You are on page 1of 33

Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh

Các Chương trình đào tạo đặc biệt


Lớp Chất lượng cao 44D

BUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂM

QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ

Bộ môn: Những quy định chung về luật Dân sự, Tài sản và Thừa kế
Giảng viên: ThS. Lê Hà Huy Phát
ThS. Nguyễn Tấn Hoàng Hải

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 13 tháng 4 năm 2020


Danh sách sinh viên thực hiện:

STT HỌ VÀ TÊN MSSV

1 Hoàng Anh Đức 1953801013033

2 Lê Vũ Hương Giang 1953801013047

3 Lê Triệu Khánh Hưng 1953801013072

4 Hoàng Diệu Linh 1953801014101

5 Huỳnh Lê Anh Quang 1953801013179

6 Hứa Thị Mỹ Tiên 1953801013226

7 Vũ Thị Thu Trang 1953801013242


MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 01: DI SẢN THỪA KẾ....................................................................1
Khái quát nội dung của án lệ số 16/2017/AL.......................................................1
Nội dung án lệ số 16/2017/AL.............................................................................1
Tóm tắt Quyết định số: 30/2013/DS-GĐT ngày 24/4/2013 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao............................................................2
Câu 1.1. Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời........................................................................................2
Câu 1.2. Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế
bởi một tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản không? Vì sao?...............4
Câu 1.3. Trong Quyết định số 30, theo Viện kiểm sát, 02 tài sản tranh chấp có là
di sản của cố Thái Anh và cố Liềng không? Vì sao?............................................4
Câu 1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Viện kiểm sát...........5
Câu 1.5. Trong Quyết định số 30, theo Hội đồng Thẩm phán, 02 tài sản tranh
chấp có là di sản của cố Thái Anh và cố Liềng không? Vì sao?...........................6
Câu 1.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Hội đồng Thẩm phán
............................................................................................................................. 6
Câu 1.7. Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398 m2 đất, phần di sản của
Phùng Văn N là bao nhiêu vì sao?.......................................................................7
Câu 1.8. Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng
Văn K có được coi là di sản để chia không? Vì sao?...........................................8
Câu 1.9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan
đến phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K..............................9
Câu 1.10. Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên để không để lo cho cuộc sống của
các con mà dùng cho tiền đó đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có
được coi là di sản để chia không? Vì sao?..........................................................10
Câu 1.11. Ở thời điểm bà Phùng Văn G chết, di sản của bà Phùng Văn G trong
diện tích đất trên là bao nhiêu? Vì sao?..............................................................10
Câu 1.12. Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là
43,5 m2 có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16
không? Vì sao?...................................................................................................10
Câu 1.13. Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5 m2 được chia cho 5 kỷ phần
còn lại” có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16
không? Vì sao ?..................................................................................................12

VẤN ĐỀ 02: NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN...............15


Tóm tắt Quyết định số: 26/2013/DS-GĐT ngày 22/4/2013 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao.............................................................................15
Câu 2.1. Theo Bộ luật Dân sự năm, nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ đương
nhiên chấm dứt và những nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ không đương nhiên
chấm dứt? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.............................................................15
Câu 2.2. Theo Bộ luật Dân sự năm, ai là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài
sản của người quá cố? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời..........................................16
Câu 2.3. Nghĩa vụ của bà Loan đối với Ngân hàng có là nghĩa vụ về tài sản
không? Vì sao?...................................................................................................17
Câu 2.4. Nếu Ngân hàng yêu cầu được thanh toán, ai là người phải thực hiện
nghĩa vụ trả nợ trên của bà Loan? Vì sao?.........................................................17
Câu 2.5. Trong Quyết định số 26, ai là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng
người quá cố khi họ còn sống?...........................................................................18
Câu 2.6. Trong Quyết định trên, theo Tòa Giám đốc thẩm, công sức chăm sóc
và nuôi dưỡng cha mẹ của ông Quân, ông Vi được xử lý như thế nào?.............18
Câu 2.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa Giám đốc thẩm
(trong mối quan hệ với các quy định về nghĩa vụ của người quá cố).................18

VẤN ĐỀ 03: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ............................20


Khái quát nội dung của án lệ số 26/2018/AL.....................................................20
Nội dung án lệ số 26/2018/AL...........................................................................20
Câu 3.1. Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam............20
Câu 3.2. Pháp luật của nước ngoài có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di
sản không?.........................................................................................................21
Câu 3.3. Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn nào
của Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?..................22
Câu 3.4. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật Dân
sự năm 2015 cho di sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục
không? Vì sao?...................................................................................................23
Câu 3.5. Việc Án lệ số 26/2018/AL trên áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật
Dân sự năm 2015 cho di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp
lệnh thừa kế năm 1990 được công bố có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết
phục không?  Vì sao?.........................................................................................24
Câu 3.6. Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên.......................24

VẤN ĐỀ 04: TÌM KIẾM TÀI LIỆU..................................................................26


Yêu cầu 1: Anh/chị hãy liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về tài sản
và pháp luật về thừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ
đầu năm 2017 đến nay.......................................................................................26
Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để biết được những bài viết trên......................27

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................28


1

VẤN ĐỀ 01: DI SẢN THỪA KẾ

Án lệ số 16/2017/AL về Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng


đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng:
*Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ:
Di sản thừa kế là bất động sản đã được một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng.
Các đồng thừa kế khác biết và không phản đối việc chuyển nhượng đó. Số tiền nhận
chuyển nhượng đã được dùng để lo cuộc sống của các đồng thừa kế. Bên nhận
chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, Tòa án phải công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất là hợp pháp và diện tích đất đã chuyển nhượng không còn trong khối di sản để
chia thừa kế mà thuộc quyền sử dụng của bên nhận chuyển nhượng.
**Nội dung án lệ (Đoạn số 2 của án lệ )
“Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích
131m2 trong tổng diện tích 398m2 của thửa đất trên; phần diện tích đất còn lại của
thửa đất là 267,4m2. Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, diện tích 267,4m2, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng
Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất
cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến
phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo
cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà
nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, có cơ sở để xác định các con
bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích 131m2 nêu
trên cho ông Phùng Văn K. Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà Phùng
Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia là có căn cứ. Tòa án
cấp sơ thẩm xác định di sản là tổng diện tích đất 398m2 (bao gồm cả phần đất đã
bán cho ông Phùng Văn K) để chia là không đúng.”
2

