trọng sử dụng để giải quyết vụ, việc dân sự. Điểm đặc trưng nhất
của những chứng cứ rút ra từ nguồn tài liệu, giấy tờ chứa đựng chứng

132
cứ là có thể giữ gìn trong một thời gian dài mà không bị thay đổi nội
dung, Tòa án có thể sử dụng nhiều lần. Khi thu thập loại chứng cứ
này, Luật sư cần hướng dẫn khách hàng soạn thảo văn bản xác nhận
xuất xứ hoặc văn bản liên quan đến việc thu âm, thu hình. Nội dung
văn bản thể hiện rõ về quá trình hình thành chứng cứ hay nói cách
khác, là văn bản trình bày của đương sự về sự việc liên quan đến việc
thu âm, thu hình đó.

Ví dụ:
Ông A cho ông B vay năm triệu đồng với thời hạn 12 tháng. Việc
vay tài sản không lập thành văn bản, nhưng được ông A ghi âm lại
toàn bộ nội dung thoả thuận về việc vay tài sản, việc giao nhận tiền
và thời điểm thanh toán nợ giữa ông A và ông B để làm bằng chứng
cho việc vay tài sản của ông B. Đến hạn trả nợ, ông B không trả số
tiền đó cho ông A. Ông A khởi kiện ông B ra Toà án. Trong trường
hợp này, cùng với việc giao nộp băng ghi âm, ông A phải gửi văn
bản trình bày về sự việc liên quan tới việc thu âm đó.

Thứ ba, các thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức trao
đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo,
fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về
giao dịch điện tử. Để xác định chứng cứ này và áp dụng các biện pháp
thu thập phù hợp, Luật sư cần tham khảo thêm các quy định về Luật
Giao dịch điện tử và các văn bản hướng dẫn thi hành. Luật Giao dịch
điện tử đã thừa nhận giá trị pháp lý của các chứng cứ điện tử là thông
điệp dữ liệu, chữ ký điện tử có giá trị chứng cứ như tất cả các loại
chứng cứ thông thường khác và nó không thể bị phủ nhận chỉ vì lý do
đó là một thông điệp dữ liệu điện tử hay chữ ký điện tử.
Thứ tư, vật chứng là những vật khác nhau của thế giới vật chất.
Trong vụ việc dân sự, vật chứng phải luôn là hiện vật gốc có tính đặc
định, liên quan đến vụ việc dân sự thì mới có giá trị pháp lý. Việc
nghiên cứu các vật chứng giúp Luật sư xác định những đặc điểm riêng
về hình dạng, tính chất của chúng, từ đó rút ra các chứng cứ cần thiết
để giải quyết vụ, việc dân sự. Các vật chứng trở thành phương tiện
chứng minh khi những vật này được thu thập, củng cố, nghiên cứu và
đánh giá theo đúng trình tự luật định, đáp ứng ba đặc tính khách quan,
liên quan, hợp pháp của chứng cứ. Luật sư không chỉ hướng dẫn

133
khách hàng thu thập vật chứng đúng trình tự luật định mà còn giúp
khách hàng bảo quản, giữ gìn để đảm bảo tính đặc định của vật chứng
trong suốt quá trình xem xét và giải quyết vụ, việc dân sự. Giá trị
chứng minh của các vật chứng thể hiện ở tính đặc định của các vật đó
(phân biệt với các vật cùng loại). Nếu vật chứng không được bảo quản
tốt để giữ gìn tính đặc định của vật thì vật chứng sẽ mất hết hoặc giảm
giá trị chứng minh.
Khi thu thập các vật chứng, Luật sư phải lập biên bản hoặc miêu
tả chi tiết hình thức và các tính chất lý hóa của vật đặc biệt là các dấu
vết thể hiện trên vật chứng đó. Đối với những vật mau hỏng thì cần
phải xem xét kịp thời và phản ánh đầy đủ trong quá trình xem xét
(bằng biên bản, chụp hình, ghi hình). Đối với những vật khó di
chuyển, Luật sư có thể đề nghị Tòa án đến xem xét thẩm định tại chỗ.
Thứ năm, lời khai của đương sự, lời khai của người làm chứng.
Đương sự là người có quyền và lợi ích gắn liền với vụ, việc dân sự.
Họ tham gia trực tiếp vào quan hệ pháp luật đang có tranh chấp để bảo
vệ quyền lợi của chính bản thân mình. Lời khai của đương sự, người
làm chứng được dựa trên trí nhớ về một sự kiện nên thường mang tính
chủ quan, vì vậy yếu tố tâm lý, độ tuổi, các yếu tố tác động đến nhận
thức sự vật, hiện tượng của đương sự, người làm chứng là một đặc
trưng cần xem xét thận trọng khi thu thập và đánh giá nguồn chứng cứ
là lời khai. Nội dung lời khai của đương sự, lời khai của người làm
chứng chứa đựng sự thật về vụ án được coi là chứng cứ nếu được ghi
bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình,
thiết bị khác có chứa âm thanh, hình ảnh hoặc khai bằng lời tại phiên
tòa. Như vậy, phương tiện ghi nhận lại chứng cứ, sự thừa nhận về mặt
pháp lý các hình thức ghi nhận lời khai khá đa dạng. Khi thu thập loại
chứng cứ này Luật sư cần lưu ý:
- Trường hợp người làm chứng lập bản tự khai, Luật sư cần
hướng dẫn xác nhận chữ ký của chủ thể có thẩm quyền để đảm bảo
xác định chính xác về nhân thân của chủ thể viết bản khai khi gửi văn
bản đến Tòa;
- Trường hợp Tòa án tiến hành lấy lời khai của đương sự, người
làm chứng, tiến hành đối chất thì cần xem xét về trình tự, thủ tục Tòa
án tiến hành thu thập chứng cứ đối với loại chứng cứ này. Luật sư cần
xem xét về trình tự, thủ tục Tòa án lấy lời khai của đương sự (Điều 98

134
BLTTDS năm 2015); trình tự, thủ tục lấy lời khai của người làm
chứng (Điều 99 BLTTDS năm 2015); thủ tục đối chất (Điều 100
BLTTDS năm 2015).
- Trường hợp lời khai của đương sự, người làm chứng được thể
hiện bằng băng, đĩa ghi âm, băng, đĩa ghi hình… thì phải có văn bản
xác nhận xuất xứ hoặc văn bản về sự việc liên quan đến việc thu âm,
thu hình đó gửi kèm theo băng, đĩa ghi âm, ghi hình. Khi giao nộp loại
chứng cứ này cần đề nghị Tòa án tiến hành lập biên bản về việc nhận
các tài liệu, chứng cứ và phải bảo quản lưu giữ cùng với hồ sơ vụ án.
Thông thường, lời khai của đương sự gồm hai loại: Lời khai về
những tình tiết, những sự kiện pháp lý mà dựa vào đó các đương sự đề
xuất các yêu cầu hoặc các biện pháp bảo vệ; Lời thừa nhận của một
bên đương sự - khẳng định là có hay không có những sự kiện mà đáng
ra bên đương sự khác phải chứng minh. Lời thừa nhận của một bên
đương sự “giải phóng” cho đương sự còn lại khỏi nghĩa vụ chứng
minh, tuy nhiên không “giải phóng” Tòa án khỏi trách nhiệm chứng
minh vì mặc dù đương sự có thừa nhận nhưng Tòa án vẫn phải làm rõ
thì mới đánh giá lời thừa nhận của đương sự như chứng cứ được.
Khác với đương sự, người làm chứng là người biết những thông
tin liên quan đến vụ kiện nhưng lại không có quyền lợi trong vụ kiện
đó, vì vậy lời khai của người làm chứng thường thể hiện được yếu tố
khách quan hơn. Mặc dù trong lời khai của người làm chứng chứa
đựng nhiều thông tin về những tình tiết cần chứng minh nhằm giúp
Tòa án tìm ra sự thật khách quan của vụ kiện, nhưng trong quá trình
thu thập cũng như nghiên cứu về nguồn chứng cứ này vẫn cần có một
sự thận trọng khi xem xét, đánh giá. Những chứng cứ rút ra từ lời khai
này có thể bị sai lệch, không phù hợp với thực tế khách quan trong
những trường hợp như người làm chứng bị dụ dỗ, bị mua chuộc hoặc
thậm chí bị đe dọa, bị hành hung để đưa ra lời khai có lợi cho một bên
đương sự nào đó, hoặc trong trường hợp người làm chứng cố ý khai
gian dối, không thể nhớ lại đúng như những gì đã được chứng kiến.
Khi thu thập chứng cứ từ lời khai của người làm chứng, Luật sư
cần lưu ý yếu tố tâm lý trong lời khai. Cần đánh giá lời khai của người
làm chứng với các tình tiết, sự kiện khác, đặc biệt là những điểm mâu
thuẫn trong lời khai của người làm chứng với lời khai của các đương
sự trong hồ sơ vụ án.

135
Thứ sáu, kết luận giám định được xác định là chứng cứ nếu việc
giám định đó được tiến hành theo đúng thủ tục quy định của pháp luật,
cụ thể được ghi nhận tại Luật Giám định tư pháp năm 2012 và Nghị
định số 85/2013/NĐ-CP ngày 29/7/2013 của Chính phủ quy định chi
tiết và biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp.
Trong nhiều vụ việc dân sự, để làm sáng tỏ một số tình tiết nhất
định đòi hỏi phải sử dụng những kiến thức chuyên môn cần thiết với
sự hỗ trợ của Giám định viên. Kết luận của Giám định viên là kết luận
khoa học về chuyên môn được thể hiện dưới hình thức một văn bản
viết hoặc được trình bày tại phiên tòa, được đưa ra sau khi đã nghiên
cứu những vấn đề cần vận dụng kiến thức chuyên môn trả lời cho
những vấn đề do Tòa án trưng cầu. Trong trường hợp việc đánh giá
chứng cứ cần phải sử dụng các kiến thức chuyên môn như xác định
chữ viết, chữ ký, vân tay của một người nào đó hay cần xác định
nguyên nhân gây thiệt hại trong xây dựng, xác định ADN… và theo
sự thỏa thuận lựa chọn của các bên đương sự hoặc có yêu cầu của
đương sự về việc trưng cầu giám định Tòa án tiến hành trưng cầu
giám định khoa học. Đây là một nguồn chứng cứ quan trọng làm cơ sở
cho việc giải quyết vụ việc dân sự, trong nhiều vụ kiện, kết luận giám
định có tính chất quyết định đối với phán quyết của Tòa án.
Để kết luận giám định đáp ứng các thủ tục thu thập hợp pháp,
Luật sư cần lưu ý các yếu tố sau:
Sự thoả thuận lựa chọn hoặc yêu cầu Toà án trưng cầu giám định
phải được thể hiện bằng văn bản (có thể làm bằng văn bản riêng, có
thể ghi trong bản khai, có thể ghi trong biên bản ghi lời khai, biên bản
đối chất). Đương sự được quyền đề nghị Tòa án trưng cầu giám định
hoặc tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án trưng cầu
giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự. Quyền tự yêu
cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ
án ra xét xử sơ thẩm. Tòa án được quyền ban hành quyết định trưng
cầu giám định khi đương sự không yêu cầu nhưng Tòa án xét thấy cần
thiết. Luật sư cần lưu ý, việc trao quyền cho đương sự tự mình trưng
cầu giám định khi Tòa án từ chối trưng cầu giám định là cách chứng
minh của đương sự. Thực tiễn giải quyết các tranh chấp dân sự trong
nhiều năm qua cho thấy số lượng các vụ việc dân sự phải trưng cầu
giám định ngày một gia tăng do sự đa dạng của các loại vụ việc và đối

136
tượng trưng cầu giám định cũng như khả năng đáp ứng các lĩnh vực
giám định kỹ thuật.
Trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng
hoặc có vi phạm pháp luật thì theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét
thấy cần thiết Tòa án yêu cầu người giám định giải thích kết luận giám
định, triệu tập người giám định đến phiên tòa để trực tiếp trình bày về
các nội dung cần thiết. Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy
cần thiết, Tòa án ra quyết định giám định bổ sung trong trường hợp
nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh
vấn đề mới liên quan đến tình tiết của vụ án đã được kết luận giám
định trước đó. Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có
căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác, có vi
phạm pháp luật hoặc trong trường hợp đặc biệt theo quyết định của
Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án TANDTC theo quy định của Luật
Giám định tư pháp.
Thứ bảy, biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ được coi là
chứng cứ nếu việc thẩm định được tiến hành theo đúng thủ tục do
pháp luật quy định. Những vụ án mà đối tượng tranh chấp là bất động
sản, vật không thể di chuyển hoặc trường hợp cần nắm vững hiện
trường xảy ra sự việc tranh chấp nhằm đảm bảo cho bản án, quyết
định của Tòa án được chính xác và bảo đảm khả năng thi hành án. Do
đó, nếu đương sự có yêu cầu xem xét, thẩm định tại chỗ và xét thấy
cần thiết thì Thẩm phán tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ. Cụ thể
là, đương sự phải có đơn yêu cầu và trình bày căn cứ đối với yêu cầu
của mình để đề nghị Tòa án xem xét thẩm định tại chỗ. Tòa án xem
xét và ra quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ. Quyết định này được
gửi cho UBND cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối tượng cần
xem xét, được giao hoặc gửi cho đương sự.
Thứ tám, kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản
được coi là chứng cứ nếu việc định giá, thẩm định giá được tiến hành
theo đúng thủ tục do pháp luật quy định. Theo yêu cầu của một hoặc
các bên đương sự, Toà án yêu cầu tổ chức thẩm định giá tài sản tiến
hành thẩm định giá38. Các bên có quyền tự thỏa thuận về việc xác định
giá tài sản, lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản.
38
Xem Nghị định số 89/2013/NĐ-CP ngày 06/8/2013 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Giá về thẩm định giá.

137
Việc thẩm định giá tài sản được thực hiện theo quy định của
pháp luật về thẩm định giá tài sản. Kết quả thẩm định giá tài sản được
coi là chứng cứ nếu việc thẩm định giá được tiến hành đúng theo quy
định của pháp luật.
Thứ chín, văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có
chức năng lập tại chỗ được coi là chứng cứ nếu việc lập văn bản ghi
nhận sự kiện, hành vi pháp lý được tiến hành theo đúng thủ tục do
pháp luật quy định.
Ví dụ: Vi bằng là văn bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự
kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ trong xét xử và trong các
quan hệ pháp lý. Vi bằng có giá trị chứng cứ để Tòa án xem xét khi
giải quyết vụ án và là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp
khác theo quy định của pháp luật. Vi bằng ghi nhận sự kiện hành vi
pháp lý như: vi bằng chứng thực sự kiện, hành vi xảy ra theo yêu
cầu của tổ chức, cá nhân: sự kiện giao nhận tiền, gửi thông báo đòi
nhà, đòi nợ, xác lập hợp đồng, lập di chúc; hành vi vi phạm pháp
luật của người khác, hành vi sử dụng nhà thuê không đúng mục
đích; Vi bằng ghi nhận hiện trạng các công trình liền kề, lân cận,
dùng để lập hồ sơ xây dựng; Vi bằng dùng làm chứng cứ để yêu cầu
cơ quan bảo hiểm bồi thường.
Thứ mười, văn bản công chứng, chứng thực được coi là chứng
cứ nếu việc công chứng, chứng thực được thực hiện theo đúng thủ
tục do pháp luật quy định. Khi công chứng, người thực hiện công
chứng phải tuân theo quy định của pháp luật về công chứng cũng
như các quy định khác có liên quan. Công chứng viên dù là công
chức nhà nước làm việc tại các phòng công chứng hay là công
chứng viên làm việc tại văn phòng công chứng đều là chức danh tư
pháp được nhà nước trao quyền thực hiện việc chứng nhận giao
dịch. Quy định này nhằm khẳng định rõ giá trị pháp lý của các giấy
tờ, tài liệu đã được các cơ quan nhà nước công chứng, chứng thực
hợp pháp.
Thứ mười một, các nguồn khác mà pháp luật có quy định được
xác định là chứng cứ theo điều kiện, thủ tục mà pháp luật quy định.
So với BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011 thì BLTTDS

138
năm 2015 đã bỏ quy định về nguồn chứng cứ và xác định chứng cứ là
tập quán. Với quy định mới của luật, tập quán có thể được xác định là
một nguồn khác mà pháp luật có quy định.
2.4. Kỹ năng sử dụng các hình thức thu thập chứng cứ
BLTTDS quy định nhiều hình thức thu thập chứng cứ, điều này
giúp cho Luật sư lựa chọn linh hoạt các hình thức thu thập chứng cứ
phù hợp với từng vụ việc.
2.4.1. Yêu cầu đương sự cung cấp chứng cứ
Để chuẩn bị cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
được tốt, đương sự cần chuẩn bị những chứng cứ cần thiết. Việc các
đương sự phải cung cấp chứng cứ và chứng minh cho yêu cầu của
mình trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là một trong những
nguyên tắc xuất phát từ cơ sở quyền tự định đoạt của đương sự. Các
chứng cứ mà đương sự có thể tự thu thập được thông thường bao gồm:
Hồ sơ cá nhân mà đương sự thường giữ một bản như các bản hợp
đồng, các bản di chúc, giấy chứng nhận kết hôn, giấy chứng nhận khai
sinh, biên bản bàn giao tài sản, các giấy tờ về quyền sở hữu nhà, các
giấy tờ về quyền sở hữu tài sản, các giấy tờ về quyền sử dụng đất...
Các đương sự cũng có thể thu thập được các chứng cứ khác từ các
nguồn khác nhau.
2.4.2. Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ chứng cứ
cung cấp chứng cứ
Luật sư cần lưu ý, BLTTDS năm 2015 đã đưa nguyên tắc trách
nhiệm cung cấp chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức trở thành
nguyên tắc chung. Đây là bước cơ bản và đầu tiên để xây dựng ý thức
pháp luật của chủ thể nắm giữ chứng cứ nhưng không tham gia vào
quá trình tố tụng dân sự, đồng thời là cơ sở cho việc xây dựng các
điều luật cụ thể về vai trò và mức độ tham gia vào hoạt động chứng
minh ở giai đoạn cung cấp chứng cứ. Việc cung cấp chứng cứ phải
được thực hiện đầy đủ và đúng thời hạn, chủ thể cung cấp chứng cứ
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về chứng cứ mà mình đã cung
cấp. Nếu không cung cấp được chứng cứ mà mình đang lưu giữ thì
phải thể hiện bằng văn bản và gửi đến chủ thể có yêu cầu, trong đó
phải nêu rõ lý do.

139
Trên thực tế, với nhiều vụ việc dân sự khi khởi kiện, người khởi
kiện không nắm giữ chứng cứ và đã có yêu cầu cơ quan nắm giữ
chứng cứ cung cấp để phục vụ cho việc khởi kiện của mình, nhưng vì
nhiều lý do mà việc thu thập chứng cứ của họ bị kéo dài do không
nhận được trả lời từ phía được yêu cầu. Để giải quyết hiện trạng này,
trước hết cần giải quyết vấn đề thiện chí cung cấp tài liệu, chứng cứ
của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Các cơ quan nhà nước
có nhiệm vụ thực hiện quản lý nhà nước, một trong những công việc
chủ yếu của các cơ quan này là lưu trữ các loại văn bản hành chính
trong quản lý nhà nước và dịch vụ công.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp chứng cứ cho
Tòa án, Viện kiểm sát nhân dân, đương sự những tài liệu họ đang lưu
giữ, quản lý khi có yêu cầu. Việc cung cấp chứng cứ phải trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn quản lý của chủ thể này. Khi áp dụng hình
thức thu thập chứng cứ này, Luật sư cần xác định rõ những khó khăn,
vướng mắc dẫn đến tình trạng nhiều vụ việc yêu cầu nhưng không
được đáp ứng hoặc không cung cấp đúng thời hạn:
- Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thể từ chối cung cấp chứng cứ khi
có yêu cầu nếu không thuộc phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn quản lý
của mình.
- BLTTDS năm 2015 mới chỉ ghi nhận chế tài xử lý trong trường
hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân từ chối yêu cầu của TAND và VKSND
(Điều 489, 495 BLTTDS năm 2015), mà không quy định chế tài khi từ
chối yêu cầu của đương sự.
- Luật sư cần tư vấn xác định rõ phạm vi yêu cầu cá nhân, cơ
quan, tổ chức cung cấp chứng cứ, tránh trường hợp phải yêu cầu nhiều
lần do cơ sở để cung cấp chứng cứ đầy đủ dựa theo phạm vi yêu cầu
của đương sự.
- Cung cấp chứng cứ đúng thời hạn không được quy định rõ
trong BLTTDS hiện hành.
- Khi cơ quan, tổ chức, cá nhân không muốn cung cấp chứng cứ
họ chỉ cần gửi văn bản trả lời vì lý do nào đó theo chủ quan của họ.
Do đó, việc có cung cấp chứng cứ hay không thực tế áp dụng phụ
thuộc khá nhiều vào ý thức trách nhiệm của cá nhân, tổ chức đang lưu
giữ chứng cứ.

140
Ví dụ:
Bà Nguyễn Thị Dung khởi kiện bà Phạm Thị Tuyết yêu cầu chia
di sản thừa kế của bố bà là cụ Phạm Văn Tình để lại. Di sản thừa kế
thuộc quyền sở hữu của cụ Tình và cụ Nụ là căn nhà tại
số 45, phố Lê Đại Hành, phường Hoàng Văn Thụ, quận B, thành
phố H. Tòa án thụ lý giải quyết vụ án. Khi xác định hàng thừa kế
của cụ Tình, có cụ Nụ bị tai biến mạch máu não. Luật sư của bà
Dung đã hướng dẫn bà Dung yêu cầu tuyên bố cụ Nụ bị mất năng
lực hành vi dân sự theo thủ tục việc. Đồng thời đề nghị Tòa án tạm
đình chỉ giải quyết vụ án chia di sản thừa kế.
Theo bà Dung trình bày, tháng 01/2014 do tuổi cao sức yếu nên
cụ Nụ bị tai biến mạch máu não lần một được điều trị tại bệnh viện
một thời gian. Đến tháng 3/2014, cụ Nụ bị tái phát lần hai, dẫn đến
liệt nửa người, lẩn thẩn, không minh mẫn, tỉnh táo. Ngày 07/9/2015,
cụ Nụ tái phát bệnh tai biến mạch máu não lần ba, điều trị tại bệnh
viện một thời gian, bệnh viện trả về. Thời điểm này, cụ Nụ hoàn toàn
không nhận thức được cũng như điều khiển hành vi của mình. Tất cả
sinh hoạt đều do các con chăm sóc, bản thân cụ Nụ cũng không biết
tự ăn, uống, hỏi không nói, không trả lời được. Bà Dung làm đơn đề
nghị Bệnh viện X, thành phố H cung cấp hồ sơ bệnh án là cơ sở để
xuất trình chứng cứ yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định đối với cụ
Nụ nhưng Bệnh viện X từ chối. Trong trường hợp này Luật sư cần
hướng dẫn đương sự làm đơn yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ.
Bởi vì, căn cứ để phân biệt mức độ năng lực hành vi dân sự của cá
nhân là dựa vào khả năng về nhận thức và điều khiển hành vi của cá
nhân đó. Trong trường hợp nêu trên, cụ Nụ lẩn thẩn, không minh
mẫn, tỉnh táo; bản thân cụ Nụ cũng không biết tự ăn uống, hỏi
không nói, không trả lời được. Để có cơ sở cho cơ quan có thẩm
quyền ban hành kết luận giám định thì kết luận ấy phải dựa trên các
chứng cứ điều trị của bệnh viện.

2.4.3. Yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ


Quá trình thu thập và giao nộp chứng cứ là một quá trình tố tụng
quan trọng mà Luật sư cần hướng dẫn đương sự thực hiện đúng và đầy
đủ theo quy định của pháp luật. Trường hợp đương sự không thể tự
mình thu thập được chứng cứ thì có quyền yêu cầu Thẩm phán tiến

141
hành một hoặc một số biện pháp để thu thập chứng cứ. Khi đương sự
có yêu cầu Tòa án tiến hành một hoặc một số biện pháp thu thập
chứng cứ, đương sự phải thể hiện thành văn bản. Tùy từng trường
hợp, Luật sư hướng dẫn khách hàng phải viết thành một đơn yêu cầu
riêng, nhưng cũng có thể kết hợp ghi yêu cầu của đương sự trong bản
khai, bản ghi lời khai, biên bản đối chất. Nếu đương sự trực tiếp đến
Tòa án yêu cầu thì Thẩm phán phải lập biên bản ghi rõ yêu cầu của
đương sự. Riêng đối với trường hợp đương sự yêu cầu Tòa án tiến
hành thu thập chứng cứ bằng biện pháp yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ
chức cung cấp chứng cứ thì nhất thiết Luật sư cần hướng dẫn khách
hàng soạn thảo đơn yêu cầu riêng.
Yêu cầu của đương sự về việc đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ
cũng cần phải nêu rõ biện pháp đương sự đề nghị Tòa án áp dụng là
biện pháp thu thập nào, biện pháp đó có được quy định trong BLTTDS
hay không. Luật sư cần giải thích cho khách hàng nghĩa vụ nộp tạm
ứng chi phí tương ứng với biện pháp thu thập mà đương sự yêu cầu (ví
dụ, chi phí giám định, tiền tạm ứng chi phí giám định, định giá...).
Chẳng hạn, khi soạn thảo đơn đề nghị Tòa án trưng cầu giám
định, Luật sư tư vấn cho khách hàng thể hiện rõ yêu cầu Tòa án ban
hành quyết định trưng cầu giám định, căn cứ vào khoản 6 Điều 95
“xác định chứng cứ”, Điều 102 “Trưng cầu giám định, yêu cầu giám
định” của BLTTDS năm 2015, Luật Giám định tư pháp và các văn
bản quy phạm pháp luật có liên quan. Các nội dung Luật sư cần lưu ý
thể hiện trong đơn đề nghị Tòa án trưng cầu giám định: yêu cầu về
tên, địa chỉ của tổ chức giám định nếu Toà án trưng cầu tổ chức giám
định tư pháp hoặc họ, tên, địa chỉ của Giám định viên được trưng cầu
giám định nếu Toà án trưng cầu người đó tiến hành giám định (nếu
có); Nguồn gốc và đặc điểm của đối tượng giám định; Tên các tài liệu
có liên quan hoặc mẫu so sánh gửi kèm theo; Những vấn đề cần giám
định; Các yêu cầu cụ thể cần có kết luận giám định; Thời hạn trả kết
luận giám định. Kèm theo đơn yêu cầu trưng cầu giám định, tùy theo
từng loại vụ, việc đề nghị trưng cầu giám định cụ thể, Luật sư cần
thiết hướng dẫn khách hàng thu thập mẫu so sánh.
Thực tiễn, cơ quan có thẩm quyền khi trưng cầu giám định
thường yêu cầu chủ thể trưng cầu cung cấp mẫu so sánh, như:

142
Tại Công văn số 355/C54 (P8) ngày 21/5/2016 của Viện Khoa
học hình sự gửi TAND quận X, tỉnh H về giám định huyết thống giữa
cha - mẹ - con: “…Trường hợp không có điều kiện đưa đương sự đến
Viện Khoa học hình sự, Tòa án có thể thu tại địa phương và gửi về
Viện Khoa học hình sự qua dịch vụ bưu chính, cụ thể như sau: Quyết
định trưng cầu giám định gen (theo quy định); Mẫu giám định (mẫu
của các đương sự cần giám định, có thể thu mỗi đương sự 10 sợi tóc
có gốc tóc và được đóng gói riêng, hoặc có thể thu máu (3-5 giọt)
được thấm trên mảnh vải sạch, để máu khô tự nhiên), các mẫu trên
được đóng gói vào các phong bì riêng biệt có ghi tên đương sự. Các
phong bì đều được niêm phong chữ ký của các bên tham gia thu mẫu
và đóng dấu niêm phong của Tòa án nơi trưng cầu Viện Khoa học
hình sự giám định…”.
Khi yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ, Luật sư cần nghiên cứu
kỹ các trình tự, thủ tục Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ đối với
từng biện pháp thu thập chứng cứ đã xác định. Ngoài ra, Luật sư cũng
cần cân nhắc đặc trưng của từng giai đoạn tố tụng để hướng dẫn khách
hàng thu thập chứng cứ cho phù hợp, tương ứng với các tính chất đặc
trưng về thu thập chứng cứ trước khi khách hàng khởi kiện; thu thập
chứng cứ trong giai đoạn Tòa án chuẩn bị xét xử sơ thẩm; thu thập
chứng cứ tại phiên tòa sơ thẩm, ở cấp phúc thẩm hay ở thủ tục đặc biệt
xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
3. Kỹ năng của Luật sư trong hoạt động cung cấp, giao nộp
chứng cứ
3.1. Kỹ năng tư vấn, hướng dẫn đương sự cung cấp, giao nộp
chứng cứ
3.1.1. Tư vấn về các hình thức cung cấp chứng cứ
Khi đưa ra yêu cầu đương sự phải thu thập và cung cấp chứng cứ
để chứng minh cho yêu cầu dù đó là yêu cầu về nội dung giải quyết
tranh chấp hay yêu cầu về tố tụng, tương ứng với từng đặc trưng trong
yêu cầu của đương sự mà Luật sư cần tư vấn cho khách hàng những
tính chất riêng của việc cung cấp chứng cứ:
- Cung cấp chứng cứ liên quan đến yêu cầu khởi kiện. Tùy theo

143
từng yêu cầu khởi kiện thuộc loại quan hệ pháp luật nào, khi khởi kiện
các chủ thể chứng minh phải xuất trình chứng cứ để chứng minh yêu
cầu, đơn cử như:
Đối với vụ án tranh chấp hợp đồng, các giấy tờ liên quan đến
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thông thường bao gồm: Các giấy
tờ chứng minh tư cách chủ thể kiện (Nếu là cá nhân thì giấy tờ
thường là chứng minh thư nhân dân, giấy khai sinh, sổ hộ khẩu; nếu
là pháp nhân, tổ chức thì giấy tờ bao gồm quyết định thành lập pháp
nhân, tổ chức; Giấy phép đầu tư; giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp, điều lệ pháp nhân...). Ngoài ra, nguyên đơn phải xuất trình
các giấy tờ chứng minh nguồn gốc tài sản là đối tượng giao dịch
của hợp đồng. Trường hợp tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà ở
thì đương sự phải nộp các giấy tờ về nguồn gốc nhà; Tranh chấp
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đương sự phải nộp các
giấy tờ chứng minh về nguồn gốc đất, biên bản hòa giải cấp cơ sở…
các bản hợp đồng, các giấy tờ liên quan đến giao dịch. Trường hợp
nguyên đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp hợp đồng vay
tài sản, nguyên đơn phải xuất trình các giấy tờ chứng minh như hợp
đồng vay, giấy biên nhận vay tiền, giấy khất nợ, tài liệu thừa nhận
việc vay nợ, giấy xác nhận của người làm chứng chứng kiến việc
cho vay… Các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa
vụ theo hợp đồng...
- Cung cấp chứng cứ liên quan đến yêu cầu phản tố.
- Cung cấp chứng cứ liên quan đến yêu cầu độc lập của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Cung cấp chứng cứ liên quan đến các yêu cầu khác: Trường
hợp đương sự yêu cầu Tòa án thực hiện các biện pháp tố tụng nhằm
thu thập chứng cứ thì phải có trách nhiệm chỉ rõ việc tự mình không
thể thu thập được chứng cứ, cụ thể là đã áp dụng các biện pháp cần
thiết mà khả năng cho phép nhưng vẫn không thu thập được chứng cứ.
Khi đưa ra yêu cầu đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ, đương sự phải
đề xuất biện pháp cụ thể đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ, mục đích
để chứng minh cho sự kiện gì, giá trị chứng minh đối với vụ việc và
tính liên quan đến vụ, việc. Nếu chứng cứ thu được không có giá trị
chứng minh hoặc không liên quan đến vụ, việc thì Tòa án không sử
dụng hoặc không chấp nhận yêu cầu của đương sự.

144
Khi nguyên đơn, người đưa ra yêu cầu sử dụng quyền khởi
kiện hoặc yêu cầu trước Tòa thì cũng là lúc vụ việc dân sự được
bắt đầu. BLTTDS hiện hành đã quy định đương sự là chủ thể trung
tâm của hoạt động thu thập chứng cứ. Khi tham gia tố tụng, đương
sự có các quyền, nghĩa vụ liên quan đến hoạt động thu thập chứng
cứ, bao gồm:
Tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ đang có và cung cấp tài
liệu, chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Đây vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ đối với đương sự, việc tự
thu thập chứng cứ gửi đến Tòa án sẽ là cơ sở quan trọng chứng
minh cho yêu cầu ban đầu của các đương sự, đặc biệt là yêu cầu của
người khởi kiện, người đưa ra yêu cầu. Việc tự mình thu thập chứng
cứ cũng là một cơ sở quan trọng làm phát sinh nghĩa vụ thu thập
chứng cứ của các chủ thể khác. Đây là cơ sở để Tòa án chấp nhận
cho yêu cầu của đương sự.
Ví dụ:
Khi đương sự viện dẫn căn cứ “việc thực hiện quyết định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào
thời điểm giao kết hợp đồng” thông thường là việc thay đổi chính
sách của Nhà nước. Trong những thời kỳ nhất định, để hoạch định
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, một quốc gia có thể thay đổi
chính sách quản lý kinh tế cho phù hợp với tình hình mới và những
quyết định của cơ quan nhà nước là nguyên nhân chủ yếu làm cho
bên vi phạm không thể thực hiện được nghĩa vụ của mình. Trong
trường hợp này đương sự phải thu thập chứng cứ để giao nộp cho
Tòa án nhằm mục đích chứng minh quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền mà mình không thể biết vào thời điểm giao kết
hợp đồng.
Chẳng hạn, Bản án số 63/2010/DS-ST ngày 15/9/2010 của TAND
quận 1, thành phố H, ông Liêm lập hợp đồng ủy quyền, ủy quyền cho
ông Trường Anh (cán bộ Ngân hàng AB) được toàn quyền bán căn
nhà số 426, Nguyễn Thị Minh Khai, quận 1. Trong khi đó, Công văn
số 718 ngày 18/12/2006 của Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an
đề nghị “cơ quan chức năng tạm dừng việc mua bán” để phục vụ cho
công tác điều tra từ 02/01/2007 đến 13/7/2007 và Công văn số
161/THA ngày 27/6/2007 của Chi cục Thi hành án dân sự quận 1
“ngăn chặn không cho ông Liêm thực hiện việc chuyển quyền sở hữu

145
dưới mọi hình thức đối với căn nhà”. Như vậy, việc Ngân hàng AB
chậm trễ bán nhà do chấp hành quyết định của cơ quan có thẩm
quyền nên không phải chịu trách nhiệm dân sự.

Ngoài ra, đương sự cũng có thể thu thập chứng cứ ngay trong hồ
sơ vụ việc. Vì thực tế, đương sự rất cần những chứng cứ mà đương sự
khác cung cấp hoặc chứng cứ do Tòa án thu thập để có thể sử dụng nó
chứng minh cho các yêu cầu của đương sự trước tòa hoặc dùng để
phản bác giá trị chứng minh của các chứng cứ đó. Do vậy, đương sự
còn có quyền được biết, được nhận, được ghi chép, sao chụp tài liệu,
chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập.
Trong một vụ án thông thường có rất nhiều loại chứng cứ khác
nhau. Luật sư cần hướng dẫn các đương sự nắm bắt được sơ bộ
chứng cứ nào là quan trọng đối với việc xem xét và giải quyết vụ án,
trên cơ sở đó giúp đương sự tập hợp các chứng cứ lại theo hướng dẫn
của mình. Thông thường, chứng cứ có thể được sắp xếp theo thứ tự
ngày, tháng, năm; theo nội dung hoặc theo hình thức của chứng cứ
đó. Đối với những chứng cứ là bản gốc duy nhất, Luật sư cần hướng
dẫn các đương sự photocopy và công chứng lại các bản sao từ bản
gốc. Tất cả các chứng cứ mà đương sự đã thu thập được nhất thiết
phải được nhân ra làm ba bản trở lên. Một bản để nộp cho Toà án,
một bản do Luật sư hoặc đương sự giữ, bản còn lại gửi cho đương sự
phía bên kia. Theo quy định tại khoản 5 Điều 96 BLTTDS năm 2015:
“Khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải
sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện
hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại
khoản 2 Điều 109 của Bộ luật này hoặc tài liệu, chứng cứ không thể
sao gửi được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự khác
hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự khác”. Trên cơ sở quy
định này và quy định tại khoản 9 Điều 70 BLTTDS năm 2015, Luật
sư giải thích cho khách hàng trách nhiệm sao gửi tài liệu, chứng cứ
đó cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự
khác, nhằm bảo đảm việc tiếp cận chứng cứ để thực hiện quyền tranh
tụng của đương sự trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án. BLTTDS
năm 2015 không quy định phương thức đương sự sao gửi tài liệu,
chứng cứ cho đương sự khác, nên Luật sư cần tư vấn cho khách hàng
quyền lựa chọn phương thức sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự
khác như gửi trực tiếp, gửi qua dịch vụ bưu chính… và chứng minh
với Tòa án đã sao gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác.

146
3.1.2. Tư vấn cho khách hàng về điều kiện cung cấp chứng cứ ở
từng thời điểm tố tụng
Sau khi đã thu thập được các chứng cứ cần thiết, Luật sư cần
hướng dẫn các khách hàng cung cấp các chứng cứ cho Toà án. Về
nguyên tắc, các chứng cứ sẽ được lần lượt cung cấp cho Toà án để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự. Tuy vậy, cung cấp
chứng cứ nào và thời điểm nào là một quyết định có tính chất chiến
lược. BLTTDS năm 2015 bổ sung quy định về thời hạn giao nộp
chứng cứ. Theo đó, thời hạn giao nộp chứng cứ do Thẩm phán được
phân công giải quyết vụ việc ấn định nhưng không được vượt quá thời
hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị giải quyết
việc dân sự theo quy định của BLTTDS. Nguyên đơn phải gửi bản sao
đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác trước thời điểm
mở phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Luật cũng ghi nhận quy định mở: “Trường hợp sau khi có quyết định
đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm... đương sự mới cung cấp,
giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp nhưng
đương sự không giao nộp được vì có lý do chính đáng thì đương sự
phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó.
Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tòa án không yêu cầu đương
sự giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được
trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có
quyền giao nộp, trình bày tại phiên toà sơ thẩm... hoặc các giai đoạn
tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ việc dân sự”. Quy định này
nhằm đảm bảo cho các đương sự thời gian nghiên cứu, phân tích
chứng cứ, tài liệu liên quan của các bên, đó là khoảng thời gian chờ
mở phiên tòa xét xử. Nếu đương sự chứng minh và được Tòa án chấp
nhận chứng cứ trong khoảng thời gian chờ mở phiên tòa xét xử hoặc
tại phiên tòa xử thì đương sự bên kia có quyền được biết chứng cứ đó
và có thể yêu cầu Tòa án kéo dài thời gian xét xử để nghiên cứu, phân
tích, thẩm định chứng cứ.
Bên cạnh việc quy định vai trò hỗ trợ của Tòa án đối với việc
thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đương sự,
thời hạn cung cấp chứng cứ của đương sự cho Tòa án, pháp luật tố
tụng dân sự ghi nhận các bên đương sự có nghĩa vụ phải cung cấp
thông tin, tài liệu, chứng cứ của vụ việc cho nhau để hạn chế thấp nhất
những bất ngờ, những chứng cứ mới mà các bên đương sự xuất trình.

147
Như vậy, Tòa án sẽ không quá bị lệ thuộc vào thời gian chờ đợi đương
sự cung cấp chứng cứ ảnh hưởng đến quá trình tố tụng của vụ án.
Mặc dù luật đã quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương
sự nhưng thực tế khó có thể xác định việc đương sự cố tình không
cung cấp chứng cứ và cũng chưa có cơ chế xử phạt những trường hợp
này. Bởi vậy việc lạm dụng quy định được cung cấp chứng cứ ở bất
cứ giai đoạn nào và khi có chứng cứ mới thì được xét xử lại vẫn diễn
ra trên thực tế. Do đó, quy định sửa đổi, bổ sung về thời hạn cung cấp
chứng cứ trong BLTTDS năm 2015 về cơ bản khắc phục được tình
trạng lạm dụng của các đương sự trong việc giao nộp chứng cứ nhưng
đồng thời phải đảm bảo quyền giao nộp chứng cứ của đương sự, đảm
bảo sự thật của vụ án được sáng tỏ. Việc ghi nhận bổ sung quy định
mới khi đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án thì họ phải
sao gửi tài liệu, chứng cứ đó cho đương sự khác hoặc người đại diện
hợp pháp của đương sự khác; đối với tài liệu, chứng cứ quy định tại
khoản 2 Điều 109 BLTTDS về “công bố và sử dụng tài liệu, chứng
cứ” hoặc tài liệu, chứng cứ không thể sao gửi được thì phải thông báo
bằng văn bản cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của
đương sự khác biết nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho đương sự khác
thực hiện nghĩa vụ chứng minh. Đồng thời quy định mới bổ sung này
đảm bảo thực thi có hiệu quả nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét
xử được ghi nhận tại Điều 24 BLTTDS năm 2015.
Từ các quy định mới bổ sung của BLTTDS năm 2015 về ấn định
thời hạn đương sự cung cấp chứng cứ, Luật sư cần cân nhắc kỹ về thời
điểm cung cấp chứng cứ để tư vấn cho khách hàng của mình, có
những chứng cứ cần thiết phải được cung cấp từ thời điểm khởi kiện
để thông qua Toà án nội dung của chứng cứ đó được chuyển tải cho
phía bên kia, nhưng cũng có những chứng cứ nếu cung cấp ngay cho
Toà án và phía đương sự khác biết được có thể gây bất lợi cho mình.
Đặc biệt Luật sư cần lưu ý về thời điểm giao nộp chứng cứ do Thẩm
phán ấn định hoặc thời hạn do luật định để tránh trường hợp phải
chứng minh các điều kiện xuất trình chứng cứ quá hạn được chấp
nhận xem xét. Có thể nói, thời điểm cung cấp chứng cứ gắn với nghĩa
vụ chứng minh của đương sự, trong đó Luật sư cần lưu ý điều kiện
cung cấp chứng cứ ở từng thời điểm tố tụng:

148
Thứ nhất, cung cấp chứng cứ khi khởi kiện39.
Thứ hai, cung cấp chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử. Giai
đoạn này Toà án tiến hành các hoạt động cần thiết để thu thập chứng cứ
và bước đầu đánh giá chứng cứ. Bên cạnh các chứng cứ do khách hàng
cung cấp còn có các chứng cứ do các đương sự khác có quyền lợi đối
lập cung cấp. Để làm rõ các yêu cầu của mình và phản bác các yêu cầu
của đối phương, Luật sư cần hướng dẫn để các đương sự chỉ cung cấp
cho Toà án các chứng cứ với mục đích trên. Những chứng cứ chưa thực
sự cần thiết phải cho đối phương biết, Luật sư nên tư vấn cho đương sự
chưa cung cấp cho Toà án. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đối với các
vụ án dân sự, Toà án đều mời các đương sự lên để lấy lời khai. Luật sư
cần lưu ý vấn đề này để hướng dẫn khách hàng khai đầy đủ các vấn đề
cho Toà án. Song song với việc khai báo ở Toà án, Luật sư cần chuẩn bị
cho đương sự các bài giải trình. Các bài giải trình này cần trình bày
ngắn gọn và nên đi vào trọng tâm của vấn đề. Mỗi bài giải trình cần đặt
ra cho mình một mục tiêu cụ thể nhằm lý giải thuyết phục dứt điểm một
vấn đề. Bên cạnh đó, Luật sư cần hướng dẫn khách hàng thu thập và
cung cấp cho Toà án những văn bản, tài liệu có liên quan. Các văn bản,
tài liệu này không nhất thiết phải sao chép toàn bộ mà chỉ cần sao chép
những nội dung có liên quan để giúp Toà án nhìn nhận vấn đề một cách
chính xác và có hiệu quả.
Trường hợp Luật sư đã xác định được các lập luận, quan điểm
của bên đối lập thì cũng cần thiết phải chuẩn bị các bài giải trình để
phản bác lại các lập luận đó. Các phản bác nên ngắn gọn, sắc bén, có
tính thuyết phục và phải luôn luôn được phân tích và nhìn nhận từ góc
độ pháp lý, vận dụng thuyết phục các căn cứ pháp luật được áp dụng.
Về hình thức, các chứng cứ cần cung cấp cho Toà án cần thiết phải
được đóng lại thành từng tệp có hệ thống. Các mục tiêu, yêu cầu hoặc
các luận cứ của mình cần được trình bày ngắn gọn và in chữ to, đậm
trong từng trang riêng biệt. Khi cung cấp chứng cứ cho Toà án nên thể
hiện rõ quan điểm của mình là chứng cứ này dùng để chứng minh cho
yêu cầu nào của mình và tại sao. Cũng cần đề xuất luôn phương án để
Toà án xem xét.
Đặc thù của giai đoạn chuẩn bị xét xử là đương sự phải bổ sung

39
Tham khảo Chương 1 “Kỹ năng khởi kiện vụ án dân sự”.

149
chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án. Luật sư cần hướng dẫn đương sự
giao nộp trực tiếp cho Tòa án các chứng cứ kèm theo đơn, đồng thời
yêu cầu Tòa án lập biên bản giao nhận chứng cứ. Trong biên bản giao
nhận chứng cứ cần thể hiện rõ giao nhận bản gốc hay bản sao có công
chứng, chứng thực hợp pháp, bên giao và bên nhận đều phải ký tươi ở
tất cả các trang. Đương sự cũng có thể gửi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu
kèm theo chứng cứ qua dịch vụ bưu chính. Trong trường hợp này,
Luật sư cần hướng dẫn cho đương sự giữ lại các giấy tờ xác nhận việc
gửi qua dịch vụ bưu chính.
Ở giai đoạn này, Luật sư cần lưu ý hướng dẫn khách hàng cung
cấp chứng cứ tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ. Đây là phương thức để bảo đảm các đương sự được
quyền biết và tiếp cận tất cả các tài liệu, chứng cứ; trao đổi chứng
cứ, bổ sung tài liệu, chứng cứ (nếu có), xác định những chứng cứ đã
giao nộp; đề nghị triệu tập người làm chứng hoặc những người tham
gia tố tụng khác,… của vụ án trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ
án ra xét xử giúp cho đương sự có đủ điều kiện chuẩn bị việc tranh
tụng tại phiên tòa. Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 200 và khoản 3
Điều 201 BLTTDS năm 2015: Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản
tố, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có
quyền đưa ra yêu cầu độc lập trước thời điểm mở phiên họp kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải… Mục đích
của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
và hòa giải nhằm xác định yêu cầu và phạm vi khởi kiện, việc sửa
đổi, bổ sung, thay đổi, rút yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu
cầu độc lập; những vấn đề đã thống nhất, những vấn đề chưa thống
nhất yêu cầu Tòa án giải quyết; tài liệu, chứng cứ đã giao nộp cho
Tòa án và việc gửi tài liệu, chứng cứ cho đương sự khác; bổ sung tài
liệu, chứng cứ; yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ; yêu cầu
Tòa án triệu tập đương sự khác, người làm chứng và người tham gia
tố tụng khác tại phiên tòa. Như vậy, về nguyên tắc sau phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cuối
cùng các đương sự không có quyền cung cấp chứng cứ, không có
quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu
của họ vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc
yêu cầu độc lập ban đầu và không có căn cứ để Tòa án chấp nhận
chứng cứ giao nộp quá hạn.

150
Thứ ba, cung cấp chứng cứ tại phiên toà sơ thẩm hoặc ở cấp
phúc thẩm. Trường hợp tại phiên tòa sơ thẩm hoặc ở cấp phúc thẩm
đương sự mới có chứng cứ để giao nộp, Luật sư cần hướng dẫn cho
khách hàng phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp chứng cứ
đó hoặc những chứng cứ mà trước đó Tòa án không yêu cầu đương sự
giao nộp hoặc chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá
trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm. Tuy vậy, các phần việc
của Toà án nói chung đã được chuẩn bị kỹ trước khi Toà án mở phiên
toà, do đó việc cung cấp thêm chứng cứ mới của đương sự không nên
làm xáo trộn các công việc chuẩn bị của Toà án trước đó. Thực tế là,
các chứng cứ cung cấp tại phiên toà, có thể là những chứng cứ mà
đương sự đã thu thập được trước đó nhưng chưa cung cấp cho Toà án,
cũng có thể là các chứng cứ mà đương sự mới thu thập được. Việc
cung cấp các chứng cứ tại phiên toà phải thực sự gây được sự chú ý
của Toà án, hay chứng cứ do mình cung cấp có thể giúp Toà án nhìn
nhận lại vụ tranh chấp một cách có lợi cho mình hơn.
Về thủ tục, khi giao nộp chứng cứ, Luật sư phải kiểm tra việc Thư
ký Tòa án thực hiện việc giao nhận chứng cứ. Nếu việc giao nhận
chứng cứ trước khi mở phiên tòa, phiên họp, thì Thư ký Tòa án phải lập
biên bản về việc giao nhận chứng cứ theo quy định chung. Nếu việc
giao nhận chứng cứ trong quá trình xét xử hoặc trong quá trình phiên
họp, thì ghi vào biên bản phiên tòa, biên bản phiên họp. Biên bản giao
nhận chứng cứ phải được người có thẩm quyền của Tòa án theo quy
định của pháp luật tố tụng ký tên, xác nhận và đóng dấu của Tòa án.
3.2. Tư vấn và hướng dẫn khách hàng tiến hành các thủ tục
cung cấp chứng cứ
* Thủ tục cung cấp chứng cứ trong giai đoạn khởi kiện, chuẩn bị
xét xử:
Trong giai đoạn khởi kiện, Luật sư hướng dẫn cho khách hàng
gửi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo đến Tòa
án có thẩm quyền giải quyết vụ, việc dân sự bằng phương thức nộp
trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi đến Tòa án qua dịch vụ bưu chính.
Trong quá trình Tòa án giải quyết các vụ, việc dân sự, đương sự
được quyền thu thập chứng cứ chứng minh cho yêu cầu về nội dung
cũng như yêu cầu về tố tụng của mình và xuất trình cho Tòa án, được

151
quyền yêu cầu Tòa án thu thập chứng cứ trong những trường hợp do
luật định.
Các chứng cứ giao nộp do đương sự xuất trình phải được Tòa án
nhận và lập biên bản giao nhận. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi,
hình thức, nội dung, đặc điểm của chứng cứ; số bản, số trang của
chứng cứ và thời gian giao nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao
nộp, chữ ký của người nhận và dấu của Tòa án. Biên bản được lập
thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ, việc dân sự và một bản giao
cho đương sự giao nộp chứng cứ giữ. Chủ thể thực hiện việc giao
nhận chứng cứ được phân ra làm ba trường hợp:
- Trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu giao nộp trực tiếp
đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, chứng cứ kèm theo tại Tòa án, cán bộ của
Tòa án được Chánh án phân công nhận đơn và chứng cứ kèm theo đó.
Cán bộ Tòa án phải ghi việc nhận đơn và chứng cứ kèm theo vào sổ nhận
đơn, đồng thời phải tiến hành lập biên bản về việc giao nhận chứng cứ.
- Trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu gửi đơn khởi kiện,
đơn yêu cầu kèm theo chứng cứ qua dịch vụ bưu chính, cán bộ Tòa án
phải ghi vào sổ nhận đơn chứng cứ đó; nếu thấy chứng cứ nào còn
thiếu hoặc không đầy đủ so với danh mục phải thông báo ngay cho họ
biết để giao nộp bổ sung chứng cứ.
- Sau khi Tòa án thụ lý vụ, việc dân sự, nếu đương sự giao nộp
chứng cứ cho Tòa án, thì Thẩm phán được Chánh án phân công giải
quyết vụ, việc dân sự hoặc Thư ký Tòa án hoặc cán bộ của Tòa án
được Chánh án phân công thực hiện việc giao nhận chứng cứ do
đương sự giao nộp.
* Thủ tục giao nộp chứng cứ tại phiên tòa:
Trong trường hợp đương sự giao nộp chứng cứ tại phiên tòa, phiên
họp thì Luật sư hướng dẫn cho khách hàng qua Thư ký Tòa án thực hiện
việc giao nhận chứng cứ. Nếu việc giao nhận chứng cứ trước khi mở
phiên tòa, phiên họp, Thư ký phải lập biên bản về việc giao nhận chứng
cứ. Nếu việc giao nhận chứng cứ trong quá trình xét xử hoặc trong quá
trình phiên họp thì ghi vào biên bản phiên tòa, biên bản phiên họp.
* Thủ tục giao nộp chứng cứ trong giai đoạn phúc thẩm vụ án
dân sự:
Sau khi bản án sơ thẩm, quyết định sơ thẩm được ban hành chưa
có hiệu lực pháp luật, đương sự được quyền kháng cáo. Trường hợp

152
khi đương sự kháng cáo có gửi kèm theo đơn kháng cáo chứng cứ bổ
sung cho Tòa án cấp sơ thẩm thì Tòa án cấp sơ thẩm có trách nhiệm
nhận đơn kháng cáo và chứng cứ bổ sung đó. Thủ tục giao nhận chứng
cứ bổ sung được thực hiện tương tự như trong giai đoạn khởi kiện và
chuẩn bị xét xử. Biên bản giao nhận chứng cứ phải được gửi kèm theo
hồ sơ vụ, việc dân sự cho Tòa án cấp phúc thẩm.
Trường hợp đương sự kháng cáo có gửi chứng cứ bổ sung kèm
theo đơn kháng cáo cho Tòa án cấp phúc thẩm, thì Tòa án cấp phúc
thẩm thực hiện việc giao nhận chứng cứ theo thủ tục chung. Tòa án
cấp phúc thẩm chuyển đơn kháng cáo, biên bản giao nhận chứng cứ
bổ sung và chứng cứ bổ sung cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành các
thủ tục cần thiết và gửi kèm theo hồ sơ vụ việc dân sự cho Tòa án cấp
phúc thẩm theo quy định của BLTTDS năm 2015.
4. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Phân tích về nghĩa vụ chứng minh của đương sự và hậu quả
pháp lý trong trường hợp đương sự vi phạm nghĩa vụ chứng minh?
2. Trình bày cơ sở, căn cứ xác định đối tượng chứng minh và
trọng tâm vấn đề cần chứng minh của vụ án?
3. Trình bày các hình thức Luật sư tiến hành thu thập chứng cứ?
4. Phân tích các trường hợp Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ?
Tình huống:
Theo đơn khởi kiện ngày 12/8/2016 và các lời khai tiếp theo của
bà Nguyễn Thị Hồng: Bà Hồng và ông Trần Văn Hạnh chung sống
với nhau không có đăng ký kết hôn nhưng có tổ chức cưới hỏi vào
ngày 04/01/1991. Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc đến
năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan
điểm về lối sống, ông Hạnh nhiều lần đánh đập bà Hồng. Từ năm 2008
đến nay, vợ chồng sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Bà Hồng
xác định không còn tình cảm với ông Hạnh, không thể tiếp tục chung
sống với nhau nên đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với
ông Hạnh. Về con chung, hai người có một con chung là chị Trần Thu
Hoa, sinh năm 1991 đã thành niên nên bà Hồng không đề nghị Tòa án
giải quyết việc nuôi con. Về tài sản, bà Hồng có tài sản là diện tích
176m2 đất ở khu 17, phường G, quận Đ, thành phố H thuộc tờ bản đồ
số 06, số thửa 232, số sổ 1786 do bà được mua thanh lý của cơ quan

153
bà là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quận Đ, thành
phố H năm 1996. Diện tích đất này đã được UBND quận Đ cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà Hồng năm 1998. Đến cuối
năm 2002, đầu năm 2003, trên diện tích đất này bà đã xây dựng các
công trình gồm: Nhà 05 tầng, tường bao phía trước và 02 cổng sắt, số
tiền xây dựng đều do bà bỏ ra. Bà Hồng đề nghị Tòa án xác định tất cả
tài sản trên là tài sản riêng của bà.
Theo lời trình bày của ông Hạnh, vợ chồng ông chung sống với
nhau năm 1991 có đăng ký kết hôn, do giấy chứng nhận kết hôn bị
mất nên bà Hồng đã khai không đúng sự thật. Bà Hồng có yêu cầu ly
hôn, ông cũng đồng ý vì xác định tình cảm vợ chồng không còn. Về
tài sản bà Hồng trình bày, ông khẳng định là tài sản chung của vợ
chồng ông tạo lập.
Hồ sơ vụ án thể hiện các tài liệu sau: Sổ hộ khẩu gia đình ông Hạnh
là chủ hộ không có tên bà Hồng. Giấy khai sinh của chị Trần Thu Hoa,
đăng ký ngày 20/12/1991 người đứng khai là ông Hạnh có xác nhận mẹ
chị Hoa là bà Hồng. Lý lịch đảng viên của ông Hạnh khai vợ là bà
Nguyễn Thị Hồng có xác nhận của trưởng ban tổ chức đảng ủy phường
G, quận Đ. Hồ sơ đăng ký kết hôn lưu tại phường G năm 1991, 1992 bị
mất do hỏa hoạn vì vậy không sao lục được ở bất kỳ cơ quan nhà nước
có thẩm quyền nào. Ngoài ra, còn có xác nhận của ông Tánh là cụm
trưởng cụm dân cư số 5, phường G, quận Đ và các hộ gia đình liền kề
nhà ông Hạnh, bà Hồng với nội dung: “Khoảng cuối tháng 11/1990, ông
Hạnh và bà Hồng có tổ chức lễ thành hôn tại gia đình do ông Lực là Chủ
tịch UBND phường G làm chủ hôn có sự chứng kiến của hai họ, gia đình
hai bên, cơ quan đoàn thể, chính quyền địa phương, bà con dân phố. Từ
đó đến nay, ông Hạnh và bà Hồng chung sống với nhau chỉ một vợ, một
chồng và có một con chung là chị Trần Thu Hoa”. Tất cả các tài liệu trên
hoặc là bản gốc hoặc là bản sao có chứng thực.
Lời khai của bà Hồng khẳng định có tổ chức cưới nhưng không
đi đăng ký kết hôn. Các tài liệu trên là do ông Hạnh tự lập ra nên
không được xác định là chứng cứ.
a) Theo anh (chị) các tài liệu trên có được xác định là chứng
cứ không?
b) Luật sư cần thu thập chứng cứ gì để làm rõ về quan hệ hôn
nhân giữa bà Hồng và ông Hạnh?

154
Chương 3
KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU HỒ SƠ,
ĐÁNH GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này sẽ trang bị cho 1. Một số vấn đề chung trong hoạt
người học: động nghiên cứu hồ sơ, đánh giá
và sử dụng chứng cứ
- Về kiến thức, người học có
những kiến thức chung về kỹ 2. Kỹ năng đặc thù theo loại án
năng cơ bản của Luật sư khi trong hoạt động nghiên cứu hồ sơ,
nghiên cứu hồ sơ, đánh giá và đánh giá và sử dụng chứng cứ
sử dụng chứng cứ trong vụ án 3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
dân sự, kinh doanh, thương mại,
lao động, hôn nhân và gia đình.
- Về kỹ năng, người học áp
dụng được kỹ năng đặc thù của
Luật sư khi nghiên cứu hồ sơ,
đánh giá và sử dụng chứng cứ
trong một số vụ án kinh doanh,
thương mại, dân sự, vụ án lao
động và vụ án hôn nhân và gia
đình phổ biến. Từ đó, đúc rút
kinh nghiệm, thực hiện được
các kỹ năng cần thiết trong
thực hành nghề nghiệp.
- Về thái độ, người học có thái
độ, ứng xử chuẩn mực phù hợp
với quy tắc nghề nghiệp của
Luật sư khi tham gia tố tụng
nghiên cứu hồ sơ, đánh giá và
sử dụng chứng cứ.

155
1. Một số vấn đề chung trong hoạt động nghiên cứu hồ sơ,
đánh giá và sử dụng chứng cứ
Luật sư tham gia giải quyết vụ án dân sự, kinh doanh, thương
mại, lao động, HN&GĐ (ở phần này gọi tắt là vụ án dân sự hiểu theo
nghĩa rộng) với vai trò, mục đích là bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích
hợp pháp của khách hàng của mình là nguyên đơn hoặc bị đơn
và/hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Hoạt động nghiên cứu
hồ sơ, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong vụ án dân sự là một công
việc quan trọng hàng đầu trong quá trình tham gia giải quyết vụ án
dân sự. Đây là hoạt động giúp Luật sư nắm bắt được tất cả các tình
tiết, chứng cứ của vụ án, các yêu cầu, ý kiến, luận điểm của các đương
sự trong vụ án, các hoạt động tố tụng và quyết định tố tụng của Tòa
án, xác định được quan hệ pháp luật tranh chấp, hiểu được những mặt
mạnh, mặt yếu của khách hàng. Trên cơ sở đó, Luật sư xác định
phương án giải quyết vấn đề, thực hiện các công việc cần thiết để
củng cố chứng cứ, xây dựng luận cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho khách hàng của mình.
1.1. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án
1.1.1. Nghiên cứu toàn diện và có hệ thống
Hồ sơ vụ án dân sự thường gồm nhiều tài liệu, chứng cứ đa
dạng, nhiều tình tiết phức tạp diễn ra trong một thời gian dài, với sự
liên quan của nhiều đương sự. Do vậy, để nắm bắt được đầy đủ, rõ
ràng nội dung vụ án và các vấn đề pháp lý của vụ án, Luật sư cần
nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách toàn diện và có hệ thống.
Các tình tiết, sự kiện và chứng cứ trong vụ án thường có mối liên
hệ nhất định với nhau, ít khi có một chứng cứ, tình tiết tồn tại một
cách độc lập, tách biệt với những chứng cứ, tình tiết khác. Khi nghiên
cứu hồ sơ, Luật sư cần áp dụng phương pháp nghiên cứu một cách
toàn diện và có hệ thống, thực hiện nghiên cứu tất cả các tài liệu,
chứng cứ, tình tiết có trong hồ sơ vụ án, không bỏ sót một tài liệu nào,
kể cả những tình tiết rời rạc, những tài liệu không liên quan trực tiếp
đến vấn đề đang tranh chấp. Việc nghiên cứu toàn diện và có hệ thống
còn đòi hỏi người nghiên cứu cần phải xem xét thận trọng tất cả các
mặt, các yếu tố của mỗi tài liệu, chứng cứ, bao gồm cả những vấn đề
về nội dung và hình thức, nguồn gốc xuất xứ của tài liệu, chứng cứ,...

156
Khi nghiên cứu mỗi tài liệu, chứng cứ, Luật sư cần phải đặt nó trong
bối cảnh của vụ án, trong mối liên hệ với vấn đề pháp lý của vụ án và
vấn đề cần phải chứng minh. Mỗi tài liệu, chứng cứ cần được xem xét
trong cả hệ thống các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án
nhằm phát hiện ra những nội dung mà chúng có thể bổ sung cho nhau
hoặc những nội dung mâu thuẫn, thay thế nhau. Qua đó, Luật sư có
thể xây dựng được kế hoạch sử dụng tài liệu, chứng cứ cho mục đích
chứng minh vấn đề pháp lý của vụ án, xây dựng được phương án bảo
vệ quyền lợi cho khách hàng.
1.1.2. Nghiên cứu độc lập và khách quan
Thông thường thông qua khách hàng của mình, Luật sư đã được
tiếp cận thông tin vụ án ở một mức độ nào đó trước khi thực hiện việc
nghiên cứu hồ sơ vụ án. Nhưng một trong những nguyên tắc cơ bản
của nghiên cứu hồ sơ vụ án là Luật sư phải thực hiện nghiên cứu một
cách độc lập và khách quan để đánh giá được bản chất vấn đề pháp lý
của vụ án.
Nghiên cứu một cách độc lập là việc Luật sư tự mình thực hiện
việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, không bị ảnh hưởng bởi ý kiến, quan
điểm của người khác, không phụ thuộc vào người khác. Từ đó, Luật
sư xem xét, đánh giá các tình tiết, tài liệu, chứng cứ của vụ án bằng
chính kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm của mình. Việc nghiên cứu
một cách khách quan đòi hỏi Luật sư phải coi trọng mọi chứng cứ như
nhau, tách mình ra khỏi những yếu tố cảm tính của bản thân, khỏi
những thông tin và quan điểm của người khác để tránh những định
kiến chủ quan làm ảnh hưởng đến việc xem xét, đánh giá đúng về bản
chất pháp lý của các tình tiết, tài liệu, chứng cứ của vụ án. Trong quá
trình làm việc với khách hàng, Luật sư có thể chia sẻ với tình cảnh của
khách hàng, đồng cảm với họ nhưng cần tránh việc bị ảnh hưởng bởi
những quan điểm, tình tiết do khách hàng của mình trình bày, dẫn đến
việc khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Luật sư diễn giải tài liệu, chứng cứ
theo quan điểm chủ quan và cảm xúc của khách hàng, không đánh giá
hết hoặc bỏ qua những điểm bất hợp lý, bất lợi trong những tài liệu,
chứng cứ của chính khách hàng mình, hay không đánh giá đúng giá trị
chứng minh ý kiến phản bác của phía đối tụng trong những tài liệu,
chứng cứ khác.

157
Trong trường hợp nhiều Luật sư cùng bảo vệ quyền lợi cho một
khách hàng thì cần có sự phân công giữa các Luật sư, mỗi người có
thể chịu trách nhiệm độc lập về một hoặc một số vấn đề, phần việc
nhất định và họ có thể có cơ chế kiểm tra chéo, phản biện lẫn nhau để
cuối cùng có thể thống nhất được quan điểm bảo vệ quyền lợi cho
khách hàng mình.
1.1.3. Nguyên tắc sắp xếp tài liệu, ghi chép thông tin về hồ sơ
vụ án
Hồ sơ vụ án do Thẩm phán lập và thông thường, hồ sơ vụ án
được sắp xếp với tài liệu đầu tiên là đơn khởi kiện và sau đó là các tài
liệu, chứng cứ theo trình tự thời gian xảy ra sự kiện pháp lý, thời gian
ghi trên tài liệu hoặc thời gian thu thập chứng cứ. Trong quá trình
nghiên cứu hồ sơ, Luật sư có thể tự mình sắp xếp tài liệu, chứng cứ
trong hồ sơ theo những trình tự khác nhau để thuận tiện cho việc đánh
giá, sử dụng. Có thể sắp xếp tài liệu theo từng đương sự trong vụ án,
như: hồ sơ do nguyên đơn cung cấp, hồ sơ do bị đơn cung cấp, hồ sơ
do người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cung cấp, hồ sơ do Tòa án
thu thập; hoặc sắp xếp tài liệu theo yêu cầu, phạm vi xem xét, giải
quyết: yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập; hoặc có
thể sắp xếp theo quan hệ pháp luật tranh chấp. Khi sắp xếp cần lưu ý
những tài liệu, chứng cứ có giá trị chứng minh trực tiếp, những tài
liệu, chứng cứ gián tiếp hoặc bổ sung, tham khảo.
Việc ghi chép thông tin từ hồ sơ vụ án là hết sức quan trọng
trong quá trình nghiên cứu hồ sơ. Việc ghi chép nên đi theo dòng
chứng cứ để làm rõ từng vấn đề cần chứng minh. Thông thường, việc
ghi chép thông tin vụ án được thực hiện từ đơn khởi kiện, đến lời khai
của các đương sự và đến những tài liệu, chứng cứ khác. Những ghi
chép cần tập trung vào việc liên kết những sự kiện pháp lý, những nội
dung đơn lẻ nằm trong các tài liệu khác nhau, các chứng cứ nằm rải
rác trong từng phần của hồ sơ nhằm làm sáng tỏ một tình tiết, một nội
dung cần chứng minh hoặc làm cơ sở cho một luận điểm bảo vệ quyền
lợi cho khách hàng. Ghi chép các nội dung, vấn đề, chứng cứ và đối
chiếu, so sánh chúng với nhau có thể giúp Luật sư nhận thấy giá trị
chứng minh của một chứng cứ mà khi đứng đơn lẻ thì không liên quan
đến tình tiết cần phải chứng minh, hoặc xác định được sự bất hợp lý

158
của một tài liệu, chứng cứ mà khi đứng độc lập nó có thể có giá trị
pháp lý.
Trong quá trình nghiên cứu, khi sắp xếp và ghi chép các tài liệu,
chứng cứ một cách hệ thống trong chuỗi diễn biến của vụ việc, Luật
sư còn có thể phát hiện ra những tình tiết nào, khâu nào, bước nào bị
thiếu, từ đó xác định tài liệu, chứng cứ nào cần phải được thu thập bổ
sung hoặc dùng chúng cho lập luận phản bác yêu cầu, ý kiến của
đương sự khác.
1.2. Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án
1.2.1. Nghiên cứu hồ sơ do nguyên đơn cung cấp
Vụ án dân sự phát sinh từ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, do
vậy hồ sơ nguyên đơn cung cấp là tài liệu cơ bản nhất của vụ án, các
yêu cầu của nguyên đơn trong đơn khởi kiện cùng với hồ sơ khởi kiện
là cơ sở ban đầu để Tòa án xem xét, giải quyết vụ án. Hồ sơ vụ án dân
sự do nguyên đơn cung cấp bao gồm: đơn khởi kiện, tài liệu chứng
minh quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, tài liệu về tư
cách khởi kiện của mình, tài liệu về địa chỉ của bị đơn.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, cho dù là người bảo vệ quyền lợi
cho nguyên đơn, bị đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
thì Luật sư vẫn cần bắt đầu nghiên cứu từ hồ sơ do nguyên đơn cung
cấp và tài liệu đầu tiên cần xem xét là đơn khởi kiện. Luật sư nghiên
cứu đơn khởi kiện của nguyên đơn để xác định cụ thể nguyên đơn
yêu cầu Tòa án giải quyết những nội dung gì, đây chính là phạm vi
khởi kiện của nguyên đơn và theo quy định của pháp luật tố tụng dân
sự thì Tòa án chỉ xem xét, giải quyết những vấn đề trong phạm vi
khởi kiện. Nguyên đơn có thể thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện
bằng các văn bản phát hành sau khi Tòa án thụ lý vụ án, hoặc ngay
tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu
khởi kiện của mình nếu yêu cầu không vượt quá phạm vi khởi kiện.
Vì thế, Luật sư cần nghiên cứu kỹ cả đơn khởi kiện và các văn bản
thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nếu có để đảm bảo nắm bắt đầy
đủ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đối với Luật sư bảo vệ quyền
lợi cho bị đơn, cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nghiên
cứu đơn khởi kiện của nguyên đơn sẽ cho họ hiểu rõ được khách
hàng của mình đang phải đối diện với những vấn đề pháp lý nào, từ

159
đó tìm phương án để xử lý, đồng thời xác định rõ giới hạn phạm vi
xét xử của Tòa án khi giải quyết vụ án. Luật sư bảo vệ quyền lợi cho
nguyên đơn thì khi nghiên cứu đơn khởi kiện của khách hàng sẽ có
thể đánh giá các yêu cầu khởi kiện đã thực sự đầy đủ và hợp lý hay
chưa, từ đó có tư vấn phù hợp cho khách hàng thay đổi, bổ sung yêu
cầu khởi kiện của mình.
Sau khi nắm rõ được yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Luật sư
tiến hành nghiên cứu hồ sơ khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ mà
nguyên đơn đưa ra để chứng minh yêu cầu khởi kiện của mình là có
căn cứ. Qua những tài liệu, chứng cứ này, Luật sư có thể xác định yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn có căn cứ hay không hoặc tìm những
điểm bất hợp lý để chứng minh ý kiến phản bác, yêu cầu phản tố của
bị đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
có căn cứ pháp luật. Thực tế giải quyết các vụ án dân sự cho thấy,
nhiều trường hợp tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp bị sai, bị
thiếu sót, tài liệu này không logic và phù hợp với tài liệu khác, thậm
chí có những tài liệu gây bất lợi cho chính họ. Vì thế, khi nghiên cứu
hồ sơ khởi kiện, Luật sư bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn cần lưu ý
vận dụng các kỹ năng nghiên cứu hồ sơ một cách độc lập, khách quan,
đặt những nội dung này trong cả tổng thể của vụ án như đã trình bày
tại phần kỹ năng chung nói trên để tránh những sai lầm trong quá trình
nghiên cứu hồ sơ khởi kiện.
Nghiên cứu tài liệu về tư cách khởi kiện của nguyên đơn cũng là
một nội dung hết sức quan trọng, qua đó có thể phát hiện những
trường hợp không đủ điều kiện khởi kiện hoặc sai về tư cách khởi kiện
hoặc có thể khai thác được những nội dung có ý nghĩa trong việc xác
định phương án giải quyết vụ án. Đối với tư cách khởi kiện của
nguyên đơn là cá nhân, Luật sư lưu ý kiểm tra giấy tờ nhân thân
(chứng minh thư nhân dân, thẻ căn cước công dân hoặc hộ chiếu) của
nguyên đơn có còn hiệu lực pháp luật hay không, nguyên đơn có
thuộc trường hợp bị hạn chế tư cách khởi kiện do chưa đủ 18 tuổi hoặc
bị hạn chế năng lực hành vi hay không; kiểm tra tính xác thực và hợp
lý của các tài liệu khác chứng minh quyền khởi kiện của cá nhân. Đối
với nguyên đơn là tổ chức thì Luật sư cần lưu ý nghiên cứu các tài liệu
để xác định tư cách pháp nhân của tổ chức, tổ chức đó thành lập và
hoạt động hợp pháp hay không, bao gồm: giấy đăng ký doanh nghiệp

160
hoặc giấy đăng ký kinh doanh hoặc quyết định thành lập của cơ quan
có thẩm quyền nếu như tổ chức đó không có đăng ký doanh nghiệp,
đăng ký kinh doanh; điều lệ của tổ chức hoặc quyết định của cơ quan
có thẩm quyền về tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức
nếu là tổ chức không cần có điều lệ; tính xác thực và hợp lý của các
tài liệu khác chứng minh quyền khởi kiện của tổ chức. Đồng thời, tài
liệu để đánh giá tính hợp pháp của người đại diện ký đơn khởi kiện
của tổ chức cũng cần được nghiên cứu, bao gồm: tài liệu chứng minh
tư cách của người đại diện theo pháp luật và giấy tờ nhân thân của họ,
nếu người đại diện ký đơn khởi kiện của tổ chức là người được người
đại diện theo pháp luật ủy quyền thì cần phải kiểm tra thêm tính xác
thực và hợp lý của văn bản ủy quyền, giấy tờ nhân thân của người
được ủy quyền.
Khi nghiên cứu hồ sơ do nguyên đơn cung cấp, Luật sư cần xem
xét, đánh giá về thẩm quyền thụ lý của Tòa án, xem vụ việc có thuộc
thẩm quyền của Tòa án hay không, có thuộc trường hợp thay đổi thẩm
quyền xét xử theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự và tố tụng
hành chính hay không. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, nếu phát hiện ra
yếu tố xác thực có thể dẫn đến thay đổi thẩm quyền của Tòa án thì
Luật sư cần chủ động kiến nghị Tòa án xem xét chuyển Tòa án có
thẩm quyền giải quyết. Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án, Luật
sư cũng cần lưu ý xem xét, đánh giá các căn cứ để có thể kiến nghị
Tòa án ra quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết vụ án, hoặc ra
quyết định tiếp tục giải quyết vụ án nếu điều đó là cần thiết để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng của mình.
Trên cơ sở yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Luật sư sẽ xác
định được quan hệ pháp luật tranh chấp và từ đó xác định được nguồn
luật nội dung điều chỉnh quan hệ pháp luật tranh chấp, vận dụng làm
cơ sở pháp luật để xây dựng luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của khách hàng.
Trong vụ án dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp rất đa dạng, có
thể chia làm bốn nhóm chính:
- Quan hệ pháp luật tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh,
thương mại (hợp đồng thương mại, tranh chấp thành viên công ty,
tranh chấp sở hữu trí tuệ,...).

161
- Quan hệ pháp luật tranh chấp về lao động (hợp đồng lao động,
kỷ luật lao động, bồi thường chi phí đào tạo,…).
- Quan hệ pháp luật tranh chấp về HN&GĐ (ly hôn, chia tài sản,
nuôi con, cấp dưỡng...).
- Quan hệ pháp luật tranh chấp khác về dân sự (thừa kế, nhà ở,
đất đai, hợp đồng dân sự...).
Luật sư căn cứ những yếu tố sau trong hồ sơ vụ án để phân biệt
các nhóm quan hệ pháp luật nói trên:
Yếu tố chủ thể tham gia giao dịch hoặc có quyền, nghĩa vụ dân
sự có tranh chấp: Đối với quan hệ pháp luật tranh chấp trong lĩnh vực
kinh doanh, thương mại, chủ thể phải là cá nhân, tổ chức có đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật; là thành viên công ty hoặc là
cá nhân, tổ chức có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với
công ty, thành viên công ty; là người quản lý của công ty. Đối với
quan hệ pháp luật tranh chấp về lao động thì chủ thể phải là người sử
dụng lao động, người lao động hoặc Ban chấp hành công đoàn đại
diện cho tập thể người lao động. Đối với quan hệ pháp luật tranh chấp
khác về dân sự là những chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoặc có
quyền, nghĩa vụ dân sự có tranh chấp.
Yếu tố mục đích và nội dung của giao dịch dân sự: Đối với quan
hệ pháp luật tranh chấp về hoạt động kinh doanh, thương mại thì các
bên tham gia phải đều có mục đích lợi nhuận hoặc có giao dịch về
chuyển nhượng phần vốn góp hoặc liên quan đến việc thành lập, hoạt
động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của
công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty. Đối với quan hệ
pháp luật tranh chấp về lao động thì phải có quan hệ lao động giữa
người sử dụng lao động và người lao động,…
1.2.2. Nghiên cứu hồ sơ do bị đơn cung cấp
Là đương sự trong vụ án dân sự, bị đơn có quyền đưa ra các ý
kiến phản bác và/hoặc yêu cầu phản tố đối với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn, đồng thời còn có thể đưa ra yêu cầu độc lập đối với
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu yêu cầu độc lập này có liên
quan đến việc giải quyết vụ án. Kèm theo đó, bị đơn cần cung cấp tài
liệu, chứng cứ để chứng minh cho các ý kiến, yêu cầu của mình. Đối
với Luật sư bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn hoặc cho người có
162
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập đối với bị đơn hoặc
là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bị bị đơn đưa ra yêu cầu độc
lập thì việc nghiên cứu hồ sơ do bị đơn cung cấp là rất quan trọng và
là cơ sở để xác định phạm vi yêu cầu của bị đơn, xác định những tài
liệu, chứng cứ cần thu thập bổ sung, những nội dung cần phải điều
chỉnh trong phương án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình. Ở
góc độ Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị đơn hoặc cho người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập gắn với quyền lợi của bị
đơn thì khi nghiên cứu hồ sơ do bị đơn cung cấp và đối chiếu với kết
quả nghiên cứu hồ sơ của nguyên đơn và các hồ sơ khác có trong vụ
án, Luật sư sẽ có sự nhận diện chính xác hơn để đưa ra kế hoạch thu
thập bổ sung chứng cứ, đề xuất những biện pháp nhằm giảm thiểu
những tác dụng tiêu cực từ những tài liệu, chứng cứ không phù hợp
với lợi ích của khách hàng, điều chỉnh phương án bảo vệ quyền lợi
cho khách hàng của mình.
Khi nghiên cứu các ý kiến phản bác và tài liệu, chứng cứ chứng
minh cho ý kiến này, Luật sư cần đánh giá giá trị chứng minh của
chúng trong tương quan so sánh với những tài liệu, chứng cứ chứng
minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Trong một số trường
hợp, tài liệu, chứng cứ mà bên bị đơn đưa ra lại không có giá trị chứng
minh cho ý kiến phản bác của mình, thậm chí Luật sư bảo vệ quyền
lợi cho nguyên đơn, cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể
khai thác để củng cố thêm cho yêu cầu khởi kiện hoặc yêu cầu độc lập
của khách hàng mình.
Đối với các yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan của bị đơn, Luật sư áp dụng kỹ năng nghiên
cứu tương tự như nghiên cứu yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Luật
sư cần kiểm tra kỹ trình tự, thủ tục đưa ra yêu cầu phản tố, yêu cầu
độc lập của bị đơn đã tuân thủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự
hay chưa, yêu cầu phản tố có được đưa ra trước thời điểm mở phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải
không; kiểm tra mối liên quan của yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập
của bị đơn đối với phạm vi khởi kiện, như: yêu cầu phản tố có nhằm
loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập, hoặc
có nhằm bù trừ với nghĩa vụ của bị đơn theo yêu cầu khởi kiện của

163
nguyên đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan hay không, giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên
quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm
cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn hay không;
yêu cầu độc lập có liên quan đến việc giải quyết vụ án hay không.
Trong trường hợp xác định không thực sự liên quan thì cần có biện
pháp xử lý phù hợp tùy theo Luật sư bảo vệ quyền lợi cho đương sự
nào. Khi nghiên cứu, Luật sư lưu ý xác định đâu là các tài liệu, chứng
cứ chứng minh cho từng yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập của bị đơn.
Đồng thời đánh giá các tài liệu, chứng cứ này trong mối quan hệ tổng
thể với những tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ do nguyên đơn cung cấp
để xác định giá trị chứng minh của nó đối với yêu cầu phản tố, yêu
cầu độc lập của bị đơn.
Bên cạnh đó, Luật sư cần kiểm tra xem bị đơn có yêu cầu phản
tố, yêu cầu độc lập đã nộp tiền tạm ứng án phí để Tòa án thụ lý giải
quyết các yêu cầu của họ hay chưa. Trong trường hợp họ không nộp
tiền tạm ứng án phí mà không thuộc trường hợp được miễn hoặc
không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì cần xem lại tính hợp pháp của
việc Tòa án thụ lý giải quyết yêu cầu phản tố này. Đồng thời, trên cơ
sở nghiên cứu hồ sơ do bị đơn cung cấp, Luật sư có thể đề xuất các
quyết định tố tụng nếu phát sinh tương tự như đối với nguyên đơn như
đã trình bày ở phần trên.
Trong trường hợp cần thiết, Luật sư có thể xem xét đề nghị Tòa
án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của BLTTDS
nhằm bảo đảm quyền lợi cho khách hàng của mình. Luật sư lưu ý, để
có thể yêu cầu Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời, người đề nghị phải chứng minh được sự cần thiết phải áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời, đồng thời phải thực hiện biện pháp bảo
đảm bằng tài sản với giá trị tương đương mức độ thiệt hại ước tính
có thể xảy ra đối với người bị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.
1.2.3. Nghiên cứu hồ sơ do người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan cung cấp
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia vụ án dân sự
theo quyết định của Tòa án trên cơ sở đề nghị hợp lý của nguyên đơn,

164
bị đơn, của chính người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đó hoặc của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác. Tòa án cũng có thể tự
mình xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trên cơ sở
những tài liệu, chứng cứ và tình tiết của vụ án. Mối liên quan của
những người này thể hiện ở ba góc độ pháp lý sau: (i) liên quan theo
quyền lợi của nguyên đơn, (ii) liên quan theo quyền lợi của bị đơn,
(iii) có yêu cầu độc lập.
Thông thường, hồ sơ do người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
theo quyền lợi của nguyên đơn hoặc bị đơn cung cấp khá đơn giản,
bao gồm lời khai với Tòa án, một số tài liệu, chứng cứ bổ sung nhằm
làm rõ, chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn hoặc ý
kiến phản bác/yêu cầu phản tố của bị đơn.
Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập, Tòa án có thể thụ lý giải quyết nếu yêu cầu độc lập của họ có
liên quan đến vụ án đang được giải quyết và/hoặc yêu cầu độc lập
của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết
vụ án được chính xác và nhanh hơn. Khi có yêu cầu độc lập, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có văn bản ghi rõ yêu cầu độc
lập và có nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu
của mình là có căn cứ. Khi nghiên cứu văn bản ghi yêu cầu độc lập
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và hồ sơ chứng minh căn
cứ yêu cầu, Luật sư cần đánh giá được yêu cầu độc lập này có liên
quan đến việc giải quyết vụ án hay không, trình tự, thủ tục đưa ra
yêu cầu độc lập có hợp lệ hay không, họ đã nộp tiền tạm ứng án phí
để Tòa án thụ lý giải quyết yêu cầu độc lập hay chưa. Luật sư cần
chú ý phân tích kỹ lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan, đối chiếu với lời khai của các đương sự khác và với chứng cứ
trong hồ sơ vụ án để xác định những vấn đề có mâu thuẫn hoặc còn
chưa rõ ràng. Từ đó có phương án giải quyết phù hợp, như đề nghị
Tòa án tiến hành đối chất giữa các đương sự, xác minh tại chỗ hoặc
thu thập bổ sung chứng cứ,…
Luật sư áp dụng kỹ năng tương tự như nghiên cứu yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập của bị đơn
trong quá trình nghiên cứu hồ sơ do người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan cung cấp. Đồng thời, qua nghiên cứu hồ sơ do người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan cung cấp, Luật sư có thể đề xuất các quyết định

165
tố tụng nếu phát sinh tương tự như đối với nguyên đơn như đã trình
bày ở trên.
1.2.4. Nghiên cứu hồ sơ do Tòa án thu thập
Tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập có vị trí quan trọng trong
hệ thống các tài liệu, chứng cứ của vụ án, đó có thể là lời khai của
đương sự, lời khai của người làm chứng, là kết luận giám định, biên
bản định giá, là vật chứng hoặc những tài liệu mà đương sự đang nắm
giữ, cơ quan, tổ chức khác đang quản lý. Theo quy định của pháp luật
tố tụng dân sự, Thẩm phán tiến hành thu thập những tài liệu, chứng cứ
quan trọng hoặc những chứng cứ mà các đương sự không thu thập
được nhằm làm rõ tình tiết vụ án và củng cố căn cứ để Tòa án xem
xét, giải quyết vụ án và trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày
thu thập được tài liệu, chứng cứ, Tòa án phải thông báo về tài liệu,
chứng cứ đó cho đương sự để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình.
Khi nghiên cứu những tài liệu, chứng cứ do Tòa án thu thập, Luật sư
cần suy luận, đánh giá để có thể nhận diện được những vấn đề Thẩm
phán đặc biệt quan tâm làm rõ, quan điểm hoặc hướng xem xét, giải
quyết vụ án của Thẩm phán, từ đó có phương án xử lý hoặc tư vấn cho
khách hàng xử lý một cách phù hợp.
Trong tập hồ sơ của Tòa án, Luật sư cần quan tâm nghiên cứu về
việc xác định đúng và đủ đương sự trong vụ án dân sự để đảm bảo
việc giải quyết vụ án một cách đúng đắn và bảo vệ được quyền lợi cho
khách hàng của mình, đặc biệt là việc xác định người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan. Trong trường hợp không xác định đúng, đầy đủ
đương sự của vụ án dân sự thì có thể được coi là một vi phạm tố tụng
nghiêm trọng với hậu quả pháp lý không thể lường hết, thậm chí có
thể dẫn đến hủy bản án. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Luật sư cần có
đánh giá độc lập của mình để xác định người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan, đánh giá việc có mặt thêm của người này có góp phần thuận
lợi cho việc bảo vệ quyền lợi của khách hàng của mình hoặc đảm bảo
bản án sau này không bị kháng nghị hủy án hay không, từ đó đề nghị
Toà án triệu tập thêm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
1.2.5. Nghiên cứu các quyết định tố tụng của Tòa án
Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án sẽ thực hiện
hàng loạt hoạt động tố tụng và ban hành các quyết định tố tụng cần

166
thiết. Văn bản tố tụng của Tòa án là một thành phần quan trọng của hồ
sơ vụ án, thường bao gồm những văn bản về: thụ lý vụ án; thu thập,
xác minh chứng cứ; áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm
thời; tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải; tạm đình chỉ hoặc đình chỉ giải quyết vụ án, tiếp
tục đưa vụ án ra giải quyết hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong
công tác thu thập, xác minh chứng cứ đã bao gồm các hoạt động và
văn bản tố tụng của Tòa án như: lấy lời khai của đương sự, người làm
chứng; Đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người
làm chứng; Trưng cầu giám định; Định giá tài sản; Xem xét, thẩm
định tại chỗ; Ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, chứng cứ; Yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ; Xác minh sự có
mặt hoặc vắng mặt của đương sự tại nơi cư trú. Ở góc độ nghiên cứu
hồ sơ, Luật sư cần xem xét, đánh giá sự hợp lý và tính tuân thủ về
trình tự, thủ tục của các hoạt động tố tụng này của Tòa án để có những
đề xuất, kiến nghị hoặc khiếu nại phù hợp nếu cần thiết và có căn cứ
nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng mình.
Luật sư cần tập trung nghiên cứu kỹ các văn bản tố tụng do Tòa
án ban hành, bắt đầu đối với văn bản thông báo thụ lý vụ án để xác
định sự khớp đúng giữa yêu cầu khởi kiện có căn cứ và hợp pháp với
nội dung thông báo thụ lý, sự hợp lý về thời gian thụ lý với ngày của
đơn khởi kiện, xem xét việc tống đạt thông báo thụ lý cho các đương
sự có tuân thủ quy định của pháp luật tố tụng dân sự hay không, xem
xét những văn bản tố tụng khác như biên bản lấy lời khai, biên bản
hòa giải,… có sai về đương sự, về nội dung quan trọng của vụ án hay
không để có những kiến nghị, khiếu nại phù hợp.
Đối với vụ án có áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Luật sư
cần nghiên cứu kỹ các quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời để
có thể có những khiếu nại/kiến nghị phù hợp và kịp thời đối với Tòa
án. Biện pháp khẩn cấp tạm thời được Tòa án quyết định áp dụng
nhằm mục đích để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự,
bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng
cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục
được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án. Biện
pháp này chỉ được Tòa án áp dụng nếu có chứng cứ chứng minh cho
sự cần thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó. Luật sư của

167
bên đương sự bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cần
nghiên cứu hồ sơ làm căn cứ áp dụng biện pháp, đặc biệt là xem xét
chứng cứ để chứng minh lý do Tòa án quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời có hợp lý hay không, phạm vi áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời có phù hợp với yêu cầu hợp pháp của đương sự đề
nghị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hay không, đồng thời xem
xét giá trị của biện pháp bảo đảm có tương đương với tổn thất hoặc
thiệt hại có thể phát sinh do hậu quả của việc áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời không đúng hay không. Trên cơ sở đó kiến nghị Tòa án
ra quyết định thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. Luật sư
của bên đương sự đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
nhưng bị thay đổi, hủy bỏ biện pháp cần nghiên cứu kỹ tài liệu, chứng
cứ làm căn cứ thay đổi, hủy bỏ biện pháp để tìm ra những điểm bất
hợp lý nhằm kiến nghị Tòa án tiếp tục ra quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời một cách phù hợp.
Một trong những phần tài liệu tố tụng quan trọng mà Luật sư cần
nghiên cứu là tài liệu về hoạt động tổ chức phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải do Tòa án thực
hiện. Luật sư xem xét trình tự, thủ tục Tòa án tiến hành phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa
các đương sự, như: Tòa án có thông báo cho đương sự, người đại diện
hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp và nội dung của
phiên họp hay không; thành phần phiên họp có phù hợp quy định của
pháp luật tố tụng hay không; kiểm tra trình tự tiến hành phiên họp để
nắm được việc Tòa án thực hiện công bố chứng cứ và việc khách hàng
của mình được có ý kiến về yêu cầu, phạm vi khởi kiện, chứng cứ và
đương sự của vụ án. Qua việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, tài liệu về
phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa
giải do Tòa án thực hiện, Luật sư có thể đánh giá được các đương sự
khác tham gia tố tụng có thực hiện đúng nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
cho khách hàng của mình và cho đương sự khác theo quy định của
pháp luật tố tụng khi giao nộp chứng cứ cho Tòa án hay không; kiểm
tra, đánh giá việc Tòa án có thực hiện đúng nghĩa vụ cung cấp chứng
cứ cho khách hàng của mình và cho đương sự khác theo quy định của
pháp luật tố tụng khi thực hiện thu thập chứng cứ hay không. Trường
hợp phát hiện những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhưng

168
khách hàng của mình không được Tòa án hoặc đương sự khác cung
cấp theo quy định, Luật sư có thể kiến nghị với Tòa án quyết định kéo
dài thời gian để nghiên cứu hồ sơ, cung cấp bổ sung chứng cứ, gửi ý
kiến/lời khai bổ sung,…
1.3. Kỹ năng đánh giá và sử dụng chứng cứ
1.3.1. Đánh giá về giá trị chứng minh của chứng cứ
Yêu cầu chủ chốt đặt ra với Luật sư trong hoạt động nghiên cứu
chứng cứ là phải đánh giá được giá trị chứng minh của chứng cứ. Giá
trị chứng minh của chứng cứ thể hiện nó có thể chứng minh tính có
thật hay không có thật của tình tiết, sự kiện của vụ án, tính có căn cứ
hay không có căn cứ của yêu cầu của các đương sự. Nhiệm vụ đầu
tiên của Luật sư là xác định rõ những vấn đề cần chứng minh từ góc
độ và nhằm mục đích bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của
khách hàng mình. Sau khi xác định được những vấn đề cần chứng
minh, Luật sư sẽ tập trung vào việc đánh giá chứng cứ để phục vụ cho
việc làm rõ vấn đề cần chứng minh.
Để đánh giá được giá trị chứng minh của chứng cứ, Luật sư cần
tiến hành phân tích bản thân nội dung và hình thức của từng chứng cứ.
Đồng thời tập hợp các chứng cứ lại một cách có hệ thống và đánh giá
tổng thể các chứng cứ có liên quan, so sánh các chứng cứ với nhau,
xác định mối liên hệ logic của chứng cứ này với những chứng cứ liên
quan khác, gắn với các tình tiết của vụ án. Từ đó, Luật sư xác định
hiệu quả của chứng cứ trong việc làm rõ tình tiết khách quan của vụ
án, tìm ra lập luận để sử dụng chứng cứ làm cơ sở chứng minh sự thật
khách quan của vụ án, khẳng định yêu cầu của khách hàng mình là có
căn cứ và hợp pháp, phản bác yêu cầu hay ý kiến của phía đối tụng là
không có căn cứ, cơ sở.
Việc đánh giá giá trị chứng minh của chứng cứ giúp Luật sư đưa
ra các lập luận sắc bén và có căn cứ làm sáng tỏ sự thật khách quan
của vụ án để Tòa án tham khảo khi ra phán quyết của mình. Khi đánh
giá giá trị chứng minh của chứng cứ, Luật sư cần chú trọng đến một số
vấn đề sau:
Thứ nhất, xác định tính khách quan, tính liên quan của chứng cứ.
Để xác định tính khách quan và tính liên quan của chứng cứ,
Luật sư đặt chứng cứ đó trong tổng thể các sự kiện pháp lý, các tài
169
liệu, chứng cứ của vụ án, gắn với bản chất vấn đề nhằm làm rõ sự tồn
tại khách quan và tính logic của chứng cứ.
Mỗi đương sự đều có mục đích riêng khi tham gia tố tụng vụ án
dân sự, để chứng minh cho yêu cầu, ý kiến của mình, họ có thể cung
cấp nhiều loại tài liệu, chứng cứ, trong đó có thể có tài liệu, chứng cứ
không chính xác vì có thể do nhầm lẫn, sai sót hoặc thậm chí giả mạo.
Do vậy, việc xác định tính có thật của chứng cứ có ý nghĩa quyết định
đến việc giải quyết vụ án. Có nhiều cách để xác định tính có thật của
chứng cứ, như trưng cầu giám định; xem xét, thẩm định tại chỗ; đối
chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng;
ủy thác xác minh tài liệu, chứng cứ,...
Ví dụ:
Trong vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và quyền sở hữu nhà ở ký năm 2015, bị đơn là ông A (bên chuyển
nhượng) - chủ một doanh nghiệp xây dựng có tiếng của tỉnh H, vợ là
bà B sinh năm 1988 là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Bà B
khai: ông A nhận chuyển nhượng đất năm 2004, xây nhà 4 tầng năm
2007, ông A và bà B kết hôn năm 2008. Khi sửa chữa nhà vào đầu
năm 2008 (trước khi tổ chức kết hôn) thì cả hai vợ chồng đều đóng
góp tài chính (mỗi người góp 300 triệu đồng) để sửa nhà. Sau khi
kết hôn, hai vợ chồng đã thỏa thuận đưa nhà và đất thành tài sản
chung của vợ chồng, do vậy việc ông A tự ý một mình ký hợp đồng
chuyển nhượng nhà đất cho ông C là bất hợp pháp. Bà B xuất trình
chứng cứ là Bản thỏa thuận viết tay do ông A và bà B ký ghi thời
gian ký là năm 2008. Ông A khẳng định lời khai của vợ mình là
đúng, đề nghị Tòa án tuyên hợp đồng đã ký là vô hiệu.
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, Luật sư của nguyên đơn (bên nhận
chuyển nhượng) có thể đặt một số nghi vấn về tính có thật của chứng
cứ này như sau: nhà 4 tầng xây năm 2007, tại sao đến đầu 2008 đã
phải sửa chữa? Việc ông A và bà B cùng đóng góp tài chính để sửa
nhà tại sao không có tài liệu, hồ sơ nào chứng minh sự việc này?
Năm 2008, bà B mới 20 tuổi, còn đang học đại học thì nguồn gốc số
tiền từ đâu mà có? Ông A là một chủ doanh nghiệp xây dựng lớn
của tỉnh, thực sự có cần sự đóng góp tài chính của vợ sắp cưới đang
còn là sinh viên để sửa nhà hay không? Khoản tiền sửa nhà như
khai báo là 600 triệu đồng là khoản tiền lớn vào đầu năm 2008, so

170
với giá xây dựng tại địa bàn tỉnh H ở thời điểm năm 2008 để sửa
căn nhà vừa xây dựng năm 2007 có hợp lý không? Bản thỏa thuận
viết tay do ông A và bà B ký năm 2008, đánh giá độ cũ của giấy, chữ
viết và màu mực sau 7 năm có phù hợp không?
Trên cơ sở đó, để xác định tính có thật của chứng cứ là lời khai
của bà B và Bản thỏa thuận nhập tài sản chung Luật sư có thể tự
mình hoặc yêu cầu Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ đối
với căn nhà đang tranh chấp; lấy lời khai riêng rẽ của ông A, bà B
để làm rõ chi tiết việc xây nhà, sửa nhà, thỏa thuận nhập tài sản
chung, chuyển nhượng nhà đất; xác minh thông tin tại UBND, lấy
lời khai của hàng xóm, tổ dân phố; tổ chức đối chất giữa các đương
sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng; trưng cầu giám
định bản thỏa thuận nhập tài sản chung,...
Thứ hai, xác định tính hợp pháp của chứng cứ được thu thập.
Một vật, văn bản, tài liệu chỉ được coi là chứng cứ của vụ án dân
sự nếu nó được các đương sự giao nộp, Tòa án thu thập theo đúng
trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng dân sự quy định. Khi nghiên cứu hồ
sơ vụ án, Luật sư cần xác định các tài liệu trong hồ sơ có thỏa mãn
tiêu chí nguồn chứng cứ theo quy định của BLTTDS hay không.
Luật sư cần lưu ý phân biệt tính hợp pháp của chứng cứ với giá
trị pháp lý của chứng cứ. Trong tố tụng dân sự, mọi nguồn chứng cứ
nếu được giao nộp hoặc thu thập đúng quy định của pháp luật tố tụng,
thì vẫn được coi là chứng cứ với đầy đủ tính hợp pháp của nó, cho dù
chứng cứ đó có nội dung hợp pháp hay không, hình thức có hợp pháp
hay không.
Về trình tự, thủ tục giao nộp hoặc thu thập chứng cứ, BLTTDS
năm 2015 quy định khá chặt chẽ cả về quy trình và yếu tố thời điểm
giao nộp, thu thập. Khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ, Luật sư
cần xác định được việc giao nộp chứng cứ của các đương sự có tuân
thủ quy định của BLTTDS không để xác định tính hợp pháp của
chứng cứ.
Thứ ba, xác định chứng cứ trực tiếp hay gián tiếp.
Luật sư xác định một chứng cứ là chứng cứ trực tiếp nếu căn cứ
vào chứng cứ đó sẽ có thể chứng minh một cách rõ ràng, cụ thể sự thật

171
khách quan của vụ án, làm rõ vấn đề cần phải chứng minh. Ví dụ,
trong vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa, chứng cứ trực
tiếp là hợp đồng mua bán, giấy tờ về giao hàng, giấy tờ về thanh toán,
biên bản nghiệm thu và thanh lý hợp đồng.
Xác định chứng cứ gián tiếp mà nếu chỉ riêng chứng cứ đó thì
không có giá trị chứng minh, cần phải tìm ra mối liên kết với những
tài liệu, tình tiết trung gian khác đã có trong hồ sơ vụ án hoặc phải thu
thập bổ sung để chứng minh được sự thật khách quan hoặc vấn đề
pháp lý của vụ án.
Ví dụ:
Trong vụ án tranh chấp thành viên công ty X: Công ty X khởi
kiện yêu cầu không công nhận tư cách thành viên góp 30% vốn
điều lệ của công ty X đối với ông A. Công ty X xuất trình chứng cứ
là biên bản họp hội đồng thành viên năm 2014 có nội dung ghi
nhận ông A chưa góp đủ vốn điều lệ và yêu cầu ông A phải thực
hiện góp đủ vốn theo như thỏa thuận. Ông A xuất trình chứng cứ là
bản dự thảo điều lệ công ty X vào tháng 10 năm 2011 có chữ ký của
hai thành viên công ty là ông A và ông B, trong đó có điều khoản
ghi nhận ông A đã góp đủ 30% vốn điều lệ với số tiền 3 tỷ đồng,
ông B đã góp đủ 70% vốn điều lệ với số tiền 7 tỷ đồng. Với yêu cầu
khởi kiện của công ty X và vấn đề cần phải chứng minh của vụ án
thì đây đều là những chứng cứ gián tiếp. Trong Giấy đăng ký
doanh nghiệp của công ty X năm 2011 ghi nhận vốn điều lệ của
công ty X là 10 tỷ đồng, trong đó thành viên công ty là ông A góp 3
tỷ đồng tương đương 30% vốn điều lệ, ông B góp 7 tỷ đồng tương
đương 70% vốn điều lệ.
Như vậy, để chứng minh sự thật khách quan là ông A chưa góp
vốn điều lệ vào công ty X, cần phải khai thác thêm chứng cứ khác
như: toàn bộ hồ sơ sổ sách kế toán từ khi thành lập năm 2011 đến
năm 2016 thể hiện có hay không có dòng tiền góp vốn của ông A và
ông B, lời khai của cán bộ nhân viên công ty X với tư cách là người
làm chứng, các tài liệu khác liên quan đến việc góp vốn điều lệ và
nguồn vốn hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty X; có hay
không chứng từ thể hiện ông A được chia lợi nhuận hoặc gánh chịu
khoản lỗ của công ty X tương đương với số vốn góp.

172
Thứ tư, đánh giá giá trị chứng minh của chứng cứ phải dựa trên
cơ sở pháp luật.
Giá trị chứng minh của chứng cứ chỉ phát huy hiệu quả trên cơ
sở có quy định của pháp luật điều chỉnh giao dịch dân sự, quan hệ
pháp luật dân sự có liên quan.
Ví dụ:
Trong vụ án tranh chấp về tài sản khi ly hôn: ông A và bà B kết
hôn năm 2010, ông A có tài sản riêng là phần vốn góp 50 tỷ đồng
trong doanh nghiệp Y từ năm 2000. Khi ly hôn năm 2016, bà B yêu
cầu ông A phải chia 50% số cổ tức năm 2015 là 20% và
năm 2016 là 25% với tổng số tiền là 22,5 tỷ đồng mà ông A đã nhận
từ doanh nghiệp Y.
Khi sử dụng thông báo chia cổ tức năm 2015 và 2016 của doanh
nghiệp Y để yêu cầu phân chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn, Luật
sư bảo vệ quyền lợi của bà B phải dựa trên quy định của Luật
Doanh nghiệp năm 2014 về cổ đông, cổ phần và cổ tức, dựa trên
quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 về hoa lợi, lợi tức từ tài sản
riêng của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để đảm bảo hiệu quả
chứng minh của những chứng cứ này cho yêu cầu phân chia tài sản
của bà B.

Thứ năm, xác định những vấn đề chưa rõ ràng trong yêu cầu của
đương sự.
Những vấn đề chưa rõ ràng, còn mâu thuẫn trong chính lời khai
của đương sự, trong các lời khai của các đương sự với nhau và mâu
thuẫn giữa lời khai với tình tiết, chứng cứ của vụ án là một cơ sở quan
trọng để Luật sư tìm manh mối làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ
án hoặc chứng minh vấn đề pháp lý cần thiết. Tùy vào việc Luật sư
bảo vệ quyền lợi cho khách hàng nào mà tìm phương án thu thập bổ
sung chứng cứ hoặc đề nghị Tòa án tiến hành thu thập bổ sung chứng
cứ để làm rõ các vấn đề này, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án
nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi cho khách hàng của mình.
1.3.2. Phương án sử dụng chứng cứ
Chứng cứ là vấn đề cốt lõi để làm căn cứ giải quyết vụ án một

173
cách đúng đắn. Khi chứng cứ đầy đủ, có giá trị chứng minh và xác
định đúng phương án sử dụng chứng cứ để chứng minh sự thật khách
quan của vụ án, những vấn đề pháp lý đặt ra trong vụ án, trong yêu
cầu khởi kiện, phản tố hay yêu cầu độc lập của các đương sự thì Luật
sư có cơ hội cao để thực hiện mục đích bảo vệ thành công quyền và
lợi ích hợp pháp của khách hàng mình.
Trong vụ án dân sự, các đương sự đều có quyền tự mình hoặc
thông qua Luật sư của mình để tiếp cận, nghiên cứu hồ sơ vụ án, nắm
được các chứng cứ cần thiết trước khi vụ án được xét xử. Chứng cứ có
trong hồ sơ sẽ phản ánh sự thật khách quan của vụ án, trong khi đó
quyền lợi của nguyên đơn và bị đơn đối lập nhau, quyền lợi của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các đương sự khác có thể khác
nhau hoặc đối lập nhau. Do vậy, tùy theo khách hàng của mình là ai
mà Luật sư xây dựng phương án sử dụng chứng cứ cho phù hợp nhằm
bảo vệ tốt nhất quyền lợi của khách hàng mình.
Khi xây dựng phương án sử dụng chứng cứ, Luật sư có thể thực
hiện theo phương pháp lập bảng hỏi và trả lời những câu hỏi đó bằng
kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án với tám câu hỏi cơ bản là:
(1) Yêu cầu hay quyền lợi cần bảo vệ của khách hàng là gì?
(2) Để bảo vệ được quyền lợi đó thì cần phải chứng minh được
những vấn đề pháp lý gì?
(3) Để chứng minh được những vấn đề pháp lý thì cần có những
chứng cứ gì?
(4) Những chứng cứ đó đã có sẵn chưa, nếu có thì đang nằm ở
đâu, nếu chưa có thì thu thập bổ sung bằng cách nào, nếu không thu
thập bổ sung được thì giải pháp thay thế là gì?
(5) Gắn kết các chứng cứ với nhau như thế nào?
(6) Những chứng cứ nào trong hồ sơ vụ án có giá trị chứng minh
ngược lại, phản bác yêu cầu, ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng
và giải pháp để khắc phục nó?
(7) Những phân tích, lập luận, đề xuất của Luật sư với Tòa án
trên cơ sở sử dụng chứng cứ và vận dụng quy định của pháp luật?

174
(8) Những ý kiến phản bác nào của phía đối tụng sẽ đưa ra để
phản bác những chứng cứ mà Luật sư sử dụng và giải pháp hóa giải
những ý kiến phản bác đó là gì?
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử vụ án dân sự tạo cơ hội bình
đẳng cho các đương sự và Luật sư của họ được trình bày ý kiến, đưa
ra các lập luận, luận điểm trên cơ sở chứng cứ và căn cứ pháp luật để
bảo vệ quyền lợi của mình, đồng thời phản bác lập luận, ý kiến của
bên đối tụng. Do vậy, Luật sư không chỉ xây dựng phương án sử dụng
chứng cứ để bảo vệ cho quyền lợi của khách hàng mà còn cần phân
tích kỹ những chứng cứ mà phía đối tụng có thể sử dụng, những lập
luận mà họ có thể đưa ra từ đó xây dựng phương án sử dụng chứng cứ
của mình để phản bác lại một cách có hiệu quả những luận điểm của
phía đối tụng.
2. Kỹ năng đặc thù theo loại án trong hoạt động nghiên cứu
hồ sơ, đánh giá và sử dụng chứng cứ
2.1. Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, đánh giá và sử dụng chứng cứ
trong một số vụ án dân sự
2.1.1. Vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất
Tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử
dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Tranh chấp
đất đai thường xảy ra ở ba dạng chủ yếu sau: (i) tranh chấp về quyền
sử dụng đất, (ii) tranh chấp về giao dịch liên quan đến quyền sử dụng
đất, (iii) tranh chấp về quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc sử dụng đất.
Trong đó, tranh chấp về quyền sử dụng đất là loại tranh chấp phổ biến
nhất. Nhà nước khuyến khích giải quyết tranh chấp đất đai thông qua
con đường hòa giải. Trong tranh chấp về quyền sử dụng đất, theo
tinh thần hướng dẫn tại Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP của Hội
đồng Thẩm phán TANDTC thì loại tranh chấp “ai là người có quyền
sử dụng đất” như quy định tại Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 bắt
buộc phải qua thủ tục hòa giải ở cơ sở (UBND cấp xã). Trường hợp
đã được hòa giải tại UBND cấp xã mà không thành thì được giải
quyết như sau:
- Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định
tại Điều 100 của Luật Đất đai năm 2013 và tranh chấp về tài sản gắn
liền với đất thì do TAND giải quyết.

175
- Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy
tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai năm 2013 thì đương sự chỉ
được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai là:
(i) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại UBND cấp có thẩm
quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 203 Luật Đất đai năm 2013,
hoặc (ii) Khởi kiện tại TAND có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật về tố tụng dân sự.
Khi nghiên cứu hồ sơ loại án này, Luật sư cần lưu ý xác định đã
thỏa mãn điều kiện về hòa giải tiền tố tụng tranh chấp đất đai tại cấp
cơ sở hay chưa và việc lựa chọn giải quyết tranh chấp đất đai tại
UBND cấp có thẩm quyền hay khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự.
Thực tiễn, các tranh chấp đất nảy sinh khá phong phú và đa dạng với
nhiều dạng tranh chấp. Với mỗi loại tranh chấp chính sách và đường
lối giải quyết lại có những khác biệt mang tính bản chất và được điều
chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật riêng đối với từng loại đất. Vì vậy,
Luật sư phải nắm vững tính chất của quan hệ, Luật nội dung điều
chỉnh tương ứng với từng loại quan hệ pháp luật tranh chấp đất đai ở
từng thời kỳ lịch sử để đánh giá chứng cứ chứng minh cho yêu cầu cụ
thể của khách hàng.
Sau khi xác định được thẩm quyền giải quyết của Toà án, Luật
sư tiếp tục nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu khác của vụ án để làm rõ
nội dung vụ án. Tài liệu cần nghiên cứu, đánh giá trước hết là giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, hoặc văn bản của UBND cấp xã xác
nhận, ý kiến của cơ quan quản lý đất có tranh chấp, sơ đồ, trích lục
bản đồ thửa đất tranh chấp. Vấn đề mấu chốt đối với việc giải quyết
tranh chấp đất đai là việc xác định nguồn gốc đất. Đây cũng là cơ sở
đầu tiên để chứng minh cho quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng
mình. Về vấn đề này, Luật sư cần lưu ý xem xét dựa trên một trong
các giấy tờ về đất sau đây:
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (nếu đất đã có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất). Trên thực tế, nhiều trường hợp đất đã có
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền cấp,
tuy nhiên loại đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng thì lại ít xảy
ra tranh chấp. Phần lớn các tranh chấp đất đai nói chung và tranh chấp
về quyền sử dụng đất nói riêng lại rơi vào trường hợp đất chưa có giấy

176
chứng nhận quyền sử dụng đất. Luật sư cần phải căn cứ vào các quy
định của Luật Đất đai để xác định các loại giấy tờ hợp lệ hoặc không
hợp lệ đối với đất. Các giấy tờ được xác định là hợp lệ như:
- Giấy tờ về quyền sử dụng đất đai trước ngày 15/10/1993 do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính
sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chính phủ
cách mạng lâm thời cộng hòa miền nam Việt Nam và Nhà nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ
địa chính trước ngày 15/10/1993;
- Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc
tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương
gắn liền với đất;
- Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn
liền với đất ở trước ngày 15/10/1993 nay được UBND xã, phường, thị
trấn xác nhận là đã sử dụng đất trước ngày 15/10/1993;
- Giấy tờ về thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; giấy tờ
mua nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước theo quy định của pháp luật;
- Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho
người sử dụng đất (ví dụ như bằng khoán điền thổ);
- Một trong các giấy tờ nêu trên đây mà trên giấy tờ đó ghi tên
người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có
chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày 01/7/2014
chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của
pháp luật;
- Bản án hoặc quyết định của TAND, quyết định thi hành án của
cơ quan thi hành án; quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.
Khi nghiên cứu các chứng cứ này, Luật sư cần phải đánh giá
quyền của người sử dụng đất và xác định giá trị pháp lý của các giao
dịch được xác lập khi chủ sử dụng đất có các loại giấy tờ này. Về nội
dung, tuỳ vào quan hệ pháp luật tranh chấp như tranh chấp về quyền
sử dụng, về việc chuyển nhượng, cho mượn, cho thuê, thừa kế, thế

177
chấp quyền sử dụng đất... mà Luật sư cần làm rõ những vấn đề liên
quan đến vụ án. Nếu tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng, cho
mượn, cho thuê, thế chấp quyền sử dụng đất... thì cần đánh giá tính
chất hợp pháp của hợp đồng, từ đó xác định được quyền và nghĩa vụ
của mỗi bên tham gia giao kết, việc vi phạm nghĩa vụ của họ. Nếu
tranh chấp về quyền sử dụng thì cần đánh giá về nguồn gốc đất, về
thực tế quản lý và sử dụng đất,…
Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án để giải quyết các tranh chấp về
quyền sử dụng đất và những vấn đề liên quan cần phải được xem xét
trên cơ sở các quy định của pháp luật đất đai, pháp luật dân sự, án lệ
và thực tiễn xét xử của ngành Tòa án đối với tranh chấp đất đai; một
số trường hợp đất ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc
thiểu số cần phải xem xét cả yếu tố phong tục, tập quán và thực tế
cuộc sống của nhân dân địa phương.
Tùy theo yêu cầu cụ thể và vị trí tham gia tố tụng của khách
hàng, Luật sư xác định mục tiêu nghiên cứu, đánh giá tình trạng thực
tế của đất đai đang có tranh chấp, công sức duy trì, tôn tạo và nâng giá
trị sử dụng của quyền sử dụng đất. Khi tìm hiểu về đất đai đang có
tranh chấp, Luật sư không nên chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu, xem xét
các giấy tờ, chứng cứ do khách hàng cung cấp hoặc tự mình thu thập
mà nhất thiết phải gắn với việc kiểm tra, xem xét thực trạng đất đai,
diện tích đất, vị trí cụ thể, tình trạng quản lý và sử dụng đất:
Thứ nhất, kiểm tra, đối chiếu thực tế đất đai đang tranh chấp với
các giấy tờ, tài liệu thu thập được để làm rõ mức độ phù hợp giữa các
giấy tờ với thực tế đất đai.
Thứ hai, xác định loại đất, thực tế sử dụng đất như thế nào, sử
dụng đất có đúng mục đích hay không. Trường hợp diện tích đất thực
tế rộng hơn hoặc nhỏ hơn diện tích đất trong giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, Luật sư cần xác định đến mốc và chỉ giới giao đất. Việc
xác định mốc và chỉ giới giao đất có liên quan trực tiếp đến đường lối
giải quyết của Tòa án.
Trường hợp đất đã được tôn tạo (lấp ao, san hồ…) Luật sư cũng
cần xác định và tính toán công sức cho người đã san lấp (trường hợp
bảo vệ quyền lợi của người đã có công lấp ao, vũng, hồ…). Ví dụ, các
chứng cứ chứng minh theo bản đồ địa chính mảnh đất tranh chấp

178
trước đây là ao, vũng, hồ hoặc thể hiện qua văn bản giấy tờ mua
bán/chuyển nhượng (ao/ hồ) - trường hợp tranh chấp liên quan đến
hợp đồng chuyển nhượng ao/ vũng, hồ... Ngoài đánh giá giấy tờ địa
chính, Luật sư cần phải xem xét thêm các tình tiết vụ án từ những lời
khai của những người làm chứng (hàng xóm) xác nhận tình trạng ban
đầu của thửa đất trước khi san lấp; chứng minh các giấy tờ về việc
mua đất, việc thuê công vận chuyển đất, công san lấp…
Luật sư có thể ước tính giá trị quyền sử dụng đất căn cứ vào
khung giá đất, lợi thế thương mại dựa trên vị trí địa lý của đất, hệ số
sinh lợi và thực tế chuyển nhượng đất tại địa phương nơi có đất tranh
chấp. Điều này đặc biệt có giá trị trong việc đưa ra các chứng cứ để
thuyết phục Hội đồng định giá xác định giá theo giá đất ở địa phương
tại thời điểm xét xử sơ thẩm.
Đối với từng loại quan hệ pháp luật tranh chấp đất đai cụ thể,
Luật sư cũng cần lưu ý những quy định của pháp luật điều chỉnh đối
với đặc trưng của loại đất. Nếu là đất thổ cư thì cần làm rõ là đất do
ông bà, cha mẹ để lại, đất giãn dân hay đền bù; đất đai - đặc biệt là đất
nông nghiệp - cần xem xét cấp cho ai: cá nhân hay hộ gia đình.
Trường hợp đất canh tác (đất phần trăm: 5% kinh tế phụ gia đình,...)
Luật sư cũng cần tìm hiểu cấp cho ai, hiện ai đang sử dụng, việc sử
dụng đất có đúng mục đích không. Trường hợp là đất công, Luật sư
cũng nên xác định đất công cho thuê, lấn chiếm hay khai khẩn. Từ
việc đánh giá chứng cứ xác định nguồn gốc đất, chủ thể được cấp
quyền sử dụng đất và quá trình chuyển quyền sử dụng đất, Luật sư có
thêm cơ sở để xác định tính hợp pháp của các quan hệ chuyển nhượng.
Các chứng cứ chứng minh thời điểm sử dụng đất của khách hàng giúp
xác định quy định pháp luật tại thời điểm đó để áp dụng, đồng thời
cũng rất có ý nghĩa trong việc hợp thức hóa quyền sử dụng đất theo
quy định của pháp luật tại thời điểm giải quyết tranh chấp.
Trong thực tiễn xét xử, rất nhiều trường hợp tranh chấp quyền sử
dụng đất xuất phát từ những giao dịch dân sự như cho thuê, chuyển
đổi, chuyển nhượng, thừa kế quyền sử dụng đất,… Với những vụ án
này, Luật sư cần đặc biệt lưu ý các chứng cứ liên quan đến việc xác
lập giao dịch (các hợp đồng, các giấy biên nhận, sổ sách, địa chỉ qua
các kỳ kê khai), thời điểm xác lập giao dịch, chủ thể xác lập; các
chứng cứ chứng minh việc các bên trong quan hệ hợp đồng đã thực

179
hiện quyền, nghĩa vụ đến đâu, lỗi vi phạm của bên nào, mức độ thiệt
hại, công sức làm tăng giá trị quyền sử dụng đất… Mỗi loại giao dịch
cụ thể lại có những quy định pháp luật điều chỉnh không hoàn toàn
giống nhau về hình thức và điều kiện giao dịch, về thời hiệu khởi kiện,
thẩm quyền, cơ sở pháp luật áp dụng. Khi Luật sư nghiên cứu, đánh
giá các chứng cứ này cũng cần dựa trên đối tượng cần chứng minh
trong vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ, đường
lối giải quyết của TANDTC đối với loại tranh chấp.
Trong các tranh chấp liên quan đến các giao dịch về đất, đặc biệt
là tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất, Luật sư cần xác định chính xác thời điểm xác lập giao
dịch. Mỗi thời điểm xác lập giao dịch đường lối giải quyết của Tòa án
có sự khác nhau (Ví dụ, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày
10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng
pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, HN&GĐ).
Luật sư cần lưu ý phân biệt được thời điểm giao kết hợp đồng.
Đối với các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng dân sự, Luật sư cần kiểm
tra, đánh giá các điều kiện đảm bảo cho hợp đồng có hiệu lực theo quy
định của pháp luật tại thời điểm xác lập giao dịch và các quy định điều
chỉnh riêng về hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế quyền
sử dụng đất… theo quy định của BLDS. Trong những trường hợp
BLDS không trực tiếp quy định về quan hệ đó, cần tìm các căn cứ
pháp lý tương ứng để dẫn chiếu áp dụng vào các tình tiết vụ án nhằm
xác định rõ mục đích thu thập chứng cứ chứng minh vấn đề mấu chốt
nào trong vụ án. Ví dụ: BLDS không quy định về hợp đồng mượn
quyền sử dụng đất. Khi có tranh chấp về loại hợp đồng này cần dựa
trên căn cứ pháp lý quy định về hợp đồng mượn tài sản trong BLDS
để thu thập chứng cứ chứng minh tính hợp pháp của quan hệ hợp
đồng. Nguyên tắc chung, quyền sử dụng đất được xác định là một loại
tài sản theo quy định của pháp luật dân sự.
2.1.2. Vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở
Về nguyên tắc, hợp đồng mua bán nhà ở phải bảo đảm đầy đủ
các yếu tố sau:
- Chủ thể của quan hệ hợp đồng mua bán nhà ở là người tham
gia ký kết hợp đồng phải có đủ tư cách về mặt pháp lý, có đủ năng lực

180
hành vi dân sự; nếu chủ thể của quan hệ hợp đồng không đủ tư cách
về mặt pháp lý thì hợp đồng phải do người đại diện hợp pháp như cha
mẹ, người giám hộ tham gia ký kết.
- Người bán nhà phải là chủ sở hữu nhà đem bán, nếu nhà thuộc
quyền sở hữu của vợ chồng, thừa kế, mua chung, xây dựng chung phải
được thể hiện sự nhất trí của tất cả các đồng chủ sở hữu, của người
thừa kế.
- Hợp đồng phải có sự thỏa thuận tự nguyện của bên mua và bên
bán về nhà mua bán và giá cả.
- Hình thức hợp đồng mua bán phải đảm bảo đúng theo quy định
của luật, bao gồm các quy định về công chứng, chứng thực.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở,
Luật sư cần chú ý những tài liệu sau:
- Giấy tờ chứng minh nguồn gốc hoặc quyền sở hữu nhà ở là đối
tượng mua bán. Do đặc điểm tình hình chính trị - xã hội của đất nước
trải qua nhiều thời kỳ lịch sử khác nhau nên quy định liên quan đến
các loại giấy tờ về quyền sở hữu nhà ở, đất ở rất đa dạng và phức tạp,
có thể thống kê một số giấy tờ về nhà ở được phép tham gia giao dịch
như sau:

TT Thời gian Mẫu giấy chứng nhận Văn bản pháp lý


Từ 1975 đến Giấy chứng nhận Được cấp bởi
trước ngày quyền sở hữu nhà nhiều cơ quan nhà
05/7/1994 ở (giấy trắng) gồm: nước có thẩm
Bằng khoán, điền thổ quyền khác nhau.
có nhà trên đất; Văn tự Lưu ý: các loại giấy
đoạn mãi bất động sản; tờ nhà ở trong giai
Văn tự mua bán, đoạn này cho đến
1 chuyển dịch nhà; Bản nay không mang
án, quyết định của Tòa tính hợp pháp đối
án, hợp đồng hoặc với đất ở mà nó chỉ
quyết định, văn bản thể hiện tính hợp lệ,
trúng đấu giá, giấy tờ sự tạo lập về nhà ở
chứng nhận quyền để làm cơ sở cấp
thừa kế, tương phân giấy chứng nhận.

181
TT Thời gian Mẫu giấy chứng nhận Văn bản pháp lý
di sản kèm chứng từ
sở hữu nhà ở hợp lệ
của chế độ cũ; Giấy
phép xây cất hoặc
hợp thức hóa kiến
trúc; giấy phép ủy
quyền sở hữu…
Từ ngày Giấy chứng nhận Nghị định số
05/7/1994 quyền sở hữu nhà ở và 60/1994/NĐ-CP ngày
đến ngày quyền sử dụng đất ở 05/7/1994 của
2 01/11/2004 (sổ hồng). Chính phủ và Nghị
định số 45/CP ngày
03/8/1996 của
Chính phủ.
Từ ngày Giấy chứng nhận Quyết định số
01/11/2004 quyền sử dụng đất ở 24/2004/QĐ-BTNMT
đến ngày (gọi là sổ đỏ cũ). ngày 01/11/2004 của
3
21/7/2006 Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi
trường.
Từ ngày Giấy chứng nhận Quyết định số
21/7/2006 quyền sử dụng đất ở 08/2006/QĐ-BTNMT
đến ngày (ghi tài sản có trên ngày 21/7/2006 của
4
10/12/2009 đất). Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi
trường.
Từ ngày Giấy chứng nhận quyền Nghị định số
10/8/2005 sở hữu nhà ở, quyền sở 95/2005/NĐ-CP
5
đến ngày hữu công trình xây ngày 15/7/2005 của
10/12/2009 dựng (sổ hồng). Chính phủ.
Từ ngày Giấy chứng nhận Nghị định số
6
10/12/2009 quyền sử dụng đất ở, 88/2009/NĐ-CP.

182
TT Thời gian Mẫu giấy chứng nhận Văn bản pháp lý
đến ngày quyền sở hữu nhà ở và ngày 19/10/2009
01/7/2014 tài sản khác gắn liền của Chính phủ.
với đất (sổ hồng).
Từ ngày Giấy chứng nhận Nghị định số
01/7/2014 quyền sử dụng đất, 43/2014/NĐ-CP
7 đến nay quyền sở hữu nhà ở và ngày 15/5/2014 của
tài sản khác gắn liền Chính phủ.
với đất.

- Hợp đồng mua bán giữa bên mua và bên bán, trong trường hợp
nhà ở đã được mua bán nhiều lần, phải nghiên cứu đầy đủ theo thứ tự
thời gian liên quan đến những lần mua bán đó.
- Tài liệu để chứng minh các bên đã thực hiện hoặc không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo hợp
đồng đã ký kết.
- Các tài liệu khác liên quan đến nội dung tranh chấp.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở,
Luật sư cần làm rõ được các vấn đề cơ bản sau:
- Thời điểm xác lập giao dịch về nhà ở;
- Hợp đồng mua bán nhà ở có tuân thủ những quy định của pháp
luật tại thời điểm xác lập về hình thức không;
- Nội dung hợp đồng mua bán nhà ở có hợp pháp không (tuân
thủ đúng những quy định của pháp luật, không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ
với Nhà nước và bên thứ ba);
- Quá trình thực hiện hợp đồng như thế nào? Các bên đã thực
hiện nghĩa vụ đến đâu? Vi phạm của các bên và lỗi của bên vi phạm
hợp đồng mua bán nhà ở? Trách nhiệm của bên vi phạm?
- Giá trị của nhà ở bị tranh chấp (cơ sở nào để xác định giá trị
nhà ở bị tranh chấp: theo sự thoả thuận hay theo biên bản định giá của

183
cơ quan có thẩm quyền, hay chứng thư thẩm định giá); công sức sửa
chữa nâng giá trị của nhà ở đang có tranh chấp so với khi mua bán;
- Yêu cầu cụ thể của nguyên đơn; bị đơn; người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.
Ví dụ:
Theo lời trình bày của ông Nguyễn Đăng Chí: ông Chí và bà Vũ
Thu Lan, ông Nguyễn Văn Vần có lập hợp đồng mua bán, cho thuê
căn nhà số 10b, phố S, quận T, thành phố Đ theo Hợp đồng mua
bán nhà số 26886/HĐ-MBN ngày 11/10/2010 tại phòng công chứng
số 1, thành phố Đ. Giá mua bán thỏa thuận trong hợp đồng là
320.000.000 đồng. Cùng ngày, hai bên lập phụ lục hợp đồng với nội
dung chính như sau: (i) Ông Chí đồng ý trong 12 tháng chưa thực
hiện trước bạ căn nhà vì ngoài số tiền mua nhà, ông Chí còn cho bà
Lan, ông Vần vay 395.000.000 đồng (tương đương 25.000 USD);
Nếu trong 12 tháng bà Lan, ông Vần trả cho ông Chí 02 khoản tiền
trên là 715.000.000 đồng (tương đương 45.000 USD) thì hai bên
hủy bỏ hợp đồng mua bán nhà. (ii) Trong thời gian này, bà Lan, ông
Vần trả tiền thuê nhà 150 USD/tháng và trả tiền lãi 2%/tháng tính
trên số tiền 715.000.000 đồng.
Thực tế, ông Chí có cho bà Lan, ông Vần vay số tiền là
395.000.000 đồng (có biên nhận tiền của ông Vần, bà Lan kèm
theo). Do bà Lan và ông Vần không trả tiền thuê nhà và tiền lãi vay
còn thiếu 145.900.000 đồng, không trả tiền thuế chuyển quyền sử
dụng đất đối với việc mua bán căn nhà số 10b, phố S, quận T, thành
phố Đ là 15.445.500 đồng, tổng cộng là 556.345.500 đồng nên ông
Chí đã khởi kiện bà Thu Lan, ông Vần với yêu cầu: (1) Trả lại căn
nhà số 10b, phố S, quận T, thành phố Đ; (2) Trả số tiền nợ còn thiếu
tổng cộng là 395.000.000 đồng; (3) Trả số tiền 15.445.500 đồng
tiền thuế chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà ông đã đóng; (4)
Trong quá trình vay tiền, ông Vần và bà Lan đã trả lãi cho ông Chí
số tiền là 205.400.000 đồng nên ông không yêu cầu phải trả thêm
lãi suất nữa vì số tiền này đúng với số tiền mà ông Vần và bà Lan
phải trả lãi 1% x 52 tháng của 395.000.000 từ ngày 11/10/2010 đến
ngày 11/02/2013 là 205.400.000 đồng. Tổng cộng số tiền mà ông
Vần và bà Lan phải trả cho ông là 410.445.500 đồng. Vợ ông Chí là
bà Lê Mai Huệ cũng có cùng ý kiến với ông.

184
Theo lời trình bày của bà Vũ Thu Lan: Giữa ông Chí và bà Lan,
ông Vần không có việc giao dịch mua bán căn nhà số 10b, phố S, quận
T, thành phố Đ. Sở dĩ có việc ra công chứng chứng thực hợp đồng
mua bán căn nhà trên là do có giao dịch vay tiền 715.000.000
(tương đương 45.000 USD). Đảm bảo khoản vay này hai bên ký hợp
đồng mua bán nhà để chứng minh bà Lan có năng lực về tài sản.
Số tiền trên ông Chí thỏa thuận thành 02 khoản: 01 khoản là
320.000.000 đồng là giá mua bán nhà theo hợp đồng công chứng và
khoản còn lại là 395.000.000 đồng là tiền vay. Hàng tháng bà vẫn
đóng lãi cho ông Chí trên lãi suất thỏa thuận là 2%/số tiền tương
đương mỗi tháng 900 USD. Kể cả khi đã ký hợp đồng mua bán nhà
trong suốt 02 năm. Ngoài ra, còn bị ông Chí đòi thêm giao dịch nữa
là thuê nhà và đóng tiền thuê nhà là 150 USD/tháng. Bà Lan yêu
cầu: (1) Hủy Hợp đồng mua bán nhà số 26886/HĐ-MBN ngày
11/10/2010 về việc mua bán căn nhà số 10b, phố S, quận T, thành
phố Đ; (2) Việc ông Chí tiến hành đăng bộ nhà là vi phạm hợp đồng
với bà vì bà không bán nhà mà chỉ vay tiền nên bà không đồng ý trả
tiền thuế chuyển quyền sử dụng đất theo yêu cầu của ông Chí. Bà
chỉ đồng ý thanh toán tiền nợ đã vay cho ông Chí. Không đồng ý
giao nhà; (3) Bà Lan khẳng định không thuê nhà của ông Chí, trên
thực tế không có hợp đồng nào chứng minh việc thuê nhà này. Bà
Lan, ông Vần đề nghị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn đối với việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thuê nhà ở.

- Về quan hệ pháp luật tranh chấp và đánh giá chứng cứ trong


vụ án:
Căn cứ Hợp đồng mua bán nhà số 26886/HĐ-MBN ngày
11/10/2010 tại phòng công chứng số l giữa ông Nguyễn Đăng Chí và
bà Vũ Thu Lan, ông Nguyễn Văn Vần có đối tượng mua bán là căn
nhà số 10b, phố S, quận T, thành phố Đ với giá mua bán là
320.000.000 đồng. Cùng ngày hai bên lập phụ lục hợp đồng với nội
dung chính là:
+ Ông Chí đồng ý trong 12 tháng chưa thực hiện trước bạ căn
nhà vì ngoài số tiền mua nhà, ông Chí còn cho bà Lan, ông Vần vay
395.000.000 đồng (tương đương 25.000 USD). Nếu trong 12 tháng bà
Lan, ông Vần trả cho ông Chí 02 khoản tiền trên là 715.000.000 đồng
(tương đương 45.000 USD) thì hai bên hủy bỏ hợp đồng mua bán nhà.

