You are on page 1of 1004

Tổng Hợp Bài Giảng Của Sư

NGUYÊN TUỆ
MỤC LỤC
BÀI 001: VĂN - TƯ – TU.......................................................................................9
BÀI 002: ĐẾN ĐỂ MÀ THẤY.............................................................................11
BÀI 003: KHỔ TẬP DIỆT ĐẠO...........................................................................18
BÀI 004: TỨ THÁNH ĐẾ.....................................................................................23
BÀI 005: TRUNG ĐẠO........................................................................................26
BÀI 006: CON ĐƯỜNG HAI NGÃ......................................................................34
BÀI 007: CON ĐƯỜNG ĐỘC NHẤT - BỐN NIỆM XỨ....................................34
BÀI 008: TỨ NHƯ Ý TÚC...................................................................................37
BÀI 009: NGŨ CĂN - NGŨ LỰC........................................................................40
BÀI 010: THẤT GIÁC CHI HAY BẢY YẾU TỐ GIÁC NGỘ...........................46
BÀI 011: ĐÂU LÀ GỐC ĐÂU LÀ NGỌN CỦA TU HỌC.................................50
BÀI 012: THẤY - BIẾT VÀ KINH PHÁP MÔN CĂN BẢN..............................53
BÀI 013: GIỚI LUẬT LÀ GỐC HAY TRÍ TUỆ LÀ GỐC ĐẠO PHẬT.............56
BÀI 014: NGƯỜI CÓ TRÍ TRÚ GIỚI: NIỆM ĐỊNH TUỆ HAY GIỚI ĐỊNH
TUỆ........................................................................................................................59
BÀI 015: GIỚI ĐỊNH TUỆ HAY NIỆM ĐỊNH TUỆ...........................................69
BÀI 016: MỤC ĐÍCH GIÁO PHÁP.....................................................................76
BÀI 017: NHẤT HƯỚNG.....................................................................................77
BÀI 018: MỤC ĐÍCH CUỘC SỐNG....................................................................83
BÀI 019: HIỂU LẦM VỀ TỨ THÁNH ĐẾ..........................................................89
BÀI 020: NIỆM - TƯ DUY - Ý THỨC................................................................93
BÀI 021: LIỄU TRI CÁC PHÁP.........................................................................102
BÀI 022: HIỂU ĐÚNG VÀ HIỂU SAI VỀ CHÁNH NIỆM..............................104
BÀI 023: HIỂU ĐÚNG VÀ HIỂU SAI VỀ CHÁNH ĐỊNH..............................117
BÀI 024: CHÁNH TRÍ TUỆ...............................................................................128
BÀI 025: CHÁNH TRÍ........................................................................................132
BÀI 026: CHÁNH KIẾN DẪN ĐẦU.................................................................139
BÀI 027: DUYÊN KHỞI CHÁNH TRI KIẾN...................................................140
BÀI 028: TẠI SAO CHỈ LÀ THAM ÁI?............................................................143
BÀI 029: CHÁNH NIỆM VỀ THAM SÂN SI...................................................144
BÀI 030: LIỄU TRI THAM SÂN SI...................................................................147
BÀI 031: TÂM LÀ GÌ?.......................................................................................153
BÀI 032: SỰ HIỂU LẦM VỀ TÂM....................................................................157
BÀI 033: TÂM VÔ PHÂN BIỆT VÀ TÂM PHÂN BIỆT..................................163
BÀI 034: TÂM HÀNH SI....................................................................................166
BÀI 035: TƯỞNG TRI........................................................................................174
BÀI 036: TỈNH GIÁC VÀ TÁNH KHÔNG.......................................................177
BÀI 037: TÁNH KHÔNG...................................................................................182
BÀI 038: THẤY BIẾT NHƯ THẬT KHỔ.........................................................188
BÀI 039: BẢN NGÃ...........................................................................................193
BÀI 040: NGÃ MẠN...........................................................................................198
BÀI 041: ĐỨC PHẬT PHỦ NHẬN BẢN NGÃ - LINH HỒN..........................199
BÀI 042: CÁC HÀNH VÔ THƯỜNG CÁC PHÁP VÔ NGÃ...........................213
BÀI 043: BUÔNG XẢ LÀ CHẤM DỨT TƯ TƯỞNG SỞ HỮU......................214
BÀI 044: LUÂN HỒI TÁI SINH........................................................................216
BÀI 045: KIẾP SAU VÀ KHÔNG CÓ KIẾP SAU............................................225
BÀI 047: ĐẠO QUẢ - NIẾT BÀN.....................................................................233
BÀI 048: KHỔ DIỆT HAY NIẾT BÀN..............................................................237
BÀI 049: HAI ĐIỀU RẤT KHÓ LĨNH HỘI CỦA PHẬT PHÁP......................245
BÀI 050: TIN SÂU NHÂN QUẢ........................................................................250
BÀI 051: TÀM QUÝ LÀ TÀI SẢN CỦA BẬC THÁNH HỮU HỌC..............256
BÀI 052: BỐ THÍ................................................................................................259
BÀI 053: TỪ BI...................................................................................................262
BÀI 054: BỘC LƯU............................................................................................265
BÀI 055: TỪ BỎ CÁC PHƯỚC BÁO................................................................267
BÀI 056: ĐOẠN TẬN BA ÁI.............................................................................269
BÀI 057: GIẢI THOÁT LÀ NHƯ THẾ NÀO....................................................278
BÀI 058: A LA HÁN...........................................................................................282
BÀI 059: BẬC THẤU THỊ..................................................................................283
BÀI 060: CÓ PHẬT THẬT KHÔNG?................................................................285
BÀI 061: TỰ MÌNH NƯƠNG TỰA CHÍNH MÌNH..........................................290
BÀI 062: NIỆM HƠI THỞ VÔ, HƠI THỞ RA..................................................292
BÀI 063: THÂN HÀNH NIỆM...........................................................................299
BÀI 064: CHỈ VÀ QUÁN...................................................................................299
BÀI 065: TẨU HOẢ NHẬP MA........................................................................302
BÀI 066: CÓ CẦN THIẾT HỶ LẠC CỦA CHÁNH ĐỊNH KHÔNG...............311
BÀI 067 : HÀNH THIỀN CÓ PHẢI ĐỂ THẤY CÁC PHÁP LÀ KHỔ?...........315
BÀI 068: TAM PHÁP ẤN, ĐÚNG HAY SAI?..................................................322
BÀI 069: LẠC TU NHANH CHỨNG................................................................327
BÀI 070: THỰC TẠI LÀ CẢM THỌ.................................................................330
BÀI 071: THỰC TẠI CỦA PHÀM VÀ THÁNH...............................................340
BÀI 072: CON GÀ TRỐNG CÓ MÀO ĐỎ CHÓI.............................................341
BÀI 073: CUỘC ĐỜI ĐÃ ĐƯỢC LẬP TRÌNH.................................................344
BÀI 074: KHÚC NHẠC DẠO ĐẦU...................................................................351
BÀI 075: THAY ĐỔI THẾ GIỚI........................................................................353
BÀI 076: HY VỌNG...........................................................................................354
BÀI 077: BỊ TREO LƠ LỬNG...........................................................................357
BÀI 078: ĐÃ BIẾT VÔ THƯỜNG, SAO CÒN PHIỀN NÃO?.........................359
BÀI 079: KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT.............................................................366
BÀI 080: THƯỢNG TRÍ.....................................................................................379
BÀI 081: THẤY VÀ BIẾT CỦA PHẬT HAY TRI KIẾN PHẬT......................380
BÀI 082: NỘI DUNG BÀI KINH KALAKA LÀ THẤY BIẾT CỦA PHẬT....384
BÀI 083: SỰ KHÁC BIỆT GIỮA NHÂN LOẠI VÀ ĐỨC PHẬT....................386
BÀI 084: ĐỨC PHẬT VÀ KHOA HỌC.............................................................387
BÀI 085: RÀNG BUỘC HAY GIẢI THOÁT ĐỀU LÀ TƯ TƯỞNG...............389
BÀI 086: SỐNG TRONG THỰC TẠI HIỆN TIỀN...........................................392
BÀI 087 TỈNH GIÁC - LỐI THOÁT KHỔ NGAY TRONG HIỆN TẠI...........395
BÀI 088: KỸ NĂNG SỐNG THÍCH NGHI.......................................................401
BÀI 089: PHÀM LÀM VIỆC GÌ PHẢI NGHĨ ĐẾN HẬU QUẢ.......................403
BÀI 090: THỰC TƯỚNG VÔ TƯỚNG.............................................................404
BÀI 091: CHẤP CÓ CHẤP KHÔNG VÀ TRUNG ĐẠO..................................405
BÀI 092: CHẤP CÓ CHẤP KHÔNG VỀ HẠNH PHÚC...................................414
BÀI 093 : KHOAN VỘI TIN CŨNG KHOAN VỘI BÁC BỎ...........................416
BÀI 094: HAI LOẠI ĐẠO PHẬT.......................................................................420
BÀI 095: ĐẠO PHẬT THẬT CHỈ DÀNH CHO NGƯỜI TRÍ..........................421
BÀI 096: LÝ LUẬN SUÔNG VÀ THỰC CHỨNG...........................................425
BÀI 097: ĐỌC TRỌN BỘ KINH NIKAYA LÀ KHÓ.......................................428
BÀI 098: GIẢI MÃ KINH A DI ĐÀ...................................................................432
BÀI 099: TÀ VÀ CHÁNH TRONG "BÁT TÀ ĐẠO" VÀ "BÁT CHÁNH ĐẠO"
..............................................................................................................................439
BÀI 100: HAI LỖI NGHIÊM TRỌNG TRONG QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC.443
BÀI 101: ĐỨC TIN VÀ TRÍ TUỆ......................................................................447
BÀI 102: NGỮ CẢNH CỦA NGÔN TỪ............................................................451
BÀI 103: ĐÚNG VÀ SAI....................................................................................457
BÀI 104: NHẤT DẠ HIỀN GIẢ.........................................................................462
BÀI 105: CHÁNH NIỆM VÀ TRÍ TUỆ.............................................................469
BÀI 106: VÔ MINH GỐC...................................................................................473
BÀI 107: BỐN ĐIÊN ĐẢO: THƯỜNG, LẠC, NGÃ ,TỊNH.............................477
BÀI 108: HỒI ĐẦU THỊ NGẠN.........................................................................484
BÀI 109 : BUÔNG XẢ CÁI GÌ?.........................................................................488
BÀI 110: TU ĐỂ BUÔNG BỎ, VẬY BUÔNG BỎ CÁI GÌ...............................491
BÀI 111: THẤY SỢI DÂY TƯỞNG LÀ CON RẮN.........................................495
BÀI 112: LÝ DUYÊN KHỞI VÀ VÔ THƯỜNG VÔ NGÃ..............................500
BÀI 113: TUỆ TRI VỊ NGỌT, SỰ NGUY HIỂM VÀ SỰ XUẤT LY..............511
BÀI 114: THIỀN PHẬT GIÁO...........................................................................518
BÀI 115: CHÁNH ĐỊNH VỚI HAI LOẠI CHÚ TÂM......................................527
BÀI 116: TƯƠNG TÁC GIỮA HOÁ SANH VÀ CON NGƯỜI.......................533
BÀI 117: HIỂU SAI VÀ HIỂU ĐÚNG VỀ ĐỊNH LÝ DUYÊN KHỞI.............538
BÀI 118: THAN KHÓC TRONG GIỚI LUẬT BẬC THÁNH..........................544
BÀI 119: CÚ SỐC BẠO LỰC.............................................................................548
BÀI 120: CHẤP THỦ..........................................................................................552
BÀI 121: GIỚI KHÔNG SÁT SINH...................................................................555
BÀI 122: NGOẠI KHÔNG VÀ NỘI KHÔNG...................................................563
BÀI 123: CÓ PHẢI "NGŨ UẨN GIAI KHÔNG" KHÔNG?.............................575
BÀI 124: PHÁP CÚ 372......................................................................................582
BÀI 125: CHÁNH ĐỊNH....................................................................................585
BÀI 126: VU LAN BÁO HIẾU...........................................................................588
BÀI 128: SƯỚNG VÀ KHỔ...............................................................................591
BÀI 129: CHỊU ĐỰNG VÀ CHỜ ĐỢI...............................................................592
BÀI 130: THÀNH CÔNG VÀ THẤT BẠI.........................................................594
BÀI 131: TỈNH GIÁC CHÍNH LÀ TRỰC GIÁC...............................................597
BÀI 132: GIỚI CẤM THỦ VÀ GIỚI TRONG GIỚI LUẬT BẬC THÁNH.....600
BÀI 133: CHỨNG NGỘ TỨ THÁNH ĐẾ VỚI LẠC VÀ HỶ...........................603
BÀI 134: Ý CHỈ BÀI KINH PHÁP MÔN CĂN BẢN.......................................607
BÀI 135: CHÁNH NIỆM: NHỚ ĐẾN TÍCH CỰC CHÚ TÂM GHI NHẬN CÁC
ĐỐI TƯỢNG NỔI TRỘI.....................................................................................612
BÀI 136: KHỔ ĐẾ - CẦU BẤT ĐẮC KHỔ.......................................................616
BÀI 137: ĐỨC PHẬT DẠY NHÌN ĐỜI NHƯ THẾ NÀO?...............................620
BÀI 138: THẤY SỰ THẬT GÌ QUA ĐẠI DỊCH COVID 19............................624
BÀI 139: TIẾP NHẬN VÀ XỬ LÝ THÔNG TIN..............................................650
BÀI 140: KINH PHẠM VÕNG VÀ SỰ GIÁC NGỘ CỦA ĐỨC PHẬT..........652
BÀI 141: HỮU TƯỚNG VÀ VÔ TƯỚNG.........................................................662
BÀI 142: CHẤP CÓ CHẤP KHÔNG VÀ LÝ DUYÊN KHỞI..........................672
BÀI 143: CHÂN ĐẾ VÀ TỤC ĐẾ......................................................................677
BÀI 144: THIỀN NÓI.........................................................................................684
BÀI 145: AI SẼ GIẢI THOÁT?..........................................................................691
BÀI 146: ĐỐN RỪNG KHÔNG ĐỐN CÂY......................................................696
BÀI 147: PHÁP CÚ 243 (VÔ MINH VÀ MINH)..............................................702
BÀI 148: PHÁP CÚ 282......................................................................................706
BÀI 149: PHÁP CÚ 294......................................................................................709
BÀI 150: THẤY THỰC TẠI NHƯ CHÚNG ĐANG LÀ...................................714
BÀI 151: VÔ THƯỜNG LÀ KHỔ HAY LÀ LẠC.............................................723
BÀI 152: HẠNH PHÚC VÀ KHỔ ĐAU............................................................731
BÀI 153: ĐÓI ĂN KHÁT UỐNG......................................................................741
BÀI 154: NĂM UẨN VÀ NĂM THỦ UẨN.......................................................746
BÀI 155: CHẤP NGÃ TỪ ĐÂU SANH?...........................................................751
BÀI 156: NĂNG KIẾN VÀ SỞ KIẾN................................................................760
BÀI 157: THAY CHO LỜI TỰA........................................................................772
BÀI 158: VÔ MINH VÀ MINH..........................................................................777
BÀI 159: CẢM THỌ...........................................................................................807
BÀI 160: BA TRỤ CỘT CỦA PHÁP HÀNH.....................................................813
BÀI 161: TUỆ TRI THAM SÂN SI....................................................................818
BÀI 162: THẤT THÁNH TÀI HAY BẢY TÀI SẢN CỦA BẬC THÁNH.......829
BÀI 163: BẬC THÁNH A-LA-HÁN CÓ THẤT THÁNH TÀI KHÔNG?........836
BÀI 164: HAI LOẠI XÚC CỦA PHÀM VÀ THÁNH.......................................839
BÀI 165: TUỆ TRI VÔ NGÃ..............................................................................840
BÀI 166: PHÂN BIỆT HAI LOẠI HẠNH PHÚC..............................................841
BÀI 167: GOSINGA - TỔ CHỨC GIÁO DỤC PHI LỢI NHUẬN....................844
BÀI 168: SỨ MỆNH CỦA GOSINGA...............................................................849
BÀI 169: HAI LỐI SỐNG...................................................................................857
BÀI 170: NHỮNG KHÁM PHÁ ĐẶC BIỆT CỦA ĐỨC PHẬT.......................859
BÀI 171: THAM NHŨNG..................................................................................861
BÀI 172: TUỆ TRI HẠNH PHÚC- PHÂN BIỆT HAI LOẠI HẠNH PHÚC....865
BÀI 173: ẨN DỤ VỀ BA CHỮ NGỘ TRONG TÂY DU KÝ...........................872
BÀI 174: NGƯỜI NGU VÀ NGƯỜI TRÍ..........................................................878
BÀI 175: SỐNG VỚI TỨ NIỆM XỨ LÀ LÀM TỐT VIỆC CỦA MÌNH,
KHÔNG XEN VÀO VIỆC CỦA NGƯỜI, KHÔNG LO CHUYỆN THIÊN HẠ
..............................................................................................................................884
BÀI 176: CHỮA LÀNH ĐỨA TRẺ BÊN TRONG............................................888
BÀI 177: CHÂN THIỆN MỸ..............................................................................892
BÀI 178: SỰ THẬT VỀ YÊU THƯƠNG...........................................................896
BÀI 179: BA CÁCH HIỂU VỀ TỤC ĐẾ VÀ CHÂN ĐẾ..................................902
BÀI 180: BỐN LOẠI THỨC ĂN........................................................................903
BÀI 181: ĐĂNG NGÀY 19.7.2021....................................................................905
BÀI 182: ĐĂNG NGÀY 20.7.2021....................................................................905
BÀI 183: MINH XÓA BỎ VÔ MINH................................................................905
BÀI 184: HIỆN TẠI HAY VỊ LAI......................................................................906
BÀI 185: NHÀ HIỀN TRIẾT..............................................................................907
BÀI 186: KHỔ VÌ MÂU THUẪN......................................................................909
BÀI 187: HAI NỖI SỢ KHỔ VÀ CHẾT............................................................910
BÀI 188: TÀM QUÝ CỦA PHÀM VÀ THÁNH...............................................911
BÀI 189: HIỂU SAI KHỔ ĐẾ.............................................................................913
BÀI 190: THẤY CÁC PHÁP ĐANG LÀ - LÀ CÁI GÌ?....................................918
BÀI 191: CHÂN LÝ LÀ SỰ THẬT MANG TÍNH PHỔ QUÁT.......................920
BÀI 192: SỐNG THÍCH NGHI, AN NHIÊN TỰ TẠI VỚI DỊCH BỆNH........922
BÀI 193: KHỔ TẬP DIỆT ĐẠO.........................................................................924
BÀI 194: TUỆ TRI KHỔ ĐẾ VÀ TẬP ĐẾ RỐT RÁO......................................929
BÀI 195: KINH NGHIỆM VÀ TUỆ TRI............................................................936
BÀI 196: TRỌN VẸN VỚI THỰC TẠI..............................................................939
BÀI 197: KINH NGHIỆM VÀ TUỆ TRI............................................................940
BÀI 198: CẢNH GIÁC VỚI YÊU THƯƠNG....................................................943
BÀI 199: THẾ GIỚI QUAN VÀ HỆ TỌA ĐỘ...................................................945
BÀI 200: HÀNH THIỀN ĐỂ THẤY GÌ?............................................................949
BÀI 201: THẤY BIẾT NHƯ THẬT KHỔ.........................................................950
BÀI 202: KHOAN VỘI TIN, KHOAN VỘI BÁC BỎ.......................................957
BÀI 203: CHÁNH TƯ DUY VÀ TÀ TƯ DUY..................................................959
BÀI 204: BẢN NGÃ VÀ CHẤM DỨT BẢN NGÃ...........................................962
BÀI 204: ĐỌC KINH VỚI CHÁNH TƯ DUY, TÀ TƯ DUY...........................964
BÀI 205: CHÂN NGHĨA PHẬT DẠY...............................................................969
BÀI 206: CÁC PHÁP ĐỘC LẬP HAY PHỤ THUỘC.......................................971
BÀI 207: PHÂN BIỆT GIỚI VÀ LUẬT.............................................................977
BÀI 208: NHÌN ĐỜI BẰNG CON MẮT TUỆ...................................................981
BÀI 209: BỜ NÀY VÀ BỜ KIA.........................................................................982
Tổng Hợp Bài Giảng Của Sư
NGUYÊN TUỆ

Bài 001: VĂN - TƯ – TU

Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU
CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU. Vì thế, không có phương pháp tu tập
nào, không có cách thức nào có thể Giác Ngộ mà không tuân thủ lộ trình VĂN -
TƯ - TU.

1 - VĂN là được nghe giảng từ bậc Chánh Đẳng Giác hoặc tự mình nghiên cứu
kinh điển của bậc Chánh Đẳng Giác lưu truyền, mà có được HIỂU BIẾT
ĐÚNG SỰ THẬT về tất cả pháp, gọi là LIỄU TRI tất cả pháp. Trong đó có
Liễu Tri Duyên Khởi, Liễu Tri Vô Thường, Vô Ngã, Liễu Tri Vị ngọt, Sự
Nguy Hiểm, Sự Xuất Ly, Liễu Tri Khổ Tập Diệt Đạo. Sự LIỄU TRI này còn có
các tên gọi khác là MINH, là TRÍ TUỆ, là CHÁNH TRI KIẾN do Nghe mà có,
nên gọi là VĂN TUỆ.

2 - TƯ là tư duy về các vấn đề VĂN TUỆ đã tiếp thu, làm cho HIỂU BIẾT
ĐÚNG SỰ THẬT về các pháp được sâu sắc và lớn rộng hơn Văn Tuệ. Trí
Tuệ do tư duy mà đạt được, gọi là TƯ TUỆ.

3 - TU là thực hành Bát Chánh Đạo siêu thế bao gồm tám chi phần: Chánh
Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - Chánh Tư Duy - Chánh Tri Kiến -
Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng. Pháp tu này thực hành cả TÁM
CHI

PHẦN trong mối quan hệ Duyên Khởi lên các chi phần (bao gồm CHỈ và
QUÁN) chứ không được hiểu sai là chỉ Hành Thiền Vipassana, chỉ là tu tập
Định.

Một là, khi thực hành Bát Chánh Đạo với các chi phần: Chánh Niệm - Chánh
Tinh Tấn - Chánh Định, lộ trình tâm sẽ DỪNG LẠI THẤY, NGHE, CẢM
NHẬN đối tượng với Tâm Biết Trực Tiếp (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt
thức, Thân thức, Tưởng thức) mà Tâm Biết Gián Tiếp (Ý thức) không khởi lên.
THẤY, NGHE, CẢM NHẬN đối tượng mà không có Ý thức khởi lên, sẽ không
biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao, thì THẤY, NGHE, CẢM NHẬN đó
gọi là TỈNH GIÁC. Đây gọi là THẤY các pháp như chúng đang là. An trú
TỈNH GIÁC sẽ kinh nghiệm được Tâm Giải Thoát hay Không Tánh Giải Thoát.
Đây là lộ trình tu CHỈ.

Hai là, khi thực hành Bát Chánh Đạo (Niệm Thọ, Niệm Tâm, Niệm Pháp) có
các chi phần: Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - Chánh Tư Duy -
Chánh Tri Kiến, lộ trình tâm sẽ khởi lên Chánh Tri Kiến, là tâm biết Ý thức,
HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT về đối tượng. Chánh Tri Kiến biết đối tượng đó
là Cảm Thọ, nó Vô thường, Vô chủ, có Vị ngọt, sự Nguy hiểm, sự Xuất ly (biết
như thật Khổ Tập Diệt Đạo). An trú Ý thức Chánh Tri Kiến sẽ kinh nghiệm và
an trú được Tuệ Giải Thoát hay Vô Tướng Giải Thoát. Chánh Tri Kiến là Trí
Tuệ Liễu Tri tất cả pháp, do tu tập mà đạt được nên gọi là TU TUỆ. TU TUỆ
được tu tập viên mãn sẽ xoá bỏ VÔ MINH đưa đến giải thoát tối hậu, quả A la
hán. Đây là lộ trình tu QUÁN.

KẾT LUẬN: CHÁNH TRI KIẾN hay MINH, hay TRÍ TUỆ đưa đến Giác Ngộ
và Giải Thoát phải được phát triển và viên mãn theo lộ trình VĂN - TƯ - TU đã
được Đức Phật dày công thuyết giảng, trong đó TU TẬP là làm viên mãn, là
sống với TRÍ TUỆ đã được VĂN và TƯ tiếp thu. Vì vậy VĂN TUỆ là bước
khởi đầu, là nền móng, là điều kiện không thể thiếu đối với Giác Ngộ. Trên thế
gian này, từ cổ chí kim, độc nhất vô nhị, chỉ một người duy nhất là Đức Phật
Thích Ca, không thầy chỉ dạy, đã tự mình tìm ra và chứng ngộ TRÍ TUỆ và
Ngài đã tuyên bố, quảng bá, phân tích, chỉ dạy rành mạch về Giác Ngộ và Con
Đường Giác Ngộ. TRÍ TUỆ này không sẵn có, không phải là phẩm tánh của tâm
Phàm phu, không thể quay về nơi tâm Phàm phu mà tìm thấy Trí Tuệ, không
thể tu Định mà có thể phát sinh Trí Tuệ, không thể trở về nơi Tánh Thấy, Tánh
Biết mà có được Trí Tuệ, không thể dùng tâm truyền tâm, từ thầy sang trò mà
có được Trí Tuệ, không thể có “tuệ nhật tự chiếu”, mà muốn có Trí Tuệ
TRƯỚC TIÊN phải NGHE và TƯ DUY về Giáo Pháp mà bậc Chánh Đẳng
Giác đã thuyết giảng. Kẻ Phàm phu bị Vô Minh che đậy nên THẤY đối tượng
vốn là sợi dây lại BIẾT lầm nó là con rắn, chỉ duy nhất Đức Phật Thích Ca
không thầy chỉ dạy, tự mình THẤY đối tượng vốn là sợi dây lại BIẾT NHƯ
THẬT là sợi dây. Chỉ có Đức Phật Thích Ca mới TỰ BIẾT và CHỈ DẠY được
Thực Tại này là sáu loại CẢM THỌ, do sáu Căn và sáu Trần tiếp xúc mà phát
sinh, nó Vô thường, Vô ngã, có Vị ngọt, sự Nguy hiểm và sự Xuất ly, chứ
không phải là Thế giới ngoại cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp. Nhưng nếu
chỉ có NGHE và TƯ DUY về Giáo Pháp mà không có TU TẬP Bát Chánh Đạo
thì chỉ chất chứa kiến thức, chỉ tranh cãi hơn thua, chỉ để Ngã Mạn tăng trưởng.
Muốn Giác Ngộ Giải Thoát, TRƯỚC TIÊN phải NGHE và TƯ DUY và TIẾP
ĐẾN là TU TẬP Bát Chánh Đạo siêu thế để chứng ngộ và an trú Tâm Giải
Thoát, Tuệ Giải Thoát. Đó là lộ trình VĂN - TƯ - TU, do Đức Phật thuyết
giảng, không có một cách thức nào khác ngoài VĂN - TƯ - TU mà có thể có
TRÍ TUỆ để Giác Ngộ và Giải Thoát.

Bài 002: ĐẾN ĐỂ MÀ THẤY

Từ khi công nghệ thông tin ra đời người tìm hiểu Phật Giáo có cơ hội tiếp xúc
với lượng thông tin về Giáo pháp nhiều hơn, dễ dàng hơn và đa chiều hơn. Đây
là một thuận lợi giúp cho họ thoát ra khỏi định kiến theo kiểu ếch ngồi đáy
giếng. Nhưng họ cũng gặp không ít khó khăn với lượng thông tin khổng lồ, đồ
sộ, bao la như đại dương ấy. Trong cái kho tàng khổng lồ thông tin ấy có biết
bao tông phái Phật giáo, với các giáo nghĩa khác nhau, cách thức hành trì khác
nhau, giải nói về chứng ngộ khác nhau, đôi khi trái ngược nhau, thậm chí là cãi
nhau. Và như vậy sẽ có bấy nhiêu thứ Phật giáo khác nhau. Lời dạy của Phật chỉ
có một, nhưng tuỳ theo hiểu biết, kinh nghiệm cá nhân của từng người, từng bộ
phái mà sẽ phát sinh các kiến giải khác nhau. Sự thật là những người chưa Giác
ngộ, thì những hiểu biết, kinh nghiệm cá nhân của họ là Vô minh (Thường kiến,
Ngã kiến) nên lời Phật dạy qua lăng kính của các bộ phái, các cá nhân sẽ sai
khác và nhuốn màu Vô minh, (Thường kiến và Ngã kiến). Những người đã Giác
ngộ, các vị A La Hán đã giác ngộ sự thật nên kiến giải của chư vị là đồng nhất,
đồng nhất với lời dạy của Phật nên không có gì phải phát triển thêm, phải kiến
giải thêm, nó chính là những lời dạy rất đơn giản, chỉ quán sát nơi Thực tại của
mỗi người là thấy liền. Những lời dạy đơn giản của Phật vẫn còn đâu đó trong
các bộ kinh Nikaya, nhưng chỉ có người trí mới có khả năng giác hiểu. Vậy
muốn phân biệt đâu là lời dạy của Phật, đâu là lời của người sau thì phải lấy tiêu
chuẩn nào?

Tất cả các tông phái Phật Giáo đều tôn trọng và gìn giữ ba pháp: Niệm Phật,
Niệm Pháp, Niệm Tăng, mà trong đó Niệm Pháp là: Pháp mà Đức Thế Tôn
khéo léo thuyết giảng có tính chất Thiết thực hiện tại; Đến để mà thấy; Không
bị chi phối bởi thời gian; Có tính hướng thượng; Cho người trí tự mình giác
hiểu. Nếu một người Niệm Pháp bằng cách học hỏi, tư duy và thực hành trải
nghiệm 5 tính chất trên, thì người đó khi đọc bất kỳ cuốn kinh nào, nghe lời
giảng nào, tham khảo một chú giải nào liền đối chiếu với năm tiêu chuẩn của
Pháp và nếu thấy có đầy đủ năm tính chất đó thì kết luận đó là lời dạy của Phật,
nếu thiếu một hoặc cả năm tính chất này thì kết luận, đó không phải là lời dạy
của Phật, mà đó chỉ là lời của người khác.

1 - Thiết thực hiện tại: Suốt 45 năm thuyết Pháp Đức Phật chỉ nói đến Khổ và
Sự chấm dứt Khổ, đây là Thiết thực bởi điều này phù hợp với mục đích cuộc
sống của con người là muốn hết khổ. Tất cả nhân loại đang tìm cầu cái này hay
cái kia, làm việc này hay việc kia cũng với mục đích muốn hết khổ. Các tôn
giáo hay khoa học ra đời cũng với mục đích giúp cho con người hết khổ. Nhưng
sự hết Khổ hay Sự chấm dứt Khổ mà nhân loại quan niệm, là phải thay đổi hoàn
cảnh sống, từ hoàn cảnh sống khó khăn, tồi tệ thành hoàn cảnh tốt đẹp, mỹ mãn
vào một ngày mai nào đó, một tương lai nào đó. Vì thế tất cả nhân loại (ngoại
trừ các bậc Thánh) đều sống bởi tương lai, hy vọng tương lai, mơ ước tương lai,
lạc quan bởi tương lai... Các tôn giáo cũng tạo cho các tín đồ hy vọng có được
sự hết Khổ do sau khi chết được lên thiên đường hoàn toàn lạc thú. Con người
sống với sự chịu đựng Khổ của ngày hôm nay với hy vọng ngày mai hết Khổ,
mà khi ngày mai đến vẫn với sự hiểu biết như vậy, nên chịu đựng Khổ với hy
vọng ngày mốt hết Khổ, và rồi ngày mốt đến lại cũng y như vậy... Vậy thì thực
tại luôn luôn chịu đựng Khổ còn sự hết Khổ chỉ là mơ ước trong tương lai
không bao giờ xảy ra nơi hiện tại cả. Nhân loại đều là: "Những kẻ lữ hành trên
đường hy vọng" nghĩa là những người đang đi trong nắng, gió khắc nghiệt với
muỗi mòng, đói khát, bệnh tật, với sức cùng lực kiệt, thậm chí phải bò lê lết với
tay chân rách nát... với hy vọng ở phía trước là Thiên đường đầy sữa và mật
ong. Rất nhiều vĩ nhân của nhân loại đã thấy ra sự thật, sự chấm dứt Khổ trong
tương lai như vậy chỉ là ảo vọng, và vì vô vọng với sự chấm dứt Khổ như vậy
mà rất nhiều người đã tự sát.

Khổ trong quá khứ thì đã qua đâu còn mà diệt, Khổ ở tương lai thì chưa phát
sinh làm gì phải diệt, Khổ chỉ có mặt trong hiện tại ngay bây giờ và tại đây nên
chỉ có thể chấm dứt Khổ ngay bây giờ và tại đây. Giáo pháp mà Đức Phật đã
chứng ngộ và thuyết giảng là Chấm dứt Khổ ngay bây giờ và tại đây. Đó là thiết
thực hiện tại. Nếu trong giây phút này mà biết chấm dứt Khổ thì giây phút tiếp
cũng sẽ làm được như vậy và như vậy mọi lúc mọi nơi đều hết Khổ. Một kẻ
Phàm quét nhà với hy vọng (tương lai) quét xong nhà sẽ hết Khổ vì phải quét
nhà nhưng một người thực hành Pháp mà Đức Phật thuyết giảng khi quét nhà
thì mỗi một nhát chỗi đều kinh nghiệm được sự hết Khổ chứ không phải quét
nhà xong mới hết Khổ. Đừng chờ đợi sự hết Khổ trong tương lai, mà hãy thực
hành cách thức chấm dứt Khổ trong hiện tại của Đức Phật dạy, lúc đó sẽ kinh
nghiệm được không có gì níu lại ở đằng sau, không có gì chờ đợi ở phía trước.
Đó mới là tự do, tự tại, đó mới là sự đoạn tận Khổ đau.

2 - Đến để mà thấy: nghĩa là người học có thể kiểm chứng được bằng thực tại
của mình. Ví như một người chưa bao giờ ăn sầu riêng, được người khác mô tả
về vị ngon ngọt của sầu riêng và người đó ghi nhớ rồi có thể tưởng tượng ra vị
ngon ngọt đó, nhưng đây cũng chỉ là hiểu biết tri thức khái niệm, chưa phải là
cái biết thật về vị sầu riêng. Khi người đó ăn sầu riêng thì lúc này người này
mới tự mình biết được vị sầu riêng. Cũng y như vậy, nếu Đức Phật thuyết giảng
về những cõi trời nào đó, những câu chuyện về Ấn Độ thời đó, một thế giới tâm
linh huyền bí nào đó, một cõi giới cực lạc nào đó... thì người học bây giờ chỉ
“đến để mà tin” chứ không thể có cách nào để mà kiểm chứng những cái đó,
không thể nào đến để mà thấy những cái đó. Vậy thì những gì Đức Phật thuyết
là “đến mà thấy”, nghĩa là có thể kiểm chứng được, có thể tự mình thấy, tự
mình biết được thì đó phải là những sự thật phổ quát, nơi Đức Phật cũng như
vậy, nơi người học cũng như vậy. Nhưng đến để mà thấy được lời Phật dạy là
hết sức nan giải đối với nhân loại, vì quy luật nhận thức của nhân loại chỉ tuân
thủ đến để mà tin, chứ không có phương cách đến để mà thấy. Ví như anh thanh
niên có hàm răng chắc khoẻ ăn cái bánh đa vừa nướng rồi thốt lên: tôi biết bánh
đa này giòn quá, nghĩa là anh ta hiểu biết: giòn là thuộc tính của bánh đa (giòn
là vật chất), giòn thường trú nơi bánh đa, giòn là của bánh đa. Hiểu biết như
vậy khởi lên theo một lộ trình là: sau khi cảm nhận vị giòn, tư duy khởi lên sẽ
phân tích so sánh đối chiếu thông tin về vị giòn vừa cảm nhận với những thông
tin trong "kho chứa" tri thức, hiểu biết, kinh nghiệm của mình mà trong đó là:
ngọt nằm trong đường, mặn nằm trong muối, ngon dở nằm trong thức ăn, nóng
ở trong lửa, lạnh trong nước đá, giòn nằm trong bánh đa... thì đương nhiên đưa
đến kết luận như vậy. Vì ai cũng mặc định đây là sự thật, là chân lý mà không
thấy hiểu biết như vậy là vô minh, là sai sự thật. Nếu đó là chân lý, là sự thật, vị
giòn nằm trong bánh đa, vị giòn là của bánh đa thì anh thanh niên có hàm răng
chắc khoẻ ăn cảm thấy giòn, ông già 80 đã rụng hết răng ăn cũng phải giòn.

Nhưng sự thật không phải như vậy nên hiểu biết đó là sai sự thật. Nếu một
người đến để mà thấy sẽ quán sát sự thật như sau: bánh đa và hàm răng là hai
nhân và đủ hai nhân như vậy mà chưa có sự tiếp xúc thì chưa có cái giòn nào
phát sinh cả. Khi hàm răng tiếp xúc với cái bánh đa (duyên) thì lập tức phát sinh
cái giòn mà Thánh hay Phàm đều cảm nhận được. Đây mới là cái giòn của thực
tại hàng ngày và nó là một cảm giác, nó là Tâm chứ không phải là Vật. Xúc sinh
cảm giác giòn sinh, Xúc diệt cảm giác giòn diệt. Cảm giác giòn sinh lên rồi diệt
đi, nó chỉ tồn tại trong khoảng khắc đó, nó không thường trú, không thường
hằng trong cái bánh đa, nên nó Vô thường. Khi cảm giác giòn tồn tại nó hoàn
toàn vô chủ, nghĩa là bánh đa và hàm răng không phải là chủ nhân, không là chủ
sở hữu nó. Cũng có nghĩa không có một cái Ta chủ nhân, chủ sở hữu nó, nên là
Vô ngã. Như vậy sự thật giòn là Tâm và nó Vô thường, Vô ngã, chứ không phải
là Vật, không thường hằng, không thường trú ở trong bánh đa, nó vô chủ chứ
không hữu chủ.

Đến để mà tin là sau khi nghe giảng hoặc đọc kinh thì đối chiếu với kho tri thức,
hiểu biết của mình và lý giải lời dạy của Phật bởi Vô Minh (Thường kiến và
Ngã kiến) của mình, còn đến để mà thấy là đối chiếu lời dạy của Phật với sự
thật, mà tự mình thấy ra cái sự thật được nói đến. Cho nên Hoà thượng Minh
Châu có nói: Đạo Phật là Đạo đến để mà thấy chứ không phải Đạo đến để nhờ
người khác thấy hộ.

Đó là đến để mà thấy nhưng đến để mà thấy cái gì? Đến để mà thấy như thật Lý
Duyên Khởi, đến để mà thấy như thật Vô Thường, Vô Ngã, đến để mà thấy như
thật Khổ, Nguyên Nhân Khổ, Khổ Diệt, Con Đường đưa đến Khổ Diệt (Khổ
Tập Diệt Đạo). Đến để mà thấy cũng có các cấp độ khác nhau: do nghe giảng
hoặc nghiên cứu kinh điển mà thấy được sự thật gọi là Văn Tuệ, do tư duy về
điều đã nghe mà thấy sự thật rộng và sâu hơn gọi là Tư Tuệ và do thực hành Tứ
Niệm Xứ mà tự thấy tự biết sự thật và sống với cái thấy như thật ấy gọi là Tu
Tuệ. Đây là lộ trình Văn Tư Tu. Chỉ khi nào thấy như thật do thực hành Tứ
Niệm Xứ gọi là Tu Tuệ được tu tập được làm cho viên mãn, lúc đó mới xoá bỏ
hoàn toàn Vô Minh, lúc đó mới là Giác Ngộ Tứ Thánh Đế, mới hoàn toàn Giải
Thoát. Đó là đến để mà thấy viên mãn nhất.

3 - Không bị chi phối bởi thời gian là nói về Khổ Diệt hay Niết bàn. Bát
Chánh Đạo là con đường chấm dứt Khổ nhưng Niết bàn hay Khổ Diệt không
phải là đích đến của Bát Chánh Đạo. Nếu đi hết con đường BCĐ mà đạt được
đích đến là Niết bàn thì BCĐ là nhân Niết bàn là quả và như vậy Niết bàn là
pháp hữu vi, chịu sự chi phối của thời gian, theo quy luật nhân trước quả sau.
Khi lộ trình Tâm BCĐ khởi lên thì Chánh Kiến trên lộ trình Tâm BCĐ sẽ kinh
nghiệm được ngay: không yêu thích, không chán ghét, độc lập không ràng
buộc, giải thoát không hệ lụy. Ví như khi quét nhà có Chánh Niệm, quán thân
nơi thân (nhớ đến chú tâm quán sát thân) khởi lên liên tục không gián đoạn
nghĩa là nhất tâm không phân tâm thì sẽ kinh nghiệm được sự bình an, sự Hết
Khổ trong thời gian quét nhà chứ không phải quét nhà xong mới thấy hết Khổ.
Hết Khổ sau khi quét xong nhà là pháp bị chi phối bởi thời gian. Tóm lại Giải
Thoát là ngay bây giờ và tại đây chứ không phải ở tương lai, ở một đời sau, ở
một cảnh giới nào hết.
Khi BCĐ khởi lên thì sẽ không có Vô Minh, không có Tham Sân Si thì sẽ kinh
nghiệm sự vắng mặt Khổ tức thì.

Không bị chi phối bởi thời gian còn có nghĩa là Tứ Thánh Đế mà chư Phật đã
chứng ngộ và thuyết giảng ở quá khứ, hiện tại, vị lai đều như vậy, không
thay đổi với thời gian.

4 - Có tính chất hướng thượng: Hướng hạ là Tâm Bát Tà Đạo, có Tham Sân
Si, có Sầu Bi Khổ Ưu Não đưa đến tái sinh, đưa đến Khổ luân hồi sinh tử. Pháp
mà Đức Thế Tôn khéo léo thuyết giảng hướng đến tu tập Bát Chánh Đạo, đoạn
tận Tham Sân Si, đoạn tận Khổ, đoạn tận sự tái sinh trong tương lai nên có tính
hướng thượng. Những pháp nào còn chủ trương sẽ được sinh ra, sẽ còn hiện
hữu thì thuộc về Bát Tà Đạo, là hướng hạ, không phải Pháp mà Đức Thế Tôn
thuyết giảng cho đệ tử thực hành.

5 - Cho người trí tự mình giác hiểu: Pháp mà Đức Thế Tôn thuyết giảng
không phải cho tất cả nhân loại, không phải là pháp cứu khổ muôn loài như
nhiều người hiểu mà chỉ dành cho người trí. Trong kinh điển còn ghi lại ưu tư
của Ngài: “Pháp mà Ta chứng được sâu kín, khó thấy, khó biết, tịch tịnh, mỹ
diệu, vượt qua mọi tư duy lý luận suông, tế nhị chỉ có người trí mới có khả
năng giác hiểu, còn quần chúng này ưa thích ái dục, đam mê ái dục, bị ái dục
ràng buộc nên Lý Duyên Khởi là một điều rất khó lãnh hội và Niết Bàn - sự
chấm dứt khát ái, sự chấm dứt các Hữu cũng là một điều rất khó lãnh hội.” Phật
Giáo với hình thức và nội dung tôn giáo có thể đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của
đa số nhưng Pháp mà Đức Thế Tôn khéo léo thuyết giảng, lời dạy Thật của
Phật thì chỉ dành cho một thiểu số người trí. Trong Kinh Đức Phật đã ví người
trí so với toàn thể nhân loại giống như vàng bạc so với đất đá trên quả đất này.

Nếu một người hiểu rõ năm tính chất này của Pháp, người đó sẽ không vội tin
cũng không vội bác bỏ bất cứ điều gì, người đó sau khi so sánh với năm tính
chất của Pháp, lúc đó mới bác bỏ hay chấp nhận. Sự tu học và tu như vậy sẽ có
kết quả lớn, lợi ích lớn. Giống như hai người đi vào rừng tìm trầm, một người
không có bất kỳ một hiểu biết nào về cây có trầm họ sẽ đốn ngã bất kỳ cây nào
mà họ bắt gặp để tìm trầm trong đó và họ sẽ nhọc mệt vô ích mà chẳng có kết
quả nào. Còn người trước khi vào rừng tìm trầm đã học hỏi và biết rõ về cây gió
trầm, biết rõ dấu hiệu những cây gió có trầm thì họ sẽ tốn ít sức lực mà kết quả
lại lớn hơn rất nhiều người kia.

Về mục lục

Bài 003: KHỔ TẬP DIỆT ĐẠO

Đa phần người người học Phật, đặc biệt là tầng lớp trí thức đều muốn tìm hiểu
những kiến thức trong kinh Phật để xoá tan những nghi vấn của mình mà kiến
thức thời đại không giải quyết nổi. Đặc biệt là các câu hỏi con người từ đâu mà
đến, khi chết đi về đâu, thế giới sau khi chết như thế nào, con người liên quan như
thế nào với thế giới, với vũ trụ vạn hữu, thế giới vũ trụ vạn hữu này là như thế
nào, từ đâu mà có, hữu biên hay vô biên, ngoài trái đất này có chỗ nào có sự sống
không... Trong giáo lý Phật giáo đề cao Khổ Tập Diệt Đạo, nhưng khi được nghe
về Khổ Tập Diệt Đạo, thì họ cảm thấy quá đơn giản và ai cũng thấy mình đã thấu
suốt. Khổ là sinh già bệnh chết, là cầu mong mà không được, là yêu nhau mà phải
biệt ly, là oán giận nhau mà phải sống chung, là sầu bi khổ ưu não. Nguyên nhân
Khổ là do Tham ái tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia như Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái.
Sự chấm dứt Khổ là đoạn tận Tham Ái. Con đường Chấm dứt khổ là Bát Chánh
Đạo gồm Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng,
Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Hầu như ai cũng thấy rất đơn giản, gần
như ai cũng cảm nhận mình đã hiểu biết đầy đủ về Khổ Tập Diệt Đạo. Những
hiểu biết "giản đơn" như vậy không giải quyết được những câu hỏi, những tò mò,
những nghi vấn đang chi phối họ. Vì vậy một số người sau khi biết như vậy họ
dừng lại và hướng đến tìm kiếm câu trả lời ở các lĩnh vực hoặc tôn giáo khác. Một
số do Đức tin tôn giáo, họ không chú tâm nơi Khổ Tập Diệt Đạo, mà họ chú tâm
tìm kiếm những điều kỳ diệu, mầu nhiệm do "nghe đồn" nên họ cố gắng đọc, tìm
hiểu để giải quyết nghi vấn của mình. Bỏ qua Khổ Tập Diệt Đạo, họ được kinh
sách của các tông phái Phật Giáo đưa họ đến những cảnh giới hoành tráng,
khoáng đạt với trí tưởng tượng vô giới hạn, đặc trưng của tư tưởng Ấn độ truyền
thống theo kiểu trường ca Mabrahata. Họ được giới thiệu một thế giới quan được
copy từ những kiến thức của kinh điển Vệ đà với Cửu sơn, Bát hải, núi Tu di, với
tam thiên đại thiên thế giới, với các cõi trời kỳ diệu và các cõi địa ngục khủng
khiếp, thỏa mãn được trí tò mò. Họ được chiêu đãi và thưởng thức những bữa tiệc
ngôn từ khoái khẩu, mãn nhãn với những tiết mục trình diễn xiếc ngôn từ. Nhiều
người say mê những khái niệm rất hấp dẫn như Chân đế, Tục đế, Chân không diệu
hữu, Phật tánh, Tánh biết, Bản tâm không sinh không diệt, trùng trùng duyên
khởi, Phật là tâm, Tâm là Phật, Thường lạc ngã tịnh... những thứ rất mơ hồ trừu
tượng, không thể nào kiểm chứng, cũng không giới thiệu cách nào đạt được nó để
kiểm chứng. Góp thêm vào những thứ mơ hồ trừu tượng, Văn học Thiền tông
Trung hoa đã góp thêm các món ngon vào bữa tiệc. Người đọc mê mẩn vì những
điều bí mật, những cách thức cư xử kỳ dị của các thiền sư, những công án bí ẩn,
những thách đố vĩ đại, kiểu như đệ tử hỏi Phật là gì thì thiền sư trả lời, Phật là cái
que cứt khô... Nhưng tất cả những bí ẩn, mơ hồ trừu tượng, xuất phát từ những
suy diễn, tưởng tượng vô tiền khoáng hậu trong đó có ẩn chứa một HỨA HẸN
KỲ DIỆU VỀ MỘT HẠNH PHÚC TUYỆT ĐỐI CỦA GIÁC NGỘ làm hấp dẫn
người đọc. Chính điều này chắp cánh cho độc giả bay cao, và tất cả những thứ đó
hấp dẫn tâm thức họ, rồi kể từ đó, kể cả ngôn từ Khổ Tập Diệt Đạo cũng không
được họ nhắc tới nữa. Trong số đó chỉ có một số rất ít người, sau nhiều năm tháng
nghiền ngẫm những tư tưởng kỳ diệu đó nhưng dần dà nhận ra nó xa rời thực tiễn,
nó không liên quan đến cuộc sống thường ngày, nó là cái BÁNH VẼ dẫn dụ con
người vào thế giới tâm linh siêu hình huyền bí, CÒN CUỘC SỐNG THỰC, với
những đối tượng mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm thì vẫn
Tham, vẫn Sân, vẫn Si, vẫn đầy Phiền não. Những người ấy, nếu có duyên thì họ
sẽ quay về điểm xuất phát ban đầu để nghiên cứu sâu hơn về Khổ Tập Diệt Đạo.

Để hiểu biết thấu đáo về Khổ Tập Diệt Đạo, để giác ngộ về Khổ Tập Diệt Đạo là
điều không phải dễ dàng, không dành cho mọi hạng người, chỉ dành cho người có
trí. Bốn mươi lăm năm thuyết giảng, Đức Phật không nói gì ngoài Khổ Tập Diệt
Đạo, nhưng những điều giảng dạy, phân tích tỉ mỉ đã không được lưu truyền đầy
đủ mà chỉ tồn tại rất ngắn gọn theo kiểu các đề mục, các mệnh đề tóm tắt như đã
nêu trên. Muốn thấu đáo Khổ Tập Diệt Đạo phải NƯƠNG THEO LỜI DẠY ĐÓ
MÀ QUAN SÁT SỰ THẬT, QUAN SÁT LỘ TRÌNH TÂM. Phải hiểu rằng có
hai loại hiểu biết về Khổ Tập Diệt Đạo: một loại hiểu biết không đúng sự thật về
Khổ Tập Diệt Đạo, gọi là Vô Minh, thuộc về Phàm phu, đã được Phàm phu học
hỏi, tiếp nhận, vun bồi từ vô thuỷ, đang chi phối cuộc sống của Phàm phu nhưng
Phàm phu lại không biết nó. Loại thứ hai là hiểu biết đúng như thật về Khổ Tập
Diệt Đạo, gọi là Minh, được Đức Phật giác ngộ và thuyết giảng. Cũng cần phải
hiểu rõ là Đức Phật thuyết giảng với mục đích làm cho đệ tử HIỂU BIẾT ĐÚNG
NHƯ THẬT VỀ KHỔ (gồm bốn khía cạnh KHỔ, nguyên nhân KHỔ, chấm dứt
KHỔ, con đường chấm dứt KHỔ) chứ không phải để THẤY KHỔ, CẢM NHẬN
KHỔ. Thấy Khổ hay cảm nhận Khổ thì Thánh hay Phàm đều cảm nhận như nhau,
không cần ai dạy, không cần phải học hỏi, chỉ có HIỂU BIẾT VỀ KHỔ thì khác
nhau, đối lập nhau, cần phải học hỏi nơi Đức Phật. Không phải chỉ có Khổ, mà tất
cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, kể cả Pháp mà Đức Thế tôn khéo giảng trong kinh
điển, đều tồn tại hai loại HIỂU BIẾT khác nhau là VÔ MINH của Phàm phu và
MINH của bậc Thánh. Ví như CỨNG chẳng hạn. Nhân loại hiểu biết CỨNG là
tính chất vật chất thuộc về hòn đá, CỨNG thường hằng, thường trú trong hòn đá,
CỨNG của hòn đá. Từ người không biết chữ, đến nhà bác học cho đây là ĐÚNG
SỰ THẬT và hiểu biết đó đang chi phối đời sống nhân loại. Nhưng nếu quan sát
sự thật sẽ thấy: Hòn đá là một nhân tố, Bàn tay là một nhân tố. Có HAI NHÂN tố
đó nhưng không có TIẾP XÚC nhau thì không có cái CỨNG nào cả. Khi Hai
Nhân, Bàn tay và Hòn đá tiếp xúc nhau thì lập tức phát sinh CẢM GIÁC CỨNG.
Đây mới là CỨNG thực của Thực tại, của đời sống hàng ngày mà Thánh hay
Phàm đều cảm nhận được. Xúc sinh Cảm giác cứng sinh, Xúc diệt Cảm giác cứng
diệt. Cảm giác cứng sinh lên rồi diệt đi nên nó Vô thường, không thường hằng,
không thường trú trong hòn đá. Cảm giác cứng do duyên Bàn tay và Hòn đá mà
phát sinh nên Cảm giác cứng không phải của Bàn tay, không phải của Hòn đá nên
nó Vô chủ, Vô sở hữu. Khi quan sát và tư duy trên sự thật như vậy mới có hiểu
biết ĐÚNG NHƯ THẬT: CỨNG là Cảm giác thuộc phạm trù tâm, và nó Vô
thường, Vô chủ, Vô sở hữu. Khi có được hiểu biết ĐÚNG NHƯ THẬT gọi là
MINH như vậy, mới khẳng định được hiểu biết của nhân loại CỨNG là thuộc tính
vật chất, thường hằng, thường trú trong Hòn đá, của Hòn đá là SAI SỰ THẬT gọi
là VÔ MINH. Cũng y như vậy có hai loại hiểu biết về Khổ:

A - HIỂU BIẾT VÔ MINH, KHÔNG ĐÚNG NHƯ THẬT VỀ KHỔ: phàm phu

hiểu biết Khổ ở nơi thế giới ngoại cảnh. Khổ thường hằng, thường trú trong
những hoàn cảnh khó khăn tồi tệ như nghèo đói, lạc hậu, thất học, thiếu tiện
nghi... và trong những hoàn cảnh trung tính. Nguyên Nhân Khổ là từ những hoàn
cảnh tồi tệ và trung tính mà đến với con người. Sự chấm dứt Khổ xảy ra khi có
Hạnh phúc, mà Hạnh phúc thường hằng, thường trú trong những hoàn cảnh tốt
đẹp như giàu có, xinh đẹp, thành đạt... Con đường chấm dứt Khổ là thay đổi hoàn
cảnh sống, chấm dứt hoàn cảnh khó chịu và trung tính và thay thế bằng hoàn cảnh
tốt đẹp. Như vậy Khổ Tập Diệt Đạo thường hằng, thường trú nơi Thế Giới ngoại
cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp. Khổ Tập Diệt Đạo là của hoàn cảnh và
đồng thời có một cái TA là chủ nhân, chủ sở hữu của Khổ Tập Diệt Đạo. Hiểu
biết này là VÔ MINH, có nội dung THƯỜNG KIẾN và NGÃ KIẾN.

B - HIỂU BIẾT MINH, ĐÚNG NHƯ THẬT VỀ KHỔ: Bậc Thánh quán sát tiếp
xúc giữa sáu CĂN và sáu TRẦN nên biết như thật Duyên khởi lên lộ trình tâm
Bát Tà Đạo, Duyên khởi lên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo và có hiểu biết đúng như
thật:

- KHỔ do duyên Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo,
KHỔ là Cảm thọ, thuộc nội tâm chứ không có nơi Thế giới ngoại cảnh, KHỔ có
tánh chất Vô thường, Vô chủ vô sở hữu. Nghĩa là nó sinh lên rồi diệt đi liền,
không có Ta, Tôi nào là chủ nhân thọ lãnh khổ cả.

- NGUYÊN NHÂN KHỔ là Vô minh và Tham ái phát sinh trên lộ trình tâm Bát
Tà Đạo thuộc nội tâm chứ không phải Thế giới ngoại cảnh. Vô minh và Tham ái
cũng có tánh chất Vô thường, Vô chủ (Vô ngã), nghĩa là nó sinh lên rồi diệt,
không có ai là chủ nhân, là tác giả gây ra khổ cả.

- SỰ CHẤM DỨT KHỔ là sự đoạn tận Vô minh và Tham ái, xảy ra trên lộ trình
tâm Bát Chánh Đạo được gọi là Diệt Đế hay Niết Bàn, xảy ra nơi nội tâm chứ
không phải xảy ra nơi Thế giới ngoại cảnh.

- CON ĐƯỜNG CHẤM DỨT KHỔ là Bát Chánh Đạo gồm: Chánh niệm - Chánh
Tinh tấn - Chánh định - Chánh Tư duy - Chánh kiến - Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng là thay đổi nội tâm chứ không phải thay đổi Thế giới ngoại cảnh. Bát
Chánh Đạo cũng Vô thường, Vô chủ vô sở hữu (Vô ngã).