Tóm tắt Quyết định số: 30/2013/DS-GĐT ngày 24/4/2013 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao:
Các đồng nguyên đơn (là các con, cháu cụ Thái Tri) khởi kiện yêu cầu chia
thừa kế di sản của ông, bà nội là giá trị quyền sử dụng đất, giá trị nhà phụ, không
yêu cầu chia giá trị nhà chính. Phía bị đơn (là các con, cháu cụ Thái Thuần Hy) cho
rằng cố Thái Anh và cố Nguyễn Thị Liêng đã chia cho cụ Thái Tri nhà số 5 Hoàng
Hoa Thám và cho cụ Thái Thuần Hy nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn. Căn nhà 122
Nguyễn Hùng thì hai cố dành có cụ Thái Thuần Hy vì cụ Hy là con trai trưởng ở
cùng, có công chăm sóc hai cố, bác ruột và em ruột là cụ Lượng và còn có trách
nhiệm thờ cúng tổ tiên. Nhưng lúc đó, cụ Hy còn nhỏ cho nên cố Thái Anh đứng tên
thay khi cụ Hy lớn thì giao lại.
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm bác yêu cầu khởi kiện chia thừa
kế của các nguyên đơn vì căn nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn không còn là di sản thừa
kế của vợ chồng cố Thái Anh, cố Nguyễn Thị Liêng.
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao không chấp nhận Quyết định của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm
của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao giữa các nguyên đơn. Giữ nguyên bản
án dân sự phúc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao.
Câu 1.1. Di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố không?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời câu hỏi:
 Theo khái niệm di sản trong Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam:
+ Di sản là "Tài sản (tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, các thu nhập hợp pháp
khác) của người chết để lại, gồm: những tài sản thuộc sở hữu của người chết, phần
tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác, quyền và nghĩa vụ tài sản
do người chết để lại. Người chết không những để lại các quyền về tài sản (như
quyền đòi nợ, quyền đòi bồi thường thiệt hại về tài sản, tính mạng, sức khoẻ,…) mà
còn có thể để lại cả những nghĩa vụ về tài sản (như phải trả nợ, phải trả công lao
động hoặc bồi thường thiệt hại). Tuy nhiên, người thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa
vụ trong phạm vi di sản mà mình đã nhận được. Trong trường hợp vợ hoặc chồng
3

chết thì một nửa tài sản chung của vợ chồng thuộc về di sản của người chết (được
quy định tại điều 615 Bộ luật dân sự)".
 Cơ sở pháp lý: Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015
+ Theo Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Di sản bao gồm tài sản
riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người
khác.”
 Việc về việc xác định di sản thừa kế có bao gồm nghĩa vụ của người quá cố
hay không, hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể gồm 3
luồng quan điểm như sau:
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng di sản bao gồm tài sản và các nghĩa vụ về tài
sản của người chết (người quá cố) như nghĩa vụ trả nợ, nộp thuế,… Quan điểm này
chỉ có thể phù hợp khi mà tài sản của người chết và tài sản của gia đình không tách
bạch được, cũng như nợ của gia đình và nợ của người chết không phân biệt được
các khoản nợ phát sinh từ việc tham gia của gia đình chứ không phải chi cho cá
nhân. Quan điểm này có lẽ không phù hợp khi chúng ta đang hướng tới xây dựng
một nhà nước pháp quyền, đề cao trách nhiệm của cá nhân đối với xã hội, mỗi
người phải chịu trách nhiệm bởi hành vi của chính mình. Quan điểm này vô hình
dung lại bảo vệ tàn tích của chế dộ phong kiến “Nợ truyền đời truyền kiếp” cha
không trả hết nợ thì con trả, con trả không hết nợ thì cháu trả
+ Quan điểm thứ hai thì di sản thừa kế bao gồm tài sản của người chết và nghĩa
vụ về tài sản trong phạm vi di sản thừa kế. Quan điểm này tiến bộ hơn quan điểm
trước ở chỗ đã xoá bỏ được tàn tích của chế độ phong kiến “Nợ truyền đời truyền
kiếp” nhưng vẫn xác định di sản bao gồm cả các nghĩa vụ về tài sản của người chết
để lại. Tuy nhiên, quan điểm này không được đa số các nhà khoa học pháp lý ủng
hộ, bởi lẽ di sản được hiểu là tài sản của người chết để lại, người sống được thừa
hưởng di sản của người chết, và lẽ thường không ai muốn thừa hưởng nghĩa vụ,
công việc của người khác dù là người thân thích.
+ Quan điểm thứ ba lại cho di sản bao gồm tài sản của người chết mà không
bao gồm nghĩa vụ tài sản. Quan điểm này được nhiều nhà khoa học đồng ý và được
thể hiện tài Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015 và các Điều 659 đến 662 Bộ luật
Dân sự năm 2015 thì hiểu rằng trước khi chia di sản, những người thừa kế phải
thanh toán các nghĩa vụ của người chết để lại xong còn lại mới phân chia. Việc thực
4

hiện nghĩa vụ không phải với tư cách là chủ thể của nghĩa vụ do họ xác lập mà thực
hiện các nghĩa vụ của người chết để lại bằng chính tài sản của người chết.
 Qua ba quan điểm trên có thể thấy, pháp luật Việt Nam hiện nay đi theo
hướng của quan điểm thứ ba, tức là trong di sản không bao gồm cả nghĩa vụ
của người quá cố mà nằm độc lập với di sản.

Câu 1.2. Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay
thế bởi một tài sản mới sau đó thì tài sản mới đó có là di sản không? Vì sao?
Trả lời câu hỏi:
 Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi
một tài sản mới sau đó thì sản mới không là di sản.
 Vì tại thời điểm mở thừa kế thì tài sản của người quá cố đã trở thành di sản,
nếu bị thay thế bởi một tài sản mới thì tài sản đó không phù hợp với ý chí
của người quá cố và tài sản đó cũng không thuộc quyền sở hữu của người
quá cố (nếu đó là động sản có đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản).
Thêm vào đó, Bộ luật Dân sự không có quy định về điều này. Do vậy khi tài
sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thế bởi một tài
sản mới sau đó thì tài sản mới không là di sản.

Câu 1.3. Trong Quyết định số 30, theo Viện kiểm sát, 02 tài sản tranh chấp
có là di sản của cố Thái Anh và cố Liềng không? Vì sao?
Trả lời câu hỏi:
 Trong Quyết định số 30/2013/DS-GĐT, theo Viện kiểm sát, đối với 02 tài
sản tranh chấp thì căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám không là di sản của cố
Thái Anh và cố Liêng, còn căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn là di sản của
cố Thái Anh và cố Liêng.
 Vì tại Quyết định số 100/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 16/08/2011 được trích trong
Quyết định số 30/2013/DS-GĐT, Viện kiểm sát nhận định: “Sinh thời cố
Thái Anh và cố Nguyễn Thị Liêng có tài sản là căn nhà số 5 Hoàng Hoa
Thám có diện tích là 19m2, căn nhà số 13 Đường Thiệu Trị (nay là 122
5

Nguyễn Hùng Sơn) toạ lạc trên diện tích đất 270,5m 2. Cố Thái Anh chết
năm 1975, cố Liêng chết năm 1977 không để lại di chúc.”
 Đến thời điểm cố Thái Anh và cố Liêng chết thì nhà đất chưa chuyển dịch
sang tên cho ai. Như vậy căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Sơn là tài sản chung
của cố Thái Anh và cố Liêng còn sống thì cho cụ Thái Tri đứng tên là chủ
sở hữu từ năm 1967, do vậy căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám không là di sản
của cố Thái Anh và cố Liêng.