185
- Trong thời gian này, bà Lan, ông Vần trả tiền thuê nhà 150
USD/tháng và trả tiền lãi 2%/tháng tính trên số tiền 715.000.000 đồng.
Ông Chí cũng đã xác nhận lúc đầu là hợp đồng vay nhưng do
ông Vần, bà Lan chỉ trả được 01 tháng đầu tiền thuê nhà và vẫn chỉ trả
lãi mà không trả được nợ gốc số nợ vốn 715.000.000 đồng, nên đến
ngày 28/8/2013, ông Chí đi trước bạ tại Chi cục thuế quận T, thành
phố Đ. Ngày 04/9/2013, ông Chí đã được đăng bộ đứng tên chủ nhà
theo thỏa thuận tại phụ lục hợp đồng.
Theo lời trình bày của bà Lan, bà không bán nhà mà chỉ vay tiền
và hợp đồng mua bán nhà để chứng minh việc bà có năng lực về tài
sản, bà Lan yêu cầu tuyên bố đây là giao dịch dân sự vô hiệu.
Với việc một bên khởi kiện ra Tòa yêu cầu tuyên hợp đồng vô
hiệu do giả tạo để che giấu một giao dịch khác, Luật sư cần căn cứ
quy định tại Điều 129 BLDS năm 2005 để xác định có hay không có
giao dịch giả tạo. Giao dịch giả tạo được hiểu là một giao dịch được
xác lập trên cơ sở hành vi gian dối nhằm cố tình che giấu một sự thực -
một giao dịch khác - giao dịch các bên thực sự mong muốn tham gia -
giao dịch bị che giấu. Yếu tố giả tạo ở đây được biểu hiện thông qua
dấu hiệu các bên thông đồng với nhau để tạo nên sự thiếu thống nhất
giữa ý chí và tuyên bố ý chí của các bên xác lập giao dịch. Tuyên bố ý
chí là việc một chủ thể tự bày tỏ ra bên ngoài về việc mong muốn làm
phát sinh một hậu quả pháp lý nhất định để người khác có thể biết, có
thể nắm bắt được. Điều đó có nghĩa là nó buộc người xác lập giao
dịch phải thể hiện mong muốn của họ ra bên ngoài một cách rõ ràng,
tránh việc thể hiện mong muốn một cách không rõ ràng, mập mờ, dễ
gây nhầm lẫn… đồng thời phải phản ánh chính xác mong muốn đích
thực của người xác lập giao dịch dân sự. Hay nói cách khác, đây là
những giao dịch mà các bên “tự nguyện” tham gia nhưng mục đích
giao dịch được thể hiện không phù hợp với mục đích mà các bên thật
sự quan tâm, hướng tới, mong muốn đạt được.
Khi nghiên cứu hồ sơ, Luật sư cần lưu ý việc đánh giá chứng cứ
trong trường hợp này, xem xét chính các điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng mua bán nhà ở, thỏa thuận thuê nhà ở. Khi giải quyết các tranh
chấp dân sự, theo yêu cầu của đương sự, Tòa án có thể nhập hai hoặc
nhiều quan hệ pháp luật có liên quan giải quyết trong cùng một vụ án,
việc nhập giải quyết trong cùng một vụ án phải đảm bảo đúng pháp

186
luật. Theo thỏa thuận tại Hợp đồng mua bán nhà số 26886/HĐ-MBN
ngày 11/10/2010 tại phòng công chứng số l và những thỏa thuận tại
phụ lục kèm theo, thì “Giá mua bán là 320.000.000 đồng. Bên B giao
và bên A nhận đủ số tiền mua bán căn nhà nêu trên. Việc giao và
nhận số tiền nêu trên do hai bên tự thực hiện và chịu trách nhiệm
trước pháp luật” và “Việc mua bán căn nhà số 10b, phố S, quận T,
thành phố Đ và việc cho vay tiền hai bên thỏa thuận như sau: A- Về
việc mua bán căn nhà số 10b, phố S, quận T, thành phố Đ. Bên B
đồng ý trong 12 tháng (kể từ ngày ký hợp đồng mua bán 11/10/2010)
chưa thực hiện trước bạ căn nhà trên vì lý do bên A có vay một số tiền
của bên B là 25.000 USD (hai mươi lăm ngàn đô la) ngoài số tiền đã
mua bán căn nhà trên. Bên A cam kết sau 12 tháng sẽ trả đủ số tiền
này và nếu có khả năng sẽ trả nốt số tiền đã nhận của bên B trị giá
đúng bằng 20.000 USD (hai mươi ngàn đô la) tổng cộng hai khoản
là 45.000 USD (bốn mươi lăm ngàn đô la) thì yêu cầu bên B hủy bỏ
hợp đồng mua bán căn nhà số 10b, phố S, quận T, thành phố Đ.
B- Về việc bên B cho vay tiền thêm (ngoài số tiền bên A đã nhận đủ từ
bên B số tiền mua bán nhà số 10b, phố S, quận T, thành phố Đ…”.
Theo lời trình bày của bà Lan và lời xác nhận của ông Chí thì
ông Chí đã nhận lãi đến hết năm 2012 và ông Vần, bà Lan ngừng
không tiếp tục thanh toán nữa. Việc vay nợ và việc mua bán nhà do
hai bên thỏa thuận cùng một lúc và giao dịch mua bán nhà có thể hiểu
là giao dịch dân sự có điều kiện chứ không phải chỉ nhằm mục đích
chứng minh nguồn tài chính như quan điểm của bà Lan trình bày.
Điều này chứng minh trên thực tế, ngày 11/6/2013 là ngày gia hạn
cuối cùng của ông Chí cho ông Vần và bà Lan thực hiện nghĩa vụ trả
nợ. Do bà Lan không thực hiện nghĩa vụ nên ngày 28/8/2013, ông Chí
đã thực hiện việc trước bạ tại Chi cục thuế quận T, thành phố Đ theo
thỏa thuận tại phụ lục hợp đồng hai bên đã ký kết. Ngày 04/9/2013,
ông Chí mới đứng tên chủ quyền nhà. Việc trước bạ nhà của ông Chí
thực hiện sau 34 tháng ký hợp đồng mua bán và tại thời điểm này bà
Lan và ông Vần vẫn chưa thanh toán khoản tiền nợ cho ông Chí.
Căn cứ theo phụ lục hợp đồng ngày 11/10/2010 hai bên thỏa
thuận: “... Trong thời gian 12 tháng, bên B cho bên A thuê lại căn nhà
số 10b, phố S, quận T, thành phố Đ với giá 150 USD/tháng”. Theo
ông Chí, sau khi ký hợp đồng mua bán nhà tại phòng công chứng, ông

187
Chí và vợ là bà Huệ đã nhận nhà và sau đó theo thỏa thuận của phụ
lục hợp đồng đã bàn giao nhà cho ông Vần, bà Lan thuê lại. Bà Lan và
ông Vần chỉ trả được 01 tháng tiền thuê nhà, căn nhà được thuê hiện
bỏ trống không sử dụng. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 499 BLDS
năm 2005: “... Hợp đồng thuê nhà ở chấm dứt trong các trường hợp
sau đây: 1-Thời hạn thuê đã hết;...”; khoản 4 Điều 494 BLDS
năm 2005 về quyền của bên cho thuê nhà ở: “Được lấy lại nhà cho
thuê khi thời hạn thuê đã hết...”. Vì vậy, yêu cầu của ông Chí buộc bà
Lan và ông Vần phải trả lại nhà số 10b, phố S, quận T, thành phố Đ là
có căn cứ pháp lý.
Về yêu cầu của ông Chí đòi ông Vần và bà Lan trả số tiền nợ còn
thiếu là 395.000.000 đồng: Tổng số tiền ông Chí giao bà Lan, ông Vần
là 715.000.000 đồng, trong đó có 320.000.000 đồng đã chuyển qua
thực hiện hợp đồng mua bán nhà. Còn lại 395.000.000 đồng đến nay
vẫn là tiền cho vay. Theo lời khai của ông Chí và lời khai của bà Lan
thì phía bà Lan, ông Vần mới chỉ thanh toán tiền lãi và chưa thanh
toán tiền gốc khoản vay nợ này. Về tiền lãi, hai bên thỏa thuận
2%/tháng là cao hơn so với quy định của pháp luật. Ông Chí xác nhận
ông đã nhận từ ông Vần và bà Lan 2% trong thời hạn 26 tháng là
205.400.000 đồng. Việc xác nhận của ông Chí phù hợp với lời trình
bày của ông Vần, bà Lan về việc thanh toán đúng khoản tiền lãi theo
thỏa thuận đến tháng 12/2012. Do đó, dù ông Chí tự nguyện không
yêu cầu bà Lan, ông Vần phải trả thêm lãi suất, Tòa án vẫn phải xem
xét lại cho phù hợp theo quy định của pháp luật.
Đối với yêu cầu của ông Chí buộc ông Vần và bà Lan trả số tiền
15.445.500 đồng tiền thuế chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà ông
đã đóng căn cứ theo thông báo của Chi cục thuế quận T. Theo quy
định của pháp luật, người bán phải nộp thuế này. Tuy nhiên, ông Chí
đã nộp thay số tiền này (theo giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước
ngày 28/8/2013). Do đó, yêu cầu của ông Chí đòi bà Lan, ông Vần
phải trả số tiền này là có cơ sở để chấp nhận.
Tuy nhiên, ở một góc độ khác, Luật sư có thể căn cứ vào nội
dung thỏa thuận trong Hợp đồng mua bán nhà số 26886/HĐ-MBN:
“Bên A cam kết sau 12 tháng sẽ trả đủ số tiền này và nếu có khả năng
sẽ trả nốt số tiền đã nhận của bên B trị giá đúng bằng 20.000 USD
(hai mươi ngàn đô la) tổng cộng hai khoản là 45.000 USD (bốn mươi
lăm ngàn đô la) thì yêu cầu bên B hủy bỏ hợp đồng mua bán căn nhà

188
số 10b, phố S, quận T, thành phố Đ” để đánh giá về bản chất giao dịch
là quan hệ vay tiền, quan hệ mua bán nhà chỉ như là một biện pháp
bảo đảm và nếu bên vay trả đủ tiền vay thì hủy bỏ hợp đồng mua bán -
tức là hủy bỏ biện pháp bảo đảm cho giao dịch vay tiền. Luật sư cần
khai thác thêm những chứng cứ khác để củng cố cho lập luận này thì
mới có cơ sở để kiến nghị Tòa án xem xét theo hướng hủy Hợp đồng
mua bán nhà số 26886/HĐ-MBN vô hiệu do giả tạo.
Như vậy, khi nghiên cứu hồ sơ, Luật sư cần yêu cầu xác định rõ
bản chất của quan hệ hợp đồng từ tính chất của hợp đồng mua bán,
hợp đồng thuê nhà ở hay hợp đồng vay. Quá trình đánh giá chứng cứ
phải xem xét, đánh giá toàn diện các điều kiện có hiệu lực của giao
dịch dân sự nói chung và đặc trưng của từng hợp đồng nói riêng.
Trong trường hợp hợp đồng bị vô hiệu thì việc giải quyết giao dịch vô
hiệu phải đánh giá lỗi, thiệt hại để xác định trách nhiệm bồi thường
khi giao dịch dân sự bị vô hiệu
2.1.3. Vụ án tranh chấp thừa kế
Tranh chấp về thừa kế thường là loại việc phức tạp vì đây là
tranh chấp giữa những người thân thích. Đối với loại việc này thường
giữa các đương sự đã có quá trình thương lượng giải quyết nhưng
không thành, mâu thuẫn nội bộ gay gắt, có trường hợp cố tình chiếm
đoạt di sản, giả mạo chứng cứ khi kiện đến Toà án.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án loại việc này, Luật sư phải đánh giá,
làm rõ được những vấn đề sau:
- Thời điểm mở thừa kế (ngày, tháng, năm người có tài sản chết).
- Di sản thừa kế gồm những gì, nguồn gốc, quá trình biến đổi và
thực trạng từng loại di sản, ai là người đang quản lý di sản và tình
trạng quản lý, sử dụng di sản như thế nào; nghĩa vụ dân sự của người
chết trước khi để lại di sản; công sức duy trì, phát triển tài sản là di
sản; công sức chăm sóc, ma chay cho người chết của người khác phải
tính khi chia di sản.
- Những người thuộc diện thừa kế được hưởng thừa kế theo pháp
luật, những người thừa kế bắt buộc, khước từ thừa kế, bị truất quyền
thừa kế, thừa kế thế vị.
- Yêu cầu của các bên đương sự về việc hưởng di sản thừa kế

189
bằng hiện vật hay bằng tiền cụ thể như thế nào? Xác định điều kiện và
hoàn cảnh của các thừa kế, thực trạng tài sản để chia hiện vật hay chia
tiền cho phù hợp.
- Nguyên nhân dẫn đến việc tranh chấp; tâm tư, nguyện vọng của
đương sự trong việc giải quyết tranh chấp.
- Đối với một số di sản nếu pháp luật quy định là loại tài sản phải
đăng ký, quản lý thì phải xác định được tính chất pháp lý của loại tài
sản đó để có đường lối giải quyết phù hợp. Không được coi tất cả
những tài sản mà người chết để lại đương nhiên là di sản đều được
phân chia mà không quan tâm đến tính hợp pháp của nó.
- Phải xác định được giá trị và thực trạng tài sản có tranh chấp,
xem xét các yêu cầu của đương sự để có sự phân chia di sản phù hợp.
- Xác định được các điều luật cụ thể áp dụng giải quyết vụ án.
- Nếu có thừa kế theo di chúc thì phải xác định loại di chúc,
đánh giá hiệu lực pháp luật của di chúc để xác định tính hợp pháp
của di chúc. Nếu di chúc không phù hợp với pháp luật thì không giải
quyết việc thừa kế theo di chúc mà phải chia thừa kế theo pháp luật.
Nếu di chúc hợp pháp, được chấp nhận thì phải chú ý đến trường hợp
được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật không phụ thuộc
vào di chúc.
Ví dụ:
Cụ Nguyễn Đình Mẫng (chết năm 1943) và cụ Lê Thị Hai (chết
ngày 21/12/2010) có hai người con chung là bà Nguyễn Thị
Phượng và bà Nguyễn Thị Công. Tài sản là di sản thừa kế của cụ
Hai để lại gồm có: 01 căn nhà cấp 4 xây dựng trên diện tích
20.108 m2 thuộc thửa số 95, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số BD060665 và 4.232m 2 thuộc thửa số 82, giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số BD060666 thuộc tờ bản đồ số 18, xã B,
huyện C, tỉnh V đều do UBND huyện C cấp ngày 14/10/2010. Khi
còn sống, cụ Hai lập ba bản di chúc gồm:
- Bản di chúc ngày 11/9/2007 có hai người làm chứng là ông
Nguyễn Phương Duy và ông Nguyễn Văn Thực. Nội dung di chúc
định đoạt cho bà Phượng được hưởng căn nhà. Đối với diện tích

190
20.108m2 và 4.232m2 được chia cho bà Phượng và bà Công mỗi
người được hưởng ½.
- Bản di chúc lập ngày 31/7/2008 tại phòng công chứng số 2 tỉnh
V với nội dung định đoạt cho bà Nguyễn Thị Công được thừa kế
toàn bộ di sản của cụ Lê Thị Hai không kèm theo điều kiện.
- Bản di chúc lập ngày 15/10/2010 được ông Trần Văn Phúc,
công chứng viên thuộc văn phòng công chứng Vì Dân công chứng
với nội dung định đoạt: diện tích 20.108m2 và 4.232m2 được chia
cho bà Phượng và bà Công mỗi người được hưởng một nửa. Di
chúc này do công chứng viên lập tại nhà cụ Hai. Tối ngày
18/10/2010, cụ Hai phát hiện sai sót về lỗi đánh máy đối với số liệu,
diện tích và nơi lập di chúc nên sáng ngày 19/10/2010 đã yêu cầu
ông Phúc sửa những lỗi trên bằng cách ghi chữ viết tay vào bên lề
tờ di chúc, công chứng viên đã ký tên và đóng dấu vào di chúc. Sau
khi cụ Hai chết, các bên đương sự nảy sinh tranh chấp. Bà Phượng
đã khởi kiện bà Công yêu cầu chia di sản thừa kế theo di chúc lập
ngày 15/10/2010. Bà Công đề nghị yêu cầu tuyên di chúc do công
chứng viên lập ngày 15/10/2010 là văn bản công chứng vô hiệu,
đồng thời đề nghị Tòa án cho bà được hưởng di sản thừa kế theo
bản di chúc của cụ Hai lập ngày 31/7/2008.

Khi đánh giá tính hợp pháp của di chúc, Luật sư cần căn cứ vào
thời điểm xác lập di chúc để áp dụng luật. Nguyên tắc chung, một di
chúc được xác định là di chúc hợp pháp là di chúc phải đáp ứng được
các điều kiện về năng lực hành vi dân sự của người lập di chúc, điều
kiện về ý chí của người lập di chúc, điều kiện về nội dung của di
chúc và điều kiện về hình thức của di chúc. Ngoài ra, còn phải đáp
ứng được các điều kiện có hiệu lực đối với từng loại di chúc. Luật sư
cần lưu ý: (i) Ý chí của người lập di chúc là một trong những điều
kiện nhằm đảm bảo di chúc thể hiện đúng ý nguyện, sự định đoạt,
quyết định của người lập di chúc về việc dịch chuyển tài sản của họ
sau khi chết; theo đó, người lập di chúc phải tự nguyện khi lập di
chúc, không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép; sự tự nguyện của
người lập di chúc là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của họ,
là sự thống nhất giữa ý chí chủ quan, mong muốn bên trong và thể
hiện ra bên ngoài; sự thống nhất này có thể bị phá vỡ trong những
trường hợp người lập di chúc bị cưỡng ép, đe dọa hoặc di chúc do họ

191
lập trên cơ sở bị lừa dối; (ii) Nội dung của di chúc là sự thể hiện ý
chí của người lập di chúc về việc định đoạt tài sản của mình cho
những người thừa kế, cụ thể là: tài sản nào, ai thừa kế, ai bị truất
quyền, di tặng, thờ cúng, nghĩa vụ về tài sản (nếu có), quản lý tài
sản, phân chia di sản thừa kế, quản lý di chúc,…; (iii) Hình thức của
di chúc là phương thức biểu hiện ý chí của người lập di chúc, là căn
cứ pháp lý làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc, là chứng cứ
để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong di chúc; pháp luật
quy định di chúc phải được lập dưới những hình thức nhất định; về
kỹ thuật, di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di
chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có
chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án này, việc đánh giá chứng cứ có
những quan điểm khác nhau về tính hợp pháp của di chúc:
Thứ nhất, đánh giá lỗi kỹ thuật trong văn bản công chứng và ý
chí tự nguyện của người để lại di sản thừa kế. Bản di chúc lập
ngày 15/10/2010 được ông Trần Văn Phúc, công chứng viên thuộc
văn phòng công chứng Vì Dân công chứng. Giá trị pháp lý của di chúc
này ngoài các điều kiện về nội dung, về hình thức di chúc sẽ được
đánh giá theo loại di chúc bằng văn bản có công chứng. Tại khoản 1
Điều 658 BLDS năm 2005 về thủ tục lập di chúc tại cơ quan công
chứng… có quy định về phương thức lập di chúc: “Người lập di chúc
tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có
thẩm quyền chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn. Công chứng
viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội
dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc
điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi
chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn
ký vào bản di chúc”. Theo lời khai của bị đơn “Theo bản chính của di
chúc ngày 15/10/2010 do nguyên đơn cung cấp thể hiện: Di chúc này
gồm hai bản chính (mỗi bản chính gồm hai tờ, ba trang). Cấp cho
người lập di chúc hai bản chính, văn phòng công chứng Vì Dân một
bản chính. Trong quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa, công chứng
viên cho rằng do sai sót trong việc đánh máy nên đã ghi di chúc được
lập thành hai bản chính nhưng thực tế là ba bản chính. Nguyên đơn

192
chỉ cung cấp được một bản chính có sửa chữa ngày 19/10/2010 có chữ
ký của công chứng viên và đóng dấu của văn phòng công chứng.
Đồng thời, di chúc có ba trang nhưng không đánh số thứ tự từng trang.
Cụ Hai có xác nhận hình thức điểm chỉ ở trang hai mà không điểm chỉ
ở trang một là vi phạm quy định tại Điều 653 BLDS năm 2005 và
Điều 42 Luật Công chứng năm 2006.”
Khách quan cho thấy, cách đánh giá chứng cứ như nhận định
trên không khoa học và hợp lý. Dấu vết người lập di chúc để lại trên
bản di chúc là ký hoặc điểm chỉ và lời xác nhận di chúc được ghi chép
chính xác, thể hiện đúng ý chí của mình. Thông thường, vai trò của
công chứng viên hay người có thẩm quyền chứng thực là ghi chép lại
nội dung của người lập di chúc đã tuyên bố. Việc ghi chép này có thể
bằng tay hay đánh máy vi tính, chứng thực đúng thực tế. Điều 658
BLDS chỉ quy định người để lại di chúc ký tên hoặc điểm chỉ không
bắt buộc phải vừa ký tên, vừa điểm chỉ. Vấn đề mấu chốt nhất ở đây là
xác nhận có đúng ý chí đích thực của người để lại di sản thừa kế
không. Văn bản công chứng di chúc lập ngày 15/10/2010 chỉ sai sót
về diện tích đất, về nơi công chứng giữa trang đầu và trang cuối của
văn bản công chứng, lập hai hay ba bản chính. Mặc dù cụ Hai không
điểm chỉ ở trang đầu nhưng đây là trang không ghi nội dung chính của
ý chí của người để lại di chúc, nhất là không ghi người được hưởng di
sản. Các sai sót đã được phòng công chứng chỉnh sửa, đính chính chỉ
là lỗi kỹ thuật, không ảnh hưởng đến nội dung thể hiện ý chí của
người để lại di chúc. Khi đánh giá chứng cứ, Luật sư cần xem xét và
hiểu thống nhất về nghĩa vụ chứng minh. Ở đây, các đương sự không
tranh chấp về việc cụ Hai còn minh mẫn tại thời điểm lập di chúc hay
không. Thủ tục công chứng theo quy định tại Điều 42 Luật Công
chứng và quy định tại Điều 658 “Thủ tục lập di chúc tại cơ quan công
chứng hoặc UBND xã, phường, thị trấn” của BLDS năm 2005 không
yêu cầu người để lại di sản thừa kế phải xuất trình văn bản xác nhận
đang trong tình trạng minh mẫn, sáng suốt của cơ quan có thẩm
quyền. Mặt khác, không thể suy luận chủ quan tuổi tác là cơ sở để xác
định sự minh mẫn, sáng suốt của người để lại di sản thừa kế. Từ vụ án
này, vấn đề đặt ra là khi xem xét, đánh giá chứng cứ, Luật sư cần xét
về bản chất ý chí và phân biệt lỗi kỹ thuật với lỗi nội dung thể hiện ý
chí của người để lại di sản, một mặt nhằm đảm bảo tôn trọng quyền

193
của người để lại di sản thừa kế, mặt khác để đảm bảo quyền, lợi ích
hợp pháp của các đương sự.
Thứ hai, đánh giá về sự tồn tại của nhiều di chúc khác nhau đối
với cùng một loại di sản và việc hủy bỏ di chúc. BLDS năm 2005 đã
ghi nhận và bảo vệ quyền định đoạt tài sản của người để lại di sản tại
Điều 648 và Điều 662. Tại Điều 648 BLDS năm 2005 người để lại di
sản thừa kế có quyền chỉ định người thừa kế, phân định tài sản cho
những người thừa kế của mình. Tương tự vậy, khoản 1 Điều 684 BLDS
năm 2005 quy định việc phân chia di sản được thực hiện theo ý chí
của người lập di chúc. Theo cách phân chia này thì ý chí của người lập
di chúc luôn được tôn trọng và thực hiện. Có nghĩa là, di sản được
chia theo đúng ý nguyện của người đã chết. Vấn đề đặt ra trong vụ án
này, phía bị đơn cho rằng “Vì di chúc do cụ Lê Thị Hai lập là không
hợp pháp nên cần công nhận giá trị pháp lý của di chúc lập ngày
31/7/2008” là không có cơ sở. Vụ án này đặt ra những quan điểm khác
nhau khi đánh giá chứng cứ. Có quan điểm cho rằng, khi di chúc cuối
cùng không hợp pháp, cá nhân đã “ngầm” hủy di chúc trước nên di
chúc trước không có giá trị. Khi di chúc mới vô hiệu thì không còn di
chúc nữa. Quan điểm khác lại cho rằng, di chúc sau cùng ngầm hủy di
chúc trước nhưng do di chúc sau cùng vô hiệu thì hành vi hủy ngầm
cũng vô hiệu nên không có hủy di chúc trước. Vì vậy, vẫn cho phép
đánh giá tính hợp pháp của di chúc trước.
Việc lập di chúc là hành vi của chủ sở hữu định đoạt tài sản của
mình nên chủ sở hữu phải nhận thức được và làm chủ được hành vi đó
khi thực hiện quyền định đoạt. Điểm a khoản 1 Điều 652 BLDS
năm 2005 quy định: “Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong
khi lập di chúc”. Một người thay đổi ý định định đoạt tài sản của mình
trước khi chết không thể suy luận là họ thiếu minh mẫn, sáng suốt.
Khoản 5 Điều 667 BLDS năm 2005 quy định: “Khi một người để lại
nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có
hiệu lực pháp luật”. Khi có nhiều di chúc của một người với cùng một
di sản, với việc lập di chúc sau thì người để lại di sản thừa kế đã mặc
nhiên hủy bỏ di chúc trước đó. Điều này cũng phù hợp với quy định
tại khoản 1 Điều 662 BLDS năm 2005: “Người lập di chúc có thể sửa
đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc vào bất cứ lúc nào”. Với di chúc
sau, người để lại di sản thừa kế đã loại trừ di chúc trước. Do đó, trong

194
vụ án này khi người để lại di sản thừa kế lập di chúc ngày 15/10/2010
theo các quy định của pháp luật hiện hành thì đương nhiên đã hủy bỏ
di chúc trước đó lập ngày 31/7/2008 và di chúc lập ngày 11/9/2007.
Việc xem xét, đánh giá các di chúc lập trước đó chỉ là chứng cứ để kết
hợp với các chứng cứ khác trong việc đánh giá ý chí định đoạt di sản
thừa kế của người để lại di sản đối với di chúc cuối cùng. Trong vụ án
này, mọi trường hợp đều không xem xét, đánh giá giá trị pháp lý của
di chúc lập ngày 31/7/2008 để chia di sản thừa kế theo di chúc này khi
di chúc này đã đương nhiên bị hủy bỏ bởi người lập di chúc. Pháp luật
Việt Nam tôn trọng quyền định đoạt của người để lại di sản thừa kế.
Nếu không có việc định đoạt tài sản bằng di chúc hoặc di chúc không
hợp pháp thì di sản của người chết mới được chia theo pháp luật.
2.1.4. Vụ án bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Đối với loại án này, Luật sư cần lưu ý nghiên cứu chứng cứ làm
rõ được các vấn đề cần chứng minh sau: (i) Chứng minh có thiệt hại
xảy ra hay không? (ii) Có hành vi vi phạm pháp luật hay không? (iii)
Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm pháp luật và thiệt hại
hay không? (iv) Có lỗi hay không, trừ những trường hợp điển hình về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại không cần lỗi.
Trước tiên, Luật sư cần thu thập các chứng cứ như vấn đề năng
lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, chứng minh mức độ lỗi (lỗi
của bên nào, lỗi của từng người trong trường hợp lỗi hỗn hợp hoặc
nhiều người cùng gây thiệt hại…). Tùy vào việc Luật sư bảo vệ cho
phía bên bị thiệt hại hay bên gây thiệt hại mà việc xem xét chứng cứ
có sự khác biệt trong từng vụ kiện cụ thể:
- Trường hợp là Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
khách hàng là người gây thiệt hại, cần chú trọng các chứng cứ về loại
bỏ hoặc giảm trừ trách nhiệm bồi thường, như: không có hành vi vi
phạm pháp luật, hành vi vi phạm pháp luật không phải là nguyên nhân
trực tiếp gây ra thiệt hại, có hành vi vi phạm pháp luật nhưng không
có lỗi, lỗi hỗn hợp hoặc trách nhiệm liên đới bồi thường, không có cơ
sở để xác định giá trị thiệt hại,... Chứng cứ chứng minh khả năng kinh
tế trước mắt và lâu dài là yếu kém để yêu cầu giảm mức bồi thường.
- Đối với bên bị thiệt hại: Luật sư cần phải chứng minh được
từng khoản thiệt hại thực tế đã xảy ra, mức độ thiệt hại. Theo nguyên

195
tắc, thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ, tức là thiệt hại bao nhiêu
thì phải bồi thường bấy nhiêu. Tương ứng với mức yêu cầu bồi
thường, bên bị thiệt hại phải xem xét, đánh giá các chứng cứ chứng
minh có chứng từ hoặc các giấy biên nhận hợp lệ về các khoản chi phí
hợp lý - chi phí phù hợp với tính chất, mức độ của thiệt hại, phù hợp
với giá trung bình ở từng địa phương tại thời điểm chi phí. Tùy từng
trường hợp mà thiệt hại được xác định cụ thể như tài sản bị mất, bị
hủy hoại, bị hư hỏng; lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài
sản bị mất hoặc bị giảm sút; những chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn
chế nhằm khắc phục thiệt hại; những chi phí hợp lý cho việc cứu chữa,
bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi của người bị thiệt hại về sức khỏe; thu
nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút; những chi phí hợp lý cho việc
mai táng….
- Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe do gây thương
tích, Luật sư cần đánh giá các tài liệu, chứng cứ: Biên bản của công an
hay của UBND về sự kiện xảy ra; quyết định cảnh cáo của công an;
giấy khám thương tật và tỷ lệ thương tật do cơ quan công an giới thiệu
đi khám;
- Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản do hành vi xây
dựng trái pháp luật gây ra, chứng cứ cần đánh giá: Quyết định đình chỉ
xây dựng của cơ quan có thẩm quyền, quyết định buộc tháo dỡ công
trình, biên bản thẩm định về tình trạng hư hỏng, thiệt hại về tài sản của
thanh tra xây dựng, kết luận về nguyên nhân gây ra thiệt hại…
- Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao
độ gây ra cần xem xét các chứng cứ: Bản kết luận điều tra vụ tai nạn
giao thông đường bộ của cơ quan công an; biên bản hiện trường, bệnh
án của bệnh viện, các chứng cứ về chi phí y tế mà bên bị thiệt hại phải
chi phí để phục hồi sức khỏe…
Ngoài ra, các chứng cứ khác Tòa án thu thập như kết quả định
giá tài sản, biên bản xem xét thẩm định tại chỗ, kết quả trưng cầu giám
định sức khỏe, thiệt hại (nếu có) cần được chú trọng xem xét...
Trường hợp khách hàng yêu cầu bồi thường cho người chăm sóc
người bị thiệt hại, Luật sư cần nghiên cứu đánh giá các chứng cứ về
chi phí hợp lý tiền tầu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ cho người chăm sóc,
chứng cứ chứng minh thu nhập thực tế của người chăm sóc.

196
Đối với yêu cầu bồi thường lâu dài và bồi thường về cấp dưỡng,
Luật sư cần lưu ý các chứng cứ chứng minh chi phí hợp lý hàng tháng
cho việc nuôi dưỡng; chi phí điều trị thường xuyên và định kỳ; chi phí
hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc, chi phí cấp dưỡng cho
những người mà người bị thiệt hại đang cấp dưỡng.
Ngoài ra, Luật sư cần nghiên cứu kỹ các chứng cứ chứng minh
tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại.
- Đối với thiệt hại do tính mạng bị xâm hại: Chứng cứ chứng
minh các khoản chi phí hợp lý cho việc mai táng. Ví dụ, hóa đơn mua
quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang,
hương, nến, hoa, thuê xe tang, các khoản chi phí phục vụ việc chôn
cất (hỏa táng) nạn nhân theo thông lệ chung phù hợp với tập quán
của địa phương (không phải là tập quán mang tính hủ tục, lạc hậu);
thiệt hại về tổn thất tinh thần cho những người thân thích, gần gũi
nhất của nạn nhân.
- Đối với thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm:
Hóa đơn thể hiện chi phí tổ chức xin lỗi, cải chính công khai tại nơi cư
trú, nơi làm việc của người bị thiệt hại; hóa đơn, vé tàu xe đi lại, thuê
nhà trọ để yêu cầu các cơ quan chức năng xác minh sự việc, cải chính
trên các phương tiện thông tin đại chúng; chi phí đối với việc thu hồi
ấn phẩm xúc phạm, các chi phí hợp lý khác…
2.2. Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, đánh giá và sử dụng chứng cứ
trong một số vụ án kinh doanh, thương mại
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án kinh doanh, thương mại, vấn đề đầu
tiên Luật sư cần nghiên cứu là những tài liệu, chứng cứ để xác định
quan hệ pháp luật tranh chấp có phải là quan hệ pháp luật trong lĩnh
vực kinh doanh, thương mại hay không và là quan hệ pháp luật nào.
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, tranh chấp kinh doanh,
thương mại bao gồm bốn loại cơ bản:
- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại
giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục
đích lợi nhuận.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ
giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.

197
- Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng
có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên
công ty.
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, với
người quản lý của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau
liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất,
chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức
của công ty.
Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án để xác định rõ quan hệ pháp luật
tranh chấp là vấn đề mấu chốt, giúp cho Luật sư xác định được nguồn
luật điều chỉnh quan hệ pháp luật đó, vận dụng làm cơ sở pháp luật nội
dung để giải quyết vụ án, bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng. Tùy
theo từng loại quan hệ pháp luật tranh chấp, việc nghiên cứu hồ sơ vụ
án của Luật sư sẽ có những đặc thù khác nhau.
2.2.1. Vụ án tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh,
thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và
đều có mục đích lợi nhuận
Vụ án tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương
mại thường là loại án về tranh chấp hợp đồng thương mại.
Theo quy định của pháp luật, có hai loại hợp đồng là hợp đồng
dân sự và hợp đồng thương mại. Để phân biệt loại hình hợp đồng,
chúng ta dựa vào yếu tố chủ thể của hợp đồng và mục đích của hợp
đồng. Hợp đồng thương mại là hợp đồng được xác lập giữa các cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh và đều vì mục đính lợi nhuận;
trong đó đăng ký kinh doanh là việc cá nhân, tổ chức đã được các cơ
quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp hoặc đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật;
Mục đích lợi nhuận của cá nhân, tổ chức trong hoạt động kinh doanh,
thương mại là mong muốn của cá nhân, tổ chức đó thu được lợi nhuận
mà không phân biệt có thu được hay không thu được lợi nhuận từ hoạt
động kinh doanh, thương mại đó; Hoạt động kinh doanh, thương mại
là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi khác. Hoạt động kinh doanh, thương mại không chỉ
là hoạt động trực tiếp theo đăng ký kinh doanh, thương mại - ví dụ

198
như mua nguyên vật liệu về để sản xuất ra sản phẩm, mà còn bao gồm
cả các hoạt động khác phục vụ thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động
kinh doanh, thương mại, ví dụ như ký hợp đồng đưa cán bộ, công
nhân viên đi nghỉ mát dưỡng sức. Đối với tranh chấp hợp đồng kinh
doanh, thương mại, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Luật sư cần chú trọng
một số vấn đề pháp lý cơ bản như sau:
(i) Hiệu lực pháp luật của hợp đồng
Hiệu lực pháp luật của hợp đồng sẽ quyết định việc Tòa án có
xem xét, giải quyết tranh chấp công nhận hợp đồng theo yêu cầu của
các bên hay không, quyền lợi của các bên trong tranh chấp có được
pháp luật bảo vệ hay không. Nếu hợp đồng không có hiệu lực pháp
luật thì theo quy định của pháp luật dân sự, Tòa án sẽ tuyên bố giao
dịch vô hiệu và tùy từng trường hợp giải quyết hậu quả của hợp đồng
vô hiệu theo yêu cầu của một hoặc các bên.
Để đánh giá về hiệu lực pháp luật của một hợp đồng thương mại,
Luật sư căn cứ các quy định của BLDS và luật chuyên ngành có liên
quan về hiệu lực của hợp đồng, từ đó đối chiếu với hợp đồng đang
tranh chấp, đồng thời tùy từng quan hệ pháp luật hợp đồng mà xác
định căn cứ pháp luật chuyên ngành có liên quan để xem xét về hiệu
lực pháp luật của hợp đồng cụ thể. Ví dụ: tranh chấp về hợp đồng tín
dụng thì ngoài việc xem xét hiệu lực pháp luật của hợp đồng theo quy
định của BLDS, Luật sư cần vận dụng cả quy định của pháp luật về
hoạt động ngân hàng, tranh chấp về hợp đồng xây dựng dự án thì cần
vận dụng cả quy định của pháp luật về xây dựng, nhà ở, đất đai, kinh
doanh bất động sản.
Luật sư xem xét hiệu lực pháp luật của hợp đồng thương mại ở
những khía cạnh chủ yếu sau:
- Về chủ thể, các bên ký kết hợp đồng có tư cách pháp nhân đầy
đủ hay không, nếu một bên ký hợp đồng là chi nhánh của pháp nhân
thì có ủy quyền hợp pháp của pháp nhân cho chi nhánh ký hợp đồng
hay không; có đăng ký doanh nghiệp hoặc đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh hay không; mục đích,
nội dung và đối tượng của hợp đồng có phù hợp với đăng ký không;
giao dịch đã được cấp có thẩm quyền của pháp nhân phê duyệt hay

199
chưa? người ký hợp đồng có đủ thẩm quyền ký hay không. Mỗi yếu tố
về chủ thể không thỏa mãn quy định của pháp luật đều có thể dẫn đến
hậu quả là hợp đồng bị vô hiệu.
Luật sư cần đặc biệt lưu ý: đối với một doanh nghiệp, thẩm
quyền quyết định giao dịch có thể khác với thẩm quyền ký kết hợp
đồng. Để một hợp đồng có hiệu lực pháp luật thì giao dịch được quy
định trong hợp đồng đó phải được cấp có thẩm quyền của doanh
nghiệp phê duyệt, cấp có thẩm quyền có thể là Đại hội đồng cổ đông,
HĐQT, Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Tổng Giám đốc, hoặc
thậm chí là một cơ quan được cấp có thẩm quyền của doanh nghiệp
thành lập, ví dụ như Hội đồng đầu tư, Ủy ban tín dụng. Thẩm quyền
ký hợp đồng thương mại thường thuộc về người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm
2014. Tuy nhiên, có thể doanh nghiệp quy định khác, ví dụ như quy
định thẩm quyền ký hợp đồng thuộc về cấp có thẩm quyền phê duyệt
giao dịch hoặc người được cấp có thẩm quyền phê duyệt giao dịch ủy
quyền. Xác định thẩm quyền thường được quy định trong điều lệ
doanh nghiệp, trong một số trường hợp nếu điều lệ doanh nghiệp
không quy định hoặc quy định không cụ thể thì doanh nghiệp sẽ ban
hành quy chế quản lý nội bộ để quy định cụ thể về thẩm quyền này.
Do vậy, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Luật sư cần xem xét kỹ điều lệ
doanh nghiệp, quy chế quản lý nội bộ của doanh nghiệp để xác định
cụ thể thẩm quyền phê duyệt, thẩm quyền ký kết hợp đồng thương
mại, đối chiếu với hợp đồng để xác định hiệu lực pháp luật của nó.
Lưu ý, theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì hợp
đồng thương mại vẫn có hiệu lực pháp luật trong trường hợp người ký
hợp đồng không có thẩm quyền, nhưng người có thẩm quyền của pháp
nhân biết việc ký hợp đồng mà không phản đối (ví dụ: tài sản, tiền vốn
là đối tượng của hợp đồng đã được đưa vào hoạt động tạo thành kết
quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, người có thẩm quyền đã
ký những tài liệu như báo cáo hoạt động, báo cáo tài chính, chứng từ
kế toán, biên bản nghiệm thu,… trong đó có nội dung liên quan đến
hợp đồng đã ký kết,…). Thông thường việc ký kết hợp đồng thương
mại do cấp phó thực hiện theo ủy quyền của cấp trưởng. Xét về bản
chất pháp lý, việc ủy quyền thể hiện ý chí của một tổ chức, cá nhân có
quyền mong muốn ủy quyền một hoặc một số công việc nhất định cho
tổ chức, cá nhân khác. Cá nhân ủy quyền trong quan hệ ủy quyền

200
được hiểu là một con người cụ thể với ý chí chủ quan của bản thân họ
trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định muốn ủy thác quyền của
mình cho cá nhân khác. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, văn bản
ủy quyền chỉ quy định người được ủy quyền được thực hiện những thủ
tục nhất định, như vậy không có nghĩa là được quyết định về nội dung
giao dịch, ví dụ: Giám đốc ủy quyền cho Phó Giám đốc là ông A được
thực hiện các thủ tục, ký các văn bản liên quan đến việc bán máy móc,
thiết bị của công ty, như vậy không có nghĩa là ông A được quyết định
về giá bán, về các điều khoản khác quy định nghĩa vụ của công ty.
Một vấn đề nữa của ủy quyền giữa các cá nhân với nhau là việc
xác định ủy quyền theo người hay theo chức danh. Đây là cơ chế ủy
quyền không phải thực hiện theo ý chí chủ quan của cá nhân mà là
việc ủy quyền được thực hiện theo nguyên tắc quản lý điều hành của
doanh nghiệp, ví dụ: quy chế quản lý nội bộ của công ty quy định Phó
Giám đốc có thẩm quyền quyết định nội dung giao dịch và ký kết các
hợp đồng thương mại có giá trị dưới 3 tỷ đồng, đồng thời quy định về
thủ tục hành chính, Giám đốc công ty phải ký văn bản ủy quyền cho
Phó Giám đốc.
Tóm lại, những tài liệu, chứng cứ cơ bản mà Luật sư cần nghiên
cứu khi xác định hiệu lực pháp luật của hợp đồng thương mại là điều
lệ, đăng ký doanh nghiệp hoặc đăng ký kinh doanh hoặc quyết định
thành lập của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, quy chế quản lý nội
bộ, các nghị quyết, quyết định phê duyệt giao dịch, quyết định bổ
nhiệm/biên bản bầu chức danh Giám đốc, giấy ủy quyền ký kết hợp
đồng và những văn bản khác có liên quan của pháp nhân.

Ví dụ: Vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng nhà xưởng


giữa công ty X và công ty Y.
Tổng Giám đốc A của công ty X có văn bản ủy quyền cho Phó
Tổng Giám đốc B được quyết định nội dung giao dịch và ký kết các
hợp đồng thương mại có giá trị dưới 5 tỷ đồng trong thời gian 01
năm kể từ 01/01/2016 đến 31/12/2016. Đến 30/6/2016, ông A nghỉ
việc và Hội đồng quản trị công ty X đã bổ nhiệm ông C làm Tổng
Giám đốc, ông C không có văn bản ủy quyền cho cấp phó. Ngày
01/8/2016, công ty X ký hợp đồng chuyển nhượng một nhà xưởng
sản xuất sợi cho công ty Y, Phó Tổng Giám đốc B ký hợp đồng

201
chuyển nhượng theo ủy quyền của Tổng Giám đốc A. Trong quá
trình thực hiện hợp đồng, công ty X và công ty Y có tranh chấp,
công ty X tuyên bố hủy bỏ hợp đồng do người ký hợp đồng là ông B
không có thẩm quyền ký kết. Công ty Y khởi kiện công ty X ra Tòa
yêu cầu Tòa án giải quyết buộc công ty X phải thực hiện hợp đồng
và bồi thường thiệt hại cho công ty Y do hành vi chấm dứt hợp đồng
trái pháp luật.

Trong vụ án này, Luật sư cần nghiên cứu các chứng cứ để xác


định cơ chế ủy quyền của công ty X, tính hợp pháp của việc ông A
nghỉ việc, thời điểm ủy quyền. Nếu đây là việc thực hiện ủy quyền của
chức danh cho chức danh theo nguyên tắc quản lý điều hành của
doanh nghiệp như trên đã phân tích thì ủy quyền của Tổng Giám đốc A
về nguyên tắc sẽ đương nhiên được tiếp tục thực hiện bởi Tổng Giám
đốc C, hay nói cách khác, việc ủy quyền có hiệu lực pháp luật. Trường
hợp ủy quyền theo cơ chế cá nhân ủy quyền cho cá nhân thì ý chí chủ
quan của ông A với chức danh Tổng Giám đốc không đương nhiên
chuyển sang ông C là Tổng Giám đốc mới, tức là việc ủy quyền trước
đây của ông A không phải là ý chí của ông C, hay nói cách khác là
Tổng Giám đốc A đã nghỉ việc thì không còn quyền và việc ủy quyền
của ông A không còn hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm ông A nghỉ
việc. Vì vậy, Luật sư cần nghiên cứu kỹ văn bản ủy quyền này để nắm
được chính xác nội dung được ủy quyền là gì, nghiên cứu kỹ điều lệ,
quy chế quản lý nội bộ của pháp nhân để xác định cơ chế ủy quyền
của pháp nhân đó được quy định như thế nào, nghiên cứu các sự kiện
pháp lý có liên quan để xem xét người ủy quyền có còn quyền để ủy
quyền hay không,…
Đồng thời, Luật sư cần nghiên cứu các tình tiết, chứng cứ thể
hiện quá trình thực hiện hợp đồng, giao tài sản, nhận tiền thanh
toán,… ông C có biết và không phản đối hay không.
Từ cơ sở nghiên cứu nói trên, Luật sư đánh giá được tính hợp
pháp của việc ký kết hợp đồng thương mại do Phó Tổng Giám đốc B
thực hiện và lập phương án sử dụng chứng cứ để chứng minh yêu cầu
của khách hàng mình là có căn cứ pháp luật.
Về mục đích và đối tượng của hợp đồng: để một hợp đồng
thương mại có hiệu lực pháp luật thì mục đích của hợp đồng phải

202
không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, không
nhằm trốn tránh nghĩa vụ với nhà nước và bên thứ ba; đối tượng của
hợp đồng phải được xác định cụ thể, không bị cấm giao dịch, thỏa
mãn điều kiện giao dịch theo quy định của pháp luật, đối tượng của
hợp đồng là công việc thì công việc đó phải có thể thực hiện được,
không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
Một số ví dụ: (1) mục đích của một hợp đồng hợp tác kinh doanh
sản phẩm bột nêm là không hợp pháp vì nhằm tạo điều kiện cho công
ty A và công ty B thâu tóm thị trường kinh doanh dẫn đến hai công ty
này chiếm đến 60% thị trường bột nêm của Việt Nam, vi phạm điều
cấm của Luật Cạnh tranh; (2) đối tượng của hợp đồng mua bán giữa
hai doanh nghiệp là xương hổ không phải hổ nuôi để sản xuất cao hổ
cốt, vi phạm điều cấm của Luật Đa dạng sinh học.
Khi nghiên cứu hợp đồng và những tài liệu, chứng cứ có liên
quan trong hồ sơ vụ án, Luật sư cần quan tâm xem xét kỹ những nội
dung điều khoản về mục đích và đối tượng của hợp đồng, đối chiếu
với quy định của pháp luật dân sự và pháp luật chuyên ngành có liên
quan để đánh giá tính hợp pháp của hợp đồng.
Một số tiêu chí khác về tính hợp pháp của hợp đồng thương mại
thực sự là vấn đề khó khăn cho Luật sư để có thể đánh giá được một
cách chính xác nếu chỉ dựa trên nội dung hợp đồng. Ví dụ, đánh giá về
việc có bên nào trong quan hệ hợp đồng bị nhầm lẫn về đối tượng của
hợp đồng hay không, hợp đồng có được xác lập một cách giả tạo
nhằm che giấu một giao dịch khác không, khi xác lập quan hệ hợp
đồng các bên có tự nguyện không, có bị lừa dối, bị đe dọa không.
Trong trường hợp này, Luật sư cần nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ
liên quan đến quá trình đàm phán và thực hiện hợp đồng, quá trình
giải quyết tranh chấp giữa các bên, lời khai của các đương sự và liên
kết lại để có một bức tranh phản ánh bản chất của giao dịch, đánh giá
một cách toàn diện và đi sâu vào những tình tiết có nghi ngờ để khai
thác thêm, có thể phải thu thập bổ sung chứng cứ nhằm làm rõ vấn đề
theo những tiêu chí này.

Ví dụ: Tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh đầu tư chứng
khoán niêm yết.
Tháng 11/2008, công ty chứng khoán A ký với công ty B là khách

203
hàng kinh doanh chứng khoán của công ty A một hợp đồng hợp tác
kinh doanh đầu tư chứng khoán niêm yết. Theo đó, công ty A chuyển
cho công ty B số tiền là 50 tỷ đồng để công ty B đầu tư kinh doanh
chứng khoán niêm yết, công ty A được hưởng lợi nhuận cố định là
0,04%/ngày, không chịu lỗ trong bất kỳ trường hợp nào; công ty A
được quyền phong tỏa chứng khoán mà công ty B đã đầu tư để đảm
bảo cho số tiền đầu tư; công ty A được bán chứng khoán để thu hồi
vốn và lợi nhuận cố định nếu xảy ra trường hợp từng loại chứng
khoán thuộc danh mục đầu tư giảm còn 70% so với giá trị đầu tư
ban đầu mà công ty B không thực hiện bổ sung vốn góp để đảm bảo
tỷ lệ vốn góp của công ty B theo quy định hoặc vi phạm nghĩa vụ tài
chính với công ty A, nếu chậm trả tiền thì công ty B bị phạt bằng
150% mức lợi nhuận cố định 0,04%/ngày tính trên số tiền chậm trả;
khi giao dịch chứng khoán thì công ty B phải trả phí cho công ty A
theo mức phí do công ty A quy định.

Luật sư có thể phân tích để thấy được nội dung thỏa thuận của
các bên trong hợp đồng này có thể hiện được bản chất của hợp tác
kinh doanh là cùng nhau kinh doanh, cùng chịu rủi ro, hưởng lợi
nhuận hoặc chịu lỗ từ việc kinh doanh, vốn góp được hoàn trả cho mỗi
bên một cách bình đẳng sau khi hoàn thành việc hợp tác kinh doanh
hoặc theo thỏa thuận rút vốn hay không. Về bản chất, giao dịch này có
thể hiện quan hệ vay tiền giữa công ty A và công ty B phục vụ mục
đích kinh doanh chứng khoán hay không.
Luật sư cần lưu ý đối chiếu với quy định “không được cho khách
hàng vay tiền để mua chứng khoán, trừ trường hợp Bộ Tài chính có
quy định khác” tại khoản 4 Điều 73 Luật Chứng khoán năm 2006 về
hạn chế đối với công ty chứng khoán để xem xét, đánh giá việc có hay
không hành vi lách quy định pháp luật của công ty chứng khoán A và
công ty B khi ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh đầu tư chứng khoán
niêm yết nhằm hợp thức hóa việc công ty A cho công ty B vay tiền
mua chứng khoán kinh doanh.
Từ những phân tích, lập luận và căn cứ pháp luật nêu trên, Luật
sư có thể đánh giá hợp đồng hợp tác kinh doanh đầu tư chứng khoán
niêm yết giữa công ty chứng khoán A và công ty B là giả tạo nhằm
che giấu giao dịch thực là quan hệ vay tiền, trong đó công ty chứng

204
khoán A là người cho vay và công ty B là người đi vay tiền. Từ đó,
Luật sư kiến nghị Hội đồng xét xử tuyên hợp đồng hợp tác kinh doanh
đầu tư chứng khoán niêm yết là vô hiệu do giả tạo.
Một số hợp đồng thương mại phải thỏa mãn về hình thức theo
quy định của luật, như phải được công chứng, chứng thực, phải thực
hiện đăng ký. Do vậy, Luật sư cần kiểm tra về hình thức của hợp đồng
để phát hiện những vấn đề về hình thức của hợp đồng không tuân thủ
quy định của pháp luật. Khi nghiên cứu về hình thức của hợp đồng
thương mại, Luật sư lưu ý: trừ những trường hợp giao dịch chuyển
nhượng tài sản cần đăng ký quyền sở hữu hoặc trường hợp giao dịch
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cần phải đăng ký theo quy định của
pháp luật để đảm bảo hiệu lực pháp luật của giao dịch chuyển nhượng,
thì hầu hết các loại hợp đồng thương mại đều có hiệu lực pháp luật sau
khi các bên ký kết hợp đồng một cách hợp pháp, còn việc thực hiện
đăng ký theo quy định của pháp luật là để xác lập hiệu lực đối kháng
với bên thứ ba.
Khi xác định hợp đồng thương mại thỏa mãn các tiêu chí có hiệu
lực pháp luật thì Luật sư đề nghị Tòa án xem xét công nhận hiệu lực
pháp luật của hợp đồng, trên cơ sở đó đưa ra các yêu cầu để đảm bảo
quyền lợi của khách hàng. Trường hợp phát hiện tình tiết, nội dung có
thể làm hợp đồng bị vô hiệu, nếu có lợi cho khách hàng của mình thì
Luật sư khai thác sâu để chứng minh yếu tố vô hiệu đó nhằm kiến
nghị Tòa án chỉ xem xét, giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô
hiệu theo quy định của pháp luật mà không xem xét, giải quyết yêu
cầu của phía đương sự có tranh chấp, nếu bất lợi cho khách hàng của
mình thì Luật sư cần nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có liên quan để
tìm căn cứ hạn chế yếu tố bất lợi, tạo cơ sở chứng minh hợp đồng có
hiệu lực pháp luật.
(ii) Quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết hợp đồng
Ngoài những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
các bên trong hợp đồng thương mại thì hợp đồng, thỏa thuận hợp pháp
giữa các bên được coi là “luật” đối với các bên và có giá trị pháp lý
nhằm xác lập, thay đổi và chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên.
Như vậy, quyền và lợi ích của đương sự trong tranh chấp được bảo vệ
đến đâu sẽ phụ thuộc vào nội dung quyền và nghĩa vụ của các bên
được quy định trong hợp đồng thương mại. Quyền và nghĩa vụ của các

205
bên có thể được viết thành một hoặc một số điều khoản riêng biệt,
nhưng bên cạnh đó còn có nhiều nội dung thỏa thuận khác được ghi
nhận tại nhiều điều khoản rải rác trong hợp đồng cũng xác lập quyền
và nghĩa vụ của các bên. Trong một số trường hợp, quyền và nghĩa vụ
của các bên trong hợp đồng được quy định không đầy đủ, lỏng lẻo
hoặc có mâu thuẫn, thậm chí có trường hợp còn có thể thỏa thuận
không phù hợp với quy định của pháp luật.
Chính vì thế, Luật sư cần nghiên cứu kỹ nội dung hợp đồng
thương mại và những văn bản bổ sung, sửa đổi, thay thế để xác định
rõ quyền và nghĩa vụ của khách hàng của mình, quyền và nghĩa vụ
của các bên có liên quan được quy định như thế nào, những gì có lợi
và những gì bất lợi cho khách hàng mình. Trên cơ sở đó, Luật sư tập
hợp chứng cứ, xây dựng lập luận, phương án để bảo vệ quyền lợi cho
khách hàng của mình.
Ví dụ:
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng được quy định
không đầy đủ hoặc có mâu thuẫn hoặc trái với quy định của
pháp luật.
Công ty A là tổng thầu dự án nhà ở xã hội ký hợp đồng tháng 1
năm 2015 với công ty B là nhà thầu phụ thi công hạng mục nền
móng của dự án này với giá trị hợp đồng là 57 tỷ đồng trong tổng
giá trị xây lắp của dự án do công ty A nhận thầu là 250 tỷ đồng.
Hợp đồng quy định quyền và nghĩa vụ của công ty A là cùng với tư
vấn giám sát và công ty B tổ chức nghiệm thu, nhận bàn giao công
trình; thanh toán cho công ty B sau khi thanh quyết toán dự án với
chủ đầu tư. Quyền và nghĩa vụ của công ty B trong hợp đồng là thi
công đúng khối lượng, chất lượng và thời gian theo thiết kế và yêu
cầu của công ty A; bàn giao công trình cho công ty A và lập hồ sơ
thanh toán giá trị xây lắp trình chủ đầu tư thực hiện thanh toán;
được nhận đầy đủ tiền thanh toán giá trị xây lắp từ công ty A theo
thỏa thuận trong hợp đồng.
Sau khi hoàn thành thi công và thực hiện nghiệm thu, bàn giao
công trình vào tháng 9 năm 2015 cho công ty A theo đúng thiết kế,
yêu cầu của công ty A và thỏa thuận trong hợp đồng, tháng 10
năm 2015, công ty B lập hồ sơ thanh toán giá trị xây lắp trình chủ

206
đầu tư thực hiện thanh toán thì chủ đầu tư từ chối thanh toán do
không biết việc công ty B là nhà thầu phụ tham gia thi công dự án
và từ trước đến nay chỉ làm việc với công ty A. Tháng 1 năm 2016,
công ty B yêu cầu công ty A thực hiện thanh toán giá trị xây lắp theo
hợp đồng thì tháng 8 năm 2016 công ty A trả lời không thanh toán
với lý do chưa thanh quyết toán xong dự án với chủ đầu tư. Qua tìm
hiểu, công ty B được chủ đầu tư cho biết tháng 7 năm 2016 dự án
nhà ở xã hội đã hoàn thành và chủ đầu tư đã thanh toán cho công
ty A giá trị xây lắp là 200 tỷ đồng, còn 50 tỷ đồng chưa thanh toán
do hồ sơ thanh toán chưa đầy đủ. Công ty B liên tục đề nghị thanh
toán và khiếu nại công ty A và chủ đầu tư nhưng vẫn không được
thanh toán, công ty A và công ty B đã ký bản đối chiếu công nợ vào
tháng 9/2016 xác nhận công ty B đã thi công giá trị công trình là 57
tỷ đồng và dự án còn nợ công ty B số tiền này. Sau khi tiếp tục yêu
cầu công ty A thanh toán không thành công, tháng 11 năm 2016
công ty B khởi kiện công ty A, yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết:
(1) công nhận hiệu lực pháp lý của hợp đồng giao thầu phụ giữa
công ty A và công ty B, (2) buộc công ty A phải thanh toán 57 tỷ
đồng nợ giá trị thi công cho công ty B và (3) yêu cầu công ty A phải
trả lãi cho số tiền chậm thanh toán bằng mức lãi suất công ty B phải
vay ngân hàng để thi công công trình, tính từ ngày của hợp đồng tín
dụng mà công ty B đã vay đến ngày công ty A thanh toán hết số tiền
nợ cho công ty B.

Khi nghiên cứu hồ sơ, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong vụ án


này, Luật sư cần tập trung làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án và
các vấn đề pháp lý cơ bản sau:
- Hợp đồng thầu phụ ký chưa được chủ đầu tư đồng ý theo quy
định của Luật Xây dựng năm 2014, dễ dẫn đến khả năng hợp đồng bị
tuyên không có hiệu lực pháp luật.
- Việc quy định quyền và nghĩa vụ nghiệm thu công trình mà
trong thành phần nghiệm thu không có chủ đầu tư là trái với quy định
của Luật Xây dựng năm 2014, dễ dẫn đến việc nghiệm thu không
được chủ đầu tư thừa nhận và bị tuyên không có giá trị pháp lý.
- Quy định quyền và nghĩa vụ của công ty B là lập hồ sơ thanh
toán giá trị xây lắp trình chủ đầu tư thực hiện thanh toán là không đúng

207
vì chủ đầu tư không phải là một bên tham gia hợp đồng, công ty B
không có quyền yêu cầu chủ đầu tư thanh toán trực tiếp, chủ đầu tư
không có nghĩa vụ thanh toán cho công ty B khi không có thỏa thuận
trước. Đồng thời thỏa thuận này mâu thuẫn với thỏa thuận về trách
nhiệm thanh toán của công ty A cho công ty B và quyền được nhận
thanh toán của công ty B từ công ty A; mâu thuẫn với thỏa thuận về
việc công ty A sẽ thực hiện thanh quyết toán dự án với chủ đầu tư.
- Quy định quyền và nghĩa vụ của công ty A là thanh toán cho
công ty B sau khi đã thanh quyết toán dự án là hết sức sơ hở và rủi ro
cho công ty B. Công ty B bỏ tiền ra thi công nhưng việc được thanh
toán hay không lại phụ thuộc vào quan hệ hợp đồng giữa công ty A và
chủ đầu tư, vào việc thực hiện thanh quyết toán của công ty A với chủ
đầu tư. Việc quy định về sự kiện công ty A “thanh quyết toán” dự án
mà không làm rõ việc thanh quyết toán này là cho hạng mục nền
móng mà công ty B thi công hay thanh quyết toán cho toàn bộ giá trị
xây lắp của dự án dễ dẫn đến tranh chấp khi công ty A lập luận rằng
phải thanh quyết toán xong, nhận đủ tiền thanh toán cho toàn bộ giá trị
xây lắp của dự án từ chủ đầu tư thì mới thanh toán cho bên B. Bên
cạnh đó, quy định việc thanh toán của công ty A cho công ty B sẽ diễn
ra “sau khi” công ty A thanh quyết toán xong là rất thiếu cụ thể, có
khả năng làm phát sinh tranh chấp về thời hạn thanh toán.
Như vậy, qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, phân tích nội dung hợp
đồng quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng,
Luật sư có thể đánh giá được quyền lợi của khách hàng mình sẽ được
bảo vệ như thế nào dựa trên điều khoản của hợp đồng, đánh giá được
những điểm thuận lợi và bất lợi cho khách hàng của mình. Từ đó có
phương án thu thập bổ sung chứng cứ, xây dựng phương án sử dụng
một cách hợp lý những chứng cứ có lợi và giảm thiểu mức độ tác
động tiêu cực của những chứng cứ bất lợi.
(iii) Về chế tài đối với vi phạm hợp đồng thương mại trong vụ án
tranh chấp kinh doanh, thương mại
- Đối với yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng, Luật sư cần nghiên
cứu hồ sơ để xác định có hay không những thỏa thuận của các bên
về việc phạt vi phạm hợp đồng. Theo quy định của Luật Thương
mại năm 2005, trường hợp không có thỏa thuận về việc phạt hợp
đồng trong hợp đồng thương mại thì không áp dụng việc phạt vi

208
phạm hợp đồng, chỉ có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại. Mức phạt
vi phạm hợp đồng cũng được quy định không quá 8% đối với phần
giá trị hợp đồng bị vi phạm và phụ thuộc vào mức độ lỗi của bên vi
phạm. Trong nhiều trường hợp, hợp đồng chỉ bị vi phạm một phần
và giá trị hợp đồng bị vi phạm nhỏ, nhưng bên đưa ra yêu cầu có
thể đòi bồi thường thiệt hại cho toàn bộ giá trị hợp đồng, hoặc việc
vi phạm của một bên có một phần nguyên nhân đến từ bên bị vi
phạm nhưng yêu cầu phạt vi phạm lại không đề cập lỗi này. Đây là
hai vấn đề mà Luật sư cần phân tích sâu, đánh giá các chứng cứ, tài
liệu có liên quan để xác định mức độ phạt vi phạm mà khách hàng
của mình có thể phải gánh chịu.
- Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại: theo quy định của Luật
Thương mại năm 2005, một bên trong quan hệ hợp đồng thương mại
phải bồi thường thiệt hại cho bên kia nếu có hành vi vi phạm hợp
đồng, có thiệt hại thực tế và hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên
nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Tuy nhiên, mức bồi thường được xác
định căn cứ vào nhiều yếu tố: mức độ vi phạm, nguyên nhân dẫn đến
hành vi vi phạm, yếu tố lỗi của các bên, mức độ của mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra, các hồ sơ, tài liệu
chứng minh về thiệt hại thực tế và nỗ lực khắc phục thiệt hại của bên
bị vi phạm cũng như của bên vi phạm hợp đồng. Vì vậy, để xác định
được mức bồi thường thiệt hại mà khách hàng của mình đưa ra sẽ
được chấp nhận hoặc phải gánh chịu đến đâu, Luật sư phải nghiên
cứu về điều khoản bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng và các
tình tiết, chứng cứ, tài liệu có liên quan để xác định thiệt hại thực tế
và mức độ bồi thường phù hợp chứ không phụ thuộc vào mong muốn
hoặc quy định nội bộ của bên đưa ra yêu cầu bồi thường. Trong
trường hợp xét thấy cần thiết, Luật sư đề nghị Tòa án tiến hành trưng
cầu giám định hoặc định giá tài sản để xác định mức độ thiệt hại thực
tế làm căn cứ giải quyết vụ án.
Bên cạnh đó, Luật sư cần lưu ý xem xét các tình tiết, chứng cứ
để xác định người bị yêu cầu phạt hợp đồng, bồi thường thiệt hại có
thuộc trường hợp được miễn trừ nghĩa vụ dân sự theo quy định của
pháp luật hay không, ví dụ: vi phạm trong trường hợp bất khả kháng
và đã nỗ lực hết sức để khắc phục hậu quả, hành vi vi phạm là hậu quả
xảy ra do lỗi của bên vi phạm,...

209
Ví dụ: Vụ án tranh chấp hợp đồng thuê nhà.
Tháng 10 năm 2012, công ty A ký hợp đồng thuê trụ sở làm việc
với công ty B tại thành phố H, thời hạn thuê 10 năm đến hết tháng
10/2022, diện tích thuê là 453m2 với giá thuê hàng tháng
là 190 triệu đồng chưa tính thuế giá trị gia tăng (VAT), tiền thuê
được thanh toán trước 6 tháng một lần, đặt cọc 6 tháng tiền thuê
nhà để đảm bảo nghĩa vụ thực hiện hợp đồng. Hợp đồng quy định
bên nào chấm dứt hợp đồng thuê nhà trước thời hạn mà không phải
do lỗi của bên kia hoặc lý do bất khả kháng thì phải thông báo trước
cho bên kia 6 tháng và bị phạt cọc bằng số tiền đặt cọc, bị phạt 10%
giá trị hợp đồng và phải bồi thường thiệt hại cho bên kia một số tiền
bằng 10 tháng tiền thuê nhà là 1,9 tỷ đồng.
Giữa năm 2015, do tình hình kinh doanh khó khăn và đánh giá
khả năng phát triển kinh doanh không khả quan, công ty A liên hệ
với công ty B đề nghị đàm phán chấm dứt hợp đồng nhưng không
được công ty B đồng ý. Tháng 11 năm 2015, công ty A gửi văn
bản thông báo cho công ty B về việc chấm dứt hợp đồng từ tháng
6/2016 với lý do trong tháng 10/2015 công ty B đã vi phạm hợp
đồng khi không kịp thời thực hiện nghĩa vụ sửa chữa hệ thống vệ
sinh của diện tích thuê như đã quy định trong hợp đồng thuê nhà.
Công ty B gửi văn bản trả lời về việc đã thực hiện nghĩa vụ sửa
chữa hệ thống vệ sinh của diện tích thuê trong vòng 7 ngày làm
việc sau khi nhận được yêu cầu của công ty A và không đồng ý
chấm dứt hợp đồng trước hạn. Tháng 12 năm 2015, công ty A chỉ
trả trước tiền thuê nhà đến hết tháng 3 năm 2016, hai bên xảy ra
tranh chấp.
Tháng 6 năm 2016, công ty B khởi kiện ra Tòa án yêu cầu tòa
giải quyết, buộc công ty A: (1) phải bị phạt cọc 6 tháng tiền thuê
nhà là 1.14 tỷ đồng, (2) bị phạt 10% giá trị hợp đồng bị vi phạm
là 1,48 tỷ đồng tính bằng giá thuê hàng tháng nhân với (x) 78 tháng
còn lại theo hợp đồng thuê từ tháng 4 năm 2016 đến tháng 10
năm 2022, (3) phải bồi thường thiệt hại cho công ty B 10 tháng tiền
thuê nhà là 1,9 tỷ đồng và (4) phải bồi thường số tiền công ty B đầu
tư để sửa chữa nhà theo yêu cầu sử dụng của công ty A tại thời điểm
cho thuê nhà là 2,8 tỷ đồng.

210
Khi nghiên cứu hồ sơ và đánh giá, sử dụng chứng cứ của vụ án
này, Luật sư cần quan tâm nghiên cứu các nội dung quy định trong
hợp đồng về chế tài vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại, đánh
giá các chứng cứ chứng minh hành vi vi phạm hợp đồng của các bên,
chứng minh thiệt hại xảy ra với công ty B, vận dụng các quy định của
pháp luật dân sự, pháp luật thương mại để xác định căn cứ pháp luật
giải quyết các yêu cầu khởi kiện của công ty B, cụ thể như sau:
Nghiên cứu văn bản của công ty A thông báo cho công ty B thực
hiện nghĩa vụ sửa chữa nhà và chứng cứ về việc công ty B thực hiện
sửa chữa không kịp thời để xác định công ty B có vi phạm nghĩa vụ
theo hợp đồng hay không. Nghiên cứu tình tiết công ty A kinh doanh
khó khăn nên đề nghị công ty B đàm phán chấm dứt hợp đồng trước
hạn để đánh giá về bản chất của việc chấm dứt hợp đồng. Trong
trường hợp công ty B vi phạm hợp đồng thì cần xem xét mức độ vi
phạm, nguyên nhân, hậu quả xảy ra do hành vi vi phạm này và xem
xét các quy định cụ thể trong hợp đồng để đánh giá có hay không căn
cứ để công ty A chấm dứt hợp đồng.
Nghiên cứu thỏa thuận về đặt cọc và chế định về đặt cọc theo
pháp luật dân sự để xác định việc đặt cọc nhằm đảm bảo thực hiện
hợp đồng thì khi một bên bị phạt cọc do chấm dứt hợp đồng trước
hạn có được coi là điều kiện để áp dụng chế tài phạt cọc do vi phạm
hợp đồng hay không.
Nghiên cứu điều khoản về phạt vi phạm hợp đồng và chế định về
đặt cọc theo pháp luật dân sự, pháp luật thương mại để đánh giá tính
hợp lý và có căn cứ pháp luật của việc một hành vi vi phạm là chấm
dứt hợp đồng trước thời hạn bị áp dụng hai chế tài phạt gồm phạt cọc
và phạt vi phạm hợp đồng.
Đồng thời nghiên cứu điều khoản về giá trị hợp đồng để xác định
giá trị hợp đồng được tính là tiền thuê nhà hàng tháng hay là một đợt
thanh toán 6 tháng hay là tiền thuê nhà cả 10 năm theo thời hạn hợp
đồng. Trên cơ sở đó, đánh giá yêu cầu của nguyên đơn đòi phạt hợp
đồng tính trên giá trị hợp đồng bị vi phạm là 78 tháng thuê nhà còn lại
theo thời hạn hợp đồng là có căn cứ hay không. Luật sư đối chiếu với
quy định của Luật Thương mại năm 2005 để xác định mức phạt 10%
có đúng với quy định của luật hay không.

211
Nghiên cứu các điều khoản cụ thể của hợp đồng về nghĩa vụ bồi
thường thiệt hại, nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ chứng minh thiệt
hại thực tế xảy ra với công ty B, chứng minh lỗi của công ty A, đối
chiếu với quy định của Luật Thương mại năm 2005 để xác định yêu
cầu của nguyên đơn về mức bồi thường thiệt hại 10 tháng tiền thuê
nhà là 1,9 tỷ đồng có phù hợp và có căn cứ pháp luật hay không.
Nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ liên quan, bao gồm cả
những tài liệu đàm phán giữa hai bên, thiết kế, thi công sửa chữa và
đơn giá xây dựng do thành phố H công bố tại thời điểm sửa chữa để
xác định việc công ty B đầu tư 2,8 tỷ đồng để sửa chữa nhà theo
yêu cầu sử dụng của công ty A tại thời điểm cho thuê nhà có phải là
mức sửa chữa thông thường đối với tiêu chuẩn tòa nhà cho thuê hay
không, đánh giá về mục đích của việc sửa chữa này và đánh giá về
việc nếu không đầu tư sửa chữa thì công ty B có thể cho công ty A
hoặc công ty khác thuê với thời hạn, giá tiền và kỳ hạn thanh toán
như hợp đồng đã ký hay không. Đánh giá giá trị còn lại của các
hạng mục sửa chữa là tài sản cố định sau khi trừ đi khấu hao hàng
năm theo quy định của pháp luật để xác định mức độ chênh lệch
giữa số tiền đầu tư sửa chữa ban đầu với giá trị tài sản còn lại.
Trong trường hợp cần thiết, Luật sư có thể yêu cầu Tòa án trưng
cầu giám định hoặc định giá tài sản.
Như vậy, trong một vụ án tranh chấp hợp đồng có yêu cầu biện
pháp chế tài là phạt cọc, phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại theo hợp
đồng, có hàng loạt những vấn đề pháp lý, những yêu cầu chứng minh
đặt ra, đòi hỏi Luật sư phải nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, đánh giá chứng
cứ, nghiên cứu các quy định của pháp luật có liên quan để lập phương
án sử dụng chứng cứ, đưa ra những luận điểm phù hợp nhằm bảo vệ
quyền lợi của khách hàng mình.
(iv) Về quá trình thực hiện hợp đồng
Hợp đồng thương mại ký kết giữa các bên khi phát sinh hiệu lực
pháp luật sẽ ràng buộc trách nhiệm pháp lý của các bên để đảm bảo
thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên trên thực tế, nhiều trường hợp hợp
đồng “chết yểu” vì không được các bên thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ, không kịp thời. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ
án tranh chấp hợp đồng thương mại, ngoài việc nghiên cứu các quy
định trong hợp đồng, Luật sư còn phải quan tâm nghiên cứu quá trình

212
thực hiện hợp đồng trên thực tế thông qua các chứng cứ, tài liệu, tình
tiết phát sinh sau khi hợp đồng được ký kết.
Quá trình thực hiện hợp đồng thể hiện rõ mức độ thiện chí hợp
tác và nỗ lực của các bên để thực hiện nghĩa vụ của mình, biến những
cam kết, ràng buộc trong hợp đồng thành những hành động cụ thể, kết
quả cụ thể.
Quá trình thực hiện hợp đồng cũng đòi hỏi các bên trong quan hệ
hợp đồng xác lập những chứng từ, tài liệu để ghi nhận lại kết quả thực
hiện quyền và nghĩa vụ của các bên. Ví dụ: lập biên bản giao nhận
hàng hóa, biên bản nghiệm thu, là những tài liệu, chứng cứ rất quan
trọng cho việc giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại.
Bên cạnh đó, trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên sẽ có
các trao đổi, thỏa thuận thay đổi nội dung hợp đồng, quyền và nghĩa
vụ của các bên, ví dụ như thay đổi địa điểm, thời gian giao hàng, thay
đổi về giá cả, phương thức thanh toán, những tài liệu này, dù là bản
thỏa thuận, phụ lục hợp đồng hay chỉ là một văn bản có xác nhận của
các bên trong quan hệ hợp đồng thì cũng sẽ là nội dung thỏa thuận
mới, sửa đổi, bổ sung, thay thế những thỏa thuận cũ trong hợp đồng và
do vậy, là một phần không thể tách rời hợp đồng, là chứng cứ để xem
xét, giải quyết tranh chấp hợp đồng thương mại.
Mặc dù hợp đồng thương mại thể hiện ý chí và quyền lợi của
các bên tham gia, phản ánh cam kết thực hiện đúng và đầy đủ của
các bên, nhưng trên thực tế, không phải lúc nào các bên cũng thống
nhất cùng một cách hiểu và thực hiện đúng những thỏa thuận trong
hợp đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, nhiều trường hợp xảy
ra mâu thuẫn về cách hiểu và thực hiện hợp đồng hoặc xảy ra xung
đột khi một bên đã thực hiện xong toàn bộ hoặc phần lớn nghĩa vụ
của mình mà bên kia chưa thực hiện hoặc thực hiện không tương
xứng với nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng. Trường hợp một
hoặc các bên có hành vi vi phạm hợp đồng, ảnh hưởng đến quyền lợi
của bên còn lại trong quan hệ hợp đồng mà không giải quyết được thì
sẽ dẫn đến tranh chấp, xung đột. Những tài liệu, tình tiết được xác
lập trong quá trình giải quyết mâu thuẫn, xung đột ban đầu hoặc giải
quyết tranh chấp, ví dụ: công văn đôn đốc thực hiện nghĩa vụ, văn

213
bản đề nghị gia hạn thanh toán, biên bản đối chiếu công nợ, văn bản
khiếu nại về hàng hóa, biên bản làm việc để giải quyết tranh chấp,…
cũng là những chứng cứ quan trọng mà Luật sư cần nghiên cứu, đánh
giá và sử dụng để có phương án tốt nhất bảo vệ quyền lợi cho khách
hàng của mình.
Ví dụ: Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa.
Tháng 3 năm 2016, công ty Đ khởi kiện công ty S yêu cầu thanh
toán 7 tỷ đồng tiền mua sắt thép còn thiếu theo hợp đồng mua bán
số 01 ký tháng 5 năm 2014. Hồ sơ khởi kiện do công ty Đ xuất trình
gồm hợp đồng mua bán số 01, các biên bản giao nhận hàng hóa,
các hóa đơn giá trị gia tăng (VAT), bản đối chiếu công nợ giữa hai
bên ghi công ty S còn nợ công ty Đ 9,2 tỷ đồng, biên bản giải quyết
tranh chấp giữa hai bên.
Công ty S chỉ thừa nhận nghĩa vụ đối với 4,2 tỷ đồng và từ chối
nghĩa vụ thanh toán 2,8 tỷ đồng còn lại. Lý do công ty S đưa ra là
giữa hai công ty có quan hệ mua bán sắt thép từ nhiều năm nay, từ
năm 2014 đến nay, hai công ty thực hiện cùng một lúc 04 hợp đồng
mua bán, số tiền nợ quá hạn của hợp đồng mua bán số 01 chỉ là 4,2
tỷ đồng, còn 2,8 tỷ đồng họ từ chối thanh toán do có 600 triệu đồng
không xác định được công ty Đ có giao hàng hay không, 300 triệu
đồng là khoản đã được bù trừ nghĩa vụ giao hàng cho hợp đồng
khác mà công ty Đ giao bị thiếu, 500 triệu đồng công ty Đ đã chấp
thuận gia hạn thanh toán đến tháng 7 năm 2017, 1,4 tỷ đồng là tiền
mua hàng của các hợp đồng khác mà theo thỏa thuận thì hạn thanh
toán là tháng 12 năm 2017.

Để đánh giá chứng cứ và lập phương án sử dụng chứng cứ, Luật


sư cần tập trung nghiên cứu:
- Nghiên cứu hợp đồng mua bán số 01: hiệu lực pháp luật về chủ
thể và về thẩm quyền quyết định, đối tượng của hợp đồng là chủng
loại hàng hóa như thế nào, thời gian thực hiện hợp đồng, phương thức
đặt hàng, phương thức và thời gian giao hàng, phương thức và thời
gian thanh toán, đại diện được ủy quyền giao - nhận hàng hóa của hai
bên, quyền và nghĩa vụ của các bên.
- Nghiên cứu các hợp đồng khác giữa hai bên trùng thời gian

214
thực hiện với hợp đồng số 01 tương tự như nội dung nghiên cứu đối
với hợp đồng số 01.
- Nghiên cứu các biên bản giao nhận hàng hóa: chủng loại hàng
hóa có khớp đúng với hợp đồng số 01 và các đơn đặt hàng hay không,
thời gian giao hàng và địa điểm giao hàng có phù hợp với thỏa thuận
trong hợp đồng số 01 và các đơn đặt hàng hay không, người giao hàng
có phải đại diện được ủy quyền của công ty Đ theo thỏa thuận trong
hợp đồng hay không, có dấu của công ty Đ trên biên bản giao nhận
hàng hóa không.
- Nghiên cứu các hóa đơn VAT: chủng loại hàng hóa và số tiền
có khớp đúng với hợp đồng số 01 và các đơn đặt hàng hay không, thời
gian phát hành hóa đơn VAT có phù hợp với thời gian thực hiện hợp
đồng hay không, đại diện hợp pháp của công ty Đ có ký tên, đóng dấu
trên hóa đơn thể hiện đã chấp nhận hóa đơn hay không, có biên bản
giao nhận hóa đơn VAT từ công ty Đ cho công ty S không.
- Nghiên cứu bản đối chiếu công nợ: ngày đối chiếu công nợ có
khớp với thời gian thực hiện hợp đồng số 01 và các đơn đặt hàng, cũng
như các hợp đồng khác giữa hai bên trùng thời gian thực hiện với hợp
đồng số 01 hay không, công nợ cụ thể của từng hợp đồng, trong đó hợp
đồng số 01 là bao nhiêu, nội dung xác nhận và cam kết của công ty Đ
trên bản đối chiếu công nợ như thế nào, đại diện hợp pháp của công ty Đ
có ký tên, đóng dấu trên bản đối chiếu công nợ hay không.
- Nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ thể hiện có hay không việc
thỏa thuận hợp pháp giữa hai bên về việc bù trừ 300 triệu đồng cho
nghĩa vụ giao hàng của hợp đồng khác mà công ty Đ giao bị thiếu, gia
hạn thanh toán 500 triệu đồng đến tháng 7 năm 2017.
- Nghiên cứu các văn bản giao dịch, đôn đốc công nợ, biên bản
làm việc giữa hai công ty để liên kết các sự kiện, các tài liệu với
nhau nhằm đánh giá được bản chất tranh chấp, tình tiết khách quan
của vụ án.
Đồng thời, Luật sư cần tìm hiểu thông lệ thương mại mà công ty Đ
và công ty S đã thực hiện trong những năm qua về giao nhận hàng, đối
chiếu công nợ và thanh toán như thế nào để đánh giá sự phù hợp của
quá trình thực hiện hợp đồng số 01.

215
Đối với vụ án tranh chấp này, những tài liệu, chứng cứ phát sinh
trong quá trình thực hiện hợp đồng và giải quyết tranh chấp đóng vai
trò quyết định đến việc giải quyết vụ án và bảo vệ quyền lợi cho khách
hàng của Luật sư.
2.2.2. Vụ án tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công
ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty,
thành viên công ty
Loại tranh chấp này phát sinh từ giao dịch chuyển nhượng phần
vốn góp, chuyển nhượng cổ phần của thành viên công ty với tổ chức,
cá nhân khác hoặc giao dịch phát hành cổ phần mới, chuyển nhượng
cổ phiếu quỹ của công ty, hợp đồng góp vốn của công ty với nhà đầu
tư mới.
Đối với những giao dịch này, Luật sư tiến hành nghiên cứu hồ sơ
để đánh giá về hiệu lực của hợp đồng tương tự như đối với hợp đồng
trong tranh chấp về kinh doanh, thương mại như phần trên. Trường
hợp một bên hoặc các bên trong hợp đồng là cá nhân, Luật sư lưu ý
đánh giá yếu tố pháp lý về chủ thể dựa trên quy định của pháp luật dân
sự về năng lực pháp luật dân sự của cá nhân.
Đối với người nhận chuyển nhượng, Luật sư cần kiểm tra, đánh
giá họ có thuộc trường hợp không được góp vốn, mua cổ phần, mua
phần vốn góp vào công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp danh
theo quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Cán bộ, công chức, Luật
Phòng, chống tham nhũng hay không, ví dụ: cơ quan nhà nước, đơn vị
vũ trang nhân dân không được sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào
doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình.
Đối với công ty chuyển nhượng cổ phần, phần vốn góp, Luật sư
cần nghiên cứu hồ sơ để đánh giá tính hợp pháp về thẩm quyền quyết
định huy động thêm phần vốn góp của nhà đầu tư mới, phát hành cổ
phần mới cho nhà đầu tư mới để tăng vốn điều lệ hoặc bán cổ phiếu
quỹ cho nhà đầu tư mới.
Về thẩm quyền quyết định tăng vốn điều lệ, theo quy định của
Luật Doanh nghiệp trong mọi trường hợp phải được cơ quan quyền
lực cao nhất của công ty quyết định, đối với phương án huy động thêm
phần vốn góp của nhà đầu tư mới của công ty TNHH, công ty hợp

216
danh phải được Hội đồng thành viên thông qua, phương án phát hành
cổ phần mới của công ty cổ phần phải do Đại hội đồng cổ đông thông
qua, sau khi phương án phát hành cổ phần mới được Đại hội đồng cổ
đông thông qua, hội đồng quản trị có thẩm quyền quyết định bán cổ
phần mới trong phạm vi số cổ phần được quyền chào bán của từng
loại trong phương án, giá chào bán cổ phần mới.
Công ty cổ phần phát hành cổ phiếu mới hoặc bán cổ phiếu quỹ
cho nhà đầu tư mới phải thực hiện trình tự, thủ tục theo quy định của
Luật Chứng khoán, đặc biệt đối với công ty cổ phần đại chúng (là
công ty có từ 100 cổ đông trở lên), việc phát hành cổ phiếu mới hoặc
bán cổ phiếu quỹ phải được sự chấp thuận của Ủy ban chứng khoán
nhà nước. Do vậy, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án tranh chấp thuộc loại
này, Luật sư cần căn cứ các quy định của pháp luật về chứng khoán để
đánh giá tính hợp pháp của thủ tục chuyển nhượng cổ phần. Đối với
một số loại hình doanh nghiệp đặc thù thì Luật sư còn cần nghiên cứu
thêm những quy định của pháp luật chuyên ngành để xác định chính
xác những điều kiện áp dụng cho việc chuyển nhượng cổ phần, phát
hành cổ phần cho nhà đầu tư mới, ví dụ: đối với ngân hàng thương
mại cổ phần thì việc tăng vốn điều lệ, phát hành cổ phần cho nhà đầu
tư mới phải được thống đốc ngân hàng nhà nước chấp thuận trước khi
thực hiện hoặc cổ đông cá nhân, cổ đông pháp nhân có đại diện là
thành viên hội đồng quản trị, thành viên ban kiểm soát, cổ đông là
tổng giám đốc không được chuyển nhượng cổ phần trong thời gian
đảm nhiệm chức vụ,…

Ví dụ: Tranh chấp về chuyển nhượng cổ phần giữa công ty và


người chưa phải là cổ đông công ty.
Ngày 15/6/2016, công ty cổ phần A là công ty đại chúng chưa
niêm yết hoạt động trong lĩnh vực may mặc có vốn điều lệ là 300 tỷ
đồng ký hợp đồng bán bốn triệu cổ phiếu quỹ mệnh giá 40 tỷ đồng
cho ông B với giá bán 60 tỷ đồng.
Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán và nhận đủ cổ phần
theo hợp đồng, ngày 20/6/2016, ông B đến làm thủ tục đăng ký cổ
đông vào sổ cổ đông thì công ty cổ phần A không thực hiện đăng ký
cổ đông mà đề nghị ông A hoàn trả lại số cổ phần đã mua, nhận lại

217
tiền mua cổ phần vì lý do qua rà soát thủ tục bán cổ phiếu quỹ, hội
đồng quản trị nhận thấy chưa đủ điều kiện chuyển nhượng do chưa
được Ủy ban chứng khoán nhà nước chấp nhận cho bán cổ phiếu
quỹ theo quy định của pháp luật chứng khoán.
Ông B không đồng ý, công ty cổ phần A phong tỏa số cổ phần
của ông B và khởi kiện ông B ra tòa yêu cầu Tòa án tuyên hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần vô hiệu, buộc ông B hoàn trả lại số cổ phần
đã mua, nhận lại tiền mua cổ phần.

Trong trường hợp này, Luật sư cần nghiên cứu các quy định của
pháp luật chứng khoán, pháp luật doanh nghiệp, điều lệ công ty cổ
phần A và đối chiếu với việc nghiên cứu hồ sơ vụ án để xác định các
vấn đề pháp lý then chốt sau:
- Công ty cổ phần A mua cổ phiếu quỹ có đúng theo quy định
của pháp luật và điều lệ không?
- Việc bán số cổ phiếu quỹ này có đúng theo quy định của pháp
luật và điều lệ không?
- Hợp đồng chuyển nhượng cổ phiếu quỹ giữa công ty cổ phần A
và ông B có hiệu lực pháp luật không?
Do số cổ phiếu quỹ này bằng 20% vốn điều lệ của công ty cổ
phần A, nên Luật sư nghiên cứu hồ sơ vụ án để đánh giá các điều
kiện sau:
- Đại hội đồng cổ đông công ty phê duyệt phương án mua, bán
cổ phiếu quỹ;
- Hội đồng quản trị thông qua phương án mua, phương án bán cổ
phiếu quỹ;
- Việc mua và bán cổ phiếu quỹ phải thực hiện thông qua công ty
chứng khoán;
- Công ty cổ phần A phải có đủ nguồn tiền hợp pháp để mua cổ
phiếu quỹ, thể hiện trên báo cáo tài chính gần nhất được kiểm toán
theo quy định và các tài liệu chứng minh về nguồn tiền theo chế độ kế
toán doanh nghiệp;

218
- Công ty phải có được sự chấp thuận của Ủy ban chứng khoán
nhà nước cho việc mua, bán cổ phiếu quỹ (dưới hình thức văn bản
thông báo về việc nhận được đầy đủ tài liệu báo cáo mua lại cổ phiếu,
bán cổ phiếu quỹ).
Đồng thời, Luật sư kiểm tra việc công ty cổ phần A đã thỏa mãn
các điều kiện sau hay chưa:
- Không đang có nợ quá hạn theo báo cáo tài chính được kiểm toán;
- Không đang trong quá trình chào bán cổ phiếu để huy động
thêm vốn;
- Cổ phiếu của công ty không đang là đối tượng chào mua
công khai;
- Công ty không mua lại cổ phiếu và bán cổ phiếu quỹ trong
cùng một đợt;
- Công ty không thực hiện việc mua lại cổ phiếu trong vòng 06
tháng trừ các trường hợp sau: buộc phải mua lại cổ phiếu theo quy
định của Luật Doanh nghiệp, mua lại cổ phần lẻ theo phương án phát
hành cổ phiếu để trả cổ tức, phát hành cổ phiếu từ nguồn vốn chủ sở
hữu được thực hiện theo pháp luật chứng khoán;
- Khi mua, bán cổ phiếu quỹ, công ty cổ phần A phải thực hiện
công bố thông tin theo đúng kênh, nội dung và thời hạn theo quy định
của pháp luật chứng khoán;
- Công ty đã báo cáo Ủy ban chứng khoán nhà nước sau khi hoàn
thành việc mua, bán cổ phiếu quỹ.
Về điều kiện có hiệu lực pháp luật của hợp đồng, Luật sư nghiên
cứu tương tự phần đánh giá hiệu lực pháp luật của hợp đồng như đã
trình bày ở đầu chương này.
Bên cạnh đó, Luật sư cần nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ và
quy định của pháp luật dân sự về việc bảo vệ quyền lợi của người giao
dịch ngay tình là ông B, về nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của bên có
lỗi trong giao dịch vô hiệu để đánh giá về khả năng bảo vệ quyền lợi
của ông B trong trường hợp hợp đồng chuyển nhượng cổ phiếu quỹ bị
tuyên vô hiệu.

219
Trên cơ sở những tài liệu, chứng cứ của vụ án và căn cứ các quy
định của pháp luật chứng khoán, pháp luật doanh nghiệp, Luật sư
đánh giá giá trị chứng minh của chứng cứ, lập phương án sử dụng
chứng cứ để chứng minh, bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình.
Đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên thì khi nghiên cứu
hồ sơ vụ án, đánh giá và sử dụng chứng cứ, Luật sư lưu ý kiểm tra tài
liệu, chứng cứ xem đã thỏa mãn một số điều kiện đặc thù được quy
định trong Luật Doanh nghiệp chưa. Ví dụ: Tài liệu chứng minh
thành viên công ty chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ phần vốn
góp của mình cho người khác đã chào bán phần vốn đó cho các thành
viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong công
ty với cùng điều kiện mà họ không mua hoặc không mua hết trong
thời hạn 30 ngày, kể từ ngày chào bán; điều kiện chuyển nhượng cho
người khác có cùng điều kiện như đã chào bán đối với các thành viên
còn lại không.
Việc chuyển nhượng phần vốn góp trong công ty TNHH, cổ
phần trong công ty cổ phần còn có những điều kiện theo quy định của
pháp luật doanh nghiệp, pháp luật chứng khoán và điều lệ công ty. Khi
nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ và lập phương án sử dụng chứng
cứ, Luật sư cần phải căn cứ trên những quy định này để thực hiện.
Ví dụ: trường hợp thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên
tặng cho một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty
cho người khác mà người được tặng cho không phải là vợ, chồng, cha,
mẹ, con, người có quan hệ họ hàng đến hàng thừa kế thứ ba của thành
viên công ty thì người đó chỉ được trở thành thành viên của công ty
khi được hội đồng thành viên chấp thuận, hoặc nếu thành viên công ty
sử dụng phần vốn góp để trả nợ thì người nhận thanh toán bằng phần
vốn góp đó chỉ được trở thành thành viên của công ty khi được hội
đồng thành viên chấp thuận, nếu không, người nhận tặng cho, người
nhận thanh toán phải thực hiện chào bán và chuyển nhượng phần vốn
góp đó cho người khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Đối với
công ty cổ phần thì trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày công ty được
cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cổ đông sáng lập chỉ
được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không
phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của đại hội đồng cổ
đông và cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có quyền

220
biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó; cổ đông sở hữu cổ
phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho
người khác. Hoặc có trường hợp điều lệ công ty quy định: cổ đông cá
nhân, cổ đông pháp nhân có đại diện là thành viên hội đồng quản trị
chỉ được chuyển nhượng cổ phần sau hai năm kể từ ngày thôi giữ
chức vụ thành viên hội đồng quản trị.
Trong giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp, Luật sư cần
lưu ý đến thời điểm chuyển quyền đối với phần vốn góp, đây là nội
dung rất quan trọng và ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các bên.
Ví dụ: quyền đi liền với cổ phần là quyền được tham gia họp đại hội
đồng cổ đông, bao gồm cả việc ứng cử, đề cử vào vị trí thành viên hội
đồng quản trị, thành viên ban kiểm soát; quyền hưởng cổ tức; quyền
được mua cổ phần khi công ty tăng vốn điều lệ; quyền hưởng cổ phiếu
thưởng từ công ty. Theo quy định của pháp luật chứng khoán và pháp
luật doanh nghiệp, hội đồng quản trị công ty cổ phần sẽ ấn định một
ngày để chốt danh sách cổ đông cho mỗi lần hưởng quyền của cổ
đông, các cổ đông có tên trong danh sách chốt sẽ là người hưởng
quyền. Để trở thành cổ đông của công ty cổ phần, người sở hữu cổ
phần phải thực hiện đăng ký và được công ty cổ phần hoặc Trung tâm
lưu ký chứng khoán thuộc Ủy ban chứng khoán nhà nước đăng ký
thông tin cổ đông vào sổ cổ đông.

Ví dụ: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng cổ phần của thành
viên công ty cho người chưa phải là thành viên công ty.
Ngày 01/12/2016, ông A là cổ đông của công ty cổ phần Z, ký hợp
đồng chuyển nhượng một triệu cổ phần cho ông B mệnh giá 10 tỷ đồng
với giá chuyển nhượng là 20 tỷ đồng. Theo thỏa thuận trong hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần thì người nhận chuyển nhượng là ông B sẽ
được hưởng cổ tức, cổ phiếu thưởng và các quyền lợi phát sinh từ số
cổ phần này kể từ ngày thanh toán hết tiền mua cổ phần cho ông A.
Ngày 05/12/2016, công ty cổ phần Z thông báo chốt danh sách cổ
đông để chia cổ phiếu thưởng với tỷ lệ chia 20% trên vốn điều lệ
tính đến 12h00 ngày 05/12/2016. Sau khi thanh toán hết tiền mua
vào trưa ngày 05/12/2016 và được nhận tờ cổ phiếu từ ông A trong
chiều cùng ngày, ngày 06/12/2016, ông B đến làm thủ tục đăng ký

221
cổ đông và được công ty cổ phần Z đăng ký thông tin cổ đông vào
sổ cổ đông và xóa tên ông A trong sổ cổ đông. Tuy nhiên, căn cứ
trên danh sách cổ đông chốt ngày 05/12/2016, công ty cổ phần Z đã
chia cho ông A 200 ngàn cổ phiếu thưởng với mệnh giá là hai tỷ
đồng trên số vốn cổ phần ông A sở hữu được ghi trong sổ cổ đông
ngày 05/12/2016.
Ông B khởi kiện ông A ra TAND thành phố H, yêu cầu Tòa án
buộc ông A trả lại cho mình 200 ngàn cổ phiếu thưởng với mệnh giá
là hai tỷ đồng.

Khi nghiên cứu hồ sơ, Luật sư cần xem xét các tài liệu, chứng cứ
để xác định:
- Công ty cổ phần Z có phải là công ty đại chúng không?
Trường hợp là công ty đại chúng thì khi chia cổ phiếu thưởng, công
ty đã thực hiện đúng các trình tự, thủ tục theo quy định của pháp
luật chứng khoán, trong đó có thủ tục xin phép Ủy ban chứng khoán
nhà nước chưa?
- Thủ tục chia cổ phiếu thưởng và thủ tục công bố thông tin chia
cổ phiếu thưởng của công ty cổ phần Z đã được thực hiện đúng theo
quy định của Luật Chứng khoán và điều lệ công ty chưa?
Luật sư xem xét các tài liệu, chứng cứ về thời điểm thực hiện
thanh toán của ông B để xác định chính xác thời điểm thực tế chuyển
quyền hưởng các lợi ích từ cổ phiếu từ ông A sang ông B gắn với
mốc chốt danh sách cổ đông trong thông báo hợp pháp của công ty
cổ phần Z. Qua nghiên cứu hồ sơ, Luật sư có thể xác định được kế
hoạch thu thập bổ sung chứng cứ để phục vụ cho mục đích chứng
minh của mình.
Trường hợp công ty cổ phần Z vi phạm quy định về trình tự, thủ
tục pháp luật quy định trong quá trình thực hiện chia cổ phiếu thưởng
thì có thể là yếu tố quan trọng dẫn đến việc xem xét tính hợp pháp của
việc chia cổ phiếu thưởng.
Đồng thời, Luật sư nghiên cứu hợp đồng chuyển nhượng cổ
phần, đặc biệt chú ý đến nội dung thỏa thuận về quyền thụ hưởng các
lợi ích phát sinh từ cổ phần và về thời điểm chuyển quyền giữa bên
chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng.

222
Trên cơ sở những tài liệu, chứng cứ của vụ án và căn cứ các quy
định của pháp luật chứng khoán, pháp luật doanh nghiệp, Luật sư có
thể xác định được yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ hay không và lập
phương án sử dụng chứng cứ để chứng minh, bảo vệ quyền lợi cho
khách hàng của mình.
2.2.3. Vụ án tranh chấp giữa công ty với các thành viên của
công ty, với người quản lý của công ty, giữa các thành viên của công
ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp
nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi
hình thức tổ chức của công ty
Đây cũng là loại quan hệ tranh chấp kinh doanh, thương mại khá
phổ biến và thường là những tranh chấp phức tạp. Những tranh chấp
này thường phát sinh từ những bất đồng trong việc giải quyết quyền
lợi giữa công ty với thành viên hoặc người quản lý công ty, giữa các
thành viên của công ty với nhau khi công ty không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng các nghĩa vụ của mình hoặc khi các bên vi
phạm quyền và nghĩa vụ của người quản lý, của thành viên công ty
với công ty, của thành viên công ty với nhau. Quyền và nghĩa vụ tranh
chấp đó được quy định trong:
- Hai cụm văn bản quy phạm pháp luật là (1) pháp luật chung,
gồm: pháp luật dân sự, pháp luật doanh nghiệp, pháp luật đầu tư, pháp
luật chứng khoán, pháp luật thương mại; (2) pháp luật chuyên ngành:
pháp luật chuyên điều chỉnh hoạt động sản xuất, kinh doanh của công
ty trong những lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh có điều kiện (ví dụ:
Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Kinh
doanh bất động sản, Luật Khoáng sản,…);
- Quy định nội bộ của công ty, gồm: điều lệ, quy chế quản lý nội
bộ của công ty, nghị quyết, quyết định của các cơ quyền lực của công
ty, văn bản ủy quyền của cấp có thẩm quyền của công ty;
- Và/hoặc được thỏa thuận trong hợp đồng giữa các bên.
Khi xác định quan hệ tranh chấp này, Luật sư lưu ý những tranh
chấp khác giữa các chủ thể này không liên quan đến việc thành lập,
hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của
công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty sẽ không được coi

223
là tranh chấp kinh doanh, thương mại, ví dụ như: tranh chấp về hợp
đồng lao động giữa công ty và người quản lý bị công ty sa thải, tranh
chấp về hợp đồng mua bán ô tô cá nhân giữa hai thành viên công ty
với nhau, tranh chấp về quan hệ vay mượn tiền giữa các thành viên
công ty với nhau,…
Trong loại vụ án tranh chấp này, Luật sư cần quan tâm nghiên
cứu kỹ về tổ chức và hoạt động của công ty thông qua các quy định
trong điều lệ, quy chế quản lý nội bộ, nghị quyết, quyết định của đại
hội đồng cổ đông hoặc hội đồng thành viên của công ty, trong đó điều
lệ công ty là cơ sở gốc. Khi nghiên cứu điều lệ, quy chế quản lý nội bộ
công ty, Luật sư cần lưu ý đối chiếu các nội dung quy định về quyền
và nghĩa vụ của thành viên công ty, của người quản lý công ty với quy
định của pháp luật về vấn đề này để xác định những bất hợp lý so với
quy định của pháp luật, ví dụ như: điều lệ công ty giới hạn quyền của
cổ đông hẹp hơn quy định của Luật Doanh nghiệp hiện hành, quy chế
quản lý nội bộ công ty quy định quyền của người quản lý công ty bảo
hiểm trái với quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm hoặc Bộ luật
Hàng hải Việt Nam,… Từ đó xác định những nội dung quy định giới
hạn quyền hoặc trái với quy định của pháp luật sẽ không có hiệu lực
pháp luật mà sẽ áp dụng quy định cụ thể của pháp luật về nội dung đó
để giải quyết tranh chấp.
Khi xác định một bên trong quan hệ tranh chấp có là người quản
lý công ty hay không, Luật sư căn cứ vào việc họ có là thành viên hợp
danh, thành viên hội đồng thành viên (bao gồm cả chủ tịch hội đồng
thành viên), thành viên hội đồng quản trị (bao gồm cả chủ tịch hội
đồng quản trị), chủ tịch công ty (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên là tổ chức), giám đốc hoặc tổng giám đốc và cá nhân
giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công ty ký kết
giao dịch của công ty theo quy định tại điều lệ công ty hay không. Để
xác định yêu cầu của đương sự trong vụ án liên quan đến người quản
lý công ty có căn cứ hay không, Luật sư cần nghiên cứu quyền và
nghĩa vụ của người quản lý công ty được quy định trong Luật Doanh
nghiệp và điều lệ, quy chế quản lý nội bộ của công ty, nghiên cứu các
tài liệu, chứng cứ về vi phạm nghĩa vụ của người quản lý, về vi phạm
quyền của người quản lý.

224
Ví dụ: Tranh chấp giữa công ty với thành viên công ty về nghĩa
vụ đóng vốn góp.
Công ty TNHH hai thành viên LM thành lập theo đăng ký doanh
nghiệp được phòng đăng ký kinh doanh thành phố H cấp tháng 10 năm
2012, đăng ký vốn điều lệ là 10 tỷ đồng, trong đó ông L góp 50%, ông
M góp 50%. Điều lệ công ty ghi nhận ông L và ông M đã góp đủ vốn
điều lệ, mỗi ông góp 5 tỷ đồng vào ngày 30/9/2012. Trên thực tế, ông L
mới góp được 500 triệu đồng và ông M mới góp 2,5 tỷ đồng.
Ông L là giám đốc công ty và là người đại diện theo pháp luật
của công ty, ông M là chủ tịch hội đồng thành viên. Trong thời gian
làm giám đốc công ty, ông L lập chứng từ kế toán ngày 01/6/2015
ghi nhận mình nộp tiền góp vốn là 4,5 tỷ đồng và đưa khoản tiền
này vào báo cáo thuế nộp cho chi cục thuế. Do bất đồng quan điểm
về điều hành công ty và về kế hoạch đầu tư dự án của công ty, từ
tháng 9/2015, ông L không đến công ty làm việc, không thực hiện
bất cứ quyền hạn và trách nhiệm nào của giám đốc công ty, không
tham gia họp hội đồng thành viên, bất hợp tác với công ty và với
ông M, dẫn đến công ty LM bị đình trệ mọi hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Đến tháng 12/2015, ông M đã thực hiện góp thêm 2,5 tỷ
đồng vốn điều lệ, đảm bảo góp đủ 50% vốn điều lệ như đăng ký.
Tháng 7/2016, công ty LM khởi kiện ông L ra Tòa án, yêu cầu
Tòa án buộc ông L: (1) phải quay lại công ty làm việc, thực hiện
trách nhiệm quản lý điều hành công ty LM theo quyền hạn và trách
nhiệm của giám đốc công ty, của người đại diện theo pháp luật để
đảm bảo hoạt động bình thường của công ty, (2) phải tham gia họp
hội đồng thành viên để quyết định việc tăng vốn điều lệ bằng việc
kết nạp thêm thành viên góp vốn mới, sửa đổi điều lệ, thay đổi giám
đốc công ty, thay đổi người đại diện theo pháp luật, thay đổi trụ sở
công ty, thông qua kế hoạch đầu tư dự án, (3) nộp thêm 4,5 tỷ đồng
để đảm bảo góp đủ 50% vốn điều lệ như đăng ký, (4) phải bồi
thường thiệt hại cho công ty LM do không thực hiện đúng nghĩa vụ
quản lý điều hành công ty LM của giám đốc công ty, của người đại
diện theo pháp luật với mức bồi thường bằng 10 tháng doanh thu bị
sụt giảm của công ty LM là 12 tỷ đồng và (5) yêu cầu Tòa án tuyên
chứng từ kế toán ngày 01/6/2015 ghi nhận ông L nộp tiền góp vốn
là 4,5 tỷ đồng là không có hiệu lực pháp luật.

225
Đây là một vụ án tranh chấp hết sức phức tạp, liên quan đến
nhiều vấn đề trong tổ chức và hoạt động của công ty, chịu sự điều
chỉnh của Luật Doanh nghiệp, pháp luật về đăng ký kinh doanh, pháp
luật kế toán, pháp luật về thuế, pháp luật dân sự, pháp luật tố tụng dân
sự. Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án tranh chấp này, vấn đề đầu tiên mà
Luật sư cần thực hiện là đánh giá tính hợp pháp của đơn khởi kiện của
công ty LM khi người ký đơn không phải là người đại diện theo pháp
luật mà là chủ tịch hội đồng thành viên của công ty, đánh giá sự phù
hợp và có căn cứ của các yêu cầu khởi kiện của công ty LM, trong đó
cần đặc biệt lưu ý phân tích yêu cầu khởi kiện số 1, số 2 và số 3:
- Về yêu cầu số 1, công ty LM yêu cầu Toà án buộc ông L phải
thực hiện trách nhiệm quản lý điều hành công ty LM theo quyền hạn
và trách nhiệm của giám đốc công ty, của người đại diện theo pháp
luật để đảm bảo hoạt động bình thường của công ty. Trong khi đó,
theo quy định của Luật Doanh nghiệp và điều lệ công ty, giám đốc
công ty và người đại diện theo pháp luật của công ty do hội đồng
thành viên công ty bổ nhiệm, có quyền hạn và trách nhiệm theo quy
định tại điều lệ công ty và/hoặc do hội đồng thành viên quy định.
Trường hợp ông L không thực hiện công việc của giám đốc công ty và
người đại diện theo pháp luật thì hội đồng thành viên có quyền bãi
nhiệm các chức danh này của ông L và bổ nhiệm người khác đảm
nhiệm để đảm bảo hoạt động bình thường của công ty. Như vậy, công
ty LM có đủ căn cứ pháp luật để tự giải quyết vấn đề của mình, việc
yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nội dung số 1 này có thể không có
căn cứ để chấp nhận.
- Về yêu cầu số 2, công ty LM yêu cầu Toà án buộc ông L phải
tham gia họp hội đồng thành viên để quyết định việc tăng vốn điều lệ
bằng việc kết nạp thêm thành viên góp vốn mới, sửa đổi điều lệ, thay
đổi giám đốc công ty, thay đổi người đại diện theo pháp luật, thay đổi
trụ sở công ty, thông qua kế hoạch đầu tư dự án. Trong khi đó, theo
quy định của Luật Doanh nghiệp, trường hợp cuộc họp hội đồng thành
viên đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ ba mà ông L không tham dự
thì không phụ thuộc số thành viên dự họp và số vốn điều lệ được đại
diện bởi số thành viên dự họp, cuộc họp hội đồng thành viên vẫn được
tiến hành hợp lệ để quyết định các vấn đề này. Như vậy, công ty LM
có đủ căn cứ pháp luật để tự giải quyết vấn đề của mình, việc yêu cầu

226
Tòa án xem xét, giải quyết nội dung số 2 này có thể không có căn cứ
để chấp nhận.
- Về yêu cầu số 3, công ty LM yêu cầu Toà án buộc ông L phải
nộp thêm 4,5 tỷ đồng để đảm bảo góp đủ 50% vốn điều lệ như đăng
ký. Trong khi đó, Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định thành viên
phải góp đủ phần vốn góp như đã cam kết khi đăng ký thành lập
doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp. Trường hợp ông L, sau thời hạn này mà
chưa góp đủ phần vốn góp như đã cam kết thì chỉ có các quyền tương
ứng với phần vốn đã góp và phần vốn chưa góp của ông L được chào
bán theo quyết định của hội đồng thành viên, công ty phải đăng ký
điều chỉnh vốn điều lệ, tỷ lệ phần vốn góp của các thành viên bằng số
vốn đã góp trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày cuối cùng phải góp đủ
phần vốn góp. Như vậy, công ty LM có đủ căn cứ pháp luật để tự giải
quyết vấn đề của mình, việc yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nội
dung số 3 này có thể không có căn cứ để chấp nhận.
Như vậy, có thể chỉ còn yêu cầu khởi kiện số 4, số 5 là có căn
cứ để Toà án xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng
dân sự.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án tranh chấp này, trên cơ sở quy định
của pháp luật điều chỉnh hai nội dung tranh chấp số 4, số 5 và quy
định tại điều lệ công ty, Luật sư cần chú trọng đến những nội dung cơ
bản sau:
- Xác định cơ cấu tổ chức và hoạt động của công ty, xác định
quyền và nghĩa vụ của thành viên công ty, chủ tịch hội đồng thành
viên, của giám đốc, của người đại diện theo pháp luật của công ty.
- Xác định nghĩa vụ và thời hạn, phương thức góp vốn điều lệ
của các thành viên công ty sau khi công ty được cấp đăng ký doanh
nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
- Đánh giá các chứng cứ chứng minh ông L là thành viên công
ty, giám đốc và là người đại diện theo pháp luật của công ty; chứng
cứ chứng minh việc ông L không đến công ty làm việc, không thực
hiện bất cứ quyền hạn và trách nhiệm nào của giám đốc công ty,
không tham gia họp hội đồng thành viên, bất hợp tác với công ty và
với ông M.

227
- Đánh giá các chứng cứ chứng minh việc góp vốn thực tế của
ông L và ông M, cũng như việc có phải ông L đã không thực sự góp
vốn 4,5 tỷ đồng mà chứng từ kế toán, báo cáo thuế chỉ là ngụy tạo.
Luật sư cần quan tâm khai thác sâu các báo cáo tài chính qua các thời
kỳ, đặc biệt là bảng tổng kết tài sản, các sổ sách kế toán, sổ quỹ, sao
kê tài khoản ngân hàng, lời khai của các cán bộ nhân viên có liên quan
để xác định những tình tiết khách quan này.
- Đánh giá các chứng cứ chứng minh công ty LM hoạt động bình
thường từ khi thành lập đến tháng 9/2015, việc công ty LM bị đình trệ
mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh do sự vắng mặt của ông L. Xác
minh doanh thu từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty LM
và mức độ sụt giảm doanh thu, nguyên nhân sụt giảm doanh thu từ
tháng 9/2015 đến thời điểm khởi kiện và các chứng cứ chứng minh
trách nhiệm của ông L liên quan đến việc sụt giảm doanh thu này.
- Trường hợp cần thiết, Luật sư có thể đề nghị chi cục thuế, ngân
hàng, các đối tác và khách hàng của công ty cung cấp thêm thông tin,
chứng cứ để xác định thêm tính xác thực của hoạt động góp vốn điều
lệ công ty do ông L và ông M thực hiện, của hoạt động kinh doanh và
doanh thu, vấn đề sụt giảm doanh thu của công ty LM.
2.3. Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, đánh giá và sử dụng chứng cứ
trong một số vụ án lao động
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án lao động, ngoài các vấn đề đã được
trình bày trong phần kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự, Luật sư
cần lưu ý các vấn đề sau:
Thứ nhất, kiểm tra/xác định quan hệ pháp luật tranh chấp
Về nguyên tắc, khi thụ lý vụ án, Toà án đã xác định quan hệ
pháp luật tranh chấp. Tuy nhiên, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự
nói chung, vụ án lao động nói riêng, Luật sư cần kiểm tra/xác định
quan hệ pháp luật tranh chấp. Nếu có căn cứ thể hiện Toà án xác định
quan hệ pháp luật chưa chính xác và việc xác định quan hệ pháp luật
tranh chấp của Toà án ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của khách
hàng thì Luật sư cần đề xuất với Toà án để xác định lại quan hệ pháp
luật tranh chấp.
Việc xác định chính xác quan hệ pháp luật tranh chấp giúp Luật sư

228
định hướng được văn bản pháp luật nội dung sẽ áp dụng. Ngoài ra, việc
xác định quan hệ pháp luật tranh chấp còn là cơ sở giúp Luật sư nghiên
cứu các vấn đề tố tụng của vụ án, bởi lẽ với các quan hệ pháp luật tranh
chấp khác nhau thì thủ tục tiền tố tụng cũng có sự khác nhau nhất định.

Ví dụ:
Chị Nguyễn Thị A làm việc tại Phòng Đào tạo của Trường Đại học
H. Trong quá trình làm việc, chị A bị Hiệu trưởng Trường Đại học H
kỷ luật khiển trách do có hành vi vi phạm. Không đồng ý với quyết
định kỷ luật khiển trách, chị A có đơn yêu cầu Toà án giải quyết tranh
chấp. Toà án thụ lý vụ án khi có đơn khởi kiện của chị A.
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, Luật sư của bị đơn cho rằng đây là
tranh chấp về kỷ luật theo hình thức khiển trách nên bắt buộc phải
được giải quyết thông qua thủ tục hoà giải của Hoà giải viên lao động
trước khi khởi kiện đến Toà án. Vụ tranh chấp giữa chị A và Trường
Đại học H chưa được giải quyết thông qua thủ tục hoà giải của Hoà
giải viên lao động trước khi khởi kiện nên đề nghị Toà án đình chỉ giải
quyết vụ án do vụ tranh chấp chưa đủ điều kiện khởi kiện.
Trong trường hợp này, để xác định Toà án thụ lý có đúng pháp luật
hay không, Luật sư cần xác định tranh chấp giữa chị A và Trường Đại
học H là tranh chấp gì? Nếu chị A làm việc tại Trường Đại học H trên cơ
sở hợp đồng làm việc theo quy định của Luật Viên chức thì tranh chấp
giữa chị A và Trường Đại học H là tranh chấp giữa viên chức và đơn vị
sự nghiệp công lập về kỷ luật lao động theo hình thức khiển trách. Tranh
chấp này không bắt buộc phải giải quyết thông qua thủ tục hoà giải của
Hoà giải viên lao động trước khi khởi kiện40. Nếu chị A làm việc tại
Trường Đại học H trên cơ sở hợp đồng lao động thì đây là tranh chấp
giữa người lao động và người sử dụng lao động về kỷ luật lao động theo
hình thức khiển trách. Tranh chấp này bắt buộc phải giải quyết thông qua
thủ tục hoà giải của Hoà giải viên lao động trước khi khởi kiện.
Thứ hai, nghiên cứu các vấn đề tố tụng
Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án lao động, Luật sư cần tập trung
nghiên cứu một số vấn đề tố tụng sau đây:

40
Xem khoản 5 Điều 32 BLTTDS năm 2015.

229
- Thời hiệu khởi kiện
Khi nghiên cứu thời hiệu khởi kiện vụ án lao động, Luật sư cần
căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 202 Bộ luật Lao động năm
201241 nếu là tranh chấp lao động cá nhân; Điều 207 Bộ luật Lao động
năm 201242 nếu là tranh chấp lao động tập thể về quyền để xác định
chính xác thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện.

Ví dụ:
Chị B làm việc cho Công ty C theo hợp đồng lao động không xác
định thời hạn. Trong quá trình làm việc, ngày 06/02/2019, chị B có
hành vi trộm cắp tài sản của doanh nghiệp. Ngày 04/4/2019, Công
ty C ban hành quyết định kỷ luật sa thải chị B. Quyết định kỷ luật sa
thải chị B có hiệu lực từ ngày 05/4/2019. Ngày 10/4/2019, chị B
nhận được quyết định kỷ luật sa thải.
Ngày 09/4/2020, chị B khởi kiện vụ tranh chấp đến Toà án có
thẩm quyền để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho chị.
Có ý kiến cho rằng vụ tranh chấp về kỷ luật lao động theo hình
thức sa thải giữa chị B và Công ty C khởi kiện đến Toà án khi đã hết
thời hiệu khởi kiện (vì quyết định kỷ luật sa thải chị B có hiệu lực từ
ngày 05/4/2019, đến ngày 09/4/2020 chị B mới khởi kiện đến Toà án
là đã quá 01 năm). Do đó, nếu có yêu cầu Toà án áp dụng thời hiệu
khởi kiện để giải quyết vụ tranh chấp của một hoặc các bên đương sự
thì Toà án phải đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại điểm e
khoản 1 Điều 217 BLTTDS năm 2015.
Để xác định vụ tranh chấp giữa chị B và Công ty C còn thời
hiệu khởi kiện hay không, Luật sư cần xác định chính xác ngày bắt
đầu tính thời hiệu khởi kiện. Trong ví dụ trên, thời hiệu khởi kiện sẽ
tính từ ngày tiếp theo ngày chị B nhận được quyết định kỷ luật sa
thải chứ không tính từ ngày tiếp theo ngày quyết định kỷ luật sa thải
có hiệu lực pháp luật vì thời điểm chị B “phát hiện ra hành vi” mà chị
B “cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm” là ngày chị

41
Xem thêm khoản 3 Điều 190 Bộ luật Lao động năm 2019 (có hiệu lực thi hành từ
01/01/2021).
42
Xem thêm khoản 3 Điều 194 Bộ luật Lao động năm 2019 (có hiệu lực thi hành từ
01/01/2021).

230
nhận được quyết định kỷ luật sa thải - ngày 10/4/2019. Do đó, vào
thời điểm chị B khởi kiện (ngày 09/4/2020), vụ tranh chấp còn thời
hiệu khởi kiện43.
- Thủ tục tiền tố tụng
Để xác định vụ tranh chấp lao động khởi kiện đến Toà án đã qua
thủ tục tiền tố tụng chưa, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án lao động, Luật sư
cần lưu ý:
+ Đối với các tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao
động tập thể về quyền mà hành vi dẫn đến sự kiện tranh chấp xảy ra
trước ngày 01/01/2021:
Tranh chấp lao động cá nhân: Luật sư cần xác định vụ tranh chấp
có bắt buộc phải qua thủ tục hoà giải của Hoà giải viên lao động
không? Nếu tranh chấp bắt buộc phải qua thủ tục hoà giải của Hoà
giải viên lao động thì trong hồ sơ vụ án có tài liệu, chứng cứ nào thể
hiện: các bên đã yêu cầu Hoà giải viên lao động hoà giải nhưng không
được hoà giải trong thời hạn 05 ngày làm việc/Hoà giải viên lao động
đã hoà giải thành nhưng một trong hai bên không thực hiện thoả thuận
đã đạt được/Hòa giải viên lao động đã hoà giải nhưng không thành44.
Tranh chấp lao động tập thể về quyền: Luật sư cần kiểm tra
trong hồ sơ vụ án có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện các bên tranh chấp
đã yêu cầu Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết chưa? Nếu đã yêu
cầu Chủ tịch UBND cấp huyện giải quyết thì trong hồ sơ vụ án có tài
liệu, chứng cứ nào thể hiện: Chủ tịch UBND đã giải quyết nhưng các
bên không đồng ý với quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND cấp
huyện/hết thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu
cầu giải quyết tranh chấp mà Chủ tịch UBND cấp huyện không giải
quyết vụ tranh chấp.

43
Quy định về thời hiệu khởi kiện tranh chấp lao động cá nhân tại khoản 3 Điều 190 Bộ
luật Lao động năm 2019 không thay đổi so với Bộ luật Lao động năm 2012.
44
Với các tranh chấp lao động cá nhân không bắt buộc phải qua thủ tục tiền tố tụng, Luật
sư cũng cần nghiên cứu vì nếu các bên của tranh chấp đã yêu cầu Hoà giải viên lao động
hoà giải thì Toà án chỉ thụ lý khi tranh chấp đã được Hòa giải viên lao động hoà giải thành
nhưng một bên không thực hiện/Hoà giải viên lao động đã hoà giải nhưng không thành/các
bên đã yêu cầu hoà giải nhưng không được Hoà giải viên lao động hoà giải trong thời hạn
05 ngày làm việc.

231
+ Đối với các tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao
động tập thể về quyền mà hành vi dẫn đến sự kiện tranh chấp xảy ra
từ ngày 01/01/2021 trở đi:
Luật sư cần lưu ý, theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019
(có hiệu lực thi hành từ 01/01/2021), thủ tục tiền tố tụng áp dụng đối
với tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể về
quyền là giống nhau. Do đó, khi nghiên cứu hồ sơ vụ tranh chấp lao
động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể về quyền (mà hành vi làm
phát sinh tranh chấp xảy ra từ ngày 01/01/2021 trở đi), Luật sư cần
kiểm tra có tài liệu, chứng cứ nào thể hiện các bên đã qua thủ tục hoà
giải của Hoà giải viên lao động hay chưa? Ngoài ra, trường hợp các bên
tranh chấp đã yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động giải quyết thì Luật sư
cần kiểm tra hồ sơ vụ án có chứng cứ thể hiện: Ban trọng tài lao động
không được thành lập trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được
yêu cầu giải quyết/Ban trọng tài lao động không ra quyết định giải
quyết vụ tranh chấp trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thành
lập/Ban trọng tài lao động đã giải quyết nhưng một trong các bên không
thi hành quyết định giải quyết của Ban trọng tài lao động không45.
Sau khi nghiên cứu các vấn đề liên quan đến thủ tục tiền tố tụng,
nếu thấy tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án thể hiện vụ tranh chấp
lao động chưa qua thủ tục tiền tố tụng hoặc tranh chấp đã được Hoà
giải viên lao động hoà giải thành, bên có nghĩa vụ đã thực hiện đúng
nghĩa vụ của mình theo thoả thuận của các bên trong biên bản hoà giải
thành/tranh chấp đã được Ban trọng tài lao động ra quyết định giải
quyết, bên có nghĩa vụ đã thực hiện đúng nghĩa vụ của mình theo
quyết định giải quyết của Ban trọng tài lao động thì tuỳ việc bảo vệ
cho đương sự nào trong vụ án, Luật sư cần có những đề xuất hoặc
hành động cụ thể nhằm bảo vệ quyền lợi cho khách hàng.
- Vụ tranh chấp đã được giải quyết bằng bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật
Về nguyên tắc, khi xem xét, thụ lý vụ án lao động, Toà án sẽ trả
lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu có căn cứ thể hiện sự việc
đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực của cơ quan

45
Điều 189, 193 Bộ luật Lao động năm 2019.

232
nhà nước có thẩm quyền46. Tuy nhiên, không phải trường hợp nào Toà
án cũng phát hiện ra sự việc đã được giải quyết vào thời điểm người
khởi kiện nộp đơn khởi kiện. Vì vậy, khi nghiên cứu hồ sơ vụ án lao
động, Luật sư cần nghiên cứu xem vụ tranh chấp đã được giải quyết
bằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của chủ thể có thẩm
quyền chưa? Trường hợp có đủ căn cứ xác định vụ tranh chấp đã được
giải quyết bằng bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật, Luật sư
của bị đơn cần đề nghị Toà án đình chỉ giải quyết vụ án.
Thứ ba, nghiên cứu nội dung tranh chấp
Khi nghiên cứu nội dung tranh chấp giữa các bên, tuỳ từng vụ
tranh chấp cũng như yêu cầu khởi kiện/yêu cầu phản tố của các bên
mà Luật sư cần nghiên cứu các vấn đề khác nhau.
- Tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động do
người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với
người lao động: Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án về đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động do người sử dụng lao động đơn phương với người
lao động, Luật sư cần tập trung nghiên cứu xem việc đơn phương có
căn cứ không? Người sử dụng lao động có báo trước cho người lao
động đủ số ngày theo quy định của pháp luật không47? Người lao động
có thuộc trường hợp pháp luật quy định người sử dụng lao động
không được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không?
Nếu người lao động là cán bộ công đoàn không chuyên trách/thành
viên ban lãnh đạo của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở thì
trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, người sử dụng lao
động đã thực hiện đúng thủ tục theo quy định của pháp luật chưa?
- Tranh chấp về kỷ luật lao động: Luật sư cần tập trung nghiên
cứu xem quyết định kỷ luật có căn cứ không? Người sử dụng lao động
có thực hiện đúng trình tự, thủ tục khi xử lý kỷ luật người lao động
không? Ai là người ký quyết định kỷ luật? Quyết định kỷ luật có được
ban hành trong thời hiệu xử lý kỷ luật không?
- Tranh chấp về hoàn trả chi phí đào tạo: Luật sư cần tập trung

46
Xem: điểm c khoản 1 Điều 192 BLTTDS năm 2015.
47
Luật sư cần lưu ý quy định tại khoản 3 Điều 36 Bộ luật Lao động năm 2019 về các
trường hợp người sử dụng lao động không phải báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động.

233
nghiên cứu xem có quan hệ đào tạo giữa người lao động/viên chức với
người sử dụng lao động/đơn vị sự nghiệp công lập không? Khoá đào
tạo về vấn đề gì? Chi phí đào tạo là bao nhiêu; giữa các bên có hợp
đồng đào tạo/cam kết đào tạo không? Thời gian người lao động/viên
chức thoả thuận/cam kết làm việc cho người sử dụng lao động/đơn vị
sự nghiệp công lập? Trách nhiệm hoàn trả chi phí đào tạo nếu người
lao động/viên chức vi phạm? Người lao động/viên chức có hành vi vi
phạm hợp đồng đào tạo/cam kết đào tạo không?
Luật sư cần lưu ý: trong các vụ án tranh chấp về lao động, người
khởi kiện thường có nhiều yêu cầu khởi kiện khác nhau. Tuy nhiên, nếu
các yêu cầu khởi kiện chỉ liên quan đến hậu quả của việc đơn phương/sa
thải… trái pháp luật thì Luật sư chỉ cần tập trung nghiên cứu tính hợp
pháp của việc đơn phương/sa thải… Trường hợp, ngoài các yêu cầu liên
quan đến quyền lợi khi bị đơn phương/sa thải, người khởi kiện còn có
các yêu cầu khác như đòi tiền thưởng cuối năm, tiền lương làm thêm
giờ... thì sau khi nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến tính hợp pháp
của việc đơn phương/sa thải, Luật sư cần nghiên cứu các tài liệu, chứng
cứ có liên quan đến yêu cầu khởi kiện khác của nguyên đơn.
Ngoài ra, khi nghiên cứu để đề nghị Toà án chấp nhận/không
chấp nhận các yêu cầu khởi kiện/yêu cầu phản tố của các bên có liên
quan đến những vấn đề mà pháp luật hiện hành không quy định/pháp
luật hiện hành có quy định nhưng các bên yêu cầu cao hơn quy định
của pháp luật hiện hành, Luật sư cần nghiên cứu xem các bên có thoả
thuận trong hợp đồng lao động/có quy định/thoả thuận nội bộ của đơn
vị sử dụng lao động về vấn đề này không?

Ví dụ:
Chị H làm việc cho Công ty K theo hợp đồng lao động có thời
hạn 36 tháng. Khi thực hiện hợp đồng lao động được 24 tháng thì
Công ty K đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với chị H. Chị H
khởi kiện vụ tranh chấp đến Toà án. Ngoài các yêu cầu khởi kiện
liên quan đến quyền lợi khi bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động trái pháp luật, chị H còn yêu cầu Toà án buộc Công ty K phải
thanh toán 20 ngày phép năm những ngày chị chưa nghỉ.

234
Theo quy định tại Điều 111 Bộ luật Lao động năm 201248, người
lao động có đủ 12 tháng làm việc cho một người sử dụng lao động sẽ
được nghỉ 12 ngày làm việc (đối với người làm công việc trong điều
kiện bình thường). Vì yêu cầu khởi kiện của chị H về số ngày nghỉ
hằng năm cao hơn quy định của pháp luật hiện hành nên Luật sư của
các bên phải nghiên cứu các quy định/thoả thuận nội bộ của Công ty
K/thoả thuận giữa chị H và Công ty K trong hợp đồng lao động về số
ngày nghỉ hằng năm. Nếu quy định/thoả thuận nội bộ của Công ty
K/thoả thuận giữa chị H và Công ty K quy định người lao động được
nghỉ hằng năm với số ngày là 20 ngày/năm thì yêu cầu khởi kiện của
chị H là có cơ sở, Luật sư của nguyên đơn cần đề nghị Toà án chấp
nhận yêu cầu khởi kiện này.
2.4. Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, đánh giá và sử dụng chứng cứ
trong một số vụ án hôn nhân và gia đình
2.4.1. Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ trong vụ án ly hôn, tranh chấp
về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn
Để nắm vững được hồ sơ vụ án ly hôn, khi nghiên cứu hồ sơ,
Luật sư cần tập trung làm rõ các vấn đề sau:
- Xác định tính chất của quan hệ hôn nhân (hôn nhân hợp pháp,
hủy kết hôn trái pháp luật hay không công nhận quan hệ vợ chồng);
- Thời gian chung sống hạnh phúc, thời điểm phát sinh mâu
thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn đó, mức độ mâu thuẫn, khả năng có
đoàn tụ được hay không;
- Lý do, động cơ xin ly hôn, lý do, động cơ xin đoàn tụ;
- Quá trình vợ chồng mâu thuẫn đã được gia đình, cơ quan, chính
quyền giải quyết giúp đỡ chưa, ý kiến của vợ chồng như thế nào?;
- Vợ chồng có con chung hay chưa, con mấy tuổi, có thuộc trường
hợp hỏi ý kiến của con hay không? Nguyện vọng con muốn ở với ai,
hiện ai trực tiếp chăm sóc con, điều kiện công việc và thu nhập của từng
người? Trường hợp người chồng xin ly hôn thì phải xác định người vợ
có mang thai không, có nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi không?;

48
Quy định về ngày nghỉ hàng năm đối với người làm công việc trong điều kiện bình
thường tại điểm a khoản 1 Điều 113 Bộ luật Lao động năm 2019 không thay đổi so với Bộ
luật Lao động năm 2012.

235
- Về tài sản, cần phải xác định chế độ tài sản giữa các bên (chế
độ tài sản theo thỏa thuận hay chế độ tài sản theo luật định? Hiệu lực
của thỏa thuận về tài sản trong trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về
chế độ tài sản?); tài sản chung, riêng; xác định nguồn gốc tài sản, công
sức đóng góp của mỗi bên trong việc tạo dựng và duy trì tài sản, giá trị
tài sản và nhu cầu sử dụng thực sự của từng đương sự. Việc đảm bảo
chỗ ở cho phụ nữ phải nuôi con không có chỗ ở nào khác, vấn đề
quyền cho lưu cư, tạm phân định chỗ ở hoặc chia quyền sở hữu, quyền
sử dụng theo pháp luật về nhà ở và quyền sử dụng đất…
2.4.2. Kỹ năng đánh giá và sử dụng chứng cứ
Tranh chấp HN&GĐ gồm nhiều loại tranh chấp khác nhau, với
mỗi vụ án, Tòa án xem xét, giải quyết một quan hệ pháp luật tranh
chấp chính theo phạm vi khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố
của bị đơn và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan. Như vậy, tùy thuộc vào quan hệ pháp luật tranh chấp và phạm vi
yêu cầu giải quyết tranh chấp của đương sự mà Luật sư nghiên cứu hồ
sơ, đánh giá và sử dụng chứng cứ phục vụ cho mục đích chứng minh
cho yêu cầu của khách hàng là có căn cứ.
a) Đánh giá và sử dụng chứng cứ xác định quan hệ pháp luật về
hôn nhân và gia đình
Tranh chấp về HN&GĐ được Tòa án thụ lý giải quyết phải là
những tranh chấp phát sinh từ một quan hệ pháp luật HN&GĐ. Để
chứng minh cho quan hệ tranh chấp được Tòa án thụ lý là đúng theo
quy định của pháp luật, Luật sư cần phải chú trọng xem xét, đánh giá
chứng cứ để xác định rõ các mục đích chứng minh:
- Trường hợp các bên có đăng ký kết hôn: Hôn nhân hợp pháp
được pháp luật xác định bằng sự kiện kết hôn theo pháp luật của một
người nam và một người nữ. Theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Luật
HN&GĐ năm 2014 thì kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ
chồng với nhau theo quy định của Luật HN&GĐ về điều kiện kết hôn
(Điều 8) và đăng ký kết hôn (Điều 9).
Việc kiểm tra các điều kiện kết hôn của một người nam và một
người nữ khi làm thủ tục đăng ký kết hôn Luật sư cần tham khảo áp
dụng các quy định của Luật Hộ tịch và Luật HN&GĐ tại thời điểm các
bên đăng ký kết hôn để xác định. Trên cơ sở hồ sơ đăng ký kết hôn hợp

236
lệ, cơ quan có thẩm quyền sẽ thực hiện thủ tục theo pháp luật quy định.
Việc kết hôn của các bên được ghi vào sổ đăng ký kết hôn và giấy
chứng nhận kết hôn. Hai bên ký tên vào sổ đăng ký kết hôn và được
nhận giấy chứng nhận kết hôn. Như vậy, về chứng cứ xem xét hoặc là
giấy chứng nhận kết hôn hoặc là bản trích lục sổ đăng ký kết hôn tại nơi
đăng ký kết hôn (trong trường hợp giấy chứng nhận kết hôn bị thất lạc).
- Trường hợp ngoại lệ, các bên mặc dù không có đăng ký kết
hôn, nhưng vẫn được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp. Qua
từng thời kỳ lập pháp, Nhà nước đã thừa nhận một số trường hợp đặc
biệt mặc dù vi phạm các quy định của pháp luật về HN&GĐ nhưng
vẫn được coi là hôn nhân hợp pháp. Luật sư cần phải xem xét trong
từng trường hợp cụ thể, các “điều kiện” Nhà nước quy định để công
nhận hôn nhân hợp pháp đó là điều kiện gì, từ đó, có định hướng thu
thập chứng cứ phù hợp.
+ Quan hệ hôn nhân vi phạm chế độ “một vợ, một chồng” vẫn có
thể được công nhận là hôn nhân hợp pháp nếu: Các quan hệ hôn nhân
ở miền Bắc xác lập trước thời điểm ngày 13/01/1960 (thời điểm Luật
HN&GĐ năm 1959 chưa được ban hành); quan hệ hôn nhân ở miền
Nam xác lập trước ngày 25/3/1977 (ngày Hội đồng Chính phủ ban
hành Nghị quyết số 76/CP quy định về việc thực hiện pháp luật thống
nhất trong phạm vi cả nước, trong đó có đạo luật HN&GĐ); các
trường hợp công nhận hôn nhân hợp pháp theo Thông tư số 60/TATC
ngày 22/02/1978 của TANDTC hướng dẫn giải quyết các việc tranh
chấp về HN&GĐ của cán bộ, bộ đội có vợ, có chồng trong Nam tập
kết ra Bắc lấy vợ, lấy chồng khác.
Như vậy, khi nghiên cứu hồ sơ, Luật sư cần đánh giá các tình
tiết, sự kiện liên quan đến thời điểm chung sống (chung sống như vợ
chồng vào thời điểm nào?), không gian chung sống của các bên (miền
Nam hay miền Bắc); điều kiện thực tế tại thời điểm kết hôn...
+ Trường hợp người bị Tòa án tuyên bố đã chết theo căn cứ
tuyên bố chết được quy định trong BLDS, sau khi tuyên bố của Tòa án
có hiệu lực pháp luật thì vợ hoặc chồng của người đó có quyền kết
hôn với người khác. Nếu người bị tuyên bố là đã chết trở về, Tòa án ra
quyết định hủy tuyên bố chết, mà vợ hoặc chồng của người đó đã kết
hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực

237
pháp luật. Nếu người vợ hoặc người chồng chưa kết hôn với người
khác thì quan hệ hôn nhân đương nhiên được khôi phục lại.
Đối với trường hợp trên, để chứng minh cho quan hệ hôn nhân
sau là hợp pháp thì Luật sư cần sử dụng chứng cứ để xác định về thời
điểm kết hôn là có sau thời điểm Tòa án tuyên bố người chồng hoặc
người vợ của họ đã chết.
+ Trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký
kết hôn chỉ được coi là có giá trị pháp lý nếu đảm bảo được các điều
kiện công nhận quan hệ vợ chồng được pháp luật quy định.
Việc nam nữ sống chung như vợ chồng chỉ được coi là có giá trị
pháp lý nếu thỏa mãn các điều kiện sau:
Một là, các bên đủ độ tuổi kết hôn, ý chí tự nguyện, không vi
phạm các điều kiện kết hôn của Luật HN&GĐ tại thời điểm kết hôn.
Hai là, thời điểm chung sống xảy ra trước ngày Luật HN&GĐ
năm 2000 có hiệu lực (tức là ngày 01/01/2000), bao gồm:
Quan hệ chung sống như vợ chồng xác lập trước này Luật
HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực, tức là trước ngày 03/01/1987. Nếu
nam nữ sống chung với nhau vào thời điểm này thì được coi là hôn
nhân hợp pháp, thời kỳ hôn nhân hợp pháp bắt đầu từ thời điểm họ
chung sống với nhau.
Quan hệ chung sống như vợ chồng xác lập trong thời kỳ Luật
HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực (từ ngày 03/01/1987 đến ngày
01/01/2001). Nam nữ chung sống với nhau vào thời điểm này, pháp
luật dành cho họ thời hạn để họ đi đăng ký kết hôn là 02 năm (từ ngày
01/01/2001 đến ngày 01/01/2003). Trong thời hạn là hai năm, họ đi
đăng ký kết hôn đúng thời hạn, đúng quy định thì thời kỳ hôn nhân
hợp pháp tính từ thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng (điểm b khoản 3
Nghị quyết số 35/2000/QH10, Điều 7 Nghị định số 77/2001/NĐ-CP).
Sau thời hạn luật định (sau ngày 01/01/2003), họ mới đăng ký kết hôn
thì quan hệ hôn nhân hợp pháp được tính từ thời điểm đăng ký kết
hôn. Nếu họ không đăng ký kết hôn thì không công nhận là vợ chồng.
Khi đánh giá chứng cứ để chứng minh quan hệ hôn nhân của họ
trong trường hợp này, trước tiên Luật sư cần làm rõ các sự kiện thực tế
để xác định thời điểm bắt đầu chung sống của họ. Thời điểm nam và

238
nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ chức lễ
cưới hoặc ngày họ về chung sống với nhau được gia đình (một hoặc cả
hai bên) chấp nhận hoặc ngày họ về chung sống với nhau được người
khác hay tổ chức chứng kiến hoặc ngày họ thực sự bắt đầu chung sống
với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình.
Tùy từng trường hợp cụ thể mà Luật sư mô tả lại các sự kiện
thực tế để xác định thời điểm họ chung sống với nhau như vợ chồng là
từ khi nào. Cùng với sự kiện thực tế đó, đối chiếu với quy định của
pháp luật về điều kiện kết hôn, từ đó, chứng minh quan hệ hôn nhân
đó có được pháp luật thừa nhận hay không?
+ Trường hợp hôn nhân vi phạm điều kiện kết hôn, nhưng trong
một số trường hợp ngoại lệ, nếu xảy ra một số sự kiện pháp lý nhất
định, căn cứ vào sự kiện này để xác định việc chuyển hóa quan hệ hôn
nhân từ hôn nhân trái pháp luật sang công nhận là hôn nhân hợp pháp.
Luật sư đánh giá chứng cứ để chứng minh cho việc “chuyển hóa”
quan hệ hôn nhân từ hôn nhân trái pháp luật (do vi phạm điều kiện kết
hôn) sang quan hệ hôn nhân hợp pháp. Nếu là quan hệ hôn nhân vi
phạm điều kiện kết hôn mà các bên có yêu cầu giải quyết thì Tòa án ra
quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật. Trong trường hợp quan hệ
hôn nhân trái pháp luật chuyển hóa sang công nhận hôn nhân hợp
pháp thì Tòa án giải quyết ly hôn theo thủ tục chung. Tuy nhiên, chỉ
những trường hợp vi phạm điều kiện kết hôn cụ thể theo quy định của
pháp luật, mà khi sự kiện pháp lý mới xuất hiện thì mới được chuyển
hóa sang quan hệ hôn nhân hợp pháp. Đối với trường hợp này, Luật sư
cần lưu ý áp dụng hướng dẫn cụ thể tại Thông tư liên tịch số
01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 hướng
dẫn thi hành một số quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 để đánh
giá và sử dụng chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật.
b) Đánh giá và sử dụng chứng cứ xác định quan hệ pháp luật
giữa cha mẹ và con
Theo khoản 4 Điều 28 BLTTDS năm 2015, tranh chấp về xác
định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án. Nghĩa vụ chứng minh thuộc về người có
yêu cầu khởi kiện. Nếu là Luật sư của nguyên đơn, Luật sư cần giúp
khách hàng thu thập chứng cứ để xác định mối quan hệ giữa người bị
kiện và mẹ (cha) của đứa trẻ và chứng cứ chứng minh trực tiếp mối

239
quan hệ huyết thống giữa người bị kiện và đứa trẻ. Luật sư có thể sử
dụng các chứng cứ gián tiếp để chứng minh như:
- Trong thời gian thụ thai đứa trẻ, người đàn ông bị kiện và mẹ
đứa trẻ đã yêu thương nhau, hứa hẹn kết hôn nhưng sau đó không kết
hôn nữa;
- Trong thời gian thụ thai đứa trẻ, người đàn ông bị kiện và mẹ
đứa trẻ đã chung sống như vợ chồng, khi đứa trẻ sinh ra, người đàn
ông bị kiện đã yêu thương đứa trẻ như con của mình;
- Các giấy tờ hay thư từ do người đàn ông bị kiện viết xác nhận
đứa trẻ là con của họ…
Quan hệ xác định cha, mẹ, con cũng có thể được xác định về
phương diện xã hội như việc các bên đương sự cư xử với nhau như
cha - con (mẹ - con) thông qua việc trông nom, chăm sóc, giáo dục,
gây dựng tương lai cho con hoặc thông qua việc cư xử của người con
với cha mẹ hoặc thông qua dư luận xã hội…
Cần phải khẳng định rằng, chứng cứ quan trọng nhất để chứng
minh đối với loại án này là việc sử dụng kết luận giám định gen vì cho
dù có xuất trình các chứng cứ trên thì tính thuyết phục cũng không
cao, trừ trường hợp người bị kiện thừa nhận. Tuy nhiên, một thực tế
đang vướng mắc hiện nay là nếu người bị yêu cầu giám định gen (là
người bị kiện hoặc người thân thích của họ) không tự giác phối hợp
cung cấp “mẫu” để giám định gen thì việc giám định này sẽ không
thực hiện được. Trong trường hợp này, rất khó để Luật sư sử dụng kết
quả của chứng cứ chứng minh trực tiếp là kết quả giám định gen. Lúc
này, Luật sư cần sử dụng triệt để khả năng chứng minh của các chứng
cứ chứng minh gián tiếp như đã phân tích ở phần trên.
c) Đánh giá và sử dụng chứng cứ đối với yêu cầu giải quyết
ly hôn
Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của mình,
người vợ hoặc người chồng phải đưa ra các chứng cứ chứng minh cho
yêu cầu xin ly hôn là có căn cứ hợp pháp. Về quan hệ tình cảm, phải
xác định rõ việc kết hôn có đáp ứng đủ các điều kiện về hình thức và
nội dung của cuộc hôn nhân hợp pháp, không công nhận quan hệ vợ
chồng hay hủy việc kết hôn trái pháp luật. Trường hợp vợ chồng

240
không có đăng ký kết hôn thì phải xác định rõ quan hệ vợ chồng xác
lập từ thời gian nào? Tìm hiểu nguyên nhân, diễn biến, tình trạng mâu
thuẫn, thời điểm vợ chồng cắt đứt quan hệ… Ngoài việc lấy lời khai
của vợ chồng thì việc xác định tình trạng hôn nhân thường phải qua
phản ánh của những người có quan hệ gần gũi như cha mẹ, cơ quan
quản lý của vợ chồng, tổ dân phố, đoàn thể xã hội mà họ sinh hoạt.
Theo khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014, Tòa án sẽ giải
quyết ly hôn nếu có căn cứ về việc “vợ chồng có hành vi bạo lực gia
đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm
cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không
thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Như vậy, Luật
sư cần thu thập chứng cứ để chứng minh cho hai mệnh đề chính sau:
Thứ nhất, có việc người vợ hoặc người chồng (là bị đơn) có hành vi
bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ,
chồng; Thứ hai, với những hành vi như vậy của người vợ (chồng) đã
làm cho hôn nhân của họ lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn
cứ ly hôn của Luật HN&GĐ năm 2014 có điểm bổ sung so với Luật
HN&GĐ năm 2000 ở chỗ đã chỉ rõ nguyên nhân dẫn đến việc chấm
dứt hôn nhân phải do chính hành vi có lỗi của một bên vợ hoặc chồng
(bên bị kiện) và không thể là do tác động từ bên ngoài hoặc của người
khác. Xét về ý thức chủ quan, họ đã cố ý lựa chọn cho mình cách xử
sự, cách hành động không đúng với vai trò, trách nhiệm của một
người chồng hoặc người vợ và do đó, đã làm tổn thương nghiêm trọng
đến đời sống tình cảm của vợ chồng.
Để chứng minh yếu tố lỗi của một bên dẫn đến yêu cầu chấm dứt
hôn nhân, Luật sư phải thu thập các chứng cứ về những hành vi bạo
lực gia đình49 (nếu có) hoặc những vi phạm nghiêm trọng về quyền,
49
Khoản 1 Điều 2 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, đó là:
a) Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng;
b) Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
c) Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng;
d) Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và
cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau;
đ) Cưỡng ép quan hệ tình dục;
e) Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ;

241
nghĩa vụ của vợ (chồng)50 và mối quan hệ nhân - quả giữa những hành
vi vi phạm đó với việc duy trì đời sống chung của vợ chồng. Vì vậy,
việc chấm dứt hôn nhân là cách tốt nhất để bảo vệ quyền và lợi ích về
nhân thân, về tài sản của vợ hoặc chồng.
Chứng cứ để chứng minh cho những hành vi có lỗi của một bên
vợ hoặc chồng, Luật sư có thể thu thập qua hình thức lấy lời khai của
khách hàng; lời làm chứng của thành viên khác trong gia đình, người
hàng xóm, của Tổ trưởng khu phố, của đại diện Hội Phụ nữ, bệnh án
tại cơ sở y tế…
d) Đánh giá và sử dụng chứng cứ đối với yêu cầu giải quyết việc
nuôi con sau ly hôn
Về quan hệ con, Luật sư cần hỏi rõ số con, tên tuổi, ngày tháng
năm sinh của con, ai đang nuôi dưỡng, điều kiện về kinh tế và chỗ ở
của hai bên vợ chồng.
Việc tranh chấp nuôi con sau ly hôn thường xảy ra giữa bên vợ
hoặc bên chồng trong vụ án ly hôn, đôi khi yêu cầu này được đưa ra là
để “đối kháng” lại với yêu cầu xin ly hôn của người kia, để tác động
đến tình cảm, đến ý chí muốn ly hôn của người kia. Luật sư muốn
chứng minh cho yêu cầu nuôi con của khách hàng mình là chính đáng
thì phải thu thập được những chứng cứ thuyết phục về việc bảo đảm
“quyền lợi về mọi mặt của con”51 khi giao con cho mẹ hoặc bố nuôi.

g) Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng
của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình;
h) Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng
của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về
tài chính;
i) Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
50
Mục 1 Chương III Luật HN&GĐ năm 2014 quy định quyền và nghĩa vụ về nhân thân:
Điều 17. Bình đẳng về quyền, nghĩa vụ giữa vợ, chồng
Điều 18. Bảo vệ quyền, nghĩa vụ về nhân thân của vợ, chồng
Điều 19. Tình nghĩa vợ chồng
Điều 20. Lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng
Điều 21. Tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng
Điều 22. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng
Điều 23. Quyền, nghĩa vụ về học tập, làm việc, tham gia hoạt động chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội
51
Khoản 2 Điều 81 Luật HN&GĐ năm 2014.