C - Người tu học Phật cần thấu suốt hai loại hiểu biết về Khổ Tập Diệt Đạo là VÔ
MINH và MINH bằng Văn, bằng Tư và bằng Tu. Nếu không có hiểu biết cả hai
mà chỉ trau dồi Minh thì sẽ không Nhận Mặt được Vô Minh, không từ bỏ nó,
không đoạn diệt nó và khi nó xuất hiện, vẫn sử dụng nó để hiểu biết lời dạy của
Phật. Nếu trau dồi Minh đến đâu, Nhận Rõ Vô Minh đến đấy thì Minh mới xoá bỏ
Vô Minh từng chút, từng chút một. Giờ phút Giác Ngộ của Phật không những do
BIẾT NHƯ THẬT: Đây là Khổ, Đây là Nguyên nhân Khổ, Đây là Chấm dứt Khổ,
Đây là Con đường chấm dứt Khổ. Do THẤY NHƯ VẬY, BIẾT NHƯ VẬY mà
mọi LẬU HOẶC ĐƯỢC ĐOẠN TẬN mà còn BIẾT NHƯ THẬT VÔ MINH:
“Vô Minh, Ta đã biết rõ ngươi rồi. Ngươi sẽ không làm nhà cho Như Lai được
nữa, tất cả sườn nhà đã gãy đổ, cây đòn dông ngươi dựng cũng đã bị phá tan.” Sự
Giác Ngộ xảy ra do hiểu, tu tập để vun bồi, củng cố, an trú MINH và đoạn diệt
VÔ MINH bằng cách thay đổi lộ trình tâm sinh diệt Bát Tà Đạo, sang lộ trình tâm
sinh diệt Bát Chánh Đạo, phát sinh do sự tiếp xúc giữa Sáu Căn và Sáu Trần nơi
mỗi người chứ không cần đến một Tánh biết, Bản tâm, Phật tánh, Chân như
không sinh không diệt nào hết. Nếu có dùng đến khái niệm Vọng Tâm, Chân Tâm
thì phải hiểu rằng tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu là Tâm biết không đúng sự thật
là vọng tưởng nên gọi là Vọng Tâm, tâm Bát Chánh Đạo của bậc Thánh là Tâm
biết đúng sự thật nên gọi là Chân Tâm. Đức Phật giác ngộ là Giác ngộ TỨ
THÁNH ĐẾ, là bậc A LA HÁN CHÁNH ĐẲNG GIÁC, nghĩa là tự mình trở
thành vị A LA HÁN không thầy chỉ dạy còn các vị A LA HÁN Thanh văn Giác
Ngộ là nhờ bậc A la hán Chánh Đẳng Giác chỉ dạy. Vì vậy đừng có hiểu nhầm là
tu thành A la hán rồi còn phải tu thành Phật.

Về mục lục

Bài 004: TỨ THÁNH ĐẾ

Có một du sĩ ngoại đạo bạch hỏi Thế Tôn, đại ý là phải đi với tốc độ như thế
nào, phải đi với thời gian bao lâu, mới có thể đi đến được Niết bàn. Đức Thế
Tôn trả lời, cho dù đi với tốc độ nào và thời gian bao lâu cũng không thể tới
được Niết bàn và Ngài nói tiếp. Nhưng này Hiền giả, Ta tuyên bố: "Thế gian,
Nguồn gốc Thế gian, Sự chấm dứt Thế gian và Con đường chấm dứt Thế gian
đều nằm trong tấm thân dài độ thước mấy này cùng với Tưởng và Thức”. Đây là
một hình thức tuyên bố về Tứ Thánh Đế trong đó: Thế gian là đồng nghĩa với
Khổ; Nguồn gốc Thế gian là đồng nghĩa với Nguyên nhân Khổ; Sự chấm dứt
Thế gian là đồng nghĩa với Sự chấm dứt Khổ; Con đường chấm dứt Thế gian là
đồng ngĩa với Con đường chấm dứt Khổ.
Tuyên bố của Đức Phật khẳng định, chỉ có thể chứng ngộ Tứ Thánh Đế nơi tấm
thân dài hơn một thước có Tưởng và Thức này, chứ không thể chứng ngộ Tứ
Thánh Đế tại một địa điểm đặc biệt xa thẳm nào đó, hay tại một cõi giới tâm
linh nào đó, hay tại một thế giới bản thể Chân không, một thế giới thường lạc
ngã tịnh nào đó. Trong đó, TƯỞNG là tâm biết trực tiếp giác quan gồm Nhãn
thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng thức và THỨC là tâm
biết Ý thức do học hỏi, tư duy mà có.

Tuyên bố của Đức Phật phải được hiểu theo nghĩa đen của các ngôn từ này, chứ
không được hiểu theo một nghĩa bóng gió nào hết. Theo nghĩa đen của các
ngôn từ này, thì Đạo Phật không phải là đạo nhập thế, không phải để xây dựng
một Thế gian hạnh phúc cực lạc, mà là đạo Xuất Thế gian, ĐẠO CHẤM DỨT
THẾ GIAN. Nghe đến đây nhiều người sẽ tròn xoe con mắt, sẽ rất ngạc nhiên
và cũng giống các du sĩ ngoại đạo thời xưa, đã khởi lên tư tưởng phê phán: Sa
môn Gôtama chủ trương đoạn diệt Thế giới, chủ trương đoạn diệt các loài hữu
tình, chủ trương Hư vô chủ nghĩa. Tư tưởng này khởi lên vì không hiểu biết
như thật khái niệm Thế gian trong tuyên bố của Đức Phật, mà họ đồng nhất Thế
gian với Thế giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp ở bên ngoài.

Vậy Thế gian trong tuyên bố này là gì? Thế gian là thực tại của Phàm phu và
NÓ LÀ TÂM CHỨ KHÔNG PHẢI CẢNH, KHÔNG PHẢI LÀ THẾ GIỚI,
nhưng vì không giác ngộ Lý Duyên khởi, nên kẻ Phàm phu cho rằng: Những
đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức của thực tại là
Sắc trần,Thanh trần, Hương trần, Vị trần, Xúc trần, Pháp trần, là Thế giới vật
chất ngoại cảnh. Đây là hiểu biết Nhị Nguyên: Tâm biết Cảnh và hiểu biết đó
không đúng sự thật nên gọi là Vô Minh.

Hiểu biết đúng như thật Lý Duyên Khởi sẽ biết rằng: Có Sáu Căn và Sáu Trần
nhưng chưa có sự tiếp xúc thì chưa có đối tượng thực tại nào xuất hiện cả. Ví
như, lúc ngủ say không mộng mị, lúc bị gây mê trên bàn mổ hoặc ngất đi trong
một tai nạn, lúc đó Thực tại Thế gian không có mặt. Khi Sáu Căn tiếp xúc Sáu
Trần, sẽ phát sinh sáu Cảm giác (hay sáu Cảm thọ) bao gồm: Cảm giác hình
ảnh, Cảm giác âm thanh, Cảm giác mùi, Cảm giác vị, Cảm giác xúc chạm, Cảm
giác pháp trần và sáu tâm biết trực tiếp giác quan bao gồm: Nhãn thức, Nhĩ
thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng thức ghi nhận hay nhận biết sáu
Cảm thọ ấy (gọi chung các tâm biết đó là Tưởng). Diễn tả ngắn gọn là: Căn
Trần tiếp xúc phát sinh đồng thời: Thọ - Tưởng. Vậy đối tượng thực tại được
thấy, được nghe, được cảm nhận là Cảm thọ, và nó là Tâm chứ không phải
Cảnh, không phải là thế giới vật chất Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần bên
ngoài như loài người đã mặc định.

Thực tại không chỉ có tâm biết trực tiếp giác quan nhận biết các Cảm thọ, mà sẽ
có tư duy khởi lên phát sinh tâm biết Ý thức (hiểu biết đối tượng), rồi từ Ý thức
sẽ phát sinh Thái độ thích hay ghét (Tham Sân) và từ Thái độ sẽ phát sinh lời
nói, hành động Phản ứng đối với đối tượng và từ Phản ứng mà phát sinh kết quả
Khổ hay Vui. Toàn bộ lộ trình tâm ấy có đối tượng là Cảm thọ gọi là Bát Tà
Đạo, chính là THỰC TẠI THẾ GIAN tuần tự sinh khởi như sau:

Xúc - <Thọ (cảm giác) - Tưởng> - Tà Niệm - Tà Tư Duy - Tà Tri Kiến (ý thức)

- Tham Sân Si - Tà Định - Dục - Tà Tinh Tấn - Phi Như Lý Tác Ý - Tà ngữ Tà
nghiệp Tà mạng - Sầu bi khổ ưu não khổ (sinh già bệnh chết).

Thực Tại Thế Gian chính là lộ trình tâm Bát Tà Đạo, mà lộ trình tâm này có
toàn bộ khổ uẩn, nên Thế gian đồng nghĩa với Khổ là như vậy. Trên Bát Tà
Đạo có Vô Minh và Tham ái là Nguồn gốc phát sinh Khổ, nên Nguồn gốc Thế
gian đồng nghĩa với Nguồn gốc Khổ là như vậy. Lộ trình Bát Tà Đạo phát sinh
do Thân này (Sáu Căn) tiếp xúc với Thế giới (Sáu Trần) trong đó có Tưởng (cái
biết trực tiếp giác quan) và Thức (ý thức) nên nói rằng Thế gian, Nguồn gốc
Thế gian có trong tấm thân dài độ thước mấy này cùng với Tưởng và Thức là
vậy.
Khi tu tập Bát Chánh Đạo, lộ trình tâm Bát Chánh Đạo sẽ khởi lên và lộ trình
Bát Tà Đạo sẽ được đoạn trừ. Bát Tà Đạo được đoạn trừ như vậy gọi là SỰ
CHẤM DỨT THẾ GIAN và đồng nghĩa với Sự chấm dứt Khổ. Bát Chánh Đạo
chính là Con đường chấm dứt Thế gian đồng nghĩa với Con đường chấm dứt
Khổ. Lộ trình tâm Bát Chánh Đạo cũng phát sinh khi Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần
nên nói, Sự chấm dứt Thế gian và Con đường chấm dứt Thế gian đều ở nơi tấm
thân dài độ thước mấy này cùng với Tưởng và Thức là vậy. Lộ trình tâm Bát
Chánh Đạo đó là:

Xúc - <Thọ - Tưởng> - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - [Tỉnh
giác] - Chánh Tư Duy - Chánh Kiến (ý thức) - Như Lý Tác Ý - Chánh ngữ
Chánh nghiệp Chánh mạng.

Chính vì sự giác ngộ của Đức Thế Tôn về thực tại là Cảm Thọ, không phải là
Thế Giới, nên trong Kinh Năm Ba Ngài đã tuyên bố: “Vô thượng tịch tịnh, tối
thắng đạo được Như Lai Chánh Đẳng Giác, sau khi như thật tuệ tri sự tập khởi,
sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của sáu xúc xứ.” Vì vậy, hãy
chú tâm quán sát để như thực tuệ tri sáu xúc xứ, nếu rời điều này sẽ không như
thật tuệ tri Lý Duyên Khởi và sẽ đi đến diễn giải sai lời dạy của Đức Thế Tôn.
Ngay nơi tấm thân dài hơn một thước có Tưởng và Thức này mà có Khổ và
Nguyên nhân Khổ, thì lúc đó là Phàm phu, là Thế Gian. Nhưng cũng ngay tấm
thân dài hơn một thước có Tưởng và Thức mà có Khổ Diệt và Con đường Khổ
Diệt thì lúc đó lại là bậc Thánh, là Xuất Thế Gian. Vậy thì, hãy tu tập trên tấm
thân có Tưởng và Thức này trong mọi tư thế, mọi nơi chỗ là có thể chứng ngộ
Tứ Thánh Đế, chứng ngộ Niết Bàn, chứ không cần tu tập tại một nơi chốn lý
tưởng nào ngoài thân, không thể chứng ngộ Niết Bàn ở một nơi xa thẳm nào đó.
Và vì vậy, điều đầu tiên cần phải tu tập cho viên mãn là Chánh niệm về thân
(Niệm Thân) tức rèn luyện trí nhớ để luôn luôn Nhớ Đến chú tâm quan sát các
cảm giác toàn thân. Nhờ Chánh niệm về thân nên lúc nào cũng Tỉnh Giác,
không bao giờ quyên thân và sẽ không quyên mình theo vật như một kẻ phàm
phu nữa.

Về mục lục

Bài 005: TRUNG ĐẠO

Mở đầu bài kinh Chuyển Pháp Luân, Đức Phật khuyến cáo hãy tránh xa hai cực
đoan Tham ái lợi dưỡng và Khổ hạnh và thực hành lối sống Trung Đạo. Vậy
nội dung hai cực đoan và Trung đạo là gì?

A - Hai cực đoan của nhân loại:

1- Cực đoan thứ nhất là Tham ái lợi dưỡng là chủ trương Tham ái Niềm
vui Hạnh phúc (THAM):

Tất cả nhân loại này đều nhận thức, mục đích của cuộc sống, của sự hiện hữu là
tận hưởng niềm vui, hạnh phúc, vì chỉ có Niềm vui, Hạnh phúc mới chấm dứt
được khổ đau. Vì thế trong từng giây phút một, từng ngày một, từng tháng một,
từng năm một, suốt cả cuộc đời, ai ai cũng khao khát, tìm cầu niềm vui hạnh
phúc. Họ khao khát và tìm cầu hạnh phúc vật chất và hạnh phúc tinh thần trong
sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái (Dục ái), khao khát
tìm cầu hạnh phúc của sự sống, sự hiện hữu (Hữu ái), mơ ước tương lai có được
hạnh phúc nơi thiên đường cực lạc, hạnh phúc tuyệt đối của Niết bàn (Phi Hữu
ái hay Dục hỷ Niết bàn). Nhận thức của nhân loại đã MẶC ĐỊNH có Hạnh phúc
mới chấm dứt được Khổ đau và vì thế đây là lối sống Tham ái lợi dưỡng, một
trong hai cực đoan của lối sống nhân loại.

2 - Cực đoan thứ hai là Khổ hạnh là chủ trương Chán ghét Niềm vui Hạnh phúc
(SÂN):

Trước khi Đức Phật ra đời các tôn giáo Ấn Độ đã nhận thức: Nguyên nhân đau
khổ là do Linh hồn Tiểu ngã của họ thọ hưởng niềm vui hạnh phúc thông qua
thân xác nên dẫn đến Linh hồn Tiểu ngã thích thú thân xác. Vì Linh hồn tiểu
ngã yêu thích thân xác nên Linh hồn Tiểu ngã ràng buộc với thân xác và phải
chịu luân hồi từ thân xác này sang thân xác khác. Vì vậy nên Linh hồn phải
chịu đau khổ, và vì vậy Linh hồn Tiểu ngã không thể hoà nhập vào Linh hồn
Đại ngã để giải thoát. Với hiểu biết như vậy, họ chủ trương một cuộc sống khổ
hạnh, hành hạ thân xác để Linh hồn Tiểu ngã chán ghét thân xác. Và nhờ chán
ghét thân xác nên Linh hồn Tiểu ngã không còn ràng buộc, không còn luân hồi
tái sinh trong thân xác và được giải thoát. Vì thế có rất nhiều lối tu khổ hạnh đã
ra đời. Họ hành hạ thân xác, sống trong rừng, ăn ngủ nơi cội cây, không tắm
rửa, chịu đựng đói khát, nóng lạnh, chỉ đứng một chân, nằm trên gai nhọn, họ
mặc vỏ cây, hoặc loã lồ không quần áo, ăn phân bò, ăn cỏ, ăn vỏ cây, chỉ ăn
chút xíu, ăn mỗi ngày chỉ một hạt vừng, bảy ngày mới ăn một lần, hay nửa
tháng mới ăn một lần... Họ quán thân bất tịnh, với vô vàn cách thức tưởng
tượng để thấy ra cái thân thể này ô uế, hôi thối, nhơ nhớp, đáng ghê tởm... với
mục đích để Linh hồn Tiểu ngã không còn yêu thích thân xác bất tịnh và nhờ
vậy mà linh hồn Tiểu ngã sẽ không bị luân hồi trong thân xác và nhờ vậy linh
hồn Tiểu ngã sẽ hoà nhập vào Linh hồn Đại ngã để giải thoát. Chính tư tưởng
thực hành khổ hạnh sẽ chấm dứt đau khổ, sẽ được giải thoát chi phối sâu sắc
các tôn giáo Ấn Độ nên chính Thái tử Tất Đạt Đa sau khi học đạo với hai vị
thầy nhưng không đạt được giải thoát đã tự mình quyết định vào Khổ hạnh lâm
tu khổ hạnh. Chính 6 năm tu khổ hạnh khốc liệt, Ngài đã nhận thấy đây là một
lối tu sai lầm, vô ích nên đã từ bỏ nó.

B - Lối sống Trung đạo:

Đó là Bát Chánh Đạo với 8 chi phần gồm Chánh niệm - Chánh tinh tấn - Chánh
định - Chánh tư duy - Chánh kiến - Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng. Lối
sống này từ bỏ hai cực đoan Tham ái và Chán ghét đối với Hạnh phúc cụ thể là
từ bỏ THAM và SÂN đối với Hạnh phúc. Lối sống Trung đạo này do sự giác ngộ
thực tại mà Phật phát hiện ra như Ngài đã tuyên bố trong Kinh Phạm Võng thuộc
Trường Bộ Kinh: “Này các Tỷ kheo, Như Lai nhờ như thật tuệ tri sự sinh diệt
của thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của thọ mà Như Lai được giải thoát
hoàn toàn không có chấp thủ”.

1 - Trước tiên cái đặc biệt nhất trong sự giác ngộ của Đức Phật là Ngài khám
phá ra, các đối tượng của thực tại gồm các ĐỐI TƯỢNG được nhãn thức thấy
(mắt thấy), được nhĩ thức nghe (tai nghe), được tỉ thức cảm nhận (mũi ngửi),
được thiệt thức cảm nhận (lưỡi nếm), được thân thức cảm nhận (tay sờ), được
tưởng thức biết (tưởng tượng) LÀ CÁC CẢM GIÁC mà thuật ngữ Phật học gọi
là CẢM THỌ do Căn Trần tiếp xúc (tương tác) mà phát sinh, nó Vô thường, Vô
chủ vô sở hữu (Vô ngã). Sự thực các đối tượng của thực tại là Cảm Thọ, nó
thuộc phạm trù tâm chứ không phải là Sắc Thanh Hương Vị Xúc trần, không
phải là Thế giới vật chất Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp như HIỂU LẦM của
nhân loại. Nếu nói về thể loại thì các đối tượng thực tại gồm 6 loại Cảm Thọ do
6 Căn tiếp xúc 6 Trần mà phát sinh gồm: Cảm giác hình ảnh, Cảm giác âm
thanh, Cảm giác mùi, Cảm giác vị, Cảm giác xúc chạm và Cảm giác pháp trần.
Nếu phân loại theo tính chất thì có 3 loại gồm: Lạc thọ, Khổ thọ, Bất khổ bất lạc
thọ. Đây là Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ và là điều rất sâu kín, khó thấy, khó
chứng, vượt qua mọi tư duy lý luận suông, tế nhị, chỉ người trí mới có khả năng
giác hiểu, còn nhân loại này đã MẶC ĐỊNH rằng thực tại là thế giới vật chất sắc
thanh hương vị xúc pháp trần nên không thể thấy biết được sự thật này.

2 - Thứ nhì là Ngài tuệ tri vị ngọt: Cuộc sống thế gian này có cả Hạnh phúc và
Khổ đau. Sự thật này ai cũng cảm nhận được, không thể phủ nhận và có trường
phái nào cho rằng tất cả các pháp là khổ, tất cả thực tại đều là khổ thì đó là vô
minh đang che mắt không cho họ thấy sự thật thực tại có cả khổ lẫn vui. Những
Niềm vui, Hạnh phúc, Lạc thú trong đời chính là vị ngọt và vị ngọt đó là có thật
chứ không phải là giả có, không phải chỉ là danh tự suông. Đức Phật đã nói: Ta
đã tuệ tri vị ngọt là vị ngọt nhưng Ngài còn tuệ tri hơn thế nữa. Vị ngọt là Cảm
Thọ, nó là Lạc Thọ, bản chất nó là Vô thường, Vô chủ vô sở hữu (Vô ngã).

Nghĩa là vị ngọt (Hạnh phúc) là Cảm Giác thuộc phạm trù tâm chứ không thuộc
về thế giới vật chất, nó Vô thường là không thường hằng, không vĩnh viễn,
không thường trú ở đâu cả. Nó Vô chủ vô sở hữu nghĩa là không thể làm chủ,
không thể sở hữu, không thể điều khiển, không thể nắm giữ, không thể xua đuổi
nó.

3 - Thứ ba là tuệ tri sự nguy hiểm: Sự thật Niềm vui, Hạnh phúc tức Vị ngọt của
thực tại là Cảm Giác, nó vô thường, sinh lên rồi diệt đi ngay, nó Vô chủ vô sở
hữu. Vì vậy nếu Tham ái vị ngọt, tham ái Lạc thọ thì sẽ muốn sở hữu nó, nắm
giữ nó, muốn nó tồn tại mãi mãi, là của mình mãi mãi nên khi nó biến hoại, biến
diệt, mất đi thì Sầu Bi Khổ Ưu Não sẽ khởi lên. Vì vậy, Tham ái Lạc thọ là nguy
hiểm vì nó sẽ phát sinh Khổ. Nhưng nếu Chán Ghét vị ngọt, chán ghét Hạnh
phúc cũng nguy hiểm vì nó sẽ phát sinh Khổ. Tại vì vị ngọt, Hạnh phúc là một
Cảm thọ, nó vô chủ vô sở hữu, nghĩa là không làm chủ, không sở hữu, không
điều khiển được nó, vì vậy nếu chán ghét thì sẽ muốn xua đuổi, xa lánh, tiêu diệt
nó nhưng không thể nào làm được như vậy nên khổ sẽ khởi lên. Ví như người tu
khổ hạnh đang hành hạ thân xác bằng cách phơi nắng khốc liệt, cảm nhận một
Khổ thọ khốc liệt trên thân nhưng bỗng nhiên một cơn gió thổi qua phát sinh một
Cảm giác mát rượi trên thân và người đó cho dù không muốn vẫn cảm nhận
được Lạc thọ đó, không thể nào xua đuổi, lẩn tránh, tiêu diệt Lạc thọ đó để giữ
lại cái Khổ thọ khốc liệt kia. Kẻ Phàm phu vì không tuệ tri vị ngọt nên không thể
tuệ tri sự nguy hiểm. Và vì không tuệ tri sự nguy hiểm nên Phàm phu phải chịu
biết bao nỗi đắng cay thống khổ trong sinh tử luân hồi. Và đây chính là Sự thật
về Nguyên Nhân Khổ là Tham ái gồm Dục ái, Hữu ái và Phi Hữu ái. Vì Tham ái
Dục lạc, tức Tham ái Hạnh phúc vật chất, Hạnh phúc tinh thần, gọi là Dục ái mà
nhân loại này đang ngày đêm lao tâm khổ trí, đang làm vô số các ác bất thiện
pháp, vô số sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu... Vì tham ái Dục lạc
mà cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với cha, vợ chồng tranh đoạt nhau,
hàng xóm láng giềng, địa phương này với địa phương kia, quốc gia này với quốc
gia kia tranh đoạt nhau. Vì tham ái Dục lạc mà có biết bao tranh cướp, tham
nhũng, lừa đảo, phá sản. Vì tham ái Dục lạc mà con người phát minh ra biết bao
hoá chất độc hại kích thích tăng trưởng cây cối vật nuôi để rồi đầu độc lại con
người và tàn phá môi trường sống. Vì tham ái Dục lạc mà con người chế tạo ra
ma tuý, buôn bán ma tuý để đầu độc và tàn hại con người. Vì tham ái Dục lạc mà
con người sáng chế biết bao vũ khí hiện đại tối tân kể cả bom nguyên tử để tiêu
diệt nhau. Vì tham ái Dục lạc mà có biết bao cô hoa hậu, người mẫu bán dâm, có
những đứa con trai giao cấu với mẹ đẻ của mình, có những ông bố hiếp dâm đứa
con gái 6 tuổi của mình...

Vì Hữu ái, tức tham ái Hạnh phúc do sự sống mang lại, nên nhân loại tham sống
sợ chết, vì thế khi đối diện với bệnh tật có nguy cơ dẫn đến cái chết thì sợ hãi,
hoảng loạn, tuyệt vọng khởi lên. Khi thân thể xuất hiện một cơn bệnh thì sự đe
dọa của cái chết xuất hiện và đặc biệt là bệnh nan y như ung thư chẳng hạn. Lúc
đó người ta chấp nhận đánh đổi mọi thứ tài sản mà mình có, để đổi lấy sự sống,
kéo dài sự sống. Và nỗi đau khổ, hoảng hốt, tuyệt vọng nơi nội tâm làm kiệt quệ
sức lực, kiệt quệ sức đề kháng của cơ thể, nỗi đau khổ nội tâm đó nó khủng
khiếp gấp cả ngàn lần nỗi đau thể xác do bệnh tật gây nên. Có người đã phải
bán đi cả 4 căn nhà mình đã tích góp cả đời để thay đi một quả tim ốm yếu,
nhiều người bán hết nhà cửa tài sản tại quê nhà lên thành phố làm thuê làm
mướn, vay mượn, xin xỏ để có tiền chạy thận hàng tuần, để mong kéo dài sự
sống từng tuần lễ... Khi cái chết đến không ai là không sợ hãi, hoảng loạn, cố
bám víu lấy sự sống, khao khát sống càng làm cho nỗi khổ của cái chết tăng lên
gấp bội. Kể cả những người tự sát, lúc tự sát hoàn toàn không sợ chết nhưng khi
quằn quại chết thì nỗi ham sống sợ chết bùng phát lại, vì thế khi đưa vào viện
thì họ đều van nài bác sĩ cứu sống họ. Khi thân xác chết thì nơi nội tâm, do Hữu
ái, do khao khát sống, mong muốn sống, bám víu sự sống, sợ hãi chết là nguyên
nhân phát sinh Thức tái sinh. Thức tái sinh gồm hai phần Danh và Sắc và thực
chất là một Hoá sanh. Sự tồn tại của Hoá sanh có thể rất ngắn ngủi trong vài
phút, vài ngày nhưng cũng có thể dài đến vài năm, vài trăm năm, vài ngàn năm
và đời sống của Hoá sanh mà nỗi thống khổ còn lớn hơn nhiều lần nỗi khổ của
một người bất hạnh nhất cộng với nỗi thống khổ của thế gian này do các
phương tiện thông tin đã đăng tải. Sau khi chấm dứt đời sống Hoá sanh và vẫn
do Hữu ái mà sẽ vào Thai sanh hoặc Trứng sanh, tiếp tục một đời sống với nỗi
khổ của Sinh Già Bệnh Chết. Và cái nỗi khổ của vòng luân hồi tái sinh vô cùng
vô tận này chính là do Hữu ái.

Vì Phi Hữu ái, tức Tham ái Hạnh phúc với sự hiện hữu của Linh hồn không còn
thân xác (hay Dục hỷ Niết bàn theo cách gọi của Kinh Pháp Môn Căn Bản) tức
là Tham ái Hạnh phúc nơi cảnh giới thiên đường cực lạc, hay Hạnh phúc nơi
Linh hồn Đại ngã, hay Hạnh phúc tuyệt đối của cảnh giới Niết bàn thường lạc
ngã tịnh (kể cả tham ái Hạnh phúc của chư thiên) nên phải chịu đựng khổ đau
khi tu hành khổ hạnh, hành hạ thân xác, tự sát do hoang tưởng vì quán thân bất
tịnh hoặc nổ bom tự sát tử vì đạo, hoặc vô số đau khổ do các tà giáo cuồng tín
gây ra cho tín đồ... Do Phi Hữu ái hay còn gọi là Dục hỷ Niết bàn mãnh liệt,
người tu có thể đè nén được Dục ái và Hữu ái nhưng không thể đoạn tận nó nên
khi chết phát sinh Hoá sanh thì Dục ái và Hữu ái lại bùng lên, nên nỗi thống khổ
của Hoá sanh đó ghê gớm và kéo dài hơn rất nhiều người không tu vì sự tồn tại
của Hoá sanh sẽ kéo dài hơn rất nhiều.

4 - Thứ tư là Tuệ tri sự xuất ly của thọ: Khi đã Tuệ tri đối tượng thực tại là Cảm
thọ, tuệ tri vị ngọt, tuệ tri sự nguy hiểm và đặc biệt là tuệ tri sự nguy hiểm thuần
thục cho đến mức độ như một người trong quá khứ đã bị bỏng tay khi sờ vào cục
than đang cháy đỏ, thì nay thấy cục than cháy đỏ sẽ biết ngay sự nguy hiểm, biết
ngay sờ vào nó là bỏng tay, là khổ liền. Nếu tuệ tri sự nguy hiểm đã thuần thục
như vậy thì khi thấy, nghe, cảm nhận các đối tượng của thực tại sẽ tuệ tri (biết
như thật) không còn Tham đối với Lạc thọ, không còn Sân đối với Khổ thọ,
không còn Si đối với Bất khổ bất lạc thọ. Đây chính là Tuệ tri sự xuất ly của thọ
hay còn gọi là Tuệ tri Khổ diệt hay Tuệ tri Niết bàn.

C - Thực hành Trung đạo:

Thực hành để sống với lối sống Trung đạo là thực hành 8 chi phần gồm Chánh
niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định - Chánh tư duy - Chánh kiến - Chánh ngữ,
Chánh nghiệp, Chánh mạng nhưng cái chìa khoá để mở ra 8 chi phần này là
Chánh Niệm. Thực hành Chánh Niệm chính là LUYỆN TẬP TRÍ NHỚ để luôn
luôn nhớ được những điều đã học về Giáo Pháp mà Đức Thế Tôn đã giác ngộ
và thuyết giảng. Tuy Chánh Niệm là Nhớ Đến Chú Tâm Quán Sát Thân Thọ
Tâm Pháp để THẤY BIẾT NHƯ THẬT về Thân Thọ Tâm Pháp nhưng cái tối
hậu là Luyện Tập Trí Nhớ để khi thấy, nghe, cảm nhận đối tượng của thực tại,
thì Trí Nhớ về “tuệ tri sự sinh diệt của thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly”
khởi lên, và chính Trí Nhớ đó làm nhân, làm phát sinh tâm biết ý thức Chánh
Kiến, BIẾT NHƯ THẬT, đó là các Cảm thọ do Căn Trần tiếp xúc mà phát
sinh, nó vô thường, vô chủ vô sở hữu (vô ngã), có vị ngọt, sự nguy hiểm và sự
xuất ly. Và do tâm biết ý thức Chánh Kiến đó làm nhân mà phát sinh thái độ
không còn Tham Sân với đối tượng và do không Tham Sân mà sẽ có lời nói,
hành động Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng đối với đối tượng. Đó chính
là lối sống Trung đạo, lối sống không yêu thích, không chán ghét, độc lập
không ràng buộc, giải thoát không hệ lụy đối với Vị ngọt, đó chính là lối sống
VẮNG MẶT KHỔ và đó cũng là từ bỏ hai cực đoan Yêu thích (Tham) và Chán
ghét (Sân) đối với Vị ngọt, Hạnh phúc.

Đức Phật phát hiện ra lối sống Trung đạo không phải dễ dàng bởi thời đó tư
tưởng SỢ HÃI VỊ NGỌT chi phối sâu xa con người Ấn Độ nhưng do sau 6 năm
khổ hạnh khốc liệt Ngài mới nhận ra nhận thức đó là sai lầm. Vì thế, sau khi từ
bỏ khổ hạnh, ăn uống làm cho thân thể hồi phục, Ngài mới trải cỏ ngồi dưới cội
bồ đề và suy ngẫm. Lúc đó Ngài nhớ lại sự việc thuở nhỏ, khi tham dự lễ hạ
điền của vua cha, các cung nữ mãi vui bỏ Ngài ngồi một mình và tình cờ Ngài
đã vào được Sơ thiền với Hỷ Lạc do ly dục sanh với chú tâm có tầm có tứ. Lúc
nhớ lại như vậy, Ngài suy niệm thọ nhận Lạc thọ này mà không có Yêu thích
cũng không có Chán ghét thì Lạc thọ đó không đáng phải sợ hãi, không đáng
phải xa lánh. Do thấy như vậy, biết như vậy mà Ngài diệt chú tâm có tầm có tứ
chứng Nhị thiền với hỷ lạc do định sanh, rồi chứng Tam thiền với lạc thọ do xả
sanh, rồi chứng Tứ thiền với tâm thanh tịnh nhờ xả. Và chỉ trong một đêm, nhờ
suy niệm đầu tiên là thọ nhận Lạc thọ với không yêu thích, không chán ghét thì
không cần phải sợ hãi, xa lánh Lạc thọ mà Ngài đã giác ngộ thành bậc Chánh
Đẳng Giác. Sau này, trong kinh điển Ngài đã khẳng định: “Không thể chứng
ngộ Tứ Thánh Đế với Khổ và Ưu mà chỉ có thể chứng ngộ Tứ Thánh Đế với
Lạc và Hỷ.” Hình ảnh Hoa Sen được ví với Đạo Phật với Trung Đạo phải được
hiểu là Sen sinh ra trong bùn, lớn lên từ bùn nhưng khi nó vươn lên khỏi mặt
nước và trổ hoa thì Hoa Sen không hề nhiễm mùi bùn. Cũng y như vậy, lối sống
Trung đạo là không yêu thích nên không nắm giữ, không chán ghét nên không
xua đuổi Vị ngọt, sống trong Vị ngọt cuộc đời mà không bị Vị ngọt làm cho ô
nhiễm.

Hãy Văn, hãy Tư, hãy Tu để khi thuần thục sẽ nhìn đời bằng ánh mắt Trung
Đạo: TUỆ TRI VỊ NGỌT, SỰ NGUY HIỂM VÀ SỰ XUẤT LY.

Về mục lục

Bài 006: CON ĐƯỜNG HAI NGÃ

"Đường này đến Thế gian (Bát Tà Đạo)

Đường kia đến Niết bàn (Bát Chánh Đạo)


Tỷ kheo, đệ tử Phật

Phải ý thức rõ ràng."

Con đường có một đoạn chung là XÚC - Thọ - Tưởng và chia làm hai ngã tại
đây. Nếu Tà niệm khởi lên thì Bát Tà Đạo với Vô minh, Tham sân si, Phiền não
sẽ tự động khởi lên theo định luật duyên khởi. Nếu Chánh niệm khởi lên thì Bát
Chánh Đạo với Minh, với Vô Tham - Vô Sân - Vô Si, với Khổ diệt sẽ khởi lên
theo định luật duyên khởi. Vì vậy, thay đổi tâm từ Bát Tà Đạo sang Bát Chánh
Đạo, chỉ cần thay đổi từ Tà niệm sang Chánh niệm là xong.

Về mục lục

Bài 007: CON ĐƯỜNG ĐỘC NHẤT - BỐN NIỆM XỨ

Mở đầu và Kết thúc bài Kinh Niệm Xứ, một bản kinh quan trọng bậc nhất cho
Pháp Hành thuộc Trung Bộ Kinh, Đức Phật đã lặp đi, lặp lại hai lần: "Này các
Tỷ kheo, đây là CON ĐƯỜNG ĐỘC NHẤT đưa đến thanh tịnh cho chúng
sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ khổ ưu, thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết
bàn. Đó là Bốn Niệm Xứ". Tại sao trong Tứ Thánh Đế, Đức Phật dạy Đạo Đế,
Con đường Chấm dứt Khổ là Bát Chánh Đạo và trong Kinh điển, Đức Phật còn
dạy đến 37 phẩm thuộc về Đạo Đế, nhưng tại đây Ngài lại khẳng định, Bốn
Niệm Xứ là "con đường độc nhất". Vậy có gì mâu thuẫn trong lời dạy của
Ngài? Bản Kinh Niệm Xứ dạy thực hành bốn loại Chánh Niệm: Chánh Niệm về
Thân, Chánh Niệm về Thọ, Chánh Niệm về Tâm, Chánh Niệm về Pháp. Nội
dung thực hành Chánh niệm là LUYỆN TẬP TRÍ NHỚ, để nhớ được những
điều đã học từ trước (Phật dạy) cụ thể như sau:

1 - Chánh Niệm về Thân là NHỚ ĐẾN CHÚ TÂM QUÁN SÁT THÂN nơi
thân với chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác để nhiếp phục tham ưu ở đời.

2 - Chánh Niệm về Thọ là NHỚ ĐẾN CHÚ TÂM QUÁN SÁT THỌ nơi thọ với
chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác để nhiếp phục tham ưu ở đời.
3 - Chánh Niệm về Tâm là NHỚ ĐẾN CHÚ TÂM QUÁN SÁT TÂM nơi tâm
với chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác để nhiếp phục tham ưu ở đời.

4 - Chánh Niệm về Pháp là NHỚ ĐẾN CHÚ TÂM QUÁN SÁT PHÁP nơi pháp
với chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác để nhiếp phục tham ưu ở đời.

Nội dung cơ bản của bài Kinh là như vậy, phần còn lại là những hướng dẫn trải
nghiệm khi thực hành bốn loại Chánh Niệm trên. Không những bản kinh Niệm
Xứ nói đến thực hành Chánh Niệm, mà ba bản kinh nói về Pháp Hành, đều nói
đến thực hành Chánh Niệm: Kinh Niệm Xứ, Kinh Niệm hơi thở vô, hơi thở ra,
Kinh Thân hành Niệm. Câu kinh ngắn gọn nhất, mô tả về Pháp Hành chính xác
và đầy đủ nhất là: "Ngồi kiết già lưng thẳng an trú CHÁNH NIỆM trước mặt".
Tại sao Đức Phật lại nói thực hành bốn loại Chánh Niệm mà không nói thực
hành Bát Chánh Đạo? Bởi vì nếu đã có VĂN và TƯ, làm công việc chuẩn bị
sẵn sàng thì khi TU, chỉ thực hành Chánh Niệm. Vì sao vậy? Vì khi CHÁNH
NIỆM khởi lên thì toàn bộ BÁT CHÁNH ĐẠO siêu thế sẽ tự động, tuần tự
khởi lên theo Định Luật Duyên Khởi. Vì vậy, chỉ cần thực hành Chánh Niệm là
đã thực hành Bát Chánh Đạo siêu thế rồi. Lộ trình đó như sau:

XÚC - <Thọ - Tưởng> - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - [Tỉnh
giác] - Chánh Tư Duy - Chánh Tri Kiến - Như lý tác ý - Chánh ngữ, Chánh
nghiệp, Chánh mạng.

Đây là lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế của một vị hữu học và vô học với ba
yếu tố căn bản là Chánh Niệm - Chánh Định - Chánh Tri Kiến, gọi tắt là NIỆM
ĐỊNH - TUỆ. Người tu chỉ thực hành Chánh Niệm rồi an trú mà không có làm gì
thêm nữa. An trú Chánh Niệm tức cũng an trú Bát Chánh Đạo siêu thế và như
vậy, sẽ kinh nghiệm và an trú Tâm Giải Thoát, Tuệ Giải Thoát hay nói theo cách
khác là an trú Khổ Diệt (Niết Bàn), hay an trú Không Giải Thoát, Vô Tướng Giải
Thoát, Vô Tác Giải Thoát.
Đức Phật dạy tu học theo lộ trình VĂN - TƯ - TU và TU, tức thực hành Chánh
Niệm thì phải có bước chuẩn bị, đó là VĂN và TƯ, là nghe giảng và tư duy để
có được HIỂU BIẾT ĐÚNG NHƯ THẬT về Duyên khởi, về Vô thường, Vô
ngã, về Khổ Tập Diệt Đạo, về Vị ngọt, Sự nguy hiểm, Sự xuất ly. Những thông
tin về hiểu biết đúng như thật này gọi là Minh, sẽ được lưu vào kho chứa thông
tin, sẽ là Nhân cho Chánh Niệm sinh khởi. VĂN và TƯ là bước chuẩn bị Nhân,
và Quả là Chánh Niệm khởi lên trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế. Nếu
không có Văn Tuệ và Tư Tuệ, Chánh Niệm không có đủ Nhân sinh khởi, vì thế
Bát Chánh Đạo không thể khởi lên. Văn Tuệ và Tư Tuệ thuộc về BÁT CHÁNH
ĐẠO hiệp thế và Tu Tuệ thuộc BÁT CHÁNH ĐẠO siêu thế.

Đức Phật nói đến 37 phẩm thuộc về Đạo Đế nhưng chung quy, cả 37 phẩm đều
thuyết minh cho lộ trình VĂN - TƯ -TU, là lộ trình đi từ BÁT CHÁNH ĐẠO
hiệp thế, làm công việc chuẩn bị, sang BÁT CHÁNH ĐẠO siêu thế, để chứng
ngộ và an trú Tâm Giải Thoát, Tuệ Giải Thoát.

Trong Ngũ Căn và Ngũ Lực bao gồm năm yếu tố căn bản của sự tu học: Tín -
Tấn - Niệm - Định - Tuệ, thì Tín Căn và Tấn Căn được khởi lên và phát triển do
Văn Tuệ và Tư Tuệ, là bước chuẩn bị, thuộc Bát Chánh Đạo hiệp thế, là Nhân
cho Niệm Căn - Định Căn - Tuệ Căn sinh khởi và ba yếu tố căn bản này thuộc
về Bát Chánh Đạo siêu thế.

Thất Giác Chi là bảy yếu tố giác ngộ nhưng bốn yếu tố Niệm Giác chi, Tinh
Tấn Giác chi, Định Giác chi, Trạch Pháp Giác chi (Tuệ Giác chi) là bốn yếu tố
thuộc về Bát Chánh Đạo siêu thế còn Hỷ Giác chi, Khinh An Giác chi, Xả Giác
chi là sản phẩm phát sinh từ Bát Chánh Đạo siêu thế. Nói Thất Giác là cách nói
khác về Bát Chánh Đạo siêu thế.

Tứ Như Ý Túc và Tứ Chánh Cần thuyết minh sự tu học phải từ Bát Chánh Đạo
hiệp thế sang Bát Chánh Đạo siêu thế. Cụ thể Dục Như Ý Túc và Tinh Tấn như
ý túc thuộc Bát Chánh Đạo hiệp thế, làm công việc chuẩn bị do Văn và Tư khởi
lên; Định Như Ý Túc, Tuệ Như Ý Túc thuộc Bát Chánh Đạo siêu thế do Tu
khởi lên. Tứ Chánh Cần thì có mặt cả trong Bát Chánh Đạo hiệp thế lẫn Bát
Chánh Đạo siêu thế.

Về mục lục

Bài 008: TỨ NHƯ Ý TÚC

NHƯ Ý TÚC là đầy đủ, viên mãn sự vừa ý, sự hài lòng, sự thoả mãn không cần
thêm một cái gì nữa. Đức Phật dạy có bốn cái cần phải học tập và thực hành để
đạt được NHƯ Ý TÚC. Đó là Dục như ý túc, Tinh tấn như ý túc, Định như ý túc
và Tuệ như ý túc.

1- Thế nào là DỤC NHƯ Ý TÚC

Dục là từ Hán Việt có nhiều nghĩa theo các ngữ cảnh khác nhau nhưng chữ Dục
trong ngữ cảnh này là Thích và Muốn nghĩa là thích đối tượng dễ chịu thì sẽ
muốn có được nó, trong kinh điển gọi là Tham dục, nôm na là ham muốn. Dục
phát sinh trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu. Phàm phu có đủ thứ Dục
về vật chất và tinh thần nhưng đều cùng một mục đích duy nhất là muốn Chấm
dứt Khổ. Một kẻ Phàm phu khi được nghe giảng về Tứ Thánh Đế hiểu rõ được
vấn đề nên phát sinh niềm tin, niềm tin phát sinh như vậy gọi là Chánh Tín và
do Chánh Tín mà phát sinh một ham muốn mãnh liệt: Tu tập Bát Chánh Đạo.
Ham muốn mãnh liệt này sẽ đưa đến tu tập Bát Chánh Đạo để Chấm dứt Khổ vì
vậy đây là Dục có thể thay thế cho mọi Dục khác của thế gian, chỉ cần một Dục
duy nhất này là đủ làm hài lòng, thoả mãn người trí, nên gọi là DỤC NHƯ Ý
TÚC. Nếu một kẻ Phàm phu mà phát sinh được Dục như ý túc thì sẽ dẹp trừ
được những ham muốn khác, mới có thể NHẤT HƯỚNG tu tập Bát Chánh
Đạo. Nếu không có ham muốn tu tập Bát Chánh Đạo để thoát khổ theo Chánh
Tín này thì không có tu tập Bát Chánh Đạo, nếu ham muốn này chưa trở thành
Dục như ý túc thì cũng đang dao động, chưa nhất hướng tu tập Bát Chánh Đạo.
DỤC NHƯ Ý TÚC vẫn thuộc Phàm phu nên nó thuộc Bát Chánh Đạo hiệp thế
(thế gian) do VĂN và TƯ mà có. Dục như ý túc là chuẩn bị, là nhân duyên để
khởi lên Bát Chánh Đạo siêu thế và khi Bát Chánh Đạo siêu thế đã khởi lên thì
không còn DỤC kể cả DỤC NHƯ Ý TÚC. Có ngoại đạo cho rằng, đây là dùng
Dục trị Dục, dùng một Dục này để thay thế một Dục khác thì vẫn tồn tại Dục.

Ngài A Nan đã trả lời: nếu ông muốn đến một khu vườn thì ông phải có Ý
Muốn đến (Dục) khu vườn rồi khởi lên tinh tấn để đến khu vườn đó nhưng khi
đã đến khu vườn thì Muốn đến và tinh tấn cũng không còn nữa. Cũng y như
vậy, phải có Dục như ý túc, tham muốn tu tập Bát Chánh Đạo thì mới đi đến tu
tập và khi đã tu tập, Bát Chánh Đạo siêu thế khởi lên, lúc đó Dục như ý túc
không còn nữa.

2 - Thế nào là TINH TẤN NHƯ Ý TÚC

Là tinh tấn làm hài lòng, thỏa mãn, đầy đủ không cần đến một tinh tấn nào khác.
Tinh Tấn như ý túc có bốn tính chất: Một là ngăn ngừa các ác pháp chưa sanh,
Hai là đoạn trừ các ác pháp đã sanh, Ba là khởi lên các thiện pháp chưa khởi,
Bốn là viên mãn các thiện pháp đã khởi. Tinh tấn như ý túc có hai loại: Một
thuộc Bát Chánh Đạo hiệp thế và Một thuộc Bát Chánh Đạo siêu thế.

- Tinh tấn như ý túc thuộc Bát Chánh Đạo hiệp thế: Phàm phu khi có VĂN và
TƯ đã phát sinh DỤC NHƯ Ý TÚC và do Dục như ý túc làm nhân mà sẽ phát
sinh nỗ lực cố gắng tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế. Có cố gắng nỗ lực để tu tập
Bát Chánh Đạo thì Bát Chánh Đạo siêu thế mới khởi lên. Tinh Tấn này có thể
thay thế mọi tinh tấn khác trong đời, chỉ cần một tinh tấn này là đủ để đưa con
người tới mục đích tối hậu là Chấm dứt Khổ, nên tinh tấn đưa đến tu tập Bát
Chánh Đạo gọi là TINH TẤN NHƯ Ý TÚC. Tinh tấn này làm khởi lên Bát
Chánh Đạo siêu thế và nhiếp phục, không cho khởi lên Bát Tà Đạo và khi Bát
Tà Đạo được nhiếp phục thì các ác, bất thiện pháp đã sanh được trừ diệt, các
ác bất thiện pháp chưa sanh được ngăn ngừa không sinh khởi.
- Tinh tấn như ý túc thuộc Bát Chánh Đạo siêu thế: Là chi phần Chánh Tinh Tấn
thuộc Bát Chánh Đạo siêu thế, đứng ngay sau Chánh Niệm và do Chánh Niệm
làm nhân mà phát sinh.

XÚC - <Thọ - Tưởng> - Chánh Niệm - CHÁNH TINH TẤN - CHÁNH ĐỊNH -

(Tỉnh giác) - Chánh Tư Duy - CHÁNH TRI KIẾN - Như lý tác ý - Chánh ngữ,
Chánh nghiệp, Chánh mạng

Chánh Tinh Tấn này là TINH TẤN NHƯ Ý TÚC, nó làm khởi lên các thiện
pháp chưa sanh, làm viên mãn các thiện pháp đã sanh khởi.

Tinh tấn như ý túc là tinh tấn không thụ động, cho dù thuộc Bát Chánh Đạo hiệp
thế hay siêu thế đều xoá bỏ được trạng thái lờ đờ, uể oải, hôn trầm, thụ động.

Người có Tinh tấn như ý túc cho dù hiệp thế hay siêu thế thì bắt đầu từ lúc thức
dậy đã tràn đầy phấn chấn. TINH TẤN NHƯ Ý TÚC cũng chính là TỨ
CHÁNH CẦN.

3 - Thế nào là ĐỊNH NHƯ Ý TÚC

Là chi phần Chánh Định trong Bát Chánh Đạo siêu thế. Đó là sự CHÚ TÂM
liên tục từ Cảm thọ này sang Cảm thọ khác cho dù là Lạc thọ, Khổ thọ hay Bất
khổ bất lạc thọ theo thứ tự sinh diệt của chúng. Sự chú tâm liên tục, khít khao
sẽ phát sinh các trạng thái định: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền. Các
trạng thái định Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền được tu tập, được làm
cho viên mãn, khiến có thể tuỳ theo ý muốn có thể trú bất cứ thiền nào, trong
thời gian lâu bao lâu tuỳ ý thì định đó là ĐỊNH NHƯ Ý TÚC. Có Định này thì
hoàn toàn hài lòng, thoả mãn không cần một loại Định nào khác nữa, nó sẽ đưa
đến Tâm Giải Thoát, Tuệ Giải Thoát.

4 - Thế nào là TUỆ NHƯ Ý TÚC

Là Ý thức CHÁNH TRI KIẾN trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế. Đó
chính là hiểu biết như thật hay Tuệ tri Lý Duyên Khởi, Tuệ tri Vô thường, Vô
chủ (Vô ngã), Tuệ tri Vị ngọt, Sự nguy hiểm, Sự xuất ly, Tuệ tri Khổ Tập Diệt
Đạo. Trí tuệ này được tu tập, được làm cho viên mãn đưa đến xoá bỏ Vô Minh,
đưa đến Giác Ngộ Tứ Thánh Đế, đoạn tận sinh già bệnh chết, đoạn tận Khổ. Khi
đã viên mãn trí tuệ này thì đó mới là TUỆ NHƯ Ý TÚC, lúc đó là vị VÔ HỌC,
không cần bất kỳ một Tuệ nào khác nữa, chấm dứt việc học, không còn như thế
gian là: Học, Học nữa, Học mãi.

KẾT LUẬN: Tứ Như Ý Túc thuộc về cả Bát Chánh Đạo hiệp thế và siêu thế.
Trong đó Dục Như Ý Túc và Tinh Tấn Như ý Túc thuộc Bát Chánh Đạo hiệp
thế do VĂN và TƯ khởi lên, là BƯỚC CHUẨN BỊ, là tạo nhân duyên cho Bát
chánh Đạo siêu thế khởi lên. Còn Tinh Tấn Như Ý Túc, Định Như Ý Túc, Tuệ
Như Ý Túc thuộc Bát Chánh Đạo siêu thế do TU mà khởi lên. Có những chỗ
gọi tắt Tứ như ý túc là DỤC CẦN TÂM THẨM theo tiếng Tàu.

Về mục lục

Bài 009: NGŨ CĂN - NGŨ LỰC

A- NGŨ CĂN:

Là năm yếu tố căn bản, năm yếu tố cốt lõi của sự tu học Phật Pháp. Đó là TÍN -
TẤN - NIỆM - ĐỊNH - TUỆ. Sự tu học Phật pháp có rất nhiều việc phải làm,
nhưng tất cả mọi việc đó đều nhằm phát triển năm yếu tố căn bản này. Năm
yếu tố căn bản này phát sinh và được làm cho viên mãn theo trình tự duyên
khởi: Tín - Tấn - Niệm - Định - Tuệ, sẽ đi đến thành tựu Giác Ngộ và Giải
Thoát, nếu thiếu đi dù một trong năm yếu tố căn bản này thì sẽ không thành tựu
Giác Ngộ và Giải Thoát.

1- TÍN CĂN: Yếu tố căn bản đầu tiên của sự tu học cần phải đạt được và phát
triển viên mãn là Tín. Đó là đức tin phát sinh khi được nghe giảng (VĂN) và tư
duy (TƯ) về Tứ Thánh Đế. Do VĂN và TƯ mà có được HIỂU BIẾT ĐÚNG
NHƯ THẬT về Duyên khởi, về Vô thường, Vô chủ, Vô sở hữu (Vô ngã), về lộ
trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu có KHỔ và NGUYÊN NHÂN KHỔ, về lộ
trình tâm Bát Chánh Đạo của bậc Thánh có KHỔ DIỆT và CON ĐƯỜNG KHỔ
DIỆT. Do có hiểu biết như thật do VĂN và TƯ như vậy mà không còn mơ hồ
trừu tượng, không còn nghi ngờ do dự, không còn phân vân lưỡng lự về KHỔ
DIỆT và CON ĐƯỜNG KHỔ DIỆT nên phát sinh đức tin và đức tin phát sinh
như vậy gọi là Chánh Tín, là một yếu tố căn bản, đứng thứ nhất trong ngũ căn.

Đây chính là TÍN CĂN.

2 - TẤN CĂN: Là yếu tố căn bản thứ hai của sự tu học. Do có TÍN và tuỳ theo
mức độ của TÍN mà nỗ lực cố gắng tu tập Bát Chánh Đạo sẽ phát sinh. Nỗ lực
cố gắng để thực hành Bát Chánh Đạo siêu thế khởi lên do duyên TÍN như vậy
gọi là TẤN. Hai yếu tố căn bản đầu tiên là TÍN và TẤN do VĂN và TƯ khởi
lên, nên nó thuộc Bát Chánh Đạo hiệp thế, là bước CHUẨN BỊ, tạo nhân
duyên cho Bát Chánh Đạo siêu thế khởi lên.

3 - NIỆM CĂN: Là yếu tố căn bản thứ ba, nói đủ là Chánh Niệm là yếu tố đầu
tiên của lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế. Có con đường hai ngã mà Niệm là
người đánh xe. Tại chỗ rẽ này, nếu Tà Niệm khởi lên thì cỗ xe sẽ đi trên con
đường Bát Tà Đạo, con đường thế gian, con đường nô lệ Vô minh và Tham ái.
Nếu tại chỗ rẽ, Chánh Niệm khởi lên, cỗ xe sẽ đi trên con đường Bát Chánh
Đạo, con đường xuất thế gian, con đường của giác ngộ và giải thoát. Sự thực
hành mà Đức Phật dạy được tóm gọn trong câu: "Ngồi kiết già lưng thẳng an trú
Chánh Niệm trước mặt". Khi thấy, nghe, cảm nhận đối tượng rồi, nếu Tà Niệm
khởi lên thì Bát Tà Đạo khởi lên và trên đó sẽ có Vô minh, Tham Sân Si, Sầu bi
khổ ưu não. Khi thấy, nghe, cảm nhận đối tượng rồi, nếu Chánh Niệm khởi lên
thì Bát Chánh Đạo khởi lên và trên đó không có Vô minh, không có Tham Sân
Si, không có Sầu bi khổ ưu não. Chính vì điều này CHÁNH NIỆM là yếu tố căn
bản của sự thực hành Bát Chánh Đạo siêu thế. CHÁNH NIỆM gồm có bốn:

- Nhớ Đến chú tâm quán sát thân nơi thân với chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác

- Nhớ Đến chú tâm quán sát thọ nơi thọ với chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác

- Nhớ Đến chú tâm quán sát tâm nơi tâm với chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác

- Nhớ Đến chú tâm quán sát pháp nơi pháp với chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác

4 - ĐỊNH CĂN: Là yếu tố căn bản thứ tư của sự tu học. Trên Bát Chánh Đạo
siêu thế khi có Chánh Niệm (nhớ đến chú tâm đối tượng) thì Chánh Tinh Tấn
khởi lên và làm phát sinh hành vi CHÚ TÂM liên tục từ đối tượng này sang đối
tượng khác theo trình tự sinh diệt của các đối tượng. Sự CHÚ TÂM liên tục
như vậy đưa đến những trạng thái ĐỊNH và được gọi là CHÁNH ĐỊNH bao
gồm:

- Sơ thiền: Ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Sơ thiền, một trạng thái hỷ
lạc do ly dục sanh với (chú tâm có) tầm, với tứ

- Nhị thiền: Diệt (chú tâm có) tầm diệt tứ chứng và trú nhị thiền một trạng
thái hỷ lạc do định sanh, (chú tâm) không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.

- Tam thiền: Ly hỷ trú xả, thân cảm lạc thọ mà bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú,
chứng và trú thiền thứ ba.

- Tứ thiền: Xả lạc, xả khổ, diệt trừ hỷ ưu, chứng và trú thiền thứ tư không khổ,
không lạc, tâm thanh tịnh nhờ xả.

CHÁNH ĐỊNH trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo không những có năng lực làm
lộ trình tâm dừng lại (CHỈ) cái biết trực tiếp giác quan Vô niệm, Vô ngôn, Vô
phân biệt gọi là TỈNH GIÁC, kinh nghiệm được Tâm Giải Thoát hay Không
Giải Thoát mà khi Niệm Tâm, Niệm Pháp nó sẽ là nhân làm phát sanh Chánh
Tư Duy và do Chánh Tư Duy mà phát sinh CHÁNH TRI KIẾN là TRÍ TUỆ
đưa đến Tuệ Giải Thoát hay Vô Tướng Giải Thoát. Chính vì những lý do này
mà ĐỊNH là một trong năm yếu tố căn bản của sự tu học.

5 - TUỆ CĂN: Là yếu tố căn bản thứ năm của sự tu học. Tuệ chính là Chánh Tri
Kiến phát sinh trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế có trục chính là Chánh
Niệm - Chánh Định - Chánh Tri Kiến mà gọi tắt là NIỆM - ĐỊNH - TUỆ.

XÚC - <Thọ - Tưởng> - CHÁNH NIỆM - Chánh Tinh Tấn - CHÁNH ĐỊNH -
(Tỉnh Giác) - Chánh Tư Duy - CHÁNH TRI KIẾN - Như lý tác ý - Chánh ngữ,
Chánh nghiệp, Chánh mạng.

Chính TUỆ này đưa đến giác ngộ Tứ Thánh Đế: Giác ngộ SỰ THẬT KHỔ,
Giác ngộ SỰ THẬT NGUYÊN NHÂN KHỔ, Giác ngộ SỰ THẬT KHỔ DIỆT,

Giác ngộ SỰ THẬT CON ĐƯỜNG KHỔ DIỆT. Chính vì lý do này mà TUỆ là
một trong năm yếu tố căn bản của sự tu học giác ngộ.