Câu 1.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định trên của Viện kiểm sát.
Trả lời câu hỏi:
 Theo em, hướng xác định của Viện kiểm sát đối với căn nhà số 5 Hoàng
Hoa Thám là hợp lý.
 Vì dựa vào lời khai của phía bị đơn, khi còn sống cố Thái Anh và cố Liêng
đã chia cho cụ Thái Tri căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám. Và căn cứ vào trình
bày tại Bản án sơ thẩm số 03/2009/DSST, Toà nhận định căn nhà số 5
Hoàng Hoa Thám được cụ Thái Tri đứng tên xin phép xây dựng và được
chính quyền chế độ cũ cấp phép ngày 09/05/1967. Nội dung giấy phép nêu
rõ cụ Tri được coi tầng lầu một và lầu hai của ngôi nhà trên lô đất số 389 –
44, tờ bản đồ thứ 28 Rạch Giá là đất tư nhân do đương sự sở hữu nhà. Do
đó, Viện kiểm sát xét thấy cụ Thái Tri đã hoàn thành thủ tục đứng tên chủ sở
hữu nhà số 5 Hoàng Hoa Thám và căn nhà không còn là tài sản của của cố
Thái Anh và cố Liêng. Nhận định này của Viện kiểm sát là hoàn toàn có căn
cứ.
 Theo em, hướng xác định của Viện kiểm sát đối với căn nhà số 122 Nguyễn
Hùng Son là chưa hợp lý.
 Vì tại thời điểm cố Thái Anh và cố Liêng còn sống, ngoài việc cho cụ Thái
Tri căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám thì hai cố còn cho cụ Thái Thuần Hy căn
nhà số 122 Nguyễn Hùng Son. Xét về mặt thực tế, cụ Hy là con trai trưởng,
có công chăm sóc hai cố, chăm sóc bác ruột và em ruột là cụ Lượng bị tâm
thần và còn có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên sau này. Đồng thời trong quá
trình cụ Hy quản lý căn nhà thì vào năm 1987, cụ Hy xây dựng nhà mới;
6

ngày 29/09/1989 được UBND thị xã Rạch Giá công nhận cụ Hy có quyền sở
hữu nhà; năm 1994, cụ Hy làm thủ tục sang tên nhà, đất cho con là ông Thái
Tuấn Thạnh. Tất cả những sự kiện xảy ra nêu trên cụ Thái Tri không phản
đối và giữa hai bên không có tranh chấp nào về phần tài sản này. Do đó, căn
nhà 122 Nguyễn Hùng Son do cụ Thái Thuần Hy sở hữu và kháng nghị của
Viện trưởng VKSND cho rằng nhà 122 Nguyễn Hùng Son vẫn là di sản của
cố Thái Anh và cố Liêng là không có căn cứ. Như vậy, hướng xác định này
của VKSND là chưa thuyết phục.

Câu 1.5. Trong Quyết định số 30, theo Hội đồng thẩm phán, 02 tài sản tranh
chấp có là di sản của cố Thái Anh và cố Liêng không? Vì sao?
Trả lời câu hỏi:
 Trong Quyết định số 30/2013/DS-GĐT, theo Hội đồng thẩm phán, 02 tài sản
tranh chấp không phải là di sản của cố Thái Anh và cố Liêng.
 Vì trong phần xét thấy của Quyết định số 30/2013/DS-GĐT có nêu rõ:
+ Thứ nhất, đối với căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám, “cố Thái Anh và
cố Liêng đã cho cụ Thái Tri sử dụng riêng và cụ Thái Tri đã hoàn
thành thủ tục đứng tên chủ sở hữu từ ngày 09/05/1976.”, như vậy, căn
nhà này không là di sản của cố Thái Anh và cố Liêng.
+ Thứ hai, đối với căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Son, “còn căn nhà số
122 Nguyễn Hùng Son (lớn hơn) thì hai cố dành cho cụ Thái Thuần Hy
vì cụ Hy là con trai trưởng, ở cùng, và có công chăm sóc hai cố, chăm
sóc bác ruột và em ruột là cụ Lượng bị tâm thần và còn có trách nhiệm
thờ cúng tổ tiên sau này. Thực tế, khi cụ Thái Thuần Hy phá nhà cũ
của hai cố, xây dựng nhà mới thì cụ Thái Tri còn sống nhưng không
phản đối, điều này chứng tỏ cụ Thái Tri tôn trọng định đoạt của cha
mạ.”, như vậy căn nhà số 122 Nguyễn Hùng Son cũng không phải là di
sản của cố Thái Anh và cố Nguyễn Thị Liêng.
7

Câu 1.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng quyết định trên của Hội đồng
thẩm phán.
Trả lời câu hỏi:
 Tôi không hoàn toàn đồng ý với hướng giải quyết trên của Hội đồng thẩm
phán. Đối với căn nhà số 5 Hoàng Hoa Thám thì hai cố đã cho cụ Thái Tri
sử dụng trước và đã hoàn thành thủ tục đứng tên sở hữu nhà từ trước khi hai
cố chết nên không được xem là di sản. Còn nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn, Tòa
án xác định không phải là di sản là chưa hợp lí căn cứ theo quy định của
pháp luật hiện hành. Cụ thể cho đến thời điểm cố Thái Anh và cố Liêng
chết, vẫn chưa hề sang tên cho ai nên theo quy định tại điều 634, Bộ luật
Dân sự năm hiện hành, về mặt pháp luật nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn phải
được xem là di sản của hai cố.
 Hội đồng thẩm phán quyết định bác yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn là
đúng. Cụ Thái Thuần Hy ở và có công nuôi dưỡng cha mẹ, vợ chồng cố
Thái Cẩm An và em ruột là cụ Thái Thị Lượng bị bệnh tâm thần, đến khi
những người này chết. Năm 1987 cụ Hy xây dựng nhà mới và ngày
29/9/1989 được Ủy ban nhân dân thị xã Rạch Giá công nhận cụ Hy có
quyền sở hữu nhà. Năm 1994 cụ Hy làm thủ tục sang tên nhà, đất cho con là
ông Thái Tuấn Thạnh, ông Thạnh đã được công nhận là chủ sở hữu nhà đất.
Suốt quá trình cụ Hy quản lý, sử dụng nhà đất như trên các con cụ Thái Tri
không phản đối, chỉ sau khi cụ Thái Tri chết (năm 1987) các con cụ Thái Tri
mới tranh chấp. Do đó, thực tế xác định hai cố đã chia cho cụ Thái Tri nhà
số 5 Hoàng Hoa Thám, chia cho cụ Hy nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn. “Tờ xác
nhận của Hội đồng gia tộc ngày 20/08/1987 tuy không có giá trị pháp luật
nhưng có giá trị phản ánh thực tế khách quan là cụ Hy đã được cha mẹ cho
nhà 122 Nguyễn Hùng Sơn”1. Như vậy, cụ Tri và cụ Hy là hai đồng thừa kế
thuộc hàng thừa kế thứ nhất đã thỏa thuận về quyền thừa kế di sản của hai
cụ, các con của cụ Tri không có quyền kiện đòi chia di sản của hai cố.