242
Quyền lợi về mọi mặt của con, đặc biệt là các điều kiện cho sự
phát triển về thể chất, đảm bảo việc học hành và các điều kiện cho sự
phát triển tốt về tinh thần của con cần phải được thể hiện cụ thể qua
các chứng cứ như: Thu nhập ổn định của người nhận nuôi con; chỗ ở
ổn định (ví dụ như giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà của mình hoặc
của ông, bà khi bố (mẹ) đưa con về ở cùng…); tính chất công việc (để
có thời gian đưa đón, chăm sóc con hàng ngày…).
Ngoài ra, Luật sư cần xem xét các chứng cứ để chứng minh cho
nguyện vọng nuôi con của khách hàng mình là chính đáng, nếu thuộc
các trường hợp sau52:
- Con từ đủ 07 (bảy) tuổi trở lên thì phải có ý kiến thể hiện
nguyện vọng của con muốn sống cùng với bố hoặc mẹ sau ly hôn. Đây
là một chứng cứ bắt buộc phải thu thập để xác định việc giao con cho
một bên nuôi con sau ly hôn. Nếu con muốn ở với bố hoặc mẹ (mà
người này là khách hàng của mình), Luật sư cần đánh giá đây là chứng
cứ chắc chắn, là tình tiết không cần phải chứng minh trong việc bảo vệ
quyền được nuôi con của khách hàng.
- Con dưới 36 tháng tuổi, về nguyên tắc được giao cho người mẹ
nuôi dưỡng, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp
trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa
thuận khác phù hợp với lợi ích của con. Trong trường hợp Luật sư bảo
vệ quyền được nuôi con của người bố đối với con dưới 36 tháng tuổi
thì phải thu thập các chứng cứ để phản bác lại quyền được nuôi con
của người mẹ, nếu giao con cho người mẹ nuôi sẽ không đảm bảo
quyền lợi về mọi mặt cho con. Các chứng cứ phản bác này phải thực
sự thuyết phục, bởi vì, về nguyên tắc nuôi con dưới 36 tháng tuổi giao
cho người mẹ, trừ trường hợp người mẹ cũng từ bỏ quyền được nuôi
con sau ly hôn của mình.
đ) Đánh giá và sử dụng chứng cứ đối với yêu cầu cấp dưỡng
nuôi con sau ly hôn
Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con của người không trực tiếp nuôi
con sau ly hôn là một nghĩa vụ luật định53. Do vậy, nếu một bên nuôi

52
Khoản 2, khoản 3 Điều 81 Luật HN&GĐ năm 2014.
53
Khoản 2 Điều 82 Luật HN&GĐ năm 2014.

243
con yêu cầu bên kia cấp dưỡng nuôi con thì không phải chứng minh
về việc người đó có phải cấp dưỡng nuôi con hay không? Vấn đề cần
phải chứng minh là mức cấp dưỡng yêu cầu phù hợp giữa chi phí phải
chi trả cho sinh hoạt, học tập của đứa trẻ với thu nhập, hoàn cảnh sống
của người có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Để xác định mức cấp dưỡng mà khách hàng của mình đưa ra là
phù hợp với thực tế thì Luật sư cần thu thập các chứng cứ về chi phí
trang trải cho việc học tập ở trường của con (như thông báo đóng tiền
học hàng tháng), xác nhận của cá nhân, tổ chức khác về khoản tiền
phải chi trả khác cho con (nếu có)… Ngoài ra, Luật sư cần xem xét
các chứng cứ về nguồn thu nhập, hoàn cảnh sống của người cấp
dưỡng để khẳng định rằng họ hoàn toàn có khả năng đáp ứng yêu cầu
về mức cấp dưỡng đã đưa ra.
Lưu ý, đối với yêu cầu thay đổi về mức cấp dưỡng sau khi bản
án ly hôn có hiệu lực54, Luật sư cần thu thập thêm các chứng cứ thể
hiện sự chưa phù hợp giữa tình hình thực tế và mức cấp dưỡng đã ấn
định trong bản án. Việc thay đổi về mức cấp dưỡng trước đây là cần
thiết, bởi nó phù hợp với sự biến động về giá cả thị trường, về nhu cầu
tăng lên của con, về điều kiện vật chất đã tốt hơn của người cấp dưỡng
(ví dụ như thu nhập của người có nghĩa vụ cấp dưỡng đã tăng lên)…
e) Nghiên cứu, đánh giá chứng cứ đối với yêu cầu chia tài sản
sau ly hôn
Thu thập đầy đủ chứng cứ để chứng minh tính có căn cứ đối với
yêu cầu chia tài sản trong vụ án ly hôn của khách hàng là một hoạt động
hết sức quan trọng của Luật sư trước khi tham gia phiên tòa. Luật sư
cần phải thu thập đầy đủ chứng cứ, tài liệu để xác định đúng tài sản nào
là tài sản chung của vợ chồng, tài sản nào không phải là tài sản chung
của vợ chồng, công sức đóng góp của mỗi bên vào khối tài sản chung…
g) Đánh giá và sử dụng chứng cứ xác định tài sản chung của
vợ chồng
Thứ nhất, đánh giá chứng cứ để xác định về chế độ tài sản của
vợ chồng được xác lập. Luật HN&GĐ năm 2014 quy định mang tính
chất đột phá về chế độ tài sản của vợ chồng là cho phép vợ chồng lựa

54
Khoản 5 Điều 28 BLTTDS năm 2015.

244
chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo
thỏa thuận55.
Để xác định được tài sản chung của vợ chồng, trước hết Luật sư
phải xác định chế độ tài sản của vợ chồng trong vụ án này là chế độ tài
sản theo thỏa thuận hay theo luật định? Nếu vợ chồng không có thỏa
thuận xác lập chế độ tài sản theo đúng quy định của Luật HN&GĐ
năm 201456 hoặc thỏa thuận xác lập chế độ tài sản bị vô hiệu 57 hoặc
việc thỏa thuận chưa đầy đủ, chưa rõ ràng 58 thì áp dụng chế độ tài sản
theo luật định.
Nếu vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản thì trước tiên, Luật
sư phải thu thập văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
(yêu cầu khách hàng cung cấp), từ đó, xem xét về tính có hiệu lực của
văn bản thỏa thuận này. Trường hợp văn bản thỏa thuận này không
thuộc các trường hợp bị vô hiệu theo quy định tại Điều 50 Luật
HN&GĐ năm 2014 thì khi giải quyết yêu cầu chia tài sản khi ly hôn59
phải ưu tiên xác định theo nội dung của văn bản thỏa thuận. Nếu thỏa
thuận không đầy đủ, rõ ràng thì khi giải quyết sẽ áp dụng quy định
chung (đối với chế độ tài sản luật định).
Thứ hai, xác định cụ thể tài sản chung của vợ chồng theo luật định.
Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về chế độ tài sản
vợ chồng thì xác định theo luật định.
Theo quy định tại Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2014, tài sản
chung của vợ chồng được hình thành rất đa dạng, sinh động. Tựu
trung lại, tài sản chung của vợ chồng hình thành từ các nguồn sau:
- Tài sản chung hình thành từ kết quả của lao động.
Những tài sản có thể do vợ và chồng cùng trực tiếp lao động
hoặc do một trong hai bên trực tiếp lao động để làm ra sản phẩm, tạo

55
Điều 28 Luật HN&GĐ năm 2014.
56
Điều 47, khoản 1 Điều 48 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về nội dung cơ bản của thỏa
thuận về chế độ tài sản của vợ chồng.
57
Điều 50 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu.
58
Khoản 2 Điều 48 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về trường hợp phát sinh những vấn
đề chưa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng khi thực hiện chế độ tài
sản theo thỏa thuận.
59
Khoản 1 Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014.

245
thu nhập cho gia đình; hoặc tài sản chung có thể hình thành qua việc
được trả công lao động, thuê người khác làm việc, do tổ chức sản
xuất, kinh doanh mà có…
- Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung. Đây là trường hợp
vợ chồng cùng được hưởng thừa kế theo di chúc của người để lại di
sản. Trong di chúc, phải thể hiện rõ để lại tài sản cho cả vợ và chồng.
Nếu các bên không thừa nhận đây là tài sản được thừa kế chung thì
Luật sư phải xem xét kỹ nội dung, lời văn của di chúc.
- Tài sản chung được hình thành từ việc được tặng cho chung:
Vợ chồng có thể được tặng cho tài sản thông qua hợp đồng tặng
cho bằng văn bản và cũng có thể là tặng cho tài sản bằng lời nói của
người có tài sản. Trong trường hợp việc tặng cho không bằng văn bản
mà chỉ bằng hành vi trên thực tế như chuyển giao vật bằng lời nói
trước sự chứng kiến của người khác... Khi vợ chồng ly hôn, một bên
khai là tài sản chung do bố mẹ cho, một bên khai không phải là tài sản
chung của vợ chồng. Bố mẹ cũng đứng về phía người con của mình,
không thừa nhận việc cho chung cả hai vợ chồng. Trong trường hợp
này, việc chứng minh là rất khó khăn cho người có yêu cầu. Luật sư
cần phải thu thập chứng cứ đầy đủ, để khẳng định về ý thức của bố mẹ
là tặng cho chung (ví dụ: vợ chồng đã xây nhà trên khuôn viên riêng,
vợ chồng đã quản lý, sử dụng trong nhiều năm hoặc đã kê khai, được
cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, bố mẹ đã biết nhưng không
phản đối hoặc đồng ý để cho con đi kê khai, xin cấp giấy…).
- Những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân
Những thu nhập hợp pháp khác ngoài những trường hợp trên
được xác định là tài sản chung của vợ chồng có thể là tiền thưởng, tiền
trợ cấp, tiền trúng thưởng xổ số mà vợ chồng có được hoặc tài sản vợ
chồng được xác lập quyền sở hữu theo các quy định của BLDS.
- Về tài sản là quyền sử dụng đất: Tại khoản 1 Điều 33 Luật
HN&GĐ năm 2014 quy định quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có
được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Trong khi một
bên cho rằng quyền sử dụng đất có nguồn gốc là của riêng họ. Tuy
nhiên, sau khi hợp thức hóa giấy tờ, cơ quan làm thủ tục cấp giấy đã

246
ghi trong Giấy chứng nhận thì ghi tên của hộ gia đình hoặc của cả
hai vợ chồng. Do vậy, Luật sư phải thu thập chứng cứ để làm rõ đất
đó có cấp cho hộ gia đình, cấp cho cả hai vợ chồng vào thời điểm
nào? Nếu đất đó chỉ của vợ hoặc chồng thì cần làm rõ vợ chồng có
coi tài sản đó là tài sản chung của hộ gia đình hay không (thể hiện
qua thủ tục xin cấp giấy, khi nhận được giấy chứng nhận có ai phản
đối gì hay không?...).
- Việc nhập tài sản riêng của một bên vợ hoặc chồng vào tài sản
chung: Trong trường hợp này, Luật sư cần chú ý thu thập chứng cứ
chứng minh một bên có tài sản riêng đã có việc tự nguyện hay không
khi nhập vào khối tài sản chung? Ý thức chủ quan của người có tài sản
riêng là gì? Họ có ý kiến phản đối gì khi biết rằng tài sản riêng của họ
đã được đứng tên của hai vợ chồng (đối với tài sản có đăng ký quyền
sở hữu). Luật sư cần thu thập các chứng cứ để chứng minh cho ý thức
chủ quan của người có tài sản riêng, để khẳng định tài sản đó là tài sản
chung được mang ra chia khi ly hôn (trong đó có quyền lợi của khách
hàng của mình).
h) Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ là tài sản riêng
Để chứng minh tài sản nào là tài sản riêng của khách hàng và tài
sản này sẽ không chia khi giải quyết ly hôn, thì Luật sư phải thu thập
các chứng cứ liên quan đến nguồn gốc của tài sản. Theo Điều 43 Luật
HN&GĐ năm 2014 thì tài sản riêng của vợ, chồng có từ nhiều nguồn
khác nhau. Để có thông tin cho việc thu thập chứng cứ, Luật sư cần
phải trao đổi với khách hàng về thời điểm phát sinh quyền sở hữu, sử
dụng hợp pháp của khách hàng với tài sản (có từ trước khi kết hôn), về
tài liệu, chứng cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản (văn bản tặng
cho riêng, thừa kế riêng…).
i) Đánh giá và sử dụng chứng cứ để làm căn cứ chia tài sản khi
ly hôn
Khoản 2 Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định rõ về
nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn. Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn
là chia đôi, tuy nhiên có tính đến các yếu tố:
- Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;
- Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và

247
phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình
được coi như lao động có thu nhập;
- Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh
doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo
thu nhập;
- Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Như vậy, tùy thuộc vào yêu cầu của khách hàng mà mình bảo vệ
và tùy thuộc vào mối tương quan về công sức tạo dựng, duy trì, phát
triển khối tài sản chung của khách hàng của mình, tùy thuộc vào yếu
tố lỗi của khách hàng trong việc ly hôn, Luật sư cần thu thập những
chứng cứ có lợi nhất cho khách hàng của mình. Ví dụ, khách hàng là
phụ nữ không có công ăn việc làm, ở nhà nội trợ và chăm sóc con nhỏ
thì Luật sư cần thu thập thêm chứng cứ về việc người chồng đã vi
phạm nghĩa vụ thương yêu, chung thủy với người vợ (có quan hệ trai
gái bất chính) làm cho cuộc sống chung của vợ chồng không thể tồn
tại… Chứng cứ chứng minh về việc vi phạm nghĩa vụ của người
chồng trong trường hợp này là chứng cứ có lợi cho khách hàng để yêu
cầu được đảm bảo quyền lợi khi chia tài sản ly hôn.
k) Đánh giá và sử dụng chứng cứ để xác định phần được chia tài
sản của vợ, chồng
Khi áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ để chứng minh cho
các mục đích nêu trên, Luật sư cần lưu ý, việc xác minh, thu thập
chứng cứ có thể thông qua cơ quan quản lý nhà đất, ngân hàng… để
xác định nguồn gốc tài sản hiện có, tạo hay thừa kế, tặng cho. Việc
định giá tài sản trong các vụ kiện ly hôn cũng được tiến hành như việc
định giá tài sản trong các vụ việc tranh chấp khác. Nếu có công sức
đóng góp của vợ chồng vào khối tài sản chung của gia đình thì Tòa án
ngoài việc định giá tài sản chung của vợ chồng còn phải định giá tài
sản của gia đình làm cơ sở để giải quyết, trích chia công sức của vợ
chồng đã đóng góp trong khối tài sản chung đó của gia đình, có thể là
tài sản hoặc hoa lợi, lợi tức từ việc sản xuất, kinh doanh.
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Trình bày các kỹ năng chung khi nghiên cứu hồ sơ, đánh giá
và sử dụng chứng cứ?

248
2. Phân tích những đặc thù cơ bản khi nghiên cứu hồ sơ, đánh
giá và sử dụng chứng cứ trong vụ án dân sự?
3. Xác định các nội dung cơ bản khi nghiên cứu hồ sơ, đánh giá
và sử dụng chứng cứ một số vụ án kinh doanh, thương mại phổ biến?
4. Xác định các nội dung cơ bản khi nghiên cứu hồ sơ, đánh giá
và sử dụng chứng cứ một số vụ án lao động?
Tình huống:
Cụ Bùi Thị Thế có 02 chồng là cụ Đỗ Văn Vực và cụ Hà Văn
Chấp. Giữa cụ Thế và cụ Vực có 02 người con chung là bà Đỗ Thị Nhé
và ông Đỗ Văn Việc. Giữa cụ Thế và cụ Chấp có 03 người con chung là
bà Hà Thị Kim, ông Hà Mạnh Tiến và bà Hà Thị Thanh. Cụ Vực chết
năm 1963. Năm 1966, cụ Thế kết hôn với cụ Chấp. Cụ Chấp chết ngày
02/01/2007. Cụ Vực và cụ Chấp chết đều không để lại di chúc. Diện tích
đất 772m2, trong đó có 180m2 là diện tích đất ao thuộc thửa số 142, tờ
bản đồ 218A tại xã Quang Trung, huyện A, thành phố H đứng tên cụ Bùi
Thị Thế do cụ Thế được thừa kế riêng của bố mẹ cụ Thế vào năm 1962.
Ngày 03/11/2010, cụ Thế gọi các con đến lập biên bản họp gia đình để
phân chia đất cho các con. Biên bản phân chia này có nội dung: Cụ Thế
chia đất cho hai người con trai là ông Đỗ Văn Việc và ông Hà Mạnh
Tiến. Cụ thể, ông Hà Mạnh Tiến được hưởng 8,2m chạy dài theo mặt
đường, chiều sâu hết đất, còn lại cho ông Đỗ Văn Việc sử dụng. Biên
bản này có xác nhận của trưởng thôn là ông Hòa, không có công chứng,
chứng thực. Cụ Thế đọc và yêu cầu anh Việc ghi rõ dòng chữ trên bản
phân chia là “Anh Việc được hưởng nhiều hơn thì phải có trách nhiệm
chăm sóc, phụng dưỡng mẹ lúc ốm đau, già yếu”.
Ngày 05/5/2012, ông Việc chết, bà Sinh là vợ ông Việc cho rằng
mình không có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng, thuốc thang khi cụ
Thế ốm đau. Vợ chồng ông Việc, bà Sinh có một người con là anh Hải
sinh năm 1991. Tháng 9/2013, cụ Thế cho mời trưởng thôn, trưởng chi,
cùng các con cháu, trong đó có mẹ con bà Sinh đến lập di chúc, do không
biết chữ cụ Thế nhờ cháu Đỗ Thị Hạnh viết hộ, cụ thể như sau: Vườn đất
ở cho 2 người con trai vẫn giữ nguyên, còn lại ½ đất ao 180 m2 chia đều
cho 3 người con gái là bà Đỗ Thị Nhé, bà Hà Thị Kim, bà Hà Thị Thanh,
lúc đó cụ hoàn toàn minh mẫn. Di chúc được photocopy 04 bản, cụ Thế
giữ 01 bản, 3 người con mỗi người giữ 01 bản. Kết thúc không có ý kiến
gì, cụ Thế đã điểm chỉ vào di chúc trước mặt mọi người.

249
Ngày 21/01/2015, cụ Thế chết, bà Đỗ Thị Nhé, bà Hà Thị Thanh,
bà Hà Thị Kim yêu cầu mẹ con bà Sinh phải thực hiện di chúc cắt giao
½ diện tích ao cho các bà. Nhưng mẹ con bà Sinh không chấp nhận.
Vì vậy ngày 06/9/2015, các bà Đỗ Thị Nhé, bà Hà Thị Thanh và bà
Hà Thị Kim làm đơn khởi kiện bà Sinh yêu cầu Tòa án chia di sản của
cụ Thế theo di chúc. Nguyên đơn cho rằng, do di chúc của cụ Thế
không có hiệu lực nên đồng nguyên đơn đề nghị TAND huyện A,
thành phố H giải quyết chia đều diện tích 772 m2 của cụ Thế đã để lại
cho 5 anh chị em theo pháp luật.
Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, bị đơn thống nhất trình bày như
đồng nguyên đơn về quan hệ hôn nhân, con chung của cụ Thế. Nhưng
theo bị đơn thì biên bản ngày 03/11/2010 là có chứng thực của UBND
xã Quang Trung, các con cụ Thế đều ký vào biên bản. Còn diện tích
ông Hà Mạnh Tiến được phân chia thì ông Tiến đã bán cho ông Đỗ
Văn Việc vào ngày 01/01/2011; Đối với diện tích 180 m2 đất ao, ông
Đỗ Văn Việc và bà Vũ Thị Sinh đã chuyển nhượng cho ông Đỗ Quang
Tháp vào tháng 01/2012 lấy 850.000.000 đồng. Hai bên chuyển
nhượng không tranh chấp, đề nghị tiếp tục thực hiện hợp đồng. Nay
nguyên đơn yêu cầu chia tài sản thừa kế, bị đơn không đồng ý và cho
rằng biên bản họp gia đình ngày 03/11/2010 có hiệu lực pháp luật, di
chúc nguyên đơn xuất trình cho Tòa án lập ngày 06/9/2013 trong lúc
cụ Thế bị bệnh nặng không tỉnh táo, thời gian này ông Đỗ Văn Việc
đã chết nhưng không có chữ ký của bà Sinh là vợ ông Việc và anh Hải
là con trai ông Việc nên di chúc không đảm bảo tính pháp lý, đề nghị
Tòa án không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Tại phiên tòa sơ
thẩm, bị đơn đề nghị bổ sung yêu cầu Tòa án hủy quyết định cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho cụ Bùi Thị Thế vì đất cấp cho
cụ Thế có một phần đất của ông Đỗ Văn Việc.
Ông Hà Mạnh Tiến trình bày thống nhất với lời khai của
nguyên đơn và đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp
luật. Anh Đỗ Văn Hải trình bày thống nhất với lời khai của bị đơn.
Ngoài ra, anh Hải còn trình bày thêm là diện tích đất đang tranh chấp
bố mẹ anh đã chuyển nhượng cho anh Tháp. Anh Tháp và vợ là chị
Cao Thị Huyền có xây dựng một nhà 01 tầng và công trình phụ khép
kín diện tích 50 m2.
Anh Đỗ Quang Tháp trình bày: tháng 01/2012, anh có mua của vợ
chồng ông Việc, bà Sinh ½ diện tích ao khoảng 180 m2 (hiện ao chung

250
với người khác) với số tiền 850.000.000 đồng (có giấy viết tay). Do chưa
có tiền làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên anh chị vẫn để
nguyên tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ngoài ra không mua
bán gì thêm. Khi mua đất xét thấy đầy đủ giấy tờ điều kiện mua bán và
lúc đó không có tranh chấp vì vậy anh chị không có đề nghị yêu cầu gì
về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã thỏa thuận với vợ
chồng ông Việc, bà Sinh. Anh chị đề nghị Tòa án công nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng anh chị và ông Việc,
bà Sinh. Nguyên đơn đề nghị Tòa án tuyên giao dịch giữa ông Việc, bà
Sinh với vợ chồng anh Tháp, chị Huyền là giao dịch vô hiệu.
a) Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án. Theo anh
(chị) những vấn đề về tố tụng nào cần làm rõ khi nghiên cứu hồ sơ vụ
án này?
b) Anh (chị) đánh giá tính hợp pháp của các bản di chúc trong vụ
án này?
c) Là Luật sư của nguyên đơn, anh (chị) trình bày quan điểm
đánh giá chứng cứ?
d) Là Luật sư của bị đơn, anh (chị) trình bày quan điểm đánh giá
chứng cứ?

251
Chương 4
KỸ NĂNG CHUẨN BỊ THAM GIA PHIÊN TÒA SƠ THẨM

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này sẽ trang bị cho 1. Kỹ năng chung chuẩn bị tham
người học: gia phiên tòa sơ thẩm
- Về kiến thức, người học có 2. Kỹ năng đặc thù theo loại án
được những kiến thức cơ bản chuẩn bị tham gia phiên tòa sơ thẩm
của Luật sư trong việc chuẩn bị 3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
cho phiên tòa sơ thẩm trong
thủ tục tố tụng dân sự.
- Về kỹ năng, người học áp
dụng được những kỹ năng đặc
thù, riêng biệt của Luật sư khi
chuẩn bị tham gia phiên tòa
sơ thẩm.
- Về thái độ, người học có thái
độ, ứng xử chuẩn mực phù hợp
với quy tắc nghề nghiệp của
Luật sư khi chuẩn bị tham gia
phiên tòa sơ thẩm.
1. Kỹ năng chung chuẩn bị tham gia phiên tòa sơ thẩm
Phiên tòa sơ thẩm là một giai đoạn độc lập trong thủ tục tố tụng.
Tuy nhiên, giai đoạn này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì thông qua
hoạt động tranh tụng của Luật sư tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhân
danh Nhà nước công bố bản án, quyết định để giải quyết tranh chấp,
giải quyết yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Chuẩn bị tham gia
phiên tòa sơ thẩm là một trong những kỹ năng quan trọng giúp cho
Luật sư thực hiện tốt các công việc của mình tại phiên tòa sơ thẩm
theo quy định của BLTTDS. Công việc chuẩn bị tốt thì kết quả thu
được sẽ tốt.
Để phiên toà sơ thẩm được diễn ra tốt, chất lượng, đòi hỏi Luật
sư ở vị trí tố tụng của mình không những phải nắm vững các quy định

252
của BLTTDS về phiên tòa dân sự sơ thẩm mà phải có kỹ năng,
phương pháp và kinh nghiệm. Muốn vậy, công tác chuẩn bị cho tham
gia phiên toà phải tốt. Thông qua việc chuẩn bị, Luật sư sẽ chủ động
hơn trong việc thực hiện các kỹ năng nghiệp vụ theo tiến trình tố tụng
do pháp luật quy định, theo kịp và hạn chế sự bị động trước những
diễn biến phát sinh tại phiên toà.
Thông qua công tác chuẩn bị, Luật sư sẽ kiểm tra được các công
việc của mình tại phiên toà sơ thẩm xét xử vụ án đã được thực hiện
đầy đủ hay chưa; nếu có việc nào chưa được thực hiện hoặc thực hiện
chưa đầy đủ hoặc thực hiện chưa đúng quy định của pháp luật tố tụng
thì kịp thời sửa đổi, bổ sung.
Những công việc chuẩn bị cần thiết tham gia phiên toà sơ thẩm
gồm: (1) Kiểm tra và sắp xếp lại hồ sơ vụ án, (2) Kiểm tra lại việc
triệu tập những người tham gia phiên toà, (3) Dự liệu tình huống phát
sinh tại phiên toà, (4) Nghiên cứu hồ sơ, đánh giá những chứng cứ, tài
liệu có trong hồ sơ vụ án, xác định lại nội dung trọng tâm, cụ thể cần
phải giải quyết tại phiên tòa, (5) Chuẩn bị các văn bản pháp luật và
điều kiện vật chất cần thiết, (6) Xây dựng kế hoạch hỏi tại phiên toà
và (7) Chuẩn bị bản luận cứ bảo vệ tại phiên toà.
1.1. Kiểm tra và sắp xếp lại hồ sơ vụ án
Hồ sơ vụ án bao gồm đơn và toàn bộ tài liệu, chứng cứ của
đương sự, người tham gia tố tụng khác; tài liệu, chứng cứ do Toà án
thu thập liên quan đến vụ án; văn bản tố tụng của Toà án về việc giải
quyết vụ án.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án, Luật sư phải tiến hành
nhiều công việc, thực hiện nhiều kỹ năng nghề nghiệp. Trong quá
trình tác nghiệp đó, hồ sơ vụ án không phải lúc nào cũng ở một chỗ
mà nhiều khi chúng ta phải mang theo và phải sử dụng. Thứ tự bút lục
có thể sẽ bị đảo lộn hoặc do tác phong nghề nghiệp mà có thể để lẫn
một vài bút lục, tài liệu ở đâu đó. Vì vậy, để đảm bảo việc sử dụng
thuận tiện, nhanh chóng tại phiên toà góp phần bảo vệ được quyền và
lợi ích hợp pháp của khách hàng trong vụ kiện, trước khi ra phiên toà,
cần phải kiểm tra lại các bút lục có trong hồ sơ vụ án, đặc biệt là
những bút lục quan trọng và sắp xếp lại hồ sơ vụ án theo một thứ tự
hợp lý để khi cần ở phiên tòa có thể lấy được ngay.

253
Luật sư muốn nghiên cứu hồ sơ, khai thác, sử dụng hồ sơ đạt
hiệu quả cao, tiết kiệm được thời gian, giúp cho việc xem xét, ghi nhớ,
phân tích, đánh giá các tài liệu đó được khách quan, thuận lợi thì phải
sắp xếp hồ sơ theo một trật tự nhất định là rất cần thiết. Đặc biệt vụ án
có nhiều đương sự, nhiều nhân chứng và họ có nhiều lời khai khác
nhau; có nhiều văn bản yêu cầu và kết luận giám định, nhiều văn bản
ghi kết quả những lần định giá, thẩm định giá, nhiều văn bản xem xét
thẩm định tại chỗ trong những thời điểm khác nhau... Hồ sơ có hàng
trăm bút lục thì việc sắp xếp hồ sơ khoa học trước khi nghiên cứu có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình quản lý, sử dụng và công tác
lưu trữ, khai thác sau đó. Thực tiễn đã chỉ ra rằng nhiều trường hợp do
chưa chú tâm đến công việc này nên khi ra đến phiên toà có những
luật sư mất nhiều thời gian để lục tìm bút lục, hoặc chứng minh mà
thiếu chứng cứ, tạo nên sự không chuyên nghiệp trong hành nghề. Đây
là vấn đề mà Luật sư cần phải quan tâm lưu ý.
Mỗi luật sư có cách sắp xếp hồ sơ khác nhau, nhưng kinh
nghiệm chỉ ra rằng các bút lục nên được sắp xếp theo các tệp khác
nhau để thể hiện về yêu cầu khởi kiện, về quan hệ pháp luật xác lập
giữa các bên, về tư cách đương sự, về quá trình giải quyết tranh chấp
và quan điểm của các bên, về văn bản tố tụng được ban hành trong
quá trình giải quyết tranh chấp trước đó tại toà.
Đối với từng tệp, việc sắp xếp hồ sơ nên theo thứ tự thời gian
ngược hoặc xuôi theo chiều kim đồng hồ để làm sao thuận tiện nhất
cho việc nắm bắt được diễn biến tình tiết, sự kiện của vụ việc và thuận
tiện trong việc dẫn chiếu sử dụng sau này tại phiên toà.
Chẳng hạn đối với tệp các văn bản tố tụng. Trong tệp này chia ra
nhiều tập nhỏ là tập các giấy báo, giấy triệu tập đương sự, nhân chứng,
quyết định đưa vụ án ra xét xử, tập các văn bản, quyết định trưng cầu
giám định, định giá…
Đối với tệp các tài liệu, các nguồn chứng cứ do đương sự giao
nộp hay do Tòa án trực tiếp thu thập, nếu vụ án có nhiều đương sự, có
nhiều lời khai của người làm chứng, có nhiều biên bản định giá, nhiều
kết luận giám định, nhiều tài liệu khác do đương sự, cơ quan tổ chức,
cá nhân cung cấp cho Tòa án… thì chia ra nhiều tập nhỏ gồm:
- Tập lời khai của nguyên đơn;

254
- Tập lời khai của bị đơn;
- Tập lời khai của người làm chứng;
- Tập các biên bản định giá;
- Tập các biên bản kết luận giám định;
- Tập các tài liệu, chứng cứ khác.
Mỗi nguyên đơn, bị đơn, người làm chứng (có nhiều lời khai) thì
sắp xếp vào một tập và luôn luôn xếp theo thứ tự thời gian.
Khi sắp xếp các tài liệu phải kiểm tra đánh số bút lục và có danh
mục tài liệu chưa? Nếu hồ sơ chưa được đánh số bút lục, chưa có danh
mục tài liệu thì phải kịp thời bổ sung. Nếu hồ sơ đã được đánh số bút
lục, đã có danh mục tài liệu thì phải kiểm tra xem tài liệu có trong hồ
sơ có phù hợp với danh mục tài liệu không, nếu thiếu thì thiếu bút lục
nào, phải tìm hiểu nguyên nhân và kịp thời khắc phục. Cần chú ý rằng
Điều 204 BLTTDS năm 2015 đã có quy định về việc đánh số bút lục
của Toà án, song để thuận tiện cho việc sử dụng của mình, Luật sư cần
có đánh dấu riêng để dễ dẫn chiếu đến bút lục của Toà án.
Ngoài ra, trong quá trình kiểm tra và sắp xếp hồ sơ, chúng ta
cũng cần phải đánh dấu ngay những bút lục, hoặc những nội dung
trong bút lục đã thể hiện sự thống nhất về tình tiết, sự kiện của các bên
và đánh dấu những bút lục, nội dung trong bút lục thể hiện những tình
tiết, sự kiện mà các bên không thống nhất, còn đang mâu thuẫn để sau
này thuận tiện trong việc viện dẫn, trình bày bảo vệ tại phiên toà.
1.2. Kiểm tra lại việc triệu tập của Tòa án và chuẩn bị điều
kiện vật chất, văn bản pháp luật tham gia phiên toà
Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, Tòa án mở
phiên tòa theo thời gian, địa điểm đã quy định. Trên cơ sở đó, Tòa án
xác định đương sự cần được triệu tập đến phiên tòa để tiến hành các
thủ tục tống đạt hợp lệ giấy triệu tập phiên tòa đối với họ. Vì đương sự
là thành phần rất quan trọng trong vụ án dân sự nên đòi hỏi phiên tòa
diễn ra phải có mặt đầy đủ các đương sự trừ những trường hợp đương
sự có đơn đề nghị xét xử vắng mặt họ hoặc các trường hợp theo quy
định của pháp luật tố tụng dân sự thì phải hoãn phiên tòa. Kiểm tra lại
việc triệu tập của Toà án và chuẩn bị điều kiện cần thiết tham gia

255
phiên toà là công việc nhỏ nhưng lại có ý nghĩa trong chuẩn bị tham
gia phiên tòa. Thực tiễn xét xử đã chỉ ra rằng nhiều vụ việc bản án đã
bị hủy án do vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng bởi lý do triệu tập
đương sự không hợp lệ, hoặc có những trường hợp Toà án xét xử vắng
mặt, mặc dù Luật sư có thể đến phiên toà nhưng không đủ tư cách để
tham gia phiên toà.
Trong công tác chuẩn bị, Luật sư cần chú ý đến các công việc
sau đây:
- Theo dõi lịch xét xử, bố trí công việc để tham gia phiên tòa;
- Xác định những người cần phải triệu tập tham gia phiên toà sơ
thẩm? Kiểm tra việc triệu tập đối với mình hoặc đối với người khác
(nếu biết) đã hợp lệ chưa, có bỏ sót người tham gia tố tụng không?
Cách thức tống đạt hợp lệ không? Có niêm yết trong những trường
hợp cần phải niêm yết không?
Theo quy định của BLTTDS, nếu việc triệu tập là không hợp lệ
thì Tòa án không thể ra các quyết định như hoãn phiên tòa hay xét xử
vắng mặt. Thông thường, thủ tục triệu tập những người tham gia phiên
tòa do các Thư ký Tòa án đảm nhiệm. Do đó, sau khi nhận được Giấy
triệu tập tham gia phiên tòa, căn cứ vào việc triệu tập của Tòa án, Luật
sư cần phải kiểm tra lại việc triệu tập những người tham gia phiên tòa
xem việc triệu tập đã đúng và đủ những người tham gia tố tụng chưa
và có đúng quy định của BLTTDS không.
Nếu thiếu thì cần có văn bản đề nghị triệu tập cho đúng và đủ
thành phần tham gia phiên tòa. Bên cạnh đó, cũng cần phải chuẩn bị
những giấy tờ cần thiết của mình để tham gia phiên tòa như Thẻ Luật
sư hoặc Giấy ủy quyền, Chứng minh nhân dân/Căn cước công dân.
Thực tiễn đã xảy ra nhiều trường hợp tại phần thủ tục bắt đầu phiên
tòa, khi xuất trình các giấy tờ cần thiết để tham gia phiên tòa thì Luật
sư lại để quên các giấy tờ đó, ảnh hưởng đến việc bảo vệ quyền lợi
cho đương sự.
- Ngoài ra, để có thể giải quyết vụ việc, nhất thiết phải có những
điều kiện vật chất nhất định. Đây là việc tưởng đơn giản nhưng lại rất
quan trọng, nhiều phiên toà do việc chuẩn bị không tốt nên đã không
đạt kết quả, thậm chí phải hoãn phiên toà. Trong thực tế, nhiều trường
hợp đã không quan tâm đến điều kiện vật chất, không quan tâm đúng

256
mức cho công tác chuẩn bị này dẫn đến ảnh hưởng tới chất lượng bảo
vệ quyền lợi cho khách hàng tại phiên tòa.
Đối với Luật sư, mặc dù không phải chuẩn bị điều kiện vật chất
của phòng xử nhưng cũng phải chú ý đến các điều kiện vật chất để tới
tham dự phiên tòa, nhất là các phiên tòa được mở ở xa nơi mình ở,
làm việc. Trong trường hợp phải tham dự phiên tòa ở các tỉnh khác, có
địa điểm xa thì cần phải tính toán khoảng cách để đặt vé máy bay, sử
dụng phương tiện đi lại thuận lợi có thời gian, thời điểm phù hợp,
tránh trường hợp không thể đến dự phiên tòa được hay việc sử dụng
máy tính, máy chiếu, máy in tại phiên xử.
- Ngoài khả năng lập luận, khả năng khai thác và phân tích
chứng cứ thì việc đưa ra được các văn bản pháp luật phù hợp, đầy đủ
là nội dung không thể thiếu tại phiên toà. Việc viện dẫn các văn bản
pháp luật sẽ củng cố lòng tin của người nghe về nội dung. Do đó, Luật
sư cũng cần phải chú ý đến việc chuẩn bị hệ thống các văn bản pháp
luật được sử dụng để bảo vệ quyền lợi cho đương sự.
Khi giải quyết một vụ kiện dân sự thường phải áp dụng nhiều
văn bản pháp luật khác nhau, thậm chí của nhiều ngành luật khác
nhau. Do đó việc chuẩn bị sẵn các văn bản pháp luật sẽ giúp cho Luật
sư chủ động khi cần viện dẫn văn bản. Các văn bản pháp luật cần
chuẩn bị bao gồm cả văn bản pháp luật về nội dung và văn bản pháp
luật về tố tụng, không chỉ dừng lại ở điều luật mà cần thiết phải ở
những văn bản hướng dẫn, cần áp dụng và hướng giải quyết từng quan
hệ pháp luật trong vụ án.
Việc chuẩn bị văn bản không nên chỉ dừng lại ở việc nêu tên văn
bản mà tuỳ theo yêu cầu của nội dung tranh luận, trong những trường
hợp cần thiết nên trích dẫn hoặc nêu nội dung cụ thể. Hiện nay, pháp
luật Việt Nam đã thừa nhận án lệ là một nguồn để xét xử. Do đó,
ngoài việc chuẩn bị các văn bản pháp luật, chúng ta còn cần phải
chuẩn bị những án lệ được Hội đồng Thẩm phán TANDTC công bố
hàng năm nếu án lệ này có thể được sử dụng để giải quyết vụ án.
Chẳng hạn, trong vụ án lao động, ngoài các quy định chung về tố
tụng, các văn bản pháp luật, tài liệu cần chuẩn bị cơ bản bao gồm: Bộ
luật Lao động, các nghị định, các thông tư của Bộ luật Lao động và

257
các cơ quan hữu quan hướng dẫn về vấn đề đang tranh chấp, các thỏa
thuận giữa các bên và các quy định nội bộ của đơn vị, nếu có... Ngoài
những tài liệu trực tiếp liên quan đến việc giải quyết vấn đề tranh
chấp, tùy theo từng vụ việc và yêu cầu cụ thể của đương sự mà còn
cần thiết chuẩn bị thêm các tài liệu khác như các hướng dẫn về tiền
lương để làm căn cứ bồi thường, giấy chấm công để xác định thời gian
nghỉ việc, giấy khám, điều trị bệnh để chứng minh lý do nghỉ việc...
Đặc biệt là các văn bản pháp luật, Luật sư phải nắm được các quy định
cụ thể trong mối tương quan với cả hệ thống để chuẩn bị hướng bảo
vệ quyền lợi cho khách hàng và dự liệu để giải quyết những vấn đề
phát sinh, nếu có. Các điều luật làm cơ sở giải quyết tranh chấp của vụ
án cụ thể phải được đánh dấu để tiện trích dẫn. Các tài liệu khác cần
có sự sắp xếp theo một logic nhất định, ví dụ: các quy định của đơn vị,
các thỏa thuận giữa các bên, các tài liệu liên quan đến căn cứ sa thải,
các tài liệu liên quan đến thủ tục sa thải...
Cần lưu ý rằng, hiện nay, do sự phát triển của hệ thống công
nghệ thông tin, các phương tiện máy móc khá hiện đại. Nhiều trường
hợp khi ra toà, Luật sư thường mang theo máy tính xách tay, máy tính
bảng, ebook hoặc điện thoại smartphone, trong đó chứa đựng nhiều dữ
liệu văn bản pháp luật. Việc sử dụng các thiết bị này có nhiều tiện ích,
gọn nhẹ, nhanh chóng tra cứu văn bản pháp luật song Luật sư không
nên lạm dụng, chủ quan đề phòng xảy ra sự cố. Do đó, giải pháp tốt
nhất là song hành cùng các thiết bị điện tử nêu trên vẫn phải có những
văn bản pháp luật được in trên giấy.
1.3. Dự liệu tình huống phát sinh tại phiên toà
Trước khi phiên toà được mở, Luật sư cần phải dự liệu được
những tình huống phát sinh có thể xảy ra tại phiên toà. Nếu không dự
liệu được các tình huống diễn ra tại phiên toà thì sẽ không chủ động,
nhiều trường hợp không biết cách xử lý như thế nào cho đúng quy
định pháp luật. Những tình huống này có thể phát sinh từ người tham
gia tố tụng khác hoặc từ những người tiến hành tố tụng. Việc dự liệu
tốt tình huống sẽ giúp cho Luật sư có sự chủ động chuẩn bị ứng phó
khi có tình tiết phát sinh, nhiều khi chủ động quản trị được thời gian
cho mình.

258
Tình huống phát sinh tại phiên toà có thể là những tình huống có
thể gây một số trở ngại nhất định cho bản thân Luật sư hoặc cho phiên
toà khi tiến hành xét xử như liên quan đến việc đảm bảo sự an toàn
cho những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng gây mất
trật tự, an toàn trong xét xử hoặc là những tình huống phát sinh liên
quan đến hoạt động xét xử như các tình huống tố tụng và tình huống
liên quan đến nội dung giải quyết vụ án. Tình huống có thể là:
- Về sức khỏe của đương sự và của chính bản thân mình khi
tham gia tố tụng trong trường hợp phải có nhân viên y tế đi cùng để
có kế hoạch mời nhân viên y tế. Ngoài ra, tuỳ thuộc vào bản chất
từng vụ án, đặc điểm đương sự để có thể dự liệu những tình huống
có thể xảy ra đối với bản thân mình. Chẳng hạn, các vụ án tranh chấp
về đòi nợ mà một bên đương sự là những người cho vay nặng lãi,
thành phần xã hội, hoặc có khi đương sự huy động người nhà đến uy
hiếp tinh thần hoặc có hành động tác động đến thân thể của mình…
- Cần công bố tài liệu, lời khai, băng video: Đề nghị Toà án hoặc
tự mình chuẩn bị máy chiếu, màn hình...
- Có người gây mất trật tự: Đề nghị Toà án chuẩn bị nhân viên
bảo vệ phiên tòa hoặc cảnh sát tư pháp hoặc kết hợp nhân viên bảo vệ
phiên tòa với cảnh sát tư pháp.
- Có phóng viên báo chí truyền hình: Tìm hiểu Luật báo chí để
Tòa án và phóng viên cùng thực hiện theo Luật báo chí, pháp luật tố
tụng dân sự.
- Tình huống vắng mặt đương sự, người làm chứng, người phiên
dịch... Thông thường, ở lần triệu tập thứ nhất, phiên toà nhiều khả
năng sẽ bị hoãn bởi sự vắng mặt của bị đơn. Vì thế, nếu là Luật sư bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn thì Luật sư cần phải chú
ý để tránh trường hợp mất thời gian, chi phí khi đến phiên toà nhất là
khi ở xa nơi xét xử.
- Tình huống có thể xin thay đổi người tiến hành tố tụng như
thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân hay Kiểm sát viên. Trong số
các tình huống có thể xảy ra tại phiên toà, tình huống vắng mặt
đương sự, người đại diện đương sự hay đề nghị thay đổi Thẩm phán
với lý do Thẩm phán “có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ”
hay xảy ra nhất.

259
Biểu hiện cụ thể của sự không vô tư, khách quan có thể là Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân với một bên đương sự từng có mối quan hệ
qua lại, gặp gỡ, tới nhà nhau, tặng quà... Tuy nhiên, với lý do này,
đương sự phải đưa ra được chứng cứ rõ ràng để chứng minh chứ
không thể nói hàm hồ. Chứng cứ ở đây có thể là băng, đĩa ghi âm, ghi
hình, ảnh chụp… ghi lại những cuộc hội thoại, gặp gỡ… để chứng
minh giữa Thẩm phán, Hội thẩm và đương sự có mối quan hệ qua lại.
Hoặc băng, đĩa ghi âm, ghi hình thể hiện những lời nói, hành động cụ
thể mà trước đó trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán tỏ rõ sự
không vô tư, khách quan như bênh chằm chằm một bên, ép bên kia…
Nếu đương sự không đưa ra được chứng cứ chứng minh thì sẽ không
được Chánh án (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) hay Hội đồng xét xử
(tại phiên tòa) chấp nhận.
Sự không vô tư, khách quan của Thẩm phán, Hội thẩm khi làm
nhiệm vụ còn có thể biểu hiện như giữa Thẩm phán, Hội thẩm với
người đề nghị thay đổi Thẩm phán có mâu thuẫn cá nhân gay gắt
ngoài xã hội. Tuy nhiên, điều quan trọng vẫn là đương sự phải đưa ra
được chứng cứ chứng minh để tòa đánh giá, xem xét. Trong quá trình
chuẩn bị xét xử, thông qua các buổi lấy lời khai, đối chất, hoà giải và
qua việc tiếp xúc, làm việc với Thẩm phán, Luật sư đã có thể nắm bắt
được một số nội dung về định hướng xét xử, quan điểm của Thẩm
phán về việc giải quyết vụ án. Vì thế, nếu có những tình tiết thể hiện
sự không vô tư, khách quan trong việc giải quyết vụ án của Thẩm
phán, Luật sư cần dự liệu, đánh giá để có thể có những biện pháp khẩn
cấp như khiếu nại về hành vi vi phạm không vô tư, khách quan của
Thẩm phán.
Cho nên, để dự liệu chính xác tình huống phát sinh tại phiên toà,
ngay trong quá trình giải quyết vụ việc, cần cân nhắc, nghiên cứu đặc
điểm tâm sinh lý, tính cách, hoàn cảnh cuộc sống, điều kiện kinh tế,
thành phần bản thân của các đương sự. Ngoài ra, dựa trên những nhận
định, đánh giá của mình về các đương sự trong quá trình chuẩn bị xét
xử, căn cứ vào quy định pháp luật tố tụng như lần triệu tập đương sự
tham gia phiên toà, đơn yêu cầu của đương sự, cần dự liệu những tình
huống tố tụng nảy sinh. Phần lớn các vụ việc dân sự đều phải hoãn
phiên toà ở lần triệu tập thứ nhất. Hoặc có khi tại phiên toà, có khả
năng đương sự sẽ rút bớt một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện,
hoặc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện.

260
Đối với Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên
đơn, cần chú ý rằng theo quy định tại khoản 1 Điều 217 BLTTDS
năm 2015, trừ trường hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại
khách quan, nguyên đơn triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng
mặt thì sẽ bị Toà án đình chỉ giải quyết vụ án. Do đó, nếu trước khi có
quyết định đưa vụ án ra xét xử, nguyên đơn đã vắng mặt một lần thì
Luật sư cần lưu ý không thể xin vắng mặt lần thứ hai hoặc xin hoãn
phiên toà sơ thẩm.
1.4. Nghiên cứu lại hồ sơ và dự thảo bản trình bày tình tiết, sự
kiện, yêu cầu khởi kiện và chứng cứ để chứng minh của đương sự
tại phiên tòa
Nghiên cứu hồ sơ vụ án là công việc được tiến hành thường
xuyên, gắn liền với quá trình xây dựng hồ sơ vụ án. Tùy thuộc vào
điều kiện về thời gian, về mức độ phức tạp của vụ án và kinh nghiệm
cá nhân, mà mỗi người có phương pháp nghiên cứu hồ sơ vụ án khác
nhau. Tại cấp sơ thẩm, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án cần phải tiến hành
cả hai bước là nghiên cứu thường xuyên và nghiên cứu tổng hợp.
Từ sau khi thụ lý vụ án, hồ sơ vụ án thường xuyên được bổ sung
tài liệu, chứng cứ do Tòa án tự thu thập, xác minh hoặc do đương sự,
cơ quan, tổ chức, cá nhân giao nộp cho Tòa án. Hồ sơ vụ án được xây
dựng đến đâu, chúng ta nghiên cứu đến đó, để vừa bổ sung, hoàn
chỉnh tài liệu tổng hợp nội dung nghiên cứu, đồng thời xác định được
nội dung, yêu cầu của hoạt động tố tụng tiếp theo60. Ngược lại, trong
việc chuẩn bị cho việc mở phiên tòa, Luật sư lại phải tiến hành nghiên
cứu tổng hợp toàn bộ hồ sơ vụ án. Những tài liệu, chứng cứ đã được
nghiên cứu trước đó, cũng cần phải được kiểm tra lại, đồng thời đánh
giá tổng hợp với các chứng cứ mới thu thập được để hoàn chỉnh kết
quả nghiên cứu.
Nghiên cứu tổng hợp hồ sơ vụ án là cơ sở để xây dựng phương án
hòa giải hoặc để xây dựng kế hoạch hỏi, kế hoạch tranh tụng, chuẩn bị
bản luận cứ bảo vệ. Do đó, kết quả nghiên cứu tổng hợp phải được ghi
chép đầy đủ. Phương pháp tổng hợp và cách ghi chép của mỗi người có
thể khác nhau, nhưng về nội dung, kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án phải
thể hiện được chính xác và đầy đủ: loại quan hệ tranh chấp, diễn biến

60
Tham khảo thêm Chương 3 “Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ, đánh giá và sử dụng chứng cứ”.

261
nội dung tranh chấp, yêu cầu kiện tụng; những vấn đề đã có đủ cơ sở để
kết luận, những vấn đề cần phải làm rõ tại phiên tòa. Đối với những vấn
đề đã có đủ cơ sở để kết luận, thì phải chỉ ra được là kết luận dựa trên
những chứng cứ và căn cứ pháp lý nào. Những vấn đề cần phải tiếp tục
làm rõ là gì, biện pháp thực hiện là gì (bằng việc yêu cầu đương sự giao
nộp bổ sung chứng cứ, hay yêu cầu cơ quan, cá nhân tổ chức cung cấp
chứng cứ, hay thông qua tranh tụng tại phiên tòa).
Nghiên cứu hồ sơ là kỹ năng quan trọng của Luật sư chuẩn bị
cho việc tham gia phiên toà. Kết quả của hoạt động nghiên cứu hồ sơ
sẽ giúp cho Luật sư thực hiện các hoạt động của mình tại phiên toà
như trình bày tình tiết, sự kiện, đặt câu hỏi, phát biểu tại phiên toà.
Thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án đã chỉ ra rằng có
nhiều trường hợp do chủ quan cho rằng trước đó, mình đã nghiên cứu
hồ sơ kỹ rồi, không cần xem lại, nghiên cứu hồ sơ vụ án không kỹ đã
dẫn đến việc ra phiên tòa lúng túng, không biết trình bày các tình tiết,
sự kiện, trình bày thiếu, không đúng trọng tâm các tình tiết, sự kiện
của vụ án, không trích xuất được các chứng cứ chứng minh cần thiết
hoặc xử lý sai các tình huống. Có không ít trường hợp đọc hồ sơ vụ án
rất kỹ nhưng lại không có khả năng phân tích, tổng hợp nên không xác
định được các tình tiết của vụ án, dẫn đến không bảo vệ được quyền
lợi chính đáng, phù hợp với quy định pháp luật của đương sự. Có
trường hợp khi nghiên cứu hồ sơ vụ án đã không thể hiện tính khách
quan mà chỉ chú tâm nghiên cứu các tài liệu là chứng cứ mặc định của
mình mà bỏ qua các tài liệu khác nên nhiều vụ án bị huỷ, bị sửa hoặc
bị xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.
Mặc dù trong quá trình xây dựng hồ sơ ở giai đoạn chuẩn bị xét
xử, Luật sư cũng đã nắm chắc được nội dung của vụ án, các yêu cầu
của đương sự nhưng để chuẩn bị cho việc xét xử tại phiên tòa được
thành công đòi hỏi Luật sư một lần nữa kiểm tra lại tất cả các tài liệu
có trong hồ sơ vụ án và giải quyết các yêu cầu của đương sự, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Việc nghiên cứu lại
nội dung vụ việc sẽ giúp Luật sư tiếp tục nắm bắt được một cách
toàn diện cả về diễn biến, nguyên nhân, nội dung, tính chất mức độ
của tranh chấp; xác định được đầy đủ các vấn đề, các tình tiết, các
chứng cứ. Nếu không nghiên cứu lại hồ sơ thì rất dễ phạm sai lầm.
Có những vấn đề chỉ khi nghiên cứu kỹ, toàn diện các tài liệu, chứng

262
cứ của vụ án thì mới hiểu được bản chất của vụ án hoặc mới thấy
được cần phải thu thập thêm tài liệu, chứng cứ gì, cần kiểm tra, xác
minh thêm vấn đề gì và xác định trọng tâm phải kiểm tra, làm rõ tại
phiên tòa là các vấn đề gì.
Khi nghiên cứu lại hồ sơ vụ án, Luật sư phải thực hiện tốt những
yêu cầu sau đây:
Một là, phải xác định đầy đủ những vấn đề mà Tòa án phải xem
xét trong vụ án, đồng thời xác định được những vấn đề cần phải làm
rõ tại phiên tòa như: Quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án; Nội
dung vụ việc và nội dung tranh chấp; Yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn là gì? Có hay không có yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu độc
lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nếu có thì đó là yêu
cầu gì? Tư cách đương sự của các bên trong vụ việc; Những tình tiết,
sự kiện không cần phải chứng minh trong vụ án; Tài liệu chứng cứ có
trong vụ việc có đảm bảo tính đầy đủ, tính hợp pháp không. Chứng cứ
hợp pháp là chứng cứ được thu thập bằng các biện pháp hợp pháp (do
BLTTDS quy định, được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục); được
chứa đựng trong các nguồn chứng cứ hợp pháp. Để khẳng định được
chứng cứ có hợp pháp hay không, Luật sư phải kiểm tra từng loại
nguồn chứng cứ và khẳng định nguồn chứng cứ đó là hợp pháp, đồng
thời kiểm tra trình tự, thủ tục đương sự thu thập chứng cứ để xác định
chứng cứ đó là hợp pháp.
Tiêu chuẩn để xác định được chứng cứ đã đầy đủ là chứng cứ đó
đã xác định được đầy đủ các vấn đề cần phải chứng minh; chứng cứ
đó đã bảo đảm quyền của người tham gia tố tụng: Những tình tiết, sự
kiện mà các bên đã thống nhất hoặc đang tranh chấp, mâu thuẫn;
Những vấn đề cần phải làm rõ trong hồ sơ vụ việc; Dự kiến phương án
tranh tụng giải quyết vụ án.
Hai là, xác định đúng những tình tiết, chứng cứ cần phải tập
trung làm rõ tại phiên tòa, trách nhiệm chứng minh của các bên đối
với những tình tiết, chứng cứ cần phải làm rõ.
* Dự thảo bản trình bày tình tiết, sự kiện, yêu cầu khởi kiện và
chứng cứ để chứng minh của đương sự tại phiên tòa
Trình bày tình tiết, sự kiện, yêu cầu và chứng cứ để chứng minh

263
là công việc đầu tiên trong phần tranh tụng tại phiên toà mà Luật sư
phải đảm nhiệm. Trên cơ sở những tình tiết, sự kiện đã được trình bày
tại phiên toà, Hội đồng xét xử mới tiến hành xác định và bản án phải
căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ, tình tiết và sự kiện được đưa ra
xem xét tại phiên toà để phân tích, đánh giá, nhận định đầy đủ, khách
quan về các tình tiết của vụ án.
Cần lưu ý rằng không phải tất cả các tình tiết, sự kiện có trong
hồ sơ vụ việc đều phải được trình bày tại phiên toà mà chỉ những tình
tiết có giá trị để giải quyết vụ án mới cần trình bày. Những tình tiết có
giá trị để giải quyết vụ án là những tình tiết mà Hội đồng xét xử phải
phân tích, đánh giá trên cơ sở chứng cứ và đối chiếu với các quy định
của pháp luật để chấp nhận hay không chấp nhận những yêu cầu của
đương sự. Yêu cầu đặt ra là Luật sư phải xác định đúng và đầy đủ các
tình tiết có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.
Để xác định những tình tiết có giá trị giải quyết vụ án phải xuất
phát từ yêu cầu của các đương sự, những quy định của pháp luật điều
chỉnh quan hệ đang tranh chấp, từ đó Luật sư sẽ lựa chọn ra những
tình tiết có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án. Chẳng hạn, đối với vụ
án tranh chấp về kỷ luật sa thải thì những tình tiết sau đây được xem là
những tình tiết có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án.
- Những tình tiết nguyên đơn (người lao động) đưa ra để chứng
minh quyết định sa thải của bị đơn (người sử dụng lao động) là không
đúng như: căn cứ sa thải không đúng, thủ tục sa thải không đúng (nêu
cụ thể lý do).
- Những ngày người lao động không được làm, mức lương hàng
tháng của người lao động.
- Những tình tiết bị đơn (người sử dụng lao động) đưa ra để
chứng minh quyết định kỷ luật sa thải của bị đơn là đúng (căn cứ sa
thải, thủ tục sa thải).
Để đảm bảo tính đầy đủ, Luật sư phải tổng hợp tất cả các tình
tiết, sự kiện của vụ việc nêu ra, trên cơ sở đó chọn ra những tình tiết
có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án, sắp xếp lại theo một trật tự logic
để trình bày tại phiên toà.
Khi chuẩn bị bản trình bày tình tiết, sự kiện và yêu cầu khởi
kiện, Luật sư cần lưu ý:

264
- Tránh việc sao chụp nguyên si lời khai của đương sự, trong đó
có rất nhiều những tình tiết không liên quan đến việc giải quyết vụ án,
làm cho việc trình bày dài dòng, lủng củng, nhưng lại có những tình
tiết rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến việc chấp nhận hay
không chấp nhận yêu cầu của đương sự, mà đương sự hoặc Luật sư
của đương sự bổ sung tại phiên tòa thì lại không đưa vào. Luật sư phải
tổng hợp, chuyển hoá những suy nghĩ, trình bày của đương sự thành
cách thể hiện sao cho ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu.
- Thực tiễn chỉ ra rằng nhiều trường hợp Luật sư thường nhầm
lẫn giữa việc trình bày tình tiết, yêu cầu, chứng cứ chứng minh với
trình bày quan điểm lập luận để bảo vệ yêu cầu của đương sự. Phần
trình bày tình tiết, sự kiện của Luật sư không được đưa ra cách lập
luận, viện dẫn quy định pháp luật hoặc đánh giá yêu cầu của đương sự
là đúng hay không đúng pháp luật, có hay không có căn cứ.
- Các yêu cầu của đương sự phải được thể hiện rõ ràng và chi
tiết. Chẳng hạn nếu đương sự yêu cầu đòi bồi thường thì phải thể hiện
rõ khoản tiền yêu cầu bồi thường cụ thể là bao nhiêu, cách tính như
thế nào? Các yêu cầu của đương sự cũng phải rõ ràng, không được
trình bày vắn tắt, chung chung như đòi tiền lương do việc chấm dứt
hợp đồng lao động trái pháp luật từ khi chấm dứt đến khi xét xử sơ
thẩm thì phải ghi rõ cụ thể là bao nhiêu ngày, mức tiền là bao nhiêu,
tính như thế nào. Việc ghi rõ từng yêu cầu sẽ đảm bảo được quyền tự
định đoạt của đương sự, thể hiện tính khách quan trong việc xét xử.
- Những tình tiết, sự kiện dùng để chứng minh phải rõ ràng và
đầy đủ trong đó đặc biệt lưu ý đến những tình tiết, sự kiện không phải
chứng minh.
- Theo thủ tục tố tụng, Luật sư phía nguyên đơn trình bày trước,
Luật sư phía bị đơn trình bày sau. Vì thế, khi bảo vệ quyền lợi cho
phía nguyên đơn, Luật sư cần phải chuẩn bị chi tiết, cụ thể các tình
tiết, sự kiện. Đối với Luật sư bảo vệ quyền lợi cho phía bị đơn, khi
trình bày tình tiết, sự kiện, chứng cứ, để tránh mất thời gian và trùng
lắp, nếu đồng ý với tình tiết, sự kiện hoặc chứng cứ nào do phía
nguyên đơn đưa ra thì xác nhận. Ví dụ: tôi đồng ý với những tình tiết,
sự kiện… mà phía nguyên đơn trình bày. Đối với những tình tiết,
sự kiện, chứng cứ mà không đồng ý thì phía bị đơn mới trình bày tình
tiết, sự kiện bổ sung. Ví dụ: tôi không đồng ý với nguyên đơn về

265
việc nhận được quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
vào ngày 16/9/2016. Thực tế, bị đơn nhận được quyết định này vào
ngày 25/9/2016.
- Cần lưu ý liên quan đến phạm vi yêu cầu, tránh trường hợp
vượt quá giới hạn phạm vi khởi kiện ban đầu.
1.5. Dự thảo kế hoạch hỏi tại phiên toà
Hỏi là một thủ tục bắt buộc tại phiên toà sơ thẩm giải quyết vụ
án dân sự. Thông qua việc hỏi sẽ làm rõ được những tình tiết, sự kiện
hay những chứng cứ có giá trị nhằm giải quyết một cách khách quan,
chính xác, đúng pháp luật và có căn cứ vụ án. Theo quy định, Luật sư
nguyên đơn hỏi trước sau đó đến Luật sư bị đơn, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan, người tham gia tố tụng khác, rồi đến Thẩm phán
chủ toạ phiên toà và cuối cùng là Kiểm sát viên tham gia phiên toà.
Thông qua việc hỏi tại phiên toà sẽ đánh giá được khả năng nắm
bắt nội dung vụ việc, thể hiện được trình độ, năng lực của Luật sư khi
tham gia giải quyết vụ án bảo vệ quyền lợi cho đương sự. Thực tiễn
hành nghề chỉ ra rằng nhiều trường hợp Luật sư chưa chú trọng đến
việc hỏi tại phiên toà nên các câu hỏi được đặt ra trong phiên toà
không mang lại hiệu quả, giá trị cao để giải quyết vụ án. Cần lưu ý
rằng, bản án chỉ được căn cứ giải quyết trên cơ sở những tình tiết, sự
kiện được kiểm định tại phiên toà. Vì vậy, để tạo thế chủ động tại
phiên toà, hướng những người tiến hành xét xử, phía đối phương bị
cuốn vào đường lối giải quyết vụ án của mình, Luật sư cần chuẩn bị
chu đáo, xây dựng dự thảo kế hoạch hỏi chi tiết, cụ thể. Dự thảo kế
hoạch hỏi tại phiên toà càng tốt bao nhiêu thì khả năng chủ động, bảo
vệ tối đa quyền lợi khách hàng của mình càng tốt bấy nhiêu.
Thủ tục hỏi tại phiên tòa được quy định từ Điều 249 đến
Điều 258 BLTTDS năm 2015. Đây là thủ tục có điểm mới thay đổi so
với quy định trước đây về thứ tự hỏi. Theo quy định của BLTTDS
năm 2015, đương sự, Luật sư bảo vệ quyền lợi cho đương sự sẽ là
những người tiến hành hỏi trước.
Kế hoạch hỏi là những dự kiến của Luật sư hỏi những người
tham gia tố tụng tại phiên toà. Những dự kiến này dựa trên cơ sở
nghiên cứu hồ sơ vụ án mà đặc biệt là nghiên cứu những lời khai của

266
họ. Việc lập kế hoạch hỏi bao gồm việc xác định trình tự hỏi, dự kiến
các câu hỏi và thời gian hỏi cho mỗi đối tượng, dự kiến các tình huống
có thể xảy ra trong quá trình hỏi. Kế hoạch hỏi còn phụ thuộc vào
từng vụ án cụ thể, nếu vụ án có nhiều đương sự, nhiều người tham gia
thì cần lập kế hoạch hỏi sao cho phù hợp. Có thể hỏi theo từng nhóm
vấn đề, nội dung cần hỏi hoặc từng đương sự để khỏi lãng phí thời
gian; cần xác định hỏi người nào trước, người nào sau; kết hợp việc
hỏi nguyên đơn, bị đơn với việc hỏi những người tham gia tố tụng
khác; kết hợp việc hỏi với việc đưa vật chứng, công bố lời khai và các
tài liệu có trong hồ sơ.
Kế hoạch hỏi được lập sao cho khi hỏi phía đối phương không
biết hoặc lường trước được chủ ý của mình.
Cần lưu ý rằng, tại phiên toà, Luật sư nên chỉ đặt câu hỏi về những
tình tiết, sự kiện hoặc những nội dung mà các bên còn đang tranh
chấp, chưa thống nhất, mâu thuẫn để làm rõ nội dung vụ án. Do đó, kế
hoạch hỏi phải dựa trên những vấn đề trọng tâm cần phải giải quyết
trong vụ án, căn cứ vào những tình tiết, sự kiện, nội dung mà các bên
đang tranh chấp, chưa thống nhất, mâu thuẫn được Thẩm phán xác
định, kết luận tại biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hoà giải.
Ngoài ra, khi đặt câu hỏi, Luật sư cần phải chú ý đến nghĩa vụ
chứng minh của các bên trong vụ việc đối với vấn đề, nội dung, tình
tiết, sự kiện cần hỏi và trên cơ sở lợi ích của khách hàng mà mình bảo
vệ quyền lợi. Tùy theo vị trí tham gia tố tụng mà Luật sư cần xác định
vấn đề trọng tâm phù hợp nhất với lợi ích của khách hàng để xây dựng
kế hoạch hỏi. Từ vấn đề trọng tâm được xác định, Luật sư xác định
những vấn đề cần phải làm rõ tại phiên tòa. Việc làm rõ được thể hiện
thông qua thủ tục hỏi và thủ tục tranh luận tại phiên tòa.
Chẳng hạn, trong vụ án tranh chấp về xử lý kỷ luật bằng hình
thức sa thải, ngoài việc phải làm rõ quan hệ hợp đồng lao động, diễn
biến của quá trình thực hiện quan hệ lao động trước khi sa thải, phần
trọng tâm hỏi thường phải làm rõ căn cứ thực tế người sử dụng lao
động sa thải người lao động, người lao động có lỗi khi thực hiện hành

267
vi đó không, có họp xét kỷ luật không, thành phần tham gia phiên họp,
nếu người lao động không tham dự thì phải làm rõ lý do tại sao (có
được người sử dụng lao động báo không, hình thức, số lần báo, thời
điểm...), ý kiến của Ban chấp hành công đoàn, các quyền lợi đã thanh
toán cho người lao động sau khi sa thải...
Việc xây dựng kế hoạch hỏi giúp Luật sư hỏi có trọng tâm,
xác định được những vấn đề cần làm rõ, không bỏ sót, không có
những câu hỏi thừa hoặc vô nghĩa, không bị lúng túng trước sự trả
lời của người bị hỏi. Tuỳ vào nội dung vụ án, các tình tiết được thể
hiện trong hồ sơ, Luật sư dự kiến những người cần hỏi, thứ tự hỏi,
hỏi ai trước, ai sau; Dự kiến cách đặt câu hỏi; Nhất thiết những câu
hỏi phải làm rõ các tình tiết của vụ án sao cho có lợi cho khách
hàng cần bảo vệ. Câu hỏi phải rõ ràng, ngắn gọn, chính xác và
không làm cho người được hỏi hiểu theo nhiều nghĩa. Khi dự thảo
kế hoạch hỏi, Luật sư cần tránh việc đặt câu hỏi quá chung chung,
dài dòng hoặc không rõ đó là câu hỏi hay câu giải thích, vì hỏi như
thế sẽ làm cho người bị hỏi không biết phải trả lời như thế nào. Nếu
muốn yêu cầu người bị hỏi giải thích một số điểm trong lời khai,
Luật sư chuẩn bị sẵn lời khai này, đánh dấu những điểm cần hỏi để
luôn luôn chủ động khi hỏi.
Kế hoạch hỏi có thể được xây dựng theo mẫu như sau:

STT Nội dung Ai? Như thế nào?


(Vấn đề cần hỏi/Hỏi (NĐ, BĐ, (Câu hỏi cụ thể)
cái gì) NCQLNVLQ)
1.
2.

Việc đặt câu hỏi cho đương sự tại phiên toà là việc làm không
đơn giản. Trên thực tế không hiếm những trường hợp câu hỏi của Luật
sư đưa ra không góp phần làm sáng tỏ được điều gì. Điều này dễ dẫn
đến tâm lý nhàm chán, sốt ruột cho người nghe.

268
Khi đặt câu hỏi nên tránh lặp lại những câu hỏi mà Hội đồng xét
xử hoặc những người khác đã nêu; không đặt câu hỏi lan man, không
cụ thể, không rõ ràng; câu hỏi không sát với nội dung của vụ kiện.
Theo quy định pháp luật, việc đặt câu hỏi phải rõ ràng, nghiêm túc,
không trùng lắp, không lợi dụng việc hỏi và trả lời để xâm phạm nhân
phẩm của những người tham gia tố tụng. Yêu cầu đặt câu hỏi phải sắc
bén, ngắn gọn, tập trung vào những vấn đề quan trọng của vụ án
nhưng chưa được làm rõ sao cho sự trả lời của người được hỏi sẽ có
lợi nhất cho người mà mình bảo vệ. Luật sư không nên đặt những câu
hỏi quá dài, không đi vào trọng tâm hoặc vừa đặt câu hỏi vừa phân
tích, bình luận làm lẫn lộn với phần tranh luận để chủ tọa phiên toà
phải nhắc nhở.
Trong cách đặt câu hỏi, cần chú ý đến nguyên tắc 5C trong việc
đặt câu hỏi. Đó là, phải: Ngắn gọn (Concise), Lịch sự, nhã nhặn
(Courteous), Đúng, không sai sót (Correct), Rõ ràng (Clear) và Hoàn
chỉnh (Complete).
Tùy từng trường hợp có thể sử dụng những loại câu hỏi sau.
- Câu hỏi bổ sung lời khai: Mục đích sử dụng câu hỏi này để làm
rõ hơn về các tình tiết, sự kiện của vụ án đã được người tham gia tố
tụng khai báo tại phiên toà nhưng chưa rõ. Câu hỏi này được dùng
trong trường hợp khách hàng của mình đã trả lời câu hỏi của Hội đồng
xét xử nhưng chưa làm rõ được các tình tiết của vụ án có lợi cho họ.
Nguyên nhân có thể do họ mất bình tĩnh mà khai sai. Luật sư cần đặt
câu hỏi để người này khai bổ sung những điểm chưa rõ hoặc còn sót.
Cũng có thể đặt câu hỏi này với những người làm chứng hoặc những
người tham gia tố tụng khác khi thấy lời khai bổ sung của họ sẽ có lợi
cho khách hàng của mình.
- Câu hỏi gợi mở: Mục đích của câu hỏi này để phục hồi trí nhớ,
khơi dậy trong trí nhớ của người được hỏi mối liên tưởng về thời gian,
sự việc, nhờ đó họ có thể khai báo được chính xác tình tiết, sự kiện
của vụ án. Luật sư dùng câu hỏi này để hỏi người làm chứng hoặc
đương sự, giúp họ có điều kiện nhớ lại thời gian, địa điểm, sự việc liên
quan đến vụ án nhưng bị lãng quên.
- Câu hỏi chỉ rõ sự mâu thuẫn: Câu hỏi này nhằm mục đích chỉ
ra sự mâu thuẫn, không logic, hợp lý trong lời khai của những người
có quyền lợi đối lập với khách hàng của mình hoặc của người làm

269
chứng. Loại câu hỏi chỉ rõ sự mâu thuẫn thường có hai phần. Phần
một nêu những chứng cứ, tình tiết, sự kiện đã được kiểm tra và xác
định là đúng. Phần hai nêu nội dung lời khai của người được hỏi có
mâu thuẫn với các chứng cứ, tình tiết, sự kiện đã đưa ra ở phần một và
yêu cầu người này giải thích về sự mâu thuẫn đó.
Đối với người mà mình bảo vệ, Luật sư không nên đặt câu hỏi
phức tạp, câu hỏi mà trước đó chưa có sự trao đổi thống nhất, chỉ nên
đặt loại câu hỏi bổ sung lời khai, câu hỏi gợi mở hoặc câu hỏi đã có sự
trao đổi thống nhất giữa Luật sư với người được bảo vệ. Lưu ý này để
tránh tình trạng Luật sư đặt câu hỏi quá khó làm cho người được Luật
sư bảo vệ không biết trả lời thế nào hoặc trả lời lại không có lợi cho
họ. Chú ý khi đặt câu hỏi gợi mở không được gợi ý cho người được
hỏi trả lời mà chỉ nhằm giúp họ nhớ lại những gì đã biết nhưng do lâu
ngày bị lãng quên. Căn cứ vào diễn biến tại phiên toà, Luật sư có thể
đưa ra các yêu cầu cần thiết như đề nghị Hội đồng xét xử xem xét vật
chứng, hỏi những người có liên quan để làm rõ vật chứng; nếu thấy
cần thiết có thể đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tại chỗ những vật
chứng không thể đưa đến phiên toà được.
- Câu hỏi đánh giá: là loại câu hỏi thường nhằm đánh giá suy
nghĩ, thái độ của người trả lời: Ví dụ: “Anh (chị) cho biết tại sao anh
(chị) nuôi con lại tốt hơn?”
- Câu hỏi mở: người nghe có thể trả lời tùy theo ý của mình.
Ví dụ: “Khi ly hôn, anh (chị) ai là người nuôi con?”
- Câu hỏi yêu cầu: người hỏi yêu cầu người trả lời hướng đúng
vào vấn đề mà người hỏi quan tâm. Ví dụ: “Yêu cầu anh (chị) nói rõ
lý do vì sao anh (chị) có thái độ đối với vợ (chồng) của anh (chị)
như vậy?”
- Câu hỏi đóng: dạng câu hỏi trả lời có hoặc không. Ví dụ:
“Như vậy, anh (chị) có thừa nhận là mình có thái độ cư xử quá
mức không?”
- Câu hỏi tác động suy nghĩ (kiểu Socrates): dạng câu hỏi để
người được hỏi tự suy nghĩ. Ví dụ: “Với thời gian hai mươi năm sống
hạnh phúc với nhau, anh (chị) suy nghĩ thế nào chỉ vì một mâu thuẫn
nhỏ mà đánh đổ tất cả chuỗi ngày hạnh phúc mà anh chị đã có?”

270
1.6. Dự liệu những vấn đề (nội dung) cần tranh tụng
Trong một vụ kiện thường có nhiều vấn đề được đặt ra. Tuy
nhiên không phải nội dung nào cũng cần phải phân tích kỹ hoặc cần
phải tranh luận... Việc tập trung phân tích nội dung nào phụ thuộc vào
yêu cầu cụ thể của từng vụ kiện. Luật sư chỉ nên tập trung đi sâu phân
tích những nội dung mà các bên trong vụ kiện đang tranh chấp, vì đó
chính là những nội dung cần tranh luận nhiều. Không dành quá nhiều
công sức vào việc phân tích những nội dung mà các bên đã thống nhất
được với nhau về cách giải quyết.
Ví dụ: trong một vụ kiện ly hôn, hai vợ chồng thuận tình ly hôn,
họ chỉ tranh chấp về vấn đề tài sản. Trong trường hợp này người
Luật sư chỉ cần tập trung vào việc chuẩn bị cho những tranh luận để
bảo vệ quyền lợi vật chất cho khách hàng của mình mà không cần
phải phân tích nhiều về những mâu thuẫn vợ chồng nữa. Ngược lại,
nếu đó là một vụ đơn phương xin ly hôn thì lại cần chuẩn bị nhiều
vào việc phân tích tình trạng hôn nhân của vợ chồng đó đã đến mức
phải ly hôn hay chưa, tuỳ theo Luật sư đang bảo vệ quyền lợi cho ai
trong vụ kiện...
Những vấn đề cần tranh luận thường tập trung vào việc đánh giá
chứng cứ và hướng áp dụng pháp luật giải quyết yêu cầu của các bên.
Khi đã xác định những nội dung cần tranh luận, Luật sư cần chuẩn bị
những chứng cứ phục vụ cho nội dung đó, các lập luận của Luật sư
cũng như những văn bản pháp luật dùng làm cơ sở cho đề xuất của
Luật sư.
1.7. Xây dựng phương án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng
Trước khi phiên toà diễn ra, Luật sư cần phải dự liệu các tình
huống, tính toán điều kiện để chuẩn bị các phương án bảo vệ quyền lợi
cho khách hàng. Phương án tối ưu sẽ được ưu tiên lựa chọn. Phương
án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng khác với phương án giải quyết vụ
án. Ngoài việc dựa trên cơ sở quy định pháp luật, tình tiết sự kiện của
vụ việc để xác định phương án giải quyết vụ án, Luật sư cần cân nhắc
tính toán với đặc điểm tính cách của phía đối phương, với khả năng thi
hành án, năng lực thực hiện nghĩa vụ của các bên để xây dựng phương
án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng một cách tốt nhất.
Phương án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng có thể là phương án

271
về tố tụng và phương án về nội dung giải quyết vụ án. Đó có thể là
phương án hoà giải, phương án rút đơn kiện hoặc rút bớt yêu cầu khởi
kiện hoặc nhượng bộ một phần yêu cầu của nguyên đơn, hoặc nhượng
bộ về án phí hay chấp thuận để Toà án giải quyết vụ án theo quy định
của pháp luật trên cơ sở tình tiết, sự kiện, các tài liệu chứng cứ đã
được kiểm tra, xem xét tại phiên toà.
Để có thể xây dựng phương án bảo vệ quyền lợi của khách hàng,
cần phải nắm được diễn biến, nội dung tranh chấp, nguyên nhân phát
sinh tranh chấp, yêu cầu của các đương sự và các quy định của pháp
luật về vấn đề đang có tranh chấp, cách giải quyết tranh chấp theo
quan điểm của mỗi bên và mức độ thiện chí giữa họ... Ngoài ra, trên
cơ sở phương án dự liệu đó, Luật sư cần trao đổi với khách hàng để
thống nhất quan điểm, phương án nhằm đảm bảo nguyên tắc quyền
quyết định và tự định đoạt của đương sự tại phiên toà.
1.8. Chuẩn bị bản luận cứ bảo vệ quyền lợi cho khách hàng tại
phiên toà
Bản luận cứ bảo vệ quyền lợi cho đương sự là văn bản pháp lý
rất quan trọng của vụ kiện. Một mặt, phản ánh quan điểm của Luật sư,
cũng như tâm tư nguyện vọng của khách hàng, thông qua các yêu cầu
mà Luật sư đề xuất. Mặt khác, bản luận cứ còn là cơ sở giúp cho Hội
đồng xét xử xem xét, đánh giá để chấp nhận hay không chấp nhận yêu
cầu của đương sự và thông qua bản luận cứ phản ánh khả năng của
Luật sư trong việc khai thác hồ sơ, khả năng phân tích, đánh giá chứng
cứ cũng như khả năng biện luận, trình độ, năng lực của Luật sư. Kết
thúc phiên toà, Luật sư cần nộp cho Toà án bản luận cứ bảo vệ quyền
lợi cho khách hàng.
Bản luận cứ bảo vệ quyền lợi cho đương sự được Luật sư trình
bày tại thủ tục tranh tụng của phiên tòa. Đây là một hoạt động trung
tâm của phiên tòa dân sự sơ thẩm. Mục đích của hoạt động tranh tụng
tại phiên tòa là nhằm làm sáng tỏ thêm những tình tiết, sự kiện của vụ
án. Việc tranh luận của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự được diễn ra tại phiên tòa về những vấn đề mà các
đương sự chưa thống nhất hoặc còn mâu thuẫn. Những vấn đề mà các
bên đưa ra đã được bên kia thừa nhận và không phản đối thì không
cần phải tranh luận. Tranh luận tại phiên tòa còn thể hiện tính công

272
khai, minh bạch trong hoạt động xét xử của Tòa án. Các đương sự và
Luật sư có cơ hội để chứng minh cho các yêu cầu của mình bằng cách
thể hiện công khai việc đánh giá các chứng cứ, lý lẽ của mình tại
phiên tòa. Hội đồng xét xử phải chú ý lắng nghe các ý kiến, lập luận
và đánh giá chứng cứ của các bên cũng như đề xuất của họ trong việc
giải quyết vụ án.
Để có thể tham gia tố tụng tại phiên toà được tốt, tạo sự chủ
động trong việc tham gia phiên toà thì sự chuẩn bị một bản luận cứ
công phu và kỹ lưỡng là việc làm hoàn toàn cần thiết trước khi mở
phiên toà. Nếu như bản án của Toà án, bài phát biểu của Kiểm sát viên
tại phiên toà có quy định cụ thể về hình thức và nội dung thì bản luận
cứ bảo vệ quyền lợi cho đương sự tại phiên toà của Luật sư không có
quy định cụ thể về hình thức, nội dung. Các Luật sư, tổ chức hành
nghề Luật sư khi tham gia phiên toà đều có các mẫu khác nhau về bản
luận cứ. Dù vậy, về cơ bản, bản luận cứ bảo vệ quyền lợi cho đương
sự tại phiên toà thường có cơ cấu gồm ba phần:
- Phần mở đầu: phần này thường đơn giản. Nội dung chủ yếu
giới thiệu về tư cách tham gia tố tụng của Luật sư, tổ chức hành nghề
Luật sư mà Luật sư đang hành nghề. Mặc dù trong phần thủ tục, về
nguyên tắc thì Hội đồng xét xử đã xác định được Luật sư nào bảo vệ
quyền lợi cho đương sự nào trong vụ kiện. Nhưng trước khi phát biểu
quan điểm bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình, Luật sư vẫn
nên khẳng định lại điều này, đặc biệt là trong những vụ kiện có nhiều
đương sự, có nhiều luật sư tham gia.
Phần mở đầu của bản luận cứ thường bắt đầu bằng câu “Kính
thưa Hội đồng xét xử!”. Việc giới thiệu về Luật sư nên ngắn gọn. Nội
dung thường là giới thiệu tên của Luật sư, Luật sư đang hành nghề tại
văn phòng Luật sư nào, thuộc Đoàn Luật sư nào, tham gia phiên toà
để bảo vệ quyền lợi cho ai trong vụ kiện.
- Phần nội dung: Đây là phần quan trọng nhất của bản luận
cứ. Toàn bộ những nội dung tranh chấp, quan điểm và các chứng
cứ, cơ sở pháp lý cho quan điểm của Luật sư được thể hiện đầy đủ
tại phần này.
Khi chuẩn bị bản luận cứ, cần chú ý rằng:

273
+ Khi nghiên cứu hồ sơ, phát hiện quá trình giải quyết vụ án có
những sai sót hoặc còn chưa rõ ràng về tố tụng như không đúng thẩm
quyền, hết thời hiệu khởi kiện, xác định sai tư cách đương sự hoặc có
tình tiết, căn cứ để Toà án phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án
thì phải đề cập trước trong bản luận cứ.
+ Trong vụ việc có nhiều vấn đề tranh chấp, những vấn đề tranh
chấp quan trọng, là cơ bản, cốt yếu để giải quyết vụ việc thì nên
được trình bày trước, những vấn đề kém quan trọng hơn thì trình bày
lập luận sau. Chẳng hạn đối với vụ việc tranh chấp về đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động, xử lý kỷ luật lao động bằng hình thức
sa thải thì bản luận cứ nên phải lập luận về việc đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động, sa thải là đúng hay sai trước rồi sau đó mới
lập luận đến những yêu cầu khởi kiện đòi bồi thường các khoản thiệt
hại phát sinh từ việc đơn phương chấm dứt hợp đồng hay sa thải trái
hay không trái pháp luật. Đối với vụ việc tranh chấp hợp đồng mua
bán hàng hoá thì trước hết phải lập luận về hợp đồng mua bán hàng
hoá có hiệu lực hay vô hiệu, rồi sau đó mới lập luận đến việc vi
phạm nghĩa vụ hợp đồng.
+ Trong từng vấn đề tranh chấp của vụ án, khi nhận định,
phương pháp lập luận có thể sử dụng phương pháp quy nạp hay diễn
giải để trình bày.
+ Đối với từng vấn đề tranh chấp, bản luận cứ cần phải khẳng
định rõ vấn đề đó là đúng hay trái quy định pháp luật, có hay không có
căn cứ.
+ Trong trường hợp mà các bên có cách hiểu quy định pháp luật
khác nhau về vấn đề tranh chấp, cần phải giải thích pháp luật hoặc điều
khoản thoả thuận trong hợp đồng thì bản luận cứ cũng cần phải nêu cách
hiểu, cách giải thích quy định trong hợp đồng, pháp luật của mình.
- Phần kết luận: Đây là phần kết của bản luận cứ nhằm khẳng
định phương án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình. Trên cơ
sở đó, Hội đồng xét xử sẽ nghiên cứu, xem xét để quyết định trong
bản án. Để kết thúc phần tranh luận, Luật sư có thể gửi đến Hội đồng
xét xử lời cảm ơn của mình đối với Hội đồng xét xử.

274
Phần kết luận bao gồm hai nội dung chính: Khẳng định lại
các quan điểm (các kết luận) của mình thông qua quá trình phân
tích, chứng minh trong phần nội dung và đề xuất với Tòa án
phương án giải quyết nhằm thỏa mãn yêu cầu của đương sự. Phần
kết luận phải được trình bày rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu, đủ ý,
tránh hiểu nhầm và phải có căn cứ pháp luật. Luật sư cần tuyệt đối
tránh những đề xuất chung chung như “đề nghị Tòa án xử buộc bị
đơn phải trả lại nhà, đất theo quy định của pháp luật hoặc đề nghị
Tòa án xét xử theo pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng
cho khách hàng của tôi…”.
Chú ý rằng bản luận cứ không nên đề cập, lặp lại nhiều lần về
một vấn đề và cần sử dụng văn phong pháp lý. Câu chữ phải ngắn
gọn, rõ nghĩa, nên sử dụng câu đơn tránh sử dụng những từ ngữ
mang tính chất khoa trương, câu trống rỗng, câu kiêu, câu kêu, câu
cảm thán... hoặc đưa thêm một số từ ngữ tiếng nước ngoài hoặc
các lời lẽ có tính chất thóa mạ, bôi nhọ, mạt sát đối phương. Bản
luận cứ cũng phải thể hiện được đặc điểm, tính cách, quan điểm về
nội dung vụ việc, về yêu cầu của đương sự mình bảo vệ, phải hiểu
được tâm lý vùng miền, nơi sinh, nơi cư trú, tập quán của các bên
đương sự.
2. Kỹ năng đặc thù theo loại án chuẩn bị tham gia phiên tòa
sơ thẩm
2.1. Kỹ năng chuẩn bị tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự
2.1.1. Đặc điểm của tranh chấp dân sự và một số vấn đề cần lưu
ý khi chuẩn bị tham gia phiên tòa vụ án dân sự
Những tranh chấp dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án được ghi nhận tại Điều 26 BLTTDS năm 2015. Khi tham gia tố
tụng trong giai đoạn Tòa án chuẩn bị xét xử sơ thẩm để giải quyết các
tranh chấp dân sự, ngoài các kỹ năng chung, Luật sư cần lưu ý những
đặc thù cơ bản của án dân sự so với các án khác như án kinh doanh,
thương mại, lao động hay HN&GĐ.
Về chủ thể, các chủ thể quan hệ pháp luật dân sự bao gồm: cá
nhân, pháp nhân, thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác và các tổ chức

275
khác không có tư cách pháp nhân, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, cơ quan nhà nước ở trung ương, ở địa phương
trong quan hệ dân sự. Các chủ thể này có thể tự mình trực tiếp tham
gia vào quan hệ pháp luật dân sự hoặc có thể thông qua đại diện
(đại diện theo pháp luật, đại diện theo ủy quyền và/hoặc đại diện do
Tòa án cử).
Về khách thể, khách thể quan hệ pháp luật dân sự là các loại giá
trị vật chất và tinh thần hoặc quá trình sáng tạo của các chủ thể, là đối
tượng mà các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự nhằm đạt tới.
Đối tượng điều chỉnh cơ bản khẳng định bản chất, ý nghĩa và đặc điểm
của luật dân sự là quan hệ tài sản. Mối quan hệ tài sản rất phong phú
và phát sinh trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời sống xã
hội mà trong đó nhóm quan hệ xã hội rất cơ bản và quan trọng là
nhóm quan hệ của các chủ thể trong quá trình sản xuất, phân phối, lưu
thông, tiêu thụ những sản phẩm cũng như cung ứng dịch vụ cho xã
hội. Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự ngoài quan hệ tài sản còn
có các quan hệ nhân thân. Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa các chủ
thể pháp luật dân sự về quyền nhân thân. Quan hệ nhân thân có các
đặc điểm sau (i) Đó là mối quan hệ xã hội về một giá trị tinh thần của
cá nhân như danh dự, uy tín, tên gọi, bí mật đời tư…; (ii) Các giá trị
tinh thần này gắn liền với các chủ thể tham gia vào mối quan hệ xã hội
và không thể chuyển giao cho người khác trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác. (iii) Khi tham gia vào mối quan hệ này các chủ thể thể
hiện đặc tính cá thể của mình.
Về nội dung tranh chấp, tranh chấp về dân sự là tranh chấp về
các quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ
dân sự. Nội dung tranh chấp trong các vụ án dân sự tương đối phức
tạp, đan xen nhiều quan hệ pháp luật có liên quan với nhau. Việc giải
quyết quan hệ pháp luật này đòi hỏi phải giải quyết đồng thời quan hệ
pháp luật khác. Ví dụ: A khởi kiện yêu cầu Toà án buộc B phải trả
lại đất. (Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật đất đai).
Đồng thời, A khởi kiện yêu cầu Toà án buộc C phải tháo dỡ công trình
mà C đã xây dựng trên đất đó. Hoặc việc giải quyết các quan hệ pháp
luật có cùng đương sự và về cùng loại tranh chấp quy định trong một
điều luật tương ứng tại Điều 26 BLTTDS năm 2015.

276
Về áp dụng văn bản quy phạm pháp luật, việc lựa chọn áp dụng
luật khi giải quyết các tranh chấp dân sự rất phức tạp. Thực tiễn giải
quyết tranh chấp ở một số Tòa án không thống nhất, có nhiều trường
hợp cùng một vụ việc tương tự, cùng áp dụng văn bản giống nhau
nhưng cách hiểu, giải quyết của các Tòa án lại khác nhau. Về nguyên
tắc, áp dụng luật nội dung được xác định ở thời điểm xác lập giao
dịch, trừ những trường hợp luật có quy định khác. BLDS là cơ sở
quan trọng nhất để điều chỉnh các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân
thân trong các lĩnh vực đời sống kinh tế, dân sự. Phạm vi các lĩnh vực
được điều chỉnh bởi pháp luật dân sự càng ngày càng mở rộng, từ các
giao dịch dân sự thông dụng nhất, đến các giao dịch thuộc các lĩnh
vực mới hơn như quan hệ đất đai, sở hữu trí tuệ, về chuyển giao công
nghệ cũng như các chế định pháp luật được điều chỉnh bởi quy định
của các luật chuyên ngành… Rõ ràng là về mối quan hệ giữa các luật
này cần được nhìn nhận biện chứng theo cặp phạm trù giữa “cái chung
và cái riêng”, không thể thay thế nhau, loại trừ nhau mà cần thiết bổ
sung cho nhau. Khi lựa chọn luật nội dung áp dụng, Luật sư cần xác
định rõ đối tượng điều chỉnh của ngành luật và lưu ý về điều khoản thi
hành để xác định thời điểm áp dụng luật và hiệu lực của văn bản.
Trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không có quy
định thì có thể áp dụng tập quán nhưng tập quán không trái với các
nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự. Trường hợp phát sinh quan hệ
thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có
thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được
áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự
tương tự. Khi Luật sư đề xuất áp dụng tương tự pháp luật để giải quyết
tranh chấp dân sự, Luật sư phải làm rõ tính chất pháp lý của vụ việc
dân sự, xác định rõ ràng trong hệ thống pháp luật hiện hành không quy
phạm pháp luật nào điều chỉnh quan hệ đó và xác định quy phạm pháp
luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự. Ngoài ra, theo BLDS năm 2015
trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật thì áp dụng các quy
tắc cơ bản của pháp luật dân sự, vận dụng tinh thần và các nguyên tắc cơ
bản của BLDS năm 2015, quy định của ngành luật khác hoặc các văn
bản dưới luật có quy định để giải quyết, áp dụng án lệ và lẽ công bằng.
Về thời hiệu khởi kiện, ngoài các nguyên tắc chung về xác định
thời hiệu, khi xem xét về vấn đề thời hiệu, Luật sư cần lưu ý những

277
quan hệ pháp luật dân sự không áp dụng thời hiệu khởi kiện, những vụ
án thời hiệu khởi kiện không bị hạn chế, về thời gian không tính vào
thời hiệu khởi kiện. Bên cạnh đó, tại điểm d khoản 1 Điều 189 BLDS
năm 2015 “thời hiệu được áp dụng theo quy định của luật này”. Như
vậy, các quy định mới của BLDS năm 2015 về thời hiệu được áp dụng
kể từ ngày 01/01/2017, không phân biệt quan hệ phát sinh bao giờ.
Đối với vụ án hết thời hiệu khởi kiện, việc chứng minh căn cứ bắt đầu
lại thời hiệu khởi kiện mặc dù có những quy định trong luật nhưng
trên thực tế đây cũng là vấn đề rất khó khăn. Vấn đề là, khi thời hiệu
khởi kiện vẫn còn mà căn cứ phát sinh thì thời hiệu khởi kiện có được
tính lại hay không, BLDS chỉ ghi nhận thời hiệu khởi kiện bắt đầu lại
khi có các căn cứ nhưng không xác định cụ thể thời điểm các căn cứ
phát sinh có nhất thiết phải khi thời hiệu khởi kiện đã hết hay còn.
Thực tiễn xét xử, vấn đề này đã dẫn đến những lúng túng nhất định
khi cân nhắc áp dụng căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện.
Ví dụ:
Bản án số 211/2015/DS-ST ngày 20/8/2015 của TAND quận X,
thành phố H. Hội đồng xét xử nhận định: “Theo giấy thỏa thuận vay
tài sản thì thời hạn vay là 02 năm kể từ ngày ký giấy thỏa thuận
ngày 10/3/2008, nhưng khi hết thời hạn vay, hơn 04 năm sau (Tòa
án thụ lý ngày 17/12/2014) bà Hoa mới khởi kiện buộc ông Bá phải
trả cho bà Hoa 83 lượng vàng SJC được quy đổi ra tiền đồng Việt
Nam theo giá vàng tại thời điểm thi hành án. Do đó, xác định quan
hệ pháp luật là quyền đòi lại tài sản”.
Bản thân các đương sự trong vụ án trên đều không có ý kiến về
thời hiệu khởi kiện đối với nhận định của Hội đồng xét xử cũng như
trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án này nói riêng. Theo nội
dung đơn khởi kiện, nguyên đơn kiện về quan hệ tranh chấp hợp
đồng vay tài sản. Các tài liệu trong hồ sơ thể hiện quan hệ pháp
luật không phải là kiện đòi lại tài sản, vì hết thời hiệu khởi kiện như
Hội đồng xét xử nhận định. Do có căn cứ bắt đầu lại thời hiệu khởi
kiện căn cứ vào lời khai của nguyên đơn và xác nhận của bị đơn:
“Sau khi hết thời hạn vay, ông Bá đã liên hệ với bà để xin kéo dài
thời hạn trả nợ do công việc làm ăn của ông gặp nhiều khó khăn,
chưa có khả năng trả số vàng đã vay. Do tin tưởng thông cảm cho
hoàn cảnh khó khăn của ông Bá và là chị em ruột, nên bà đồng ý
kéo dài thời gian trả. Việc gia hạn này không lập thành văn bản.

278
Tuy nhiên từ đó cho đến nay ông Bá vẫn chưa trả số vàng vay, dù
bà đã nhiều lần yêu cầu ông Bá trả nợ”.
Hết thời hạn trả nợ bị đơn đã chủ động thừa nhận nợ, liên hệ với
nguyên đơn xin kéo dài thời hạn trả nợ và được nguyên đơn đồng ý.
Rất có thể trong trường hợp này, đương sự và cơ quan tiến hành tố
tụng đang phân vân giữa bắt đầu thời hiệu khởi kiện và bắt đầu lại
thời hiệu khởi kiện, vì rằng có tình tiết nguyên đơn đồng ý kéo dài
thời gian trả nợ cho bị đơn. Hồ sơ vụ án không khai thác, làm rõ
nguyên đơn đồng ý kéo dài thời gian trả nợ cho bị đơn là bao nhiêu
lâu nên không có căn cứ để xác định thời điểm bắt đầu thời hiệu
khởi kiện và cũng rất khó có thể suy luận theo hướng thời hiệu khởi
kiện được bắt đầu lại và thời hiệu khởi kiện hợp đồng vay vẫn còn.
Tuy nhiên, qua phân tích và đánh giá có thể thấy căn cứ thừa nhận
nợ trong vụ án hoàn toàn có thể diễn ra trong thời gian thời hiệu
khởi kiện, có lẽ vì lý do thời điểm phát sinh căn cứ bắt đầu lại thời
hiệu nằm trong thời hiệu khởi kiện, nên Hội đồng xét xử cho rằng
không có ý nghĩa về thời hiệu khi thời hiệu khởi kiện chưa hết mà
tính lại là không chuẩn. Dẫn đến việc Hội đồng xét xử nhận định
thời hiệu khởi kiện đã hết là chưa thật sự thuyết phục.

Về xây dựng phương án bảo vệ quyền lợi khách hàng trong vụ


án dân sự, trong một vụ án dân sự, thường có rất nhiều vấn đề được
đặt ra từ thủ tục tố tụng cho đến các nội dung tranh chấp. Luật sư cần
xác định những vấn đề trọng tâm của việc bảo vệ quyền lợi cho khách
hàng. Việc đánh giá chính xác quan hệ pháp luật của vụ kiện sẽ giúp
cho Luật sư xác định được nguồn luật nào sẽ được áp dụng để giải
quyết tranh chấp, từ đó giúp cho Luật sư xác định được nhiều nội
dung khác của vụ kiện như thẩm quyền, thời hiệu, tư cách khởi kiện
và nhiều quy định khác liên quan đến quyền lợi của đương sự. Luật sư
phải xác định rõ ràng những nội dung nào cần phải làm rõ, cần hỏi
đương sự tại phiên tòa từ đó mới có thể đưa ra những câu hỏi phù hợp
giúp khách hàng dễ dàng hơn trong việc đưa ra những câu trả lời có
lợi cho quyền lợi của họ.
2.1.2. Kỹ năng hòa giải trong các tranh chấp dân sự
Hòa giải là biện pháp giải quyết mâu thuẫn hay xung đột. Hoà
giải, trước hết phải do chính các đương sự thực hiện. Hay nói cách
khác, chỉ có các đương sự mới có quyền hoà giải với nhau về tất cả

279
những vấn đề đang cần giải quyết trong vụ án, bằng ý chí và sự tự
nguyện của mình. Mọi tác động bên ngoài trái với ý muốn của các
đương sự đều bị coi là trái pháp luật và không được công nhận. Luật
sư phải luôn xác định hòa giải là một bước quan trọng không thể thiếu
được trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, là một thủ tục bắt buộc
và phải tiến hành trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, trừ những vụ án
Tòa án không được hòa giải. Trên cơ sở nhận thức được ý nghĩa, tầm
quan trọng của công tác hòa giải, căn cứ vào tính chất vụ án với những
đặc thù của án dân sự, của các quy định pháp luật áp dụng, đương sự,
đánh giá chứng cứ… cùng với kỹ năng, kinh nghiệm và sự hiểu biết
của Luật sư là cơ sở để Luật sư thực hiện tốt kỹ năng hòa giải từ
phong thái đến phương án hòa giải và xử lý tình huống trong quá trình
hòa giải; các kỹ năng chắt lọc thông tin, tổng hợp, ngôn ngữ và tư duy
của Luật sư khi tham gia hòa giải.
* Chuẩn bị tham gia hòa giải vụ án dân sự
Muốn đạt được thỏa thuận hòa giải thì công tác chuẩn bị tài liệu,
chứng cứ cho khách hàng rất quan trọng. Luật sư phải có sự chuẩn bị
chu đáo nội dung hòa giải cho khách hàng trước khi tham dự phiên
họp xét chứng cứ và hòa giải. Trước tiên, Luật sư cần tìm hiểu nguyên
nhân xảy ra tranh chấp, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, yêu
cầu và phạm vi yêu cầu các bên đương sự, những điểm đương sự có
sự thống nhất và những điểm còn mâu thuẫn. Khi chuẩn bị và đề xuất
phương án hòa giải, Luật sư cần phải có thái độ khách quan, không
thiên vị nhằm hướng các bên đương sự bàn bạc, thương lượng các vấn
đề cần giải quyết đúng quy định của pháp luật. Việc hiểu rõ nội dung
vụ án sẽ giúp Luật sư có những phương án để giải quyết vụ án, trên cơ
sở đó mà có những phương án hòa giải phù hợp với nội dung vụ án và
pháp luật. Dù một vụ án có thể có nhiều phương án hòa giải nhưng
phải phù hợp với pháp luật và nhất là phải phù hợp với ý chí của
đương sự và quy định của pháp luật. Trường hợp hòa giải không thành
cũng là cơ sở để Luật sư hiểu sâu sắc hơn vụ án từ góc nhìn đa chiều
và tham gia tranh tụng hiệu quả tại phiên tòa. Luật sư cần đặt ra vấn
đề cụ thể cho từng bước, hướng các bên đương sự vào những vấn đề
cơ bản cần thỏa thuận và dứt điểm từng nội dung một. Khi phân tích
cho khách hàng cần có thái độ cẩn trọng ghi nhận những vấn đề mà
các bên đương sự nêu ra. Giải thích thêm về pháp luật đối với những

280
quan điểm chưa phù hợp, động viên gợi mở khách hàng những vấn đề
cần nghiêm túc bàn bạc, thương lượng để có thể giải quyết cụ thể
những vấn đề các bên còn bất đồng ý kiến.
Để chuẩn bị tốt cho quá trình hòa giải, trên cơ sở yêu cầu khởi
kiện của khách hàng, ý kiến và quan điểm của các bên, đặc biệt là việc
sử dụng kết quả nghiên cứu hồ sơ, Luật sư giúp khách hàng phân tích
nguyên nhân của xung đột hay tranh chấp một cách có hệ thống để tìm
kiếm biện pháp giải quyết tranh chấp mang tính thỏa hiệp thỏa mãn
được lợi ích của tất cả các bên tranh chấp nhưng không trái với pháp
luật và đạo đức xã hội. Khác với thủ tục đối kháng, hoà giải không
quá nhấn mạnh vào việc ai đúng, ai sai hay ai thắng ai thua mà chủ
yếu tập trung vào việc tạo ra một giải pháp phù hợp và chấp nhận
được với các bên. Những phân tích đánh giá của Luật sư giúp khách
hàng hiểu rõ nhu cầu của mình, căn cứ pháp lý đối với yêu cầu của
khách hàng, những trở ngại, khó khăn trong trường hợp không tìm
được tiếng nói chung mà tiếp tục phải nhờ đến phán quyết của Tòa
án. Đây là hoạt động giúp các bên đưa ra giải pháp giải quyết mâu
thuẫn, hay xung đột mà các bên có thể chấp nhận được. Từ đó là cơ
sở để các bên có thể tiếp tục duy trì được mối quan hệ tốt đẹp thông
qua giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình. Luật sư tư vấn cho
thân chủ về giá trị pháp lý của quyết định công nhận sự thỏa thuận
của đương sự.
Quá trình chuẩn bị cho khách hàng tham gia phiên hòa giải và
phiên họp xét chứng cứ, Luật sư cần xác định trọng tâm các nội dung
chuẩn bị sau: Hiểu thực tế và nội dung cụ thể của tranh chấp; Hiểu về
nguyên nhân của tranh chấp, nguyên nhân nào là chủ yếu, nguyên
nhân nào là thứ yếu; Hiểu được lợi ích của các bên và xung đột lợi ích
của các bên; Hiểu được hậu quả pháp lý của vấn đề tranh chấp; Hiểu
được những thiệt hại hay tổn thất mà việc hoà giải không thành có thể
gây ra; Hiểu được kết quả nếu hoà giải thành và các bên có thể đạt
được thoả thuận. Trên cơ sở này, Luật sư phải xây dựng nội dung và
chương trình hòa giải, các biện pháp thay thế cần áp dụng trong các
tình huống cụ thể khi thực tiễn hòa giải phát sinh. Quá trình chuẩn bị
nội dung và phương án hòa giải, Luật sư cần phải tính đến các yếu tố
tình cảm, tâm lý, văn hóa, xã hội; các chứng cứ chứng minh yêu cầu

281
của mỗi đương sự; các quy phạm pháp luật cần được áp dụng để giải
quyết vụ án. Đặc biệt, Luật sư phải lưu ý cho khách hàng những bất
lợi do thủ tục tố tụng gây ra. Quá trình làm việc, Luật sư phải phân
tích cho khách hàng biết tình trạng pháp lý, những bất lợi và thuận lợi
của họ cũng như phía bị đơn dựa trên những tài liệu, chứng cứ đã
được thu thập và những căn cứ pháp luật được áp dụng. Trên cơ sở
phân tích những thuận lợi và bất lợi đó, cần thảo luận với khách hàng
về những yêu cầu mà khách hàng đưa ra: cần nhượng bộ yêu cầu nào
không có cơ sở pháp lý và cần giữ vững, kiên định yêu cầu có cơ sở
pháp lý chắc chắn. Nếu nhượng bộ thì nhượng bộ ở mức độ nào, nếu
kiên định thì kiên định đến mức nào? Khi phân tích, Luật sư phải
hướng cho khách hàng thấy được lợi ích của việc nhượng bộ so với
cương quyết giữ nguyên ý định hoặc mong muốn ban đầu của mình.
Như vậy, việc chuẩn bị cho khách hàng tham gia hòa giải cần có giải
pháp toàn diện không chỉ chuẩn bị tài liệu, chứng cứ cho khách hàng
mà còn phải chuẩn bị lý lẽ, cách lập luận, cũng như chuẩn bị về tâm lý
cho khách hàng.
Lưu ý khi tham gia hòa giải một số vụ án dân sự phổ biến,
điển hình:
* Tranh chấp thừa kế là một loại tranh chấp dân sự thường xảy
ra giữa những người thân trong gia đình, có mối quan hệ huyết thống
với nhau. Nguyên nhân tranh chấp trong mỗi vụ án là khác nhau. Vì
vậy, đây là loại tranh chấp dân sự phức tạp, đòi hỏi Luật sư phải
nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án cũng như những diễn biến thực tế trong quá
trình giải quyết vụ án để xác định được toàn bộ những vấn đề liên
quan đến vụ án với những đặc thù của vụ án về tố tụng và nội dung.
Sau khi nắm vững chi tiết từng vấn đề của vụ án, Luật sư dựa trên mối
quan hệ huyết thống giữa các đương sự và các quy định của pháp luật
về thừa kế cũng như kinh nghiệm sống, sự hiểu biết về tâm lý con
người, phong tục tập quán, truyền thống ở địa phương để khơi gợi
những tình cảm tốt đẹp của truyền thống gia đình Việt Nam, nhằm
giúp các đương sự bình tĩnh cùng nhau bàn bạc thoả thuận về các
phương án phân chia di sản thừa kế. Luật sư cũng cần phân tích cho
khách hàng thấy được những điều kiện về kinh tế và hoàn cảnh sống
của từng thừa kế để họ có thể nhường nhịn, nhân nhượng với nhau
trong việc thoả thuận chia di sản thừa kế.

282
Trường hợp tài sản thừa kế cần phân chia là nhà và đất ở thì Luật
sư cần căn cứ vào sơ đồ, diện tích, vị trí của nhà và đất để phân tích
cho khách hàng thấy rõ nhu cầu thực tế sử dụng của các thừa kế, giúp
cho khách hàng và đương sự phía đối lập có hướng thoả thuận vị trí sử
dụng thích hợp, tránh xáo trộn nhiều ảnh hưởng đến cuộc sống của các
thừa kế.
Thông thường, trong việc giải quyết các tranh chấp thừa kế
thường có nhiều đương sự tham gia, nội dung việc tranh chấp phức
tạp, bao gồm nhiều quan hệ pháp luật đan xen như quan hệ tặng cho,
mua bán, nhượng, đổi... Vì vậy, Luật sư cần xem xét từng quan hệ
pháp luật riêng biệt, từng yêu cầu của đương sự, từng vấn đề cần giải
quyết của vụ án làm cơ sở hướng cho khách hàng đi đến thoả thuận về
từng vấn đề, từng yêu cầu, từng quan hệ pháp luật trong vụ án. Trong
hòa giải vụ án thừa kế Luật sư cũng cần lưu ý đề xuất Tòa án lựa chọn
thời điểm tiến hành hòa giải phù hợp để tiến hành hoà giải sau khi đã
hiểu rõ được nguyên nhân, mức độ tranh chấp, mong muốn, nguyện
vọng của các bên; tránh nóng vội hoà giải ngay khi tranh chấp giữa
các đương sự mới xảy ra, tâm lý các bên còn căng thẳng khó đi đến
thoả thuận.
Trường hợp hoà giải thành, Luật sư cần tư vấn cho khách hàng
thể hiện ý chí trong nội dung biên bản thỏa thuận. Đặc biệt biên bản
cần ghi cụ thể, chi tiết từng loại tài sản được phân chia cho từng kỷ
phần thừa kế. Đối với việc phân chia nhà và quyền sử dụng đất ở cần
ghi rõ số đo cũng như sơ đồ vị trí cụ thể để tránh nhầm lẫn hay bỏ sót
khi Tòa án ra quyết định công nhận sự thoả thuận cho các đương sự.
* Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là loại
tranh chấp khá đa dạng, thể hiện ở nhiều yêu cầu bồi thường rất khác
nhau, chẳng hạn yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản do hành vi xây
dựng trái phép gây ra, hoặc yêu cầu bồi thường thiệt hại về tính mạng,
sức khoẻ, tài sản do vi phạm an toàn giao thông, do hành vi cố ý gây
thương tích, làm nhục, vi phạm quyền tác giả... gây ra. Để tiến hành
hoà giải có kết quả loại tranh chấp này, Luật sư cần phân tích cho
khách hàng hiểu rõ những vấn đề của vụ án dựa trên các căn cứ để xác
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, đó là có thiệt hại xảy ra; Mức
độ thiệt hại đã xảy ra như thế nào, thiệt hại được xác định bao gồm cả
thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Cụ thể những thiệt hại về

283
vật chất là những tổn thất về tài sản (bị mất, bị hư hỏng); Những chi
phí hợp lý, cần thiết để ngăn chặn, hạn chế hoặc khắc phục thiệt hại
(như tiền thuốc, tiền điều trị, tiền mai táng phí, tiền sửa chữa tài sản);
Những thu nhập bị mất hoặc bị giảm sút (của người bị thiệt hại hoặc
người chăm sóc người bị thiệt hại nếu có)...; Có hành vi trái pháp luật
của người gây thiệt hại; Hành vi gây thiệt hại đã vi phạm quy định nào
của pháp luật; Người gây thiệt hại có lỗi: Người gây thiệt hại có lỗi do
cố ý hay vô ý, lỗi hoàn toàn hay chỉ có lỗi một phần; người bị thiệt hại
có lỗi gì không, mức độ ra sao. Nếu có nhiều người gây thiệt hại thì
mức độ lỗi của từng người như thế nào... Đó chính là cơ sở để xác
định trách nhiệm bồi thường toàn bộ hay một phần theo tỷ lệ lỗi tương
ứng của từng người trong từng trường hợp cụ thể; Có mối quan hệ
nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật; Nguyên nhân xảy ra
thiệt hại có phải do hành vi trái pháp luật của người gây thiệt hại
không? Nếu thiệt hại xảy ra không phải là kết quả tất yếu của hành vi
trái pháp luật mà là do nguyên nhân khách quan khác như trường hợp
bất khả kháng thì không phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Quá trình nghiên cứu hồ sơ Luật sư cần xem xét kỹ kết quả của
giám định, thẩm định của các cơ quan chuyên môn như y tế, kỹ thuật,
xây dựng... để tư vấn cho khách hàng biết về mức độ thiệt hại, mức độ
lỗi của mình, giúp họ suy nghĩ, cân nhắc đi đến thoả thuận mức bồi
thường. Khi hòa giải vụ án bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Luật
sư cần phân tích cho khách hàng về nguyên tắc bồi thường, đó là thiệt
hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời song căn cứ vào điều
kiện, hoàn cảnh thực tế các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường,
hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một
công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần. Trường
hợp người gây thiệt hại do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả
năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình thì người gây thiệt hại có
thể được giảm mức bồi thường.
* Tranh chấp hợp đồng: Hợp đồng là căn cứ pháp lý làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia cam kết. Việc thay đổi,
chấm dứt quyền và nghĩa vụ không tuân theo những điều các bên đã
cam kết, thoả thuận sẽ dẫn đến tranh chấp. Những tranh chấp có thể
phát sinh từ các loại hợp đồng như: Hợp đồng mua bán tài sản; hợp
đồng thuê tài sản, tặng cho, vay tài sản; hợp đồng dịch vụ; hợp đồng

284
vận chuyển... Tranh chấp về hợp đồng là loại tranh chấp dân sự tương
đối phổ biến tại Toà án. Khi hoà giải loại tranh chấp hợp đồng, Luật
sư cần nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án để xác định được lợi ích then chốt
của các đương sự sau các yêu cầu hoặc quan điểm pháp lý để xây
dựng các phương án hòa giải phù hợp. Luật sư cần bám sát vào những
điều trong hợp đồng các bên đã cam kết và những quy định tương ứng
của pháp luật để phân tích và thuyết phục khách hàng cũng như đương
sự phía đối lập tiếp tục thực hiện đúng những điều họ đã tự nguyện
cam kết, đồng thời cũng giúp các bên bàn bạc, tháo gỡ những khó
khăn trong quá trình thực hiện hợp đồng. Trường hợp các đương sự
thoả thuận huỷ hợp đồng thì cần phân tích để khách hàng có thể đi đến
thoả thuận giải quyết những hậu quả của việc huỷ hợp đồng.
Trường hợp tranh chấp phát sinh từ hợp đồng trái pháp luật hoặc
trái đạo đức xã hội thì đây là hợp đồng vô hiệu nên Luật sư cần giải
thích để khách hàng hiểu được các điều kiện có hiệu lực của hợp
đồng, điều kiện pháp lý để công nhận hợp đồng. Đối với các tranh
chấp này, Luật sư cần lưu ý không hòa giải để các bên tiếp tục thực
hiện hợp đồng nhưng các bên hoàn toàn có quyền thỏa thuận về việc
giải quyết hậu quả của hợp đồng. Vì vậy, các căn cứ pháp lý về giải
quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu Luật sư cần giải thích cho khách
hàng hiểu rõ để họ tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết
các vấn đề về hoàn trả, bồi thường thiệt hại (nếu có).
* Kỹ năng tham gia hòa giải tranh chấp dân sự
Do tính chất linh hoạt và nhạy cảm của hoạt động hòa giải trong
TTDS, đặc biệt ở lĩnh vực dân sự mà ngoài việc có kiến thức sâu rộng
về pháp luật, Luật sư phải nắm chắc nội dung vụ án, xác định được
đầy đủ các tình tiết của vụ án, nguyên nhân, mức độ mâu thuẫn của
các đương sự. Đồng thời đòi hỏi Luật sư phải có những hiểu biết nhất
định về tâm lý con người, tâm lý từng lứa tuổi, từng hoàn cảnh, giới
tính mà có phương pháp giải thích và thuyết phục thích hợp. Thông
thường tranh chấp đã phải đưa đến yêu cầu Tòa án giải quyết thì mức
độ “căng thẳng” đã cao, khó có thể thương lượng nhanh được. Hiệu
quả của hoạt động hòa giải không những chỉ phụ thuộc vào sự hoàn
thiện của các quy định của pháp luật mà còn phụ thuộc vào kỹ năng,
phương pháp và kinh nghiệm của những người tiến hành hòa giải,

285
người tham gia hòa giải. Luật sư có thể sử dụng một số phương pháp,
kỹ năng trong hoạt động hòa giải tranh chấp dân sự như:
Thứ nhất, kỹ năng tiếp xúc, lắng nghe khách hàng và đương sự
phía đối lập trình bày. Để có thể nắm bắt đầy đủ và chính xác yêu cầu
của khách hàng cũng như các bên đương sự trong vụ án, nội dung
tranh chấp, mối quan hệ pháp luật phát sinh tranh chấp, nguyên nhân,
mức độ mâu thuẫn, quan điểm của các bên, Luật sư cần đặt mình vào
hoàn cảnh của đương sự để hiểu họ và cảm thông, chia sẻ với họ. Với
thái độ điềm đạm, chân tình, biểu hiện sự tôn trọng thông qua việc
lắng nghe đương sự trình bày để tạo sự tin tưởng, tìm hiểu được bản
chất của vấn đề để có thể đề xuất hướng giải quyết hợp tình, hợp lý,
đúng quy định của pháp luật. Việc lắng nghe của Luật sư nhằm mục
đích thu thập thông tin, nghĩa là nắm được và để hiểu đúng, đầy đủ nội
dung mà đương sự muốn trình bày. Trên cơ sở biết được nhu cầu, mục
đích, nguyện vọng của đương sự mà có hướng phản hồi, hướng hành
động tiếp theo nhằm đáp ứng mong muốn của đương sự.
Lắng nghe là một kỹ năng cần thiết và quan trọng của Luật sư.
Tuy nhiên, kỹ năng lắng nghe cần phải chú ý tới hai thái cực. Một mặt
không để đương sự nói dài vượt quá nội dung cần nghe để chắt lọc
thông tin hoà giải. Hai là, không nên và không được cắt ngang lời
trình bày của họ hoặc đưa ra quan điểm bình luận về phần họ trình bày
làm cho việc trình bày của đương sự lộn xộn, không logíc và bản thân
đương sự cảm thấy mình không được tôn trọng, đụng chạm tới lòng tự
tôn của đương sự. Luật sư cần lưu ý khuyên khách hàng tạo cơ hội,
điều kiện, môi trường đối thoại cởi mở, thoải mái để các bên tranh
chấp diễn đạt hết suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của họ; đừng phản ứng
trước những lời tức giận của bên đối phương; phải biết tự kiềm chế,
yên lặng lắng nghe, để hiểu được mâu thuẫn thực sự. Phương pháp
chuẩn mực để lắng nghe có hiệu quả là tập trung chú ý vào những điều
các bên đang nói, gợi ý họ nói rõ ràng, chính xác những ý nghĩ của họ,
diễn đạt lại đúng những sự kiện đã xảy ra và yêu cầu nhắc lại những
điểm gì còn mập mờ, chưa rõ.
Thông thường, các bên tranh chấp thường có tâm lý là người
nghe cũng đã nắm được nội dung vụ việc như chính bản thân mình,
nên đối tượng thường trình bày theo ý chủ quan và có thể bỏ qua
nhiều chi tiết mà họ cho là không cần thiết hoặc những bằng chứng

286
không có lợi cho họ. Vì vậy, Luật sư cần nghiên cứu đặt ra những câu
hỏi đơn giản để khách hàng làm rõ những tình tiết có liên quan đến
bản chất của vụ việc và gợi ý để đối tượng trình bày đúng bản chất vụ
việc một cách vô tư, khách quan, không thiên vị, chủ quan.
* Kỹ năng giải thích, thuyết phục, hướng dẫn khách hàng tự
nguyện hòa giải tranh chấp
Khi khách hàng hiểu được về cơ bản họ tranh chấp cái gì, mối
quan hệ pháp luật mà họ còn có nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau
mà chưa thể thống nhất được, những thiệt hại mà các bên phải gánh
chịu, tác hại của sự căng thẳng không cần thiết của các bên. Sau khi
lắng nghe khách hàng và các đương sự trong vụ án trình bày, Luật sư
cần đứng ở góc độ khách quan để phân tích nguyên nhân, hoàn cảnh,
thực trạng tranh chấp, đồng thời viện dẫn, phân tích, giải thích các quy
định của pháp luật có liên quan tới việc giải quyết vụ án để khách
hàng tự đối chiếu với quy định của pháp luật, từ đó họ tự xác định
đúng, sai trong hành vi mà họ thực hiện và cũng để họ liên hệ đến
quyền và nghĩa vụ của mình mà tự nguyện đi đến thỏa thuận với nhau
về việc giải quyết vụ án. Đồng thời Luật sư cần làm rõ để đương sự
hiểu rõ được việc hòa giải thành có ý nghĩa, tác dụng quan trọng như
thế nào, nếu hòa giải thành công thì vụ án được giải quyết nhanh gọn,
giữ gìn và củng cố được mối đoàn kết, ổn định xã hội, tiết kiệm chi
phí mở phiên tòa và hạn chế tối đa chi phí về thời gian và tiền bạc cho
chính các bên tranh chấp, khả năng thi hành án cao. Luật sư cần khơi
dậy lòng nhân ái, tình người, lòng vị tha, độ lượng, nhắc nhở, định
hướng để các bên đương sự thay đổi cách nhìn, cách nghĩ một cách có
tình, có lý từ đó giúp đương sự có thể nhìn về một hướng.
*Kỹ năng giao tiếp trong hoà giải
Kỹ năng giao tiếp là tất cả các yếu tố từ ánh mắt nhìn, cử chỉ
hành động, trạng thái tâm lý, ngôn ngữ ứng xử, sự hiểu biết và nắm
vững kiến thức chuyên môn của người luật sư…Tất cả những yếu tố
đó hợp thành tạo nên những ấn tượng về sự cởi mở và niềm tin cho
các bên hướng tới sự thoả thuận giải quyết tranh chấp. Kiến thức về
giao tiếp được coi là yếu tố quan trọng quyết định thành công của
hòa giải. Hoạt động giao tiếp sẽ truyền tải và nêu bật được các
nguyên tắc trong hòa giải. Luật sư phải hiểu các kỹ năng giao tiếp
cũng như việc sử dụng một cách hiệu quả các kỹ năng này trong

287
phiên hòa giải góp phần giúp khách hàng và đương sự phía đối lập
tìm được tiếng nói chung. Đồng thời, cũng cần xác định rõ các trách
nhiệm mà mình cần thực hiện trong quá trình hòa giải cũng như thái
độ hòa giải khách quan, tránh bênh vực hoặc cảm tình, thiên vị cho
một bên đương sự nào, phải nhiệt tình khuyên giải, vận động,
thuyết phục và kiên trì hòa giải giữa các bên đương sự. Nếu thấy
còn khả năng hòa giải được thì nên tiến hành hòa giải nhiều lần
nhằm tạo điều kiện để các đương sự có thời gian suy nghĩ, có được
quyết định hợp lý. Một số kỹ năng giao tiếp trong hoà giải mà Luật
sư cần phải có là sự thư thái, tự tin; Sâu sắc nhưng chia sẻ, thể hiện
sự hiểu biết sâu sắc về kiến thức xã hội có liên quan đến mâu thuẫn
cần phải hoà giải giữa hai bên nhưng đồng thời cũng thể hiện sự
chia sẻ về những tổn thất tâm lý mà mỗi bên đang phải chịu đựng;
Mềm dẻo, quyết đoán đúng thời điểm, luôn mềm dẻo trong giao tiếp
để lắng nghe những điều mà bình thường họ không thể thổ lộ với
người thứ ba, chọn đúng thời điểm thích hợp để tác động đến suy
nghĩ, tâm tư của mỗi bên để định hướng họ; Vô tư và thân thiện,
bộc lộ cử chỉ để các bên có thiện cảm với Luật sư; Tập trung vào
mâu thuẫn giữa các bên, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn,
mâu thuẫn từ một phía hay cả hai phía, mức độ mâu thuẫn. Những
điểm chính của nội dung mâu thuẫn, điểm mâu thuẫn nào là quan
trọng, nếu tháo gỡ được mâu thuẫn này sẽ là chìa khoá mở ra cánh
cửa của sự thoả thuận giải quyết vụ án. Tập trung vào lợi ích chung,
khi hoà giải, có thể tuỳ mỗi trường hợp mà mỗi đương sự có những
cử chỉ, lời nói khác nhau: một bên chịu đựng, một bên lấn át; một
bên hung hãn, một bên dịu ngọt; một bên thô lỗ, một bên tế nhị; cả
hai bên to tiếng với nhau… nhưng lợi ích ở đây là thông qua hành
vi của họ để tìm được mục đích, ý định của họ để đưa họ đến điểm
thống nhất chung. Bên cạnh đó, để tìm phương án giải quyết mâu
thuẫn, Luật sư nên tư vấn cho khách hàng lựa chọn phương án để
giải quyết mâu thuẫn trong phiên hoà giải phải nhanh, nhạy, lựa
chọn phương án chung cho cả hai hoặc tổng hợp từ hai cách lựa
chọn của hai bên thành phương án chung hoặc từ phương án của
một bên nâng lên thành phương án chung để đạt được mục đích hòa
giải. Thỏa thuận về các nguyên tắc, lựa chọn nguyên tắc chung là
dựa trên các giá trị lợi ích chung mà cả hai bên đương sự đều quan
tâm đến. Vì vậy, nguyên tắc này sẽ giữ vai trò chủ đạo mà theo đó

288
các phương án giải quyết sẽ xoay quanh các nguyên tắc này nhằm
đạt được mục đích hoà giải. Kỹ năng chắt lọc và tổng hợp, những
thông tin mà Luật sư tiếp nhận từ các đương sự phải được chắt lọc
và tổng hợp đúng với ý định mà họ đã trình bày. Điều này giúp cho
Luật sư chủ động lựa chọn phương án giúp họ giải quyết vấn đề
mâu thuẫn một cách có hiệu quả, đạt kết quả tích cực về lợi ích
chung của các bên và cũng là mục đích của phiên hoà giải.
* Tham gia phiên họp xét chứng cứ và hòa giải
Với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
đương sự, các Luật sư có quyền tham dự hòa giải. Trong hòa giải
trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, Toà án chủ yếu mong muốn các
đương sự thỏa thuận được với nhau về các quyền và nghĩa vụ của họ
trong vụ án trên cơ sở đó Toà án có thể ra được quyết định công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự, tiết kiệm được thời gian và giúp các
đương sự sớm hàn gắn được những bất đồng do quá trình tranh chấp
gây nên. Trong khi tham dự hòa giải, Luật sư bất cứ lúc nào cũng có
thể tham vấn cho khách hàng của mình để họ đưa ra được những yêu
cầu hoặc nhượng bộ đúng pháp luật, đặc biệt là đưa ra các yêu cầu phù
hợp với những gì mà Luật sư đã thỏa thuận với khách hàng của mình
trước đó. Không nên để khách hàng tự quyết định mọi vấn đề mà nên
thống nhất với khách hàng là trước khi họ quyết định về bất kỳ một
vấn đề nào cũng nên trao đổi với Luật sư. Trong những trường hợp có
quan điểm không thống nhất về cùng một vấn đề thì quyền quyết định
vẫn là của khách hàng nhưng trước khi khách hàng quyết định, Luật
sư vẫn nên trình bày kỹ các lý lẽ, quan điểm, các phương án của mình
cùng với việc phân tích những lợi thế và bất lợi của các phương án mà
Luật sư đề xuất để khách hàng xem xét.
Đối với trường hợp khách hàng uỷ quyền để thay mặt họ tham
gia hòa giải (trừ các trường hợp mà pháp luật quy định các đương sự
không được ủy quyền) thì Luật sư phải xuất trình hợp đồng uỷ quyền
giữa khách hàng với Luật sư. Khi được ủy quyền thì Luật sư được
thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong phạm vi được ủy quyền để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng. Tuy nhiên đối với
những điểm mới phát sinh trong quá trình hòa giải mà Luật sư và
khách hàng chưa thống nhất với nhau thì trước khi quyết định Luật sư
nên trao đổi qua với khách hàng.

289
Quá trình tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải, Luật sư cần giúp khách hàng tập
hợp lại các tài liệu chứng cứ và hướng dẫn khách hàng cung cấp
chứng cứ minh họa cho giải trình của mình. Khi trình bày các căn
cứ và chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của khách hàng mình, Luật
sư cần lưu ý:
- Các chứng cứ cần sử dụng khi hòa giải không khác gì các
chứng cứ của toàn bộ vụ án.
- Mục đích sử dụng chứng cứ trong giai đoạn hòa giải không
phải để đấu tranh với đối phương mà mục đích để thuyết phục đối
phương hiểu rằng, cần thiết phải thỏa thuận và nhượng bộ nhau để
giải quyết nhanh chóng và dứt điểm tranh chấp mà không cần đưa ra
xét xử.
- Cách sử dụng chứng cứ cần thể hiện sự thiện chí của người sử
dụng, tạo không khí thân thiện, nhượng bộ nhưng cương quyết và đều
khẳng định tính đúng đắn, tính thuyết phục của các yêu cầu hay phản
bác mà mình đưa ra. Tránh đưa các chứng cứ gây chia rẽ, không thiện
chí hoặc làm cho đối phương hiểu sai thiện chí của mình.
- Các lý lẽ, cách lập luận cho khách hàng cần được trình bày
khoa học trên cơ sở viện dẫn các chứng cứ chứng minh một cách
logic, khoa học và có tính thuyết phục.
Quá trình tham gia hòa giải, Luật sư khuyến khích cho các bên
xác định một cách rõ ràng mục đích và yêu cầu hòa giải để có những
hành động và ứng xử thiện ý. Những phân tích đánh giá về các yêu
cầu dựa trên các thông tin xác thực liên quan đến việc đưa ra các thỏa
thuận. Các bên cần đặt vị trí của mình vào địa vị của người khác trong
việc chuẩn bị đưa ra các quyết định, từ đó tìm được sự đồng thuận,
giảm thiểu rủi ro và xung đột trong quá trình hòa giải. Quá trình tham
gia hòa giải, Luật sư đồng thời cũng phải bày tỏ rõ thái độ không cổ
vũ cho những hành động không hợp tác, có ý định lừa dối và đưa ra
những hứa hẹn không mang tính thực tiễn.
Luật sư cần lưu ý giúp khách hàng kiểm tra biên bản hòa giải, tư
vấn cho khách hàng về điều kiện thủ tục, hiệu quả pháp lý của quyết
định công nhận hòa giải thành, cũng như các thủ tục tiếp theo trong
trường hợp hòa giải không thành.

290
2.2. Kỹ năng đặc thù chuẩn bị tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ
án kinh doanh, thương mại
2.2.1. Kỹ năng tham gia hòa giải của Luật sư trong vụ án kinh
doanh, thương mại
Trong quá trình giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương
mại, việc các đương sự - là các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án có ý nghĩa
quan trọng.
Một là, phương án hòa giải thành nếu các bên thỏa thuận được
về việc giải quyết tranh chấp là giải pháp dựa trên cơ sở lợi ích của
các bên và phù hợp với cả hai phía. Do đó, không có “bên thắng, bên
thua” mà cả hai bên “đều thắng”, quan hệ kinh doanh của các bên vẫn
có khả năng duy trì trong tương lai. Trong kinh doanh, quan hệ hợp
tác, duy trì đối tác kinh doanh để phát triển giữ vai trò quan trọng, do
đó, việc các bên hòa giải được với nhau về tranh chấp đã phát sinh sẽ
giúp các bên duy trì được mối quan hệ bạn hàng vốn có.
Hai là, nếu các bên tranh chấp thỏa thuận được với nhau về việc
giải quyết vụ án trong buổi hòa giải sẽ giúp các bên giữ được uy tín kinh
doanh và bí mật kinh doanh (nếu có). Một trong những nguyên tắc xét xử
vụ án dân sự nói chung và kinh doanh, thương mại nói riêng là xét xử
công khai, trong đó phiên tòa được xét xử công khai. Uy tín kinh doanh
là sự tín nhiệm, sự tin tưởng của đối tác trong quan hệ kinh doanh. Các
bên tranh chấp kinh doanh thông thường là các tranh chấp về hợp đồng -
là cam kết của các bên và sự vi phạm hợp đồng là một trong những biểu
hiện của mất uy tín trong kinh doanh. Trong sự phát triển của nền kinh tế
hiện nay thì giữ được uy tín kinh doanh giúp doanh nghiệp phát triển bền
vững và tạo ra các cơ hội trong tương lai. Với bí mật kinh doanh (còn gọi
là bí mật thương mại) là những thông tin của doanh nghiệp liên quan đến
kỹ thuật như công thức sản xuất, cấu tạo kỹ thuật… hoặc thông tin liên
quan đến thương mại như danh sách khách hàng, các chiến lược tiếp thị,
quảng cáo… các bí mật kinh doanh khi áp dụng vào hoạt động kinh
doanh sẽ tạo ra cho người nắm giữ lợi thế hơn. Việc giải quyết vụ án tại
phiên tòa có thể có sự tham gia của nhiều cá nhân, tổ chức quan tâm hoặc
của các cơ quan thông tin đại chúng, dẫn đến các thông tin về doanh
nghiệp hoặc các bí mật kinh doanh bị công khai gây ảnh hưởng không
nhỏ đến hoạt động của doanh nghiệp.

291
Ba là, việc giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng hòa giải giúp
tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Trong giai đoạn Tòa
án chuẩn bị xét xử, sau 7 ngày kể từ ngày Tòa án lập biên bản hòa
giải thành ghi nhận các bên tranh chấp thỏa thuận thống nhất với
nhau về việc giải quyết vụ án, Tòa án sẽ ra quyết định công nhận sự
thỏa thuận của các đương sự. Quyết định công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay, không bị kháng cáo,
kháng nghị phúc thẩm. Doanh nghiệp không mất thời gian vào việc
giải quyết tranh chấp ở những lần Tòa án triệu tập hoặc tham gia
phiên tòa sơ thẩm và giải quyết vụ án tại cấp phúc thẩm. Việc hòa
giải thành trước khi mở phiên tòa thì các bên chỉ phải chịu 50% mức
án phí sơ thẩm. Các chi phí được cắt giảm như chi phí đi lại, lưu trú
và các chi phí phát sinh khác.
Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng của hòa giải
trong các tranh chấp kinh doanh, thương mại như trên mà Luật sư phải
xác định hòa giải không chỉ là “thủ tục”, là “hình thức” mà phải tích
cực, chủ động hòa giải các bên tranh chấp.
* Những vấn đề Luật sư cần lưu ý khi tham gia hòa giải các
tranh chấp kinh doanh, thương mại
Trước khi Tòa án triệu tập phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp
cận, công khai chứng cứ và hòa giải vụ án kinh doanh, thương mại,
Luật sư cần thực hiện các công việc được liệt kê dưới đây. Kinh
nghiệm cho thấy rằng chuẩn bị tốt công việc ở các bước này sẽ giúp
Luật sư và khách hàng chủ động trong việc hòa giải tại Tòa án.
Một là, thu thập và tìm hiểu thông tin về phía bên kia tranh chấp -
doanh nghiệp và người đại diện cho doanh nghiệp tham gia hòa giải.
Khác với các tranh chấp dân sự thông thường khác, trong các tranh
chấp kinh doanh, thương mại, chủ thể của tranh chấp thông thường là
các loại hình doanh nghiệp và việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố
tụng của đương sự là doanh nghiệp thông qua người đại diện hợp pháp
của doanh nghiệp. Luật sư tìm hiểu các thông tin về doanh nghiệp như
ngành nghề kinh doanh, thực trạng hoạt động kinh doanh hiện nay,
người đại diện theo pháp luật, mối quan hệ giữa các bên tranh chấp
như thế nào… từ đó nhận diện được điểm mạnh, điểm yếu của doanh
nghiệp khi tham gia hòa giải. Việc tìm hiểu người đại diện hợp pháp

292
của doanh nghiệp tham gia tố tụng là tìm hiểu các thông tin về con
người cụ thể này là ai, chức vụ trong doanh nghiệp, có thẩm quyền
quyết định về tranh chấp đến mức độ nào, tính cách của cá nhân đó...
Trên cơ sở các thông tin thu thập được, Luật sư sẽ có chiến lược
thương lượng và đưa ra phương án hòa giải phù hợp.
Hai là, thu thập chứng cứ, sao chụp những tài liệu có trong hồ sơ
vụ án để nghiên cứu, nắm bắt nội dung vụ tranh chấp, nguyên nhân
của vụ tranh chấp.
Ba là, nghiên cứu hồ sơ vụ tranh chấp. Trên cơ sở hồ sơ vụ án,
Luật sư phân tích đánh giá chứng cứ, nghiên cứu, xem xét các chứng
cứ trên cơ sở tham chiếu các quy định của pháp luật liên quan đến vụ
tranh chấp.
Các tranh chấp về kinh doanh, thương mại chủ yếu là các tranh
chấp về hợp đồng trong kinh doanh, sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ tranh
chấp, Luật sư phải xác định được:
- Bản chất của quan hệ hợp đồng;
- Hợp đồng có hiệu lực pháp luật hay không;
- Xác định có hay không có hành vi vi phạm hợp đồng;
- Bên bị vi phạm đã khiếu nại trong thời hạn khiếu nại hay chưa;
- Thời hiệu khởi kiện còn hay hết;
- Hành vi vi phạm có thuộc trường hợp được miễn trách
nhiệm không.
Trên cơ sở đó, Luật sư nhận diện và đánh giá được điểm mạnh,
điểm yếu của các bên, nguyên nhân dẫn đến tranh chấp.
Bên cạnh đó, Luật sư cần tìm hiểu yêu cầu và mong muốn của
khách hàng đối với quan hệ tranh chấp này. Mục tiêu tối đa, mục tiêu
cân bằng lợi ích và mục tiêu tối thiểu mà khách hàng mong muốn như
thế nào.
Ngoài ra, Luật sư cũng phải nắm bắt được lợi ích các bên hướng
tới là gì, tâm tư nguyện vọng, thiện chí hòa giải của mỗi bên để xác
định phương án và mức độ hòa giải.