NGŨ CĂN hay NĂM CĂN là năm yếu tố căn bản của sự tu học, nó phát sinh
và hoàn thiện theo quy luật duyên khởi, do "cái này" có nên "cái kia" có, do
"cái này" sinh nên "cái kia" sinh trong đó TÍN và TẤN thuộc Bát Chánh Đạo
HIỆP THẾ, còn NIỆM - ĐỊNH - TUỆ thuộc Bát Chánh Đạo SIÊU THẾ. Đây là
một trong nhiều cách cách thuyết minh về lộ trình VĂN - TƯ - TU.

B - NGŨ LỰC:

Là năm sức mạnh của NGŨ CĂN Tín Tấn Niệm Định Tuệ. Khi năm yếu tố căn
bản của sự tu học đã tuần tự khởi lên và được phát triển đi đến viên mãn thì mỗi
một yếu tố sẽ có một sức mạnh giúp cho người tu vượt qua mọi khó khăn, khắc
nghiệt, gian nguy của tu học và cuộc đời. Nhờ có Tín Căn và Tấn Căn mà sẽ có
TÍN LỰC và TẤN LỰC giúp cho người tu có sức mạnh, thoát ra khỏi mọi nghi
ngờ, do dự, thoát ra khỏi những cám dỗ của Dục lạc, vượt qua những giá trị mà
thế gian ca ngợi để NHẤT HƯỚNG tu tập Bát Chánh Đạo. Nhờ TÍN LỰC và
TẤN LỰC mà vượt qua các giới cấm như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối,
uống rượu và sử dụng các chất say, vượt qua được mọi sự ràng buộc của việc
mưu sinh, sắp xếp được thời gian và không gian thực hành Bát Chánh Đạo, vượt
qua được mọi dụ dỗ, mua chuộc của Tà giáo, vượt qua những thăng trầm của đời
sống thường ngày. Do Niệm Căn mà sẽ có NIỆM LỰC, là sức mạnh đánh tan
mọi Tà Niệm, đưa đến an trú Ly dục, ly bất thiện pháp. Niệm Lực đưa đến trạng
thái Nhất tâm, làm viên mãn Định Căn và chính Niệm Lực khi thực hành Niệm
Tâm và Niệm Pháp làm cho phát triển và viên mãn Tuệ Căn. Do có Định Căn
mà sẽ có ĐỊNH LỰC, một sức mạnh giúp hành giả thoát ra khỏi sự chi phối,
ràng buộc, kiềm toả của Dục Lạc thế gian, là phàm phu lạc, ô uế lạc, bất tịnh lạc,
vui ít khổ nhiều, não nhiều mà nguy hiểm càng nhiều hơn, và do nhờ Định Căn
mà an trú hỷ lạc nội tâm của các bậc thiền, loại Lạc của bậc Thánh là Thánh lạc,
Chánh giác lạc, an tịnh lạc. Do có Tuệ Căn mà sẽ có TUỆ LỰC, là sức mạnh
chấm dứt Vô minh, là sức mạnh như một cột trụ đá cắm sâu vào lòng đất, không
lay động giữa tám pháp thế gian, kham nhẫn được mọi hoàn cảnh khó khăn khắc
nghiệt, bình thản trước mọi hiểu lầm, mạ lỵ. Tuệ Lực sẽ cắt đứt mọi quan tâm
đến những hiểu biết không liên quan tới Tứ Thánh Đế, người tu sẽ không còn
quan tâm thế giới là như thế nào, là Cửu sơn bát hải với trục là núi Tu Di ở giữa
hay thế giới phát sinh từ vụ nổ lớn BigBang, không còn quan tâm tới cõi trời, cõi
địa ngục có hay không, quá khứ của ta như thế nào, tương lai sẽ ra sao, mà Tuệ
Lực sẽ hướng vào nội tâm tu tập với hiểu biết không gì lay chuyển được: còn
Tham Sân Si là còn Khổ, đoạn tận Tham Sân Si là đoạn tận Khổ, ngoài sự tu tập
này ra không có gì phải liên quan.

C - KẾT LUẬN:

Đức Phất đã giảng dạy NĂM CĂN và NĂM LỰC là năm yếu tố căn bản, năm
yếu tố cốt lõi của sự tu học, từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc, trở thành vị Vô
học. Đây là lộ trình tu học từ một kẻ Phàm phu cho đến khi thành tựu quả A la
hán gồm cả Bát Chánh Đạo hiệp thế và Bát Chánh Đạo siêu thế. Phải thành tựu
cả năm yếu tố căn bản, cốt lõi này mới thành tựu giải thoát, thiếu đi dù một
trong Năm Căn thì không thể thành tựu giải thoát. Năm Căn và Năm Lực được
phát triển tuần tự theo lộ trình, do cái này làm duyên cho cái kia sinh khởi: Tín -
Tấn - Niệm - Định - Tuệ, cho nên không được hiểu nhầm Niệm là yếu tố để cân
bằng giữa Tín và Tấn, cân bằng giữa Định và Tuệ. Đức Phật chỉ có dạy NĂM
YẾU TỐ CĂN BẢN là TÍN - TẤN - NIỆM - ĐỊNH - TUỆ của sự tu học, còn
GIỚI không được xem là yếu tố căn bản, không có lộ trình TÍN - TẤN - GIỚI -
ĐỊNH - TUỆ. Trong 37 chi phần thuộc Đạo Đế không có chi phần tu tập Giới
riêng biệt. Chính vì vậy, trong hai mươi năm đầu của sự giảng dạy, Đức Phật
không chế định một giới điều nào. Vì sao vậy? Như đã phân tích trên, người tu
đang là một kẻ phàm phu trước tiên phải phát sinh và phát triển hai yếu tố căn
bản đầu tiên là TÍN và TẤN và khi có được TÍN CĂN và TẤN CĂN thì sẽ có
TÍN LỰC và TẤN LỰC giúp người đó tránh xa sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói
dối, uống rượu. Vì vậy, đối với những người trí như vậy không còn phải đặt vấn
đề giữ giới ra nữa, GIỚI đã trong sạch khi TÍN và TẤN đã phát sinh và phát
triển. Lúc đó Bát Chánh Đạo siêu thế với NIỆM - ĐỊNH - TUỆ sẽ khởi lên. Hai
mươi năm sau của lịch sử Tăng đoàn, rất nhiều người không phải là người trí đã
xuất gia, đối với họ hai yếu tố căn bản đầu tiên là TÍN và TẤN không có mặt,
nên nhiều tệ nạn đã xảy ra và Đức Phật đã chế định các điều giới để ngăn chặn.
Đối với hạng người như vậy, không phải là người trí, phải dùng GIỚI LUẬT
làm phương tiện để phát sinh và phát triển TÍN CĂN và TẤN CĂN và chỉ khi
có hai yếu tố căn bản đầu tiên này có mặt, họ mới có thể tu tập Bát Chánh Đạo
siêu thế với NIỆM - ĐỊNH -TUỆ. Như vậy GIỚI là một trong những yếu tố
giúp phát sinh TÍN CĂN và TẤN CĂN chứ không phải là nhân sanh Định, còn
nhân sanh Chánh Định là Chánh Niệm và Chánh Tinh tấn. Có nhiều người sẽ
nói rằng, có tin tưởng tuyệt đối ở Phật, có tinh tấn ngất trời mới xuất gia được,
những người xuất gia như vậy phải có đầy đủ TÍN CĂN và TẤN CĂN và như
vậy họ không cần giữ giới phải không. Hãy thận trọng suy xét cho kỹ càng, TÍN
CĂN và TẤN CĂN chỉ phát sinh khi có HIỂU BIẾT ĐÚNG NHƯ THẬT về
TỨ THÁNH ĐẾ do VĂN và TƯ, còn Tin tưởng tuyệt đối ở Phật đến cả hy sinh
thân mạng đi chăng nữa nhưng không hiểu biết đúng như thật về Tứ Thánh Đế
thì chỉ là MÊ TÍN và Tinh tấn có ngất trời chăng nữa cũng do MÊ TÍN mà phát
sinh. Nếu có tin tưởng tuyệt đối, tinh tấn ngất trời như vậy do Mê Tín thì tâm
vẫn là rác bẩn, không bao giờ có giới trong sạch như một người có TÍN CĂN,
TẤN CĂN đúng nghĩa. Hạng người xuất gia như vậy không có hiểu biết đúng,
không thể tự giác tu hành nên phải dùng Giới Luật ngăn chặn, điều phục họ và
nếu họ chịu tuân thủ Giới Luật thì họ mới có cơ hội phát triển hai yếu tố căn
bản đầu tiên của việc tu học Phật pháp là Tín Căn và Tấn Căn. Và chỉ khi có
Tín Căn và Tấn Căn thì Niệm Căn, Định Căn, Tuệ Căn của Bát Chánh Đạo siêu
thế mới sinh khởi và phát triển.

Về mục lục

Bài 010: THẤT GIÁC CHI HAY BẢY YẾU TỐ GIÁC NGỘ

Bảy yếu tố đưa đến Giác Ngộ và Giải Thoát được phát sinh và đi đến viên mãn
trong khi tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế. Đó là Niệm giác chi, Trạch Pháp giác
chi, Tinh Tấn giác chi, Hỷ giác chi, Khinh An giác chi, Định giác chi, Xả giác
chi.

1 - NIỆM GIÁC CHI:

Là yếu tố đầu tiên cần phải khởi lên và tu tập viên mãn mới đưa đến giác ngộ và
đó chính là CHÁNH NIỆM trên lộ trình tâm Bát Chánh đạo siêu thế. Chánh
Niệm là yếu tố đầu tiên cần phải tu tập cho viên mãn vì khi Chánh Niệm khởi
lên thì toàn bộ Bát Chánh Đạo sẽ tự động khởi lên theo định luật Duyên Khởi.

Chính vì điều này mà Đức Phật luôn nhắc nhở trong các bản kinh: "Ngồi kiết
già lưng thẳng an trú Chánh Niệm trước mặt", và các bản kinh hướng dẫn thực
hành là NIỆM, như Kinh Niệm Xứ, Kinh Niệm hơi thở vô, hơi thở ra, Kinh
Thân hành Niệm. Chánh Niệm cần phải thực hành có bốn: Niệm Thân là nhớ
đến chú tâm quán sát các cảm giác nơi thân. Niệm Thọ là nhớ đến chú tâm quán
sát thọ nơi thọ. Niệm Tâm là nhớ đến chú tâm quán sát tâm nơi tâm. Niệm Pháp
là nhớ đến chú tâm quán sát pháp nơi pháp. Tu tập Chánh Niệm là tạo lập, rèn
luyện một thói quen mới mẻ để thay thế, xoá bỏ, đoạn diệt một thói quen cũ đã
ăn sâu từ vô thuỷ, đó là thói quen Tà Niệm. Chánh Niệm được tu tập được làm
cho viên mãn tức NIỆM GIÁC CHI được tu tập được làm cho viên mãn khiến
cho Bát Chánh Đạo siêu thế được tu tập, được làm cho viên mãn, khiến cho
Tâm Giải Thoát, Tuệ Giải Thoát phát sinh và đi đến viên mãn.

2 - TRẠCH PHÁP GIÁC CHI:

Khi Niệm giác chi khởi lên và được tu tập đi đến viên mãn thì toàn bộ các chi
phần của Bát Chánh Đạo, trong đó có CHÁNH TRI KIẾN cũng được tu tập và
đi đến viên mãn. Trí tuệ hay hiểu biết đúng như thật về Duyên Khởi, về Vô
Thường, Vô Ngã, về Khổ Tập Diệt Đạo được trực tiếp kinh nghiệm, được trực
tiếp sống, được trực tiếp bổ sung và hoàn thiện trong những tình huống khác
nhau sống động của cuộc sống. Trí tuệ hay hiểu biết như thật về Tứ Thánh Đế
không phải do Nghe và Tư Duy mà do tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế được
TRỰC TIẾP kiểm nghiệm, bổ sung, hoàn thiện sẽ đưa đến giác ngộ Tứ Thánh
Đế gọi là TRẠCH PHÁP GIÁC CHI. Như vậy Niệm giác chi được tu tập đi đến
viên mãn khiến cho Trạch pháp giác chi được tu tập và đi đến viên mãn.

3 - TINH TẤN GIÁC CHI:

Khi Trạch pháp giác chi được tu tập đi đến viên mãn thì hiểu biết về Khổ,
Nguyên nhân Khổ, Chấm dứt Khổ và Con đường chấm dứt Khổ ngày càng rõ
ràng minh bạch. Kinh nghiệm được Chấm dứt Khổ càng sâu sắc thì hiểu biết
Bát Chánh Đạo là con đường duy nhất Chấm dứt Khổ, không còn một con
đường thứ hai nào nữa trở nên sâu sắc. Do thấy như vậy, biết như vậy mà Tinh
Tấn không thụ động khởi lên. Tinh Tấn này đưa đến tu tập Bát Chánh Đạo, còn
khi Bát Chánh Đạo siêu thế khởi lên thì Tinh Tấn chú tâm quán sát các đối
tượng. Tinh Tấn này chính là Tứ Chánh Cần, là Tinh Tấn Như Ý Túc và nó
cũng là một yếu tố trong bảy yếu tố đưa đến giác ngộ, gọi là TINH TẤN GIÁC
CHI.

4 - HỶ GIÁC CHI:

Khi Tinh tấn giác chi đã sinh khởi và đi đến viên mãn thì Hoan hỷ trong sự tu
tập Bát Chánh Đạo sẽ phát sinh. Sự hoan hỷ này sẽ gia tăng thời gian và mức độ
tu tập, làm cho sự tu tập đi đến viên mãn, đi đến Giác ngộ và Giải thoát. Sự
hoan hỷ này cũng là một yếu tố đưa đến giác ngộ, gọi là HỶ GIÁC CHI.

5 - KHINH AN GIÁC CHI:

Khi Niệm giác chi, Trạch pháp giác chi, Tinh tấn giác chi, Hỷ giác chi khởi lên
và đi đến viên mãn, hành giả an trú Bát Chánh Đạo siêu thế, an trú Khổ Diệt,
một trạng thái vắng lặng Tham Sân Si, vắng lặng Khổ, vắng lặng cả Hạnh phúc
lẫn Khổ đau. Do vắng lặng cả Hạnh phúc lẫn Khổ đau nên những Nội Xúc xảy
ra nơi các cơ quan nội tạng làm phát sinh Cảm giác dễ chịu, lâng lâng hạnh
phúc, Cảm giác khó chịu, nặng nề của khổ đau không còn nữa, vì vậy mà Thân
được khinh an, Tâm cũng khinh an. Thân khinh an, Tâm khinh an này sẽ thúc
đẩy, gia tăng sự tu tập Bát Chánh Đạo đi đến viên mãn nên đây là một trong bảy
yếu tố đưa đến giác ngộ, gọi là KHINH AN GIÁC CHI.

6- ĐỊNH GIÁC CHI:

Khi an trú Bát Chánh Đạo, Thân Tâm được khinh an, Tâm sẽ định tĩnh vì luôn
luôn ở trong Định trong mọi tư thế, mọi lúc, mọi nơi hoặc với Sơ thiền, Nhị
thiền, Tam thiền hay Tứ thiền. Chánh Định này là một chi phần của Bát Chánh
Đạo siêu thế, nếu tâm không có Chánh Định thì tâm ấy nhất quyết không phải là
Bát Chánh Đạo vì vậy Chánh Định được xem là một trong bảy yếu tố đưa đến
giác ngộ, gọi là ĐỊNH GIÁC CHI.
7- XẢ GIÁC CHI:

Khi an trú Bát Chánh Đạo với sự có mặt của Niệm giác chi, Trạch pháp giác
chi, Tinh tấn giác chi, Hỷ giác chi, Khinh an giác chi và Định giác chi thì sẽ
phát sinh một thái độ bình thản, không nắm giữ, không xua đuổi, không yêu
thích, không chán ghét, độc lập, không ràng buộc, giải thoát không hệ luỵ với
mọi đối tượng. Đây chính là XẢ GIÁC CHI, yếu tố đưa đến giác ngộ thứ bảy.

KẾT LUẬN:

Thất giác chi là bảy yếu tố đưa đến Giác Ngộ, là một cách thuyết minh về Bát
Chánh Đạo siêu thế, con đường độc nhất đưa đến đoạn tận khổ đau. Trong Thất
giác chi có bốn giác chi là các chi phần của Bát Chánh Đạo siêu thế gồm:
NIỆM giác chi, TINH TẤN giác chi, ĐỊNH giác chi, TUỆ giác chi (Trạch pháp
giác chi), còn HỶ giác chi, KHINH AN giác chi, XẢ giác chi là các yếu tố phát
sinh khi lộ trình tâm là Bát Chánh Đạo, là kết quả của Bát Chánh Đạo mà người
tu chứng ngộ và an trú. Sở dĩ ở đây chỉ nói bốn chi phần mà không nói cả tám
chi phần Bát Chánh Đạo vì khi nói đến yếu tố TRẠCH PHÁP GIÁC CHI tức
nói đến Chánh Tri Kiến thì đã ngầm nói đến Chánh Tư Duy vì Chánh Tri Kiến
phải do Chánh Tư Duy mà khởi lên, và Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng
lại do Chánh Tri Kiến mà khởi lên. Thất giác chi là cách nói về Bát Chánh Đạo
theo cách TƯƠNG TÁC ĐA CHIỀU của các yếu tố với mức độ Thô hoặc Tế
khác nhau mà thôi.

Về mục lục

Bài 011: ĐÂU LÀ GỐC ĐÂU LÀ NGỌN CỦA TU HỌC

Nói đến Gốc và Ngọn của sự tu học là sử dụng nghĩa đen của từ này, để ám chỉ
nghĩa bóng. Gốc và Ngọn theo nghĩa đen là nói tới một cái cây và đương nhiên
Gốc cây sinh ra Ngọn cây chứ không bao giờ Ngọn cây lại có thể sinh ra Gốc
cây được. Vì thế, tu học cũng phải tu học cái Gốc chứ không thể tu học cái
Ngọn, vì Gốc sinh ra Ngọn chứ không thể Ngọn sinh ra Gốc. Nhưng trong sự tu
học Phật Giáo đâu là gốc, đâu là ngọn? Nếu không hiểu đúng, không phân biệt
rõ Gốc Ngọn thì rất dễ rơi vào tu học Cành ngọn mà bỏ qua Gốc rễ của Giáo
Pháp và do vậy sẽ không có được kết quả giác ngộ và giải thoát.

Trong bản kinh Pháp Cú, được cho là rất cổ xưa, mở đầu Phẩm Song Yếu với
hai bài kệ:

- Bài kệ 1:

Ý dẫn đầu các pháp

Ý làm chủ, ý tạo

Nếu với ý ô nhiễm

Nói lên hay hành động

Khổ não bước theo sau

Như xe, chân vật kéo.

- Bài kệ 2:

Ý dẫn đầu các pháp

Ý làm chủ, ý tạo

Nếu với ý thanh tịnh

Nói lên hay hành động

Khổ Diệt (Niết bàn) có mặt ngay

Như bóng không rời hình.

Trong hai bài kệ Song Yếu này đều khẳng định, Ý là quan trọng nhất, Ý là
nguyên nhân phát sinh ra Lời nói, Hành động và Lời nói, Hành động là nguyên
nhân phát sinh kết quả Khổ não hay An lạc. Vậy Ý được hiểu là cái gì? Ý trong
các pháp cú này được hiểu là tâm biết Ý thức, có phận sự biết đối tượng được
thấy, được nghe, được cảm nhận là cái gì, tính chất ra sao. Tâm biết ý thức do
Niệm - Tư duy mà phát sinh và nội dung thì tuỳ thuộc vào những tri thức, kinh
nghiệm đã học hỏi, đã thu thập trong quá khứ. Có hai loại tâm biết ý thức của
Phàm và Thánh được mô tả song song trong hai bài kệ:

- Một là: Tâm biết ý thức (Ý) của Phàm phu hiểu biết sai, không đúng sự thật
về đối tượng, được gọi là tà kiến, là vô minh chấp ngã nên gọi là Ý Ô NHIỄM.
Do Ý ô nhiễm mà phát sinh thái độ hoặc Tham, hoặc Sân, hoặc Si. Do tham sân
si mà phát sinh lời nói, hành động tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng và do tà ngữ, tà
nghiệp, tà mạng mà phát sinh sầu bi khổ ưu não tiếp theo ngay, như xe đi theo
sau chân con vật kéo xe.

- Hai là: Tâm biết ý thức (Ý) của bậc Thánh hiểu biết đúng sự thật đối tượng,
được gọi là Chánh kiến, là minh, là trí tuệ nên gọi là Ý THANH TỊNH. Do Ý
thanh tịnh nên sẽ phát sinh lời nói, hành động chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh
mạng. Do lời nói, hành động chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, không
còn tham sân si chi phối nên không còn khổ và đó là Khổ Diệt (Niết bàn) có
mặt ngay như bóng không rời hình.

Vậy hai bài kệ song yếu đã chỉ rõ cái Gốc của sự tu học là thay đổi Tâm biết ý
thức từ tà kiến, vô minh chấp ngã của Phàm phu sang thành Tâm biết ý thức
Chánh kiến, minh, trí tuệ của bậc Thánh, hay nói ngắn gọn là thay đổi NHẬN
THỨC, thay đổi HIỂU BIẾT từ Tà kiến sang Chánh kiến. Còn Lời nói, Hành
động (thuộc về Giới luật) là cái Ngọn, nó sẽ tự thay đổi khi tâm biết Ý thức thay
đổi.

Bài kinh “Pháp môn căn bản” thuộc Trung Bộ Kinh, dạy Pháp môn căn bản của
Giáo Pháp, chính là thuyết giảng của Đức Phật về cái Gốc của sự tu học. Nội
dung bài kinh trình bày về Thấy và Biết của bốn hạng người: Phàm phu, Hữu
học, A la hán và Như Lai. Thấy là nói gộp của thấy, nghe, cảm nhận đối tượng,
chỉ cho tâm biết trực tiếp giác quan gồm Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt
thức, Thân thức, Tưởng thức chỉ có phận sự ghi nhận đối tượng. Biết là nói về
tâm biết gián tiếp Ý thức, biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao.

- Đối với Phàm phu thì Thấy là Tưởng tri đối tượng, Biết là Tà kiến, là Không
Liễu tri đối tượng. Và vì Biết là Tà kiến, Không Liễu tri đối tượng nên mới có
Dục hỷ đối tượng và Dục hỷ là nguyên nhân phát sinh Khổ.

- Đối với Hữu học, A la hán và Như Lai thì Thấy là Thắng tri đối tượng (Tỉnh
giác), Biết là Chánh kiến, là Liễu tri đối tượng. Và vì vậy, không Dục hỷ đối
tượng nên không còn Khổ.

Nội dung bài kinh chỉ rõ cái Gốc của tu học là thay đổi Thấy và Biết từ: Tưởng
Tri và Tà Kiến (không liễu tri các pháp) của Phàm phu THÀNH Thắng Tri và
Chánh Kiến (liễu tri các pháp) của bậc Thánh. Bài kinh “Pháp môn căn bản”
nói chi tiết hơn bài kệ song yếu của kinh Pháp cú về Cái Gốc của sự tu học là
Thấy và Biết chứ không bàn đến tu Lời nói, Hành động (thuộc Giới Luật) vì
Lời nói, Hành động là sản phẩm của Thấy và Biết. Vì vậy, nếu tu lời nói hành
động trước và trí tuệ sau là tu cái Cành Ngọn chứ không phải cái Gốc Rễ.

Rất nhiều người không hiểu đúng, không phân biệt rõ Gốc và Ngọn của sự tu
học nên bỏ Gốc tu Ngọn, không chú trọng tu Chánh Kiến để đoạn trừ Tà Kiến
mà chú trọng tu lời nói, hành động. Ví như, chủ trương trước khi nói hay làm là
phải nghĩ tới hậu quả nên phải uốn lưỡi bảy lần trước khi nói... Họ hiểu tu là
phải thực hành theo tuần tự: bố thí, trì giới, tham thiền rồi mới trau đồi trí tuệ.
Cách tu như vậy là dựa trên tâm biết ý thức Tà kiến để bố thí, trì giới và như
vậy là dùng nghị lực để ức chế tâm, kiềm chế tâm nên rất căng thẳng và dễ dàng
bùng nổ. Những người đó không có kinh nghiệm, không thực chứng được sự
thật, là khi tu tập Chánh Kiến với 3 cấp độ: Một là nghe giảng để có Văn tuệ;
Hai là Tư duy về giáo pháp đã nghe giảng để có Tư tuệ; Ba là thực hành Bát
Chánh Đạo siêu thế để có Tu tuệ, thì tuỳ theo cấp độ Tuệ đã đạt được mà Lời
nói, Hành động sẽ thay đổi tương ứng. Lúc đó không còn phải ức chế tâm,
không phải kiềm chế tâm mà lời nói, hành động sẽ tự động trở thành Chánh
ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng và Giới Luật sẽ tự đầy đủ, trong sạch, Khổ sẽ
giảm thiểu và chấm dứt. Cho nên nói Đạo Phật là đạo chuyển mê khai ngộ, đạo
của trí tuệ và Chánh kiến dẫn đầu là vậy.

Về mục lục

Bài 012: THẤY - BIẾT VÀ KINH PHÁP MÔN CĂN BẢN

Quá trình nhận thức một đối tượng xảy ra theo hai giai đoạn: Nhận thức cảm
tính đối tượng và Nhận thức lý tính đối tượng mà nói ngắn gọn là THẤY và
BIẾT đối tượng, và quá trình xảy ra theo tuần tự THẤY rồi mới BIẾT. Ví như
một cái điện thoại tiếp xúc với mắt một đứa bé vừa sinh, Nhãn thức khởi lên
THẤY hình ảnh đó nhưng BIẾT không khởi lên, đứa bé không BIẾT đối tượng
là cái gì. Tương tự, người lớn cũng THẤY hình ảnh như đứa trẻ mới sinh nhưng
sau khi THẤY, BIẾT sẽ khởi lên, BIẾT đối tượng là cái điện thoại với các đặc
tính to hay nhỏ, trắng hay vàng, đẹp hay xấu...

- THẤY là nói gộp của Thấy, Nghe, Cảm Nhận đối tượng, bao gồm Nhãn thức,
Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng thức, là TÂM BIẾT TRỰC TIẾP
đối tượng, đối tượng như thế nào thì NHẬN BIẾT đối tượng như thế đó, không
thêm bớt. ĐỐI TƯỢNG được THẤY là Thực tại, là Sự thật. THẤY của Phàm và
Thánh đều giống nhau, nhưng Phàm thì gọi là Tưởng tri, Thánh gọi là Thắng tri
hay Tỉnh giác.

- BIẾT là Ý thức, hiểu biết Đối Tượng được THẤY là cái gì, tính chất ra sao, là
TÂM BIẾT GIÁN TIẾP đối tượng, do tư duy, suy luận mà có. BIẾT đối tượng có
hai loại:
BIẾT SAI, không đúng sự thật đối tượng, gọi là VÔ MINH thuộc Phàm phu, được
ví như THẤY đối tượng vốn là "sợi dây" lại BIẾT là "con rắn". Vì vậy, đối tượng
được biết của cái biết VÔ MINH là không có thật, là tưởng tượng, là lông rùa
sừng thỏ. Đây là BIẾT của Nhân loại. THẤY và BIẾT của Nhân loại khởi lên
theo lộ trình sau, trong đó "THẤY là Tưởng" và "BIẾT là Tà Tri Kiến".

XÚC - Thọ - Tưởng - Tà Niệm - Tà Tư Duy - Tà Tri Kiến

- BIẾT ĐÚNG như thật đối tượng gọi là MINH thuộc bậc Thánh, đối tượng
được biết là SỰ THẬT, là có thật, được ví như THẤY đối tượng vốn là "sợi
dây" thì BIẾT nó là "sợi dây". Đây là BIẾT của Đức Phật đã chứng ngộ và
thuyết giảng. Lộ trình khởi lên THẤY và BIẾT của bậc Thánh như sau, trong
đó "THẤY là Tỉnh Giác" và "BIẾT là Chánh Tri Kiến":

XÚC - Thọ - Tưởng - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - (Tỉnh
Giác) - Chánh Tư Duy - Chánh Tri Kiến.

Hãy ngay nơi Thực Tại, nơi Sự Thật, khám phá ra CÁI BIẾT VÔ MINH và
CÁI BIẾT MINH để điều chỉnh, thay đổi CÁI BIẾT cho đúng với Sự Thật và
như vậy sẽ điều chỉnh, thay đổi được cuộc sống của mình, chấm dứt được Khổ.
3 - KINH PHÁP MÔN CĂN BẢN thuộc Trung Bộ Kinh, là bản kinh quan
trọng bậc nhất mà Đức Phật đã thuyết giảng. Nội dung của bản Kinh nói về
THẤY và BIẾT.

- Đối với Phàm phu: THẤY là Tưởng tri đối tượng, BIẾT là Tà Tri Kiến, là
Vô Minh, Không Liễu Tri đối tượng và do BIẾT là Vô Minh, Không Liễu Tri
đối tượng mà có Dục Hỷ đối tượng (Muốn có Niềm vui, Hạnh phúc từ đối
tượng). Chính Dục Hỷ đối tượng là Căn bản của Khổ.

- Đối với vị Hữu học: THẤY là Thắng tri đối tượng (Tỉnh giác), BIẾT là Chánh
Tri Kiến (chưa hoàn thiện) nên Có Thể Liễu Tri đối tượng. Do THẤY như vậy,
BIẾT như vậy mà Không Dục Hỷ đối tượng, Khổ không khởi lên.
- Đối với bậc A La Hán và Như Lai: THẤY là Thắng tri đối tượng (Tỉnh
giác), BIẾT là Chánh Tri Kiến, là Minh, Liễu Tri đối tượng. Do THẤY NHƯ
VẬY, BIẾT NHƯ VẬY, mà MỌI LẬU HOẶC ĐƯỢC ĐOẠN TẬN, Dục Hỷ
được đoạn tận, Khổ được đoạn tận.

Vì vậy PHÁP MÔN CĂN BẢN mà Phật dạy là tu tập để thay đổi THẤY và
BIẾT, từ THẤY và BIẾT của Phàm phu gồm "TƯỞNG TRI VÀ KHÔNG LIỄU
TRI" đối tượng, thành THẤY và BIẾT của bậc Thánh gồm "THẮNG TRI VÀ
LIỄU TRI" đối tượng. Do thay đổi được THẤY và BIẾT từ Phàm sang Thánh mà
Thái độ và Hành vi đối với đối tượng sẽ thay đổi, là hệ quả tất yếu của sự thay đổi
THẤY và BIẾT, vì vậy mà KHÔNG CẦN TU TẬP THÁI ĐỘ VÀ HÀNH VI.

Để chuyển đổi THẤY và BIẾT từ Phàm sang Thánh phải tu tập CHỈ và QUÁN.
CHỈ do Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định sẽ làm cho lộ trình tâm
Dừng Lại THẤY, mà BIẾT không khởi lên, lúc đó sẽ chứng ngộ và an trú THẤY
thuần tuý, Thấy chỉ là Thấy, Nghe chỉ là Nghe, Cảm Nhận chỉ là Cảm Nhận đối
tượng, không thêm bớt (Thấy đối tượng như chúng đang là). Do tu CHỈ mà
THẤY như vậy, thì THẤY đó gọi là Tỉnh giác hay Thắng tri đối tượng. Khi tu
QUÁN sẽ có Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - (Tỉnh Giác) - Chánh
Tư Duy - Chánh Tri Kiến và Chánh Tri Kiến là BIẾT với Trí Tuệ, là Minh, sẽ
Liễu Tri đối tượng.

Về mục lục

Bài 013: GIỚI LUẬT LÀ GỐC HAY TRÍ TUỆ LÀ GỐC ĐẠO PHẬT

Nhiều người cho rằng Giới Luật là Gốc của Đạo Phật, họ tuyên bố Giới Luật
còn thì Đạo Phật còn. Quan điểm như vậy là do chấp thủ các hiểu biết sai lạc về
lời dạy của Đức Thế tôn, do Không Thấy Biết Như Thật lời dạy của Ngài.

Những người đó tuy có nghe, có đọc Kinh điển nhưng bị Vô minh che đậy, bị
tham ái triền phược nên không có cách nào để thẩm thấu nội dung mà Đức Thế
Tôn thuyết giảng. Trong Kinh Phạm Võng, bản kinh mở đầu bộ kinh Trường
Bộ, là bản tuyên ngôn về sự giác ngộ của Đức Phật, Ngài đã không đề cao Giới
Luật, không xem Giới Luật là gốc của Đạo Phật. Sau mỗi lần kể đến một Tiểu
Giới, một Trung Giới, một Đại Giới thì đều có một khẳng định ngay liền: "Đó là
những điều NHỎ NHẶT, KHÔNG QUAN TRỌNG, CHỈ THUỘC GIỚI LUẬT
mà kẻ PHÀM PHU dùng để tán thán Như Lai, Như Lai không kể đến. Còn có
NHỮNG PHÁP KHÁC, sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt
qua mọi tư duy lý luận suông, chỉ có người trí mới có khả năng giác hiểu.
Những pháp ấy Như Lai đã tự mình chứng ngộ và tuyên thuyết, và những ai
như thật tán thán những pháp đó, Như Lai mới kể đến là người tán thán Như
Lai".

Và gì là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng... mà Như Lai đã tự mình
chứng ngộ và tuyên thuyết và những ai, như thật tán thán các pháp ấy, Như Lai
mới kể đến là người tán thán Như Lai? "Này các Tỷ kheo, Như Lai nhờ như thật
TUỆ TRI sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ, mà
Như Lai được giải thoát hoàn toàn không có chấp thủ". Đây mới là GỐC của
Đạo Phật. Và GỐC đó là sự Giác Ngộ của Đức Phật, là TRÍ TUỆ THẤY BIẾT
NHƯ THẬT THỰC TẠI. Đức Phật không giác ngộ Thực Tại là Thế Giới Sắc
Thanh Hương Vị Xúc Pháp như hiểu biết mặc định (Vô minh) của Nhân loại mà
Ngài Giác Ngộ Thực Tại được thấy, được nghe, được cảm nhận là SÁU LOẠI
CẢM THỌ do Sáu Căn và Sáu Trần (Thế Giới) tiếp xúc nhau mà phát sinh, nó
Vô Thường, Vô Chủ, Vô sở Hữu (Vô Ngã), nó có Vị Ngọt, có Sự Nguy Hiểm,
có Sự Xuất Ly.

Chính cái GỐC của Đạo Phật là Sự Giác Ngộ, là THẤY BIẾT NHƯ THẬT
THỰC TẠI nên bài kinh mở đầu Trung Bộ Kinh, Đức Phật đã dạy Pháp Môn
Căn Bản của tất cả Giáo Pháp, là THAY ĐỔI THẤY BIẾT, từ THẤY và BIẾT
của Phàm phu là "TƯỞNG TRI VÀ KHÔNG LIỄU TRI" đối tượng, thành
THẤY và BIẾT của bậc Thánh là "THẮNG TRI VÀ LIỄU TRI" đối tượng. Tại
sao Pháp Môn Căn Bản của Đạo Phật dạy tu tập THẤY và BIẾT mà không dạy
tu tập Thái Độ và Hành Vi, không dạy tu Giới Luật. Hãy quan sát một thí dụ để
sáng tỏ. Ví như một người, THẤY hình ảnh một người đang đi đến, rồi BIẾT
người này mang tiền thưởng đến cho Ta, thì do THẤY và BIẾT như vậy, sẽ
phát sinh Thái Độ vui vẻ, thích thú. Và do Thái Độ vui vẻ thích thú mà có hành
động, lời nói nhã nhặn, dễ thương với đối tượng. Nếu THẤY một người đang đi
đến, rồi BIẾT người này đến để đòi nợ Ta, thì do THẤY và BIẾT như vậy, sẽ
phát sinh Thái Độ chán ghét, tức tối. Do Thái Độ như vậy, sẽ phát sinh Hành Vi
trốn chạy hoặc nói lời khiếm nhã với đối tượng.

Cũng y như vậy nếu THẤY và BIẾT phát sinh trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo của
Phàm phu thì THẤY và BIẾT đó là VÔ MINH và do THẤY BIẾT VÔ MINH
mà phát sinh Thái Độ Tham hoặc Sân, hoặc Si. Do Thái Độ Tham Sân Si mà
phát sinh Hành Vi Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng.

Nếu THẤY và BIẾT phát sinh trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của bậc Thánh,
thì THẤY và BIẾT đó là MINH. Do THẤY BIẾT MINH mà sẽ phát sinh Thái
Độ Vô Tham, Vô Sân, Vô Si, và do Thái Độ Vô Tham, Vô Sân, Vô Si mà phát
sinh Hành Vi Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng không có Tham Sân Si
chi phối nữa.

Tóm lại: Hiểu Biết đối tượng như thế nào thì sẽ sống như thế đó. Nếu Hiểu Biết
đối tượng là Vô Minh, không đúng với sự thật thì sẽ phát sinh Thái Độ và Hành
Vi sống trái với sự thật, xung đột với sự thật và sẽ có Sầu Bi khổ ưu não. Nếu
Hiểu Biết đối tượng là Minh, đúng sự thật thì sẽ có Thái Độ và Hành Vi tương
ứng, và sống không xung đột với sự thật nên không có Sầu Bi Khổ Ưu Não. Vì
vậy Pháp Môn Căn Bản của Đạo Phật là tu tập THẤY BIẾT để chấm dứt Vô
minh, làm cho Minh khởi lên và sống với Minh.

Đối với một người đang thực hành và an trú lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế,
thì do THẤY là Tỉnh giác và BIẾT là Chánh Tri Kiến, Liễu Tri đối tượng nên có
Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, là HỆ QUẢ tất yếu của Chánh Tri Kiến
được biểu hiện ra bên ngoài. Các Hành Vi Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh
mạng do Vô tham, Vô Sân, Vô Si mà phát sinh nên không thể có Sát sanh, trộm
cắp, hành dâm, nói dối, uống rượu và các bất thiện khác. Vì vậy đối với vị đó
không còn ý niệm Giữ Giới và lúc đó Giới là điều NHỎ NHẶT, KHÔNG QUAN
TRỌNG, không cần phải đề cao.

Nhưng để cho Bát Chánh Đạo siêu thế khởi lên và trên đó Giới được thanh tịnh
toàn vẹn, viên mãn thì phải có công tác chuẩn bị. Đó là VĂN và TƯ, tức nghe
giảng và tư duy về Duyên khởi, về Vô thường, Vô ngã, về Tứ Thánh Đế. Nếu
VĂN và TƯ đó, làm phát sinh THẤY BIẾT NHƯ THẬT về các vấn đề trên, thì
đó là Văn Tuệ và Tư Tuệ, thuộc về Bát Chánh Đạo hiệp thế, là công tác CHUẨN
BỊ cho Bát Chánh Đạo siêu thế khởi lên. Với THẤY BIẾT NHƯ THẬT do Văn
Tuệ và Tư Tuệ, người Trí đó có thể chấm dứt Thân kiến, Nghi, Giới cấm thủ, trở
thành bậc Nhập lưu, và sẽ tự điều chỉnh được Hành Vi. Do đó, đối với vị đó, sát
sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu... sẽ được từ bỏ dễ dàng, không khó
khăn. Đối với vị có Văn Tuệ, Tư Tuệ đầy đủ, chính xác như vậy thì việc Giữ
Giới cũng là điều NHỎ NHẶT, KHÔNG QUAN TRỌNG vì tâm vị đó chỉ hướng
đến điều quan trọng nhất là Trí Tuệ, Liễu Tri tất cả pháp. Pháp của Đức Thế Tôn
khéo giảng "cho người trí tự mình giác hiểu" là dành cho hạng người trí ít ỏi này,
chứ không phải cho mọi hạng người trong nhân loại.

Đối với đa số nhân loại, Văn Tuệ và Tư Tuệ còn nhiều thiếu sót, không đầy đủ,
không chính xác, thậm chí là không có, đối với hạng người đó, ĐỨC TIN TÔN
GIÁO là cơ bản thì phải đề cao giới luật, thực hiện giới luật là quan trọng. Bởi có
như vậy mới chấm dứt được một số Phiền não thô và do vậy họ mới phát triển
thêm ĐỨC TIN và cố gắng để có Văn Tuệ và Tư Tuệ. Chỉ khi nào Văn Tuệ và
Tư Tuệ được đầy đủ và chính xác thì họ mới có CHÁNH TÍN và lúc đó mới sẵn
sàng cho thực hành Bát Chánh Đạo siêu thế. Nhưng đây là một quãng đường rất
dài đối với hạng người này.

Bài viết này được viết ra không có ý đồ phủ nhận sự nghiêm trì Giới Luật mà
khẳng định phải ĐỀ CAO Trí Tuệ do VĂN, do TƯ, do TU. Nếu Trí Tuệ do VĂN
TƯ TU được phát triển, được thành đạt, thì Trí Tuệ đó sẽ tự điều chỉnh Thái Độ
và Hành Vi, lúc đó Giới sẽ thanh tịnh mà không phải "gồng mình" giữ giới.

Về mục lục

Bài 014: NGƯỜI CÓ TRÍ TRÚ GIỚI: NIỆM ĐỊNH TUỆ HAY GIỚI
ĐỊNH TUỆ

TRÍ ở đây được hiểu là từ gọi tắt của Trí Tuệ, đồng nghĩa với Minh, đồng nghĩa
với Chánh Kiến, là HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT các sự vật hiện tượng (các
pháp), còn gọi là LIỄU TRI các pháp, đặc biệt là Khổ với 4 khía cạnh: Sự thật
Khổ, Sự thật tập khởi Khổ, Sự thật Khổ Diệt, Sự thật Con Đường Khổ Diệt. Trí
Tuệ có 3 cấp độ: Trí tuệ đạt được do Nghe, Đọc gọi là Văn Tuệ, Trí Tuệ đạt
được do Tư Duy về điều đã nghe, đọc gọi là Tư Tuệ, Trí Tuệ đạt được do thực
hành Bát Chánh Đạo gọi là Tu Tuệ. Tuy có 3 loại Tuệ như vậy nhưng nội dung
của ba loại Tuệ thì giống nhau.

GIỚI gồm Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, là 3 chi phần phát sinh trên
lộ trình tâm Bát Chánh Đạo, là Hệ Quả, là Kết Quả của 5 chi phần Chánh niệm,
Chánh tinh tấn, Chánh định, Chánh tư duy, Chánh kiến theo quy luật Duyên
Khởi (Nhân Quả). Giới gồm Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng là sản
phẩm do Trí Tuệ mà phát sinh, không còn Tham Sân Si chi phối, không còn tạo
nghiệp thiện ác (vô tác), nên còn được gọi là VÔ TÁC GIẢI THOÁT, là một
trong ba giải thoát gồm: Không giải thoát, Vô tướng giải thoát, Vô tác giải
thoát. Trong PHÁP VÀ LUẬT của Như Lai thì Giới thuộc về PHÁP, thuộc về
Bát Chánh Đạo, không bị chi phối bởi thời gian nên khi Đức Phật còn tại thế ra
sao thìngày nay hay mãi mãi về sau vẫn vậy, không thay đổi.

LUẬT gồm những điều luật mà Đức Phật đã chế định gồm hơn 200 điều luật
cho Tỷ kheo và trên 300 điều luật cho Tỷ kheo ni. Luật là những quy định,
những chế tài bắt buộc mọi thành viên trong Tăng đoàn phải tuân thủ, là yếu tố

quyết định sự tồn vong của một tổ chức, một tôn giáo, giống như Luật pháp
quyết định sự tồn vong, sự ổn định của một đất nước. Mỗi điều luật được Đức
Phật chế định KHI VÀ CHỈ KHI xuất hiện một tệ nạn, một việc làm xấu ác
nhằm mục đích ngăn chặn nó trong tương lai; nhằm quy định cách hành xử
trong lối sống Tăng đoàn; nhằm đảm bảo cuộc sống an ổn, không bị kích động,
không bị phá rối cho các Tỷ kheo hiền thiện có điều kiện tu tập; nhằm cho
những ai chưa có lòng tin vào Tăng đoàn có được lòng tin, những ai đã có lòng
tin thì lòng tin được tăng trưởng. Điều này giống như Luật pháp của một đất
nước, khi một loại tội phạm mới xuất hiện thì Quốc hội mới ra quyết nghị một
điều luật mới để ngăn chặn và chế tài loại tội phạm đó, để đời sống người dân
được ổn định. Luật là pháp được chế định, nên nó linh động, thay đổi, có thêm
có bớt để phù hợp với Thời Gian và Địa Điểm như thời còn tại thế Đức Phật đã
rất linh động. Ví như theo Luật chỉ cấm uống rượu, không có điều luật cấm hút
thuốc, không có điều luật cấm sử dụng ma tuý vì lúc đó các tệ nạn này chưa xảy
ra, đương nhiên ngày nay phải bổ sung vào. Điều luật không thọ nhận vàng bạc
chứ không có điều luật không thọ nhận tiền bạc vì lúc đó chưa có tiền giấy ra
đời và nếu diễn dịch không thọ nhận vàng bạc đồng nghĩa không thọ nhận tiền
bạc và cứng nhắc áp dụng vào hiện tại thì không còn phù hợp. Bởi thời Phật tại
thế con người chủ yếu là đi bộ hoặc các phương tiện giao thông với vận tốc nhỏ
không khá hơn đi bộ là bao nên không cần thọ nhận tiền bạc. Ngày này, chư
Tăng cũng có nhu cầu đi xe lửa, máy bay theo nhu cầu thời đại để rút ngắn thời
gian di chuyển, nếu không mang theo tiền bạc để sử dụng thì đi đâu cũng phải
kèm theo một đệ tử tại gia làm thị giả, làm kapija mang tiền bạc mua vé, chi tiêu
hộ thì nhiêu khê, ràng buộc, phiền toái hơn cả tại gia, chứ đâu có thể tu giải
thoát. Chính vì Luật phải linh động như vậy mà trước khi nhập diệt Đức Phật đã
căn dặn, chư Tăng có thể bỏ đi một số điều luật không quan trọng, không phù
hợp (với thời gian địa điểm áp dụng).

Phải phân biệt rõ GIỚI VÀ LUẬT. Giới có tính chất Giải thoát (Vô tác giải
thoát) còn Luật có tính chất Trói buộc. Tuy nhiên khi một người có Giới đầy đủ,
sáng chói, không sứt mẻ, không rách nát, không bể vụn, họ sẽ không vi phạm
một điều luật nào đã chế định nên Luật không trói buộc họ. Nhưng với người có
Tham Sân Si, có Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng thì Giới bị sứt mẻ, bị rách rát, bị
bẻ vụn, bị đoạn diệt thì Luật sẽ chế tài họ, trói buộc họ, giữ họ trong lãnh địa của
Tăng đoàn và nếu họ không chịu sự chế tài của Luật thì họ phải rời khỏi Tăng
đoàn. Trong Đạo Phật có hai phần PHÁP và LUẬT thì Giới thuộc về Pháp do
Tạng Kinh ghi chép lại (thuộc về Bát Chánh Đạo), còn Luật gồm trên 200 điều
luật của Tỷ kheo và trên 300 điều luật của Tỷ kheo ni do Phật chế định do Tạng
Luật ghi chép lại.

Và thế nào là người có trí trú giới? Để hiểu rõ điều này phải hiểu rõ được một
loại Tâm hành đặc biệt là Niệm bao gồm hai loại: Tà Niệm và Chánh Niệm.

NIỆM: Trong kinh điển Nikaya đã định nghĩa Niệm là hành vi NHỚ ĐƯỢC
NHỮNG ĐIỀU ĐÃ HỌC TỪ TRƯỚC. Nếu dùng tiếng Việt thuần tuý thì Niệm
là TRÍ NHỚ. Ví như, khi thấy một người (nhãn thức thấy hình ảnh) rồi BIẾT
được đối tượng đó là ai, tên gì, ở đâu... Cái BIẾT này phải do TRÍ NHỚ (do
NIỆM) mà khởi lên, nghĩa là NHỚ ĐƯỢC điều đã BIẾT về đối tượng đó do đã
học trong quá khứ, nếu Trí Nhớ không nhớ được thì sẽ không biết người đó là
ai, tên gì. Trong phim ảnh có mô tả những người bị mất Trí Nhớ (mất Niệm)
vẫn thấy các đối tượng là người thân quen nhưng họ KHÔNG BIẾT đó là ai,
quan hệ với mình như thế nào. Một đứa trẻ mới sinh vẫn thấy, nghe, cảm nhận
các đối tượng thực tại nhưng nó KHÔNG BIẾT các đối tượng là cái gì, tính chất
ra sao, KHÔNG BIẾT đối tượng đó là người hay xe cộ... KHÔNG BIẾT đối
tượng đó xanh hay vàng, đỏ hay trắng, mặn hay ngọt... Trong quá trình lớn lên
nó học hỏi để biết thế nào là người vật, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua
cay..., học đọc, học viết, học đi, học nói... Và bây giờ khi thấy, nghe, cảm nhận
(ngửi, nếm, sờ...) xong thì TRÍ NHỚ, nhớ được điều đã học khởi lên, đưa đến
BIẾT đối tượng được thấy, nghe, cảm nhận đó là cái gì, tính chất ra sao. Giả sử
một người MẤT TRÍ NHỚ (MẤT NIỆM) thì vẫn thấy, nghe, cảm nhận đối
tượng nhưng sẽ không biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao, giống hệt như

khi mới được sinh ra. Nhưng Niệm hay Trí Nhớ là một Tâm hành chứ không
phải là Tâm Biết. Tâm biết có phận sự BIẾT đối tượng đó là cái gì, tính chất ra
sao là Ý Thức và Ý Thức là Quả của Niệm theo tiến trình nhân quả: Niệm - Tư
Duy - Ý Thức. Niệm chỉ là công cụ dò tìm, tìm kiếm thông tin trong kho chứa
"tri thức, kinh nghiệm, hiểu biết" của mỗi người, là Nhân cho Tư Duy sanh
khởi. Và Tư Duy là Nhân cho Tâm biết Ý Thức sanh khởi, nên nội dung của
tâm biết Ý Thức mang nội dung mà Niệm đã tìm kiếm. Hãy đọc bài Niệm - Tư
Duy - Ý Thức trên trang FB này để hiểu rõ thêm. Trong cuộc sống thế gian
Niệm hay Trí Nhớ quyết định phẩm chất của một người thông minh hay khờ
dại, thành công hay thất bại. Một học sinh học giỏi hay kém, thi đậu hay không
là do Trí Nhớ, Nhớ Được điều đã học nhiều hay ít, một kỹ sư, một kiến trúc sư,
một người thợ giỏi hay không tuỳ thuộc vào Trí Nhớ, nhớ được nhiều hay ít
những điều đã học. Tuỳ thuộc vào nội dung thông tin mà Niệm tìm kiếm (nhớ
được) mà phân chia Niệm thành 2 loại: Tà Niệm và Chánh Niệm.

- Tà Niệm hay Trí Nhớ Tà: cũng là hành vi nhớ được những tri thức, hiểu biết
đã học hỏi trong quá khứ nhưng đó là những tri thức, hiểu biết SAI SỰ THẬT,
không đúng với bản chất các đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận.
Do Tà Niệm mà phát sinh Tà Tư Duy và do Tà Tư Duy mà phát sinh tâm biết Ý
thức, hiểu biết sai sự thật về đối tượng gọi là Tà Kiến: Tà Niệm - Tà Tư Duy -
(Ý thức) Tà Kiến. Tất cả mọi tri thức, hiểu biết của nhân loại được học hỏi,
được tích luỹ đều sai sự thật (trong đó có Khổ Tập Diệt Đạo) mà thuật ngữ Phật
học nói gọn là Vô minh, Chấp ngã. Do Tà Niệm - Tà Tư Duy - Tà Kiến mà phát
sinh Tham Sân Si là Nguyên nhân Khổ.

- Chánh Niệm hay Trí Nhớ Chánh: cũng là hành vi nhớ được những tri thức
hiểu biết đã học hỏi trong quá khứ nhưng đó là những tri thức, hiểu biết ĐÚNG
SỰ THẬT, đúng bản chất đối tượng. Những tri thức hiểu biết đúng sự thật này
chính là LỜI DẠY CỦA ĐỨC PHẬT THÍCH CA hay PHÁP MÀ ĐỨC THẾ
TÔN ĐÃ KHÉO GIẢNG. Đó chính là hiểu biết đúng sự thật về Duyên khởi, về
Vô thường, Vô chủ (Vô ngã) về Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế, về "Tuệ tri sự
sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ"... kể cả những
điều luật mà Đức Phật đã chế định. Do có Chánh Niệm mà sẽ phát sinh Chánh
Tư Duy, do Chánh Tư Duy mà phát sinh tâm biết Ý thức Chánh Kiến theo lộ
trình Duyên khởi: Chánh Niệm - Chánh Tư Duy - (Ý thức) Chánh Kiến. Ý thức
Chánh Kiến sẽ hiểu biết đúng sự thật về đối tượng. Do có mặt Ý thức Chánh
Kiến mà sẽ KHÔNG CÒN THAM SÂN SI, KHÔNG CÒN KHỔ. Đương nhiên,
Nhân cho Chánh Niệm sinh khởi là những tri thức, hiểu biết đúng đã được học
hỏi chính là VĂN TUỆ và duyên cho Chánh Niệm sinh khởi là TƯ TUỆ chứ
không phải Giới là Nhân của Chánh Niệm.

Niệm Phật tức hành vi Trí nhớ, nhớ đến Phật cũng có thể là Tà Niệm cũng có
thể là Chánh Niệm tuỳ thuộc vào nội dung của Niệm. Nếu một người đã học, đã
đọc, đã nghe đâu đó và biết Phật có thần thông mầu nhiệm, hễ ai đau khổ thì
Phật sẽ xuất hiện để cứu khổ. Hễ đọc câu thần chú của Phật thì năng lực thần
chú sẽ làm cho người đó muốn sinh con trai thì được con trai, muốn sinh con
gái thì được con gái, vào nước thì không chìm, vào lửa không cháy, vào gươm
đao thì gươm đao gãy đổ... Niệm Phật, tức nhớ đến Phật với nội dung như vậy
thì đó là Tà Niệm. Một người học Phật rồi nhớ đến Phật với nội dung: "Ngài là
bậc Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô
thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật, Thế tôn" thì đó là Chánh
Niệm.

Bây giờ hãy quan sát để biết như thật như thế nào là người có trí trú giới:
1 - Giết con muỗi và Không giết con muỗi tức Sát sanh và Không sát sanh.

a - Một người không có Văn Tư Tu được gọi là Phàm phu (không gặp các bậc
Thánh nên Không được nghe pháp Bậc Thánh, Không thuần thục pháp Bậc
Thánh, Không tu tập pháp Bậc Thánh) khi bị con muỗi chích sẽ cảm nhận khổ
rồi Trí Nhớ (Niệm) sẽ khởi lên, nhớ đến hiểu biết đã tích luỹ trong quá khứ:
Nguyên nhân cái khổ này là do ngoại cảnh (con muỗi) làm ta khổ. Và nhanh
như chớp tư duy khởi lên: phân tích so sánh đối chiếu khổ vừa cảm nhận với
hiểu biết trong quá khứ mà Niệm kích hoạt làm phát sinh Ý thức, BIẾT nguyên

nhân khổ là do con muỗi. Với HIỂU BIẾT đó sẽ phát sinh tức giận (Sân) và do
tức giận mà phát sinh phi như lý tác ý và do phi như lý tác ý mà phát sinh hành
động giơ tay đập cái đét, giết chết con muỗi. Người này với Tà Niệm - Tà Tư
Duy - Tà Kiến - Sân - Giết muỗi (sát sanh) thì sẽ không có Giới.

b - Một người khác cũng có nghe giảng hoặc đọc đâu đó rồi hiểu biết những ai
sát sanh sẽ bị đoạ địa ngục với vô vàn đau khổ khủng khiếp, không sát sinh thì
tương lai kiếp sau sẽ được sinh làm người khoẻ mạnh, không bệnh tật, sống lâu,
trường thọ... Khi người đó bị muỗi chích, cảm nhận khổ, tiếp đến Niệm, Trí nhớ
khởi lên, nhớ được những điều đã học trên, đưa đến phát sinh tâm biết Ý thức,
HIỂU BIẾT rằng: giết con muỗi này sẽ đoạ địa ngục, không giết nó tương lai sẽ
rất sung sướng. Do hiểu biết như vậy nên sợ bị đoạ địa ngục (Sân) và thích thú
tương lai hạnh phúc (Tham) mà tác ý phát sinh hành động xua con muỗi đi. Như
vậy, người này không phạm giới sát sanh, Giới có mặt nhưng Giới có mặt như
vậy là do Tham và Sân và nó xảy ra theo lộ trình: Tà Niệm - Tà Tư Duy - Tà
Kiến - Tham Sân - Không sát sanh. Giới có được do Tham và Sân như vậy
chính là GIỚI CẤM THỦ, không phải là Giới trong GIỚI LUẬT BẬC
THÁNH.

c - Một người có Chánh Niệm: Khi con muỗi chích, phát sinh Cảm giác và đồng
thời phát sinh Thân thức ghi nhận đối tượng (Cảm giác) thì Trí nhớ Chánh khởi
lên, nhớ đến điều đã học tức nhớ đến "Tinh tấn chú tâm quán sát các Cảm giác
trên thân (Chánh Niệm - Niệm Thân). Do có Trí nhớ Chánh, nhớ đến chú tâm
các Cảm giác trên thân nên sự chú tâm trên cảm giác đó lập tức xảy ra. Do có
hành vi chú tâm liên tục trên đối tượng nên chỉ có tâm biết Thân thức GHI
NHẬN ĐỐI TƯỢNG và tâm biết Ý thức, BIẾT đối tượng là cái gì, tính chất ra
sao không khởi lên. Lúc này chỉ có tâm biết Thân thức ghi nhận đối tượng với
tính chất "vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt" nên gọi là TỈNH GIÁC. Với tâm biết
TỈNH GIÁC thì sẽ không có thích ghét, không có hành động nào xảy ra. Nếu
Cảm giác đó rất mạnh, đau điếng thì sau khi cảm nhận đối tượng với Tỉnh giác,
Chánh Niệm lại tiếp tục sanh khởi, nhớ đến điều đã học là Lý Duyên khởi và

nhanh như một tia chớp, do Chánh Niệm mà sẽ phát sinh Chánh Tư Duy và do
Chánh Tư Duy mà phát sinh Ý thức Chánh Kiến, BIẾT NHƯ THẬT đối tượng
đó là Cảm giác do Thân Căn và Xúc Trần (Con Muỗi) tiếp xúc nhau mà phát
sinh. Xúc sinh thì Cảm giác sinh, Xúc diệt thì Cảm giác diệt. Do HIỂU BIẾT
như vậy mà phát sinh Như lý tác ý và do Như lý tác ý mà phát sinh hành động
lấy tay xua con muỗi để chấm dứt Xúc, chấm dứt Cảm giác đau điếng. Hành vi
đuổi con muỗi không do Tham Sân Si mà do Chánh Kiến khởi lên, và đó là
Chánh nghiệp xảy ra theo lộ trình: Chánh Niệm - Chánh Tư Duy - Chánh Kiến -
Như lý tác ý - Chánh nghiệp (Xua muỗi). Vì vậy, chỉ khi có CHÁNH NIỆM -
CHÁNH KIẾN mới có CHÁNH NGHIỆP và khi đó GIỚI thanh tịnh, tròn đủ,
không bị sứt mẻ, không bị bể vụn, không bị rách nát, không bị đoạn diệt. Đây
chính là GIỚI TRONG GIỚI LUẬT BẬC THÁNH.