1
Quyết định số 30/2013/D8-GĐT ngày 24/4/2013, Tr.5.
8

Câu 1.7. Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m 2 đất, phần di sản của
Phùng Văn N là bao nhiêu? Vì sao?
Trả lời câu hỏi:
 Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m2 đất, phần di sản của Phùng Văn
N là 133,5m2.
 Căn cứ theo:
+ Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng
của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với
người khác.” 2
+ Khoản 2 Điều 66 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2004: “Khi có yêu
cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ
trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của
vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy
định của pháp luật về thừa kế.”3
 Vì “bà Phùng Thị G đã chuyển nhượng lại cho ông Phùng Văn K một phần
diện tích đất trên với diện tích đất là 131m2, còn lại diện tích 267m2”4 và
“Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà Phùng Thị G đá bán cho
ông Phùng Văn K vào khối tài sản để chia” 5. Nên trong diện tích 267m2 còn
lại là tài sản chung của hai vợ chồng, theo quy định của pháp luật thì ½ tài
sản là của vợ, còn lại ½ tài sản là di sản của chồng để lại. Qua đó, phần di
sản mà ông Phùng Văn N là 133,5m2.

Câu 1.8. Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông
Phùng Văn K có được coi là di sản để chia không? Vì sao?
Trả lời câu hỏi:

2
Bộ luật dân sự 2015.
3
Luật hôn nhân và gia đình 2004.

4
Án lệ số 16/2017/AL về công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một
trong các đồng thừa kế chuyển nhượng.
5
Án lệ số 16/2017/AL về công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng
thừa kế chuyển nhượng.
9

 Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K
không được coi là di sản để chia.
 Vì “việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con
bà Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì, các con của
bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà
và các con”6 và ông Phùng Văn K đã được nhà nước cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Nên từ đó, ta có cơ sở các con của bà G đồng ý việc
chuyển nhượng 131m2 cho ông K nên Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện
tích đất đã được chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K làm di sản để chia
thừa kế.

Câu 1.9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan
đến phần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K?
Trả lời câu hỏi:
 Theo em, hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đến phần diện tích đã
chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K là hợp tình, hợp lí.
 Di sản thừa kế là bất động sản đã được một trong các đồng thừa kế chuyển
nhượng. Các đồng thừa kế biết và không phản đối việc chuyển nhượng đó.
Số tiền chuyển nhượng đã được dùng để lo cuộc sống của các đồng thừa kế
(“Đến năm 1991 mẹ chị đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K diện tích
131m2, khi chuyển nhượng các chị đều biết việc này, nhưng số tiền bao
nhiêu chị không biết, chỉ biết mẹ chị đã dùng số tiền đó để trang trải nợ nần
và nuôi các con”)7. Bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Trong trường hợp này, Tòa án phải công nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất là hợp pháp và diện tích đất chuyển
nhượng không còn trong khối tài sản để chia thừa kế mà thuộc quyền sử
dụng của bên nhận chuyển nhượng.

6
Án lệ số 16/2017/AL về Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các
đồng thừa kế chuyển nhượng.
7
Án lệ số 16/2017/AL về Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các
đồng thừa kế chuyển nhượng.
10

Câu 1.10. Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cho cuộc sống của
các con mà dùng tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là
di sản để chia không? Vì sao?
Trả lời câu hỏi:
Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cho cuộc sống của các con mà
dùng tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó sẽ được coi là di sản để
chia, căn cứ theo Điều 612 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì “Di sản bao gồm tài sản
riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người
khác”. Theo đó, ta hiểu rằng di sản chính là tài sản thuộc sở hữu của người để lại
thừa kế lúc họ còn sống, đó có thể là tiền, vật, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Cho
nên số tiền mà bà G bán và để lại cho cá nhân của bà được xem là di sản để chia sau
khi bà chết đi.

Câu 1.11. Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G
trong diện tích đất trên là bao nhiêu? Vì sao?
Trả lời câu hỏi:
Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích
đất trên là 1/2 khối tài sản (133,5m 2) sau khi bà đã chuyển nhượng cho ông Phùng
Văn K 131m2 trên tổng số 398m2 diện tích đất ban đầu ***. Vì mặc dù cho diện tích
267m2 đất đứng tên bà Phùng Thị G, nhưng được hình thành trong thời gian hôn
nhân nên phải được xác định là tài sản chung của vợ chồng ông Phùng Văn N và bà
Phùng Thị G chưa chia. Cho nên không thể xác định toàn bộ 267m 2 đất là của bà G
được mà bà chỉ được định đoạt ½ khối tài sản.

Câu 1.12. Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G
là 43,5m2 có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16
không? Vì sao?
Trả lời câu hỏi:
Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m 2
không thuyết phục. Để làm rõ việc Tòa án đi đến quyết định di sản của bà G là
43,5m2 dựa trên nhưng lí do sau:
11

 Thứ nhất, tại Quyết định số 131/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 12-11-2013 của


Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đối với Bản án dân sự phúc
thẩm số 06/2012/DSPT ngày 23-2-2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Phúc, với nhận định: “Tòa án cấp phúc thẩm không đưa diện tích đất bà
Phùng Thị G đã bán cho ông Phùng Văn K (131m2) vào khối tài sản để chia
là có căn cứ vì các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến
phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán
đất để lo cuộc sống của bà và các con.”
 Thứ hai diện tích 267m2 đất đứng tên bà Phùng Thị G, nhưng được hình
thành trong thời gian hôn nhân nên phải được xác định là tài sản chung của
vợ chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G chưa chia và bà Phùng Thị
G chỉ có quyền định đoạt ½ diện tích đất trong tổng diện tích 267m 2 đất
chung của vợ chồng bà. Cùng với đó ngày 19-12-2010 bà Phùng Thị G chết,
trước khi chết bà đã để lại di chúc lập ngày 05-3-2009 có nội dung để lại cho
chị Phùng Thị H1 (con gái bà Phùng Thị G) diện tích 90m 2 trong tổng số ½
khối tài sản mà bà được chia (133,5m2) như vậy di sản mà bà G còn lại là
43,5m2. Đến đây ta thấy có vẻ đã hợp, tình hợp lí nhưng ta phải lưu ý là, về
nguyên tắc tài sản chung của vợ chồng đựơc chia đôi nhưng người chết sau
(bà G) còn được hưởng phần di sản của người chết trước (ông N). Do đó nếu
muốn xác định di sản của bà G (người chết sau) thì là ½ tài sản chung cộng
với kỷ phần của người chết sau (bà G) trong khối di sản của người chết
trước (ông N).
 Như vậy ngoài được hưởng ½ khối tài sản chung của vợ chồng bà 133,5m 2
thì bà G còn được thêm 1 phần di sản của ông N. Đây là nội dung của Án lệ
số 16. Vì trong Án lệ có phần đề cập đến việc bà G được hưởng ½ khối tài
sản chung của vợ chồng và việc bà bán 131m 2 cho ông K cũng như là để lại
di chúc cho chị H1 90m 2 và còn lại di sản của mình là 43,5m 2 đất (phần 4
Nhận định của Toà án, án lệ số 16/2017/AL) . Nhưng Án lệ đã quên mất là
bà G còn phải được hưởng thêm một phần di sản mà chồng bà là ông N chết
để lại cùng với ½ khối tài sản chung mà bà có được theo quy định của pháp
luật.
12