293
Luật sư cũng phải xác định phạm vi hòa giải để đề xuất phương
án hòa giải cho khách hàng. Trong việc giải quyết tranh chấp về kinh
doanh, thương mại tại Tòa án, có những vụ án không được tiến hành
hòa giải theo quy định tranh chấp giữa các bên có rơi vào các trường
hợp quy định tại Điều 206 BLTTDS năm 2015 để xác định Thẩm
phán có được hòa giải vụ án này không. Đó là các vụ án sau:
- Yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước cũng là chủ đầu tư bỏ vốn
thành lập hoặc tham gia góp vốn vào các doanh nghiệp khác với mục
tiêu lợi nhuận hoặc để thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội. Theo
quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014, trường hợp nhà nước đầu
tư toàn bộ vốn điều lệ cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp này gọi là
doanh nghiệp nhà nước. Khi một doanh nghiệp nhà nước tham gia vào
hoạt động kinh doanh và bị đối tác vi phạm hợp đồng. Trường hợp thứ
hai là trường hợp nhà nước góp vốn với các nhà đầu tư khác để thành
lập công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Doanh nghiệp có
quan hệ kinh doanh với các đối tác khác và bị đối tác vi phạm hợp
đồng dẫn đến thiệt hại phát sinh. Doanh nghiệp đã khởi kiện ra Tòa án
có thẩm quyền với yêu cầu bồi thường thiệt hại. Những trường hợp
này có phải là yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà
nước không và có được hòa giải những vụ án này không.
Trước đây, theo hướng dẫn của Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP
ngày 03/12/2012 hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai
“Thủ tục giải quyết các vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” phân biệt 2
trường hợp:
(i) Trường hợp tài sản của nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp
nhà nước do nhà nước thực hiện quyền sở hữu thông qua cơ quan có
thẩm quyền thì khi có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến loại tài sản
này, Tòa án không được hòa giải để các bên đương sự thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết vụ án. Đây có thể hiểu là các doanh nghiệp
nhà nước do nhà nước chiếm 100% vốn điều lệ.
(ii) Trường hợp tài sản của nhà nước được nhà nước đầu tư vào
doanh nghiệp nhà nước, góp vốn trong các doanh nghiệp liên doanh
có vốn đầu tư của các chủ sở hữu khác theo quy định của Luật Doanh
nghiệp, Luật Đầu tư tại Việt Nam mà doanh nghiệp được quyền tự chủ

294
chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản và chịu trách nhiệm trước
nhà nước đối với tài sản đó trong hoạt động sản xuất, kinh doanh thì
khi có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản đó, Tòa án tiến
hành hòa giải để các bên đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết vụ án theo thủ tục chung.
Tuy nhiên, khi xem xét ý nghĩa của quy định những vụ án không
được hòa giải và yêu cầu khách quan của quan hệ kinh tế thì hướng
dẫn trên của Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 3/12/2012 là
không phù hợp. Một trong những yếu tố đóng vai trò quyết định tạo
nên năng lực chủ thể đó là tính độc lập về tài sản. Tài sản thuộc sở
hữu nhà nước khi tham gia vào quan hệ kinh tế thì chủ thể quản lý, sử
dụng tài sản đó phải có những quyền năng nhất định đối với tài sản, đó
là quyền tự chủ đối với tài sản của doanh nghiệp. Theo khoản 8 Điều 7
Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định doanh nghiệp có quyền chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của doanh nghiệp. Do đó, khi có tranh
chấp phát sinh đến yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại liên quan đến tài
sản này thì doanh nghiệp nhà nước cũng có quyền thỏa thuận đối với
phần tài sản bị thiệt hại, phát huy những lợi ích có được từ việc hòa
giải thành.
- Tòa án không được hòa giải vụ án dân sự phát sinh từ giao
dịch trái pháp luật (giao dịch vi phạm điều cấm của pháp luật) hoặc
trái đạo đức xã hội, nếu việc hòa giải nhằm mục đích để các bên
tiếp tục thực hiện các giao dịch đó. Trường hợp các bên chỉ có tranh
chấp về việc giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu do trái pháp
luật hoặc trái đạo đức xã hội, thì Tòa án vẫn phải tiến hành hòa giải
để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết hậu quả của
giao dịch đó. Đối với các hợp đồng trong kinh doanh, Luật sư cần
lưu ý nội dung hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật là việc các
bên, thông qua hợp đồng, thỏa thuận với nhau để thực hiện những
nội dung công việc pháp luật cấm thực hiện. Ví dụ: mua bán hàng
cấm kinh doanh, cung ứng dịch vụ cấm thực hiện, vận chuyển hàng
cấm lưu thông... Như vậy, để xác định nội dung hợp đồng có vi
phạm điều cấm của pháp luật không thì Luật sư phải xem xét điều
khoản đối tượng của hợp đồng xem các bên có thỏa thuận thực hiện
công việc bị cấm trong các văn bản pháp luật không? Các quy phạm
cấm đoán này có thể tìm thấy trong nhiều văn bản khác nhau như

295
Nghị định quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ
cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện;
những quy định trong Luật Phá sản năm 2014 cấm doanh nghiệp bị
mở thủ tục phá sản thực hiện một số hành vi nhất định... Đối với
những tranh chấp phát sinh từ giao dịch vi phạm điều cấm của pháp
luật thì Luật sư không thể đưa ra các phương án hòa giải để các bên
tiếp tục thực hiện hợp đồng bởi vì các bên không thể được hưởng
những lợi ích có được từ hành vi trái pháp luật. Luật sư chỉ có thể
tư vấn cho khách hàng phương án hòa giải để các bên giải quyết
hậu quả của giao dịch.
Bốn là, xây dựng các phương án hòa giải và phân tích, đánh giá
ưu điểm, khuyết điểm của mỗi giải pháp cho khách hàng.
2.2.2. Đề xuất Tòa án ra các quyết định tố tụng
Luật sư phải kịp thời có những đề xuất với Tòa án trong việc ra
quyết định tố tụng như quyết định tạm đình chỉ khi cần thiết theo quy
định tại Điều 214 BLTTDS năm 2015. Quyền yêu cầu Tòa án ra quyết
định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án là quyền của đương sự và
quyền của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp nhưng Tòa án chỉ
ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có một trong các
căn cứ quy định tại Điều 214 BLTTDS năm 2015.
Riêng đối với các vụ án kinh doanh, thương mại thì yêu cầu Tòa
án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là quyền tố tụng được
pháp luật quy định rất quan trọng và cần thiết trong việc giải quyết vụ
án. Mục đích của việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là để
tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ,
bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục
được hoặc bảo đảm việc thi hành án. Các vụ án kinh doanh, thương
mại thường có giá trị tranh chấp lớn và tính phức tạp cao. Đồng thời
với việc yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Luật
sư cũng phải tư vấn cho khách hàng chuẩn bị thực hiện biện pháp bảo
đảm theo yêu cầu của Tòa án. Bởi vì việc áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời có thể gây thiệt hại về quyền và lợi ích cho bên bị áp dụng.
Luật sư tư vấn cho thân chủ yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời phải rất thận trọng.

296
Ví dụ:
- Công ty lắp ráp ô tô A bán cho Công ty taxi B 100 chiếc xe ô tô
loại 5 chỗ để chạy taxi với điều kiện thanh toán làm nhiều đợt. Đến
hạn, không thấy Công ty B thực hiện nghĩa vụ thanh toán, Công ty A
đến thúc giục và được biết Công ty B đang bán lại số xe ô tô trên cho
các cá nhân. Công ty A đã làm đơn khởi kiện ra Tòa án có thẩm
quyền yêu cầu buộc Công ty B thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Trong
quá trình giải quyết vụ án, Luật sư của Công ty A tư vấn cho khách
hàng yêu cầu Tòa án đang giải quyết vụ án ra quyết định áp dụng
biện pháp khẩn cấp tạm thời “Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối
với tài sản đang tranh chấp” là 100 chiếc xe ô tô trên theo quy định
tại Điều 121 BLTTDS năm 2015.
- Công ty vận tải biển A nhận chở gạo từ miền Nam ra miền Bắc
cho Công ty Lương thực B, trong quá trình vận chuyển tàu chở gạo
bị sóng biển đánh tràn vào khoang chở hàng, gây ra ướt gạo. Công
ty B kiện ra Tòa án đòi bồi thường thiệt hại do gạo bị ướt và giảm
chất lượng. Nhận thấy số gạo bị ướt nếu kéo dài thời gian sẽ bị hư
hỏng và mất giá và nếu bán cho công ty chế biến thức ăn gia súc thì
có khả năng khắc phục được thiệt hại. Luật sư tư vấn cho Công ty B
yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “cho bán số
gạo bị ướt trên” theo Điều 123 BLTTDS năm 2015 vì số gạo ướt này
không thể bảo quản được lâu, sẽ nhanh chóng bị hư hỏng nếu không
được xử lý kịp thời.

2.2.3. Một số đặc thù cơ bản trong xây dựng bản luận cứ vụ án
kinh doanh, thương mại
Các tranh chấp về kinh doanh, thương mại chủ yếu là các
tranh chấp về hợp đồng trong kinh doanh, mà các hợp đồng trong
lĩnh vực này thông thường là dài và phức tạp, thời gian thực hiện
hợp đồng có thể qua nhiều năm. Vì vậy, trong phần nội dung của
bản luận cứ, ở phần tóm tắt nội dung vụ việc, Luật sư không nên
nêu hết tất cả tình tiết của vụ việc. Bởi vì nếu liệt kê tất cả các tình
tiết của vụ việc sẽ làm cho bản luận cứ dài dòng không cần thiết và
làm cho người nghe không đi vào trọng tâm của vấn đề. Luật sư chỉ
tóm tắt khái quát những nội dung chính và đặc biệt đi sâu vào nội
dung có hành vi vi phạm mà hai bên đang có tranh chấp để tóm tắt.

297
Chẳng hạn, hai bên tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa với rất
nhiều điều khoản nhưng các bên chỉ bất đồng với nhau về việc
chậm thanh toán tiền hàng; khi đó nếu nguyên nhân của việc chậm
thanh toán của một bên không do chất lượng lô hàng thì Luật sư
không cần thiết phải mô tả chi tiết về hàng hóa trong hợp đồng
nhưng ngược lại nếu nguyên nhân của việc chậm thanh toán là do
bất đồng trong chất lượng hàng hóa thì Luật sư cần mô tả hàng hóa
chi tiết, tỉ mỉ…
Các yêu cầu giải quyết trong tranh chấp kinh doanh, thương mại
cũng cụ thể, rõ ràng. Khi nhận định, Luật sư nên nhận định lần lượt
đối với từng yêu cầu của khách hàng. Nếu là Luật sư của nguyên đơn
thì trong phần nhận định, Luật sư phải nêu được cơ sở pháp lý của yêu
cầu mà nguyên đơn đưa ra, phân tích tính hợp pháp của những yêu cầu
đó trên cơ sở đưa ra những luận cứ, luận chứng chứng minh cho yêu
cầu của nguyên đơn. Nếu là Luật sư của bị đơn thì phần nhận định của
bản luận cứ cần đưa ra những lập luận để phản bác lại các yêu cầu của
nguyên đơn và trong trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố thì Luật sư
cần phải nhận định đối với từng yêu cầu phản tố của bị đơn. Khi nhận
định Luật sư cũng phải đưa ra cơ sở pháp lý rõ ràng kết hợp với các
tình tiết sự kiện phát sinh để chứng minh yêu cầu của thân chủ là có
căn cứ và hợp pháp.

Ví dụ:
Khi lập luận cho yêu cầu phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán đối với
bị đơn, Luật sư có thể soạn thảo: “Tại Điều X của hợp đồng có quy
định “Bên B có nghĩa vụ thanh toán toàn bộ tiền hàng cho bên A sau
khi nhận hàng” và tại Điều Y của hợp đồng đã quy định “nếu bên A
chậm thanh toán tiền hàng thì sẽ phải trả lãi theo lãi suất
1,5%/tháng”. Ngày 10/3/2015, bên A đã giao hàng cho bên B và bên B
không có ý kiến gì về chất lượng hàng hóa. Như vậy, bên B phải có
nghĩa vụ thanh toán đầy đủ tiền hàng vào ngày 10/3/2015. Nhưng
cho đến ngày 10/4/2015, bên A chưa thanh toán tiền hàng cho bên B.
Căn cứ vào thỏa thuận của các bên, căn cứ vào Điều 306 Luật
Thương mại năm 2005, yêu cầu trả tiền lãi đối với số tiền hàng hóa,
dịch vụ chậm thanh toán đối với bên B là hoàn toàn có cơ sở nên đề
nghị Hội đồng xét xử chấp nhận”.

298
2.3. Kỹ năng đặc thù chuẩn bị tham gia phiên tòa vụ án lao động
Vụ án lao động là vụ án phát sinh từ tranh chấp lao động. Theo
quy định tại khoản 7 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2012 thì: “Tranh
chấp lao động là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh
giữa các bên trong quan hệ lao động”.
Trên cơ sở quy định pháp luật, chúng ta có thể thấy có 5 nhóm
tranh chấp lao động gồm:
- Tranh chấp lao động cá nhân phát sinh từ quan hệ hợp đồng lao
động như tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động,
tranh chấp về xử lý kỷ luật bằng hình thức sa thải, tranh chấp về tiền
lương, tranh chấp về bảo hiểm xã hội…;
- Tranh chấp lao động cá nhân liên quan đến quan hệ lao
động như tranh chấp về học nghề, tập nghề, tranh chấp về cho thuê
lại lao động…;
- Tranh chấp lao động tập thể;
- Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do đình công bất hợp pháp;
- Tranh chấp khác về lao động như tranh chấp giữa viên chức và
đơn vị sự nghiệp sử dụng lao động theo quy định của Luật Viên chức.
So với các quan hệ tranh chấp khác trong dân sự, kinh doanh,
thương mại, thì tranh chấp lao động có những đặc điểm riêng cả về
chủ thể, khách thể và nội dung tranh chấp.
Về chủ thể, một bên trong quan hệ tranh chấp bao giờ cũng là
người lao động, hoặc tập thể lao động và một bên là người sử dụng lao
động hoặc tổ chức khác có liên quan đến quan hệ lao động, như cơ
quan bảo hiểm xã hội, doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Trong mối quan hệ này,
bên người lao động thông thường là bên yếu thế, phụ thuộc về kinh tế,
việc làm vào bên sử dụng lao động. Do đó, bên sử dụng lao động
thường tìm mọi cách để trở thành bên thắng cuộc khi giải quyết vụ án
hoặc sẽ tìm cách để xử lý người lao động sau khi thua cuộc do tâm lý
bị ức chế.
Về khách thể, khách thể của quan hệ lao động là lợi ích có được
từ việc sử dụng sức lao động; do đó, trong quan hệ tranh chấp lao

299
động, điều mà các bên tranh chấp mong muốn đạt được cũng chính là
lợi ích của quá trình thực hiện quan hệ lao động.
Về nội dung tranh chấp, tranh chấp về lao động là tranh chấp về
các quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ
lao động. Quyền, nghĩa vụ và lợi ích của các bên được thể hiện ở các
quy định của pháp luật, hoặc những cam kết trong hợp đồng lao động,
thỏa ước lao động tập thể, nội quy, quy chế hoặc thỏa thuận đã ký
giữa các bên. Các quyền, nghĩa vụ của người lao động, người sử dụng
lao động luôn đan xen vào nhau nên khi giải quyết các tranh chấp lao
động cần chú ý phải giải quyết đồng thời tất cả các quyền, nghĩa vụ,
hậu quả pháp lý phát sinh từ tranh chấp. Cùng với việc giải quyết về
việc đơn phương trái hay không trái pháp luật, sẽ phải giải quyết luôn
hậu quả của việc đơn phương như nhận hay không nhận trở lại làm
việc, tiền lương trong những ngày người lao động không được làm
việc, tiền lương do vi phạm nghĩa vụ báo trước, trợ cấp khi thôi việc,
chế độ bảo hiểm xã hội, tiền thưởng, tiền nghỉ phép hàng năm…
Với đặc điểm tranh chấp như vậy, khi giải quyết các tranh chấp
lao động, công việc chuẩn bị tham gia phiên toà lao động sơ thẩm
của Luật sư cũng giống như công việc chuẩn bị tham gia các phiên
toà sơ thẩm đối với các vụ việc dân sự, vụ việc hôn nhân gia đình
hay vụ việc kinh doanh, thương mại khác song cần chú ý đến một số
nội dung sau:
2.3.1. Chuẩn bị văn bản pháp luật
Luật sư khi chuẩn bị văn bản pháp luật tham gia các phiên toà
lao động cần phải chuẩn bị đầy đủ, hệ thống các văn bản pháp luật lao
động liên quan đến yêu cầu của người lao động do đặc thù của tranh
chấp lao động khi giải quyết cần phải giải quyết đồng thời nhiều
quyền lợi của người lao động. Hệ thống văn bản pháp luật lao động
hiện hành rất phức tạp. Ngoài các quy định của Bộ luật Lao động, các
nghị định, thông tư hướng dẫn còn có hệ thống các công văn giải đáp
và hướng dẫn riêng trong từng trường hợp cụ thể, cách tính các chế độ
trong từng trường hợp cụ thể. Vì thế, Luật sư cần phải chuẩn bị đầy
đủ, hệ thống các văn bản pháp luật, quy định hướng dẫn này.
Bên cạnh đó, do pháp luật lao động và pháp luật liên quan đến
quan hệ lao động thường xuyên có sự thay đổi, độ ổn định không cao

300
nên Luật sư khi chuẩn bị văn bản pháp luật cần chú ý đến các nguyên
tắc áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp lao động về hiệu lực
thời gian, không gian, thứ tự của văn bản xảy ra tại thời điểm phát
sinh tranh chấp.
2.3.2. Xây dựng phương án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng
Trong quan hệ lao động, người lao động thường ở bên yếu thế
với mong muốn có việc làm, đảm bảo được chế độ quyền lợi, chế độ
an sinh nên khi giải quyết tranh chấp lao động, Luật sư bảo vệ quyền
lợi cho người lao động dù đứng ở nguyên đơn hay bị đơn đều phải cân
nhắc kỹ lưỡng giữa việc thực hiện chuẩn chỉ quy định của pháp luật
được áp dụng để giải quyết vụ án với khả năng tiếp tục tồn tại mối
quan hệ lao động sau khi xét xử, để từ đó tư vấn cho khách hàng là
người lao động cân nhắc các phương án để làm sao sau khi xét xử,
quan hệ lao động vẫn tiếp tục được duy trì, ổn định, góp phần bảo đảm
an sinh xã hội. Trong nhiều trường hợp, có thể lựa chọn phương án
hoà giải hoặc rút bớt những yêu cầu không cần thiết, nhân nhượng
hoặc chấp nhận một phần để đạt được lợi ích lâu dài hơn, không nên
có tư tưởng “ăn xổi”, “đứt đoạn” trừ khi đó là yêu cầu của khách hàng.
Ngoài ra, Luật sư cũng cần phải lưu ý thông thường trong các vụ
kiện lao động, người lao động ngoài các yêu cầu chính như đòi huỷ
quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, huỷ quyết định
sa thải, buộc nhận người lao động trở lại làm việc, người lao động còn
đòi thêm những khoản tiền khác như tiền lương trong những ngày
không được làm việc, tiền vi phạm nghĩa vụ báo trước, tiền thưởng,
tiền nghỉ phép hàng năm, tiền đơn phương trái pháp luật, tiền ăn trưa,
tiền bảo hiểm xã hội, tiền trợ cấp… Đối với các yêu cầu này, tuỳ
thuộc vào tình tiết, sự kiện có trong vụ án, Luật sư cần xác định khả
năng thắng kiện của người lao động mà mình bảo vệ đến đâu, xác định
quyết định đơn phương hay sa thải là trái hay không trái pháp luật để
từ đó xác định hậu quả pháp lý của việc đơn phương trái hay không
trái pháp luật đó. Từ đó, căn cứ vào hợp đồng lao động, quy chế của
doanh nghiệp sử dụng lao động để xác định các yêu cầu có được chấp
thuận hay không chấp thuận từ đó xây dựng phương án bảo vệ quyền
lợi cho khách hàng. Chẳng hạn, nhiều trường hợp người lao động đòi
tiền ăn trưa trong những ngày không làm việc. Đây là khoản tiền trả
trực tiếp cho người lao động có việc làm trực tiếp.

301
2.3.3. Trình bày tình tiết, sự kiện tại phiên toà
Nếu là Luật sư bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn, trong phiên
toà lao động, phần trình bày tình tiết, sự kiện thường có những nội
dung sau:
- Các tình tiết, sự kiện làm căn cứ xác định quan hệ lao động
giữa người lao động với người sử dụng lao động, gồm các tình tiết, sự
kiện thể hiện:
+ Việc giao kết hợp đồng lao động của các bên, các điều khoản
hợp đồng về công việc, loại hợp đồng, tiền lương, tiền thưởng, chế độ
làm việc, các chế độ khác của người lao động;
+ Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động, giao kết hợp
đồng lao động (nếu có);
- Diễn biến quá trình thực hiện công việc theo hợp đồng lao động
của người lao động như kết quả thực hiện và mức độ hoàn thành công
việc của người lao động;
- Các tình tiết, sự kiện thể hiện diễn biến, nội dung tranh chấp
làm chấm dứt việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng lao
động, hay không thực hiện, hay thực hiện không đúng nghĩa vụ theo
hợp đồng lao động.
+ Nếu hợp đồng lao động chấm dứt thuộc trường hợp hết hạn
hợp đồng thì nêu rõ việc thông báo của người sử dụng lao động cho
người lao động trước khi hợp đồng lao động hết hạn; thời điểm người
lao động nghỉ việc…
+ Nếu là chấm dứt hợp đồng lao động do các bên thỏa thuận
chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn, thì nêu rõ các tình tiết
liên quan đến sự thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động; cụ thể là
những tình tiết xác định giữa các bên có tồn tại sự thỏa thuận về việc
chấm dứt hợp đồng lao động; thỏa thuận được xác lập vào thời điểm
nào; nội dung thỏa thuận cụ thể là gì…
+ Nếu là tranh chấp về xử lý kỷ luật sa thải thì nêu rõ ngày họp
xử lý kỷ luật, ngày ra quyết định xử lý kỷ luật, người ký quyết định,
căn cứ ra quyết định, lý do sa thải; xác định hành vi vi phạm kỷ luật
lao động của người lao động, tính chất, mức độ vi phạm; quá trình
xem xét, xử lý kỷ luật sa thải người lao động của người sử dụng lao

302
động, quyền và nghĩa vụ mà người sử dụng lao động đã trả cho người
lao động sau khi sa thải…
+ Nếu là tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
thì phải nêu rõ người lao động hay người sử dụng lao động đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động, ngày đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động, có thông báo trước về việc đơn phương chấm dứt
không, ngày thông báo đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, lý
do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động (Ví dụ: nếu đơn phương
chấm dứt hợp đồng lao động do người lao động thường xuyên không
hoàn thành công việc thì phải nêu rõ công việc người lao động phải
thực hiện theo hợp đồng đã ký là gì; công việc mà người lao động
đang thực hiện tại thời điểm người sử dụng lao động cho là vi phạm là
gì, quy định về mô tả công việc của người lao động được thể hiện như
thế nào, mức độ hoàn thành công việc của người lao động (hoàn thành
định mức, chỉ tiêu về số lượng, khối lượng sản phẩm, yêu cầu về quy
cách, chất lượng sản phẩm), căn cứ để xác định người lao động có
hoàn thành hay không; người lao động thường xuyên không hoàn
thành công việc theo hợp đồng lao động do yếu tố khách quan hay chủ
quan), thủ tục khi thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao
động, các chế độ đã giải quyết đối với người bị đơn phương chấm dứt
hợp đồng lao động…
- Các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị
đơn (nếu có). Nguyên tắc chung là phải nêu rõ yêu cầu cụ thể của nguyên
đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn (nếu có). Cụ thể, yêu cầu huỷ quyết định
đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, huỷ quyết định sa thải, có yêu
cầu tiếp tục thực hiện hợp đồng lao động hay không; những yêu cầu cụ
thể của người khởi kiện về quyền, nghĩa vụ phải thực hiện và việc giải
quyết quyền lợi của các bên (nếu có) theo hợp đồng lao động, thỏa ước
lao động tập thể, pháp luật lao động; cụ thể là: tiền lương, phụ cấp, các
khoản thu nhập khác, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của người lao động;
các khoản mà người lao động phải bồi thường (nếu có).
Nếu là Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị đơn, trên cơ sở những
tình tiết mà Luật sư nguyên đơn và nguyên đơn trình bày bổ sung, nếu
đồng ý với tình tiết, sự kiện bị đơn trình bày thì Luật sư chỉ cần trình
bày “Chúng tôi đồng ý với phía nguyên đơn về các tình tiết, sự kiện
sau đây…”.

303
Còn đối với những tình tiết, sự kiện mà không đồng ý với trình
bày của phía nguyên đơn thì Luật sư của bị đơn chỉ cần trình bày là
không đồng ý với các tình tiết, sự kiện sau đây và sau đó trình bày tình
tiết, sự kiện theo quan điểm của phía bị đơn.
Lưu ý rằng, trong quá trình trình bày tình tiết, sự kiện, nếu nhận
thấy có những tình tiết, sự kiện không có lợi cho khách hàng của mình
thì Luật sư có thể không trình bày.
2.3.4. Xây dựng dự thảo kế hoạch hỏi tại phiên tòa lao động
sơ thẩm
Việc xây dựng Dự thảo kế hoạch hỏi của Luật sư tại phiên tòa
lao động sơ thẩm cũng giống như việc xây dựng Kế hoạch hỏi đối
với các vụ án dân sự khác. Về cách thức, yêu cầu, phương pháp đặt
câu hỏi, đề cương bảng hỏi tham khảo thêm nội dung tại mục 1.5
Chương này.
Tùy theo nội dung vụ việc, trên cơ sở những tình tiết, sự kiện mà
các bên đã thống nhất, mâu thuẫn, đang tranh chấp trong quá trình giải
quyết vụ việc, căn cứ vào Biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, khi chuẩn bị Dự thảo kế
hoạch hỏi tại phiên tòa, Luật sư cần chú ý đến những nội dung quan
trọng dưới đây để xác định vấn đề cần hỏi, hỏi người lao động hay
người sử dụng lao động, từ đó đặt câu hỏi theo bảng hỏi được thể hiện
ở mục 1.5 của Chương này.
* Đối với vụ án về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
Trong vụ án này cần làm rõ một số nội dung chủ yếu như:
- Công việc người lao động đang làm việc cho người sử dụng lao
động là công việc gì?
- Công việc đó được xác định theo thời vụ hay có thời hạn xác
định, hay công việc có tính chất thường xuyên từ một năm trở lên,
không xác định thời gian kết thúc?
- Tiền lương và các quyền lợi khác của người lao động?
Việc xác định được công việc, tính chất của công việc có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định hợp đồng lao động ký kết giữa người

304
lao động và người sử dụng lao động có phù hợp với quy định của Bộ
luật Lao động không?
- Người lao động bắt đầu làm việc từ thời gian nào?
- Người lao động và người sử dụng lao động có ký hợp đồng lao
động không?
- Hợp đồng lao động được ký theo loại nào (Hợp đồng lao động
không xác định thời hạn hay hợp đồng lao động xác định thời hạn từ
một đến ba năm, hay hợp đồng lao động theo mùa vụ...)?
- Trường hợp không ký hợp đồng, hay ký hợp đồng không đúng
quy định theo Bộ luật Lao động thì hỏi rõ lý do?
* Xác định rõ lý do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.
Đây là vấn đề quan trọng để xác định việc đơn phương chấm dứt hợp
đồng lao động có đúng pháp luật không.
- Nếu người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động cần làm rõ:
+ Người lao động có thường xuyên không hoàn thành công việc
theo hợp đồng lao động không. Nếu có thì định mức lao động được
quy định như thế nào, trong văn bản nào? Mức độ không hoàn thành
của người lao động? Lỗi của người lao động khi không hoàn thành
công việc là lỗi chủ quan hay lỗi khách quan?
+ Người lao động nghỉ ốm có quá thời gian quy định của Bộ luật
Lao động không?
+ Người sử dụng lao động có phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ
làm việc không?
+ Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức có chấm dứt hoạt động không?
+ Người sử dụng có áp dụng các biện pháp thay đổi cơ cấu
hay không?
+ Ngoài những lý do trên còn lý do nào khác?
- Nếu người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động
cần làm rõ:
+ Người lao động có được bố trí đúng công việc, địa điểm làm
việc và các điều kiện làm việc đã được thoả thuận không?

305
+ Người lao động có được trả lương đầy đủ, đúng thời hạn không?
+ Người lao động có bị ngược đãi, bị cưỡng bức lao động không?
+ Bản thân, gia đình người lao động có thật sự khó khăn không
thể thực hiện hợp đồng lao động không?
+ Người lao động là phụ nữ có thai phải nghỉ việc theo chỉ định
của thầy thuốc?
+ Ngoài những lý do trên còn lý do nào khác?
- Xác định việc đơn phương chấm dứt hợp đồng có bảo đảm
đúng quy định về thời gian báo trước theo Điều 37 và 38 Bộ luật Lao
động năm 201261 không;
- Tiền lương và các khoản khác mà người lao động đã được nhận;
- Doanh nghiệp có thoả ước lao động không, nếu có thì quyền và
nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động được quy
định như thế nào (Phần này thường chủ toạ phiên toà trích dẫn ra cho
mọi người dự phiên toà biết).
- Yêu cầu cụ thể của các bên trong vụ án.
* Đối với vụ án về kỷ luật sa thải người lao động
Trong vụ án này, cần làm rõ:
- Công việc người lao động đang làm;
- Người lao động làm việc từ ngày, tháng, năm nào;
- Người lao động và người sử dụng lao động có ký hợp đồng lao
động không?
- Hình thức và loại hợp đồng lao động;
- Quá trình lao động, người lao động có những ưu, khuyết
điểm gì?
- Trong quá trình làm việc người lao động đã bị hình thức kỷ luật
nào chưa, nếu có thì bị vào thời gian nào (ngày, tháng, năm). Đây là
vấn đề cần xác định để xem hình thức kỷ luật đó đã được xoá chưa.
- Người lao động bị kỷ luật sa thải vì lý do gì? Có phải là hành vi
vi phạm kỷ luật lao động không?

61
Xem thêm Điều 35 và 36 Bộ luật Lao động năm 2019 (có hiệu lực thi hành từ 01/01/2021).

306
- Thời gian (ngày, tháng, năm) người lao động vi phạm để dẫn
đến hình thức kỷ luật (cần xác định cụ thể ngày, tháng, năm người lao
động vi phạm, vì nó liên quan đến thời hiệu xử lý kỷ luật).
- Thủ tục tiến hành kỷ luật người lao động có đúng quy định của
Bộ luật Lao động?
- Việc xử lý kỷ luật lao động có vi phạm nguyên tắc xử lý kỷ luật
lao động không?
- Doanh nghiệp có nội quy lao động không. Nếu có thì nội quy
đó đã được đăng ký chưa? Nội quy lao động quy định như thế nào đối
với hành vi vi phạm kỷ luật của người lao động.
- Quan điểm của Ban chấp hành công đoàn cơ sở về hình thức,
mức độ kỷ luật mà người lao động phải chịu.
Chú ý: Nếu quyết định kỷ luật sa thải người lao động căn cứ vào
“do hành vi khác gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, lợi ích của
doanh nghiệp” thì cần làm rõ mức độ thiệt hại như thế nào.
- Nếu quyết định kỷ luật sa thải người lao động vì lý do người
lao động nghỉ việc nhiều ngày thì cần làm rõ:
+ Người lao động nghỉ việc có xin phép người sử dụng lao
động hay có những lý do nào dẫn đến người lao động buộc phải
nghỉ việc 05 ngày cộng dồn trong một tháng, hoặc 20 ngày cộng
dồn trong một năm.
+ Lương của người lao động trong một tháng.
+ Các phụ cấp khác của người lao động.
- Người sử dụng lao động đã trả những khoản tiền gì, chế độ gì
cho người lao động?
- Yêu cầu của các bên trong vụ án.
* Đối với vụ án đòi bồi thường phí đào tạo
Trong vụ án này, cần làm rõ những vấn đề sau:
- Người lao động và người sử dụng lao động có ký hợp đồng học
nghề không;
- Người lao động được đào tạo nghề gì;

307
- Thời gian đào tạo;
- Địa điểm đào tạo (học trong nước hay ở nước ngoài);
- Các chi phí đào tạo nghề (chi phí cho giảng dạy, tài liệu học
tập, trường lớp máy móc thiết bị, vật liệu thực hành, ăn ở, đi lại, tiền
tiêu vặt, tiền lương, học bổng...);
- Các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng
học nghề;
- Hợp đồng có quy định mức bồi thường khi người lao động
không thực hiện đúng hợp đồng học nghề như thế nào;
- Lý do người sử dụng lao động yêu cầu người lao động bồi
thường phí đào tạo (Người lao động được đào tạo nghề bỏ không
học hết khóa, hay người lao động không làm việc cho người sử
dụng lao động sau khi đã được đào tạo nghề, hay người lao động
không làm đủ thời gian đã cam kết trong hợp đồng lao động hay
hợp đồng học nghề...);
- Nguyên nhân người lao động không thực hiện đúng những quy
định trong hợp đồng học nghề hay hợp đồng lao động.
Lưu ý: Cần phải tìm hiểu rõ nguyên nhân người lao động không
thực hiện đúng hợp đồng học nghề để xem lỗi thuộc người lao động
hay người sử dụng lao động, từ đó mới quyết định người lao động có
phải bồi thường hay không? Nếu phải bồi thường, thì mức bồi thường
như thế nào?
- Yêu cầu bồi thường của người sử dụng lao động.
- Ý kiến của người lao động về yêu cầu của người sử dụng
lao động.
2.3.5. Chuẩn bị dự thảo bản luận cứ bảo vệ quyền lợi của đương
sự tại phiên toà lao động sơ thẩm
Về nguyên tắc, bản luận cứ bảo vệ quyền lợi cho đương sự tại
phiên toà lao động sơ thẩm không có gì khác so với các vụ việc dân sự
khác. Tuy nhiên, đối với vụ án lao động, Luật sư cần lưu ý một số
điểm sau đây trong việc chuẩn bị dự thảo bản luận cứ:
+ Trước hết, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà,

308
nếu phát hiện thấy Toà án có sự vi phạm về tố tụng trong việc giải
quyết vụ án lao động thì Luật sư phải phát biểu tranh luận, lập luận
trước đối với các vấn đề về mặt tố tụng có vi phạm;
+ Sau đó, nhận định lập luận về quan hệ hợp đồng lao động, loại
hợp đồng;
+ Tiếp đó, nhận định lập luận về quyết định đơn phương chấm
dứt hợp đồng lao động hoặc quyết định sa thải là đúng hay không
đúng pháp luật. Trong việc lập luận này, Luật sư cần chú ý đến các
yếu tố cấu thành của quan hệ tranh chấp như đối với tranh chấp về đơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động thì phải lập luận về căn cứ đơn
phương chấm dứt, nghĩa vụ báo trước. Đối với tranh chấp về sa thải
thì phải lập luận về căn cứ sa thải, trình tự thủ tục xử lý kỷ luật sa thải,
thẩm quyền sa thải, thời hiệu xử lý kỷ luật sa thải…
+ Cuối cùng là nhận định, lập luận về các yêu cầu khởi kiện,
quyền, nghĩa vụ pháp lý của các bên phát sinh từ tranh chấp.
Dưới đây là một ví dụ về nội dung dự thảo một bản luận cứ bảo
vệ quyền lợi cho bị đơn tại phiên toà tranh chấp về xử lý kỷ luật
bằng hình thức sa thải. Nguyên đơn là người lao động của công ty đã
khởi kiện đòi huỷ quyết định sa thải và bồi thường các khoản thiệt
hại liên quan.

Kính gửi: Toà án nhân dân huyện (quận)..., tỉnh (thành phố)…
V/v: Ý kiến bảo vệ quyền lợi của Tổng công ty... trong vụ án xử lý
kỷ luật lao động sa thải đối với ông Nguyễn Văn H
Kính thưa Hội đồng xét xử!
Tổng công ty... là bị đơn trong vụ án xét xử của Toà án cấp sơ
thẩm đối với vụ án “tranh chấp về xử lý kỷ luật sa thải” mà hôm
nay, Toà án nhân dân huyện... tiến hành xét xử sơ thẩm lại lần 2.
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, đã được trải qua các lần xét xử trước
đây ở các cấp tòa, chúng tôi có một số ý kiến để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của Tổng công ty... trong phiên tòa sơ thẩm lần 2 ngày
hôm nay như sau:
1. Về hợp đồng lao động giữa Tổng công ty... và ông Nguyễn Văn H

309
Qua chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa ngày hôm
nay, chúng tôi khẳng định giữa Tổng công ty... và ông Nguyễn Văn H
có ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn, với công việc mà
ông H đảm nhiệm là…, tiền lương mà ông H được hưởng hàng
tháng là... đồng/tháng. Các chế độ mà ông H được hưởng tuân thủ
theo quy định của Tổng công ty… Hợp đồng lao động này hoàn toàn
có hiệu lực pháp luật.
2. Về tính hợp pháp của quyết định sa thải số 05/QĐ-GVN ngày
5/01/2007
Để xác định quyết định sa thải của Tổng công ty... là đúng hay sai
thì phải căn cứ đồng thời vào các vấn đề sau:
2.1. Về thời hiệu xử lý kỷ luật lao động
Theo quy định tại Điều... Bộ luật Lao động thì thời hiệu xử lý kỷ
luật lao động tối đa là 03 tháng, kể từ ngày xảy ra vi phạm, trường
hợp đặc biệt cũng không được quá 06 tháng. Ngày xảy ra vi phạm là
ngày..., tính đến ngày xử lý kỷ luật lao động của Tổng công ty… thì
đã hết thời hiệu xử lý.
Điểm… Điều... Nghị định số.../…/NĐ-CP quy định “Thời hiệu để
xử lý vi phạm kỷ luật lao động tối đa là 03 tháng, kể từ ngày xảy ra
hoặc phát hiện vi phạm, trường hợp có hành vi vi phạm liên quan
đến tài chính, tài sản, tiết lộ bí mật công nghệ, kinh doanh của
doanh nghiệp thì thời hiệu xử lý kỷ luật lao động tối đa là 6 tháng”.
Ngày…, Tổng công ty… nhận được bản án hình sự sơ thẩm có
hiệu lực pháp luật tuyên ông H phạm tội đánh bạc. Chỉ khi Tổng
công ty… chính thức biết được ông H đã bị Toà án tuyên là có tội
đánh bạc mới được xác định là thời điểm phát hiện vi phạm.
Ngày…, Hội đồng xử lý kỷ luật ông H mới tiến hành phiên họp.
Ngày…, Tổng công ty… mới ra quyết định sa thải ông H từ ngày... là
vẫn còn thời hiệu khởi kiện.
2.2. Về trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật lao động
Theo các tình tiết có trong hồ sơ thì khi tiến hành xử lý kỷ luật,
Tổng công ty… đã đáp ứng đầy đủ các thủ tục khi tiến hành xử lý kỷ

310
luật sa thải như triệu tập ông H tham gia phiên họp, phiên họp có sự
tham gia của đại diện công đoàn, do Tổng giám đốc chủ trì tiến
hành và chính Tổng Giám đốc là người ký quyết định sa thải.
2.3. Về căn cứ xử lý kỷ luật lao động
Khoản… Điều… Nghị định số…/…/NĐ-CP quy định: “Hình thức
sa thải được áp dụng đối với người lao động phạm một trong những
trường hợp quy định tại khoản... Điều… của Bộ luật Lao động và đã
cụ thể hoá trong nội quy lao động được quy định như sau:
Người lao động vi phạm một trong các trường hợp quy định tại
điểm… khoản… Điều… của Bộ luật Lao động nếu hành vi vi phạm đó
chưa có đầy đủ hoặc khó xác định chứng cứ thì yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền điều tra, xác minh, kết luận để làm căn cứ xử lý kỷ luật”.
Theo hướng dẫn tại Phần…. Thông tư số …/…/TT-BLĐTBXH
thì người lao động vi phạm một trong các trường hợp quy định tại
điểm a khoản 3 Điều 6 của Nghị định số …/…/NĐ-CP quy định cụ
thể như sau:
“Để xử lý kỷ luật lao động phù hợp với mức độ vi phạm của người
lao động khi vi phạm một trong các trường hợp quy định tại khoản…
Điều… của Bộ luật Lao động thì người sử dụng lao động căn cứ đặc
điểm sản xuất kinh doanh của đơn vị để quy định cụ thể mức giá trị
tài sản bị trộm cắp, tham ô, tiết lộ bí mật công nghệ kinh doanh hoặc
có hành vi khác gây thiệt hại được coi là nghiêm trọng về tài sản, lợi
ích của đơn vị để quyết định việc sa thải người lao động.
Tổng công ty… đã có văn bản cụ thể hóa vấn đề này tại điểm …
khoản... Điều... Nội quy lao động của Tổng công ty nên hoàn toàn có
cơ sở, căn cứ để xử lý kỷ luật sa thải.
2.4. Về các yêu cầu đòi bồi thường của nguyên đơn
Trong quá trình giải quyết vụ án, phía nguyên đơn đã rất nhiều
lần có các đơn yêu cầu bổ sung. Theo các chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án và ngay tại phiên tòa ngày hôm nay, phía nguyên đơn đã xác
nhận trước tòa những yêu cầu rất cụ thể của mình về khoản thiệt hại
mà phía nguyên đơn cho rằng đã phát sinh từ Quyết định sa thải nói
trên. Trên cơ sở quy định pháp luật tại khoản… Điều… Bộ luật Lao
động, đối chiếu với yêu cầu lần cuối cùng của phía nguyên đơn

311
ngày… và tại phiên tòa hôm nay, chúng tôi cho rằng rất nhiều yêu
cầu của phía nguyên đơn là rất phi lý, không phù hợp với quy định
của pháp luật lao động và chúng tôi không thể chấp nhận được
nhiều yêu cầu này. Cụ thể;
Thứ nhất: Về các khoản tiền tết, tiền doanh thu, tiền phép năm
Phía nguyên đơn yêu cầu:
Tiền tết âm lịch năm… 500.000 đ
Tiền doanh thu năm… 500.000 đ
Tiền doanh thu năm… 500.000 đ
Tiền may bảo hộ 3 năm 1.000.000 đ
Tiền tết âm lịch năm… 1.000.000 đ
Tiền ăn trưa, lễ, thưởng năm… 4.900.000 đ
Tiền phép năm… (16 ngày phép) 1.374.545 đ
Tiền ăn trưa từ tháng… đến 2.790.000 đ
tháng…
Lương bổ sung 6 tháng đầu năm 5.466.000 đ
……
Lương bổ sung 6 tháng cuối 5.460.000 đ
năm ….
Lương bổ sung quý 1/… 5.460.000 đ
Lương bổ sung quý 2/… 5.460.000 đ
Tiền thưởng 6 tháng đầu năm… 500.000 đ
Tổng cộng: 34.904.545 đ
Trong số các yêu cầu trên của phía nguyên đơn, yêu cầu tiền tết âm
lịch… phía nguyên đơn đã lĩnh một phần. Tại bút lục số 196, ông
Nguyễn Văn H đã ký nhận lĩnh tiền tết nguyên đán… là 500.000 đồng.
Vậy mà tại phiên tòa ngày hôm nay ông H lại đòi khoản tiền này.
Bên cạnh đó, nguyên đơn còn đòi tiền phép năm… cho 16 ngày
phép năm. Theo quy định tại Điều... Bộ luật Lao động, khoản...
Điều... Nội quy lao động của Tổng công ty... thì 16 ngày phép/năm
được áp dụng cho người lao động làm việc trong điều kiện đặc biệt

312
nặng nhọc, độc hại nguy hiểm, 12 ngày phép/năm nếu làm việc trong
điều kiện bình thường. Không hiểu với công việc của nguyên đơn là
thiết kế xây dựng thì phía nguyên đơn dựa vào văn bản nào để xác
định là làm việc trong điều kiện đặc biệt nặng nhọc?
Mặc khác, các khoản tiền này chỉ áp dụng cho những người lao
động trực tiếp. Cả năm…, nguyên đơn đã không được đi làm, tức
không làm việc trực tiếp nên không thể đòi các yêu cầu này được.
Trong số các yêu cầu đó, phía nguyên đơn còn yêu cầu bị đơn
phải trả các khoản tiền lương hàng quý, 6 tháng đầu năm và 6 tháng
cuối năm. Không hiểu nguyên đơn dựa vào căn cứ nào, quy chế nào
của công ty để đòi yêu cầu này. Tại phiên tòa ngày hôm nay, phía
nguyên đơn cũng không viện dẫn được căn cứ pháp lý nào để buộc
bị đơn phải trả. Theo quy định tại Điều… của Quyết định… thì
người lao động có thể được hưởng tiền thưởng hàng quý. Mức
thưởng do Tổng Giám đốc quyết định trên cơ sở số tháng làm việc
thực tế và hệ số hoàn thành nhiệm vụ. Như vậy, tiền thưởng cũng chỉ
dành cho người lao động trực tiếp làm việc trên thực tế và nếu có
yêu cầu thì yêu cầu này cũng phải qua hòa giải cơ sở.
Theo khoản… Điều… Nghị định… thì “tiền lương trả cho người
lao động nghỉ hàng năm, nghỉ ngày lễ, nghỉ về việc riêng có hưởng
lương được tính theo lương thời gian, bằng tiền lương theo hợp
đồng lao động của tháng trước liền kề gồm tiền lương cấp bậc, chức
vụ, phụ cấp khu vực, phụ cấp chức vụ (nếu có) chia cho số ngày làm
việc tiêu chuẩn trong tháng theo quy định của pháp luật mà doanh
nghiệp, cơ quan lựa chọn nhưng tối đa không quá 26 ngày nhân với
số ngày nghỉ theo quy định”.
Cuối cùng, theo quy định tại khoản... Điều… Bộ luật Lao động,
khoản... Điều... BLTTDS thì những khoản yêu cầu này, khi các bên
có tranh chấp thì trước khi đưa yêu cầu ra Tòa án giải quyết bắt
buộc các bên phải qua hòa giải cơ sở. Các yêu cầu này là hoàn toàn
độc lập với yêu cầu hủy quyết định sa thải của nguyên đơn (Có
nghĩa rằng không có quyết định sa thải nêu trên thì nguyên đơn vẫn
có quyền đòi công ty thanh toán các khoản này). Theo các chứng cứ
có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa ngày hôm nay, phía nguyên
đơn chưa bao giờ đưa yêu cầu của mình ra hòa giải cơ sở của công
ty để giải quyết.

313
Như vậy, các yêu cầu trên không đủ điều kiện để Tòa án thụ lý theo
quy định tại điểm … khoản …Điều …..BLTTDS. Vì thế, chúng tôi đề
nghị Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết đối với các yêu cầu trên.
Thứ hai: Về khoản tiền chi phí khác
Theo đơn yêu cầu bổ sung ngày ….., nguyên đơn còn yêu cầu bị
đơn bồi thường các khoản tiền chi phí đi taxi làm việc 15.350.000
đồng; tiền thuê Luật sư bảo vệ quyền lợi (có hóa đơn kèm theo)
18.850.000 đồng; tiền thiệt hại tinh thần sức khỏe theo Nghị quyết số
……. (30 tháng lương cơ bản) là 68.040.000 đồng. Tổng cộng số
tiền này là 102.240.000 đồng.
Theo quy định của Bộ luật Lao động về hậu quả pháp lý đối với
trường hợp sa thải sai thì người sử dụng lao động không phải thanh
toán các khoản tiền này. Việc đi lại bằng taxi, xe máy, ô tô khách
hay đi bộ, thuê hay không thuê Luật sư để bảo vệ là quyền của
đương sự. Tổng công ty …. không có nghĩa vụ phải bồi thường các
khoản tiền này. Riêng khoản đòi bồi thường 30 tháng lương về thiệt
hại tinh thần, sức khỏe là không có căn cứ pháp lý. Tất cả các yêu
cầu này là yêu cầu dân sự, không phải là tranh chấp lao động. Vì
thế, chúng tôi đề nghị Hội đồng xét xử không đưa yêu cầu này vào
giải quyết trong vụ án lao động và bác tất cả các yêu cầu trên của
phía nguyên đơn.
Thứ ba: Về khoản tiền lương trong những ngày không được làm việc
Như trên đã nói, hậu quả pháp lý của trường hợp này là Tổng công
ty…. sẽ thanh toán tiền lương và phụ cấp lương trong những ngày
không được làm việc. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên
tòa ngày hôm nay, giữa hai bên đang có tranh chấp về cách hiểu tiền
lương và phụ cấp lương của người lao động. Cụ thể phía nguyên đơn
cho rằng lương phải trả cho việc sa thải sai bao gồm cả lương cơ bản
và lương bổ sung như người làm việc bình thường. Chúng tôi không
đồng ý với cách hiểu của nguyên đơn mà muốn xác định được thì phải
dựa trên cơ sở những quy định pháp lý điều chỉnh.
Theo quy định tại Điều … Bộ luật Lao động thì “Tiền lương của
người lao động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và
được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc”.
Theo thỏa thuận trong bản hợp đồng lao động ngày …… mà

314
nguyên đơn đã ký thì mức lương chính của ông H là kỹ sư bậc 6/8:
hệ số là 3,89 nay là 4,2.
Theo Điều …. Quy chế phân phối tiền lương, tiền thưởng của
Tổng công ty ….. ban hành kèm theo Quyết định số …../QĐ-TCLĐ
ngày …, khi đó ông H vẫn đang đi làm thì cơ sở tính lương cho
người lao động là:
- Lương cấp bậc trả theo thang bảng lương quy định tại Nghị định
số 205/2004/NĐ-CP.
- Phụ cấp lương bao gồm: Phụ cấp chức vụ, trách nhiệm, phụ cấp
cho cán bộ đoàn thể theo các văn bản quy định của Nhà nước.
- Phụ cấp làm ca đêm….
- Phụ cấp làm thêm giờ:….
- Phụ cấp trách nhiệm an toàn….
- Phụ cấp độc hại….
Theo Điều ….của Quyết định … nói trên thì tiền lương của người
lao động được xác định gồm 2 phần: Phần 1 lương cơ bản tính trên
mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định, hệ số lương cấp bậc kể
cả phụ cấp (nếu có) và ngày công làm việc thực tế. Phần 2, lương bổ
sung tính trên cơ sở phần mức lương tối thiểu tăng thêm do tăng
năng suất, hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch, hệ số
lương cấp bậc kể cả phụ cấp chức vụ (nếu có), hệ số phân phối thu
nhập theo mức độ phức tạp công việc và ngày công thực tế làm việc.
Và tại Điều …. khoản … của Quyết định này thì một lần nữa lại
khẳng định lương bổ sung chỉ áp dụng đối với chế độ ngày công làm
việc thực tế của người lao động.
Bên cạnh đó, ngay tại khoản …. Điều … bản hợp đồng lao động
mà ông H ký với Tổng công ty … đã xác định rõ tiền lương mà ông
H được hưởng với công việc kỹ sư thiết kế xây dựng là tiền lương theo
hệ số lương, bậc lương và mức lương do Nhà nước quy định. Ngoài
khoản tiền lương này thì ông H chỉ có thể được hưởng tiền thưởng
(nếu có) mà công ty quy định. Như vậy, khi ký vào bản hợp đồng lao
động này, ông H cũng hiểu rằng tiền lương và tiền thưởng là khác
nhau. Tiền lương của nguyên đơn chỉ là tiền lương theo thang bảng
lương, ngạch, bậc, mức mà công ty quy định cho ông được hưởng là

315
4,2 tính đến thời điểm hiện nay. Còn tiền thưởng là hoàn toàn phụ
thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Vì thế, khi nhận ông H trở lại làm việc, căn cứ vào các phân tích
pháp lý trên, chúng tôi chỉ có thể trả cho ông H tiền lương trong
những ngày không được làm việc từ tháng 1/…. theo mức lương mà
trong hợp đồng lao động đã thỏa thuận. Còn yêu cầu đòi tiền lương
bổ sung hàng tháng trong các đơn yêu cầu của ông H thực chất đó
là tiền thưởng và được xác định trên số ngày công làm việc thực tế,
trực tiếp của người lao động cho công ty. Như vậy, không có cơ sở
pháp lý để trả cho nguyên đơn khoản tiền bổ sung hàng tháng được.
Thứ tư: Về khoản tiền bảo hiểm y tế
Đây là khoản tiền mà Tổng công ty …. sẽ thanh toán cho cơ quan
bảo hiểm y tế để đóng cho người lao động. Khoản tiền này không phải
dùng để trả riêng cho người lao động. Khi nhận ông H trở lại làm
việc, Tổng công ty …. sẽ đóng số tiền bảo hiểm y tế cho ông H.
Trên cơ sở những vấn đề pháp lý được phân tích ở trên, chúng tôi,
Tổng công ty ….. một lần nữa kính đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm
căn cứ vào các quy định của pháp luật mà chúng tôi viện dẫn để bác
tất cả những yêu cầu phi lý của nguyên đơn. Chúng tôi chỉ chấp
nhận bồi thường cho nguyên đơn khoản tiền lương theo mức lương
và hệ số lương trong bản hợp đồng lao động mà ông H đã ký trong
thời gian ông H không được làm việc từ tháng 01/….. và trợ cấp 2
tháng tiền lương. Có như vậy mới đảm bảo tính công minh trong
phán quyết của Toà án và đúng pháp luật.
Xin chân thành cảm ơn!
2.4. Kỹ năng đặc thù chuẩn bị tham gia phiên tòa sơ thẩm vụ
án hôn nhân và gia đình
Vụ án HN&GĐ phát sinh từ những tranh chấp về HN&GĐ.
Tranh chấp về HN&GĐ là những tranh chấp về các quan hệ nhân thân
và tài sản giữa các thành viên đang hoặc đã có quan hệ hôn nhân,
huyết thống, nuôi dưỡng trong gia đình hoặc giữa ít nhất một bên là
thành viên trong gia đình với bên thứ ba. Trên cơ sở quy định pháp
luật62, những tranh chấp HN&GĐ thuộc thẩm quyền của Tòa án gồm

62
Luật HN&GĐ năm 2014, BLTTDS năm 2015.

316
những nhóm quan hệ tranh chấp sau:
- Tranh chấp về ly hôn.
- Tranh chấp về tài sản chung, riêng của vợ chồng.
- Tranh chấp về nuôi dưỡng, cấp dưỡng giữa các thành viên
trong gia đình.
- Tranh chấp về xác định quan hệ huyết thống giữa cha, mẹ, con.
Khác với các tranh chấp trong quan hệ pháp luật dân sự theo
nghĩa hẹp, kinh doanh, thương mại, lao động, tranh chấp HN&GĐ có
đặc điểm riêng:
Về chủ thể: Chủ thể trong tranh chấp HN&GĐ bao giờ cũng chỉ
là cá nhân. Cá nhân trong tranh chấp HN&GĐ thường được xây dựng
trên cơ sở hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng. Tuy nhiên trong một
số trường hợp tranh chấp HN&GĐ xuất hiện khi chủ thể của nó không
còn là thành viên của gia đình nhưng trước đó đã từng là thành viên
của gia đình, ví dụ như “ tranh chấp về chia tài sản sau khi ly hôn”63.
Về khách thể: Khách thể của tranh chấp HN&GĐ là các lợi ích
nhân thân, các hành vi và các vật. Thông thường khách thể có tính
chất tổng hợp, bao gồm những yếu tố trên. Lợi ích nhân thân như
họ, tên, ngành nghề, việc làm,..; Các hành vi có thể là: mọi hoạt
động để quản lý tài sản chung của vợ chồng, mọi việc làm thể hiện
sự chăm sóc đối với cha mẹ,…; Vật có thể là đồ vật trong khối tài
sản chung của vợ chồng hoặc có thể dưới hình thức một số tiền nào
đó (tiền cấp dưỡng…)64.
Về nội dung tranh chấp: tranh chấp HN&GĐ là tranh chấp giữa
các bên về quyền và nghĩa vụ trong quan hệ hôn nhân, huyết thống,
nuôi dưỡng. Các quyền và nghĩa vụ HN&GĐ có thể là về nhân thân
hoặc về tài sản, hoặc cả nhân thân và tài sản. Quyền về nhân thân
hoàn toàn không có nội dung kinh tế. Quyền và nghĩa vụ tài sản trong
quan hệ HN&GĐ phải gắn liền với nhân thân của con người nhất
định. Ví dụ: Khi vợ chồng ly hôn, người không trực tiếp nuôi con phải
63
Xem: khoản 1 Điều 28 BLTTDS năm 2015.
64
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật HN&GĐ, Nxb. Công an nhân dân, 2009, tr. 51.

317
có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên hoặc đã thành niên
nhưng mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Nếu người con được cấp dưỡng hoặc người bố, người mẹ có nghĩa vụ
cấp dưỡng chết thì sẽ chấm dứt quyền và nghĩa vụ đó.
Dựa vào các đặc điểm về tranh chấp HN&GĐ, khi tham gia
phiên tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực này, Luật sư
cần lưu ý những vấn đề sau:
2.4.1. Chuẩn bị văn bản pháp luật
Khác với các vụ án về thừa kế, hợp đồng, lao động, kinh doanh,
thương mại, để giải quyết vụ án HN&GĐ thường phải giải quyết
nhiều quan hệ nhân thân và tài sản liên quan mật thiết với nhau trên cơ
sở đối chiếu các căn cứ pháp lý và chứng cứ đương sự cung cấp. Đặc
điểm này xuất phát từ sự liên kết chặt chẽ quan hệ nhân thân và quan
hệ tài sản khó tách rời giữa các thành viên trong gia đình. Vì vậy, tùy
từng vụ án cụ thể, để tham gia phiên tòa sơ thẩm giải quyết tranh chấp
HN&GĐ, Luật sư cần phải chuẩn bị các văn bản pháp luật sau:
- Văn bản pháp luật HN&GĐ: Các văn bản này là cơ sở để Luật
sư xác định tính chất pháp lý của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống, quan hệ nuôi dưỡng, quyền và nghĩa vụ của các thành viên
trong gia đình; căn cứ ly hôn, xác định tài sản riêng, tài sản chung và
chế độ tài sản vợ và chồng…
- Văn bản pháp luật liên quan đến xác định quyền sở hữu đối với
tài sản riêng của vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân, quyền và nghĩa
vụ của vợ chồng trong các giao dịch dân sự đối với người thứ ba như
BLDS, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Công chứng…
Khi áp dụng các văn bản pháp luật nêu trên, Luật sư phải chú ý
đến nguyên tắc áp dụng luật.

Ví dụ:
Anh Dát và chị Nguyễn Thị Khoa chung sống tự nguyện, có tổ
chức lễ cưới theo phong tục, tập quán từ năm 1995 nhưng đến
năm 2004 mới đăng ký kết hôn tại UBND phường N, quận Đ, thành
phố H. Quá trình chung sống những năm đầu anh chị hòa thuận, đến
năm 2012 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do thời điểm

318
này công việc anh Dát không ổn định, thu nhập thấp, không có tiền
đóng học cho con nên chị Khoa sỉ nhục, coi thường anh Dát. Đỉnh
điểm căng thẳng là năm 2015 khi anh Dát mở xưởng làm nghề mộc
tại nhà. Chị Khoa cho rằng công việc làm mộc ở nhà đã làm ảnh
hưởng đến cuộc sống gia đình. Thời điểm này anh Dát đón mẹ đẻ là
bà Nguyễn Thị Nụ đến chơi nhưng chị Khoa có thái độ coi thường và
không tôn trọng bà Nụ, thậm chí còn đẩy ngã bà Nụ làm bà Nụ bị
gãy chân. Anh Dát nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu
thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn được nên anh muốn khởi kiện chị
Khoa đến Tòa án có thẩm quyền yêu cầu được ly hôn, được nuôi con
chung và chia tài sản.
Về con chung: anh chị có một con chung là cháu Dương Phương
Thanh, sinh năm 2008 và cháu Dương Phương Minh sinh năm 2010.
Anh Dát cho rằng, cháu Minh không phải là con của anh Dát vì
trong thời kỳ chị Khoa mang thai cháu Minh, anh Dát thường xuyên
đi công tác xa nhà. Nguyện vọng anh Dát được nuôi cháu Thanh và
không yêu cầu chị Khoa cấp dưỡng tiền nuôi con.
Về tài sản: Ngôi nhà hai tầng, diện tích mặt bằng 60m2 xây dựng
trên diện tích đất 60 m2 tại số nhà 11 ngõ 2 Khu E1 phường Cát Lục,
quận A, thành phố H. Nguồn gốc diện tích đất là của bố mẹ anh Dát
cho anh Dát vào năm 1997. Theo anh Dát, tài sản trên đất có ngôi
nhà 2 tầng là tài sản chung vợ chồng, còn diện tích đất là của anh
Dát, GCNQSDĐ đứng tên anh Dát được cấp năm 2009. Ngoài ra,
anh chị còn có nhà 1 tầng trên mảnh đất 35m2 tại thôn Vĩnh Khê, xã
An Đồng, huyện An Dương, quận K, thành phố H. Diện tích đất và
nhà này đã được cấp GCNQSDĐ và quyền sở hữu nhà mang tên chị
Khoa năm 2005. Hiện tại gia đình anh Dát đang sinh sống trên diện
tích đất này. Quan điểm anh Dát là tài sản chung được chia đôi, anh
có nguyện vọng sử dụng ngôi nhà trên diện tích đất 60m2. Chị Khoa
được quyền sử dụng nhà trên diện tích đất 35m2. Anh Dát và chị
Khoa sẽ có nghĩa vụ thanh toán giá tiền chênh lệch của các tài sản
cho nhau.
Là Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của anh Dát, để
chuẩn bị tham gia phiên tòa sơ thẩm, các văn bản pháp luật mà Luật
sư phải chuẩn bị là :

319
- Để xác định tính chất pháp lý quan hệ hôn nhân giữa anh Dát
và chị Khoa thì căn cứ vào các văn bản pháp luật sau:Luật Hôn nhân
và gia đình năm 1986, năm 2000.
- Để xác định yêu cầu ly hôn của anh Dát có cơ sở pháp lý hay
không phải căn cứ vào Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
- Để xác định tài sản chung và tài sản riêng của anh Dát,
chị Khoa trong thời kỳ hôn nhân phải căn cứ vào Bộ luật Dân sự
năm 1995, Luật Đất đai năm 1993 và các văn bản hướng dẫn thi
hành (xác định hiệu lực pháp lý hợp đồng tặng cho quyền sử dụng
đất giữa bố mẹ anh Dát và anh Dát), Luật Đất đai năm 2003 và các
văn bản hướng dẫn thi hành (xác định việc cấp GCNQSDĐ đối với
diện tích đất tại số nhà 11 ngõ 2 Khu E1 phường Cát Lục, quận A,
thành phố H cho anh Dát có đúng pháp luật hay không ?), Luật Đất
đai năm 2003 để xác định việc cấp GCNQSDĐ đối với nhà và đất tại
thôn Vĩnh Khê, xã An Đồng, huyện An Dương, quận K, thành phố H
có hợp pháp hay không ?,…
- Để xác định cháu Minh có phải là con của anh Dát hay không
phải căn cứ vào Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn
bản hướng dẫn thi hành.
- Để xác định yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng của anh Dát
có cơ sở hay không, Luật sư phải căn cứ vào Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 để xem xét quyền lưu cư của vợ chồng, phương thức
chia, yếu tố lỗi của các bên khi ly hôn,…
2.4.2. Xây dựng phương án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng
Phương án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng
trong vụ án HN&GĐ cần được xây dựng trên cơ sở pháp luật, căn cứ
vào các yếu tố tình cảm, tâm lý của các bên tranh chấp; các chứng cứ
chứng minh yêu cầu của các bên và những bất lợi do thủ tục tố tụng
gây ra,… Vì thế để lựa chọn phương án bảo vệ quyền lợi cho khách
hàng, Luật sư phải phân tích cho khách hàng hiểu rõ những thuận lợi
và khó khăn của khách hàng và của đối phương; thảo luận về các thứ
tự ưu tiên của các yêu cầu; đề xuất phương án hòa giải, nhượng bộ
yêu cầu nào và giữ nguyên yêu cầu nào. Từ đó Luật sư mới có cơ sở

320
để xây dựng phương án tối ưu nhất để bảo vệ quyền và lợi ích cho
khách hàng.

Ví dụ:
Chị Hương và anh Hưng đăng ký kết hôn năm 2010. Những năm
đầu anh Hưng và chị Hương sống rất hạnh phúc. Một vài năm gần
đây chị Hương, anh Hưng phát sinh mâu thuẫn do anh Hưng ngoại
tình. Anh Hưng thường đánh đập chị Hương dù được chi hội phụ nữ
phường và chính quyền địa phương can ngăn nhiều lần. Không chịu
được cảnh bị coi thường và hành vi sai trái của anh Hưng, ngày
15/9/2016, chị Hương đề nghị Tòa án xử cho ly hôn.
(1) Yêu cầu của chị Hương: Về tình cảm: xin được ly hôn; Về con
cái và cấp dưỡng: được nuôi con 2 tuổi; yêu cầu anh Hưng cấp
dưỡng 3 triệu đồng/tháng; Về tài sản, khi hai vợ chồng cưới nhau, bố
mẹ anh Hưng cho hai vợ chồng ở nhờ ngôi nhà của ông bà được mua
hóa giá của nhà nước. Trong quá trình sống chung, hai người đã sửa
chữa, cải tạo hết 900.000.000 đồng. Chị Hương đồng ý chuyển đi với
yêu cầu anh Hưng phải trả lại toàn bộ số tiền 900.000.000 đồng tu
sửa nhà. Đồng thời chị Hương xin tòa xử cho chị được tiếp tục ở lại
ngôi nhà của bố mẹ anh Hưng cho đến khi tìm được chỗ ở mới.
(2) Yêu cầu của anh Hưng: anh Hưng đề nghị chị Hương chuyển
đi nơi khác để anh trả nhà lại cho bố mẹ. Anh Hưng không đồng ý
cho chị nuôi con với lý do chị Hương không đủ điều kiện kinh tế để
đảm bảo cho con có cuộc sống bình thường. Anh Hưng được đề nghị
nuôi cháu và không yêu cầu chị Hương cấp dưỡng.
Đối với tranh chấp ly hôn trong trường hợp này, chị Hương đưa
ra cả 3 yêu cầu về ly hôn, con cái và tài sản. Là Luật sư của chị
Hương, khi chuẩn bị kế hoạch hỏi cần xác định rõ mục đích hỏi: (i)
Hỏi chị Hương nếu mong muốn đạt được cả ba thì mức độ cần đạt
như thế nào? (ii) Phân tích chị Hương thấy được những yêu cầu
chính đáng có căn cứ cũng như thấy được nhưng yêu cầu thiếu căn
cứ và khó để anh Hưng chấp nhận. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, với yêu cầu ly hôn của chị Hương, có thuận lợi về
chứng cứ là có căn cứ anh Hưng ngoại tình, đánh đập chị Hương và
anh Hưng không phản đối việc ly hôn. Vì vậy, chị Hương nên giữ
nguyên yêu cầu.

321
Thứ hai, với yêu cầu được trực tiếp nuôi con khi ly hôn có cơ sở
pháp lý, chính đáng, con dưới 3 tuổi về nguyên tắc là do mẹ nuôi
dưỡng (khoản 3 Điều 81 Luật HN&GĐ năm 2014). Khó khăn là, anh
Hưng cũng có yêu cầu, không yêu cầu chị Hương cấp dưỡng. Anh
Hưng đưa ra thông tin chị Hương không có đủ kinh tế để nuôi con.
Luật sư cần phân tích quyền nuôi con của chị Hương và anh Hưng
trong trường hợp này là ngang nhau. Anh Hưng thuận lợi hơn khi
không yêu cầu chị Hương cấp dưỡng. Tuy nhiên, chị Hương thuận
lợi về tình trạng con dưới 3 tuổi. Phương án trong trường hợp này
chị Hương nên giữ nguyên yêu cầu bằng các lý lẽ thuyết phục:con
còn nhỏ cần mẹ trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc. Không đề cập đến
hoàn cảnh kinh tế là điều kiện bất lợi.
Thứ ba, yêu cầu về tài sản, bố mẹ chồng chị Hương sẽ trả lại tiền
sửa nhà cho vợ chồng chị Hương sau khi lấy lại nhà. Chị Hương có
khó khăn về kinh tế thì có khả năng chị Hương được hưởng nhiều
hơn nếu thuyết phục được anh Hưng. Bên cạnh đó, khó khăn là có cơ
sở Tòa án sẽ buộc anh Hưng, chị Hương trả nhà cho bố mẹ chồng vì
nhà thuộc quyền sở hữu của bố mẹ chồng, không thuộc quyền sở hữu
của anh Hưng, chị Hương. Tiền sửa chữa nhà là tiền chung vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân nên chị Hương sẽ được hưởng một nửa.
Phương án tư vấn của Luật sư là nhượng bộ việc không ở lại và việc
chia số tiền sửa nhà. Đồng thời, thuyết phục anh Hưng để chị Hương
lấy phần nhiều hơn và thuyết phục bố mẹ anh Hưng hỗ trợ việc nuôi
con và tìm chỗ ở mới.
Thứ tư, về yêu cầu xin được quyền lưu cư. Đây là một yêu cầu
chính đáng, có thể chấp nhận được đối với người phụ nữ sau ly hôn,
có con nhỏ chưa tìm được nơi ở mới. Thực tế Tòa án thường linh
động cho người phụ nữ và người chồng thường chịu thiệt thòi. Cơ sở
pháp lý được ghi nhận cụ thể tại Điều 63 Luật HN&GĐ năm 2014.
Tuy nhiên, khó khăn là khó được bên đối phương chấp nhận. Điều 63
Luật HN&GĐ năm 2014 chỉ ghi nhận thời hạn được lưu cư 6 tháng.
Từ những phân tích cụ thể, Luật sư đề xuất khách hàng nên nhượng
bộ yêu cầu ở lại. Về lâu dài khuyên chị Hương tìm nơi ở mới, đồng
thời thuyết phục chồng và bố mẹ chồng hỗ trợ, tạo điều kiện để chị
nhanh chóng tìm nơi ở mới.

322
2.4.3. Trình bày tình tiết, sự kiện tại phiên tòa hôn nhân và gia
đình sơ thẩm
Các tình tiết và sự kiện mà Luật sư thường trình bày tại phiên tòa
sơ thẩm trong vụ án HN&GĐ là:
- Tình tiết, sự kiện làm căn cứ xác định tính pháp lý quan hệ hôn
nhân (hợp pháp/không hợp pháp) thể hiện: Thời điểm nam - nữ chung
sống với nhau như vợ, chồng/đăng ký kết hôn/tổ chức cưới hỏi, các
điều kiện kết hôn (độ tuổi, tình trạng độc thân…), thủ tục đăng ký kết
hôn tại cơ quan có thẩm quyền…
- Tình tiết, sự kiện thể hiện nội dung tranh chấp:
+ Tình tiết, sự kiện xác định căn cứ ly hôn: tình trạng hôn nhân
trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân
không đạt được (vợ/chồng vi phạm nghĩa vụ giữa vợ và chồng, ngoại
tình…), quá trình hàn gắn quan hệ hôn nhân không thành (bên có
quyền đã khuyên nhủ, hòa giải có sự chứng kiến của gia đình, cơ
quan, tổ dân phố… nhưng bên vi phạm vẫn tiếp tục vi phạm), mức độ
lỗi của các bên.
+ Tình tiết, sự kiện thỏa thuận tài sản giữa vợ và chồng, nguồn
gốc tài sản chung, tài sản riêng vợ chồng, công sức đóng góp, duy trì,
tôn tạo, phát triển của các chủ thể đối với tài sản chung và riêng đó,
điều kiện, hoàn cảnh sinh sống của mỗi bên sau ly hôn;
+ Tình tiết, sự kiện thể hiện quan hệ cha, mẹ - con (huyết thống
(sinh tự nhiên, thụ tinh ống nghiệm, mang thai hộ...), nuôi dưỡng,
độ tuổi, giới tính, sức khỏe, môi trường sinh hoạt, học tập của con,
điều kiện nuôi dưỡng con của bố mẹ, thu nhập của các bên…
+ Tình tiết sự kiện thể hiện sự thay đổi về chi phí sinh hoạt học
tập của con cái, điều kiện, thu nhập, đạo đức, khả năng của người
đang trực tiếp nuôi con sau khi vợ/chồng ly hôn….
- Các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ý kiến phản bác của bị
đơn, yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Các
yêu cầu, ý kiến này phải cụ thể, rõ ràng. Ví dụ: tranh chấp về ly hôn
thì yêu cầu giải quyết đồng thời 3 nội dung là tình cảm, chia tài sản,
nuôi con, cấp dưỡng hay chỉ về tình cảm hay cả tình cảm, nuôi con mà
không chia tài sản…

323
2.4.4. Xây dựng dự thảo kế hoạch hỏi tại phiên tòa hôn nhân
và gia đình sơ thẩm
Tùy vào từng nội dung tranh chấp ở từng vụ án HN&GĐ mà
Luật sư chuẩn bị dự thảo kế hoạch hỏi khác nhau. Về nguyên tắc
chung, những nội dung các bên đã thống nhất và có chứng cứ chứng
minh rõ ràng, cụ thể thì không cần đặt câu hỏi để làm rõ.
- Đối với vụ án về ly hôn: Trong vụ án này, Luật sư phải làm rõ
những nội dung sau:
+ Tính chất quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng.
+ Vợ/chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm
trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình
trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn
nhân không đạt được hay không?
+ Xác định mức độ lỗi của các bên trong việc vi phạm quyền và
nghĩa vụ của vợ/chồng?
+ Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng trước, trong thời kỳ
hôn nhân? Khối tài sản chung/tài sản riêng của vợ/chồng? (tài sản
được hình thành trong thời kỳ hôn nhân, được tặng cho riêng, thừa kế
riêng, văn bản nhập tài sản riêng vào tài sản chung?…).
+ Điều kiện sống, thu nhập của vợ chồng sau khi ly hôn.
+ Con chung, con riêng, độ tuổi, giới tính, điều kiện sinh sống,
học tập của các con, ý kiến của các con về việc ở với bố, mẹ sau ly hôn.
- Đối với tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ
hôn nhân: Trong vụ án này, Luật sư phải làm rõ những nội dung sau:
+ Xác định quan hệ hôn nhân;
+ Xác định khối tài sản chung, tài sản riêng của các bên;
+ Xác định thỏa thuận của các bên về khối tài sản chung;
+ Xác định khối tài sản chung để chia (nguồn gốc, công sức
đóng góp, xây dựng, hình thành tài sản chung của các bên, giá trị các
tài sản chung);
+ Xác định nội dung tranh chấp: tranh chấp về khối tài sản chung
chưa chia hay phần chia và cách chia...

324
- Đối với tranh chấp về cấp dưỡng: Trong vụ án này, Luật sư
phải làm rõ những nội dung sau:
+ Quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng giữa người cấp
dưỡng và người được cấp dưỡng;
+ Độ tuổi, năng lực hành vi dân sự, điều kiện sinh sống, học tập
của người được cấp dưỡng;
+ Thu nhập, điều kiện hoặc việc trốn tránh nghĩa vụ của người
cấp dưỡng;
+ Sự thay đổi mức sinh hoạt, chi phí học tập, môi trường sống
của người được cấp dưỡng...
- Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo: Trong vụ án này, Luật sư phải làm rõ
những nội dung sau:
+ Thỏa thuận giữa các bên về biện pháp sinh con, mang thai hộ?
+ Người mang thai hộ đang trực tiếp nuôi dưỡng, không trả lại
con cho bố mẹ đẻ;
+ Người mang thai hộ có hành vi đòi tiền công hoặc lợi ích vật
chất từ việc mang thai hộ…
2.4.5. Soạn bản dự thảo bản luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho khách hàng tại phiên tòa hôn nhân và gia đình sơ thẩm
Về hình thức, bản luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
khách hàng tại phiên tòa HN&GĐ sơ thẩm có cấu trúc tương tự như
các phiên tòa dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động sơ thẩm.
Về nội dung, sau phần nhận định về sự vi phạm tố tụng trong
việc giải quyết vụ án HN&GĐ của Tòa án (nếu có), thông thường là
trình bày về quan hệ hôn nhân, tiếp theo là về nội dung tranh chấp và
cuối cùng là đưa ra yêu cầu khởi kiện và căn cứ, lập luận cho yêu cầu
khởi kiện.

Ví dụ:
Dự thảo bản luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích của anh/chị…..
trong vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly
hôn. Luật sư là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho

325
người vợ, là nguyên đơn trong vụ án. Nguyên đơn yêu cầu được
ly hôn, nuôi con chung, yêu cầu người chồng cấp dưỡng và chia
tài sản chung vợ chồng.
Kính thưa Hội đồng xét xử!
Chị H là nguyên đơn trong vụ án ly hôn, tranh chấp nuôi con,
chia tài sản khi ly hôn giữa chị H và anh K. Qua việc nghiên cứu
hồ sơ vụ án, nghe lời trình bày của bị đơn tại phiên tòa, Luật sư
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn có quan điểm
pháp lý như sau:
1. Về yêu cầu ly hôn:
Chị H và anh K có giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số…. do
UBND xã… cấp ngày… tháng… năm…. Thời điểm đăng ký kết hôn,
chị… tuổi, anh… tuổi, chưa có vợ, có chồng. Theo quy định tại
điểm… khoản… Điều… Luật HN&GĐ năm… và qua chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, chúng tôi
khẳng định chị… và anh… tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp.
Sau khi kết hôn, chị H và anh K chung sống hạnh phúc. Những
năm gần đây, anh K chung sống như vợ chồng với chị B, là bạn học
của anh K. Kể từ khi ngoại tình với chị B, mỗi lần chị H khuyên nhủ,
anh K không những không nghe mà còn đánh chị H bầm tím. Việc
anh K đánh chị H tái diễn nhiều lần. Dù được họ hàng, làng xóm
nhắc nhở nhưng anh K vẫn chứng nào tật nấy. Vì thế mâu thuẫn
giữa chị H và anh K ngày càng sâu sắc, hiện tại chị H và anh K
sống ly thân gần 1 năm. Với đầy đủ các chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án, căn cứ vào điểm… khoản …Điều…Luật HN&GĐ năm 2014, chị
H có đủ căn cứ để ly hôn với anh K.
2. Về con cái và cấp dưỡng:
Chị H và anh K có hai con chung: cháu T, 8 tuổi (sinh ngày…)…
và cháu Q, 2 tuổi (sinh ngày…). Nếu bố mẹ ly hôn, mong muốn của
cháu T được sống với mẹ. Với điều kiện sống ổn định (có nhà riêng,
thu nhập mỗi tháng là X đồng/tháng,…) trong khi anh K với công
việc lái xe tải đường dài thường xuyên xa nhà, không có điều kiện
chăm sóc con, trên cơ sở ý kiến của cháu T và độ tuổi của cháu Q,
chị H có nguyện vọng được nuôi hai con chung và yêu cầu anh K

326
phải cấp dưỡng cho cháu T: 4.000.000 đồng/tháng và cháu Q là
2.500.000 đồng/tháng. Yêu cầu này hoàn toàn phù hợp với điểm…
khoản … Điều… Luật HN&GĐ năm 2014. Vì thế yêu cầu của bị
đơn được trực tiếp nuôi hai con là không có cơ sở và không đảm
bảo cho các con phát triển đầy đủ về thể chất lẫn tinh thần.
2.1. Về tài sản:
Tài sản chung của chị H và anh K là:
1. Động sản:
(1) .…….trị giá….. (theo biên bản định giá số….ngày…. của
Trung tâm định giá….), trong đó chị H đóng góp là…., anh K đóng
góp là…..
(2)………trị giá….. (theo biên bản định giá số…. ngày…. của
Trung tâm định giá….) trong đó chị H đóng góp là…., anh K đóng
góp là…..
2. Bất động sản:
(1)……… có diện tích… tại…. trị giá……. (theo biên bản định giá
số….ngày….của Trung tâm định giá….), trong đó chị H đóng góp
là…., anh K đóng góp là…..
(2)…….. có diện tích… tại…. trị giá……. (theo biên bản định giá
số…. ngày…. của Trung tâm định giá….), trong đó chị H đóng góp
là…., anh K đóng góp là…..
…….
Yêu cầu: Căn cứ vào điểm… khoản… Điều… Luật HN&GĐ
năm 2014, công sức đóng góp cũng như điều kiện sống, thu nhập
của các bên, nguyên đơn yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng chị H
và anh K theo tỷ lệ…Chị H đề nghị được nhận …. và thanh toán giá
trị tài sản chênh lệch cho anh K.
Trên cơ sở những vấn đề pháp lý được phân tích ở trên, một lần
nữa kính đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm căn cứ vào các quy định
của pháp luật mà chúng tôi viện dẫn để không chấp nhận tất cả
những yêu cầu không có căn cứ của bị đơn và chấp nhận yêu cầu
của nguyên đơn. Xin chân thành cảm ơn!

327
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Trình bày các công việc Luật sư phải tiến hành khi chuẩn bị
tham gia phiên tòa sơ thẩm?
2. Những lưu ý cơ bản đối với Luật sư khi chuẩn bị tham gia
phiên tòa sơ thẩm vụ án lao động?
3. Những lưu ý cơ bản đối với Luật sư khi chuẩn bị tham gia
phiên tòa sơ thẩm vụ án kinh doanh, thương mại?
Tình huống:
Ngày 23/10/2009, Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Thương Tín - Chi nhánh H ký hợp đồng tín dụng trung dài hạn
số 95/HĐTD.VBHP.09 cho ông Nguyễn Văn Thuấn và bà Trần Thị Tính
vay 1.000.000.000 đồng, thời hạn vay 84 tháng với mục đích xây nhà.
Ngày 25/01/2010, Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Thương Tín - Chi nhánh H ký tiếp hợp đồng tín dụng trung dài hạn
số 12/HĐTP.VPHP.10 cho ông Nguyễn Văn Thuấn và bà Trần Thị Tính
vay 400.000.000 đồng, thời hạn vay 48 tháng. Mục đích vay để tiêu
dùng, mua sắm, trang trí nội thất và vật dụng gia đình.
Tài sản bảo đảm cho hai khoản vay là quyền sử dụng 100 m2 đất
đứng tên ông Thuấn và tài sản gắn liền với đất (căn nhà 3 tầng diện
tích 314 m2) tại thửa đất số 1560 tờ bản đồ số 01 phố An Lư, quận T,
TP. H theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
với đất số 152/09/TSTC-VPHP ngày 23/10/2009 và văn bản thỏa
thuận sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp tài sản ngày 08/12/2009.
Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất đứng bên thế chấp chỉ có mình
ông Thuấn ký tên do quyền sử dụng đất này ông Thuấn được quyền
thừa kế riêng.
Ngày 27/5/2010, Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam
Thương Tín - Chi nhánh H lại tiếp tục ký hợp đồng tín dụng số
92/HĐHMTC.VBHP.10 cho ông Thuấn và bà Tính vay 300.000.000
đồng, thời hạn vay 12 tháng. Mục đích vay để thanh toán tiền hàng hóa,
dịch vụ và các khoản phải trả cho Ngân hàng thương mại cổ phần
Việt Nam Thương Tín và mục đích hợp pháp khác. Tài sản bảo đảm cho
khoản vay là quyền sử dụng 247 m2 đất tại thửa đất số 1016 tờ bản đồ số
02 thôn Tây, xã Trung Hà, huyện T, thành phố H mang tên ông Nguyễn

328
Huy Bảng và bà Trần Thị Mỳ (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ
662006 ngày 12/11/2004 mang tên Nguyễn Huy Bảng và Trần Thị Mỳ)
theo hợp đồng thế chấp số 703/TCTS.VBHP.10 ngày 01/12/2010.
Các hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp đều được đăng ký
công chứng theo quy định của pháp luật.
Quá trình thực hiện các hợp đồng tín dụng: ông Thuấn và bà Tính
trả được cho ngân hàng 726.939.562 đồng (trong đó có 270.281.198
đồng tiền gốc còn lại là tiền lãi). Từ tháng 7 năm 2011 thì ông Thuấn, bà
Tính vi phạm nghĩa vụ trả nợ định kỳ hàng tháng. Ngân hàng đã đôn đốc
nhiều lần nhưng ông Thuấn, bà Tính không thực hiện nghĩa vụ.
Tháng 5/2015, Ngân hàng khởi kiện buộc ông Thuấn, bà Tính phải
có trách nhiệm trả 1.839.902.584 đồng (gồm nợ gốc 1.429.718.802 đồng,
lãi trong hạn 172.119.353 đồng, lãi quá hạn 205.746.032 đồng, phạt
do vi phạm thời hạn trả nợ 32.318.397 đồng).
Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, ông Thuấn, bà Tính thống nhất
trình bày: Vợ chồng ông vay ngân hàng ba lần, tổng số là 1,7 tỷ đồng.
Hàng tháng vẫn trả cho ngân hàng theo đúng cam kết trong hợp đồng.
Tuy nhiên do gặp rủi ro trong kinh doanh nên ông bà có khó khăn về
kinh tế vì vậy từ tháng 7/2011 ông bà không có điều kiện trả nợ cho
ngân hàng. Ông bà có nhiều công văn đề nghị được trả nợ gốc còn lãi
treo nhưng ngân hàng vẫn không chấp nhận. Trong khi vụ việc chưa
được đưa ra Tòa, ngân hàng đã đăng báo phát mại tài sản của ông bà
làm ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của ông bà. Ngày 21/7/2011, ông bà
trả lần cuối cho ngân hàng nhưng trong trích mục của ngân hàng
không đưa vào khoản trả nợ gốc mà lại tính trả lãi là không đúng, tuy
ngân hàng trích mục theo nguyên tắc của ngân hàng nhưng làm như
thế thì gây thiệt hại nhiều cho ông bà. Cho đến nay ông bà vẫn xin
được trả dần nợ gốc còn lãi thì sẽ cùng với ngân hàng xem xét lại sau.
Hợp đồng thế chấp 100 m2 tại thửa đất số 1560 tờ bản đồ số 01
phố An Lư, quận T, TP. H ông Thuấn đề nghị tuyên giao dịch vô hiệu.
Ông Thuấn xuất trình văn bản xác nhận nhập tài sản riêng vào tài sản
chung của vợ chồng ông Thuấn, bà Tính. Văn bản xác nhận này được
lập tháng 1/2008 được viết tay, ký xác nhận của ông Thuấn, bà Tính.
Đối với tài sản thế chấp khác, ông bà đề nghị Tòa án giải quyết theo
pháp luật.

329
Ông Nguyễn Huy Bảng và bà Trần Thị Mỳ là chủ sử dụng tài
sản thế chấp cho khoản vay 300.000.000 đồng trình bày:
Tháng 4/2010, ông bà cho vợ chồng ông Thuấn, bà Tính mượn giấy
tờ đất để vay vốn ngân hàng. Quá trình vay vốn và thực hiện hợp
đồng ông bà không biết. Ông bà không đồng ý phát mại tài sản bảo
lãnh để trả nợ thay cho vợ chồng ông Thuấn, bà Tính, đề nghị Tòa án
xem xét, giải quyết.
Ông Hải là người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng thương
mại cổ phần Việt Nam Thương Tín trình bày: Tính đến 25/02/2011,
vợ chồng ông Thuấn đã không trả tiền cho ngân hàng theo định kỳ
hàng tháng. Theo quy định tại điểm 8.4 Điều 8 của các hợp đồng tín
dụng các bên đã thỏa thuận “Việc thu nợ được thực hiện theo thứ tự:
Phí/các khoản phải trả khác (nếu có), lãi quá hạn, lãi trong hạn, nợ
gốc” thì ngân hàng thu và trừ theo thứ tự là: phí, các khoản phải trả nợ
khác (nếu có), lãi quá hạn, lãi trong hạn, nợ gốc. Ngày 21/7/2011, ông
Thuấn mang trả ngân hàng 43.000.000 đồng, ngân hàng tính và thu nợ
trừ theo thứ tự như sau: 5.723.429 đồng lãi quá hạn, 3.520.000 đồng
tiền gốc của món vay 400.000.000 đồng (Số tiền giải ngân lần thứ hai
của khoản vay 1 tỷ đồng); tiếp đến là trừ 13.176.317 đồng lãi quá hạn,
632.053 đồng lãi trong hạn, 16.800.000 đồng tiền gốc của món
vay 400.000.000 (Khoản tiền vay lần thứ hai); tiếp nữa là trừ
3.142.201 đồng lãi quá hạn của món vay 300.000.000 đồng. Như vậy
là khoản tiền vợ chồng ông Thuấn trả ngày 21/7/2011 ngân hàng thu
và trừ theo đúng điều khoản đã được quy định trong hợp đồng hai bên
đã ký. Phía ngân hàng không chấp nhận đề nghị trả nợ gốc còn lãi
theo yêu cầu của vợ chồng ông Thuấn. Yêu cầu tuyên bố Hợp đồng
thế chấp 100 m2 tại thửa đất số 1560 tờ bản đồ số 01 phố An Lư của
ông Thuấn không có căn cứ vì văn bản thỏa thuận nhập tài sản riêng
vào chung của ông Thuấn là văn bản không khách quan, trung thực.
Tại thời điểm nhận thế chấp, ông Thuấn đã có văn bản cam kết là tài
sản thừa kế riêng của ông, hồ sơ địa chính cũng thể hiện rõ điều này.
a) Là Luật sư của nguyên đơn. Anh (chị) chuẩn bị bản luận cứ
tham gia phiên tòa sơ thẩm.
b) Là Luật sư của bị đơn. Anh (chị) hãy trình bày bản luận cứ
chuẩn bị tham gia phiên tòa sơ thẩm.

330
Chương 5
KỸ NĂNG THAM GIA PHIÊN TÒA SƠ THẨM

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này sẽ trang bị cho 1. Một số nguyên tắc và yêu cầu
người học: cơ bản đối với Luật sư khi tham
- Về kiến thức, người học có gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm.
những kiến thức chung về thủ 2. Kỹ năng của Luật sư trong
tục phiên tòa sơ thẩm dân sự phần thủ tục bắt đầu phiên tòa
- Về kỹ năng, người học áp dụng sơ thẩm.
được kỹ năng của Luật sư tại 3. Kỹ năng của Luật sư trong thủ
phiên tòa sơ thẩm dân sự. tục tranh tụng tại phiên tòa
- Về thái độ, người học có thái sơ thẩm.
độ, ứng xử chuẩn mực phù hợp 4. Kỹ năng của Luật sư sau phiên
với quy tắc nghề nghiệp của tòa sơ thẩm.
Luật sư khi tham gia phiên tòa 5. Câu hỏi ôn tập, thảo luận.
sơ thẩm dân sự.

1. Một số nguyên tắc và yêu cầu cơ bản đối với Luật sư khi
tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm
Phiên toà sơ thẩm dân sự gồm bốn phần: Thủ tục bắt đầu phiên
toà; Tranh tụng tại phiên toà; Nghị án; Tuyên án. Tuy nhiên kỹ năng
tố tụng của Luật sư thể hiện chủ yếu trong phần thủ tục bắt đầu phiên
toà và phần tranh tụng tại phiên toà. Để đảm bảo cho việc tham gia tố
tụng tại phiên toà sơ thẩm dân sự một cách có hiệu quả, Luật sư cần
tuân thủ các nguyên tắc và yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, có mặt đúng thời gian và tham gia trong suốt quá trình
tố tụng của phiên toà.
Thứ hai, nắm vững quy định của pháp luật về phiên toà sơ thẩm;
Thứ ba, tôn trọng Toà án, Luật sư đồng nghiệp, những người
tham gia tố tụng khác và chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên toà.

331
Thứ tư, có sự chuẩn bị chu đáo cho việc tham gia phiên toà như:
trang phục, tài liệu, chứng cứ, bản trình bày, bản luận cứ, bản câu hỏi
dự thảo, dự liệu các tình huống phát sinh và phương án xử lý…
(i) Trang phục tham gia phiên tòa của Luật sư: ngày 27/02/2011,
Hội đồng Luật sư toàn quốc của Liên đoàn Luật sư Việt Nam (VBF)
đã thông qua Nghị quyết số 12/NQ-HĐLSTQ về trang phục Luật sư
khi tham gia phiên tòa và quy định cụ thể: kể từ ngày 10/10/2011, các
Luật sư bắt buộc phải mặc trang phục thống nhất khi tham gia phiên
tòa theo mẫu: áo veston và quần âu màu đen, áo sơ mi màu trắng do
Đoàn Luật sư may tập trung hoặc các Luật sư tự may theo quy định
của VBF; cà vạt màu xám lông chuột do VBF may thống nhất; huy
hiệu có hình biểu tượng logo của VBF đeo trên ngực trái áo trang
phục; trang phục thống nhất nêu trên áp dụng cho cả Luật sư nam và
Luật sư nữ; mùa đông mặc đủ bộ trang phục, mùa hè có thể không
mặc áo veston.
Ngày 25/10/2011, VBF có Công văn số 277/LĐLSVN về việc
Luật sư mặc trang phục thống nhất khi tham gia phiên tòa gửi
TANDTC thông báo nội dung trên. Sau đó, ngày 15/11/2011, Chánh
án TANDTC đã ban hành Công văn số 116/TA-TKTH yêu cầu Chánh
án TAND và Tòa án quân sự các cấp, Chánh tòa các Tòa phúc thẩm
TANDTC quán triệt nội dung về trang phục khi tham gia phiên tòa
của Luật sư nêu trên đến các Thẩm phán, cán bộ trong đơn vị để các
Hội đồng xét xử lưu ý, nhắc nhở Luật sư mặc đúng trang phục theo
quy định của VBF khi tham gia phiên tòa. Vì vậy, khi tham gia phiên
tòa, Luật sư cần đặc biệt lưu tâm chuẩn bị trang phục Luật sư theo
quy định tại phiên tòa để yên tâm, tự tin tranh tụng. Việc tuân thủ
quy định của VBF về trang phục cũng là nhằm nâng cao trách nhiệm,
hình ảnh của Luật sư Việt Nam, đồng thời bảo đảm tính trang
nghiêm của phiên tòa.
(ii) Lưu ý về thời gian mở phiên tòa: Tại Quyết định đưa vụ án ra
xét xử sơ thẩm và Giấy mời/Giấy báo cho Luật sư tham gia tố tụng
Tòa án cấp sơ thẩm đã ấn định thời gian mở phiên tòa. Do vậy, Luật
sư phải kiểm tra ngay lịch làm việc của mình để tránh việc trùng lặp
thời gian tham gia tố tụng vụ án khác (nếu có), trường hợp trùng lịch
phiên tòa phải xử lý xin hoãn hay không, cần trao đổi để thân chủ hiểu

332
và đồng ý với đề nghị của Luật sư, tránh gặp rắc rối trong mối quan hệ
giữa Luật sư và khách hàng.
(iii) Về địa điểm mở phiên tòa: Tại Quyết định đưa vụ án ra xét
xử sơ thẩm và/hoặc Giấy mời/Giấy báo cho Luật sư tham gia tố tụng
tại phiên tòa sơ thẩm, luôn thể hiện địa điểm xét xử. Tuy nhiên, tùy
theo điều kiện cơ sở vật chất của Tòa án cấp sơ thẩm để xác định địa
điểm xét xử cụ thể có được thông báo chi tiết hay không. Thực tế cho
thấy, một số Tòa án có điều kiện cơ sở vật chất tốt thường có thể ấn
định số phòng xử tại Giấy mời/Giấy báo cho Luật sư, nhưng có những
Tòa án lượng phòng xử không có nhiều nên thường chỉ thông báo địa
điểm xét xử là trụ sở của Tòa án. Do vậy, trong trường hợp này, Luật
sư cần chủ động đến sớm để xác định phòng xử hoặc liên hệ với Thư
ký phiên tòa hỏi vị trí phòng xử của Tòa án bố trí cụ thể ra sao. Việc
xác định vị trí phòng xử là hết sức cần thiết, tránh trường hợp khi đến
Tòa án, thân chủ hỏi mà Luật sư chưa biết phòng xử. Luật sư nên đến
phòng xử trước để xem xét, nhận định sự có mặt/vắng mặt của bên đối
tụng, những người tham gia tố tụng khác nhằm chuẩn bị kỹ năng cho
ý kiến về việc vắng mặt đương sự, người tham gia tố tụng khác tại
phần thủ tục khai mạc phiên tòa sau đó.
(iv) Về việc Tòa án triệu tập đương sự và những người khác
tham gia phiên tòa sơ thẩm: Khi nhận Quyết định đưa vụ án ra xét xử
sơ thẩm, Luật sư cũng cần chú ý đến việc ngoài đương sự của vụ án
thì Tòa án cấp sơ thẩm còn triệu tập thêm ai khác (Ví dụ: giám định
viên, phiên dịch, người làm chứng...) để chuẩn bị kế hoạch của Luật
sư cho việc phát biểu ý kiến về sự vắng mặt những người này (nếu có)
ở phần thủ tục khai mạc phiên tòa hoặc chuẩn bị nội dung hỏi liên
quan trong phần tranh tụng tại phiên tòa. Nếu Luật sư không chú ý
nghiên cứu vấn đề này tại Quyết định đưa vụ án ra xét xử, chắc chắn
sẽ bị động về sự có mặt của những người tham gia tố tụng khác được
Tòa án triệu tập và không thể khai thác triệt để sự tham gia tố tụng của
họ nhằm bảo đảm kỹ năng tranh tụng của Luật sư tại phiên tòa hiệu
quả nhất.
(v) Lưu ý về những người tiến hành tố tụng tại phiên tòa sơ
thẩm: Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm nào cũng đều thể hiện
thành phần những người tiến hành tố tụng. Luật sư khi xem xét Quyết

333
định này cũng cần chú ý đến việc Tòa án cấp sơ thẩm có đưa những
người tiến hành tố tụng dự khuyết vào không, bởi liên quan đến quan
điểm của Luật sư về việc vắng mặt/thay thế người tiến hành tố tụng để
đề nghị hoãn hay tiếp tục phiên xử tại phần thủ tục bắt đầu phiên tòa,
theo quy định của BLTTDS năm 2015.
Thứ năm, Ghi chép đầy đủ các nội dung diễn ra tại phiên toà, kịp
thời bổ sung, sửa đổi những vấn đề đã được chuẩn bị trước đó nhưng
có những nội dung mới thay thế tại phiên toà.
2. Kỹ năng của Luật sư trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa
sơ thẩm
Thủ tục bắt đầu phiên toà là phần đầu tiên phải thực hiện trong
phiên toà sơ thẩm dân sự, được quy định từ Điều 239 đến Điều 246
của BLTTDS năm 2015, bao gồm các nội dung cơ bản: Khai mạc
phiên toà; Giải quyết yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch; Xem xét, quyết định hoãn phiên toà khi
có người vắng mặt; Bảo đảm tính khách quan của người làm chứng;
Xem xét việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu; Công nhận sự thoả thuận
của các đương sự.
Trong phần thủ tục bắt đầu phiên toà, Luật sư với tư cách là
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cần xác định
được phạm vi, cách thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của
mình một cách hiệu quả nhất, đồng thời hỗ trợ, tư vấn đương sự là
khách hàng của mình thực hiện kịp thời, phù hợp, đúng pháp luật và
linh hoạt nhất các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ nhằm bảo đảm
cho hoạt động tố tụng đúng pháp luật và bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự.
Kỹ năng của Luật sư trong phần thủ tục bắt đầu phiên toà thể
hiện qua các hoạt động tố tụng cụ thể như sau:
2.1. Thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố
tụng, người giám định, người phiên dịch65
Về việc yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng tại phiên toà sơ
thẩm dân sự. Người tiến hành tố tụng tại phiên toà sơ thẩm gồm:
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên.

65
Khoản 4 Điều 76 BLTTDS năm 2015.

334
- Luật sư được quyền đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân tại phiên toà sơ thẩm khi xác định có một trong các căn cứ
sau đây: Họ đồng thời là đương sự, người đại diện của đương sự,
người thân thích của đương sự; Họ đã tham gia tố tụng với tư cách là
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm
chứng, người giám định, người phiên dịch trong cùng vụ án đó; Có
căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư khi làm nhiệm vụ; Họ
cùng trong một Hội đồng xét xử và là người thân thích với nhau (trong
trường hợp này chỉ có một người được tiến hành tố tụng); Họ đã tham
gia giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm và đã ra bản án sơ thẩm, phúc thẩm, quyết định giám đốc
thẩm, tái thẩm, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, quyết định công
nhận sự thoả thuận của các đương sự; Họ đã là người tiến hành tố tụng
trong vụ án đó với tư cách Thẩm tra viên, Thư ký Toà án, Kiểm sát
viên, Kiểm tra viên.
- Luật sư được quyền đề nghị thay đổi Thư ký Toà án tại phiên
toà sơ thẩm khi có một trong các căn cứ sau đây: Họ đồng thời là
đương sự, người đại diện của đương sự, người thân thích của đương
sự; Họ đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch trong cùng vụ án đó; Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể
không vô tư khi làm nhiệm vụ; Họ đã là người tiến hành tố tụng trong
vụ án đó với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra
viên, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên; Họ là người thân
thích với một trong những người tiến hành tố tụng khác của vụ án.
- Luật sư được quyền đề nghị thay đổi Kiểm sát viên tại phiên
toà sơ thẩm khi có một trong các căn cứ sau đây: Họ đồng thời là
đương sự, người đại diện của đương sự, người thân thích của đương
sự; Họ đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch trong cùng vụ án đó; Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể
không vô tư khi làm nhiệm vụ; Họ đã là người tiến hành tố tụng trong
vụ án đó với tư cách Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên,
Thư ký Toà án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên.
- Luật sư được quyền đề nghị thay đổi người giám định tại phiên
toà sơ thẩm khi có một trong các căn cứ sau đây: Họ đồng thời là

335
đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự; Có căn cứ
rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ; Họ đã
tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự, người làm chứng, người phiên dịch trong vụ án
đó; Họ đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Toà án, Kiểm sát viên,
Kiểm tra viên; Được trưng cầu giám định lại về cùng một nội dung
trong vụ án, vụ việc mà họ đã thực hiện giám định, trừ trường hợp
pháp luật có quy định khác.
- Luật sư được quyền đề nghị thay đổi người phiên dịch tại phiên
toà sơ thẩm khi có một trong các căn cứ sau đây: Họ đồng thời là
đương sự, người đại diện, người thân thích của đương sự; Có căn cứ
rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ; Họ đã
tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định trong cùng vụ
án đó; Họ đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Toà án, Kiểm sát
viên, Kiểm tra viên.
Để thực hiện quyền tố tụng này, Luật sư cần đưa ra căn cứ phù
hợp với quy định của pháp luật, có thái độ đúng mực khi trình bày các
căn cứ để yêu cầu thay đổi, đưa ra ý kiến khi Hội đồng xét xử không
chấp nhận hoặc thực hiện yêu cầu của Luật sư không đúng pháp luật.
Ví dụ: Nếu những người tiến hành tố tụng, giám định viên,
người phiên dịch trước đó có quan hệ hôn nhân với nhau, đã được
Toà án giải quyết chấm dứt hôn nhân nhưng họ vẫn giữ mối quan hệ
tốt đẹp, nay họ cùng tham gia trong một vụ án thì họ không phải là
người thân thích với nhau theo quy định tại khoản 19 Điều 3 Luật
HN&GĐ năm 2014. Vì vậy, nếu Luật sư yêu cầu thay đổi họ vì lý do
có quan hệ thân thích thì sẽ không có căn cứ để Hội đồng xét xử
chấp nhận.
Nếu xin thay đổi người tiến hành tố tụng vì lý do họ có thể
không vô tư khi tiến hành nhiệm vụ, Luật sư cần cân nhắc rất cẩn
trọng và có chứng cứ minh chứng rõ ràng, tránh yêu cầu trên cơ sở
đánh giá mang tính chủ quan, áp đặt. Điều này một mặt thể hiện sự tôn

336
trọng đối với người tiến hành tố tụng, mặt khác cũng thể hiện trình độ
và kỹ năng hành nghề của Luật sư trong việc áp dụng pháp luật khi
thực hiện các quyền tố tụng của mình tại phiên toà sơ thẩm dân sự.
2.2. Đề nghị Tòa án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan tham gia tố tụng66
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là một trong các thành
phần đương sự của vụ án dân sự. Mặc dù không bắt buộc vụ án nào
cũng phải xác định người có quyền và nghĩa vụ liên quan, song nếu
trong từng vụ án cụ thể xác định thiếu thành phần đương sự này thì có
nghĩa toàn bộ quá trình giải quyết vụ án sẽ không có giá trị pháp lý,
khi có kháng cáo, kháng nghị, Toà án có thẩm quyền phúc thẩm hoặc
giám đốc thẩm sẽ huỷ án giao về cấp sơ thẩm xét xử lại bắt buộc xác
định đầy đủ thành phần đương sự của vụ án.
Theo khoản 4 Điều 68 BLTTDS năm 2015: người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tuy không khởi kiện,
không bị kiện nhưng việc giải quyết vụ án dân sự có liên quan đến quyền
lợi, nghĩa vụ của họ. Vì vậy, khi đề xuất đưa người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan tham gia tố tụng, Luật sư cần lý giải cơ sở đề xuất, phân tích
sự liên quan của người đó với đương sự về quyền hay nghĩa vụ cụ thể để
thuyết phục Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến của mình.

Ví dụ:
A có nhu cầu vay tiền, B giới thiệu cho A gặp C, sau đó A và C
trực tiếp thoả thuận, ký kết hợp đồng vay. Khi A không trả tiền, C
khởi kiện A. Nếu trong vụ án này Luật sư của A và/hoặc C đề nghị
Hội đồng xét xử đưa B vào tham gia tố tụng với tư cách là người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không có cơ sở. Bởi lẽ B chỉ
giới thiệu cho A quen biết C, còn trong quá trình A và C thực
hiện giao dịch vay tiền không có sự liên quan đến quyền lợi và
nghĩa vụ với B.
Tuy nhiên, nếu trường hợp B giới thiệu cho A gặp C, sau khi A và
C ký hợp đồng vay, C có nhờ B chuyển tiền cho A thì khi C khởi

66
Khoản 6 Điều 76 BLTTDS năm 2015.

337
kiện A, Luật sư của cả A và C đều có cơ sở đề nghị Hội đồng xét
xử sơ thẩm đưa B vào tham gia tố tụng với tư cách là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

2.3. Đề nghị Toà án tạm đình chỉ giải quyết vụ án67


Tạm đình chỉ giải quyết vụ án được áp dụng theo các căn cứ quy
định tại Điều 214 BLTTDS năm 2015. Mục đích của tạm đình chỉ là
tạm thời dừng quá trình tố tụng của vụ án trong một khoảng thời gian
nhất định, vì vậy nếu Luật sư xét thấy có căn cứ và việc áp dụng căn
cứ đó là phù hợp và có lợi cho khách hàng của mình thì có quyền đề
xuất Hội đồng xét xử sơ thẩm áp dụng.
Theo Điều 214 BLTTDS năm 2015, các căn cứ áp dụng ra quyết
định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự bao gồm: Đương sự là cá
nhân đã chết, cơ quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải
thể mà chưa có cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền và nghĩa vụ
tố tụng của cơ quan, tổ chức, cá nhân đó; Đương sự là cá nhân mất
năng lực hành vi dân sự, người chưa thành niên mà chưa xác định
được người đại diện theo pháp luật; Chấm dứt đại diện hợp pháp của
đương sự mà chưa có người thay thế; Cần đợi kết quả giải quyết vụ án
khác có liên quan hoặc sự việc được pháp luật quy định là phải do cơ
quan, tổ chức khác giải quyết trước mới giải quyết được vụ án; Cần
đợi kết quả thực hiện ủy thác tư pháp, ủy thác thu thập chứng cứ hoặc
đợi cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa
án mới giải quyết được vụ án; Cần đợi kết quả xử lý văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án có dấu hiệu trái
với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Ủy ban thường vụ Quốc hội, văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên mà Tòa án đã có văn bản kiến nghị cơ quan
nhà nước có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ; Theo
quy định tại Điều 41 của Luật Phá sản; Các trường hợp khác theo quy
định của pháp luật.

Ví dụ:
Công ty A khởi kiện yêu cầu công ty B thanh toán khoản nợ
phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hoá. Tuy nhiên, trước khi

67
Khoản 6 Điều 76 BLTTDS năm 2015.

338
Toà án mở phiên toà sơ thẩm giải quyết yêu cầu khởi kiện của
công ty A thì phía công ty B đã được Toà án có thẩm quyền thụ lý
đơn yêu cầu mở thủ tục tuyên bố phá sản. Trong trường hợp này,
Luật sư của công ty B có quyền đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm
áp dụng điểm g khoản 1 Điều 214 BLTTDS năm 2015 và khoản 2
Điều 41 Luật Phá sản năm 2014 ra quyết định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án.

2.4. Đề nghị hoặc có ý kiến về việc hoãn phiên toà sơ thẩm


Hoãn phiên toà là một thủ tục tố tụng mà khi được áp dụng sẽ
tạm thời dừng phiên toà trong thời hạn tối đa không quá một tháng
(vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn là 15 ngày). Áp dụng thủ tục hoãn
phiên toà nhằm đảm bảo quyền tố tụng của đương sự và bảo đảm cho
việc tiến hành phiên toà hợp pháp về tố tụng. Chính vì vậy, Luật sư
cần nghiên cứu kỹ các căn cứ hoãn phiên toà tại Điều 233 BLTTDS
năm 2015, trên cơ sở đó xác định rõ trường hợp bắt buộc phải hoãn
phiên toà, trường hợp Hội đồng xét xử có quyền xem xét quyết định
hoãn hoặc không hoãn phiên toà, trường hợp không được hoãn phiên
toà phải tiếp tục tiến hành xét xử.

Ví dụ 1:
Trường hợp Hội đồng xét xử sơ thẩm quyết định hoãn phiên toà
khi vắng mặt đại diện Viện kiểm sát nhân dân thì Luật sư của các
đương sự có quyền đề nghị Hội đồng xét xử phải tiếp tục xét xử.
Bởi theo khoản 1 Điều 232 BLTTDS năm 2015 quy định nếu Kiểm
sát viên vắng mặt tại phiên toà thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành
xét xử, không hoãn phiên toà.
Ví dụ 2:
A là đương sự của vụ án, nếu Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ
nhất A vắng mặt và không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt thì Luật
sư của A có quyền yêu cầu Hội đồng xét xử hoãn phiên toà. Theo
quy định tại khoản 1 Điều 227 BLTTDS năm 2015 thì đây là trường
hợp bắt buộc Hội đồng xét xử phải hoãn phiên toà.
Ví dụ 3:
Trong vụ án tranh chấp hợp đồng giữa A và B, các đương sự đề

339
nghị Toà án triệu tập M tham gia tố tụng với tư cách người làm
chứng, Toà án chấp nhận và đã triệu tập hợp lệ đối với M, nhưng
ngày mở phiên toà sơ thẩm M vắng mặt. Trong trường hợp này
Luật sư của các đương sự vẫn có quyền đề nghị Hội đồng xét xử
hoãn phiên toà nhưng theo khoản 2 Điều 229 BLTTDS năm 2015,
Hội đồng xét xử có quyền quyết định hoặc là vẫn tiếp tục xét xử
hoặc là hoãn phiên toà.

2.5. Hỗ trợ đương sự hoặc có ý kiến về việc đương sự trong vụ


án đề xuất việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu
Thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu tại phiên toà sơ thẩm là quyền tố
tụng chỉ dành cho đương sự, Luật sư không có các quyền này. Tuy
nhiên Luật sư có quyền tư vấn, hỗ trợ để đương sự thực hiện quyền tố
tụng của họ tại phiên toà sơ thẩm, đồng thời khi các đương sự có lợi
ích đối lập với đương sự là khách hàng của mình thực hiện quyền thay
đổi, bổ sung, rút yêu cầu thì Luật sư có quyền có ý kiến về các thủ tục
tố tụng mà Hội đồng xét xử sơ thẩm áp dụng.

Ví dụ:
A khởi kiện yêu cầu B trả nhà do hết thời hạn của hợp đồng cho
thuê nhà. Trước khi mở phiên toà A chỉ có một yêu cầu duy nhất là
đề nghị Toà án buộc B trả nhà cho A. Tuy nhiên, tại phiên toà sơ
thẩm A bổ sung yêu cầu đòi B phải bồi thường số tiền 30.000.000
đồng do trong thời gian thuê B làm hư hỏng nhà của A. Đồng thời
A xuất trình cho Hội đồng xét xử văn bản có sự xác nhận của B về
việc đã làm hư hỏng nhà với thiệt hại hai bên thống nhất là
30.000.000 đồng. Tại phiên toà B thừa nhận bản xác nhận A xuất
trình nhưng không đồng ý việc A bổ sung yêu cầu này trong vụ án.
Nếu Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận cho A bổ sung yêu cầu thì
Luật sư của B có quyền phản đối, không chấp nhận quyết định này
của Hội đồng xét xử. Bởi vì theo khoản 1 Điều 244 BLTTDS năm
2015 Hội đồng xét xử sơ thẩm chỉ được chấp nhận việc bổ sung yêu
cầu của nguyên đơn tại phiên toà nếu việc bổ sung yêu cầu của họ
không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu. (Đối với việc
bổ sung thay đổi yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập cũng áp

340
dụng tương tự như trường hợp của nguyên đơn). Trong trường hợp
này yêu cầu bổ sung của A về việc đòi khoản tiền 30.000.000 đồng
được xem là vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu nên không
thể chấp nhận xem xét, giải quyết trong vụ án, A có thể khởi kiện
một vụ án khác yêu cầu B trả khoản tiền này.

2.6. Hỗ trợ, tư vấn đương sự thực hiện thoả thuận tại phiên
toà sơ thẩm và đề xuất việc công nhận sự thoả thuận của đương sự
tại phiên toà sơ thẩm
Tại phiên toà sơ thẩm dân sự xét xử theo thủ tục thông thường,
Hội đồng xét xử không có nghĩa vụ tiến hành hoà giải giữa các bên
đương sự có tranh chấp, nhưng các đương sự có quyền hoà giải và có
quyền yêu cầu Hội đồng xét xử công nhận nội dung thoả thuận. Khi
thấy các bên có thiện chí và có cơ hội hoà giải, Luật sư cần hỗ trợ, tư
vấn cho đương sự để họ thực hiện việc hoà giải một cách có hiệu quả
và đồng thời lựa chọn thủ tục tố tụng phù hợp trong trường hợp hoà
giải đạt kết quả.

Ví dụ:
Công ty A khởi kiện yêu cầu công ty B trả số nợ tồn đọng phát
sinh từ hợp đồng mua bán hàng hoá do hai bên ký kết với số tiền
1.000.000.0000 đồng (bao gồm cả tiền nợ gốc và lãi quá hạn). Tại
phiên toà, các bên thống nhất thoả thuận: Công ty A đồng ý giảm
khoản lãi quá hạn cho bên B và một phần trong tiền nợ gốc, số tiền
công ty B phải trả cho công ty A là 700.000.000 đồng. Ngay tại
phiên toà, đại diện của công ty B đã gọi điện về công ty yêu cầu
chuyển ngay vào tài khoản cho công ty A đủ số tiền đã thoả thuận.
Trong trường hợp này, do nghĩa vụ đã được thực hiện ngay lập tức
nên Luật sư có thể tư vấn cho bên A rút đơn khởi kiện tại phiên toà
sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử ra quyết định đình chỉ giải quyết
vụ án mà không cần ra quyết định công nhận sự thoả thuận của
các đương sự. Bởi theo khoản 3 Điều 218 BLTTDS năm 2015, khi
nguyên đơn rút đơn khởi kiện và được Toà án ra quyết định đình
chỉ giải quyết vụ án họ sẽ được trả lại toàn bộ tiền tạm ứng án phí
đã nộp nên lựa chọn thủ tục tố tụng này có lợi hơn cho đương sự
so với việc yêu cầu công nhận sự thoả thuận trong tình huống này.

341
Tuy nhiên, nếu trong vụ án này, tại phiên toà sơ thẩm các bên
mới chỉ thoả thuận được nội dung mà nghĩa vụ chưa được thực
hiện ngay thì Luật sư cần tư vấn cho đương sự yêu cầu Hội đồng
xét xử ra quyết định công nhận sự thoả thuận mà không nên lựa
chọn phương án rút đơn khởi kiện, để đảm bảo trong trường hợp
nghĩa vụ đã thoả thuận không được thực hiện thì công ty A có
quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thực hiện
cưỡng chế thi hành án đối với công ty B.

3. Kỹ năng của Luật sư trong thủ tục tranh tụng tại phiên
tòa sơ thẩm
Tranh tụng tại phiên toà bao gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi,
đối đáp, trả lời và phát biểu quan điểm, lập luận về đánh giá chứng cứ,
tình tiết của vụ án dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp và pháp luật
áp dụng để giải quyết yêu cầu của các đương sự trong vụ án. Để thực
hiện hiệu quả hoạt động trong phần tranh tụng Luật sư cần nắm vững
quy định của pháp luật về nội dung và phương thức tranh tụng tại
phiên toà sơ thẩm, đồng thời lựa chọn cho mình cách ứng xử và xử lý
phù hợp cho các tình huống tố tụng ở từng phiên toà cụ thể.
3.1. Kỹ năng của Luật sư thay mặt đương sự trình bày yêu cầu
của họ tại phiên toà sơ thẩm
Để thực hiện kỹ năng này tại phần tranh tụng thì trước khi mở
phiên toà, Luật sư cần có sự trao đổi thống nhất, chuẩn bị trước nội
dung trình bày phần yêu cầu của đương sự, đảm bảo trình bày được
đầy đủ, đúng mong muốn của đương sự, hạn chế việc đương sự phải
bổ sung thêm hoặc mâu thuẫn với ý kiến bổ sung của đương sự.
Luật sư phải phân biệt nội dung trình bày yêu cầu của đương sự
với nội dung trình bày quan điểm của Luật sư trong phần tranh tụng.
Theo đó phần trình bày thay đương sự chỉ chú trọng vào nội dung
tranh chấp, cơ sở phát sinh tranh chấp, diễn biến giải quyết vụ tranh
chấp, yêu cầu cụ thể của đương sự tại phiên toà và các chứng cứ minh
chứng cho yêu cầu đó. Trong phần này chưa trình bày căn cứ pháp lý,
chưa viện dẫn điều luật, văn bản pháp luật vì như vậy sẽ trùng lặp với
nội dung quan điểm của Luật sư khi trình bày luận cứ.

342
Nội dung trình bày phải rõ ràng, gắn liền với nội dung vụ
tranh chấp, tránh trình bày lan man, từ ngữ trình bày phải mang tính
pháp lý, không nên lạm dụng ngôn ngữ văn chương trong quá trình
trình bày.
Nội dung trình bày về yêu cầu của đương sự tại phiên toà sơ
thẩm phải có chung định hướng, mục đích, logíc với bản luận cứ của
Luật sư sẽ trình bày trong phiên toà khi thực hiện tranh luận.
Thái độ khi trình bày phải đúng mực, giữ đúng đạo đức tư cách
hành nghề của Luật sư, không nên thể hiện thay đương sự sự bức xúc
của họ trong vụ tranh chấp dẫn đến có những kết luận thái quá làm
xúc phạm hoặc tổn thương hay thiếu tôn trọng đối với các đương sự
khác trong vụ tranh chấp.
Luật sư của nguyên đơn trình bày về yêu cầu khởi kiện và chứng
cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ
và hợp pháp.
Luật sư của bị đơn trình bày ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn; yêu cầu phản tố, đề nghị của bị đơn và
chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu, đề nghị đó là có căn cứ và
hợp pháp.
Luật sư của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày ý
kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đối với yêu cầu, đề
nghị của nguyên đơn, bị đơn; yêu cầu độc lập, đề nghị của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chứng cứ để chứng minh cho yêu
cầu, đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp.
Trong quá trình trình bày yêu cầu của đương sự, nếu cần bổ sung
thêm chứng cứ để chứng minh cho tính hợp pháp và tính có căn cứ
của các yêu cầu đó thì Luật sư cần phải hiểu rằng chỉ được phép bổ
sung nếu: Các chứng cứ tài liệu đó trước khi mở phiên toà Toà án đã
yêu cầu đương sự nộp nhưng đương sự không nộp được vì có lý do
chính đáng, trong trường hợp này Luật sư phải thay mặt đương sự
chứng minh lý do của việc chậm nộp đó để thuyết phục Hội đồng xét
xử sơ thẩm chấp nhận. Đối với các chứng cứ, tài liệu mà trước đó Toà
án không yêu cầu nộp và đương sự không thể biết nên không có để
giao nộp thì được nộp tại phiên toà sơ thẩm. Nếu các tài liệu giao nộp

343
bổ sung tại phiên toà sơ thẩm sử dụng ngôn ngữ là tiếng dân tộc thiểu
số, tiếng nước ngoài thì bắt buộc phải có kèm theo bản dịch sang tiếng
Việt đã được công chứng, chứng thực hợp pháp.
3.2. Thực hiện quyền đặt câu hỏi và tư vấn, hỗ trợ đương sự
trong phần trả lời câu hỏi tại phiên toà sơ thẩm
Quyền đặt câu hỏi tại phiên toà sơ thẩm là quyền tố tụng của
nhiều chủ thể không chỉ riêng Luật sư. Chính vì vậy, tại phiên toà để
đạt được mục đích cao nhất khi thực hiện quyền đặt câu hỏi, Luật sư
cần nắm vững các yêu cầu sau: Chỉ hỏi đối với vấn đề chưa được trình
bày rõ; Không hỏi trùng lặp với vấn đề đã được chủ thể khác hỏi và đã
được trả lời rõ hoặc thậm chí không được trả lời; Xác định và lựa chọn
chủ thể hỏi; Chuẩn bị nội dung câu hỏi và xác định rõ mục đích của
từng câu hỏi; Phải có thái độ tôn trọng người được hỏi dù họ có phản
ứng không phù hợp; Phải sử dụng kết quả trả lời cho phần trình bày
luận cứ quan điểm để đánh giá kết luận tính hợp pháp và không hợp
pháp các vấn đề tranh chấp giữa các bên đương sự; Cách đặt câu hỏi
phải rõ ràng, dễ hiểu, gắn với nội dung các vấn đề cần làm sáng tỏ
trong vụ án; Tránh đặt những câu hỏi có thể dẫn dắt người được hỏi
phản ứng không hay hoặc trả lời theo cách bất lợi cho khách hàng của
mình; Việc đặt câu hỏi phải rõ ràng, nghiêm túc, không trùng lắp,
không lợi dụng việc hỏi để xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người
tham gia tố tụng; Phải tôn trọng sự điều hành của chủ toạ phiên toà
trong phần hỏi.
Luật sư không được đặt câu hỏi đối với những người tiến hành tố
tụng, không được đặt câu hỏi đối với những người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các đương sự khác trong vụ án.
Chỉ hỏi đương sự về những vấn đề mà người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ hoặc chính họ trình bày chưa rõ, có mâu thuẫn
với nhau hoặc mâu thuẫn với lời khai của họ trước đó.
Khi đặt câu hỏi đối với đương sự có lợi ích đối lập với khách
hàng của mình Luật sư cần phải có thái độ tôn trọng, tránh căng thẳng
hay đôi co với đương sự khi họ không hợp tác hoặc thậm chí có lời lẽ
xúc phạm Luật sư. Luật sư sử dụng kinh nghiệm nghề nghiệp để lựa
chọn thái độ ứng xử tốt nhất với từng đối tượng đương sự, trong từng
bối cảnh thực tế của vụ án.

344
Luật sư có quyền đặt câu hỏi đối với khách hàng của mình
nhưng chỉ nên sử dụng quyền này trong trường hợp thật sự cần thiết,
và luôn phải có sự bàn bạc thống nhất các câu hỏi và nội dung trả lời
với khách hàng trước khi mở phiên toà, tránh trường hợp để khách
hàng bị động trước câu hỏi của Luật sư, trả lời lúng túng hoặc không
đúng mục đích, thậm chí không hiểu câu hỏi nên trả lời sai lệch, mâu
thuẫn với các nội dung trình bày có trong hồ sơ dẫn đến hậu quả “gậy
ông đập lưng ông”.
Sau khi được chủ tọa phiên toà đồng ý Luật sư được quyền đặt
câu hỏi với người làm chứng và chỉ được hỏi thêm về những vấn đề
họ trình bày chưa rõ, chưa đầy đủ, có mâu thuẫn với nhau, mâu thuẫn
với lời khai của họ trước đó hoặc mâu thuẫn với lời trình bày của
đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Luật
sư có quyền nhận xét về kết luận giám định, hỏi người giám định về
những vấn đề chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định
hoặc có mâu thuẫn với các tình tiết khác của vụ án.
Tại phiên toà, Luật sư luôn phải có trách nhiệm tư vấn, hỗ trợ
khách hàng cách thức, nội dung để trả lời cho các câu hỏi của những
chủ thể khác đặt ra. Trường hợp cần thiết phải tư vấn cho đương sự từ
chối trả lời hoặc có thái độ đúng mực phản đối cách hỏi, nội dung hỏi
đi xa các vấn đề tranh chấp. Nếu tại phiên toà nhận thấy khách hàng
của mình rơi vào tình thế bị vi phạm quyền tố tụng thì Luật sư ngay
lập tức phải đề nghị Hội đồng xét xử có biện pháp nhắc nhở và áp
dụng chế tài tố tụng đối với chủ thể vi phạm. Tại phiên toà nếu thấy
đương sự không thể trả lời các câu hỏi của các chủ thể khác đặt ra
hoặc để đương sự trả lời sẽ không thuận lợi cho họ thì Luật sư có
quyền trả lời thay cho đương sự.
3.3. Theo dõi và có ý kiến về việc Hội đồng xét xử sơ thẩm
công bố tài liệu, chứng cứ của vụ án; Nghe băng ghi âm, đĩa ghi
âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh,
hình ảnh; Xem xét vật chứng
Khi Hội đồng xét xử sơ thẩm công bố tài liệu, chứng cứ của
vụ án; nghe băng ghi âm, đĩa ghi âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi
hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh; xem xét vật chứng,

345
Luật sư phải lắng nghe, ghi chép đầy đủ, lưu ý các nội dung cần
thiết cho phần hỏi hoặc phần trình bày luận cứ, chú trọng đến các
nội dung mâu thuẫn với phần trình bày trong hồ sơ hoặc tại phiên
toà của các đương sự có lợi ích đối lập với khách hàng mình. Luật
sư phải nhạy bén để ghi chú phân loại các vấn đề có lợi và bất lợi
cho khách hàng mình cũng như các đương sự khác trên cơ sở đó sử
dụng các nội dung này để khẳng định hoặc phủ định nội dung các
vấn đề có trong hồ sơ và trong phần trình bày, phần trả lời câu hỏi
đã diễn ra trước đó của các đương sự trong vụ tranh chấp. Đồng
thời ngay lập tức phải ghi chú bổ sung để trình bày và biện luận
trong bản luận cứ của mình.
3.4. Đề xuất hoặc có ý kiến về việc tạm ngừng phiên toà
Trong quá trình xét xử, phiên toà có thể được tạm ngừng khi có
một trong các căn cứ quy định tại Điều 259 BLTTDS năm 2015. Khi
thấy việc tạm ngừng phiên toà là cần thiết cho khách hàng của mình,
Luật sư có quyền đề xuất ý kiến với Hội đồng xét xử sơ thẩm.
Ví dụ 1: Đương sự có tiền sử mắc bệnh tim, khi tham gia phiên
toà sơ thẩm do có nhiều bức xúc về vụ tranh chấp nên bệnh tái phát,
nhận thấy việc tiếp tục tham gia phiên toà không tốt cho đương sự nên
Luật sư có thể căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 259 BLTTDS
năm 2015 yêu cầu Hội đồng xét xử tạm ngừng phiên toà.
Ví dụ 2: Trong diễn biến của phiên toà nếu thấy có khả năng hoà
giải, Luật sư thuyết phục các bên, nếu xét thấy cần có thêm thời gian
để các bên suy xét quyết định, Luật sư có quyền căn cứ vào điểm đ
khoản 1 Điều 259 BLTTDS năm 2015 đề nghị Hội đồng xét xử tạm
ngừng phiên toà để các bên tự tiến hành hoà giải .
Ví dụ 3: Tại phiên toà, sau khi nghe công bố kết luận giám định,
nếu không đồng ý với kết luận giám định và nhận thấy cần giám định
lại hoặc giám định bổ sung thì Luật sư căn cứ khoản 4 Điều 257 và
điểm d khoản 1 Điều 259 BLTTDS năm 2015 đề nghị Hội đồng xét
xử sơ thẩm tạm ngừng phiên toà.
Thời hạn tạm ngừng là không quá một tháng, hết thời hạn mà lý
do tạm ngừng không còn thì Toà án tiếp tục xét xử, nếu lý do tạm

346
ngừng chưa được khắc phục thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án.
3.5. Kỹ năng thực hiện quyền tranh luận tại phiên toà sơ thẩm
Để thực hiện có hiệu quả và đúng pháp luật quyền tranh luận tại
phiên toà sơ thẩm, Luật sư phải nắm rõ các nguyên tắc, nội dung, cách
thức, đối tượng chủ thể tranh luận và đối đáp khi tranh luận.
Khi phát biểu về đánh giá chứng cứ, đề xuất quan điểm của
mình về việc giải quyết vụ án, Luật sư phải căn cứ vào tài liệu, chứng
cứ đã thu thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên toà cũng
như kết quả hỏi tại phiên toà. Bắt buộc phải viện dẫn bút lục, điều luật
và văn bản pháp luật khi trình bày luận cứ.
Nếu vụ tranh chấp chưa có điều luật áp dụng thì Luật sư có
quyền viện dẫn tập quán để yêu cầu Toà án xem xét áp dụng. Luật sư
chỉ có quyền đề xuất áp dụng tương tư pháp luật để giải quyết vụ án
trong trường hợp các bên không có thoả thuận, pháp luật không có
quy định và không có tập quán viện dẫn áp dụng. Luật sư đề xuất Toà
án áp dụng nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công
bằng khi không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật.
Khi thực hiện tranh luận Luật sư phải tuân thủ sự điều khiển của
chủ toạ phiên toà.
Bản luận cứ trình bày tại phiên toà phải được chuẩn bị trước khi
mở phiên toà nhưng bắt buộc phải cập nhật, sửa chữa, bổ sung các
tình tiết nội dung diễn ra tại phiên toà.
Nội dung bản luận cứ phải thể hiện rõ quan điểm khẳng định
hoặc phủ định của Luật sư đối với từng vấn đề đương sự đang có tranh
chấp, có cơ sở pháp lý, có căn cứ trình bày biện luận cho mỗi vấn đề
đề xuất với Hội đồng xét xử.
Luật sư sau khi trình bày bản luận cứ có quyền đối đáp với Luật
sư đồng nghiệp bảo vệ lợi ích cho các đương sự khác. Mục đích của
việc đối đáp là khẳng định quan điểm của mình và tính hợp pháp của
yêu cầu do khách hàng mình đưa ra trong vụ án nhưng phải thể hiện
thái độ tôn trọng Luật sư đồng nghiệp trong quá trình tranh luận.

347
4. Kỹ năng của Luật sư sau phiên tòa sơ thẩm
Khoản 4 Điều 236 BLTTDS năm 2015 quy định ngay sau khi
kết thúc phiên tòa, những người tham gia tố tụng có quyền được xem
biên bản phiên tòa, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản
phiên tòa và ký xác nhận. Điều này nhằm tạo điều kiện cho người
tham gia tố tụng thực hiện tốt quyền của mình và chủ động phát hiện
những sai sót, nhằm đề nghị sửa đổi, bổ sung cho chính xác, đúng
với thực tế phiên tòa để bảo đảm tối đa quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự. Lưu ý lớn nhất đối với các Luật sư là cần trao đổi với
khách hàng xem có cần kiểm tra biên bản phiên tòa hay không trước
khi rời khỏi phòng xử, tránh việc sau khi rời khỏi phòng xử, quay lại
thì Thư ký Phiên tòa đã không còn ở đó và không thể thực hiện được
việc xem biên bản phiên tòa. Luật sư cần chủ động cùng xem với
khách hàng để cùng nhau phát hiện những nội dung thiếu sót, gây bất
lợi cho khách hàng nhằm kịp thời sửa đổi, bổ sung và ký xác nhận.
Điều 269 BLTTDS năm 2015 quy định trong thời hạn 03 ngày
làm việc kể từ ngày kết thúc phiên tòa, các đương sự, cơ quan, tổ
chức, cá nhân khởi kiện được Tòa án cấp trích lục bản án; trong thời
hạn 10 ngày, kể từ ngày tuyên án thì Tòa án phải giao hoặc gửi bản án
cho đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát
cùng cấp. Vì vậy, Luật sư phải chủ động liên hệ và đề nghị với Tòa án
để được cấp trích lục bản án giúp khách hàng có điều kiện kháng cáo
sớm, tránh việc phụ thuộc phải chờ nhận được bản án; trường hợp
khách hàng muốn chờ bản án để kháng cáo thì Luật sư cũng phải liên
hệ với Tòa án để xác định ngày cụ thể có thể nhận được bản án hoặc
Tòa án gửi bản án sơ thẩm cụ thể hình thức nào (đến Tòa án nhận hay
gửi qua bưu điện) trong phạm vi 10 ngày, nhằm bảo đảm việc kháng
cáo đúng hạn của khách hàng.
Khi nhận thấy việc tuyên án không bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp của khách hàng, không đồng ý với quyết định của bản án sơ
thẩm do không phù hợp với yêu cầu, mục tiêu đã đề ra mà khách hàng
cần kháng cáo thì Luật sư nên chủ động giúp khách hàng làm đơn
kháng cáo để khách hàng yên tâm việc kháng cáo đúng hạn. Kinh
nghiệm thực tiễn cho thấy Luật sư đã gắn bó với khách hàng cả một
quá trình tố tụng vụ án tại cấp sơ thẩm, vì vậy việc dự thảo một đơn

348
kháng cáo miễn phí cho khách hàng cũng là cần thiết và nên làm. Điều
này tạo điều kiện cho sự gắn bó tiếp tục của Luật sư và khách hàng tại
cấp phúc thẩm (nếu khách hàng vẫn có nhu cầu mời Luật sư).
Trường hợp có kháng nghị đối với bản án sơ thẩm, Luật sư cũng
cần chú ý trao đổi để khách hàng biết nội dung kháng nghị vấn đề gì,
lý do và căn cứ kháng nghị để từ đó chủ động khai thác các nội dung
có lợi cho khách hàng tại Tòa án cấp phúc thẩm hoặc phải thu thập
chứng cứ để tìm cách loại bỏ quan điểm kháng nghị.
Trong trường hợp bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm thì Luật sư cũng nên chủ động trao đổi,
hướng dẫn khách hàng thủ tục yêu cầu thi hành án theo quy định của
Luật Thi hành án dân sự để bảo đảm cho bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật được thực thi.
5. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Phân biệt thủ tục hoãn phiên toà với thủ tục tạm ngừng phiên
toà sơ thẩm dân sự?
2. Phân tích những điểm khác nhau cơ bản của phiên toà sơ thẩm
theo thủ tục thông thường với phiên toà sơ thẩm dân sự theo thủ tục
rút gọn?
3. Phân tích những trường hợp bắt buộc Toà án phải hoãn phiên
toà sơ thẩm dân sự?
4. Trình bày hậu quả pháp lý của việc đương sự rút yêu cầu tại
phiên toà sơ thẩm dân sự?
5. Kỹ năng của Luật sư trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa?
6. Kỹ năng của Luật sư trong phần thủ tục tranh tụng?
7. Kỹ năng của Luật sư sau phiên tòa sơ thẩm?
Tình huống:
Ngôi nhà số 106 phố Đ, phường L, quận T, thành phố H đứng
tên cụ Nguyễn Xuân Thích và cụ Nguyễn Thị Sy theo hồ sơ địa chính
lưu tại Sở nhà đất thành phố H mang bằng khoán điền thổ số 1839. Cụ
Thích và cụ Sy sinh được 3 người con chung là bà Nguyễn Thị Mừng,
ông Nguyễn Xuân Việt, ông Nguyễn Xuân Rỡ. Khi sống hai cụ có cho

349
thuê tầng 1 để lấy tiền sinh hoạt hàng ngày. Năm 1996, hai cụ đòi lại
diện tích cho thuê tầng 1 và cải tạo lại thành nhà ba tầng dựa trên cơ
sở tường, móng nhà cũ. Sau khi cải tạo, năm 2002 hai cụ cho Tổng
công ty Cao su Việt Nam thuê mở văn phòng đại diện để lấy tiền sinh
sống. Năm 2004 cụ Nguyễn Xuân Thích chết.
Ngày 09/4/2006, cụ Sy lập di chúc về quyền thừa kế nhà đất
tại 106 phố Đ cho cháu nội đích tôn (con ông Việt) là anh
Nguyễn Xuân Linh. Về nội dung di chúc cho anh Linh hưởng toàn bộ
tài sản thừa kế của cụ Sy. Sau khi cụ Sy mất, nhà đất tại số 106 hiện
do ông Rỡ quản lý. Anh Linh yêu cầu ông Rỡ, bà Mừng thực hiện nội
dung di chúc của cụ Sy nhưng ông Rỡ, bà Mừng không thực hiện nên
đã xảy ra tranh chấp. Anh Linh khởi kiện ông Rỡ, bà Mừng yêu cầu
Tòa án chia thừa kế theo di chúc của cụ Sy. Tòa án có thẩm quyền thụ
lý vụ án. Hồ sơ vụ án thể hiện: cụ Thích qua đời không để lại di chúc.
Ngày 12/02/2010 cụ Sy mất. Di chúc của cụ Sy lập được phòng công
chứng số 1, thành phố H chứng nhận. Di chúc được lập thành 2 bản,
1 bản giao cho anh Nguyễn Xuân Linh, 1 bản lưu tại phòng công
chứng số 1. Tổng công ty Cao su Việt Nam có thuê diện tích nhà
chính tại số 106 phố Đ, phường L để làm văn phòng đại diện tại Hà Nội,
đến thời điểm tranh chấp đã hết hợp đồng và bàn giao trả lại nhà cho
ông Rỡ. Tháng 8/2010 do có mâu thuẫn không giải quyết được nên tại
cơ quan công an phường L, các thừa kế của cụ Thích và cụ Sy đã
thống nhất tạm giao số tiền 120.000.000 đồng tiền thuê nhà do Văn
phòng đại diện Tổng công ty Cao su Việt Nam trả cho Văn phòng đại
diện Tổng công ty Cao su Việt Nam giữ. Anh Linh muốn được hưởng
tài sản thừa kế của cụ Sy bằng tiền.
Tại Tòa án bà Mừng, ông Việt, ông Rỡ có lời khai thống nhất là
nhà, đất của cha mẹ các ông, bà để lại; thời điểm mở thừa kế; hàng
thừa kế đúng như nội dung đã nêu trên. Ông Việt yêu cầu Tòa án giải
quyết việc chia thừa kế tài sản thừa kế của cụ Thích theo quy định của
pháp luật và công nhận di chúc của cụ Sy cho anh Linh được hưởng
tài sản thừa kế, phần của ông Việt, ông đề nghị được nhận bằng tiền.
Bà Mừng, ông Rỡ cho rằng không biết việc cụ Sy lập di chúc dành 1/2
di sản tại nhà số 106 phố Đ cho anh Linh nên không chấp nhận di
chúc của cụ Sy. Ông Rỡ, bà Mừng yêu cầu Tòa án chia tài sản thừa kế
của bố mẹ theo pháp luật và đề nghị được chia bằng hiện vật.

350
Hòa giải không thành, Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Theo kết quả nghiên cứu trong hồ sơ vụ án: Cụ Nguyễn Xuân Thích
và cụ Nguyễn Thị Sy là chủ sở hữu nhà và sử dụng đất nhà số 106 phố Đ,
phường L, quận T, thành phố H mang bằng khoán điền thổ số 1839.
Nhà số 106 phố Đ là nhà 3 tầng nằm trên diện tích đất là 50m2, có
chiều dài là 10m, chiều rộng 5m. Ngoài các con là bà Mừng, ông Việt,
ông Rỡ, cụ Thích và cụ Sy không có con nuôi, con riêng nào khác. Bà
Mừng, ông Việt và ông Rỡ khi trưởng thành, xây dựng gia đình và
không sống cùng cụ Thích và cụ Sy. Tài sản duy nhất của Cụ Thích và
cụ Sy là nhà, đất tại số 106 phố Đ, phường L, quận T, thành phố H. Cụ
Thích chết không để lại di chúc. Di chúc cụ Sy lập được công chứng
viên Trần Quang Pha thuộc phòng công chứng số 1, thành phố H
chứng nhận và xác nhận cụ Sy hoàn toàn minh mẫn và tự nguyện. Thủ
tục lập di chúc đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Nội
dung của di chúc cho anh Linh được hưởng toàn bộ tài sản của cụ Sy.
Theo biên bản định giá lập ngày 23/5/2016 giá trị xây dựng của nhà số
106 phố Đ, phường L, quận T (gồm nhà và cổng) là 217.000.000
đồng, giá trị quyền sử dụng đất là 200.000.000 đồng/m2. Theo lời trình
bày của đại diện theo pháp luật của Tổng công ty Cao su Việt Nam có
nội dung: năm 2002 Tổng công ty có ký hợp đồng với cụ Thích, cụ Sy
thuê diện tích nhà chính tại số 106 phố Đ, phường L, quận T để làm văn
phòng đại diện, nay hợp đồng hết hạn và đã bàn giao trả lại nhà cho
ông Rỡ. Sau khi cụ Sy chết, do những người thừa kế của cụ Thích và
cụ Sy mâu thuẫn không giải quyết được nên đã xảy ra tranh chấp,
công an phường L, quận T phải can thiệp lập biên bản và thống nhất
tạm giao cho Văn phòng đại diện Tổng công ty Cao su Việt Nam giữ
120.000.000 đồng tiền thuê nhà. Tổng công ty đề nghị Tòa án giải
quyết theo pháp luật. Kết quả giải quyết thế nào Tổng công ty xin
chấp hành.
Tại phiên tòa mở lần thứ nhất, có mặt đầy đủ các đương sự, các
đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu và quan điểm của mình.
a) Trên cơ sở tất cả các tình tiết của vụ án, anh (chị) hãy trình bày
nội dung cơ bản của bản luận cứ bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn.
b) Trên cơ sở tất cả các tình tiết của vụ án, anh (chị) hãy trình
bày nội dung cơ bản của bản luận cứ bảo vệ quyền lợi cho bị đơn.