2 - Tà Mạng và Chánh Mạng:

Hiện nay có hiện tượng các vị sư được Phật tử thỉnh mời tụng kinh cầu an, cầu
siêu và trước khi hoặc sau khi tụng kinh họ được dâng cúng tiền hoặc tứ vật
dụng. Các vị sư đó đều BIẾT vật phẩm được dâng cúng là do họ đã tụng kinh
cho thí chủ và họ đã thọ nhận phẩm vật đó do tụng kinh. Tương tự, đa phần các
giảng sư, các thiền sư thậm chí là các thiền sư nổi tiếng khi thuyết pháp, giảng
dạy xong thì Phật tử ào lên cúng dường tiền hoặc tứ vật dụng và các vị đó đã
thọ nhận phẩm vật cúng dường. Có một số vị lách điều luật không thọ nhận
vàng bạc bằng cách không tự tay thọ nhận mà thị giả, capiya của họ nhận, cất
giữ cho họ. Ở đây không nói đến Luật không thọ nhận vàng bạc vì Luật là linh
động, có thể áp dụng theo thời điểm nhưng tuy vị ấy không tự tay thọ nhận
nhưng đệ tử thọ nhận thay là do vị đó đã đồng ý thọ nhận. Thọ nhận tiền bạc
hoặc tứ vật dụng trong trường hợp như vậy là TÀ MẠNG và như vậy GIỚI bị
sứt mẻ, bị rách nát, bị đoạn diệt. Vì sao thọ nhận như vậy là Tà Mạng? Đó là
một bài Kinh trong Tương Ưng Bộ Kinh đã mô tả: Khi Đức Phật đi khất thực
đến chỗ vị Bà la môn đang phân phát đồ ăn cho thợ cày, Bà la môn liền nói:
Chúng tôi cày, sau khi cày chúng tôi ăn. Sa môn Gotama không cày, Sa môn
Gotama không ăn. Nghe nói vậy, Đức Phật đã thuyết giảng cho vị Ba la môn,
Ngài đã cày như thế nào và kết quả của việc cày đó là Giải thoát, là chấm dứt
sinh tử luân hồi. Được nghe giảng như vậy, Ba la môn hoan hỷ vô cùng lấy một
bát cơm trộn sữa dâng cúng lên Đức Phật. Ngài từ chối không thọ nhận bát cơm
trộn sữa ấy. Và Ngài nói rằng: Thọ nhận vật thực do kệ tụng mang lại là Tà
Mạng, không phải là truyền thống của chư Phật. Cho đến một ngày nào đó mà
truyền thống này vẫn còn, thì đó là Chánh Mạng. Vậy thì thọ nhận phẩm vật do
tụng kinh, thuyết pháp là TÀ MẠNG, đó chính là dùng pháp để mua bán, trao
đổi. Đối với trường hợp thọ nhận Tà Mạng như vậy có thể xảy ra do hai loại
người:

a - Một là những người chưa đọc, chưa nghe về bản kinh đó, tức là không có
Văn Tuệ về Chánh Mạng và Tà Mạng. Vì vậy, khi đối diện với sự việc đó họ
không có Chánh Niệm, không nhớ được nội dung Chánh Mạng và Tà Mạng vì
họ chưa học hỏi về điều đó. Đây là Phàm phu.

b - Hai là có những người đã nghe giảng, học hỏi bài kinh đó về Chánh Mạng,
Tà Mạng nhưng khi đối diện với sự việc họ KHÔNG NHỚ ĐƯỢC lời Phật dạy,
tức KHÔNG CÓ CHÁNH NIỆM nên họ đã có hành vi Tà Mạng như trên. Nếu
vị này đã học hỏi, đã nghe giảng về bài kinh đó và khi đối diện sự việc trên, vị
đó CÓ CHÁNH NIỆM, tức vị đó NHỚ ĐƯỢC bản kinh đã đọc thì vị đó sẽ có
CHÁNH KIẾN BIẾT RÕ TÀ MẠNG VÀ CHÁNH MẠNG và do CHÁNH

KIẾN, vị đó sẽ không thọ nhận phẩm vật một cách Tà Mạng, Giới vị đó sẽ đầy
đủ, thanh tịnh.

Trên mạng vừa qua có đăng tin một vị Tỷ kheo thực hành hạnh đầu đà miên mật
và được nhiều người tôn xưng là bậc Thánh, ngồi trên một cái ngai cao ngất
ngưởng rất sang trọng, quý giá được 4 vị Tỷ kheo kiệu trên vai dẫn đầu một lễ
rước hoành tráng với hai hàng dài Tỷ kheo hộ tống. Nếu thấy đúng sự thật thì vị
Tỷ kheo này đang phạm giới "Không nằm ngồi nơi quá cao và xinh đẹp", Giới
của vị này bị sứt mẻ, bị bể vụn. Tại sao lại như vậy? Vì vị ấy không có Chánh
Niệm, Không nhớ được điều đã học, Không nhớ được lời dạy của Phật. Nếu khi
người khác mời vị đó lên kiệu mà vị đó Nhớ được giới "Không nằm ngồi nơi quá
cao và xinh đẹp", tức vị đó có Chánh Niệm thì không ai có thể bắt ép được vị đó
ngồi lên kiệu.

KẾT LUẬN:

Giới gồm 3 chi phần Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng đầy đủ, sáng chói,
thanh tịnh KHI VÀ CHỈ KHI có Chánh Niệm, Chánh Định, Chánh Kiến. Giới
có mặt do Chánh Niệm, Chánh Định, Chánh Kiến chứ không phải là Chánh
Niệm, Chánh Định, Chánh Kiến do Giới mà phát sinh. Nhân phát sinh Chánh
Niệm là Văn Tuệ (Chánh Kiến) và Chánh Niệm là nhân phát sinh Chánh Định,
Chánh Niệm là nhân phát sinh Chánh Kiến (Tu Tuệ). Và lộ trình tâm Bát Chánh
Đao siêu thế là: Chánh Niệm - Chánh Định - Chánh Kiến - Giới hay nói tắt là:
Niệm - Định - Tuệ - Giới. Chính vì Chánh Niệm là nhân phát sinh Chánh Định
và Chánh Kiến nên Đức Phật không dạy Giới là con đường độc nhất, không dạy
Định là con đường độc nhất, Không dạy Tuệ là con đường độc nhất, mà Ngài
dạy Chánh Niệm (Tứ Niệm Xứ) là con đường độc nhất giúp cho chúng sinh diệt
trừ phiền não, chấm dứt khổ ưu, thành tựu Chánh trí, chứng ngộ Niết bàn.

Những ai đã học hỏi giáo pháp chính xác (Văn Tuệ) và nhờ Văn Tuệ mà đã thực
hành đạt đến thấu hiểu và an trú Chánh Niệm (Tứ Niệm Xứ) và do an trú Chánh
Niệm sẽ thấu đạt và an trú Chánh Định (Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ
thiền) và thấu đạt an trú Chánh Kiến (Tứ Thánh Đế) thì đương nhiên Giới người
đó sẽ đầy đủ, sáng chói thanh tịnh. Đối với vị đó Giới, như Đức Phật đã khẳng
định: Là điều nhỏ nhặt, không quan trọng, chỉ thuộc giới luật mà kẻ Phàm phu
dùng để tán thán Như Lai, Như lai không kể đến.

Pháp mà Đức Thế Tôn khéo léo thuyết giảng là "đến để mà thấy" nên khoan vội
tin bất cứ quan điểm nào kể cả kinh điển mà phải thực hành, thân chứng được
Chánh Niệm - Chánh Định - Chánh Kiến thì người đó sẽ tự mình biết Giới luật
là gốc hay trí tuệ là gốc, tự mình biết lộ trình Bát Chánh Đạo là Niệm - Định -
Tuệ hay là Giới - Định - Tuệ. Rất nhiều người tin tưởng vào quan điểm: Giới là
nhân sinh Định, Định là nhân sinh Tuệ và cố chấp vào quan điểm đã được nhồi
sọ, họ cố chấp bảo vệ quan điểm đó bởi "tư duy lý luận suông" chứ không phải
bằng trí tuệ thân chứng của họ. Những người đó chưa chứng ngộ và an trú Sơ
thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thì họ đâu có thể biết đúng sự thật, đâu
biết cái gì là nhân sinh Chánh Định. Giới là nhân sinh Định, Định là nhân phát
Tuệ mà họ trình bày là do tư duy lý luận suông trên tư tưởng của người khác
chứ không phải là điều chứng ngộ của họ. Chưa nói đến thực hành để chứng
ngộ, những tư duy hợp lý mang tính phản biện họ cũng chưa có thì đâu có trí
tuệ. Nếu là Giới (mà đa phần hiểu là Luật) sinh Định và Định phát Tuệ thì Đức
Phật chỉ cần chế ra Giới Luật và người tu chỉ cần giữ các Giới Luật trọn vẹn là
đủ, rồi ngồi chờ đợi Định Tuệ phát sinh. Nếu vậy, Ngài đâu cần phải 45 năm
thuyết rất nhiều bài pháp để đệ tử Nghe (Văn), Tư Duy (Tư) và Thực Hành (Tu)
theo lộ trình Văn - Tư - Tu để có Văn Tuệ - Tư Tuệ - Tu Tuệ.

Về mục lục

Bài 015: GIỚI ĐỊNH TUỆ HAY NIỆM ĐỊNH TUỆ

Giới - Định - Tuệ được đa phần người tu học Phật giáo cho rằng, đây là tiến
trình tu tập đúng đắn duy nhất. Trên trang Facebook này thì chỉ luận bàn, giảng
giải sự tu tập theo lộ trình NIỆM - ĐỊNH - TUỆ mà không luận bàn về GIỚI -
ĐỊNH - TUỆ. Tại sao lại như vậy?

Trong 20 năm đầu của 45 năm Đức Phật giáo hoá, Ngài chưa chế định một giới
điều nào. Các giới điều mà Phật tử tại gia thực hành ngày nay như Năm Giới,
Bát Quan Trai Giới (Tám Giới) và Thập Thiện Giới (Mười Giới) đã sẵn có
trong đời sống tôn giáo ở Ấn Độ trước khi Đức Phật ra đời, Đức Phật không
chế định các điều giới đó. Giới Sa di, giới Tỷ kheo hay Thức xoa ma na ni, Sa
di ni, Tỷ kheo ni chỉ được Đức Phật chế định sau 20 năm thành lập Tăng đoàn.
Vì vậy trong 20 năm đầu thuyết giảng, Đức Phật không có thể giảng dạy tu theo
lộ trình GIỚI - ĐỊNH - TUỆ. Trong 37 chi phần thuộc Đạo Đế bao gồm: Tứ
Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi và
Bát Chánh Đạo không có lộ trình GIỚI - ĐỊNH - TUỆ mà chỉ có lộ trình Ngũ
Căn, Ngũ Lực: Tín - Tấn - NIỆM - ĐỊNH - TUỆ. Đây là mô tả lộ trình Văn -
Tư - Tu trong đó Tín - Tấn do Văn và Tư khởi lên thuộc về Bát Chánh Đạo hiệp
thế và NIỆM - ĐỊNH - TUỆ do Tu mà khởi lên là Bát Chánh Đạo siêu thế. Bát
Chánh Đạo siêu thế diễn tiến theo trục chính với ba yếu tố căn bản là Chánh
Niệm - Chánh Định - Chánh Kiến gọi tắt là NIỆM - ĐỊNH - TUỆ. Sẽ có ý kiến
cho rằng Bát Chánh Đạo là con đường gồm Tám chi phần đã được giảng nói
trong Kinh điển theo thứ tự: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh ngữ, Chánh
nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh Niệm, Chánh Định bao gồm:
Chánh Kiến - Chánh Tư duy là TUỆ, Chánh ngữ - Chánh nghiệp - Chánh mạng
là GIỚI, Chánh Tinh tấn - Chánh Niệm - Chánh Định là ĐỊNH. Và như vậy Bát
Chánh Đạo bao gồm Giới Định Tuệ. Tuy rằng Bát Chánh Đạo được hiểu bao
gồm Giới Định Tuệ như trong Kinh điển đã giảng dạy, nhưng nếu theo thứ tự
đó, thì đây là lộ trình TUỆ - GIỚI - ĐỊNH chứ không phải lộ trình GIỚI -
ĐỊNH - TUỆ. Thứ tự các pháp trong Bát Chánh Đạo như vậy dùng để giảng
dạy cho dễ hiểu, thuộc về Bát Chánh Đạo hiệp thế (Nghe và Tư Duy) chứ
không phải là lộ trình Bát Chánh Đạo siêu thế, khởi lên khi tu tập phải theo thứ
tự NIỆM - ĐỊNH - TUỆ.

Quan sát cuộc sống thực hàng ngày sẽ thấy, khi xuất hiện một đối tượng thì
cũng phát sinh Cái biết trực tiếp giác quan có phận sự Nhận Biết đối tượng
(Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng thức) và tiếp theo
Ý thức khởi lên có phận sự Hiểu Biết đối tượng, xác định đối tượng đó là cái gì
tính chất ra sao, đẹp hay xấu, thơm hay thối, ngon hay dở... Do Hiểu Biết về đối
tượng mà sẽ phát sinh Thái Độ thích hay ghét đối tượng, do Thái Độ mà phát
sinh Phản Ứng bằng Lời Nói, Hành Động. Và do Lời Nói, Hành Động mà phát
sinh Kết Quả Khổ hay Vui. Vậy thì Ý thức Hiểu Biết đối tượng như thế nào sẽ
quyết định Thái Độ, Thái Độ như thế nào sẽ quyết định Lời Nói, Hành Động và
Lời Nói, Hành Động sẽ quyết định Kết Quả là Khổ hay Vui.

Đối với Phàm phu, Ý thức phát sinh trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo là Hiểu Biết
không đúng như thật đối tượng, là Vô Minh có nội dung Thường kiến, Ngã kiến
được gọi là Tà Tri Kiến nên sẽ phát sinh Thái Độ Tham Sân Si, do Thái Độ
Tham Sân Si mà phát sinh Lời Nói, Hành Động Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng và
do Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng mà phát sinh Kết Quả là Sầu Bi Khổ Ưu Não.

Đối với Phàm phu, Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng trong đó sẽ có sát sanh, trộm
cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, và các ác, bất thiện pháp, suy cho đến cùng là
do Ý thức Tà Tri Kiến, Vô Minh mà khởi lên. Chính vì vậy mà Đức Phật dạy
thực hành lộ trình tâm Bát Chánh Đạo, để khi lộ trình tâm Bát Chánh Đạo khởi
lên thì Ý thức Chánh Tri Kiến, là Minh sẽ đoạn trừ Ý thức Tà Tri Kiến, Vô
Minh. Ý thức Chánh Tri Kiến sẽ Hiểu Biết như thật đối tượng, có nội dung Vô
thường, Vô ngã, biết như thật về Khổ Tập Diệt Đạo được gọi là Minh nên sẽ
không có Thái Độ Tham Sân Si và vì vậy Lời Nói, Hành Động không còn bị chi
phối bởi Tham Sân Si. Lời Nói, Hành Động không bị chi phối bởi Tham Sân Si,
sẽ do Minh, do Trí Tuệ khởi lên và gọi là Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh
mạng. Do Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng mà Khổ không có mặt, Khổ
chấm dứt. CHÁNH NGỮ, CHÁNH NGHIỆP, CHÁNH MẠNG trên lộ trình
tâm Bát Chánh Đạo siêu thế là do Ý Thức CHÁNH TRI KIẾN là MINH, là TRÍ
TUỆ khởi lên nên hoàn toàn không thể có sát sanh, trộm cắp, hành dâm, nói
dối, uống rượu, không có bất kỳ một ác bất thiện pháp nào cả. Đã là lộ trình tâm
Bát Chánh Đạo thì phải có Chánh Định với bốn mức độ định là Sơ thiền, Nhị
thiền, Tam thiền, Tứ thiền mà tối thiểu phải là Sơ thiền và đã là Sơ thiền thì
phải: Ly dục, ly bất thiện pháp mới chứng và trú Sơ thiền. Tâm Bát Chánh Đạo
đã ly dục, ly bất thiện pháp thì không còn bất kỳ một giới nào cần phải giữ gìn
nữa.

VÌ VẬY TRONG THỜI GIAN TU TẬP AN TRÚ BÁT CHÁNH ĐẠO KHÔNG
TỒN TẠI BẤT KỲ MỘT ĐIỀU GIỚI NÀO PHẢI GÌN GIỮ, TẤT CẢ GIỚI ĐÃ
TRONG SẠCH. Giới được trong sạch, được hoàn hảo khi và chỉ khi lộ trình tâm
người đó là Bát Chánh Đạo với Ý thức Chánh Tri Kiến không Tham Sân Si, còn
khi lộ trình tâm là Bát Tà Đạo với Ý thức Tà Tri Kiến với Tham Sân Si thì thực
hành Giới chỉ là "đè nén", nên đè nén được chỗ này thì nó lại "phụt ra" ở chỗ kia
thôi, không thể nào có Giới trong sạch, hoàn hảo. Chính vì Nguyên Lý như vậy
nên 20 mươi năm đầu của lịch sử Tăng đoàn Đức Phật đã không chế định một
điều giới nào mà chỉ dạy tu tập Bát Chánh Đạo. Trong Kinh Phạm Võng thuộc
Trường Bộ Kinh đã có mô tả: “Người nào tán thán Như Lai về tiểu giới, trung
giới, đại giới mà Như Lai đầy đủ, trọn vẹn không tỳ vết thì Đức Phật khẳng định
đó là những điều nhỏ nhặt, không quan trọng, chỉ thuộc giới luật mà kẻ phàm phu
dùng để tán thán Như Lai, Như lai không kể đến. Còn có những pháp sâu kín,
khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt qua mọi tư duy lý luận suông chỉ
có người trí mới có khả năng giác hiểu, những pháp ấy Như Lai đã tự mình
chứng tri và tuyên thuyết. Và những ai như thật tán thán Như Lai về những pháp
đó, Như Lai mới kể đến là người chân chánh tán thán Như Lai.”
Nhưng thực hành Bát Chánh Đạo siêu thế phải được CHUẨN BỊ bởi Văn Tuệ
và Tư Tuệ, mà điều này không phải ai ai cũng làm được. CHỈ CÓ NGƯỜI TRÍ
mới có khả năng nhờ Nghe và Tư Duy mà phát sinh HIỂU BIẾT ĐÚNG NHƯ
THẬT VỀ KHỔ TẬP DIỆT ĐẠO, vì vậy Pháp mà Đức Thế Tôn khéo giảng chỉ
dành "Cho Người Trí Tự Mình Giác Hiểu", không phải cho mọi hạng người, mà
người trí so với nhân loại như Kinh điển đã đề cập là như vàng bạc so với đất đá
trên quả đất này. Không phải là người trí, không có Hiểu Biết Đúng Như Thật
Về Khổ Tập Diệt Đạo thì không thể tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế, vì thế sau 20
mươi năm trong lịch sử Tăng đoàn rất nhiều đối tượng không phải là người trí,
không thấy Pháp, không ngộ Pháp do Văn và Tư vẫn xuất gia trong Tăng đoàn,
và vì những hạng người này mà vô số tệ nạn đã xuất hiện. Vì sự tu tập của các
Tỷ kheo hiền thiện, vì để những người đã có lòng tin Giáo Pháp không bị thối
thất, vì để cho những người chưa có lòng tin phát sinh lòng tin Giáo Pháp, và vì
để ngăn chặn các lậu hoặc mà Đức Phật đã chế định các điều giới cho hàng xuất
gia. Đối với người trí việc giữ giới không còn quan trọng bởi nó diễn ra một
cách tự nhiên khi người đó đã biến sự tu tập Tứ Niệm Xứ thành lối sống của
mình. Khi có Chánh Niệm khởi lên thì toàn bộ Bát Chánh Đạo siêu thế sẽ tự
động khởi lên theo Định Luật Duyên Khởi mà trong đó Chánh ngữ, Chánh
nghiệp, Chánh mạng thuộc về Giới của bậc Thánh, trong sạch không tì vết.
Trong Kinh Niệm Xứ Đức Phật đã dạy: “Vị Tỷ kheo SỐNG TRÚ quán thân nơi
thân, với chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác để nhiếp phục tham ưu ở đời. SỐNG
TRÚ quán thọ nơi thọ, SỐNG TRÚ quán tâm nơi tâm, SỐNG TRÚ quán pháp
nơi pháp, chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác để nhiếp phục tham ưu ở đời.” Lộ
trình tâm Bát Chánh Đạo như sau:

XÚC - <Thọ - Tưởng> - CHÁNH NIỆM - Chánh Tinh Tấn - CHÁNH ĐỊNH -
(Tỉnh Giác) - Chánh Tư Duy - CHÁNH KIẾN - Như lý tác ý - Chánh ngữ, Chánh
nghiệp, Chánh mạng.
Khi một người an trú Tứ Niệm Xứ là đang an trú Bát Chánh Đạo, tâm không có
Tham, không có Sân, không có Si thì không thể nào có sát sanh, trộm cắp, hành
dâm, nói dối, nói lưỡi hai chiều, nói lời đâm thọc, nói lời thô ác... không có Giới
nào cần phải giữ gìn, phải quan tâm, phải tu tập. Nếu đã tu tập Bát Chánh Đạo
siêu thế như vậy thì đâu cần phải đề ra pháp Giữ Giới riêng biệt nữa, đâu có thể
nào Phạm giới mà phải đề ra giữ giới nữa.

Đối với người không có trí, kẻ Phàm phu không có Nghe và Tư Duy (hoặc có
được Nghe nhưng không có lắng nghe, không có chú tâm), nên không có Hiểu
Biết Như Thật Về Khổ Tập Diệt Đạo, chưa có "lông tóc dựng ngược" trước sự
thật về Khổ, nhưng do Đức Tin Tôn Giáo họ cũng giữ giới. Sự giữ giới của họ
xảy ra với lộ trình tâm Bát Tà Đạo, lộ trình tâm của Phàm phu với Vô Minh, với
Tham, với Sân, với Si. Sự giữ giới đó không với mục đích đoạn tận Tham, đoạn
tận Sân, đoạn tận Si mà với Tham Ái, với mục đích có được Phước báu để tương
lai có được sống lâu, sắc đẹp, giàu có, khoẻ mạnh, thành đạt, để được sinh lên cõi
trời... Sự giữ giới đó là "đè nén", chịu đựng để có phước báo trong tương lai chứ
không phải do Trí Tuệ khởi lên. Tuy nhiên sự giữ giới như vậy không phải là
không có Phước báo, nhưng Phước báo đó thuộc hữu lậu, đưa đến quả sanh y, nó
chỉ quẩn quanh trong luân hồi sinh tử, quẩn quanh nơi Khổ mà thôi. Những đạo
sĩ loã thể Ấn giáo xưa và nay, đã từ bỏ mọi vật dụng, sống loã thể, họ đã "ĐÈ
NÉN" được Dục Ái và Hữu Ái, đến nỗi người đàn bà dùng tay xoa xoa "cái ấy"
của họ để bôi lên đầu thì "cái ấy" vẫn không cương lên, nên nếu nói về Giới thì
khó có ai sánh bằng và vì thế mà được quần chúng Ấn Độ tôn sùng. Các đạo sĩ
loã thể ấy dùng tất cả năng lực đè nén Dục Ái và Hữu Ái nhưng lại dồn năng lực
cho Phi Hữu Ái. Nghĩa là khao khát tìm cầu sự hiện hữu khi không còn thân xác,
gọi là Phi Hữu Ái mà cụ thể là khi chết đi, không còn thân xác thì linh hồn được
hoà nhập vào Thượng Đế hay Đại Ngã (Đại Linh Hồn). Vị đạo sĩ loã thể có Giới
như vậy, do đè nén Tham Ái đối với Dục và Hữu nhưng lại dồn mọi năng lực
cho Tham Ái Phi Hữu, là thực hành Giới bởi Tham Ái, tăng cường Tham Ái,
không phải thực hành Giới bởi Trí Tuệ để đoạn diệt Tham Ái và nó chỉ thay thế
đối tượng Tham Ái từ Dục và Hữu sang Phi Hữu mà thôi. Một người có thể đè
nén để tròn đủ giới không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối,
không nói lưỡi hai chiều, không nói lời đâm thọc, không nói lời thô ác... nhưng
với mục đích Phước báu thì tâm người ấy vẫn Tham, vẫn Sân, vẫn Si, chỉ đổi đối
tượng Tham Ái này sang một đối tượng khác và vẫn quanh quẩn nơi Khổ. Có lý
luận cho rằng: làm như vậy cũng tốt lắm rồi, bởi điều đó rất khó làm. Nếu Tham
Ái Phước Báu ở tương lai càng mãnh liệt bao nhiêu thì càng dễ làm bấy nhiêu
như các đạo sĩ loã thể kia, hoặc như một người Tham đắm khối tài sản của một
người khác, với mưu đồ chiếm đoạt khối tài sản đó, với nội tâm xảo quyệt nhưng
vì mục đích quá lớn người đó có thể "thành tựu" hành động thương mến, chăm
sóc, lời nói hoà ái, dịu dàng đối với người kia trong nhiều năm liền một cách dễ
dàng. Ví như thực hành Nhẫn Nhục thực chất là dùng một Sân Lớn đè nén một
Sân Nhỏ, là "Nuốt" căm hận vào trong để lúc đó được an toàn, để được ca ngợi
có bản lãnh, hoặc để chứng tỏ với người khác một "Bản Ngã Hoàn Thiện". Nhẫn
nhục là dồn nén sân hận vào trong, không cho biểu hiện ra bên ngoài nhưng khi
đã đầy ắp, đủ nhân duyên thì nó bột phát ra bên ngoài rất ghê gớm. Đức Phật
không dạy Nhẫn Nhục mà Ngài dạy Bát Chánh Đạo để không có Tham, không
có Sân, không có Si và lúc đó Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng sẽ có mặt,
và đó là sự thản nhiên trước mọi nghịch cảnh từ tâm Vô Tham, Vô Sân, Vô Si mà
biểu hiện ra chứ không "nhẫn nhục chịu đựng" cái gì cả. Chánh ngữ, Chánh
nghiệp, Chánh mạng là sản phẩm phát sanh từ Chánh Tri Kiến, từ Minh, từ Trí
Tuệ là biểu hiện ra bên ngoài của nội tâm bậc Thánh một cách tự nhiên như
nhiên không còn phải cố gắng nỗ lực thực hành, nếu muốn đặt tên cho nó là bố
thí, trì giới, từ bi hỷ xả, là gì gì cũng được.

20 năm kể từ lúc Tăng đoàn ra đời Đức Phật chưa chế giới, và thời kỳ đầu này
của Giáo Pháp là dành cho người trí, chưa có Giới Luật, nên chưa có thể thuyết
minh tu theo lộ trình GIỚI - ĐỊNH - TUỆ mà theo lộ trình NIỆM - ĐỊNH - TUỆ
nhưng thời kỳ này số người đắc quả nhiều hơn rất nhiều so với thời kỳ sau này
có Giới Luật. Hai mươi lăm năm tiếp theo Đức Phật chế giới nhưng Giới Luật
mà Đức Phật chế định với mục đích thực hành để đoạn trừ Tham Sân Si chứ
không phải với mục đích tích luỹ Phước báu. Sự thực hành Giới Luật ấy phải
dựa trên Hiểu Biết Như Thật về Khổ Tập Diệt Đạo, về Tứ Thánh Đế và phải
hiểu rằng sự thực hành Giới như vậy sẽ tạo Duyên cho Chánh Niệm khởi lên,
GIỚI LÀM DUYÊN CHO CHÁNH NIỆM chứ không phải Giới làm duyên cho
Chánh Định. Có Chánh Niệm thì sẽ có Chánh Định, có Chánh Định sẽ có
Chánh Kiến. Nếu thực hành đúng như vậy thì có thể hiểu tu tập theo lộ trình
NIỆM - ĐỊNH - TUỆ hay tu tập theo lộ trình GIỚI - ĐỊNH - TUỆ không có gì
mâu thuẫn.

Về mục lục

Bài 016: MỤC ĐÍCH GIÁO PHÁP

Trong Tương Ưng Bộ Kinh, tập 4, Chương Một: Tương Ưng Sáu Xứ, Phẩm
Bệnh mô tả Đức Phật thăm hỏi một Tỷ kheo bị bệnh nặng. Đây là trích đoạn của
bản kinh đó:

"10 - Này Tỷ kheo, nếu đối với giới của mình, Ông không có gì để khiển trách,
thời này Tỷ kheo, thế nào Ông cũng có nghi ngờ đối với vấn đề gì đó, cũng có
hối hận gì đó.

- Bạch Thế Tôn, con không hiểu pháp Thế Tôn dạy về mục đích thanh tịnh trì giới.

11- Này Tỷ kheo, nếu Ông không hiểu pháp Ta dạy về mục đích thanh tịnh trì
giới, Ông hiểu pháp Ta dạy như thế nào?

- Bạch Thế Tôn, con hiểu pháp do Thế Tôn dạy là THAM và ĐOẠN THAM.
12 - Lành thay, lành thay, này Tỷ kheo! Lành thay, này Tỷ kheo! Ông hiểu
pháp ta dạy là tham và đoạn tham. Với MỤC ĐÍCH THAM VÀ ĐOẠN
THAM, NÀY TỶ KHEO, LÀ PHÁP TA DẠY."

Lời Bàn: Đức Thế Tôn đã tán thán vị Tỷ kheo đó đến HAI LẦN, vì vị Tỷ kheo
ấy đã thấu hiểu MỤC ĐÍCH CỦA GIÁO PHÁP KHÔNG PHẢI THANH TỊNH
TRÌ GIỚI MÀ LÀ HIỂU BIẾT NHƯ THẬT THAM (Nguyên nhân Khổ) VÀ
ĐOẠN THAM. Và rằng, nếu một người hiểu biết như thật, tham là Nguyên
nhân Khổ, người đó sẽ thực hành đoạn tham, lúc đó tham được nhiếp phục hoặc
đoạn tận, và ngay lúc đó Lời nói, Hành động sẽ là Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp,
Chánh Mạng, thuộc về Giới, đã TỰ THANH TỊNH thì đâu còn phải trì giới, đâu
còn phải thực hành giới riêng biệt nữa.

Về mục lục

Bài 017: NHẤT HƯỚNG

Pháp mà Đức Thế Tôn khéo léo thuyết giảng chỉ có một mục đích duy nhất là
NHẤT HƯỚNG NHÀM CHÁN, LY THAM, ĐOẠN DIỆT, AN TỊNH, THẮNG
TRÍ, GIÁC NGỘ, NIẾT BÀN. Vậy pháp nào không Nhất Hướng nhàm chán, ly
tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết Bàn thì pháp ấy không phải là
pháp mà Đức Thế Tôn đã khéo léo thuyết giảng. Trong Giáo Pháp này, Đức Thế
Tôn thuyết giảng để cho người trí Nhàm chán, Ly tham, Đoạn diệt THỰC TẠI
THẾ GIAN và hướng đến an trú An tịnh, Thắng trí, Giác ngộ, Niết bàn tức an trú
THỰC TẠI XUẤT THẾ GIAN.

A - NHẤT HƯỚNG Nhàm chán, Ly tham, Đoạn diệt THỰC TẠI THẾ GIAN:
Nhàm chán là từ ngữ mà cố Hoà Thượng Minh Châu đã dùng khi phiên dịch
kinh điển, để chỉ cho thái độ của Phàm phu khi đối diện một đối tượng không
dễ chịu cũng không khó chịu tức không thích cũng không ghét (dễ chịu thì
thích, khó chịu thì ghét). Ví như thường xuyên nhìn thấy hình ảnh đó, thường
xuyên nghe âm thanh đó, thường xuyên ăn món ăn đó thì sẽ trở nên NHÀM,
dửng dưng với các đối tượng đó. Dùng mỗi chữ Nhàm là chính xác nhưng chắc
đọc lên rất cộc lốc nên Ngài đã dùng từ Nhàm Chán, nhưng từ Nhàm Chán
cũng làm cho một số người hiểu lầm, cho rằng đó là Chán nản, Chán ghét, đồng
nghĩa với Sân nên có một số chỗ Ngài dùng từ Yểm ly, Ly tham, Đoạn diệt.
Vậy tại sao lại phải Nhàm chán, Ly tham, Đoạn diệt Thực tại Thế gian? Để trả
lời được câu hỏi đó, phải có HIỂU BIẾT ĐÚNG NHƯ THẬT BẢN CHẤT
CỦA THỰC TẠI THẾ GIAN thì lúc đó sẽ tự động Nhàm chán, Ly tham Thế
gian và tu tập để Đoạn diệt Thế gian.

Thực tại Thế gian là những gì đang xảy ra trong đời sống nhân loại gọi tắt là
THẾ GIAN và nó KHÔNG PHẢI LÀ THẾ GIỚI mà THẾ GIAN phát sinh do
TƯƠNG TÁC GIỮA CON NGƯỜI VÀ THẾ GIỚI, cụ thể là do tiếp xúc, tương
tác giữa Sáu Căn (Con người) và Sáu Trần (Thế giới). Thực tại Thế gian ấy
được Đức Phật mô tả một cách tóm lược theo lộ trình nhân quả: Xúc - Thọ - Ái
-Thủ - Hữu - Sinh Già Bệnh Chết Sầu Bi Khổ Ưu Não mà nếu mô tả tỉ mỉ hơn
thì đó là lộ trình Bát Tà Đạo: Xúc - (Thọ - Tưởng) - Tà Niệm - Tà Tư Duy - Tà
Tri Kiến - Tham Sân Si - Tà Định - Dục - Tà Tinh Tấn - Phi như lý tác ý - Tà
ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng - Sinh Già Bệnh Chết Sầu Bi Khổ Ưu Não. Thực tại
Thế gian ấy được tạo nên do VÔ MINH CHẤP NGÃ VÀ THAM ÁI, và đặc
tính nổi bật của nó là VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ, KHỔ, BẤT TỊNH.

1 - VÔ THƯỜNG: Tất cả các pháp trong thực tại thế gian đều do hai nhân là
Căn Trần tương tác mà phát sinh cũng do tương tác mà diệt nên nó sinh lên rồi
diệt đi, vô thường, không sẵn có, không thường hằng, không thường trú đâu cả.
2 - VÔ NGÃ: do hai nhân Căn Trần tương tác mà phát sinh nên các pháp vô
chủ, vô sở hữu nghĩa là không thể làm chủ, không thể sở hữu, không thể điều
khiển được nó. Điều này khẳng định không có một Bản Ngã, một cái Ta không
sinh không diệt là chủ nhân, chủ sở hữu, điều khiển các pháp, nghĩa là Vô ngã.
Vô ngã cũng có nghĩa là không có một ai thay đổi được thế gian cho nó tốt đẹp
hơn, cho con người hết khổ, vì thế gian vô ngã, vận hành theo quy luật của Vô
minh và tham ái.

3 - KHỔ: Con người thế gian, dù già trẻ, gái trai, giàu nghèo, ngu trí, sắc tộc tôn
giáo nào cho dù là kẻ thống trị hay bị trị, là tỷ phú đô la hay xin ăn ngoài chợ,
tất tần tật đều đang khổ. Đây là sự thật phổ quát cho toàn thể nhân loại chỉ ngoại
trừ các bậc thánh Phật giáo. Cái khổ đó phát sinh trong 7 trường hợp ai ai cũng
có mà Đức Phật đã chỉ rõ: Sanh, già, bệnh, chết, cầu mong mà không được,
chán ghét mà phải gặp, yêu thương mà phải biệt ly. Khổ này phát sinh do chấp
thủ Năm uẩn Sắc Thọ Tưởng Hành Thức là của ta, là ta, là tự ngã của ta (Năm
thủ uẩn là khổ) nên nó thuộc phạm trù Tâm chứ không phải Cảnh, nó là Cảm
giác nên cũng vô thường, vô ngã. Kẻ Phàm phu dù tài giỏi đến đâu, vĩ đại đến
đâu cũng không thoát khỏi khổ, chỉ quanh quẩn nơi khổ trong cuộc luân hồi
sinh tử vô cùng tận, không có hồi kết.

4 - BẤT TỊNH: Cuộc sống thế gian không phải chỉ có khổ là duy nhất mà còn
có Niềm vui, Hạnh phúc. Niềm vui, Hạnh phúc đó do Sắc đẹp, Tiếng hay,
Hương thơm, Vị ngon, Xúc chạm êm ái, Pháp trần mỹ diệu khởi lên mà thuật
ngữ Phật học gọi là DỤC LẠC. Kẻ Phàm phu không hiểu biết đúng như thật
bản chất của Dục lạc thế gian vui ít, khổ nhiều, não nhiều mà nguy hiểm lại
càng nhiều hơn mà xem nó là kỳ diệu, cao thượng, hấp dẫn, mầu nhiệm, cho
rằng có nó là chấm dứt khổ hoàn toàn nên tham ái, khao khát tìm cầu Dục lạc
chỗ này chỗ kia như Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái. Vì vậy mà con người tranh
đoạt, tranh cướp, giành giật lẫn nhau, tàn sát, tàn hại nhau. Vì Dục lạc mà có sát
sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, có vô số các ác, bất thiện pháp khởi
sinh. Vì Dục lạc, mà có chà đạp, áp bức bất công, khai thác cạn kiệt, tàn phá
huỷ hoại môi trường, đầu độc lẫn nhau, chiến tranh tàn khốc. Vì Dục lạc mà
phát sinh mọi nỗi thống khổ trên thế gian, vì Dục lạc mà các cô hoa hậu bán
dâm, vì Dục lạc mà có những đứa con trai giao cấu với mẹ đẻ của mình, có
những đàn ông hiếp dâm đứa con gái của mình mới có 6 tuổi... Niềm vui, Hạnh
phúc, Lạc thú thế gian mà kẻ Phàm phu mê đắm là nguyên nhân phát sinh mọi
nỗi thống khổ của nhân loại nên nó là PHÀM PHU LẠC, Ô UẾ LẠC, BẤT
TỊNH LẠC. Đa phần người học Phật hiểu nghĩa bất tịnh là chỉ cho THÂN THỂ
BẤT TỊNH, đáng ghê tởm nhưng không hiểu được sự thật, nghĩa bất tịnh cần
phải hiểu đúng như thật là NIỀM VUI, HẠNH PHÚC, LẠC THÚ THẾ GIAN
LÀ BẤT TỊNH. Ngồi tưởng tượng ra thân thể gồm thứ nọ, thứ kia thảy đều bất
tịnh, đáng ghê tởm thì bất tịnh đó là do TƯỞNG TƯỢNG RA, không phải sự
thật, còn quan sát sự thật để thấy biết như thật Niềm vui, Hạnh phúc, Lạc thú
thế gian bất tịnh là TRÍ TUỆ. Khi không còn ngồi tưởng tượng ra thân bất tịnh
thìt ham ái Hạnh phúc vẫn tiếp tục vận hành nhưng TRÍ TUỆ thấy biết như thật
DỤC LẠC THẾ GIAN BẤT TỊNH thì sẽ đưa đến Nhàm chán, Ly tham. Người
có trí sau khi nghe và tư duy (Văn và Tư) về sự thật thế gian, có được TRÍ TUỆ
hiểu biết đúng như thật về thế gian VÔ THƯỜNG, KHỔ, VÔ NGÃ, BẤT
TỊNH, cũng có nghĩa là Thấy Biết Như Thật Khổ (Khổ Đế), Thấy Biết Như
Thật Nguyên Nhân Khổ (Tập Đế) thì thấy biết như thật mình và mọi người trên
thế gian đang thích thú, khao khát tìm cầu Niềm vui, Hạnh phúc, lạc thú, tìm
cầu cái thứ bất tịnh để rồi CHỈ ĐỔI CÁI KHỔ NÀY LẤY CÁI KHỔ KHÁC
mà thôi, để rồi mãi mãi trôi lăn trong sinh tử luân hồi bất tận với Sinh Già Bệnh
Chết Sầu Bi Khổ Ưu Não. Có được trí tuệ như vậy thì người trí sẽ LÔNG TÓC
DỰNG NGƯỢC và sẽ Nhàm chán, Ly tham, hướng đến tu tập Đoạn diệt thế
gian. Xuyên suốt các bộ kinh Nikaya, Đức Phật đã dùng nhiều phương tiện
thuyết giảng nhằm chỉ rõ cho đệ tử, các Dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, mà
nguy hiểm lại càng nhiều hơn để đệ tử nhất hướng nhàm chán ly tham, đoạn
diệt thế gian. Ngài đã ví Dục như khúc xương không, như miếng thịt sống, như
bó đuốc rơm đi ngược gió, như cây sai trái, như hố than hừng, như đầu rắn hổ
mang, như giấc mộng...
Nhiều người học Phật bị Vô minh che đậy, bị Tham ái điều khiển, họ không như
lý tác ý đến Khổ Đế và Tập Đế nên không thấy được thế gian là Vô thường,
Khổ, Vô ngã, Bất tịnh, đặc biệt là Hạnh phúc là bất tịnh nên họ vẫn khao khát
tìm kiếm Hạnh phúc để thoát khổ, tuy rằng họ quan niệm đó là thứ hạnh phúc
tinh thần thanh cao, chân thật, vĩnh cửu chứ không phải thứ hạnh phúc vật chất
thấp hèn tạm bợ. Vì thế, họ không nhàm chán, ly tham thế gian mà vẫn say đắm
cuộc đời thế gian, muốn làm đẹp cho thế gian, muốn biến thế gian ta bà đau khổ
thành chốn tịnh độ thần tiên. Họ không thấy bị sinh ra mà thấy may mắn được
sinh ra làm người để tận hưởng niềm vui, hạnh phúc tinh thần thanh cao bởi thế
gian mầu nhiệm khôn cùng, tràn đầy niềm vui, hạnh phúc mà con người vì mải
mê với quá khứ, mải mê với tương lai mà quên đi giây phút hiện tại mầu nhiệm
chứa chan hạnh phúc. Những người xuất gia từ bé cho dù được vị thầy nghiêm
khắc giáo dưỡng, trông chừng và được hàng rào Giới Luật ngăn chặn không cho
tiếp xúc với Dục lạc thế gian, nhưng vì chưa thọ hưởng nó, chưa biết được vị
ngọt cũng như vị đắng cay của nó gây ra, nên ảo tưởng về nó, tâm vẫn bị lôi
cuốn vào vẻ đẹp quyến rũ mê hồn của nó. Vì thế, Dục lạc là bất tịnh chỉ là lý
thuyết suông, không thuyết phục được họ, không làm họ nhàm chán. Vì vậy,
Giới Luật có tính ngăn chặn lậu hoặc nhưng không phải là yếu tố đưa đến nhàm
chán ly tham mà chỉ có Trí Tuệ, thấy biết như thật Dục lạc là bất tịnh mới nhàm
chán ly tham. Giống như một người thấy một cái bao bóng đen đẹp, buộc chặt
để ở vệ đường thì nghĩ rằng xe nào chạy đánh rơi, chắc có cái gì quý giá trong
đó chăng. Suy tưởng ra những vật quý giá trong đó rồi phân vân, lưỡng lự
nhưng rồi quyết định mở nó ra và khi thấy trong đó là rác bẩn, hôi hám bị vất bỏ
thì mới bỏ đi không ngoái đầu trở lại.

B - NHẤT HƯỚNG đến An tịnh, Thắng trí, Giác ngộ, Niết bàn:

Đối với thế gian đa phần nhân loại xem cuộc đời có hạnh phúc kỳ diệu nên lạc
quan say đắm cuộc đời, cũng có một ít bị bệnh trầm cảm nên bi quan, chán nản,
chán ghét cuộc đời và tìm cách tự sát. Trái ngược với cả hai loại người đó,
người trí có Văn Tuệ và Tư Tuệ, thấy biết như thật khổ và nguyên nhân khổ thì
nhàm chán, ly tham nghĩa là dửng dưng, không còn tha thiết với cuộc đời
nhưng cũng không chán ghét, tìm cách tự sát. Vì sao vậy? Vì người trí còn được
Nghe và Tư duy về Sự chấm dứt Khổ (Diệt đế) và Con đường chấm dứt Khổ
(Đạo đế) thì biết còn có một thực tại khác, THỰC TẠI XUẤT THẾ GIAN có
An tịnh, Thắng trí, Giác ngộ, Niết bàn. Thực tại Xuất thế cũng do CON NGƯỜI
(Sáu Căn) tương tác với THẾ GIỚI (Sáu Trần) mà phát sinh nhưng nó vận hành
bởi Trí Tuệ (Minh) liễu tri tất cả pháp. Thực tại Xuất thế có thể diễn tả sơ lược
là: Xúc - Thọ - Không - Vô Tướng - Vô Tác và tỉ mỉ là Bát Chánh Đạo: Xúc -
(Thọ - Tưởng) - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - (Tỉnh Giác) -
Chánh Tư Duy - Chánh Tri Kiến - Như lý tác ý - Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng. Thực tại Xuất thế có các đặc tánh: VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ,
KHỔ DIỆT, THANH TỊNH.

1- VÔ THƯỜNG : Trong thực tại Xuất thế, các pháp được thấy, được nghe,
được cảm nhận, được nhận thức cũng đều do Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh
nên các pháp cũng đều Vô thường.

2 - VÔ NGÃ: các pháp của Thực tại Xuất thế cũng Vô chủ, Vô sở hữu hay
Vô ngã.

3 - KHỔ DIỆT - NIẾT BÀN: Trong thực tại Xuất thế không có khổ, vắng mặt
khổ, gọi là Khổ Diệt hay thuật ngữ tiếng Phạn gọi là NIẾT BÀN. Tuỳ theo mức
độ thấu đạt Bát Chánh Đạo mà các bậc thánh hữu học và vô học sẽ Tuệ tri (Biết
rõ) Niết bàn khác nhau. Bậc Nhập Lưu tuệ tri (biết rõ) Niết bàn là sự vắng mặt,
sự đoạn tận phiền não do Thân kiến, Nghi, Giới cấm thủ khởi lên (nghĩa là bậc
Nhập lưu không còn Phiền não do Thân kiến, Nghi, Giới cấm thủ gây ra). Bậc
Nhất lai tuệ tri (biết rõ) Niết bàn là sự vắng mặt, sự đoạn tận phiền não do thân
kiến, nghi, giới cấm thủ và phiền não do tham và sân với Dục lạc bị muội lược
đi (phần tham sân đã được giảm đi). Bậc Bất lai tuệ tri (biết rõ) Niết bàn là sự
vắng mặt, sự đoạn tận phiền não do thân kiến, nghi, giới cấm thủ và tham sân
đối với Dục lạc (đoạn tận Dục ái). Bậc A La Hán tuệ tri Niết bàn là sự vắng
mặt, sự đoạn tận phiền não do 10 kiết sử gây nên gồm thân kiến, nghi, giới cấm
thủ, tham, sân, si, mạn, vô minh, hữu ái (sắc tham), phi hữu ái (vô sắc tham).
Đây gọi là NIẾT BÀN HỮU DƯ, nghĩa là Khổ Diệt nhưng vẫn còn Dư Sót,
chưa chấm dứt tuyệt đối, kể cả vị A La Hán, khổ phát sinh nơi nội tâm đã đoạn
tận nhưng vẫn còn các khổ thọ trên thân do Thân Căn tiếp xúc với Xúc Trần
phát sinh như bệnh tật, quá nóng quá lạnh... Riêng đối vị A La Hán không
những vị đó Tuệ tri NIẾT BÀN HỮU DƯ mà vị đó còn Tuệ tri NIẾT BÀN VÔ
DƯ nghĩa là vị đó biết rõ, khi nhập diệt thì KHỔ CÒN DƯ SÓT bị đoạn diệt
hoàn toàn. Đó là NIẾT BÀN VÔ DƯ.

- THANH TỊNH: Đối với Thực tại Xuất thế chính là Bát Chánh Đạo, không có
Tham ái nên không còn phát sinh Niềm vui, Hạnh phúc (Dục lạc) do Sắc đẹp,
Tiếng hay, Hương thơm, Vị ngon, Xúc chạm êm ái, Pháp trần mỹ diệu khởi lên,
không còn Phàm phu lạc, ô uế lạc, bất tịnh lạc, nhưng Thực tại Xuất thế có Chánh
Định với Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền nên sẽ có hỷ lạc của sơ thiền do
ly dục sanh, hỷ lạc của nhị thiền do định sanh, lạc của tam thiền do xả sanh, hiện
tại lạc trú của tứ thiền. Đây chính là Lạc vô hại không còn vui ít, khổ nhiều, não
nhiều mà nguy hiểm càng nhiều hơn và đó là LẠC THANH TỊNH, là THÁNH
LẠC, CHÁNH GIÁC LẠC, AN TỊNH LẠC. Nghĩa thanh tịnh không phải là thân
bậc thánh thanh tịnh, thân phàm phu bất tịnh mà là LẠC DO CHÁNH ĐỊNH
KHỞI LÊN LÀ THANH TỊNH.

KẾT LUẬN: Để Tuệ Tri Pháp mà Đức Thế Tôn khéo léo thuyết giảng chỉ có
Nhất Hướng nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, niết bàn
phải Văn và Tư để Tuệ Tri được Thực Tại Thế Gian có VÔ THƯỜNG, KHỔ, VÔ
NGÃ, BẤT TỊNH và Thực tại Xuất Thế Gian có VÔ THƯỜNG, KHỔ DIỆT, VÔ
NGÃ, THANH TỊNH.

Về mục lục

Bài 018: MỤC ĐÍCH CUỘC SỐNG

Đã hiện hữu trong cuộc sống này, bất kỳ ai dù ít hay nhiều đều có băn khoăn:
Mục đích của cuộc sống là gì? Ý nghĩa thực sự của cuộc sống là gì? Phải chăng
con người sinh ra, lớn lên, học tập, làm việc, xây dựng gia đình, sinh con đẻ cái
rồi già và chết đi. Suốt trong mấy mươi năm hiện hữu đã từng trải qua, chứng
kiến những thành công, hạnh phúc và biết bao cay đắng, sầu khổ, thất bại. Mấy
mươi năm hiện hữu vui ít khổ nhiều, lo toan nhiều mà cay đắng lại càng nhiều
hơn. Vậy thực sự mục đích của sự hiện hữu này là gì?

Trong thế giới này, tất cả con người (ngoại trừ các bậc thánh) cho dù già trẻ,
nam nữ, giàu nghèo, người trí hay ngu, chủng tộc hay tôn giáo nào đều khát
khao mong mỏi tìm cầu hạnh phúc, niềm vui, lạc thú trong vật chất hay tinh
thần. Hành vi này chi phối toàn bộ đời sống trong từng giây phút của đời người.
Nếu quán sát kỹ càng thì hành vi "khao khát, mong mỏi, tìm cầu niềm vui hạnh
phúc, lạc thú" ở đời đương nhiên phát sinh từ nhận thức - Mục đích sống của
cuộc đời là tận hưởng niềm vui hạnh phúc, lạc thú.

Nhưng mục đích của cuộc đời đâu có phải thực sự là tận hưởng "Niềm vui, hạnh
phúc, lạc thú" không? Nếu nhận thức này đúng sự thật thì trong Phật Giáo gọi
nhận thức đúng sự thật là Minh hay Trí Tuệ, nếu không đúng sự thật thì gọi là
Vô Minh hay Vọng tưởng.

1. Mục Đích Của cuộc Đời Là Hết Khổ

Con người khác nhau thì sự tìm cầu cũng khác nhau và cùng một con người tùy
theo thời điểm thì sự tìm cầu cũng thay đổi. Sự tìm cầu bao gồm ở: Tiền bạc, tài
sản, tri thức, danh vọng, quyền lực, thành đạt.v.v... Chung quy là những
phương tiện vật chất và tinh thần mang lại lạc thú, niềm vui, hạnh phúc. Nếu
quán sát kỹ lưỡng thì mục đích thực sự của con người muốn đạt được không
phải là những thứ đó. Con người không cần những thứ đó, điều mà họ cần, mục
đích của con người đang nỗ lực đạt được là đằng sau những thứ đó. Vì sao vậy?
Vì khi họ nỗ lực phấn đấu để có được hạnh phúc vật chất và tinh thần, họ nghĩ
rằng "Nếu nhu có được những thứ này mình sẽ hết khổ". Vậy thì bất kỳ một
hành vi nào cho dù nhỏ bé hay to lớn đến đâu của một cá nhân, một tập thể, một
giai cấp, một tôn giáo, một đất nước hay cả loài người trên thế gian đều chỉ có
một mục đích duy nhất là "Hết khổ".

Khi ra chợ mua một đôi dép, không phải vì cần đôi dép mà chỉ để không bị khổ
do đạp gai, dẫm đá. Nếu mua đôi dép đẹp này sẽ không bị coi thường, khinh rẻ
và sẽ chấm dứt được khổ tâm. Vậy mục đích mua đôi dép là để chấm dứt khổ
tâm, khổ thân chứ không phải là đôi dép đó.

Bay vào không gian vũ trụ để khám phá các thiên hà, con người cũng hành động
với mục đích duy nhất là dùng những kiến thức đó để giúp con người trên trái
đất này hết khổ.

Khi giải mã bản đồ gene không phải con người cần những tri thức đó mà con
người muốn có những tri thức đó để sáng chế, phát minh nhiều phương thức
hữu hiệu giúp cho con người thoát khỏi bệnh tật, giúp cho người thoát khỏi khổ.
Sẽ có những lý luận cho rằng mục đích thực sự của đời sống mà con người đang
nỗ lực đạt đến là hết khổ nhưng còn mục đích khác là tận hưởng niềm vui, hạnh
phúc, lạc thú. Sự thật niềm vui, hạnh phúc, lạc thú mà con người khao khát
mong mỏi tận hưởng thuộc về tương lai, điều mà con người đang phấn đấu để
đạt đến. Vì rằng trong hiện tại con người đang bị đau khổ vây hãm nên họ nhận
thức rằng nếu có những thứ đó trong tương lai họ sẽ hết khổ. Vậy, từ sâu thẳm
cái mà con người thực sự cần đến là hết khổ chứ không phải là hạnh phúc và lạc
thú.

SỰ THẬT LÀ CON NGƯỜI KHÔNG CẦN BẤT KỲ MỘT HẠNH PHÚC


LẠC THÚ NÀO MÀ CON NGƯỜI CHỈ SỬ DỤNG HẠNH PHÚC LẠC THÚ
NHƯ MỘT PHƯƠNG TIỆN CHẤM DỨT KHỔ.

Thí dụ như đối với người nghiện ma túy, khi sử dung ma túy thì đây là thứ hạnh
phúc phi thường, tuyệt vời nhất. Nhưng thực ra, đối với người nghiện ma túy,
họ có nhu cầu với thứ hạnh phúc này không? Nếu có họ sẽ dùng ma túy suốt
ngày... sự thực không phải là như vậy. Chỉ khi nào cơn nghiện khởi lên, thân
thể họ bị bức bách với nỗi khổ, bị co giật, run rẩy... và nỗi khổ đó kéo dài thì họ
không thể nào chịu đựng nổi, lúc đó họ phải sử dụng ma túy để dập tắt cái khổ
đó. Khi cái khổ đã được dập tắt, đã yên ổn thì cho dù có mời họ sử dụng họ
cũng không có nhu cầu. Do vậy người nghiện ma túy không có nhu cầu về thứ
hạnh phúc đó, mà họ sử dụng nó như một phương tiện để đập tắt khổ.

Một người đang buồn ngủ lúc đó họ khổ thân, khổ tâm và họ chỉ cần một giấc
ngủ để dập tắt khổ thân, khổ tâm mà thôi chứ họ không cần bất cứ thứ hạnh
phúc nào khác. Một ví dụ là có người đang bị khổ sở vì bệnh ngứa do ghẻ lở hắc
lào... gây ra, lúc đó họ gãi hay hơ lửa để hết ngứa và cảm thấy sung sướng. Thật
ra họ đâu cần thứ hạnh phúc đó, chẳng qua họ chỉ gãi hay hơ lửa để dập tắt nỗi
khổ đang hành hạ. Khi họ khỏi bệnh họ đâu cần sự sung sướng của việc gãi hay
hơ lửa. Kể cả hạnh phúc tình dục con người cũng không có nhu cầu, vì nếu có
nhu cầu họ sẽ sử dụng thường xuyên, mà chỉ khi nào dục tưởng nổi lên, thân thể
sản sinh ra các hóc môn và bức bách làm khổ thân, cảm giác khó chịu ngày
càng tăng trưởng nên một số người không chịu đựng nổi phải phạm tội hiếp
dâm, và lúc đó con người sử dụng việc làm tình để dập tắt cái khổ đang bức
bách đó. Khi cảm giác khó chịu vì dục tưởng bức bách đã chấm dứt, họ được
yên ổn thì sẽ không có nhu cầu sử dụng đến thứ hạnh phúc tình dục đó nữa.