Câu 1.13. Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5 m2 được chia cho 5 kỷ
phần còn lại” có thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16
không? Vì sao?
Trả lời câu hỏi:
 Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5 m2 được chia cho 5 kỷ phần còn
lại” là hoàn toàn thuyết phục và hợp lý.
 Bởi khi ông Phùng Văn N (là chồng bà G) chết không để lại di chúc nên bà
G và anh T đã quản lý và sử dụng, thừa hưởng đất trên là đúng theo quy
định của pháp luật do mảnh đất trên là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
của ông N và bà G.8 Năm 1991, bà G chuyển nhượng cho ông K diện tích
131m2 trong tổng diện tích 398m2 của thửa đất nên phần diện tích còn lại
của thửa đất là 267,4m2. Như trong phần Nhận định của Tòa án thì “việc mà
bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con của bà
đều biết và không ai có ý kiến phản đối gì và các con của bà Phùng Thị G có
lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cho cuộc sống của bà và các con” 9.
Nên đã đủ cơ sở xác định các người con của bà đồng ý cho bà xác lập hợp
đồng chuyển nhượng đất cho ông K. Sau đó chị H1 được bà G để lại di chúc
là 90m2 diện tích đất sau khi bà chết (lúc lập bà hoàn toàn minh mẫn, có
người làm chứng) và di chúc cũng có đầy đủ các chứng thực của Ủy ban
nhân dân dân phường M nên di chúc có đủ điều kiện để thực hiện.10 Việc
chia một nửa diện tích đất là 267m2 theo Tòa án là hoàn toàn toàn có cơ sở.11
Bởi như đã nêu trên thì phần diện tích đất này là tài sản chung của 2 vợ
chồng. Thế nên sau khi chia thì phần di sản còn lại của bà G là 133,5m2 đất,
sau khi trừ đi 90 m2 đất mà bà G chia cho chị H1 thừa kế trong di chúc thì
còn 43,5 m2 đất được chia cho năm kỷ phần còn lại là 5 người con là hoàn
toàn hợp lý. Tuy nhiên theo quy định của pháp luật thì trong trường hợp
người chết không để lại di chúc là ông N (tức không có di chúc) thì việc

8
Xem khoản 1 Điều 66 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
9
Trích dẫn Án lệ số 16/2017/AL về công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế
do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng.
10
Xem khoản 1 Điều 630, Điều 635 Bộ luật Dân sự năm 2015.

11
Xem khoản 1 và khoản 2 Điều 66 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. 
13

thừa kế theo pháp luật sẽ được áp dụng trong trường hợp này. 12 Và thứ tự ưu
tiên của những người thừa kế được quy định ở hàng thứ nhất bao gồm vợ
(bà G) và con đẻ (6 người con) của người chết là ông N.13 Như đã nêu và
trích dẫn thì khi ông N chết bà G sẽ quản lý tài sản chung của vợ chồng (tức
là có thừa hưởng?), điều này khá mâu thuẫn với quy định tại khoản 2 Điều
651 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Những người thừa kế cùng hàng được
hưởng phần di sản bằng nhau.” Câu hỏi đặt ra ở đây là ngoài việc áp dụng
khoản 1 Điều 66 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì nếu áp dụng thêm
khoản 1 và 2 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì di sản của ông N có
được chia đều cho vợ và 7 người con trước thời điểm bà G để lại di chúc
không dẫu biết đó là tài sản chung của hai vợ chồng? Nhưng theo bản án là
thời hiệu thừa kế đã hết hiệu lực (30 năm với bất động sản) nên di sản thuộc
về người đang quản lý di sản là bà G và con là anh T. 14 Ngoài ra do không
có di chúc nên không có người thừa kế (trừ trường hợp thừa kế theo pháp
luật đã nêu trên) và không thể chỉ định được người quản lý tài sản nên người
đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản.15 Việc anh T
giữ giấy quyền sử dụng đất và không đồng ý chia tài sản cũng có phần có lý
bởi “vì bố mẹ anh chỉ có một mình anh là con trai nên anh sử dụng để ở và
thờ cúng tổ tiên, không đồng ý phân chia thừa kế”.16 Nên như quyết định thì
không đủ điều kiện theo quy định tại tiểu mục 2.4 mục 2 phần I của Nghị
quyết số 02/2004/NQ- HĐTP ngày 10-8-2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao nên anh T có quyền quản lý tiếp một nửa 267m 2 diện
tích đất là di sản của ông N.
 Từ những nhận định và phân tích mà nhóm đã nêu trên, hoàn toàn có đủ cơ
sở và chứng cứ để có thể áp dụng và chia 43,5m2 đất cho 5 kỷ người còn lại.
 Đây không phải là nội dung của Án lệ số 16/2017/AL. Vì nó chỉ giải quyết
vấn đề khi để cho anh T tiếp tục quản lí và sử dụng 133,5m 2 đất cũng như

12
Xem điểm a khoản 1 Điều 650 Bộ luật Dân sự năm 2015.
13
Xem điểm a khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015.
14
Xem khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015.
15
Xem khoản 2 Điều 616 Bộ luật Dân sự năm 2015.
16
Án lệ số 16/2017/AL cua Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
14

phần di sản của ông N để lại khi chết không có di chúc. Và cả việc phân chia
tài sản sau khi bà G chết để lại di chúc như thế nào khi anh T không đồng ý
phân chia. Nội dung án lệ ở đây chính là việc Tòa án phải công nhận hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với ông K là hợp pháp (do năm
1999 bà G được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và bán 1 phần đất
cho ông K và ông K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất và các con bà G đều đồng ý). Diện tích đất đã chuyển
nhượng không còn trong khối di sản của hai ông bà N và G để chia thừa kế
cho các con sau này mà thuộc quyền sử dụng của bên nhận chuyển nhượng
là ông K.

15

VẤN ĐỀ 02: NGHĨA VỤ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI ĐỂ LẠI DI SẢN

Tóm tắt Quyết định số: 26/2013/DS-GĐT ngày 22/4/2013 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao:
Gia đình cụ Phúc và cụ Thịnh có 6 người con xảy ra vụ việc “Tranh chấp di
sản thừa kế” giữa nguyên đơn là các ông bà: ông Vũ, bà Oanh, bà Dung; bị đơn là
ông Vân; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Thu, ông Vi và bà Tám (vợ
ông Vân).
Cụ Phúc chết năm 1999 không để lại di chúc nhưng trước khi chết có dặn các
con là tài sản của cha mẹ phải chia đều cho các con, cụ Thịnh chết năm 2007 có di
chúc để lại phần tài sản của cụ cho ông Vân và một phần đất cụ được hưởng của cụ
Phúc. Bản di chúc được Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định là hợp pháp.
Tại bản án sơ thẩm, Toà án quyết định không chấp nhận yêu cầu đòi chia bằng
nhà và đất ở của ông Vũ và yêu cầu kiện đòi chia thừa kế của bà Oanh và bà Dung.
Sau đó Toà Phúc thẩm tối cao Hà Nội quyết định sửa một phần bản án sơ thẩm đã
tuyên trên.
Phiên tòa Giám đốc thẩm cho rằng Tòa án Sơ thẩm và Phúc thẩm chưa làm rõ,
2 ngôi nhà một tầng là tài sản của ai và nếu đã xác định thì cần có sự xác nhận kỹ
càng. Sau cùng Tòa án Giám đốc thẩm ra Quyết định hủy bản án phúc thẩm của vụ
việc do có một số thông tin của di sản chưa được xác minh và chưa đủ cơ sở kết
luận. Giao hồ sơ để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.
Câu 2.1. Theo Bộ luật Dân sự, nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ đương
nhiên chấm dứt và những nghĩa vụ nào của người quá cố sẽ không đương nhiên
chấm dứt? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời câu hỏi:
 Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, nghĩa vụ mang tính nhân thân của người
quá cố sẽ đương nhiên chấm dứt hiệu lực. Căn cứ Khoản 8 Điều 372 Bộ luật
Dân sự năm 2015 quy định: “Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp
nhân chấm dứt tồn tại mà nghĩa vụ phải do chính cá nhân, pháp nhân đó
thực hiện;”
16