351
Chương 6
KỸ NĂNG THAM GIA THỦ TỤC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
TẠI TÒA CẤP PHÚC THẨM

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này trang bị cho người học: 1. Kỹ năng của Luật sư tư
- Về kiến thức, người học xác định vấn và trợ giúp đương sự
được các công việc cần phải thực kháng cáo
hiện khi tư vấn và bảo vệ quyền lợi 2. Kỹ năng của Luật sư
của đương sự theo thủ tục phúc chuẩn bị tham gia phiên tòa
thẩm trong thủ tục tố tụng dân sự. phúc thẩm
- Về kỹ năng, người học vận dụng 3. Kỹ năng của Luật sư tại
được các kiến thức về phúc thẩm để phiên tòa phúc thẩm
tư vấn và trợ giúp đương sự kháng
cáo phúc thẩm, thực hiện việc 4. Kỹ năng của Luật sư sau
kháng cáo, chuẩn bị cho việc tham phiên toà phúc thẩm
gia phiên toà phúc thẩm; tư vấn, trợ 5. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
giúp đương sự thực hiện yêu cầu
hoãn phiên toà, thay đổi người tiến
hành tố tụng; tư vấn đương sự thực
hiện các quyền tự định đoạt tại
phiên tòa; giúp đương sự trình bày
sự việc, đặt câu hỏi; trình bày bản
luận cứ bảo vệ quyền lợi; đối đáp
với bên kia; thực hiện một số công
việc cần thiết sau phiên tòa phúc
thẩm nhằm bảo vệ quyền lợi của
đương sự.
- Về thái độ, nâng cao ý thức trách
nhiệm về vai trò của Luật sư trong
giai đoạn mới, hình thành niềm say
mê nghề nghiệp.

352
1. Kỹ năng của Luật sư tư vấn và trợ giúp đương sự
kháng cáo
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, sau khi Tòa án cấp
sơ thẩm tuyên án, đương sự và những người tham gia tố tụng khác nếu
không đồng ý với cách giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm thì có quyền
kháng cáo lên Tòa án cấp phúc thẩm để yêu cầu xem xét lại theo thủ
tục phúc thẩm. Như vậy, kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm dân sự là
một quyền tố tụng quan trọng của đương sự và của những chủ thể
khác được pháp luật ghi nhận trong việc không đồng ý với phán quyết
của Tòa án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét lại vụ án.
Tuy nhiên, để thực hiện quyền này người kháng cáo phải thực hiện
một loạt các hoạt động tố tụng như gửi đơn kháng cáo đến Tòa án có
thẩm quyền để bày tỏ quan điểm, thái độ không đồng ý với phần nào
trong bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật; trình bày các yêu cầu kháng cáo của mình; xuất trình các tài
liệu, chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ và lập luận để chứng minh cho
yêu cầu kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp; nộp tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm… Ngoài ra, người kháng cáo khi thực hiện các
hoạt động tố tụng này còn phải tuân theo các điều kiện về nội dung và
thủ tục do pháp luật quy định như người kháng cáo phải có quyền và
lợi ích liên quan đến vụ án, phải có năng lực hành vi tố tụng dân sự,
đơn kháng cáo phải có đầy đủ nội dung theo quy định của pháp luật,
phải kháng cáo trong thời hạn do pháp luật quy định, chỉ kháng cáo
đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật, phải
nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm trong thời hạn pháp luật quy
định… Tất cả những hoạt động tố tụng này đương sự có thể tự mình
thực hiện hoặc ủy quyền cho người khác thực hiện hoặc nhờ sự trợ
giúp của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Luật sư với tư cách người đại diện do đương sự ủy quyền hoặc
với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ
tư vấn và trợ giúp cho đương sự kháng cáo.
1.1. Trao đổi với khách hàng xác định nội dung vụ án
Trong trường hợp Luật sư đã tham gia từ giai đoạn sơ thẩm thì
có thể sẽ tiếp tục tham gia với tư cách người đại diện theo ủy quyền
khi được đương sự ủy quyền hoặc với tư cách người bảo vệ quyền lợi
của đương sự ở giai đoạn phúc thẩm. Luật sư sẽ tiếp tục nghiên cứu,

353
phân tích các tình tiết của vụ án, thu thập thêm chứng cứ để bảo vệ
quyền lợi cho đương sự ở giai đoạn phúc thẩm. Trong trường hợp đến
giai đoạn phúc thẩm Luật sư mới tham gia thì để bảo vệ quyền lợi của
đương sự, Luật sư phải thực hiện các công việc từ những khâu đầu
tiên để nắm bắt nội dung vụ án và yêu cầu khách hàng. Theo đó, Luật
sư cần thực hiện các công việc sau:
- Trao đổi với khách hàng về nội dung vụ án: Ở giai đoạn phúc
thẩm do đã có bản án, quyết định sơ thẩm nên để hiểu rõ về nội dung
vụ án và yêu cầu của khách hàng thì Luật sư đọc lại toàn bộ bản án,
quyết định sơ thẩm; yêu cầu khách hàng trình bày lại nội dung vụ việc
và đưa cho mình toàn bộ hồ sơ vụ án mà khách hàng đã tham gia ở
giai đoạn sơ thẩm để Luật sư nghiên cứu. Trong trường hợp qua lời
trình bày của khách hàng, hồ sơ vụ án mà khách hàng cung cấp, bản
án, quyết định sơ thẩm mà Luật sư thấy có những điểm chưa rõ về nội
dung vụ án thì Luật sư hỏi lại khách hàng.
- Xác định yêu cầu của khách hàng: Sau khi đã nắm rõ về nội
dung vụ án thì Luật sư cần xác định khách hàng mong muốn điều gì.
Trên cơ sở yêu cầu cụ thể của khách hàng, căn cứ quy định của pháp
luật thì Luật sư mới tư vấn, giải thích cho khách hàng thấy rằng họ có
nên kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm không?
Để có thể giúp đỡ, tư vấn cho khách hàng về việc có nên kháng
cáo bản án, quyết định sơ thẩm hay không thì Luật sư cần phân tích
những điểm bất lợi hoặc lợi ích khi kháng cáo hoặc không kháng cáo
để khách hàng quyết định có kháng cáo hay không?
1.2. Xác định các điều kiện kháng cáo
Sau khi đã phân tích những điểm bất lợi hoặc lợi ích của việc
kháng cáo hay không kháng cáo thì Luật sư cần tiếp tục tư vấn, giải
thích cho khách hàng hiểu về các điều kiện kháng cáo để khách hàng
hiểu rõ họ có đủ các điều kiện để kháng cáo hay không nếu họ quyết
định kháng cáo. Theo đó, Luật sư cần tư vấn, giải thích các điều kiện
kháng cáo cho khách hàng như sau:
* Xác định khách hàng có thuộc các chủ thể có quyền kháng cáo
theo quy định của pháp luật không?
Điều 271 BLTTDS năm 2015 quy định: “Đương sự, người đại

354
diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có
quyền kháng cáo bản án sơ thẩm, quyết định tạm đình chỉ giải quyết
vụ án dân sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự của Tòa án
cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ
tục phúc thẩm”. Như vậy, Luật sư cần xác định khách hàng có thuộc
những người có quyền kháng cáo dựa trên các điều kiện sau:
Thứ nhất, Luật sư cần xác định khách hàng có là đương sự hoặc
người đại diện theo pháp luật của đương sự tham gia ở Tòa án cấp sơ
thẩm không?
Theo quy định của pháp luật, chỉ những người có quyền và lợi ích
liên quan đến vụ án dân sự được Toà án cấp sơ thẩm triệu tập tham gia
tố tụng với tư cách là đương sự, người đại diện theo pháp luật của
đương sự mới có quyền kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm. Còn những
người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án dân sự nhưng không
được Toà án sơ thẩm triệu tập tham gia tố tụng với tư cách là đương sự
hoặc người đại diện theo pháp luật thì không có quyền kháng cáo phúc
thẩm. Do đó, nếu khách hàng là người có quyền và lợi ích liên quan đến
vụ án nhưng không được Toà án sơ thẩm triệu tập tham gia tố tụng với
tư cách là đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật thì Luật sư cần
tư vấn cho khách hàng khiếu nại đến những người có thẩm quyền để
yêu cầu người có thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm
theo thủ tục phúc thẩm nếu bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực
pháp luật hoặc kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm nếu bản án, quyết
định sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật hoặc khởi kiện vụ án dân sự nếu
việc khởi kiện đáp ứng các điều kiện khởi kiện vụ án dân sự (có tư cách
chủ thể, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, vụ án chưa
được giải quyết bằng một bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền trừ trường hợp pháp luật có quy định khác).

Ví dụ:
Dòng họ của nhà ông A để lại căn nhà diện tích 100 m2 trên mảnh
đất diện tích 600 m2 tại huyện N, tỉnh P làm di sản dùng vào việc thờ
cúng dòng họ. Ông A quản lý di sản đó. Sau đó, ông A tiếp tục giao
lại tài sản này cho đời sau quản lý. Tuy nhiên, các cháu của ông A là
B, C, D đã khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chia thừa kế. Tòa án huyện N

355
đã triệu tập B, C, D tham gia tố tụng và ra bản án sơ thẩm chia thừa
kế toàn bộ di sản của dòng họ ông A cho 3 người cháu
là B, C, D. Mỗi người được quyền sử dụng đối với 200 m2 đất. Bản
án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật. B, C, D đã làm các thủ tục tách
thửa và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, chú ruột của
B, C, D là E mới biết là các cháu đã đem chia thừa kế di sản dùng
vào thờ cúng và muốn B, C, D trả lại tài sản là nhà và đất cho dòng
họ. Trong trường hợp này E nhờ các Luật sư tư vấn là E có được
quyền kháng cáo bản án sơ thẩm của Tòa án huyện N không?

Trong trường hợp này, trước tiên Luật sư cần yêu cầu ông E
cung cấp toàn bộ hồ sơ vụ án ở sơ thẩm, bản án sơ thẩm, các giấy tờ
chứng minh ông E là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
(giấy tờ chứng minh di sản mà Tòa án chia thừa kế cho B, C, D là tài
sản của dòng họ được dùng vào việc thờ cúng, gia phả dòng họ nhà
ông A để chứng minh ông E là người thuộc dòng họ). Nếu các tài liệu,
chứng cứ mà ông E xuất trình đều chứng tỏ ông E là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thì Luật sư cần giải thích cho ông E
hiểu rằng do ông E không được Tòa án cấp sơ thẩm triệu tập tham gia
tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên theo
quy định tại Điều 271 BLTTDS năm 2015, ông E không thuộc chủ thể
có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm của Tòa án huyện N. Hơn nữa,
bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật nên Luật sư cần tư vấn cho
ông E để ông E thực hiện quyền khiếu nại đến những người có thẩm
quyền để những người này kháng nghị bản án sơ thẩm của Tòa án
huyện N yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét lại theo thủ tục giám
đốc thẩm. Hoặc những người thuộc dòng họ nhà ông A có thể cùng
nhau khởi kiện đòi B, C, D trả lại di sản dùng vào việc thờ cúng.
Thứ hai, Luật sư cần tư vấn khách hàng muốn thực hiện quyền
kháng cáo hoặc ủy quyền kháng cáo thì họ phải là chủ thể có năng lực
hành vi tố tụng dân sự.
Khoản 3 Điều 69, Điều 272 BLTTDS năm 2015 quy định đương
sự muốn tự mình kháng cáo hoặc ủy quyền cho người khác kháng cáo
thì đương sự là người từ đủ mười tám tuổi trở lên và không bị mất năng
lực hành vi dân sự. Tuy nhiên, Luật sư cần giải thích nếu khách hàng là
đương sự thuộc trường hợp từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám

356
tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự
bằng tài sản riêng của mình thì họ có quyền tự kháng cáo hoặc ủy
quyền cho người khác kháng cáo (khoản 6 Điều 69 BLTTDS năm
2015). Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì Luật sư cần xác định năng
lực hành vi tố tụng dân sự của họ dựa trên quyết định của Tòa án.
* Luật sư tư vấn cho khách hàng xác định người thực hiện quyền
kháng cáo
Nếu khách hàng thuộc các chủ thể có quyền kháng cáo như đã
phân tích ở trên thì Luật sư cần giúp đỡ khách hàng xác định người sẽ
thực hiện quyền kháng cáo. Cụ thể:
- Đương sự là cá nhân từ đủ 18 tuổi và không bị mất năng lực
hành vi dân sự (bao gồm cả trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến
chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động
hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình) thì Luật sư cần giải
thích để đương sự biết họ có thể tự mình kháng cáo hoặc ủy quyền cho
người khác kháng cáo. Tuy nhiên, đối với vụ án ly hôn thì đương sự
phải tự kháng cáo mà không được ủy quyền kháng cáo. Trong trường
hợp, các đương sự yêu cầu ly hôn đồng thời yêu cầu giải quyết vấn đề
tài sản, con cái thì đối với phần bản án sơ thẩm giải quyết về tài sản
thì các đương sự vẫn có quyền ủy quyền cho người khác kháng cáo.
- Đương sự là pháp nhân thì Luật sư cần lưu ý xác định pháp nhân
tham gia tố tụng có thuộc trường hợp có nhiều người đại diện theo pháp
luật hay không? Theo quy định tại Điều 141 BLDS năm 2015 và Điều 13
Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì mỗi người đại diện theo pháp luật có
quyền đại diện cho pháp nhân trong phạm vi đại diện theo quyết định
của cơ quan có thẩm quyền, theo điều lệ, quy định nội bộ của pháp
nhân hoặc theo quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa là, căn cứ
vào quyết định của cơ quan có thẩm quyền, điều lệ của pháp nhân hoặc
quy định của pháp luật Luật sư xác định cụ thể người đại diện theo
pháp luật thay mặt pháp nhân thực hiện quyền kháng cáo.

Ví dụ:
Công ty trách nhiệm hữu hạn MP đăng ký kinh doanh trong lĩnh
vực xây dựng, kinh doanh bất động sản. Theo điều lệ của Công ty thì

357
ông A và ông B là người đại diện theo pháp luật, trong đó ông A thực
hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch liên quan đến lĩnh
vực xây dựng của công ty, đại diện cho công ty với tư cách nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài,
Tòa án. Ông B thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao
dịch liên quan đến lĩnh vực kinh doanh bất động sản của công ty, đại
diện cho công ty với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án. Khi công ty MP và công
ty HN ký hợp đồng mua bán bất động sản, trong quá trình thực hiện
hợp đồng hai bên đã xảy ra tranh chấp. Công ty MP khởi kiện ra Tòa
án đòi công ty HN trả khoản tiền nợ 5 tỷ do công ty HN chưa trả
trong hợp đồng mua bán bất động sản. Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án
sơ thẩm quyết định công ty HN trả cho công ty MP 2 tỷ. Công ty MP
muốn kháng cáo bản án sơ thẩm này thì người đại diện cho công ty
MP kháng cáo bản án sơ thẩm là ai?
Trong trường hợp này, Luật sư cần yêu cầu công ty MP cung cấp
toàn bộ hồ sơ vụ án ở sơ thẩm, bản án sơ thẩm, giấy phép đăng ký
kinh doanh, điều lệ của công ty để xác định chính xác người đại diện
theo pháp luật của công ty MP là ai? Để họ thực hiện quyền kháng
cáo. Theo tình huống trên thì công ty MP có nhiều người đại diện theo
pháp luật nên vụ tranh chấp liên quan đến kinh doanh bất động sản thì
ông B là người đại diện theo pháp luật của công ty MP tham gia tố
tụng tại Tòa án. Ông B sẽ thay mặt công ty trách nhiệm hữu hạn MP
kháng cáo bản án sơ thẩm trên.
- Đương sự là thành viên trong hộ gia đình hoặc tổ hợp tác thì
Luật sư cần giải thích theo khoản 1 Điều 101 BLDS năm 2015 quy
định các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức không có tư
cách pháp nhân có thể tự mình kháng cáo hoặc ủy quyền cho một
người đại diện kháng cáo.
- Đương sự là tập thể người lao động trong vụ án lao động thì
Luật sư tư vấn theo khoản 3 Điều 85 BLTTDS năm 2015, tổ chức đại
diện tập thể lao động (Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc Ban chấp
hành công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở nơi chưa thành lập công
đoàn cơ sở) là người đại diện theo pháp luật cho tập thể người lao
động kháng cáo hoặc ủy quyền kháng cáo để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của tập thể người lao động.

358
Trong trường hợp đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của
đương sự không có kinh nghiệm tham gia tố tụng hoặc có sự hiểu biết
pháp luật hạn chế thì theo quy định của BLTTDS năm 2015 đương sự,
người đại diện theo pháp luật của đương sự có thể ủy quyền cho Luật sư
hoặc những người khác đại diện tham gia tố tụng tại Tòa án cấp phúc
thẩm. Tuy nhiên, Luật sư cần giải thích cho khách hàng hiểu theo quy
định khoản 1 Điều 85 BLTTDS năm 2015 ghi nhận khách hàng có thể
ủy quyền cho cá nhân hoặc pháp nhân. Luật sư cũng cần hướng dẫn cho
khách hàng hiểu các điều kiện ủy quyền để việc ủy quyền hợp pháp.
Theo đó, nếu khách hàng ủy quyền cho cá nhân thì cá nhân đó phải đáp
ứng đầy đủ 2 điều kiện sau: (i) là người có năng lực hành vi tố tụng dân
sự theo quy định tại Điều 69 BLTTDS năm 2015; (ii) Họ không thuộc
các trường hợp không được làm người đại diện theo ủy quyền quy định
tại Điều 87 BLTTDS năm 2015. Như vậy, khách hàng có thể ủy quyền
cho Luật sư thay mặt mình kháng cáo. Nếu khách hàng ủy quyền cho
Luật sư thì Luật sư hướng dẫn họ làm các thủ tục ủy quyền. Đó là, Luật
sư hướng dẫn khách hàng làm giấy ủy quyền qua chứng thực tại UBND
hoặc lập hợp đồng ủy quyền qua công chứng hoặc văn bản ủy quyền đó
được lập tại Tòa án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc người được
Chánh án Tòa án phân công. Trong văn bản ủy quyền phải có nội dung
đương sự ủy quyền cho Luật sư kháng cáo bản án, quyết định tạm đình
chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm.
Nếu khách hàng ủy quyền cho pháp nhân thì Luật sư cần giải
thích pháp nhân đó phải có năng lực chủ thể (năng lực pháp luật và
năng lực hành vi tố tụng dân sự) phù hợp với giao dịch được xác lập.
Theo đó, pháp nhân đó phải đủ khả năng để thực hiện công việc được
ủy quyền. Hay nói cách khác, pháp nhân là người đại diện theo ủy
quyền phải có đăng ký kinh doanh hoặc trong nhiệm vụ, quyền hạn
của pháp nhân quy định rõ về việc có thẩm quyền dịch vụ tư vấn pháp
lý; đại diện theo ủy quyền trong hoặc ngoài tố tụng. Như vậy, khách
hàng có thể ủy quyền cho các công ty luật (công ty luật trách nhiệm
hữu hạn hoặc công ty luật hợp danh) thay mặt mình kháng cáo.
Ngoài ra, khách hàng là người lao động trong vụ án lao động thì
Luật sư cần hướng dẫn người lao động có thể ủy quyền cho tổ chức
đại diện tập thể lao động thay mặt mình kháng cáo. Trường hợp nhiều
người lao động có cùng yêu cầu đối với người sử dụng lao động, trong

359
cùng một doanh nghiệp, đơn vị thì họ được ủy quyền cho một đại diện
của tổ chức đại diện tập thể lao động thay mặt họ kháng cáo.
Tuy nhiên, cần lưu ý, trong tất cả các trường hợp trên nếu đương
sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự tự mình kháng
cáo mà không ủy quyền cho Luật sư, công ty luật với tư cách người
đại diện theo ủy quyền thì Luật sư cần giải thích cho khách hàng hiểu
họ có thể nhờ Luật sư tham gia ở giai đoạn phúc thẩm với tư cách
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Khi đó, Luật sư
sẽ hướng dẫn đương sự ký hợp đồng dịch vụ pháp lý để Luật sư giúp
đương sự, người đại diện theo pháp luật của đương sự tham gia tố
tụng ở giai đoạn phúc thẩm.
* Xác định thời hạn kháng cáo
Luật sư dù với tư cách người đại diện theo ủy quyền hay tư cách
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì Luật sư cần
xác định chính xác thời hạn kháng cáo để giúp khách hàng thực hiện
việc kháng cáo.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 273 BLTTDS năm 2015 thì thời
hạn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm là 15 ngày, đối với quyết định là 7
ngày. Do đó, để xác định chính xác thời hạn kháng cáo thì Luật sư cần
xác định thời điểm bắt đầu, kết thúc của thời hạn kháng cáo. Cụ thể:
- Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo bản án sơ thẩm là
ngày tiếp theo của ngày được xác định. Theo đó, ngày xác định là
ngày Tòa án tuyên án nếu đương sự, người đại diện hợp pháp của
đương sự có mặt tại phiên tòa sơ thẩm hoặc đã tham gia phiên tòa
nhưng vắng mặt khi Tòa án tuyên án mà không có lý do chính đáng;
hoặc là ngày đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự nhận
được bản án hoặc bản án, quyết định được niêm yết nếu đương sự,
người đại diện hợp pháp của đương sự không có mặt tại phiên tòa
hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng.
- Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo đối với quyết định
sơ thẩm là ngày tiếp theo của ngày được xác định. Theo đó, ngày xác
định là ngày đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự nhận
được quyết định hoặc kể từ ngày quyết định được niêm yết.
- Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo là thời điểm kết thúc

360
ngày cuối cùng của thời hạn. Nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày
nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) hoặc ngày nghỉ lễ, thì thời hạn
kháng cáo kết thúc vào lúc hai mươi tư giờ của ngày làm việc đầu tiên
tiếp theo ngày nghỉ đó.
Riêng đối với trường hợp vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài thì
Luật sư cần lưu ý các quy định của pháp luật về thời hạn kháng cáo đối
với bản án, quyết định sơ thẩm để xác định chính xác thời hạn kháng
cáo. Theo quy định tại Điều 479 BLTTDS năm 2015 thì đương sự có
mặt tại Việt Nam có quyền kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án
trong thời hạn quy định tại Điều 273 BLTTDS năm 2015; Đương sự cư
trú ở nước ngoài không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo bản
án, quyết định của Tòa án là 01 tháng, kể từ ngày bản án, quyết định
được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án, quyết định được niêm yết
hợp lệ theo quy định của pháp luật; Tòa án xét xử vắng mặt đương sự ở
nước ngoài theo quy định tại điểm c khoản 5 Điều 477 BLTTDS năm
2015 thì thời hạn kháng cáo là 12 tháng, kể từ ngày tuyên án. Do đó,
Luật sư cần chú ý nghiên cứu kỹ việc thực hiện tống đạt các thủ tục tố
tụng của Tòa án theo khoản 4 Điều 477 BLTTDS năm 2015, thời hạn
kháng cáo được tuyên trong bản án, nhằm bảo đảm quyền kháng cáo
của đương sự ở nước ngoài khi Tòa án xét xử vắng mặt.

Ví dụ:
Bản án số 05/HNST ngày 12/7/2016 của Tòa án nhân dân thành
phố HN quyết định cho chị B (người Việt Nam) ly hôn với anh Huyn
Soon (người Hàn Quốc). Thời hạn kháng cáo đối với anh Huyn
Soon và chị B được tính như thế nào?
Trong trường hợp này, Luật sư cần giải thích cho khách hàng:
- Nếu anh Huyn Soon và Chị B đều có mặt tại Việt Nam thì thời
hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án hoặc ngày bản án được
giao cho đương sự hoặc được niêm yết.
- Anh Huyn Soon cư trú ở Hàn Quốc và không có mặt tại phiên
tòa sơ thẩm thì thời hạn kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án là 01
tháng, kể từ ngày bản án, quyết định được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ
ngày bản án, quyết định được niêm yết hợp lệ.
- Tòa án thành phố HN xét xử sơ thẩm vắng mặt anh Huyn Soon

361
(đang ở Hàn Quốc) là do (i) Tòa án không nhận được văn bản thông
báo về kết quả tống đạt cũng như lời khai, tài liệu, chứng cứ của anh
Huyn Soon và đến ngày mở phiên tòa anh không có mặt, không có
đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt thì Tòa án hoãn phiên tòa; (ii)
Ngay sau khi hoãn phiên tòa thì Tòa án có văn bản đề nghị
Bộ Tư pháp hoặc cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ở Hàn Quốc thông báo về việc thực hiện tống đạt văn bản tố
tụng của Tòa án cho anh Huyn Soon trong trường hợp Tòa án thực
hiện việc tống đạt thông qua các cơ quan này theo một trong các
phương thức: Theo phương thức được quy định tại điều ước quốc tế
mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; Theo
đường ngoại giao đối với đương sự cư trú ở nước mà nước đó và nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa cùng là thành viên của điều
ước quốc tế; Theo đường dịch vụ bưu chính đến cơ quan đại diện
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài để tống đạt
cho đương sự là công dân Việt Nam ở nước ngoài. Trong trường hợp
này thời hạn kháng cáo là 12 tháng từ ngày tuyên án.
Ngoài ra, khi xác định về thời hạn kháng cáo, Luật sư cũng cần
lưu ý về trường hợp kháng cáo quá hạn. Theo quy định tại Điều 275
BLTTDS năm 2015 thì Tòa án cũng có thể chấp nhận kháng cáo quá
hạn nếu có lý do chính đáng để đảm bảo quyền tố tụng của các đương
sự. Do đó, Luật sư cần nghiên cứu kỹ nguyên nhân dẫn đến tình trạng
khách hàng đã không kháng cáo trong thời hạn pháp luật quy định để
xác định họ có lý do chính đáng để kháng cáo quá hạn không? Nếu có
lý do chính đáng thì Luật sư cần giúp đỡ khách hàng chuẩn bị đơn
kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo
quá hạn và tài liệu, chứng cứ chứng minh lý do kháng cáo quá hạn để
gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm.
* Xác định phạm vi kháng cáo phúc thẩm
Theo quy định tại Điều 293 BLTTDS năm 2015 thì Tòa án cấp
phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án sơ thẩm, quyết định của Tòa
án cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc
xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Do đó, khi khách hàng muốn
kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm thì Luật sư tư vấn cho họ chỉ
kháng cáo về những vấn đề đã được giải quyết ở sơ thẩm và quyết định
trong bản án, quyết định sơ thẩm. Đối với những nội dung tranh chấp

362
mà Tòa án cấp sơ thẩm chưa giải quyết thì Luật sư cần hướng dẫn
khách hàng không kháng cáo mà có thể khởi kiện thành vụ kiện khác.
1.3. Xác định nội dung kháng cáo
Khi Luật sư nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án ở sơ thẩm, bản án sơ
thẩm, tài liệu, chứng cứ mà khách hàng bổ sung thì Luật sư cần xác
định nội dung kháng cáo tức là xác định những vấn đề mà khách hàng
sẽ kháng cáo. Theo đó, tùy vào từng bản án, quyết định sơ thẩm cụ thể
mà Luật sư hướng dẫn họ quyết định kháng cáo về những vấn đề gì:
- Những vấn đề về quyền, nghĩa vụ của đương sự trong bản án
sơ thẩm;
- Án phí;
- Những vấn đề về thủ tục tố tụng như xác định không đúng tư
cách các đương sự; xác định không đúng thẩm quyền; việc thu thập
chứng cứ và chứng minh không đúng theo quy định của pháp luật;
Thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng quy định của
pháp luật hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng ảnh
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự…
1.4. Chuẩn bị hồ sơ kháng cáo
Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, bản án quyết định sơ thẩm mà
Luật sư cho rằng bản án, quyết định sơ thẩm đã xâm phạm đến quyền
lợi của đương sự và khách hàng đáp ứng đầy đủ các điều kiện kháng
cáo như phân tích ở trên thì Luật sư sẽ giúp đương sự chuẩn bị hồ sơ
kháng cáo. Hồ sơ kháng cáo thông thường bao gồm:
- Đơn kháng cáo;
- Bản sao bản án sơ thẩm;
- Các tài liệu, chứng cứ làm cơ sở cho yêu cầu kháng cáo;
- Đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
(nếu có).
Do đó, kỹ năng chuẩn bị hồ sơ kháng cáo của Luật sư được thực
hiện như sau:
Thứ nhất, Luật sư viết đơn kháng cáo hoặc giúp khách hàng soạn
thảo đơn kháng cáo.

363
Ví dụ:
Chị A và anh B kết hôn năm 2005 trên cơ sở hoàn toàn tự
nguyện, có đăng ký kết hôn. Vợ chồng chị A và anh B có một con
chung là cháu Nguyễn Thị H, sinh 15/12/2005. Sau một thời gian
chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn nên năm 2015 chị B đã
khởi kiện ra Tòa án nhân dân quận N yêu cầu ly hôn với anh B và
yêu cầu giải quyết vấn đề nuôi con, không yêu cầu giải quyết tài
sản. Ngày 31/8/2015, Tòa án quận N đã thụ lý vụ án ly hôn số
14/TL-LHST và đưa vụ án ra xét xử. Bản án ly hôn số 09/LHST
ngày 06/12/2015 của Tòa án nhân dân quận N đã chấp nhận yêu
cầu xin ly hôn của chị A, quyết định cho chị A được ly hôn với anh
Nguyễn Văn B. Các đương sự không yêu cầu giải quyết tài sản
chung. Về con chung, Tòa án đã quyết định giao cháu Nguyễn Thị H,
10 tuổi là con chung cho chị A nuôi và anh B có nghĩa vụ cấp dưỡng
nuôi H là 1 triệu/tháng kể từ khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp
luật đến khi cháu H đủ tuổi thành niên. Chị A không đồng ý với
quyết định của Tòa án về mức cấp dưỡng nuôi H nên muốn kháng
cáo phần bản án sơ thẩm về mức cấp dưỡng nuôi H của anh B. Với tư
cách Luật sư, giúp chị A viết đơn kháng cáo.

Trong trường hợp này, Luật sư giúp đương sự viết đơn kháng cáo.
Đơn kháng cáo phải đảm bảo hình thức và đáp ứng các nội dung quy
định tại khoản 1 Điều 272 BLTTDS năm 2015 và mẫu ban hành kèm
theo Nghị quyết hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TANDTC. Theo
đó, đơn kháng cáo cần có nội dung chính như xác định Tòa án có thẩm
quyền nhận đơn (Tòa án đã ra bản án sơ thẩm bị kháng cáo); tóm tắt
quyết định trong bản án sơ thẩm; những nội dung của bản án sơ thẩm
mà đương sự không đồng ý và các yêu cầu kháng cáo, cụ thể như sau:
Tôi là nguyên đơn trong vụ án ly hôn số 14/TL-LHST được
Tòa án quận N thụ lý ngày 31/8/2015 và được Tòa án xét xử ngày
06/12/2015.
Căn cứ vào bản án ly hôn số 09/LHST ngày 06/12/2015, Tòa án
nhân dân quận N đã chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của tôi, cho tôi được ly
hôn với anh Nguyễn Văn B. Về tài sản chúng tôi có thời gian sống chung
chưa lâu, tài sản chung không có, chúng tôi đã tự giải quyết. Về con

364
chúng tôi có một con chung là cháu Nguyễn Thị H, sinh 15/12/2005. Tòa
án đã quyết định giao con cho tôi nuôi và anh B có nghĩa vụ cấp dưỡng
nuôi con là 1 triệu/tháng kể từ khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật
đến khi cháu H đủ tuổi thành niên. Theo tôi mức cấp dưỡng này là hoàn
toàn không phù hợp. Anh B làm giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn,
thu nhập ổn định, thường xuyên là 10 triệu/tháng, chưa kể các khoản thu
nhập khác. Hiện tại cháu bé phải chi tiêu rất nhiều, tiền đi học của cháu
đã là 2 triệu/tháng chưa kể các khoản nhu cầu khác.
Vì vậy, tôi làm đơn này đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét
lại mức cấp dưỡng nuôi cháu H của anh B. Để phù hợp với sinh hoạt
cụ thể của cháu, tôi đề nghị Tòa án buộc anh B cấp dưỡng nuôi con
là 2.500.000 đồng/tháng.
Kính mong Quý tòa xem xét.
Đơn kháng cáo được gửi kèm theo tài liệu bổ sung (nếu có), xác
định rõ ngày tháng năm làm đơn kháng cáo và có chữ ký của người
kháng cáo.
Thứ hai, trong hồ sơ kháng cáo phải có bản sao bản án sơ thẩm
mà đương sự kháng cáo.
Thứ ba, ngoài những tài liệu, chứng cứ mà khách hàng của
đương sự đã xuất trình ở Tòa án cấp sơ thẩm thì Luật sư sẽ giúp khách
hàng thu thập, chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ bổ sung để chứng minh
cho kháng cáo của khách hàng là có căn cứ và hợp pháp khi nộp kèm
theo đơn kháng cáo.
Thứ tư, Luật sư nếu thấy có căn cứ cần phải bảo vệ bằng chứng,
tránh việc các đương sự tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc để đảm bảo cho
quá trình thi hành án thì sẽ yêu cầu hoặc tư vấn cho khách hàng yêu cầu
Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Hoặc nếu thấy rằng việc
Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là không phù
hợp hoặc không đúng thì có thể yêu cầu Tòa án thay đổi hoặc hủy bỏ
việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Trong trường hợp này, Luật
sư viết đơn yêu cầu áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp hoặc
giúp khách hàng soạn thảo đơn yêu cầu áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện
pháp khẩn cấp. Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp phải có các
nội dung quy định tại khoản 1 Điều 133 BLTTDS năm 2015. Đồng thời
365
Luật sư giúp khách hàng chuẩn bị chứng cứ để chứng minh cho sự cần
thiết phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đó.
1.5. Hướng dẫn khách hàng thực hiện việc kháng cáo
- Luật sư hướng dẫn khách hàng nộp đơn kháng cáo, hồ sơ kháng
cáo cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng
cáo. Luật sư có thể hướng dẫn khách hàng nộp đơn kháng cáo, hồ sơ
kháng cáo bằng phương thức nộp trực tiếp tại Tòa án, gửi đơn đến Tòa
án theo đường dịch vụ bưu chính, hoặc bằng phương thức gửi trực
tuyến qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).
- Sau khi nộp đơn kháng cáo, nếu Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận
đơn kháng cáo hợp lệ và thông báo về việc nộp tiền tạm ứng án phí
phúc thẩm thì Luật sư hướng dẫn khách hàng đi nộp tiền tạm ứng án
phí phúc thẩm tại cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp với Tòa án đã
nhận đơn kháng cáo. Theo quy định tại Điều 28 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án thì người kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm phải
nộp tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm, trừ trường hợp không phải
nộp tiền tạm ứng án phí hoặc được miễn nộp tiền tạm ứng án phí theo
quy định của pháp luật. Mức tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm
theo Danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Luật sư cần hướng dẫn
khách hàng nộp tạm ứng án phí phúc thẩm trong thời hạn 10 ngày, kể
từ ngày nhận được thông báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án
phí phúc thẩm. Hết thời hạn này mà người kháng cáo không nộp tiền
tạm ứng án phí phúc thẩm thì được coi là từ bỏ việc kháng cáo, trừ
trường hợp có lý do chính đáng.
Khi nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm thì người kháng cáo nhận
hai biên lai thu tiền tạm ứng án phí từ cơ quan thi hành án và nộp cho
Tòa án cấp sơ thẩm một biên lai thu tiền tạm ứng án phí phúc thẩm.
Tuy nhiên, khi hướng dẫn khách hàng nộp tạm ứng án phí phúc
thẩm thì Luật sư cần lưu ý xác định các trường hợp được miễn hoặc
không phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm để giúp khách hàng viết
đơn xin miễn nộp một phần hoặc toàn bộ tạm ứng án phí phúc thẩm, án

366
phí phúc thẩm. Căn cứ vào Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14,
Luật sư xác định xem khách hàng có thuộc các trường hợp sau để xin
miễn nộp toàn bộ tạm ứng án phí, án phí:
- Người lao động khởi kiện đòi tiền lương, trợ cấp mất việc làm,
trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, tiền bồi thường về tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp; giải quyết những vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc
vì bị sa thải, chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật;
- Người yêu cầu cấp dưỡng, xin xác định cha, mẹ cho con chưa
thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự;
- Người khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính
trong việc áp dụng hoặc thi hành biện pháp xử lý hành chính giáo dục
tại xã, phường, thị trấn;
- Người yêu cầu bồi thường về tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín;
- Trẻ em; cá nhân thuộc hộ nghèo, cận nghèo; người cao tuổi;
người khuyết tật; người có công với cách mạng; đồng bào dân tộc
thiểu số ở các xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; thân
nhân liệt sĩ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng
nhận gia đình liệt sĩ.
Trường hợp có khó khăn về kinh tế, Luật sư có thể hướng dẫn
khách hàng làm đơn xin miễn một phần hoặc toàn bộ tạm ứng án phí,
án phí. Trong đơn xin miễn phải thể hiện rõ hoàn cảnh kinh tế khó
khăn của khách hàng. Đơn được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn
nơi khách hàng cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi khách hàng làm việc
xác nhận.
2. Kỹ năng chuẩn bị tham gia phiên tòa phúc thẩm
Chuẩn bị tham gia phiên tòa phúc thẩm được bắt đầu từ khi Tòa
án cấp phúc thẩm thụ lý vụ án đến khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án
ra xét xử. Trong giai đoạn này, Luật sư nghiên cứu hồ sơ, giúp các
đương sự đạt được thỏa thuận; thực hiện các đề xuất đối với Tòa án;
thu thập và bổ sung chứng cứ; chuẩn bị phương án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự ở tại phiên tòa...

367
2.1. Các đề xuất của Luật sư đối với Tòa án
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, khi nghiên cứu hồ
sơ và bản án sơ thẩm thì Luật sư có thể đề xuất với Tòa án những
vấn đề sau:
- Được nghiên cứu hồ sơ vụ án
Luật sư với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự có quyền được nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép,
sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án để thực hiện
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, trừ tài liệu,
chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTDS năm 2015 (khoản 2
Điều 76 BLTTDS năm 2015). Do đó, Luật sư nếu lên phúc thẩm mới
tham gia thì cần thiết phải nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án để có thể
giúp đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Ngoài ra, nếu với tư cách người đại diện do đương sự ủy quyền
thì Luật sư có quyền được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ
do đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, trừ tài liệu,
chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 109 BLTTDS nên Luật sư cần
thiết thực hiện quyền này để biết được đầy đủ các tài liệu, chứng cứ
trong vụ án thì mới có thể thay mặt đương sự thực hiện được việc bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
- Đề nghị Tòa án áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp
tạm thời
Đối với việc đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời thì Luật sư cần phải rất thận trọng khi đưa ra đề nghị này, bởi nếu
yêu cầu không đúng mà gây thiệt hại thì khách hàng của mình có thể
phải chịu trách nhiệm bồi thường, gây tốn kém không cần thiết cũng
như tạo thêm không khí nặng nề giữa các bên.
Ngoài ra, nếu thấy biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án sơ
thẩm áp dụng không phù hợp hoặc không cần thiết thì có thể yêu cầu
Tòa án thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.
- Đề nghị Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ xét xử
phúc thẩm
Nếu thấy vụ án có căn cứ quy định tại Điều 288, 289 BLTTDS

368
năm 2015 thì Luật sư đề nghị Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ xét xử
phúc thẩm hoặc ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.
- Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng khác
Luật sư dù với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự hay với tư cách người đại diện do đương sự ủy quyền thì
đều có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng khác nếu Luật sư cho rằng người tiến hành tố tụng ở
Tòa án cấp phúc thẩm, người tham gia tố tụng có căn cứ quy định tại
Điều 52, 53, 54, 60 BLTTDS năm 2015.
- Đề nghị Tòa án thu thập thêm chứng cứ
Theo quy định tại khoản 7 Điều 70 BLTTDS năm 2015 thì
đương sự có quyền đề nghị Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng
cứ của vụ việc mà tự mình không thể thực hiện được; đề nghị Tòa án
yêu cầu đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ đang giữ;
đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang
lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; đề
nghị Tòa án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, quyết
định việc định giá tài sản. Do đó, với tư cách người đại diện theo ủy
quyền thì Luật sư có thể trực tiếp đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ
(với tư cách người đại diện theo ủy quyền) hoặc tư vấn cho đương sự
để đương sự đề nghị Tòa án thu thập chứng cứ khi cho rằng chứng cứ
trong hồ sơ vụ án là chưa đủ căn cứ để giải quyết vụ án mà đương sự
tự mình không thể thu thập được.
2.2. Thu thập và cung cấp các chứng cứ mới cho Tòa án
Nếu Luật sư là người đại diện do đương sự kháng cáo ủy quyền
hoặc là người bảo vệ quyền lợi cho đương sự kháng cáo thì cần chuẩn
bị các tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho kháng cáo là có căn cứ và
hợp pháp. Nếu Luật sư là người đại diện do người không kháng cáo
ủy quyền hoặc là người bảo vệ quyền lợi cho người không kháng cáo
thì cần chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
Tuy nhiên, dù đại diện hay bảo vệ quyền lợi cho người kháng
cáo hay người không kháng cáo thì ngoài các tài liệu, chứng cứ có

369
trong hồ sơ vụ án từ sơ thẩm thì Luật sư cần thu thập hoặc hướng dẫn
khách hàng thu thập bổ sung các tài liệu, chứng cứ bằng các biện pháp
quy định tại khoản 1 Điều 97 BLTTDS năm 2015. Cụ thể:
- Thu thập tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được; thông điệp
dữ liệu điện tử;
- Thu thập vật chứng;
- Xác định người làm chứng và lấy xác nhận của người làm chứng;
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cho sao chép hoặc cung cấp
những tài liệu có liên quan đến việc giải quyết vụ việc mà cơ quan, tổ
chức, cá nhân đó đang lưu giữ, quản lý;
- Yêu cầu UBND cấp xã chứng thực chữ ký của người làm chứng;
- Yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ nếu đương sự không
thể thu thập tài liệu, chứng cứ;
- Yêu cầu Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định, định giá
tài sản;
- Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện công việc khác
theo quy định của pháp luật.
Đối với biện pháp yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cho sao
chép hoặc cung cấp những tài liệu có liên quan đến việc giải quyết vụ
việc mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang lưu giữ, quản lý thì Luật sư
cần giúp khách hàng làm đơn yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung
cấp. Trong đơn nói rõ đương sự là ai, yêu cầu cụ thể về việc gì, mục
đích gì. Trong trường hợp, các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ
hoặc quản lý chứng cứ mà không cung cấp thì Luật sư cần đề nghị cơ
quan, tổ chức, cá nhân phải thông báo bằng văn bản ghi rõ lý do vì sao
không cung cấp chứng cứ. Văn bản trả lời này là cơ sở để khách hàng
chứng minh với Tòa án là họ không thể thu thập được chứng cứ và
yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ.
Đối với các tài liệu, chứng cứ mà Luật sư thấy cần phải giám
định lại, giám định bổ sung thì căn cứ vào Điều 102 BLTTDS
năm 2015 Luật sư hướng dẫn khách hàng yêu cầu Tòa án ra quyết
định trưng cầu giám định. Luật sư cũng cần giải thích cho khách hàng

370
hiểu họ có thể tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị Tòa án
trưng cầu giám định nhưng Tòa án từ chối yêu cầu của đương sự. Khi
yêu cầu Tòa án tiến hành trưng cầu giám định thì Luật sư cũng cần
giúp khách hàng thể hiện bằng văn bản, trong đó nêu rõ lý do vì sao
cần tiến hành giám định lại, giám định bổ sung như nội dung kết luận
giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc phát sinh vấn đề mới liên quan
đến tình tiết của vụ việc đã được kết luận giám định trước đó hoặc có
căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu không chính xác, có vi
phạm pháp luật…
Đối với kết quả định giá tài sản, thẩm định giá tài sản ở sơ thẩm
nếu khách hàng không đồng ý với kết quả đó thì Luật sư có thể hướng
dẫn khách hàng để cùng với đương sự phía bên kia thỏa thuận lại về
giá tài sản tranh chấp hoặc thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá
để định giá lại giá tài sản tranh chấp hoặc cũng có thể tư vấn để khách
hàng yêu cầu Tòa án tiến hành định giá lại tài sản tranh chấp. Khi yêu
cầu Tòa án tiến hành định giá lại tài sản thì Luật sư cũng cần giúp
khách hàng thể hiện bằng văn bản, trong đó nêu rõ lý do vì sao cần
tiến hành định giá lại tài sản như việc thẩm định giá vi phạm pháp luật
hoặc giá không phù hợp với giá của thị trường…
Tất cả các chứng cứ mới thu thập được thì Luật sư cần hướng
dẫn khách hàng cung cấp cho Tòa án cấp phúc thẩm để chứng minh
cho kháng cáo là có căn cứ và hợp pháp hoặc để phản bác lại kháng
cáo của người kháng cáo. Tuy nhiên, Luật sư cần lưu ý các quy định
về quyền bổ sung tài liệu, chứng cứ sau đây trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử phúc thẩm để Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận tài liệu, chứng
cứ bổ sung của mình. Đó là:
- Tư vấn khách hàng cung cấp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp
sơ thẩm đã yêu cầu giao nộp nhưng khách hàng không cung cấp, giao
nộp được vì có lý do chính đáng. Đây là trường hợp đương sự không
thể có được tài liệu, chứng cứ để xuất trình cho Tòa án cấp sơ thẩm68.
Do đó, khi khách hàng xuất trình, bổ sung chứng cứ mới này ở phúc
thẩm thì Luật sư cần giúp khách hàng chứng minh được lý do chính

68
Nguyễn Thị Thu Hà, Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm, Bình luận Khoa
học BLTTDS năm 2015 (Bùi Thị Huyền - Chủ biên), Nxb. Lao động, Hà Nội, 2016, tr. 374.

371
đáng vì sao khách hàng không thể xuất trình những chứng cứ mới này
ở Tòa án cấp sơ thẩm.

Ví dụ:
A khởi kiện B ra Tòa án yêu cầu B trả cho mình khoản tiền nợ
100 triệu đồng. Bản án sơ thẩm của Tòa án huyện N chỉ chấp nhận
buộc B trả cho A 60 triệu đồng trên cơ sở hợp đồng vay nợ giữa A
và B. Còn khoản nợ 40 triệu đồng do A không có chứng cứ để chứng
minh nên Tòa án không chấp nhận. Không đồng ý với bản án sơ
thẩm, A kháng cáo lên Tòa án cấp phúc thẩm yêu cầu B trả cho
mình 100 triệu đồng. Trong trường hợp này, Luật sư cần giúp
đương sự thu thập và cung cấp chứng cứ nào để chứng minh kháng
cáo của A là có căn cứ và hợp pháp?

Trong trường hợp này, Luật sư đã tìm hiểu nguyên nhân của việc
tại sao Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của A đối với
khoản nợ 40 triệu đồng là do khi anh A cho anh B vay khoản nợ này
đã không viết giấy vay nợ nhưng có C là người làm chứng. Tuy nhiên,
khi anh A khởi kiện ra Tòa án thì anh A không thể nào có được lời
khai của anh C do anh C trước đó đi khỏi nơi cư trú mà không rõ địa
chỉ nên anh A không tìm được anh C. Do đó, khi anh A kháng cáo và
lúc này anh C trở về thì Luật sư cần giúp đương sự thu thập ngay lời
khai của anh C để cung cấp cho Tòa án cấp phúc thẩm. Khi giúp
đương sự cung cấp chứng cứ này cho Tòa án cấp phúc thẩm thì Luật
sư cần giúp đương sự có văn bản giải trình về lý do vì sao bây giờ mới
có được lời khai của anh C.
- Tư vấn khách hàng cung cấp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án cấp
sơ thẩm không yêu cầu khách hàng giao nộp hoặc khách hàng không
thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm.
Đây là trường hợp đương sự không biết về sự tồn tại chứng cứ, tài
liệu nên không cung cấp chứng cứ cho Tòa án cấp sơ thẩm, sau này
khi vụ án được xét xử lại ở Tòa án cấp phúc thẩm thì đương sự mới
biết về sự tồn tại của chứng cứ, tài liệu này và cung cấp cho Tòa án
cấp phúc thẩm. Hoặc trường hợp việc đương sự không cung cấp
chứng cứ, tài liệu cho Tòa án cấp sơ thẩm không phải do lỗi của họ

372
mà do lỗi của Tòa án cấp sơ thẩm đã không yêu cầu đương sự giao
nộp bổ sung chứng cứ 69. Do đó, khi khách hàng xuất trình, bổ sung
chứng cứ mới này ở phúc thẩm thì Luật sư cần giúp khách hàng
chứng minh lý do khách hàng không cung cấp chứng cứ mới này ở
Tòa án cấp sơ thẩm.

Ví dụ:
Ông A có ba người con là C, D, E. Trước khi chết ông A có để lại
di chúc và chỉ có mình C biết và C đã giấu đi. Sau đó D khởi kiện ra
Tòa án yêu cầu chia thừa kế vì C giấu di chúc nên D, E không biết là
có di chúc và Tòa án cấp sơ thẩm đã chia thừa kế theo pháp luật.
Sau khi Tòa án cấp sơ thẩm tuyên án, D tình cờ phát hiện ra di chúc
nên đã kháng cáo bản án sơ thẩm. Bản di chúc này có được Tòa án
cấp phúc thẩm chấp nhận không?

Trong trường hợp này Luật sư cần tư vấn cho anh D chứng minh
lý do anh D không cung cấp bản di chúc này ở Tòa án cấp sơ thẩm là
do anh hoàn toàn không biết về sự tồn tại của di chúc này cho đến khi
Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án thì anh D do tình cờ mới tìm thấy bản di
chúc đó.
2.3. Tư vấn khách hàng thực hiện các quyền rút đơn khởi
kiện, rút kháng cáo, thay đổi, bổ sung kháng cáo và thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết vụ án
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, sau khi nghiên cứu
toàn bộ hồ sơ vụ án, bản án sơ thẩm và các tài liệu, chứng cứ trong hồ
sơ và chứng cứ mới thu thập được thì Luật sư có thể tư vấn cho khách
hàng thực hiện các quyền sau:
* Tư vấn cho khách hàng rút đơn khởi kiện
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, nếu khách hàng là
nguyên đơn muốn rút đơn khởi kiện thì Luật sư cần giúp khách hàng
phân tích để thấy được bất lợi, lợi ích khi nguyên đơn rút đơn khởi
kiện ở phúc thẩm, các thủ tục tố tụng cần thực hiện khi nguyên đơn

69
Nguyễn Thị Thu Hà, Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm, Bình luận Khoa
học BLTTDS năm 2015 (Bùi Thị Huyền - Chủ biên), Nxb. Lao động, Hà Nội, 2016, tr. 375.

373
rút đơn khởi kiện cũng như hậu quả pháp lý đối với bản án sơ thẩm.
Cụ thể:
- Nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện trong thời hạn nguyên đơn
có quyền kháng cáo và văn bản trả lời của bị đơn không đồng ý việc
rút đơn khởi kiện của nguyên đơn và trong thời hạn kháng cáo, kháng
nghị không có đương sự nào kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng
nghị, thì việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn đương nhiên không
được chấp nhận. Trong trường hợp này bản án sơ thẩm được coi là
không bị kháng cáo, kháng nghị và có hiệu lực pháp luật kể từ ngày
hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
- Nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện trong thời hạn nguyên đơn
có quyền kháng cáo và được bị đơn đồng ý bằng văn bản thì Tòa án
cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo, kháng nghị, văn bản
rút đơn khởi kiện cho Tòa án cấp phúc thẩm để Tòa án cấp phúc thẩm
căn cứ vào Điều 299 của BLTTDS năm 2015 mở phiên toà giải quyết
vụ án theo thủ tục chung. Còn trường hợp đương sự có kháng cáo
hoặc Viện kiểm sát có kháng nghị, nhưng nguyên đơn rút đơn khởi
kiện trước khi mở phiên toà thì Tòa án cấp phúc thẩm phải tiếp tục mở
phiên tòa giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 299 của
BLTTDS năm 2015.
* Tư vấn khách hàng rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo
Nếu thấy bản án sơ thẩm hoàn toàn chính xác, đúng đắn đồng
thời nhận thấy việc kháng cáo là không có căn cứ thì nên tư vấn cho
khách hàng là người kháng cáo rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo
chứ không nên kháng cáo “cầu may”, vừa mất thời gian, công sức và
tiền bạc cho việc tham gia tố tụng. Tuy nhiên, Luật sư cần hướng dẫn
khách hàng hiểu rằng mặc dù họ rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo
nhưng nếu trong vụ án có nhiều đương sự kháng cáo mà các đương sự
khác không rút kháng cáo thì họ vẫn có thể phải tham gia tố tụng để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Ví dụ:
Bản án sơ thẩm của Tòa án quận TX, thành phố H quyết định
cho anh A và chị B ly hôn, giải quyết vấn đề tài sản, nuôi con.
Trong đó, về phần tài sản chung Tòa án quyết định buộc vợ chồng A

374
và B trả khoản nợ chung cho C là 50 triệu đồng, chị B được sở hữu
căn nhà nhưng có nghĩa vụ trả cho anh B 300 triệu đồng. Anh A
kháng cáo về khoản nợ chung vì lý do Toà án cấp sơ thẩm quyết
định buộc anh A phải thanh toán khoản nợ 50 triệu đồng mà chị B
vay không sử dụng cho mục đích chung của vợ chồng. Chị B kháng
cáo về phần chia tài sản giữa vợ và chồng vì chị cho rằng buộc chị
phải trả cho anh A 300 triệu đồng là không tương xứng với công
sức đóng góp của anh A trong việc tạo dựng ngôi nhà. Chị B có nhờ
Luật sư tư vấn về việc kháng cáo của mình?
Trong trường hợp này, nếu Luật sư nghiên cứu hồ sơ vụ án, bản
án sơ thẩm và các chứng cứ mà chị B cung cấp thì việc chị B cho rằng
việc xây dựng ngôi nhà là công sức chủ yếu của chị B, anh A không
có công sức đóng góp nhưng không có đủ chứng cứ để chứng minh
nên đã tư vấn cho chị B rút đơn kháng cáo. Tuy nhiên, vì anh A không
rút kháng cáo về khoản nợ nên Luật sư cần giúp đỡ chị B trong việc
chứng minh khoản nợ 50 triệu đồng mà chị B vay là khoản nợ chung
của vợ chồng như vay trong thời kỳ hôn nhân, khi vay thì anh A cũng
biết và đồng ý để chị B vay và chứng minh vay để sử dụng vào mục
đích chung của vợ chồng như vay để chữa bệnh cho con hoặc để mua
đồ dùng sinh hoạt cho gia đình chứ không vay để sử dụng vào mục
đích riêng của chị B.
* Tư vấn khách hàng thay đổi, bổ sung kháng cáo
Trong trường hợp nghiên cứu hồ sơ vụ án mà thấy cần thay đổi,
bổ sung kháng cáo thì Luật sư cần hướng dẫn khách hàng thực hiện
quyền này. Tuy nhiên, khi hướng dẫn khách hàng thực hiện quyền
thay đổi, bổ sung kháng cáo thì cần nắm chắc các quy định của pháp
luật tố tụng dân sự để quyền thay đổi, bổ sung của khách hàng được
chấp nhận. Cụ thể:
- Nếu chưa hết thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 273
BLTTDS năm 2015 thì người đã kháng cáo có quyền thay đổi, bổ
sung kháng cáo mà không bị giới hạn bởi phạm vi kháng cáo ban đầu.
Hay nói cách khác để việc thay đổi, bổ sung kháng cáo được Tòa án
cấp phúc thẩm chấp nhận thì Luật sư cần tư vấn cho khách hàng là
trong thời hạn kháng cáo việc thay đổi, bổ sung kháng cáo có thể vượt
quá phạm vi kháng cáo ban đầu nhưng việc thay đổi, bổ sung đó phải
trong phạm vi bản án sơ thẩm.

375
Ví dụ:
Bản án sơ thẩm của Tòa án quận N quyết định cho anh A và chị B ly
hôn, giải quyết vấn đề tài sản, nuôi con. Theo đó, chị B được sở hữu
căn nhà diện tích 100 m2 tại quận N, có nghĩa vụ trả cho anh A 500
triệu đồng. Về con chung, chị B được quyền nuôi dưỡng cháu C (10
tuổi), anh A có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi C 1 triệu đồng/tháng kể từ
khi bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật đến khi cháu C đủ 18 tuổi.
Sau đó, chị B kháng cáo về phần bản án sơ thẩm giải quyết về việc
chị phải trả cho anh A 500 triệu đồng là không chính xác. Trong thời
hạn kháng cáo, chị B muốn bổ sung kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm xem xét lại mức cấp dưỡng nuôi cháu C của anh A. Là
Luật sư bạn hãy giúp chị B xác định bổ sung kháng cáo của chị B có
thể được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận không?

Căn cứ vào Điều 273 BLTTDS năm 2015, Luật sư cần giải thích
để chị B thấy rằng kháng cáo ban đầu của chị B là về việc chia tài sản
chung và bổ sung kháng cáo của chị B về mức cấp dưỡng nuôi con là
vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu nhưng vấn đề mức cấp dưỡng
nuôi cháu C đã được Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết nên việc bổ sung
kháng cáo của chị B được chấp nhận.
- Nếu hết thời hạn kháng cáo thì việc thay đổi, bổ sung kháng
cáo phúc thẩm không được vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu tức là
không được vượt quá phạm vi các kháng cáo được gửi cho Tòa án
trong thời hạn kháng cáo.
* Tư vấn cho khách hàng thỏa thuận với nhau về việc giải quyết
vụ án
Trên cơ sở quyền và lợi ích thực tế của khách hàng mà Luật sư
có thể giúp khách hàng thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án
nhằm giảm thiểu các tổn thương cho nhau, giữ vững hòa khí, giảm bớt
chi phí kiện tụng và tiết kiệm thời gian vào việc tham gia tố tụng. Khi
giúp khách hàng của mình thỏa thuận hoặc thay mặt khách hàng thỏa
thuận với đương sự khác thì Luật sư giải thích cho khách hàng của
mình hiểu rõ về tình trạng pháp lý của họ, những ưu thế và bất lợi của
khách hàng; cần chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ để thuyết phục đối
phương cần thiết đạt được thỏa thuận; thảo luận với khách hàng về

376
những vấn đề cần thiết phải đạt được thỏa thuận, vấn đề cần nhượng
bộ và nếu nhượng bộ thì nhượng bộ đến đâu; đưa ra các giải pháp
khác nhau để khách hàng lựa chọn khi thỏa thuận.
2.4. Xây dựng phương án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của khách hàng
2.4.1. Xác định các vấn đề cần trình bày và hỏi
Để thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm thì Luật
sư cần xác định rõ những vấn đề sẽ trình bày tại phiên tòa phúc thẩm.
Đó là, nếu Luật sư là người đại diện theo ủy quyền hoặc là người bảo
vệ quyền lợi cho đương sự kháng cáo thì Luật sư cần chuẩn bị các nội
dung sẽ trình bày tại phiên tòa: (i) trình bày tóm tắt nội dung của bản
án sơ thẩm; (ii) nội dung kháng cáo và những quyết định trong bản án
sơ thẩm mà khách hàng của mình không đồng ý; (iii) đề xuất yêu cầu
cụ thể. Đối với từng nội dung kháng cáo thì Luật sư cần chuẩn bị cơ
sở của việc kháng cáo dựa trên các chứng cứ, căn cứ pháp lý và các lý
lẽ và lập luận. Nếu Luật sư là người đại diện theo ủy quyền hoặc là
người bảo vệ quyền lợi cho đương sự không kháng cáo thì Luật sư
chuẩn bị những ý kiến sẽ trình bày liên quan đến nội dung kháng cáo
hoặc kháng nghị.
Hiện nay, theo quy định tại Điều 249 BLTTDS năm 2015 thì thứ
tự người hỏi tại phiên tòa phúc thẩm đã có sự thay đổi, đương sự,
người bảo vệ quyền lợi của đương sự được hỏi trước tiên, Hội đồng
xét xử hỏi sau đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Đây là
một quy định mới, rất tiến bộ của BLTTDS năm 2015 nhằm đề cao
vai trò chủ động, tích cực của đương sự, người bảo vệ quyền lợi của
các đương sự đối với việc xác định sự thật của vụ án dân sự. Chính vì
vậy, việc chuẩn bị các câu hỏi trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc
thẩm là vô cùng quan trọng. Các câu hỏi mà Luật sư chuẩn bị cần phải
đáp ứng những điều sau đây:
- Chỉ hỏi về những vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm và
liên quan trực tiếp đến kháng cáo, kháng nghị;
- Đặt câu hỏi rõ ràng, nghiêm túc, không trùng lặp, không lợi
dụng việc hỏi và trả lời để xâm phạm danh dự, nhân phẩm của những
người tham gia tố tụng;

377
- Chỉ hỏi về những vấn đề mà người kháng cáo, người có liên
quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị hoặc những người tham gia
tố tụng khác trình bày chưa rõ, còn mâu thuẫn với nhau hoặc mâu
thuẫn với lời trình bày của người kháng cáo hoặc người tham gia tố
tụng khác;
- Các câu hỏi nhằm làm rõ cơ sở của việc kháng cáo, kháng nghị.
Đối với khách hàng của mình, Luật sư cần chuẩn bị trước cho họ
các nội dung cần trình bày khi được hỏi để cho đương sự có cơ hội
trình bày rõ hơn những vấn đề liên quan đến kháng cáo, kháng nghị,
qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
2.4.2. Xác định các vấn đề cần tranh luận và cơ sở cho việc
tranh luận
- Nếu Luật sư là người đại diện theo ủy quyền hoặc là người bảo
vệ quyền lợi cho đương sự kháng cáo thì Luật sư cần chuẩn bị các nội
dung tranh luận cho kháng cáo của đương sự. Luật sư cần chuẩn bị tất
cả các chứng cứ phục vụ cho việc tranh luận để chứng minh kháng cáo
là có căn cứ và hợp pháp. Đồng thời Luật sư chuẩn bị các văn bản
pháp luật có liên quan dùng làm căn cứ cho các đề xuất của Luật sư.
- Nếu Luật sư là người đại diện theo ủy quyền hoặc là người bảo vệ
quyền lợi cho đương sự không kháng cáo thì Luật sư cần chuẩn bị tranh
luận về các nội dung kháng cáo hoặc kháng nghị để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho khách hàng của mình. Đồng thời Luật sư chuẩn bị các
chứng cứ, lý lẽ, các văn bản pháp luật làm cơ sở cho việc tranh luận.
2.4.3. Xây dựng các phương án bảo vệ
Trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, diễn biến của
vụ án có thể không như những gì mà Luật sư đã dự liệu trước, có thể
xuất hiện các chứng cứ mới tại phiên tòa. Do đó, Luật sư cần xây
dựng các phương án bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của mình.
- Nếu Luật sư là người đại diện theo ủy quyền hoặc là người bảo
vệ quyền lợi cho đương sự kháng cáo thì căn cứ vào tài liệu, chứng cứ
đã có, Luật sư cần xây dựng phương án bảo vệ theo các hướng sau đây:
+ Chấp nhận toàn bộ kháng cáo của khách hàng;
+ Chấp nhận một phần kháng cáo của khách hàng.

378
Ví dụ:
Chị A khởi kiện yêu cầu xin ly hôn đối với anh B và yêu cầu chia
tài sản chung là căn nhà tại quận N với diện tích 100 m2. Bản án sơ
thẩm chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị A nhưng không chấp
nhận yêu cầu chia tài sản chung là căn nhà mà xác định đây là tài
sản riêng của anh B được tạo lập trước khi kết hôn. Chị A không
đồng ý với bản án sơ thẩm về việc xác định ngôi nhà là tài sản
riêng của anh B nên đã kháng cáo lên Tòa án cấp phúc thẩm với lý
do trước khi kết hôn anh B có nói với chị A là mua căn nhà tại quận
N để khi kết hôn hai vợ chồng ở tại đó, chị A có đưa cho anh 500
triệu đồng để mua căn nhà. Tuy nhiên, thời điểm đó chưa kết hôn
nên anh B đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà. Là
Luật sư của chị A bạn xây dựng phương án bảo vệ?

Luật sư cần xây dựng các phương án bảo vệ quyền lợi cho chị A
như sau:
+ Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của chị A xác
định ngôi nhà là tài sản chung của vợ chồng.
+ Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo, buộc anh B
trả lại tiền chị A đã đóng góp mua nhà trước khi kết hôn cũng như
công sức chị A tôn tạo và xây dựng lại ngôi nhà như hiện nay.
- Nếu Luật sư là người đại diện theo ủy quyền hoặc là người bảo
vệ quyền lợi cho đương sự không kháng cáo thì căn cứ vào tài liệu,
chứng cứ đã có, Luật sư cần xây dựng phương án bảo vệ theo các
hướng sau đây:
+ Xác định kháng cáo hoặc kháng nghị là không có căn cứ;
+ Chỉ chấp nhận một phần kháng cáo, kháng nghị.
2.4.4. Chuẩn bị bản luận cứ
Để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng tại phiên tòa phúc thẩm thì
Luật sư cần phải chuẩn bị thật kỹ bản luận cứ. Trong bản luận cứ,
Luật sư sẽ phải phân tích, đánh giá các tài liệu, chứng cứ một cách
toàn diện, đầy đủ, chặt chẽ, lôgic, viện dẫn các quy định của pháp luật
và đưa ra các lý lẽ, lập luận chắc chắn, khoa học để bảo vệ quyền lợi
cho khách hàng của mình. Vì vậy, bản luận cứ sẽ thể hiện được trình

379
độ chuyên môn, khả năng, kinh nghiệm của Luật sư. Ngoài ra, bản
luận cứ sẽ là cơ sở để Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét có chấp
nhận hay không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị.
Về nội dung của bản luận cứ:
Theo quy định tại Điều 293 BLTTDS năm 2015 thì Tòa án cấp
phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án sơ thẩm, quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến
việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Vì vậy, nếu nội dung
Bản luận cứ tại giai đoạn sơ thẩm phải trình bày về tất cả các vấn đề
liên quan đến quyền lợi của khách hàng dựa trên các yêu cầu của các
đương sự, thì nội dung bản luận cứ trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
chỉ tập trung vào những nội dung kháng cáo, kháng nghị có liên quan
đến quyền lợi của khách hàng.
Cơ cấu bản luận cứ tại giai đoạn phúc thẩm về cơ bản tương tự
như bản luận cứ tại giai đoạn sơ thẩm, bao gồm 3 phần chính là: phần
mở đầu, phần nội dung và phần kết luận, đề xuất.
* Phần mở đầu:
- Luật sư tự giới thiệu;
- Nêu lý do tham gia phiên toà.
* Phần nội dung:
Đây là phần quan trọng nhất của bản luận cứ. Toàn bộ các nội
dung kháng cáo, kháng nghị, việc đánh giá tài liệu, chứng cứ, viện dẫn
các quy định của pháp luật và quan điểm của Luật sư về giải quyết vụ
án được thể hiện đầy đủ trong bản luận cứ. Theo đó, phần nội dung
của bản luận cứ được trình bày theo thứ tự sau đây:
- Trình bày tóm tắt nội dung của bản án sơ thẩm;
- Trình bày tóm tắt nhận định và quyết định của Tòa án cấp
sơ thẩm;
- Trình bày về nội dung kháng cáo, kháng nghị;
- Đưa ra quan điểm giải quyết của Luật sư đối với từng vấn đề:
+ Nếu Luật sư là người đại diện theo ủy quyền hoặc là người bảo
vệ quyền lợi cho đương sự kháng cáo thì Luật sư cần trình bày:(i)

380
quan điểm của Luật sư không đồng ý với quyết định nào của Tòa án
sơ thẩm trên cơ sở đưa ra các chứng cứ, tài liệu, quy định của pháp
luật, phân tích lập luận để chỉ ra những sai sót về tố tụng của Tòa án
cấp sơ thẩm, Tòa án sơ thẩm xác định sai các quan hệ pháp luật, xác
định thiếu chứng cứ… để chứng minh phán quyết của Tòa án cấp sơ
thẩm đã xâm phạm đến quyền và lợi ích của khách hàng của mình; (ii)
quan điểm Luật sư để chứng minh kháng cáo là có căn cứ và hợp pháp
trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu, quy định của pháp luật và các lập
luận, lý lẽ chặt chẽ.
+ Nếu Luật sư là người đại diện theo ủy quyền hoặc là người bảo
vệ quyền lợi cho đương sự không kháng cáo thì Luật sư cần trình bày:
(i) quan điểm của Luật sư đồng ý hoặc không đồng ý với quyết định
nào của Tòa án sơ thẩm; đồng ý hoặc không đồng ý với yêu cầu kháng
cáo, kháng nghị nào nhằm bảo vệ quyền lợi cho khách hàng; (ii) quan
điểm Luật sư về việc chấp nhận hoặc không chấp nhận kháng cáo,
kháng nghị.
* Phần kết luận:
- Khẳng định lại các nội dung đã trình bày;
- Đưa ra đề xuất cụ thể với Hội đồng xét xử để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho khách hàng;
- Sau khi trình bày xong phần kết luận đề xuất, Luận sư cần chào
và cảm ơn Hội đồng xét xử.
3. Kỹ năng tham gia phiên toà phúc thẩm vụ án dân sự
3.1. Kỹ năng tham gia thủ tục bắt đầu phiên tòa
Luật sư với tư cách người đại diện theo ủy quyền hoặc người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì trong phần thủ tục bắt
đầu phiên tòa Luật sư cần thực hiện các kỹ năng sau:
* Yêu cầu hoãn phiên tòa phúc thẩm hoặc phản đối quyết định
hoãn phiên tòa phúc thẩm
Nếu Luật sư thấy Hội đồng xét xử không hoãn phiên tòa phúc
thẩm khi có căn cứ quy định tại Điều 296 BLTTDS năm 2015 thì Luật
sư cần đề nghị Hội đồng xét xử xem xét việc hoãn phiên tòa. Hoặc
nếu thấy Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên tòa không dựa trên

381
các căn cứ tại Điều 296 BLTTDS năm 2015 thì cũng đề xuất với Hội
đồng xét xử mở phiên tòa xét xử.
* Yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia
tố tụng
Nếu Luật sư thấy người tiến hành tố tụng ở Tòa án cấp phúc
thẩm, người tham gia tố tụng có căn cứ quy định tại Điều 52, 53, 54, 60
BLTTDS năm 2015 thì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét việc thay đổi
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng.
* Đề xuất với Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ, đình
chỉ xét xử phúc thẩm
Nếu Luật sư thấy vụ án có căn cứ quy định tại Điều 295
BLTTDS năm 2015 thì có thể đề xuất với Hội đồng xét xử ra quyết
định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ xét xử phúc thẩm.
* Tư vấn cho khách hàng quyết định việc rút đơn khởi kiện, rút,
thay đổi, bổ sung kháng cáo, thỏa thuận về việc giải quyết vụ án
Trước đây, theo các điều từ 268 đến 270 BLTTDS năm 2004 thì
thủ tục hỏi về việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn, hỏi về việc thay
đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị, hỏi về việc các đương sự thỏa
thuận với nhau được thực hiện trong phần hỏi, tiến hành sau khi kết
thúc phần thủ tục bắt đầu phiên tòa phúc thẩm. Hiện nay, theo quy
định của BLTTDS năm 2015 thì toàn bộ những vấn đề này được thực
hiện trong phần bắt đầu phiên tòa nhằm đảm bảo thủ tục tranh tụng chỉ
thực hiện tranh tụng những vấn đề về kháng cáo, kháng nghị theo thủ
tục phúc thẩm. Do đó, Luật sư cần tư vấn, giúp đỡ khách hàng cân
nhắc việc thực hiện các quyền rút đơn khởi kiện, rút, thay đổi, bổ sung
kháng cáo, thỏa thuận về việc giải quyết vụ án nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của khách hàng.
3.2. Kỹ năng tham gia thủ tục tranh tụng tại phiên tòa
Đây là phần quan trọng trong phiên tòa phúc thẩm bởi tất cả các
yêu cầu kháng cáo, kháng nghị, các chứng cứ tài liệu chứng minh cho
việc kháng cáo, kháng nghị sẽ được xem xét, phân tích, đánh giá nên
Luật sư cần tập trung cao độ để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng của
mình. Các kỹ năng tranh tụng của Luật sư tại phiên tòa phúc thẩm
tương tự như kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, ở
phiên tòa phúc thẩm Luật sư cần thực hiện các kỹ năng sau:

382
3.2.1. Kỹ năng tham gia thủ tục trình bày
Nếu Luật sư là người đại diện theo ủy quyền hoặc là người bảo
vệ quyền lợi cho đương sự kháng cáo thì Luật sư trình bày nội dung
kháng cáo, căn cứ kháng cáo. Theo đó, phần trình bày của Luật sư cần
thực hiện như sau:
- Trình bày tóm tắt nội dung của bản án sơ thẩm;
- Nội dung kháng cáo và những quyết định trong bản án sơ thẩm
mà khách hàng của mình không đồng ý;
- Đề xuất yêu cầu cụ thể.
Luật sư nên trình bày từng nội dung kháng cáo và nêu căn cứ
cho việc kháng cáo đó dựa trên chứng cứ, căn cứ pháp lý và các lý lẽ
và lập luận.
Nếu Luật sư là người đại diện theo ủy quyền hoặc là người bảo
vệ quyền lợi cho đương sự không kháng cáo thì Luật sư chuẩn bị
những ý kiến sẽ trình bày liên quan đến nội dung kháng cáo hoặc
kháng nghị.

Ví dụ:
Ông A có vợ là bà Q, nhưng ông A lại có quan hệ ngoài hôn nhân
với bà P. Ông A và bà Q có hai người con đẻ là C, D. Ông A và bà P
có một con chung là E. Bà Q có một căn nhà trên diện tích đất 100m2
tại quận N. Ông A chết năm 1990. Bà P chết năm 1995. Sau đó anh E
có sang ở nhờ nhà bà Q. Năm 2010 bà Q chết. Tài sản do anh E
quản lý. Năm 2016, anh E muốn làm thủ tục sang tên cho mình thì C
khởi kiện yêu cầu chia thừa kế. C không đồng ý cho E được hưởng di
sản thừa kế vì E chỉ đến ở nhờ nhà bà Q. Còn E cho rằng bà Q đã
nhận mình làm con nuôi và đã chăm sóc bà Q trong thời gian dài.
Bản án sơ thẩm số 04/2016/DS-ST ngày 16/7/2016 của TAND quận
N đã xác định anh E là con nuôi của bà Q và đã chia thừa kế cho C,
D, E. Trong đó, E là người được sở hữu căn nhà và có trách nhiệm
trả phần thừa kế cho C, D mỗi người là 500 triệu đồng. D không
đồng ý với bản án sơ thẩm nên đã kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm xét xử lại vụ án này. Với tư cách là Luật sư bảo vệ quyền
lợi cho D thì Luật sư trình bày như thế nào?

383
Luật sư Nguyễn Văn P với tư cách là người bảo vệ quyền lợi cho D
sẽ trình bày như sau: Tôi là Luật sư Nguyễn Văn P, Trưởng Văn
phòng Luật sư M, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội, tôi tham gia phiên
toà hôm nay với tư cách Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
D - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có kháng cáo đối với Bản
án dân sự sơ thẩm số 04/2016/DS-ST ngày 16/7/2016 của TAND quận
N, do được D yêu cầu.
Trong vụ án này, D đã kháng cáo bản án sơ thẩm, không đồng ý
với phán quyết của Tòa án quận N xác định E là người được hưởng di
sản thừa kế của bà Q với những lý do sau đây:
- Quan hệ giữa E và bà Q không phải là quan hệ giữ mẹ kế và
con riêng;
- E chỉ là người đến ở nhờ nhà bà Q;
- Chưa bao giờ bà Q và mọi người trong gia đình bà Q thừa nhận E
là con nuôi;
- Toàn bộ giấy chứng nhận quyền sở hữu ngôi nhà đều được bà Q
giao cho C cầm;
- E chưa từng chăm sóc, nuôi dưỡng bà Q như là mẹ đẻ. Các lời
khai của hàng xóm đều chứng minh điều đó. Luật sư có thể xuất trình
bản trình bày của những người hàng xóm về việc E chưa từng chăm
sóc bà Q.
Với những lý do trên, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu
kháng cáo của D và sửa bản án sơ thẩm, chỉ chia thừa kế cho C, D.
Trong phần này, Luật sư cần ghi chép đầy đủ lời trình bày của
người bảo vệ quyền lợi của đương sự hoặc đương sự. Qua lời trình
bày, nếu thấy điểm nào mâu thuẫn hoặc những tình tiết chưa được thể
hiện trong hồ sơ vụ án mà có lợi cho khách hàng của mình thì cần ghi
lại, nếu bất lợi thì tìm cách để phản bác. Ngoài ra, Luật sư cần lưu ý ở
tại phiên tòa phúc thẩm, để bảo vệ quyền lợi của khách hàng thì Luật
sư có quyền xuất trình các chứng cứ mới. Do đó, Luật sư cần tận dụng
quyền này của khách hàng để bảo vệ quyền lợi cho họ. Tuy nhiên, tại
phiên tòa các đương sự có quyền được biết chứng cứ, tài liệu do
đương sự khác xuất trình nên để có thời gian chuẩn bị chứng cứ, căn
cứ pháp lý, lý lẽ để phản bác lại chứng cứ của đương sự phía bên kia

384
thì nếu các tài liệu, chứng cứ này có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án
nhưng cần phải xác minh thêm thì Luật sư cần đề nghị Hội đồng xét
xử phúc thẩm tạm ngừng phiên tòa (Điều 304 BLTTDS năm 2015).
3.2.2. Kỹ năng tham gia thủ tục hỏi
Theo quy định tại Điều 249 BLTTDS năm 2015 thì thứ tự người
hỏi đã có sự thay đổi, đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự
được hỏi trước tiên, Hội đồng xét xử hỏi sau đương sự và những
người tham gia tố tụng khác. Do đó, các câu hỏi cần tập trung vào giải
quyết kháng cáo, kháng nghị. Luật sư cần lưu ý tất cả những tài liệu,
chứng cứ làm căn cứ cho việc tranh luận của Luật sư đều phải được
hỏi tại phiên tòa. Ngoài ra, Luật sư chỉ đưa ra các câu hỏi để đương sự
trả lời và ghi chép lại các câu trả lời chứ không bình luận, đánh giá về
những vấn đề mà đương sự đã trả lời. Các nhận xét, bình luận, đánh
giá về căn cứ pháp lý, tài liệu, chứng cứ sẽ được trình bày trong phần
tranh luận.
- Đối với khách hàng của mình thì đặt câu hỏi mà trước đó Luật
sư đã có sự trao đổi với khách hàng, tránh tình trạng đặt câu hỏi khó
cho khách hàng của mình dẫn đến việc khách hàng trả lời theo hướng
bất lợi cho chính họ.
Trong vụ án trên thì Luật sư P có thể hỏi D về việc E đến ở nhờ
nhà bà Q từ năm nào? Bà Q có bao giờ nói về việc nhận E là con nuôi
không? Ai là người chăm sóc bà Q? Bà Q giao giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà và đất cho C từ khi nào?
- Đối với đương sự khác thì Luật sư nên đặt câu hỏi nhằm buộc
họ bộc lộ những điểm yếu, bất lợi cho đối phương.
Trong vụ án trên Luật sư P có thể hỏi E về việc E có giấy tờ
pháp lý về việc bà Q đã nhận làm con nuôi không? E thường xuyên đi
công tác và không có vợ con thì người chăm sóc bà Q là ai?
- Đối với những người tham gia tố tụng khác thì đặt câu hỏi phù
hợp với vai trò của họ và phục vụ cho mục đích tranh luận.
Trong vụ án trên, Luật sư P có thể hỏi người làm chứng (hàng
xóm) về lý do E đến ở nhà bà Q? Người thường xuyên chăm sóc bà Q
là ai?

385
3.2.3. Kỹ năng tham gia thủ tục tranh luận
Ở phần tranh luận, Luật sư sẽ đưa ra quan điểm của mình trước
Hội đồng xét xử. Đối với từng nội dung kháng cáo, Luật sư cần nhận
định các tình tiết vụ án, đánh giá chứng cứ và khẳng định giá trị chứng
minh của chứng cứ, viện dẫn các quy định của pháp luật để minh
chứng cho các kết luận và đề xuất của mình.
Ví dụ: trong vụ án trên, bà Q không phải là “mẹ kế” của E vì
theo Từ điển tiếng Việt thì “mẹ kế” có nghĩa là người phụ nữ trong
quan hệ với con vợ trước của chồng mình. Ở đây, E lại là con riêng
của ông A chứ không phải là con vợ trước của chồng bà Q, do đó quan
hệ giữa bà Q với E không phải là quan hệ mẹ kế và con riêng theo quy
định của BLDS.
E không được coi là chăm sóc bà Q như là mẹ con bởi vì, theo
lời khai của C, D và các hàng xóm (đã trình bày ở tại phiên tòa) thì E
chỉ đến ở nhờ chứ không có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như
mẹ con. E thường xuyên đi công tác nên hàng ngày, các con của C, D
thay nhau xuống chăm sóc bà Q.
Khi đối đáp lại với phía bên kia thì Luật sư cần đưa ra luận cứ để
phản bác lại từng luận điểm của đối phương dựa trên các chứng cứ,
căn cứ pháp lý cụ thể.
Trong vụ án trên, nếu là Luật sư bảo vệ quyền lợi cho E thì Luật
sư cần tranh luận như sau: mặc dù E là con riêng của ông A với bà P
nhưng E đã chăm sóc, nuôi dưỡng bà Q trong một thời gian dài, tình
cảm gắn bó như mẹ con. Nhiều lần bà Q bị bệnh nặng nằm viện, toàn
bộ tiền viện phí và chăm sóc bà đều do E thực hiện (có chứng từ kèm
theo do E trả chi phí). Các con của C, D chỉ xuống chơi thăm bà Q
chứ không ở lại chăm sóc bà. Do đó, căn cứ vào quy định tại Điều 654
BLDS năm 2015 cần xác định E là người được quyền hưởng di sản
thừa kế của bà Q.
Luật sư cần lưu ý, trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị thì
Luật sư có quyền phát biểu ý kiến về tính hợp pháp và tính có căn cứ
của kháng nghị.
Đối với bản luận cứ thì Luật sư đã chuẩn bị sẵn nhưng Luật sư

386
cần hoàn chỉnh, bổ sung các luận điểm mới thông qua quá trình tranh
tụng tại phiên tòa. Khi trình bày bản luận cứ Luật sư không nên đọc
mà nên kết hợp giữa nói và đọc để thuyết phục Hội đồng xét xử. Toàn
bộ bản luận cứ đã được chỉnh sửa kèm theo các chứng cứ, tài liệu, văn
bản pháp luật làm căn cứ cho việc đưa ra các kết luận và đề xuất của
mình cần được Luật sư gửi đến Hội đồng xét xử trước hoặc sau khi
trình bày xong bản luận cứ.
4. Kỹ năng của Luật sư sau phiên toà phúc thẩm
Theo quy định tại Điều 315 BLTTDS năm 2015 thì trong thời
hạn 15 ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định phúc thẩm, Tòa án cấp
phúc thẩm phải gửi bản án, quyết định phúc thẩm cho Tòa án đã xét
xử sơ thẩm, Viện kiểm sát cùng cấp, cơ quan thi hành án dân sự có
thẩm quyền, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến việc kháng cáo, kháng nghị hoặc người đại diện hợp pháp
của họ. Do đó, Luật sư cần chủ động đề nghị Hội đồng xét xử cấp
cho khách hàng của mình bản án phúc thẩm trong thời hạn mà pháp
luật quy định.
Trong trường hợp thấy bản án phúc thẩm là không phù hợp với
quy định của pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của
khách hàng thì có thể tư vấn, giúp đỡ đương sự thực hiện quyền khiếu
nại đến những người có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền
xem xét lại bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm. Luật sư có thể giúp đương sự viết đơn khiếu nại hoặc tự mình
viết đơn khiếu nại nếu được khách hàng ủy quyền.
Nếu khách hàng đồng ý với bản án phúc thẩm thì Luật sư có thể
hướng dẫn đương sự các thủ tục để yêu cầu thi hành bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật.
5. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Trình bày kỹ năng tư vấn và trợ giúp đương sự kháng cáo?
2. Trình bày kỹ năng chuẩn bị tham gia phiên tòa phúc thẩm của
Luật sư?
3. Trình bày kỹ năng tham gia thủ tục tranh tụng tại phiên tòa
phúc thẩm của Luật sư?

387
Tình huống:
Năm 1980, ông A và bà B kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng
ký kết hôn. Tháng 7/2016, ông A khởi kiện bà B yêu cầu xin ly hôn,
không yêu cầu giải quyết tài sản. Bà B có yêu cầu giải quyết tài sản
chung của vợ chồng bà với cụ D (mẹ ông A) là căn nhà với diện tích
100 m2 tại huyện P, tỉnh K. Nguồn gốc của căn nhà này được xác định
như sau: sau khi kết hôn vợ chồng ông bà A, B về ở với cụ D là mẹ
của ông A tại huyện N, tỉnh K. Năm 1990, cụ D mua một căn nhà với
diện tích 100 m2 tại huyện P, tỉnh K. Ông A góp 200 triệu đồng là tiền
thừa kế của bố ông, tiền của cụ D là 900 triệu đồng để mua căn nhà
này. Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất mang
tên cụ D. Năm 1999, cụ D phá nhà xây mới, ông A góp 300 triệu đồng,
bà B vay của bà E 200 triệu đồng đưa cho ông A để sửa nhà. Bà B đưa
ra giấy vay nợ giữa bà B và bà E. Giấy vay nợ chỉ có chữ ký của bà B
và bà E, không có chữ ký của ông A.
Tòa án huyện N xét xử sơ thẩm đã ra Bản án sơ thẩm số
09/LHST ngày 12/12/2016 như sau:
- Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông A với bà B.
- Xác định căn nhà với diện tích 100 m2 tại huyện P, tỉnh K là
của cụ D.
- Bác yêu cầu của bà B về việc đòi xác định căn nhà với diện tích
100 m2 tại huyện P, tỉnh K là tài sản chung của vợ chồng bà với cụ D
và yêu cầu chia nhà của bà B.
- Bà B được quyền lưu cư tại phần gác lửng có diện tích 30 m 2
(phải để lối đi chung từ tầng 1 lên tum và sân) trong thời hạn 6 tháng.
Là Luật sư của bà B, anh (chị) hãy giải quyết những vấn đề sau:
a) Tư vấn cho bà B có nên kháng cáo Bản án sơ thẩm số
09/LHST ngày 12/12/2016 của Tòa án huyện N không?
b) Nếu Bà B quyết định kháng cáo thì Luật sư chuẩn bị hồ sơ
kháng cáo cho bà B?
c) Luật sư xây dựng các phương án bảo vệ quyền lợi cho bà B?
d) Luật sư chuẩn bị bản bảo vệ quyền lợi cho bà B?

388
Chương 7
KỸ NĂNG THAM GIA THỦ TỤC XÉT LẠI BẢN ÁN,
QUYẾT ĐỊNH ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này sẽ trang bị cho người học: 1. Kỹ năng của Luật sư tham
- Về kiến thức, cung cấp cho người gia thủ tục giám đốc thẩm
học những kiến thức cơ bản về thủ 2. Kỹ năng của Luật sư tham
tục giám đốc thẩm; thủ tục tái thẩm; gia thủ tục tái thẩm
thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định
3. Kỹ năng của Luật sư tham
của Hội đồng Thẩm phán TANDTC
gia thủ tục đặc biệt xem xét
trong tố tụng dân sự Việt Nam.
lại quyết định của Hội đồng
- Về kỹ năng, người học áp dụng Thẩm phán Tòa án nhân dân
được kỹ năng nghề nghiệp cơ bản, tối cao
đặc thù của Luật sư như (i) kỹ năng
4. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
xác định các căn cứ và điều kiện
kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm,
yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét
theo thủ tục đặc biệt bản án, quyết
định của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC; (ii) chuẩn bị tham gia
phiên tòa, phiên họp xem xét bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
(iii) tham gia phiên tòa; phiên họp
xem xét lại quyết định của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC.
- Về thái độ, người học có thái độ,
ứng xử chuẩn mực phù hợp với quy
tắc đạo đức nghề nghiệp của Luật sư
trong quá trình tham gia giải quyết
thủ tục xét lại bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật.

389
Phần 5 BLTTDS năm 2015 quy định thủ tục xét lại bản án, quyết
định dân sự đã có hiệu lực pháp luật gồm các thủ tục riêng biệt là: (1)
thủ tục giám đốc thẩm; (2) thủ tục tái thẩm và (3) thủ tục đặc biệt xem
xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC. Mỗi thủ tục có
một quy trình tố tụng riêng, tuy nhiên các thủ tục đều tuân thủ nội
dung cơ bản sau đây: (i) kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm, yêu cầu,
kiến nghị, đề nghị xem xét theo thủ tục đặc biệt bản án, quyết định của
Hội đồng Thẩm phán TANDTC; (ii) chuẩn bị phiên tòa, phiên họp
xem xét bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật; (iii) phiên họp
xem xét bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và (iv) các hoạt
động tố tụng sau phiên tòa, phiên họp của các chủ thể có thẩm quyền.
Thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật như là
phương tiện để Tòa án sửa chữa, khắc phục những sai lầm trong việc
giải quyết các vụ việc dân sự, bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa
án có căn cứ và hợp pháp. Đồng thời, thủ tục này có ý nghĩa trong
việc bảo đảm thực hiện các quyền tố tụng của đương sự, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự, khôi
phục niềm tin của nhân dân vào nền công lý70. Vì thế, kỹ năng tham
gia thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Luật
sư có vai trò quan trọng để vụ việc dân sự được giải quyết đúng pháp
luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, ổn định trật tự
xã hội.
Ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm, ngay từ đầu Luật sư có thể giúp
đương sự chuẩn bị hồ sơ khởi kiện, hồ sơ kháng cáo và tham gia trực
tiếp vào quá trình giải quyết vụ án. Đối với thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm, xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì
BLTTDS năm 2015 quy định Luật sư chỉ có thể tham gia vào các hoạt
động sau: giúp đương sự đề nghị kháng nghị (không áp dụng đối với
thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC) và
trong trường hợp được Tòa án triệu tập, Luật sư (với tư cách là người
đại diện hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự) có thể
tham gia phiên tòa, phiên họp xem xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật.

70
Xem: Học viện Tư pháp, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, 2014,
tr. 343.

390
1. Kỹ năng của Luật sư tham gia thủ tục giám đốc thẩm
1.1. Xác định căn cứ, điều kiện kháng nghị giám đốc thẩm
Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật trong những trường hợp đặc biệt71 khi bị kháng
nghị giám đốc thẩm. Vì vậy, nếu đương sự có quyền kháng cáo bản án
sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm, thì đối với bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật, chỉ có những người có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật mới có quyền kháng nghị giám đốc thẩm vụ việc dân sự
trên cơ sở có đơn yêu cầu xem xét kháng nghị của các chủ thể được
BLTTDS năm 2015 quy định (trong đó có đương sự)72 khi thỏa mãn
những căn cứ kháng nghị theo Điều 326 BLTTDS năm 2015. Do đó,
căn cứ và điều kiện xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
theo thủ tục giám đốc thẩm là một nội dung rất quan trọng. Với vai trò
là người đại diện theo ủy quyền hoặc là người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho đương sự, Luật sư phải xác định được căn cứ, điều kiện
giám đốc thẩm.
1.1.1. Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm
Thủ tục giám đốc thẩm thực chất là một thủ tục xét lại bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát
hiện có sai lầm của Tòa án khi nhận định về những tình tiết, sự kiện
của vụ án hoặc có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải
quyết vụ án. Vì thế, để kiểm tra tính hợp pháp, tính có căn cứ của
các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, Luật sư
phải căn cứ quy định tại Điều 326 BLTTDS năm 2015 để xem xét
có cơ sở kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hay không, cụ thể
là các căn cứ sau:
Thứ nhất, “kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp
với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự”73. Khi xem xét, đánh giá căn cứ này, Luật
sư phải làm rõ ba yếu tố thỏa mãn: (1) kết luận trong bản án, quyết
định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; (2) việc
kết luận không phù hợp với các tình tiết khách quan đó phải gây thiệt
71
Xem: Điều 325 BLTTDS năm 2015.
72
Xem: khoản 1 Điều 327 BLTTDS năm 2015.
73
Điểm a khoản 1 Điều 362 BLTTDS năm 2015.

391
hại cho quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và (3) là người có
đơn đề nghị theo quy định tại Điều 328 BLTTDS năm 2015 phải là
người có quyền, lợi ích bị thiệt hại chứ không phải bất kỳ đương sự
trong vụ việc dân sự đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật (dựa vào kết luận trong bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật, có đương sự có quyền, lợi ích bị thiệt hại nhưng có
đương sự có quyền, lợi ích không bị thiệt hại, thậm chí có lợi hơn dựa
trên kết luận đó của Tòa án). Yếu tố (1) là điều kiện cần và yếu tố (2),
(3) là điều kiện đủ khi xem xét căn cứ này. Tình tiết khách quan của
vụ án là những tình tiết tồn tại ngoài ý muốn chủ quan của con người
có liên quan đến vụ án mà Tòa án đã giải quyết. Để đánh giá nhận
thức đúng đắn về các tình tiết vụ án, Tòa án phải có quan điểm toàn
diện và khách quan. Mỗi tình tiết phải được Tòa án xem xét thận
trọng, đánh giá đầy đủ các mặt, mối liên hệ nội tại trong bản thân tình
tiết, cũng như trong mối quan hệ biện chứng với các tình tiết khác của
vụ án. Tòa án phải lấy sự thật làm căn cứ, không được suy diễn hoặc
đưa ra những kết luận có tính duy ý chí về vụ án khi chưa xem xét,
đánh giá toàn bộ các tình tiết vụ án. Theo đó, khi đánh giá kết luận của
Tòa án không phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án, thì Luật
sư có thể nhận diện điều này dưới các dạng sau: (i) Chưa đủ các chứng
cứ, tài liệu để giải quyết vụ án nhưng tòa án vẫn thực hiện việc giải
quyết vụ án nên nhận định của Tòa án thiếu cơ sở; (ii) Tòa án đánh giá
sai chứng cứ, tài liệu trong vụ án (đánh giá sai tính khách quan, tính
hợp pháp, tính liên quan của chứng cứ) nên quyết định giải quyết vụ
việc dân sự sai; (iii), kết hợp cả hai trường hợp trên.

Ví dụ:
Trong vụ án chia thừa kế, dựa trên lời khai của các đương sự và
chứng cứ mà các đương sự cung cấp, Tòa án đã xác định ngay có 5
người ở hàng thừa kế thứ nhất của người chết được nhận di sản
thừa kế theo pháp luật. Thực tế, trước khi chết, người để lại di sản
còn có một người con nuôi ở địa phương khác mà các đồng thừa kế
tham gia tố tụng cố tình giấu đi vì mục đích muốn được hưởng một
suất thừa kế có giá trị lớn hơn. Hoặc trong vụ án về bồi thường tai
nạn lao động, Tòa án xác định là tai nạn lao động, buộc chủ sử
dụng lao động bồi thường cho người lao động. Nhưng thực tế, đây

392
không phải là tai nạn lao động vì tai nạn xảy ra ngoài thời gian làm
việc và địa điểm tai nạn nằm ngoài cung đường từ nơi người lao
động làm việc về nhà hoặc không thuộc trường hợp người lao động
phải thực hiện công việc của chủ sử dụng lao động giao vì lợi ích
của người sử dụng lao động,…74

Đương sự trong thủ tục giải quyết vụ án dân sự là nguyên đơn,


bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan75, đương sự trong thủ
tục giải quyết việc dân sự là người yêu cầu và người có liên quan đến
việc giải quyết việc dân sự 76. Quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự bị thiệt hại nghĩa là lợi ích vật chất cũng như tinh thần của đương
sự bị xấu đi, khác với quyền và lợi ích của đương sự bị thay đổi (có
thể xấu đi hoặc tốt lên). Luật sư phải xác định chỉ khi nào quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự bị xấu đi thì mới có căn cứ xem xét
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Điều này liên quan mật thiết
đến việc Luật sư xác định đúng tên, địa chỉ của người đề nghị trong
đơn đề nghị xem xét thủ tục giám đốc thẩm theo Điều 328 BLTTDS
năm 2015.
Thứ hai, “có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho
đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn
đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy
định của pháp luật”77. Để xác định được căn cứ kháng nghị thủ tục
giám đốc thẩm này, Luật sư phải hiểu được thế nào là có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Thủ tục tố tụng ở đây có thể hiểu là trình
tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự sơ thẩm, phúc thẩm theo quy định
của BLTTDS năm 2015. Vi phạm thủ tục tố tụng có thể là vi phạm
các nguyên tắc cơ bản của BLTTDS, vi phạm về thẩm quyền thụ lý
cấp sơ thẩm, phúc thẩm của tòa án, vi phạm quy định về thành phần
Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm, phúc thẩm, xác định sai tư cách hoặc bỏ
sót đương sự ở cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm…

74
Học viện Tư pháp, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, 2014, tr. 346.
75
Xem: Điều 68 BLTTDS năm 2015.
76
Xem: khoản 2 Điều 362 BLTTDS năm 2015.
77
Điểm b khoản 1 Điều 326 BLTTDS năm 2015.

393
Ví dụ: BLTTDS năm 2015 quy định hòa giải trong thủ tục công
nhận thuận tình ly hôn là thủ tục bắt buộc trước khi mở phiên họp giải
quyết yêu cầu thuận tình ly hôn của vợ và chồng ở cấp sơ thẩm nhưng
Thẩm phán đã không tiến hành hoặc ở phiên tòa sơ thẩm, bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt lần thứ nhất có lý do
chính đáng và họ không yêu cầu xử vắng mặt nhưng Tòa án vẫn xử
vắng mặt là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng,…
Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng đều là căn cứ để xét lại bản án, quyết định có hiệu lực
pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm. Chỉ có vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng khiến cho đương sự không thực hiện được quyền,
nghĩa vụ tố tụng của mình dẫn đến quyền, lợi ích hợp pháp không
được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật. Để xác định đương sự
không thực hiện được quyền và nghĩa vụ tố tụng bắt buộc, Luật sư
phải đối chiếu, so sánh giữa quy định pháp luật ghi nhận quyền và
nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong vụ án dân sự và người yêu cầu, người có liên quan
trong việc dân sự78 và hoạt động thực hiện quyền đương sự trên thực
tế. Hoạt động thực hiện quyền và nghĩa vụ này được ghi nhận cụ thể
trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Luật sư phải nghiên cứu các tài liệu có
trong hồ sơ vụ án như thông báo thụ lý vụ án, biên bản phiên tòa sơ
thẩm, phúc thẩm, biên bản định giá tài sản, xem xét, thẩm định tại
chỗ… để tìm ra sự chưa đồng nhất giữa quy định pháp luật và hoạt
động tố tụng mà cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện có làm cho
đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình hay
không. Kết luận của việc đương sự không thực hiện được quyền,
nghĩa vụ tố tụng thì Luật sư có thể dựa vào căn cứ: (i) Thẩm phán có
thẩm quyền bỏ sót người tham gia tố tụng (theo tình tiết vụ án thì có
nhiều người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng Tòa án chỉ xác
định một người) hoặc (ii) Thẩm phán giải quyết vụ việc xác định đưa
đầy đủ số lượng đương sự nhưng xác định sai tư cách đương sự (đáng
nhẽ đương sự là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan lại xác định là
bị đơn) hoặc (iii) đưa đầy đủ số lượng đương sự nhưng không cho
78
Xem: Điều 70 đến Điều 74 BLTTDS năm 2015.

394
đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật
(không cho đương sự bổ sung chứng cứ tại phiên tòa sơ thẩm dù
chứng cứ đó là tình tiết, sự kiện mới phát sinh),... Ngoài ra, Luật sư
còn phải thu thập chứng cứ chứng minh việc đương sự không thực
hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng đó đã dẫn đến việc quyền, lợi ích
hợp pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật.
Đương sự không được bảo vệ theo đúng quy định pháp luật là việc
quyền, lợi ích của đương sự trong bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật không được tiệm cận với quyền, lợi ích hợp pháp mà đáng lẽ
ra họ được hưởng theo quy định của pháp luật. Để xác định được yếu
tố này, Luật sư phải căn cứ vào từng quy định pháp luật nội dung cụ
thể được áp dụng cho từng vụ việc (BLDS qua các thời kỳ, văn bản
pháp luật nội dung chuyên ngành như Luật HN&GĐ, Luật Đất đai,
Luật Nhà ở,…) để xem xét sau khi đánh giá, sử dụng các chứng cứ có
trong hồ sơ vụ án được các bên đưa ra để lập luận, chứng minh cho
yêu cầu dân sự của mình.
Thứ ba, “có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc
ra bản án, quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba”79. Với căn cứ này,
Luật sư phải xác định được: (1) có sai lầm trong việc áp dụng pháp
luật là sai lầm của Tòa án áp dụng sai các quy định về pháp luật nội
dung như quy định pháp luật về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động khi đưa ra phán quyết về quyền và nghĩa vụ của
các bên; (2) ra bản án, quyết định không đúng có thể được thể hiện ở
những nội dung như: không xác định đúng quan hệ pháp luật tranh
chấp, quyền và nghĩa vụ các bên trong án…, (3) hậu quả của việc ra
bản án, quyết định không đúng đã dẫn đến quyền và lợi ích của đương
sự không được đảm bảo, bị thiệt hại, giảm sút, (4) xâm phạm đến lợi
ích công công, lợi ích của Nhà nước là làm ảnh hưởng, làm xấu đi
hiện trạng tài sản, giá trị tinh thần của Nhà nước như: tài sản thuộc sở
hữu của toàn dân do Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý, ví dụ: đất
đai, sông hồ…; lợi ích chung dành cho mọi người và xã hội, ví dụ:
công viên, cầu đường, bệnh viện, trường học… Tài sản nhà nước và
79
Điểm c khoản 1 Điều 326 BLTTDS năm 2015.

395
lợi ích công cộng có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Vì thế, pháp luật quy
định bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà ảnh hưởng đến
những lợi ích này là một trong những yếu tố để xem xét kháng nghị
giám đốc thẩm; (5) xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người
thứ ba. Người thứ ba trong giao lưu dân sự có thể là người không có
bất kỳ mối quan hệ nào với giao dịch dân sự, với nguyên đơn, bị đơn
nhưng lại bị ảnh hưởng bởi việc thực hiện các giao dịch đó. Người thứ
ba cũng có thể là những người không có bất kỳ mối quan hệ nào với
giao dịch của nguyên đơn, bị đơn nhưng lại bị ảnh hưởng bởi việc
thực hiện giao dịch đó hoặc là những người không xác lập giao dịch
nhưng lại được hưởng lợi từ việc xác định giao dịch. Vì thế, căn cứ
vào từng vụ việc dân sự cụ thể, Luật sư xác định chủ thể nào là người
thứ ba và từ đó xác định được thiệt hại mà người thứ ba phải chịu.
1.1.2. Thời hạn xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật theo thủ giám đốc thẩm
Thời hạn xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
được BLTTDS năm 2015 quy định dựa trên tính chất pháp lý của mỗi
thủ tục tố tụng trên cơ sở hài hòa giữa việc đảm bảo tính ổn định của
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng không vi phạm
quyền được tiếp cận công lý tới cùng của đương sự và các chủ thể
khác. Theo quy định tại khoản 1 Điều 334 BLTTDS năm 2015, người
có thẩm quyền kháng nghị có thời hạn là 03 năm kể từ ngày bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Ngoài ra, Luật sư cũng cần phải lưu ý những trường hợp kéo dài
thời hạn kháng nghị thêm hai năm kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị
“cứng” được quy định tại khoản 1 Điều 334 BLTTDS năm 2015 80.
Tuy nhiên, để áp dụng được kéo dài thời hạn kháng nghị như thế này
thì Luật sư phải xác định được việc kháng nghị phải thỏa mãn các điều
kiện sau:
+ Điều kiện đương sự đã có đơn đề nghị xem xét kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm trong thời hạn một năm, kể từ ngày bản
án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật và sau khi hết thời hạn
kháng nghị (ba năm kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu

80
Xem khoản 2 Điều 334 BLTTDS năm 2015.

396
lực pháp luật) đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị xem xét kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
+ Điều kiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật có vi phạm pháp luật dẫn đến kết luận trong bản án, quyết định
không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại
đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự 81, xâm phạm nghiêm trọng
đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm
phạm lợi ích của cộng đồng, lợi ích của Nhà nước và phải kháng
nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật đó.
1.1.3. Thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm
Trên cơ sở có văn bản yêu cầu xem xét lại bản án, quyết định đã
có hiệu lực của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác, Chánh án TAND cấp tỉnh, Chánh án TAND cấp
cao, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban tư pháp của Quốc hội, Viện
trưởng VKSNDTC, Chánh án TANDTC82 trong những trường hợp cụ
thể, BLTTDS năm 2015 trao thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết
định cho các chủ thể nhất định tùy thuộc vào từng tính chất thủ tục
xem xét lại.
Chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm được quy
định tại Điều 331 BLTTDS năm 2015. Theo quy định này, Luật sư
sẽ xác định được thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm, đó là:
(i) Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC có thẩm quyền
kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
nhân dân cấp cao, các bản án, quyết định đã có hiệu luật pháp luật
khác nhưng phải trong trường hợp xét thấy cần thiết (trừ quyết định
giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC)83.
(ii) Chánh án TAND cấp cao, Viện trưởng VKSND cấp cao có
thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của TAND cấp tỉnh, TAND cấp huyện trong phạm vi thẩm quyền theo
lãnh thổ.

81
Điểm a khoản 1 Điều 326 BLTTDS năm 2015.
82
Điều 327, khoản 1 Điều 353 BLTTDS năm 2015, khoản 1 Điều 358 BLTTDS năm 2015.
83
Khoản 1 Điều 331 BLTTDS năm 2015.

397
1.2. Nghiên cứu hồ sơ xác định căn cứ yêu cầu đề nghị giám
đốc thẩm
Sau khi nắm được các kiến thức pháp luật về xác định các căn cứ
và điều kiện kháng nghị giám đốc thẩm, Luật sư sẽ phải nghiên cứu hồ
sơ vụ việc dân sự và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật giải
quyết vụ việc ấy để xác định được có căn cứ để đề nghị chủ thể có
thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm.
Hồ sơ nghiên cứu sẽ bao gồm: hồ sơ sơ thẩm và hồ sơ phúc
thẩm, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật (cấp sơ thẩm, phúc
thẩm), giấy tờ, tài liệu khác (nếu có).
1.2.1. Mục đích nghiên cứu hồ sơ
Luật sư phải xác định được có căn cứ hợp pháp để đề nghị chủ
thể có thẩm quyền ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
1.2.2. Nội dung nghiên cứu hồ sơ
Các nội dung Luật sư cần làm rõ khi nghiên cứu hồ sơ:
(1) Đánh giá toàn diện các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án do Tòa
án cấp sơ thẩm và phúc thẩm thu thập, cụ thể: (i) Bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật có xác định đúng quan hệ pháp luật đang
tranh chấp hay không. Thực tế xét xử Toà án vẫn có những trường
hợp xác định không đúng quan hệ pháp luật đang tranh chấp; (ii) Việc
xét xử của Toà án có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hay không
như xét xử không đúng thẩm quyền; xét xử vắng mặt các đương sự mà
không chứng minh được đã tống đạt giấy báo cho những chủ thể này
hợp lệ hoặc đã làm đầy đủ các thủ tục như niêm yết công khai tại nơi
cư trú của các đương sự; không hoà giải được do bị đơn cố tình vắng
mặt, hồ sơ đã làm đầy đủ các thủ tục để ghi nhận việc không tiến hành
hoà giải hay không,…; (iii) Hồ sơ mà bản án, quyết định đã có hiệu
lực có khả năng bị kháng nghị đã thu thập đầy đủ chứng cứ chưa?
Việc đánh giá chứng cứ trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật có khách quan hay không. Đánh giá chứng cứ là vấn đề cốt lõi để
giải quyết triệt để vụ án. Trong cùng một hồ sơ vụ án, nhiều trường
hợp Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đánh giá chứng cứ trái ngược
nhau. Trong nhiều vụ án chứng cứ tương tự như nhau, nhưng cùng

398
một cấp Tòa án lại có sự đánh giá chứng cứ một cách khác nhau. Vì
vậy, để xem xét việc đánh giá chứng cứ của Toà án các cấp một cách
khách quan, toàn diện thì Luật sư cần phải so sánh chứng cứ của các
đương sự đưa ra về thời gian, không gian; nghiên cứu hồ sơ phải xem
xét giá trị pháp lý hợp pháp của chứng cứ, so sánh sự mâu thuẫn giữa
các chứng cứ của các đương sự đưa ra; đối chiếu các chứng cứ thu
thập được với việc áp dụng pháp luật để giải quyết.
(2) Những vấn đề liên quan đến bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật như: quyết định của bản án đã có hiệu lực pháp luật có
khả năng bị kháng nghị có hợp tình, hợp lý, phù hợp với thực tế
không, phán quyết đưa ra có phù hợp với đánh giá chứng cứ hay
không? Thực tiễn cho thấy, nhiều trường hợp Tòa án các cấp áp dụng
pháp luật đúng để xét xử nhưng phần quyết định lại không phù hợp
với thực tế.
Ví dụ: Trong vụ án yêu cầu phân chia di sản thừa kế, Tòa án các
cấp xác định đúng thời điểm mở thừa kế, diện và hàng thừa kế, kỷ
phần của từng người thừa kế, nhưng phần quyết định khi phân chia
hiện vật lại không phù hợp với thực tế. Người đáng được nhận chia
hiện vật thì phải nhận chia giá trị và ngược lại hay phân chia di sản
bằng hiện vật cho từng người thừa kế không dành lối đi chung dẫn đến
không thi hành án được…
(3) Chỉ ra những thiệt hại mà đương sự phải chịu do việc vi
phạm pháp luật của Tòa án trong hoạt động giải quyết vụ việc dân sự
thông qua việc ban hành bản án, quyết định bị yêu cầu kháng nghị.
(4) Luật sư phải tìm ra được căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm
trên cơ sở đối chiếu các quy định tại Điều 326 BLTTDS năm 2015 và
các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án liên quan đến quá trình giải
quyết vụ án, nội dung bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và
chỉ ra được: (i) có sự mâu thuẫn, không tương thích giữa kết luận
trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và sự thực khách
quan (là toàn bộ các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án) hoặc (ii) có sự vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng của các chủ thể tiến hành tố tụng
khi không cho đương sự thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng và

399
gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; hoặc (iii) có
sai lầm trong việc áp dụng luật gây thiệt hại cho đương sự và các chủ
thể khác được pháp luật tố tụng bảo vệ (xem mục 1.1).
1.2.3. Phương pháp nghiên cứu hồ sơ
Trước hết, Luật sư nghiên cứu cứu bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật. Sau đó, đối chiếu với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập
được trong hồ sơ để đánh giá bản án, quyết định đúng hay sai. Từ việc
so sánh đó, Luật sư đối chiếu các căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm để
kết luận việc giải quyết vụ việc dân sự đó của Tòa án có thuộc các
trường hợp kháng nghị ở mục 1.1 không? Nếu có thì Luật sư sẽ tư vấn
cho khách hàng soạn thảo đơn yêu cầu gửi chủ thể có thẩm quyền xem
xét ra quyết định kháng nghị. Nếu không có căn cứ thì Luật sư sẽ tư
vấn cho khách hàng từ bỏ yêu cầu kháng nghị giám đốc thẩm bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
1.3. Soạn thảo đơn đề nghị kháng nghị và chuẩn bị hồ sơ đề
nghị kháng nghị giám đốc thẩm
1.3.1. Kỹ năng soạn thảo đơn đề nghị kháng nghị
Mặc dù đã xác định được các điều kiện liên quan đến việc kháng
nghị giám đốc thẩm, Luật sư cần giải thích cho khách hàng: đương sự
không có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm mà chỉ những
người có thẩm quyền mới có quyền kháng nghị trên cơ sở có đơn yêu
cầu kháng nghị của đương sự. Khoản 1 Điều 327 BLTTDS năm 2015
quy định “đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với người có thẩm
quyền kháng nghị để xem xét kháng nghị… để xem xét kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm”. Trường hợp đương sự không tự viết đơn
đề nghị kháng nghị thì Luật sư có thể giúp đương sự soạn thảo đơn.
Để làm tốt kỹ năng này, Luật sư phải xác định được thẩm quyền nhận
đơn của Tòa án, Viện kiểm sát và tính hợp lệ của đơn đề nghị. Để xác
định đúng Tòa án, Viện kiểm sát có thẩm quyền nhận đơn đề nghị
kháng nghị giám đốc thẩm, Luật sư phải căn cứ Điều 331 BLTTDS
năm 2015. Tuy nhiên Luật sư cũng lưu ý trường hợp nộp đơn đề nghị
tại Tòa án, Viện kiểm sát không đúng thẩm quyền thì đơn đề nghị sẽ
được Tòa án, Viện kiểm sát xử lý như sau: (1) Nếu đương sự nộp trực
tiếp đơn đề nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo tại Tòa án, Viện kiểm
sát không có thẩm quyền xem xét, giải quyết đơn, thì Tòa án, Viện

400
kiểm sát giải thích cho đương sự nộp đơn đến người có thẩm quyền
theo quy định của BLTTDS năm 2015. Nếu đương sự vẫn đề nghị
được nộp tại Tòa án, Viện kiểm sát không có thẩm quyền xem xét,
giải quyết đơn, thì Tòa án, Viện kiểm sát nhận đơn, xác nhận ngày
nhận đơn vào đơn đề nghị và chuyển đơn đến Tòa án, Viện kiểm sát
có thẩm quyền xem xét, giải quyết đơn và thông báo cho đương sự
biết. Ngày đề nghị kháng nghị là ngày Tòa án, Viện kiểm sát nhận đơn
đề nghị; (2) Nếu đương sự gửi đơn đề nghị và tài liệu, chứng cứ kèm
theo theo đường bưu chính đến Tòa án, Viện kiểm sát không có thẩm
quyền xem xét, giải quyết đơn, thì Tòa án, Viện kiểm sát nhận được
đơn phải xác nhận ngày nhận đơn vào đơn đề nghị và chuyển đến Tòa
án, Viện kiểm sát có thẩm quyền xem xét, giải quyết đơn và thông báo
cho đương sự biết. Ngày đề nghị kháng nghị là ngày theo dấu bưu
điện nơi gửi.
Luật sư cũng phải xác định tính hợp lệ của đơn đề nghị được thể
hiện ở việc đơn đề nghị có được gửi trong thời hạn BLTTDS
năm 2015 cho phép người yêu cầu được quyền gửi đơn đề nghị và đơn
đề nghị có đáp ứng đủ nội dung, hình thức theo quy định của pháp luật
tố tụng để có những hoạt động phù hợp. Theo quy định của BLTTDS
năm 2015, thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm được quy định ba năm,
nhưng khoản 1 Điều 327 BLTTDS năm 2015 lại quy định: “Trong
thời hạn 01 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực
pháp luật, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án, quyết
định đó thì đương sự có quyền đề nghị bằng văn bản với người có
thẩm quyền kháng nghị quy định tại Điều 331 của Bộ luật này để xem
xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm”. Theo quy định này,
đương sự chỉ có thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật để đưa ra yêu cầu kháng nghị. Do đó, để xác định
đúng căn cứ và điều kiện giúp đương sự kháng nghị thủ tục giám đốc
thẩm, Luật sư đồng thời phải xác định được các điều kiện sau: (1) Yêu
cầu được đưa ra trong thời hạn là 01 năm, kể từ ngày bản án, quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật; (2) Phát hiện có vi phạm pháp
luật trong bản án, quyết định đó phù hợp với Điều 326 BLTTDS
năm 2015.
Ngoài ra, đơn đề nghị kháng nghị thủ tục giám đốc thẩm phải có
các nội dung chính quy định tại Điều 328 BLTTDS năm 2015. Đó là

401
các nội dung: Ngày, tháng, năm làm đơn đề nghị; Tên, địa chỉ của
người đề nghị; Tên bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật được đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm; Lý do đề nghị,
yêu cầu của người đề nghị. Người đề nghị là cá nhân thì phải ký tên
hoặc điểm chỉ và phải có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường,
thị trấn nơi người đó cư trú hoặc phải nộp kèm theo bản phô tô giấy tờ
tùy thân của họ; người đề nghị là cơ quan, tổ chức, thì người đại diện
hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu ở phần cuối
đơn; trường hợp tổ chức đề nghị là doanh nghiệp thì việc sử dụng con
dấu được thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Không chỉ tuân thủ về nội dung, khi soạn thảo đơn đề nghị
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, Luật sư cũng phải tuân thủ
những quy định của pháp luật về hình thức. Theo đó, đơn đề nghị xem
xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục
giám đốc thẩm được làm theo mẫu ban hành theo hướng dẫn của
TANDTC và VKSNDTC.
1.3.2. Chuẩn bị hồ sơ đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm
Khoản 2 Điều 328 BLTTDS năm 2015 quy định: “Kèm theo đơn
đề nghị, người đề nghị phải gửi bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật, tài liệu, chứng cứ (nếu có) để chứng minh cho
những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Như vậy, chỉ với
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì mới là tài liệu bắt buộc
phải có gửi kèm theo khi đương sự gửi đơn yêu cầu kháng nghị cho cơ
quan có thẩm quyền. Đối với tài liệu, chứng cứ khác, BLTTDS quy
định đây là quyền của đương sự. Đương sự có thể nộp kèm theo đơn
hoặc không nộp kèm theo đơn. Việc nộp hay không nộp các chứng cứ
này sẽ không phải là căn cứ để VKSND hoặc TAND yêu cầu đương
sự bổ sung hoặc trả lại đơn trong các trường hợp. Trên cơ sở quy định
pháp luật này, Luật sư sẽ giúp đương sự chuẩn bị tài liệu phù hợp để
gửi kèm đơn kháng nghị và có căn cứ để khiếu nại TAND, VKSND
khi những cơ quan này trả lại đơn yêu cầu với lý do đương sự không
bổ sung tài liệu khác vì đương sự không có nghĩa vụ cung cấp những
tài liệu này.
Luật sư cũng có thể tư vấn cho đương sự có quyền được cung
cấp cho Viện trưởng VKSNDTC hay Viện trưởng VKSND cấp cao có

402
thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm những tài liệu,
chứng cứ chưa được Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm yêu
cầu đương sự giao nộp hoặc đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự
không giao nộp được vì có lý do chính đáng hoặc tài liệu, chứng cứ
mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án.84
Căn cứ vào quy định này của BLTTDS năm 2015, Luật sư có thể giúp
đương sự chuẩn bị những tài liệu, chứng cứ phù hợp.
Ví dụ: Trong trường hợp đương sự muốn yêu cầu chủ thể có
thẩm quyền ra quyết định giám đốc thẩm vụ án chia thừa kế theo pháp
luật, theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, những giấy tờ, tài liệu
Luật sư giúp đương sự chuẩn bị là:
- Đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm (xem mục 1.4).
- Bản án dân sự giải quyết vụ án thừa kế đã có hiệu lực pháp luật
được đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm.
- Các tài liệu chứng cứ (nếu có) để chứng minh cho yêu cầu
kháng nghị của đương sự là có căn cứ và hợp pháp như:
+ Tài liệu, chứng cứ chứng minh kết luận trong bản án không
phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự như: Tài liệu, chứng cứ chứng
minh việc Tòa án ra bản án đã có hiệu lực pháp luật xác định không
đúng thời điểm và địa điểm mở thừa kế, khối di sản thừa kế, nghĩa
vụ tài sản của người để lại di sản chưa đúng, công sức nuôi dưỡng
người để lại thừa kế, công sức bảo quản di sản thừa kế (nếu có), chi
phí mai táng; hoặc chưa xác định trường hợp từ chối nhận di sản, chủ
thể bị truất quyền nhận di sản thừa kế, thừa kế thế vị,...
+ Tài liệu, chứng cứ chứng minh việc Tòa án ban hành bản án đã
có hiệu lực pháp luật phân chia di sản thừa kế không đúng và hợp lý
như: Người thừa kế đáng được nhận hiện vật lại không được nhận. Di
sản thừa kế có thể chia bằng hiện vật nhưng Tòa án lại chia cho một
số thừa kế, còn một số thừa kế phải nhận bằng giá trị hoặc Tòa án chia
bằng hiện vật nhưng không hợp lý như không có lối đi cho người nhận
phần di sản bên trong,...

84
Điều 330 BLTTDS năm 2015.

403
+ Tài liệu, chứng cứ chứng minh có vi phạm nghiêm trọng thủ
tục tố tụng làm cho đương sự không thực hiện được quyền, nghĩa vụ
tố tụng của những chủ thể này như: khi ra quyết định định giá di sản
thừa kế nhưng Tòa án đã không thông báo cho các đương sự trước về
thời gian, địa điểm tiến hành định giá để họ tham dự và phát biểu ý
kiến về việc định giá; hoặc có thông báo cho các đương sự, các đương
sự có tham gia việc định giá nhưng trong biên bản việc định giá không
ghi rõ ý kiến của đương sự,…85
1.4. Nộp đơn và chứng cứ (nếu có) đề nghị kháng nghị giám
đốc thẩm và thực hiện các công việc sau khi nộp đơn
1.4.1. Gửi đơn và hồ sơ đề nghị kháng nghị
Luật sư có thể giúp đương sự gửi đơn yêu cầu kháng nghị và các
chứng cứ cần thiết cho chủ thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc
thẩm. Khi gửi đơn, Luật sư phải xác định được Tòa án, Viện kiểm sát
có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại Điều 337 BLTTDS năm
2015. Luật sư có thể gửi đơn giúp đương sự bằng các cách sau:
- Nộp đơn trực tiếp tại TANDTC hoặc VKSNDTC, TAND cấp
cao hoặc VKSND cấp cao;
- Nộp đơn qua đường dịch vụ bưu chính;
- Gửi trực tuyến đơn bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin
điện tử của Tòa án (nếu có).86
Khi nộp đơn (cả ba cách trên) thì việc giao nhận chứng cứ được
thực hiện theo Điều 96 BLTTDS năm 2015 và những quy định tương
ứng tại Điều 14 Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012
của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.87 Riêng trường hợp nộp đơn trực
tiếp, Luật sư lưu ý phải được nhận biên bản giao nộp tài liệu từ cán bộ
Tòa án nhận đơn. Trong biên bản phải có các nội dung: tên gọi, hình
thức, nội dung, đặc điểm của tài liệu, chứng cứ; số bản, số trang của
chứng cứ và thời gian nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp,
chữ ký của người nhận và dấu của Tòa án.88

85
Xem: khoản 4 Điều 104 BLTTDS năm 2015.
86
Xem: điểm c khoản 1 Điều 190 BLTTDS năm 2015.
87
Xem: Điều 9 Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC.
88
Xem: khoản 2 Điều 96 BLTTDS năm 2015.

404
Sau khi nộp đơn và giấy tờ, tài liệu cần thiết, Luật sư cùng với
đương sự chờ Tòa án, Viện kiểm sát thụ lý đơn yêu cầu.
1.4.2. Thực hiện các công việc sau khi nộp đơn đề nghị
Sau khi có đơn gửi đến, Tòa án và Viện kiểm sát sẽ nghiên
cứu đơn đề nghị và các tài liệu, chứng cứ kèm theo để có một hoặc
các quyết định sau: thụ lý đơn đề nghị kháng nghị; hoặc thông báo
người gửi đơn đề nghị kháng nghị sửa đổi, bổ sung đơn đề nghị, bổ
sung bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tài
liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có); trả lại đơn đề nghị, tài liệu,
chứng cứ kèm theo và chưa thụ lý đơn đề nghị. Dựa vào các quyết
định tố tụng này của các chủ thể có thẩm quyền, Luật sư sẽ thực
hiện các công việc sau:
- Trường hợp đơn đề nghị và giấy tờ, tài liệu phù hợp với quy
định pháp luật, đương sự sẽ được cán bộ Tòa án nhận đơn tiến hành
thủ tục vào sổ nhận đơn và cấp giấy xác nhận đã nhận đơn. Với thủ
tục vào sổ nhận đơn thì cán bộ Tòa án, Viện kiểm sát sẽ ghi hoặc đóng
dấu nhận đơn ghi rõ ngày, tháng, năm nhận đơn đề nghị vào góc trên
bên trái của đơn đề nghị. Trường hợp sửa chữa thì người tiếp nhận
đơn đề nghị phải ký xác nhận và đóng dấu của Tòa án, Viện kiểm sát
vào nội dung sửa chữa. Luật sư cũng lưu ý đến việc tính ngày Tòa án,
Viện kiểm sát nhận đơn của khách hàng như sau: (1) Trường hợp Luật
sư nộp trực tiếp đơn đề nghị của khách hàng tại Tòa án, Viện kiểm sát
có thẩm quyền thì ngày đề nghị kháng nghị là ngày Tòa án, Viện kiểm
sát có thẩm quyền nhận đơn đề nghị; (2) Trường hợp đơn đề nghị
được Luật sư gửi đến Tòa án, Viện kiểm sát qua đường bưu chính, thì
Tòa án, Viện kiểm sát nhận đơn đề nghị do nhân viên bưu chính
chuyển đến và ngày theo dấu bưu điện nơi gửi. Phong bì có dấu bưu
điện phải được đính kèm đơn đề nghị. Ngày đề nghị kháng nghị là
ngày theo dấu bưu điện nơi gửi. Trường hợp không xác định được
ngày, tháng, năm theo dấu bưu điện nơi gửi, thì Tòa án, Viện kiểm sát
phải xác định hai trường hợp: (i) Trường hợp ngày Tòa án, Viện kiểm
sát nhận được đơn do nhân viên bưu chính chuyển đến mà thời hạn
yêu cầu kháng nghị giám đốc thẩm vẫn còn thì ngày đề nghị kháng

405
nghị là ngày Tòa án, Viện kiểm sát nhận được đơn do nhân viên bưu
chính chuyển đến; (ii) Trường hợp ngày Tòa án, Viện kiểm sát nhận
được đơn đề nghị do nhân viên bưu chính chuyển đến mà yêu cầu
kháng nghị giám đốc thẩm đã hết, thì Tòa án, Viện kiểm sát yêu cầu
bưu điện và đương sự cung cấp ngày đương sự gửi đơn đề nghị tại
bưu điện. Trường hợp xác định được ngày đương sự gửi đơn đề nghị
tại bưu điện thì ngày đề nghị kháng nghị là ngày đương sự gửi đơn đề
nghị tại bưu điện. Trường hợp không xác định được ngày đương sự
gửi đơn đề nghị tại bưu điện, thì ngày đề nghị kháng nghị là ngày ghi
trong đơn đề nghị.
Khi nhận Giấy xác nhận nhận đơn đề nghị xem xét theo thủ tục
giám đốc thẩm (Giấy xác nhận nhận đơn đề nghị) mà Tòa án, Viện
kiểm sát gửi cho đương sự, Luật sư lưu ý những vấn đề sau: (1) Thời
hạn cấp Giấy xác nhận là 07 ngày kể từ ngày nhận được đơn đề
nghị89; (2) Trường hợp trong thời hạn một năm, kể từ ngày bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật, Luật sư giúp đương sự gửi nhiều đơn
đề nghị về cùng một bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật, thì Tòa án, Viện kiểm sát chỉ cấp một Giấy xác nhận nhận
đơn đề nghị cho đương sự. Trường hợp đương sự đã được cấp Giấy
xác nhận nhận đơn đề nghị trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực và sau khi hết thời hạn ba năm, kể
từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà đương sự tiếp tục
có đơn đề nghị, thì Tòa án, Viện kiểm sát cấp một Giấy xác nhận nhận
đơn đề nghị cho đương sự về việc họ tiếp tục có đơn đề nghị90.
- Sửa đổi, bổ sung đơn đề nghị, bổ sung bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu
có): Luật sư giúp đương sự thực hiện công việc này chỉ khi nhận
được thông báo của Tòa án, Viện kiểm sát. Trong thông báo, Tòa án,
Viện kiểm sát sẽ nêu rõ những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung cho
đương sự biết để họ thực hiện. Vì thế, dựa vào những yêu cầu cụ thể
này và căn cứ vào tính hợp lệ của đơn đề nghị ở mục 1.3 và những
quy định về tài liệu, chứng cứ gửi kèm đơn đề nghị ở mục 1.4, Luật
sư sẽ giúp đương sự sửa đơn và bổ sung những tài liệu, chứng cứ phù
89
Điều 6 Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC.
90
Điều 7 Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC.

406
hợp. Trường hợp Luật sư giúp đương sự sửa đổi đơn, bổ sung tài
liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, Viện kiểm sát thì không làm
thay đổi ngày kháng nghị lần đầu của đương sự. Ngoài ra, Luật sư
cũng phải nắm được quy định về thời hạn đương sự được quyền sửa
đổi, bổ sung đơn và tài liệu, chứng cứ là 01 tháng kể từ ngày đương
sự nhận được thông báo.
- Trường hợp Tòa án, Viện kiểm sát trả lại đơn đề nghị, tài liệu,
chứng cứ kèm theo và không thụ lý đơn đề nghị. Để giúp khách hàng
xử lý trường hợp không thụ lý đơn đề nghị, Luật sư phải nắm rõ
những căn cứ pháp lý mà Tòa án, Viện kiểm sát được quyền trả lại
đơn đề nghị, tài liệu chứng cứ kháng nghị giám đốc thẩm. Theo quy
định của pháp luật tố tụng dân sự, Tòa án, Viện kiểm sát được trả lại
đơn đề nghị giám đốc thẩm là khi hết thời hạn 01 tháng kể từ ngày
người gửi đơn nhận được thông báo sửa đổi của Viện kiểm sát, Tòa án
mà người gửi đơn không sửa đổi, bổ sung. Để tính được khoảng thời
gian này, Luật sư phải xác định được thời điểm nhận được thông báo
yêu cầu sửa đơn và bổ sung chứng cứ, tài liệu. Nếu thông báo được
giao trực tiếp cho đương sự thì ngày bắt đầu tính thời hạn là ngày tiếp
theo mà đương sự nhận được đơn. Nếu thông báo được gửi qua đường
bưu chính thì ngày nhận đơn là ngày đương sự ký nhận vào sổ theo
dõi và lưu tại Tòa án, Viện kiểm sát đã nhận đơn đề nghị91. Tuy nhiên,
Luật sư cũng lưu ý đến trường hợp Tòa án, Viện kiểm sát không được
trả lại đơn khi đương sự gặp trở ngại khách quan không kịp sửa đổi,
bổ sung đơn, tài liệu, chứng cứ trong thời hạn 01 tháng theo quy định
của pháp luật. Công việc của Luật sư trong trường hợp này là phải
xuất trình được tài liệu, chứng cứ chứng minh được trở ngại khách
quan mà khách hàng gặp phải. Trở ngại khách quan là những trở ngại
do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ
không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm
hoặc không thể thực hiện được quyền hoặc nghĩa vụ của mình. Trở
ngại khách quan có thể là thiên tai, địch hoạ, nhu cầu chiến đấu, phục
vụ chiến đấu... tai nạn, ốm đau,...
Sau khi kiểm tra lý do trả lại đơn đề nghị kháng nghị giám đốc
thẩm, nếu xác định việc trả lại đơn của Tòa án, Viện kiểm sát không

91
Xem: điểm a khoản 3 Điều 3 Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC.

407
có căn cứ pháp lý (không thuộc những trường hợp nêu trên) thì Luật
sư sẽ giúp khách hàng làm đơn khiếu nại. Khi nhận được văn bản
khiếu nại của đương sự, Tòa án, Viện kiểm sát có trách nhiệm giải
quyết khiếu nại theo quy định của BLTTDS năm 2015.
1.5. Kỹ năng tham gia phiên tòa giám đốc thẩm
Dựa trên kết quả nghiên cứu đơn và hồ sơ kháng nghị của người
được giao nhiệm vụ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC,
Chánh án TAND cấp cao, Viện trưởng VKSND cấp cao theo thẩm
quyền quy định có quyền quyết định kháng nghị hoặc không kháng
nghị. Trường hợp có quyết định kháng nghị của những chủ thể này thì
trong thời hạn 04 tháng, kể từ ngày nhận được kháng nghị kèm theo
hồ sơ vụ án, TAND cấp cao (TANDTC) tùy thuộc vào từng bản án,
quyết định bị kháng nghị phải mở phiên tòa giám đốc thẩm. Tham gia
phiên tòa giám đốc thẩm là Hội đồng xét xử giám đốc thẩm và các chủ
thể liên quan. Theo quy định của pháp luật tố tụng, nguyên đơn, bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp
cho đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự chỉ được có mặt tại phiên tòa giám đốc thẩm khi Tòa án triệu tập
trong trường hợp xét thấy cần thiết. Việc những chủ thể này có
tham gia phiên tòa giám đốc thẩm hay không không liên quan đến
hoạt động tố tụng xét xử giám đốc thẩm. Do đó, vai trò của Luật sư
tham gia thủ tục giám đốc thẩm không thể hiện nhiều ở phiên tòa
giám đốc thẩm. Tuy nhiên, trường hợp được Tòa án triệu tập, Luật
sư với vai trò đại diện hợp pháp cho đương sự hay là người bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự cũng cần có những kiến thức
liên quan đến phiên tòa giám đốc thẩm, chuẩn bị tài liệu, nội dung
để phát biểu và kỹ năng trình bày khi được Hội đồng xét xử giám
đốc thẩm yêu cầu.
1.5.1. Tư vấn, giải thích cho khách hàng những vấn đề cơ bản
liên quan đến phiên tòa giám đốc thẩm
Thứ nhất, thành phần tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái
thẩm: Thẩm phán là thành viên của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm
(thông thường Chánh án TAND cấp cao sẽ chủ tọa phiên tòa của Ủy
ban Thẩm phán TAND cấp cao và Chánh án TANDTC sẽ chủ tọa

408
phiên tòa của Hội đồng Thẩm phán TANDTC); Viện kiểm sát; Thư ký
phiên tòa; Thẩm tra viên hoặc chuyên viên Tòa án và đương sự, người
đại diện hợp pháp cho đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho đương sự (trong trường hợp Tòa án thấy cần thiết). Khi xem
xét về thành phần tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, Luật sư cần lưu
ý đến những vấn đề sau: (i) Về nguyên tắc trong giai đoạn giám đốc
thẩm thì Thẩm phán cũng phải từ chối hoặc bị thay thế trong các
trường hợp tương tự như giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm trừ
trường hợp thẩm phán đó là thành viên của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC, Ủy ban Thẩm phán TANDTC thì có thể tham gia xét xử
nhiều lần cùng vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm; (ii) Sự tham gia của
Viện kiểm sát trong phiên tòa giám đốc thẩm là bắt buộc92. Trường
hợp thiếu Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa
giám đốc thẩm thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải ra quyết định
hoãn phiên tòa; (iii) Về sự tham gia của Thư ký phiên tòa, Thẩm tra
viên hoặc Chuyên viên Tòa án trong phiên tòa giám đốc thẩm: Tuy
pháp luật tố tụng dân sự không quy định cụ thể và bắt buộc phải có sự
tham gia của Thư ký phiên tòa, Thẩm tra viên hoặc Chuyên viên;
nhưng trên thực tế xét xử giám đốc thẩm, sự tham gia của họ là rất
quan trọng và hết sức cần thiết. Thư ký ghi biên bản phiên tòa giám
đốc thẩm có thể là Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên hoặc Chuyên viên
của Tòa án để ghi lại toàn bộ diễn biến phiên tòa. Ngoài ra, Thẩm tra
viên, Chuyên viên của Tòa án được phân công cùng với Thẩm phán
nghiên cứu hồ sơ, xây dựng tờ trình giải quyết đơn đề nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm không thể thiếu vì họ chính là người tham gia
thuyết trình trước Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm về các nội dung
của vụ án.
Thứ hai, phạm vi giám đốc thẩm tuân theo quy định tại Điều 342
BLTTDS năm 2015. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm chỉ xem xét lại
phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị
kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị.
Hội đồng xét xử giám đốc thẩm có quyền xem xét phần quyết định
của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị
hoặc không liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị, nếu phần
quyết định đó xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước,
92
Xem: khoản 1 Điều 338 BLTTDS năm 2015.

409
lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án. Nắm
được quy định này, trong trường hợp Hội đồng xét xử giám đốc thẩm
xem xét những nội dung ngoài phạm vi kháng nghị của đương sự thì
Luật sư và đương sự không được có ý kiến phản đối và khiếu nại.
Thứ ba, trình tự, thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm tuân theo quy
định tại Điều 341 BLTTDS năm 2015. Phiên tòa giám đốc thẩm khác
biệt với phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm ở việc phiên tòa giám đốc thẩm
được tiến hành chủ yếu dựa trên cơ sở các tài liệu có trong hồ sơ vụ
án. Tòa án chỉ triệu tập người tham gia tố tụng trong trường hợp cần
thiết. Tuy nhiên, giám đốc thẩm đều là việc xét lại bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật nên thủ tục tiến hành phiên tòa giám đốc thẩm
có những điểm tương đồng với phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm. Khi
tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, Luật sư hiểu rõ được trình tự, thủ
tục phiên tòa được tiến hành như sau:
Phiên tòa giám đốc thẩm không mở công khai. Nếu những người
được triệu tập tham gia phiên tòa vắng mặt (dù có lý do hay không có
lý do) thì Hội đồng xét xử giám đốc thẩm vẫn tiến hành phiên tòa.
Riêng Kiểm sát viên vắng mặt, không có người thay thế thì mới hoãn
phiên tòa.
Sau khi chủ tọa khai mạc phiên tòa, một thành viên Hội đồng xét
xử giám đốc thẩm trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá trình xét xử
vụ án, quyết định của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật bị kháng nghị, các căn cứ, nhận định của kháng nghị và đề
nghị của người kháng nghị. Trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị thì
đại diện Viện kiểm sát trình bày nội dung kháng nghị.
Trong trường hợp có người tham gia tố tụng hoặc người khác
được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa giám đốc thẩm thì những
người này được trình bày ý kiến của mình về quyết định kháng nghị.
Trường hợp vắng mặt nhưng có văn bản trình bày ý kiến thì Hội đồng
xét xử giám đốc thẩm công bố ý kiến của họ93. Khi những người được
triệu tập tham gia phiên tòa trình bày xong ý kiến của mình, các thành
viên của Hội đồng giám đốc thẩm hỏi xong thì đại diện Viện kiểm sát
phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về quyết định kháng nghị.