2. Gánh Nặng Hai Đầu

Đa phần nhân loại đều nhận thức rằng họ đang đi qua cuộc đời với một gánh
nặng trên vai, đó là niềm đau, nỗi khổ và họ muốn đặt gánh nặng đó xuống, và
gánh hạnh phúc lên để tiếp tục đi tiếp cuộc đời. Ít ai biết được rằng cái gánh
nặng trên vai đó, một đầu là đau khổ, một đầu là hạnh phúc. Một gánh nặng có
hai đầu mà lại muốn đặt một đầu xuống, điều đó hoàn toàn là ảo tưởng.

Trong kinh điển Phật giáo có một minh họa về sự thực này: Con người đang
sống với 4 con rắn cực độc hễ nó cắn là chết ngay, nhưng hàng ngày người này
vẫn phải chung sống với nó, phải cho nó ăn, phải cho nó ngủ, tắm rửa cho nó
nhưng nó lại đang truy đuổi chực cắn chết con người. Thật là một trạng thái
căng thẳng và phải chạy trốn sự truy đuổi của nó. Khi người này đang chạy trốn
khỏi bốn con rắn lại gặp sáu tên giặc cướp với gươm giáo sáng quắc trong tay
đuổi theo và truy sát. Khi đang chạy trốn bốn con rắn với sáu tên giặc cướp lại
gặp ngay một tên tướng cướp khổng lồ với giáo dài trong tay, chạy như bay và
hét lớn "ta sẽ giết chết ngươi" người này chạy trốn vào các căn nhà, nhưng các
căn nhà đều trống không, không có gì để trốn nấp. Người này chạy ra đến bờ
sông, thấy bên kia bờ sông không có rắn, không có giặc cướp, không có tướng
cướp, an ổn vô cùng. Người này cố sức bẻ các cành cây kết lại làm bè và nằm
lên bè dùng tay chân để bơi qua bờ bên kia, và được yên ổn.

Bờ bên này ẩn dụ cho thế gian này, bờ bên kia ẩn dụ cho Niết Bàn, sự vô
thượng yên ổn thoát khỏi mọi khổ ách. Hình ảnh bốn con rắn, sáu tên giặc
cướp, tên tướng cướp khổng lồ, và các căn nhà trống rỗng:

- Hình ảnh thứ nhất, bốn con rắn: Thời xưa, con người quan niệm thân thể này
gồm bốn yếu tố vật chất tạo thành là: đất, nước, lửa, gió. Bốn con rắn cực độc là
ẩn dụ cho thân xác này. Sự thật là tất cả nhân loại đều đang sống để thỏa mãn
thân xác này, con người phải đấu tranh nỗ lực, lao tâm khổ tứ và do vậy sẽ khởi
lên không biết bao nhiêu là cay đắng, khổ não, bao nhiêu gánh nặng, bao nhiêu
là gian trá, lừa đảo, tranh dành, chém giết lẫn nhau. Vậy chính hạnh phúc là một
đầu của gánh nặng và sự thật là con người đang sống trong vòng luẩn quẩn
không thể thoát khỏi khổ.
- Hình ảnh thứ hai là con người đang bị sáu tên giặc cướp với gươm giáo sáng
quắc truy đuổi đe dọa sẽ chém chết. Sáu tên giặc cướp này để chỉ cho sáu căn:
Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân và Ý. Tất cả nhân loại đang sống nhằm thỏa mãn sự
đòi hỏi của sáu căn đấy. Để thỏa mãn sự đòi hỏi của mắt, cần phải có nhà đẹp,
phong cảnh đẹp, đi du lịch để nhìn ngắm các cảnh đẹp trên thế gian này... để
thỏa mãn ý, con người sáng tạo ra triết học, khoa học, văn học, âm nhạc, những
điều kỳ diệu cao cả, linh thiêng và ngay cả các tôn giáo. Để có được các vật
chất, tinh thần để thỏa mãn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, thì không biết bao
nhiêu cay đắng, sầu, bi, khổ, ưu não sẽ khởi lên. Sự thật này chỉ rõ hạnh phúc
là một đầu của gánh nặng và cuộc sống thế gian là một vòng luẩn quẩn không
bao giờ thoát được khổ.

- Hình ảnh thứ ba là tên cướp khổng lồ với ngọn giáo dài trong tay là để chỉ
cho Tham và Dục. Khi có một đối tượng dễ chịu và thích thú, yêu thích khởi
lên, điều này gọi là Tham, và khi có yêu thích thì muốn có được đối tượng đó,
đây gọi là Dục, nôm na là ham muốn. Chính Tham và Dục đang truy đuổi con
người.

- Hình ảnh thứ tư là căn nhà trống rỗng không có chỗ ẩn nấp, chỉ cho thế gian
này cho dù ở trên trời, dưới biển, giữa sa mạc hoang vắng hay phố thị phồn
hoa, không có một nơi chốn nào con người có thể thoát ra khỏi khổ.

Sự thật này là một chủ đề chính, nổi bật xuyên suốt toàn bộ kinh điển mà Đức
Phật đã thuyết giảng "Các dục, hạnh phúc, niềm vui, lạc thú vui ít, khổ nhiều, não
nhiều mà nguy hiểm lại càng nhiều hơn.

3. Kết Luận

Nhận thức của mục đích cuộc sống là tìm kiếm, mong cầu và tận hưởng hạnh
phúc là nhận thức không đúng sự thật, đây là một vọng tượng hay ảo tưởng. Do
vậy dù có thành đạt bao nhiêu về vật chất hay tinh thần thì con người cũng
không thể đạt đến cái đích hạnh phúc đó. Mỗi lần thành đạt được mong ước
hay mơ ước này hay mơ ước kia cứ ngỡ mình đã đến đích rồi, nhưng một mơ
ước mới phát sinh và cái đích lại lùi xa như cũ. Nhận thức niềm vui, hạnh phúc,
lạc thú chỉ là phương tiện để đạt đến mục đích của cuộc đời là hết khổ, nhưng
sự thực cuộc đời cũng phơi bày một điều hiển nhiên là phương tiện đó không
thể đưa con người đạt được mục đích hết khổ mà chỉ quanh quẩn nơi khổ mà
thôi. Không một ai trên trái đất nay cho dù đạt được niềm vui hạnh phúc về vật
chất lẫn tinh thần nhiều đến đâu cũng không hết được khổ. Điển hình như Elvis
Presly, vua nhạc Rock, thành đạt về danh tiếng, tiền bạc một cách không khó
khăn mà trước khi từ giã cõi đời ông đã hát bài hát cuối cùng, bài hát đã làm
cho người hâm mộ không cầm được nước mắt bởi điệp khúc "Sao Thất Vọng
Cứ Đến Khi Ta Mãi Đi Tìm". Đây chính là lời tự bạch của ông: Mãi đi tìm
hạnh phúc nhưng đau khổ cứ đến, vẫn cứ tồn tại. Đây là một sự thật đáng sợ.
Sau khi nghe điều này rất nhiều người đã công nhận đó là một sự thật đáng
kinh hãi, nhưng thay vì hỏi "Vậy có một phương tiện nào, một con đường nào
có thể hoàn toàn chấm dứt khổ không?" họ lại thốt lên "Ồ mọi người đều như
vậy cả thì ta cũng thế thôi".

Đức Phật sau khi đoạn tận khổ, Ngài giảng dạy lại kinh nghiệm của Ngài.
Những người tin hiểu và thực hành theo lời dạy của Ngài đều đạt đế sự chấm
dứt khổ được gọi là các vị A La Hán. Các bậc thánh này khi đã đạt đến mục
đích của cuộc đời là hết khổ, các vị đều thốt lên "Sanh đã tận, phạm hạnh đã
thành, những việc cần làm đã làm xong, không còn trở lại cuộc đời này nữa".
Chỉ các vị giác ngộ mới thấy như thực: Mục đích của cuộc sống là chấm dứt
khổ, vậy đây là đích đến có thực của con người, những ai đã đến đích đều tự
thấy tự biết như vậy. Khi hết khổ là không còn ham thích, luyến ái, ràng buộc
với bất cứ niềm vui, hạnh phúc, lạc thú vật chất hay tinh thần nào nữa. Với
những vị đó ăn như thế nào cũng được, ở như thế nào cũng được... Chỉ còn lại
những nhu cầu tối thiểu để sống cho hết tuổi thọ mà thôi.

Về mục lục

Bài 019: HIỂU LẦM VỀ TỨ THÁNH ĐẾ

Tứ Thánh Đế là Bốn Chân Lý hay Bốn Sự Thật có tính phổ quát mà Bậc Thánh
đã Giác Ngộ. Bốn Sự Thật đó thuộc về Hai Thực Tại. KHỔ ĐẾ và TẬP ĐẾ
thuộc về thực tại Thế Gian của Phàm phu còn DIỆT ĐẾ và ĐẠO ĐẾ thuộc về
thực tại Xuất Thế Gian của bậc Thánh.

I - THỰC TẠI THẾ GIAN

Thực tại thế gian của Phàm phu là pháp Duyên Khởi, do duyên Sáu Căn và Sáu
Trần tiếp xúc mà phát sanh theo lộ trình Bát Tà Đạo. Trong Thực Tại Thế Gian
có VÔ MINH, có THAM SÂN SI, có RÀNG BUỘC, có SẦU BI KHỔ ƯU
NÃO, SINH GIÀ BỆNH CHẾT. Có thể diễn tả Thực Tại Thế Gian bằng một
lộ trình đơn giản: XÚC - THỌ - ÁI - THỦ - HỮU. Khi đang ở trong Thực Tại
Thế Gian, bị VÔ MINH che đậy nên kẻ Phàm phu không thể Thấy Biết Như
Thật về KHỔ, không thể Thấy Biết Như Thật về THAM SÂN SI là Nguyên
Nhân Khổ nên không thể Giác Ngộ KHỔ ĐẾ và TẬP ĐẾ. Bậc Thánh với
Minh, với Trí Tuệ đã Giác Ngộ SỰ THẬT PHỔ QUÁT là Thực Tại Thế Gian
có KHỔ và có THAM SÂN SI là Nguyên nhân Khổ. Vì vậy, có quan điểm chủ
trương rằng, sống trong Thực Tại Thế Gian, chỉ cần quan sát, Ghi Nhận Tâm
có Tham, có Sân, có Si thì Tham Sân Si sẽ diệt và sống trọn vẹn với sự quan
sát, Ghi nhận như vậy là HẾT KHỔ; SỰ KIỆN NHƯ VẬY KHÔNG THỂ
XẢY RA. Vì rằng dù có biết Tham Sân Si có mặt hay không biết Tham Sân Si
có mặt, thì TỰ TÁNH của Tham Sân Si là Vô thường, sinh diệt nên Tham Sân
Si đó sẽ diệt. Nhưng rồi theo Tự Tánh của Bát Tà Đạo một Tham Sân Si khác
sẽ khởi lên và Khổ lại khởi lên. Quá trình sẽ tiếp diễn như thế mãi và cái Thực
Tại Thế Gian sinh diệt đó luôn luôn có mặt THAM SÂN SI, luôn luôn có mặt
KHỔ, không thể có KHỔ DIỆT, NIẾT BÀN, không thể có GIẢI THOÁT
KHỔ. Lại có quan điểm chủ trương rằng, thực hành là để sửa đổi cái Thực Tại
Thế Gian đó, bằng Chánh Niệm Quán Sát Tham Sân Si, mà không biết rằng hễ
có Tham Sân Si thì lúc đó chỉ có Tà Niệm, Tà Tư Duy, Tà Tri Kiến, Tà Định,
Tà Tinh Tấn, Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng, lấy đâu ra Chánh Niệm, Chánh
Tinh Tấn, Chánh Định, Chánh Tư Duy, Chánh Tri Kiến để mà Quán Sát, để mà
THẤY BIẾT NHƯ THẬT về Tham Sân Si, về Khổ. Hoặc có chủ trương
ĐỪNG TRỐN CHẠY, ĐỪNG CHỐI BỎ, HÃY CHẤP NHẬN cái Thực Tại
Thế Gian có Tham Sân Si, có Khổ đó mà hãy Chánh Niệm để SỐNG TRỌN
VẸN VỚI THỰC TẠI ĐÓ. Những chủ trương, quan điểm như vậy do hiểu biết
lệch lạc về Tứ Thánh Đế, mới chỉ đề cập tới KHỔ ĐẾ và TẬP ĐẾ nơi Thực
Tại Thế Gian mà không biết rằng Đức Phật không những đã chứng ngộ và
thuyết giảng về KHỔ ĐẾ và TẬP ĐẾ mà Ngài cũng đã chứng ngộ và thuyết
giảng về DIỆT ĐẾ và ĐẠO ĐẾ nơi Thực Tại Xuất Thế Gian.

II - THỰC TẠI XUẤT THẾ GIAN

Thực tại xuất thế gian của bậc Thánh Hữu học hay Vô học cũng là pháp Duyên
Khởi, do duyên Sáu Căn và Sáu Trần tiếp xúc mà khởi lên theo lộ trình Bát
Chánh Đạo. Trong Thực Tại Xuất Thế Gian không có VÔ MINH, không có
THAM SÂN SI, không có RÀNG BUỘC, không có KHỔ mà có KHÔNG GIẢI
THOÁT, VÔ TƯỚNG GIẢI THOÁT, VÔ TÁC GIẢI THOÁT. Có thể diễn tả
Thực Tại Xuất Thế bằng một lộ trình đơn giản: XÚC - THỌ - KHÔNG - VÔ
TƯỚNG - VÔ TÁC. Vì vậy, tu tập Bát Chánh Đạo là AN TRÚ THỰC TẠI
XUẤT THẾ GIAN với mục đích là Giác Ngộ DIỆT ĐẾ và ĐẠO ĐẾ, tức Giác
Ngộ KHỔ DIỆT và Giác Ngộ BÁT CHÁNH ĐẠO LÀ CON ĐƯỜNG KHỔ
DIỆT.

A - MỘT LÀ, tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế là để THẤU ĐẠT (Thấu Hiểu và
Đạt Được) KHỔ DIỆT hay NIẾT BÀN. Trong thời gian tu tập đúng, Thực Tại
Xuất Thế khởi lên theo lộ trình Bát Chánh Đạo, nên Thực Tại Thế Gian được
nhiếp phục, Bát Tà Đạo được nhiếp phục, không khởi lên, nên Chánh Tri Kiến
trên lộ trình Bát Chánh Đạo BIẾT RÕ KHÔNG CÓ THAM SÂN SI với các đối
tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức, vì vậy nên không
có bất kỳ một Phiền Não, không có bất kỳ một cái Khổ nào nữa. Đó chính là Tuệ
Tri KHỔ DIỆT hay Tuệ Tri NIẾT BÀN. Vì vậy, mục đích của Pháp Hành là để
THẤY HẾT KHỔ, THẤY KHỔ DIỆT. Quan điểm phổ biến hiện nay được tiếp
thu từ các Chú Giải là thực hành (Thiền Vipassana, Thiền Minh Sát) là để Thấy
được các pháp là VÔ THƯỜNG, KHỔ, VÔ NGÃ. Đây là quan điểm sai lạc, là
THỰC HÀNH ĐỂ THẤY KHỔ. Sự thực trần trụi đã được phơi bày là THỰC
HÀNH ĐỂ THẤY KHỔ DIỆT chứ không phải thực hành để thấy KHỔ. Sẽ có lý
luận biện hộ cho quan điểm sai trái này là THỰC HÀNH ĐỂ THẤY CÁC PHÁP
LÀ KHỔ mới "đưa đến" Nhàm chán, Ly tham các pháp. Sự thực là khi thực hành
Bát Chánh Đạo siêu thế thì KHỔ ĐÂU CÒN CÓ MẶT mà có thể thấy Khổ được
nữa, Ly Tham đã xảy ra trong hiện tại rồi đâu còn Tham Sân Si để mà thấy Tham
Sân Si, để mà "đưa đến" Ly tham nữa.

B - HAI LÀ, tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế là để THẤU ĐẠT (Thấu Hiểu và
Đạt Được) BÁT CHÁNH ĐẠO là CON ĐƯỜNG KHỔ DIỆT bao gồm tám chi
phần: Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - Chánh Tư Duy - Chánh
Tri Kiến - Chánh (ngữ, nghiệp, mạng) mà có ba chi phần căn bản, chính yếu cần
phải THẤU ĐẠT. Đó là Chánh Niệm - Chánh Định - Chánh Tri Kiến gọi tắt là
NIỆM - ĐỊNH - TUỆ.

a - NIỆM: Cần phải HIỂU THẤU và ĐẠT ĐƯỢC Tứ Niệm Xứ:

+ Niệm Thân: NHỚ ĐẾN CHÚ TÂM quán sát thân nơi thân với chánh niệm,
nhiệt tâm, tỉnh giác

+ Niệm Thọ: NHỚ ĐẾN CHÚ TÂM quán sát thọ nơi thọ với chánh niệm, nhiệt
tâm, tỉnh giác
+ Niệm Tâm: NHỚ ĐẾN CHÚ TÂM quán sát tâm nơi tâm với chánh niệm,
nhiệt tâm, tỉnh giác

+ Niệm Pháp: NHỚ ĐẾN CHÚ TÂM quán sát pháp nơi pháp với chánh niệm,
nhiệt tâm, tỉnh giác

b - ĐỊNH: Cần phải HIỂU THẤU và ĐẠT ĐƯỢC Tứ Thiền:

+ Sơ Thiền: Ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Sơ Thiền, một trạng thái hỷ
lạc do ly dục sanh với chú tâm có tầm có tứ.

+ Nhị Thiền: Diệt chú tâm có tầm có tứ, chứng và trú Nhị Thiền, một trạng thái
hỷ lạc do định sanh với chú tâm không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.

+ Tam Thiền: Ly hỷ trú xả, thân cảm lạc thọ mà bậc Thánh gọi là xả niệm lạc
trú, chứng và trú Tam Thiền

+ Tứ Thiền: Xả lạc xả khổ, diệt trừ hỷ ưu, chứng và trú Tứ Thiền, không lạc
không khổ, xả niệm thanh tịnh.

c - TUỆ: Cần phải HIỂU THẤU và ĐẠT ĐƯỢC Tứ Thánh Đế:

+ HIỂU THẤU hay Giác Ngộ KHỔ ĐẾ

+ HIỂU THẤU hay Giác Ngộ TẬP ĐẾ

+ HIỂU THẤU và ĐẠT ĐƯỢC DIỆT ĐẾ

+ HIỂU THẤU và ĐẠT ĐƯỢC ĐẠO ĐẾ

Đa phần người tu học hiểu được cần chứng ngộ và an trú KHỔ DIỆT hay NIẾT
BÀN mà chưa nhận thức đầy đủ là phải chứng ngộ và an trú cả BÁT CHÁNH
ĐẠO với ba yếu tố căn bản NIỆM - ĐỊNH - TUỆ thì mới Giác Ngộ Tứ Thánh
Đế.

Về mục lục
Bài 020: NIỆM - TƯ DUY - Ý THỨC

Trong đời sống nhân loại, khi xuất hiện một đối tượng (được thấy, được nghe,
được cảm nhận) thì cũng sẽ xuất hiện Hiểu Biết về đối tượng đó. Do Hiểu Biết
về đối tượng mà sẽ phát sinh Thái Độ với đối tượng. Do có Thái Độ với đối
tượng mà sẽ phát sinh Lời Nói, Hành Động đối với đối tượng. Và do Lời Nói,
Hành Động mà sẽ phát sinh Kết Quả là Khổ hay Vui. Đây là một lộ trình Duyên
Khởi hay lộ trình diễn tiến Nhân Quả nối tiếp nhau. Trong lộ trình Nhân Quả
này Thái Độ thích hay ghét đối tượng, Lời Nói, Hành Động với đối tượng và
Kết Quả Khổ hay Vui đều xuất phát từ HIỂU BIẾT đối tượng. Vì vậy khảo sát
để hiểu biết rốt ráo về HIỂU BIẾT đối tượng xảy ra theo tiến trình như thế nào
là điều hết sức quan trọng. Nếu không thấu đạt được lộ trình Duyên Khởi phát
sinh HIỂU BIẾT (mà Triết học gọi là Quá Trình Nhận Thức đối tượng) thì khó
mà thấu đạt lộ trình khởi lên Bát Tà Đạo, lộ trình tâm Phàm phu và như vậy khó
có thể Thấy Biết như thật KHỔ và NGUYÊN NHÂN KHỔ, và cũng khó mà
thấu đạt lộ trình khởi lên Bát Chánh Đạo, lộ trình tâm bậc Thánh và như vậy
khó có thể Thấy Biết Như Thật KHỔ DIỆT và CON ĐƯỜNG DIỆT KHỔ, khó
có thể Giác Ngộ TỨ THÁNH ĐẾ. Quá trình phát sinh Hiểu Biết đối tượng xảy
ra theo hai bước: NHẬN BIẾT đối tượng và HIỂU BIẾT đối tượng.

1 - NHẬN BIẾT đối tượng:

Khi ngủ say không mộng mị, không có các đối tượng (được thấy, được nghe,
được cảm nhận) xuất hiện và cũng không có Hiểu Biết đối tượng. Vì sao vậy?
Vì lúc đó tuy có Sáu Trần (Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp) nhưng Sáu Căn
(Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân Ý) không hoạt động, vì thế không có tiếp xúc, không
có tương tác giữa Căn và Trần. Khi thức tỉnh do có tiếp xúc, có tương tác giữa
Sáu Căn và Sáu Trần mới xuất hiện các đối tượng (hình ảnh, âm thanh, mùi
vị...) và xuất hiện Hiểu Biết đối tượng. Vì vậy các Đối Tượng và Hiểu Biết đối
tượng đều do duyên Xúc (giữa Căn Trần) mà phát sinh, mà xuất hiện. Khởi đầu
lộ trình này được diễn tả như sau:

- MẮT tiếp xúc SẮC phát sinh: Cảm Giác Hình Ảnh - Nhãn Thức

- TAI tiếp xúc ÂM THANH phát sinh: Cảm Giác Âm Thanh - Nhĩ Thức

- MŨI tiếp xúc MÙI phát sinh: Cảm Giác Mùi - Tỉ Thức

- LƯỠI tiếp xúc VỊ phát sinh: Cảm Giác Vị - Thiệt Thức

- THÂN tiếp xúc XÚC TRẦN phát sinh: Cảm Giác Xúc Chạm - Thân Thức

- Ý tiếp xúc PHÁP TRẦN phát sinh: Cảm Giác Pháp Trần - Tưởng (thức)

Trong đó Nhãn Thức thấy Cảm Giác Hình Ảnh, Nhĩ Thức nghe Cảm Giác Âm
Thanh, Tỉ Thức cảm nhận Cảm Giác Mùi, Thiệt Thức cảm nhận Cảm Giác Vị,
Thân Thức cảm nhận Cảm Giác Xúc Chạm và Tưởng Thức cảm nhận Cảm
Giác Pháp Trần. Sáu Thức này là cái biết Trực Tiếp Giác Quan có phận sự
NHẬN BIẾT đối tượng, đối tượng như thế nào thì nhận biết như thế đó chứ
không biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao. Hành vi này được Triết học,
Tâm lý học gọi là NHẬN THỨC CẢM TÍNH đối tượng mà Thánh hay Phàm,
người hay các loài động vật khác nhau đều tương tự nhau, sinh ra là có không
cần học hỏi. Lộ trình này viết gộp lại là: XÚC - Thọ (Cảm Giác) - Tưởng

2 - HIỂU BIẾT đối tượng:

Sau khi nhận biết đối tượng bởi cái biết Trực Tiếp Giác Quan cái gì sẽ khởi lên
tiếp theo? Ví như khi đưa một bông hồng lên trước mặt một đứa trẻ vừa sinh ra,
thì Mắt tiếp xúc Sắc trần đó phát sinh đối tượng là Cảm Giác Hình Ảnh đồng
thời phát sinh Nhãn thức thấy đối tượng, đứa trẻ thấy đối tượng, nhưng không
có Hiểu biết đối tượng đó là cái gì. Nhưng đối với người lớn thì sau khi thấy
đối tượng như đứa trẻ vừa sinh kia thì khởi lên hiểu biết: đối tượng đó là bông
hồng, màu đỏ, rất tuyệt... Hiểu Biết đối tượng là bông hồng, màu đỏ, rất tuyệt
chính là Ý THỨC. Lộ trình khởi lên Ý Thức như sau:
XÚC - (Thọ - Tưởng) - NIỆM - TƯ DUY - Ý THỨC

Để hình dung ra lộ trình này hãy quán sát hiện tượng qua thí dụ sau. Hãy quan
sát hoạt động của Camera giám sát giao thông. Khi có một phương tiện tham gia
giao thông (như một chiếc ô tô chẳng hạn) xuất hiện "tiếp xúc" với Camera, thì
trong màn hình của Camera xuất hiện Hình ảnh đối tượng. Tiếp đến thông tin về
Hình Ảnh đối tượng được truyền dẫn về Trung tâm xử lý. Tại Trung tâm xử lý
có lưu giữ rất nhiều thông tin đã được cài đặt: phân loại xe, tải trọng xe, chủ sở
hữu, các số đăng ký xe, các quy định vi phạm luật giao thông... và các thông tin
này được sắp xếp theo một thứ tự đã quy định. Khi thông tin Hình ảnh từ
Camera truyền đến thì Trung tâm sẽ xử lý thông tin bằng cách: Phân tích, so
sánh, đối chiếu thông tin Hình ảnh vừa được truyền đến với những thông tin
được lưu giữ theo thứ tự đã quy định trong bộ nhớ. Ví như đầu tiên so sánh đối
chiếu toàn bộ Hình ảnh với các hình ảnh lưu giữ và thấy giống với xe tải thì sẽ
Kết luận: đây là xe tải, tiếp đến so sánh đối chiếu để kết luận, biết trọng tải bao
nhiêu, đối chiếu hình ảnh biển số xe để biết chủ sở hữu xe, đối chiếu Hình ảnh
xe trên đường để biết vi phạm vượt đèn đỏ, đi sai phần đường... Hành vi: Phân
tích so sánh đối chiếu các thông tin Hình ảnh với các thông tin đã được cài đặt
này chính là TƯ DUY. Hành vi TƯ DUY sẽ đưa đến KẾT LUẬN xe đó loại gì,
trọng tải bao nhiêu, chủ sở hữu là ai, phạm những điều luật giao thông nào...
chính là Hiểu Biết đối tượng. Hiểu biết đó tương tự cái biết Ý THỨC. Sự sắp
xếp thông tin theo một thứ tự nào đó để thông tin dẫn vào "tương hợp" với thông
tin được cài đặt thì Tư Duy mới xảy ra được chính là NIỆM. Camera giao thông
hoạt động như vậy thay thế cho một cảnh sát giao thông, một con người thật vì
quá trình xảy ra trong nó bắt chước được y như con người. Tương tự như vậy,
khi Mắt tiếp xúc Bông hồng phát sinh Cảm Giác hình ảnh và Nhãn thức.

Nhãn thức thấy Cảm giác hình ảnh nhưng không biết đối tượng đó là cái gì.
Tiếp đến thông tin Hình ảnh được truyền vào thần kinh não bộ và tại đấy xảy ra
sự tiếp xúc giữa hai lượng thông tin: thông tin hình ảnh được dẫn vào và lượng
thông tin được lưu giữ trong kho chứa. Do XÚC này mà phát sinh NIỆM là
hành vi kích hoạt, chọn lựa ra loại thông tin tương tự là các loại Hình ảnh và
hiểu biết kèm theo. Tiếp theo sẽ xảy ra sự tiếp xúc (XÚC) giữa thông tin được
dẫn vào với thông tin do NIỆM chọn lựa, kích hoạt làm phát sinh TƯ DUY. Tư
Duy sẽ phân tích so sánh đối chiếu Hình ảnh vừa thấy với những Hình ảnh
được Niệm chọn lựa, kích hoạt. Tư duy như vậy sẽ đưa đến Kết Luận, biết đối
tượng đó là bông hồng, màu đỏ, rất tuyệt. Cái biết đó là Ý THỨC. Khi một
người nhắm mắt lại và được người khác cho vào miệng một miếng xoài chẳng
hạn. Lúc đó Lưỡi tiếp xúc Xoài phát sinh Cảm giác vị và Thiệt thức. Thiệt thức
cảm nhận Cảm giác vị nhưng không biết là vị gì. Tiếp đến thông tin về Cảm
giác vị đó được truyền dẫn vào thần kinh não bộ. Tại đó sẽ có tiếp xúc giữa
thông tin Cảm giác vị vừa cảm nhận với thông tin lưu giữ trong kho chứa. Do
XÚC như vậy nên phát sinh NIỆM, tìm kiếm kích hoạt loại thông tin tương tự
Cảm giác vị và hiểu biết liên quan. Tiếp đến sẽ xảy ra sự tiếp xúc giữa thông tin
Cảm giác vị vừa cảm nhận với những thông tin tương tự được NIỆM tìm kiếm
và kích hoạt. Do XÚC đó mà phát sinh TƯ DUY, phân tích, so sánh đối chiếu
thông tin vừa cảm nhận và thông tin do Niệm kích hoạt. Hành vi Tư Duy đó
đưa đến Kết luận, biết đối tượng đó là Vị xoài. Các đối tượng khác cũng tương
tự như vậy.

a - NIỆM: Là hành vi tìm kiếm, kích hoạt thông tin tương tự loại thông tin do
cái biết Trực Tiếp Giác Quan cảm nhận để Tư Duy sinh khởi lên. Tư duy sẽ
phân tích so sánh, đối chiếu hai loại thông tin đó. NIỆM tương tự như Google,
là công cụ dò tìm thông tin được lưu giữ trong các máy chủ. Vì trong "kho chứa
thông tin tri thức hiểu biết" có rất nhiều loại thông tin nên Tư Duy không thể
đối chiếu với tất cả thông tin trong kho chứa nên phải có Niệm để tìm kiếm
kích hoạt loại thông tin tương tự cho Tư Duy. Hành vi NIỆM trong tiếng Việt
gọi là NHỚ ĐẾN, tương đồng với TRÍ NHỚ và nó chỉ tìm kiếm, kích hoạt
được những thông tin nào nổi trội trong kho chứa thông tin, còn thông tin
không nổi trội hoặc chìm sâu trong kho chứa thì Niệm không kích hoạt được.
Ví như người mê thơ thì luôn Nhớ Đến thơ, người ham mê đá bóng thì luôn
Nhớ Đến bóng, người mê rượu thì luôn Nhớ Đến rượu... còn những kỷ niệm lúc
7 tuổi sau 50 năm đã chìm sâu trong kho chứa thì nhớ mãi không ra... Hành vi
NIỆM sẽ quyết định nội dung của Ý THỨC, nghĩa là NIỆM tìm kiếm, kích
hoạt được loại thông tin nào thì nội dung của Ý THỨC sẽ có nội dung đó. Ví
như một người Mỹ da trắng không ăn thịt chó theo truyền thống văn hoá của họ
thì trong kho chứa thông tin có thông tin: ăn thịt chó là đê tiện, là hạ liệt, đáng
ghê tởm. Người đó đi du lịch Việt nam để khám phá ẩm thực. Một người Việt
chơi khăm dẫn anh ta vào một nhà hàng thịt chó trang hoàng lộng lẫy, nguỵ
trang rất kỹ càng làm cho anh ta không biết đó là nhà hàng thịt chó. Khi thưởng
thức món ăn "Đặc sản" anh ta nức nở khen ngon. Vì sao vậy? Vì lúc đó: Lưỡi
tiếp xúc Thức Ăn phát sinh Cảm giác vị và Thiệt thức. Thiệt thức cảm nhận
Cảm giác vị, tiếp đến Niệm khởi lên, và Niệm lúc này chỉ kích hoạt thông tin về
Cảm giác vị ngon dở, vì vậy Tư Duy sẽ so sánh, đối chiếu Cảm giác vị vừa cảm
nhận với các Cảm giác vị ngon dở. Do Tư Duy như vậy, Ý thức khởi lên biết:
Thức ăn này ngon quá. Ăn xong dẹp bỏ nguỵ trang, thấy chó bị giết nằm ngổn
ngang và nhà hàng khẳng định thức ăn vừa ăn là thịt chó. Lúc này Ý tiếp xúc
với Pháp mới "tưởng lại" Cảm giác vị đó và Niệm khởi lên, kích hoạt thông tin:
ăn thịt chó là đê tiện, là hạ liệt, là ghê tởm và Tư Duy sẽ so sánh, đối chiếu Cảm
giác vị vừa "tưởng lại" với thông tin "ăn thịt chó là đê tiện, là hạ liệt, là ghê
tởm" đưa đến Ý thức biết Vị đó thật ghê tởm và có thể nôn oẹ tai chỗ. Trong thí
dụ vừa nêu do hai trường hợp NIỆM kích hoạt hai loại thông tin khác nhau nên
Ý THỨC sẽ có hai nội dung khác nhau. NIỆM có hai loại: CHÁNH NIỆM và
TÀ NIỆM.
- TÀ NIỆM phát sinh trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo của phàm phu, nội dung là
Nhớ Đến đủ các thứ chuyện thế gian, đặc biệt là kích hoạt các thông tin về
những hiểu biết Vô Minh như Tâm biết Cảnh, Thường kiến, Ngã kiến (cái
này là của Ta, là Ta, là bản ngã của Ta), Khổ Tập Diệt Đạo ở nơi ngoại cảnh.

- CHÁNH NIỆM phát sinh trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của bậc Thánh, nội
dung bao gồm: Nhớ Đến chú tâm quán sát thân nơi thân, Nhớ Đến chú tâm
quán sát thọ nơi thọ, Nhớ Đến chú tâm quán sát tâm nơi tâm, Nhớ Đến chú tâm
quán sát pháp nơi pháp. Chánh Niệm sẽ kích hoạt các thông tin về những hiểu
biết Minh như Lý Duyên Khởi, Vô thường, Vô ngã, về Khổ Tập Diệt Đạo
thuộc phạm trù tâm.

b - TƯ DUY: Ngoài hành vi phân tích, so sánh đối chiếu hai loại thông tin và
kết luận, hành vi Tư Duy còn có phán đoán, khái quát hoá và trừu tượng hoá
các kết luận. Vì vậy Hành vi Tư duy phản ánh sự Thông minh, Sáng tạo và Phát
minh tri thức mới. Khoa học thực nghiệm, Tâm lý học đã quan sát và hiểu được
hành vi Tư Duy mới sáng chế ra máy vi tính, bắt chước được hành vi Tư Duy
của con người. TƯ DUY có hai loại: TÀ TƯ DUY và CHÁNH TƯ DUY.

- TÀ TƯ DUY: Là hành vi Tư Duy xảy ra nơi lộ trình tâm Bát Tà Đạo của
phàm phu, là so sánh đối chiếu thông tin về đối tượng vừa Nhận Biết với thông
tin Vô Minh trong kho chứa được Tà Niệm kích hoạt.

- CHÁNH TƯ DUY: Là hành vi Tư Duy xảy ra trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo
của bậc Thánh hữu học và Vô học, là so sánh đối chiếu thông tin về đối tượng
vừa Nhận Biết với thông tin Minh đã được Văn tuệ và Tư tuệ lưu vào kho chứa
và được Chánh Niệm kích hoạt.

c - Ý THỨC: Là hiểu biết đối tượng đó là cái gì, nội dung tính chất ra sao. Nội
dung của Ý thức phụ thuộc vào NIỆM tìm kiếm kích hoạt được loại thông tin
nào trong kho chứa và vì vậy Ý Thức phụ thuộc vào những Tri Thức Hiểu Biết
đã học hỏi, kinh nghiệm trong quá khứ. Cái biết Trực Tiếp Giác Quan gồm
Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng thức là Nhận Biết
đối tượng khi nó hiện hữu, biết trực tiếp đối tượng trong hiện tại còn Ý Thức do
Niệm và Tư Duy khởi lên Biết gián tiếp đối tượng khi đối tượng đã diệt, nghĩa
là biết đối tượng trong quá khứ. Ý THỨC có hai loại: Ý Thức TÀ TRI KIẾN và
Ý Thức CHÁNH TRI KIẾN.

- Ý Thức TÀ TRI KIẾN phát sinh trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu,
là hiểu biết không đúng như thật về đối tượng, có nội dung Thường kiến, Ngã
kiến còn gọi là Vô Minh, Vọng Tưởng, Không Liễu Tri các pháp.

- Ý Thức CHÁNH TRI KIẾN phát sinh trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của
bậc Thánh Hữu học và Vô học, là hiểu biết đúng như thật đối tượng, có nội
dung Vô thường, Vô ngã còn gọi là Minh, Trí Tuệ, Liễu Tri các pháp.

Tóm lại: Lộ trình khởi lên Hiểu Biết hay như Triết học gọi là QUÁ TRÌNH
NHẬN THỨC gồm hai loại biết: Đó là cái biết Trực Tiếp Giác Quan nhận biết
đối tượng (gọi là Tưởng) và cái biết Ý thức hiểu biết về nội dung đối tượng mà
thuật ngữ Phật học gọi là Tưởng tri đối tượng và Thức tri đối tượng còn Triết học
và Tâm lý học hiên đại gọi là Nhận Thức Cảm Tính đối tượng và Nhận Thức Lý
Tính đối tượng. Và những điều này xảy ra theo lộ trình nhân quả nối tiếp nhau:

XÚC - (Thọ - Tưởng) - NIỆM - TƯ DUY - Ý THỨC.

3 - Lộ trình khởi lên Hiểu Biết của Phàm phu:

XÚC - (Thọ - Tưởng) - TÀ NIỆM - TÀ TƯ DUY - (Ý Thức) TÀ TRI KIẾN

Trong kho chứa tri thức hiểu biết đã được tích luỹ của Phàm phu có VÔ MINH
là những hiểu biết không đúng với Sự Thật. Đó là nhị nguyên Tâm Cảnh, cái
biết là Tâm và đối tượng được biết là Cảnh, là hiểu biết sai về Lý Duyên Khởi,
là Thường kiến, Ngã kiến với các tư tưởng: Cái này là của Ta, là Ta, là Bản ngã
của Ta, là hiểu biết sai về Khổ Tập Diệt Đạo, là bốn điên đảo Thường Lạc Ngã
Tịnh. Khi NIỆM khởi lên thì nó sẽ kích hoạt thông tin VÔ MINH nổi trội nhất
trong kho chứa nên NIỆM như vậy gọi là TÀ NIỆM. Do TÀ NIỆM nên TƯ
DUY khởi lên sẽ so sánh đối chiếu thông tin về đối tượng vừa Nhận Biết với
các thông tin VÔ MINH đó nên gọi là TÀ TƯ DUY. Do TÀ TƯ DUY như vậy
mà phát sinh Ý THỨC, hiểu biết Không Đúng Như Thật đối tượng và vì vậy Ý
Thức là TÀ TRI KIẾN.

Trong Ý Thức TÀ TRI KIẾN là hiểu biết sai sự thật nên còn gọi là VÔ MINH
này có hai phần: Chủ thể nhận thức và Đối tượng nhận thức. Nghĩa là có một
cái Ta, một Bản Ngã thường hằng là chủ nhân, chủ sở hữu của cái biết, của
nhận thức, của các pháp (mà Kinh nói đến là Ngã kiến, Ngã sở kiến, Ngã mạn
tuỳ miên) và Đối tượng được nhận thức là Thế giới ngoại cảnh Sắc Thanh
Hương Vị Xúc Pháp được xác định là Dễ chịu, Khó chịu hay Trung tính. Ý
thức TÀ TRI KIẾN như vậy là sai lạc, là Vô Minh vì các pháp là VÔ NGÃ nên
không tồn tại một cái Ta, một Bản Ngã nào như vậy và đối tượng được nhận
thức là các CẢM THỌ chứ không phải Thế giới ngoại cảnh Sắc Thanh Hương
Vị Xúc Pháp.

Do Ý thức hiểu biết về đối tượng là VÔ MINH như vậy mà sẽ phát sinh Thái
Độ THAM SÂN SI, và do Thái độ Tham Sân Si mà phát sinh Lời Nói, Hành
Động TÀ NGỮ, TÀ NGHIỆP, TÀ MẠNG và do Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng
mà phát sinh Kết Quả SẦU BI KHỔ ƯU NÃO.

4 - Lộ trình khởi lên Hiểu Biết của bậc Thánh như sau:

XÚC - (Thọ - Tưởng) - CHÁNH NIỆM - CHÁNH TƯ DUY - (Ý Thức) CHÁNH


TRI KIẾN

Trong kho chứa tri thức hiểu biết của một vị đã được nghe giảng, và tư duy về
những điều đó mà có được hiểu biết đúng như thật về Lý Duyên Khởi, về Vô
thường, Vô ngã, về Khổ Tập Diệt Đạo được lưu vào kho chứa với tên gọi là
MINH. Và như vậy, trong kho chứa vị hữu học đồng thời có hai loại thông tin:
MINH và VÔ MINH. Khi vị hữu học tu tập Bát Chánh Đạo thì NIỆM khởi lên,
sẽ kích hoạt thông tin MINH chứ không kích hoạt thông tin VÔ MINH nên
NIỆM như vậy gọi là CHÁNH NIỆM. Do có CHÁNH NIỆM mà TƯ DUY
khởi lên sẽ so sánh đối chiếu thông tin về đối tượng vừa Nhận Biết với những
thông tin đúng sự thật MINH nên TƯ DUY như vậy gọi là CHÁNH TƯ DUY.
Do có CHÁNH TƯ DUY như vậy mà phát sinh Ý thức, hiểu biết đúng như thật
về đối tượng (không còn nhị nguyên Tâm Cảnh) và được gọi là CHÁNH TRI
KIẾN. Do Hiểu Biết là CHÁNH TRI KIẾN, là MINH mà sẽ không còn phát
sinh Thái Độ THAM SÂN SI, không còn Lời Nói, Hành Động TÀ NGỮ, TÀ
NGHIỆP, TÀ MẠNG, không còn SẦU BI KHỔ ƯU NÃO.

5 - KẾT LUẬN:

Phải nhận thức sâu sắc, rốt ráo rằng: Cái quan trọng nhất cần phải tu tập là Trí
Tuệ, là Minh chính là Chánh Tri Kiến trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo. Khi
Chánh Tri Kiến được tu tập, được làm cho viên mãn thì thông tin MINH mới
xoá bỏ được thông tin VÔ MINH được lưu giữ trong kho chứa tri thức hiểu biết
và lúc đó Vô Minh, Tham Sân Si, Sầu Bi Khổ Ưu Não mới được đoạn tận. Đó
mới là Giải Thoát Tối Hậu. Để đạt được điều này phải thấu rõ theo công thức
Tứ Thánh Đế:

- Thấu triệt được VÔ MINH, thấu triệt được nội dung VÔ MINH là hiểu biết sai
lạc đối tượng. Đây là Thấy Biết như thật Vô Minh.

- Sự tập khởi của VÔ MINH hay Nguyên nhân khởi lên VÔ MINH là do: TÀ
NIỆM - TÀ TƯ DUY - Ý thức TÀ TRI KIẾN (Vô Minh). Đây là Thấy Biết
như thật Nguyên Nhân Vô Minh.

- Sự chấm dứt VÔ MINH là khi MINH, Ý thức CHÁNH TRI KIẾN khởi
lên. Đây là Thấy Biết như thật Sự chấm dứt Vô Minh.
- Con đường chấm dứt VÔ MINH là Bát Chánh Đạo mà cụ thể là các chi phần:
CHÁNH NIỆM - CHÁNH TƯ DUY - Ý thức CHÁNH TRI KIẾN. Đây là Thấy
Biết như thật Con đường chấm dứt Vô Minh.

Về mục lục

Bài 021: LIỄU TRI CÁC PHÁP

Trong bản kinh Pháp Môn Căn Bản, bản kinh xếp số 1 trong 152 bản kinh
thuộc Trung Bộ Kinh, Đức Phật đã chỉ rõ đối tượng tu học là THẤY và BIẾT.
Cụ thể là tu học với Văn - Tư - Tu để nhiếp phục và đoạn tận THẤY và BIẾT
của Phàm phu (Tưởng Tri và Không Liễu Tri đối tượng), chứng ngộ và an trú
THẤY và BIẾT của bậc Thánh (Thắng Tri và Liễu Tri đối tượng).

Và thế nào gọi là Liễu Tri đối tượng hay Liễu Tri các pháp? Liễu Tri các pháp
là HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT về BỐN KHÍA CẠNH hay bốn nội dung bao
gồm:

1 - Hiểu biết đúng sự thật về nội dung của pháp đó.

2 - Hiểu biết đúng sự thật về tập khởi pháp đó (do nhân gì, duyên gì mà sinh khởi
lên pháp đó)

3 - Hiểu biết đúng sự thật về đoạn diệt pháp đó.

4 - Hiểu biết đúng sự thật về con đường đoạn diệt pháp đó.

Không những Liễu Tri Khổ theo bốn khía cạnh hay bốn nội dung trên (mà thực
chất là BỐN SỰ THẬT hay Bốn Chân Lý mà bậc Thánh đã giác ngộ gọi là Tứ
Thánh Đế) mà còn phải Liễu Tri tất cả các pháp như: to nhỏ, vuông tròn dài
ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng mềm thô mịn, hạnh phúc,
khổ đau, đàn ông, đàn bà, xe cộ, nhà cửa, cây cối, núi rừng, thời gian, không
gian, sum la vạn tượng... mắt tai mũi lưỡi thân ý, sắc thanh hương vị xúc pháp,
sắc thọ tưởng hành thức, xúc thọ tưởng tà niệm, tà tư duy, tà tri kiến, tham sân
si, tà định, dục, tà tinh tấn, phi như lý tác ý, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, chánh
niệm, chánh tinh tấn, chánh định, chánh tư duy, chánh tri kiến, như lý tác ý,
chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng... Ví như các pháp Mặn, Ngọt, Tà Niệm,
Chánh Niệm đều phải Liễu Tri theo bốn nội dụng đó: Hiểu biết đúng sự thật về
Mặn, Ngọt, Tà Niệm, Chánh Niệm - Hiểu biết đúng sự thật về tập khởi lên Mặn,
Ngọt, Tà Niệm, Chánh Niệm - Hiểu biết đúng sự thật về đoạn diệt Mặn, Ngọt,
Tà Niệm, Chánh Niệm - Hiểu biết đúng sự thật về con đường đoạn diệt Mặn
Ngọt, Tà Niệm, Chánh Niệm (Bát Chánh Đạo).

Phàm phu Thấy, Nghe, Cảm nhận (gọi tắt là THẤY) các pháp thuộc về Thế
gian, sống với các pháp đó nhưng HIỂU BIẾT SAI SỰ THẬT về các pháp đó,
nên gọi là Không Liễu Tri hay Vô Minh về các pháp. Do Không Liễu Tri các
pháp mà có Dục Hỷ và chính Dục Hỷ là căn bản của Khổ. Bậc Thánh vẫn Thấy,
Nghe, Cảm nhận các pháp thuộc về Thế gian và Xuất Thế gian (Siêu thế) nhưng
HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT THEO BỐN KHÍA CẠNH TRÊN nên gọi là
Liễu Tri các pháp, Giác Ngộ các pháp. Do Liễu Tri các pháp nên không có Dục
Hỷ, vì vậy không có Khổ. Chính vì nguyên lý trên mà phải tu học cái GỐC là
THẤY và BIẾT chứ không phải tu học cái NGỌN là kiềm chế, kiểm soát LỜI
NÓI, HÀNH ĐỘNG. Nếu tu học mà thay đổi được THẤY BIẾT từ Không Liễu
Tri, Vô Minh sang thành Liễu Tri, Minh thì đương nhiên lời nói, hành động sẽ
thay đổi tương ứng, không cần phải kiểm soát, ức chế, không cần phải diệt trừ
tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng mà tự nó biến mất. Ví như muốn diệt trừ lá của một
cái cây mà lại lại đi bứt lá tỉa cành, thì bứt được lá này nó lại mọc lên lá khác,
còn nếu đào gốc rễ của cây lên thì lá tự diệt đâu còn phải bứt lá tỉa cành. Người
xưa có câu: "Phăng rễ đứt đi, lòi Dấu Phật. Chặt lá tỉa cành, ta chẳng ưng".

Về mục lục

Bài 022: HIỂU ĐÚNG VÀ HIỂU SAI VỀ CHÁNH NIỆM


Chánh Niệm là một từ không những được giới Phật tử sử dụng thường xuyên
mà những người hành thiền trong nhiều trường phái khác nhau cũng đang sử
dụng đến. Tuy nhiên đại đa số người tu đều hiểu sai về Chánh Niệm, không
thực hành được Chánh Niệm, vì vậy không kinh nghiệm được Chánh Định và
Chánh Kiến khởi lên theo tiến trình Niệm - Định - Tuệ mà Đức Thế Tôn đã
khéo léo thuyết giảng. Để phân biệt được thế nào là HIỂU ĐÚNG (gọi là Trí
Tuệ), thế nào là HIỂU SAI (gọi là Vô Minh) về Chánh Niệm thì phải có sự hiểu
biết đúng về Niệm và trong đó Niệm có hai loại: Chánh Niệm và Tà Niệm.

1 - NIỆM:

Niệm là một từ Hán Việt xuất hiện khi phiên dịch kinh điển Phật giáo từ tiếng
Ấn Độ qua tiếng Trung Hoa, là ngôn từ nhằm trỏ đến một tâm hành hay một
hành vi rất vi tế thuộc phạm trù tâm. Vì nó là một thuật ngữ thuần tuý Phật giáo,
không được dùng trong tâm lý học, trong khoa học và đời sống thường ngày nên
đa phần người học Phật không biết nó là cái gì, đang xảy ra như thế nào trong
cuộc sống thường ngày. Tuy thế trong các bộ kinh Nikaya đã ít nhất một lần
nhắc đến: "Niệm là nhớ lại được những gì đã học từ trước". Định nghĩa đó đã
khẳng định Niệm chính là Trí Nhớ, là Nhớ Đến điều đã học, đã tích luỹ, và như
vậy Niệm là Trí nhớ, là từ được dùng trong cuộc sống hàng ngày, trong khoa
học, trong tâm lý học của người Việt. Để hiểu rõ Niệm hay Trí Nhớ phát sinh và
hoạt động như thế nào phải quan sát, phải tuệ tri Sáu Xúc Xứ, tức Sáu Căn tiếp
xúc Sáu Trần khởi lên lộ trình tâm như thế nào. Khi Căn Trần tiếp xúc phát sinh
đồng thời sáu Cảm Giác (Cảm Thọ) và sáu Tâm Biết trực tiếp giác quan có phận
sự Ghi Nhận hay Nhận Biết sáu Cảm Giác đó. Viết tắt lộ trình là:

XÚC <Thọ - Tưởng>

Ví như Mắt tiếp xúc Sắc trần sẽ phát sinh: Thọ là Cảm giác hình ảnh và Tưởng
là Nhãn thức Thấy Cảm giác hình ảnh đó. Lưỡi tiếp xúc Vị trần (thức ăn) phát
sinh: Thọ là Cảm giác vị và Tưởng là Thiệt thức cảm nhận Cảm giác vị đó...
- Tưởng là tâm biết trực tiếp giác quan gồm Nhãn thức thấy Cảm giác hình ảnh,
Nhĩ thức nghe Cảm giác âm thanh, Tỷ thức cảm nhận Cảm giác mùi, Thiệt thức
cảm nhận Cảm giác vị, Thân thức cảm nhận Cảm giác xúc chạm và Tưởng thức
ghi nhận Cảm giác pháp trần. Đây là Tâm Biết vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt
mà Thánh Phàm, người và động vật đều có như nhau, phát sinh khi Sáu Căn tiếp
xúc Sáu Trần, không phụ thuộc vào tri thức kinh nghiệm đã tích luỹ từ quá khứ
của mỗi cá thể. Khoa Tâm lý học gọi Tâm biết trực tiếp giác quan này là Nhận
thức cảm tính đối tượng và tâm biết này chỉ Ghi nhận hay Nhận biết đối tượng
mà không phân biệt, không biết đối tượng là cái gì, tính chất ra sao. Hình dung
tâm biết này qua một đứa trẻ vừa đẻ ra khi sáu Căn của nó tiếp xúc Sáu Trần, nó
vẫn thấy, nghe, cảm nhận các đối tượng (chính là tâm biết trực tiếp giác quan
đó) nhưng nó không biết các đối tượng đó là cái gì, to hay nhỏ, đẹp hay xấu,
mặn hay ngọt, người hay vật...

- Tâm biết Ý thức: Sau khi tâm biết trực tiếp (Tưởng) ghi nhận đối tượng thì
tâm biết Ý thức khởi lên để biết đối tượng vừa thấy, nghe, cảm nhận đó là
cái gì, tính chất ra sao. Tâm biết Ý thức sẽ khởi lên theo lộ trình:

XÚC Thọ - Tưởng Niệm Tư Duy Ý Thức

Ví như một người mù, khi Tay tiếp xúc với các tờ tiền giấy 1000 đồng, 2000
đồng, 5000 đồng... và được người sáng mắt dạy cho đó là 1000 đồng, 2000
đồng, 5000 đồng... thì người mù ghi nhớ lấy các Cảm giác xúc chạm ứng với
mỗi tờ tiền giấy. Hành vi học hỏi, ghi nhớ này sẽ lưu các thông tin về Cảm giác
cùng hiểu biết về các Cảm giác đó (cảm giác đó ứng với tờ tiền mấy ngàn đồng)
vào trong các "ngăn kéo" của kho chứa thông tin. Và bây giờ, Tay người mù
tiếp xúc Tờ tiền giấy thì xảy ra XÚC Thọ - Tưởng, tức phát sinh một Cảm
giác xúc chạm và phát sinh tâm biết Thân thức cảm nhận Cảm giác xúc chạm
đó. Thân thức chỉ ghi nhận Cảm giác mà không biết đó là cái gì. Tiếp đến, Niệm
hay Trí Nhớ sẽ tìm kiếm và kích hoạt các thông tin về Cảm giác xúc chạm trong
các "ngăn kéo" đã được học hỏi trước đây. Tiếp đến Tư Duy khởi lên sẽ phân
tích, so sánh đối chiếu Cảm giác xúc chạm vừa mới phát sinh với Các Cảm giác
xúc chạm trong quá khứ đã được học hỏi được lưu trong các "ngăn kéo" và
được Niệm kích hoạt lên. Do Tư Duy như vậy mà sẽ phát sinh Kết luận, đó là tờ
tiền giấy mấy ngàn. Kết luận đó chính là tâm biết Ý thức, biết về đối tượng. Các
Căn Trần khác cũng phải quan sát tương tự như vậy.

Tâm biết Ý thức có phận sự biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao nên các
nội dung này phụ thuộc vào những tri thức kinh nghiệm, hiểu biết đã học hỏi
tích luỹ từ quá khứ và hoàn toàn phụ thuộc Niệm tìm kiếm kích hoạt. Trong kho
chứa "tri thức, hiểu biết, kinh nghiệm" từ quá khứ có vô lượng thông tin được
chứa trong các "ngăn kéo" theo từng loại cảm giác mà nếu không có Niệm thì
Tư Duy không thể đối chiếu hết Cảm giác vừa phát sinh với tất cả mọi cảm giác
được lưu giữ trong kho chứa, vì vậy Niệm có phận sự tìm kiếm, kích hoạt một
loại thông tin tương ứng để Tư Duy so sánh đối chiếu. Ngày nay Google là công
cụ tìm kiếm có phận sự như Niệm, nghĩa là Google tìm kiếm thông tin cần tìm
trong lượng thông tin khổng lồ chứa trong các máy chủ. Trong cuộc sống
thường ngày nói Tưởng Niệm tức cũng là Tưởng Nhớ đến, hay dùng cách niệm
thầm một từ gì đấy là cách nhắc nhở làm cho Niệm khởi lên, Nhớ đến vấn đề
đó.

Vì chưa hiểu biết tường tận lộ trình Niệm Tư Duy Ý Thức, không hiểu rõ
được nội dung của tâm biết Ý thức mang nội dung do Niệm tìm kiếm, kích hoạt
nên đa phần HIỂU LẦM cho rằng Niệm là Tâm biết ý thức. Đặc biệt trong Phật
giáo đa phần hiểu Chánh Niệm là Biết đối tượng như chúng đang là và đó chính
là HIỂU LẦM Chánh Niệm với Tâm biết Ý thức Chánh Kiến. Phải hiểu rằng
Niệm hay Trí nhớ là một Danh pháp thuộc phạm trù tâm nhưng không phải là
Tâm Biết, tuy Tâm Biết cũng là một Danh pháp thuộc phạm trù tâm nhưng Tâm
Biết chính là Thức bao gồm nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức,
tưởng thức và ý thức.

XÚC Thọ - Tưởng xảy ra nơi các giác quan còn Niệm Tư Duy Ý Thức
xảy ra do Ý tiếp xúc Pháp trần nơi tế bào thần kinh não bộ, vì vậy Niệm hay Trí
nhớ phụ thuộc vào cả lượng thông tin Pháp trần (loại thông tin nào nổi trội
Niệm sẽ dễ tìm kiếm kích hoạt) và chất lượng của tế bào thần kinh não bộ (trí
nhớ phụ thuộc vào độ tuổi, phụ thuộc vào sự lão hoá của tế bào não). Chính vì
vậy Niệm hay Trí nhớ của các cá nhân sẽ khác nhau tuỳ thuộc cả Danh và Sắc
của mỗi người.

Hiểu biết như thế nào sẽ sống như thế đó, nghĩa là tâm biết Ý thức biết đối
tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận như thế nào thì sẽ có thái độ, ý
muốn rồi phát sinh lời nói, hành động và kết quả khổ vui như thế ấy. Nhưng nội
dung tâm biết Ý thức lại phụ thuộc vào Niệm, vào Trí nhớ nên Niệm hay Trí
nhớ là một tâm hành cực kỳ quan trọng đối với lộ trình tâm của cả Thánh và
Phàm. Niệm được phân làm hai loại: Tà niệm (Trí nhớ tà) và Chánh niệm (Trí
nhớ chánh).