 Theo Bộ luật Dân sự năm 2015, nghĩa vụ mang tính tài sản của người quá cố
sẽ không đương nhiên chấm dứt quy định tại Điều 615 Bộ luật Dân sự năm
2015:
“Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ
tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp
có thoả thuận khác.
Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người
chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận
của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để
lại.
Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt
quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thoả thuận
khác.
Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản
theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người
chết để lại như người thừa kế là cá nhân.”

Câu 2.2. Theo Bộ luật Dân sự, ai là người phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản
của người quá cố? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời câu hỏi:
 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về nguyên tắc người thừa kế phải thực
hiện nghĩa vụ về tài sản của người quá cố quy định tại khoản 1 Điều 615 Bộ
luật Dân sự năm 2015: “Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực
hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường
hợp có thoả thuận khác”.
 Khi di sản chưa được chia, theo khoản 2 Điều 615 Bộ luật Dân sự năm
2015: “Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người
chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những
người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại”. Với quy định này,
người thực hiện nghĩa vụ vẫn là những người thừa kế và người quản lý chỉ
17

đứng ra thực hiện thay. Khi di sản đã được chia, theo khoản 3 Điều 615 Bộ
luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi
người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng
nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có
thoả thuận khác.”
 Nói thêm tại khoản 4 Điều 646 Bộ luật Dân sự năm 2015 còn quy định
người lập di chúc để lại di sản có thể: “Giao nghĩa vụ cho người thừa kế”.
Người lập di chúc giao cho một người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản thì
người được chỉ định này là người thực hiện nghĩa vụ tài sản.

Câu 2.3. Nghĩa vụ của bà Loan đối với Ngân hàng có là nghĩa vụ về tài sản
không? Vì sao?
Trả lời câu hỏi:
Nghĩa vụ của bà Loan đối với Ngân hàng là nghĩa vụ về tài sản. Vì theo
khoản 8 Điều 658 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì nghĩa vụ tài sản của người quá cố
có bao gồm “Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân;” (Bà Loan lúc này
đang có khoản nợ 100.000.000đ với ngân hàng).

Câu 2.4. Nếu Ngân hàng yêu cầu được thanh toán, ai là người thực hiện
nghĩa vụ trả nợ trên của bà Loan? Vì sao?
Trả lời câu hỏi:
 Nếu ngân hàng yêu cầu được thanh toán, thì các con bà Loan là người thực
hiện nghĩa vụ trả nợ trên của bà Loan. Vì theo Điều 615 Bộ luật Dân sự năm
2015 :
“1. Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ
tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác.
2. Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người
chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của
những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại.
18

3. Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt
quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác.
4. Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản
theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết
để lại như người thừa kế là cá nhân.”
 Vì các con bà Loan là người thừa kế hợp pháp của bà Loan nên họ phải có
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản của bà Loan.17

Câu 2.5. Trong Quyết định số 26, ai là người có công chăm sóc, nuôi dưỡng
người quá cố khi họ còn sống?
Trả lời câu hỏi:
Trong Quyết định số 26 Tòa án xác định ông Vân có công chăm sóc cha mẹ
và công quản lí di sản, ông Vi có công lớn trong việc nuôi dưỡng cha mẹ ( ông Vi là
người gửi tiền cho cha mẹ để không phải bán nhà).

Câu 2.6. Trong Quyết định trên, theo Tòa giám đốc thẩm, công sức chăm
sóc, nuôi dưỡng cha mẹ của ông Vân, ông Vi được xử lý như thế nào?
Trả lời câu hỏi:
Trong Quyết định trên, theo Tòa giám đốc thẩm, công sức chăm sóc, nuôi
dưỡng cha mẹ của ông Vân, ông Vi được xử lý theo hướng: ông Vân có công chăm
sóc cha mẹ và công quản lý di sản, ông Vi có công nuôi dưỡng cha mẹ nhưng chưa
xác định rõ công sức chăm sóc cha mẹ và quản lý di sản mà ông Vân, ông Vi được
hưởng. Vì vậy, cần xác định rõ công sức chăm sóc cha mẹ và quản lý di sản mà ông
Vân, ông Vi được hưởng là bao nhiêu để đối trừ, số tiền còn lại mới chia cho các
đồng thừa kế.

17
Nguồn https://doremon96.wordpress.com/tag/buoi-5/
19

Câu 2.7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm
(trong mối quan hệ với các quy định về nghĩa vụ của người quá cố).
Trả lời câu hỏi:
 Theo em, hướng xử lý trên của Tòa giám đốc thẩm (trong mối quan hệ với
các quy định về nghĩa vụ của người quá cố) là thuyết phục. Chi phí bảo quản
di sản trong quá trình quản lí của ông Vân cần phải được thanh toán theo
quy định tại điểm c khoản 1 Điều 618 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Được
thanh toán chi phí bảo quản di sản.” và chi phí ông Vi gửi về từ Đức cũng
cần được hoàn trả lại ông. Xét về công lao chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ
đáng lẽ bổn phận, nghĩa vụ của người con đối với cha mẹ nên không xét đến
việc trả công nhưng Tòa án lại quyết định thanh toán chi phí cho việc này và
theo em hướng này hợp lí bởi thứ nhất người chăm sóc không yêu cầu cha
mẹ bù đắp cho khi còn sống mà chỉ yêu cầu khi cha mẹ chết trong khối di
sản để lại thì không coi là trái đạo lí.
 Đồng thời, hướng giải quyết này công bằng hơn bởi theo Điều 71 Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2014: “Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi
dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ mất năng lực hành vi dân sự, ốm đau,
già yếu, khuyết tật; trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng
nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ.”, tất cả con cái đều có nghĩa vụ chăm
sóc cha mẹ, nếu như người bỏ công chăm sóc mà phần được hưởng lại chỉ
bằng người không bỏ công ra thì không công bằng, nên tòa án đã coi đây là
một nghĩa vụ tài sản (thuộc phần các chi phí khác), cần trích một phần di sản
của người quá cố ra thanh toán, phần còn lại mới chia đều cho các đồng thừa
kế. Và đều này cũng góp phần cổ vũ, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân
tộc ta.
20