93
Xem: khoản 2 Điều 341 BLTTDS năm 2015.

410
Các thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm thảo luận và phát
biểu ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án. Đại diện Viện kiểm
sát phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án. Hội
đồng giám đốc thẩm biểu quyết về việc giải quyết vụ án theo trình tự
tán thành, không tán thành với kháng nghị và ý kiến khác. Quyết
định giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao và Hội
đồng Thẩm phán TANDTC phải được quá nửa tổng số thành viên
của Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao hoặc Hội đồng Thẩm phán
TANDTC biểu quyết tán thành. Trong trường hợp không được quá
nửa tổng số thành viên của Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao hoặc
Hội đồng Thẩm phán TANDTC biểu quyết tán thành thì phải hoãn
phiên tòa. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ra quyết định hoãn
phiên tòa, Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao, Hội đồng Thẩm phán
TANDTC phải tiến hành xét xử lại với sự tham gia của toàn thể
thành viên.94
Thứ tư, thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm tuân
theo quy định tại Điều 343, 344, 345, 346, 347 BLTTDS năm 2015.
Theo đó, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm có thẩm quyền sau đây:
Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật; Hủy bản án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật
của Tòa án cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa; Hủy một phần hoặc toàn
bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật để xét xử lại
theo thủ tục sơ thẩm hoặc xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm; Hủy bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án;
Sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật.
1.5.2. Chuẩn bị tài liệu và trình bày tại phiên tòa giám đốc thẩm
Sau khi thành viên của Hội đồng giám đốc thẩm trình bày tóm
tắt nội dung vụ án, quá trình xét xử vụ án, quyết định của bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, các
căn cứ nhận định của kháng nghị và đề nghị của người kháng nghị sẽ
đến phần trình bày của đương sự và các chủ thể khác được Tòa án
triệu tập tham gia phiên tòa. Nội dung trình bày là ý kiến của đương

94
Xem: Học viện Tư pháp, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, 2014,
tr. 354.

411
sự (người đại diện hợp pháp), người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự (Luật sư) về quyết định kháng nghị. Nếu thấy vấn
đề nào chưa rõ thì Hội đồng xét xử có thể hỏi thêm đương sự và Luật
sư. Căn cứ vào những quy định pháp luật về vai trò tham gia phiên
tòa giám đốc thẩm, Luật sư giúp đương sự chuẩn bị và thể hiện
những nội dung sau:
- Nội dung liên quan đến căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm.
- Chuẩn bị bản trình bày ý kiến phát biểu tại phiên họp giám đốc
thẩm nếu đương sự và Luật sư không tham gia phiên tòa giám đốc
thẩm. Bản trình bày ý kiến phát biểu tại phiên họp thông thường có
các nội dung như: giới thiệu tư cách chủ thể tham gia phiên tòa giám
đốc thẩm, thông tin người đề nghị, thông tin vụ việc đã được giải
quyết và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, phạm vi kháng
nghị và lý do kháng nghị, các chứng cứ, tài liệu chứng minh cho yêu
cầu kháng nghị là có căn cứ và hợp pháp.
- Trình bày ý kiến liên quan đến quyết định kháng nghị và các
nội dung khác được Hội đồng xét xử yêu cầu làm rõ.
2. Kỹ năng của Luật sư tham gia thủ tục tái thẩm
Thủ tục tái thẩm là xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có tình tiết mới được phát hiện
có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa
án, các đương sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định
đó. Vì sự khác nhau về tính chất nên bên cạnh những điểm tương
đồng, kỹ năng tham gia thủ tục tái thẩm của Luật sư cũng có sự khác
biệt so với kỹ năng tham gia thủ tục giám đốc thẩm. Sự khác biệt này
tập trung ở kỹ năng xác định căn cứ, điều kiện kháng nghị tái thẩm;
nghiên cứu hồ sơ xác định căn cứ đề nghị giám đốc thẩm; soạn thảo
đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm và chuẩn bị tài liệu, chứng cứ
gửi kèm theo đơn,…
2.1. Xác định căn cứ, điều kiện kháng nghị tái thẩm
2.1.1. Căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Giống như giám đốc thẩm, thủ tục tái thẩm cũng là thủ tục xét lại
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Nhưng căn cứ để kháng

412
nghị thủ tục tái thẩm là hoàn toàn khác. Căn cứ để kháng nghị thủ tục
tái thẩm là phải có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay
đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, các đương sự
không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó95. Như vậy, khi
xem xét đến căn cứ tái thẩm, các nội dung mà Luật sư cần phải xác
định rõ:
Thứ nhất, có hay không có tình tiết là căn cứ để kháng nghị. Để
đánh giá được điều này, Luật sư phải trả lời được các câu hỏi:
(i) Tình tiết mới phải là tình tiết đã tồn tại vào lúc Tòa án giải
quyết vụ án nhưng Tòa án và đương sự không thể biết được. Những
tình tiết mới phát sinh sau khi Tòa án ra bản án, quyết định giải quyết
vụ án thì không phải là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
Nếu có thì đây chỉ là căn cứ để đương sự khởi kiện vụ án mới.
(ii) Thời điểm đương sự phát hiện tình tiết mới phải là sau khi đã
có bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Nếu
tình tiết này đã được biết trong quá trình giải quyết vụ án đến trước
khi Tòa án ra bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật không
được coi là các tình tiết mới hoặc những tình tiết đã được biết nhưng
không được Tòa án áp dụng dẫn đến việc ra quyết định hoặc bản án
không đúng pháp luật thì đây không phải là căn cứ để kháng nghị theo
thủ tục tái thẩm.
Ví dụ: Trường hợp nguyên đơn khởi kiện yêu cầu phân chia tài
sản thừa kế theo pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã xét
xử và phán quyết bằng một bản án phân chia tài sản thừa kế cho các
bên đương sự. Sau đó, một trong các bên đương sự lại phát hiện ra di
chúc làm cho việc chia di sản thừa kế bị thay đổi.
(iii) Phải là những tình tiết có giá trị làm thay đổi cơ bản nội
dung của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Nếu
thời điểm tồn tại và thời điểm biết được tình tiết là yếu tố cần thì tính
chất giá trị của tình tiết là yếu tố đủ. Luật sư phải nghiên cứu kỹ hồ sơ
vụ việc xác định được tình tiết mới này có tính chất “làm thay đổi cơ
bản nội dung của bản án, quyết định” hay không. Tình tiết mới làm
95
Xem: Điều 351 BLTTDS năm 2015.

413
thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định có nghĩa là sự thay
đổi hoàn toàn hoặc thay đổi lớn về nội dung của bản án, quyết định
đó, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên
đương sự trong vụ án dân sự.

Ví dụ:
Trong vụ án tranh chấp nhà ở số 1 đường VM - thành phố H giữa
nguyên đơn là bà Nguyễn Thị C và bị đơn là Công ty in Khoa học kỹ
thuật HN (Công ty KHKT). Theo nội dung vụ kiện, bà Nguyễn Thị C
sinh năm 1940 trú quán ở thành phố T cho rằng nhà số 1 đường VM
- thành phố H là nhà của hai cụ Nguyễn Huy B và Nguyễn Công T
là bố mẹ nuôi của bà C. Năm 1953, cụ B, cụ T cho nhà in tư nhân
VH (IVH) thuê. Sau đó, IVH chuyển đi thì Công ty KHKT đến thuê
và tự ý cho công nhân đến ở. Năm 1954, Công ty KHKT có thuê tầng
1, nhà số 1 đường VM - thành phố H của cụ B, cụ T. Ngày 13/6/2006,
TANDTC xét xử phúc thẩm vụ kiện. Bản án phúc thẩm đã có hiệu
lực pháp luật xác nhận bà C là con nuôi cụ B và cụ T và là người
thừa kế duy nhất theo pháp luật của hai cụ. Không có tài liệu nào
chứng minh nhà số 1 đường VM - thành phố H là của Nhà nước,
được đưa vào hợp doanh. Vì vậy, Tòa án đã buộc Công ty KHKT và
15 hộ dân nói trên trả lại toàn bộ diện tích mà họ đang sử dụng tại
tầng 1, nhà số 1 đường VM - thành phố H cho bà C. Với phán quyết
này, các hộ dân với trên 40 nhân khẩu lâm vào hoàn cảnh vô cùng
khó khăn sẽ bị mất nhà.
Tình tiết mới được phát hiện của vụ án mà chưa được xem xét,
đánh giá trong quá trình giải quyết vụ án là tình tiết vào năm 1961,
Vũ T (chủ nhà in IVH) thuộc đối tượng bị cải tạo tư bản tư doanh và
còn bị xử lý vì có hành vi chống chính quyền cách mạng. Quá trình
điều tra, truy tố, xét xử Vũ T, các cơ quan pháp luật đã có nhiều văn
bản liên quan đến tài sản của T tại số 1 đường VM - thành phố H
như: “Quyết định kiểm kê tài sản” ngày 18/02/1960 của Viện Công
tố thành phố H; “Quyết định bàn giao tài sản nhà in IVH cho Sở
Văn hóa thành phố H” số 1052/KS ngày 05/5/1961 của Viện kiểm
sát nhân dân thành phố H. Tại Bản án hình sự số 55-CT ngày
17/6/1961, Tòa án thành phố H đã xử Vũ T 5 năm tù, tịch thu 1/2
khối tài sản của Vũ T. Các tài liệu này là nguồn chứng cứ quan

414
trọng có liên quan đến việc xác định Nhà nước đã quản lý nhà số 1
đường VM - thành phố H hay chưa? Nếu có căn cứ xác định trong
quá trình xét xử Vũ T, các cơ quan có thẩm quyền đã thực tế bố trí,
sử dụng hoặc đã có văn bản tịch thu tầng 1, nhà số 1 đường VM -
thành phố H của Vũ T thì diện tích nhà này đã thuộc sở hữu của
Nhà nước. Chủ nhà không có quyền đòi lại. Các tài liệu trên chưa
được xem xét trong quá trình xét xử sơ thẩm và phúc thẩm. Vì vậy
đây có thể xem là căn cứ kháng nghị tái thẩm phù hợp với khoản 1
Điều 352 BLTTDS năm 2015 để chủ thể có thẩm quyền ra kháng
nghị tái thẩm.

Ngược lại, với những tình tiết tuy mới được phát hiện nhưng
không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật giữa các
đương sự, không có mối quan hệ nhân quả đối với quyết định của Tòa
án thì Luật sư phải xác định đó không phải là tình tiết làm căn cứ
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm.
Thứ hai, có cơ sở chứng minh kết luận của người giám định, lời
dịch của người phiên dịch không đúng sự thật hoặc có giả mạo chứng
cứ. Kết luận của giám định, lời dịch của người phiên dịch là một trong
những căn cứ quan trọng để xác định sự thật khách quan của vụ việc.
Thậm chí, trong nhiều trường hợp, đây là những yếu tố đặc biệt quan
trọng, mang tính chất quyết định đối với quá trình đánh giá, sử dụng
chứng cứ của Hội đồng xét xử để đưa ra bản án, quyết định đúng pháp
luật. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau, người giám định, người
phiên dịch đã không trung thực khi thực hiện chức năng công việc của
mình. Với sự vi phạm quy định về nghề nghiệp như vậy, người giám
định, người phiên dịch đã tạo ra những kết quả giám định không đúng
sự thật, những văn bản, tài liệu dịch thuật giả mạo. Vì thế, BLTTDS
năm 2015 đã quy định, đây cũng là căn cứ để kháng nghị thủ tục tái
thẩm. Khi xem xét căn cứ kháng nghị này, Luật sư phải xác định được
những nội dung sau: (1) Thời điểm phát hiện kết luận giám định,
chứng cứ, tài liệu đã được dịch thuật, phiên dịch không đúng sự thật,
giả mạo sau khi Tòa án ra bản án, quyết định; (2) Có cơ sở để kết luận
giám định không đúng sự thật theo quy định của pháp luật liên quan
đến hoạt động giám định96 hoặc có sự giả mạo chứng cứ của người

96
Xem: Luật Giám định tư pháp năm 2012.

415
phiên dịch (dịch sai tài liệu, giấy tờ,… do đương sự cung cấp, trình
bày hoặc do Tòa án thu thập trong quá trình giải quyết vụ án); (3) Sự
thay đổi nội dung của kết luận giám định, chứng cứ, tài liệu sau khi
giám định lại, phiên dịch lại làm thay đổi cơ bản nội dung bản án,
quyết định của Tòa án như làm thay đổi quan hệ pháp luật tranh chấp,
quyền và nghĩa vụ các bên, tư cách đương sự,…
Ví dụ: Trường hợp đương sự yêu cầu truy nhận cha cho con
thông qua chứng cứ là kết luận giám định gen của tổ chức giám định
dân sự. Dựa vào kết luận giám định này, Tòa án ra quyết định công
nhận cha cho con. Sau khi quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp
luật, một bên đương sự có chứng cứ chứng minh kết quả giám định
mà Tòa án dựa vào đó để ra quyết định công nhận cha cho con là giả
mạo và cung cấp kết quả giám định lại của cơ sở giám định cao hơn
với kết quả giám định hoàn toàn trái ngược với kết quả giám định lần
đầu mà đương sự cung cấp cho Tòa án.
Thứ ba, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm
sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật97. Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên là những người tiến hành tố tụng có
vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án dân sự. Nhiệm vụ của
những chủ thể này là xem xét, giải quyết vụ việc dân sự theo đúng quy
định của pháp luật. Nếu những người tiến hành tố tụng này cố tình vi
phạm nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp, cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án
hay cố tình kết luận trái pháp luật thì đây chính là cơ sở để Luật sư lấy
làm căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Khi vận dụng căn cứ này
để xem xét thủ tục tái thẩm, Luật sư phải làm rõ được những nội dung
của căn cứ này như sau: (1) Thời điểm phát hiện Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý
kết luận trái pháp luật là sau khi bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật; (2) Cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án có thể là việc cố tình bớt
đi những chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ việc hoặc thêm vào những
chứng cứ, tài liệu mà đương sự không cung cấp, Tòa án không thu
thập để phục vụ cho một mục đích cá nhân nào đó của những người
tiến hành tố tụng; (3) Cố ý kết luận trái pháp luật là việc người tiến

97
Khoản 3 Điều 354 BLTTDS năm 2015.

416
hành tố tụng nhận thức được với những chứng cứ, tài liệu thực sự đã
có trong hồ sơ vụ án (là những chứng cứ chưa bị làm sai lệch) thì theo
quy định của pháp luật sẽ phải đưa ra những kết luận phù hợp với
những chứng cứ, tài liệu đó nhưng đã không làm như vậy; (4) Có
chứng cứ chứng minh Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên
cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật. Trên
thực tế, căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm này gần giống với căn
cứ kháng nghị “kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với
những tình tiết khách quan của vụ án”98 theo thủ tục giám đốc thẩm.
Sự giống nhau thể hiện ở mặt hiện tượng. Đó là kết luận trong bản án,
quyết định để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hay tái thẩm đều
không phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án. Tuy nhiên, điểm
khác nhau chính là ở bản chất, nguyên nhân dẫn đến hiện tượng. Nếu
xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm thì phải chứng minh
việc đưa ra kết luận không phù hợp trong bản án, quyết định đã có
hiệu lực là do lỗi vô ý của người Thẩm phán hoặc của những thành
viên khác trong Hội đồng xét xử khi đánh giá chứng cứ, tài liệu trong
vụ án chưa toàn diện, đầy đủ nhưng đã vội vàng đưa ra kết luận theo ý
chí chủ quan.
Ví dụ: Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án,
Thẩm phán không đề nghị các bên cung cấp thêm chứng cứ hoặc
không tự thu thập thêm chứng cứ để xác định quan hệ con nuôi thực
tế, chỉ dựa vào lời khai của một bên đương sự đã vội vàng kết luận đó
là con nuôi của người để lại hay như để xác định tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân thì Hội đồng xét xử phải căn cứ vào các
thông tin trên các giấy tờ, tài liệu như: Giấy chứng nhận đăng ký kết
hôn, Giấy khai sinh, chứng minh thư, sổ hộ khẩu… để xác định quan
hệ hôn nhân hợp pháp. Nhưng nhiều trường hợp, Hội đồng xét xử đã
xác định sai thời điểm bắt đầu tính thời kỳ hôn nhân vì chỉ căn cứ vào
các thông tin duy nhất trên Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn của vợ
và chồng. Những trường hợp này thẩm phán đã không đánh giá chứng
cứ toàn diện, đầy đủ. Thực tế ở Việt Nam vào những năm 80-90 của
thế kỷ XX, với nhiều lý do (trình độ pháp luật còn thấp, còn hiện

98
Điểm a khoản 1 Điều 326 BLTTDS năm 2015.

417
tượng tư lợi cá nhân, quan hệ làng xóm nể nang,...) một số cán bộ cấp
xã đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cho hai bên nam - nữ cho
dù một trong các bên nam - nữ chưa đủ tuổi kết hôn theo quy định của
pháp luật. Sau nhiều năm chung sống với nhau, vợ chồng xảy ra mâu
thuẫn, một bên có yêu cầu ly hôn, Tòa án vẫn giải quyết cho ly hôn
theo thủ tục chung nhưng quan hệ hôn nhân phải được tính từ thời
điểm các bên đã đủ tuổi kết hôn theo luật định.
Như vậy, Luật sư có thể thấy nguyên nhân sâu xa của việc “kết
luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết
khách quan của vụ án” theo căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm chính
là xuất phát từ nghiệp vụ nghề nghiệp của những người trong Hội
đồng xét xử chưa cao, kinh nghiệm chưa nhiều nên chưa có cái nhìn
khách quan, toàn diện về việc đánh giá và sử dụng chứng cứ để giải
quyết vụ án. Ngược lại, nếu xem xét kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
thì việc đưa ra chứng cứ sai, kết luận trái pháp luật là do lỗi cố ý của
Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên. Điều này được thể
hiện ở việc mặc dù những người tiến hành tố tụng này biết và đánh giá
được toàn bộ chứng cứ có trong hồ sơ vụ việc, hiểu rõ được câu
chuyện pháp lý và câu chuyện chứng cứ giữa các bên trong vụ việc
dân sự nhưng cố tình làm cho chứng cứ khác đi (về số lượng, về nội
dung) để từ đó đưa ra kết luận trái pháp luật vi phạm nguyên tắc tố
tụng nhằm phục vụ ý đồ riêng tư của thành viên Hội đồng xét xử.
Thứ tư, bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Toà án hoặc
quyết định của cơ quan nhà nước mà Toà án căn cứ vào đó để giải
quyết vụ án đã bị huỷ bỏ99. Căn cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm ở
đây là trường hợp quá trình giải quyết vụ án dân sự, Toà án vẫn căn cứ
vào các phán quyết của Tòa án các cấp trong nhiều lĩnh lực khác nhau
hoặc quyết định của cơ quan nhà nước đã bị hủy bỏ, không còn giá trị
thi hành để ban hành bản án, quyết định (bản án, quyết định bị kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm). Vận dụng căn cứ này để xem xét kháng
nghị thủ tục tái thẩm, Luật sư phải xác định được: (1) Tòa án đã sử
dụng những bản án, quyết định hình sự, hành chính, dân sự, HN&GĐ,
99
Khoản 3 Điều 352 BLTTDS năm 2015.

418
kinh doanh, thương mại, lao động hoặc quyết định của cơ quan nhà
nước đã bị hủy bỏ để giải quyết vụ việc bị kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm; (2) Thời điểm hủy bỏ những bản án, quyết định mà Tòa án đã
sử dụng trước thời điểm Tòa án ra bản án, quyết định bị kháng nghị
theo thủ tục tái thẩm.

Ví dụ:
Trong vụ án tranh chấp về việc ai là người có quyền sử dụng đất
hợp pháp, Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm đã dựa vào Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của cơ quan nhà nước cấp cho
nguyên đơn nhưng đã bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi
buộc bị đơn trả lại quyền sử dụng đất cho nguyên đơn.

2.1.2. Thời hạn kháng nghị tái thẩm


Thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm là 01 năm, kể từ ngày
người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng nghị theo
thủ tục tái thẩm100. Để áp dụng đúng quy định này, Luật sư phải xác
định được các thời hạn sau:
(i) Thời hạn từ khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật cho
tới khi người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ để kháng
nghị (thời điểm mà Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC hoặc
Chánh án TAND cấp cao, Viện trưởng VKSND cấp cao biết được căn
cứ kháng nghị trong thông báo của Tòa án, Viện kiểm sát) là không
xác định.
(ii) Thời hạn kể từ khi Chánh án TANDTC (TAND cấp cao)
hoặc Viện trưởng VKSNDTC (VKSND cấp cao) biết được căn cứ
kháng nghị cho tới khi gửi văn bản kháng nghị cho chủ thể có thẩm
quyền xem xét kháng nghị (Hội đồng xét xử tái thẩm) là một năm.
Đây mới chính là thời hạn để kháng nghị thủ tục tái thẩm theo quy
định của pháp luật.
2.1.3. Chủ thể có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Căn cứ vào việc xác định bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật do Tòa án nào ban hành và quy định của Điều 354 BLTTDS

100
Điều 355 BLTTDS năm 2015.

419
năm 2015, Luật sư xác định thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái
thẩm như sau:
+ Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao có thẩm
quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao; bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của Tòa án khác khi xét thấy cần thiết (trừ quyết định
giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC)101;
+ Chánh án TAND cấp cao, Viện trưởng VKSND cấp cao có
thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp
huyện trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ102.
2.2. Nghiên cứu hồ sơ xác định căn cứ đề nghị tái thẩm
Tương tự thủ tục giám đốc thẩm, sau khi nắm được các kiến thức
pháp luật về xác định các căn cứ và điều kiện kháng nghị tái thẩm,
Luật sư sẽ phải nghiên cứu hồ sơ vụ việc dân sự và bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật giải quyết vụ việc ấy để xác định được có căn
cứ để đề nghị chủ thể có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm.
Hồ sơ nghiên cứu sẽ bao gồm: hồ sơ sơ thẩm và hồ sơ phúc
thẩm, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật (cấp sơ thẩm, phúc
thẩm), giấy tờ, tài liệu khác (nếu có).
2.2.1. Mục đích nghiên cứu hồ sơ
Luật sư phải xác định được có căn cứ hợp pháp để đề nghị chủ
thể có thẩm quyền ra quyết định kháng nghị tái thẩm bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật. Về nội dung này, Luật sư cần phân biệt
giữa căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và căn cứ kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm. Theo quy định thì chỉ những bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật xét xử có vi phạm pháp luật sẽ bị kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Còn những bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật; sau đó có tình tiết mới được phát hiện có thể làm
thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà Tòa án, các đương

101
Khoản 1 Điều 354 BLTTDS năm 2015.
102
Khoản 2 Điều 354 BLTTDS năm 2015.

420
sự không biết được khi Tòa án ra bản án, quyết định đó sẽ bị kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm. Luật sư cần phân biệt tình tiết mới là những
tài liệu, chứng cứ mới được phát hiện với những chứng cứ đã tồn tại
trong vụ án từ trước, nhưng do quá trình thu thập không đầy đủ dẫn
đến việc bỏ sót chứng cứ này và sau đó mới thu thập được.
2.2.2. Nội dung nghiên cứu
Không giống với những nội dung cần xác định khi Luật sư giúp
khách hàng đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, đối với hoạt động
nghiên cứu hồ sơ đề nghị kháng nghị tái thẩm, Luật sư phải làm rõ
những nội dung sau:
(1) Xác định tình tiết mà khách hàng cho rằng đây là những tình
tiết mới để làm căn cứ đề nghị kháng nghị tái thẩm. Vì thế, Luật sư
phải kiểm tra cụ thể những chứng cứ này (kiểm tra nguồn mà chứng
cứ được thu thập, kiểm tra người cung cấp, tính hợp pháp của chứng
cứ,…) để biết được nội dung cũng như số lượng tình tiết mới;
(2) Xác định tình tiết đó có thỏa mãn các yêu cầu để được xem
xét là căn cứ kháng nghị tái thẩm hay không (thời điểm xuất hiện tình
tiết, hậu quả xuất hiện tình tiết,…).

Ví dụ:
A, B, C tranh chấp di sản thừa kế của bố mẹ để lại, trong quá
trình xét xử ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm không ai nêu ra tình tiết là
bố mẹ họ đã để lại di chúc trước khi chết nên các cấp Toà án sơ
thẩm và phúc thẩm chia di sản thừa kế theo pháp luật cho các đồng
thừa kế ở hàng thừa kế thứ nhất. Sau khi xử phúc thẩm, A xuất trình
di chúc bố mẹ để lại cho A toàn bộ di sản. Vì vậy, bản án có hiệu lực
có khả năng bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm. Trong vụ án này,
nếu di chúc A xuất trình là di chúc thật thì sẽ làm thay đổi bản chất
và các quyết định của bản án đã có hiệu lực pháp luật. Trong
trường hợp này khi nghiên cứu hồ sơ, Luật sư có thể trao đổi với
khách hàng để xác định tại sao sau khi xử phúc thẩm A mới đưa ra
di chúc. Ngoài ra, nếu thấy cần thiết thì Luật sư có thể đề nghị
khách hàng giám định chữ ký, chữ viết trong di chúc để xác định có
phải là di chúc thật hay di chúc giả, từ đó để có chứng cứ đề nghị
kháng nghị chính xác.

421
2.2.3. Phương pháp nghiên cứu
Với mục đích đề nghị kháng nghị tái thẩm, Luật sư phải đi sâu
nghiên cứu, đánh giá và tìm ra những tình tiết mới có đảm bảo những
yêu cầu theo quy định pháp luật là căn cứ kháng nghị tái thẩm hay
không? Vì thế, phương pháp tối ưu khi nghiên cứu hồ sơ kháng nghị
tái thẩm đó là kiểm tra xem đương sự đã cung cấp những chứng cứ
mới gì và giá trị những chứng cứ mới này như thế nào? Khi nghiên
cứu hồ sơ để chuẩn bị đề nghị kháng nghị tái thẩm, trọng tâm của việc
nghiên cứu là Luật sư cần xem xét về tính xác thực và giá trị của tình
tiết mới được phát hiện. Điều này có nghĩa là Luật sư phải xác định vụ
việc đã được giải quyết xuất hiện những tình tiết mới gì và những tình
tiết mới này có giá trị là cơ sở để chủ thể có thẩm quyền ra quyết định
kháng nghị tái thẩm hay không?
2.3. Soạn thảo đơn đề nghị kháng nghị và chuẩn bị hồ sơ đề
nghị kháng nghị tái thẩm
2.3.1. Soạn thảo đơn đề nghị kháng nghị
Trường hợp Luật sư xác định được có tình tiết mới là căn cứ
kháng nghị tái thẩm thì Luật sư sẽ tư vấn (giúp) khách hàng soạn thảo
đơn đề nghị kháng nghị tái thẩm gửi cho chủ thể có thẩm quyền. Đơn
đề nghị thủ tục tái thẩm không được BLTTDS năm 2015 quy định cụ
thể. Căn cứ vào Điều 357 BLTTDS năm 2015, quy định về việc áp
dụng các quy định khác của thủ tục giám đốc thẩm nếu thủ tục tái
thẩm không có quy định thì có thể hiểu đơn đề nghị thủ tục tái thẩm sẽ
tuân thủ nội dung và hình thức tương tự đơn đề nghị kháng nghị giám
đốc thẩm được quy định tại Điều 328 BLTTDS năm 2015. Luật sư cần
chú ý những nội dung sau khi giúp khách hàng soạn thảo đơn đề nghị
kháng nghị tái thẩm:
- Thời hạn đề nghị kháng nghị tái thẩm: Theo quy định tại
Điều 355 BLTTDS năm 2015, thời hạn kháng nghị là 01 năm.
Tuy nhiên, mốc để bắt đầu tính thời hạn kháng nghị là kể từ thời điểm
chủ thể có thẩm quyền biết được căn cứ kháng nghị (yêu cầu kháng
nghị của đương sự là một trong những cơ sở giúp cho chủ thể có thẩm
quyền biết được căn cứ kháng nghị) mà không phải 01 năm kể từ ngày
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, có thể thấy, khác
với quy định về quyền yêu cầu kháng nghị của đương sự, chỉ được

422
thực hiện trong 01 năm, quyền yêu cầu kháng nghị của đương sự đối
với thủ tục tái thẩm không giới hạn về thời gian.
- Nội dung đơn đề nghị kháng nghị tái thẩm: tương tự những nội
dung của đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm, bao gồm các nội
dung: Ngày, tháng, năm làm đơn đề nghị; Tên, địa chỉ của người đề
nghị; Tên bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được
đề nghị xem xét theo thủ tục tái thẩm; Lý do đề nghị, yêu cầu của
người đề nghị. Ở phần cuối đơn, đương sự đề nghị là cá nhân, thì phải
ký tên hoặc điểm chỉ và phải có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc phải nộp kèm theo bản phô
tô giấy tờ tùy thân của họ; người đề nghị là cơ quan, tổ chức, thì người
đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu;
trường hợp tổ chức đề nghị là doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu
được thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2014.
- Hình thức đơn đề nghị kháng nghị tái thẩm tuân thủ theo mẫu
quy định được hướng dẫn trong Thông tư liên tịch của TANDTC và
VKSNDTC103.
2.3.2. Chuẩn bị tài liệu, chứng cứ gửi kèm đơn kháng nghị
Kỹ năng chuẩn bị tài liệu, chứng cứ gửi kèm đơn kháng nghị
theo thủ tục tái thẩm của Luật sư cũng tương tự thủ tục giám đốc
thẩm. Tuy nhiên, xuất phát từ căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm và tái
thẩm là khác nhau nên tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ đề nghị kháng
nghị tái thẩm tập trung vào xác định sự tồn tại của tình tiết mới và giá
trị của tình tiết này có tác dụng làm thay đổi cơ bản nội dung vụ án.

Ví dụ:
Vụ kiện dân sự giữa bị đơn là bà Huỳnh Minh T, trú tại số 2/18
Lý Kiệt, khu phố 2, thị trấn Bình Điền, huyện M,thành phố K với
nguyên đơn là ông Phan Văn H và 9 nguyên đơn khác cùng ủy
quyền cho ông Phan Văn H làm đại diện. Ngày 21/3/2010, Tòa án
huyện M, thành phố K xét xử sơ thẩm quyết định công nhận hôn
nhân thực tế giữa bà Huỳnh Minh T và ông Phan Văn S (ông S là bố
đẻ ông Phan Văn H và 9 nguyên đơn); công nhận phần tài sản

Tham khảo khoản 1 Điều 14 Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-TANDTC-


103

VKSNDTC.

423
chung của ông S và bà T và phân chia tài sản cùng diện tích đất đai
tại 613B quận X, thành phố K cho các đồng thừa kế. Ngày
31/3/2010, bà T kháng cáo. Ngày 30/11/2010, Tòa án thành phố K
xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bà T và hủy án sơ thẩm để
giao cho Tòa án huyện M xử lại theo trình tự sơ thẩm. Vụ án đã
được xét xử sơ thẩm, phúc thẩm nhiều lần nhưng nguyên đơn và bị
đơn vẫn tiếp tục kháng cáo. Ngày 07/3/2016, bà T thu thập được các
chứng cứ mới bao gồm 01 bản hợp đồng xây 2 căn nhà, 01 biên
bản xác nhận của UBND huyện M về việc chưa cấp sổ đỏ 800m2
đất thuộc thửa đất 613B quận X, thành phố K; biên bản xác nhận
của chính quyền địa phương về một số diện tích đất đai liên quan
đến khối di sản chia thừa kế được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân
giữa bà T và ông S hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Vì thế, bà T
đến nhờ Luật sư tư vấn đề nghị xem xét lại Bản án dân sự phúc
thẩm số 304/PTDS ngày 08/10/2014 của Tòa án thành phố K theo
thủ tục tái thẩm.
Là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà T, trong
trường hợp này Luật sư phải chuẩn bị những tài liệu, chứng cứ để
gửi kèm đơn đề nghị kháng nghị tái thẩm là:
- Bản án dân sự phúc thẩm số 304/PTDS ngày 08/10/2014 của
Tòa án thành phố K và các bản án ở các lần giải quyết khác (nếu có).
- Tài liệu, chứng cứ chứng minh xuất hiện tình tiết mới làm
thay đổi cơ bản nội dung vụ án mà trong trường hợp này là làm thay
đổi khối di sản thừa kế được tạo lập trong kỳ hôn nhân giữa bà T và
ông S như:
+ 01 bản hợp đồng xây 2 căn nhà trong thời kỳ hôn nhân giữa bà
T và ông S;
+ 01 biên bản xác nhận của UBND huyện M về việc chưa cấp sổ
đỏ 800m2 đất thuộc thửa 613B là tài sản chung vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân;
+ Các chứng cứ là biên bản xác nhận của chính quyền địa
phương về một số diện tích đất đai liên quan đến khối di sản chia
thừa kế được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân giữa bà T và ông S.
- Ngoài ra, có các chứng cứ liên quan khác (nếu có) như hồ sơ
vụ án được giải quyết ở cấp sơ thẩm, phúc thẩm,…

424
Luật sư hướng dẫn khách hàng nộp đơn và chứng cứ (nếu có) đề
nghị kháng nghị tái thẩm và thực hiện các công việc sau khi nộp đơn.
2.4. Tham gia phiên tòa tái thẩm
Tương tự như kỹ năng tham gia thủ tục giám đốc thẩm, vai trò
của Luật sư ở phiên tòa tái thẩm rất hạn chế. Nguyên đơn, bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp pháp cho
đương sự và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự chỉ
được có mặt tại phiên tòa tái thẩm khi Tòa án triệu tập trong trường
hợp xét thấy cần thiết. Vì thế, khi được Tòa án triệu tập, Luật sư với
vai trò đại diện hợp pháp cho đương sự hay là người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự cũng cần có những kiến thức liên quan
đến phiên tòa tái thẩm. Điều 357 BLTTDS năm 2015 quy định: “Các
quy định khác về thủ tục tái thẩm được thực hiện như các quy định
của Bộ luật này về thủ tục giám đốc thẩm”. Điều này có nghĩa, nếu có
những nội dung được quy định ở thủ tục giám đốc thẩm mà ở thủ tục
tái thẩm không có quy định thì áp dụng những quy định của thủ tục
giám đốc thẩm. Ngoài những nội dung tương đồng với phiên tòa giám
đốc thẩm, phiên tòa tái thẩm có sự khác biệt về thẩm quyền của Hội
đồng xét xử tái thẩm. Hội đồng xét xử tái thẩm có thẩm quyền sau
đây: (i) Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật; (2) Hủy bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại; (3) Hủy bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án104. Luật sư cần thiết
phải chuẩn bị tài liệu, nội dung bài phát biểu và kỹ năng trình bày khi
được Hội đồng xét xử tái thẩm yêu cầu.
Tương tự như thủ tục tiến hành phiên tòa giám đốc thẩm, sau khi
thành viên của Hội đồng tái thẩm trình bày tóm tắt nội dung vụ án,
quá trình xét xử vụ án, quyết định của bản án, quyết định của tòa án đã
có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, các căn cứ nhận định của kháng
nghị và đề nghị của người kháng nghị sẽ đến phần trình bày của
đương sự và các chủ thể khác được Tòa án triệu tập tham gia phiên
tòa. Nội dung trình bày là ý kiến của đương sự (người đại diện hợp
pháp), người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (Luật sư)
về quyết định kháng nghị. Nếu thấy vấn đề nào chưa rõ thì Hội đồng

104
Xem: Điều 356 BLTTDS năm 2015.

425
xét xử có thể hỏi thêm đương sự và Luật sư. Căn cứ vào những quy
định pháp luật về vai trò tham gia phiên tòa tái thẩm, Luật sư giúp
đương sự chuẩn bị và thể hiện những nội dung sau:
- Nội dung liên quan đến căn cứ kháng nghị tái thẩm.
- Chuẩn bị bản trình bày ý kiến phát biểu tại phiên họp tái thẩm
nếu đương sự và Luật sư không tham gia phiên tòa giám đốc thẩm.
Bản trình bày ý kiến phát biểu tại phiên họp thông thường có các nội
dung như: giới thiệu tư cách chủ thể tham gia phiên tòa tái thẩm,
thông tin người đề nghị, thông tin vụ việc đã được giải quyết và bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, phạm vi kháng nghị và lý do
kháng nghị, các chứng cứ, tài liệu chứng minh cho yêu cầu kháng nghị
là có căn cứ và hợp pháp.
- Trình bày ý kiến lên quan đến quyết định kháng nghị và các nội
dung khác được Hội đồng xét xử yêu cầu làm rõ.
3. Kỹ năng của Luật sư tham gia thủ tục đặc biệt xem xét lại
quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Với quy định của BLTTDS năm 2015 về thủ tục đặc biệt xem
xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì vai trò của
Luật sư tham gia vào thủ tục này là không có. Tuy nhiên, Luật sư cũng
phải nắm được các quy định pháp luật liên quan tới thủ tục đặc biệt
này để tư vấn cho khách hàng gửi đơn đến Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Chánh án TANDTC, Viện trưởng
VKSNDTC để những chủ thể này có quyền yêu cầu, kiến nghị, đề
nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.
3.1. Xác định căn cứ, điều kiện xem xét lại quyết định của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
3.1.1. Căn cứ xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao
- Về nội dung, có căn cứ xác định quyết định của Hội đồng Thẩm
phán TANDTC vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện có
tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản về nội dung quyết
định mà đương sự, Hội đồng Thẩm phán TANDTC không biết được

426
khi ra quyết định đó105. BLTTDS năm 2015 không quy định cụ thể
như thế nào là trường hợp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc
phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung
quyết định. Có thể thấy, về câu chữ điều luật, căn cứ để xem xét lại
quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC là sự gộp lại các căn
cứ theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Điều này nghĩa là có vi phạm
pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể
làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán
TANDTC đã ban hành thì chủ thể có thẩm quyền có quyền yêu cầu
xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC. Vì thế,
khi đánh giá về vấn đề nội dung của căn cứ xem xét lại quyết định của
Hội đồng Thẩm phán TANDTC, Luật sư, Thẩm phán, Kiểm sát viên
có thể viện dẫn kỹ năng xem xét căn cứ thủ tục giám đốc thẩm, thủ tục
tái thẩm để soi xét.
- Về thủ tục, yêu cầu thứ nhất về thủ tục là bắt buộc phải có yêu
cầu, kiến nghị, đề nghị thể hiện bằng văn bản của những chủ thể đặc
biệt được pháp luật quy định. Các chủ thể đặc biệt đó là: Ủy ban
thường vụ Quốc hội (yêu cầu); Ủy ban Tư pháp của Quốc hội (kiến
nghị); Viện trưởng VKSNDTC (kiến nghị chứ không phải kháng
nghị); Chánh án TANDTC (đề nghị chứ không phải kháng nghị). Yêu
cầu thứ hai về thủ tục là cần phải được sự chấp thuận của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC về việc xét lại thì thủ tục xét lại quyết định của
Hội đồng Thẩm phán TANDTC mới được mở. Sự chấp thuận của Hội
đồng Thẩm phán TANDTC về việc mở thủ tục xét lại phán quyết của
chính mình được xem như là một điều kiện tiên quyết (diễn ra ở phiên
họp thứ nhất để xét kiến nghị, đề nghị) để Hội đồng Thẩm phán
TANDTC có thể tiến hành các thủ tục tiếp theo nhằm xem xét lại
quyết định của Hội đồng Thẩm phán (diễn ra ở phiên họp thứ hai).
Tuy nhiên, không phải mọi yêu cầu, kiến nghị, đề nghị thì đều phải tổ
chức phiên họp thứ nhất (phiên họp với tính chất là kiểm tra có đủ căn
cứ để xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán). Hội đồng Thẩm
phán TANDTC chỉ phải tổ chức phiên họp thứ nhất cho trường hợp có
kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện

105
Khoản 1 Điều 358 BLTTDS năm 2015.

427
trưởng VKSNDTC hoặc đề nghị của Chánh án TANDTC106. Đối với
trường hợp có yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc xét lại
thì Chánh án TANDTC báo cáo Hội đồng Thẩm phán TANDTC xem
xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC mà không cần
phải thông qua phiên họp của Hội đồng Thẩm phán TANDTC để xem
xét yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội có cơ sở để mở thủ tục
xét lại hay không.107
3.1.2. Thời hạn xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao
BLTTDS năm 2015 không có quy định nào ràng buộc về thời
hạn mà các chủ thể có thẩm quyền thực hiện quyền “Yêu cầu, kiến
nghị, đề nghị” xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC. Nếu hiểu theo nguyên tắc luật không quy định thì không
phải áp dụng thì các “yêu cầu, kiến nghị, đề nghị” của các chủ thể nêu
trên về việc xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC có thể được thực hiện vào bất cứ thời điểm nào. Tuy nhiên,
cũng có những quan điểm cho rằng, căn cứ để xem xét lại quyết định
của Hội đồng Thẩm phán TANDTC bao hàm cả căn cứ để xem xét lại
bản án, quyết định đã có hiệu lực theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
nên vận dụng nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật sẽ có hai trường
hợp xảy ra:
+ Nếu có căn cứ cho rằng quyết định của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC có vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì tương đương với căn
cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm và sẽ áp dụng thời hạn
kháng nghị của thủ tục giám đốc thẩm.
+ Nếu phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ
bản nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán TANDTC và đương
sự không thể biết được khi ra quyết định đó thì tương đương với căn
cứ kháng nghị theo thủ tục tái thẩm và sẽ áp dụng thời hạn kháng nghị
của thủ tục giám đốc thẩm.
Vấn đề này vẫn chỉ là những quan điểm luật học, vì thế cần có
hướng dẫn cụ thể của Hội đồng Thẩm phán TANDTC về vấn đề này
để các chủ thể Luật sư dễ dàng và thống nhất trong việc áp dụng.

Xem: khoản 2 và khoản 3 Điều 358 BLTTDS năm 2015.


106

TS. Bùi Thị Huyền (Chủ biên), Bình luận khoa học BLTTDS năm 2015, Nxb. Lao động,
107

2016, tr. 446.

428
3.1.3. Chủ thể có thẩm quyền xem xét theo thủ tục đặc biệt quyết
định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Trong mọi trường hợp (dựa trên yêu cầu của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của
Viện trưởng VKSNDTC, đề nghị của Chánh án TANDTC)108, chủ thể
có thẩm quyền xem xét theo thủ tục đặc biệt quyết định của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC là Hội đồng Thẩm phán TANDTC.
3.2. Thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao
Theo quy định của BLTTDS năm 2015, việc xem xét lại quyết
định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC theo thủ tục đặc biệt được
dựa trên yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, kiến nghị của Ủy
ban Tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng VKSNDTC
hoặc đề nghị của Chánh án TANDTC chứ không phải dựa trên kháng
nghị của Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC. Vì vậy,
người có thẩm quyền yêu cầu xem xét lại quyết định của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC chỉ giới hạn bởi Ủy ban thường vụ Quốc hội,
Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Chánh án TANDTC, Viện trưởng
VKSNDTC. Thủ tục xét kiến nghị, đề nghị xem xét theo thủ tục đặc
biệt cũng có sự khác biệt so với thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm xuất
phát từ đối tượng được xem xét là quyết định của Hội đồng Thẩm
phán TANDTC.
- Trường hợp có yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội đề
nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC thì
Hội đồng Thẩm phán TANDTC không tiến hành thủ tục xem xét có
căn cứ xem xét lại hay không mà Chánh án TANDTC sẽ có trách
nhiệm báo cáo Hội đồng Thẩm phán TANDTC để xem xét lại quyết
định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC. Hội đồng Thẩm phán
TANDTC sau khi nhận được báo cáo của Chánh án TANDTC sẽ mở
phiên họp với sự tham gia của toàn thể Thẩm phán TANDTC để xem
xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC109.

108
Xem: Điều 358 BLTTDS năm 2015.
109
Khoản 5 Điều 359 BLTTDS năm 2015.

429
- Trường hợp có kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội,
kiến nghị của Viện trưởng VKSNDTC hoặc đề nghị của Chánh án
TANDTC đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC thì Hội đồng Thẩm phán TANDTC phải mở phiên họp để
xem xét kiến nghị, đề nghị110. Thành phần tham gia phiên họp: Hội
đồng Thẩm phán TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC và đại diện Ủy
ban Tư pháp của Quốc hội (trong trường hợp xem xét kiến nghị của
Ủy ban Tư pháp của Quốc hội)111. Trình tự, thủ tục phiên họp tuân thủ
quy định tại khoản 3 Điều 359 BLTTDS năm 2015. Kết thúc phiên
họp, Hội đồng Thẩm phán TANDTC thảo luận và biểu quyết theo đa
số về việc nhất trí hoặc không nhất trí với kiến nghị, đề nghị xem xét
lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.
3.3. Phiên họp xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao
3.3.1. Thời hạn mở phiên họp
Thời hạn Tòa án mở phiên họp xem xét lại quyết định của Hội
đồng Thẩm phán TANDTC:
- Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày nhận được kiến nghị của
Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng VKSNDTC
hoặc kể từ ngày Chánh án TANDTC có văn bản đề nghị thì Hội đồng
Thẩm phán TANDTC phải mở phiên họp để xem xét kiến nghị,
đề nghị.112
- Trong thời hạn 04 tháng, kể từ ngày nhận được yêu cầu của
Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định tại khoản 2 Điều 358 BLTTDS
năm 2015 hoặc kể từ ngày có quyết định của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 359 BLTTDS năm 2015,
Hội đồng Thẩm phán TANDTC phải mở phiên họp để xem xét lại
quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.
3.3.2. Thẩm quyền quyền xem xét lại theo thủ tục đặc biệt quyết
định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Căn cứ vào khoản 2 và khoản 5 Điều 359 BLTTDS năm 2015,

110
Xem: khoản 2 Điều 359 BLTTDS năm 2015.
111
Xem: khoản 3 Điều 359 BLTTDS năm 2015.
112
Khoản 2 Điều 359 BLTTDS năm 2015.

430
Hội đồng Thẩm phán TANDTC là chủ thể có thẩm quyền mở phiên
họp để xét kiến nghị, đề nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, kiến
nghị của Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án TANDTC và mở phiên
họp với sự tham gia của toàn thể Thẩm phán TANDTC để xem xét lại
quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.
3.3.3. Thành phần tham gia phiên họp xem xét quyết định của
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Tham gia phiên họp xem xét kiến nghị, đề nghị của Ủy ban Tư
pháp của Quốc hội, Chánh án TANDTC và Viện trưởng VKSNDTC
gồm các thẩm phán Hội đồng Thẩm phán TANDTC, Đại diện Ủy ban
Tư pháp của Quốc hội, Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án
TANDTC.113
Tham gia phiên họp xem xét quyết định của Hội đồng Thẩm
phán TANDTC có sự tham gia của toàn thể Thẩm phán Hội đồng
Thẩm phán TANDTC, Chánh án TANDTC và Viện trưởng
VKSNDTC, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong trường hợp
xét thấy cần thiết.114
3.3.4. Trình tự, thủ tục phiên họp xem xét lại quyết định của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Trình tự, thủ tục phiên họp xem xét lại quyết định của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC tuân theo quy định tại khoản 5 Điều 359
BLTTDS năm 2015. Theo đó, trong thời hạn 04 tháng, kể từ ngày
nhận được yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội yêu cầu xem xét
lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDT hoặc kể từ ngày có
quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC nhất trí với đề nghị,
kiến nghị của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, Viện trưởng VKSNDTC
hoặc đề nghị của Chánh án TANDTC, Hội đồng Thẩm phán
TANDTC phải mở phiên họp với sự tham gia của toàn thể Thẩm phán
TANDTC để xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC.
Phiên họp Hội đồng Thẩm phán TANDTC phải có sự tham dự
của Viện trưởng VKSNDTC. Trường hợp xét thấy cần thiết,

113
Xem: khoản 3 Điều 359 BLTTDS năm 2015.
114
Xem: khoản 5 Điều 359 BLTTDS năm 2015.

431
TANDTC có thể mời cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham dự
phiên họp. Sau khi nghe Chánh án TANDTC báo cáo, nghe ý kiến của
Viện trưởng VKSNDTC, của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan
được mời tham dự (nếu có), thì Hội đồng Thẩm phán TANDTC ra
quyết định về phiên họp.
3.3.5. Thẩm quyền xem xét lại quyết định của của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC tuân theo quy định tại Điều 360 BLTTDS năm 2015. Theo
đó, khi xét thấy quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết quan trọng mới làm
thay đổi cơ bản nội dung quyết định của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC; bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp
dưới có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết quan trọng
mới làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định thì tùy từng
trường hợp, Hội đồng Thẩm phán TANDTC quyết định như sau:
- Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, hủy bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và quyết định về nội dung
vụ án;
- Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, hủy bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của TANDTC có quyết định vi phạm pháp luật
nghiêm trọng bị hủy do lỗi vô ý hoặc cố ý và gây thiệt hại cho đương
sự hoặc xác định trách nhiệm bồi hoàn giá trị tài sản theo quy định của
pháp luật;
- Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC, hủy bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để giao hồ sơ vụ án cho Tòa án
cấp dưới giải quyết theo quy định của pháp luật.
Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày Hội đồng Thẩm phán
TANDTC ra quyết định, TANDTC gửi quyết định cho Ủy ban thường
vụ Quốc hội, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, VKSNDTC, Tòa án nhân
dân đã giải quyết vụ án và các đương sự.115
115
Khoản 7 Điều 359 BLTTDS năm 2015.

432
4. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Phân tích các căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm.
2. Phân tích các căn cứ, điều kiện để kháng nghị theo thủ tục
tái thẩm.
3. Phân tích các căn cứ, điều kiện để yêu cầu, kiến nghị, đề nghị
xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.
Tình huống:
Tranh chấp đất đai giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Dung,
sinh năm 1941, trú tại số 1108/56, khóm Bình Đức 1, phường B, thành
phố LX, tỉnh H và bị đơn là bà Trần Thị Nhung, sinh năm 1942, trú tại
1050 khóm Bình Đức 1, phường B, thành phố LX, tỉnh H. Nội dung
kiện đòi lại đất đã hiến cho tập đoàn sản xuất trong thời kỳ cải tạo đất
đai sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Bản án sơ thẩm số
69/2010/DS-ST ngày 09/02/2010 của Tòa án nhân dân thành phố LX,
tỉnh H xử buộc bà Nhung phải trả lại đất canh tác của tập đoàn sản
xuất trước đây cho bà Dung là chủ sở hữu trước thời kỳ miền Nam
giải phóng. Bản án phúc thẩm số 54/2011/DS-PT ngày 25/10/2011 y
án sơ thẩm buộc bà Nhung phải hoàn trả cho bà Dung 6579m2 đất. Bà
Nhung có đơn khiếu nại đến Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam
ngày 01/01/2013 và cho rằng năm 1976, gia đình bà Dung đã tự
nguyện giao đất của mình cho Nhà nước và được tập đoàn sản xuất
tiếp nhận giao cho gia đình bà Nhung sản xuất ổn định và đóng thuế
liên tục cho Nhà nước. Năm 1996, bà Nhung đã kê khai và được cấp
quyền sử dụng đất toàn bộ diện tích đất canh tác trên. Bà Nhung
không có lỗi trong việc được giao đất. Đất đó là do Nhà nước giao cho
bà Nhung nên bà Nhung hoàn toàn có quyền của chủ sử dụng đất.
Trong quá trình giải quyết đơn khiếu nại của bà Nhung, TANDTC
nhận được biên bản xác minh ngày 11/4/2008 của ông Nguyễn Xuân
Vinh, nguyên là cán bộ địa chính phường B thời điểm năm 1996 và
bản xác nhận ngày 19/12/2008 của ông Trần Văn Thái, nguyên là Tập
đoàn phó Tập đoàn xản xuất và xác nhận của ông Nguyễn Văn Độ,
nguyên là kế toán của tập đoàn sản xuất đã xác định khi thực hiện

433
chính sách quản lý đất đai của Nhà nước, diện tích đất trên đã được
đưa vào Tập đoàn sản xuất và sau đó đã được giao cho bà Nhung quản
lý, sử dụng.
a) Theo anh chị, nội dung biên bản xác minh ngày 11/4/2008 và
ngày 19/12/2008 có được xem là tình tiết mới kháng nghị để chủ thể
có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm không? Vì sao?
b) Giả sử anh chị là Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho bà Nhung, anh chị cần trao đổi với bà Nhung những vấn đề gì
trước khi gửi đơn đề nghị xem xét kháng nghị Bản án phúc thẩm
số 54/2011/DS-PT ngày 25/10/2011?
c) Anh chị hãy soạn thảo đơn đề nghị xem xét Bản án phúc thẩm
số 54/2011/DS-PT ngày 25/10/2011 theo thủ tục tái thẩm?

434
CHƯƠNG 8
KỸ NĂNG THAM GIA THỦ TỤC RÚT GỌN

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này sẽ trang bị cho 1. Kiến thức cơ bản về thủ tục
người học: rút gọn đối với Luật sư
- Về kiến thức, giúp người học 2. Kỹ năng của Luật sư tham gia
nhận thức được những kiến thức giải quyết vụ án dân sự theo thủ
chung về thủ tục tố tụng dân sự tục rút gọn tại Tòa án cấp sơ thẩm
rút gọn. 3. Kỹ năng của Luật sư tham gia
- Về kỹ năng, người học áp dụng giải quyết vụ án dân sự theo
được kỹ năng đặc thù của Luật thủ tục rút gọn tại Tòa án cấp
sư khi tham gia giải quyết vụ án phúc thẩm
theo thủ tục rút gọn. 4. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
- Về thái độ, người học có thái
độ, ứng xử chuẩn mực phù hợp
với quy tắc nghề nghiệp của
Luật sư khi tham gia giải quyết
vụ án theo thủ tục rút gọn.

1. Kiến thức cơ bản về thủ tục rút gọn đối với Luật sư
1.1. Về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn
Điều 317 BLTTDS năm 2015 về điều kiện áp dụng thủ tục rút
gọn đã xác định phạm vi loại việc có thể áp dụng thủ tục rút gọn theo
hướng phải có sự tích hợp đủ các điều kiện về tính chất loại việc, nơi
cư trú và không có yếu tố nước ngoài. Luật sư cần lưu ý là quy định
tại khoản 1 Điều 317 BLTTDS năm 2015 theo hướng Tòa án giải
quyết vụ án theo thủ tục rút gọn khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng,
đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo
đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập
tài liệu, chứng cứ;

435
- Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng;
- Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở
nước ngoài, trừ trường hợp đương sự ở nước ngoài và đương sự ở
Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn
hoặc các đương sự đã xuất trình được chứng cứ về quyền sở hữu hợp
pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản.
Tuy nhiên, quy định tại khoản 2 Điều 317 BLTTDS năm 2015
đã mở rộng hơn phạm vi áp dụng của thủ tục rút gọn khi giảm bớt
điều kiện về “các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng”
và cho phép Tòa án vẫn có thể áp dụng thủ tục rút gọn trong một số
trường hợp nhất định. Cụ thể là đối với vụ án lao động đã được thụ lý,
giải quyết theo thủ tục rút gọn mà người sử dụng lao động có quốc
tịch nước ngoài hoặc người đại diện theo pháp luật của họ đã rời khỏi
địa chỉ nơi cư trú, nơi có trụ sở mà không thông báo cho đương sự
khác, cho Tòa án thì bị coi là trường hợp cố tình giấu địa chỉ. Tòa án
vẫn giải quyết vụ án đó theo thủ tục rút gọn được quy định tại
BLTTDS năm 2015.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 317 BLTTDS năm 2015 thì
trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn, nếu xuất
hiện tình tiết mới làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết
theo thủ tục rút gọn thì Tòa án ra quyết định chuyển vụ án sang giải
quyết theo thủ tục thông thường. Việc nghiên cứu cho thấy, nếu xuất
hiện một trong sáu căn cứ sau đây thì Tòa án ra quyết định chuyển vụ
án sang giải quyết theo thủ tục thông thường:
- Phát sinh tình tiết mới mà các đương sự không thống nhất do
đó cần phải xác minh, thu thập thêm tài liệu, chứng cứ hoặc cần phải
tiến hành giám định;
- Cần phải định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp mà các
đương sự không thống nhất về giá;
- Cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
- Phát sinh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Phát sinh yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập;
- Phát sinh đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở

436
nước ngoài, yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ ở nước ngoài mà
cần phải thực hiện ủy thác tư pháp, trừ trường hợp đương sự ở nước
ngoài và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải
quyết theo thủ tục rút gọn hoặc các đương sự đã xuất trình được chứng
cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về
việc xử lý tài sản.
Luật sư cần lưu ý là theo quy định tại khoản 4 Điều 317
BLTTDS năm 2015 thì trường hợp chuyển vụ án sang giải quyết theo
thủ tục thông thường thì thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được tính lại
kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục
thông thường. Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án có
thêm thời gian để giải quyết tranh chấp, có lợi cho bị đơn nhưng
khách hàng là nguyên đơn phải đối diện với bất lợi do thời hạn giải
quyết vụ tranh chấp bị kéo dài hơn so với lựa chọn khởi kiện theo thủ
tục thông thường ngay từ đầu.
1.2. Về quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn
Luật sư cần lưu ý những điểm đặc thù so với thủ tục tố tụng
thông thường về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, thời hạn gửi quyết
định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn, thời hạn Tòa án phải gửi
hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát và thời hạn Viện kiểm sát nghiên cứu
hồ sơ để chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa theo thủ tục rút gọn.
Theo quy định tại Điều 203 BLTTDS năm 2015 thì thông thường thời
hạn chuẩn bị xét xử tranh chấp về dân sự, HN&GĐ theo thủ tục thông
thường là 04 tháng (hoặc 06 tháng), kể từ ngày thụ lý vụ án; đối với
tranh chấp về kinh doanh, thương mại và lao động thì thời hạn này là
02 tháng (hoặc 03 tháng); thời hạn mở phiên tòa theo thủ tục thông
thường là 01 tháng (hoặc 02 tháng), kể từ có quyết định đưa vụ án ra
xét xử116. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 318 BLTTDS
năm 2015, trong thời hạn không quá 01 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án,
nếu xét thấy vụ tranh chấp hội đủ các điều kiện áp dụng thủ tục rút
gọn theo quy định tại Điều 317 BLTTDS năm 2015 thì Thẩm phán
được phân công giải quyết vụ án phải ra quyết định đưa vụ án ra xét
xử theo thủ tục rút gọn và mở phiên tòa xét xử trong thời hạn 10 ngày,
kể từ ngày ra quyết định này.

116
Xem thêm quy định tại Điều 203 BLTTDS năm 2015.

437
Khoản 2 Điều 318 BLTTDS năm 2015 đã quy định khá chi tiết
những nội dung chính cần phải có của quyết định đưa vụ án ra xét xử
theo thủ tục rút gọn như tên Tòa án ra quyết định; Vụ án được đưa ra
xét xử theo thủ tục rút gọn; Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư
điện tử (nếu có) của nguyên đơn, bị đơn hoặc cơ quan, tổ chức, cá
nhân khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Họ, tên Thẩm
phán, Thư ký Tòa án; họ, tên Thẩm phán dự khuyết (nếu có); Họ, tên
Kiểm sát viên; họ, tên Kiểm sát viên dự khuyết (nếu có); Ngày, giờ,
tháng, năm, địa điểm mở phiên tòa; Xét xử công khai hoặc xét xử kín;
Họ, tên những người được triệu tập tham gia phiên tòa.
Theo quy định tại Điều 318, Điều 319 BLTTDS năm 2015 thì
quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn phải được gửi
ngay cho đương sự để họ biết và có thể thực hiện các quyền tố tụng
của mình như quyền khiếu nại về việc áp dụng thủ tục rút gọn, yêu
cầu thay đổi Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, quyền tham
gia phiên tòa. Đây là điểm mà Luật sư cần khai thác để giúp khách
hàng của mình có thể thực hiện được các quyền tố tụng mà pháp luật
đã ghi nhận trong BLTTDS năm 2015. Ngoài ra, cũng theo quy định
tại Điều 318, Điều 319 BLTTDS năm 2015 thì quyết định đưa vụ án
ra xét xử theo thủ tục rút gọn cũng phải được gửi ngay cho Viện kiểm
sát cùng cấp để Viện kiểm sát thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự và chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa. Như
vậy, cần lưu ý là quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn
phải được gửi ngay cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp chứ không
phải là trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định như
đối với quyết định đưa vụ án dân sự ra xét xử đối với các vụ tranh
chấp được giải quyết theo thủ tục thông thường117. Thời hạn Viện
kiểm sát nghiên cứu hồ sơ để chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa
theo thủ tục rút gọn chỉ là 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được hồ
sơ, thay vì là 15 ngày làm việc như đối với các vụ tranh chấp được
giải quyết theo thủ tục thông thường khác118. Hết thời hạn 03 ngày
này, Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ cho Tòa án.

117
Xem thêm quy định tại khoản 2 Điều 220 BLTTDS năm 2015.
118
Xem thêm quy định tại khoản 2 Điều 220 BLTTDS năm 2015.

438
1.3. Khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về
quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn
Để bảo đảm rằng vụ tranh chấp thực sự thỏa mãn các điều kiện
về áp dụng thủ tục rút gọn, pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam vẫn ghi
nhận đương sự có quyền khiếu nại và Viện kiểm sát cùng cấp có
quyền kiến nghị về quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn
với Chánh án Tòa án đã ra quyết định. Đây là vấn đề mà Luật sư của
nguyên đơn cần lưu ý để thông tin cho khách hàng biết việc khiếu nại
của bị đơn và các đương sự khác hoặc kiến nghị của Viện kiểm sát
cùng cấp đối với quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn
có thể dẫn đến những hậu quả bất lợi cho nguyên đơn. Đối với Luật
sư của bị đơn thì quy định này cũng là cơ sở để Luật sư giúp khách
hàng thực hiện quyền được xét xử bằng một Hội đồng gồm 01 Thẩm
phán và 02 Hội thẩm nhân dân theo thủ tục tranh tụng tại phiên tòa.
Trong trường hợp đương sự có khiếu nại hoặc Viện kiểm sát cùng
cấp có kiến nghị về quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút
gọn thì Chánh án Tòa án có thể có hai phương án giải quyết là giữ
nguyên quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc hủy
quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn và chuyển vụ án
sang giải quyết theo thủ tục thông thường. Theo quy định tại khoản 1
Điều 319 BLTTDS năm 2015 thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể
từ ngày nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn,
đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kiến
nghị với Chánh án Tòa án đã ra quyết định. Theo quy định tại khoản 2
Điều 319 BLTTDS năm 2015 thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể
từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị về quyết định đưa vụ án ra xét
xử theo thủ tục rút gọn, Chánh án Tòa án phải ra một trong các quyết
định sau đây:
- Giữ nguyên quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn;
- Hủy quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn và
chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường.
Quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án
là quyết định cuối cùng và phải được gửi ngay cho đương sự, Viện
kiểm sát cùng cấp.

439
1.4. Về phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn
Thủ tục tố tụng dân sự rút gọn là thủ tục được đơn giản hóa hơn
so với thủ tục tố tụng thông thường. Theo quy định tại Điều 320
BLTTDS năm 2015 về phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn thì việc
vắng mặt đương sự tham gia phiên tòa sơ thẩm lần thứ nhất có thể
không làm cho phiên tòa bị gián đoạn như trong thủ tục tố tụng thông
thường119. Theo quy định tại Điều luật trên thì các đương sự, Kiểm sát
viên Viện kiểm sát cùng cấp phải có mặt tại phiên tòa xét xử theo thủ
tục rút gọn. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử
vẫn tiến hành xét xử. Đương sự có quyền đề nghị Tòa án xét xử vắng
mặt. Trường hợp bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã
được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì
Thẩm phán vẫn tiến hành phiên tòa.
Nguyên tắc Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử vụ án dân sự,
Toà án xét xử tập thể không được áp dụng với thủ tục tố tụng dân sự
rút gọn, toàn bộ quy trình hòa giải, xét xử đều do một Thẩm phán
đảm nhiệm. Quy định này phù hợp với tinh thần cải cách của Hiến
pháp năm 2013 về nguyên tắc việc xét xử của Tòa án có Hội thẩm
nhân dân tham gia; nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 103 Hiến pháp năm 2013
thì: “Việc xét xử sơ thẩm của Toà án nhân dân có Hội thẩm tham
gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn” và “Toà án nhân dân
xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo
thủ tục rút gọn”.
Việc nghiên cứu quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 320
BLTTDS năm 2015 về phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn cho thấy,
đối với thủ tục rút gọn pháp luật không bắt buộc Thẩm phán phải tiến
hành hòa giải vụ án trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm120 mà việc
hòa giải được kết hợp với việc tiến hành phiên tòa sơ thẩm. Sau khi
Thẩm phán tiến hành thủ tục khai mạc phiên tòa theo quy định chung,
Thẩm phán sẽ tiến hành hòa giải (trừ trường hợp không được hòa giải
hoặc không tiến hành hòa giải được). Trường hợp các đương sự thỏa
thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm

119
Xem thêm quy định tại Điều 227 BLTTDS năm 2015.
120
Xem thêm quy định tại Điều 205 BLTTDS năm 2015.

440
phán ra quyết định công nhận sự thoả thuận của các đương sự theo
quy định tại Điều 212 BLTTDS năm 2015. Trường hợp các đương sự
không thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án
thì Thẩm phán tiến hành xét xử. Việc trình bày, tranh luận, đối đáp, đề
xuất quan điểm về việc giải quyết vụ án được thực hiện theo quy định
chung tại Mục 3 Chương XIV BLTTDS năm 2015 về tranh tụng tại
phiên tòa theo thủ tục tố tụng thông thường.
Ngoài ra, khoản 4 Điều 320 BLTTDS năm 2015 cũng đã quy
định Thẩm phán xem xét, ra quyết định chuyển vụ án sang giải
quyết theo thủ tục thông thường nếu tại phiên tòa mà phát sinh tình
tiết mới quy định tại khoản 3 Điều 317 của BLTTDS năm 2015 làm
cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn.
Trong trường hợp này thì thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được tính
lại kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ
tục thông thường121.
1.5. Về hiệu lực của bản án, quyết định theo thủ tục rút gọn
Theo quy định tại Điều 321 BLTTDS năm 2015 về hiệu lực của
bản án, quyết định theo thủ tục rút gọn thì đương sự có quyền kháng
cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị đối với bản án, quyết định
định sơ thẩm của Tòa án theo thủ tục rút gọn để yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm rút gọn. Bản án, quyết
định theo thủ tục rút gọn đã có hiệu lực pháp luật có thể bị kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm nếu phát hiện có sai lầm,
vi phạm pháp luật hoặc tình tiết mới theo quy định của BLTTDS
năm 2015.
1.6. Về thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản án, quyết
định theo thủ tục rút gọn
Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam vẫn ghi nhận đương sự có
quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục
phúc thẩm rút gọn. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu về tính nhanh
chóng, hiệu quả của việc giải quyết tranh chấp theo thủ tục rút gọn và
chống lại việc lạm quyền kháng cáo của đương sự, nhà lập pháp đã

121
Xem thêm quy định tại khoản 4 Điều 317 BLTTDS năm 2015.

441
thiết lập các quy định về thời hạn kháng cáo, kháng nghị đối với bản
án, quyết định theo thủ tục rút gọn trên cơ sở rút ngắn các thời hạn này
so với thủ tục tố tụng thông thường. Theo quy định tại Điều 322
BLTTDS năm 2015 thì thời hạn kháng cáo đối với bản án, quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm theo thủ tục rút gọn là 07 ngày, kể từ ngày
tuyên án. Đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn
kháng cáo tính từ ngày bản án, quyết định được giao cho họ hoặc bản
án, quyết định được niêm yết.
Việc quy định mốc tính thời hạn 07 ngày, kể từ ngày tuyên án
hoặc ngày bản án, quyết định được giao cho đương sự hoặc bản án,
quyết định được niêm yết là nhằm tạo điều kiện cho đương sự được
biết nội dung bản án, quyết định của Tòa án có liên quan đến quyền
lợi của mình để thực hiện quyền kháng cáo, đồng thời cũng là giải
pháp nhằm chống lại việc trì hoãn, trốn tránh không nhận bản án,
quyết định của Tòa án. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng
cấp đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo thủ tục rút
gọn được rút ngắn chỉ còn là 07 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp chỉ còn là 10 ngày, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định thay
vì là 15 ngày hay 01 tháng đối với bản án sơ thẩm theo thủ tục tố tụng
thông thường122.
1.7. Về thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn
Luật sư cần lưu ý là thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo thủ
tục rút gọn được rút ngắn so với thủ tục tố tụng thông thường.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 323 BLTTDS năm 2015 thì trong thời
hạn 01 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, tuỳ từng trường hợp, Thẩm
phán được phân công giải quyết vụ án theo thủ tục phúc thẩm ra một
trong các quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; đình chỉ xét
xử phúc thẩm vụ án hoặc đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm. Như vậy,
thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn được rút ngắn
hơn, chỉ còn 01 tháng so với thời hạn 02 hoặc 03 tháng trong thủ tục
tố tụng thông thường123.
Khoản 2 Điều 323 BLTTDS năm 2015 đã dẫn chiếu tới quy định
tại Điều 290 BLTTDS năm 2015 để xác định nội dung của quyết định
122
Xem thêm quy định tại Điều 273, Điều 280 BLTTDS năm 2015.
123
Xem thêm quy định tại Điều 286 BLTTDS năm 2015.

442
đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn. Theo đó, quyết
định này phải có các nội dung chính sau đây: ngày, tháng, năm ra
quyết định; tên Tòa án ra quyết định; vụ án được đưa ra xét xử; tên,
địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi
kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; ngày, giờ, tháng, năm,
địa điểm mở phiên tòa; xét xử công khai hoặc xét xử kín; họ, tên
người được triệu tập tham gia phiên tòa; họ, tên Thẩm phán, Thư ký
Tòa án; họ, tên Thẩm phán dự khuyết (nếu có); họ, tên, tư cách tham
gia tố tụng của người kháng cáo; Viện kiểm sát kháng nghị (nếu có);
họ, tên Kiểm sát viên tham gia phiên tòa; họ, tên Kiểm sát viên dự
khuyết (nếu có).
Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn
phải được gửi ngay cho những người có liên quan đến kháng cáo,
kháng nghị và Viện kiểm sát cùng cấp kèm theo hồ sơ vụ án để nghiên
cứu thay vì được gửi trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra
quyết định như đối với quyết định đưa vụ án dân sự ra xét xử phúc
thẩm theo thủ tục thông thường124. Theo thủ tục tố tụng dân sự phúc
thẩm rút gọn, thì thời hạn nghiên cứu hồ sơ của Viện kiểm sát cùng
cấp được rút ngắn chỉ còn là 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được
hồ sơ vụ án thay vì là 15 ngày đối với thủ tục phúc thẩm thông
thường125. Hết thời hạn 05 ngày làm việc, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ
vụ án cho Tòa án.
Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án
thì thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm được tính lại kể từ ngày Tòa
án cấp phúc thẩm tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án khi lý do tạm đình
chỉ không còn. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 4 của Điều luật này
thì trong thời hạn chuẩn bị xét xử nếu xuất hiện tình tiết mới quy
định tại khoản 3 Điều 317 của BLTTDS năm 2015 làm cho vụ án
không còn đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn thì Tòa án
ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông
thường. Trong trường hợp này, thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được
tính theo quy định tại khoản 4 Điều 317 của Bộ luật này. Khoản 4
Điều 323 BLTTDS năm 2015 không quy định rõ là việc chuyển vụ án

124
Xem thêm quy định tại khoản 2 Điều 290 BLTTDS năm 2015.
125
Xem thêm quy định tại Điều 292 BLTTDS năm 2015.

443
sang giải quyết theo thủ tục thông thường là theo thủ tục sơ thẩm hay
theo thủ tục phúc thẩm và thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án trong trường
hợp này được tính lại theo thủ tục sơ thẩm hay theo thủ tục phúc thẩm
thông thường. Do vậy, cần phải lưu ý tới các văn bản hướng dẫn hay
án lệ của TANDTC về vấn đề này.
1.8. Về thủ tục phúc thẩm rút gọn đối với bản án, quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị
Cần lưu ý là các quy định về thời hạn mở phiên tòa phúc thẩm
theo thủ tục rút gọn đã được rút ngắn so với thủ tục tố tụng thông
thường. Theo đó, trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có quyết định
đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, Thẩm phán phải mở phiên tòa phúc
thẩm. Như vậy, thời hạn mở phiên tòa phúc thẩm theo thủ tục rút gọn
được rút ngắn hơn, chỉ còn 15 ngày so với thời hạn từ 01 đến 02 tháng
trong thủ tục tố tụng thông thường126. Việc xét xử phúc thẩm vụ án
dân sự theo thủ tục rút gọn chỉ do một Thẩm phán tiến hành (Điều 65,
Điều 324 BLTTDS năm 2015). Tuy nhiên, khoản 2 Điều 324
BLTTDS năm 2015 lại quy định trong trường hợp Kiểm sát viên vắng
mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, trừ trường hợp Viện
kiểm sát có kháng nghị phúc thẩm. Đây là một quy định chưa tương
thích với quy định tại Điều 65 BLTTDS năm 2015 cần được lưu ý
trong quá trình áp dụng.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 324 BLTTDS năm 2015 về thủ
tục phúc thẩm rút gọn đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì đòi hỏi về bảo đảm quyền tham gia
phiên tòa của đương sự được giảm nhẹ so với thủ tục tố tụng phúc
thẩm thông thường. Việc vắng mặt đương sự tham gia phiên tòa phúc
thẩm trong một số trường hợp có thể không làm cho phiên tòa bị gián
đoạn như trong thủ tục phúc thẩm thông thường127. Theo quy định tại
khoản 2 Điều luật trên, các đương sự, Kiểm sát viên Viện kiểm sát
cùng cấp phải có mặt tại phiên tòa phúc thẩm. Trường hợp Kiểm sát
viên vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử, trừ trường
hợp Viện kiểm sát có kháng nghị phúc thẩm. Đương sự có quyền đề
nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Trường hợp đương sự không kháng cáo

126
Xem thêm quy định tại Điều 286 BLTTDS năm 2015.
127
Xem thêm quy định tại Điều 296 BLTTDS năm 2015.

444
đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì
Thẩm phán vẫn tiến hành phiên tòa.
Các quy định về tranh tụng theo thủ tục phúc thẩm rút gọn tại
các khoản 3, 4, 5 Điều 324 BLTTDS năm 2015 tương tự như quy định
về thủ tục phúc thẩm thông thường (từ Điều 301 tới Điều 307
BLTTDS năm 2015) nhưng được giản lược hơn và không có quy định
riêng về việc nghị án. Theo đó, Thẩm phán trình bày tóm tắt nội dung
bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, nội dung của
kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có). Người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trình bày, đương sự bổ
sung ý kiến về nội dung kháng cáo, kháng nghị, tranh luận, đối đáp, đề
xuất quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án. Sau khi kết thúc
việc tranh luận và đối đáp, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện
kiểm sát về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án
dân sự ở giai đoạn phúc thẩm. Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, Kiểm
sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ
vụ án.
Theo quy định tại Điều 316 BLTTDS năm 2015 thì các quy
định tại Phần thứ tư của BLTTDS năm 2015 về “Giải quyết vụ án
dân sự theo thủ tục rút gọn” sẽ được ưu tiên áp dụng để giải quyết
những tranh chấp thỏa mãn một số điều kiện nhất định, đối với
những vấn đề không được quy định tại Phần thứ tư này thì các quy
định khác của BLTTDS sẽ được áp dụng để giải quyết tranh chấp.
Do vậy, tuy khoản 6 Điều 324 BLTTDS năm 2015 không có quy
định cụ thể về cơ sở thực hiện quyền hạn của Tòa án cấp phúc thẩm
trong thủ tục rút gọn nhưng có thể vận dụng tinh thần của các quy
định từ Điều 308 đến 312 BLTTDS năm 2015 về quyền hạn của Hội
đồng xét xử phúc thẩm để áp dụng trong thực tiễn. Theo quy định tại
khoản 6 Điều 324 BLTTDS năm 2015 thì mặc dù việc xét xử theo thủ
tục rút gọn do một Thẩm phán tiến hành nhưng Thẩm phán của Tòa án
cấp phúc thẩm có các quyền hạn tương tự như quyền hạn của Hội
đồng xét xử phúc thẩm thông thường. Đó là quyền giữ nguyên bản án,
quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm; sửa bản án, quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm; hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và
chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án
theo thủ tục rút gọn hoặc theo thủ tục thông thường; hủy bản án sơ

445
thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án; đình chỉ xét xử phúc thẩm và giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
Nếu vận dụng tương tự tinh thần của các quy định từ Điều 308
đến Điều 312 BLTTDS năm 2015 về quyền hạn của Hội đồng xét xử
phúc thẩm thì khi xem xét bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
bị kháng cáo, kháng nghị, Thẩm phán có quyền giữ nguyên bản án,
quyết định theo thủ tục rút gọn của Tòa án cấp sơ thẩm nếu kháng cáo,
kháng nghị không có cơ sở. Việc sửa bản án, quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm sẽ được thực hiện nếu Thẩm phán của Tòa án cấp phúc
thẩm đã có đủ chứng cứ, tài liệu để quyết định về vụ án.
Việc hủy bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển
hồ sơ vụ án cho Tòa án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo thủ
tục rút gọn hoặc theo thủ tục thông thường sẽ được thực hiện nếu
không còn đủ các điều kiện để giải quyết theo thủ tục rút gọn; Thẩm
phán đã tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án thuộc trường hợp phải từ chối
tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi; có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục
tố tụng ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Việc Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải
quyết vụ án theo thủ tục rút gọn được thực hiện trong các trường hợp
yêu cầu tố tụng ở cấp sơ thẩm không còn tồn tại hoặc Tòa án sơ thẩm
thụ lý vụ án không đúng. Việc đình chỉ xét xử phúc thẩm và giữ
nguyên bản án sơ thẩm được thực hiện nếu yêu cầu tố tụng ở cấp phúc
thẩm không còn tồn tại hoặc có sự suy đoán về việc đương sự từ bỏ
yêu cầu tố tụng của mình. Đây là những vấn đề cần được lưu ý trong
thực tiễn áp dụng pháp luật được thống nhất trên thực tế.
2. Kỹ năng của Luật sư tham gia giải quyết vụ án dân sự
theo thủ tục rút gọn tại Tòa án cấp sơ thẩm
2.1. Kỹ năng của Luật sư trong khởi kiện vụ án dân sự theo
thủ tục rút gọn tại Tòa án cấp sơ thẩm
2.1.1. Tiếp xúc với khách hàng
Việc quan trọng đầu tiên mà Luật sư cần thực hiện khi giúp
đương sự khởi kiện vụ án dân sự chính là tiếp xúc với khách hàng để
xác định sơ bộ về nội dung vụ việc, nguyện vọng và yêu cầu của
khách hàng, các điều kiện để khởi kiện ra Tòa án theo thủ tục rút gọn
mà hồ sơ có thể đáp ứng. Luật sư cần xác định nguyện vọng của khách

446
hàng là khởi kiện ra Tòa án theo thủ tục thông thường hay theo thủ tục
đơn giản hơn, với thời hạn giải quyết nhanh chóng hơn. Khi tiếp xúc
với khách hàng lần đầu, Luật sư chưa thể có đủ thông tin để xác định
vụ tranh chấp có thể khởi kiện theo thủ tục tố tụng thông thường hay
theo thủ tục rút gọn. Do vậy, về cơ bản thì kỹ năng tiếp xúc với khách
hàng của Luật sư cũng được thực hiện như đối với các vụ án theo thủ
tục tố tụng thông thường khác. Khi tiếp xúc với khách hàng, Luật sư
cần xác định yêu cầu cụ thể của họ, nội dung của tranh chấp, đối chiếu
với pháp luật để xác định quan hệ pháp luật có tranh chấp cần yêu cầu
Tòa án giải quyết. Việc xác định những vấn đề này được thực hiện
thông qua việc Luật sư lắng nghe lời trình bày của khách hàng, đặt câu
hỏi định hướng việc trình bày của họ. Trong quá trình tiếp xúc với
khách hàng, kiểm tra và xem xét sơ bộ các tài liệu, chứng cứ mà
đương sự cung cấp, nếu xác định vụ việc có thể đáp ứng các điều kiện
khởi kiện vụ án theo thủ tục rút gọn thì Luật sư cần tiếp tục tập trung
khai thác để làm rõ các điều kiện này. Cụ thể là Luật sư cần đối chiếu
với các quy định tại Điều 317 BLTTDS năm 2015 về điều kiện áp dụng
thủ tục rút gọn để xác định vụ việc của khách hàng có tích hợp đủ các
điều kiện về tính chất loại việc, nơi cư trú và không có yếu tố nước
ngoài hay không. Luật sư cần kết hợp giữa việc kiểm tra sơ bộ tài liệu,
chứng cứ của khách hàng, lắng nghe lời trình bày của họ, đặt câu hỏi
định hướng để xác định vụ việc có thỏa mãn các điều kiện để khởi kiện
theo thủ tục rút gọn quy định tại khoản 1 Điều 317 BLTTDS năm 2015
hay không. Cụ thể là Luật sư cần xác định các điều kiện sau đây:
- Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự
đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để
giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ;
- Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng;
- Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở
nước ngoài hoặc tuy có đương sự ở nước ngoài nhưng đương sự này
và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo
thủ tục rút gọn hoặc các đương sự đã xuất trình được chứng cứ về
quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử
lý tài sản.
Nếu xét thấy có thể khởi kiện vụ án theo thủ tục rút gọn thì Luật
sư cũng cần phân tích cho đương sự về những thuận lợi và khó khăn

447
khi quyết định lựa chọn việc khởi kiện theo thủ tục rút gọn so với việc
lựa chọn thủ tục thông thường. Luật sư cần phân tích cho khách hàng
biết, thời hạn giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn được rút ngắn so
với thủ tục thông thường, do vậy, việc khởi kiện theo thủ tục rút gọn
nếu thành công có thể giúp họ nhanh chóng có trong tay bản án, quyết
định buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ. Cụ thể là Luật sư cần phân
tích cho khách hàng biết những điểm đặc thù của thủ tục rút gọn so
với thủ tục tố tụng thông thường về thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm,
thời hạn gửi quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn, thời
hạn Tòa án phải gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát và thời hạn Viện
kiểm sát nghiên cứu hồ sơ để chuẩn bị cho việc tham gia phiên tòa
theo thủ tục rút gọn.
Luật sư cần chỉ rõ theo quy định tại Điều 203 BLTTDS năm 2015
thì thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm tranh chấp về dân sự, HN&GĐ
theo thủ tục thông thường là 04 tháng (hoặc 06 tháng), kể từ ngày thụ
lý vụ án; đối với tranh chấp về kinh doanh, thương mại và lao động thì
thời hạn này là 02 tháng (hoặc 03 tháng); thời hạn mở phiên tòa theo
thủ tục thông thường là 01 tháng (hoặc 02 tháng), kể từ có quyết định
đưa vụ án ra xét xử128. Trong khi đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 318
BLTTDS năm 2015 về thủ tục rút gọn thì trong thời hạn không quá
01 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, nếu xét thấy vụ tranh chấp hội đủ
các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn theo quy định tại Điều 317
BLTTDS năm 2015 thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án
phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục rút gọn và mở
phiên tòa xét xử trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày ra quyết định này.
Tuy nhiên, trường hợp có khiếu nại đối với quyết định đưa vụ án ra
xét xử theo thủ tục rút gọn và Chánh án Tòa án hủy bỏ quyết định này
thì vụ án sẽ được chuyển sang giải quyết theo thủ tục thông thường
(Điều 319 BLTTDS năm 2015). Trong trường hợp này, thời hạn giải
quyết vụ án sẽ bị kéo dài hơn do thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được
tính lại kể từ ngày Tòa án ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết
theo thủ tục thông thường (Điều 317 BLTTDS năm 2015), toàn bộ
thời gian tiến hành các thủ tục trước đó tại Tòa án cấp sơ thẩm cũng
không được tính. Cụ thể là trong trường hợp này thì thời hạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm đối với tranh chấp về dân sự, HN&GĐ sẽ là 04 tháng
128
Xem thêm quy định tại Điều 203 BLTTDS năm 2015.

448
(hoặc 06 tháng); đối với tranh chấp về kinh doanh, thương mại và lao
động thì thời hạn này là 02 tháng (hoặc 03 tháng) kể từ ngày Tòa án ra
quyết định chuyển vụ án sang giải quyết theo thủ tục thông thường
thay vì tính từ ngày Tòa án thụ lý vụ án; thời hạn mở phiên tòa là 01
tháng (hoặc 02 tháng), kể từ có quyết định mới về việc đưa vụ án ra
xét xử theo thủ tục thông thường129. Đây là điểm bất lợi mà Luật sư
cần chỉ rõ và phân tích cho khách hàng biết để họ cân nhắc kỹ trước
khi quyết định lựa chọn việc khởi kiện theo thủ tục rút gọn hay thủ tục
tố tụng thông thường. Nếu khách hàng vẫn quyết định khởi kiện theo
thủ tục rút gọn thì Luật sư cần phải xem xét và củng cố hồ sơ nhằm
đáp ứng các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn tại Điều 317 BLTTDS
năm 2015.
2.1.2. Chuẩn bị hồ sơ khởi kiện
Pháp luật hiện hành không có những quy định riêng biệt về hồ sơ
khởi kiện theo thủ tục rút gọn so với thủ tục thông thường. Do vậy, hồ
sơ khởi kiện theo thủ tục rút gọn cũng bao gồm đơn khởi kiện; tài liệu,
chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của nguyên đơn. Tuy nhiên, khi
soạn thảo đơn khởi kiện và chuẩn bị tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo
đơn khởi kiện, Luật sư cần lưu ý tới những đặc thù về điều kiện áp
dụng thủ tục rút gọn. Cụ thể như sau:
- Đơn khởi kiện theo thủ tục rút gọn phải tuân theo thể thức tại
Điều 189 BLTTDS năm 2015, thể hiện được nội dung tranh chấp và
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ngoài ra, đơn khởi kiện này còn
phải thể hiện được các điểm đặc thù sau:
+ Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng,
đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm
đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài
liệu, chứng cứ;
+ Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng;
+ Không có đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở
nước ngoài hoặc tuy có đương sự ở nước ngoài nhưng đương sự này
và đương sự ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo

129
Xem thêm quy định tại Điều 203 BLTTDS năm 2015.

449
thủ tục rút gọn hoặc các đương sự đã xuất trình được chứng cứ về
quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử
lý tài sản.
- Luật sư phải giúp khách hàng của mình chuẩn bị các chứng cứ,
tài liệu nộp kèm theo đơn khởi kiện để chứng minh vụ tranh chấp thỏa
mãn các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn:
+ Giấy vay nợ, văn bản hợp đồng, văn bản thỏa thuận giữa các
bên… có chữ ký của bên bị khởi kiện;
+ Văn bản có chữ ký của bên bị khởi kiện về việc thừa nhận
nghĩa vụ đã cam kết, thỏa thuận: Giấy thừa nhận nợ hoặc khoản tiền
chưa thanh toán, biên bản chốt nợ…
+ Giấy tờ chứng minh các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ
sở rõ ràng như chứng minh thư nhân dân/thẻ căn cước công dân, sổ hộ
khẩu gia đình, giấy xác nhận nơi bị đơn cư trú của chính quyền địa
phương; giấy tờ chứng minh trụ sở của bị đơn.
Luật sư cần lưu ý là theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Nghị
định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 về đăng ký doanh nghiệp thì
doanh nghiệp phải làm thủ tục đăng ký doanh nghiệp bao gồm đăng
ký thành lập doanh nghiệp; đăng ký thay đổi nội dung đăng ký doanh
nghiệp; đăng ký hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện, thông báo
lập địa điểm kinh doanh. Do vậy, Luật sư có thể hướng dẫn hoặc trợ
giúp khách hàng thu thập các tài liệu hoặc bản xác nhận thông tin về
trụ sở, chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh của doanh
nghiệp được lưu giữ tại Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế
hoạch và Đầu tư, Phòng Tài chính - Kế hoạch thuộc UBND cấp huyện.
+ Đối với trường hợp có một bên đương sự cư trú ở nước ngoài
thì Luật sư cần hướng dẫn, hỗ trợ khách hàng soạn thảo văn bản thỏa
thuận của họ với đương sự ở Việt Nam về việc đề nghị Tòa án giải
quyết theo thủ tục rút gọn;
+ Đối với trường hợp tài sản tranh chấp ở nước ngoài thì Luật sư
cần hướng dẫn, hỗ trợ khách hàng tìm kiếm, thu thập chứng cứ, tài
liệu về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và trợ giúp họ soạn thảo văn
bản thỏa thuận thống nhất của các đương sự về việc xử lý tài sản.

450
2.1.3. Nộp hồ sơ khởi kiện
Luật sư cần hướng dẫn khách hàng gửi đơn khởi kiện kèm theo
tài liệu, chứng cứ mà mình hiện có đến Tòa án có thẩm quyền giải
quyết vụ án bằng các phương thức sau:
- Nộp trực tiếp tại Tòa án và nhận giấy xác nhận của Tòa án về
việc đã nhận đơn. Trường hợp này thì ngày khởi kiện là ngày đương
sự nộp đơn khởi kiện tại Tòa án;
- Gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính, trường hợp này
thì ngày khởi kiện là ngày được ghi trên dấu của tổ chức dịch vụ bưu
chính nơi gửi;
- Gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện
tử của Tòa án, trường hợp này thì ngày khởi kiện là ngày gửi đơn.
Tuy pháp luật có quy định 03 phương thức hợp lệ của việc nộp
hồ sơ khởi kiện nhưng Luật sư cần nghiên cứu kỹ vụ việc của khách
hàng để phân tích và hướng dẫn khách hàng lựa chọn phương thức gửi
hồ sơ khởi kiện phù hợp. Luật sư cần hết sức lưu ý là vụ việc của
khách hàng đủ điều kiện giải quyết theo thủ tục rút gọn thì khả năng
thắng kiện của khách hàng là khá lớn. Do vậy, Luật sư không được
chủ quan mà cần phải xem xét ngay để xác định vụ việc còn thời hiệu
khởi kiện hay không và quyết định ngay việc nộp đơn để tránh việc
khách hàng thua kiện do việc chậm trễ dẫn tới nộp đơn khởi kiện khi
mà thời hiệu khởi kiện đã hết. Nếu hồ sơ khởi kiện của khách hàng rơi
vào ngày cuối cùng của thời hiệu khởi kiện mà không thể nộp trực tiếp
tại Tòa án vì những lý do khác nhau thì có thể lựa chọn phương thức
gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của
Tòa án hoặc gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính. Tuy nhiên,
Luật sư cũng cần phân tích cho khách hàng biết về những rủi ro của
việc nộp hồ sơ khởi kiện bằng các phương thức này do những vấn đề
về kỹ thuật hoặc thất lạc hồ sơ đồng thời phải kiểm tra lại thông tin về
việc hồ sơ đã được tiếp nhận từ bộ phận nhận hồ sơ khởi kiện tại Tòa
án. Đối với trường hợp nộp trực tiếp đơn khởi kiện kèm theo tài liệu,
chứng cứ tại Tòa án có thẩm quyền thì Luật sư cần lưu ý khách hàng
về việc yêu cầu lấy giấy xác nhận của Tòa án về việc đã nhận đơn.

451
Khi có thông báo của Tòa án về việc nộp tiền tạm ứng án phí,
Luật sư cần hướng dẫn khách hàng nộp tiền tạm ứng án phí tại Cơ
quan thi hành án dân sự và nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng
án phí. Luật sư cần lưu ý là các quy định tại Phần thứ tư của BLTTDS
năm 2015 về “Giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn” sẽ được
ưu tiên áp dụng để giải quyết những tranh chấp thỏa mãn một số điều
kiện của thủ tục rút gọn, đối với những vấn đề không được quy định
tại Phần này thì các quy định khác của BLTTDS sẽ được áp dụng để
giải quyết tranh chấp. Do vậy, Luật sư cần hướng dẫn khách hàng nộp
tiền tạm ứng án phí theo đúng thời hạn quy định tại Điều 195
BLTTDS năm 2015. Cụ thể là Luật sư cần hướng dẫn khách hàng
trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo của Tòa án về
việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng
án phí và nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí. Luật sư
cũng giải thích cho khách hàng là người khởi kiện biết nếu hết thời
hạn trên mà họ không nộp cho Tòa án biên lai thu tiền tạm ứng án phí
thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện. Pháp luật hiện hành chưa có quy
định riêng về mức án phí và tiền tạm ứng án phí mà đương sự phải
nộp đối với vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Tuy nhiên,
Luật sư cũng cần xác định vụ tranh chấp của khách hàng có thuộc
trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí hay
không vì đối với những trường hợp này thì Thẩm phán thụ lý vụ án
ngay từ khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo.
2.2. Kỹ năng của Luật sư trong việc thu thập chứng cứ theo
thủ tục rút gọn
Theo quy định tại Điều 6 và Điều 70 BLTTDS năm 2015 thì
đương sự có quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ
cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp
pháp. Do vậy, Luật sư cần hướng dẫn đương sự hoặc trợ giúp đương
sự thu thập chứng cứ. Cần lưu ý là thủ tục rút gọn được áp dụng đối
với những vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng,
đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm
đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu,
chứng cứ. Tòa án không giữ vai trò quan trọng trong việc thu thập

452
chứng cứ mà chỉ xem xét các tài liệu, chứng cứ do đương sự xuất trình
để xác định có đủ điều kiện cần thiết để áp dụng thủ tục rút gọn đối
với vụ tranh chấp hay không. Do vậy, Luật sư cần tập trung vào việc
hướng dẫn đương sự hoặc trợ giúp đương sự thu thập đầy đủ các
chứng cứ, tài liệu cần thiết để chứng minh về điều kiện áp dụng thủ
tục rút gọn đối với vụ tranh chấp. Để thực hiện được điều này, Luật sư
có thể thực hiện các quyền của mình đã được ghi nhận tại Điều 76
BLTTDS năm 2015 về quyền thu thập và cung cấp tài liệu, chứng cứ
cho Tòa án; quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu giữ,
quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó.
Các chứng cứ, tài liệu mà Luật sư cần hướng dẫn đương sự hoặc
trợ giúp đương sự thu thập và xuất trình bao gồm: giấy tờ, tài liệu hiện
do khách hàng đang lưu giữ như bản hợp đồng, giấy vay nợ, văn bản
thỏa thuận giữa các bên, giấy bảo hành, giấy tờ về quyền sở hữu, sử
dụng tài sản, giấy tờ về việc thế chấp, biên bản giao nhận tài sản;
chứng minh thư nhân dân (hộ chiếu, thẻ căn cước công dân), sổ hộ
khẩu gia đình… Nếu văn bản hợp đồng được công chứng hoặc các
giấy tờ về tài sản và các tài liệu khác đang được cơ quan công chứng
hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền lưu giữ thì Luật sư cần hướng
dẫn đương sự hoặc trợ giúp đương sự yêu cầu các cơ quan này cung
cấp để có tài liệu xuất trình tại Tòa án. Luật sư có thể trợ giúp khách
hàng soạn thảo văn bản yêu cầu cơ quan, tổ chức đang lưu giữ giấy tờ,
tài liệu liên quan đến vụ tranh chấp cung cấp những tài liệu này. Văn
bản yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan đến
vụ tranh chấp cần ghi rõ tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức đang quản
lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ cần cung cấp; tài liệu, chứng cứ yêu cầu
được cung cấp và lý do đề nghị cung cấp tài liệu, chứng cứ này. Trong
trường hợp yêu cầu không được đáp ứng thì Luật sư trợ giúp khách
hàng soạn thảo văn bản đề nghị cơ quan, tổ chức trả lời về lý do không
cung cấp giấy tờ, tài liệu liên quan đến vụ tranh chấp cho đương sự.
Văn bản này là cơ sở để Luật sư đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu
cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp
hoặc đề nghị Tòa án tiến hành thu thập tài liệu, chứng cứ nhằm bảo
đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn.

453
Bên cạnh đó, Luật sư cũng cần hướng dẫn đương sự hoặc trợ
giúp đương sự thu thập thêm văn bản có chữ ký của bên bị khởi kiện
về việc thừa nhận nghĩa vụ đã cam kết, thỏa thuận: Giấy thừa nhận nợ
hoặc thừa nhận khoản tiền chưa thanh toán, biên bản chốt nợ… Đây là
những tài liệu hết sức quan trọng để có thể đề nghị Tòa án áp dụng thủ
tục rút gọn giải quyết tranh chấp. Việc thu thập loại chứng cứ, tài liệu
này đòi hỏi Luật sư phải có kinh nghiệm và sự mềm dẻo, linh hoạt cần
thiết để có được văn bản có chữ ký của bị đơn về nghĩa vụ mà họ phải
thực hiện. Ngoài ra, Luật sư có thể tự mình hoặc hướng dẫn khách
hàng thu thập các giấy tờ, tài liệu từ chính quyền địa phương để chứng
minh các đương sự có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng như sổ hộ khẩu
gia đình, giấy xác nhận nơi bị đơn cư trú của chính quyền địa phương;
các tài liệu, giấy tờ xác nhận thông tin về trụ sở, chi nhánh, văn phòng
đại diện, địa điểm kinh doanh của doanh nghiệp được lưu giữ tại
Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư, Phòng Tài
chính - Kế hoạch thuộc UBND cấp huyện… Đối với trường hợp có
một bên đương sự cư trú ở nước ngoài thì Luật sư cần hướng dẫn
đương sự hoặc trợ giúp đương sự có được văn bản thỏa thuận về việc
đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn. Trường hợp tài sản
tranh chấp ở nước ngoài thì Luật sư cần trợ giúp đương sự thu thập
chứng cứ, tài liệu về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và văn bản thỏa
thuận thống nhất của các đương sự về việc xử lý tài sản.
2.3. Kỹ năng của Luật sư trong việc nghiên cứu hồ sơ, tham
gia hòa giải, tham gia phiên tòa sơ thẩm theo thủ tục rút gọn
2.3.1. Nghiên cứu hồ sơ
Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án của Luật sư nhằm hướng tới việc
xác định vụ kiện của khách hàng có thực sự có đủ điều kiện để giải
quyết theo thủ tục rút gọn hay không, do vậy, khi nghiên cứu hồ sơ,
Luật sư cần lưu ý xác định quan hệ pháp luật có tranh chấp cần phải
giải quyết; xác định quy phạm pháp luật dân sự, HN&GĐ, kinh doanh,
thương mại, lao động cần được áp dụng để giải quyết tranh chấp. Luật
sư nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ để xác định vụ tranh
chấp có thỏa mãn các điều kiện như có tình tiết đơn giản, quan hệ
pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; chứng cứ, tài liệu
được cung cấp đã đủ để buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ mà Tòa án
không cần phải thu thập thêm tài liệu, chứng cứ; nguyên đơn và bị đơn

454
có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng tại Việt Nam; tài sản tranh chấp có
trên lãnh thổ Việt Nam. Luật sư cần căn cứ vào yêu cầu của đương sự,
các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và đối chiếu với pháp luật để xác
định các tình tiết của vụ tranh chấp là đơn giản hay phức tạp, quan hệ
pháp luật tranh chấp có rõ ràng không. Luật sư cần nghiên cứu kỹ các
tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ để xác định những ưu thế về chứng cứ,
tài liệu của khách hàng, nhất là kiểm tra xem với tài liệu, chứng cứ
hiện có đã đủ để Tòa án ra phán quyết buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ
mà không cần phải thu thập thêm tài liệu, chứng cứ hay chưa? Chứng
cứ, tài liệu nào cần được củng cố, bổ sung trong hồ sơ?
Ngoài ra, khi nghiên cứu hồ sơ, Luật sư cũng cần xác định nơi
cư trú hiện tại, trụ sở của bị đơn có phù hợp với các tài liệu đã được
thể hiện trong hồ sơ không? Có cần bổ sung thêm các tài liệu để
chứng minh các đương sự có nơi cư trú, trụ sở rõ ràng hay không?
Nếu tài liệu có trong hồ sơ đã thể hiện được vụ án có tình tiết đơn
giản, quan hệ pháp luật rõ ràng thì cần xác định bị đơn có thừa nhận
nghĩa vụ của mình không, sự thừa nhận này có tính ổn định không; có
tình tiết, sự kiện nào trong hồ sơ có thể dẫn tới việc bị đơn phản bác
lời thừa nhận của mình không? Trong trường hợp bị đơn phản bác thì
chứng cứ, tài liệu nào có thể sử dụng để củng cố cho việc khởi kiện
của khách hàng. Khi nghiên cứu hồ sơ, Luật sư cần ghi chép lại những
điểm mấu chốt quan trọng của vụ án như quan hệ pháp luật có tranh
chấp, quy phạm pháp luật cần được áp dụng; những tình tiết, sự kiện
các bên đã có sự thống nhất và tài liệu, chứng cứ thể hiện sự thống
nhất này (ghi chú lại số bút lục); những tình tiết, sự kiện mà các bên
còn có quan điểm khác nhau, các chứng cứ, tài liệu còn mâu thuẫn cần
được củng cố thêm.
Các tài liệu cần được Luật sư của nguyên đơn và bị đơn nghiên
cứu trong thủ tục rút gọn bao gồm:
- Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp khi khởi kiện theo
thủ tục rút gọn bao gồm đơn khởi kiện, chứng cứ, tài liệu được gửi
kèm đơn khởi kiện;
- Văn bản phản hồi của phía bị đơn về yêu cầu khởi kiện theo thủ
tục rút gọn của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ được phía bị đơn
gửi kèm theo văn bản phản hồi của bị đơn về việc kiện;

455
- Tài liệu, chứng cứ được các đương sự giao nộp bổ sung hoặc
lời khai của họ.
(1) Nghiên cứu đơn khởi kiện
Khi nghiên cứu đơn khởi kiện theo thủ tục rút gọn, Luật sư cần
rà soát để xác định tên, địa chỉ của nguyên đơn, bị đơn, nội dung sự
việc; yêu cầu của nguyên đơn, lập luận để chứng minh cho yêu cầu
khởi kiện và danh mục những tài liệu, chứng cứ được gửi kèm theo
đơn khởi kiện. Luật sư cần căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện, kiểm
tra, đối chiếu với danh mục tài liệu, chứng cứ gửi kèm theo để xác
định vụ kiện có đủ các điều kiện giải quyết theo thủ tục rút gọn theo
quy định tại Điều 317 BLTTDS năm 2015 hay không.
(2) Nghiên cứu tài liệu, chứng cứ gửi kèm theo đơn khởi kiện
Luật sư cần đọc kỹ bản hợp đồng, giấy vay nợ, văn bản thỏa
thuận… được nộp kèm theo đơn khởi kiện để xác định tính hợp pháp
của hợp đồng, nội dung quyền, nghĩa vụ được các bên cam kết, thỏa
thuận. Luật sư cũng cần so sánh, đối chiếu với các tài liệu khác như
giấy bảo hành, giấy tờ về quyền sở hữu, sử dụng tài sản, giấy tờ về
việc thế chấp, biên bản giao nhận tài sản… để làm rõ quá trình thực
hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, trên cơ sở đó xác định tính đơn giản, rõ
ràng của quan hệ pháp luật có tranh chấp. Tiếp theo đó, Luật sư cần
nghiên cứu kỹ các tài liệu khác do nguyên đơn cung cấp về việc bị
đơn thừa nhận nghĩa vụ đã cam kết, thỏa thuận như giấy thừa nhận
khoản tiền chưa thanh toán, biên bản thừa nhận nợ hoặc chốt nợ…
Đây là những tài liệu hết sức quan trọng để có thể quyết định vụ tranh
chấp sẽ được đưa ra xét xử theo thủ tục rút gọn. Tuy nhiên, Luật sư
cũng cần đối chiếu, so sánh các tài liệu để xác định sự phù hợp và tính
xác thực của tài liệu cũng như kiểm tra chữ viết, chữ ký của các đương
sự trên các tài liệu này để xác định độ tin cậy và giá trị chứng minh
của chứng cứ.
Trên cơ sở địa chỉ của bị đơn được mô tả trong đơn khởi kiện,
Luật sư tiến hành đối chiếu với các tài liệu do nguyên đơn cung cấp
như chứng minh thư nhân dân (thẻ căn cước công dân, hộ chiếu), sổ
hộ khẩu gia đình, giấy xác nhận nơi bị đơn cư trú của chính quyền địa
phương; giấy tờ chứng minh trụ sở của bị đơn do Sở Kế hoạch và Đầu
tư xác nhận... để xác định bị đơn có nơi cư trú, trụ sở rõ ràng hay

456
không. Đối với trường hợp có một bên đương sự cư trú ở nước ngoài
thì Luật sư cần kiểm tra trong hồ sơ khởi kiện có văn bản thỏa thuận
của các bên về việc đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn hay
không. Đối với trường hợp tài sản tranh chấp ở nước ngoài thì Luật sư
cần kiểm tra hồ sơ khởi kiện để xác định có chứng cứ, tài liệu về
quyền sở hữu hợp pháp tài sản và văn bản thỏa thuận của các đương
sự về việc xử lý tài sản hay không.
Thông thường, Luật sư cần nghiên cứu văn bản hợp đồng, giấy
vay nợ, văn bản thỏa thuận… được nộp kèm theo đơn khởi kiện để
xác định quyền, nghĩa vụ các bên đã cam kết thỏa thuận; các tài liệu
phản ánh quá trình thực hiện hợp đồng như giấy tờ về việc thế chấp,
biên bản giao nhận tài sản… Trường hợp bị đơn ký hợp đồng tín dụng
được bảo đảm bằng thế chấp tài sản của chính mình thì thông thường
đây là vụ kiện có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn nếu bị đơn không
phản đối về nghĩa vụ phải thực hiện. Luật sư cần nghiên cứu bản Hợp
đồng tín dụng giữa khách hàng của mình là ngân hàng, tổ chức tín
dụng và doanh nghiệp là bị đơn để xác định cụ thể số tiền mà bị đơn
phải thanh toán. Tuy nhiên, trường hợp hợp đồng tín dụng được bảo
đảm bằng tài sản thế chấp của người thứ ba thì cần lưu ý quan hệ
nghĩa vụ giữa ngân hàng, tổ chức tín dụng (nguyên đơn) và người vay
(bị đơn) có thể là quan hệ nghĩa vụ đã rõ ràng nhưng Luật sư cần
nghiên cứu về hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn
liền với đất giữa ngân hàng với người vay và bên thứ ba có tài sản thế
chấp để xác định bên thứ ba có tài sản thế chấp có phản đối hợp đồng
thế chấp hay không. Trường hợp bên thứ ba không phản đối hợp đồng
thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất thì vụ tranh
chấp hợp đồng tín dụng được bảo đảm bằng tài sản thế chấp của người
thứ ba có thể được giải quyết theo thủ tục rút gọn. Nếu bên thứ ba có
yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất thì vụ tranh chấp sẽ rơi vào trường hợp phải
chuyển sang giải quyết theo thủ tục thông thường do “phát sinh yêu
cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập”.130 Đối với các tranh chấp phát sinh
từ hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng dịch vụ… thì Luật sư cần
nghiên cứu văn bản hợp đồng, các tài liệu liên quan đến việc thực hiện
hợp đồng, các tài liệu mà phía bị đơn phản hồi hoặc cung cấp cho Tòa
án để xác định nội dung của hợp đồng, các bên có tranh chấp hay

130
Xem thêm khoản 3 Điều 317 BLTTDS năm 2015.

457
không có tranh chấp về các điều khoản của hợp đồng đã cam kết, bị
đơn có thư xác nhận công nợ hoặc chốt số tiền còn phải thanh toán
hay không...
(3) Nghiên cứu văn bản phản hồi của bị đơn về việc khởi kiện và
các tài liệu, chứng cứ gửi kèm theo
Nếu là Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị đơn thì Luật sư cần làm
việc với khách hàng để xác định quan điểm của bị đơn đối với việc
kiện của phía nguyên đơn cũng như yêu cầu của nguyên đơn về việc
giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn. Nếu bị đơn phản đối yêu cầu
khởi kiện, không nhất trí về khoản tiền phải thanh toán hay các điều
khoản của hợp đồng, bác bỏ các tài liệu mà phía nguyên đơn cung cấp,
không thừa nhận chữ ký trong các tài liệu… thì vụ tranh chấp không
còn hội đủ các điều kiện để quyết định đưa ra xét xử theo thủ tục rút
gọn nữa và cần được quyết định chuyển sang giải quyết theo thủ tục
thông thường.
Theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành thì các đương sự có
quyền được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự
khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập, đồng thời có nghĩa vụ gửi
cho đương sự khác hoặc người đại diện hợp pháp của họ bản sao đơn
khởi kiện và tài liệu, chứng cứ. Do vậy, Luật sư cần kiểm tra, xác định
xem khách hàng của mình đã có trong tay bản sao đơn khởi kiện và
các tài liệu, chứng cứ mà phía nguyên đơn cung cấp cho Tòa án hay
chưa. Trên cơ sở đối chiếu các tài liệu, chứng cứ của nguyên đơn và bị
đơn, Luật sư của bị đơn xác định những tình tiết, sự kiện mà giữa các
bên còn mâu thuẫn và tài liệu, chứng cứ thể hiện sự mâu thuẫn này.
Luật sư cần xác định bị đơn có thực sự thừa nhận nghĩa vụ của mình
không; chữ viết, chữ ký trong hợp đồng, trong các tài liệu về quan hệ
nghĩa vụ có đúng là chữ viết, chữ ký của bị đơn không? Nếu có sự
nghi ngờ về tính xác thực, giả mạo chứng cứ, tài liệu thì Luật sư cần
hướng dẫn, trợ giúp khách hàng tiến hành thu thập các mẫu chữ viết,
chữ ký cần thiết và yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định hoặc tự yêu
cầu giám định chữ ký, chữ viết. Trong trường hợp chữ ký, chữ viết
trong hợp đồng, trong các tài liệu về quan hệ nghĩa vụ được xác định
là của bị đơn thì Luật sư cũng cần xác định bị đơn có sự nhầm lẫn

458
hoặc bị lừa đối, đe dọa, cưỡng ép hoặc trong tình trạng không nhận
thức và làm chủ hành vi của mình khi giao kết hợp đồng hay không.
- Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn,
Luật sư cần nghiên cứu kỹ hồ sơ để xác định có khả năng xuất hiện
tình tiết mới làm cho vụ án không còn đủ điều kiện để giải quyết theo
thủ tục rút gọn và phải chuyển sang giải quyết theo thủ tục thông
thường hay không. Luật sư cần lường trước tình huống này để có
phương án thu thập thêm chứng cứ, tài liệu cần thiết đủ để chứng
minh cho yêu cầu khởi kiện của khách hàng. Cụ thể là Luật sư cần xác
định có hay không có khả năng phát sinh các tình tiết sau đây:
+ Phát sinh tình tiết mới mà các đương sự không thống nhất, do
đó cần phải xác minh, thu thập thêm tài liệu, chứng cứ hoặc cần phải
tiến hành giám định;
+ Cần phải định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp do các
đương sự không thống nhất về giá;
+ Cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
+ Phát sinh người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
+ Phát sinh yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập;
+ Phát sinh đương sự cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở
nước ngoài, yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ ở nước ngoài mà
cần phải thực hiện ủy thác tư pháp.
Bên cạnh việc tập trung nghiên cứu những tài liệu, chứng cứ
chứng minh vụ tranh chấp đủ điều kiện giải quyết theo thủ tục rút
gọn thì Luật sư cũng cần nghiên cứu toàn bộ chứng cứ, tài liệu trong
hồ sơ để nắm vững nguyên nhân, nội dung của tranh chấp; yêu cầu
và nguyện vọng của mỗi bên; những điểm mạnh, điểm yếu về chứng
cứ, tài liệu cũng như căn cứ pháp lý của mỗi bên đương sự để chuẩn
bị phương án hòa giải và tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Việc
nghiên cứu này là cần thiết để chuẩn bị cho phương án dự phòng
trong trường hợp yêu cầu giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn không
được Tòa án chấp thuận. Trong trường hợp này, Luật sư sẽ tiếp tục
theo đuổi vụ kiện để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng theo thủ tục tố
tụng thông thường.

459
2.3.2. Tham gia hòa giải theo thủ tục rút gọn
Thủ tục rút gọn là thủ tục được giản lược hơn so với thủ tục tố
tụng thông thường, do vậy, Thẩm phán không phải tiến hành hòa giải
trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn (01 tháng
kể từ ngày thụ lý vụ án). Tuy nhiên, sau khi khai mạc phiên tòa sơ
thẩm, Thẩm phán vẫn tiến hành hòa giải giữa các đương sự ngay tại
phiên tòa. Do vậy, trước khi Tòa án mở phiên tòa, Luật sư cần phân
tích và chuẩn bị các chứng cứ, tài liệu mà khách hàng có thể sử dụng
khi hòa giải nhằm khẳng định quyền lợi chính đáng mà họ được thụ
hưởng và các nghĩa vụ mà bên bị đơn đương nhiên sẽ phải thực hiện.
Luật sư cũng cần chuẩn bị tâm lý và các phương án hòa giải cần
thiết cho khách hàng. Luật sư có thể phân tích cho khách hàng thấy
tuy họ có lợi thế về chứng cứ, tài liệu; quan hệ nghĩa vụ là đơn giản,
rõ ràng nhưng nếu Tòa án phải tiến hành xét xử để ra bản án thì
đương sự có nghĩa vụ vẫn có thể kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc
thẩm xem xét lại nhằm trì hoãn việc thực hiện nghĩa vụ. Do vậy,
Luật sư cần phân tích bất lợi này cho khách hàng và cùng khách
hàng cân nhắc, tìm kiếm một phương án tối ưu nhất trong hòa giải.
Nếu bị đơn đã thừa nhận nghĩa vụ của mình thì Luật sư cũng cần
phân tích cho khách hàng biết Tòa án chỉ ra quyết định công nhận sự
thỏa thuận giữa các đương sự nếu các đương sự thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết toàn bộ quan hệ pháp luật có tranh chấp và cả
về án phí sơ thẩm trong vụ án để khách hàng có thể cân nhắc và lựa
chọn phương án hòa giải thích hợp nhất. Luật sư và khách hàng cũng
cần trao đổi, thống nhất về những quyền lợi có thể nhượng bộ để đạt
được thỏa thuận.
Luật sư cần chỉ dẫn cho khách hàng về giá trị pháp lý của biên
bản hòa giải thành do Tòa án lập ghi nhận nội dung mà các đương sự
đã thỏa thuận được. Cụ thể là theo quy định tại khoản 3 Điều 320
BLTTDS năm 2015 thì trường hợp các đương sự thỏa thuận được với
nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì Thẩm phán ra quyết
định công nhận sự thoả thuận của các đương sự theo quy định tại
Điều 212 BLTTDS năm 2015 chứ không phải theo quy định tại Điều 246
của Bộ luật này. Theo tinh thần của quy định tại Điều 212 BLTTDS
năm 2015, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải

460
quyết toàn bộ tranh chấp thì không có nghĩa là thỏa thuận đó có giá trị
thi hành ngay mà phải hết thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản
hòa giải thành, nếu không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thoả
thuận đó thì Thẩm phán mới ra quyết định công nhận sự thoả thuận
của các đương sự. Quyết định này sẽ có hiệu lực pháp luật và đương
sự có thể yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức việc thi hành theo quy
định của pháp luật.
2.3.3. Tham gia phiên tòa sơ thẩm theo thủ tục rút gọn
Theo quy định tại Điều 320 BLTTDS năm 2015 thì trường hợp
vụ án không được hòa giải hoặc không có điều kiện để tiến hành hòa
giải, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải
quyết trong vụ án thì Thẩm phán tiến hành xét xử. Do vậy, Luật sư
cần phân tích cho khách hàng biết, khác với thủ tục tố tụng thông
thường, trong phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn nếu bị đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt
không có lý do chính đáng thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên tòa.
Luật sư cần chỉ rõ cho khách hàng là nguyên đơn biết điều này để họ
chủ động sắp xếp công việc, thời gian tham gia phiên tòa. Nếu Luật sư
bảo vệ quyền lợi cho bị đơn thì cũng cần phân tích cho khách hàng
biết nếu họ vắng mặt không có lý do chính đáng thì Thẩm phán vẫn có
thể tiến hành phiên tòa và bị đơn sẽ phải đối mặt với những bất lợi do
việc không tham gia phiên tòa để bảo vệ quyền lợi cho mình.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 320 BLTTDS năm 2015 thì việc
trình bày, tranh luận, đối đáp, đề xuất quan điểm về việc giải quyết vụ
án được thực hiện theo quy định về tranh tụng đối với thủ tục tố tụng
thông thường tại Mục 3 Chương XIV của Bộ luật này. Tuy nhiên, mục
đích của việc nguyên đơn và Luật sư bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn
tranh tụng tại phiên tòa theo thủ tục rút gọn là thuyết phục Thẩm phán
chấp nhận yêu cầu khởi kiện và ra bản án buộc bị đơn phải thực hiện
nghĩa vụ. Nếu tại phiên tòa theo thủ tục rút gọn, bị đơn thừa nhận
nghĩa vụ của mình thì nguyên đơn, Luật sư bảo vệ quyền lợi của
nguyên đơn chỉ cần đề xuất với Tòa án ra bản án buộc bị đơn phải
thực hiện nghĩa vụ. Trường hợp bị đơn vắng mặt tại phiên tòa thì Luật
sư bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn cần giúp khách hàng trình bày về
yêu cầu khởi kiện, đưa ra các lập luận và tài liệu, chứng cứ chứng

461
minh nghĩa vụ mà bị đơn phải thực hiện. Nếu trước đó Luật sư đã thu
thập được văn bản có chữ ký của bị đơn về việc xác nhận hoặc thừa
nhận nghĩa vụ thì cần công khai tài liệu này tại phiên tòa.
Trường hợp bị đơn không thừa nhận nghĩa vụ thì Luật sư bảo vệ
quyền lợi của nguyên đơn cần trợ giúp và hướng dẫn khách hàng của
mình tập trung vào việc khai thác các chứng cứ, tài liệu thể hiện tính
có căn cứ và rõ ràng của nghĩa vụ mà bị đơn phải thực hiện nhằm
tránh nguy cơ Thẩm phán ra quyết định chuyển vụ án sang giải quyết
theo thủ tục thông thường do cần phải xác minh, thu thập thêm tài
liệu, chứng cứ hoặc cần phải tiến hành giám định. Câu hỏi của Luật sư
bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn đối với khách hàng của mình nên
nhấn vào việc có sự kiện giao kết hợp đồng không, nghĩa vụ của bị
đơn và chứng cứ, tài liệu để khẳng định nghĩa vụ mà bị đơn phải thực
hiện đối với nguyên đơn. Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng đã rõ ràng, Luật sư cần hỏi khách hàng của mình về ai là
người gây thiệt hại, lỗi của họ; mức độ thiệt hại và các tài liệu cần
viện dẫn để chứng minh thiệt hại…
Khi đặt câu hỏi đối với bị đơn, Luật sư bảo vệ quyền lợi của
nguyên đơn nên đặt trọng tâm vào việc bị đơn xác nhận hay thừa nhận
nghĩa vụ của mình, tránh đặt câu hỏi theo hướng gợi ý bị đơn có phản
bác yêu cầu khởi kiện không? Chẳng hạn, Luật sư có thể hỏi giữa bị
đơn và nguyên đơn có ký kết hợp đồng không; trình bày của phía
nguyên đơn về nội dung thỏa thuận theo hợp đồng có xác thực không;
quá trình thực hiện nghĩa vụ diễn ra như thế nào? Nghĩa vụ mà bị đơn
còn phải thực hiện theo trình bày của bên nguyên đơn có phù hợp với
thực tế hay không. Đối với trường hợp yêu cầu bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Luật sư của nguyên đơn cần hỏi bị đơn theo hướng
họ gây thiệt hại cho nguyên đơn trong hoàn cảnh nào? Lỗi thuộc về ai
và ý kiến của bị đơn về số tiền bồi thường thiệt hại mà phía nguyên
đơn đề xuất. Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị đơn cần trợ giúp bị đơn
thu thập, chuẩn bị chứng cứ, tài liệu xuất trình tại phiên tòa để phản
bác về nghĩa vụ họ phải thực hiện hoặc chỉ phản bác việc khởi kiện
của nguyên đơn theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn và đề nghị Tòa án
chuyển sang giải quyết theo thủ tục tố tụng thông thường.

462
3. Kỹ năng của Luật sư tham gia giải quyết vụ án dân sự
theo thủ tục rút gọn tại Tòa án cấp phúc thẩm
Theo pháp luật hiện hành thì bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa
án theo thủ tục rút gọn có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục
phúc thẩm rút gọn. Do vậy, tùy theo trường hợp Luật sư có thể tiếp tục
tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo ủy quyền hoặc
người bảo vệ quyền lợi của đương sự tại Tòa án cấp phúc thẩm. Tại
Tòa án cấp phúc thẩm, Luật sư có thể giúp đương sự thực hiện việc
kháng cáo, chuẩn bị hồ sơ kháng cáo và nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị
cho việc tham gia phiên tòa và tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm.
3.1. Trao đổi với khách hàng về việc kháng cáo và thời hạn
kháng cáo
Luật sư cần lưu ý phân tích cho khách hàng biết những lợi ích và
bất lợi của việc kháng cáo bản án, quyết định theo thủ tục rút gọn.
Luật sư cần căn cứ vào toàn bộ tài liệu, chứng cứ của vụ án, căn cứ
pháp luật để phân tích cho khách hàng về những mục tiêu có khả năng
đạt được hoặc không đạt được ở Tòa án cấp phúc thẩm, những bất lợi
về chi phí tố tụng, về việc chậm thi hành án do phải đợi kết quả giải
quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm. Tùy theo yêu cầu khởi kiện của
khách hàng không được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận hoặc chỉ được
chấp nhận một phần mà Luật sư cân nhắc và tư vấn cho đương sự về
việc kháng cáo hay không kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm.
Luật sư cần lưu ý khách hàng của mình là thời hạn kháng cáo đối
với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo thủ tục rút gọn chỉ
là 07 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự không có mặt tại
phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án, quyết định được
giao cho họ hoặc bản án, quyết định được niêm yết. Như vậy, Luật sư
cần tùy theo trường hợp khách hàng của mình có mặt hay vắng mặt tại
phiên tòa sơ thẩm theo thủ tục rút gọn để xác định thời hạn cụ thể mà
khách hàng phải nộp đơn kháng cáo tại Tòa án. Nếu Luật sư không
tham gia tố tụng từ cấp sơ thẩm thì cần hỏi khách hàng và nghiên cứu
kỹ bản án sơ thẩm của Tòa án để xác định khách hàng của mình có
mặt hay vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm, nếu vắng mặt thì đã được Tòa
án tống đạt bản án, quyết định sơ thẩm hay chưa để xác định thời hạn

463
cuối cùng được thực hiện quyền kháng cáo. Nếu khách hàng vắng mặt
tại phiên tòa và chưa nhận được bản án, quyết định sơ thẩm thì Luật
sư cần hướng dẫn hoặc trợ giúp khách hàng tìm hiểu tại UBND xã,
phường, thị trấn về việc niêm yết bản án, quyết định này. Nếu thời hạn
kháng cáo của khách hàng đã hết thì cần xác định lý do chính đáng
của việc kháng cáo quá hạn và các tài liệu cần thiết, có độ tin cậy để
chứng minh việc kháng cáo quá hạn là có lý do chính đáng nên cần
được Tòa án chấp nhận.
3.2. Trợ giúp khách hàng soạn thảo và nộp đơn kháng cáo
Do thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định theo thủ tục rút
gọn có nhiều điểm khác biệt so với thủ tục tố tụng thông thường nên
đơn kháng cáo cần ghi rõ là đơn kháng cáo bản án, quyết định theo thủ
tục rút gọn. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa có quy định mẫu đơn
kháng cáo riêng đối với bản án, quyết định theo thủ tục rút gọn nên
việc soạn đơn kháng cáo bản án, quyết định theo thủ tục rút gọn về
căn bản vẫn dựa trên quy định tại Điều 272 BLTTDS năm 2015.
Đơn kháng cáo phải có các nội dung chính như: Ngày, tháng,
năm làm đơn kháng cáo; Tên, địa chỉ; số điện thoại, fax, địa chỉ thư
điện tử của người kháng cáo; Kháng cáo toàn bộ hoặc một phần của
bản án, quyết định của Tòa án; Lý do của việc kháng cáo và yêu cầu
cụ thể của người kháng cáo; Chữ ký hoặc điểm chỉ của người kháng
cáo. Luật sư cần lưu ý về tính hợp lệ của người ký đơn kháng cáo, nếu
người kháng cáo là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự
thì ở phần cuối đơn kháng cáo, người kháng cáo phải ký tên hoặc
điểm chỉ. Nếu đương sự ủy quyền cho Luật sư tham gia tố tụng thì cần
có văn bản ủy quyền hợp pháp của đương sự (có công chứng, chứng
thực hợp pháp, trong đó phải có nội dung về ủy quyền về việc kháng
cáo) gửi kèm theo đơn kháng cáo và cuối đơn kháng cáo, Luật sư với
tư cách là người đại diện theo ủy quyền sẽ ký tên. Đối với trường hợp
đương sự là cơ quan, tổ chức thì người đại diện theo pháp luật của
đương sự sẽ ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó. Nếu cơ quan,
tổ chức ủy quyền cho Luật sư tham gia tố tụng thì cần có văn bản ủy
quyền hợp pháp của đương sự gửi kèm theo đơn kháng cáo và cuối
đơn kháng cáo, Luật sư với tư cách là người đại diện theo ủy quyền sẽ
ký tên. Luật sư cần hướng dẫn khách hàng nộp đơn kháng cáo cho Tòa
án cấp sơ thẩm đã ra bản án, quyết định theo thủ tục rút gọn. Bởi vì

464
nếu đơn kháng cáo được gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm thì Tòa án cấp
phúc thẩm lại phải chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành các
thủ tục cần thiết nên sẽ mất nhiều thời gian hơn.
3.3. Trợ giúp khách hàng chuẩn bị chứng cứ, tài liệu
Luật sư cần hỗ trợ khách hàng của mình chuẩn bị những chứng
cứ, tài liệu cần thiết để nộp cùng với đơn kháng cáo. Nếu Luật sư bảo
vệ quyền lợi cho khách hàng không kháng cáo thì cũng cần chủ động
giúp khách hàng của mình chuẩn bị những chứng cứ, tài liệu để phản
bác kháng cáo của đối phương. Luật sư cần lưu ý là vụ án được giải
quyết theo thủ tục rút gọn thường là vụ án có tình tiết đơn giản, quan
hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng
cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không
phải thu thập tài liệu, chứng cứ. Thẩm phán Tòa án cấp sơ thẩm
thường không ấn định thời hạn mà đương sự phải cung cấp, giao nộp
chứng cứ, tài liệu trong những vụ án được giải quyết theo thủ tục rút
gọn. Do vậy, Luật sư có thể chủ động giúp khách hàng của mình thu
thập thêm các chứng cứ, tài liệu cần thiết để bổ sung tại Tòa án cấp
phúc thẩm. Tuy nhiên, Luật sư cần lưu ý rằng đối với những chứng
cứ, tài liệu đã được Tòa án cấp sơ thẩm ấn định thời hạn giao nộp mà
khách hàng chưa giao nộp được thì chỉ có thể bổ sung ở cấp phúc
thẩm nếu việc chậm giao nộp chứng cứ, tài liệu của khách hàng là có
lý do chính đáng. Do vậy, Luật sư cần chuẩn bị thêm những tài liệu để
chứng minh về lý do chính đáng của việc bổ sung những tài liệu,
chứng cứ này hoặc chứng minh đây là những tài liệu, chứng cứ mà
khách hàng của mình không thể biết được trong quá trình giải quyết
vụ việc theo thủ tục sơ thẩm.
3.4. Nghiên cứu hồ sơ và tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm
Khi đã thu thập đủ các chứng cứ, tài liệu cần thiết, Luật sư cần
nghiên cứu kỹ những tài liệu này. Luật sư có thể thực hiện quyền đề
nghị Tòa án cho sao chụp thêm những tài liệu, chứng cứ mà đương sự
đối phương cung cấp, giao nộp trong hồ sơ để nghiên cứu. Luật sư cần
đối chiếu giữa yêu cầu, nguyện vọng của khách hàng với các chứng
cứ, tài liệu trong hồ sơ để xác định những điểm mạnh, điểm yếu của
khách hàng, từ đó trao đổi với khách hàng để xây dựng phương án bảo
vệ và chuẩn bị bản luận cứ để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng tại
phiên tòa phúc thẩm.

465
Tùy theo nội dung phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm mà Luật
sư cần phải chuẩn bị bản luận cứ theo hướng thuyết phục Tòa án cấp
phúc thẩm giữ nguyên hoặc sửa bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm theo thủ tục rút gọn. Luật sư cũng cần chuẩn bị tâm lý cho khách
hàng và chủ động hỗ trợ họ trong việc xây dựng lập luận để phản bác
lại đề nghị hủy bản án, quyết định theo thủ tục rút gọn để sơ thẩm lại
vụ án. Xét về hiệu quả tố tụng thì việc hủy bản án, quyết định theo thủ
tục rút gọn của Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án
cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án từ đầu sẽ dẫn tới một vòng quay
mới của tố tụng, thời gian giải quyết vụ án bị kéo dài là điều mà cả
Luật sư và khách hàng đều không mong muốn.
4. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Phân tích những đặc trưng của thủ tục rút gọn so với thủ tục
giải quyết vụ án dân sự và thủ tục việc dân sự?
2. Kỹ năng tư vấn và giúp khách hàng khởi kiện theo thủ tục
rút gọn?
3. Kỹ năng của Luật sư trong việc thu thập chứng cứ, nghiên cứu
hồ sơ và tham gia hòa giải vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn tại Tòa án
cấp sơ thẩm?
4. Kỹ năng của Luật sư tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm
theo theo thủ tục tố tụng dân sự rút gọn?
5. Kỹ năng của Luật sư tham gia giải quyết vụ án dân sự theo thủ
tục rút gọn tại Tòa án cấp phúc thẩm?
Tình huống 1:
Theo hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng A và ông B thì ông B
có vay của Ngân hàng A số tiền là 10 tỉ đồng. Ông B thừa nhận có vay
của Ngân hàng A số tiền trên. Tuy nhiên, người có tài sản thế chấp để
ông B vay tiền của Ngân hàng A là ông C lại cho rằng mình chỉ ký các
giấy tờ do ông B đưa nhưng không biết các giấy tờ này là để thế chấp
cho ông B vay tiền. Ngân hàng A muốn khởi kiện để thu hồi nợ theo
thủ tục rút gọn. Với tư cách là Luật sư, anh (chị) hãy tư vấn cho Ngân
hàng A về việc khởi kiện.

466
Tình huống 2:
Ông A cho ông B vay số tiền là 200 triệu đồng. Hai bên lập hợp
đồng vay tài sản (có chữ ký của hai bên trong hợp đồng vay). Hết thời
hạn vay, ông B không trả được số tiền nợ trên và đã viết giấy khất nợ
(có người làm chứng). Tuy nhiên, ông B đã chết trước khi trả được số
tiền nợ trên. Nay ông A yêu cầu vợ ông B là bà C trả nợ số tiền trên
thì bà C phản đối việc trả nợ vì cho rằng lúc còn sống ông B không
vay tiền của ai cả, chữ ký trên hợp đồng vay và giấy khất nợ không
phải là chữ ký của ông B. Nay ông A khởi kiện để đòi nợ theo thủ tục
rút gọn. Với tư cách là Luật sư, anh (chị) hãy tư vấn để bảo vệ quyền
lợi cho bà C trong vụ kiện này.

467
Chương 9
KỸ NĂNG THAM GIA THỦ TỤC
GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này sẽ trang bị cho 1. Kiến thức cơ bản về thủ tục
người học: giải quyết việc dân sự đối với
- Về kiến thức, người học được Luật sư
trang bị kiến thức cơ bản về thủ 2. Kỹ năng của Luật sư tham
tục giải quyết việc dân sự. gia giải quyết việc dân sự tại
- Về kỹ năng, người học thực Tòa án cấp sơ thẩm
hành được kỹ năng của Luật sư 3. Kỹ năng của Luật sư tham
khi tham gia giải quyết việc dân gia giải quyết việc dân sự tại
sự, cụ thể: (i) Kỹ năng ban đầu Tòa án cấp phúc thẩm
khi thực hiện quyền yêu cầu Tòa 4. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
án giải quyết việc dân sự; (ii) Kỹ
năng chuẩn bị tham gia phiên họp
sơ thẩm; (iii) Kỹ năng tham gia
phiên họp sơ thẩm; (iv) Kỹ năng
tham gia phúc thẩm việc dân sự.
- Về thái độ, người học có thái độ,
ứng xử chuẩn mực phù hợp với
quy tắc nghề nghiệp của Luật sư
khi tham gia thủ tục giải quyết
việc dân sự.

1. Kiến thức cơ bản về thủ tục giải quyết việc dân sự đối với
Luật sư
1.1. Phạm vi áp dụng thủ tục giải quyết việc dân sự
Việc dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh

468
chấp nhưng có yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một
sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ trong các
quan hệ về dân sự, HN&GĐ, kinh doanh, thương mại, lao động của
mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác; yêu cầu Tòa án công
nhận cho mình quyền về dân sự, HN&GĐ, kinh doanh, thương mại,
lao động. Việc dân sự là những việc được quy định tại Điều 27
“Những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án”,
Điều 29 “Những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án”, Điều 31 “Những yêu cầu về kinh doanh,
thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án” (trừ khoản 4,
khoản 5), Điều 33 “Những yêu cầu về lao động thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án” (trừ khoản 3, khoản 4) BLTTDS năm 2015.
Khác với vụ án dân sự là những tranh chấp về quyền và nghĩa vụ
dân sự, việc dân sự không có tranh chấp, do vậy không có các bên
đương sự như trong vụ án dân sự. Đương sự tham gia việc dân sự gọi
là người yêu cầu và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đó cũng
là lý do phải có quy định riêng về thủ tục để giải quyết việc dân sự,
được quy định tại Phần thứ sáu BLTTDS năm 2015. Thủ tục giải
quyết việc dân sự thường nhanh và đơn giản hơn so với thủ tục giải
quyết vụ án dân sự. Trường hợp nếu phần thủ tục giải quyết việc dân
sự không quy định thì áp dụng những quy định khác của BLTTDS để
giải quyết.
1.2. Thủ tục giải quyết việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm
1.2.1. Đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự
Người yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự phải gửi đơn đến
Tòa án có thẩm quyền. Việc xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa
án căn cứ quy định của BLTTDS năm 2015 tại Điều 35 quy định
thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện; Điều 36 quy định thẩm
quyền của các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp huyện; Điều 37
quy định thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh; Điều 38 quy
định thẩm quyền của các Tòa chuyên trách Tòa án nhân dân cấp tỉnh;
Điều 39 quy định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ; Điều 40 quy
định thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người
yêu cầu.

469
Theo quy định tại Điều 362 BLTTDS năm 2015, đơn yêu cầu
phải có các nội dung chính sau đây: Ngày, tháng, năm làm đơn; Tên
Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc dân sự; Tên, địa chỉ, số điện
thoại, fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của người yêu cầu; Những vấn
đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết và lý do, mục đích, căn cứ của
việc yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự đó; Tên, địa chỉ của những
người có liên quan đến việc giải quyết việc dân sự đó (nếu có); Các
thông tin khác mà người yêu cầu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết
yêu cầu của mình. Người yêu cầu là cá nhân phải ký tên hoặc điểm
chỉ, nếu là cơ quan, tổ chức thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức
đó phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn; trường hợp tổ chức
yêu cầu là doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu được thực hiện theo
quy định của Luật Doanh nghiệp. Kèm theo đơn yêu cầu, người yêu
cầu phải gửi tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là
có căn cứ và hợp pháp.
1.2.2. Thủ tục thụ lý đơn yêu cầu
a) Thủ tục nhận đơn yêu cầu
Tòa án nhận đơn yêu cầu theo quy định tại khoản 1 Điều 191
BLTTDS năm 2015. Theo đó, Tòa án qua bộ phận tiếp nhận đơn phải
nhận đơn yêu cầu do người yêu cầu nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi
qua dịch vụ bưu chính và phải ghi vào sổ nhận đơn; trường hợp Tòa
án nhận đơn yêu cầu được gửi bằng phương thức gửi trực tuyến thì
Tòa án in ra bản giấy và phải ghi vào sổ nhận đơn. Khi nhận đơn nộp
trực tiếp, Tòa án có trách nhiệm cấp ngay giấy xác nhận đã nhận đơn
cho người yêu cầu. Đối với trường hợp nhận đơn qua dịch vụ bưu
chính thì trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn, Tòa
án phải gửi thông báo nhận đơn cho người yêu cầu. Trường hợp nhận
đơn bằng phương thức gửi trực tuyến thì Tòa án phải thông báo ngay
việc nhận đơn cho người yêu cầu qua Cổng thông tin điện tử của Tòa
án (nếu có).
b) Xử lý đơn yêu cầu
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đơn yêu cầu
và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Chánh án Tòa án phân công Thẩm
phán giải quyết đơn yêu cầu. Trường hợp đơn yêu cầu chưa ghi đầy đủ
nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 362 BLTTDS năm 2015 thì

470
Thẩm phán yêu cầu người yêu cầu sửa đổi, bổ sung trong thời hạn 07
ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu. Thủ tục sửa đổi, bổ sung đơn yêu
cầu được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 193 của BLTTDS
năm 2015: Thẩm phán thông báo bằng văn bản nêu rõ những vấn đề
cần sửa đổi, bổ sung cho người yêu cầu để họ sửa đổi, bổ sung trong
thời hạn do Thẩm phán ấn định nhưng không quá 01 tháng; trường
hợp đặc biệt, Thẩm phán có thể gia hạn nhưng không quá 15 ngày.
Văn bản thông báo có thể được giao trực tiếp, gửi trực tuyến hoặc gửi
qua dịch vụ bưu chính và phải ghi chú vào sổ nhận đơn để theo dõi.
Thời hạn thực hiện việc sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu không tính vào
thời hiệu yêu cầu. Hết thời hạn này mà người yêu cầu không sửa đổi,
bổ sung đơn yêu cầu thì thẩm phán trả lại đơn yêu cầu và tài liệu,
chứng cứ kèm theo.
c) Trả lại đơn yêu cầu
Nếu việc yêu cầu không đủ điều kiện thụ lý, Tòa án trả lại đơn
yêu cầu, cụ thể trong các trường hợp được quy định tại Điều 364
BLTTDS năm 2015: (1) Người yêu cầu không có quyền yêu cầu hoặc
không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự; (2) Sự việc người yêu
cầu yêu cầu đã được Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
giải quyết; (3) Việc dân sự không thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án; (4) Người yêu cầu không sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu trong
thời hạn quy định; (5) Người yêu cầu không nộp lệ phí trong thời hạn
quy định, trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp lệ phí hoặc
chậm nộp vì sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan; (6) Người
yêu cầu rút đơn yêu cầu; (7) Những trường hợp khác theo quy định
của pháp luật.
Khi trả lại đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án
phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do. Việc khiếu nại và giải
quyết khiếu nại việc trả lại đơn yêu cầu được thực hiện theo quy định
tại Điều 194 của BLTTDS năm 2015. Theo đó, trong thời hạn 10
ngày, kể từ ngày nhận được văn bản trả lại đơn yêu cầu, người yêu cầu
có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Tòa án đã
trả lại đơn yêu cầu. Ngay sau khi nhận được khiếu nại, kiến nghị về
việc trả lại đơn yêu cầu, Chánh án Tòa án phải phân công một Thẩm
phán khác xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Trong thời hạn 05

471
ngày làm việc, kể từ ngày được phân công, Thẩm phán phải mở phiên
họp xem xét, giải quyết khiếu nại, kiến nghị. Phiên họp xem xét, giải
quyết khiếu nại, kiến nghị có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát
cùng cấp và đương sự có khiếu nại; trường hợp đương sự vắng mặt thì
Thẩm phán vẫn tiến hành phiên họp. Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có
liên quan đến việc trả lại đơn yêu cầu, ý kiến của đại diện Viện kiểm
sát và đương sự có khiếu nại tại phiên họp, Thẩm phán phải ra một
trong các quyết định sau đây: a) Giữ nguyên việc trả lại đơn yêu cầu
và thông báo cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp; b) Nhận lại đơn
yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định trả lời
khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn yêu cầu của Thẩm phán, người
yêu cầu có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với
Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp xem xét, giải quyết. Trong thời
hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại
đơn yêu cầu, Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp phải ra một trong
các quyết định sau đây: a) Giữ nguyên việc trả lại đơn khởi kiện; b)
Yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm nhận lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng
cứ kèm theo để tiến hành việc thụ lý vụ án. Quyết định giải quyết
khiếu nại, kiến nghị của Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp có
hiệu lực thi hành và được gửi ngay cho người yêu cầu, Viện kiểm sát
cùng cấp, Viện kiểm sát đã kiến nghị và Tòa án đã ra quyết định trả lại
đơn yêu cầu.
Trường hợp có căn cứ xác định quyết định giải quyết của Chánh
án Tòa án trên một cấp trực tiếp có vi phạm pháp luật thì trong thời
hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định, đương sự có quyền
khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án Tòa án
nhân dân cấp cao nếu quyết định bị khiếu nại, kiến nghị là của Chánh
án Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc với Chánh án TANDTC nếu quyết
định bị khiếu nại, kiến nghị là của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao.
Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại của đương
sự, kiến nghị của Viện kiểm sát thì Chánh án phải giải quyết. Quyết
định của Chánh án là quyết định cuối cùng.
d) Thụ lý đơn yêu cầu
Trường hợp xét thấy đơn yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm theo

472
đã đủ điều kiện thụ lý thì Thẩm phán (1) thông báo cho người yêu cầu
về việc nộp lệ phí yêu cầu giải quyết việc dân sự trong thời hạn 05
ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo nộp lệ phí, trừ trường
hợp người đó được miễn hoặc không phải nộp lệ phí theo quy định
của pháp luật về phí, lệ phí. (2) Tòa án thụ lý đơn yêu cầu khi người
yêu cầu nộp cho Tòa án biên lai thu tiền lệ phí yêu cầu giải quyết việc
dân sự. (3) Trường hợp người yêu cầu được miễn hoặc không phải
nộp lệ phí thì Thẩm phán thụ lý việc dân sự kể từ ngày nhận được đơn
yêu cầu.
Căn cứ quy định của Luật Phí và lệ phí năm 2015, Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 để xác định những trường hợp không phải
nộp tiền tạm ứng lệ phí, lệ phí Tòa án.
Người đề nghị được miễn tiền tạm ứng lệ phí, lệ phí Tòa án phải
có đơn đề nghị nộp cho Tòa án có thẩm quyền kèm theo các tài liệu,
chứng từ chứng minh thuộc trường hợp được miễn. Đơn đề nghị miễn
tiền tạm ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí Tòa án phải có
các nội dung chính sau đây: a) Ngày, tháng, năm làm đơn; b) Họ, tên,
địa chỉ của người làm đơn; c) Lý do và căn cứ đề nghị miễn tiền tạm
ứng án phí, tiền tạm ứng lệ phí, án phí, lệ phí Tòa án; d) Xác nhận của
UBND xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức
nơi người đó làm việc.
Trước khi thụ lý việc dân sự, Thẩm phán được Chánh án Tòa án
phân công có thẩm quyền xét đơn đề nghị miễn tiền tạm ứng lệ phí
Tòa án. Thẩm phán được Chánh án Tòa án cấp sơ thẩm phân công có
thẩm quyền xét đơn đề nghị miễn tiền tạm ứng lệ phí phúc thẩm.
Trước khi mở phiên họp sơ thẩm hoặc phúc thẩm, Thẩm phán được
Chánh án Tòa án phân công giải quyết việc dân sự có thẩm quyền xét
miễn lệ phí Tòa án cho đương sự có yêu cầu. Tại phiên họp, Thẩm
phán hoặc Hội đồng giải quyết việc dân sự có thẩm quyền xét miễn lệ
phí giải quyết việc dân sự cho đương sự có yêu cầu khi ra quyết định
giải quyết nội dung việc dân sự.
đ) Thông báo thụ lý đơn yêu cầu
Điều 365 BLTTDS năm 2015 quy định, trong thời hạn 03 ngày
làm việc, kể từ ngày thụ lý đơn yêu cầu, Tòa án phải thông báo bằng
văn bản cho người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

473
đến việc giải quyết việc dân sự, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc
Tòa án đã thụ lý đơn yêu cầu. Văn bản thông báo phải có các nội dung
chính sau đây: Ngày, tháng, năm làm văn bản thông báo; Tên, địa chỉ
Tòa án đã thụ lý đơn yêu cầu; Tên, địa chỉ của đương sự; Những vấn
đề cụ thể đương sự yêu cầu Tòa án giải quyết; Danh mục tài liệu,
chứng cứ đương sự nộp kèm theo đơn yêu cầu; Thời hạn người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có ý kiến bằng văn bản nộp cho
Tòa án đối với yêu cầu của người yêu cầu và tài liệu, chứng cứ kèm
theo (nếu có); Hậu quả pháp lý của việc người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan không nộp cho Tòa án văn bản về ý kiến của mình đối với
yêu cầu giải quyết việc dân sự.
1.2.3. Chuẩn bị xét đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự
a) Thời hạn chuẩn bị xét đơn
Theo quy định tại Điều 366 BLTTDS năm 2015, thời hạn chuẩn
bị xét đơn yêu cầu là 01 tháng, kể từ ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu,
trừ trường hợp Bộ luật này có quy định khác.
b) Những công việc chuẩn bị
- Yêu cầu đương sự bổ sung chứng cứ, tài liệu: Trong thời hạn
chuẩn bị xét đơn yêu cầu, xét thấy tài liệu, chứng cứ chưa đủ căn cứ
để Tòa án giải quyết thì Tòa án yêu cầu đương sự bổ sung tài liệu,
chứng cứ trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu
cầu của Tòa án.
- Yêu cầu cung cấp chứng cứ, tài liệu: Trường hợp đương sự có
yêu cầu hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán ra quyết định yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ; triệu tập người
làm chứng, trưng cầu giám định, định giá tài sản. Nếu hết thời hạn
chuẩn bị xét đơn yêu cầu mà chưa có kết quả giám định, định giá tài
sản thì thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu được kéo dài nhưng không
quá 01 tháng.
- Đình chỉ việc xét đơn yêu cầu: Nếu người yêu cầu rút đơn yêu
cầu, Thẩm phán sẽ ra Quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu và trả
lại đơn yêu cầu, tài liệu, chứng cứ kèm theo.
- Mở phiên họp: Hết thời hạn chuẩn bị xét xử, nếu không có căn

474
cứ đình chỉ, Thẩm phán phải ra Quyết định mở phiên họp giải quyết
việc dân sự. Quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự và hồ sơ
việc dân sự được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp để nghiên cứu.
Viện kiểm sát phải nghiên cứu trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày
nhận được hồ sơ; hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ cho
Tòa án để mở phiên họp giải quyết việc dân sự.
1.2.4. Phiên họp giải quyết việc dân sự
a) Thời hạn mở phiên họp
Tòa án phải mở phiên họp để giải quyết việc dân sự trong thời
hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp (khoản 4
Điều 366 BLTTDS năm 2015).
b) Thành phần giải quyết việc dân sự
Theo quy định tại Điều 67, yêu cầu về dân sự, HN&GĐ, kinh
doanh, thương mại, lao động quy định tại khoản 5 Điều 27, khoản 9
Điều 29, khoản 4 và khoản 5 Điều 31, khoản 2, 3 và 4 Điều 33 của
BLTTDS do tập thể gồm ba Thẩm phán giải quyết. Những việc dân sự
khác do một Thẩm phán giải quyết.
Khoản 5 Điều 27 quy định việc “Yêu cầu công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định về dân
sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự, hành
chính của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết
định về dân sự, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình
sự, hành chính của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại
Việt Nam”.
Khoản 9 Điều 29 quy định việc “Yêu cầu công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định về
HN&GĐ của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan khác có thẩm quyền
của nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết định về HN&GĐ
của Tòa án nước ngoài hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước
ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam”.
Khoản 4 Điều 31 quy định việc “Yêu cầu công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định kinh
doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản

475
án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài không
có yêu cầu thi hành tại Việt Nam”. Khoản 5 Điều 31 quy định việc
“Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết kinh
doanh, thương mại của Trọng tài nước ngoài”.
Khoản 2 Điều 33 quy định việc “Yêu cầu xét tính hợp pháp của
cuộc đình công”. Khoản 3 Điều 33 quy định việc “Yêu cầu công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận bản án, quyết định
lao động của Tòa án nước ngoài hoặc không công nhận bản án, quyết
định lao động của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt
Nam”. Khoản 4 Điều 33 quy định việc “Yêu cầu công nhận và cho thi
hành tại Việt Nam phán quyết lao động của Trọng tài nước ngoài”.
Thành phần giải quyết yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy
định tại khoản 2 Điều 31 của BLTTDS được thực hiện theo quy định
của pháp luật về Trọng tài thương mại.
Khoản 2 Điều 31 quy định việc “Yêu cầu liên quan đến việc
Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết tranh chấp theo quy định
của pháp luật về Trọng tài thương mại”.
c) Những người tham gia phiên họp
Theo quy định tại Điều 367 BLTTDS năm 2015 thì Kiểm sát
viên Viện kiểm sát cùng cấp phải tham gia phiên họp; trường hợp
Kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp.
Người yêu cầu hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ phải tham gia phiên họp theo giấy
triệu tập của Tòa án. Người yêu cầu vắng mặt lần thứ nhất thì Tòa án
hoãn phiên họp, trừ trường hợp người yêu cầu đề nghị Tòa án giải
quyết việc dân sự vắng mặt họ. Trường hợp người yêu cầu đã được
triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ yêu cầu
và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết việc dân sự; trong trường
hợp này, quyền yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự đó theo thủ tục
do BLTTDS quy định vẫn được bảo đảm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện hợp
pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Tòa án
triệu tập tham gia phiên họp. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có
thể triệu tập người làm chứng, người giám định, người phiên dịch

476
tham gia phiên họp; nếu có người vắng mặt thì Tòa án quyết định
hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành phiên họp.
d) Quyết định việc thay đổi người tiến hành tố tụng
Theo quy định tại Điều 368 BLTTDS năm 2015, trước khi mở
phiên họp, việc thay đổi Thẩm phán, Thư ký phiên họp do Chánh án
của Tòa án đang giải quyết việc dân sự đó quyết định; nếu Thẩm phán
bị thay đổi là Chánh án của Tòa án đang giải quyết việc dân sự đó thì
việc thay đổi do Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp quyết định.
Tại phiên họp giải quyết việc dân sự, việc thay đổi Thẩm phán,
Thư ký phiên họp, nếu do một Thẩm phán giải quyết thì việc thay đổi
Thẩm phán, Thư ký phiên họp do Chánh án của Tòa án đang giải
quyết việc dân sự đó quyết định; nếu Thẩm phán bị thay đổi là Chánh
án của Tòa án đang giải quyết việc dân sự đó thì việc thay đổi do
Chánh án Tòa án trên một cấp trực tiếp quyết định. Trường hợp việc
dân sự do Hội đồng giải quyết việc dân sự gồm ba Thẩm phán giải
quyết thì việc thay đổi thành viên Hội đồng, Thư ký phiên họp do Hội
đồng giải quyết việc dân sự quyết định.
Trước khi mở phiên họp, việc thay đổi Kiểm sát viên do Viện
trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định. Tại phiên họp, việc thay
đổi Kiểm sát viên do Thẩm phán, Hội đồng giải quyết việc dân sự
quyết định. Trường hợp phải thay đổi Kiểm sát viên thì Thẩm phán,
Hội đồng giải quyết việc dân sự ra quyết định hoãn phiên họp và
thông báo cho Viện kiểm sát. Việc cử Kiểm sát viên thay thế Kiểm sát
viên bị thay đổi do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định.
Nếu Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát thì do
Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định.
Người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc
bị thay đổi trong những trường hợp quy định tại Điều 52 BLTTDS
năm 2015: Họ đồng thời là đương sự, người đại diện, người thân
thích của đương sự; Họ đã tham gia tố tụng với tư cách là người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người
giám định, người phiên dịch trong cùng vụ việc đó; Có căn cứ rõ
ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.