2 - TÀ NIỆM hay TRÍ NHỚ TÀ:

Trong kho chứa thông tin các tri thức, hiểu biết, kinh nghiệm của Phàm phu có
lượng thông tin Vô Minh, Chấp Ngã đã được tích tập, lưu giữ từ vô thuỷ và sau
một lần chết đi và tái sanh lại thì lượng thông tin Vô minh, Chấp ngã này lại
truyền từ kho chứa người chết vào kho chứa của người tái sanh. Trong đó Vô
minh là hiểu biết sai sự thật về tất cả các sự vật, hiện tượng (không liễu tri các
pháp), đặc biệt là hiểu sai về Khổ Tập Diệt Đạo. Vô minh với nguyên lý TÂM
BIẾT CẢNH cho rằng những đối tượng được thấy, nghe, cảm nhận là Thế giới
ngoại cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần nên Khổ Tập Diệt Đạo tồn tại
nơi Thế giới ngoại cảnh. Khổ và Nguyên nhân Khổ có mặt nơi các đối tượng khó
chịu và trung tính, Hạnh phúc tức Chấm dứt Khổ có mặt nơi các đối tượng dễ
chịu và Con đường chấm dứt Khổ là thay đổi hoàn cảnh sống, thay đổi Thế giới
ngoại cảnh. Chấp ngã là tư tưởng cho rằng có một Cái Ta còn gọi là Bản Ngã
không sinh không diệt là Chủ nhân, Chủ sở hữu của Danh và Sắc (Tâm và Thân)
hay Bản Ngã là Chủ nhân, Chủ sở hữu của Năm nhóm Sắc Thọ Tưởng Hành
Thức hay như các tôn giáo khác hiểu Bản Ngã là Linh Hồn cư ngụ trong thân và
là chủ nhân, chủ sở hữu, điều khiển mọi hoạt động của thân tâm này. Hễ XÚC
Thọ - Tưởng khởi lên thì Niệm sẽ kích hoạt thông tin VÔ MINH CHẤP NGÃ đó
và Tư Duy sẽ phân tích, so sánh, đối chiếu với thông tin Vô minh chấp ngã được
Niệm kích hoạt và kết quả sẽ phát sinh tâm biết Ý THỨC CÓ NỘI DUNG VÔ
MINH CHẤP NGÃ. Lộ trình này được gọi là Tà:

XÚC Thọ - Tưởng Tà Niệm Tà Tư Duy Ý thức Tà Tri Kiến

Ý thức Tà Tri Kiến này có hai phần: Chủ thể biết và Đối tượng được biết chính
là BẢN NGÃ và THẾ GIỚI như kinh Phạm Võng thuộc Trường Bộ kinh đã đề
cập. Khi Ý thức Tà Tri Kiến xác định đối tượng đó là Dễ chịu thì cũng cho rằng
nó sẽ mang Hạnh phúc, sẽ chấm dứt Khổ cho Ta nên sẽ phát sinh hành vi Thích
thú đối tượng dễ chịu và gọi là Tham. Ý Thức Tà Tri Kiến xác định đối tượng
đó là Khó chịu thì cũng cho rằng nó sẽ mang đến Khổ cho Ta nên sẽ phát sinh
hành vi Chán ghét đối tượng khó chịu gọi là Sân. Khi Ý thức Tà Tri Kiến xác
định đối tượng đó là Trung tính thì cũng cho rằng đối tượng này không mang
lại Hạnh phúc, không chấm dứt Khổ cho Ta, mà chỉ đối tượng Dễ chịu mới
mang lại Hạnh phúc, mới chấm dứt Khổ cho Ta nên sẽ phát sinh HÀNH VI
TÌM KIẾM đối tượng Dễ chịu để THAY THẾ đối tượng Trung tính. Hành vi
đó gọi là Si:

XÚC Thọ - Tưởng Tà Niệm Tà Tư Duy Ý thức Tà Tri Kiến Tham


Sân Si ...

Và với Tham Sân Si sẽ phát sinh sự Dính mắc, Ràng buộc vào đối tượng. Do
Dính mắc, Ràng buộc mà phát sinh Sầu Bi Khổ Ưu Não Sinh Già Bệnh Chết
không thể kể xiết. Đó chính là lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu có Vô
minh, có Tham Sân Si, có Sầu Bi Khổ Ưu Não với khởi đầu là TÀ NIỆM hay
TRÍ NHỚ TÀ.

3 - CHÁNH NIỆM hay TRÍ NHỚ CHÁNH:

Một vị thanh văn đệ tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhờ nghe giảng hoặc
nghiên cứu kinh điển mà có được Văn Tuệ, tức hiểu biết đúng như thật các
pháp, liễu tri các pháp với nền tảng TÂM BIẾT TÂM, biết như thật các đối
tượng được thấy, nghe, cảm nhận là Cảm Giác hay Cảm Thọ do Căn Trần tiếp
xúc mà phát sanh, nó vô thường, vô chủ (vô ngã), có vị ngọt, sự nguy hiểm và
sự xuất ly như Đức Phật đã tuyên bố về sự giác ngộ của Ngài: Này các Tỷ
kheo, Như Lai nhờ như thật tuệ tri sự sinh diệt của thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm
và sự xuất ly của thọ mà Như Lai được giải thoát hoàn toàn không có chấp thủ.
Vị ấy biết như thật Khổ Tập Diệt Đạo thuộc về NỘI TÂM chứ không thuộc về
THẾ GIỚI ngoại cảnh, biết như thật Duyên khởi lên lộ trình tâm Bát Tà Đạo có
Vô minh, có Tham Sân Si, có Sầu Bi Khổ Ưu Não, biết như thật Duyên khởi
lên Con đường chấm dứt Khổ là lộ trình tâm Bát Chánh Đạo với NIỆM - ĐỊNH
- TUỆ, với Không giải thoát, Vô tướng giải thoát, Vô tác giải thoát. Những
thông tin về Văn Tuệ do nghe mà có được như vậy sẽ được lưu vào trong kho
chứa thông tin với tên gọi là Minh hay Trí Tuệ. Khi Căn Trần tiếp xúc, có XÚC
Thọ - Tưởng khởi lên và tiếp đến là Niệm khởi lên và nếu Niệm đó NHỚ
ĐẾN MINH, Nhớ đến điều đã học không còn Nhớ Đến Vô minh chấp ngã thì
Niệm đó là CHÁNH NIỆM. Và lộ trình tâm có Tà Niệm được thay thế bằng
Chánh Niệm:

XÚC Thọ - Tưởng Chánh Niệm Chánh Tinh Tấn Chánh Định (ỉnh
Giác) Chánh Tư Duy Chánh Kiến...

Sự tu tập Bát Chánh Đạo là tu tập Chánh Niệm, là LUYỆN TẬP TRÍ NHỚ
CHÁNH để nhớ được những điều đã học về Pháp mà Đức Thế Tôn đã khéo léo
thuyết giảng. Chánh Niệm được chia làm bốn loại để luyện tập cho dễ dàng và
đạt được hiệu quả.

a - NIỆM THÂN HAY CHÁNH NIỆM VỀ THÂN: Là NHỚ ĐẾN CHÚ TÂM
quán sát thân nơi thân, cụ thể là Nhớ Đến Chú Tâm quán sát các cảm giác nơi
thân. Lúc đó lộ trình tâm Bát Chánh Đạo sẽ khởi lên bao gồm:

XÚC Thọ - Tưởng Chánh Niệm Chánh Tinh Tấn Chánh Định (Tỉnh
Giác)

Nghĩa là khi XÚC Thọ - Tưởng khởi lên rồi Trí nhớ chánh khởi lên, Nhớ Đến
Chú Tâm các cảm giác nơi thân thì sẽ phát sinh Chánh Tinh Tấn và do Chánh
Tinh Tấn mà phát sinh sự CHÚ TÂM vào đối tượng. Sự CHÚ TÂM đó là
Chánh Định. Lộ trình tâm xảy ra với đối tượng chỉ có như vậy và trong lộ trình
tâm như vậy chỉ có Tâm biết trực tiếp Tưởng, chính là Thân thức Ghi nhận hay
Nhận biết đối tượng, Tâm biết Ý thức không khởi lên. Vì sao vậy? Vì lúc này
không có Tà Niệm nên lộ trình Tà Niệm Tà Tư Duy Ý thức Tà Tri Kiến
không khởi lên. Sự Ghi nhận hay Nhận biết đối tượng thuần tuý như vậy không
có Tâm biết Ý thức khởi lên gọi là TỈNH GIÁC. Đối tượng là Cảm giác trên
thân đó diệt đi thì lộ trình tâm đó cũng diệt nhưng tiếp đến một đối tượng khác
là một Cảm giác khác trên thân lại sinh lên và diệt đi và lộ trình tâm tương tự lại
phát sinh rồi lại diệt đi. Quá trình cứ diễn tiến liên tục như vậy. Khi Chánh
Niệm, Nhớ Đến Chú Tâm các cảm giác trên thân liên tục khởi lên thì sự Chú
Tâm (Chánh Định) cũng tự động liên tục xảy ra và Tâm biết Thân thức liên tục
khởi lên Ghi nhận các đối tượng. Không phải chỉ xảy ra với các cảm giác nơi
thân mà khi hành vi Chú Tâm liên tục xảy ra với các đối tượng trên thân thì các
đối tượng khác (cảm giác hình ảnh, âm thanh, mùi...) xảy ra đan xen vẫn được
thấy, nghe, cảm nhận bằng Tâm biết trực tiếp (Tưởng) mà Tâm biết Ý thức
không khởi lên. Lúc đó sẽ kinh nghiệm, sẽ chứng ngộ thuần tuý Tâm biết trực
tiếp Tưởng gọi là Tỉnh Giác có tánh chất VÔ NIỆM, VÔ NGÔN, VÔ PHÂN
BIỆT. Với tâm biết Tỉnh Giác như vậy sẽ không có Vô minh, không có Tham
Sân Si, không có Phiền não và giải thoát do tâm biết Tỉnh Giác khởi lên như
vậy gọi là Tâm Giải Thoát.

Để có thể chứng ngộ và an trú Tỉnh Giác, an trú Tâm Giải Thoát trong tọa thiền
và mọi tư thế của cuộc sống sinh hoạt hàng ngày phải luyện tập Niệm Thân tức
luyện tập Trí Nhớ để liên tục Nhớ Đến Chú Tâm các cảm giác nơi thân. Và để
cho Trí Nhớ, Nhớ đến chú tâm các cảm giác nơi thân liên tục khởi lên, liên tục
có mặt thì có một cách đơn giản và hiệu quả là liên tục niệm thầm “theo dõi,
theo dõi...” trong mọi lúc, mọi nơi. Hành vi niệm thầm “theo dõi, theo dõi...”
KHÔNG PHẢI LÀ CHÁNH NIỆM VỀ THÂN nhưng nó nhắc nhở, tạo nhân
duyên cho Chánh Niệm Về Thân khởi lên. Hãy thử nghiệm khi thiền hành,
bước đi một cách tự nhiên như nhiên và niệm thầm “theo dõi, theo dõi...” theo
nhịp bước chân và trải nghiệm xem nó xảy ra thế nào. Lúc đó Chánh Niệm, nhớ
đến chú tâm các cảm giác trên thân sẽ liên tục khởi lên và nhờ vậy mà CHÚ
TÂM sẽ TỰ ĐỘNG xảy ra. Chú tâm tự động xảy ra khi chân trái, phải chạm
đất, chuyển động của vai trái, vai phải, của tay... và chú tâm cả cảm giác hình
ảnh đường đi. Nhờ chú tâm như vậy mà Ghi nhận rõ ràng, minh bạch mọi cảm
giác trên thân với tâm biết thuần tuý Thân thức và gọi là Tỉnh Giác. Lúc đó tâm
trống không, rỗng lặng, vắng bặt mọi tư duy, mọi phiền não và kinh nghiệm
được lời dạy của Đức Phật trong bài kinh Thân Hành Niệm: “Nhờ thực hành
Thân Hành Niệm (Nhớ đến chú tâm lên thân) mà các Niệm Và Tư Duy Thế Tục
được đoạn trừ. Do các Niệm (Trí nhớ tà) và Tư duy thế tục được đoạn trừ nên
tâm được AN TRÚ, AN TOẠ, CHUYÊN NHẤT, ĐỊNH TĨNH.” Sau khi thử
nghiệm với thiền hành hãy mở rộng Niệm Thân bằng cách niệm thầm “theo dõi,
theo dõi...” trong mọi tư thế đi đứng nằm ngồi, khi đánh răng rửa mặt, lau nhà,
nấu ăn, rửa bát, ăn uống... để kinh nghiệm và an trú Tỉnh Giác, an trú Tâm giải
thoát.

b - NIỆM THỌ HAY CHÁNH NIỆM VỀ THỌ: Là NHỚ ĐẾN CHÚ TÂM quan
sát Thọ nơi Thọ, cụ thể là NHỚ ĐẾN CHÚ TÂM quan sát các đối tượng (được
thấy, nghe, cảm nhận) là CẢM GIÁC hay CẢM THỌ thuộc phàm trù tâm, các
đối tượng đó Là Tâm chứ không phải Là Cảnh. Nghĩa là khi thấy, nghe, cảm
nhận đối tượng, Trí nhớ chánh nhớ đến điều đã học (các đối tượng là cảm giác)
khởi lên, thì sẽ có sự chú tâm vào đối tượng và tiếp đó Chánh Tư Duy khởi lên sẽ
phân tích, so sánh, đối chiếu đối tượng đó với thông tin mà Chánh Niệm đã kích
hoạt. Do có Chánh Tư Duy như vậy mà sẽ phát sinh Ý thức Chánh Tri Kiến biết
như thật, đối tượng đó là Cảm thọ, là tâm chứ không phải cảnh. Lộ trình xảy ra
như sau:

XÚC Thọ - Tưởng Chánh Niệm Chánh Tinh Tấn Chánh Định (Tỉnh
Giác) Chánh Tư Duy Ý thức Chánh Tri Kiến

Khi ý thức Chánh Tri Kiến biết như thật đối tượng đó là CẢM THỌ gọi tắt là
THỌ (hình ảnh, âm thanh, mùi, vị, xúc chạm, pháp trần) thì đó là Minh, là Trí
Tuệ. Lúc đó ý thức Tà Tri Kiến với Vô minh, Chấp ngã bị nhiếp phục nên người
tu sẽ kinh nghiệm được lộ trình tâm chỉ dừng lại Biết Như Thật đối tượng đó là
Thọ, không có diễn tiến gì thêm nữa. Với tâm biết ý thức Chánh Tri Kiến như
vậy sẽ biết như thật ngay liền, không yêu thích, không chán ghét, độc lập không
ràng buộc, giải thoát không hệ luỵ với đối tượng. Giải thoát do Chánh Tri Kiến
khởi lên như vậy gọi là Tuệ Giải Thoát. Lúc khởi đầu thực hành người tu phải
niệm thầm “thọ, thọ, thọ...” để nhắc nhở, tạo duyên cho Chánh Niệm khởi lên
nhưng khi Ý thức Chánh Tri Kiến đã khởi lên thì chính Chánh Tri Kiến của lộ
trình tâm trước lại là nhân duyên cho Chánh Niệm ở lộ trình tâm sau sinh khởi.
Đề mục này tôi xếp vào Niệm Thọ nhưng cũng có thể xếp nó vào Niệm Tâm tuỳ
theo sự phân chia của mỗi người.

c - NIỆM TÂM HAY CHÁNH NIỆM VỀ TÂM: Là nhớ đến chú tâm quán sát
tâm đang xảy ra để hiểu biết đúng như thật về tâm. Đây chính là LUYỆN TẬP
TRÍ NHỚ CHÁNH để nhớ được những điều đã học, những lời Phật dạy về tâm.
Có nhiều điều cần phải luyện tập trí nhớ chánh để khi nó xuất hiện thì nhờ
Chánh Niệm - Chánh Tư Duy - Chánh Kiến sẽ hiểu biết đúng sự thật về nó
(tâm).

- Khi tọa thiền nhớ đến xiết chặt hai hàm răng, chú tâm cảm giác răng lưỡi và để
tự nhiên như nhiên rồi hướng đến Chánh Tư Duy để khởi lên Chánh Kiến, biết
như thật: Tâm không phải một thực thể được cấu trúc nguyên một khối như một
linh hồn, một cỗ máy hay như một con vượn chuyền cành mà là một phạm trù
gồm rất nhiều thứ tâm và có thể phân chia thành bốn loại tâm hay bốn nhóm
tâm gồm Thọ Tưởng Hành Thức. Trong mỗi một loại hay nhóm tâm lại gồm
nhiều thứ tâm, ví như Nhóm Thọ là các đối tượng thực tại gồm: Cảm giác hình
ảnh, Cảm giác âm thanh, Cảm giác mùi, Cảm giác vị, Cảm giác xúc chạm và
Cảm giác pháp trần. Mỗi một Thọ này đều do Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh
(quán cụ thể) nên đều Vô thường, Vô chủ vô sở hữu (Vô ngã). Nhóm Tưởng
gồm các tâm biết trực tiếp giác quan: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức,
thân thức, tưởng thức có phận sự ghi nhận các Thọ. Mỗi một Tưởng đều do Căn
Trần tiếp xúc mà phát sanh (quán cụ thể) nên đều Vô thường, Vô ngã. Nhóm
Hành gồm các tâm hành: Niệm, Tư duy, Tham sân si, chú tâm (định), dục, tinh
tấn, tác ý, lời nói, hành động, khổ vui. Mỗi một Hành đều do Căn Trần tiếp xúc
(cụ thể là Ý tiếp xúc Pháp trần) mà phát sinh nên đều Vô thường, Vô ngã.
Nhóm Thức là tâm biết Ý thức và Tư tưởng do Ý tiếp xúc Pháp mà phát sinh
nên nó Vô thường, Vô ngã. Tất cả mọi thứ tâm đều đang SINH LÊN RỒI DIỆT
ĐI NỐI TIẾP NHAU chỉ có hai cặp Thọ và Tưởng là đồng sanh đồng diệt và Ý
thức cùng với Tư tưởng cũng đồng sanh đồng diệt. Các thứ tâm ấy đều độc lập,
không phụ thuộc vào nhau, không có thứ tâm nào là chính hay phụ, giữa chúng
không có quan hệ chủ nhân chủ sở hữu.
- Luyện tập Trí nhớ Chánh để Chánh niệm Chánh Tư duy Chánh kiến khởi
lên, hiểu biết đúng sự thật các hiện tượng tâm đang xảy ra như: Nhãn thức ghi
nhận Cảm giác hình ảnh, Nhĩ thức ghi nhận Cảm giác âm thanh, Tỷ thức ghi
nhận Cảm giác mùi, Thiệt thức ghi nhận Cảm giác vị, Thân thức ghi nhận Cảm
giác xúc chạm, Tưởng thức ghi nhận Cảm giác pháp trần. Hiểu biết đúng sự thật
như vậy là phận sự của tâm biết Ý thức Chánh kiến và cũng hiểu biết đúng sự
thật Vô ngã, nghĩa là không có tôi, ta, bản ngã, ông A, bà B nào thấy, nghe, cảm
nhận thực tại cả.

- Có thể luyện tập Trí nhớ chánh để Nhớ đến chú tâm quan sát nội tâm. Người
tu có thể niệm thầm “nội tâm, nội tâm” hay chỉ niệm “tâm tâm” thì niệm thầm
như vậy nhắc nhở Chánh Niệm khởi lên, Nhớ Đến chú tâm quan sát nội tâm. Vì
vậy, khi thấy, nghe, cảm nhận đối tượng rồi Chánh Niệm Nhớ đến chú tâm
quan sát nội tâm khởi lên, tiếp đến Chánh Tư Duy, Ý thức Chánh Tri Kiến sẽ
khởi lên. Ý thức Chánh Tri Kiến sẽ biết rõ nội tâm có khởi lên tư tưởng hay thái
độ gì với các đối tượng đó hay không. Nếu Chánh Niệm xảy ra liên tục thì
Chánh Tri Kiến biết rõ nội tâm vắng lặng, không tham sân si, không phiền não.
Nếu mất Chánh Niệm, Tà Niệm khởi lên có tham sân si, dính mắc, ràng buộc,
phiền não thì khi Chánh Niệm xuất hiện trở lại, Ý thức Chánh Tri Kiến lại khởi
lên, biết rõ đã có tham sân si, đã có phiền não xảy ra. Với sự thực hành Niệm
Tâm như vậy người tu sẽ chứng ngộ và an trú Tuệ Giải Thoát.

d - NIỆM PHÁP HAY CHÁNH NIỆM VỀ PHÁP: Là NHỚ ĐẾN CHÚ TÂM
quán sát pháp nơi pháp để Chánh niệm Chánh Tư duy Chánh kiến khởi lên,
biết như thật về Duyên khởi, về Vô thường, về Vô ngã, về Khổ Tập Diệt Đạo.
Niệm Pháp có rất nhiều đề mục với mục đích tu tập Chánh Tri Kiến để chứng
ngộ và an trú Tuệ Giải Thoát.

- NHỚ ĐẾN CHÚ TÂM quan sát để tuệ tri sáu xúc xứ, tuệ tri Duyên khởi.

- NHỚ ĐẾN CHÚ TÂM quán sát đối tượng sinh diệt, Vô thường: người tu khởi
đầu có thể niệm thầm “sinh diệt, sinh diệt” để nhắc nhở, kích hoạt Chánh Niệm
Nhớ đến đối tượng sinh diệt, vô thường đã học. Khi thấy, nghe, cảm nhận đối
tượng Chánh Niệm nhớ đến đối tượng sinh diệt đã học khởi lên và Chánh Tư
Duy, Ý thức Chánh Tri Kiến khởi lên, Biết như thật đối tượng đang sinh diệt, vô
thường. Lộ trình tâm Bát Chánh Đạo sẽ khởi lên giống Niệm Tâm:

XÚC Thọ - Tưởng Chánh Niệm Chánh Tinh Tấn Chánh Định Tỉnh
Giác) Chánh Tư Duy Ý thức Chánh Tri Kiến

Khi Ý Thức Chánh Tri Kiến khởi lên, Biết như thật đối tượng đó sinh diệt, vô
thường thì lộ trình tâm dừng lại, không có diễn tiến nào tiếp theo và người tu
kinh nghiệm được, không yêu thích, không chán ghét, độc lập, không ràng buộc,
giải thoát không hệ luỵ với đối tượng. Giải thoát do Chánh Tri Kiến vô thường
khởi lên như vậy gọi là Tuệ Giải Thoát.

- NHỚ ĐẾN CHÚ TÂM quán sát đối tượng Vô chủ, Vô sở hữu hay Vô ngã.
Sự thực hành và trải nghiệm giải thoát cũng tượng tự như trên.

- NHỚ ĐẾN CHÚ TÂM quán sát sự nguy hiểm (hay nguyên nhân khổ). Người
tu có thể khởi đầu niệm thầm “nguy hiểm, nguy hiểm” để nhắc nhở, tạo duyên
cho Chánh Niệm nhớ đến sự nguy hiểm khởi lên. Do Chánh Niệm như vậy mà
Chánh Tư Duy, Ý thức Chánh Tri Kiến khởi lên, Biết rõ sự nguy hiểm
(nguyên nhân khổ) là nếu có Tham hoặc Sân hoặc Si với đối tượng thì Khổ sẽ
khởi lên.

- NHỚ ĐẾN BUÔNG (xả) các đối tượng. Người tu niệm thầm “buông buông”
thì khi thấy, nghe, cảm nhận đối tượng rồi Chánh Niệm, Chánh Tư Duy,
Chánh Tri Kiến sẽ khởi lên, Biết rõ buông đối tượng, biết rõ không tham sân
si, biết rõ Sự Xuất Ly khỏi đối tượng.

- NHỚ ĐẾN CHÁNH TƯ DUY về lộ trình tâm Bát Tà Đạo để giác ngộ Khổ Đế
và Tập Đế. Người tu thực hành Niệm Thân để an trú sơ thiền, nhị thiền, tam
thiền, tứ thiền rồi hướng đến Chánh Tư Duy về lộ trình tâm Bát Tà Đạo và do
vậy Ý thức Chánh Tri Kiến khởi lên Biết Như Thật Khổ và Nguyên Nhân Khổ.
- NHỚ ĐẾN CHÁNH TƯ DUY về lộ trình tâm Bát Chánh Đạo để giác ngộ
Diệt Đế và Đạo Đế cũng thực hành cũng tương tự như trên.

Người tu chia ra các đề mục như vậy và có thể luyện tập Chánh Niệm trong toạ
thiền và trong mọi sinh hoạt hàng ngày từng đề mục trong một ngày, vài ngày
hay vài tuần, vài tháng mới chuyển qua đề mục khác.

4 - KẾT LUẬN:

Hiện nay đa số người tu không hiểu biết đúng sự thật Chánh Niệm là Trí Nhớ
Chánh, là Nhớ Đến điều đã học (Văn Tuệ) mà họ nhầm lẫn Chánh Niệm với
tâm biết ý thức Chánh Tri Kiến. Lý do của sự nhầm lẫn là không thấy biết như
thật lộ trình duyên khởi từ Chánh Niệm đến Chánh Tư Duy đến Ý thức Chánh
Tri Kiến nên không phân biệt được Tâm hành Chánh Niệm thuộc về Hành uẩn
và Tâm biết Ý thức Chánh Tri Kiến thuộc về Thức uẩn. Tu tập Bát Chánh Đạo
là luyện tập Chánh Niệm, luyện tập Trí Nhớ về điều đã học trong đó Niệm
Thân với mục đích chứng ngộ và an trú tâm biết trực tiếp Tỉnh Giác, chứng ngộ
và an trú Tâm Giải Thoát. Nhưng Niệm Thân chỉ NHIẾP PHỤC Tham Sân Si
chứ không ĐOẠN TẬN được Tham Sân Si. Tu tập Niệm Thọ, Niệm Tâm và
Niệm Pháp là tu tập để chứng ngộ và an trú Chánh Tri Kiến, chứng ngộ và an
trú Tuệ Giải Thoát. Khi Chánh Tri Kiến là Trí Tuệ được tu tập viên mãn mới
xoá bỏ được thông tin Vô minh Chấp ngã trong kho chứa, lúc đó mới ĐOẠN
TẬN VÔ MINH, ĐOẠN TẬN THAM SÂN SI, ĐOẠN TẬN PHIỀN NÃO.
Khi đã có Văn Tuệ và Tư Tuệ chính xác, đầy đủ thì việc tu hành chỉ là LUYỆN
TẬP TRÍ NHỚ, tuy có chia ra nhiều đề mục riêng rẽ để luyện tập cho dễ dàng
và hiệu quả nhưng thành quả cuối cùng viên mãn là Khi Thấy, Nghe, Cảm nhận
đối tượng thì không cần niệm thầm nhắc nhở mà TRÍ NHỚ CHÁNH sẽ TỰ
ĐỘNG khởi lên, đưa đến BIẾT NHƯ THẬT đối tượng đó là Cảm Thọ do Căn
Trần tiếp xúc mà phát sanh, nó Vô thường, vô chủ (Vô ngã), nó có vị ngọt, sự
nguy hiểm và sự xuất ly. Đó chính là chứng ngộ và an trú TRÍ TUỆ MÀ ĐỨC
PHẬT ĐÃ GIÁC NGỘ. Chính vì vậy mà Đức Phật đã tuyên bố: “Đây là con
đường độc nhất cho chúng sanh diệt trừ phiền não, chấm dứt khổ ưu, thành tựu
Chánh trí chứng ngộ Niết bàn. Đó là Bốn Niệm Xứ.”

Về mục lục

Bài 023: HIỂU ĐÚNG VÀ HIỂU SAI VỀ CHÁNH ĐỊNH

1 - Đối tượng của chú tâm trong Chánh Định:

Chánh Định là một trong ba chi phần căn bản của lộ trình tâm Bát Chánh đạo
siêu thế gồm Chánh Niệm - Chánh Định - Chánh Kiến mà gọi tắt là Niệm -
Định - Tuệ. Hiểu biết đúng như thật về Chánh Định, thuộc về Chánh Kiến mới
có thể tu tập đúng để chứng ngộ và an trú Chánh Định, nếu hiểu biết sai về
Chánh Định, thuộc về Tà Kiến sẽ không thể tu tập đúng để chứng ngộ và an trú
Chánh Định được. Trong hiểu biết hiện thời của các Luận giải, Chú giải và của
đa số người tu thì cho rằng: Định là Nhất Tâm trên Một Cảnh nghĩa là Tâm chỉ
biết một Cảnh duy nhất. Và do hiểu biết về Định như vậy mà tất cả các trường
phải đều thực hành bằng cách chú tâm vào một đối tượng duy nhất. Khi thực
hành chú tâm vào một đối tượng duy nhất như vậy thì sự chú tâm phải Hướng
đến đối tượng cho nên chú tâm đó gọi là chú tâm có TẦM và phải duy trì, giữ
gìn sự chú tâm trên đối tượng đó nên gọi đó là chú tâm có TỨ. Thực hành thiền
định để có được tâm nhất cảnh là chú tâm vào một đối tượng duy nhất thì đó là
CHÚ TÂM CÓ TẦM CÓ TỨ, là đặc trưng của thiền định ngoại đạo có từ thời
xa xưa trước khi Đức Phật ra đời. Hiểu biết như vậy là Vô minh, Tà kiến nên
không bao giờ có thể đạt được trạng thái Định. Vì sao vậy? Vì không bao giờ có
một tâm cố định và một cảnh cố định để nhất tâm trên một cảnh, để buộc chặt
tâm vào một cảnh duy nhất vì tâm cảnh đều sinh diệt, vô thường. Nhưng tại sao
ngoại đạo với chú tâm Có Tầm Có Tứ như vậy mà họ vẫn đạt được Định? Tại vì
trạng thái Định phát sinh khi có SỰ CHÚ TÂM LIÊN TỤC từ đối tượng sinh
diệt này tới đối tượng sinh diệt khác. Trong sáu loại đối tượng của thực tại có
thể chú tâm là cảm giác hình ảnh, cảm giác âm thanh, cảm giác mùi, cảm giác
vị, cảm giác xúc chạm và cảm giác pháp trần thì thiền định ngoại đạo chỉ chú
tâm các cảm giác pháp trần do Ý tiếp xúc với thông tin Pháp trần mà phát sinh
và nói nôm na cho dễ hiểu là được tưởng ra chứ không thực hành chú tâm đối
với 5 đối tượng thực tại còn lại, vì vậy Định đó gọi là Định Tưởng hay Định
trên đối tượng được tưởng ra. Ví như thực hành với kasina Đất thì người đó, sau
khi nhìn kỹ mô hình đất rồi nhắm mắt lại để tưởng ra hình ảnh, màu sắc của mô
hình. Khi hình ảnh mô hình tưởng ra bị mất đi lại mở mắt nhìn kỹ để ghi nhớ.
Cứ nhắm mắt rồi lại mở mắt như vậy từ ngày này sang ngày khác rồi duy trì sự
chú tâm liên tục vào hình ảnh được tưởng ra đó. Chú tâm như vậy là chú tâm
Có Tầm Có Tứ, nhưng đối tượng được chú tâm là hình ảnh được tưởng ra đó
cũng hoàn toàn không cố định, không phải là một hình ảnh được tưởng ra duy
nhất mà nó cũng đang sinh diệt rất nhanh chóng, thay đổi rất vi tế, nên sự chú
tâm xảy ra đó cũng là CHÚ TÂM LIÊN TỤC từ đối tượng sinh diệt này sang
đối tượng sinh diệt khác rất nhanh chóng và vi tế chứ không phải trên một đối
tượng cố định như cách hiểu sai của ngoại đạo. Khi thực hành nhắm mắt lại như
vậy sẽ phải ức chế tâm để không còn một đối tượng nào khác xuất hiện, và khi
chỉ còn một hình ảnh biến xứ đất được tưởng ra không còn thấy, nghe, hay biết
bất kỳ một đối tượng nào khác của thực tại thì lúc đó là Định. Chú tâm có tầm
có tứ trên hình ảnh tưởng ra của kasina đất phải có sự nỗ lực rất mạnh mới dần
dà ỨC CHẾ được lộ trình tâm xảy ra với các cảm giác trên thân, lúc đó mới có
thể nhất tâm trên đối tượng được tưởng ra và tâm chỉ còn biết cảm giác hình ảnh
pháp trần được tưởng ra đó mà thôi, không còn biết đến các đối tượng khác.
Các loại Định với kasina nước, lửa, màu sắc, không vô biên xứ, thức vô biên
xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng tương tự như vậy và chỉ duy
nhất là Chú tâm Có Tầm Có Tứ.

Sự khác biệt giữa Định của ngoại đạo và Chánh Định của Đức Phật là Đức Phật
phát kiến có hai sự chú tâm: Chú tâm CÓ TẦM CÓ TỨ và Chú tâm KHÔNG
TẦM KHÔNG TỨ. Trong đêm thành đạo, sau khi từ bỏ lối tu khổ hạnh, trải cỏ
ngồi dưới cội cây Bồ đề, Ngài nhớ lại sự kiện hồi nhỏ Ngài đã nhập định Sơ
thiền khi tham dự lễ hạ điền của vua cha và Ngài đã nhanh chóng nhập định Sơ
thiền với hai loại chú tâm có tầm có tứ và không tầm không tứ. Không dừng lại
đó mà phát kiến VĨ ĐẠI NHẤT đã góp phần làm cho Ngài đắc được Chánh
Đẳng Giác là diệt chú tâm có tầm có tứ, còn lại duy nhất chú tâm không tầm
không tứ thì chứng và trú Nhị thiền rồi Tam thiền, rồi Tứ thiền. Đây là các tầng
ĐỊNH KHÔNG TẦM KHÔNG TỨ có công năng cao hơn hẳn ĐỊNH CÓ TẦM
CÓ TỨ của Sơ thiền. Trong mô tả mà Đức Phật đã đưa ra: Ly dục, ly bất thiện
pháp chứng và trú Sơ thiền một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh với (chú tâm)
có tầm có tứ. Diệt (chú tâm) có tầm có tứ chứng và trú Nhị thiền, một trạng thái
hỷ lạc do định sanh, với (chú tâm) không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Với
sự mô tả này, có thể thấy đối với Sơ thiền có hai loại chú tâm Có Tầm Có Tứ và
Không Tầm Không Tứ, và để đạt được Nhị thiền trên cơ sở của Sơ thiền, thì
phải diệt đi sự chú tâm Có Tầm Có Tứ và còn lại duy nhất là chú tâm Không
Tầm Không Tứ. Nhưng sự Chú tâm KHÔNG TẦM KHÔNG TỨ là chú tâm
như thế nào? Đó là chú tâm tự động xảy ra từ đối tượng này sang đối tượng
khác mà không hướng đến (KHÔNG TẦM) và không giữ (KHÔNG TỨ) sự chú
tâm trên bất kỳ đối tượng nào. Ví như, quý vị mở mắt và hướng đến chú tâm và
duy trì sự chú tâm đối với đối tượng hình ảnh bông hoa trước mặt nhưng đồng
thời quý vị cũng nhớ đến chú tâm các cảm giác trên thân. Lúc đó quý vị vừa
thấy rõ hình ảnh bông hoa do có chú tâm và chú tâm đó là chú tâm Có Tầm Có
Tứ nhưng quý vị cũng biết rõ cảm giác thở vô, cảm giác thở ra và các cảm giác
khác trên thân. Sở dĩ quý vị biết rõ cảm giác thở vô, cảm giác thở ra và các cảm
giác khác trên thân là nhờ có sự chú tâm vào các cảm giác đó nhưng sự chú tâm
này tự động xảy ra từ cảm giác này sang cảm giác khác mà không hề có sự
hướng đến, không hề giữ sự chú tâm trên một đối tượng nào và đó là chú tâm
Không Tầm Không Tứ. Hãy thực hành chỉ vài ba phút như vậy là biết rõ hai loại
chú tâm có tầm có tứ và không tầm không tứ này.

Trong bốn tầng của Chánh Định là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền
thì Sơ thiền có cả chú tầm Có Tầm Có Tứ lẫn chú tâm Không Tầm không Tứ,
còn Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền là các tầng định cao hơn thì chỉ có chú
tâm Không Tầm Không Tứ. Như vậy Chánh Định không phải là thực hành chú
tâm vào một đối tượng duy nhất, không phải là tâm nhất cảnh mà chú tâm vào
NHIỀU ĐỐI TƯỢNG KHÁC NHAU theo tiến trình sinh diệt của chúng. Chánh
Định phát sinh khi chú tâm vào mọi đối tượng của thực tại, là những gì được
mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm và cả những gì được
tưởng ra chứ không phải chỉ một đối tượng duy nhất được tưởng ra như Định
Tưởng của ngoại đạo. Đây là một lối sống như trong kinh Niệm xứ đã khẳng
định, vị Tỷ kheo SỐNG TRÚ quán thân nơi thân, SỐNG TRÚ quán thọ nơi thọ,
SỐNG TRÚ quán tâm nơi tâm, SỐNG TRÚ quán pháp nơi pháp. Đối tượng chú
tâm của Chánh Định là mọi đối tượng của thực tại bao gồm các pháp thuộc về
Thân Thọ Tâm Pháp. Điều này khác xa với ngoại đạo chủ trương chỉ có Định
Có tầm Có Tứ, chú tâm trên một đối tượng duy nhất. Chính vì chấp cứng vào
hiểu biết tà kiến về Định mà Nigantha thuộc phái ngoại đạo Ni kiền tử đã phỉ
báng Đức Thế Tôn khi đối đáp với cư sĩ Citta được ghi lại trong Tăng Chi Bộ
kinh: “Sa môn Gotama là dối trá, là hư vọng, Sa môn Gotama chủ trương Định
Không Tầm Không Tứ là chủ trương dùng cái lưới để buộc gió lại giữa hư
không, là điều không tưởng.” Kể cả trong các tông phái Phật giáo hiện nay, các
Luận sư cũng hiểu biết y chang ngoại đạo về Định như vậy, nên trong các bộ
luận, trong các chú giải cũng chủ trương chú tâm vào một đối tượng duy nhất
để đạt được tâm nhất cảnh. Vì thế trong các luận, các chú giải và các vị thiền sư
hiện nay chỉ giảng dạy mô tả kỹ càng về chú tâm Có Tầm Có Tứ, không ai
giảng dạy, đề cập, mô tả được chú tâm Không Tầm Không Tứ là cái gì. Chính
vì điều này mà có sự mâu thuẫn trong chủ trương Thiền Định và Thiền Quán
của các bộ luận và chú giải. Theo đó thì Thiền định là buộc tâm vào một đối
tượng duy nhất còn Thiền quán là phải quan sát các đối tượng để thấy các đối
tượng đó vô thường, khổ, vô ngã và như vậy Định thì không thể Quán và muốn
Thiền quán thì phải ra khỏi định, vì không thể buộc tâm vào một đối tượng duy
nhất mà quán được. Do mâu thuẫn giữa Thiền định và Thiền quán như vậy mà
một số chủ trương Thiền định cản trở Thiền quán, Thiền định không giúp gì cho
Thiền quán nên không cần tu tập Thiền định và họ phủ nhận Chánh Định với Sơ
thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền mà Đức Phật đã dày công thuyết giảng.

2 - Chánh Niệm là nhân của Chánh Định:

Nhất tâm là định nhưng nhất tâm là gì? Nhất tâm hiểu theo tà kiến ngoại đạo là
một tâm buộc vào một cảnh hay tâm chỉ biết một cảnh duy nhất. Điều này là vô
minh, tà kiến vì tâm cảnh đều đang sinh diệt nên không có một cái tâm nào, một
cảnh nào thường hằng, cố định để mà buộc lại với nhau. Vì vậy, NHẤT TÂM
trong một khoảng thời gian nào đó được hiểu là KHÔNG PHÂN TÂM, nghĩa là
chỉ có một loại Niệm duy nhất trong thời gian đó. Có thể là Chánh Niệm nhớ
đến chú tâm quan sát thân nơi thân, Chánh Niệm nhớ đến chú tâm quan sát thọ
nơi thọ, Chánh Niệm nhớ đến chú tâm quán sát tâm nơi tâm hay Chánh Niệm
nhớ đến chú tâm quán sát pháp nơi pháp. Ví như khi thực hành thiền đi, nếu
trong 20 phút mà Chánh Niệm về thân tức NHỚ ĐẾN CHÚ TÂM CÁC CẢM
GIÁC NƠI THÂN khởi lên liên tục không gián đoạn, không Nhớ Đến bất cứ
một cái gì trên đời tức Tà Niệm không khởi lên, không xen vào thì trong thời
gian đó KHÔNG PHÂN TÂM và được gọi là NHẤT TÂM. Trong thời gian 20
phút nhất tâm như vậy, do chỉ có một niệm duy nhất là nhớ đến chú tâm các
cảm giác trên thân nên chú tâm các cảm giác trên thân sẽ tự động xảy ra liên
tiếp từ cảm giác này đến cảm giác khác từ cảm giác chân trái rồi chân phải
chạm đất đến cảm giác chuyển động của vai phải vai trái, và các cảm giác khác
trên toàn thân. Và nhờ sự chú tâm liên tục các cảm giác trên thân theo thứ tự
đang sinh diệt của chúng như vậy mà tâm biết Thân thức sẽ GHI NHẬN các đối
tượng đó một cách rõ ràng minh bạch và suy nghĩ (ý thức) không khởi lên. Tâm
biết Thân thức GHI NHẬN thuần tuý đối tượng như vậy, không có Ý thức khởi
lên, nên không có Bản ngã xen vào thì đó gọi là TỈNH GIÁC. Giả sử đến phút
thứ 21 một Tà Niệm khởi lên, nhớ đến chiều nay sẽ đi cửa hàng để mua một cái
xe mới. Do Nhớ đến như vậy mà sẽ Nghĩ đến (tư duy) và do Nghĩ đến như vậy
mà sẽ phát sinh tư tưởng và bị cuốn trôi vào các tư tưởng đó. Do Tà Niệm khởi
lên như vậy mà Chánh Niệm nhớ đến chú tâm các cảm giác trên thân diệt và do
Chánh Niệm diệt mà sự Chú tâm diệt và do Chú tâm diệt mà tâm biết Tỉnh giác
diệt và lúc đó không còn tâm biết Tỉnh giác, không còn biết cảm giác chạm đất
của chân trái, chân phải nữa mà hoàn toàn "quên mình theo vật". Từ phút 21 đã

bị PHÂN TÂM không còn NHẤT TÂM nữa. Trong khoảng thời gian 20 phút
KHÔNG PHÂN TÂM hay NHẤT TÂM như vậy sẽ phát sinh trạng thái
CHÁNH ĐỊNH, vì vậy nên nói Nhất Tâm Là Định. Và điều này cũng thuyết
minh rõ ràng CHÁNH NIỆM LÀ NHÂN CHO CHÁNH ĐỊNH, là điều kiện
tiên quyết cho Chánh Định sinh khởi trong lộ trình NIỆM - ĐỊNH - TUỆ.

a - Định Sơ thiền: Được Đức Phật mô tả là: ly dục, ly bất thiện pháp, chứng
và trú sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh với chú tâm có tầm có tứ.
Nếu một người thực hành mà trạng thái tâm có những đặc tính nêu trên thì đó
là trạng thái Định Sơ thiền. Nếu thực hành thiền đi thì cứ bước đi một cách tự
nhiên như nhiên nhưng theo nhịp bước niệm thầm theo dõi, theo dõi... Hành vi
niệm thầm theo dõi, theo dõi... không phải là Chánh Niệm mà nó nhắc nhở làm
cho Chánh Niệm nhớ đến chú tâm theo dõi các cảm giác trên thân sinh khởi
liên tục không gián đoạn. Nếu trong 20 phút nhờ niệm thầm theo dõi, theo dõi
mà Chánh Niệm liên tục khởi lên, không có Tà Niệm, không có nhớ đến bất kỳ
một thứ gì trên đời khởi lên xen vào thì 20 phút đó là Nhất tâm và trạng thái
Định sẽ phát sinh. Do trong 20 phút có Chánh Niệm nhất tâm nên không khởi
lên, không hướng đến, không suy nghĩ tới bất kỳ một niềm vui, hạnh phúc, lạc
thú, một Dục lạc nào, tâm cũng vắng lặng, không có bất kỳ một tư tưởng ác,
bất thiện pháp nào. Đó gọi là ly dục, ly bất thiện pháp. Do có sự chú tâm liên
tục từ cảm giác này sang cảm giác khác nên chỉ có tâm biết Tỉnh giác ghi nhận
các đối tượng mà tâm biết ý thức không khởi lên nên tâm vắng lặng mọi tư
tưởng, rỗng không, ly dục, ly bất thiện pháp, vì vậy phát sinh một trạng thái
vui nhè nhẹ gọi là hỷ và trên thân cảm nhận cảm giác thoải mái dễ chịu gọi là
lạc. Sự chú tâm liên tục xảy ra từ cảm giác này sang cảm giác khác trên thân tự
động xảy ra, không hướng đến, không giữ lại sự chú tâm trên đối tượng nào thì
đó là chú tâm không tầm không tứ nhưng hành giả vẫn phải chú tâm vào cảm
giác hình ảnh đường đi. Sự chú tâm vào đối tượng cảm giác hình ảnh đường đi
phải hướng đến và phải duy trì sự chú tâm trên đối tượng đó thì đó là chú tâm
có tầm có tứ. Như vậy, nếu một người thực hành thiền đi mà trong 20 phút
nhất tâm như vậy thì sẽ tự thấy, tự biết, tự kinh nghiệm được là: có ly dục, ly
bất thiện pháp, có hỷ, có lạc, có tầm có tứ thì đó là trạng thái Định Sơ thiền. Và
nếu phút 21 Tà Niệm nhớ đến chiều nay đi mua xe thì bị phân tâm, Chánh
Niệm diệt, không còn nhất tâm nữa và Sơ thiền diệt. Sơ thiền cũng sinh diệt
theo sự sinh diệt của Chánh Niệm, không phải là chứng Sơ thiền là tâm mãi
mãi ở Sơ thiền, mãi mãi ly dục, ly bất thiện pháp mà khi Tà Niệm khởi lên Sơ
thiền diệt thì Bát Tà Đạo lại khởi lên, tham sân si lại khởi lên.

b - Định Nhị thiền: Sơ thiền có thể đạt được trong mọi tư thế, đi đứng nằm
ngồi nhưng Nhị thiền chỉ đạt được khi ngồi hoặc nằm. Trạng thái Định Nhị
thiền được mô tả: Diệt tầm diệt tứ chứng và trú Nhị thiền, một trạng thái hỷ lạc
do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Từ trạng thái Định Sơ
thiền thì khi chú tâm tự động xảy ra mà không hề hướng đến, không hề giữ sự
chú tâm trên một đối tượng nào cả thì lúc đó chỉ có chú tâm Không Tầm Không
Tứ không còn loại chú tâm Có Tầm Có Tứ nữa thì thời điểm đó gọi là diệt tầm
diệt tứ và Sơ thiền sẽ chuyển thành Nhị thiền có hỷ, có lạc, có chú tâm Không
Tầm Không Tứ và rất vững chắc như bánh xe lửa bám chặt đường ray, không
có phóng tâm ra ngoài (nội tĩnh nhất tâm). Để toạ thiền chứng và trú Nhị thiền
thì hành giả ngồi kết già (hay bán già) lưng thẳng an trú Chánh Niệm trước
mặt.

Chánh Niệm ở đây là Niệm Thân, tức Nhớ Đến chú tâm các cảm giác trên thân
theo thứ tự xảy ra như sau. Khởi đầu là chú tâm Có Tầm Có Tứ, là chú tâm có
hướng đến và duy trì đối với cảm giác đầu lưỡi chạm vào hàm răng trên hoặc
dưới hàm răng trên khi hai hàm răng xiết nhẹ vào nhau và đó là một cảm giác vi
tế nhưng rất nổi trội, tiếp đến cảm giác thở vô khởi lên thì sự chú tâm sẽ tự động
xảy ra với cảm giác thở vô, tiếp đến chú tâm sẽ tự động xảy ra với cảm giác
ngưng thở khi kết thúc hơi thở vô, tiếp đến chú tâm sẽ tự động xảy ra khi cảm
giác thở ra xuất hiện và khi hết cảm giác thở ra thì chú tâm lại hướng đến cảm
giác nơi lưỡi và chu kỳ tiếp lại diễn ra tương tự như vậy. Hành giả chỉ cần xiết
nhẹ hai hàm răng và chạm đầu lưỡi vào hàm răng để tạo một cảm giác rồi duy
trì sự chú tâm vào cảm giác đó và để tự nhiên như nhiên thì sự chú tâm sẽ tự
động xảy ra theo lộ trình trên. Lúc đầu còn có chú tâm Có Tầm Có Tứ với cảm
giác nơi lưỡi nhưng một lúc sau nó tự nhiên dần và đến lúc sự chú tâm tự động
xảy ra theo lộ trình trên mà không còn phải hướng đến cảm giác nơi lưỡi thì lúc
đó hành giả sẽ kinh nghiệm được trạng thái Nhị thiền với các đặc tính đã nêu
trên. Chú tâm Không Tầm Không Tứ xảy ra theo một vòng tròn như vậy, được
lặp đi lặp lại với BA CẢM GIÁC NỔI TRỘI làm thành BA ĐIỂM CHÍNH cố
định của vòng tròn là CẢM GIÁC THỞ VÔ, CẢM GIÁC THỞ RA và CẢM
GIÁC NƠI LƯỠI. Lúc này các cảm giác khác trên thân như đau, ngứa hay các
chuyển động vi tế của thân... đều được chú tâm và nó ĐAN XEN vào khoảng
giữa ba cảm giác nổi trội cố định. Tuy sự chú tâm chỉ xảy ra với các cảm giác
trên thân do Niệm Thân nhưng các đối tượng khác như cảm giác âm thanh hay
cảm giác pháp trần (những hình ảnh xuất hiện trước mặt khi mắt nhắm) đều
được Ghi nhận với tâm biết Tỉnh giác. Ba cảm giác nổi trội làm thành ba điểm
chính cố định của vòng tròn mà sự chú tâm sẽ vận hành theo, trong đó có cảm
giác nơi đầu lưỡi rất quan trọng nên trong kinh có đề cập đến là lưỡi uốn cong
đè nên nóc họng để tạo nên cảm giác nơi đầu lưỡi. Để tăng cường cảm giác phát
sinh nơi đầu lưỡi quý vị có thể dùng một nút áo nhỏ đặt lên trên gần đầu lưỡi và
ngậm răng lại thì sẽ phát sinh một cảm giác rất nổi trội và quý vị chỉ cần duy trì
sự chú tâm vào cảm giác nơi lưỡi và để tự nhiên như nhiên thì quý vị sẽ kinh
nghiệm được chú tâm tự động xảy ra và vào Định Sơ thiền rồi Nhị thiền rất dễ
dàng.

c - Định Tam thiền: Từ Định Nhị thiền tinh tấn tiếp tục thì mức độ chú tâm
Không Tầm Không Tứ được tăng cường và do vậy mà cảm giác thở vô, cảm
giác thở ra và các cảm giác khác trên thân nhẹ đi, vi tế dần và xuất hiện đan xen
thêm nhiều cảm giác pháp trần trước mặt và trạng thái hỷ biến mất chỉ còn cảm
giác thoải mái, lạc thọ trên thân. Đấy là Định Nhị thiền đã chuyển thành Tam
Thiền. Đức Phật mô tả trạng thái Định Tam thiền là: Ly hỷ trú xả (tâm không
còn vui mà bình thản, không vui không buồn) thân cảm lạc thọ mà bậc Thánh
gọi là xả niệm lạc trú chứng và trú Tam thiền.

d - Định Tứ thiền: Từ Định Tam thiền tinh tấn tiếp tục thì sẽ xảy ra trạng thái
các cảm giác trên thân nó nhẹ, vi tế đến nỗi mà cảm giác hơi thở vô, cảm giác
hơi thở ra cũng không còn cảm nhận được nữa và chỉ còn cảm giác rất vi tế nơi
đầu lưỡi đan xen với các cảm giác pháp trần là những màn mỏng manh vi tế
trước mặt. Nhiều người cảm nhận "mất thân" dưới chỉ còn cảm nhận từ lưỡi trở
lên (vì còn cảm nhận cảm giác nơi lưỡi). Đó là Định Tứ thiền được Đức Phật
mô tả: Xả lạc xả khổ (không còn cảm giác lạc thọ, khổ thọ nơi thân) diệt trừ hỷ
ưu đã cảm thọ trước đây (tâm vắng lặng không có vui buồn) chứng và trú Tứ
thiền, tâm được thanh tịnh nhờ xả.

3 - Chánh Niệm và Chánh Định là nhân cho Tỉnh Giác và Chánh Kiến:

a - Chánh Niệm và Chánh Định làm nhân cho Tỉnh Giác: Khi thực hành Niệm
Thân thì sự chú tâm xảy ra liên tục từ đối tượng này đến đối tượng khác theo
thứ tự sinh diệt của chúng làm phát sinh trạng thái Chánh Định và làm cho lộ
trình tâm DỪNG LẠI (CHỈ) tâm biết trực tiếp giác quan, GHI NHẬN đối
tượng mà tâm biết Ý thức không khởi lên, không có Bản ngã xen vào (không có
Ta thấy, Ta nghe...) cho nên Thấy chỉ là thấy, Nghe chỉ là nghe, Cảm nhận chỉ
là cảm nhận không thêm bớt. Đó chính là Tâm biết Tỉnh Giác vô niệm, vô ngôn,
vô phân biệt (không khái niệm, ngôn từ, phân biệt). An trú tâm biết Tỉnh Giác
thì sẽ không có tham sân si, phiền não, đó chính là an trú Tâm Giải Thoát.

b - Chánh Niệm và Chánh Định là nhân cho Chánh Tri Kiến: Khi thực hành
Niệm Thọ, Niệm Tâm và Niệm Pháp thì sự chú tâm liên tục từ đối tượng này
đến đối tượng khác theo thứ tự sinh diệt của chúng làm phát sinh trạng thái
Chánh Định và rồi Chánh Tư Duy khởi lên. Chánh Tư Duy sẽ phân tích, đối
chiếu, so sánh thông tin đối tượng được Tỉnh Giác ghi nhận với thông tin do
Chánh Niệm tìm kiếm kích hoạt, làm phát sinh Ý thức Chánh Tri Kiến
(QUÁN). Ý thức Chánh Tri Kiến sẽ BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT đối tượng đó là
Cảm Thọ (Cảm Giác) do Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh, nó vô thường, vô chủ
(vô ngã), có vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly. Ý thức Chánh Tri Kiến này là
Trí Tuệ giác ngộ Tứ Thánh Đế và an trú Ý thức Chánh Tri Kiến này là an trú
Tuệ Giải Thoát.

Từ khi bắt đầu tìm hiểu Đạo Phật tôi đã rất mê mẩn thiền định, tôi đã học thuộc
lòng ngay lập tức mô tả các trạng thái định Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ
thiền. Tôi đã đọc kỹ rất nhiều lần cuốn Thanh Tịnh Đạo nhất là phần Định, tôi
đã đọc tác phẩm của rất nhiều thiền sư đương thời nổi tiếng để nghiên cứu học
hỏi về tu tập thiền định nhưng suốt 16 năm trời tuy rất thích thú, nỗ lực thực
hành nhưng gần như không có kết quả gì. Đôi khi cũng đạt được hỷ lạc, rất
sung sướng nhưng là tình cờ không lặp lại được. Sự chú tâm vào một đối tượng,
buộc tâm vào một đối tượng mà tôi đã học kỹ và thực hành đúng theo chỉ dẫn
không làm xảy ra trong tôi các trạng thái Sơ thiền, Nhị thiền... mà tôi đã ghi
nhớ. Tôi không thể thoát khỏi hôn trầm, phóng tâm thậm chí khi ngồi tôi không
dám nhắm mắt vì nó dẫn dắt tôi đi từ suy nghĩ chuyện này đến chuyện khác. Khi
tôi từ bỏ không đặt tâm nơi điểm xúc chạm giữa hơi thở và môi trên mà chú tâm
vào cảm giác hơi thở thì có thoải mái, tiến bộ hơn chút ít. Tôi cũng đã tham
khảo rất nhiều trường phái khác nhau và một vị thầy Mật tông có hướng dẫn chỉ
chú tâm vào hơi thở 75% còn lại để tự do nhưng tôi vẫn không đạt được Định.

Duy chỉ có thiền đi, tôi không buộc tâm vào dỡ bước đạp mà chú tâm vào cảm
giác bước chân, cảm giác chạm đất tuần tự nên có thành công hơn và vì vậy tôi
thường xuyên tu tập thiền hành nhiều hơn thiền tọa. Nhưng những năm đó, tôi
miệt mài nghiên cứu các bộ kinh Nikaya nhất là Trung Bộ và Tương Ưng Bộ
thường xuyên hàng ngày không gián đoạn. Hiểu biết về Pháp học của tôi có
nhiều tiến bộ vượt bậc và nhất là nó khơi dậy cảm hứng tu tập trong tôi. Cái cốt
lõi mà tôi biết được là sống trong thực tại này là sống với sáu loại Cảm thọ và
chia ra theo tính chất là Lạc thọ, Khổ thọ và Bất khổ bất lạc thọ và muốn sống
an ổn, sống với chấm dứt khổ thì phải thực hành để không có Tham với Lạc
thọ, không có Sân với Khổ thọ, không có Si với Bất khổ bất lạc thọ. Tôi đã cố
gắng thực hành chú tâm vào những Cảm thọ (Cảm giác) xảy ra trong cuộc sống.
Khi có một Cảm giác dễ chịu kéo dài hay một Cảm giác khó chịu kéo dài xảy ra
tôi cố gắng duy trì sự chú tâm liên tục trên các đối tượng đó và tôi kinh nghiệm
được không có tham đối với Lạc thọ nên không bị nó cuốn hút, không có Sân
với Khổ thọ nên không có khổ vì các Cảm thọ đó. Tôi tiến bộ rất nhiều và kinh
nghiệm hết khổ khi chú tâm vào các Cảm thọ kéo dài riêng rẽ như vậy. Tôi biết
đây là Quán Thọ nhưng tôi không tìm được cách làm sao thực hành cho được
liên tục. Lúc đó vào năm 2008, tôi nhận được thông tin khoá tu 10 ngày Quán
Thọ của Thiền Sư Gôenka và tôi đã tham gia khoá thiền. Nhưng đến ngày thứ 4
mới bắt đầu nghe giảng, hướng dẫn về Quán Thọ thì tôi thất vọng ngay vì
phương pháp đó là nhắm mắt lại rồi di chuyển sự chú tâm đi tuần tự trên cơ thể
giống như đi tìm kiếm cảm thọ, mà thực chất cũng là một loại Định Tưởng,
không đúng như kinh nghiệm của tôi là chú tâm vào Cảm thọ đang xảy ra để
tham sân si không khởi lên. Sau khi nghe giảng, trong lúc nghỉ giải lao tôi đi
vào nhà vệ sinh thì một luồng khí nóng mạnh lao thẳng vào tôi làm phát sinh
một Cảm giác rất nổi trội. Lập tức đầu óc tôi loé lên tư tưởng: Cảm giác nổi
trội, thời điểm nào cũng có cảm giác nổi trội và chỉ cần chú tâm từ cảm giác nổi
trội này sang cảm giác nổi trội khác là tham sân si sẽ không khởi lên và sẽ sống
yên ổn. Khi vào lại thiền đường, tôi thực hành ngay theo phát hiện đó. Thiền
đường đó thỉnh thoảng có tiếng động máy cưa, xe tải cả tiếng máy bay hạ cánh,
thỉnh thoảng có vài con ruồi, con kiến bò lên... và vì vậy tôi nhanh chóng thực
hành được sự chú tâm liên tục từ cảm giác nổi trội này sang cảm giác nổi trội
khác kể cả các cảm giác trên thân. Lần đầu tiên tôi cảm nhận được sự thoải mái,
cái vui nhẹ của Định Sơ thiền và những thời toạ thiền sau, tôi lặp lại được cách
thức và trạng thái đó rất dễ dàng. Chính cách thiền định đó đã giúp tôi quán sát
được lộ trình tâm Bát Tà Đạo và Bát Chánh Đạo, làm thay đổi tận gốc rễ mọi
hiểu biết của tôi, thay đổi hoàn toàn cuộc đời tôi. Vì thế, tôi không còn có thể
tiếp tục sống trong cuộc đời thế tục này được nữa và tôi đã xuất gia trong truyền
thống Phật Giáo Therevada.