VẤN ĐỀ 03: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ

Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệu
yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản:
*Khái quát nội dung án lệ:
- Tình huống án lệ:
Người để lại di sản thừa kế là bất động sản chết trước ngày công bố Pháp lệnh
Thừa kế ngày 30-8-1990. Tại thời điểm Tòa án xét xử sơ thẩm, Bộ luật Dân sự số
91/2015/QH13 đang có hiệu lực pháp luật.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, phải xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu yêu cầu chia di
sản thừa kế là ngày công bố Pháp lệnh Thừa kế ngày 30-8-1990. Thời hiệu yêu cầu
chia di sản thừa kế được xác định theo quy định của Bộ luật Dân sự số
91/2015/QH13.
**Nội dung án lệ (đoạn số 5, 6, 7 của án lệ):
“Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 (có
hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2017), thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia
di sản là 30 năm đối với bất động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015, đối với
giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật Dân sự này có hiệu lực, thì thời
hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này.  
Như vậy kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, Tòa án áp
dụng quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định thời hiệu đối với
trường hợp mở thừa kế trước ngày 01-01-2017. Căn cứ quy định tại khoản 4 Điều
36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30-8-1990 và Bộ luật Dân sự năm 2015, trong trường
hợp này thời hiệu khởi kiện chia di sản của cụ T cho các đồng thừa kế vẫn còn theo
quy định của pháp luật.”
Câu 3.1. Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam.
Trả lời câu hỏi:
21

Theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015, có 3 loại thời hiệu trong
lĩnh vực thừa kế:
1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với
bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di
sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì
di sản được giải quyết như sau:
a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo
quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;
b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu
quy định tại điểm a khoản này.
2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của
mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ
thời điểm mở thừa kế.
3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

Câu 3.2. Pháp luật nước ngoài có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di
sản không?
Trả lời câu hỏi:
 Hiện nay, pháp luật Trung Quốc có áp đặt thời hiệu đối với yêu cầu chia di
sản được quy định tại điều 8, chương 1, Luật thừa kế của nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa.

 (Nguyên tác) 第八条 继承权纠纷提起诉讼的期限为二年,自继承人


知道或者应当知道其权利被侵犯之日起计算。但是,自继承开始之日
起超过二十年的,不得再提起诉讼。18

 (Tạm dịch tiếng Anh) Article 8: The time limit for institution of legal
proceedings pertaining to disputes over the right to inheritance is two years,
counting from the day the became or should have become aware of the
18
http://www.npc.gov.cn/wxzl/wxzl/2000-12/06/content_4457.htm, tham khảo ngày 13/4/2020
22

violation of his right to inheritance. No legal proceedings, however, may be


instituted after the expiration of a period of 20 years from the day succession
began.19
 (Tạm dịch tiếng Việt) Điều 8: Thời hạn của tổ chức tố tụng liên quan đến
tranh chấp về quyền thừa kế là 2 năm, kể từ ngày người kế nhiệm trở thành
hoặc nhận thức được quyền của mình bị vi phạm. Tuy nhiên, không có thủ
tục tố tụng nào có thể được thiết lập sau khi hết thời hạn 20 năm kể từ ngày
kế vị bắt đầu.
 Đa số các quốc gia ở Châu Âu, Châu Mỹ thì không có áp đặt yêu cầu về thời
hiệu yêu cầu chia di sản. Vì nhiều nhà nghiên cứu pháp luật nước ngoài cho
rằng việc áp đặt thời hiệu sẽ dẫn tới nhiều bất cập khi nó được thực thi trong
thực tế cuộc sống như làm phức tạp hệ thống pháp luật trong lĩnh vực thừa
kế, xét theo góc độ lý luận hay thực tiễn đều có thể làm ảnh hưởng, đến
quyền thừa kế của các cá nhân liên quan. Nói cách khác, tự chúng ta áp đặt
thời hạn yêu cầu chia di sản và tự chúng ta phải đối mặt với những khó khăn
do chính thời hạn này làm phát sinh.20

Câu 3.3. Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm nào? Đoạn
nào của Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời?
Trả lời câu hỏi:
 Theo quy định tại khoản 1, Điều 611 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thời điểm
mở thừa kế là: “Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết.
Trường hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế
là ngày được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.”
 Thời điểm mở thừa kế đối với di sản của cụ T là năm 1972
 Đoạn trong Quyết định tạo lập thành Án lệ số 26/2018/AL cho câu trả lời là:
“Cụ T chết năm 1972, thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế đã hết. Có đồng
thừa kế không thống nhất xác định di sản của cụ T để lại là tài sản chung

19
https://www.fmprc.gov.cn/ce/cgny/eng/lsqz/laws/t42224.htm, tham khảo ngày 13/4/2020

http://baochinhphu.vn/Lay-y-kien-nhan-dan-ve-du-thao-Bo-luat-dan-su-sua-doi/De-xuat-bo-Thoi-hieu-
20

khoi-kien-yeu-cau-chia-di-san-thua-ke/224465.vgp, tham khảo ngày 13/4/2020


23

chưa chia, nên không chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn về việc chia di
sản của cụ T để lại như chia tài sản chung cho 8 người con của cụ T. Do đã
hết thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, nên những người đồng thừa kế
đang quản lý di sản là cụ Nguyễn Thị L và ông Cấn Anh C được tiếp tục
quản lý sử dụng và sở hữu.”21

Câu 3.4. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật
Dân sự năm 2015 cho di sản của cụ T có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục
không? Vì sao?
Trả lời câu hỏi:
 Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật Dân sự
năm 2015 cho di sản của cụ T có cơ sở văn bản là các quy định tại điểm d
khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015 và khoản 1 Điều 623 Bộ luật
Dân sự năm 2015. Cụ thể:
Điều 688. Điều khoản chuyển tiếp
“1. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ
luật này có hiệu lực thì việc áp dụng pháp luật được quy định
như sau:
[…] d) Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ
luật này.”
Điều 623. Thời hiệu thừa kế
“1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm
đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời
điểm mở thừa kế”.22
 Như vậy, việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật
Dân sự năm 2015 cho di sản của cụ T là thuyết phục vì cách giải quyết này
phù hợp với những quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.

21
Án lệ số 26/2018/AL về công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các
đồng thừa kế chuyển nhượng
22
Bộ luật Dân sự năm 2015 số: 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 của Quốc hội.
24

Câu 3.5. Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật Dân sự
năm 2015 cho di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh thừa
kế năm 1990 được công bố có cơ sở văn bản nào không? Có thuyết phục không?
Vì sao?
Trả lời câu hỏi:
 Việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật Dân sự
năm 2015 cho di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm Pháp lệnh
thừa kế năm 1990 được công bố có cơ sở văn bản là quy định tại khoản 4
Điều 36 Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990. Cụ thể:
Điều 36. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế
“[…] 4. Đối với các việc thừa kế đã mở trước ngày ban hành
Pháp lệnh này thì thời hạn quy định tại khoản 1, khoản 2
Điều này được tính từ ngày công bố Pháp lệnh này.”23
 Như vậy, việc Án lệ số 26/2018/AL áp dụng thời hiệu 30 năm của Bộ luật
Dân sự năm 2015 cho di sản của cụ T với thời điểm bắt đầu từ thời điểm
Pháp lệnh thừa kế năm 1990 được công bố là rất thuyết phục vì nó phù
hợp với quy định của pháp luật hiện hành.

Câu 3.6. Suy nghĩ của anh/chị về Án lệ số 26/2018/AL nêu trên.