477
Theo Điều 53, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải từ chối tiến
hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong những trường hợp: Thuộc một trong
những trường hợp quy định tại Điều 52; Họ cùng trong một Hội đồng
xét xử và là người thân thích với nhau; trong trường hợp này, chỉ có
một người được tiến hành tố tụng; Họ đã tham gia giải quyết theo thủ
tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ việc dân sự đó
và đã ra bản án sơ thẩm, bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám
đốc thẩm hoặc tái thẩm, quyết định giải quyết việc dân sự, quyết định
đình chỉ giải quyết vụ việc, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các
đương sự, trừ trường hợp là thành viên của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao thì vẫn được
tham gia giải quyết vụ việc đó theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; Họ
đã là người tiến hành tố tụng trong vụ việc đó với tư cách là Thẩm tra
viên, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên.
Theo Điều 54, Thư ký Tòa án, Thẩm tra viên phải từ chối tiến
hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong những trường hợp: Thuộc một
trong những trường hợp quy định tại Điều 52; Họ đã là người tiến
hành tố tụng trong vụ việc đó với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm
nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, Kiểm tra
viên; Là người thân thích với một trong những người tiến hành tố tụng
khác trong vụ việc đó.
Việc từ chối tiến hành tố tụng hoặc đề nghị thay đổi Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án trước khi mở phiên
họp phải được lập thành văn bản, trong đó nêu rõ lý do và căn cứ của
việc từ chối tiến hành tố tụng hoặc đề nghị thay đổi người tiến hành tố
tụng. Chánh án Tòa án là người có thẩm quyền quyết định. Trường
hợp Thẩm phán bị thay đổi là Chánh án Tòa án thì thẩm quyền quyết
định việc thay đổi như sau: i) Thẩm phán là Chánh án Tòa án nhân
dân cấp huyện thì do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh quyết định;
ii) Thẩm phán là Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh thì do Chánh án
Tòa án nhân dân cấp cao có thẩm quyền theo lãnh thổ đối với Tòa án
nhân dân cấp tỉnh đó quyết định; iii) Thẩm phán là Chánh án Tòa án
nhân dân cấp cao thì do Chánh án TANDTC quyết định.
Việc từ chối tiến hành tố tụng hoặc đề nghị thay đổi những
người này tại phiên họp phải được ghi vào biên bản phiên họp. Hội

478
đồng xét xử quyết định sau khi nghe ý kiến của người bị yêu cầu thay
đổi. Hội đồng xét xử thảo luận tại phòng nghị án và quyết định theo đa
số. Trường hợp phải thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thẩm
tra viên, Thư ký Tòa án thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên
tòa. Chánh án Tòa án quyết định cử Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án thay thế người bị thay đổi. Nếu người
bị thay đổi là Chánh án Tòa án thì thẩm quyền quyết định được thực
hiện theo quy định như trước khi mở phiên họp. Trong thời hạn 03
ngày làm việc, kể từ ngày hoãn phiên tòa, phiên họp, Chánh án Tòa án
phải cử người khác thay thế.
Theo Điều 60, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên phải từ chối tiến hành
tố tụng hoặc bị thay đổi trong những trường hợp: Thuộc một trong
những trường hợp quy định tại Điều 52; Họ đã là người tiến hành tố
tụng trong vụ việc đó với tư cách là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Thẩm tra viên, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên.
Trước khi mở phiên họp, việc từ chối tiến hành tố tụng hoặc đề
nghị thay đổi Kiểm sát viên phải được lập thành văn bản, trong đó nêu
rõ lý do và căn cứ của việc từ chối hoặc đề nghị thay đổi Kiểm sát
viên. Việc từ chối tiến hành tố tụng hoặc đề nghị thay đổi Kiểm tra
viên phải được lập thành văn bản, trong đó nêu rõ lý do và căn cứ của
việc từ chối hoặc đề nghị thay đổi Kiểm tra viên. Viện trưởng Viện
kiểm sát cùng cấp là người có thẩm quyền quyết định; nếu Kiểm sát
viên bị thay đổi là Viện trưởng Viện kiểm sát thì do Viện trưởng Viện
kiểm sát cấp trên trực tiếp quyết định. Việc thay đổi Kiểm tra viên do
Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định.
Tại phiên họp, việc từ chối tiến hành tố tụng hoặc đề nghị thay
đổi Kiểm sát viên phải được ghi vào biên bản phiên họp. Thẩm phán
hoặc Hội đồng xét đơn yêu cầu quyết định sau khi nghe ý kiến của
người bị yêu cầu thay đổi. Hội đồng xét đơn thảo luận tại phòng nghị
án và quyết định theo đa số. Trường hợp phải thay đổi Kiểm sát viên
thì Hội đồng xét đơn ra quyết định hoãn phiên tòa. Việc cử Kiểm sát
viên thay thế Kiểm sát viên bị thay đổi do Viện trưởng Viện kiểm sát
cùng cấp quyết định. Nếu Kiểm sát viên bị thay đổi là Viện trưởng
Viện kiểm sát thì do Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp
quyết định. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày hoãn phiên

479
họp, Viện trưởng Viện kiểm sát phải cử người khác thay thế và thông
báo bằng văn bản cho Tòa án.
đ) Trình tự, thủ tục tiến hành phiên họp giải quyết việc dân sự
Phiên họp giải quyết việc dân sự được tiến hành theo quy định
tại Điều 369 theo trình tự như sau: Thư ký phiên họp báo cáo Thẩm
phán, Hội đồng giải quyết việc dân sự về sự có mặt, vắng mặt của
những người tham gia phiên họp; Thẩm phán chủ tọa phiên họp khai
mạc phiên họp, kiểm tra về sự có mặt, vắng mặt của những người
được triệu tập tham gia phiên họp và căn cước của họ, giải thích
quyền và nghĩa vụ của người tham gia phiên họp; Người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu, người yêu cầu hoặc người đại
diện hợp pháp của họ trình bày về những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án
giải quyết, lý do, mục đích và căn cứ của việc yêu cầu Tòa án giải
quyết việc dân sự đó; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày ý kiến về
những vấn đề có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc giải quyết việc dân sự; Người làm
chứng trình bày ý kiến; người giám định trình bày kết luận giám định,
giải thích những vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn (nếu có);
Thẩm phán, Hội đồng giải quyết việc dân sự xem xét tài liệu, chứng
cứ; Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải
quyết việc dân sự và gửi văn bản phát biểu ý kiến cho Tòa án để lưu
vào hồ sơ việc dân sự ngay sau khi kết thúc phiên họp; Thẩm phán,
Hội đồng giải quyết việc dân sự xem xét, quyết định chấp nhận hoặc
không chấp nhận yêu cầu giải quyết việc dân sự.
Trường hợp có người được Tòa án triệu tập tham gia phiên họp
vắng mặt thì Thẩm phán, Hội đồng giải quyết việc dân sự cho công bố
lời khai, tài liệu, chứng cứ do người đó cung cấp trước khi xem xét tài
liệu, chứng cứ.
e) Quyết định giải quyết việc dân sự
Theo quy định tại Điều 370 BLTTDS năm 2015, quyết định giải
quyết việc dân sự phải có các nội dung sau đây: Ngày, tháng, năm ra
quyết định; Tên Tòa án ra quyết định; Họ, tên của Thẩm phán, Kiểm
sát viên, Thư ký phiên họp; Tên, địa chỉ của người yêu cầu giải quyết

480
việc dân sự; Những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết; Tên, địa
chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Nhận định của Tòa án
và những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp nhận đơn yêu cầu;
Căn cứ pháp luật để giải quyết việc dân sự; Quyết định của Tòa án; Lệ
phí phải nộp.
Trên thực tế, quyết định giải quyết việc dân sự gồm 4 phần. Phần
mở đầu gồm các thông tin tương tự phần mở đầu của bản án sơ thẩm
dân sự. Phần nhận thấy gồm các nội dung về sự kiện, tình tiết, chứng
cứ và yêu cầu của người yêu cầu; đề nghị của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát. Phần xét
thấy: nhận định của Tòa án (phân tích những căn cứ để chấp nhận
hoặc không chấp nhận từng yêu cầu, đề nghị cụ thể của người yêu
cầu; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ý kiến của đại diện Viện
kiểm sát). Cần viện dẫn nội dung điểm, khoản và điều luật của văn
bản quy phạm pháp luật mà Toà án căn cứ để chấp nhận hoặc không
chấp nhận. Phần quyết định: Trong phần này ghi việc áp dụng điểm,
khoản, điều luật của văn bản quy phạm pháp luật mà Toà án căn cứ để
ra quyết định. Ghi các quyết định của Toà án về việc chấp nhận hay
không chấp nhận yêu cầu, về quyền và nghĩa vụ của người yêu cầu,
người có liên quan, về lệ phí và quyền kháng cáo đối với quyết định
giải quyết việc dân sự. Đối với quyết định công nhận thuận tình ly
hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và quyết định công nhận sự thoả
thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì không ghi
quyền kháng cáo.
Quyết định giải quyết việc dân sự phải được gửi cho Viện kiểm
sát cùng cấp, người yêu cầu giải quyết việc dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết việc dân sự trong thời hạn
05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định. Việc gửi quyết định giải
quyết việc dân sự cho cơ quan thi hành án được thực hiện theo quy
định của Luật Thi hành án dân sự.
Theo quy định tại Điều 28, Điều 2 Luật Thi hành án dân
sự , Tòa án đã ra bản án, quyết định hoặc phần bản án, quyết định
131

của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm; Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; Quyết định

131
Luật Thi hành án dân sự số 12/VBHN-VPQH ngày 11/12/2014.

481
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Tòa án; Bản án, quyết định dân sự
của Tòa án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài đã được
Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành tại Việt Nam; Quyết định
của Tòa án giải quyết phá sản phải chuyển giao bản án, quyết định đó
cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trong thời hạn 30 ngày,
kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.
Tòa án đã ra bản án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công
lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao
động hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh
thần, nhận người lao động trở lại làm việc.
Phải chuyển giao bản án, quyết định đó cho cơ quan thi hành án
dân sự có thẩm quyền trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra bản án,
quyết định.
Tòa án, Trọng tài thương mại đã ra quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời phải chuyển giao quyết định đó cho cơ quan thi
hành án dân sự có thẩm quyền ngay sau khi ra quyết định.
Trường hợp cơ quan có thẩm quyền đã kê biên tài sản, tạm giữ
tài sản, thu giữ vật chứng hoặc thu giữ các tài liệu khác có liên quan
đến việc thi hành án thì khi chuyển giao bản án, quyết định cho cơ
quan thi hành án dân sự, Tòa án phải gửi kèm theo bản sao biên bản
về việc kê biên, tạm giữ tài sản, thu giữ vật chứng hoặc tài liệu khác
có liên quan.
Quyết định giải quyết việc dân sự có hiệu lực pháp luật của Tòa
án có liên quan đến việc thay đổi hộ tịch của cá nhân phải được Tòa
án gửi cho UBND nơi đã đăng ký hộ tịch của cá nhân đó theo quy
định của Luật Hộ tịch.
Theo quy định tại Điều 30 Luật Hộ tịch 132 thì trong thời hạn 05
ngày làm việc kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
liên quan đến thay đổi hộ tịch của cá nhân, gồm thay đổi quốc tịch;
xác định cha, mẹ, con; xác định lại giới tính; nuôi con nuôi, chấm
dứt việc nuôi con nuôi; ly hôn, hủy việc kết hôn trái pháp luật, công
nhận việc kết hôn; công nhận giám hộ; tuyên bố hoặc huỷ tuyên bố

Luật Hộ tịch số 60/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
132

Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20/11/2014, có hiệu lực từ ngày 01/01/2016.

482
một người mất tích, đã chết, bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi
dân sự, mà do Tòa án nhân dân giải quyết thì Tòa án nhân dân có
trách nhiệm thông báo bằng văn bản kèm theo trích lục bản án, bản
sao quyết định đến UBND nơi đã đăng ký hộ tịch của cá nhân để ghi
vào Sổ hộ tịch…
Quyết định giải quyết việc dân sự có hiệu lực pháp luật của
Tòa án được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có),
trừ quyết định có chứa thông tin quy định tại khoản 2 Điều 109 của
BLTTDS.
1.3. Giải quyết việc dân sự theo thủ tục phúc thẩm
1.3.1. Quyền kháng cáo, kháng nghị quyết định giải quyết việc
dân sự
Người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc
giải quyết việc dân sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp,
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị quyết định giải
quyết việc dân sự để yêu cầu Tòa án trên một cấp trực tiếp giải quyết
lại theo thủ tục phúc thẩm, trừ quyết định giải quyết yêu cầu công
nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án (khoản 7 Điều 27); yêu cầu
công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly
hôn (khoản 2 Điều 29); yêu cầu công nhận thỏa thuận của cha, mẹ về
thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc công nhận việc
thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của cơ quan, tổ chức,
cá nhân theo quy định của pháp luật về HN&GĐ (khoản 3 Điều 29).
1.3.2. Thời hạn kháng cáo, kháng nghị
Điều 372 quy định, người yêu cầu, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến việc giải quyết việc dân sự có quyền kháng cáo quyết
định giải quyết việc dân sự trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày Tòa án
ra quyết định. Trường hợp họ không có mặt tại phiên họp giải quyết
việc dân sự thì thời hạn đó được tính từ ngày họ nhận được quyết định
giải quyết việc dân sự hoặc kể từ ngày quyết định đó được thông báo,
niêm yết.
Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị quyết định giải
quyết việc dân sự trong thời hạn 10 ngày, Viện kiểm sát cấp trên trực

483
tiếp có quyền kháng nghị trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa án ra
quyết định.
1.3.3. Chuẩn bị xét kháng cáo, kháng nghị
a) Thời hạn chuẩn bị xét kháng cáo, kháng nghị là 15 ngày,
kể từ ngày Tòa án nhận kháng cáo, kháng nghị (khoản 1 Điều 373).
b) Những công việc chuẩn bị
Trong thời hạn chuẩn bị xét kháng cáo, kháng nghị, xét thấy tài
liệu, chứng cứ chưa đủ căn cứ để Tòa án giải quyết thì Tòa án yêu cầu
đương sự bổ sung tài liệu, chứng cứ trong thời hạn 05 ngày làm việc,
kể từ ngày nhận được yêu cầu của Tòa án. Trường hợp đương sự có
yêu cầu hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán ra quyết định yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ; triệu tập người
làm chứng, trưng cầu giám định, định giá. Nếu hết thời hạn 15 ngày
chuẩn bị xét kháng cáo, kháng nghị mà chưa có kết quả giám định,
định giá thì thời hạn chuẩn bị xét kháng cáo, kháng nghị được kéo dài
nhưng không quá 15 ngày. Trường hợp tất cả người kháng cáo rút đơn
kháng cáo, Viện kiểm sát rút kháng nghị thì Tòa án ra quyết định đình
chỉ giải quyết việc xét đơn yêu cầu theo thủ tục phúc thẩm. Trong
trường hợp này, quyết định giải quyết việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra quyết định
đình chỉ.
c) Quyết định mở phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự
Hết thời hạn chuẩn bị, Tòa án phải ra quyết định mở phiên họp
phúc thẩm giải quyết việc dân sự nếu không có căn cứ đình chỉ việc
giải quyết việc dân sự. Quyết định mở phiên họp phúc thẩm giải quyết
việc dân sự và hồ sơ việc dân sự được gửi ngay cho Viện kiểm sát
cùng cấp để nghiên cứu. Viện kiểm sát phải nghiên cứu trong thời hạn
07 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ; hết thời hạn này, Viện kiểm sát
phải trả hồ sơ cho Tòa án để mở phiên họp phúc thẩm giải quyết việc
dân sự.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra quyết định mở phiên họp,
Thẩm phán phải mở phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự.

484
1.3.4. Phiên họp giải quyết việc dân sự theo thủ tục phúc thẩm
a) Thành phần tham gia giải quyết phúc thẩm việc dân sự
Theo quy định tại khoản 1 Điều 67, thành phần giải quyết việc
kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định giải quyết việc dân sự do
tập thể gồm ba Thẩm phán giải quyết.
b) Những người tham gia phiên họp phúc thẩm
Theo quy định tại Điều 374, Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng
cấp phải tham gia phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân sự; trường
hợp Kiểm sát viên vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp, trừ
trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm.
Người có đơn kháng cáo, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của họ phải tham gia phiên họp theo giấy
triệu tập của Tòa án. Người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất có lý do
chính đáng thì Tòa án hoãn phiên họp phúc thẩm giải quyết việc dân
sự, trừ trường hợp người kháng cáo yêu cầu giải quyết vắng mặt họ.
Nếu người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng
mặt thì bị coi là từ bỏ kháng cáo và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải
quyết phúc thẩm việc dân sự đối với yêu cầu kháng cáo của họ, trừ
trường hợp họ có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt hoặc do sự kiện bất
khả kháng, trở ngại khách quan.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người đại diện hợp
pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ được Tòa án
triệu tập tham gia phiên họp. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có
thể triệu tập người làm chứng, người giám định, người phiên dịch
tham gia phiên họp; nếu có người vắng mặt thì Tòa án quyết định
hoãn phiên họp hoặc vẫn tiến hành phiên họp.
c) Thủ tục phiên họp phúc thẩm
Điều 375 BLTTDS năm 2015 quy định trình tự phiên họp như
sau: Thư ký phiên họp báo cáo về sự có mặt, vắng mặt của những
người tham gia phiên họp; Thẩm phán chủ tọa phiên họp khai mạc
phiên họp, kiểm tra về sự có mặt, vắng mặt của những người được
triệu tập tham gia phiên họp và căn cước của họ, giải thích quyền và
nghĩa vụ của người tham gia phiên họp; Người bảo vệ quyền, lợi ích

485
hợp pháp của người kháng cáo, người kháng cáo hoặc người đại diện
hợp pháp của họ trình bày về nội dung kháng cáo và căn cứ của việc
kháng cáo.
Trường hợp chỉ có Viện kiểm sát kháng nghị thì Kiểm sát viên
trình bày về nội dung kháng nghị và căn cứ của việc kháng nghị.
Trường hợp vừa có kháng cáo, vừa có kháng nghị thì các đương sự
trình bày về nội dung kháng cáo và các căn cứ của việc kháng cáo
trước, sau đó Kiểm sát viên trình bày về nội dung kháng nghị và căn
cứ của việc kháng nghị. Trường hợp Viện kiểm sát không kháng nghị
thì Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết
kháng cáo trước khi Hội đồng phúc thẩm ra quyết định. Ngay sau khi
kết thúc phiên họp, Kiểm sát viên phải gửi văn bản phát biểu ý kiến
cho Tòa án để lưu vào hồ sơ việc dân sự.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người
đại diện hợp pháp của họ trình bày ý kiến về những vấn đề có liên
quan đến quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
trong nội dung kháng cáo, kháng nghị. Người làm chứng trình bày ý
kiến; người giám định trình bày kết luận giám định, giải thích những
vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn.
Trường hợp có người được Tòa án triệu tập tham gia phiên họp
vắng mặt thì Thẩm phán cho công bố lời khai, tài liệu, chứng cứ do
người đó cung cấp.
d) Quyền hạn của Hội đồng phúc thẩm
Hội đồng phúc thẩm xem xét quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
bị kháng cáo, kháng nghị; tài liệu, chứng cứ có liên quan và ra một
trong các quyết định sau đây: Giữ nguyên quyết định giải quyết việc
dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm; sửa quyết định giải quyết việc dân sự
của Tòa án cấp sơ thẩm; hủy quyết định giải quyết việc dân sự của
Tòa án cấp sơ thẩm và chuyển hồ sơ việc dân sự cho Tòa án cấp sơ
thẩm để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm; hủy quyết định giải quyết
việc dân sự của Tòa án cấp sơ thẩm và đình chỉ giải quyết việc dân sự;
đình chỉ giải quyết việc xét đơn yêu cầu theo thủ tục phúc thẩm nếu tại
phiên họp tất cả người kháng cáo rút đơn kháng cáo, Viện kiểm sát rút
kháng nghị.

486
Quyết định phúc thẩm giải quyết việc dân sự có hiệu lực pháp
luật kể từ ngày ra quyết định và được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp,
người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải
quyết việc dân sự. Trường hợp quyết định phúc thẩm giải quyết việc
dân sự có liên quan đến việc thay đổi hộ tịch của cá nhân thì phải
được Tòa án gửi cho UBND nơi đã đăng ký hộ tịch của cá nhân đó
theo quy định của Luật Hộ tịch.
Quyết định phúc thẩm giải quyết việc dân sự có hiệu lực pháp
luật được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có), trừ
quyết định có chứa thông tin liên quan đến bí mật nhà nước, thuần
phong mỹ tục của dân tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí
mật cá nhân, bí mật gia đình theo yêu cầu chính đáng của đương sự
nhưng phải thông báo cho đương sự biết những tài liệu, chứng cứ
không được công khai theo quy định tại khoản 2 Điều 109 của
BLTTDS.
2. Kỹ năng của Luật sư tham gia giải quyết việc dân sự tại
Tòa án cấp sơ thẩm
2.1. Kỹ năng tư vấn giúp đỡ khách hàng xác định việc dân sự
Ngay khi nhận được đề nghị giúp đỡ trong những việc dân sự,
Luật sư cần xác định yêu cầu của khách hàng là việc dân sự hay vụ án
dân sự. Để phân biệt được vụ án dân sự và việc dân sự, phải căn cứ
vào quy định của BLTTDS và những quy định trong các văn bản pháp
luật về nội dung tương ứng với các việc dân sự cần giải quyết. Theo
Điều 1 thì các tranh chấp dân sự, HN&GĐ, kinh doanh, thương mại,
lao động được gọi chung là các vụ án dân sự; các yêu cầu về dân sự,
HN&GĐ, kinh doanh, thương mại, lao động gọi chung là việc dân sự.
Cụ thể hơn, Điều 27 liệt kê những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án. Điều 29 liệt kê những yêu cầu về
HN&GĐ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Điều 31 liệt kê
những yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án. Điều 33 liệt kê những yêu cầu về lao động thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Từ những quy định này và trong
thực tế, loại việc về dân sự và về HN&GĐ là những việc thường gặp
nhiều hơn.
487
Khi có những yêu cầu về dân sự, về HN&GĐ, Luật sư cần xác
định yêu cầu đó tương ứng với loại việc được quy định tại khoản nào
của các điều luật tương ứng. Một số trường hợp thì phức tạp hơn, từ
yêu cầu của khách hàng, nguyện vọng của khách hàng mà Luật sư
phải xác định là cần giải quyết theo khoản nào, điều nào của BLTTDS.

Ví dụ:
Khách hàng đề nghị tư vấn về trường hợp làm thế nào để có một
giấy xác nhận của Tòa án về người giám hộ của người bị bệnh tâm
thần (để giải quyết một vụ việc khác ở nước ngoài theo quy định
của pháp luật nước sở tại). Về vấn đề này, theo pháp luật của Việt
Nam, việc xác định giám hộ không thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án mà thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã. Điều 54 BLDS
năm 2015133 ghi nhận trong trường hợp người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ đương
nhiên theo quy định tại Điều 52 và Điều 53 của BLDS năm 2015 thì
UBND xã, phường, thị trấn nơi cư trú của người được giám hộ có
trách nhiệm cử người giám hộ.
Trong khi đó, phía nước sở tại yêu cầu phải có quyết định của
Tòa án về người giám hộ thì mới giải quyết vụ việc liên quan. Đáp
ứng yêu cầu này, trong trường hợp cụ thể, chỉ có thể làm đơn yêu
cầu Tòa án xác định người mất năng lực hành vi dân sự. Trong
quyết định tuyên bố người mất năng lực hành vi dân sự, đề nghị Tòa
án xác định người đại diện của người mất năng lực hành vi. Với nội
dung quyết định của Tòa án hoàn toàn có thể đáp ứng được yêu cầu
của nước sở tại và đó cũng là mong muốn của khách hàng. Như
vậy, chỉ có thể lựa chọn để yêu cầu Tòa án giải quyết theo loại việc
được quy định tại khoản 1 Điều 27 BLTTDS năm 2015.

Một trường hợp khác rất phức tạp và gặp nhiều, đó là trường hợp
liên quan đến quan hệ hôn nhân. Trước khi có BLTTDS, tất cả các yêu
cầu liên quan đến chấm dứt quan hệ hôn nhân do một bên yêu cầu,
thuận tình ly hôn hay yêu cầu chấm dứt quan hệ hôn nhân đều được
Tòa án thụ lý là vụ án dân sự. Quá trình giải quyết, tùy theo yêu cầu

133
Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24/11/2015, có hiệu lực từ 01/01/2017.

488
của đương sự, bản chất của sự việc mà Tòa án xác định đó là vụ án ly
hôn, vụ án thuận tình ly hôn hay vụ án huỷ hôn nhân trái pháp luật.
Nhưng theo quy định của BLTTDS, ngay từ khi nộp đơn yêu cầu,
người yêu cầu đã phải tự xác định yêu cầu của mình là việc ly hôn hay
thuận tình ly hôn hay hủy hôn nhân trái pháp luật. Việc xác định này
có ý nghĩa quan trọng ở chỗ sẽ xác định đây là loại vụ án dân sự hay là
việc dân sự. Ngay từ thời điểm tư vấn cho khách hàng quyết định việc
có yêu cầu Tòa án giải quyết hay không, Luật sư đã phải giúp khách
hàng xác định yêu cầu của đương sự tương ứng với khoản nào, thuộc
điều nào của BLTTDS và là loại việc dân sự hay vụ án dân sự.
Cùng với việc căn cứ BLTTDS, để xác định được là việc dân sự
hay vụ án dân sự, Luật sư phải căn cứ vào những văn bản pháp luật về
nội dung. Chẳng hạn, đối với trường hợp xác định về quan hệ hôn
nhân như ví dụ trên, để xác định đó là vụ án ly hôn do một bên yêu
cầu thì điều đầu tiên cần xác định quan hệ hôn nhân của khách hàng
có đăng ký kết hôn hay không. Nếu có đăng ký kết hôn thì đăng ký
kết hôn đó có hợp pháp hay không. Trong thực tế đã có trường hợp
có đăng ký kết hôn những vẫn bị xác định quan hệ hôn nhân không
hợp pháp vì trước khi kết hôn, người vợ hoặc người chồng đã có
đăng ký kết hôn với người khác. Vì một lý do nào đó, như do có gian
dối hoặc do cơ quan có thẩm quyền có sơ xuất dẫn đến việc đã làm thủ
tục cấp đăng ký kết hôn cho người đã có vợ có chồng. Trường hợp này,
dù khách hàng có yêu cầu ly hôn (là một vụ án dân sự theo khoản 1
Điều 28 BLTTDS), nhưng Luật sư vẫn phải xác định đây là yêu cầu
hủy hôn nhân trái pháp luật, được thụ lý theo khoản 1 Điều 29
BLTTDS và là một loại việc dân sự.
Hoặc đối với trường hợp đòi nợ nhưng bị đơn bỏ trốn không rõ
địa chỉ, một số Tòa án hay hướng dẫn đương sự khởi kiện yêu cầu xác
định người mất tích, sau đó đương sự tiếp tục khởi kiện yêu cầu đòi
nợ. Trong trường hợp này, Luật sư có thể tư vấn cho khách hàng chỉ
cần làm thủ tục thông báo người vắng mặt tại nơi cư trú. Có hai lý do
nên tư vấn yêu cầu giải quyết theo thủ tục này: thời hạn yêu cầu thông
báo người vắng mặt tại nơi cư trú chỉ cần người đó biệt tích sáu tháng
liền trở lên; trong khi đó, thời gian để yêu cầu tuyên bố người mất tích
là hai năm không có tin tức. Hậu quả của việc thông báo tìm người
vắng mặt tại nơi cư trú là người quản lý tài sản của người vắng mặt có

489
quyền trích một phần tài sản của người vắng mặt để thực hiện nghĩa
vụ thanh toán nợ đến hạn của người vắng mặt mà không phải nhất
thiết làm thủ tục tuyên bố mất tích mới giải quyết được hậu quả này.
Sẽ có hai thủ tục giải quyết khác nhau: trước tiên cần hướng dẫn
khách hàng yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm người vắng mặt theo
loại việc dân sự được quy định tại khoản 2 Điều 28 BLTTDS. Sau khi
Tòa án ra quyết định tuyên bố người vắng mặt tại nơi cư trú và quyết
định quản lý tài sản của người đó, Luật sư hướng dẫn khách hàng khởi
kiện yêu cầu đòi nợ theo loại vụ án dân sự được quy định tại khoản 3
Điều 26 BLTTDS.
Nói chung, để tư vấn chính xác yêu cầu của khách hàng là việc
dân sự hay là vụ án dân sự, nên giải quyết và phải giải quyết theo
những thủ tục nào đòi hỏi Luật sư phải nắm chắc những quy định của
BLTTDS, và những quy định liên quan của luật nội dung, được quy
định trong BLDS, Luật HN&GĐ, Luật Thương mại, Bộ luật Lao động
và các luật có liên quan.
Một vấn đề khác cũng rất quan trọng là sau khi đã xác định
những yêu cầu của khách hàng là việc dân sự và nên giải quyết thế
nào, Luật sư cũng nên tư vấn cho khách hàng là với thực trạng đó, yêu
cầu của khách hàng có nên đề nghị Tòa án giải quyết hay không. Luật
sư cần phân tích cho khách hàng những lợi ích hay bất lợi của việc
theo đuổi thủ tục tố tụng tại Tòa án. Quyết định cuối cùng thuộc về
chính khách hàng.
2.1.1. Thỏa thuận về tư cách tham gia tố tụng của Luật sư
Sau khi đã tư vấn cho khách hàng về những vấn đề pháp lý liên
quan đến yêu cầu của họ và thủ tục giải quyết yêu cầu của họ, nếu
khách hàng quyết định yêu cầu Tòa án giải quyết và đề nghị Luật sư
tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, Luật sư cần thảo
luận rõ với khách hàng về đề nghị nhờ Luật sư tham gia tố tụng. Theo
quy định của pháp luật, đương sự có thể nhờ Luật sư làm người đại
diện ủy quyền hoặc làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Luật sư cũng cần nói rõ với khách hàng là nếu là người đại
diện ủy quyền thì Luật sư có quyền và nghĩa vụ thế nào, quyền và
nghĩa vụ của khách hàng với tư cách là đương sự trong vụ án, quan hệ
giữa người đại diện ủy quyền và khách hàng (là đương sự trong vụ án)

490
ra sao. Tương tự, nếu khách hàng muốn nhờ Luật sư làm người bảo vệ
quyền lợi của đương sự thì Luật sư cũng cần giải thích rõ vai trò của
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng,
mối quan hệ giữa người bảo vệ và đương sự.
Sau khi khách hàng đã quyết định lựa chọn Luật sư làm người
đại diện hay người bảo vệ, Luật sư chú ý đến một số thủ tục liên quan
để Luật sư có thể tham gia tố tụng.
- Luật sư là người đại diện theo ủy quyền
Đầu tiên phải là một hợp đồng dịch vụ pháp lý giao kết giữa Văn
phòng Luật sư hoặc Công ty luật với khách hàng theo quy định tại
Điều 26 Luật Luật sư năm 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012. Điều 26
Luật Luật sư quy định hợp đồng dịch vụ pháp lý phải được lập thành
văn bản và có các nội dung chính sau đây: a) Tên, địa chỉ của khách
hàng hoặc người đại diện của khách hàng, đại diện của tổ chức hành
nghề Luật sư hoặc Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân; b) Nội
dung dịch vụ; thời hạn thực hiện hợp đồng; c) Quyền, nghĩa vụ của
các bên; d) Phương thức tính và mức thù lao cụ thể; các khoản chi
phí (nếu có); đ) Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng; e) Phương thức
giải quyết tranh chấp.
Trên cơ sở hợp đồng dịch vụ pháp lý (1), khách hàng và Văn
phòng Luật sư hoặc công ty luật sẽ lập tiếp hợp đồng ủy quyền giữa
khách hàng và Luật sư được cử làm đại diện theo ủy quyền (2). Theo
quy định của BLDS năm 1995 thì hợp đồng ủy quyền nhất thiết phải
được lập thành văn bản, có xác nhận của công chứng hoặc cơ quan
có thẩm quyền, BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 không quy định
các dấu hiệu bắt buộc về hình thức như BLDS năm 1995, nhưng tốt
nhất Luật sư nên cùng với khách hàng là cá nhân công chứng hợp
đồng ủy quyền. Văn bản ủy quyền sẽ là cơ sở pháp lý xác định tư
cách pháp lý của Luật sư trong tố tụng dân sự với vai trò là người đại
diện ủy quyền của đương sự.
- Luật sư là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người
được đương sự nhờ và Tòa án chấp nhận. Trước hết, giữa Văn phòng

491
Luật sư hoặc Công ty luật cũng ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý (1).
Trưởng văn phòng Luật sư hoặc Công ty luật sẽ có (2) quyết định cử
Luật sư tham gia vụ việc theo hợp đồng dịch vụ pháp lý, đồng thời sẽ
có (3) một giấy giới thiệu Luật sư tham gia tố tụng gửi Tòa án. Thông
thường, giấy (2) và giấy (3) là những tài liệu bắt buộc phải có để xác
định tính hợp pháp cho việc tham gia của Luật sư. Đối với giấy (1) thì
đó là một thỏa thuận pháp lý giữa khách hàng và Văn phòng Luật sư
hoặc Công ty luật và được lưu vào hồ sơ giữa khách hàng và Công ty
hoặc Văn phòng. Nếu có Tòa án yêu cầu Luật sư phải cung cấp thỏa
thuận giữa Luật sư và khách hàng thì có thể thay hợp đồng dịch vụ
pháp lý bằng một đơn của khách hàng mời Luật sư tham gia tố tụng.
Giấy chứng nhận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự là cơ sở pháp lý xác định vai trò của Luật sư với tư cách là người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự.
2.1.2. Thỏa thuận về thù lao
Tùy theo từng văn phòng hoặc công ty luật, thù lao có thể được
tính theo từng công đoạn của tiến trình giải quyết việc dân sự hoặc
được tính theo toàn bộ kết quả giải quyết. Ví dụ, khách hàng chỉ đề
nghị tư vấn xác định một việc có đủ điều kiện yêu cầu Tòa án giải
quyết hay không thì có thể tính phí theo giờ tư vấn. Nếu khách hàng
đề nghị văn phòng luật cử Luật sư tham gia bảo vệ quyền lợi của
khách hàng tại Tòa án thì sẽ tính thù lao giải quyết toàn bộ việc dân
sự. Có thể đó là mức phí được văn phòng định sẵn, nhưng cũng có thể
là mức mà hai bên thỏa thuận trực tiếp với nhau.
Luật sư nên giải thích cho khách hàng rõ khoản thù lao là khoản
tiền mà khách hàng phải trả cho các hoạt động tố tụng mà Luật sư phải
tiến hành theo quy định của pháp luật để giải quyết việc dân sự theo
yêu cầu của khách hàng, nhưng không đồng nhất với đầu việc thứ ba
mà Luật sư nên tách riêng khỏi hai đầu việc trước, đó là kết quả của
công việc. Không phải trong mọi trường hợp yêu cầu của khách hàng
về việc giải quyết vụ việc của họ cũng được Tòa án đáp ứng hoặc đáp
ứng toàn bộ. Tùy từng vụ việc cụ thể, Luật sư và khách hàng có thể
thỏa thuận về thù lao của kết quả công việc. Ví dụ, trường hợp khách
hàng yêu cầu xác định tìm kiếm người vắng mặt. Kết quả có thể là
Tòa án chấp nhận yêu cầu hoặc không chấp nhận yêu cầu xác định

492
người vắng mặt. Với khả năng, sự hiểu biết và kinh nghiệm, người
Luật sư phải lường trước được kết quả giải quyết để từ đó có thể tư
vấn cho khách hàng là có nên yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc của
họ hay không. Nhưng cũng có nhiều trường hợp, vì nhiều lý do khách
quan, kết quả của việc giải quyết tại Tòa án nằm ngoài khả năng phán
đoán của Luật sư và của khách hàng, không như mong muốn của
khách hàng cũng như của chính Luật sư. Tách kết quả giải quyết vụ
việc thành một đầu việc thứ ba để tính thù lao, trong bối cảnh đó là
một việc làm cần thiết.
Việc tách các phần đầu việc trong tiến trình giải quyết vụ việc
dân sự chỉ mang tính tương đối, hết sức linh hoạt với từng vụ việc,
với từng khách hàng và điều quan trọng là để Luật sư ý thức được
từng phần công việc của mình nhằm xác định thù lao tương ứng và
phù hợp.
Dù có tính thù lao theo đầu công việc hay tính theo toàn bộ việc
giải quyết vụ việc dân sự, Luật sư luôn nhớ rằng hoạt động Luật sư là
một hoạt động đặc thù. Luật sư là người hành nghề tự do, nhà nước
không trả lương nhưng nghề Luật sư không phải là một nghề kinh
doanh thuần túy để có thể kiếm lợi nhuận bằng mọi giá. Thỏa thuận về
thù lao Luật sư, xét theo khía cạnh này, gắn liền với đạo đức nghề
nghiệp của Luật sư, đồng thời đó cũng là yếu tố góp phần xác định uy
tín của Luật sư trong lĩnh vực hoạt động của mình.
2.2. Kỹ năng soạn đơn yêu cầu và chuẩn bị hồ sơ yêu cầu
Đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự được làm theo mẫu
quy định tại khoản 2 Điều 362 BLTTDS. Đối với mục b: Tên Tòa án
có thẩm quyền giải quyết cần xác định theo thẩm quyền giải quyết của
các cấp Tòa án và thẩm quyền theo lãnh thổ. Cụ thể loại việc dân sự sẽ
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện hay của
Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cụ thể là của Tòa án tỉnh nào hoặc Tòa án
huyện nào. Về vấn đề này, ngoài những quy định tại Điều 35, Điều 36,
khoản 2 Điều 39, khoản 2 Điều 40 BLTTDS, có thể tham khảo những
phần viết tương ứng về xác định thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự.
Đối với mục d: Những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết
và lý do, mục đích, căn cứ của việc yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân
sự đó.

493
Khi viết những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết, phải xác
định yêu cầu của đương sự tương ứng với khoản nào của Điều 27,
Điều 29, Điều 31, Điều 33 BLTTDS. Ví dụ: “Yêu cầu Tòa án tuyên
bố người mất tích theo khoản 3 Điều 27 BLTTDS. Người bị đề nghị
xác định mất tích là ông Nguyễn Văn A, địa chỉ cư trú trước khi mất
tích là...”.
Mục lý do có thể viết: ông A đã không có tin tức gì trong thời
gian... năm, từ năm... đến năm...
Mục mục đích có thể viết: Để xin ly hôn với ông A. Mục này tùy
từng việc có thể viết hoặc có thể không viết.
Mục căn cứ phải nêu được những tài liệu, giấy tờ thể hiện thời
gian vắng mặt ít nhất là hai năm của ông A, có thể viết: những giấy tờ
thể hiện việc ông A vắng mặt từ năm...
Mục đ: Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến việc giải
quyết đơn yêu cầu, nếu có. Mục này không bắt buộc mà tùy từng loại
việc dân sự cần ghi cho phù hợp.
Đối với mục g cần lưu ý: người yêu cầu ở đây có thể chính là
người có quyền, lợi ích liên quan đến yêu cầu, có thể là người đại diện
hợp pháp của người có yêu cầu. Trường hợp là người đại diện phải ghi
rõ “Người đại diện theo ủy quyền”, sau đó ký tên. Cuối đơn có mục:
“Tài liệu gửi kèm theo đơn yêu cầu” cần liệt kê đầy đủ những tài liệu
có trong hồ sơ yêu cầu giải quyết việc dân sự.
Theo khoản 3 Điều 362 BLTTDS năm 2015, đơn yêu cầu giải
quyết việc dân sự phải được gửi kèm tài liệu, chứng cứ chứng minh
cho yêu cầu là có căn cứ và hợp pháp. Tùy từng loại việc mà xác định
đó là những giấy tờ, tài liệu gì, căn cứ vào quy định của BLTTDS và
những quy định liên quan trong các văn bản pháp luật nội dung khác.
Rất nhiều trường hợp khách hàng không biết là phải có những giấy tờ
này hoặc có biết thì cũng không biết bằng cách nào có thể thu thập
được. Luật sư phải hướng dẫn khách hàng thu thập những loại giấy tờ,
tài liệu cần thiết và trong nhiều trường hợp, Luật sư phải giúp khách
hàng tìm kiếm. Đây cũng là những điểm lưu ý quan trọng để Luật sư
có thể thỏa thuận với khách hàng về thù lao của Luật sư.

494
Ví dụ, đối với trường hợp yêu cầu tuyên bố một người mất năng
lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, kèm theo
đơn yêu cầu phải có kết luận của cơ quan chuyên môn và những
chứng cứ khác để chứng minh người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc
các chứng bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi
của mình. Nếu khách hàng đã có những giấy tờ này thì Luật sư chỉ cần
tập hợp thành hồ sơ yêu cầu. Nếu khách hàng chưa có thì trước hết,
thay vì gửi đơn yêu cầu đến Tòa án, Luật sư hướng dẫn khách hàng
phải đưa người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi đi khám y tế
để xác định tình trạng tâm thần hoặc tình trạng bệnh lý của người này.
Nhiều trường hợp người bị yêu cầu tự nguyện đi khám bệnh hoặc ít
nhất không có chống đối gì việc đi khám. Nhưng sẽ khó khăn hơn nếu
người bị yêu cầu cương quyết không chịu đi khám y tế. Đối với
trường hợp này, Luật sư có thể hướng dẫn khách hàng tìm kiếm những
cách thức khác, ví dụ yêu cầu họ hàng chứng kiến hoặc đại diện của
chính quyền địa phương (nếu có thể) hoặc công an phường, xã chứng
kiến và lập biên bản về việc người bị yêu cầu từ chối không đi khám y
tế. Biên bản này sẽ là tài liệu quan trọng trong hồ sơ yêu cầu, làm cơ
sở để có thể yêu cầu trưng cầu giám định sức khỏe, bệnh tật của người
bị yêu cầu sau khi Tòa án đã thụ lý việc dân sự.
Đây là công việc linh hoạt, mềm dẻo đòi hỏi Luật sư phải vận
dụng phù hợp trong từng trường hợp cụ thể.
2.3. Hướng dẫn khách hàng nộp tiền tạm ứng lệ phí yêu cầu
Trong trường hợp đơn yêu cầu được Tòa án chấp nhận thụ lý,
Tòa án hướng dẫn người yêu cầu nộp tạm ứng lệ phí yêu cầu với mức
tiền cụ thể và nơi nộp. Nếu trong hợp đồng dịch vụ pháp lý thỏa thuận
việc này do Luật sư phải làm thì Luật sư phải thực hiện việc nộp tạm
ứng lệ phí yêu cầu. Dù tham gia với tư cách gì, tất cả những hoạt động
tố tụng của khách hàng cần được Luật sư hướng dẫn tận tình, chu đáo,
có trách nhiệm.
Một số trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng lệ phí, miễn
nộp lệ phí, Luật sư lưu ý nghiên cứu để tư vấn và đề xuất giúp khách
hàng áp dụng cho việc cụ thể.

495
Sau khi đã nộp tạm ứng án phí, Luật sư hướng dẫn khách hàng
nộp biên lai thu tạm ứng tại Tòa án để Tòa án tiến hành thụ lý yêu cầu
theo quy định của pháp luật.
2.4. Kỹ năng của Luật sư chuẩn bị tham gia phiên họp giải
quyết việc dân sự
2.4.1. Chuẩn bị chứng cứ, tài liệu giải quyết việc dân sự
So với thủ tục giải quyết vụ án dân sự, thủ tục giải quyết việc
dân sự không có tranh tụng do bản chất việc dân sự không có tranh
chấp. Chuẩn bị tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự, vì thế cũng
đơn giản hơn rất nhiều.
Đối với từng việc cụ thể, việc chuẩn bị tham gia phiên họp giải
quyết cũng khác nhau, thời gian chuẩn bị khác nhau nên Luật sư phải
căn cứ vào từng việc để xác định những công việc cụ thể và thời hạn
chuẩn bị cụ thể.
Ví dụ, đối với yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại
nơi cư trú, thời hạn chuẩn bị xét đơn là hai mươi ngày, kể từ ngày Tòa
án thụ lý đơn yêu cầu. Trong khi đó thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu
tuyên bố người mất tích là năm tháng năm ngày, kể từ ngày thụ lý đơn
yêu cầu, bao gồm cả thời hạn thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu
tuyên bố mất tích.
Phần lớn các yêu cầu đều liên quan đến một sự kiện pháp lý nhất
định nên việc xác nhận những sự kiện này chủ yếu do Tòa án thực
hiện trên cơ sở quy định của pháp luật. Nếu đã chuẩn bị đủ chứng cứ,
tài liệu để yêu cầu Tòa án tuyên bố về sự kiện yêu cầu thì người yêu
cầu không phải mất nhiều thời gian để chuẩn bị cho việc giải quyết.
Chủ yếu là vấn đề thủ tục, cụ thể là đợi Tòa án thực hiện những công
việc chuẩn bị theo quy định của pháp luật.
Nhìn chung, việc chuẩn bị cho phiên họp giải quyết yêu cầu, về
phương diện chứng cứ sẽ không quá phức tạp như đối với việc chuẩn
bị giải quyết vụ án dân sự.
2.4.2. Xem xét đề nghị áp dụng quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ
giải quyết yêu cầu
BLTTDS không quy định cụ thể về căn cứ đình chỉ hoặc tạm

496
đình chỉ giải quyết yêu cầu. Việc xem xét để áp dụng những quyết
định này trong quá trình chuẩn bị xét đơn yêu cầu được áp dụng tương
tự những căn cứ tạm đình chỉ giải vụ án dân sự quy định tại Điều 214
BLTTDS hoặc căn cứ đình chỉ giải quyết vụ án dân sự quy định tại
Điều 217 BLTTDS.
Các Luật sư cần nghiên cứu kỹ những căn cứ này cho từng việc
cụ thể mà mình đang tham gia giải quyết. Ví dụ, đối với trường hợp
người yêu cầu rút đơn yêu cầu thì Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết yêu
cầu. Như vậy, trường hợp nào rút đơn, việc rút đơn sẽ ảnh hưởng có
lợi hay bất lợi đối với khách hàng của mình phải được Luật sư nghiên
cứu kỹ.
2.4.3. Chuẩn bị ý kiến phát biểu trong phiên họp
Do không có yếu tố tranh tụng như đối với việc giải quyết vụ án
dân sự, nên Luật sư cũng không phải chuẩn bị bản luận cứ bảo vệ
quyền lợi của đương sự giống như trong thủ tục giải quyết vụ án dân
sự. Tuy nhiên, tại phiên tòa, người yêu cầu phải trình bày về những
vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết, lý do, mục đích và căn cứ của
việc yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự, nên Luật sư, dù tham gia
với tư cách người bảo vệ hoặc người đại diện ủy quyền của người yêu
cầu hoặc người liên quan phải chuẩn bị cho việc phát biểu ý kiến này.
Cách chuẩn bị, về căn bản cũng giống như đối với bản luận cứ
cho phiên tòa dân sự trong thủ tục giải quyết vụ án dân sự. Có thể
cũng có ba phần chủ yếu: Phần đầu, giới thiệu qua về bản thân Luật
sư, thuộc đoàn Luật sư nào, hiện làm việc cho Văn phòng Luật sư
hoặc công ty luật nào, tham gia với tư cách gì. Phần nội dung, tập
trung vào những yêu cầu Tòa án giải quyết, lý do có những yêu cầu
đó, mục đích và căn cứ. Chủ yếu phần này là nêu mà không phải lập
luận hoặc trình bày các lý lẽ như trong tranh tụng vụ án dân sự. Phần
kiến nghị, đề xuất yêu cầu cụ thể với Tòa án…
2.5. Kỹ năng của Luật sư tham gia phiên họp giải quyết việc
dân sự
Thủ tục phiên họp giải quyết việc dân sự được quy định tại
Điều 314 BLTTDS. Do không có tính chất tranh chấp trong đối
tượng giải quyết nên việc tham gia phiên họp chỉ đơn thuần để trình

497
bày ý kiến mà không phải tranh tụng. Tuy nhiên, Luật sư vẫn cần
thiết ghi lại các nội dung, diễn biến của phiên họp. Qua việc ghi
chép, nếu thấy có những vấn đề còn thiếu thì khi phát biểu, Luật sư
phải bổ sung cho đầy đủ các yêu cầu của khách hàng của mình, căn
cứ cho các yêu cầu đó.
3. Kỹ năng của Luật sư tham gia phúc thẩm quyết định giải
quyết việc dân sự
Theo quy định tại Điều 371 BLTTDS năm 2015, người yêu cầu
và cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
quyết định giải quyết việc dân sự có quyền kháng cáo đối với quyết
định giải quyết việc dân sự. Trong trường hợp quyết định giải quyết
của Tòa án không phù hợp với mong muốn của khách hàng và khách
hàng có nguyện vọng kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp trên xem xét,
Luật sư giúp khách hàng làm đơn kháng cáo.
Về căn bản, đơn kháng cáo quyết định giải quyết việc dân sự
cũng được viết giống như đơn kháng cáo bản án, quyết định trong thủ
tục giải quyết vụ án dân sự. Thủ tục tham gia phúc thẩm quyết định
giải quyết việc dân sự cũng tiến hành theo thủ tục phúc thẩm trong thủ
tục giải quyết vụ án dân sự. Luật sư cần nghiên cứu các nội dung này
trong thủ tục giải quyết vụ án dân sự.
Có hai loại việc dân sự mà quyết định giải quyết có hiệu lực
pháp luật ngay, đương sự không có quyền kháng cáo (cũng như Viện
kiểm sát không có quyền kháng nghị). Theo Điều 371 BLTTDS đó là
yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản sau khi ly
hôn và yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp
nuôi con sau khi ly hôn. Đối với hai loại việc này, sau khi có quyết
định giải quyết, nếu đương sự muốn kháng cáo thì Luật sư giải thích
cho đương sự rõ họ không có quyền kháng cáo đối với quyết định giải
quyết hai loại việc này.
4. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Phân biệt việc dân sự với vụ án dân sự?
2. Nêu những yêu cầu về dân sự, HN&GĐ, kinh doanh, thương
mại, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án?

498
3. Trình bày thủ tục giải quyết việc dân sự theo quy định của
BLTTDS năm 2015?
4. Trình bày các kỹ năng của Luật sư khi thực hiện quyền yêu
cầu giải quyết việc dân sự?
5. Trình bày kỹ năng của Luật sư khi chuẩn bị tham gia phiên
họp sơ thẩm giải quyết việc dân sự?
6. Trình bày kỹ năng của Luật sư khi tham gia phiên họp sơ thẩm?
7. Trình bày kỹ năng của Luật sư khi tham gia phúc thẩm việc
dân sự?
Tình huống:
Ngày 29/9/2016, bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1959, địa chỉ số
12/43 Lê Đại Hành, phường Hoàng Văn Thụ, quận B, thành phố H
muốn làm đơn yêu cầu Toà án tuyên bố: bà Bùi Thị N (là mẹ kế của
bà D), sinh năm 1937, địa chỉ ở thôn Trang Quan, xã An Đồng, huyện D,
thành phố H bị hạn chế năng lực hành vi dân sự từ tháng 3/2016 đến
trước ngày 20/6/2016 và đến thời điểm nộp đơn thì bà N bị mất năng
lực hành vi dân sự. Bà D đề nghị Tòa án chỉ định người đại diện theo
pháp luật của bà N.
Theo bà D trình bày: năm 2015, do tuổi cao sức yếu nên bà N bị
tai biến mạch máu não lần một, được điều trị tại bệnh viện một thời
gian. Đến tháng 3/2016, bà N bị tái phát lần hai, dẫn đến liệt nửa
người, lẩn thẩn, không minh mẫn, tỉnh táo. Ngày 07/9/2016, bà N lại
tái phát bệnh tai biến mạch máu não lần thứ ba, điều trị tại bệnh viện
một thời gian, bệnh viện trả về. Thời điểm đó bà N hoàn toàn không
nhận thức được cũng như điều khiển hành vi của mình. Tất cả sinh hoạt
đều do các con chăm sóc, bản thân bà N cũng không biết ăn biết uống,
hỏi không nói, không trả lời được. Tại thời điểm bà D nộp đơn thì bà N
cũng không nhận thức hay điều khiển được hành vi của bản thân.
Theo kết luận giám định pháp y ngày 14/7/2016 của Trung tâm
pháp y thành phố H thì: Bà Bùi Thị N đã bị tai biến mạch não do tăng
huyết áp nhiều lần. Kèm theo có teo não người già. Bệnh tiến triển
ngày càng nặng lên. Trong đó:

499
- Từ tháng 3/2016 (sau khi nạn nhân bị nhồi máu não lần 2) đến
trước thời điểm khám giám định: khả năng nhận thức và điều khiển
hành vi của nạn nhân Bùi Thị N đã hạn chế rất nhiều (gần như mất).
- Tại thời điểm khám giám định (20/6/2016) nạn nhân Bùi Thị N
bị mất hoàn toàn khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.
Anh (chị) tư vấn cho bà D về yêu cầu và giúp bà D soạn thảo
đơn yêu cầu, chuẩn bị hồ sơ yêu cầu giải quyết việc dân sự?

500
Chương 10
KỸ NĂNG THAM GIA THỦ TỤC GIẢI QUYẾT
MỘT SỐ VIỆC DÂN SỰ

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này sẽ trang bị cho 1. Kỹ năng tham gia giải quyết
người học: việc dân sự tuyên bố một người
- Về kiến thức, người học có mất năng lực hành vi dân sự, bị
được các kiến thức về kỹ năng hạn chế năng lực hành vi dân sự
tham gia giải quyết việc dân sự hoặc có khó khăn trong nhận
tuyên bố một người mất năng lực thức, làm chủ hành vi
hành vi dân sự, bị hạn chế năng 2. Kỹ năng tham gia giải quyết
lực hành vi dân sự hoặc có khó việc dân sự thông báo tìm kiếm
khăn trong nhận thức, làm chủ người vắng mặt tại nơi cư trú,
hành vi; thông báo tìm kiếm thủ tục giải quyết, tuyên bố một
người vắng mặt tại nơi cư trú, người mất tích; tuyên bố một
tuyên bố một người mất tích, người là đã chết
tuyên bố một người là đã chết;
công nhận thuận tình ly hôn, 3. Kỹ năng tham gia giải quyết
thỏa thuận nuôi con, chia tài sản việc dân sự công nhận thuận tình
khi ly hôn; công nhận kết quả ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia
hòa giải thành ngoài Tòa án. tài sản khi ly hôn
- Về kỹ năng, người học áp dụng 4. Kỹ năng tham gia giải quyết
được các kỹ năng nghề nghiệp việc dân sự công nhận kết quả
cơ bản, đặc thù của Luật sư như hòa giải thành ngoài Tòa án
kỹ năng chuẩn bị hồ sơ yêu cầu 5. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
cho khách hàng; chuẩn bị cho
việc tham gia phiên họp; tham
gia phiên họp giải quyết việc dân
sự tại Tòa án cấp sơ thẩm khi
tham gia giải quyết các việc dân
sự trên.

501
- Về thái độ, người học có thái
độ, ứng xử chuẩn mực phù hợp
với quy tắc đạo đức nghề nghiệp
của Luật sư trong quá trình tham
gia giải quyết các việc dân sự.

Các việc dân sự tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân
sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi; thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư
trú, tuyên bố một người mất tích; công nhận thuận tình ly hôn, thỏa
thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn là các loại việc dân sự tương
đối phổ biến trong thực tiễn giải quyết việc dân sự tại Tòa án.
BLTTDS năm 2015 đã bổ sung thủ tục giải quyết việc dân sự công
nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Đây là các loại việc chỉ Tòa
án mới có thẩm quyền giải quyết, không thuộc thẩm quyền giải quyết
của các cơ quan, tổ chức khác và cũng không giải quyết bằng phương
thức thương lượng, hòa giải ngoài tố tụng. Luật sư tham gia thủ tục
giải quyết các việc dân sự trên tại Tòa án cấp sơ thẩm hoặc có thể
tham gia cả thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, phạm vi Chương này chỉ đề
cập đến các kỹ năng cơ bản của Luật sư trong tham gia giải quyết các
loại việc dân sư trên tại Tòa án cấp sơ thẩm. Đó là, kỹ năng tiếp xúc,
trao đổi với khách hàng và chuẩn bị hồ sơ yêu cầu, tham gia giai đoạn
chuẩn bị xét đơn yêu cầu và tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự
của Luật sư. Khi tham gia giải quyết các loại việc dân sự trên, Luật sư
có các kỹ năng cơ bản trong tham gia giải quyết việc dân sự nói chung
và các kỹ năng đặc thù nói riêng phù hợp từng loại việc dân sự.
1. Kỹ năng tham gia thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một
người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
1.1. Kỹ năng tiếp xúc, trao đổi với khách hàng và chuẩn bị hồ
sơ yêu cầu giải quyết việc dân sự
1.1.1. Kỹ năng tiếp xúc, trao đổi với khách hàng
Tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi là các loại việc dân sự liên quan đến thân trạng của một cá
nhân. Luật sư tiếp xúc, trao đổi với khách hàng nhằm xác định đúng,

502
đầy đủ các tình tiết của từng loại việc dân sự. Đó là các tình tiết xác
định người yêu cầu; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người bị
yêu cầu; thẩm quyền giải quyết của Tòa án và đặc biệt là căn cứ để
Tòa án thụ lý, giải quyết yêu cầu. Trên cơ sở xác định các tình tiết,
Luật sư đánh giá điều kiện yêu cầu giải quyết khi tham gia từng việc
dân sự cụ thể. Các điều kiện yêu cầu giải quyết các việc dân sự này
Luật sư cần áp dụng tương tự quy định tại Điều 192 BLTTDS
năm 2015 để xác định. Đó là các điều kiện: chủ thể yêu cầu (người
yêu cầu phải có quyền yêu cầu và năng lực hành vi tố tụng dân sự
đầy đủ); về thẩm quyền của Tòa án; yêu cầu chưa được Tòa án giải
quyết bằng quyết định có hiệu lực pháp luật.
Người có quyền yêu cầu tuyên bố một người bị mất năng lực
hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi là người có quyền, lợi ích liên quan,
cơ quan, tổ chức hữu quan. Riêng đối với yêu cầu tuyên bố một người
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì ngoài người có
quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu quan, tự bản thân người
thành niên không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi có quyền
yêu cầu Tòa án tuyên bố họ có khó khăn trong nhận thức, điều khiển
hành vi. Sự “liên quan” của người có quyền yêu cầu (cá nhân, cơ
quan, tổ chức) thể hiện ở chỗ: việc Toà án tuyên bố một người bị mất
năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi có liên quan đến quyền,
lợi ích hợp pháp của họ. Ví dụ: cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em ruột,
họ hàng thân thích của người bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự
hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là người có quyền, lợi ích liên
quan. Việc xác định đúng người có quyền yêu cầu tuyên bố một người
bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là cơ sở để Luật sư
thực hiện tốt kỹ năng soạn thảo đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự
cũng như xác định các tài liệu phải nộp kèm theo đơn chứng minh
quyền yêu cầu của người yêu cầu giải quyết việc dân sự.
Về thẩm quyền của Tòa án đối với giải quyết các loại việc dân
sự trên, Luật sư xác định theo nguyên tắc chung giống như các việc
dân sự khác. Riêng thẩm quyền theo lãnh thổ cần chú ý là chỉ có Tòa
án nơi người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi cư trú, làm việc mới có thẩm quyền giải quyết.

503
Ví dụ:
Cụ Trần Văn H và cụ Nhữ Thị T sinh được 05 người con: ông
Trần Quốc A (hiện sống với cụ T tại số nhà 11 phố Lê Phụng Hiểu,
phường T, quận HK, HN), ông Trần Tiến Đ, bà Trần AT, ông Trần
Duy N, ông Trần Quyết TA.
Cụ H chết ngày 02/10/1998. Cụ T hiện 98 tuổi. Do cụ T tuổi cao,
sức yếu mất trí nhớ, đến nay không nhận thức được, mọi sinh hoạt ăn
uống đều tại chỗ, gia đình phải thuê người chăm sóc 24/24 giờ. Ông
Trần Quốc A đến văn phòng gặp Luật sư trình bày, muốn yêu cầu Toà
án tuyên bố cụ T là người mất năng lực hành vi dân sự. Ông Trần
Quốc A cung cấp “Biên bản giám định khả năng lao động” số
5904/GĐYK-SK ngày 22/6/2015 của Hội đồng giám định Y khoa HN
đối với cụ Nhữ Thị T với kết quả khám: “Mất trí nhớ tuổi già, không
đủ năng lực hành vi dân sự, suy nhược tuổi già” và kết luận của hội
đồng:“Tỷ lệ mất sức lao động của cụ Nhữ Thị T là 95%.”

Trong tình huống trên, Luật sư cần trao đổi với khách hàng làm
rõ các tình tiết sau: Nơi cư trú của cụ T; Nơi cư trú của những người
con của cụ: ông Trần Tiến Đ, bà Trần AT, ông Trần Duy N, ông Trần
Quyết TA. Ngoài các con chung với cụ H, cụ T có con riêng nào
không? Cụ H và cụ T có con nuôi nào không, nếu có thì họ, tên, nơi
cư trú của họ ở đâu?
Ngoài “Biên bản giám định khả năng lao động”, ông A còn có
các tài liệu, chứng cứ nào khác chứng minh cụ T bị tâm thần, không
có khả năng nhận thức, điều khiển hành vi không?
Luật sư xác định căn cứ của yêu cầu trên cơ sở xem xét, đánh giá
tài liệu, chứng cứ do khách hàng cung cấp. Ngoài các tài liệu chứng
minh có quyền, lợi ích liên quan đến người bị yêu cầu, Luật sư cần
yêu cầu khách hàng cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh căn
cứ của yêu cầu: người bị yêu cầu có bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh
khác liên quan đến nhận thức, làm chủ được hành vi của mình hoặc
người đã thành niên có bị khiếm khuyết về tình trạng thể chất hoặc
tinh thần liên quan đến khả năng nhận thức, làm chủ hành vi nhưng
chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự. Đối với trường hợp tuyên

504
bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người bị yêu cầu
tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự có bị nghiện ma túy, nghiện
các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình không.
Trường hợp khách hàng không biết phải có những tài liệu, chứng cứ
nào hoặc có biết nhưng họ không có tài liệu, chứng cứ cũng không
biết bằng cách nào có thể thu thập được, vì vậy Luật sư tư vấn cho
khách hàng tự thu thập, nếu họ không tự thực hiện được việc thu thập,
Luật sư cần hỗ trợ họ thu thập tài liệu, chứng cứ để làm căn cứ Tòa án
thụ lý việc dân sự. Ví dụ: đối với trường hợp yêu cầu tuyên bố một
người mất năng lực hành vi dân sự, kèm theo đơn yêu cầu phải có kết
luận của cơ quan chuyên môn và các tài liệu, chứng cứ khác để chứng
minh người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc các chứng bệnh khác mà
không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. Nếu khách hàng
đã có những tài liệu, chứng cứ này thì Luật sư chỉ cần chỉ dẫn cho họ
để đưa vào hồ sơ yêu cầu giải quyết việc dân sự. Nếu họ chưa có thì
trước hết, Luật sư hướng dẫn người yêu cầu đưa người bị yêu cầu
tuyên bố mất năng lực hành vi đi khám y tế hoặc giám định tâm thần
để xác định tình trạng tâm thần hoặc tình trạng bệnh lý của người này.
Sau đó, Luật sư đối chiếu các tình tiết vụ việc thực tế khách hàng
đề nghị Luật sư tham gia với quy định của pháp luật để xác định loại
việc dân sự cụ thể: tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự
hay bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận
thức, làm chủ hành vi? Điều này đòi hỏi Luật sư có kỹ năng phân biệt
giữa người mất năng lực hành vi dân sự với người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Theo quy định của BLDS năm 2015 người mất năng lực hành vi dân
sự là người do bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận
thức, làm chủ được hành vi (Điều 22); còn người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi là người thành niên do tình trạng thể chất
hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận thức, làm chủ hành vi
nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự (Điều 23). Đối với
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đó nghiện ma túy
hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia
đình (Điều 24). Loại việc dân sự tuyên bố một người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi. Đây là quy định mới được bổ sung
trong BLDS năm 2015. Trong thực tế, có những người do bẩm sinh

505
hay do nguyên nhân nào đó mà họ không đủ khả năng nhận thức, làm
chủ hành vi, tuy nhiên mức độ lại chưa đến mất hoàn toàn khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi, ví dụ: một người do bị tai nạn giao
thông bị tổn thương não dẫn đến trong cuộc sống có lúc nhận thức,
điều khiển được hành vi, có lúc lại không nhận thức, điều khiển được
hành vi của mình. Từ đó, Luật sư có sự tư vấn phù hợp cho khách
hàng về thủ tục giải quyết từng loại việc dân sự cụ thể.
1.1.2. Kỹ năng chuẩn bị hồ sơ yêu cầu
Hồ sơ yêu cầu giải quyết việc dân sự gồm đơn yêu cầu giải quyết
việc dân sự và các tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo. Soạn thảo đơn yêu
cầu và chuẩn bị bộ hồ sơ yêu cầu giải quyết việc dân sự là một trong
những kỹ năng cơ bản, quan trọng của Luật sư tham gia giải quyết
việc dân sự nói chung và các loại việc về tuyên bố một người mất
năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi nói riêng. Khi chuẩn bị hồ
sơ yêu cầu cho khách hàng đối với các loại việc dân sự trên, Luật sư
cần đảm bảo rằng yêu cầu của đương sự là có đủ điều kiện yêu cầu và
Toà án phải thụ lý việc dân sự. Luật sư cần chú ý rằng các tài liệu,
chứng cứ nộp kèm theo đơn khởi kiện phải đảm bảo tính đầy đủ và
tính hợp pháp, phù hợp với hình thức, nội dung, yêu cầu trình bày
trong đơn yêu cầu.
a) Đơn yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự,
bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi
Đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự là văn bản quan trọng, là cơ
sở pháp lý để Tòa án thụ lý việc dân sự. Đơn yêu cầu giải quyết các
loại việc tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi cũng phải đảm bảo các yêu cầu về hình thức, nội dung đơn
yêu cầu giải quyết việc dân sự nói chung theo quy định tại khoản 2
Điều 362 BLTTDS năm 2015 đồng thời phù hợp với các loại việc dân
sự trên. Về kỹ năng soạn thảo đơn yêu cầu, Luật sư đối chiếu các tình
tiết thực tế của vụ việc với các quy định của BLTTDS năm 2015 và
BLDS năm 2015.
Luật sư vận dụng quy định theo khoản 2, 3 Điều 189 BLTTDS
năm 2015 soạn thảo đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự đảm bảo về

506
mặt hình thức. Theo đó, cá nhân là người yêu cầu có đầy đủ năng lực
hành vi tố tụng dân sự thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm
hộ đơn yêu cầu. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người yêu cầu
trong đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của cá nhân đó; ở phần
cuối đơn, cá nhân đó phải ký tên hoặc điểm chỉ. Cá nhân người yêu
cầu là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thì người đại
diện hợp pháp của họ có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ
đơn yêu cầu. Tại mục tên, địa chỉ nơi cư trú của người yêu cầu trong
đơn phải ghi họ tên, địa chỉ nơi cư trú của người đại diện hợp pháp
của cá nhân đó; ở phần cuối đơn, người đại diện hợp pháp đó phải ký
tên hoặc điểm chỉ. Cá nhân người yêu cầu là người không biết chữ,
người khuyết tật nhìn, người không thể tự mình làm đơn yêu cầu,
người không thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ thì có thể nhờ người
khác làm hộ đơn yêu cầu và phải có người có đủ năng lực tố tụng
dân sự làm chứng. Người làm chứng phải ký xác nhận vào đơn yêu
cầu. Cơ quan, tổ chức là người yêu cầu thì người đại diện hợp pháp
của cơ quan, tổ chức đó có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ
đơn yêu cầu vụ án. Tại mục tên, địa chỉ của người yêu cầu phải ghi
tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức và họ, tên, chức vụ của người đại
diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó; ở phần cuối đơn, người đại
diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải ký tên và đóng dấu của cơ
quan, tổ chức đó; trường hợp tổ chức yêu cầu là doanh nghiệp thì
việc sử dụng con dấu theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Người
đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức có thể là người đại diện theo
pháp luật của cơ quan, tổ chức hoặc người được người đại diện theo
pháp luật ủy quyền (người đại diện theo ủy quyền). Việc đóng dấu
cũng phải được thực hiện theo đúng quy định của Nhà nước về con
dấu cũng như vị trí đóng dấu.
Về nội dung, đơn yêu cầu Luật sư ghi cụ thể các nội dung giống
như đơn yêu cầu việc dân sự nói chung. Song, xuất phát từ đặc thù của
đơn yêu cầu loại việc dân sự này để lưu ý khi soạn thảo mục những
vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết và lý do, mục đích, căn cứ của
việc yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong mục này, Luật sư trình bày các
tình tiết của việc dân sự theo một trật tự logic (lý do, mục đích, căn cứ
của yêu cầu). Đồng thời, Luật sư cũng phải trình bày rõ yêu cầu Tòa

507
án tuyên bố một người cụ thể bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn
chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm
chủ hành vi.

Ví dụ:
Yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, Luật
sư trình bày theo thứ tự các nhóm tình tiết và yêu cầu như sau:
- Các tình tiết xác định mối quan hệ giữa người yêu cầu và người
bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự nhằm khẳng định
quyền yêu của người yêu cầu.
- Các tình tiết là cơ sở yêu cầu tuyên bố một người bị mất năng
lực hành vi dân sự: Luật sư trình bày các tình tiết về việc người bị
yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự bị tâm thần hoặc
mắc các bệnh khác liên quan đến khả năng nhận thức, điều khiển
hành vi.
- Yêu cầu Tòa án tuyên bố ông Nguyễn Văn A bị mất năng lực
hành vi dân sự.

b) Các tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn yêu cầu
Theo quy định tại khoản 3 Điều 362 BLTTDS năm 2015: kèm
theo đơn yêu cầu, người yêu cầu phải gửi tài liệu, chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Như vậy, người
yêu cầu phải gửi kèm theo đơn yêu cầu tuyên bố một người mất năng
lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi các tài liệu, chứng cứ chứng
minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, là căn cứ để Tòa
án thụ lý, giải quyết việc dân sự.
Luật sư xác định các loại tài liệu, chứng cứ cụ thể, phù hợp với
từng loại yêu cầu: yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi
dân sự hay bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi.
Thông thường, các tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn yêu cầu
cần có các tài liệu, chứng cứ sau:
- Nhóm tài liệu, chứng cứ chứng minh tư cách pháp lý của người

508
yêu cầu (cá nhân, cơ quan, tổ chức): Đối với cá nhân là chứng minh
thư/thẻ căn cước, sổ hộ khẩu. Đối với cơ quan, tổ chức là hồ sơ pháp
nhân như: Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng
nhận đầu tư, Quyết định thành lập, Điều lệ…; Các giấy tờ nhằm xác
định tư cách đại diện của người ký đơn kiện: Quyết định bổ nhiệm,
biên bản bầu, văn bản uỷ quyền…;
- Các giấy tờ, tài liệu chứng minh quyền yêu cầu của người yêu
cầu: các giấy tờ về hộ tịch, các giấy tờ, tài liệu khác… chứng minh
người yêu cầu có quyền, lợi ích liên quan với người bị yêu cầu.
- Các tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu là có căn cứ:
+ Đối với yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân
sự; tuyên bố một người có khó khăn trong nhận thức và điều khiển
hành vi phải có các tài liệu, giấy tờ như giấy xác nhận của bệnh viện
tâm thần về việc người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi bị
tâm thần; Sổ điều trị, bệnh án của bệnh viện nơi điều trị, kết luận giám
định của cơ quan chuyên môn… về việc người bị yêu cầu mắc bệnh
tâm thần hoặc bệnh khác liên quan đến khả năng nhận thức, điều
khiển hành vi.
+ Đối với yêu cầu tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh họ bị nghiện ma túy
hoặc các chất kích thích khác như: biên bản về việc người bị yêu cầu
tuyên bố hạn chế năng lực hành vi đã sử dụng ma túy, kết luận của cơ
quan điều tra về tội danh sử dụng ma túy, quyết định áp dụng các biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Tòa án đối với người đó...
Đồng thời, có thể nộp thêm các tài liệu, chứng cứ chứng minh việc họ
phá tán tài sản của gia đình: biên bản của chính quyền địa phương về
việc người này đã phá tán tài sản của gia đình…; các giao dịch chứng
minh người này có các hành vi bán tài sản trong gia đình.
Luật sư lưu ý khi xác định các tài liệu, chứng cứ gửi kèm theo
đơn yêu cầu ngoài việc phải đảm bảo tính đầy đủ còn phải bảo đảm
tính hợp pháp. Hồ sơ yêu cầu cho Tòa án có thể nộp trực tiếp tại Tòa
án hoặc gửi qua đường bưu điện hoặc nộp trực tuyến (nếu Tòa án có
Cổng thông tin điện tử).

509
1.2. Kỹ năng tham gia tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét đơn
yêu cầu
1.2.1. Kỹ năng thu thập, cung cấp bổ sung chứng cứ
Giai đoạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự nói
chung, tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
nói riêng được xác định từ khi thụ lý việc dân sự đến khi có quyết định
mở phiên họp giải quyết việc dân sự. Trong thời hạn chuẩn bị xét đơn
yêu cầu giải quyết việc dân sự, Thẩm phán được phân công giải quyết có
nhiệm vụ xây dựng hồ sơ việc dân sự. Đây chính thời gian để Thẩm phán
thực hiện hoạt động xác minh, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ
làm căn cứ giải quyết việc dân sự. Trong giai đoạn này, nếu thiếu tài
liệu, chứng cứ, Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung, tài liệu,
chứng cứ cần thiết; thực hiện một hoặc một số biện pháp để thu thập
chứng cứ theo quy định của BLTTDS năm 2015. Nắm vững được
nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán; quyền và nghĩa vụ của những
người tham gia tố tụng trong giải quyết việc dân sự là cơ sở để Luật sư
thực hiện tốt được các kỹ năng tham gia tố tụng trong giai đoạn chuẩn
bị xét đơn yêu cầu, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho khách hàng. Tuy
nhiên, so với thủ tục giải quyết vụ án dân sự, do bản chất của việc dân
sự là không có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ dân sự nên việc thu thập,
cung cấp bổ sung tài liệu, chứng cứ cũng đơn giản hơn.
Căn cứ vào thông báo giao nộp bổ sung chứng cứ của Tòa án và
các chứng cứ cần phải có để giải quyết từng việc dân sự cụ thể, tùy
thuộc vào việc bảo vệ cho khách hàng là người yêu cầu hay người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà các tài liệu, chứng cứ cần phải thu
thập bổ sung là khác nhau. Luật sư cần xác định các tài liệu, chứng cứ
cần thu thập bổ sung do cơ quan, tổ chức, cá nhân nào đang lưu giữ và
phải áp dụng các biện pháp nào để thu thập được tài liệu, chứng cứ đó.
Trong trường hợp đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập tài
liệu, chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì Luật sư tư
vấn cho khách hàng yêu cầu Tòa án thực hiện từng biện pháp thu thập
chứng cứ cụ thể. Đối với các việc tuyên bố một người mất năng lực
hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
Tòa án chỉ ra quyết định tuyên bố họ bị mất năng lực hành vi dân sự

510
hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi trên cơ sở kết luận
giám định pháp y tâm thần nên Luật sư cần tư vấn cho khách hàng yêu
cầu Tòa án áp dụng biện pháp thu thập chứng cứ trưng cầu giám định
pháp y tâm thần và tư vấn cho họ về chi phí giám định họ phải nộp.
Đối với việc dân sự tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự, có thể yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định sức khoẻ, bệnh tật
của người bị yêu cầu là căn cứ giải quyết việc dân sự này. Yêu cầu
Tòa áp dụng biện pháp trưng cầu giám định phải được Luật sư soạn
thảo bằng hình thức văn bản, có chữ ký của đương sự, trong đó trình
bày các nội dung đối tượng cần giám định, vấn đề cần giám định, các
yêu cầu cụ thể cần có kết luận.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu nếu có các căn cứ tạm
đình chỉ, đình chỉ giải quyết các việc dân sự trên, Luật sư tư vấn để
đương sự đề nghị Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải
quyết việc dân sự. BLTTDS không quy định cụ thể về căn cứ đình chỉ
hoặc tạm đình chỉ giải quyết việc dân sự. Luật sư viện dẫn Điều 361
BLTTDS năm 2015 và các quy định về đình chỉ, tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự để làm căn cứ pháp lý về tố tụng đề nghị Tòa án.
Đối với các việc dân sự tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân
sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, Tòa án chỉ ra
quyết định tuyên bố họ bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; hạn chế năng lực hành vi dân
sự: thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu chỉ trong 01 tháng (Điều 366
BLTTDS năm 2015). Điều này đòi hỏi Luật sư phải khẩn trương,
nhanh chóng mới thực hiện được đúng tiến độ các công việc cần phải
thực hiện trong giai đoạn này.
1.2.2. Chuẩn bị bản trình bày yêu cầu, ý kiến phát biểu khi tham
gia phiên họp giải quyết việc dân sự sơ thẩm
Tham gia giải quyết việc dân sự, Luật sư không phải chuẩn bị
bản luận cứ bảo vệ quyền lợi cho đương sự giống như trong thủ tục
giải quyết vụ án dân sự. Tuy nhiên, tại phiên họp giải quyết việc dân
sự, người yêu cầu phải trình bày về những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa
án giải quyết, lý do, mục đích và căn cứ của yêu cầu Tòa án tuyên bố;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải trình bày ý kiến về những
vấn đề có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của họ. Do vậy, Luật sư dù
tham gia với tư cách người bảo vệ quyền lợi hoặc người đại diện ủy

511
quyền cho người yêu cầu; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng
đều phải chuẩn bị bản trình bày yêu cầu hoặc ý kiến để trình bày tại
phiên họp giải quyết việc dân sự. Chuẩn bị bản trình bày yêu cầu hoặc
ý kiến chính xác, đúng pháp luật; bảo vệ tốt nhất quyền lợi cho khách
hàng có mối quan hệ với kỹ năng trước đó như thu thập tài liệu, chứng
cứ; sao chụp, nghiên cứu toàn bộ hồ sơ; tìm kiếm luật áp dụng giải
quyết việc dân sự cụ thể. Về văn phong sử dụng trong bản trình bày
yêu cầu hoặc ý kiến bảo vệ quyền lợi cho đương sự khi tham gia giải
quyết tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng
lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
cần sử dụng văn phong phải mang tính pháp lý và phải là ngôn ngữ
viết. Từ ngữ phải là từ phổ thông, đơn giản, trong sáng, dễ hiểu. Đặc
biệt, việc sử dụng các từ ngữ chuyên môn, các thuật ngữ pháp lý cần
chính xác. Cách diễn đạt phải đơn nghĩa, mạch lạc, rõ ràng, đảm bảo
logic và chặt chẽ.
Nếu như Quyết định giải quyết việc dân sự của Toà án, bài phát
biểu của Kiểm sát viên tại phiên họp có quy định, hướng dẫn cụ thể về
hình thức và nội dung thì bản trình bày yêu cầu, ý kiến bảo vệ quyền
lợi cho đương sự tại phiên họp giải quyết việc dân sự của Luật sư
không có quy định cụ thể về hình thức, nội dung. Các Luật sư, văn
phòng Luật sư hay công ty luật khi tham gia phiên toà đều có các mẫu
khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản, bản trình bày yêu cầu hoặc ý kiến
bảo vệ quyền lợi cho đương sự tại phiên họp giải quyết việc dân sự
tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực
hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
Luật sư nên xây dựng theo cơ cấu ba phần: phần mở đầu, phần nội
dung và phần đề xuất.
Phần mở đầu giới thiệu ngắn gọn tên của Luật sư, Luật sư đang
hành nghề tại Văn phòng Luật sư nào, thuộc Đoàn Luật sư nào, tham
gia phiên họp để bảo vệ quyền lợi cho đương sự nào trong việc dân sự,
thay mặt đương sự trình bày yêu cầu (ý kiến). Phần nội dung trình bày
yêu cầu, ý kiến của đương sự, tùy thuộc vào bảo vệ quyền lợi cho
người yêu cầu; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Luật sư trình
bày các tình tiết phù hợp với từng việc dân sự cụ thể và phân tích
những căn cứ đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của người yêu cầu
(hoặc không chấp nhận yêu cầu cụ thể của người yêu cầu trong trường
hợp bảo vệ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nếu không đồng ý

512
yêu cầu). Khi phân tích các căn cứ chứng minh cho yêu cầu hoặc ý
kiến của đương sự, Luật sư đánh giá, sử dụng tài liệu, chứng cứ thực
tế trong từng việc dân sự: đó là nội dung kết luận giám định, lời khai
của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác như kết luận trong
bệnh án… đối chiếu với quy định của BLDS, BLTTDS để đưa ra kết
luận cụ thể về từng vấn đề cần phải giải quyết trong các loại việc dân
sự này. Việc viện dẫn luật áp dụng đòi hỏi sự chính xác, cụ thể về
điểm, khoản và điều luật của văn bản quy phạm pháp luật. Lập luận
cần ngắn gọn, chặt chẽ, có căn cứ pháp lý và căn cứ thực tế. Phần cuối
cùng đề xuất Tòa án áp dụng luật chấp nhận yêu cầu tuyên bố một
người mất năng lực hành vi dân sự; hạn chế năng lực hành vi dân sự
hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (nếu bảo vệ quyền
lợi cho người yêu cầu). Bảo vệ cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trường hợp có ý kiến đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu
của người yêu cầu Luật sư cũng phân tích các căn cứ chứng minh cho
ý kiến của đương sự và đề xuất Tòa án không chấp nhận yêu cầu.
Về luật áp dụng giải quyết các việc dân sự tuyên bố một người
mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, Luật sư sử dụng, viện dẫn
phân tích các điều luật trực tiếp quy định về giải quyết các loại việc
dân sự này. Cụ thể, Điều 22 BLDS năm 2015 (đối với trường hợp
tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự); Điều 23 BLDS
năm 2015 (đối với trường hợp tuyên bố một người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi); Điều 24 BLDS năm 2015 (đối với trường
hợp tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự) và các
điều 376, 377, 378 BLTTDS năm 2015 cần được sử dụng để viện dẫn
đề nghị Tòa án chấp nhận (không chấp nhận) yêu cầu.
1.3. Kỹ năng tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự
Thủ tục phiên họp giải quyết việc dân sự được quy định tại
Điều 369 BLTTDS năm 2015. Phiên họp giải quyết việc dân sự khác
với một số thủ tục tố tụng của phiên tòa dân sự (không được thực
hiện) như không có thủ tục hỏi, thủ tục tranh luận, nghị án. Tham gia
phiên họp giải quyết các loại việc dân sự tuyên bố một người mất
năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi Luật sư có các kỹ năng xử
lý tình huống xảy ra tại phiên họp (nếu có) và kỹ năng trình bày yêu
cầu hoặc ý kiến bảo vệ quyền lợi cho khách hàng.
513
Luật sư trình bày yêu cầu hoặc ý kiến trên cơ sở bản dự thảo
trình bày đã được chuẩn bị trước và diễn biến tại phiên họp. Trường
hợp bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu, nội dung trình bày của Luật
sư phải đủ căn cứ để Tòa án chấp nhận yêu cầu tuyên bố một người
mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc
có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Trường hợp bảo vệ
quyền lợi cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Luật sư trình
bày ý kiến về những vấn đề có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc giải quyết việc dân
sự. Ý kiến đó theo hướng thống nhất căn cứ nào của người yêu cầu và
không thống nhất với căn cứ nào của người yêu cầu (nếu có sự không
thống nhất). Cuối cùng, Luật sư đề nghị Tòa án chấp nhận hoặc không
chấp nhận yêu cầu của người yêu cầu (tùy thuộc vào mong muốn của
khách hàng và tài liệu chứng cứ trong từng việc dân sự cụ thể).
Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thống nhất với yêu
cầu của người yêu cầu thì việc trình bày của Luật sư rất đơn giản,
nhưng nếu đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu tuyên bố một
người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, Luật sư phải trình
bày được các căn cứ đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu. Trong
quá trình diễn ra phiên họp, Luật sư cần tập trung lắng nghe, ghi chép
phần trình bày của tất cả những người tham gia phiên họp. Luật sư
trình bày tình tiết, đánh giá, sử dụng tài liệu, chứng cứ được xem xét
tại phiên họp và các quy định của pháp luật đưa ra những lập luận,
đánh giá của mình (phù hợp với từng loại việc cụ thể). Đặc biệt, Luật
sư cần chú ý đến tình tiết, chứng cứ mới xuất hiện tại phiên họp. Qua
việc ghi chép, nếu thấy có những tình tiết, chứng cứ còn thiếu hoặc
mới được bổ sung tại phiên họp thì khi trình bày yêu cầu hoặc ý kiến
Luật sư sử dụng nội dung bản trình bày đã soạn thảo trước đó đồng
thời trình bày bổ sung những tình tiết, đánh giá các tài liệu, chứng cứ
mới để làm căn cứ cho đề xuất của mình.
Khi trình bày, Luật sư nên trình bày ngắn gọn, khúc triết, rành
mạch về từng tình tiết, đánh giá từng chứng cứ, viện dẫn luật áp dụng.
Bắt đầu trình bày, Luật sư giới thiệu về bản thân; tham gia phiên họp
giải quyết việc dân sự với tư cách gì (bảo vệ quyền lợi hay đại diện
theo ủy quyền cho đương sự nào) trong việc dân sự cụ thể gì, bảo vệ
quyền lợi cho người yêu cầu, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan

514
nào? Chẳng hạn, trường hợp bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu trong
thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi
dân sự, Luật sư có thể trình bày mở đầu như sau: “Kính thưa Thẩm
phán, chủ tọa phiên họp, thưa vị đại diện Viện kiểm sát, tôi là Lê Thị
H, là Luật sư thuộc văn phòng Luật sư T, đoàn Luật sư tỉnh N, tôi
tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự ngày hôm nay với tư cách
là người bảo vệ quyền lợi cho bà Nguyễn Thị Th, là người yêu cầu
trong việc dân sự: yêu cầu tuyên bố ông Trần Văn B bị mất năng lực
hành vi dân sự, thay mặt bà Th tôi xin trình bày yêu cầu và căn cứ yêu
cầu của bà Th như sau…”.
Sau đó, Luật sư tiếp tục trình bày phần nội dung. Phần này, Luật
sư trình bày, lý do, mục đích căn cứ của yêu cầu và yêu cầu; ý kiến đề
nghị của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (tùy thuộc vào việc
Luật sư bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu hoặc người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan). Luật sư cần trình bày tình tiết kết hợp đánh giá, sử
dụng tài liệu, chứng cứ và viện dẫn phân tích luật nội dung, tố tụng để
kết luận về từng vấn đề cần giải quyết trong việc dân sự tuyên bố một
người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Ví dụ, trong trường
hợp bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu, Luật sư trình bày:
- Các tình tiết, đánh giá, sử dụng các tài liệu, chứng cứ và viện
dẫn, phân tích luật nội dung (Luật HN&GĐ, BLDS, Điều 376 BLTTDS
năm 2015) chứng minh mối quan hệ giữa người yêu cầu; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với người bị yêu cầu. Mục đích của nội
dung trình bày này là kết luận về quyền yêu cầu của người yêu cầu và
những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia giải quyết việc
dân sự với tư cách đương sự.
- Các tình tiết và đánh giá, sử dụng các chứng cứ chứng minh
yêu cầu. Đặc biệt Luật sư đánh giá nội dung kết luận giám định sức
khoẻ, bệnh tật của người bị yêu cầu tuyên bố bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự hoặc kết luận giám định pháp y tâm thần đối với người bị
yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi và các chứng cứ khác. Sau đó, Luật
sư viện dẫn quy định của Điều 22, 23, 24 BLDS năm 2015 (tùy theo
loại việc), Điều 377 BLTTDS năm 2015 là căn cứ pháp lý chứng minh
người bị yêu cầu bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
515
- Đối với việc dân sự yêu cầu tuyên bố một người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự, Luật sư trình bày các tình tiết, đánh giá, sử dụng các
tài liệu, chứng cứ và viện dẫn quy định của Điều 24 BLDS năm 2015
chứng minh và kết luận người bị yêu cầu nghiện ma túy hoặc nghiện
các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình.
Sau khi trình bày căn cứ của yêu cầu, ý kiến đề nghị, Luật sư đề
xuất Tòa án áp dụng cụ thể điểm, khoản, điều luật của văn bản quy
phạm pháp luật chấp nhận yêu cầu (bảo vệ quyền lợi cho người yêu
cầu); không chấp nhận yêu cầu (bảo vệ cho người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có ý kiến không đồng ý với yêu cầu). Ví dụ, bảo vệ quyền
lợi cho người yêu cầu, Luật sư trình bày: Đề nghị Tòa án áp dụng
Điều… BLDS, Điều 376, 377, 378 BLTTDS năm 2015 chấp nhận
(không chấp nhận) yêu cầu tuyên bố người bị yêu cầu mất năng lực
hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc có khó
khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Riêng đối với trường hợp
tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, Luật sư cần
có thêm đề nghị Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.
2. Kỹ năng tham gia thủ tục giải quyết yêu cầu thông báo tìm
kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú; thủ tục giải quyết yêu cầu
tuyên bố một người mất tích, tuyên bố một người là đã chết
Việc vắng mặt trong một thời gian dài nhất định của một cá nhân
tại nơi cư trú có ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
dân sự, lao động, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại… của
các chủ thể khác. Nhằm khắc phục những hậu quả bất lợi về nhân thân
và về tài sản có thể xảy ra cho các chủ thể do tình trạng không xác
định về mặt pháp lý của cá nhân do người đó vắng mặt lâu dài tại nơi
cư trú, BLDS, BLTTDS đã quy định căn cứ, trình tự, thủ tục giải
quyết yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, tuyên
bố mất tích, tuyên bố chết đối với cá nhân.
Thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, tuyên bố một
người mất tích, tuyên bố một người là đã chết là các loại việc dân sự
liên quan đến sự vắng mặt của cá nhân tại nơi cư trú. Do vậy, cũng chỉ
có Tòa án mới có thẩm quyền giải quyết. Về cơ bản, kỹ năng của Luật
sư tham gia các loại việc dân sự này được thực hiện trên cơ sở kỹ
năng chung và các kỹ năng đặc thù.

516
2.1. Kỹ năng tiếp xúc, trao đổi với khách hàng và chuẩn bị hồ
sơ yêu cầu
2.1.1. Kỹ năng tiếp xúc, trao đổi với khách hàng
Tiếp xúc, trao đổi với khách hàng và phân tích tài liệu, chứng cứ
khách hàng cung cấp, Luật sư xác định các tình tiết của vụ việc, yêu
cầu của khách hàng. Từ đó, Luật sư xác định điều kiện yêu cầu giải
quyết các việc dân sự trên; tư vấn cho khách hàng về yêu cầu: thông
báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú hay tuyên bố một người
mất tích hoặc tuyên bố một người là đã chết và giúp khách hàng chuẩn
bị hồ sơ yêu cầu.
Các tình tiết cần xác định trong các loại việc thông báo tìm kiếm
người vắng mặt tại nơi cư trú, tuyên bố một người mất tích, tuyên bố
một người là đã chết xuất phát từ đặc thù của các loại việc dân sự này.
Đó là các tình tiết xác định mối quan hệ giữa người yêu cầu, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người vắng mặt tại nơi cư trú, người
bị yêu cầu tuyên bố mất tích, tuyên bố là đã chết; các tình tiết về thời
điểm người bị yêu cầu biệt tích khỏi nơi cư trú; các tình tiết xác định
Tòa án có thẩm quyền giải quyết, căn cứ của yêu cầu, các tình tiết về
việc người yêu cầu đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo tìm
kiếm (hoặc về việc đã có quyết định của Toà án thông báo tìm kiếm
người vắng mặt tại nơi cư trú, đối với trường hợp yêu cầu một người
bị yêu cầu tuyên bố mất tích); các tình tiết xác định tình hình tài sản
của người bị yêu cầu, việc quản lý tài sản hiện có và danh sách những
người thân thích của người bị yêu cầu (trong trường hợp người bị yêu
cầu có tài sản)… Xác định được các tình tiết của từng việc dân sự cụ
thể, Luật sư mới có thể tư vấn về yêu cầu cho khách hàng. Khác với
các loại việc dân sự khác, tham gia giải quyết các việc dân sự liên
quan đến sự vắng mặt của người bị yêu cầu tìm kiếm, người bị yêu
cầu tuyên bố mất tích ngoài quyền yêu cầu thông báo tìm kiếm người
vắng mặt tại nơi cư trú, tuyên bố một người mất tích, Luật sư cần tư
vấn cho họ về quyền yêu cầu quản lý tài sản của người vắng mặt tại
nơi cư trú, người bị yêu cầu tuyên bố một người mất tích.
Về Tòa án có thẩm quyền giải quyết các loại việc dân sự trên.
Luật sư xác định thẩm quyền theo cấp của Tòa án giống như các loại
việc dân sự khác. Đối với thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ, Luật
sư sử dụng điểm b khoản 2 Điều 39 BLTTDS năm 2015 để xác định,

517
theo đó Tòa án nơi người bị yêu cầu thông báo tìm kiếm vắng mặt tại
nơi cư trú, bị yêu cầu tuyên bố mất tích hoặc là đã chết có nơi cư trú
cuối cùng.
Người có quyền yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại
nơi cư trú, tuyên bố một người mất tích, tuyên bố một người là đã
chết là người có quyền, lợi ích liên quan với người bị yêu cầu. Đó là
người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng với người vắng
mặt, hoặc liên quan đến các quan hệ dân sự, hành chính, lao động;
kinh doanh, thương mại như là người chủ nợ hoặc cho thuê tài sản,
cơ quan sử dụng lao động... Người yêu cầu có thể là cá nhân, cơ
quan, tổ chức.
Sau khi xác định được các tình tiết vụ việc, Luật sư xác định
các tài liệu, chứng cứ cần thiết người yêu cầu phải nộp kèm theo
đơn yêu cầu.

Ví dụ:
Cụ Trần Thị N sinh ngày 10/01/1920 có hộ khẩu thường trú tại
PB tập thể Kim Liên - quận Đống Đa - HN, có chồng là cụ Tôn Thất
K mất năm 1976 và có một con duy nhất là bà Tôn Phương L. Bà L
mất năm 1998 có chồng là Vũ Tuấn Kh; Bà L, ông Kh có 3 con là Vũ
Hải H, Vũ Tuấn P, Vũ Hải S.
Hiện ông Kh, anh P cư trú ở Thái Nguyên. Anh S đi lao động tại
Nhật Bản. Anh H nhập hộ khẩu ở cùng với cụ N (bà ngoại anh H) từ
năm 1998. Năm 2005, anh H lấy vợ và ở tại P3B tập thể Vĩnh Hồ.
Khoảng tháng 5/2010, cụ N bỏ nhà đi không rõ địa chỉ. Anh H đã
làm mọi thủ tục đăng tin tìm bà ngoại là cụ N trên các phương tiện
thông tin đại chúng nhưng đến nay vẫn chưa có tin tức của cụ N.
Anh muốn yêu cầu Toà án tuyên bố cụ N mất tích để tạo điều kiện
cho anh và gia đình được hưởng mọi quyền lợi của bà ngoại anh về
nhà thuê của Nhà nước tại PB tập thể Kim Liên và quản lý lương
hưu, tiền tuất của cụ N hiện Phòng Thương binh - Xã hội quận Đống
Đa đang quản lý; quản lý sổ công trái, sổ tiết kiệm mang tên cụ N.
Trong tình huống trên, anh H (người yêu cầu) có 2 yêu cầu:
- Yêu cầu tuyên bố cụ N mất tích.
- Quản lý tài sản của cụ N, gồm: nhà thuê của Nhà nước, quản lý

518
lương hưu, tiền tuất, quản lý sổ công trái, sổ tiết kiệm theo quy định
của pháp luật.
Vì vậy, Luật sư cần xác định các tài liệu, chứng cứ cần phải nộp
kèm theo đơn để Tòa án thụ lý yêu cầu, đó là:
- Các tài liệu chứng minh quyền yêu cầu của anh H.
- Các chứng cứ chứng minh các yêu cầu của anh H là có căn cứ,
cụ thể: chứng cứ chứng minh thời điểm cụ N mất, chứng cứ chứng
minh anh H hoặc những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (anh
Vũ Hải H, Vũ Tuấn P, Vũ Hải S) đã áp dụng các biện pháp tìm kiếm
cụ N mà không có kết quả.
- Chứng cứ chứng minh quyền thuê nhà PB tập thể Kim Liên
của cụ N, chứng cứ chứng minh cụ N có lương hưu, tiền tuất, sổ
tiết kiệm.

2.1.2. Kỹ năng chuẩn bị hồ sơ yêu cầu giải quyết việc dân sự


a) Kỹ năng soạn thảo đơn yêu cầu
Đơn yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú,
tuyên bố một người mất tích, tuyên bố một người là đã chết được soạn
thảo phải bảo đảm yêu cầu về hình thức và nội dung theo quy định tại
Điều 362 BLTTDS năm 2015. Về hình thức của đơn yêu cầu giống
hình thức đơn yêu cầu giải quyết các loại việc dân sự khác. Nội dung
đơn yêu cầu phải có đầy đủ các mục quy định tại khoản 2 Điều 362
BLTTDS năm 2015. Tuy nhiên, do đặc thù của các loại việc dân sự
trên, Luật sư cần lưu ý khi soạn thảo đơn theo mục d khoản 2
Điều 362 BLTTDS năm 2015 về những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án
giải quyết và lý do, mục đích, căn cứ của việc yêu cầu Tòa án giải
quyết việc dân sự đó. Luật sư trình bày về các tình tiết theo một trật tự
logic là căn cứ đưa ra yêu cầu và sắp xếp các yêu cầu theo thứ tự,
khoa học. Chẳng hạn, đối với yêu cầu tuyên bố một người mất tích và
quản lý tài sản cần trình bày theo thứ tự các nhóm tình tiết sau:
- Các tình tiết về mối quan hệ giữa người yêu cầu và người bị
yêu cầu tuyên bố mất tích.
- Các tình tiết về thời điểm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích
rời khỏi nơi cư trú (ngày, tháng, năm người bị yêu cầu tuyên bố mất
tích rời khỏi nơi cư trú).

519
- Các tình tiết, về việc người yêu cầu đã áp dụng đầy đủ các biện
pháp thông báo tìm kiếm đối với yêu cầu tuyên bố một người bị mất
tích (hoặc về việc đã có quyết định của Toà án thông báo tìm kiếm
người vắng mặt tại nơi cư trú).
- Các tình tiết xác định tình hình tài sản của người bị yêu cầu; cá
nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý tài sản của họ; danh sách những
người thân thích của người bị yêu cầu.
- Về yêu cầu: yêu cầu Tòa án tuyên bố ông (bà)… bị mất tích.
Nếu có yêu cầu quản lý tài sản của người bị yêu cầu thì trình bày rõ:
yêu cầu quản lý những tài sản cụ thể nào và yêu cầu giao cho ai quản
lý từng tài sản cụ thể.
b) Tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn yêu cầu
Tùy thuộc vào từng vụ việc, yêu cầu của khách hàng, Luật sư
xác định các loại tài liệu, chứng cứ cụ thể, phù hợp nộp kèm theo đơn
yêu cầu, là cơ sở để Tòa án thụ lý đơn yêu cầu. Trong hồ sơ yêu cầu
thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, yêu cầu tuyên bố
một người mất tích, tuyên bố một người là đã chết cùng với đơn yêu
cầu thông thường có các tài liệu, chứng cứ sau:
- Nhóm tài liệu, chứng cứ chứng minh tư cách pháp lý của người
yêu cầu. Nhóm tài liệu, chứng cứ này xác định tương tự trường hợp
yêu cầu tuyên bố một người bị mất năng lực hành vi dân sư, hạn chế
năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, điều khiển
hành vi.
- Các giấy tờ, tài liệu chứng minh quyền yêu cầu của người yêu
cầu: Đây là nhóm tài liệu, chứng cứ chứng minh giữa người yêu cầu
và người bị yêu cầu có sự liên quan về hôn nhân, huyết thống, nuôi
dưỡng hoặc có các quan hệ dân sự, hành chính, kinh tế, lao động.
- Các tài liệu, chứng cứ chứng minh thời điểm phát sinh quyền
yêu cầu; yêu cầu là có căn cứ và hợp pháp. Ví dụ, đối với yêu cầu
tuyên bố một người mất tích cần có các tài liệu, chứng cứ chứng minh
người bị yêu cầu tuyên bố mất tích đã biệt tích hai năm liền trở lên mà
không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết như
xác nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý hộ khẩu hoặc
của cơ quan đại điện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài về thời
điểm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích biệt tích; tài liệu, chứng cứ

520
chứng minh việc người yêu cầu đã áp dụng đầy đủ các biện pháp
thông báo tìm kiếm vắng mặt nơi cư trú nhưng vẫn không có tin tức
của người đó (Giấy xác nhận của các cơ quan báo chí, phát thanh hoặc
truyền hình về việc người đó đã đăng, phát tin tìm người vắng mặt…).
- Nếu có yêu cầu quản lý tài sản của người bị yêu cầu còn phải
có các tài liệu, chứng cứ chứng minh các tài sản thuộc quyền sở hữu,
sử dụng của người bị yêu cầu, danh sách những người đang quản lý tài
sản của họ (đối với việc dân sự yêu cầu thông báo tìm kiếm người
vắng mặt tại nơi cư trú, yêu cầu tuyên bố một người mất tích)
Các tài liệu, chứng cứ gửi kèm theo đơn yêu cầu thông báo tìm
kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, yêu cầu tuyên bố một người mất
tích, tuyên bố một người là đã chết ngoài việc phải đảm bảo tính đầy
đủ cũng phải bảo đảm tính hợp pháp. Tùy thuộc từng vụ việc, Luật sư
tư vấn cho người yêu cầu nộp hoặc thực hiện việc nộp hồ sơ yêu cầu
trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi qua đường bưu điện hoặc nộp trực tuyến.
2.2. Kỹ năng tham gia giai đoạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu
2.2.1. Kỹ năng thu thập, cung cấp bổ sung tài liệu, chứng cứ
Trong giai đoạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, trên cơ sở thông báo
giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ của Thẩm phán được phân công
giải quyết và việc xác định các tài liệu, chứng cứ cần phải có để giải
quyết yêu cầu, Luật sư xác định các tài liệu, chứng cứ cần thu thập bổ
sung, tư vấn cho khách hàng thu thập và cung cấp cho Tòa án. Tùy
thuộc vào trường hợp bảo vệ cho người yêu cầu; người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan cũng như ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan mà Luật sư thực hiện kỹ năng thu thập và cung cấp chứng
cứ phù hợp chứng minh cho yêu cầu, ý kiến của đương sự mà Luật sư
bảo vệ.
Do đặc thù của việc giải quyết loại việc dân sự thông báo tìm
kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, tuyên bố một người bị mất tích,
một người là đã chết nên trong thời gian chuẩn bị giải quyết đơn yêu
cầu, Tòa án đều phải ra quyết định thông báo tìm kiếm thông tin về
người bị yêu cầu. Đối với giải quyết việc dân sự thông báo tìm kiếm
người vắng mặt tại nơi cư trú, Tòa án ra quyết định thông báo tìm
kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú. Trường hợp giải quyết yêu cầu
tuyên bố một người bị mất tích, một người là đã chết, Tòa án ra quyết

521
định thông báo tìm kiếm thông tin về người bị yêu cầu tuyên bố một
người bị mất tích, là đã chết. Nội dung thông báo và việc công bố
thông báo được thực hiện theo quy định tại Điều 384 và Điều 385
BLTTDS năm 2015. Do phải thực hiện thủ tục thông báo tìm kiếm
người bị biệt tích trong giải quyết các loại việc dân sự trên nên Luật sư
tư vấn cho khách hàng về chi phí người yêu cầu có nghĩa vụ nộp để
thực hiện việc công bố thông báo trên báo hàng ngày của trung ương
và phát sóng trên Đài phát thanh hoặc Đài truyền hình của trung ương
theo đúng quy định tại Điều 385 BLTTDS năm 2015. Riêng đối với
thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người bị mất tích, một người
là đã chết, thời hạn thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất
tích, một người là đã chết là 04 tháng, kể từ ngày đăng, phát thông báo
lần đầu tiên nên thời hạn giải quyết hai loại việc này tương đối dài.
Luật sư tư vấn, xác định trước cho khách hàng về thủ tục, thời hạn để
họ có sự chuẩn bị về thời gian, tâm lý.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu, nếu có các căn cứ tạm
đình chỉ, đình chỉ giải quyết các việc dân sự, Luật sư tư vấn cho
đương sự đề nghị Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải
quyết việc dân sự.
2.2.2. Chuẩn bị bản trình bày yêu cầu, ý kiến phát biểu trong
phiên họp giải quyết việc dân sự sơ thẩm
Tại phiên họp giải quyết việc dân sự, người yêu cầu trình bày về
những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết, lý do, mục đích và căn
cứ của yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, yêu
cầu tuyên bố một người mất tích, tuyên bố một người là đã chết;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải trình bày ý kiến về yêu
cầu và căn cứ.
Về phương pháp soạn thảo dự thảo bản trình bày yêu cầu hoặc ý
kiến bảo vệ quyền lợi cho đương sự khi tham gia thủ tục giải quyết
việc dân sự tuyên bố một người mất tích, tuyên bố một người là đã
chết, Luật sư cũng xây dựng theo ba phần: phần mở đầu, phần nội
dung và phần đề xuất. Trong bản trình bày yêu cầu, ý kiến của đương
sự, Luật sư tập trung phân tích những căn cứ đề nghị Tòa án chấp
nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu cụ thể của người yêu cầu; ý kiến,
đề nghị của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Khi phân tích các
căn cứ, Luật sư đánh giá, sử dụng tài liệu chứng cứ thực tế trong việc

522
dân sự, kết hợp với viện dẫn, phân tích quy định của pháp luật nội
dung, tố tụng để đưa ra kết luận cụ thể về từng vấn đề cần phải giải
quyết trong các loại việc dân sự này như: quyền yêu cầu thông báo tìm
kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, yêu cầu tuyên bố một người mất
tích, tuyên bố một người là đã chết của người yêu cầu; thời điểm phát
sinh quyền yêu cầu; các tài liệu, chứng cứ về việc Tòa án thực hiện
thủ tục thông báo tìm kiếm thông tin của người bị yêu cầu; các tài liệu
chứng cứ chứng minh tình hình tài sản, người đang quản lý tài sản của
người bị yêu cầu, danh sách người thân thích của người bị yêu cầu
(nếu có yêu cầu quản lý tài sản của người bị yêu cầu).
Về luật áp dụng giải quyết các yêu cầu thông báo tìm kiếm
người vắng mặt tại nơi cư trú, yêu cầu tuyên bố một người mất tích,
tuyên bố một người là đã chết, Luật sư chú ý sử dụng, viện dẫn, phân
tích các điều luật trực tiếp quy định về giải quyết các loại việc dân sự
này. Các Điều 64 BLDS năm 2015, Điều 381, 382, 383, 384, 385
BLTTDS năm 2015 cần được sử dụng để viện dẫn đề nghị Tòa án
chấp nhận (không chấp nhận) yêu cầu Tòa án thông báo tìm kiếm
người vắng mặt tại nơi cư trú; nếu có yêu cầu quản lý tài sản của
người bị yêu cầu, Luật sư sử dụng thêm các điều 65, 66, 67 BLDS
năm 2015. Đối với thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người bị
mất tích, Luật sư cần sử dụng Điều 68 BLDS năm 2015; Điều 385,
387, 388, 389 BLTTDS năm 2015; nếu có yêu cầu quản lý tài sản cần
sử dụng, viện dẫn thêm các điều 69, 71 BLDS năm 2015; Điều 385,
388, 391, 392, 393 BLTTDS năm 2015 cần được sử dụng, viện dẫn
khi yêu cầu tuyên bố một người đã chết.
Phân tích, tập luận trong bản trình bày ngắn gọn, chặt chẽ có căn
cứ pháp lý và căn cứ thực tế. Trên cơ sở phân tích, lập luận về căn cứ
của yêu cầu, Luật sư đề nghị Tòa án áp dụng luật nội dung, tố tụng
chấp nhận, không chấp nhận từng yêu cầu cụ thể.
2.3. Kỹ năng tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự
Kỹ năng tham gia phiên họp bảo vệ quyền lợi cho khách hàng
trong thủ tục giải quyết việc dân sự thông báo tìm kiếm người vắng
mặt tại nơi cư trú, yêu cầu tuyên bố một người mất tích, tuyên bố một
người là đã chết thực hiện tương tự như tham gia thủ tục giải quyết
các việc dân sự khác. Tại phiên họp, Luật sư cần có kỹ năng xử lý tình

523
huống và đặc biệt là thực hiện kỹ năng trình bày yêu cầu, ý kiến của
đương sự trong việc dân sự.
Trường hợp bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu, Luật sư trình
bày căn cứ của yêu cầu và đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu thông
báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, yêu cầu tuyên bố một
người mất tích, tuyên bố một người là đã chết. Trường hợp bảo vệ
quyền lợi cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Luật sư trình
bày ý kiến về những vấn đề có liên quan đến quyền, nghĩa vụ của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc giải quyết việc dân
sự. Ý kiến đó có thể là đề nghị Tòa án chấp nhận hoặc không chấp
nhận yêu cầu của người yêu cầu (tùy thuộc vào mong muốn của
khách hàng và việc đánh giá, sử dụng tài liệu, chứng cứ trong từng
việc dân sự cụ thể). Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan thống nhất với yêu cầu của người yêu cầu thì Luật sư trình bày
thống nhất với trình bày của người yêu cầu nhưng nếu đề nghị Tòa
án không chấp nhận yêu cầu, Luật sư phải trình bày được các căn cứ
của việc không chấp nhận. Theo đó, nội dung trình bày cần chia
thành những căn cứ đã thống nhất và không thống nhất với các căn
cứ người yêu cầu đưa ra và cuối cùng là đề nghị Tòa án áp dụng
pháp luật tố tụng, nội dung không chấp nhận từng yêu cầu cụ thể của
người yêu cầu.

Ví dụ:
Anh A và chị B kết hôn hợp pháp, do mâu thuẫn vợ chồng, chị B bỏ
nơi cư trú tại phường T, quận Đ, thành phố H từ ngày 12/5/2013.
Ngày 04/6/2015, anh A yêu cầu tuyên bố chị B mất tích. Bố mẹ chị B
là ông N, bà M tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan. Trong quá trình giải quyết việc dân sự, ông N và
bà M xuất trình được chứng cứ chứng minh chị M đã nhiều lần gửi
thư cho bố mẹ có nội dung chị B đang cư trú ở phường X, thị xã C, tỉnh
P. UBND phường X đã có xác nhận chị B có cư trú ở phường X.
Trong trường hợp này, bảo vệ cho ông N, bà M, Luật sư trình bày
thống nhất với căn cứ của người yêu cầu về quyền yêu cầu, thời
điểm phát sinh quyền yêu cầu của người yêu cầu; về việc áp dụng
biện pháp tìm kiếm chị B. Về căn cứ không thống nhất với căn cứ
của người yêu cầu, Luật sư đánh giá, sử dụng chứng cứ là nội dung
các bức thư chị B gửi cho ông N, bà M và xác nhận chị B đang cư

524
trú ở phường X, thị xã C và viện dẫn Điều 68 BLDS năm 2015,
khoản 2 Điều 387 BLTTDS năm 2015 phân tích, lập luận và kết luận
yêu cầu của người yêu cầu không có căn cứ, từ đó đề nghị Tòa án
không chấp nhận yêu cầu tuyên bố chị B mất tích.

Luật sư cần chú ý từng việc dân sự cụ thể có những vấn đề thống
nhất và không thống nhất của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
để trình bày phù hợp. Chẳng hạn, ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan có thể là thống nhất với yêu cầu thông báo tìm kiếm
người vắng mặt tại nơi cư trú, tuyên bố một người mất tích nhưng lại
không thống nhất về đối với yêu cầu quản lý tài sản của người bị yêu
cầu. Hoặc là, bên đương sự là người yêu cầu có yêu cầu được quản lý
tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú. Đánh giá tài liệu, chứng cứ
trong hồ sơ, xác định tài sản không thuộc quyền sở hữu của người
vắng mặt tại nơi cư trú, sau khi trao đổi với khách hàng, Luật sư bảo
vệ quyền lợi cho bên đương sự là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan phân tích, lập luận kết luận tài sản người yêu cầu yêu cầu quản lý
không thuộc quyền sở hữu của người vắng mặt tại nơi cư trú, đề nghị
Tòa án không chấp nhận yêu cầu này.
Trong quá trình diễn ra phiên họp, Luật sư phải hết sức tập trung
vào công việc, lắng nghe, ghi chép phần trình bày của tất cả những
người tham gia phiên họp và cũng cần chú ý đến tình tiết, chứng cứ
mới xuất hiện tại phiên họp. Qua việc ghi chép, nếu thấy có những
tình tiết, chứng cứ còn thiếu hoặc mới được bổ sung tại phiên họp thì
khi trình bày yêu cầu hoặc ý kiến, Luật sư sử dụng nội dung bản trình
bày đã soạn thảo trước đó đồng thời trình bày bổ sung những tình tiết,
đánh giá các tài liệu, chứng cứ mới để làm căn cứ cho các yêu cầu, ý
kiến đề nghị.
Ví dụ, bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu khi tham gia việc dân
sự yêu cầu tuyên bố một người mất tích, bắt phần trình bày, Luật sư có
thể trình bày như sau: “Kính thưa chủ tọa phiên họp, thưa vị đại diện
Viện kiểm sát, tôi là Nguyễn Văn A, là Luật sư thuộc văn phòng Luật
sư T, đoàn Luật sư tỉnh N, tôi tham gia phiên họp giải quyết việc dân
sự ngày hôm nay với tư cách là người bảo vệ quyền lợi cho ông Lê
Văn H, là người yêu cầu trong việc dân sự: yêu cầu tuyên bố bà Trần
Thị C bị mất tích. Thay mặt ông H, tôi xin trình bày yêu cầu và căn cứ
yêu cầu của ông H như sau…”.

525
Sau đó, Luật sư tiếp tục trình bày phần nội dung. Phần này, Luật
sư trình bày căn cứ của yêu cầu và yêu cầu; ý kiến đề nghị của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (tùy thuộc vào việc Luật sư bảo vệ
quyền lợi cho người yêu cầu hoặc người có liên quan). Luật sư cần
trình bày được tình tiết, đánh giá, sử dụng chứng cứ và viện dẫn, phân
tích luật theo một trật tự khoa học, logic để kết luận về từng vấn đề
cần giải quyết và yêu cầu.
Ví dụ, trong trường hợp bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu
trong thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích, Luật sư
trình bày:
- Các tình tiết, đánh giá các tài liệu, chứng cứ chứa đựng trong
các nguồn chứng cứ như giấy chứng nhận kết hôn, giấy khai sinh…
và viện dẫn, phân tích luật nội dung (Luật HN&GĐ; BLDS, Điều 387
BLTTDS năm 2015) chứng minh mối quan hệ giữa người yêu cầu;
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với người bị yêu cầu, từ đó kết
luận về quyền yêu cầu của người yêu cầu.
- Các tình tiết, kết hợp với đánh giá, sử dụng các tài liệu, chứng
cứ trong hồ sơ và quy định của pháp luật kết luận yêu cầu tuyên bố
một người mất tích là có căn cứ. Các tài liệu chứng cứ chứng minh
cần đánh giá, sử dụng là tài liệu chứng cứ chứng minh người yêu cầu
đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu
nhưng không có tin tức; xác nhận của cơ quan quản lý hộ khẩu về thời
điểm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích rời khỏi nơi cư trú; trình tự,
thủ tục Tòa án ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị tuyên bố
mất tích theo đúng quy định của pháp luật tố tụng (thời điểm ra quyết
định, thời điểm mở phiên họp). Đồng thời, Luật sư viện dẫn Điều 68
BLDS năm 2015; Điều 387, 388, 389 BLTTDS năm 2015 là căn cứ
pháp lý đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu tuyên bố một người mất
tích. Trường hợp có yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp quản lý tài sản
của người bị tuyên bố mất tích, Luật sư đánh giá tài liệu, chứng cứ
chứng minh quyền sở hữu, sử dụng từng tài sản của người bị yêu cầu,
người có quyền quản lý tài sản theo quy định tại Điều 68 BLDS
năm 2015 và viện dẫn thêm nội dung Điều 69 BLDS năm 2015 đề
nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu quản lý tài sản, giao cho đương sự
quản lý từng tài sản cụ thể của người bị yêu cầu.

526
Sau khi trình bày căn cứ của yêu cầu, đề nghị Luật sư đưa ra đề
xuất Tòa án áp dụng cụ thể điểm, khoản, điều luật của văn bản quy
phạm pháp luật chấp nhận yêu cầu; không chấp nhận yêu cầu (trường
hợp bảo vệ cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có ý kiến không
đồng ý với yêu cầu của người yêu cầu). Ví dụ, bảo vệ cho người yêu
cầu khi tham gia thủ tục thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư
trú, cần trình bày đề nghị Tòa án áp dụng Điều 64 BLDS năm 2015,
Điều 381 BLTTDS năm 2015 chấp nhận yêu cầu thông báo tìm kiếm
ông Nguyễn Văn A vắng mặt tại nơi cư trú, ra quyết định thông báo tìm
kiếm ông Nguyễn Văn A vắng mặt tại nơi cư trú.
Đối với việc dân sự tuyên bố một người mất tích; thông báo tìm
kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, nếu có yêu cầu Tòa án áp dụng
biện pháp quản lý tài sản của người vắng mặt tại nơi cư trú; người bị
tuyên bố mất tích thì trong đề xuất, Luật sư cần đề xuất Tòa án quyết
định áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người đó theo quy định của
BLDS năm 2015. Tham gia việc dân sự tuyên bố một người là đã chết,
ngoài đề xuất Tòa án chấp nhận yêu cầu tuyên bố một người đã chết,
Luật sư còn cần đề nghị Tòa án xác định ngày chết của người đó và
hậu quả pháp lý của việc tuyên bố một người là đã chết theo quy định
của BLDS năm 2015.
3. Kỹ năng tham gia thủ tục giải quyết yêu cầu công nhận
thuận tình ly hôn
3.1. Kỹ năng tiếp xúc, trao đổi với khách hàng và chuẩn bị hồ
sơ khởi kiện
3.1.1. Kỹ năng tiếp xúc, trao đổi với khách hàng
Tiếp xúc, trao đổi với khách hàng khi tham gia thủ tục giải quyết
yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, Luật sư cần nhận diện được đặc
thù thủ tục giải quyết việc dân sự về thuận tình ly hôn, từ đó tư vấn
cho khách hàng giải quyết việc ly hôn của họ phù hợp, đúng pháp luật.
Thuận tình ly hôn là trường hợp ly hôn theo yêu cầu của cả hai vợ
chồng khi đã thỏa thuận, thống nhất được việc giải quyết tất cả những
vấn đề trong quan hệ HN&GĐ: thỏa thuận được việc ly hôn; nuôi con,
cấp dưỡng nuôi con (nếu có) và chia tài sản (nếu có). Yêu cầu công
nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn
quy định tại khoản 2 Điều 29 BLTTDS năm 2015. Thủ tục giải quyết
yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn quy định cụ thể tại Điều 396, 397

527
BLTTDS năm 2015 và các quy định khác của BLTTDS năm 2015.
Theo quy định tại Điều 55 Luật HN & GĐ năm 2014 thì: “Trong
trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự
tự nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom,
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi
chính đáng của vợ và con thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu
không thỏa thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không bảo đảm
quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn”.
Như vậy, điều kiện để Tòa án thụ lý đơn yêu cầu công nhận thuận tình
ly hôn là trường hợp vợ chồng cùng tự nguyện ly hôn và đã thoả thuận
về việc chia hoặc không yêu cầu chia tài sản; thỏa thuận được việc
trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con (nếu có). Nội dung
thỏa thuận của vợ chồng không vi phạm điều cấm của pháp luật và
bảo đảm được quyền lợi chính đáng của vợ và con khi ly hôn.
Tiếp xúc, trao đổi với khách hàng khi họ có yêu cầu công nhận
thuận tình ly hôn, Luật sư lắng nghe trình bày của khách hàng, kết hợp
với hỏi, xác định và phân tích tài liệu, chứng cứ khách hàng cung cấp.
Từ đó, xác định các tình tiết của vụ việc, yêu cầu của khách hàng.
Trên cơ sở đó Luật sư xác định các điều kiện yêu cầu công nhận thuận
tình ly hôn. Xác định các tình tiết trong loại việc yêu cầu công nhận
thuận tình ly hôn xuất phát từ đặc thù của loại việc HN&GĐ này. Đó
là các tình tiết xác định tính hợp pháp của quan hệ hôn nhân; con
chung, tài sản chung, tài sản riêng (nếu có); ý chí của vợ chồng đối
với việc giải quyết quan hệ hôn nhân, nuôi con và tài sản khi ly hôn.
Để xác định chính xác tính hợp pháp quan hệ hôn nhân Luật sư căn cứ
vào quy định của pháp luật HN&GĐ và các tài liệu, chứng cứ khách
hàng cung cấp. Đối với trường hợp vợ chồng có giấy chứng nhận kết
hôn, việc xác định hôn nhân hợp pháp không có sự khó khăn. Song,
trường hợp vợ chồng không có giấy chứng nhận kết hôn, Luật sư cần
xác định rõ thời điểm chung sống của họ và tình trạng chung sống để
xác định quan hệ hôn nhân của họ có được Tòa án công nhận không.
Nếu đáp ứng các điều kiện công nhận quan hệ hôn nhân theo quy định
của pháp luật HN&GĐ mới được quyền yêu cầu công nhận thuận tình
ly hôn. Trường hợp không đủ điều kiện công nhận quan hệ hôn nhân,
Luật sư tư vấn cho khách hàng theo thủ tục giải quyết vụ án không
công nhận quan hệ vợ chồng. Đồng thời, Luật sư cần xác định các tình
tiết về căn cứ ly hôn (tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể

528
kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được); các tình tiết về con
chung, riêng (nếu có); tài sản chung (nếu có); tài sản riêng (nếu có);
về nợ chung, nợ riêng và thỏa thuận của vợ chồng; người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan về giải quyết nợ (nếu có). Do giải quyết theo
thủ tục việc HN&GĐ công nhận thuận tình ly hôn, vợ và chồng phải
thống nhất thỏa thuận giải quyết được tất cả các mối quan hệ: hôn
nhân; quan hệ nuôi con chung, quan hệ về tài sản, nên Luật sư chỉ tư
vấn cho khách hàng yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn khi có đủ các
điều kiện này, nếu có tranh chấp về một vấn đề trên thì cần tư vấn cho
khách hàng thủ tục giải quyết vụ án ly hôn. Tùy thuộc vào từng trường
hợp cụ thể, khách hàng có thể chỉ yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn
hoặc có thể yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn và công nhận thỏa
thuận nuôi con hoặc đồng thời có cả ba yêu cầu: công nhận thuận tình
ly hôn; công nhận thỏa thuận nuôi con; thỏa thuận về việc chia tài sản
khi ly hôn.
Về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ, Luật sư sử dụng điểm h
khoản 2 Điều 39 BLTTDS năm 2015 để xác định và tư vấn cho
khách hàng về Tòa án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu của họ và
soạn thảo đơn yêu cầu cũng như chuẩn bị tài liệu nộp kèm theo đơn
yêu cầu. Theo đó, Tòa án nơi một trong các bên thuận tình ly hôn,
thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn cư trú, làm việc có thẩm
quyền giải quyết.
3.1.2. Kỹ năng soạn thảo đơn yêu cầu công nhận thuận tình
ly hôn
Đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, Luật sư soạn thảo cần
đảm bảo yêu cầu về hình thức và nội dung theo quy định tại Điều 362
BLTTDS năm 2015. Về hình thức, đơn yêu cầu công nhận thuận tình
ly hôn phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của cả hai vợ chồng. Đây là đặc
trưng pháp lý về hình thức đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn
khác với đơn yêu cầu việc dân sự khác. Đối với các việc dân sự khác,
chỉ cần một người có quyền yêu cầu việc dân sự và người này có đủ
năng lực hành vi tố tụng dân sự ký vào đơn yêu cầu Tòa án giải quyết
việc dân sự. Còn đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn thì bắt buộc
cả hai vợ, chồng phải cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Vợ, chồng trong
trường hợp này cùng có tư cách là người yêu cầu khi tham gia tố tụng.
Vì vậy, nếu đơn yêu cầu chỉ có chữ ký (điểm chỉ) của một bên vợ hoặc
chồng thì phải yêu cầu giải quyết theo thủ tục vụ án ly hôn.
529
Về nội dung, đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn phải ghi
cụ thể các mục giống đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự khác. Đồng
thời, Luật sư soạn thảo các nội dung phù hợp với đặc thù của yêu cầu
công nhận thuận tình ly hôn, cụ thể: Chỉ trong trường hợp đơn yêu cầu
công nhận thuận tình ly hôn thể hiện được sự thỏa thuận cụ thể của cả
vợ và chồng đối với tất cả các vấn đề về quan hệ hôn nhân, nuôi con
(nếu có); tài sản (nếu có) thì Tòa án mới thụ lý giải quyết theo thủ tục
giải quyết việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn. Vì vậy, tại mục d
khoản 2 Điều 362 BLTTDS năm 2015 về những vấn đề cụ thể yêu cầu
Tòa án giải quyết và lý do, mục đích, căn cứ của việc yêu cầu công
nhận thuận tình ly hôn, Luật sư cần trình bày về các tình tiết, thỏa
thuận và yêu cầu của vợ chồng về từng quan hệ theo một trật tự logic.
Cụ thể, Luật sư trình bày như sau:
- Các tình tiết về thời điểm kết hôn, xác định tính hợp pháp của
quan hệ hôn nhân, quá trình chung sống; mâu thuẫn vợ chồng, nguyên
nhân mâu thuẫn; tình trạng trầm trọng của quan hệ hôn nhân; thỏa
thuận về việc ly hôn của vợ chồng.
- Các tình tiết, về con chung: họ, tên; ngày tháng năm sinh của
từng con (nếu có); hiện con chung đang trực tiếp do ai nuôi dưỡng; về
con riêng (nếu có); thỏa thuận của vợ chồng về nuôi con và cấp dưỡng
nuôi con.
- Các tình tiết, thỏa thuận cụ thể về việc phân chia từng loại tài
sản chung của vợ chồng (nếu có); quyền tài sản (nếu có): bất động
sản, động sản, tài sản riêng của mỗi bên (nếu có).
- Các tình tiết, thỏa thuận của vợ chồng về phân chia nghĩa vụ
dân sự của vợ chồng. Ví dụ, nợ chung (nếu có), nợ riêng (nếu có); sự
đồng ý của người có quyền đối với việc thỏa thuận phân chia nghĩa vụ
của vợ và chồng.
- Về yêu cầu: ghi rõ thỏa thuận cụ thể của vợ chồng về các quan
hệ phải giải quyết: (1) quan hệ hôn nhân; (2) quan hệ về con; (3) quan
hệ về tài sản.
Về quan hệ hôn nhân (1) ghi rõ yêu cầu công nhận thuận tình ly
hôn. Đối với quan hệ (2), ghi rõ yêu cầu giao từng con cho ai nuôi
dưỡng, trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con, mức cấp dưỡng, phương thức
cấp dưỡng. Đối với quan hệ (3), ghi rõ yêu cầu Tòa án giao quyền sở

530
hữu, sử dụng của mỗi bên vợ (chồng) về từng tài sản chung; hoặc
trường hợp không yêu cầu Tòa án giải quyết quan hệ tài sản thì cũng
cần ghi rõ.
* Các tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn yêu cầu
Việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn có các nhóm tài liệu,
chứng cứ mang tính đặc thù. Tùy thuộc vào từng vụ việc, yêu cầu của
khách hàng, Luật sư xác định các loại tài liệu, chứng cứ cụ thể, phù
hợp, cụ thể:
- Nhóm tài liệu, chứng cứ chứng minh tư cách pháp lý của người
yêu cầu. Do đây là yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn nên người yêu
cầu chỉ có thể là cá nhân vợ và chồng mà không thể là cơ quan, tổ
chức. Vì vậy, phải có các giấy tờ chứng minh tư cách cá nhân của vợ,
chồng: chứng minh thư/thẻ căn cước, sổ hộ khẩu (hoặc tài liệu về nơi
cư trú, làm việc).
- Các giấy tờ, tài liệu chứng minh quyền yêu cầu công nhận
thuận tình ly hôn; chứng minh yêu cầu là có căn cứ:
+ Các giấy tờ, tài liệu chứng minh quyền yêu cầu công nhận
thuận tình ly hôn là các tài liệu, chứng cứ chứng minh quan hệ hôn
nhân của vợ chồng là hợp pháp như giấy chứng nhận kết hôn hoặc
(giấy tờ hợp lệ khác thay thế); giấy tờ, tài liệu xác nhận thời gian
chung sống (trường hợp vợ chồng không có giấy chứng nhận kết hôn)
đối với trường hợp chung sống trước ngày 03/01/1987.
+ Các giấy tờ, tài liệu chứng minh yêu cầu là có căn cứ: tuỳ
thuộc vào yêu cầu của đương sự mà xác định nhóm tài liệu, chứng cứ
này yêu cầu có sự phù hợp, cụ thể:
i) Nếu chỉ yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về ly hôn (trong
trường hợp vợ chồng không có con chung chưa thành niên, hoặc con
đã thành niên không thuộc trường hợp phải nuôi dưỡng và vợ chồng
không có tài sản chung hoặc có tài sản chung nhưng không yêu cầu
Tòa án giải quyết) thì chỉ cần tài liệu, chứng cứ chứng minh việc xác
lập tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp của vợ chồng như giấy chứng
nhận kết hôn (hoặc tài liệu, chứng cứ khác chứng minh quan hệ hôn
nhân hợp pháp).
ii) Trường hợp yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về ly hôn và yêu
cầu nuôi con chung thì ngoài tài liệu, chứng cứ chứng minh quan hệ

531
hôn nhân hợp pháp của vợ chồng còn có các tài liệu, chứng cứ chứng
minh về quan hệ con chung như giấy khai sinh của các con...
+ Trường hợp có cả 03 yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về ly
hôn, nuôi con và chia tài sản thì ngoài tài liệu, chứng cứ chứng minh
quan hệ hôn nhân hợp pháp của vợ chồng và tài liệu, chứng cứ chứng
minh quan hệ con chung trên còn có các tài liệu, chứng cứ chứng
minh quyền sở hữu, sử dụng tài sản của vợ chồng như giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà ở; hợp đồng mua bán tài sản...
Các tài liệu, chứng cứ gửi kèm theo đơn yêu cầu công nhận
thuận tình ly hôn phải đảm bảo tính đầy đủ và tính hợp pháp. Việc nộp
hồ sơ yêu cầu cũng được thực hiện theo phương thức nộp trực tiếp tại
Tòa án, gửi qua đường bưu điện hoặc nộp trực tuyến.
3.2. Kỹ năng tham gia tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét đơn
yêu cầu
3.2.1. Kỹ năng thu thập, cung cấp bổ sung chứng cứ và tham gia
phiên hòa giải
Giai đoạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn,
Luật sư sẽ xác định các tài liệu, chứng cứ cần thu thập bổ sung tư vấn
cho khách hàng cung cấp cho Tòa án để chứng minh cho yêu cầu. Các
tài liệu, chứng cứ phải đủ để chứng minh thỏa thuận của các bên là
hợp pháp và có căn cứ. Luật sư cần chú ý, thỏa thuận của vợ chồng về
việc chia tài sản; việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con
trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của con mới được Tòa án
công nhận. Luật sư thực hiện kỹ năng thu thập, cung cấp bổ sung tài
liệu, chứng cứ trên cơ sở xác định chứng cứ cần phải có để giải quyết
yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn và thông báo của Tòa án yêu cầu
giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ.
Trường hợp đương sự có yêu cầu nuôi con chung từ đủ 7 tuổi trở
lên, Luật sư cần lưu ý 2 vấn đề:
Thứ nhất, theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật HN&GĐ
năm 2014 thì vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa
vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu con từ đủ 7 tuổi
trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Chính vì vậy, do đặc
thù của việc giải quyết loại việc dân sự yêu cầu công nhận thuận tình
ly hôn nên trong trường hợp các đương sự có yêu cầu nuôi con từ đủ 7

532
tuổi trở lên, Tòa án phải lấy lời khai của con. Vấn đề này trước đây đã
được Công văn số 61/2002/KHXX ngày 20/5/2002 của TANDTC về
việc công nhận thuận tình ly hôn hướng dẫn: sự thỏa thuận của vợ
chồng về việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con phải
trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của con. Theo hướng dẫn
này, nếu hỏi ý kiến của con mà nguyện vọng của con phù hợp với thỏa
thuận của vợ chồng thì đây là cơ sở để Tòa án giải quyết theo thủ tục
việc HN&GĐ yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn. Thẩm phán lập
biên bản, ghi lại ý kiến của con, lưu trong hồ sơ việc dân sự. Nếu hỏi ý
kiến của con mà nguyện vọng của con khác với sự thỏa thuận của vợ
chồng thì theo hướng dẫn tại Công văn số 61/2002/KHXX, Tòa án
phải đưa vụ án ra xét xử và quyết định giao con cho ai nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục. Như vậy, áp dụng nội dung hướng dẫn này vào
thời điểm hiện nay nếu trường hợp nguyện vọng của con khác với sự
thỏa thuận của vợ chồng, Tòa án không thể giải quyết theo thủ tục
việc HN&GĐ yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn. Do đó, trường hợp
này Luật sư cần tư vấn cho các đương sự thỏa thuận lại việc nuôi con
phù hợp với nguyện vọng của con. Trường hợp không thỏa thuận
được cần tư vấn khách hàng rút đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly
hôn, hướng dẫn đương sự khởi kiện vụ án ly hôn.
Thứ hai, trường hợp con dưới 36 tháng tuổi, về nguyên tắc được
giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, tuy nhiên trường hợp người mẹ
không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,
giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác đảm bảo được lợi ích tốt
nhất con thì Luật sư cần tư vấn các bên thỏa thuận giao cho người cha
nuôi dưỡng.
Trong quá trình chuẩn bị xét đơn yêu cầu công nhận thuận tình
ly hôn có thể có trường hợp các đương sự thay đổi thỏa thuận. Nếu vợ
chồng thay đổi sự thoả thuận (một phần hay toàn bộ) bằng một thỏa
thuận mới thì Tòa án tiếp tục giải quyết theo thủ tục việc HN&GĐ yêu
cầu công nhận thuận tình ly hôn. Trong trường hợp này, Luật sư cần
giúp khách hàng soạn thảo “đơn đề nghị thay đổi thỏa thuận của vợ
chồng về việc thuận tình ly hôn”. Trong đơn cần trình bày cụ thể sự
thay đổi thỏa thuận về nuôi con, chia tài sản với thỏa thuận ban đầu
trong đơn yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn và đề nghị Tòa án công
nhận sự thỏa thuận mới, cụ thể của các đương sự. Hoặc Luật sư cũng
có thể tư vấn cho đương sự đề nghị Thẩm phán được phân công giải

533
quyết lập biên bản trực tiếp ghi lời trình bày ý kiến của vợ chồng về
sự thay đổi, nội dung sự thay đổi từng thỏa thuận cụ thể của họ.
Trường hợp một hoặc các bên thay đổi sự thỏa thuận (một phần hoặc
toàn bộ) nhưng không thỏa thuận được về một trong các vấn đề về
nuôi con, chia tài sản và có tranh chấp thì điều kiện để Tòa án giải
quyết theo thủ tục việc dân sự công nhận thuận tình ly hôn không bảo
đảm, Luật sư tư vấn cho khách hàng rút đơn yêu cầu công nhận thuận
tình ly hôn và khởi kiện vụ án ly hôn.
Theo quy định tại Điều 397 BLTTDS năm 2015: trường hợp hòa
giải đoàn tụ không thành và các đương sự không thỏa thuận được về
việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục
con thì Tòa án đình chỉ giải quyết việc dân sự về công nhận thuận
tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và thụ lý vụ
án ly hôn để giải quyết. Vì vậy, khi Tòa án đình chỉ giải quyết việc
dân sự về công nhận thuận tình ly hôn, Luật sư cần lưu ý tư vấn cho
khách hàng việc giải quyết ly hôn của họ chuyển sang giải quyết theo
thủ tục vụ án ly hôn nên họ không phải thực hiện lại thủ tục khởi
kiện vụ án ly hôn.
Theo quy định tại Điều 10 BLTTDS năm 2015 về nguyên tắc
hòa giải trong tố tụng dân sự thì: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành
hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với
nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”.
Như vậy, BLTTDS năm 2015 không giới hạn thủ tục hòa giải chỉ áp
dụng trong quá trình giải quyết vụ án mà còn có thể áp dụng trong thủ
tục giải quyết việc dân sự và cụ thể là áp dụng đối với giải quyết việc
HN&GĐ về yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn. Điều 397 BLTTDS
đã quy định rõ hòa giải là một thủ tục bắt buộc phải thực hiện khi giải
quyết yêu cầu Tòa án công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi
con, chia tài sản khi ly hôn. Đối với việc thuận tình ly hôn, hòa giải là
cần thiết nhằm giúp các đương sự trở về đoàn tụ, có ý nghĩa quan
trọng trong việc đảm bảo lợi ích vợ chồng, con và xã hội. Luật sư với
tư cách là người bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự là một thành
phần tham gia phiên hòa giải. Để tham gia phiên hòa giải đạt hiệu quả,
Luật sư cần xây dựng phương án hòa giải: có thể đó là phương án hòa
giải đoàn tụ thành hoặc hòa giải đoàn tụ không thành. Luật sư dự kiến
trong trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành thì sự thỏa thuận của
vợ chồng từng vấn đề cụ thể như thế nào về ly hôn, nuôi con, chia tài

534
sản. Các thỏa thuận này phải cụ thể, đảm bảo quyền lợi chính đáng
của vợ, con và bảo đảm việc thi hành án. Luật sư cần trao đổi, tư vấn
cho khách hàng về quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ
và con, giữa các thành viên khác trong gia đình, về trách nhiệm cấp
dưỡng và các vấn đề khác trong đến quan hệ hôn nhân, gia đình và các
lợi ích của việc hòa giải đoàn tụ thành. Tại phiên hòa giải, Luật sư có
thể thay mặt khách hàng trình bày về mong muốn, nguyện vọng, yêu
cầu của khách hàng. Trường hợp sau khi hòa giải đoàn tụ thành, Luật
sư giúp khách hàng soạn thảo đơn rút yêu cầu công nhận thuận tình ly
hôn, nuôi con, chia tài sản. Đơn này sẽ là căn cứ để Thẩm phán ra
quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn
của vợ chồng. Trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành, Luật sư có
thể thay mặt khách hàng trình bày phương án thỏa thuận cụ thể về yêu
cầu ly hôn; về nuôi con, trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con và về việc
chia tài sản.
3.2.2. Chuẩn bị bản trình bày yêu cầu, ý kiến phát biểu trong
phiên họp giải quyết việc dân sự sơ thẩm
Trong trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành, Tòa án ra quyết
định mở phiên họp giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn.
Tại phiên họp, Luật sư thực hiện kỹ năng trình bày về những vấn đề
cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết, lý do, mục đích và căn cứ của yêu
cầu giống như tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự nói chung.
Do vậy, Luật sư chuẩn bị bản trình bày yêu cầu công nhận thuận tình
ly hôn, nuôi con (nếu có), chia tài sản khi ly hôn (nếu có). Bản trình
bày yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn cũng soạn thảo theo ba phần:
phần mở đầu, phần nội dung và phần đề xuất.
Trong bản trình bày yêu cầu của đương sự, Luật sư phân tích các
căn cứ đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn,
nuôi con (nếu có), chia tài sản (nếu có). Khi phân tích các căn cứ, Luật
sư đánh giá, sử dụng chứng cứ chứng minh quan hệ hôn nhân hợp
pháp, căn cứ ly hôn, các thỏa thuận bảo đảm quyền lợi của vợ, con
(chưa thành niên, đã thành niên mà không có khả năng lao động) về
việc chia tài sản (nếu có); việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục con (nếu có); thỏa thuận về các nghĩa vụ tài sản của vợ chồng
(nếu có). Đồng thời Luật sư kết hợp với viện dẫn, phân tích quy định
của pháp luật HN&GĐ, BLTTDS năm 2015 đề xuất Tòa án công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự về việc ly hôn; về giao con cho từng
535
bên đương sự nuôi dưỡng, về cấp dưỡng nuôi con cụ thể của đương
sự; về việc giao từng tài sản chung cho mỗi bên vợ chồng sở hữu, sử
dụng. Luật sư cần lưu ý trình bày nội dung thỏa thuận vợ chồng phải
cụ thể, rõ ràng, bảo đảm được việc thi hành án và không vi phạm điều
cấm của pháp luật được Tòa án công nhận.
Về áp dụng luật, Luật sư chú ý viện dẫn các điều luật nội dung và
tố tụng trực tiếp quy định về giải quyết việc yêu cầu công nhận thuận
tình ly hôn. Cụ thể, Luật sư sử dụng các điều 51, 55 Luật HN & GĐ
năm 2014 đề nghị Tòa án công nhận sự thỏa thuận về việc ly hôn.
Nếu có thỏa thuận về nuôi con áp dụng thêm Điều 58, Điều 81
Luật HN&GĐ năm 2014 (nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên). Nếu có thỏa
thuận về việc chia tài sản cần áp dụng thêm các điều luật quy định trực
tiếp về quyền sở hữu tài sản chung vợ chồng theo các Luật HN&GĐ
năm 1959, 1986, 2000, 2014; các quy định của BLDS (tùy thuộc thời
điểm xác lập quyền sở hữu tài sản chung vợ chồng) và các điều luật
quy định về chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn: Điều 59 về nguyên
tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn, Điều 61 về chia tài sản
trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình; Điều 62 về chia
quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn; Điều 63 về quyền lưu cư
của vợ hoặc chồng khi ly hôn, Điều 64 về chia tài sản chung của vợ
chồng đưa vào kinh doanh.
Phân tích, lập luận trong bản trình bày ngắn gọn, chặt chẽ, có
căn cứ pháp lý và căn cứ thực tế. Trên cơ sở phân tích, lập luận về căn
cứ của yêu cầu, phần đề xuất Luật sư đề nghị Tòa án áp dụng luật nội
dung, tố tụng chấp nhận từng yêu cầu cụ thể.
3.3. Kỹ năng tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự yêu cầu
công nhận thuận tình ly hôn
Kỹ năng tham gia phiên họp bảo vệ quyền lợi cho khách hàng
trong thủ tục giải quyết việc dân sự yêu cầu công nhận thuận tình ly
hôn thực hiện tương tự như tham gia thủ tục giải quyết các việc dân sự
khác. Trong thủ tục giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn do
vợ và chồng đều là người yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn nên
Luật sư thường bảo vệ quyền lợi cho cả vợ và chồng. Vì vậy, tại phiên
họp, Luật sư thực hiện kỹ năng trình bày yêu cầu, căn cứ của yêu cầu
và đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu. Khi trình bày, Luật sư sử dụng
nội dung bản trình bày đã soạn thảo trước. Bắt đầu, Luật sư có thể

536
trình bày như sau: “Kính thưa chủ tọa phiên họp, thưa vị đại diện Viện
kiểm sát, tôi là Nguyễn Văn A, là Luật sư thuộc văn phòng Luật sư T,
Đoàn Luật sư tỉnh N, tôi tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự
ngày hôm nay với tư cách là người bảo vệ quyền lợi cho ông Lê Văn
H, bà Nguyễn Thị M là người yêu cầu trong việc hôn nhân và gia
đình: yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn. Thay mặt ông H, bà M, tôi
xin trình bày thỏa thuận cụ thể của ông H, bà M về việc thuận tình ly
hôn như sau:…”.
Sau khi trình bày phần mở đầu, Luật sư tiếp tục trình bày phần
nội dung. Phần này, Luật sư trình bày căn cứ của yêu cầu và yêu cầu
công nhận thuận tình ly hôn của vợ, chồng. Luật sư trình bày tình tiết
về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung, đánh giá, sử dụng
chứng cứ và viện dẫn, phân tích luật nội dung, tố tụng, kết luận về
từng vấn đề cần giải quyết.
- Các tình tiết, đánh giá các tài liệu, chứng cứ thể hiện trong các
nguồn chứng cứ như giấy chứng nhận kết hôn, sổ hộ khẩu (hoặc các
tài liệu, chứng cứ khác thay thế) là cơ sở kết luận về quyền yêu cầu
công nhận thuận tình ly hôn của vợ, chồng.
- Các tình tiết, đánh giá tài liệu, chứng cứ chứng minh căn cứ ly
hôn: hôn nhân vợ chồng đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được và
cả hai thật sự tự nguyện ly hôn là cơ sở yêu cầu công nhận sự thỏa
thuận về ly hôn của vợ, chồng.
- Nếu có yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về nuôi con cần trình
bày thêm các tình tiết, đánh giá tài liệu, chứng cứ chứng minh quan hệ
cha, mẹ con: ngày, tháng năm sinh của từng con (được thể hiện trong
giấy khai sinh); điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con của
từng bên vợ hoặc chồng (chỗ ở, nghề nghiệp, thu nhập…); thỏa thuận
của vợ chồng về việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con; cấp dưỡng
nuôi con. Đồng thời, Luật sư viện dẫn luật nội dung là sơ sở đề xuất
Tòa án công nhận sự thỏa thuận của các bên về nuôi con.
- Nếu có yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về tài sản cần trình
bày các tình tiết kết hợp với đánh giá, sử dụng các tài liệu, chứng cứ
(thể hiện giấy chứng nhận quyền sử hữu nhà ở và sử dụng đất ở; giấy
chứng nhận quyền sở dụng đất; hợp đồng mua bán tài sản…) và các
quy định của pháp luật để chứng minh quyền sở hữu tài sản chung của

537
vợ chồng đối với từng tài sản cụ thể. Sau đó, Luật sư trình bày sự thỏa
thuận của vợ, chồng đối với việc phân chia tài sản chung và yêu cầu
Tòa án công nhận sự thỏa thuận cụ thể của vợ chồng đối với từng loại
tài sản chung.
Sau khi trình bày tình tiết, căn cứ của yêu cầu và từng yêu cầu cụ
thể, Luật sư đề xuất Tòa án áp dụng cụ thể điểm, khoản, điều luật của
văn bản quy phạm pháp luật chấp nhận yêu cầu của vợ chồng: công
nhận sự thỏa thuận của vợ chồng về việc ly hôn; nuôi con (nếu có);
chia tài sản chung (nếu có).