Về mục lục
Bài 024: CHÁNH TRÍ TUỆ

Có một đoạn kinh được nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong các bộ kinh Nikaya:
“Ai với Chánh trí tuệ thấy như chơn các pháp tập khởi thì không cho rằng các
pháp là không có. Ai với Chánh trí tuệ thấy như chơn các pháp đoạn diệt thì
không cho rằng các pháp luôn luôn có. Chấp các pháp là luôn luôn có (Chấp
Có), chấp các pháp là không có (Chấp Không) là hai cực đoan của nhân loại. Ly
hai cực đoan đó, Như Lai thuyết pháp ở Trung đạo, nghĩa là: Cái này có do cái
kia có, cái này sinh do cái kia sinh. Cái này không có do cái kia không có, cái này
diệt do cái kia diệt”. Đây là đoạn kinh quan trọng bậc nhất trong Giáo Pháp mà
Đức Thế Tôn đã khéo léo thuyết giảng và nội dung là nói về Định luật Nhân
Quả hay còn gọi là Lý Duyên Khởi. Trong đó mô tả quan hệ giữa “Cái này” là
Quả và “Cái kia” là Nhân. Vì đoạn văn hết sức ngắn gọn, súc tích nên đa phần
người học, do không quan sát sự thật mà chỉ tư duy trên ngôn từ câu chữ theo
hiểu biết của mình, nên lý giải nó theo LỐI MÒN TƯ DUY của nhân loại: “Cái
này” là Một Quả sinh ra do “Cái kia” là Một Nhân, và đương nhiên Một Nhân
sinh Một Quả. Vì thế, không thấy biết như thật quy luật nhân quả phát sinh ra
các sự vật, hiện tượng (các pháp).

Chánh trí tuệ là thấy biết như thật các sự vật hiện tượng vật chất và tinh thần
mà thuật ngữ Phật học gọi là Sắc pháp và Danh pháp đều là pháp duyên khởi,
nghĩa là do hai nhân (hai pháp) tương tác với nhau rồi cùng diệt mà phát sinh ra,
vì vậy các pháp không sẵn có, không thường hằng, không thường trú ở đâu cả,
nên gọi là vô thường; quan hệ giữa các pháp xét theo chiều thời gian và chiều
không gian là độc lập, bình đẳng, không có pháp nào lệ thuộc pháp nào, không
có pháp nào là chủ nhân chủ sở hữu của pháp nào nên các pháp là vô chủ vô sở
hữu (vô ngã). Ai với Chánh trí tuệ thấy như chơn các pháp tập khởi, thấy như
chơn các pháp đoạn diệt sẽ chấm dứt được Chấp Có và Chấp Không, chấm dứt
hai cực đoan của nhân loại là như thế nào.
Hai cực đoan Chấp Có và Chấp Không là gì? Bản chất của hiểu biết hay nhận
thức của nhân loại là Nhị nguyên Tâm Cảnh, nghĩa là Con người là chủ thể
nhận thức, chủ nhân của Tâm thấy, nghe, cảm nhận, nhận thức còn đối tượng
được thấy, nghe, cảm nhận, nhận thức là Thế Giới, bao gồm thế giới vật chất và
thế giới tinh thần (sắc và danh). Như vậy chỉ có hai phần: CON NGƯỜI (nhận
thức) và THẾ GIỚI (được nhận thức). Nhưng THẾ GIỚI gồm thế giới vật chất
và thế giới tinh thần được con người nhận thức lại chia làm hai quan điểm Duy
vật và Duy tâm.

- Quan điểm Duy vật cho rằng THẾ GIỚI là do vật chất cấu thành và vật chất
là thứ sẵn có, không được sinh ra cũng không mất đi mà chỉ biến đổi từ vật
này sang vật khác, từ dạng này sang dạng khác. Tinh thần là sản phẩm do vận
động của vật chất mà phát sinh và tinh thần sinh diệt theo sự vận động của
vật chất. Như vậy, theo quan điểm Duy vật, thế giới là sẵn có, luôn luôn có,
thường hằng, vĩnh viễn, không sinh không diệt. Các pháp cũng sẵn có, luôn
luôn có, thường hằng, thường trú, không sinh không diệt như ngọt sẵn có
trong đường, mặn trong muối, ngon dở trong thức ăn, nóng trong lửa, lạnh
trong nước đá, cứng mềm thô mịn nặng nhẹ trong hòn đá, trong địa đại, năng
lượng, khối lượng sẵn có trong vật thể, không gian thời gian là thuộc tính sẵn
có của thế giới, sự sống sẵn có trong tế bào... Quan điểm này gọi là Thường
kiến, còn gọi là Chấp Có. Chữ Có này không phải hiểu theo nghĩa có không,
hay thật có giả có, mà hiểu là các pháp thường có, sẵn có, luôn luôn có,
thường hằng.

- Quan điểm Duy tâm cho rằng THẾ GIỚI vật chất mà con người thấy nghe, cảm
nhận, nhận thức này không thực có, mà chỉ là do Chúa, một thực thể tâm linh
tuyệt đối vĩnh cửu hoá hiện ra. Như vậy, theo quan điểm Duy tâm chỉ có Chúa
toàn năng, vĩnh cửu, là năng lực tinh thần tuyệt đối có thật, còn thế giới vật chất
mà con người đang sống là không thật, là giả có do Chúa hoá hiện ra, điều
khiển và quyết định tồn tại hay không tồn tại. Các tôn giáo Duy tâm đều có
chung quan điểm đó, nghĩa là có một thế giới tâm linh tuyệt đối có năng lực làm
phát sinh và điều khiển thế giới vật chất (Các pháp do Tâm tạo) tuy tên gọi thế
giới tâm linh có khác nhau như Đại ngã, Thượng đế, Đức Chúa trời, Chân Tâm,
Chân không diệu hữu, Đạo (Lão tử)... Quan điểm này là Đoạn kiến, còn gọi là
Chấp Không. Chữ Không này không được hiểu theo nghĩa có không mà hiểu là
không thật có, chỉ là giả có mà thôi.

Ví như một người khỏe mạnh nhai một đốt mía rồi khởi lên nhận thức, tôi biết
đốt mía ngọt. Nghĩa là người này hiểu ngọt là vật chất, ngọt sẵn có, luôn luôn
có, thường xuyên có nơi đốt mía, thường hằng, thường trú nơi đốt mía, ngọt của
đốt mía. Hiểu biết đó là quan điểm Duy vật, là Thường kiến, là Chấp Có. Nhưng
cũng người đó bị bệnh cảm sốt đã 6, 7 ngày và nhai đốt mía đó nhưng cảm nhận
đốt mía đắng. Lúc đó theo quan điểm Duy tâm sẽ giải thích rằng, ngọt hay đắng
không có trong đốt mía, ngọt hay đắng là giả có, là không thật vì ngọt hay đắng
là do Tâm tạo nên mà thôi. Giải thích như vậy là quan điểm Duy tâm, là Đoạn
kiến, là Chấp Không. Người có Chánh trí tuệ sẽ thấy biết đúng sự thật Lưỡi
(Căn) là một nhân và Mía (Trần) là nhân thứ hai, tiếp xúc với nhau sẽ phát sinh
Cảm giác vị (ngọt hay đắng) và Thiệt thức. Sự thật thực tại đang xảy ra là Thiệt
thức ghi nhận đối tượng thực tại là Cảm giác vị (ngọt hay đắng) chứ không phải
Thiệt thức biết đốt mía ngọt hay đắng. Cảm giác vị này thuộc Tâm chứ không
phải Vật chất, do duyên xúc mà phát sinh nên nó Vô thường, không thường
hằng, không thường trú trong đốt mía. Nhờ Chánh trí tuệ như vậy mà chấm dứt
cực đoan Duy vật Chấp Có. Nhờ Chánh trí tuệ biết rằng đối tượng thực tại được
cảm nhận là Cảm thọ thuộc phàm trù tâm nhưng do Căn Trần tiếp xúc mà phát
sanh chứ không phải do Tâm sanh, không phải do Tâm tạo nên chấm dứt được
cực đoan Duy tâm Chấp Không. Mọi Danh pháp và Sắc pháp khác cũng phải
được thấy biết đúng sự thật với Chánh trí tuệ như vậy.
Ai với Chánh trí tuệ sẽ chấp nhận một pháp có thực, chấp nhận pháp đó thực sự
hiện hữu khi thuyết minh được: do cái gì (pháp nào) có mặt mà pháp đó có mặt,
do cái gì không có mặt mà pháp đó không có mặt. Họ sẽ không chấp nhận pháp
đó là có thực nếu như tuyên bố một pháp mà không thuyết minh được duyên
khởi của pháp đó, không chỉ ra được “do cái gì có mặt mà pháp đó có mặt, do cái
gì không có mặt mà pháp đó không có mặt”, họ sẽ khẳng định rằng pháp đó chỉ
là do tưởng tượng ra mà không có thực, không hiện hữu. Điều này trong Phật
giáo Bắc tông và Nam tông đều mắc phải, khi đề ra một số pháp là do tưởng
tượng mà không có thật. Ví như Bắc tông không thể nào thuyết minh được, do
cái gì có mặt mà A lại da thức, Mạt na thức có mặt hoặc Nam tông không thể
thuyết minh được, do cái gì có mặt mà tâm Hữu phần, tâm sở Mạng căn có mặt.

Về mục lục

Bài 025: CHÁNH TRÍ

Sự phân biệt Phàm và Thánh là ở lộ trình tâm. Nếu lộ trình tâm là Bát Tà Đạo,
thì đó là Phàm phu. Nếu lộ trình tâm là Bát Chánh Đạo thì đó là bậc Thánh. Khi
một vị đệ tử học tập, nghe giảng hoặc tự mình nghiên cứu kinh điển và tư duy
về điều đã học, đã nghe thì lộ trình tâm đó vẫn là Bát Tà Đạo, vẫn là Phàm phu.
Học tập và tư duy như vậy về Tứ Thánh Đế, Bát Chánh Đạo, thì đó gọi là Bát
Chánh Đạo hiệp thế. Khi thực hành Bát Chánh Đạo, lộ trình tâm Bát Chánh
Đạo khởi lên nơi vị ấy, thì đó là Bát Chánh Đạo siêu thế. Một vị đệ tử khi thực
hành có lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế khởi lên như vậy, thì được gọi là
Thánh đệ tử. Có hai loại Thánh đệ tử: Thánh đệ tử hữu học và Thánh đệ tử vô
học. Thánh đệ tử hữu học có ba bậc: Nhập lưu (Tu đà hoàn), Nhất lai (Tư đà
hàm), Bất lai (A na hàm). Thánh đệ tử vô học là các vị A La Hán. Lộ trình tâm
của Thánh đệ tử hữu học và Thánh đệ tử vô học đều là Bát Chánh đạo, đều gồm
tám chi phần: Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - Chánh Tư Duy -
Chánh Tri Kiến - Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng. Vậy thì có gì khác
nhau giữa bậc thánh hữu học và bậc Thánh vô học, một vị A La Hán? Bậc
Thánh hữu học có tám chi phần của Bát Chánh Đạo, bậc Thánh vô học ngoài
tám chi phần Bát Chánh Đạo còn có thêm hai chi phần là: Chánh Trí và Chánh
Giải Thoát, tức có mười chi phần.

Thế nào là Chánh Trí? Khi lộ trình tâm Bát Chánh đạo của một vị hữu học
khởi lên, có Chánh Tri Kiến là Trí Tuệ, là Minh thì lộ trình tâm Bát Tà Đạo có
Tà Tri Kiến là Vô Minh được nhiếp phục, và như vậy Khổ được nhiếp phục chứ
chưa được đoạn tận. Khi Chánh Tri Kiến là Minh được tu tập, được làm cho
viên mãn thì tại thời điểm đó, một đột chuyển xảy ra nơi "thẳm sâu tâm thức",
tức thông tin Minh xoá bỏ hoàn toàn thông tin Vô Minh trong "kho chứa tri
thức, hiểu biết, kinh nghiệm". Với đột chuyển này Bát Tà Đạo với Tà Tri Kiến,
Vô Minh đoạn diệt không có dư tàn và đó là quả vị A La Hán. Kinh điển
Nikaya mô tả thời điểm này là, sau khi được giải thoát (như vậy) Trí khởi lên:
ta đã được giải thoát. Vị ấy biết: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc
cần làm đã làm, không còn trở lui cuộc đời này nữa". Đây là Chánh Trí.

Nói là bậc Thánh hữu học có tám chi phần, còn bậc Thánh vô học có mười chi
phần cho dễ hình dung, cho dễ hiểu nhưng thực chất là sự khác nhau về Chánh
Tri Kiến của một vị hữu học và vô học. Chánh Tri Kiến của vị hữu học chỉ tuệ
tri được Lý Duyên Khởi, tuệ tri được Khổ Tập Diệt Đạo, còn Chánh Tri Kiến
của vị vô học không những tuệ tri được Lý Duyên Khởi, tuệ tri được Khổ Tập
Diệt Đạo mà còn tuệ tri được Chánh Trí và Chánh Giải Thoát. Đương nhiên một
vị hữu học cũng đã được nghe giảng, đã được học về Chánh Trí và Chánh Giải
Thoát nhưng đó là Văn Tuệ mà chưa phải là Tu Tuệ, chưa Thân Chứng hai chi
phần này. Ví như một người sống ở thành phố Hồ Chí Minh quanh năm không
có mưa dầm, gió bấc, người này đã nghe nói về mưa dầm gió bấc, đã đọc những
mô tả về mưa dầm gió bấc, đã tưởng tượng ra mưa dầm gió bấc... Nhưng những
hiểu biết do tư duy, tìm hiểu về mưa phùn gió bấc đó chỉ là tri thức chứ không
phải là thân chứng mưa phùn gió bấc. Chỉ khi người đó ra Hà Nội vào một ngày
mưa phùn gió bấc, lúc đó mưa phùn gió bấc thổi vào thân thể (tiếp xúc) phát
sinh Cảm giác và đồng thời Thân thức khởi lên cảm nhận Cảm giác đó. Đây mới
là Thân Chứng.

Chánh Trí là tự mình thấy, tự mình biết, không phải là Phật hay một vị A La
Hán khác ấn chứng hay xác nhận cho vị đó: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành,
những việc cần làm đã làm, không còn trở lui cuộc đời này nữa. Chỉ và chỉ khi
Chánh Trí khởi lên, vị đó mới tự mình thấy, tự mình biết như thật: Đức Phật là
bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp do Đức Phật khéo giảng và Chư Tăng khéo hành
trì, chứ không phải là Đức tin nữa. Đối với những đệ tử hữu học đương nhiên
phải có Đức tin: Đức Phật là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp do Đức Phật khéo
giảng và Chư Tăng khéo hành trì nhưng đức tin này được chia làm hai loại. Loại
thứ nhất là mê tín, tức đức tin phát sinh trên sự hiểu biết không đúng như thật về
Phật, về Pháp, về Tăng, thuộc về đa phần đệ tử là Phàm phu chưa phải là Thánh
đệ tử. Loại thứ hai là Chánh tín, là đức tin do hiểu biết đúng như thật về Phật, về
Pháp, về Tăng thuộc về Thánh đệ tử hữu học. Tuy Chánh tín là đức tin phát sinh
do hiểu biết đúng như thật về Phật, về Pháp, về Tăng nhưng nó đang thuộc phần
tri thức chứ chưa phải là Thân Chứng như hiểu biết của vị vô học. Chính vì vậy,
cho đến khi "Thân Chứng" Chánh Trí, vị Thánh đệ tử hữu học mới chỉ là "Tin"
có Phật thật, có Pháp thật, có Tăng thật mà thôi.

Bản kinh Tiểu Kinh Dụ Dấu Chân Voi thuộc Trung Bộ Kinh đã thuyết minh rất
rõ vấn đề này, giúp cho vị Thánh đệ tử hữu học có được hiểu biết thấu đáo. Đức
Thế Tôn đã giảng: Này Bà La Môn, một người săn voi đi vào khu rừng có voi
ở. Người đó thấy một dấu chân voi lớn trong rừng voi, dài bề dài và rộng bề
ngang. Nếu người đó là một thợ săn voi thiện xảo, người đó không đi đến kết
luận: "Con voi đực này chắc chắn to lớn". Vì sao vậy? Này Bà-la-môn, trong
rừng voi, có những loại voi cái lùn thấp, có dấu chân lớn, có thể dấu chân này
thuộc loại voi này. Người đó đi theo dấu chân ấy. Trong khi đi theo, người đó
thấy trong rừng voi một dấu chân voi lớn, dài bề dài và rộng bề ngang, và
những vật cao đều bị cọ xát. Nếu người đó là một thợ săn voi thiện xảo, người
đó không đi đến kết luận: "Con voi đực này chắc chắn to lớn. Vì sao vậy? Này
Bà-la-môn, trong rừng voi, có những loại voi cái có ngà, có dấu chân lớn, có thể
dấu chân này thuộc loại voi này. Người đó đi theo dấu chân ấy. Trong khi đi
theo, người đó thấy trong rừng voi, một dấu chân voi lớn, dài bề dài và rộng bề
ngang, những vật cao bị cọ xát, và những vật cao bị ngà voi cắt chém. Nếu
người đó là một thợ săn voi thiện xảo, người đó không đi đến kết luận: "Con voi
đực này chắc chắn to lớn". Vì sao vậy? Này Bà-la-môn, trong rừng voi, có
những loại voi cái có ngà lớn, có dấu chân lớn, có thể dấu chân này thuộc loại
voi này. Người đó đi theo dấu chân ấy. Trong khi đi theo, người đó thấy trong
rừng voi một dấu chân voi lớn, dài bề dài và rộng bề ngang, những vật cao bị cọ
xát, những vật cao bị ngà voi cắt chém, và những vật cao bị gãy các cành. Và
người đó thấy một con voi đực dưới gốc cây hay ở ngoài trời, đang đi, đang
đứng, đang ngồi hay đang nằm, người đó đi đến kết luận: "Con voi này thật là
con voi đực lớn".

Một vị Thánh đệ tử hữu học cũng giống như người thợ săn thiện xảo, thực hành
pháp Thế tôn là ĐẾN ĐỂ MÀ THẤY, bỏ qua một bên những hiểu biết, những
kết luận một chiều. Và phải ĐẾN ĐỂ MÀ THẤY rốt ráo nhất, tối hậu, đó là
Chánh Trí và Chánh Giải Thoát.

Bài Kinh Tiểu Kinh Dụ Dấu Chân Voi đã dạy rõ: Cho dù vị Thánh đệ tử hữu
học có được Thánh giới uẩn cao quý, có được Thánh hộ trì các căn, có được
Thánh Chánh niệm Tỉnh giác đến mức độ: Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh
giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác, khi co tay, khi duỗi tay đều
tỉnh giác, khi mang y kép, y bát đều tỉnh giác, khi ăn, uống, nhai, nuốt, đều tỉnh
giác, khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi, đứng, ngồi nằm, thức, nói,
yên lặng đều tỉnh giác. Nghĩa là vị đó an trú được cái biết Tỉnh Giác, an trú
được Không Giải Thoát hay Tâm Giải Thoát trong mọi động tác như vậy thì
Chánh Trí vẫn chưa khởi lên và vẫn chưa Thân Chứng được "Đức Phật là bậc
Chánh Đẳng Giác, Pháp mà Đức Thế Tôn khéo giảng và Chư Tăng khéo hành
trì".

Cho dù vị Thánh đệ tử hữu học ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Sơ thiền,
một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh với tầm với tứ. Diệt tầm diệt tứ chứng và
trú Nhị thiền, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh
nhất tâm. Ly hỷ trú xả, thân cảm lạc thọ mà bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú,
chứng và trú Tam thiền. Xả lạc, xả khổ, diệt trừ hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng
và trú Tứ thiền, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, thì Chánh Trí vẫn
chưa khởi lên và vị đó vẫn chưa có thể Thân Chứng "Đức Phật là bậc Chánh
Đẳng Giác, Pháp mà Đức Thế Tôn khéo giảng và Chư Tăng khéo hành trì".

Cho dù vị Thánh đệ tử hữu học với tâm định tĩnh, nhu nhuyễn dễ sử dụng, vững
chắc, bình thản, không cấu nhiễm như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Túc
Mạng Minh, đến Thiên Nhãn Minh vị ấy biết các kiếp quá khứ từ một kiếp cho
đến trăm ngàn kiếp,... hay biết được chúng sinh người hạ liệt, kẻ cao sang,
người đẹp đẽ, kẻ thô xấu... đều do hạnh nghiệp của chúng, thì Chánh Trí vẫn
chưa khởi lên, vẫn chưa Thân Chứng được "Phật là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp
do Đức Phật khéo giảng và Chư Tăng khéo hành trì".

Cho dù vị Thánh đệ tử hữu học với tâm không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử
dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí.
Vị ấy biết như thật: "Ðây là Khổ", biết như thật: "Ðây là Nguyên nhân của
khổ", biết như thật: "Ðây là Khổ diệt", biết như thật: "Ðây là Con đường đưa
đến khổ diệt", biết như thật: "Ðây là những lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là
nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là các lậu hoặc diệt", biết như
thật: "Ðây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt", thì Chánh Trí vẫn chưa khởi
lên và vị ấy vẫn chưa Thân Chứng được "Đức Phật là bậc Chánh Đẳng Giác,
Pháp do Đức Thế Tôn khéo giảng và Chư Tăng khéo hành trì".

Cho đến khi, vị Thánh đệ tử hữu học ấy nhờ THẤY NHƯ VẬY, BIẾT NHƯ
VẬY mà MỌI LẬU HOẶC ĐƯỢC ĐOẠN TẬN. Đối với tự thân đã giải thoát
như vậy, Vị ấy biết, ta đã được giải thoát, Chánh Trí khởi lên: Sanh đã tận, phạm
hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lui cuộc đời này nữa.
Cho đến như vậy vị ấy mới Thân Chứng được "Phật là bậc Chánh Đẳng Giác,
Pháp do Đức Phật khéo giảng và Chư Tăng khéo hành trì". Chỉ lúc này vị ấy mới
Thân Chứng Sự chấm dứt Khổ là có thực, Con đường chấm dứt Khổ là có thực,
Tứ Thánh Đế là có thực nghĩa là Thân chứng được Pháp do Đức Thế Tôn khéo
thuyết giảng. Có Giáo Pháp mà nhờ Giáo Pháp đó mà tự thân vị ấy đã giải thoát
thì vị ấy sẽ xác chứng được có Đức Phật là bậc Chánh Đẳng Giác, là bậc tự mình
giác ngộ, không thầy chỉ dạy mới có thể giảng dạy được Giáo Pháp này và xác
chứng được đã có những vị Tăng giác ngộ như mình.

Một vị Thánh đệ tử hữu học, cho đến giây phút chót thì vẫn là Chánh Tín chứ
không phải Chánh Trí nên không phải mọi hiểu biết của vị đó đều là Chánh
Kiến. Kho chứa tri thức, hiểu biết, kinh nghiệm của vị đó chưa thanh lọc, chưa
đoạn tận Vô Minh, nên khi có Chánh Niệm, Vô Minh được nhiếp phục, nhưng
khi không có Chánh Niệm, Tà Niệm khởi lên thì Tà Tri Kiến Vô Minh hiện
khởi. Chính vì điều này, một vị Thánh đệ tử, giống như người thợ săn thiện xảo,
không nên đi đến tuyên bố theo đức tin: Phật là như thế này, không phải như thế
kia, Pháp là như thế này, không phải như thế kia, như thế này mới đúng, như thế
kia là sai. Vị ấy chỉ nên nói lên hiểu biết của mình: Theo tôi Phật là như thế này,
Pháp là như thế này và như vậy vị ấy không đi đến tranh cãi, hơn thua với một
ai. Vị ấy nên biết rõ: Ai cũng đúng theo đức tin, theo hiểu biết của họ. Chỉ có
các vị đã giác ngộ, các bậc A La Hán có Chánh Trí và Chánh Giải Thoát mới có
"thẩm quyền" nói về Phật, về Pháp, về Tăng. Có rất nhiều hiểu biết mà bậc
Thánh hữu học tin tưởng tuyệt đối cho đến giây phút chót, nhưng khi Chánh Trí
khởi lên mới tuệ tri đó là Vô Minh. Chánh Trí khởi lên mới xác chứng cái hiểu
biết đúng sự thật mà bậc Chánh Đẳng Giác thuyết giảng hoàn toàn trái ngược
hiểu biết thế gian. Một vị có Chánh Trí mới có thể biết rõ Đức Phật thuyết giảng
những gì, những gì Ngài không nói đến, mới phân biệt rõ trong rừng kinh điển
đang lưu truyền đâu là điều Phật nói, đâu là những điều vì tính chất tôn giáo mà
thêm vào, đâu là lời dạy thật của Phật nhưng được diễn tả theo phong cách ẩn
dụ, đâu là là những hiểu biết sai lạc của người sau, những giải nói của người
sau, nhưng lại gán cho Phật nói. Chỉ khi có Chánh Trí mới có thể Thân Chứng
được lời này của Phật: “Pháp mà Ta chứng được sâu kín, khó thấy, khó biết,
tịch tịnh, mỹ diệu vượt qua mọi tư duy lý luận suông, tế nhị, chỉ người trí mới
có khả năng giác hiểu. Còn quần chúng này thì đam mê ái dục, bị ái dục ràng
buộc nên Lý Duyên Khởi là một điều rất khó lãnh hội và Niết Bàn, sự từ bỏ mọi
khát ái, sự chấm dứt khát ái, sự đoạn tận mọi khát ái cũng là điều rất khó lãnh
hội.”

Để có được sự đột chuyển nơi "thẳm sâu tâm thức", là nhân duyên cho Chánh
Trí khởi lên, một vị Thánh đệ tử phải thực hành Bát Chánh Đạo siêu thế liên tục
không dừng nghỉ. Từ khi thức dậy đến khi đi vào giấc ngủ, trong khoảng hai
mươi giờ của một ngày, Chánh Niệm về Thân Thọ Tâm Pháp (nhớ đến chú tâm
quán sát Thân Thọ Tâm Pháp) khởi lên không ngừng nghỉ, không có một Tà
Niệm nào chen vào và như vậy Bát Chánh Đạo siêu thế sẽ khởi lên liên tục
không gián đoạn. Nối liền sự thực hành như vậy tối thiểu bảy ngày đêm, chắc
chắn đột chuyển sẽ xảy ra. Thông tin Minh được tu tập viên mãn sẽ xoá bỏ
thông tin Vô Minh và lập trình lộ trình tâm Bát Tà Đạo (tương tự như một phần
mềm được cài đặt trong máy tính) bị phá bỏ hoàn toàn, lập trình lộ trình tâm Bát
Chánh Đạo đã hình thành được cài đặt thay thế. Sự đột chuyển này xảy ra nơi
các ADN của các tế bào thần kinh não bộ, bởi lượng thông tin "tri thức, hiểu
biết, kinh nghiệm, Minh, Vô Minh" được lưu giữ trong ADN của các tế bào. Sự
xoá bỏ thông tin Vô Minh bởi thông tin Minh xảy ra trong ADN nên sẽ phát
sinh Nội Xúc và Nội Xúc này sẽ gây nên một cảm giác trên thân vô cùng lạ lẫm,
chưa từng bao giờ xảy ra. Cảm giác lạ lẫm này có thể tồn tại khoảng vài ba
phút. Lúc đó có thể thoáng lên câu hỏi: cái gì vậy? Nhưng tiếp liền sau đó một
xác chứng khởi lên: đây là chứng đạt Niết bàn. Tiếp đó khởi lên, không những
vậy mà còn chứng đạt VÔ THƯỜNG, chứng đạt VÔ NGÃ, chứng đạt KHỔ,
chứng đạt NIẾT BÀN. Biết rất rõ rằng VÔ MINH và THAM ÁI, TÌM CẦU
những Cảm giác dễ chịu (Lạc thọ) để thay thế những Cảm giác Khó chịu và
Trung tính (Khổ thọ và Bất khổ bất lạc thọ) đã chấm dứt hoàn toàn. Biết rất rõ
rằng, mọi việc đã làm xong, mọi dự định, mọi toan tính, mọi công việc ở đời đều
không còn, gánh nặng đã được đặt xuống, không còn ràng buộc với bất kỳ một
cái gì, bất kỳ một ai ở đời. Không có vui mừng, hoan hỷ, sung sướng, mà hoàn
toàn bình thản, tĩnh lặng, không vui, không buồn, không có ý muốn chia sẻ với
bất kỳ một ai. Sau sự kiện như vậy, tâm thức thay đổi toàn diện, tận gốc rễ.
Cảm nhận về sự đột chuyển của mỗi vị giác ngộ có thể khác nhau chút ít, nội
dung có thể khác nhau chút ít nhưng tất cả đều bao hàm trong Chánh Trí đã
được mô tả: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm,
không còn trở lui cuộc đời này nữa.

Về mục lục

Bài 026: CHÁNH KIẾN DẪN ĐẦU

Trong quan niệm của người tu Phật theo Phật Giáo Nam tông là phải thực hành
tuần tự: Bố thí, Trì giới, Tham thiền... nhưng ít khi người tu được giảng dạy,
được nhắc nhở, được sách tấn rằng phải thực hành các pháp đó với Chánh Kiến.
Vì sao vậy? Vì chưa có Trạch Pháp để phân biệt rõ ràng có hai cách thực hành
các pháp đó. Một là thực hành bố trí, trì giới, tham thiền với Tà Kiến, Vô Minh.
Hai là thực hành bố thí, trì giới, tham thiền với Chánh Kiến, Minh, Trí Tuệ. Nếu
không phân biệt minh bạch hai loại thực hành với Chánh Kiến và Tà Kiến thì sự
thực hành đó rất mệt nhọc nhưng vô ích, chẳng có thể thành tựu mục đích thực
hành Pháp mà Đức Thế Tôn đã khéo léo thuyết giảng, không thể đoạn tận khổ
đau, không thể đoạn tận sinh tử luân hồi. Ví như bố thí có hai cách:

- Một là, bố thí với tâm mong cầu phước báo, bố thí với tâm trói buộc vào kết
quả, bố trí với tâm mong cầu được chất chứa, bố thí với ý nghĩ: "Ta sẽ thọ
hưởng cái này trong đời sau". Với tâm như vậy, vị ấy bố thí cho các Sa môn, Bà
la môn đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, hương thơm, hương liệu, giường nằm,
các trú xứ, đèn đuốc... Bố thí như vậy là Tà Kiến, phát xuất từ động cơ Tham
Ái.

- Hai là, bố thí với tâm không cầu mong phước báo, bố thí với tâm không trói
buộc vào kết quả, bố thí với tâm không mong cầu chất chứa, bố thí không với ý
nghĩ "ta sẽ thọ hưởng cái này trong đời sau, bố thí không với ý nghĩ "lành thay
sự bố thí", bố thí không với ý nghĩ "cái này đã được cho trong đời quá khứ, ta
không nên để truyền thống gia đình bị bỏ quên", bố thí không với ý nghĩ "ta là
người có ăn, các người này không có ăn, ta không xứng đáng là người có ăn, lại
không bố thí cho người không có ăn", bố thí không với ý nghĩ "do ta bố thí vật
này, tâm được tịnh tín, hỷ duyệt khởi lên". Nhưng vị ấy bố thí với ý nghĩ để
trang nghiêm tâm, để trang bị tâm (để đoạn trừ tham sân si). Với tâm như vậy,
vị ấy bố thí cho các Sa môn, Bà la môn đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng
hoa, hương thơm, hương liệu, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc... Bố thí như vậy là
Chánh Kiến, không có Tham Sân Si.

Đối với các pháp khác như trì giới, tham thiền... cũng phải học hỏi, tư duy để
phân biệt Chánh Kiến và Tà Kiến để đoạn trừ Tà Kiến. Vì vậy, Chánh Kiến dẫn
đầu là vậy, và Chánh Kiến đi đầu này chính là Văn Tuệ và Tư Tuệ vậy.
Về mục lục

Bài 027: DUYÊN KHỞI CHÁNH TRI KIẾN

Trong bài kinh Đại Kinh Phương Quảng thuộc Trung Bộ Kinh, có câu hỏi và
câu trả lời như sau:

- Này Hiền giả, có bao nhiêu duyên khiến Chánh Tri Kiến sanh khởi?

- Này Hiền giả, có hai duyên khiến Chánh Tri Kiến sanh khởi: TIẾNG CỦA
NGƯỜI KHÁC và NHƯ LÝ TÁC Ý. Này Hiền giả, do hai duyên này mà Chánh
Tri Kiến sanh khởi.

Chánh Tri Kiến là tâm biết ý thức, biết đúng như thật đối tượng đó là gì, tính
chất ra sao, còn có tên gọi là Minh, là Trí Tuệ, và trong kinh Pháp Môn Căn
Bản gọi là Liễu tri các pháp. Vì sao Chánh Tri Kiến hay Tuệ sanh khởi do hai
duyên như vậy? Tuệ hay Chánh Tri Kiến mà Giáo Pháp của Đức Thế Tôn
thuyết giảng có ba loại Tuệ, nếu nói chính xác là có ba cấp độ Tuệ: Tuệ do
nghe giảng gọi là Văn Tuệ, Tuệ do tư duy về những điều đã được nghe giảng
gọi là Tư Tuệ và Tuệ do tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế gọi là Tu Tuệ.

1- Tuệ sanh khởi do tiếng của người khác: Khi được nghe Như Lai hoặc đệ
tử Như Lai đã Liễu tri các pháp thuyết giảng mà CÓ ĐƯỢC HIỂU BIẾT
ĐÚNG NHƯ THẬT về Lý Duyên Khởi, về Vô thường, về Vô ngã, về Khổ, về
Nguyên nhân Khổ, về Chấm dứt Khổ (Niết bàn), về Con đường chấm dứt Khổ
thì đó là Chánh Tri Kiến khởi lên. Chánh Tri Kiến khởi lên do duyên tiếng nói
người khác như vậy gọi là Văn Tuệ.

2 - Tuệ sanh khởi do Như lý tác ý: Tác ý là một hành vi thuộc phạm trù Tâm
(còn được gọi là tâm hành) là một hành vi rất vi tế, khó thấy, khó biết. Tác ý là
nhân phát sinh ra lời nói, hành động hoặc một lộ trình tâm mới, nói nôm na theo
tiếng Việt là quyết định làm. Ví như, muốn giơ tay lên nhưng chỉ có muốn đó
thôi thì hành vi giơ tay không xảy ra, mà muốn rồi phải tác ý giơ tay khởi lên thì
hành động giơ tay mới xảy ra. Tác ý phát sinh do hiểu biết không đúng như thật
(Vô minh) gọi là Phi như lý tác ý. Tác ý phát sinh trên hiểu biết đúng như thật
(Minh) gọi là Như lý tác ý.

- Tư Tuệ phát sinh do duyên Như lý tác ý: Sau khi nghe giảng hoặc tự đọc
kinh điển có được Văn Tuệ và những thông tin về Văn Tuệ đó được lưu giữ
trong kho chứa Pháp trần, nếu có tác ý hướng tâm đến tư duy về những điều đã
được nghe trên thì tác ý như vậy gọi là Như lý tác ý. Do Như lý tác ý như vậy
mà hành vi Tư Duy xảy ra. Hành vi Tư Duy về Văn Tuệ như vậy sẽ phát sinh
hiểu biết đúng như thật về những điều đã nghe sâu sắc hơn, rộng lớn hơn Văn
Tuệ. Hiểu biết phát sinh do Tư Duy như vậy chính là Chánh Tri Kiến và được
gọi là Tư Tuệ.

- Tu Tuệ phát sinh do duyên Như lý tác ý: Do Văn Tuệ và Tư Tuệ như vậy mà
phát sinh Như lý tác ý, là tác ý đến tu tập, để khởi lên lộ trình tâm Bát Chánh
Đạo siêu thế với ba yếu tố hay ba chi phần căn bản và là trục chính, là xương
sống của Bát Chánh Đạo siêu thế. Đó là: Chánh Niệm - Chánh Định - Chánh Tri
Kiến nói tắt là NIỆM - ĐỊNH - TUỆ. Chánh Tri Kiến hay Tuệ trên lộ trình tâm
Bát Chánh Đạo siêu thế là sự trải nghiệm, là sự chứng ngộ, là THẤY BIẾT
NHƯ THẬT những điều đã học (Văn Tuệ), đã tư duy (Tư Tuệ), là sự Giác Ngộ
về Thực Tại, về Duyên Khởi, về Vô Thường, Vô Ngã, về Khổ Tập Diệt Đạo.
Đó là lý do để nói lên Chánh Tri Kiến sanh khởi do hai duyên: Tiếng nói người
khác và Như lý tác ý. Điều này cũng khẳng định tính nhất quán, xuyên suốt
trong sự thuyết giảng của Đức Thế Tôn, là muốn có Giải Thoát tối hậu, muốn
đạt được Chánh Trí: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã
làm, không còn trở lui trạng thái (hiện hữu) này nữa thì không thể có lộ trình
nào khác ngoài lộ trình VĂN - TƯ - TU, để phát sinh ba loại Tuệ. Trong lộ trình
Văn - Tư - Tu, ba loại Tuệ đều rất quan trọng nhưng Văn Tuệ là nền tảng mà từ
đó phát triển và hoàn thiện thành Tư Tuệ và Tu Tuệ. Vì vậy, nếu không nghe
Như Lai hoặc đệ tử Như Lai (đã có hoặc Văn Tuệ và Tư Tuệ hoặc cả ba) thì
không thể nào có Tuệ Giải Thoát. Trí Tuệ này khởi lên là phải do duyên TIẾNG
NÓI NGƯỜI KHÁC, nó không có sẵn trong Phật tánh không sinh không diệt,
không có sẵn trong Tánh Biết không sinh không diệt, không có sẵn trong một
cái tâm nào đó để tâm truyền tâm (truyền tâm ấn), không phải là Vô sư trí không
thầy chỉ dạy có sẵn nơi tâm mỗi người, không phải do Định mà phát Tuệ này,
không phải do định phát sinh ánh sáng trí tuệ soi rõ pháp giới. Tuệ này chỉ do
một người duy nhất, độc nhất vô nhị, không thầy chỉ dạy đạt được và thuyết
giảng. Đó là Bậc Chánh Đẳng Giác Thích Ca Mâu Ni. Trước khi chứng ngộ Trí
Tuệ này, Ngài vẫn còn Vô minh, không có sẵn Trí Tuệ này nhưng với trí thông
minh đặc biệt, Ngài đã quan sát sự thật và Tư Duy trên sự thật quan sát đó mà
Ngài có được Trí Tuệ. Cùng là quan sát khám phá sự thật như khoa học, nhưng
sự khác biệt của Ngài và các nhà khoa học cũng quan sát, khám phá sự thật là:
Các nhà khoa học sau khi quan sát sự thật lại Tư Duy để hiểu biết về sự thật
quan sát bằng TRI THỨC KINH NGHIỆM ĐÃ TÍCH LUỸ TRONG QUÁ
KHỨ và do vậy mà hiểu biết do Tư Duy như vậy sẽ là hiểu biết sai sự thật, là vô
minh do những tri thức kinh nghiệm quá khứ của nhân loại đã tích luỹ là vô
minh, là không đúng sự thật. Đức Phật cũng quan sát sự thật rồi Tư Duy trên sự
thật quan sát, mà KHÔNG SỬ DỤNG CÁC TRI THỨC, KINH NGHIỆM VÔ
MINH ĐÃ TÍCH LUỸ TRONG QUÁ KHỨ và do vậy mà có được Trí Tuệ, có
được HIỂU BIẾT ĐÚNG NHƯ THẬT các sự vật và hiện tượng, các pháp.

Về mục lục

Bài 028: TẠI SAO CHỈ LÀ THAM ÁI?

Trong hiểu biết đúng đắn của người học đạo cũng như trong tinh thần thấm
nhuần toàn bộ Kinh điển, Nguyên nhân Khổ là Tham Sân Si, nhưng tại sao
trong bài kinh Chuyển Pháp Luân và một số bài kinh quan trọng khác Đức Phật
chỉ nói Tham ái là Nguyên nhân Khổ. Cụ thể Nguyên nhân Khổ là do "Tham ái
đưa đến tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia như Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái". Muốn

hiểu tại sao Đức Phật chỉ nói Tham ái là Nguyên nhân Khổ, mà không nói đến
Sân Si cũng là Nguyên nhân khổ, phải quan sát sự thật, đang xảy ra trong đời
sống hàng ngày của nhân loại.

- Khi đối diện với một đối tượng DỄ CHỊU mà thực chất là một Cảm giác dễ
chịu (thuật ngữ Phật học gọi là Lạc thọ) thì Phàm phu thích thú đối tượng
(Tham ái). Do Tham ái đối tượng mà muốn chiếm hữu, muốn sở hữu, muốn
nắm giữ đối tượng (Thủ). Vì đối tượng Vô Thường nên khi nó biến hoại, biến
diệt, biến mất, Sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên. Nếu đối diện đối tượng dễ chịu
mà không yêu thích thì không muốn chiếm hữu, không muốn sở hữu, không
nắm giữ nên khi nó mất đi, Sầu bi khổ ưu não không thể khởi lên. Vì vậy Tham
ái là Nguyên nhân phát sinh Khổ.

- Đã bị Tham ái đối tượng DỄ CHỊU chi phối, thì khi không có đối tượng dễ
chịu, mà lại có đối tượng KHÓ CHỊU (thực chất là Cảm giác khó chịu, Khổ thọ)
thì chán ghét đối tượng khởi lên (Sân) và do Sân mà phát sinh Sầu bi khổ ưu
não. Nếu không yêu thích đối tượng dễ chịu thì sẽ không chán ghét đối tượng
khó chịu và Khổ không thể khởi lên. Vậy Sân là Nguyên nhân phát sinh Khổ,
cũng có nguồn gốc sâu xa từ Tham ái.

- Đã bị Tham ái đối tượng DỄ CHỊU chi phối, thì khi không có đối tượng dễ
chịu, mà lại có đối tượng TRUNG TÍNH (thực chất là Cảm giác trung tính, Bất
khổ bất lạc thọ) thì không thích, không ghét (không Tham, không Sân) nhưng
lại tìm kiếm một đối tượng dễ chịu để thay thế đối tượng trung tính đó, hành vi
này do Si khởi lên và do Si mà khởi lên Sầu bi khổ ưu não. Nếu không yêu thích
đối tượng dễ chịu, thì sẽ không tìm kiếm đối tượng dễ chịu để thay thế đối
tượng trung tính và Khổ sẽ không khởi lên. Vậy Si là Nguyên nhân phát sinh
Khổ, cũng có nguồn gốc sâu xa từ Tham ái.
Qua quán sát như vậy để Thấy Biết như thật Sân Si là những "BIẾN THỂ" của
Tham ái, vì vậy Đức Phật chỉ cần thuyết minh Tham ái là Nguyên Nhân phát
sinh Khổ.

Lời dạy của Đức Phật rất ngắn gọn, rất súc tích dành cho người trí sử dụng như
một phương tiện, để tự mình quan sát, tự mình tìm hiểu, tự mình tư duy nơi SỰ
THẬT, để tự mình thấy ra sự thật nơi lời dạy của Phật. Không thể hiểu đúng
như thật lời dạy của Phật, nếu tiếp thu lời dạy của Phật theo phương thức NHỒI
SỌ, theo phương thức ĐỨC TIN vì Giáo pháp là ĐẾN ĐỂ MÀ THẤY không
phải NGHE ĐỂ MÀ TIN.

Về mục lục

Bài 029: CHÁNH NIỆM VỀ THAM SÂN SI

Có vấn đề mà nhiều người tu tập băn khoăn: Có phải Chánh Niệm là “Nhớ đến
chú tâm quan sát Tham Sân Si” và lúc đó Tham Sân Si sẽ diệt đi không? Có
phải khi Tham Sân Si khởi lên thì chỉ cần biết có Tham Sân Si là đủ và sống
trọn vẹn với "cái thực tại đang là" ấy không? Đây là những hiểu lầm, hiểu sai rất
tai hại khi tu tập Giáo Pháp, nó xuất phát từ tư duy, lý luận suông mà tưởng
tượng ra các kiến giải như vậy. Người tu phải ngay nơi Pháp học, Pháp hành
thấy biết như thật, có hai thực tại: Thực tại Thế gian của Phàm phu có Tham
Sân Si và Thực tại Xuất thế gian của bậc Thánh (Hữu học và Vô học) không có
Tham Sân Si.

1 - THỰC TẠI THẾ GIAN: Phàm phu sau khi Thấy, Nghe, Cảm nhận đối
tượng (gọi chung là THẤY) Tà Niệm - Tà Tư Duy khởi lên, phát sinh tâm biết
Ý thức, hiểu biết sai lạc, không đúng sự thật đối tượng. Hiểu biết này gọi là Tà
Tri Kiến, là Vô Minh và chính nó là nguyên nhân phát sinh Tham Sân Si và
Tham Sân Si là nhân phát sinh Phiền Não. Đây là lộ trình tâm Bát Tà Đạo của
Phàm phu, có VÔ MINH, có THAM SÂN SI, có PHIỀN NÃO. Trong Hiểu biết
Vô minh, có nội dung không đúng sự thật về Khổ Tập Diệt Đạo, nên cũng hiểu
biết không đúng như thật về Tham, về Sân, về Si. Cụ thể ý thức Tà Tri Kiến, Vô
minh biết Tham là một đối tượng Dễ chịu, sẽ mang lại Hạnh phúc, sẽ Chấm dứt
Khổ cho Ta, nên khi biết có Tham, thì Tham phát sinh tiếp (Tham sẽ tăng
trưởng). Ý thức Tà Tri Kiến biết Sân là một đối tượng Khó chịu, sẽ mang Đau
khổ đến cho Ta, phải xua đuổi nó, nên khi biết có Sân, thì Sân sẽ tiếp tục phát
sinh, tăng trưởng. Ý thức Tà Tri Kiến biết Si là hành vi tìm kiếm đối tượng Dễ
chịu (Hạnh phúc) để thay thế đối tượng Trung tính, sẽ mang Hạnh phúc đến, sẽ
Chấm dứt Khổ cho Ta, nên khi biết có Si, thì Si sẽ sẽ tiếp tục phát sinh, tăng
trưởng. Trong Thực tại Thế gian có Vô minh, có Tham Sân Si, có Phiền Não,
thì Ý thức Tà Tri Kiến khi có Tham vẫn biết có tham, khi có Sân vẫn biết có
sân, khi có Si vẫn biết có si, chứ không phải không biết, nhưng là hiểu biết Tà
kiến về Tham Sân Si chứ không phải Chánh kiến về Tham Sân Si, nên Tham
Sân Si sẽ tăng trưởng chứ không đoạn diệt, bởi Tà kiến là Nguyên nhân phát
sinh Tham Sân Si. Khi một lộ trình tâm có Tham Sân Si, thì lộ trình tâm đó là
Bát Tà Đạo thuộc về Phàm phu, đương nhiên lộ trình tâm đó có Ý thức Tà Tri
Kiến là Vô minh do Tà Niệm - Tà Tư Duy phát sinh và như vậy, không thể có
mặt Chánh Niệm để mà quan sát Tham Sân Si. Vì vậy, không thể có sự kiện
dùng Chánh Niệm để quán sát, diệt trừ Tham Sân Si, và càng không thể sống
trọn vẹn với thực tại có Tham Sân Si mà lại Giải thoát, không có Phiền não. Sự
kiện này không thể xảy ra.

2 - THỰC TẠI XUẤT THẾ GIAN: bậc Thánh (Hữu học và Vô học) sau khi
Thấy, Nghe, Cảm nhân đối tượng (gọi chung là THẤY), Chánh Niệm khởi lên.
Do Chánh Niệm khởi lên mà Bát Chánh Đạo sẽ khởi lên theo định luật Duyên
khởi. Trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo có THẤY là Tỉnh giác (Thắng tri) và
BIẾT là Ý thức Chánh Tri Kiến, là Minh, là Trí Tuệ, hiểu biết như thật đối
tượng. Trong đó có hiểu biết đúng như thật về Khổ Tập Diệt Đạo, hiểu biết
đúng như thật về Tham Sân Si là nguyên nhân của Phiền não. Trên Bát Chánh
Đạo không có Vô minh, không có Tham Sân Si, không có Phiền não. Vì vậy,
trong Thực tại Xuất Thế gian không thể có Tham Sân Si để mà quan sát nó,
diệt trừ nó. Lúc đó, hành giả sống trọn vẹn với Thực tại Xuất Thế Gian có Giải
thoát, không có Phiền Não.

3 - TU LÀ LÀM KHỞI LÊN BÁT CHÁNH ĐẠO SIÊU THẾ: lúc đó Thực tại
Xuất Thế gian được khởi lên. Vì vậy, Thực tại Thế gian được nhiếp phục,
không khởi lên. Hành giả an trú Thực tại Xuất Thế gian thì đâu có Tham Sân Si
để mà quan sát.

Khi thực hành Tứ Niệm Xứ, thực hành bốn Chánh Niệm về Thân Thọ Tâm
Pháp trong 5 phút, 10 phút, một giờ, một ngày, một tháng... nếu Chánh Niệm
khởi lên liên tục thì Tà Niệm được nhiếp phục. Vì vậy, Bát Tà Đạo, Thực tại
Thế gian được nhiếp phục, và trong khoảng thời gian đó, Bát Chánh Đạo, Thực
tại Xuất Thế Gian có mặt và Người tu sẽ an trú Thực Tại Xuất Thế gian không
có Tham Sân Si. Trong khoảng thời gian đó không hề tồn tại Tham Sân Si, nên
không thể có sự kiện, dùng Chánh Niệm để quan sát Tham Sân Si. Chỉ cần thực
hành Chánh Niệm, lúc đó Bát Chánh Đạo khởi lên và Ý thức Chánh Tri Kiến sẽ
Tuệ tri không có tham, không có sân, không có si và đó cũng là TUỆ TRI KHỔ
DIỆT, TUỆ TRI NIẾT BÀN. Sự thực hành mà Đức Phật dạy chỉ tóm gọn trong
một câu: Ngồi kiết già lưng thẳng, an trú Chánh Niệm trước mặt là vậy.

Trong kinh Niệm Xứ thuộc Trung Bộ Kinh, phần Quán Tâm có nói: khi có tâm
tham, "tuệ tri" tâm có tham, khi có tâm sân "tuệ tri" tâm có sân, khi có tâm si,
"tuệ tri" tâm có si, có trái với giải thích trên không? Phải hiểu "tuệ tri" Tham
Sân Si là tâm biết ý thức Chánh Tri Kiến trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo có nội
dung, biết như thật Tham Sân Si là Nguy hiểm, Tham Sân Si là Nhân sanh Khổ.
Điều này phải xảy ra trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo vào thời điểm đã kết thúc
lộ trình tâm Bát Tà Đạo có Tham Sân Si trước đó. Ví như trong khoảng thời
gian 3 phút, Bát Tà Đạo có mặt với Tham Sân Si, nhưng hết 3 phút thì một lộ
trình tâm có Chánh Niệm, tức Bát Chánh Đạo khởi lên, lúc đó Ý thức Chánh Tri
Kiến biết có Tham, hoặc biết có Sân, hoặc biết có Si của lộ trình Bát Tà Đạo
TRƯỚC ĐÓ VÀ ĐÃ DIỆT. Chánh Tri Kiến biết như thật (nhưng là biết về lộ
trình Bát Tà Đạo đã diệt), Tham Sân Si là nguy hiểm, Tham Sân Si là nhân sanh
khổ thì Tham Sân Si không thể tiếp tục khởi lên. Đây gọi là Tuệ tri Tham, Tuệ
tri Sân, Tuệ tri Si.

Về mục lục

Bài 030: LIỄU TRI THAM SÂN SI

Người tu học Phật với mục đích tối hậu là đoạn tận Tham Sân Si, nhưng nếu
không hiểu biết đúng sự thật một cách toàn diện, không Liễu tri Tham Sân Si thì
sẽ không đạt được mục đích. Hình dung như một người mù đánh nhau với
người sáng mắt, người mù không thấy đối thủ nên không thể chống đỡ, không
thể tránh né được các đòn đánh của đối phương và thua cuộc là phần chắc. Cũng
y như vậy, người tu mà không Liễu tri Tham Sân Si thì sẽ bị Tham Sân Si
khống chế và đánh gục là phần chắc. Để Liễu Tri Tham Sân Si phải tuệ tri bốn
khía cạnh của Tham Sân Si như công thức Tứ Thánh Đế mà Đức Phật đã dày
công xây dựng và thuyết giảng:

- Một là : Hiểu biết đúng sự thật về Tham Sân Si.

- Hai là: Hiểu biết đúng sự thật về Tham Sân Si tập khởi (Nguyên nhân
phát sinh Tham Sân Si)

- Ba là: Hiểu biết đúng sự thật về Tham Sân Si đoạn diệt

- Bốn là: Hiểu biết đúng sự thật về Con đường Tham Sân Si đoạn
diệt 1 - Hiểu biết đúng sự thật về Tham Sân Si:

a - Cả Nhân loại này, dù già trẻ gái trai giàu nghèo ngu trí, dân tộc tôn giáo nào
(ngoại trừ các bậc Thánh Phật giáo) đều có hành vi phổ quát là:

- Hễ thấy, nghe, cảm nhận đối tượng thực tại Dễ chịu như sắc đẹp, tiếng hay,
hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái v.v... thì đều THÍCH THÚ đối tượng dễ
chịu đó. Hành vi Thích thú đó là một tâm hành mà thuật ngữ Phật học gọi là
Tham. Hãy quan sát sự thật thực tại để nhận diện tâm hành Tham (Thích thú)
và hoá giải hiểu biết sai lầm của nhiều người cho rằng, Tham là thích thú một
cái gì của người khác rồi lấy cắp hoặc chiếm đoạt của người đó. Phải hiểu đúng
sự thật, Tham chỉ là tâm hành thích thú, còn muốn có nó rồi lấy cắp hoặc chiếm
đoạt nó, lại là các tâm hành khác do Tham mà khởi lên chứ không phải Tham.

- Hễ thấy, nghe, cảm nhận đối tượng thực tại Khó chịu như sắc xấu, tiếng dở,
hương thối vv... thì đều CHÁN GHÉT đối tượng khó chịu đó. Hành vi Chán
Ghét là một tâm hành mà thuật ngữ Phật học gọi là Sân.

- Hễ thấy, nghe, cảm nhận đối tượng thực tại Trung tính (không dễ chịu không
khó chịu) thì không thích thú, không chán ghét đối tượng mà hướng đến TÌM
KIẾM đối tượng Dễ chịu để thay thế đối tượng Trung tính đó. Hành vi tìm
kiếm đối tượng Dễ chịu để thay thế đối tượng Trung tính là tâm hành mà thuật
ngữ Phật học gọi là Si. Ví như, khi ăn cơm không có thức ăn sẽ cảm nhận đối
tượng là Cảm giác Trung tính (không ngon không dở) và sẽ không thích không
ghét Cảm giác đó, nhưng ngay lập tức tác ý Tìm Kiếm một loại thức ăn, thậm
chí là muối, để ăn có Cảm giác Dễ chịu, thay thế Cảm giác Trung tính khi ăn
cơm không có thức ăn. Tâm hành Si rất vi tế, khó thấy, khó biết nhưng lại là
tâm hành phổ biến chiếm khoảng 70 đến 80% còn Tham Sân chỉ khoảng 20 đến
30% còn lại. Đa phần người tu học Phật giáo lại hiểu lầm, đồng hoá Si với ngu
si, với vô minh nhưng Si lại là biểu hiện sự thông minh của nhân loại. Nhờ Si,
hành vi TÌM KIẾM các đối tượng Dễ chịu trong quá khứ hoặc tương lai mà
nhân loại mới phát minh ra biết bao cái mới, cái dễ chịu, cái tiện nghi, cái hiện
đại để thay đổi thế giới, để đời sống ngày càng hiện đại hơn.
Tất cả nhân loại còn là phàm phu thì không một ai mà không có Tham Sân Si
như vậy. Đây là một sự thật phổ quát.

b - Mỗi một thời điểm xuất hiện một đối tượng thực tại thì con người có thái độ
hoặc Tham, hoặc Sân, hoặc Si với đối tượng. Và thái độ hoặc Tham, hoặc Sân,
hoặc Si cứ diễn tiến từ đối tượng này sang đối tượng khác, liên tục từ giây phút
này cho sang giây phút khác, từ ngày này sang ngày khác, từ tháng năm này cho
đến năm tháng khác, suốt cả cuộc đời trừ lúc ngủ say không mộng mị. Thái độ
hay các tâm hành Tham Sân Si diễn tiến như vậy sẽ đưa đến kết quả cuộc đời ra
sao? Kết quả sẽ là:

- Khi có đối tượng Dễ chịu thì Tham ái đối tượng, nên Muốn có được đối tượng,
Muốn sở hữu đối tượng và nếu đã có được đối tượng thì Muốn đối tượng đó mãi
mãi là của mình, và do vậy sẽ Ràng buộc với đối tượng. Nhưng vì đối tượng đó
là Cảm Giác (Cảm Thọ) sinh diệt vô thường, nên khi đối tượng biến hoại, biến
diệt, mất đi Sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên. Khổ này được đặt tên là Hoại Khổ.