Trả lời câu hỏi:
Án lệ số 26/2018/AL đã cho ta thấy cái nhìn về thời điểm bắt đầu tính thời
hiệu và thời hiệu yêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản. Cho thấy đây là một
vấn đề hết sức phức tạp đặc biệt khi có sự thay đổi giữa các thế hệ dẫn tới áp dụng
sự thay đổi của pháp luật tạo sự khó khăn trong quá trình xác định. Các quyết định
của Tòa án đưa ra hầu hết là phải xem xét trên nhiều khía cạnh để mang tính thuyết
phục. Đây có thể xem là một Án lệ hay vì tính thực tế thường xuyên xảy ra của nó.

23
Pháp lệnh thừa kế năm 1990.
25

VẤN ĐỀ 04: TÌM KIẾM TÀI LIỆU

Yêu cầu 1: Anh/chị hãy liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật về tài
sản và pháp luật về thừa kế được công bố trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ
đầu năm 2017 đến nay.
Trả lời yêu cầu:
Sau đây là một số bài viết mà nhóm tìm được:
1. Đỗ Văn Đại, “Thời hiệu yêu cầu chia di sản đối với thừa kế mở trước khi Bộ
luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực.”, tạp chí “Khoa học Pháp lý Việt Nam”, số
02(123)/2019 – 2019, từ tr.65 đến 73;
2. Nguyễn Tấn Hoàng Hải, “Bồi thương tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm
phạm”, tạp chí “Khoa học Pháp lý Việt Nam”, số 08(111)/2017 – 2017, từ tr.34
đến 41;
3. Nguyễn Tấn Hoàng Hải, “Chứng minh tổn thất tinh thần khi tài sản bị xâm
phạm theo pháp luật Hoa Kỳ - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.”, tạp chí
“Khoa học Pháp lý Việt Nam”, số 05(117)/2018 – 2018, từ tr.32 đến 37;
4. Ngô Thị Anh Vân – Đặng Lê Phương Uyên, “Thỏa thuận chia tài sản chung
của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.”, tạp chí “Khoa học Pháp lý Việt Nam”,
số 06(127)/2019 – 2019, từ tr.24 đến 36;
5. Châu Thị Vân, “Căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản không xác định
được chủ sở hữu”, tạp chí “Khoa học Pháp lý Việt Nam”, số 01(113)/2018 –
2018, từ tr.33 đến 38;
6. Nguyễn Văn Hợi, “Bồi thường thiệt hại do nhà cửa, công trình xây dựng khác
gây ra”, tạp chí Kiểm sát, số 17/2018, từ tr.31 đên 40;
7. Nguyễn Nam Hưng, “Một số vướng mắc về định giá tài sản, thẩm định giá tài
sản trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015”, tạp chí Kiểm sát, số 11/2018, từ tr.39
đến 42;
8. Lê Thị Loan, “Tặng cho tài sản trong Bộ luật dân sự Pháp”, tạp chí Luật học,
số 3 năm 2018, từ tr.92 đến 104;
9. Tưởng Duy Lượng, “Vai trò của đăng kí và cung cấp thông tin tài sản trong
giải quyết tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại tòa
26

án”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 14 (366) kì 2 tháng 7 năm 2018, từ tr.36
đến 42;
10. Nguyễn Xuân Quang và Trần Ngọc Tuấn, “Quy định thu giữ tài sản thế chấp
để xử lí theo pháp luật Việt Nam và một số kiến nghị”, tạp chí Dân chủ và pháp
luật, số tháng 9 (318) năm 2018, từ tr.18 đến 26;
11. Bùi Đức Tiến, “Một số vấn đề về cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản là quyền sử
dụng đất”, tạp chí Tòa án nhân dân, số 20 năm 2016, từ tr.26 đến 28;
12. Bùi Chiều Xuân, “Trao đổi từ vụ án tranh chấp tài sản chung”, tạp chí Kiểm
sát, số 19 năm 2016, từ tr.55 đến 57;
13. Lê Thị Giang, “Nhận diện hợp đồng tặng cho tài sản theo quy định của pháp
luật Việt Nam”, tạp chí Luật học, số 9 năm 2018, từ tr.14 đến 22;
14. Phan Phương Nam, “Căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản không xác
định được chủ sở hữu”, tạp chí Khoa học pháp lý, số 1 (213) năm 2018, từ
tr.33-38.

Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để biết được những bài viết trên.
Trả lời yêu cầu:
 Thông thường thì để tìm kiếm những bài viết có nội dung như đề bài thì ta
phải lên thư viện tìm kiếm. Việc tìm kiếm thủ công sẽ rất mất thời gian và
công sức, trong khi lượng bài biết có nội dung như đề bài yêu cầu tìm thấy
sẽ rất ít. Thế nên ta dựa vào trang web trực tuyến của thư viện trường
(http://library.hcmulaw.edu.vn/), tra cứu tìm kiếm được dễ dàng hơn. Dựa
vào việc tìm kiếm - tra cứu tên tác giả, tên bài viết, theo chủ đề, quốc gia,
nhan đề, từ khóa, nhà xuất bản, năm xuất bản,...
 Đồng thời, mấy ngày gần đây, trang web trực tuyến Tạp chí Khoa học Pháp
lý (http://tapchikhplvn.hcmulaw.edu.vn/) chính thức ra đời, nên phần nào
tìm kiếm nội dung cần tìm - tạp chí được phần dễ dàng hơn. Và những bài
viết liên quan đến pháp luật về tài sản và pháp luật về thừa kế được công bố
trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2017 đến nay mà nhóm đã
nêu ở Yêu cầu 1 cũng không là ngoại lệ. Phần nhiều tìm được bài viết thông
qua hai trang web trên.
-----Hết-----
27

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT:


1. Bộ luật Dân sự năm 2005 số: 33/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005 của
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam;
2. Bộ luật Dân sự năm 2015 số: 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015 của
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam;
3. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2004;
4. Luật Thừa kế của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
B. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT:
1. Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết và Nguyễn Hồ Bích Hằng (2007), Luật dân sự
Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia;
2. Nguyễn Xuân Quang (2018), Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài
sản và quyền thừa, của trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb.
Hồng Đức;
3. Đỗ Văn Đại (2019), Luật Thừa kế Việt Nam - Bản án và bình luận bản án (tái
bản lần thứ tư), Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam;
C. TÀI LIỆU THAM KHẢO NƯỚC NGOÀI:
Luật Thừa kế của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC:
1. Quyết định số 26/2013/DS-GĐT ngày 22/4/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao;
2. Quyết định số 30/2013/DS-GĐT ngày 24/4/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa
án nhân dân tối cao;
3. Án lệ số 16/2017/AL của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao;
4. Án lệ số 26/2018/AL của Tòa Dân sự Tòa án nhân dân tối cao.
5. https://luatvietnam.vn/an-le/an-le-cong-nhan-hop-dong-chuyen-nhuong-quyen-
su-dung-dat-la-di-san-thua-ke-632-22777-article.html?
28

fbclid=IwAR16uhiPBJxPHmD_8COuQWKKwWUD39AkuAzWBHj_BKrSaln
69mnq1Y4lbQg

You might also like