Ví dụ:
Bảo vệ cho vợ chồng anh A, chị B có yêu cầu công nhận sự thỏa
thuận về ly hôn, nuôi con, chia tài sản, Luật sư đề nghị Tòa án áp
dụng Điều 51, 55, 58, 59, 61, 62, 63, 64, 81 Luật HN&GĐ năm 2014
công nhận sự thỏa thuận của vợ chồng anh A, chị B về việc ly hôn,
nuôi con và chia tài sản chung như sau: Về hôn nhân, công nhận sự
thỏa thuận của anh Nguyễn Văn A, chị Lê Thị B về việc ly hôn. Về
con chung, giao cho anh A nuôi cháu: Nguyễn Tuấn N, sinh ngày
20/5/2010; giao cho chị B nuôi cháu: Nguyễn Thủy M, sinh ngày
20/8/2014. Chị A và anh B không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài
sản, giao cho anh A sở hữu, sử dụng ngôi nhà số …, ngách…,
đường…, phường…, quận T, thành phố H; giao cho chị B sở hữu, sử
dụng ngôi nhà số…, đường…, phố… thành phố T.

4. Kỹ năng tham gia thủ tục giải quyết công nhận kết quả
hòa giải thành ngoài Tòa án
Thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án lần đầu
tiên được ghi nhận trong BLTTDS năm 2015. Đây là một trong những
điểm mới quan trọng của BLTTDS năm 2015, có ý nghĩa trong việc
khuyến khích giải quyết một số tranh chấp dân sự, thương mại, lao
động thông qua thương lượng, hòa giải nhằm nhanh chóng giải quyết
mâu thuẫn, hạn chế những tranh chấp yêu cầu Tòa án thụ lý giải
quyết; bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan,
tổ chức. Đồng thời, với bổ sung quy định công nhận kết quả hòa giải
thành ngoài Tòa án của BLTTDS năm 2015 đã phù hợp thông lệ quốc
tế, đáp ứng yêu cầu thực tiễn nhằm khắc phục tình trạng sau khi các
bên đã hòa giải theo quy định pháp luật nhưng không có cơ quan nào

538
tổ chức thi hành kết quả hòa giải đó. Nếu được Tòa án công nhận thì
kết quả hòa giải thành được thi hành như một bản án. Tham gia loại
việc dân sự yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án,
Luật sư thực hiện trên cơ sở kỹ năng chung khi thủ tục giải quyết việc
dân sự và các kỹ năng đặc thù.
4.1. Kỹ năng tiếp xúc, trao đổi với khách hàng và chuẩn bị hồ
sơ yêu cầu
Luật sư thực hiện kỹ năng tiếp xúc, trao đổi với khách hàng
nhằm mục đích xác định được các tình tiết vụ việc của khách hàng,
nội dung từng kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Từ đó, Luật sư
đánh giá điều kiện yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành. Việc tiếp
xúc, trao đổi với khách hàng cần thực hiện đồng thời với việc xem xét,
phân tích, đánh giá tài liệu, chứng cứ khách hàng cung cấp, đặc biệt là
văn bản về kết quả hòa giải thành. Các tình tiết cần xác định xuất phát
từ đặc thù của loại việc này. Đó là các tình tiết xác định kết quả hòa
giải thành ngoài Tòa án được quyền yêu cầu Tòa án công nhận; quyền
yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành của khách hàng; loại kết quả
hòa giải (dân sự, thương mại, lao động); các tình tiết xác định điều
kiện công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án; phạm vi kết quả
hòa giải thành yêu cầu Tòa án công nhận và thời hiệu yêu cầu công
nhận kết quả hòa giải thành.
Các bên tham gia hòa giải tranh chấp dân sự (theo nghĩa rộng) là
cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu công nhận kết quả hòa
giải thành ngoài Tòa án. Ngoài ra, nếu chủ thể có quyền, nghĩa vụ dân
sự liên quan đến tranh chấp không tham gia hòa giải nhưng họ đồng ý
với nội dung thỏa thuận trong biên bản hòa giải thành cũng có quyền
yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Để xác định
đúng chủ thể có quyền yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành, Luật
sư trao đổi và phân tích các tài liệu, chứng cứ khách hàng cung cấp,
đối chiếu với quy định của pháp luật xác định nội dung tranh chấp, kết
quả hòa giải thành và những chủ thể có quyền, nghĩa vụ dân sự trong
vụ việc tranh chấp đã được hòa giải thành.
Đối với nội dung kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án được
quyền yêu cầu Tòa án công nhận, Luật sư căn cứ vào quy định tại
Điều 416 BLTTDS năm 2015 để xác định. Theo đó, không phải mọi
kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án đều được công nhận theo thủ tục

539
giải quyết việc dân sự về công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa
án. Theo quy định của BLTTDS năm 2015 thì:“Kết quả hòa giải vụ
việc ngoài Tòa án được Tòa án xem xét ra quyết định công nhận là kết
quả hòa giải thành vụ việc xảy ra giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân do
cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền có nhiệm vụ hòa giải đã hòa
giải thành theo quy định của pháp luật về hòa giải”. Như vậy, phải là
những tranh chấp dân sự; HN&GĐ; kinh doanh, thương mại, lao động
giữa các bên đã được hòa giải thành ngoài Tòa án theo quy định của
pháp luật về hòa giải mới được yêu cầu Tòa án công nhận. Đó là các
kết quả hòa giải theo quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013,
Luật Thương mại năm 2005 (Điều 317), Luật Đất đai năm 2013
(Điều 201), Bộ luật Lao động năm 2012 (Điều 202), Luật Sở hữu trí
tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, 2019) (Điều 56), Luật Bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng (Điều 35), Bộ luật Hàng hải Việt Nam
năm 2015 (Điều 338), Luật Đầu tư năm 2014 (khoản 1 Điều 14).
Cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền có nhiệm vụ hòa giải
theo quy định của pháp luật ngoài Tòa án là: Hòa giải viên cơ sở theo
quy định của Luật Hòa giải ở cơ sở; Hòa giải viên lao động, Hội đồng
Trọng tài lao động theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2012;
UBND cấp xã tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai theo quy định của
Luật Đất đai năm 2013; Tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền
liên quan theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 56 của Luật Sở hữu
trí tuệ năm 2005; Tổ chức hòa giải theo quy định tại Điều 35 của Luật
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.
BLTTDS năm 2015 quy định chặt chẽ các điều kiện, thủ tục để
Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Với quy định
như vậy sẽ tránh việc công nhận kết quả hòa giải thành có sai sót,
ngăn ngừa việc hòa giải không đúng pháp luật. Luật sư căn cứ vào
Điều 417 BLTTDS năm 2015 xác định các điều kiện cần và đủ để yêu
cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Bao gồm
các điều kiện sau: các bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ
năng lực hành vi dân sự. Các bên tham gia thỏa thuận hòa giải là
người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Nếu
nội dung thỏa thuận hòa giải thành liên quan đến quyền, nghĩa vụ của
người không tham gia hòa giải thì phải có điều kiện họ đồng ý với nội
dung hòa giải thành. Nội dung thỏa thuận hòa giải thành của các bên
là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái

540
đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước hoặc
người thứ ba. Trường hợp không đủ điều kiện công nhận kết quả hòa
giải thành ngoài Tòa án, tùy theo tình tiết và bối cảnh của vụ việc
tranh chấp đã được hòa giải, Luật sư có thể tư vấn cho khách hàng bảo
vệ quyền lợi của họ bằng việc khởi kiện vụ án dân sự
Ngoài việc xác định các điều kiện trên, Luật sư còn trao đổi với
khách hàng xác định thời hiệu yêu cầu công nhận kết quả hòa giải
thành ngoài Tòa án. Theo quy định tại khoản 1 Điều 418 BLTTDS
năm 2015 thì người yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài
Tòa án phải gửi đơn đến Tòa án trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày
các bên đạt được thỏa thuận hòa giải thành. Cách tính thời hạn được
tính từ ngày tiếp theo của ngày hết thời hạn 06 tháng theo quy định
của BLDS năm 2005. Khi hết thời hiệu yêu cầu, Luật sư cần xác định
xem có các sự kiện pháp lý nào xảy ra không tính vào thời hiệu yêu
cầu theo quy định của BLDS không. Từ đó, Luật sư tư vấn cho khách
hàng thủ tục yêu cầu giải quyết việc dân sự công nhận kết quả hòa giải
thành ngoài Tòa án hoặc khởi kiện vụ án dân sự.
Kết quả hòa giải ngoài Tòa án, các bên có thể thỏa thuận được
một phần hoặc toàn bộ tranh chấp. Do đó, Luật sư cần đặc biệt lưu ý
không phải Tòa án chỉ công nhận kết quả hòa giải thành khi các bên
hòa giải, thỏa thuận được toàn bộ nội dung tranh chấp. Nên, khi các
bên hòa giải được một phần hoặc toàn bộ tranh chấp đều được coi là
hòa giải thành và một trong các bên có quyền yêu cầu Tòa án công
nhận kết quả hòa giải thành đó.
4.2. Kỹ năng chuẩn bị hồ sơ yêu cầu công nhận kết quả hòa
giải thành ngoài Tòa án
Hồ sơ yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành bao gồm đơn
yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án; văn bản về
kết quả hòa giải thành theo quy định của pháp luật và các tài liệu,
chứng cứ khác.
Luật sư soạn thảo đơn yêu cầu phải bảo đảm điều kiện về hình
thức và nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 362 và Điều 418
BLTTDS năm 2015. Về hình thức của đơn yêu cầu: người yêu cầu là
cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ, nếu là cơ quan, tổ chức thì đại diện
hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải ký tên và đóng dấu vào phần cuối

541
đơn; trường hợp tổ chức yêu cầu là doanh nghiệp thì việc sử dụng con
dấu được thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Về nội dung đơn yêu cầu, Luật sư trình bày các nội dung giống
như đơn yêu cầu giải quyết các việc dân sự khác như: ngày tháng năm
làm đơn; tên Tòa án có thẩm quyền xét đơn yêu cầu (ghi Tòa án nơi
người yêu cầu cư trú, làm việc); tên, địa chỉ, số điện thoại, fax, địa chỉ
thư điện tử (nếu có) của người yêu cầu; ghi họ tên, địa chỉ số điện thoại,
fax, địa chỉ thư điện tử (nếu có) của vợ và chồng; tên, địa chỉ của những
người có liên quan (nếu có). Đồng thời, xuất phát từ đặc thù của yêu
cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án nên trong đơn yêu
cầu phải ghi rõ: tên, địa chỉ của cá nhân, tổ chức đã tiến hành hòa giải.
Soạn thảo mục tên, địa chỉ của cá nhân, tổ chức đã tiến hành hòa giải,
Luật sư ghi rõ tên, địa chỉ của cá nhân hoặc tổ chức có nhiệm vụ, thẩm
quyền hòa giải theo quy định của pháp luật về hòa giải phù hợp với việc
hòa giải từng loại tranh chấp. Ví dụ, đối với hòa giải tranh chấp quyền
sử dụng đất là UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp.
Do người yêu cầu chỉ yêu cầu Tòa án công nhận một sự kiện
pháp lý là sự kiện hòa giải thành ngoài Tòa án (kết quả hòa giải
thành). Nên, so với nội dung đơn yêu cầu của các việc dân sự khác,
đơn yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án không có
nội dung “Những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết và lý do,
mục đích, căn cứ của việc yêu cầu Tòa án giải quyết việc dân sự” như
trong các việc dân sự khác. Soạn thảo mục nội dung thỏa thuận hòa
giải thành yêu cầu Tòa án công nhận, Luật sư cần chú ý trình bày nội
dung từng kết quả hòa giải thành cụ thể và yêu cầu Tòa án công nhận
kết quả hòa giải thành nào để Tòa án xác định được “phạm vi” những
kết quả hòa giải công nhận. Cũng giống như đơn khởi kiện, trong đơn
yêu cầu, nếu yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành nào thì Tòa án
chỉ xem xét công nhận những kết quả đó mà thôi. Cần lưu ý kết quả
hòa giải thành yêu cầu Tòa án công nhận phải phù hợp với nội dung
văn bản hòa giải thành ngoài Tòa án.
* Tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn yêu cầu
Tài liệu, chứng cứ nộp kèm theo đơn yêu cầu công nhận kết quả
hòa giải thành bao gồm:
- Nhóm tài liệu, chứng cứ chứng minh tư cách pháp lý của người

542
yêu cầu (cá nhân, cơ quan, tổ chức): Đối với cá nhân là chứng minh
thư/thẻ căn cước, sổ hộ khẩu. Đối với cơ quan, tổ chức là hồ sơ pháp
nhân như: Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng
nhận đầu tư, Quyết định thành lập, Điều lệ…; Các giấy tờ nhằm xác
định tư cách đại diện của người ký đơn kiện: Quyết định bổ nhiệm,
biên bản bầu, văn bản uỷ quyền…;
- Văn bản về kết quả hòa giải thành theo quy định của pháp luật
có liên quan: đây là văn bản hòa giải trong đó có chứa đựng kết quả
hòa giải thành do các chủ thể có nhiệm vụ hòa giải thực hiện hoạt
động hòa giải tranh chấp theo quy định của pháp luật. Tùy theo yêu
cầu công nhận kết quả hòa giải nào để xác định văn bản kết quả hòa
giải. Ví dụ: yêu cầu công nhận kết quả hòa giải tranh chấp đất đai
về quyền sử dụng đất thì phải nộp biên bản hòa giải tranh chấp đất
do UBND cấp xã tiến hành hòa giải theo quy định tại Điều 201 Luật
Đất đai 2013.
Các tài liệu, chứng cứ gửi kèm theo đơn yêu cầu công nhận kết
quả hòa giải thành ngoài Tòa án phải đảm bảo tính đầy đủ và tính hợp
pháp. Việc nộp hồ sơ yêu cầu cũng được thực hiện theo phương thức
nộp trực tiếp tại Tòa án, gửi qua đường bưu điện hoặc nộp trực tuyến.
4.3. Kỹ năng tham gia tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét đơn
yêu cầu
4.3.1. Kỹ năng thu thập, cung cấp bổ sung chứng cứ
Giai đoạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu công nhận kết quả hòa giải
thành ngoài Tòa án, Luật sư cần xác định các tài liệu, chứng cứ cần
phải cung cấp bổ sung, là căn cứ để Tòa án chấp nhận hoặc không
chấp nhận yêu cầu. Nếu thiếu tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu,
ý kiến phản bác yêu cầu Luật sư cần tư vấn cho khách hàng thu thập
và giao nộp bổ sung tài liệu, chứng cứ cần thiết để chứng minh cho
yêu cầu hoặc ý kiến của đương sự. Tùy thuộc vào việc bảo vệ cho
người yêu cầu hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để Luật
sư xác định các chứng cứ cần thu thập. Nếu bảo vệ cho người yêu
cầu, các tài liệu chứng cứ cần thu thập, cung cấp bổ sung cho Tòa án
phải đủ để chứng minh từng kết quả hòa giải đảm bảo cho việc Tòa
án công nhận. Có nghĩa là phải đủ căn cứ chứng minh thỏa thuận của
các bên tham gia hòa giải về từng nội dung tranh chấp không vi
phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; không xâm

543
phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. Đó là các tài liệu,
chứng cứ chứng minh các kết quả hòa giải đáp ứng đủ điều kiện để
Tòa án công nhận như: tài liệu, chứng cứ chứng minh các bên tranh
chấp có các quyền và nghĩa vụ dân sự hợp pháp, tài sản tranh chấp là
hợp pháp; các thỏa thuận không vi phạm điều cấm, trái đạo đức xã
hội, xâm phạm lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng. Tùy thuộc từng
kết quả hòa giải yêu cầu Tòa án công nhận mà Luật sư xác định các
tài liệu, chứng cứ cần thu thập bổ sung cung cấp cho Tòa án. Nếu
tranh chấp hợp đồng thì phải thu thập thêm tài liệu, chứng cứ chứng
minh việc xác lập, thực hiện hợp đồng giữa các bên. Tranh chấp
quyền sử dụng đất thì phải thu thập thêm tài liệu, chứng cứ chứng
minh nguồn gốc quyền sử dụng đất, các tài liệu, chứng cứ chứng
minh quá trình quản lý, sử dụng đất. Tranh chấp thừa kế thì cần thu
thập bổ sung chứng cứ chứng minh quyền thừa kế của người thừa kế,
di sản thừa kế… Trường hợp kết quả hòa giải liên quan đến quyền
lợi, nghĩa vụ của người thứ ba (là người không tham gia hòa giải)
phải có tài liệu, chứng cứ chứng minh họ có quyền lợi, nghĩa vụ dân
sự liên quan kết quả hòa giải và sự đồng ý của họ về từng kết quả
hòa giải yêu cầu Tòa án công nhận.

Ví dụ:
Ông A (không có vợ) ký hợp đồng vay của ông B (có vợ là
bà C) số tiền 200.000.000 đồng, lãi 1%/tháng. Số tiền vay này là tài
sản chung của vợ chồng ông B, bà C. Đến hạn trả nợ, ông A chỉ trả
được 100.000.000 đồng tiền gốc và tiền lãi theo thỏa thuận. Tranh
chấp xảy ra đã được Hòa giải viên cơ sở hòa giải theo quy định của
Luật Hòa giải ở cơ sở. Tại phiên hòa giải có mặt ông A và ông B,
vắng mặt bà C, bà C cũng không có văn bản ủy quyền cho ông B đại
diện thay mặt bà tham gia buổi hòa giải. Ông A và ông B đã hòa
giải thành với nội dung sau: ông A trả cho vợ chồng ông B số tiền
vay gốc là 100.000.000 đồng trong thời hạn 05 tháng kể từ ngày lập
biên bản hòa giải thành theo phương thức mỗi tháng ông A trả cho
vợ chồng ông B 20.000.000 đồng. Ông A không phải trả lãi cho vợ
chồng ông B. Hòa giải viên cơ sở đã lập văn bản hòa giải thành về
các kết quả hòa giải trên. Bà C không có văn bản đồng ý sự thỏa
thuận của ông A và ông B. Tuy nhiên, sau đó ông A đã không thực
hiện kết quả hòa giải. Ông B muốn làm đơn yêu cầu Tòa án công
nhận kết quả hòa giải thành.

544
Nội dung hòa giải trên liên quan đến quyền dân sự của bà C
nhưng bà C không phải là bên tham gia hòa giải nên phải có sự
đồng ý của bà C về toàn bộ kết quả hòa giải giữa ông A và ông B
mới đáp ứng điều kiện để Tòa án công nhận. Tuy nhiên, nếu trong
quá trình giải quyết việc dân sự, nếu bà C đồng ý với kết quả hòa
giải thành giữa ông A và ông B thì cũng đủ điều kiện để Tòa án
công nhận.

Trường hợp bảo vệ cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,
nếu có ý kiến đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu công nhận kết
quả hòa giải thành, Luật sư cần thu thập các tài liệu, chứng cứ chứng
minh các kết quả hòa giải thành không đủ điều kiện công nhận, làm
căn cứ đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu công nhận kết quả
hòa giải thành.

Ví dụ:
Cụ Nguyễn Đình Tân (mất 10/6/2008) và cụ Tạ Thị Liễn
(mất 15/12/2010) có 6 người con đẻ gồm: ông Nguyễn Đình Khoa,
bà Nguyễn Thị Loan Phụng, ông Nguyễn Đăng Quang, ông Nguyễn
Vĩnh Phúc, ông Nguyễn Tiến Lộc, bà Nguyễn Tuyết Mai (hiện đang
sống tại Canada). Nguồn gốc nhà đất tại số 31 TH, phường HT,
quận HK, thành phố H là của cụ Nguyễn Đình Tân, cụ Tạ Thị Liễn
để lại. Diện tích theo bằng khoán điền thổ là 250m2 và một số đồ
đạc trong gia đình do các ông Nguyễn Đình Khoa, Nguyễn Vĩnh
Phúc và ông Nguyễn Tiến Lộc đang sử dụng. Cụ Tân, cụ Liễn chết
không để lại di chúc. Bà Phụng tranh chấp với ông Khoa, ông Phúc,
ông Lộc về việc chia thừa kế. Tranh chấp được Hòa giải viên cơ sở
hòa giải. Tại buổi hòa giải, có mặt bà Phụng, ông Khoa, ông Phúc,
ông Lộc, ông Quang (bà Mai không có mặt). Các bên tham gia đã
hòa giải thành và đã lập biên bản hòa giải thành các nội dung sau:
ông Khoa, ông Phúc, ông Lộc nhận chia bằng hiện vật chung một
khối là mặt đường phố 31 TH có diện tích là 120 m2; bà Phụng, ông
Quang nhận bằng hiện vật phần còn lại có các công trình phụ, nhà
vệ sinh có diện tích là 130m2. Hòa giải viên cơ sở đã lập văn bản
hòa giải thành về các kết quả hòa giải trên.
Bà Mai không đồng ý với kết quả hòa giải nên bà Phụng đã làm
đơn yêu cầu Tòa án công nhận kết quả hòa giải thành trên.

545
Trường hợp Luật sư bảo vệ quyền lợi cho bà Mai cần phải thu
thập chứng cứ bà Mai là người thừa kế theo luật của cụ Tân và cụ
Liễn nên bà có quyền hưởng di sản thừa kế. Bà Mai không có văn
bản từ chối quyền thừa kế và không có văn bản đồng ý với kết quả
hòa giải thành tranh chấp thừa kế của bà Phụng, ông Quang, ông
Phúc, ông Khoa, ông Lộc. Kết quả hòa giải thành tranh chấp thừa
kế trên xâm phạm quyền lợi hợp pháp của bà Mai, vi phạm điều cấm
của pháp luật (vi phạm quyền định đoạt tài sản chung) do đó không
đủ điều kiện công nhận.

Ngoài việc xác định các tài liệu, chứng cứ cần thu thập, Luật sư
sử dụng các kỹ năng để thu thập được các tài liệu, chứng cứ cung cấp
cho Tòa án. Luật sư cần đặc biệt lưu ý quy định của BLTTDS
năm 2015 về thời hạn chuẩn bị xét đơn yêu cầu công nhận kết quả hòa
giải thành rất ngắn, chỉ trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa án thụ
lý đơn yêu cầu nên hoạt động thu thập, cung cấp chứng cứ bổ sung
cho Tòa án đòi hỏi phải khẩn trương mới bảo vệ được tốt nhất quyền
lợi cho khách hàng.
4.3.2. Chuẩn bị bản trình bày yêu cầu, ý kiến phát biểu tham gia
phiên họp giải quyết việc dân sự sơ thẩm
Tại phiên họp giải quyết việc dân sự công nhận kết quả hòa giải
thành ngoài Tòa án. Luật sư cũng thực hiện kỹ năng trình bày về
những vấn đề cụ thể yêu cầu Tòa án giải quyết, lý do, mục đích và căn
cứ yêu cầu hoặc ý kiến giống như tham gia phiên họp dân sự nói
chung. Do vậy, Luật sư cần chuẩn bị bản trình bày yêu cầu, ý kiến của
các đương sự. Bản trình bày cũng soạn thảo theo ba phần: phần mở
đầu, phần nội dung và phần đề xuất. Phần mở đầu về cơ bản soạn thảo
giống tham gia các việc dân sự khác.
Phần nội dung bản trình bày yêu cầu Luật sư tập trung phân tích
những căn cứ đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu, ý kiến cụ thể của
người yêu cầu; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (tùy thuộc vào
Luật sư bảo vệ quyền lợi cho người yêu cầu hay người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan). Trường hợp bảo vệ cho người yêu cầu, khi phân
tích các căn cứ yêu cầu công nhận từng kết quả hòa giải, Luật sư đánh
giá, sử dụng chứng cứ thực tế chứng minh từng kết quả hòa giải thành
là có căn cứ hợp pháp, kết hợp với viện dẫn, phân tích quy định của

546
pháp luật nội dung, tố tụng để đưa ra kết luận cụ thể về từng kết quả
hòa giải thành, yêu cầu Tòa án công nhận. Trong bản trình bày ý kiến
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu đề nghị Tòa án không
chấp nhận yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành (toàn bộ các kết
quả hòa giải thành trong văn bản hòa giải thành hoặc một, một số kết
quả hòa giải thành trong văn bản hòa giải thành) Luật sư cũng phải
đánh giá, sử dụng chứng cứ chứng minh kết quả hòa giải thành không
đủ điều kiện công nhận, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của đương
sự mình bảo vệ và viện dẫn quy định trong pháp luật nội dung, tố tụng
làm căn cứ pháp lý đề nghị Tòa án công nhận.
Về luật áp dụng giải quyết việc dân sự, Luật sư chú ý viện dẫn,
phân tích các điều luật nội dung và tố tụng trực tiếp quy định về giải
quyết yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành. Đó có thể là quy định
cụ thể của pháp luật đất đai, pháp luật dân sự, pháp luật HN&GĐ,
pháp luật lao động, pháp luật về sở hữu trí tuệ…
Phần đề xuất, Luật sư đề nghị Tòa án áp dụng các điều luật cụ
thể, yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận từng kết quả
hòa giải thành.
4.4. Kỹ năng tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự
Kỹ năng tham gia phiên họp bảo vệ quyền lợi cho khách hàng
trong thủ tục giải quyết việc dân sự yêu cầu công nhận kết quả hòa
giải thành ngoài Tòa án thực hiện tương tự như tham gia thủ tục giải
quyết các việc dân sự khác. Vì vậy, tại phiên họp, Luật sư thực hiện
kỹ năng xử lý tình huống, cung cấp bổ sung tài liệu, chứng cứ và đặc
biệt là trình bày yêu cầu, ý kiến và căn cứ yêu cầu hoặc ý kiến là cơ sở
đề nghị Tòa án chấp nhận, không chấp nhận yêu cầu công nhận từng
kết quả hòa giải thành.
Bảo vệ cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bắt đầu, Luật
sư có thể trình bày như sau: “Kính thưa chủ tọa phiên họp, thưa vị đại
diện Viện kiểm sát, tôi là Nguyễn Văn A, là Luật sư thuộc văn phòng
Luật sư T, Đoàn Luật sư tỉnh N, tôi tham gia phiên họp giải quyết việc
dân sự ngày hôm nay với tư cách là người bảo vệ quyền lợi cho bà
Nguyễn Thị T là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong việc dân
sự: yêu cầu công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án. Thay mặt
bà T, tôi xin trình bày ý kiến của bà T đối với các kết quả hòa giải
thành ngoài Tòa án yêu cầu công nhận như sau…”.

547
Sau khi trình bày phần mở đầu, Luật sư tiếp tục trình bày phần
nội dung. Phần này, Luật sư trình bày căn cứ của yêu cầu và yêu cầu;
ý kiến đề nghị của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và căn cứ
của ý kiến. Bảo vệ cho người yêu cầu, Luật sư trình bày các tình tiết,
đánh giá, sử dụng chứng cứ và viện dẫn quy định của pháp luật đất
đai, dân sự, thương mại… để phân tích từng nội dung kết quả hòa giải
thành đủ điều kiện công nhận hoặc không đủ điều kiện công nhận.
Luật sư cần căn cứ vào các điều kiện công nhận kết quả hòa giải thành
quy định tại Điều 417 BLTTDS để phân tích và kết luận về từng nội
dung kết quả hòa giải thành yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không
công nhận (nếu người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đề nghị Tòa án
không chấp nhận yêu cầu). Khi trình bày, Luật sư sắp xếp từng kết
quả hòa giải thành yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận
theo thứ tự logic
Sau khi trình bày căn cứ của yêu cầu, ý kiến, Luật sư đề xuất Tòa
án áp dụng cụ thể điểm, khoản, điều luật của văn bản quy phạm pháp
luật công nhận, hoặc không công nhận từng kết quả hòa giải thành.
5. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Trình bày các đặc thù của Luật sư khi tham gia giải quyết việc
dân sự tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế
năng lực hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi?
2. Trình bày các đặc thù của Luật sư khi tham gia giải quyết việc
dân sự thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú, thủ tục giải
quyết, tuyên bố một người mất tích, tuyên bố một người là đã chết?
3. Trình bày các đặc thù của Luật sư khi tham gia giải quyết việc
dân sự công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản
khi ly hôn?
4. Trình bày các đặc thù của Luật sư khi tham gia giải quyết việc
dân sự công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án?
Tình huống:
Ông K mang hộ chiếu số TG 042xxx, quốc tịch nước N, là
chuyên viên làm việc tại Công ty trách nhiệm hữu hạn C Việt Nam từ
tháng 10 năm 2012. Trước khi vắng mặt, ông K cùng vợ và hai con cư

548
trú tại phòng 1402, Khách sạn G, số 6 phố K, phường GV, quận BĐ,
Hà Nội.
Ngày 01/02/2016, ông K đi khỏi nhà, không đến Công ty làm
việc từ đó đến nay. Ngày 02/02/2016, bà T (vợ ông K) có đơn trình
báo về việc ông K vắng mặt tại Công an phường GV, quận BĐ,
Hà Nội. Công an phường GV đã xác nhận việc ông K vắng mặt tại nơi
cư trú từ ngày 01/02/2016. Ngày 15/10/2016, bà T đến Văn phòng
Luật sư gặp anh (chị) nhờ anh chị tư vấn cho bà các thủ tục pháp lý
liên quan đến ông K.
a) Xác định các vấn đề cần trao đổi với bà T?
b) Tư vấn cho bà T thủ tục giải quyết về việc vắng mặt của
ông K?
c) Xác định các tài liệu, chứng cứ cần có để giải quyết việc dân
sự trên?

549
Chương 11

KỸ NĂNG THAM GIA TRONG HOẠT ĐỘNG


THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

Mục tiêu của bài học: Nội dung:


Chương này sẽ trang bị cho 1. Kỹ năng soạn thảo và gửi đơn
người học: yêu cầu thi hành án
- Về kiến thức, người học có 2. Kỹ năng tư vấn về trình tự, thủ
những kiến thức chung về hoạt tục thi hành án
động thi hành án dân sự. 3. Kỹ năng tư vấn về việc khiếu
- Về kỹ năng, người học áp dụng nại, giải quyết khiếu nại trong thi
được kỹ năng cơ bản của Luật sư hành án dân sự
trong việc tư vấn về pháp luật thi 4. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
hành án dân sự và thực hiện
nhiệm vụ là người đại diện theo
ủy quyền của người được thi
hành án, người phải thi hành án
hoặc người có quyền, nghĩa vụ
liên quan trong hoạt động thi
hành án dân sự.
- Về thái độ, người học có thái
độ ứng xử chuẩn mực phù hợp
với quy tắc nghề nghiệp của
Luật sư khi tham gia hoạt động
thi hành án dân sự.

Trong giai đoạn thi hành án dân sự - giai đoạn tổ chức thi hành
các bản án, quyết định của Tòa án và phán quyết, quyết định của Trọng
tài thương mại, quyết định của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia,
Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh, quyết định giải quyết khiếu
nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh
Quốc gia, Hội đồng giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh, của cơ quan thi hành án dân sự và cơ quan có thẩm quyền tổ chức

550
thi hành án, các cá nhân, cơ quan, tổ chức được ghi nhận trong các bản
án, quyết định rất cần sự tham gia của các Luật sư để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của họ. Tuy nhiên, Luật Thi hành án dân sự và các văn
bản hướng dẫn thi hành hiện chưa có quy định về vị trí, vai trò của Luật
sư trong giai đoạn này. Vì vậy, trong giai đoạn thi hành án dân sự, Luật
sư thường chỉ tham gia với tư cách là người tư vấn hoặc người đại diện
theo ủy quyền của người được thi hành án, người phải thi hành án,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
1. Kỹ năng soạn thảo và gửi đơn yêu cầu thi hành án
1.1. Các công việc cần tiến hành trước khi soạn thảo đơn yêu
cầu thi hành án
1.1.1. Xác định loại bản án, quyết định yêu cầu thi hành án có
hiệu lực thi hành
Để xác định loại bản án, quyết định có được yêu cầu thi hành
án không thì Luật sư cần căn cứ vào Điều 1, Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự và một số điều luật của luật nội dung như Luật Trọng tài
thương mại, Luật Cạnh tranh… Theo đó, Luật sư cần làm những
công việc cụ thể sau:
- Xem xét bản án, quyết định yêu cầu thi hành án có thuộc các
bản án, quyết định quy định tại Điều 1 Luật Thi hành án dân sự
không? Cơ quan thi hành án dân sự chỉ có thẩm quyền thi hành các
bản án, quyết định quy định tại Điều 1 Luật Thi hành án dân sự. Nếu
không thuộc các bản án, quyết định quy định tại Điều 1 Luật Thi
hành án dân sự thì Luật sư từ chối soạn đơn yêu cầu thi hành án cho
khách hàng.
- Xem xét bản án, quyết định yêu cầu thi hành án đã có hiệu lực
pháp luật hay chưa có hiệu lực pháp luật? Khoản 2 Điều 482 BLTTDS
năm 2015 và khoản 2 Điều 2 Luật Thi hành án dân sự quy định cơ
quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành đối với các bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật và một số bản án, quyết định của
Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật, đó là, các bản án, quyết định về cấp
dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất
việc làm, trợ cấp mất sức lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm y tế hoặc bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức

551
khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm việc;
Quyết định về tính hợp pháp của cuộc đình công và Quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Như vậy, nếu khách hàng yêu cầu
soạn thảo đơn yêu cầu thi hành án đối với các bản án, quyết định không
thuộc khoản 2 Điều 2 Luật Thi hành án dân sự và khoản 2 Điều 482
BLTTDS năm 2015 mà chưa có hiệu lực pháp luật thì Luật sư từ chối
soạn thảo hoặc vẫn soạn thảo nhưng phải lưu ý ngày ký đơn yêu cầu
thi hành án và ngày gửi đơn yêu cầu thi hành án là ngày bản án, quyết
định đó đã có hiệu lực pháp luật.
- Đối với quyết định của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia,
Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh, quyết định giải quyết
khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Chủ tịch Ủy ban
Cạnh tranh Quốc gia, Hội đồng giải quyết khiếu nại quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh, Luật sư cần căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 2
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và khoản 1 Điều 115 Luật Cạnh
tranh năm 2018 để xem xét quyết định đó đã có hiệu lực pháp luật
chưa? Theo đó các quyết định này sau 15 ngày kể từ ngày có hiệu
lực pháp luật đương sự không tự nguyện thi hành, không khởi kiện tại
Tòa án thì có hiệu lực thi hành. Ngoài ra, Luật sư cũng cần tham
khảo Điều 95, 96 và Điều 102 Luật Cạnh tranh năm 2018 để biết
hiệu lực pháp luật của quyết định cạnh tranh và thời hạn khiếu nại
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh và hiệu lực pháp luật của quyết
định giải quyết khiếu nại quyết định cạnh tranh.
- Đối với phán quyết của Trọng tài thương mại thì Luật sư cần
căn cứ vào khoản 1 Điều 66 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 để
xem xét phán quyết trọng tài đã có hiệu lực thi hành chưa. Cụ thể,
Luật sư phải xác định thời hạn thi hành phán quyết trọng tài được ghi
nhận trong phần quyết định của Phán quyết là thời hạn nào? Sau khi
hết thời hạn đó, bên phải thi hành phán quyết đã tự nguyện thi hành án
chưa hoặc có yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng tài không? Nếu hết
thời hạn thi hành phán quyết mà người phải thi hành án không tự
nguyện thi hành và cũng không yêu cầu Tòa án hủy phán quyết trọng
tài thì Luật sư có thể soạn thảo đơn yêu cầu thi hành án và gửi cơ quan
thi hành án dân sự có thẩm quyền để yêu cầu thi hành án.

552
1.1.2. Xác định thời hiệu yêu cầu thi hành án
Về nguyên tắc, bản án, quyết định được tổ chức thi hành án theo
yêu cầu của đương sự khi bản án, quyết định đó còn thời hiệu yêu cầu
thi hành án. Chính vì vậy, khi tiếp nhận yêu cầu soạn thảo đơn yêu
cầu, Luật sư cần căn cứ vào Điều 30 Luật Thi hành án dân sự để xác
định thời hiệu yêu cầu thi hành án. Theo đó, Luật sư cần lưu ý một số
quy định sau:
- Cách xác định bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật: Luật sư
căn cứ vào các quy định của khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280,
khoản 2 Điều 282 BLTTDS năm 2015; khoản 1 Điều 333, khoản 1
Điều 337, Điều 343 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1
Điều 206, khoản 1 Điều 213, khoản 2 Điều 215 Luật Tố tụng hành
chính năm 2015 quy định về thời hạn kháng cáo, thời hạn kháng nghị
để biết bản án sơ thẩm có hiệu lực khi nào. Đối với bản án phúc thẩm,
quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm và quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự thì bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật
ngay kể từ ngày tuyên án hoặc ngày ra quyết định đó.
- Cách xác định thời hiệu thi hành án đối với nghĩa vụ được ấn
định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày
nghĩa vụ đến hạn.

Ví dụ:
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số
131/QĐCNSTTCĐS ngày 04/01/2016 của Tòa án nhân dân thành
phố H, tỉnh N có nội dung: “Công nhận sự thỏa thuận của A và
Ngân hàng S, A phải trả cho Ngân hàng S số tiền là 600.000.000
đồng, cụ thể như sau:
Đợt 1: Ngày 02/02/2016, A phải trả 200.000.000 đồng;
Đợt 2: Ngày 02/4/2016, A phải trả 200.000.000 đồng;
Đợt 3: Ngày 02/7/2016, A phải trả 200.000.000 đồng.”
Như vậy, thời hiệu yêu cầu thi hành Quyết định công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự số 131/QĐCNSTTCĐS ngày
04/01/2016 được tính theo từng đợt thanh toán và mỗi đợt là 05 năm
kể từ ngày ấn định nghĩa vụ. Cụ thể, thời hiệu yêu cầu thi hành án

553
đợt 1 là 05 năm kể từ ngày 02/02/2016; đợt 2, là 05 năm kể từ ngày
02/4/2016 và đợt 3, là 05 năm kể từ ngày 02/7/2016 chứ không được
xác định 05 năm, kể từ ngày 04/01/2016.
- Cách tính thời hiệu yêu cầu thi hành án đối với nghĩa vụ theo
định kỳ: Trong thi hành án dân sự, nghĩa vụ thi hành án theo định kỳ
thường là nghĩa vụ cấp dưỡng. Đối với bản án, quyết định thi hành án
theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ
ngày nghĩa vụ đến hạn. Theo đó, Luật sư phải xác định được “kỳ thi
hành án” và “ngày nghĩa vụ đến hạn” thì mới tính được thời hiệu yêu
cầu thi hành án trong trường hợp thi hành nghĩa vụ theo định kỳ.

Ví dụ:
Tại Bản án số 203/2016/HNGĐ-PT ngày 10/02/2016, có tuyên
“Anh A và chị B được thuận tình ly hôn. Về con chung, giao cháu N
sinh ngày 12/5/2011 cho chị B nuôi dưỡng và anh A có trách nhiệm
cấp dưỡng nuôi cháu N cho chị B mỗi tháng 1.000.000 đồng, kể từ
tháng 02/2016 đến khi cháu N đủ 18 tuổi”. Như vậy, thời hiệu yêu
cầu khoản cấp dưỡng là 05 năm cho mỗi kỳ tức là mỗi tháng chứ
không phải 05 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (ngày
10/02/2016).

Lưu ý, khi bản án, quyết định hết thời hiệu yêu cầu thi hành án
thì Luật sư cần áp dụng các quy định tại Điều 4 Nghị định số
62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự và khoản
2 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để tư vấn, hướng dẫn cho khách
hàng thu thập các giấy tờ chứng minh có sự kiện bất khả kháng hoặc
trở ngại khách quan dẫn đến việc hết thời hiệu yêu cầu thi hành án để
giúp khách hàng yêu cầu cơ quan thi hành án có thẩm quyền khôi
phục lại thời hiệu yêu cầu thi hành án.
1.1.3. Xác định thẩm quyền thi hành án
Khi soạn thảo đơn yêu cầu thi hành án, Luật sư cần xác định được
thẩm quyền tổ chức thi hành bản án, quyết định để ghi vào mục “kính
gửi” trong mẫu đơn yêu cầu thi hành án. Thẩm quyền thi hành án của

554
các cơ quan thi hành án dân sự được quy định tại Điều 35 Luật Thi
hành án dân sự, Điều 8 của Luật Trọng tài thương mại và khoản 2
Điều 115 Luật Cạnh tranh năm 2018. Khi xác định thẩm quyền tổ chức
thi hành án, Luật sư cần lưu ý về thẩm quyền thi hành án đối với phán
quyết, quyết định của Trọng tài thương mại và quyết định của Chủ tịch
Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh
tranh, quyết định giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh của Chủ tịch Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia, Hội đồng giải quyết
khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, cụ thể như sau:
- Đối với phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại: căn
cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 35 Luật Thi hành án dân sự thì tất cả các
phán quyết, quyết định của Trọng tài thuộc thẩm quyền thi hành án
của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh (Cục Thi hành án dân sự)
nhưng Luật Thi hành án dân sự không quy định cụ thể Cục Thi hành
án dân sự nào có thẩm quyền thi hành án đối với phán quyết của trọng
tài mà chỉ quy định thuộc thẩm quyền tổ chức thi hành án của cơ quan
thi hành án cấp tỉnh. Vì vậy, khi xác định thẩm quyền thi hành án đối
với một phán quyết cụ thể của Trọng tài thương mại thì Luật sư cần
xem xét đến những quy định của Luật Trọng tài thương mại, cụ thể là
Điều 8 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định về cơ quan có
thẩm quyền thi hành phán quyết của Trọng tài là cơ quan thi hành án
dân sự cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết.

Ví dụ:
Ngày 10/8/2015, tại trụ sở Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam
(số 9, Đào Duy Anh, Hà Nội), Hội đồng Trọng tài vụ kiện số 50/08
đã mở phiên họp giữa nguyên đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn
TB, địa chỉ: Khu công nghiệp Giao Khẩu, huyện G, tỉnh N, Việt
Nam và bị đơn là ông Vũ Văn K, địa chỉ: Marketa Severova,
Petrovice Clstinadla berm AAA, Czech. Tại phần quyết định có nội
dung: Buộc bị đơn, ông Vũ Văn K phải thanh toán cho nguyên đơn
(Công ty trách nhiệm hữu hạn TB) toàn bộ số tiền còn nợ là 42.000
USD (bốn mươi hai nghìn đô la Mỹ). Nếu chậm trả, bị đơn còn phải
trả thêm tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo mức lãi suất quá hạn
trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với
thời gian chậm trả.

555
Như vậy, Quyết định số 50/08 ngày 10/8/2015 sẽ thuộc thẩm
quyền thi hành của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội vì
quyết định này do Hội đồng trọng tài ra phán quyết tại thành phố
Hà Nội.
- Đối với quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý
vụ việc cạnh tranh: Đây cũng là một loại quyết định chỉ có cơ quan thi
hành án dân sự cấp tỉnh mới có thẩm quyền thi hành án theo điểm e
khoản 2 Điều 35 Luật Thi hành án dân sự. Cũng như phán quyết của
Trọng tài, Luật Thi hành án dân sự không quy định rõ thuộc thẩm
quyền cơ quan thi hành án tỉnh nào. Vì vậy, khi xác định thẩm quyền
thi hành án các quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử
lý vụ việc cạnh tranh, Luật sư phải căn cứ vào khoản 2 Điều 115 Luật
Cạnh tranh năm 2018 để xác định.
1.1.4. Xác định quyền yêu cầu thi hành án của khách hàng
Tại Điều 7 và Điều 7a Luật Thi hành án dân sự quy định
“Đương sự có quyền yêu cầu thi hành án”. Và theo quy định tại
khoản 1 Điều 3 Luật Thi hành án dân sự thì đương sự bao gồm người
được thi hành án và người phải thi hành án. Vì vậy, khi tiếp nhận yêu
cầu của khách hàng về việc soạn thảo đơn yêu cầu thi hành án, Luật sư
cần xem xét bản án, quyết định để xác định khách hàng có là người
được thi hành án hoặc là người phải thi hành án trong bản án, quyết
định đó không.
1.1.5. Xác định nội dung yêu cầu thi hành án
Nội dung yêu cầu thi hành án là phần quyền lợi hoặc nghĩa vụ
được ghi nhận trong phần quyết định của bản án, quyết định đưa ra thi
hành. Vì vậy, Luật sư cần xem xét kỹ phần này và trao đổi với khách
hàng về việc sẽ yêu cầu thi hành những khoản nào, khoản nào không
yêu cầu để soạn thảo vào phần nội dung của đơn yêu cầu thi hành án.
Các nội dung yêu cầu thi hành án phải phù hợp với nội dung của bản
án, quyết định; không yêu cầu những nội dung không liên quan đến
bản án, quyết định.

Ví dụ:
Bản án tuyên xác định ranh giới đất của A và B, nhưng sau khi
án tuyên thì A lại canh tác trên đất của B nên B đã đến Văn phòng

556
Luật sư đề nghị soạn thảo đơn yêu cầu với nội dung yêu cầu A phải
trả đất cho B. Trong trường hợp này, bản án chỉ tuyên xác định
ranh giới đất mà không tuyên nghĩa vụ A phải giao trả đất cho B
nên Luật sư không nên soạn thảo đơn yêu cầu thi hành án với nội
dung A phải trả đất cho B.

1.2. Soạn thảo nội dung yêu cầu thi hành án


Sau khi Luật sư đã làm rõ các nội dung trên, Luật sư sẽ chọn
mẫu đơn yêu cầu thi hành án là Mẫu số D04-THADS ban hành theo
Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp và
viết vào các mục trong biểu mẫu và yêu cầu khách hàng ký tên.
Trường hợp khách hàng không biết chữ thì Luật sư yêu cầu họ điểm
chỉ. Nếu khách hàng là pháp nhân thì yêu cầu người đại diện theo
pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền ký, ghi rõ họ tên và đóng
dấu của pháp nhân nếu có (quy định tại điểm g khoản 2 Điều 31 Luật
Thi hành án dân sự). Ngoài ra, căn cứ vào khoản 3 Điều 1 Thông tư
liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC, Luật sư cũng
có thể là người đứng tên trong đơn yêu cầu thi hành án và ký vào đơn
yêu cầu thi hành án nếu được người có quyền yêu cầu thi hành án ủy
quyền hợp pháp.
1.3. Gửi đơn yêu cầu thi hành án
Luật sư căn cứ vào Điều 31 Luật Thi hành án dân sự để lựa chọn
hình thức gửi đơn yêu cầu thi hành án dân sự, gồm:
- Trực tiếp nộp đơn yêu cầu thi hành án tại cơ quan thi hành án
có thẩm quyền;
- Gửi qua bưu điện.
Trong hai hình thức này thì đều có những thuận lợi và khó khăn
riêng. Ví dụ, đối với hình thức trực tiếp nộp đơn yêu cầu thi hành án
tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thì Luật sư sẽ được trả
lời một cách rõ ràng, cụ thể những vấn đề còn chưa rõ và được hướng
dẫn một cách chi tiết về những vấn đề còn chưa đầy đủ trong nội dung
đơn yêu cầu thi hành án hoặc các văn bản kèm theo. Tuy nhiên, việc
nộp đơn trực tiếp sẽ làm mất thời gian của Luật sư khi phải đến cơ
quan thi hành án dân sự. Còn nếu nộp đơn qua đường bưu điện thì

557
Luật sư tiết kiệm được thời gian nhưng lại phải chờ đợi công văn trả
lời của cơ quan thi hành án về việc tiếp nhận hay không tiếp nhận đơn
yêu cầu. Vì vậy, Luật sư cần cân nhắc để lựa chọn hình thức gửi đơn
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mình cũng như yêu cầu, mong
muốn của đương sự về thời gian thi hành án.
Lưu ý, khi gửi đơn yêu cầu thi hành án cần gửi theo bản án,
quyết định và tài liệu có liên quan như biên bản xác minh điều kiện thi
hành án, văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp bảo
đảm, nếu có...
2. Kỹ năng tư vấn về trình tự, thủ tục thi hành án
2.1. Tư vấn về việc tiếp nhận yêu cầu thi hành án và ra quyết
định thi hành án
2.1.1. Tư vấn việc tiếp nhận yêu cầu thi hành án
Theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, trong
mọi trường hợp nếu yêu cầu thi hành án thỏa mãn các quy định tại
khoản 1, 2 Điều 31 Luật Thi hành án dân sự và không thuộc một trong
các trường hợp quy định tại khoản 5 Điều 31 Luật Thi hành án dân sự
thì cơ quan thi hành án phải tiếp nhận yêu cầu thi hành án của người
yêu cầu. Vì vậy, khi tư vấn về vấn đề tiếp nhận yêu cầu thi hành án thì
Luật sư căn cứ vào Điều 31 Luật Thi hành án dân sự để nhận biết việc
tiếp nhận hay không tiếp nhận yêu cầu thi hành án có đúng quy định
pháp luật không. Đặc biệt, khi cơ quan thi hành án từ chối tiếp nhận
yêu cầu thi hành án thì Luật sư căn cứ vào khoản 5 Điều 31 Luật Thi
hành án dân sự để xem xét và đưa ra ý kiến tư vấn. Nếu cơ quan thi
hành án từ chối yêu cầu thi hành án mà chưa đúng quy định pháp luật
thì Luật sư tư vấn cho khách hàng khiếu nại hành vi đó của cơ quan
thi hành án. Lưu ý, đối với trường hợp từ chối yêu cầu thi hành án khi
người yêu cầu không có quyền yêu cầu hoặc nội dung yêu cầu không
liên quan đến nội dung của bản án, quyết định; bản án, quyết định
không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các đương sự theo điểm a
khoản 5 Điều 31 Luật Thi hành án dân sự thì Luật sư cần xem xét đến
khoản 4 Điều 7 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP và khoản 5 Điều 1 Nghị
định số 33/2020/NĐ-CP đã quy định cụ thể cơ quan thi hành án từ

558
chối yêu cầu thi hành án theo quy định tại khoản 5 Điều 31 Luật Thi
hành án dân sự trong trường hợp bản án, quyết định không xác định cụ
thể người phải thi hành án và nghĩa vụ phải thi hành án, trừ các trường
hợp sau:
- Giao quyền sở hữu, sử dụng, quản lý tài sản mà tại thời điểm
yêu cầu thi hành án, người được thi hành án không được trực tiếp
quản lý, sử dụng tài sản;
- Giao quyền nuôi dưỡng người chưa thành niên mà tại thời
điểm yêu cầu thi hành án, người được thi hành án không được trực
tiếp nuôi dưỡng;
- Giao quyền thăm nom, chăm sóc người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi dân sự, người không có khả năng lao động
cho người được thi hành án không trực tiếp nuôi dưỡng”.
2.1.2. Tư vấn về việc ra quyết định thi hành án
Luật sư khi tư vấn việc ra quyết định thi hành án của cơ quan thi
hành án cần xem xét các vấn đề sau:
- Thời hạn ra quyết định thi hành án: 05 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được yêu cầu thi hành án theo quy định tại khoản 1 Điều 36
Luật Thi hành án dân sự.
- Nội dung quyết định thi hành án: Luật sư đối chiếu giữa nội
dung yêu cầu với nội dung quyết định thi hành án để xem xét nội dung
quyết định thi hành án có đúng không.
- Người ký quyết định: Là Thủ trưởng hoặc Phó thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự nếu được Thủ trưởng ủy quyền theo quy định
tại Điều 23, Điều 36 Luật Thi hành án dân sự.
2.2. Tư vấn về việc thông báo thi hành án
Thông báo về thi hành án do cơ quan thi hành án hoặc Thừa phát
lại thực hiện theo Điều 39, 40, 41, 42, 43 Luật Thi hành án dân sự và
Điều 12 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015; khoản 7 Điều
1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP và Điều 2 Thông tư liên tịch số
11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC ngày 01/8/2016. Theo đó,
khi tư vấn về việc thông báo thi hành án thì Luật sư cần tập trung xem
xét các vấn đề sau:

559
2.2.1. Loại văn bản thông báo
Luật sư xác định văn bản thông báo là loại văn bản gì? Quyết
định về thi hành án, giấy báo, giấy triệu tập hay văn bản khác. Để xác
định được văn bản thông báo, loại văn bản thông báo, Luật sư căn cứ
vào Điều 39 Luật Thi hành án dân sự. Vì mỗi bản thông báo có thời
hạn thông báo khác nhau và chủ thể thực hiện thông báo cũng khác
nhau nên Luật sư cần xác định được văn bản thông báo thuộc loại văn
bản nào.
Luật sư lưu ý, theo quy định tại khoản 1 Điều 39 Luật Thi hành
án dân sự thì chỉ những văn bản nào có chứa đựng quyền, nghĩa vụ
để người được thông báo phải thực hiện thì cơ quan thi hành án mới
phải thông báo cho đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan. Vì vậy, nếu cơ quan thi hành án không thông báo các loại biên
bản như biên bản xác minh điều kiện thi hành án, biên bản giải quyết
thi hành án, biên bản cưỡng chế,… thì Luật sư cũng không nên tư
vấn cho khách hàng thực hiện quyền khiếu nại trong trường hợp này.
Tuy nhiên, với một số biên bản đặc thù như biên bản giao bảo quản
tài sản, biên bản tạm giữ tài sản,… thì trong các điều luật cụ thể về
việc tạm giữ hoặc giao bảo quản tài sản đã quy định rõ về việc cơ
quan thi hành án phải giao cho người bảo quản hoặc người quản lý,
sử dụng tài sản, giấy tờ. Luật sư sẽ căn cứ vào các điều luật cụ thể
này để tư vấn cho khách hàng quyền khiếu nại nếu cơ quan thi hành
án dân sự có vi phạm.
2.2.2. Thời hạn thông báo
Luật sư xem xét thời gian thực hiện thông báo đã đúng theo
khoản 2 Điều 39 Luật Thi hành án dân sự chưa. Cụ thể, các loại quyết
định, giấy báo, giấy triệu tập và văn bản khác có liên quan đến việc thi
hành án phải thực hiện thông báo trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể
từ ngày ra văn bản, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán,
hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Đối với việc kê biên tài
sản là bất động sản, theo quy định tại Điều 88 Luật Thi hành án dân
sự, trước khi kê biên ít nhất là 03 ngày làm việc, cơ quan thi hành án
phải thông báo cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
về thời gian, địa điểm, tài sản kê biên, trừ trường hợp cần ngăn chặn
đương sự tẩu tán, hủy hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án.

560
Khi tư vấn cho đương sự về vấn đề thông báo thi hành án, Luật
sư cần lưu ý, không phải trong mọi trường hợp, trước khi thực hiện
các tác nghiệp của mình, Chấp hành viên đều phải thông báo trước
cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Ví dụ, trường
hợp Chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án thì theo
quy định tại Điều 66 Luật Thi hành án dân sự, Chấp hành viên không
phải thông báo trước cho đương sự mà có thể thực hiện việc áp dụng
biện pháp bảo đảm rồi mới thông báo quyết định áp dụng biện pháp
bảo đảm cho đương sự.
2.2.3. Chủ thể thực hiện thông báo
Theo quy định của pháp luật, chủ thể thực hiện việc thông báo
văn bản trong thi hành án rất đa dạng có thể là Chấp hành viên, Thư
ký thi hành án, Thừa phát lại hoặc Thư ký thừa phát lại, bưu tá, tổ
trưởng tổ dân phố, thủ trưởng đơn vị... Trường hợp tổ trưởng tổ dân
phố, thủ trưởng đơn vị giao cho khách hàng của Luật sư các loại văn
bản cần thông báo thì Luật sư cũng không nên tư vấn cho khách hàng
khiếu nại về vấn đề này. Tuy nhiên, đối với trường hợp do bưu tá giao
cho khách hàng thì Luật sư có thể căn cứ vào Điều 2 Thông tư liên
tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC để xác định điều
kiện thông báo qua bưu tá của Chấp hành viên đã đảm bảo đúng quy
định chưa.
2.2.4. Thủ tục thông báo
Theo quy định tại khoản 3 Điều 39 Luật Thi hành án dân sự thì
việc thông báo được thực hiện theo 03 hình thức là thông báo trực tiếp,
niêm yết công khai, thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng.
Khi tư vấn về thủ tục thông báo, Luật sư xem xét các vấn đề sau:
- Thông báo trực tiếp cho cá nhân: Luật sư đối chiếu việc thực
hiện thông báo trực tiếp cho cá nhân với các quy định tại Điều 40 Luật
Thi hành án dân sự, Điều 12 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP, khoản 7
Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP và Điều 2 Thông tư liên tịch số
11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC để xem xét việc thực hiện
thông báo trực tiếp cho cá nhân đã đầy đủ và đúng quy định pháp
luật không.
- Thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức: Luật sư đối chiếu

561
quy định tại Điều 41 Luật Thi hành án dân sự để xác định người đại
diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức được nhận thông báo; hoặc
xác định được người chịu trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ
chức đó. Nếu cơ quan, tổ chức được nhận văn bản thông báo có người
đại diện tham gia hoặc cử người đại diện nhận văn bản thông báo thì
những người này được ký nhận và Luật sư kiểm tra việc cử người đại
diện hoặc việc ủy quyền của cơ quan, tổ chức được thông báo.
- Niêm yết văn bản thông báo: Luật sư đối chiếu quy định tại
Điều 42 Luật Thi hành án dân sự để xem xét các vấn đề như điều kiện
thực hiện việc niêm yết văn bản thông báo; thủ tục niêm yết; địa điểm,
thời gian niêm yết và biên bản niêm yết.
- Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng: Luật sư đối
chiếu quy định tại Điều 43 Luật Thi hành án dân sự để xem xét về
điều kiện thực hiện; thủ tục thực hiện việc thông báo trên phương tiện
thông tin đại chúng.
2.3. Tư vấn về việc xác minh điều kiện thi hành án
Nghĩa vụ xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành
án là nghĩa vụ của Chấp hành viên theo quy định tại khoản 4 Điều 20
và Điều 44 Luật Thi hành án dân sự. Chính vì vậy, khi xem xét, tư vấn
về hoạt động xác minh điều kiện thi hành án của cơ quan thi hành án
nói chung, Chấp hành viên nói riêng, Luật sư cần xem xét các biên
bản xác minh lưu tại hồ sơ thi hành án, cụ thể về các vấn đề sau:
2.3.1. Thời hạn xác minh
Khi tư vấn về thời hạn xác minh điều kiện thi hành án của người
phải thi hành án, Luật sư cần xem xét thời gian thực hiện xác minh
(ghi tại biên bản xác minh) để xác định thời hạn xác minh điều kiện
thi hành án của Chấp hành viên có đúng quy định pháp luật không?
Thời hạn xác minh điều kiện thi hành án được quy định tại Điều 44
Luật Thi hành án dân sự là 10 ngày, kể từ ngày hết thời gian tự
nguyện thi hành án. Thời gian tự nguyện thi hành án được ấn định
ngay trong Quyết định thi hành án. Vì vậy, khi xem xét thời hạn xác
minh, Luật sư phải cần xem xét thời gian (ngày) người phải thi hành
án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án và
thời gian thực hiện việc xác minh.

562
2.3.2. Thời hạn xác minh lại
Thời hạn xác minh lại được quy định khoản 2 Điều 44 Luật Thi
hành án dân sự và khoản 4 Điều 9 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP.
Theo đó, Luật sư cần căn cứ vào các quy định này để đối chiếu với
thời gian thực hiện xác minh tại các biên bản xác minh lại xem xét
thời hạn thực hiện xác minh lại của Chấp hành viên.
2.3.3. Địa điểm xác minh
Địa điểm xác minh đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu,
sử dụng là nơi cơ quan có thẩm quyền quản lý và cấp giấy chứng
nhận quyền sở hữu, sử dụng tài sản đó theo quy định tại điểm b
khoản 4 Điều 44 Luật Thi hành án dân sự. Ví dụ, biên bản xác minh
về quyền sở hữu nhà, sử dụng đất của người phải thi hành án thì địa
điểm xác minh phải là Văn phòng đăng ký đất đai. Trường hợp
người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức thì Chấp hành viên trực
tiếp xem xét tài sản, sổ sách quản lý vốn và xác minh tại các cơ
quan, tổ chức khác có liên quan đang quản lý, bảo quản, lưu giữ
thông tin về tài sản, tài khoản của người phải thi hành án (quy định
tại điểm d khoản 4 Điều 44 Luật Thi hành án dân sự).
2.4. Tư vấn về việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thi hành án
Luật Thi hành án dân sự quy định đương sự có quyền yêu cầu cơ
quan thi hành án dân sự áp dụng biện pháp bảo đảm hoặc Chấp hành
viên tự mình áp dụng các biện pháp bảo đảm khi cần thiết. Khi áp
dụng biện pháp bảo đảm, Chấp hành viên phải tuân thủ các quy định
tại Điều 66, 67, 68, 69 Luật Thi hành án dân sự và Điều 13, 18, 19, 20
Nghị định số 62/2015/NĐ-CP. Theo đó, khi xem xét việc áp dụng các
biện pháp bảo đảm thi hành án, Luật sư cần xem xét các vấn đề sau:
- Chủ thể áp dụng: là Chấp hành viên. Luật sư cần xác định chủ
thể ký quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm có phải là Chấp hành
viên không.
- Nguyên tắc áp dụng: Theo quy định tại Điều 13 Nghị định số
62/2015/NĐ-CP và khoản 8 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP thì
khi áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, Chấp hành viên áp dụng
biện pháp bảo đảm phải tương ứng với nghĩa vụ thi hành án và các chi
phí cần thiết. Tuy nhiên, trường hợp người phải thi hành án chỉ có một

563
tài sản duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải thi hành án mà
tài sản đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm
đáng kể giá trị của tài sản và trường hợp tài sản bảo đảm đã được bản
án, quyết định tuyên xử lý để thi hành án hoặc trường hợp quy định tại
khoản 4 Điều 24 Nghị định thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng
biện pháp bảo đảm, cưỡng chế đối với tài sản này.
- Trình tự, thủ tục áp dụng:
+ Ra quyết định áp dụng:
Luật sư căn cứ quy định tại Điều 67, 68, 69 Luật Thi hành án dân
sự để xem xét trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án.
Khi tư vấn về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án,
Luật sư cần lưu ý, Chấp hành viên có thể ra quyết định hoặc lập biên
bản phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ; tạm giữ tài sản, giấy tờ
của đương sự chứ không nhất thiết ngay lập tức phải ra quyết định
trước khi áp dụng. Tuy nhiên, trong trường hợp Chấp hành viên lựa
chọn hình thức lập biên bản thì trong thời hạn 24 giờ kể từ khi lập
biên bản, Chấp hành viên phải ra quyết định phong tỏa tài khoản, tài
sản hoặc quyết định tạm giữ tài sản, giấy tờ. Riêng đối với biện pháp
tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện
trạng tài sản thì Chấp hành viên bắt buộc phải ra quyết định áp dụng
biện pháp bảo đảm trước khi áp dụng.
+ Giao quyết định, biên bản:
Luật sư căn cứ Điều 67, 68, 69 Luật Thi hành án dân sự;
Điều 18, 20 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để xem xét việc giao quyết
định, biên bản của cơ quan thi hành án. Theo đó, đối với quyết định
phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ, Chấp hành viên chỉ phải
trực tiếp giao quyết định phong tỏa cho người đại diện theo pháp luật
của kho bạc nhà nước, tổ chức tín dụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân
đang quản lý tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ hoặc người có trách
nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó. Còn đối với đương sự
thì việc thông báo vẫn được thực hiện theo trình tự, thủ tục thông
thường. Đối với đương sự, ngoài việc giao quyết định áp dụng biện
pháp bảo đảm, Chấp hành viên còn phải giao biên bản tạm giữ tài sản,
giấy tờ cho người quản lý, sử dụng tài sản.

564
+ Thời hạn áp dụng biện pháp bảo đảm:
Theo quy định của pháp luật, biện pháp bảo đảm thi hành án chỉ
mang tính chất tạm thời nên Chấp hành viên chỉ được áp dụng biện
pháp bảo đảm trong một thời hạn nhất định, hết thời hạn đó, Chấp
hành viên phải chuyển sang áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc phải
chấm dứt việc áp dụng biện pháp bảo đảm. Cụ thể, đối với biện pháp
phong tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ, trong thời hạn 10 ngày, kể
từ ngày ra quyết định, Chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng
chế hoặc ra quyết định chấm dứt việc phong tỏa; đối với biện pháp
tạm giữ tài sản, giấy tờ thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có căn
cứ xác định tài sản, giấy tờ tạm giữ thuộc quyền sở hữu, sử dụng của
người phải thi hành án, Chấp hành viên phải ra quyết định áp dụng
biện pháp cưỡng chế hoặc phải ra quyết định trả lại tài sản, giấy tờ cho
người có quyền sở hữu, sử dụng; đối với biện pháp tạm dừng việc
đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản thì
trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày có căn cứ xác định tài sản thuộc
quyền sở hữu, sử dụng của người phải thi hành án, Chấp hành viên
phải ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế hoặc phải ra quyết
định chấm dứt việc tạm dừng đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng,
thay đổi hiện trạng tài sản.
2.5. Tư vấn về việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi
hành án
Khi xem xét việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế quy định tại
Chương IV Luật Thi hành án dân sự của Chấp hành viên, Luật sư cần
xem xét các vấn đề sau:
2.5.1. Điều kiện áp dụng
Theo quy định của pháp luật, Chấp hành viên áp dụng biện pháp
cưỡng chế khi đã hết thời gian tự nguyện thi hành án, người phải thi
hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án.
Hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án có hành
vi tẩu tán, hủy hoại tài sản hoặc hành vi khác nhằm trốn tránh việc thi
hành án thì Chấp hành viên áp dụng ngay biện pháp quy định tại
Chương IV Luật Thi hành án dân sự. Vì vậy, khi tư vấn về điều kiện
áp dụng biện pháp cưỡng chế, Luật sư xem xét quyết định cưỡng chế
565
của Chấp hành viên được ký, ban hành vào thời điểm nào? Nếu Chấp
hành viên ký, ban hành trong thời gian tự nguyện thi hành án thì Luật
sư cần xem xét đến các minh chứng chứng minh về hành vi tẩu tán,
hủy hoại tài sản hoặc có hành vi khác nhằm trốn tránh việc thi hành
án, nếu không chứng minh được thì người phải thi hành án có quyền
khiếu nại quyết định cưỡng chế đó.
2.5.2. Nguyên tắc áp dụng
Luật sư căn cứ vào Điều 13 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP và
khoản 8 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP để xem xét về nguyên
tắc áp dụng. Đối với biện pháp cưỡng chế khấu trừ tài khoản, thu hồi,
xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án, trừ vào thu nhập
của người phải thi hành án, kê biên, xử lý tài sản của người phải thi
hành án, khai thác tài sản của người phải thi hành án, Luật sư cần xem
xét tính tương ứng giữa giá trị tài sản cưỡng chế với nghĩa vụ thi hành
án và các chi phí cần thiết. Khi tư vấn về nguyên tắc áp dụng biện
pháp cưỡng chế, Luật sư lưu ý, trên thực tế, Chấp hành viên có thể áp
dụng rất nhiều biện pháp cưỡng chế thi hành án khác nhau để thi hành
nghĩa vụ của người phải thi hành án, tuy nhiên, việc cưỡng chế này
phải không vi phạm nguyên tắc tương ứng trừ một số trường hợp cụ
thể quy định tại khoản 1 Điều 13 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP và
khoản 8 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP. Đồng thời, Chấp hành
viên cũng có quyền cưỡng chế đối với tài sản là quyền sử dụng đất
thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với vợ (chồng) của họ
nếu người phải thi hành án không có tài sản khác hoặc tài sản khác
không đủ để thi hành án.
2.5.3. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
Khi tư vấn về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế thi
hành án, Luật sư tập trung xem xét các vấn đề chính sau:
- Thời điểm ra quyết định cưỡng chế: Theo quy định tại Điều 45, 46
Luật Thi hành án dân sự, trường hợp đã hết thời gian tự nguyện thi
hành án mà người phải thi hành án có điều kiện thi hành thì Chấp
hành viên phải cưỡng chế thi hành án. Như vậy, nếu có biên bản xác
minh thể hiện người phải thi hành án có điều kiện thi hành án và đã
hết thời gian tự nguyện thi hành án mà Chấp hành viên không ra quyết
định cưỡng chế làm trì hoãn quá trình thi hành án hoặc dẫn đến việc

566
đương sự tẩu tán tài sản thì Luật sư có thể tư vấn cho khách hàng là
người được thi hành án khiếu nại về hành vi chậm ra quyết định về thi
hành án của Chấp hành viên.
- Chủ thể ký quyết định cưỡng chế: phải là Chấp hành viên.
- Việc dự trù chi phí cưỡng chế, thông báo dự trù chi phí cưỡng
chế: trường hợp Luật sư tư vấn cho khách hàng là người phải thi hành
án thì Luật sư căn cứ vào khoản 1 Điều 73 Luật Thi hành án dân sự để
xác định các khoản mà Chấp hành viên dự trù chi phí cưỡng chế cho
người phải thi hành án có đúng không. Ngoài ra, Luật sư căn cứ vào
khoản 4 Điều 73 Luật Thi hành án dân sự để xác định Chấp hành viên
có thông báo dự trù chi phí cưỡng chế cho người phải thi hành án
đúng thời hạn luật định không.
Trường hợp Luật sư tư vấn cho khách hàng là người được thi
hành án thì Luật sư cần lưu ý, theo quy định tại khoản 2 Điều 73 Luật
Thi hành án dân sự, người được thi hành án chỉ phải nộp chi phí cưỡng
chế thi hành án đối với khoản chi phí định giá lại tài sản (nếu người
được thi hành án yêu cầu định giá lại) và một phần hoặc toàn bộ chi phí
xây ngăn, phá dỡ (trong trường hợp bản án, quyết định xác định người
được thi hành án phải chịu). Như vậy, người được thi hành án gần như
không phải chịu một khoản chi phí cưỡng chế nào. Nên nếu Chấp hành
viên yêu cầu người được thi hành án phải nộp thì Luật sư có thể tư vấn
cho người được thi hành án từ chối yêu cầu của Chấp hành viên.
- Việc thực hiện quyết định cưỡng chế: Đối với các biện pháp
cưỡng chế như trừ vào thu nhập của người phải thi hành án; cưỡng chế
khấu trừ tiền trong tài khoản, thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người
phải thi hành án thì chủ yếu Chấp hành viên sẽ làm việc với cơ quan, tổ
chức, cá nhân đang quản lý thu nhập, tiền, tài sản của người phải thi hành
án nên Luật sư chỉ cần quan tâm kết quả của việc thực hiện quyết định
cưỡng chế mà không cần quan tâm đến tiến trình thực hiện biện pháp
cưỡng chế của Chấp hành viên. Ví dụ, sau khi cưỡng chế Chấp hành viên
có thu được tiền hay không thu được tiền, số tiền thu được có phù hợp
với kết quả xác minh đã được thực hiện trước đó hay không…
Còn đối với các biện pháp cưỡng chế khác như: kê biên, xử lý tài
sản của người phải thi hành án; cưỡng chế buộc chuyển giao vật,
chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ, Luật sư phải căn cứ vào các

567
điều 88, 114, 115, 116, 117 Luật Thi hành án dân sự để xác định quá
trình cưỡng chế của Chấp hành viên có được thực hiện theo đúng quy
định của pháp luật hay không? Ví dụ, đối với buổi cưỡng chế kê biên,
trên thực tế, Chấp hành viên sẽ mời rất nhiều thành phần tham gia như
cơ quan tài chính, cơ quan quản lý nhà, đất, chính quyền địa
phương,… nhưng theo quy định tại khoản 2 Điều 88 Luật Thi hành án
dân sự thì trong biên bản kê biên chỉ cần có chữ ký của đại diện chính
quyền địa phương hoặc đại diện tổ dân phố nơi tổ chức cưỡng chế. Vì
vậy, nếu Chấp hành viên cho dừng buổi cưỡng chế kê biên do vắng
mặt Viện kiểm sát, hoặc vắng mặt cơ quan tài chính, vắng mặt cơ
quan quản lý nhà, đất hoặc vắng mặt đương sự thì Luật sư cũng có thể
xem xét để thực hiện quyền khiếu nại của người được thi hành án,
người phải thi hành án
2.6. Tư vấn về việc thanh toán tiền và thu phí thi hành án
Thanh toán tiền thi hành án được quy định tại Điều 47 Luật Thi
hành án dân sự, Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP; khoản 13 Điều
1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP và Điều 6 Thông tư liên tịch số
11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC. Theo đó, khi Luật sư tư
vấn về việc thanh toán tiền của cơ quan thi hành án dân sự cần xem
xét các vấn đề sau:
2.6.1. Về thời gian thanh toán tiền
Luật sư cần căn cứ khoản 5 Điều 47 Luật Thi hành án dân sự;
khoản 4 Điều 27 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để xem xét thời gian
thanh toán tiền của Chấp hành viên là đúng hay sai. Theo đó, về
nguyên tắc, Chấp hành viên phải thực hiện việc thanh toán tiền, trả tài
sản thi hành án trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày thu được tiền, tài
sản thi hành án. Riêng đối với trường hợp cơ quan thi hành án bán đấu
giá tài sản để thu tiền thi hành án thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ
ngày giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá, Chấp hành
viên mới có nghĩa vụ thực hiện thanh toán tiền thi hành án. Như vậy,
nếu cơ quan thi hành án đã bán đấu giá thành đối với tài sản và đã thu
được tiền nhưng chưa giao được tài sản do người phải thi hành án
chống đối thì với tư cách là Luật sư của người được thi hành án, Luật
sư không tư vấn cho khách hàng khiếu nại về việc chậm thanh toán
tiền thi hành án.

568
2.6.2. Về thứ tự thanh toán tiền thi hành án
Khi xem xét thứ tự thanh toán tiền thi hành án thì Luật sư căn cứ
Điều 47 Luật Thi hành án dân sự; Điều 49 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP;
khoản 13 Điều 1 Nghị định số 33/2020/NĐ-CP và Điều 6 Thông tư
liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC để xem xét
các vấn đề sau:
- Số tiền thu được do người phải thi hành án nộp hay do bán tài
sản kê biên;
- Tài sản bán đấu giá là tài sản mà bản án, quyết định của Tòa án
đã tuyên kê biên để đảm bảo thi hành một nghĩa vụ cụ thể; tài sản cầm
cố, thế chấp trước khi có bản án có hiệu lực pháp luật; tài sản cầm cố,
thế chấp được tuyên theo bản án, quyết định của Tòa án đang thi hành;
- Số tiền chi phí cưỡng chế mà người phải thi hành án phải chịu;
- Số tiền án phí, lệ phí Tòa án mà người phải thi hành án phải nộp;
- Số người được thi hành án tính đến thời điểm có quyết định
cưỡng chế thi hành án.
Khi tư vấn về thứ tự thanh toán tiền thi hành án, Luật sư cần lưu
ý một số vấn đề sau:
- Cách xác định người được thi hành án: Chấp hành viên có thể
căn cứ vào bản án, quyết định hoặc các bản án, quyết định đang do cơ
quan thi hành án đó trực tiếp tổ chức thi hành để xác định người được
thi hành án đã có yêu cầu thi hành án. Vì vậy, nếu khách hàng của
Luật sư là người đã yêu cầu thi hành án trong số rất nhiều người được
thi hành án (chưa có yêu cầu thi hành án) mà Chấp hành viên không
thanh toán toàn bộ số tiền thu được cho khách hàng của mình mà trích
lại khoản tiền tương ứng với tỉ lệ cho những người được thi hành án
chưa có đơn yêu cầu thi hành án thì Luật sư nên tư vấn cho khách
hàng khiếu nại về việc trích lại tiền cho những người chưa yêu cầu thi
hành án của Chấp hành viên.
- Về trường hợp Chấp hành viên kê biên, xử lý tài sản thuộc sở
hữu chung của người phải thi hành án với người khác thì Chấp hành
viên phải trả lại cho người khác giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu,
sử dụng của người đó. Vì vậy, trước khi thanh toán khoản chi phí

569
cưỡng chế, án phí, lệ phí Tòa án thì Chấp hành viên phải thanh toán cho
người có tài sản chung trước. Số tiền của người phải thi hành án được
thanh toán theo thứ tự quy định tại Điều 47 Luật Thi hành án dân sự.
2.6.3. Về phí thi hành án
Luật sư căn cứ vào Điều 60 Luật Thi hành án dân sự, Thông tư
số 216/2016/TT-BTC ngày 10/11/2016 của Bộ Tài chính quy định
mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi hành án dân sự để
xem xét các nội dung sau:
- Đối tượng nộp phí thi hành án;
- Mức phí thi hành án;
- Các trường hợp không phải chịu phí thi hành án;
- Các trường hợp miễn, giảm phí thi hành án.
Khi xem xét các nội dung này, Luật sư cần lưu ý các vấn đề sau:
- Trường hợp người được thi hành án không có yêu cầu thi hành
án nhưng vẫn nhận tiền, tài sản theo bản án, quyết định thì vẫn phải
nộp phí thi hành án.
- Trường hợp cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định thi
hành án nhưng chưa ra quyết định cưỡng chế thi hành án hoặc đã ra
quyết định cưỡng chế thi hành án nhưng chưa thực hiện việc cưỡng
chế thi hành án mà đương sự tự giao, nhận tiền, tài sản cho nhau thì
người được thi hành án phải nộp 1/3 mức phí thi hành án.
- Trường hợp xác định người được thi hành án thuộc trường hợp
được miễn, giảm phí thi hành án thì Luật sư tư vấn cho khách hàng
soạn thảo đơn đề nghị miễn, giảm phí thi hành án theo Mẫu số D07-
THADS ban hành kèm theo Thông tư số 01/2016/TT-BTP và chuẩn bị
các tài liệu để xuất trình cho cơ quan thi hành án theo Điều 7 Thông tư
số 216/2016/TT-BTC ngày 10/11/2016.
2.7. Tư vấn một số vấn đề khác
2.7.1. Tư vấn về việc ủy thác thi hành án
Luật sư căn cứ Điều 55, 56, 57 Luật Thi hành án dân sự và Điều
16, 34 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP và khoản 9 Điều 1 Nghị định số
33/2020/NĐ-CP để xem xét các nội dung sau:

570
- Căn cứ, thẩm quyền ủy thác thi hành án;
- Thủ tục thực hiện việc ủy thác, gồm thẩm quyền ký quyết định
ủy thác, thời gian thực hiện ủy thác, hồ sơ ủy thác. Việc trả lại hồ sơ
ủy thác có đúng không, có ảnh hưởng đến quyền lợi của người được
thi hành án không?
Khi tư vấn về vấn đề ủy thác thi hành nghĩa vụ liên đới, Luật sư
cần lưu ý, trước khi thực hiện việc ủy thác, Chấp hành viên phải xác
minh điều kiện thi hành án của những người phải thi hành nghĩa vụ
liên đới và phải thực hiện việc ủy thác toàn bộ nghĩa vụ thi hành án
đến nơi có điều kiện thi hành án. Đồng thời, để bảo vệ cho quyền lợi
của người được thi hành án, Luật sư cũng có thể đề nghị Chấp hành
viên áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án đối với tài sản ở địa
phương có điều kiện thi hành án nhưng cơ quan thi hành án không lựa
chọn ủy thác thi hành án.
2.7.2. Tư vấn về việc hoãn thi hành án
Khi tư vấn về việc hoãn thi hành án của cơ quan thi hành án,
Luật sư cần xem xét, đối chiếu với các quy định tại Điều 48 Luật Thi
hành án dân sự và Điều 14 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để xem xét
các vấn đề sau:
- Căn cứ ra quyết định hoãn thi hành án;
- Thời hạn ra quyết định hoãn thi hành án;
- Thời gian hoãn thi hành án;
- Thẩm quyền ra quyết định hoãn thi hành án;
- Nội dung hoãn thi hành án;
- Xử lý hồ sơ thi hành án khi ra quyết định hoãn. Ví dụ, xử lý
khoản tiền đã thu được mà chưa trả cho người được thi hành án;
- Căn cứ ra quyết định tiếp tục thi hành án;
- Thời gian ra quyết định tiếp tục thi hành án.
2.7.3. Tư vấn về việc tạm đình chỉ thi hành án
Để tư vấn về tạm đình chỉ thi hành án, Luật sư căn cứ vào

571
Điều 49 Luật Thi hành án dân sự và Điều 332, 354 BLTTDS
năm 2015 quy định về người có thẩm quyền tạm đình chỉ thi hành án
để xem xét một số vấn đề sau:
- Căn cứ tạm đình chỉ thi hành án
- Nội dung tạm đình chỉ thi hành án;
- Căn cứ ra quyết định tiếp tục thi hành án;
- Thời gian ra quyết định tiếp tục thi hành án.
Khi thực hiện việc tư vấn trong việc tạm đình chỉ thi hành án,
Luật sư cần lưu ý trong trường hợp cơ quan thi hành án đã bán đấu giá
tài sản của người phải thi hành án và người trúng đấu giá đã nộp đủ
tiền mua tài sản bán đấu giá mà cơ quan thi hành án nhận được quyết
định kháng nghị và tạm đình chỉ thi hành án của người có thẩm quyền
kháng nghị thì Chấp hành viên phải gửi khoản tiền đã thu được vào
ngân hàng theo hình thức tiết kiệm không kỳ hạn và vẫn tiến hành
giao tài sản cho người trúng đấu giá ngay tình. Trong trường hợp này,
mặc dù tài sản đã được giao cho người trúng đấu giá và tiền đã thu
được nhưng Chấp hành viên vẫn không chi trả tiền cho người được thi
hành án là đúng quy định của pháp luật nên Luật sư không tư vấn cho
đương sự khiếu nại đối với nội dung này.
2.7.4. Tư vấn về việc đình chỉ thi hành án
Khi tư vấn về việc đình chỉ thi hành án, Luật sư căn cứ vào
Điều 50 Luật Thi hành án dân sự để xem xét các vấn đề sau:
- Căn cứ ra quyết định đình chỉ thi hành án;
- Thẩm quyền ra quyết định đình chỉ thi hành án;
- Nội dung đình chỉ thi hành án;
- Cách xử lý hồ sơ thi hành án khi ra quyết định đình chỉ thi
hành án.
2.7.5. Tư vấn về việc xác định việc chưa có điều kiện thi hành án
Để tư vấn về việc xác định việc chưa có điều kiện thi hành án,
Luật sư căn cứ vào Điều 44a Luật Thi hành án dân sự, Điều 9 Nghị
định số 62/2015/NĐ-CP xem xét các vấn đề sau:

572
- Căn cứ ra quyết định xác định việc chưa có điều kiện thi
hành án;
- Thẩm quyền ra quyết định xác định việc chưa có điều kiện thi
hành án;
- Nội dung xác định việc chưa có điều kiện thi hành án;
- Cách xử lý hồ sơ thi hành án khi ra quyết định xác định việc
chưa có điều kiện thi hành án.
Khi thực hiện tư vấn trong việc xác định việc chưa có điều kiện
thi hành án, Luật sư cần lưu ý:
- Để xem xét việc cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định xác
định việc chưa có điều kiện thi hành án có đúng quy định của pháp
luật hay không thì Luật sư cần kiểm tra kết quả xác minh của Chấp
hành viên.
- Nếu là Luật sư của người được thi hành án thì Luật sư sẽ tư vấn
cho khách hàng trong việc cung cấp thông tin mới về điều kiện thi
hành án của người phải thi hành án cho Chấp hành viên và yêu cầu
Chấp hành viên tiến hành xác minh khi có thông tin.
3. Kỹ năng tư vấn về việc khiếu nại, giải quyết khiếu nại
trong thi hành án dân sự
3.1. Soạn thảo đơn khiếu nại về thi hành án
3.1.1. Xác định nội dung khiếu nại về thi hành án
Theo quy định tại Điều 140 Luật Thi hành án dân sự, người được
thi hành án, người phải thi hành án và người có quyền, nghĩa vụ liên
quan có quyền khiếu nại các quyết định, hành vi của Chấp hành viên,
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự nếu có căn cứ cho rằng quyết
định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp
của mình. Theo đó, khi xem xét nội dung khiếu nại, Luật sư cần xem
xét các vấn đề sau:
- Người có quyền khiếu nại: là người phải thi hành án, người
được thi hành án và người có quyền, lợi ích liên quan. Luật sư căn cứ
vào Điều 3 Luật Thi hành án dân sự để xác định người khiếu nại.
- Đối tượng bị khiếu nại: là quyết định, hành vi của Chấp hành

573
viên, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự trong quá trình tổ chức thi
hành án nhưng quyết định, hành vi đó có căn cứ trái pháp luật, xâm
phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại. Để nhận biết
các hành vi, quyết định của Chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự có trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp
của người khiếu nại hay không? Luật sư cần xem xét và đối chiếu với
các quy định của pháp luật theo phần phân tích tại mục “tư vấn về trình
tự, thủ tục thi hành án” để nhận biết và tư vấn cho người khiếu nại.
- Người bị khiếu nại: là Chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự. Luật sư lưu ý, đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan không có quyền khiếu nại Thẩm tra viên, Thư ký thi hành
án, chuyên viên, cán sự, văn thư, thủ quỹ, thủ kho của cơ quan thi
hành án dân sự.
3.1.2. Xác định thời hiệu khiếu nại
Khoản 2 Điều 140 Luật Thi hành án dân sự đã quy định thời hiệu
khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành
án, Chấp hành viên như sau:
- Đối với quyết định, hành vi về thi hành án trước khi áp dụng
biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế là 15 ngày, kể từ ngày nhận
được quyết định hoặc biết được hành vi đó;
- Đối với quyết định về áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản
là 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định;
- Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp bảo đảm
khác (tạm giữ tài sản, giấy tờ của đương sự; Tạm dừng việc đăng ký,
chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng tài sản) là 10 ngày,
kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó;
- Đối với quyết định, hành vi về áp dụng biện pháp cưỡng chế là
30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành vi đó;
- Đối với quyết định, hành vi sau khi áp dụng biện pháp cưỡng
chế là 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hoặc biết được hành
vi đó.
Trường hợp do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả
kháng mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo

574
đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất
khả kháng không tính vào thời hạn khiếu nại.
Lần khiếu nại tiếp theo, thời hiệu là 15 ngày, kể từ ngày nhận
được quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền.
Khi tư vấn về thời hiệu khiếu nại, Luật sư cần lưu ý:
- Luật sư căn cứ vào Điều 147 BLDS năm 2015 để xác định
ngày bắt đầu của thời hiệu khiếu nại.
- Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định áp
dụng biện pháp bảo đảm thi hành án có hiệu lực thi hành theo khoản 3
Điều 38 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP. Vì vậy, nếu đương sự hoặc
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khiếu nại tiếp đối với quyết
định giải quyết khiếu nại lần đầu về quyết định áp dụng biện pháp bảo
đảm thi hành án thì Luật sư tư vấn không nên khiếu nại tiếp vì cơ quan
thi hành án dân sự sẽ không thụ lý, giải quyết việc khiếu nại tiếp của
họ theo quy định tại khoản 5 Điều 141 Luật Thi hành án dân sự mà sẽ
khiếu nại các quyết định, hành vi tiếp theo của Chấp hành viên như
quyết định khấu trừ tài khoản sau khi áp dụng biện pháp phong tỏa tài
khoản hoặc quyết định kê biên của Chấp hành viên sau khi áp dụng
biện pháp tạm giữ tài sản…
3.1.3. Xác định thẩm quyền giải quyết khiếu nại
Thẩm quyền giải quyết khiếu nại được quy định tại Điều 142
Luật Thi hành án dân sự và Điều 7 Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày
01/02/2016 của Bộ Tư pháp. Theo đó, thẩm quyền giải quyết khiếu
nại được quy định như sau:
(i) Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện giải quyết
khiếu nại đối với quyết định, hành vi trái pháp luật của Chấp hành
viên thuộc quyền quản lý của cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện;
Quyết định, hành vi của Phó Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự
khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên.
(ii) Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh giải quyết
đối với các khiếu nại sau đây:
- Khiếu nại quyết định, hành vi của Phó Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự cấp tỉnh khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp
hành viên;

575
- Khiếu nại quyết định, hành vi trái pháp luật của Chấp hành viên
thuộc quyền quản lý của cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh;
- Khiếu nại quyết định, hành vi trái pháp luật của Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự cấp huyện;
- Khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện. Quyết định giải quyết
khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh có hiệu
lực thi hành.
(iii) Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư
pháp giải quyết đối với các khiếu nại sau đây:
- Khiếu nại quyết định, hành vi trái pháp luật của Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự cấp tỉnh;
- Khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh. Quyết định giải quyết
khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ
Tư pháp có hiệu lực thi hành.
(iv) Bộ trưởng Bộ Tư pháp giải quyết các khiếu nại sau đây:
- Khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ
trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp quy định
tại điểm a khoản 3 Điều 142 Luật Thi hành án dân sự. Quyết định giải
quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Tư pháp có hiệu lực thi hành;
- Trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Tư pháp có quyền xem xét
lại quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực thi hành quy định tại
khoản 2 và khoản 3 Điều 143 Luật Thi hành án dân sự.
(v) Thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu giải quyết
khiếu nại đối với quyết định, hành vi trái pháp luật của Chấp hành
viên cơ quan thi hành án cấp quân khu.
(vi) Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc
phòng giải quyết các khiếu nại sau đây:
- Khiếu nại đối với quyết định, hành vi trái pháp luật của Thủ
trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu;
- Khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ

576
trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu. Quyết định giải quyết khiếu
nại của Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng
có hiệu lực thi hành.
(vii) Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giải quyết các khiếu nại sau đây:
- Khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng
cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng. Quyết định giải quyết
khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có hiệu lực thi hành;
- Trường hợp cần thiết, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có quyền xem
xét lại quyết định giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan quản lý
thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng được quy định tại điểm b khoản 6
Điều 142 Luật Thi hành án dân sự.
Quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực thi hành được
Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng xem xét lại gồm
các trường hợp sau đây (quy định tại khoản 4 Điều 38 Nghị định
số 62/2015/NĐ-CP):
- Quyết định, hành vi bị khiếu nại là trái pháp luật nhưng quyết
định giải quyết khiếu nại cho rằng quyết định, hành vi đó là đúng
pháp luật;
- Việc giải quyết khiếu nại đã vi phạm quy định của pháp luật về
thủ tục giải quyết khiếu nại về thi hành án;
- Có tình tiết mới làm thay đổi cơ bản kết quả giải quyết khiếu nại.
Lưu ý, khi soạn thảo đơn khiếu nại, Luật sư cần xem xét kỹ các nội
dung trên để đơn khiếu nại không vi phạm các quy định tại Điều 141
Luật Thi hành án dân sự để việc khiếu nại được thụ lý giải quyết.
3.2. Kỹ năng tư vấn về trình tự giải quyết khiếu nại
3.2.1. Tư vấn về việc thụ lý đơn khiếu nại
Thụ lý đơn khiếu nại được quy định tại Điều 148 Luật Thi hành
án dân sự và Điều 9 Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016
của Bộ Tư pháp. Theo đó, trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết và không thuộc

577
trường hợp quy định tại Điều 141 Luật Thi hành án dân sự thì người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu phải thụ lý để giải quyết và
thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại biết. Trường hợp người có
thẩm quyền không thụ lý đơn khiếu nại để giải quyết thì phải thông báo
và nêu rõ lý do. Như vậy, đối với trường hợp người có thẩm quyền
không thụ lý giải quyết đơn khiếu nại của người khiếu nại thì Luật sư
căn cứ vào Điều 141 Luật Thi hành án dân sự để xem xét việc không
thụ lý giải quyết có căn cứ pháp luật không để tư vấn cho người khiếu
nại. Những trường hợp không thụ lý giải quyết đơn khiếu nại gồm:
- Quyết định, hành vi bị khiếu nại không liên quan trực tiếp đến
quyền, lợi ích hợp pháp của người khiếu nại.
- Người khiếu nại không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ mà
không có người đại diện hợp pháp, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác.
- Người đại diện không có giấy tờ chứng minh về việc đại diện
hợp pháp của mình.
- Thời hiệu khiếu nại đã hết.
- Việc khiếu nại đã có quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực
thi hành, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 và điểm b
khoản 7 Điều 142 của Luật Thi hành án dân sự.
3.2.2. Tư vấn về thời hạn giải quyết khiếu nại
Điều 146 Luật Thi hành án dân sự quy định về thời hạn giải
quyết khiếu nại như sau:
- Đối với quyết định, hành vi quy định tại điểm a khoản 2
Điều 140 của Luật Thi hành án dân sự thì thời hạn giải quyết khiếu nại
lần đầu là 15 ngày, lần hai là 30 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn khiếu nại.
- Đối với quyết định, hành vi quy định tại điểm b khoản 2
Điều 140 của Luật Thi hành án dân sự thì thời hạn giải quyết khiếu nại
là 05 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý đơn khiếu nại.
- Đối với quyết định, hành vi quy định tại điểm c khoản 2 Điều 140
của Luật này thì thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu là 30 ngày, lần
hai là 45 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn khiếu nại. Trường hợp cần thiết,

578
đối với những vụ, việc có tính chất phức tạp thì thời hạn giải quyết
khiếu nại có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày, kể từ ngày hết thời
hạn giải quyết khiếu nại.
- Đối với quyết định, hành vi quy định tại điểm d khoản 2
Điều 140 của Luật Thi hành án dân sự thì thời hạn giải quyết khiếu nại
lần đầu là 15 ngày, lần hai là 30 ngày, kể từ ngày thụ lý đơn khiếu nại.
- Trường hợp ở vùng sâu, vùng xa, đường sá xa xôi, đi lại khó
khăn, vụ, việc có tính chất phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại
có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải
quyết khiếu nại.
Theo đó, Luật sư cần xác định được hành vi, quyết định bị
khiếu nại thuộc điểm nào khoản 2 của Điều 140 Luật Thi hành án
dân sự để xác định thời hạn giải quyết khiếu nại của người có thẩm
quyền giải quyết.
3.2.3. Tư vấn về trình tự giải quyết khiếu nại
a) Trình tự giải quyết khiếu nại lần đầu
Trình tự giải quyết khiếu nại lần đầu được quy định tại Điều 150
Luật Thi hành án dân sự và Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày
01/02/2016 của Bộ Tư pháp, theo đó trình tự giải quyết khiếu nại lần
đầu được quy định như sau: Sau khi thụ lý đơn khiếu nại, người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiến hành xác minh, yêu cầu người bị
khiếu nại giải trình, trong trường hợp cần thiết, có thể trưng cầu giám
định hoặc tổ chức đối thoại để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của
người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại. Người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại phải ra quyết định giải quyết khiếu nại đối với
khiếu nại thuộc thẩm quyền.
b) Trình tự giải quyết khiếu nại lần hai
Trình tự giải quyết khiếu nại lần hai được quy định tại Điều 152
Luật Thi hành án dân sự, cụ thể như sau: Người khiếu nại sau khi
nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, nếu không đồng ý
với nội dung giải quyết khiếu nại lần đầu thì tiếp tục khiếu nại lần hai.
Khi gửi đơn khiếu nại lần hai đến người có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại thì người khiếu nại phải gửi đơn kèm theo bản sao quyết

579
định giải quyết khiếu nại lần đầu và tài liệu liên quan cho người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai.
Trong quá trình giải quyết khiếu nại lần hai, người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại có các quyền được quy định tại Điều 145
Luật Thi hành án dân sự và có quyền yêu cầu người giải quyết khiếu
nại lần đầu, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp thông tin,
tài liệu và những bằng chứng liên quan đến nội dung khiếu nại; triệu
tập người bị khiếu nại, người khiếu nại để tổ chức đối thoại khi cần
thiết; xác minh; trưng cầu giám định, tiến hành các biện pháp khác
theo quy định của pháp luật để giải quyết khiếu nại. Cơ quan, tổ chức,
cá nhân khi nhận được yêu cầu phải thực hiện đúng các yêu cầu đó.
Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai phải ra quyết
định giải quyết khiếu nại.
Như vậy, khi tư vấn về trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại, Luật
sư cần đối chiếu với các quy định của pháp luật để xem xét người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại đã thực hiện đúng trình tự luật định
không. Ví dụ, trường hợp cần trưng cầu giám định thì người giải quyết
khiếu nại đã trưng cầu giám định chưa… Nếu chưa thì Luật sư tư vấn
cho người khiếu nại yêu cầu trưng cầu giám định, tổ chức đối thoại
khi cần thiết. Đặc biệt, khi tư vấn về nội dung giải quyết khiếu nại của
người có thẩm quyền giải quyết, Luật sư cần xem xét phần tư vấn về
trình tự, thủ tục thi hành án để xem xét hành vi, quyết định của Chấp
hành viên, Thủ trưởng cơ quan thi hành án đang bị khiếu nại đúng hay
sai. Nếu sai thì Luật sư phải chỉ ra cơ sở pháp lý để người khiếu nại có
thể khiếu nại tiếp hoặc đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét lại
quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực thi hành theo quy định
tại khoản 4 Điều 38 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP để bảo vệ quyền lợi
cho người khiếu nại.
4. Câu hỏi ôn tập, thảo luận
1. Trình bày trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định của
cơ quan thi hành án dân sự khi nhận được yêu cầu thi hành án của
đương sự?
2. Trình bày trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết khiếu nại
của đương sự trong hoạt động thi hành án dân sự?

580
Tình huống 1:
Ngày 25/9/2016, chị Nguyễn Thị V - người được nhận khoản
tiền cấp dưỡng nuôi con là 1.000.000 đồng/tháng trong Bản án số
234/2009/HNGĐ-ST ngày 13/5/2009 của Tòa án nhân dân huyện M,
tỉnh K có nội dung: “Buộc anh Nguyễn T phải cấp dưỡng nuôi con là
cháu Nguyễn P (sinh ngày 12/9/2006) cho chị Nguyễn Thị V mỗi
tháng 1.000.000 đồng, từ tháng 5/2009 đến khi cháu P đủ 18 tuổi” đến
yêu cầu Luật sư soạn thảo đơn yêu cầu thi hành án và tư vấn thủ tục
nộp đơn yêu cầu thi hành án.
Anh (chị) hãy soạn thảo đơn yêu cầu thi hành án và tư vấn các
thủ tục để nộp đơn yêu cầu thi hành án đến cơ quan thi hành án có
thẩm quyền?
Tình huống 2:
Anh Lê K đến nhờ Luật sư tư vấn về thủ tục yêu cầu định giá lại
tài sản và bán đấu giá tài sản thi hành án với các tình tiết như sau: anh
là người phải thi hành án trong Bản án số 34/2015/KDTM-ST của Tòa
án nhân dân quận G, thành phố H phải trả nợ cho Ngân hàng số tiền là
3.000.000.000 đồng. Cơ quan thi hành án đã kê biên tài sản là quyền
sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của anh. Sau khi kê biên, Chấp
hành viên đã thông báo kết quả thẩm định giá tài sản là 2.500.000.000
đồng. Sau đó, Chấp hành viên đã ký hợp đồng bán đấu giá tài sản với
Trung tâm bán đấu giá tài sản X. Tuy nhiên, do không có ai đăng ký
mua tài sản bán đấu giá nên Chấp hành viên đã thông báo cho anh K
về quyền thỏa thuận mức giảm giá tài sản với Ngân hàng. Anh K thấy
rằng có sự chưa rõ ràng trong việc định giá và bán đấu giá tài sản nên
nhờ Luật sư tư vấn về việc yêu cầu định giá lại tài sản và thay đổi tổ
chức bán đấu giá tài sản của anh.
Anh (chị) hãy tư vấn đối với yêu cầu của anh K.

581
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. VĂN BẢN PHÁP LUẬT


I. HIẾN PHÁP
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013.
II. PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
1. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004;
2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2011;
3. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
4. Nghị quyết số 02/2005/NQ-HĐTP ngày 27/4/2005 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số
quy định tại Chương VIII “Các biện pháp khẩn cấp tạm thời” của Bộ
luật Tố tụng dân sự;
5. Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số
quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Tố
tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự;
6. Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số
quy định về “Chứng cứ và chứng minh” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã
được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật Tố tụng dân sự;
7. Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số
quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp
sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự;

582
8. Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số
quy định trong Phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp
phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự;
9. Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội
đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và
khoản 3 Điều 192 BLTTDS số 92/2015/QH13 về trả lại đơn khởi
kiện, quyền nộp đơn khởi kiện lại vụ án;
10. Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số
quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu tài
sản bảo đảm của khoản nợ xấu tại TAND;
11. Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công
bố và áp dụng án lệ;
12. Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-TANDTC-VKSNDTC
ngày 15/10/2013 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao hướng dẫn thi hành quy định về thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm và thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao;
13. Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-
BTP-BTC ngày 28/3/2014 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Điều
92 Bộ luật Tố tụng dân sự đã được sửa đổi theo Luật sửa đổi, bổ sung
Bộ luật Tố tụng dân sự về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản;
14. Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC
ngày 31/8/2016 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối
cao quy định việc phối hợp giữa Viện kiểm sát dân dân và Tòa án nhân
dân trong việc thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự;
15. Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của
Tòa án nhân dân tối cao giải đáp một số vấn đề về nghiệp vụ;

583
16. Công văn số 146/TANDTC-PC ngày 11/7/2017 của Tòa án
nhân dân tối cao về việc viện dẫn, áp dụng án lệ trong xét xử.
III. PHÁP LUẬT DÂN SỰ
1. Bộ luật Dân sự năm 1995;
2. Bộ luật Dân sự năm 2005;
3. Bộ luật Dân sự năm 2015;
4. Luật Đất đai năm 2003 (sửa đổi, bổ sung năm 2009);
5. Luật Đất đai năm 2013;
6. Luật Nhà ở năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009);
7. Luật Nhà ở năm 2015;
8. Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 20/8/1998 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định giao dịch dân sự về nhà ở được
xác lập trước ngày 01/7/1991;
9. Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng
pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn
nhân và gia đình;
10. Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp
luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình;
11. Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy
định của Bộ luật Dân sự 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
12. Thông tư liên tịch số 01/2014/TTLT-NHNN-BXD-BTP-
BTNMT ngày 25/4/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Xây
dựng, Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn thủ tục
thế chấp nhà ở hình thành trong tương lai theo quy định tại Nghị định
số 71/2010/NĐ-CP ngày 23/6/2010 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở.
IV. PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959;
2. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986;

584
3. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;
4. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
5. Luật Hộ tịch năm 2014;
6. Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về
việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình;
7. Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình;
8. Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ
quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10
của Quốc hội về việc thi hành Luật Hôn nhân và gia đình;
9. Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình
về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài;
10. Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch;
11. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số
quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;
12. Thông tư số 07/2001/TT-BTP ngày 10/12/2001 của Bộ Tư
pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị định số
77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết về
đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội;
13. Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-
BTP ngày 03/01/2001 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Nghị quyết số
35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật
Hôn nhân và gia đình;
14. Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-
BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành một số quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
15. Chỉ thị số 02/2003/CT-BTP ngày 14/7/2003 của Bộ trưởng
Bộ Tư pháp về việc tiếp tục đăng ký kết hôn cho các trường hợp nam
và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến
ngày 01/01/2001.

585
V. PHÁP LUẬT KINH DOANH, THƯƠNG MẠI
1. Luật Thương mại năm 2005;
2. Luật Đầu tư năm 2014;
3. Luật Doanh nghiệp năm 2014;
4. Nghị định số 96/2015/NĐ-CP ngày 19/10/2015 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp;
5. Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015 của Chính phủ
về đăng ký doanh nghiệp;
6. Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17/10/2016 của Tòa án nhân
dân tối cao về việc công bố án lệ;
7. Văn bản hợp nhất số 19/VBHN-BTC ngày 09/5/2014 của Bộ
Tài chính quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm
kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện.
VI. PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
1. Bộ luật Lao động năm 2012, Bộ luật Lao động năm 2019;
2. Luật Việc làm năm 2013;
3. Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014;
4. Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015;
5. Nghị định số 44/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Lao động về hợp đồng
lao động;
6. Nghị định số 45/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Lao động về thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi và an toàn lao động, vệ sinh lao động;
7. Nghị định số 55/2013/NĐ-CP ngày 22/5/2013 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành khoản 3 Điều 54 của Bộ luật Lao động về
việc cấp giấy phép hoạt động cho thuê lại lao động, việc ký quỹ và
danh mục công việc được thực hiện cho thuê lại lao động;
8. Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 của Chính phủ
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo
hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng;

586
9. Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước
ngoài làm việc tại Việt Nam;
10. Nghị định số 119/2014/NĐ-CP ngày 17/12/2014 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật
Lao động, Luật Dạy nghề, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc
ở nước ngoài theo hợp đồng lao động về khiếu nại, tố cáo;
11. Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động;
12. Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12/3/2015 của Chính
phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Việc làm về bảo hiểm
thất nghiệp;
13. Nghị định số 63/2015/NĐ-CP ngày 22/7/2015 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao
động quy định chính sách đối với người lao động dôi dư khi sắp xếp
lại Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm
chủ sở hữu;
14. Nghị định số 85/2015/NĐ-CP ngày 01/10/2015 của Chính
phủ quy định chi tiết một số điều của Bộ luật Lao động về chính sách
đối với lao động nữ;
15. Nghị định số 88/2015/NĐ-CP ngày 07/10/2015 của Chính
phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 95/2013/NĐ-CP
ngày 22/8/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
lao động, bảo hiểm xã hội và đưa người lao động Việt Nam đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
16. Thông tư số 10/2013/TT-BLĐTBXH ngày 10/6/2013 của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành danh mục các công việc
và nơi làm việc cấm sử dụng lao động là người chưa thành niên;
17. Thông tư số 11/2013/TT-BLĐTBXH ngày 11/6/2013 của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành danh mục các công việc
nhẹ được sử dụng người dưới 15 tuổi làm việc;
18. Thông tư số 26/2013/TT-BLĐTBXH ngày 18/10/2013 của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành danh mục công việc
không được sử dụng lao động nữ;

587
19. Thông tư số 30/2013/TT-BLĐTBXH ngày 25/10/2013 của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thi hành một số điều
của Nghị định số 44/2013/NĐ-CP ngày 10/5/2013 quy định chi tiết
một số điều của Bộ luật Lao động về hợp đồng lao động;
20. Thông tư số 03/2014/TT-BLĐTBXH ngày 20/01/2014 của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thi hành một số điều
của Nghị định số 102/2013/NĐ-CP ngày 05/9/2013 quy định chi tiết
một số điều của Bộ luật Lao động về lao động nước ngoài làm việc tại
Việt Nam;
21. Thông tư số 05/2014/TT-BLĐTBXH ngày 06/3/2014 của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành danh mục máy, thiết bị,
vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động;
22. Thông tư số 23/2015/TT-BLĐTBXH ngày 23/6/2015 của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện một số điều
về tiền lương của Nghị định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015;
23. Thông tư số 44/2015/TT-BLĐTBXH ngày 22/10/2015 của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện một số
điều của Nghị định số 63/2015/NĐ-CP ngày 22/7/2015;
24. Thông tư số 47/2015/TT-BLĐTBXH ngày 16/11/2015 của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện một số
điều về hợp đồng, kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất của Nghị
định số 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015.
VII. MỘT SỐ VĂN BẢN PHÁP LUẬT CHUYÊN
NGÀNH KHÁC
1. Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
2. Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 (sửa đổi, bổ sung
năm 2010);
3. Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005;
4. Luật Cạnh tranh năm 2005;
5. Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
6. Luật Trọng tài thương mại năm 2010;
7. Luật Công chứng năm 2014;

588
8. Luật Phá sản năm 2014;
9. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014;
10. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014;
11. Luật Tố tụng hành chính năm 2015;
12. Luật Phí và lệ phí năm 2015;
13. Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung
một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối năm 2013;
14. Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 03/8/2005 của
Chính phủ về thẩm định giá;
15. Nghị định số 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Ngoại hối và Nghị
định số 70/2014/NĐ-CP ngày 17/7/2014 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối và Pháp lệnh sửa
đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ngoại hối;
16. Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của
Chính phủ về giao dịch bảo đảm và Nghị định số 11/2012/NĐ-CP
ngày 22/02/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP;
17. Nghị định số 09/2009/NĐ-CP ngày 05/02/2009 của
Chính phủ ban hành Quy chế quản lý tài chính của công ty nhà nước
và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác;
18. Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ
về bán đấu giá tài sản;
19. Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 của Chính phủ
về đăng ký giao dịch bảo đảm và Nghị định số 05/2012/NĐ-CP
ngày 02/02/2012 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các
nghị định về đăng ký giao dịch bảo đảm, trợ giúp pháp lý, luật sư, tư
vấn pháp luật;
20. Nghị định số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013 của Chính phủ
về thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty quản lý tài sản của các
tổ chức tín dụng Việt Nam;
21. Nghị định số 71/2013/NĐ-CP ngày 11/7/2013 của Chính phủ

589
về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100%
vốn điều lệ;
22. Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của Chính
phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp,
hành chính tư pháp, hôn nhân gia đình, thi hành án dân sự, phá sản
doanh nghiệp, hợp tác xã;
23. Nghị định số 34/2015/NĐ-CP ngày 05/4/2015 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung Nghị định số 53/2013/NĐ-CP của Chính phủ về
thành lập, tổ chức và hoạt động của Công ty quản lý tài sản của các tổ
chức tín dụng Việt Nam;
24. Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP
ngày 24/9/2013 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân gia đình, thi
hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã;
25. Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ
quy định thời hạn, trình tự, thủ tục thi hành án hành chính và xử lý trách
nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án;
26. Nghị định số 102/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính
phủ về đăng ký biện pháp bảo đảm;
27. Thông tư số 242/2009/TT-BTC ngày 30/12/2009 của Bộ Tài
chính hướng dẫn thi hành một số điều của Quy chế quản lý tài chính
của công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh
nghiệp khác ban hành kèm theo Nghị định số 09/2009/NĐ-CP;
28. Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của Ngân
hàng Nhà nước hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt
Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận;
29. Thông tư số 29/2013/TT-NHNN ngày 06/12/2013 của Ngân
hàng Nhà nước quy định cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng vay là người cư trú;
30. Thông tư liên tịch số 20/2011/TTLT-BTP-BTNMT
ngày 18/11/2011 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng
dẫn việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất;
31. Thông tư liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN

590
ngày 06/6/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân
hàng Nhà nước hướng dẫn một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm;
32. Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế cho vay của tổ
chức tín dụng đối với khách hàng và các quyết định sửa đổi, bổ sung
số 28/2002/QĐ-NHNN ngày 11/01/2002, số 127/2005/QĐ-NHNN
ngày 03/02/2005, số 783/2005/QĐ-NHNN ngày 31/5/2005.
VIII. PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1. Luật Thi hành án dân sự năm 2008;
2. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự
năm 2014;
3. Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành
án dân sự;
4. Nghị định số 71/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 của Chính phủ
quy định thời hạn, trình tự, thủ tục thi hành án hành chính và xử lý trách
nhiệm đối với người không thi hành bản án, quyết định của Tòa án;
5. Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày 17/3/2020 của Chính phủ
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP;
6. Thông tư số 91/2010/TT-BTC ngày 17/6/2010 của Bộ Tài
chính hướng dẫn về kế toán nghiệp vụ thi hành án dân sự;
7. Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư pháp
hướng dẫn thực hiện thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu
nghiệp vụ trong thi hành án dân sự;
8. Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ Tư
pháp quy định quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến
nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự;
9. Thông tư số 200/2016/TT-BTC ngày 09/11/2016 của Bộ Tài
chính quy định việc lập, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí bảo
đảm hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, kinh phí cưỡng chế thi
hành án dân sự;
10. Thông tư số 216/2016/TT-BTC ngày 10/11/2016 của Bộ Tài
chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thi
hành án dân sự;

591
11. Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-
NHNNVN ngày 11/4/2014 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng
dẫn việc cung cấp thông tin về tài khoản, thu nhập của người phải thi
hành án và thực hiện phong tỏa, khấu trừ tiền để thi hành án dân sự;
12. Thông tư liên tịch số 12/2015/TTLT-BTP-BTC-TANDTC-
VKSNDTC ngày 15/9/2015 của Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn việc miễn,
giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước;
13. Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-
VKSNDTC ngày 01/8/2016 của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định một số vấn đề về thủ tục thi
hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự.
B. SÁCH VÀ CÁC TÀI LIỆU KHÁC
1. PGS.TS. Đỗ Văn Đại (Chủ biên), Bình luận khoa học những
điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội, 2015;
2. TS. Ngô Hoàng Oanh (Chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật
Dân sự năm 2015, Nxb. Lao Động, Hà Nội, 2015;
3. TS. Bùi Thị Huyền (Chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015, Nxb. Lao Động, Hà Nội, 2015;
4. TS. Hoàng Thế Liên - Nguyễn Đức Giao (Chủ biên), Bình
luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2009;
5. TS. Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật Hôn nhân
và gia đình Việt Nam, Tập 1, Nxb. Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 2002;
6. TS. Đinh Trung Tụng (Chủ biên), Bình luận những nội dung
mới của Bộ luật Dân sự năm 2005, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005;
7. PGS.TS. Nguyễn Thị Hoài Phương (Chủ biên), Bình luận
những điểm mới trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Nxb. Hồng
Đức, Hà Nội, 2015;
8. Tưởng Duy Lượng, Bình luận một số vụ án dân sự và hôn
nhân và gia đình, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009;
9. Nhà pháp luật Việt Pháp, Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về
Hợp đồng thương mại quốc tế, Nxb. Tư pháp, 2004;

592
10. TS. Lê Mai Anh, Bồi thường thiệt hại do người có
thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, Nxb. Lao động -
Xã hội, 2004;
11. TS. Nguyễn Minh Hằng, Cẩm nang pháp luật hôn nhân và
gia đình, Nxb. Thông tin và Truyền thông, 2012;
12. PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa, Cẩm nang hợp đồng thương mại,
Nxb. Lao động, 2010;
13. TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp
luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2008;
14. TS. Nguyễn Ngọc Khánh, Chế định hợp đồng trong Bộ luật
Dân sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, 2007;
15. TS. Nguyễn Minh Hằng, TS. Nguyễn Văn Cường, Giao dịch
về quyền sử dụng đất vô hiệu pháp luật và thực tiễn xét xử,
Nxb. Thông tin và Truyền thông, 2011;
16. Học viện Tư pháp, Giáo trình Luật Dân sự, Nxb. Công an
nhân dân, 2007;
17. Học viện Tư pháp, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
(tái bản có chỉnh lý, bổ sung), Nxb. Tư pháp, 2014;
18. Học viện Tư pháp, Giáo trình Kỹ năng tư vấn pháp luật và
hợp đồng, Nxb. Công an nhân dân, 2012;
19. Học viện Tư pháp, Giáo trình Kỹ năng giải quyết vụ việc dân
sự (Giáo trình tái bản có chỉnh lý, bổ sung dùng cho đào tạo Thẩm
phán, Kiểm sát viên, Luật sư, được hoàn thành với sự tài trợ viết bài
của cơ quan hợp tác quốc tế nhật bản JICA), Nxb. Tư pháp, 2013;
20. Học viện Tư pháp, Giáo trình Kỹ năng tư vấn pháp luật cho
doanh nghiệp (phần chuyên sâu), Nxb. Tư pháp, 2016;
21. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng dân
sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, 2005;
22. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và
gia đình Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, 2012;
23. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự, Tập I
và II, Nxb. Công an nhân dân, 2012;

593
24. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Giáo trình
những quy định chung về Luật Dân sự, Nxb. Hồng Đức - Hội Luật gia
Việt Nam, 2012;
25. Nguyễn Minh Hằng, Hoạt động chứng minh trong pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Chính trị - Hành chính, 2009;
26. PGS.TS. Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và
bình luận bản án; Luật Thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản
án, Nxb. Chính trị quốc gia, 2011 (tái bản lần thứ ba);
27. TS. Phùng Trung Tập, Luận bàn về các hình thức sở hữu và sở
hữu chung hợp nhất của vợ chồng, Nxb. Chính trị - Hành chính 2011;
28. TS. Đỗ Văn Đại, Luật thừa kế Việt Nam - Bản án và bình
luận bản án, Nxb. Chính trị quốc gia, 2009;
29. TS. Đỗ Văn Đại, Luật Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng -
Bản án và bình luận bản án, Nxb. Chính trị quốc gia, 2010;
30. Nguyễn Văn Cừ và Ngô Thị Hường, Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2002;
31. TS. Nguyễn Đình Lộc, Phân tích những quy định chung của
Bộ luật Dân sự từ Điều 1 đến Điều 171, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2001;
32. TS. Nguyễn Minh Hằng (Chủ biên), Pháp luật đất đai trong
hoạt động Nghề Luật sư, Nxb. Thông tin và Truyền thông, 2013;
33. Luật gia Tưởng Duy Lượng, Pháp luật hôn nhân - gia đình,
thừa kế và thực tiễn xét xử, Nxb. Chính trị quốc gia, 2013;
34. Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư - Những
vấn đề pháp lý cơ bản, Nxb. Chính trị quốc gia, 2009;
35. Tòa án nhân dân tối cao, Quyết định giám đốc thẩm của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao năm 2003 - 2004, 2005;
36. Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam, Quyết định giám đốc
thẩm, tái thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về
dân sự năm 2010 - 2012, Hà Nội, 2014;
37. Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam, Quyết định giám đốc

594
thẩm, tái thẩm của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao về kinh doanh - thương mại và hành chính năm 2010 - 2012,
Hà Nội, 2014;
38. Viện Khoa học xét xử, So sánh Bộ luật Dân sự năm 1995 và
Bộ luật Dân sự năm 2005, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005;
39. Học viện Tư pháp, Sổ tay Luật sư, Nxb. Công an nhân
dân, 2004;
40. TS. Lê Mai Anh, TS. Nguyễn Minh Hằng (Chủ biên), Sổ tay
tư vấn pháp luật - Phần Dân sự, Nxb. Lao động, 2014;
41. Sổ tay Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao
http://www.sotaythamphan.gov.vn
42. Trường Cán bộ Tòa án - Tòa án nhân dân tối cao, Tài liệu tập
huấn Bộ luật Tố tụng dân sự, 2012;
43. Trường Đại học Luật Hà Nội, Từ điển giải thích thuật ngữ
Luật học (Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Tố tụng dân
sự, Nxb. Công an nhân dân, 1999;
44. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2003;
45. TS. Nguyễn Văn Tiến, TS. Đỗ Văn Đại, Tuyển tập các bản
án, quyết định của Tòa án Việt Nam về tố tụng dân sự, Nxb. Lao
động, 2010;
46. TS. Nguyễn Văn Tiến, Thẩm quyền xét xử của Tòa án
nhân dân đối với các vụ việc kinh doanh, thương mại theo pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh, 2010;
47. ThS. Trần Minh Tiến, Tra cứu Bộ luật Tố tụng dân sự,
Nxb. Tư pháp, 2006;
48. ThS. Nguyễn Thị Hạnh, Tra cứu pháp luật tố tụng dân sự,
Nxb. Tư pháp, 2013;
49. TS. Phan Hữu Thư, Xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự -
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, 2001;
50. TS. Nguyễn Minh Hằng (Chủ biên), Xử lý tình huống
trong thi hành Luật Đất đai năm 2013, Nxb. Thông tin và Truyền
thông, 2013.

595
MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 6


LỜI GIỚI THIỆU 7
Chương 1. KỸ NĂNG KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ 9
1. Kỹ năng chung về khởi kiện vụ án dân sự 9
2. Kỹ năng đặc thù theo loại án trong tiếp xúc, trao đổi với
khách hàng và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện 49
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 103
Chương 2. KỸ NĂNG THU THẬP, CUNG CẤP, GIAO
NỘP CHỨNG CỨ 106
1. Tư vấn cho khách hàng về nghĩa vụ thu thập, cung cấp, giao
nộp chứng cứ và hậu quả pháp lý của việc vi phạm nghĩa vụ 107
2. Kỹ năng của Luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ 115
3. Kỹ năng của Luật sư trong hoạt động cung cấp, giao nộp
chứng cứ 143
4. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 153
Chương 3. KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU HỒ SƠ, ĐÁNH
GIÁ VÀ SỬ DỤNG CHỨNG CỨ 155
1. Một số vấn đề chung trong hoạt động nghiên cứu hồ sơ,
đánh giá và sử dụng chứng cứ 156
2. Kỹ năng đặc thù theo loại án trong hoạt động nghiên cứu
hồ sơ, đánh giá và sử dụng chứng cứ 175
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 248
Chương 4. KỸ NĂNG CHUẨN BỊ THAM GIA PHIÊN
TÒA SƠ THẨM 252
1. Kỹ năng chung chuẩn bị tham gia phiên tòa sơ thẩm 252

596
2. Kỹ năng đặc thù theo loại án chuẩn bị tham gia phiên tòa
sơ thẩm 275
3. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 328
Chương 5. KỸ NĂNG THAM GIA PHIÊN TÒA
SƠ THẨM 331
1. Một số nguyên tắc và yêu cầu cơ bản đối với Luật sư khi
tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm 331
2. Kỹ năng của Luật sư trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa
sơ thẩm 334
3. Kỹ năng của Luật sư trong thủ tục tranh tụng tại phiên
tòa sơ thẩm 342
4. Kỹ năng của Luật sư sau phiên tòa sơ thẩm 348
5. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 349
Chương 6. KỸ NĂNG THAM GIA THỦ TỤC GIẢI
QUYẾT VỤ ÁN TẠI TÒA CẤP PHÚC THẨM 352
1. Kỹ năng của Luật sư tư vấn và trợ giúp đương sự
kháng cáo 353
2. Kỹ năng chuẩn bị tham gia phiên tòa phúc thẩm 367
3. Kỹ năng tham gia phiên toà phúc thẩm vụ án dân sự 381
4. Kỹ năng của Luật sư sau phiên toà phúc thẩm 387
5. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 387
Chương 7. KỸ NĂNG THAM GIA THỦ TỤC XÉT
LẠI BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH ĐÃ CÓ HIỆU LỰC
PHÁP LUẬT 389
1. Kỹ năng của Luật sư tham gia thủ tục giám đốc thẩm 391
2. Kỹ năng của Luật sư tham gia thủ tục tái thẩm 412
3. Kỹ năng của Luật sư tham gia thủ tục đặc biệt xem xét
lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao 426
4. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 433

597
CHƯƠNG 8. KỸ NĂNG THAM GIA THỦ TỤC
RÚT GỌN 435
1. Kiến thức cơ bản về thủ tục rút gọn đối với Luật sư 435
2. Kỹ năng của Luật sư tham gia giải quyết vụ án dân sự
theo thủ tục rút gọn tại Tòa án cấp sơ thẩm 446
3. Kỹ năng của Luật sư tham gia giải quyết vụ án dân sự
theo thủ tục rút gọn tại Tòa án cấp phúc thẩm 463
4. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 466
Chương 9. KỸ NĂNG THAM GIA THỦ TỤC GIẢI
QUYẾT VIỆC DÂN SỰ 468
1. Kiến thức cơ bản về thủ tục giải quyết việc dân sự đối với
Luật sư 468
2. Kỹ năng của Luật sư tham gia giải quyết việc dân sự tại
Tòa án cấp sơ thẩm 487
3. Kỹ năng của Luật sư tham gia phúc thẩm quyết định giải
quyết việc dân sự 498

4. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 498


Chương 10. KỸ NĂNG THAM GIA THỦ TỤC GIẢI
QUYẾT MỘT SỐ VIỆC DÂN SỰ 501
1. Kỹ năng tham gia thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố
một người mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực
hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ
hành vi 502
2. Kỹ năng tham gia thủ tục giải quyết yêu cầu thông báo
tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú; thủ tục giải quyết
yêu cầu tuyên bố một người mất tích, tuyên bố một người là
đã chết 516
3. Kỹ năng tham gia thủ tục giải quyết yêu cầu công nhận
thuận tình ly hôn 527

598
4. Kỹ năng tham gia thủ tục giải quyết công nhận kết quả
hòa giải thành ngoài Tòa án 538
5. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 548
Chương 11. KỸ NĂNG THAM GIA TRONG HOẠT
ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 550
1. Kỹ năng soạn thảo và gửi đơn yêu cầu thi hành án 551
2. Kỹ năng tư vấn về trình tự, thủ tục thi hành án 558
3. Kỹ năng tư vấn về việc khiếu nại, giải quyết khiếu nại
trong thi hành án dân sự 573
4. Câu hỏi ôn tập, thảo luận 580
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 582

599
NHÀ XUẤT BẢN TƯ PHÁP

Trụ sở đăng ký: 58 - 60 Trần Phú, Ba Đình, Hà Nội


Trụ sở chính: 35 Trần Quốc Toản, P. Trần Hưng Đạo, Q. Hoàn Kiếm, Hà Nội
Phát hành tại Hà Nội: Điện thoại 024.62632078 - 024.62632079 - Fax: 024.62632080
Phát hành tại TP. HCM: 200C Võ Văn Tần, P. 5, Q. 3, TP. HCM
Điện thoại: 0906056818 - Email: gianght@moj.gov.vn
Email: nxbtp@moj.gov.vn - Website: https://nxbtuphap.moj.gov.vn

Chịu trách nhiệm xuất bản


Giám đốc: TS. HỒ QUANG HUY
Chịu trách nhiệm nội dung
Tổng Biên tập: TS. TRẦN MẠNH ĐẠT
Biên tập
TRẦN THỊ HOÀNG YẾN - BÙI CẨM THƠ
THS. VƯƠNG THỊ LIỄU
Biên tập mỹ thuật
ĐẶNG VINH QUANG

Trình bày
NGUYỄN THỊ NGỌC LINH

Sửa bản in
TRẦN THỊ HOÀNG YẾN - BÙI CẨM THƠ
VƯƠNG THỊ LIỄU

Đọc sách mẫu


NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

Đối tác liên kết xuất bản: Công ty TNHH in Thanh Bình
Số 432 đường K2 - Cầu Diễn - Nam Từ Liêm - Hà Nội

In 4.300 bản, khổ 16 x 24 cm, tại Công ty TNHH in Thanh Bình (Số 432
đường K2 - Cầu Diễn - Nam Từ Liêm - Hà Nội). Số xác nhận đăng ký xuất bản:
1277-2020/CXBIPH/02-150/TP được Cục Xuất bản, In và Phát hành xác nhận
đăng ký ngày 15/4/2020. Quyết định xuất bản số 46/QĐ-NXBTP ngày 28/4/2020 của
Giám đốc Nhà xuất bản Tư pháp. In xong, nộp lưu chiểu năm 2020.
ISBN: 978-604-81-1859-4

You might also like