- Khi có đối tượng Khó chịu thì Chán ghét (Sân), nên Muốn xua đuổi, xa lánh,
tiêu diệt đối tượng, vì thế sẽ Ràng buộc với đối tượng. Nhưng vì đối tượng đó
là Cảm Thọ, nó Vô chủ, vô sở hữu, nghĩa là không thể làm chủ, không thể điều
khiển, không thể xua đuổi, xa lánh, tiêu diệt được nó nên Sầu bi khổ ưu não sẽ
khởi lên. Khổ này được đặt tên là Khổ Khổ.

- Khi có đối tượng Trung tính thì không thích không ghét (không Tham không
Sân) nhưng tâm hành Si sẽ hướng đến Tìm Kiếm đối tượng Dễ chịu để thay thế
đối tượng Trung tính, vì thế sẽ Ràng buộc với kết quả tìm kiếm đó. Nếu sự tìm
kiếm bắt gặp đối tượng Dễ chịu sẽ có Hoại khổ, bắt gặp đối tượng Khó chịu sẽ
có Khổ khổ, bắt gặp đối tượng Trung tính lại tìm kiếm tiếp nên sẽ có Hành
khổ. Đặc biệt khi trạng thái hấp hối và chết xảy ra, tâm hành Si sẽ tìm kiếm an
toàn trong sự sống, sự hiện hữu nên sẽ phát sinh Thức tái sinh và sẽ phát sinh
khổ của sinh già bệnh chết trong tương lai.
* Đối tượng Dễ chịu (Lạc thọ) - Tham - Ràng buộc - Hoại Khổ.

* Đối tượng Khó chịu (Khổ thọ) - Sân - Ràng buộc - Khổ Khổ.

* Đối tượng Trung tính (Bất khổ bất lạc thọ) - Ràng buộc - Hành Khổ.

Kết quả này đã thuyết minh đúng sự thật: Tham Sân Si là Nguyên nhân phát
sinh Khổ gồm Hoại khổ, Khổ khổ và Hành khổ. Hãy tham khảo các bài viết
khác để thấy biết sự thật phổ quát này là chung cho toàn thể nhân loại đang là
phàm phu, không trừ một ai.

c - Tham Sân Si có tánh chất Vô thường, Vô chủ vô sở hữu (Vô ngã):

Tham Sân Si là các tâm hành thuộc Nhóm Hành hay Hành uẩn là một trong năm
nhóm (năm uẩn) Sắc Thọ Tưởng Hành Thức nên nó là Pháp Duyên Khởi. Bởi
Tham Sân Si là Pháp duyên khởi (do Ý tiếp xúc với Pháp mà phát sanh) nên nó
phải có tánh chất (tự tánh) Vô thường và Vô ngã (Vô chủ vô sở hữu). Nghĩa là
Tham Sân Si sinh lên rồi diệt đi liền, không sẵn có, không thường hằng, không
thường trú ở đâu cả. Cũng có nghĩa là, không có một cái tâm không sinh không
diệt nguyên một khối nào làm nơi chỗ để chứa đựng tham sân si, để rồi tham
sân si chỉ xuất hiện hay chỉ trình hiện chỗ này hay chỗ kia rồi lại trở về trú ngụ
nơi cái tâm đó. Vô ngã (Vô chủ vô sở hữu) nghĩa là không có Ta, không có Bản
ngã, không có ai, không có ông A, bà B nào là chủ nhân, chủ sở hữu, điều khiển
Tham Sân Si cả.

2 - Hiểu biết đúng sự thật về Tham Sân Si tập khởi:

Nghĩa là hiểu biết đúng sự thật Duyên Khởi Tham Sân Si, thấy biết rõ ràng,
đúng sự thật: Do cái gì có mặt mà Tham Sân Si có mặt ? Đó chính là tâm biết Ý
thức Tà kiến trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo của phàm phu:

XÚC - < Thọ - Tưởng > - Tà niệm - Tà tư duy - [Ý thức - Tà kiến] - Tham Sân Si
...
Khi tâm biết Ý thức Tà kiến (do Tà niệm - Tà tư duy khởi lên) xác định đối
tượng (được thấy, được nghe, được cảm nhận) là Dễ chịu thì tâm biết Ý thức Tà
kiến cũng hiểu biết trong đối tượng đó có hạnh phúc, nó sẽ mang hạnh phúc đến
cho Ta, nó sẽ chấm dứt khổ cho Ta. Do tâm biết ý thức Tà kiến hiểu biết về đối
tượng như vậy mà phát sinh tâm hành Tham ái đối tượng Dễ chịu.

Khi tâm biết Ý thức Tà kiến xác định đối tượng đó là Khó chịu thì cũng biết đối
tượng đó là đau khổ, sẽ mang đau khổ đến cho Ta. Do tâm biết Ý thức Tà kiến
hiểu biết về đối tượng như vậy mà sẽ phát sinh tâm hành Sân với đối tượng Khó
chịu.

Khi tâm biết Ý thức Tà kiến xác định đối tượng đó là Trung tính thì cũng biết đối
tượng đó không mang đến hạnh phúc, không chấm dứt khổ cho Ta mà chỉ có đối
tượng Dễ chịu mơi mang đến hạnh phúc, mới chấm dứt khổ cho Ta. Do tâm biết
Ý thức Tà kiến hiểu biết đối tượng như vậy mà phát sanh tâm hành Si với đối
tượng Trung tính.

Như vậy, nguyên nhân phát sinh Tham Sân Si là tâm biết Ý thức Tà kiến trên lộ
trình tâm Bát Tà Đạo của phàm phu.

3 - Hiểu biết đúng như thật Tham Sân Si đoạn diệt:

Do cái gì không có mặt mà Tham Sân Si không có mặt, Tham Sân Si đoạn diệt?
Đó là khi Ý thức Tà kiến không có mặt, khi Ý thức Tà kiến đoạn diệt. Cũng
đồng nghĩa là khi lộ trình tâm Bát Tà Đạo đoạn diệt thì Tham Sân Si đoạn diệt,
lúc đó là Khổ diệt hay Niết bàn.

4 - Hiểu biết đúng sự thật Con đường Tham Sân Si đoạn diệt: Đó là Bát
Chánh Đạo với bốn loại Chánh niệm về Thân Thọ Tâm Pháp.

- Khi thực hành Chánh niệm về thân tức “Nhớ đến chú tâm quán sát thân
nơi thân” lộ trình tâm Bát Chánh Đạo xảy ra như sau:
XÚC - <Thọ - Tưởng> - Chánh niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định - [Tỉnh
giác]

Lúc này lộ trình tâm chỉ có tâm biết trực tiếp giác quan ghi nhận đối tượng mà
tâm biết Ý thức không có mặt (gọi là Tỉnh giác) nên Ý thức Tà kiến được đoạn
diệt, vì thế Tham Sân Si được đoạn diệt.

Khi thực hành Chánh niệm về Thọ, về Tâm, về Pháp tức “Nhớ đến chú tâm quán
sát thọ, tâm , pháp” lộ trình tâm Bát Chánh Đạo xảy ra như sau:

XÚC - < Thọ - Tưởng > - Chánh niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định - [Tỉnh
giác] - Chánh tư duy - [Ý thức - Chánh kiến] ...

Lúc này lộ trình tâm có tâm biết Tỉnh giác ghi nhận đối tượng và tâm biết Ý thức
Chánh kiến biết đúng sự thật đối tượng. Vì thế tâm biết Ý thức Tà kiến được
đoạn diệt nên Tham Sân Si được đoạn diệt.

Như vậy, Con đường để Tham Sân Si đoạn diệt, Khổ đoạn diệt chính là Bát
Chánh Đạo. Để đoạn diệt, đoạn tận Tham Sân Si đồng nghĩa với đoạn diệt, đoạn
tận Khổ mà không thực hành Bát Chánh Đạo là điều không thể xảy ra, giống như
nấu cát thì không thể thành cơm vậy.

Về mục lục

Bài 031: TÂM LÀ GÌ?

Nhiều người tu học Phật giáo hiểu biết sai lạc, hiểu biết không đúng sự thật về
tâm. Đa phần hiểu tâm qua hình ảnh: tâm như con vượn chuyền cành. Nghĩa là,
tâm như là một cấu trúc nguyên một khối (con vượn) di chuyển từ chỗ này đến
chỗ kia, nắm bắt từ cái này đến cái kia (chuyền từ cành nọ đến cành kia). Tâm
theo kiểu “nguyên một khối” ấy chứa đựng nhiều thứ, nhiều tính năng, nhiều
năng lực. Và tâm ấy là chủ nhân, chủ sở hữu của thân, điều khiển mọi lời nói,
mọi hành động của thân, là chủ nhân tạo tác các nghiệp thiện ác. Nhiều trường
phái Phật Giáo theo chủ nghĩa cơ giới cổ xưa xem tâm như một cỗ máy đang
vận hành và hình dung nó như một bộ máy công quyền của một quốc gia gồm:
Tâm vương như một ông thủ tướng điều khiển bộ máy và các tâm sở như các
ông bộ trưởng chịu sự chi phối điều khiển của Tâm vương. Quan hệ giữa Tâm
vương và Tâm sở là quan hệ phụ thuộc, quan hệ chủ nhân, chủ sở hữu. Nhiều
trường phái Phật Giáo ví tâm chúng sanh như một con thú hoang (Ấn Độ là voi,
Trung hoa là trâu) chưa được điều phục và tu hành là điều phục con thú hoang
đó bằng cách buộc chặt nó vào một cái cọc thật chắc chắn, bỏ đói nó, chế ngự
nó, huấn luyện nó với mục đích LÀM CHỦ TÂM.

Vậy tâm là gì? Theo triết học thì tất cả các sự vật hiện tượng (Phật học gọi là
các pháp) được chia làm hai phạm trù Tinh thần và Vật chất mà Phật học gọi là
Danh và Sắc. Phạm trù Vật chất (Sắc pháp) gồm rất nhiều thứ như nhà cửa, xe
cộ, người, thú vật, mặt trời mặt trăng vv... độc lập với nhau và đều được gọi
bằng một tên chung là Vật chất. Tương tự, phạm trù Tinh thần (Danh pháp)
cũng bao gồm rất nhiều thứ khác nhau, độc lập với nhau và đều được gọi bằng
một cái tên chung là Tâm.

Tâm gồm RẤT NHIỀU THỨ TÂM, NHIỀU LOẠI TÂM KHÁC NHAU, ĐỘC
LẬP VỚI NHAU, được Kinh điển chia thành 4 loại khác nhau, hay 4 nhóm khác
nhau mà thuật ngữ Phật học tiếng Tàu gọi là 4 uẩn gồm: Thọ Tưởng Hành Thức
(Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn, Thức uẩn). Cụ thể là:

1 - Nhóm Thọ hay Thọ uẩn: là nhóm ĐỐI TƯỢNG THỰC TẠI gồm những đối
tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận của thực tại, tức 6 loại Cảm thọ (gọi
tắt là Thọ) mà tiếng Việt gọi là 6 loại Cảm giác. Đó là Thọ do nhãn xúc sinh, Thọ
do nhĩ xúc sinh, Thọ do tỷ xúc sinh, Thọ do thiệt xúc sinh, Thọ do thân xúc sinh,
Thọ do ý xúc sinh. Nghĩa là Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần phát sinh Sáu Thọ, đó là
các Cảm giác hình ảnh, Cảm giác âm thanh, Cảm giác mùi, Cảm giác vị, Cảm
giác xúc chạm, Cảm giác pháp trần. Nhóm Thọ hay Thọ uẩn do Căn Trần tiếp
xúc mà phát sinh nên Thọ là vô thường (không sẵn có, không luôn luôn có ở đâu
cả), Thọ là vô chủ vô sở hữu (vô ngã, không làm chủ, không sở hữu, không điều
khiển được). Đây là một loại tâm mà hàng ngày con người thấy, nghe, ngửi, nếm,
cảm nhận nó nhưng lại HIỂU SAI LÀ THẾ GIỚI VẬT CHẤT sắc thanh hương
vị xúc pháp trần.

2- Nhóm Tưởng hay Tưởng uẩn: là nhóm TÂM BIẾT, gồm 6 loại tâm biết trực
tiếp giác quan gọi tắt là tâm biết trực giác, cụ thể gồm Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ
thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng thức, có phận sự ghi nhận hay nhận biết các
đối tượng thực tại. Đó là Nhãn thức thấy Cảm giác hình ảnh; Nhĩ thức nghe Cảm
giác âm thanh; Tỷ thức cảm nhận Cảm giác mùi; Thiệt thức cảm nhận Cảm giác
vị; Thân thức cảm nhận Cảm giác xúc chạm; Tưởng thức ghi nhận Cảm giác
pháp trần. Sáu Tưởng do Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần mà phát sinh, nên Tưởng là
vô thường, Tưởng là vô chủ, vô sở hữu (vô ngã). Mỗi một Tưởng chỉ ghi nhận
một đối tượng thực tại duy nhất. Tâm biết Tưởng này không có khái niệm, không
có ngôn từ, không có phân biệt nên nó là “vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt”.

3- Nhóm Hành hay Hành uẩn: là nhóm TÂM HÀNH gồm Niệm (trí nhớ), Tư
duy, Thái độ (tham sân si), Định, Dục, Tinh tấn (tích cực), Tác ý, Lời nói, Hành
động, Khổ Vui. Các tâm hành này phát sinh do Ý căn tiếp xúc với Pháp trần
(lượng thông tin pháp trần trong bộ nhớ) thực chất là tương tác thông tin, nhưng
khác với tương tác giữa Ý căn và Pháp trần phát sinh Cảm giác pháp trần và
Tưởng thức. Các tương tác này đều xảy ra trong tế bào thần kinh não bộ. Các
tâm hành không sẵn có, không luôn luôn có ở một nơi chốn nào cả mà nó chỉ
phát sinh khi có Xúc (tương tác giữa Ý căn và Pháp trần) nên nó vô thường, vô
chủ vô sở hữu (vô ngã).

4 - Nhóm Thức hay Thức uẩn: gồm TÂM BIẾT Ý THỨC và TƯ TƯỞNG.
Tâm biết Ý thức có phận sự biết Tư tưởng. Quá trình diễn ra như sau: tâm hành
tư duy thuộc Hành uẩn có phận sự phân tích, so sánh, tổng hợp, phán đoán, kết
luận (có trường hợp có thêm trừu tượng, khái quát hoá) là NHÂN làm phát sinh
đồng thời: [Tâm biết Ý thức và Tư tưởng]. Tâm biết Ý thức có phận sự biết Tư
tưởng vừa phát sinh và Tư tưởng đó phản ánh về đối tượng được Tưởng uẩn ghi
nhận. Tâm biết Ý thức biết đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận là
cái gì, tính chất ra sao, nhưng là BIẾT do TƯ duy, suy luận trên những thông tin
do TƯỞNG uẩn cung cấp nên Ý THỨC biết TƯ TƯỞNG. Thức uẩn cũng do Ý
căn tiếp xúc Pháp trần mà phát sinh, tương tự như hành uẩn nên nó vô thường, vô
chủ vô sở hữu (vô ngã).

Vậy tâm gồm nhiều thứ khác nhau, được chia làm bốn nhóm Thọ Tưởng Hành
Thức và trong mỗi một nhóm cũng có vô số các tâm khác nhau. Ví như Thọ do
Nhãn xúc sinh cũng có vô số Thọ (vô số Cảm giác hình ảnh) khác nhau được
Nhãn thức thấy hàng ngày. Mọi thứ tâm ấy đều do Sáu Căn tiếp xúc (hay tương
tác) với Sáu Trần mà phát sinh nên nó sinh diệt, vô thường, không thường hằng,
không thường trú đâu cả. Mọi thứ tâm ấy KHÔNG ĐỒNG THỜI TỒN TẠI mà
tại mỗi một thời điểm chỉ tồn tại, chỉ sinh lên và diệt đi rất nhanh chóng một thứ
tâm duy nhất trừ [Thọ và Tưởng] cùng [Ý thức và Tư tưởng] là đồng sinh đồng
diệt, đồng thời tồn tại. Các thứ tâm ấy cũng đều vô chủ vô sở hữu, nghĩa là chúng
đều độc lập, không phụ thuộc vào nhau, không có tâm nào là chủ nhân, chủ sở
hữu, điều khiển tâm nào cả. Vì vậy, tâm không phải như một cỗ máy đang vận
hành, không phải như một bộ máy công quyền của một đất nước với tâm vương
và các tâm sở. Đối với Phàm phu các thứ tâm ấy được diễn tả trong một lộ trình
sinh diệt theo một sơ đồ:

XÚC - [Thọ - Tưởng] - Tà niệm - Tà tư duy - [Ý thức - Tà kiến] - Tham sân si


- Tà định - Dục - Tà tinh tấn - Phi như lý tác ý - Tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng -
Khổ vui.

Trong đó XÚC là Căn và Trần tiếp xúc chỉ cho nhóm Sắc hay Sắc uẩn. Và mô tả
đơn giản hơn theo năm uẩn thì sơ đồ đó là:
Sắc - Thọ - Tưởng - Hành - Thức - Hành

Đây là một lộ trình sinh diệt của tâm gồm: Căn Trần tiếp xúc rồi sinh diệt (Sắc
diệt) làm cho Thọ - Tưởng sinh lên rồi diệt đi; tiếp đến Hành sinh lên rồi diệt đi;
tiếp đến Thức sinh lên rồi diệt đi; tiếp đến các Hành còn lại sinh lên rồi diệt đi.
Lộ trình kết thúc tại đó nhưng lại tiếp tục một lộ trình Sắc - Thọ - Tưởng - Hành
Thức - Hành khác lại sinh lên rồi diệt đi, rồi một lộ trình tương tự như vậy lại
tiếp diễn nối tiếp tương tục. Sự thật tất cả các pháp gồm Tinh thần và Vật chất
(Danh và Sắc) không phải là năm yếu tố Sắc Thọ Tưởng Hành Thức đồng thời
tồn tại, liên kết, ràng buộc với nhau CẤU THÀNH MỘT CHÚNG SANH, mà
là các lộ trình Sắc - Thọ - Tưởng - Hành - Thức sinh lên rồi diệt đi liên tiếp,
tương tục. Như vậy, phải hiểu TỪ CHÚNG SANH là pháp chế định, là quy
ước, dùng làm phương tiện truyền thông, ám chỉ cho các lộ trình Sắc - Thọ -
Tưởng - Hành - Thức đang sinh diệt tương tục nhau, mà không hề có Sắc Thọ
Tưởng Hành Thức nào thường hằng, cố định, cũng không hề có một Cái Tôi,
Cái Ta, Bản ngã, Chúng sanh nào như một thực thể cố định, không sinh không
diệt là chủ nhân, chủ sở hữu, điều khiển Sắc Thọ Tưởng Hành Thức.

Về mục lục

Bài 032: SỰ HIỂU LẦM VỀ TÂM

Hiểu biết về Tâm của nhân loại, bao gồm quan niệm của người bình dân, của
Triết học, của Tâm lý học cổ điển hay hiện đại, kể cả hiểu biết của số đông tín
đồ Phật Giáo, đều hiểu Tâm theo kiểu CẤU TRÚC NGUYÊN MỘT KHỐI, và
cái TÂM CẤU TRÚC NGUYÊN MỘT KHỐI ấy có nhiều tính năng, có nhiều
tác dụng khác nhau. Tâm với CẤU TRÚC NGUYÊN MỘT KHỐI ấy là Chủ
nhân, Chủ sở hữu của các tính năng, của các tác dụng ấy. Và các tính năng, các
tác dụng ấy được gọi là các Tâm Sở. Tâm như vậy, có thể di chuyển từ chỗ này
đến chỗ khác, thấy biết đối tượng này đến đối tượng khác, ràng buộc vào đối
tượng này hay đối tượng khác. Tâm được quan niệm như vậy, với Linh Hồn chỉ
khác nhau về tên gọi, còn nội dung thì y chang nhau, được quan niệm cư trú
trong thân thể, lấy sáu Căn làm sáu cửa để biết về Thế Giới và khi chết, thân thể
tan rã, nó lại di chuyển (đầu thai) sang một thân thể khác hoặc có thể tồn tại
không cần thân xác trong một Thế giới Tâm linh nào đó. Tâm với CẤU TRÚC
NGUYÊN MỘT KHỐI ấy vốn thanh tịnh, vốn đầy đủ trí tuệ, vốn sáng chói,
nhưng đã bị ô nhiễm bởi các yếu tố ngoại lai. Vì thế mới chủ trương buộc tâm
vào một đối tượng, không cho nó phóng dật, làm chủ tâm, chế ngự tâm, thanh
lọc tâm cho hết mọi ô nhiễm. Lại còn chia tâm ra làm hai phần: phần Tục Đế là

Tâm sinh diệt vô thường, phát sinh từ tâm Chân Đế, là tâm Bản Thể không sinh
không diệt. Dù có chia Tâm ra phần Bản Thể, Tánh (Chân Đế) và phần Hiện
Tượng, Tướng (Tục Đế) thì vẫn quan niệm Tâm theo CẤU TRÚC NGUYÊN
MỘT KHỐI. Thấy và Biết về Tâm như vậy của Nhân loại, phát sinh từ quan
điểm TĨNH TẠI, một loại tư tưởng TÀ KIẾN, mà thuật ngữ Phật học gọi là
THƯỜNG KIẾN. Nghĩa là Tâm là một khối, sẵn có, luôn luôn có, thường hằng
và thường trú trong thân thể này. Thấy Biết THƯỜNG KIẾN đó, sẽ ngăn che
làm cho nhân loại không thể nào Thấy Biết được tự tánh Duyên khởi của Tâm:
Do cái gì có, mà Tâm có. Do cái gì sinh, mà Tâm sinh. Do cái gì không có mà
Tâm không có. Do cái gì diệt, mà Tâm diệt. Nghĩa là không thể Thấy Biết Tâm
đúng theo Trung Đạo Duyên Khởi, điều mà Đức Phật đã chứng ngộ và tuyên
thuyết.

Tâm phải được hiểu đúng như bản chất của nó là một Phạm Trù (theo thuật ngữ
Triết học), trong hai Phạm Trù Vật Chất và Phạm Trù Tinh Thần mà cả hai
Phạm Trù đều bao gồm rất nhiều sự vật và hiện tượng Vật chất và Tinh thần
(hay Tâm và Vật). Theo thuật ngữ Phật học, các sự vật, hiện tượng thuộc Phạm
trù Vật chất thì gọi là các SẮC PHÁP và các sự vật hiện tượng thuộc Phạm trù
Tinh thần thì gọi là DANH PHÁP hay TÂM. Các Danh Pháp (Tâm) và Sắc
Pháp (Vật), không ở trong trạng thái TĨNH TẠI mà nó đang SINH DIỆT theo
các lộ trình, tuân theo tính chất Duyên Khởi: HAI NHÂN tiếp xúc (hay tương
tác nhau) rồi cùng diệt và phát sinh CÁC QUẢ.

1- PHẠM TRÙ VẬT CHẤT: Bao gồm các Sắc pháp, đang sinh lên và diệt đi
theo các lộ trình Nhân Quả nối tiếp nhau. Ví như bao thóc giống tiếp xúc thửa
ruộng đã làm đất kỹ, phát sinh ruộng mạ. Tiếp đến ruộng mạ tiếp xúc môi
trường (ánh sáng, nhiệt độ, phân, nước...) phát sinh ruộng lúa chín vàng. Ruộng
lúa chín vàng tiếp xúc máy gặt, phát sinh bao thóc. Bao thóc tiếp xúc máy xay,
phát sinh bao gạo. Bao gạo tiếp xúc với nồi (nước, lửa...) phát sinh nồi cơm...
và quá trình lại tiếp diễn theo nguyên lý, hai nhân tiếp xúc nhau cùng diệt và
phát sinh các quả như thế mãi. Ở đây, có LỘ TRÌNH SINH DIỆT NỐI TIẾP
NHAU xảy ra: bao thóc diệt, ruộng mạ sinh, tiếp đến ruộng mạ diệt, ruộng lúa
chín vàng sinh, tiếp đến ruộng lúa chín vàng diệt, bao thóc sinh, bao thóc diệt,
bao gạo sinh... Nếu bao thóc tiếp xúc với đàn vịt, thì một lộ trình nhân quả
khác, sinh diệt liên tiếp nhau, sẽ phát sinh. Nếu bao thóc tiếp xúc đống lửa,
đường nhựa, cối xay... thì sẽ có các lộ trình nhân quả sinh diệt liên tiếp khác
nhau, sẽ xảy ra. Như vậy PHẠM TRÙ VẬT CHẤT bao gồm rất nhiều SẮC
PHÁP đang sinh và diệt theo các lộ trình khác nhau, các SẮC PHÁP ấy tương
tác với nhau rồi cùng diệt đi, nhưng quan hệ giữa chúng là quan hệ Nhân Quả,
chúng độc lập với nhau, không có nhân nào là chính, không có nhân nào là phụ,
không có Sắc pháp nào là Chủ nhân, Chủ sở hữu của Sắc pháp nào. Tất cả các
Sắc Pháp đều Vô Thường, Vô Ngã (Vô chủ, Vô sở hữu). Vì vậy KHÔNG HỀ
CÓ MỘT THẾ GIỚI VẬT CHẤT THEO KIỂU CẤU TRÚC NGUYÊN MỘT
KHỐI, TĨNH TẠI BAO GỒM CÁC SẮC PHÁP ĐỒNG THỜI HIỆN HỮU
VÀ LIÊN KẾT, PHỤ THUỘC CHẰNG CHỊT VỚI NHAU.

2- PHẠM TRÙ TÂM: Tâm bao gồm RẤT NHIỀU DANH PHÁP (rất nhiều
thứ tâm) không sẵn có, không luôn luôn có, không thường hằng, không thường
trú đâu cả mà nó chỉ phát sinh, chỉ xuất hiện khi Sáu Căn và Sáu Trần tiếp xúc
(tương tác) với nhau. CÁC THỨ TÂM ẤY SINH LÊN RỒI DIỆT ĐI LIÊN
TIẾP NHAU THEO LỘ TRÌNH:

XÚC - Cảm giác (Thọ) - Tưởng - Niệm - Tư Duy - Ý Thức - Thái Độ (Tham
Sân Si) - Định (chú tâm) - Dục (muốn) - Tinh Tấn (tích cực) - Tác Ý - Hành Vi
(Lời nói, Hành động) - Khổ hoặc Vui.

Trong lộ trình Nhân Quả liên tiếp này, XÚC là Căn Trần tiếp xúc nhau, là Nhân
phát sinh Thọ - Tưởng. Thọ - Tưởng là Nhân phát sinh Niệm. Niệm là Nhân
phát sinh Tư Duy. Tư Duy là Nhân phát sinh Ý Thức. Ý Thức là Nhân phát sinh
Tham Sân Si. Tham Sân Si là Nhân phát sinh Định. Định là Nhân phát sinh
Dục. Dục là Nhân phát sinh Tinh Tấn. Tinh Tấn là Nhân phát sinh Tác Ý. Tác Ý
là Nhân phát sinh Hành vi (Lời nói, Hành động). Lời nói, Hành động là Nhân
phát sinh Khổ hay Vui.

Đây cũng là LỘ TRÌNH CÁC THỨ TÂM SINH DIỆT LIÊN TIẾP NHAU:

XÚC diệt, Thọ Tưởng sinh. Tiếp đến Thọ - Tưởng diệt, Niệm sinh. Niệm diệt,
Tư Duy sinh. Tư Duy diệt, Ý Thức sinh. Ý thức diệt, Thái Độ (Tham Sân Si)
sinh. Tham Sân Si diệt, Định sinh. Định diệt, Dục sinh. Dục diệt, Tinh Tấn sinh.
Tinh Tấn diệt, Lời nói, Hành động sinh. Lời nói, Hành động diệt, Khổ hay Vui
sinh. Lộ trình sẽ kết thúc tại đó và một lộ trình khác do Căn Trần tiếp xúc khác
lại khởi lên tương tự và cũng diệt đi tương tự. Quá trình cứ tiếp diễn liên tiếp
nhau cho đến khi không còn Duyên XÚC. Các thứ tâm ấy sinh lên, diệt đi
TỪNG CÁI MỘT LIÊN TIẾP NHAU, chứ không ĐỒNG SINH ĐỒNG DIỆT
trên một đối tượng, ngoại trừ trường hợp [Thọ - Tưởng] và [Ý thức - Tư tưởng]
là hai pháp đồng sinh đồng diệt. Mỗi một thời điểm chỉ tồn tại duy nhất MỘT
THỨ TÂM (ngoại trừ Thọ - Tưởng) chứ không phải một TÂM CẤU TRÚC
NGUYÊN MỘT KHỐI với nhiều TÂM SỞ đồng sanh đồng diệt trên cùng một
đối tượng. Tất cả các thứ tâm ấy đều do duyên XÚC mà phát sinh, vì thế nó Vô
thường, Vô chủ, Vô sở hữu (Vô ngã), không có một thứ tâm nào sẵn có ở đâu
cả.

a - Ngoại Xúc: sự tiếp xúc giữa Sáu Căn và Sáu Trần phát sinh THỌ - TƯỞNG
bao gồm Sáu Cảm Giác (Cảm Thọ) và Sáu Cái Biết Trực Tiếp (gọi chung là
Tưởng), có phận sự Nhận Biết Sáu Cảm Giác, bao gồm: Nhãn thức thấy Cảm
giác hình ảnh, Nhĩ thức nghe Cảm giác âm thanh, Tỉ thức nhận biết Cảm giác
mùi, Thiệt thức nhận biết Cảm giác vị, Thân thức nhận biết Cảm giác xúc chạm,
Tưởng thức ghi nhận Cảm giác pháp trần. Cặp đôi THỌ - TƯỞNG phát sinh do
XÚC tại các giác quan nên gọi là Ngoại Xúc, để phân biệt với Nội Xúc, xảy ra
bên trong các tế bào thần kinh não bộ và các tế bào chức năng trong cơ thể.

Hiểu biết của nhân loại đã MẶC ĐỊNH, không thể thấy được Tâm, không thể
nghe được Tâm, không thể ngửi được Tâm, không thể nếm được Tâm ... vì Tâm
là một cái gì khó tưởng tượng ra nổi. Nhưng không phải như vậy, đó là hiểu lầm
về Tâm, mà ở đây, trong cặp THỌ - TƯỞNG thì TƯỞNG là tâm biết bao gồm
Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng thức. Và các Tâm
Biết ấy không hình không tướng, không thể thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm
được chúng. Nhưng những đối tượng của các tâm biết ấy là những gì được thấy,
được nghe, được ngửi, được nếm, được cảm nhận đều là các Cảm Giác hay
THỌ, đều là Tâm và các Tâm ấy đều thấy được, nghe được, ngửi được, nếm
được... Vì vậy, các đối tượng được thấy (hình ảnh), được nghe (âm thanh), được
cảm nhận (mùi, vị, xúc chạm, pháp trần) cũng đều là Tâm cả. Thực chất là TÂM
BIẾT TÂM CHỨ KHÔNG PHẢI TÂM BIẾT CẢNH như hiểu lầm của nhân
loại.

b - Nội Xúc : là sự tiếp xúc giữa HAI LƯỢNG THÔNG TIN, xảy ra trong "kho
chứa thông tin" được lưu giữ trong ADN tế bào thần kinh não bộ và tế bào chức
năng làm phát sinh các thứ tâm còn lại như Niệm, Tư Duy, Ý Thức, Thái Độ,
Định, Dục, Tinh Tấn, Tác Ý, Hành Vi, Khổ, Vui... KHO CHỨA THÔNG TIN
của mỗi người chứa các thông tin đã được mã hoá về các tri thức hiểu biết, kinh
ngiệm, thói quen, tính cách... đã tích luỹ từ quá khứ, các thân hành, khẩu hành,
ý hành đều được lưu giữ trong kho chứa này (gọi là Nghiệp). Những hiểu biết
Vô Minh, Chấp Thủ (của Ta, là Ta) và cả những hiểu biết Minh do Văn Tuệ và
Tư Tuệ được học khi nghe giảng về Phật pháp cũng được lưu giữ ở đây (Các
thông tin về tâm này cũng được lưu giữ trong ADN nhưng Khoa học mới chỉ
biết đến thông tin di truyền lưu giữ trong ADN). Khi các thông tin về đối tượng
(Thọ) do Tưởng nhận biết từ các giác quan bên ngoài, được dẫn truyền về Kho
chứa thông tin và tại đây sẽ xảy ra sự tiếp xúc (tương tác) giữa hai lượng thông
tin: Thông tin về Thọ được dẫn vào và Thông tin trong kho chứa. Do NỘI XÚC
này mà sẽ phát sinh Niệm. Niệm là hành vi tìm kiếm, dò tìm, kích hoạt Thông
tin tương hợp với Thông tin dẫn vào. Tiếp đến Thông tin về Thọ được dẫn vào
sẽ tiếp xúc, tương tác (XÚC) với Thông tin được Niệm dò tìm, kích hoạt. Do
NỘI XÚC đó mà phát sinh Tư Duy... Các thứ tâm khác cũng là do duyên NỘI
XÚC giữa hai lượng thông tin mà phát sinh tương tự. Đối với Hành Vi (lời nói,
hành động) đều là các Cảm giác do Thông tin phát sinh từ hành vi Tác Ý ở tế
bào thần kinh não bộ, được dẫn truyền đến các tế bào chức năng tương ứng. Tại
ADN của các tế bào tương ứng này sẽ xảy ra tương tác (XÚC) giữa Thông tin
tác ý với Thông tin đã được lập trình trong quá khứ do luyện tập (tập nói, tập
đi...). Do NỘI XÚC này mà phát sinh các Cảm giác chuyển động tay, chân, cổ,
họng, lưỡi... làm phát ra các lời nói, hành động. Thông tin Khổ, Vui cũng phát
sinh nơi tế bào thần kinh não bộ, được truyền dẫn đến các tế bào nội tạng như
tim, phổi, gan, thận, ruột... và tại đấy xảy ra tương tác giữa lượng thông tin Khổ
Vui với Thông tin trong tế bào. Do NỘI XÚC này mà phát sinh Cảm giác lâng
lâng Hạnh phúc hay Cảm giác Khổ đau...

c - Hai lộ trình tâm: BÁT TÀ ĐẠO và BÁT CHÁNH ĐẠO.

XÚC - Thọ - Tưởng xảy ra nơi các giác quan, chưa liên quan đến thông tin
trong kho chứa, vì vậy không bị chi phối bởi tri thức, kinh nghiệm quá khứ,
không mang tính chất Vô Minh hay là Minh, người và động vật, Phàm và Thánh
đều chung quy luật, không khác nhau. Khi lượng thông tin về đối tượng Thọ,
được dẫn truyền vào kho chứa thông tin, sẽ xảy ra tiếp xúc, tương tác với một
trong hai nhóm thông tin MINH hoặc VÔ MINH và lộ trình tâm có thể xảy ra
hai trường hợp:

- NỘI XÚC xảy ra giữa thông tin đối tượng Thọ được dẫn vào, với nhóm
thông tin VÔ MINH, phát sinh Tà Niệm và do Tà Niệm mà toàn bộ lộ trình
tâm BÁT TÀ ĐẠO sẽ khởi lên theo tính chất Duyên khởi. Trên lộ trình tâm
BÁT TÀ ĐẠO, do Nhân như vậy, Duyên như vậy mà sẽ có Vô Minh (Tà Tri
Kiến), có Tham Sân Si, có Sầu Bi Khổ Ưu Não.

XÚC - Thọ - Tưởng - TÀ NIỆM - Tà Tư Duy - Tà Tri Kiến - Tham Sân Si - Tà


Định - Dục - Tà Tinh Tấn - Phi như lý tác ý - Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng - Sầu
Bi Khổ Ưu Não.

- NỘI XÚC xảy ra giữa thông tin đối tượng Thọ được dẫn vào, với nhóm
thông tin MINH (do Văn tuệ và Tư tuệ lưu vào), phát sinh Chánh Niệm và do
Chánh Niệm mà toàn bộ lộ trình tâm BÁT CHÁNH ĐẠO sẽ khởi lên theo tính
chất Duyên khởi. Trên lộ trình BÁT CHÁNH ĐẠO, do Nhân như vậy, Duyên
như vậy mà sẽ có TỈNH GIÁC và MINH (Chánh Tri Kiến) nên không có Vô
Minh, không có Tham Sân Si, không có Sầu Bi Khổ Ưu Não, nghĩa là Bát
Chánh Đạo không có Khổ hay gọi là Khổ Diệt, Niết Bàn.

XÚC - Thọ - Tưởng - CHÁNH NIỆM - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - (Tỉnh
giác) - Chánh Tư Duy - Chánh Tri Kiến - Như lý tác ý - Chánh ngữ, Chánh
nghiệp, Chánh mạng.
KẾT LUẬN: Như vậy, Tâm là một PHẠM TRÙ bao gồm rất nhiều thứ tâm
(Danh pháp) phát sinh do duyên XÚC giữa Sáu Căn và Sáu Trần, và các thứ
tâm ấy sinh lên rồi diệt đi theo hai lộ trình BÁT TÀ ĐẠO hoặc BÁT CHÁNH
ĐẠO. Vì vậy, Tâm không phải là một CẤU TRÚC NGUYÊN MỘT KHỐI với
các tính năng, tác dụng (Tâm Sở), đồng sanh, đồng diệt trên cùng một đối
tượng.Toàn cảnh về Phàm trù Tâm được diễn tả trong sơ đồ sau:

Về mục lục

Bài 033: TÂM VÔ PHÂN BIỆT VÀ TÂM PHÂN BIỆT

Tâm là một Phạm Trù bao gồm rất nhiều Danh Pháp đang sinh diệt theo một lộ
trình. Có hai lộ trình tâm: Lộ trình tâm Bát Tà Đạo thuộc về Phàm phu và Lộ
trình tâm Bát Chánh Đạo thuộc về bậc Thánh. Tâm lại có thể chia thành bốn
nhóm, mà thuật ngữ Phật học tiếng Tàu gọi là Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn
và Thức uẩn, trong đó Tưởng uẩn và Thức uẩn là các Tâm Biết mà thuật ngữ
Phật học gọi là THỨC bao gồm: Nhãn thức, Nhỉ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân
thức, Tưởng thức và Ý thức. Trong các loại tâm biết thuộc về Tưởng uẩn và
Thức uẩn này lại được chia làm hai loại: Tâm vô phân biệt và Tâm phân biệt.
a - TÂM VÔ PHÂN BIỆT là các Tâm Biết trực tiếp: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ
thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng thức do Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần phát
sinh ra, có phận sự GHI NHẬN hay NHẬN BIẾT đối tượng. Đối tượng như thế
nào thì NHẬN BIẾT như thế ấy, không thêm bớt, Khoa Tâm Lý học gọi là
Nhận Thức Cảm Tính đối tượng, thuật ngữ Phật học gọi là Tưởng Tri đối
tượng. Đây là Tâm biết Trực Tiếp Giác Quan mà Hán dịch qua bộ A Hàm gọi là
Trực Giác, là Tâm Biết không tri thức khái niệm, không ngôn ngữ chế định,
không phân biệt đối tượng này với đối tượng kia. Tâm Biết này có tánh chất Vô
Niệm, Vô Ngôn, Vô Phân Biệt, vì vậy gọi là Tâm Vô Phân Biệt mà Thánh hay
Phàm đều như nhau. Tâm vô phân biệt này do Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh
nên nó Vô thường, Vô chủ, với sở hữu (Vô ngã) sinh ra đời là có, không cần
phải học hỏi. Tâm vô phân biệt của Phàm phu trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo được
gọi là Tưởng tri, Tâm vô phân biệt của bậc Thánh trên lộ trình tâm Bát Chánh
Đạo gọi là Tỉnh Giác.

b - TÂM PHÂN BIỆT là tâm biết Ý Thức do Niệm và Tư Duy mà phát sinh.
Tâm biết Ý thức, biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao nên Khoa Tâm Lý
Học gọi là Nhận Thức Lý Tính đối tượng. Đây không phải Biết trực tiếp đối
tượng, mà Biết đối tượng qua Tư duy suy luận, dựa vào tri thức kinh nghiệm đã
học hỏi, tích luỹ trong quá khứ. Vì vậy, Ý Thức là tâm biết có Khái Niệm, có
Ngôn Ngữ chế định, có Phân Biệt đối tượng này với đối tượng kia nên gọi là
tâm phân biệt. Tâm phân biệt phải do học hỏi mới có nên trẻ con vừa đẻ ra chưa
có tâm phân biệt này. Thánh và Phàm đều có tâm phân biệt nhưng tâm phân biệt
của Thánh và Phàm khác nhau.

- TÂM PHÂN BIỆT CỦA PHÀM, là Ý thức Tà Tri Kiến trên lộ trình tâm Bát Tà
Đạo do Tà Niệm - Tà Tư Duy mà khởi lên, là hiểu biết sai lạc, hiểu biết không
đúng sự thật đối tượng, BIẾT các đối tượng thực tại là Thế giới, nên được gọi là
VÔ MINH, mang nội dung Thường Kiến và Ngã Kiến. Chính VÔ MINH này là
Nhân phát sinh Tham Sân Si, phát sinh Sầu Bi Khổ Ưu Não.

- TÂM PHÂN BIỆT CỦA THÁNH, là Ý thức Chánh Tri Kiến trên lộ trình tâm
Bát Chánh Đạo do Chánh Niệm - Chánh Tư Duy mà khởi lên, gọi là MINH, là
TRÍ TUỆ, là hiểu biết đúng như thật đối tượng, BIẾT các đối tượng thực tại là
Cảm Thọ, nó Vô thường, Vô chủ, vô sở hữu (Vô ngã), có Vị ngọt, sự Nguy
hiểm, sự Xuất ly. Chính MINH này làm đoạn tận VÔ MINH, đoạn tận Tham
Sân Si, đoạn tận KHỔ. Đức Phật và các bậc Thánh nhờ Tâm Phân Biệt này mới
Giác Ngộ Sự Thật, Giác Ngộ Chân Lý.

Đời sống của Phàm hay Thánh đều sống với hai loại Tâm vô phân biệt và Tâm
phân biệt mà nói theo ngôn ngữ Triết học và Tâm lý học là Nhận thức cảm tính
và Nhận thức lý tính đối tượng. Tâm vô phân biệt chỉ thấy, nghe, cảm nhận đối
tượng (chỉ ghi nhận đối tượng) còn Tâm phân biệt mới biết đối tượng được
thấy, nghe, cảm nhận đó là cái gì, tính chất ra sao (đẹp hay xấu, ngon hay dở,
cứng hay mềm, nóng hay lạnh, ăn được hay không ăn được...). Khác nhau là,
Tâm phân biệt của Phàm phu là hiểu biết sai lạc, là vô minh tà kiến chấp ngã,
nên sẽ phát sinh thích ghét đối tượng, ràng buộc và phiền não vì đối tượng, còn
Tâm phân biệt của bậc Thánh là hiểu biết đúng sự thật, là trí tuệ, là minh, nên
không còn phát sinh thích ghét đối tượng, không còn ràng buộc, không còn
phiền não với đối tượng. Nhiều trường phái Phật giáo cho rằng bậc Thánh chỉ
sống với Tâm vô phân biệt, không còn Tâm phân biệt. Đó là hiểu biết sai lạc,
vô minh tà kiến, không đúng sự thật. Trong các bộ kinh Nikaya đã phê phán tư
tưởng này và dẫn chứng bằng sự thật là, nếu giác ngộ bởi Tâm vô phân biệt thì
đứa trẻ mới đẻ ra, đang còn nằm ngửa đã giác ngộ rồi, đâu cần phải tu nữa. Vì
sao? Tại vì khi mới đẻ ra, khi sáu Căn của nó tiếp xúc sáu Trần thì sẽ phát sinh
tâm biết trực tiếp giác quan thấy, nghe, cảm nhận mọi đối tượng thực tại. Đấy
chính là tâm vô phân biệt, nhưng nó không biết đối tượng đó là cái gì, tính chất
ra sao. Vì sao? Vì tâm biết ý thức, tức tâm phân biệt do học hỏi chưa khởi lên
được vì nó chưa có quá trình học hỏi như người lớn. Vì vậy, nó không thể
phân biệt được cái này ăn được, cái kia không ăn được vv... nên nó có thể ăn
cả những cái không ăn được nếu không có người lớn ngăn cản.

Về mục lục

Bài 034: TÂM HÀNH SI

A - Nguyên nhân phát sinh tâm Si và biểu hiện của tâm Si:

Đa phần người học Phật đều đồng nhất Si với ngu si, Si với Vô minh. Đây là
một sự nhầm lẫn hệ trọng bởi tâm hành si rất vi tế khó thấy, khó biết. Si không
thô thiển như tâm hành Tham và Sân dễ thấy dễ biết và đặc biệt kinh điển cũng
không nói rõ Si là gì. Si được nói đến trong ngữ cảnh Tham Sân Si là ba tâm
hành, là ba THÁI ĐỘ đối với ba loại đối tượng: Dễ chịu, Khó chịu, Trung tính
mà thực chất là ba loại Cảm thọ: Lạc thọ, Khổ thọ, Bất khổ bất lạc thọ. Cụ thể
Tham là thái độ yêu thích đối với Lạc thọ, Sân là thái độ chán ghét đối với Khổ
thọ. Còn đối với Bất khổ bất lạc thọ thì có thái độ không thích, không ghét
nhưng lại phát sanh tác ý tìm kiếm một Lạc thọ để thay thế Bất khổ bất lạc thọ.
Đó chính là tâm hành Si. Ba tâm hành Tham Sân Si này phát sinh do Ý thức Tà
Tri Kiến, là hiểu biết sai lạc, là VÔ MINH về các pháp, VÔ MINH về Khổ Tập
Diệt Đạo trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu. Đó là hiểu biết Khổ và
Nguyên nhân Khổ chính là những đối tượng Khó chịu (Khổ thọ). Sự chấm dứt
Khổ chính là Hạnh Phúc có ở những đối tượng Dễ chịu (Lạc thọ). Còn những
đối tượng Trung tính không mang đến Khổ nhưng cũng không mang đến Hạnh
phúc, chỉ những đối tượng Dễ chịu mới mang đến Hạnh phúc. Và như vậy Con
đường chấm dứt Khổ là thay đổi hoàn cảnh, tìm kiếm những đối tượng dễ chịu
để thay thế đối tượng khó chịu và trung tính. Chính vì những hiểu biết VÔ
MINH về Khổ Tập Diệt Đạo này mà khi Ý thức Tà Tri Kiến khởi lên và nếu
xác định đối tượng được Thấy, được Nghe, được Cảm nhận là:
- Dễ chịu (Lạc thọ) thì sẽ phát sinh thái độ thích thú (Tham)

- Khó chịu (Khổ thọ) thì sẽ phát sinh thái độ chán ghét (Sân)

- Trung tính (Bất khổ bất lạc thọ) thì sẽ phát sinh thái độ không thích không ghét
(Si) và do Si mà phát sinh Phi như lý tác ý: tìm kiếm một đối tượng Dễ chịu để
thay thế đối tượng Trung tính.

Như vậy VÔ MINH là Nhân phát sinh Tham Sân Si là Quả và như vậy Si không
phải là Ngu Si, không phải là VÔ MINH như nhiều người hiểu lầm mà đây là
THÁI ĐỘ, một tâm hành rất vi tế khó thấy, khó biết hơn Tham và Sân rất
nhiều. Tham và Sân có thể biết rõ trong đời sống, nó chỉ chiếm khoảng 20 đến
30% thời gian trong ngày (các đối tượng khởi lên thích và ghét) còn Si chiếm
đến 70 đến 80% thời gian còn lại. Biết được Si không phải là cái biết trực tiếp
giác quan (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng thức)
mà là Ý thức, biết gián tiếp thông qua tư duy, suy luận về hành vi tìm kiếm đối
tượng Dễ chịu để thay thế đối tượng Khó chịu và Trung tính.

Trong Kinh Nhất Dạ Hiền Giả mô tả lối sống của Phàm phu là: Truy tìm quá
khứ, Ước vọng tương lai và Đắm chìm trong hiện tại. Đắm chìm trong hiện tại
chính do Tham và Sân gây nên, Truy tìm quá khứ, Ước vọng tương lai do Si
gây nên. Nghĩa là khi đối diện với đối tượng Dễ chịu hoặc Khó chịu thì Tham
Sân khởi lên, do Tham Sân mà sẽ chú tâm vào đối tượng, bị cuốn hút vào đối
tượng. Đây gọi là "đắm chìm trong hiện tại". Khi đối diện đối tượng Trung tính,
Si khởi lên. Đây là Thái độ không thích, không ghét đối tượng, nên không bị
cuốn hút vào đối tượng (không đắm chìm trong hiện tại) nhưng lại tác ý đưa đến
tìm kiếm một đối tượng Dễ chịu trong quá khứ hoặc tương lai để thay thế đối
tượng Trung tính trong hiện tại. Tâm Si làm phát sinh hành vi: Tìm kiếm đối
tượng Dễ chịu trong Quá khứ hoặc Tương lai làm cho đời sống của Phàm phu
đa phần là sống truy tìm Quá khứ hoặc ước vọng Tương lai. Đặc biệt là sống
trong ước vọng Tương lai, hy vọng Tương lai là đặc trưng của đời sống nhân
loại và những ai không còn một chút nào hy vọng về tương lai nữa, họ không
thể nào chịu đựng được Hiện tại khổ đau và họ sẽ tự sát.

Tâm Si sẽ làm phát sinh hành vi Tìm kiếm một đối tượng Dễ chịu thực chất là
Tìm kiếm Niềm Vui, Hạnh Phúc vì hiểu biết VÔ MINH về Khổ Tập Diệt Đạo là
chỉ có Hạnh Phúc mới Chấm Dứt Khổ và Hạnh Phúc thì sẵn có, thường xuyên
có (thường hằng, thường trú) trong những đối tượng Dễ chịu, những hoàn cảnh
tốt đẹp như giàu có, sắc đẹp, thành đạt, đầy đủ tiện nghi... Sự tìm kiếm này xảy
ra nơi DỤC LẠC, nơi HIỆN HỮU (sự sống), nơi PHI HIỆN HỮU (hiện hữu
không có thân xác) mà trong Kinh nói là DỤC ÁI, HỮU ÁI và PHI HỮU ÁI.

1 - Tìm kiếm Hạnh Phúc vật chất, Hạnh phúc tinh thần trong DỤC LẠC (Dục
Ái) là tìm kiếm Hạnh Phúc trong Sắc đẹp, Tiếng hay, Hương thơm, Vị ngon,
Xúc chạm êm ái... Ngoài khoảnh khắc đối diện với đối tượng Dễ chịu và Khó
chịu, Tham Sân khởi lên và "đắm chìm trong hiện tại", tâm Si khởi lên liên tục
suy nghĩ để tìm kiếm Hạnh phúc nơi Sắc đẹp, Tiếng hay, Hương thơm,vị ngon,
Xúc chạm êm ái đã có trong quá khứ hoặc mơ ước sẽ có trong tương lai. Khi
Mắt tiếp xúc với Sắc trần như cây cối, xe cộ, thú vật, nhà cửa, đàn ông, đàn bà...
nếu là hình ảnh Đẹp thì thích thú, mê mẩn, nếu hình ảnh xấu thì chán ghét, chê
bai, nếu hình ảnh Không Đẹp Không Xấu thì không "để ý" đến mà tác ý đưa
đến quay đầu sang hướng khác, tìm một hình ảnh Đẹp để thích thú. Tác ý như
vậy do tâm Si mà khởi lên. Khi rảnh rỗi luôn luôn tìm người để nói chuyện, chủ
đích là có Niềm vui trong chuyện trò. Đó là biểu hiện của Si. Khi ăn một miếng
cơm không thức ăn thì không thích, không ghét nhưng lại tìm một loại thức ăn
(cho dù là muối) để có được cảm giác ngon, thay thế cho cảm giác không ngon
không dở. Khi đi bộ trên đường, Chân xúc chạm với mặt đường, nếu dẫm gai,
dẫm đá, đau chân là một Cảm giác Khó chịu thì bực bội rồi chú tâm vào và biết
rõ cảm giác khó chịu đó, nếu có cảm giác mát lạnh hoặc êm dịu thì thích thú và
cũng chú tâm vào và biết rõ cảm giác đó. Nhưng những cảm giác còn lại đa
phần là Trung tính (không dễ chịu không khó chịu) thì không "để ý" mà tác ý
khởi lên suy nghĩ chuyện này, chuyện kia, hay tác ý vào những hình ảnh bên
đường. Đây là biểu hiện của Si. Một biểu hiện dễ dàng nhận thấy nhất của tâm
Si là trong đời sống của nhân loại đa phần thời gian con người "cắm mặt" vào
màn hình chiếc điện thoại thông minh để tìm kiếm Niềm vui trong thế giới ảo,
trong chơi game... để thay thế cảm giác trung tính. Khi đã "nhàm" các đối tượng
đang có, đang sử dụng mà trước đó thích thú thì tâm Si sẽ tác ý tìm kiếm những
đối tượng dễ chịu khác để thay thế các đối tượng đã "nhàm", nên nhiều người
tìm đến với ngoại tình, ma tuý, cá cược, những trò chơi nguy hiểm, những cảm
giác mạnh... Trường hợp vi tế nhất và xảy ra nhiều nhất là hoài nghi và lúc đó
tâm Si sẽ tác ý đưa đến suy nghĩ, tìm kiếm một lời giải cho sự hoài nghi đó. Ví
như vợ đi làm thường ngày về nhà vào lúc 18 giờ chiều nhưng hôm đó đến 20
giờ vẫn chưa thấy vợ về. Nếu biết rõ là vợ đang ở cơ quan để lĩnh thưởng hoặc
biết rõ vợ đang đi với tình nhân thì Tham Sân sẽ khởi lên, nhưng không biết rõ
vợ đang ở đâu, làm gì, tình trạng ra sao thì đó là hoài nghi, đó là Trung tính. Khi
đó tâm Si khởi lên đưa đến tác ý suy nghĩ, tìm kiếm một lời giải để thay thế
hoài nghi đó: không biết đi đâu nhỉ, có bị tai nạn không, đang nằm bệnh viện
nào, sao điện thoại không có sóng, phải đi tìm ở đâu đây, hay là bị cướp, có đi
với "thằng kia" không nhỉ... Sự tư duy tìm kiếm học hỏi, phát minh chính là
biểu
hiện của tâm Si để tìm kiếm một giải đáp cho những hoài nghi, để thay thế đối
tượng Trung tính đó...

Tâm Si không phải là Ngu Si mà nó đưa đến tác ý suy nghĩ, tìm kiếm Niềm vui,
Hạnh phúc trong Dục Lạc, nên nó là động lực cho các phát minh của nhân loại.
Nhờ nó mà nhân loại phát minh ra điện, máy bay, tàu hoả, ô tô, máy móc, công
nghệ, các phương tiện nghe nhìn, các tiện nghi sang trọng, các món ăn khoái
khẩu, mạng Internet, một xa lộ thông tin khổng lồ. Nhờ nó mà văn học, nghệ
thuật, thi ca, âm nhạc, điện ảnh, các môn thể thao ra đời. Nhờ nó mà nhân loại
có được một lượng kiến thức khổng lồ về mọi thứ... Trong một ngày tâm Tham
(thích) và Sân (ghét) khởi lên chỉ chiếm khoảng 20 đến 30% tổng lượng thời
gian còn tâm Si thì chiếm đến 70 đến 80% thời gian còn lại.

2 - Tìm kiếm Hạnh phúc trong SỰ SỐNG, SỰ HIỆN HỮU hay HỮU ÁI: Hiểu
biết Vô Minh đã Mặc Định, sống với thân xác này, hiện hữu với thân xác này là
Hạnh phúc. Chết là sự chấm dứt sự sống, sự hiện hữu của thân xác là vô cùng
đau khổ. Sự chết, sự chấm dứt hiện hữu của thân xác này là mở đầu cho "một
cái gì đó" đầy bí hiểm, chưa bao giờ kinh nghiệm được, đầy hoang mang, nghi
ngờ, do dự... Chính vì vậy mà tâm Si khởi lên, tìm kiếm sự sống, sự hiện hữu,
bám víu sự sống, sự hiện hữu. Trong giờ phút hấp hối, Hữu Ái khởi lên mãnh
liệt và nó là Nhân để phát sinh Thức Tái Sinh, tiếp tục chu kỳ tái sinh với Khổ
của Sinh Già Bệnh Chết. Nhưng chính cũng do Hữu Ái mà loại người tìm kiếm
Hạnh phúc trong sự sống, sự hiện hữu của thân xác lại là động lực cho các phát
minh: vô số các loại dược phẩm, các phương pháp chữa bệnh, các loại máy
móc dụng cụ y tế, các phương pháp phẫu thuật cấy ghép nội tạng...

3 - Tìm kiếm Hạnh phúc tuyệt đối trong sự PHI HIỆN HỮU hay PHI HỮU
ÁI: Đây là lĩnh vực của tôn giáo, của những người tu hành tìm kiếm Hạnh
phúc tuyệt đối trong các cảnh giới Tâm Linh, sự hiện hữu trong các cảnh giới
Giải thoát Tâm Linh không còn thân xác (phi hiện hữu thân xác).
Trong ba biểu hiện của tâm Si là tìm kiếm Hạnh phúc ở Dục, ở Hữu, ở Phi Hữu
mà Kinh đề cập là Dục Ái, Hữu Ái và Phi Hữu Ái thì có vẻ như Dục Ái rất
mãnh liệt nhưng là Thô dễ nhận biết nhưng Hữu Ái vi tế hơn, khó nhận biết
nhưng lại mãnh liệt hơn Dục Ái, còn Phi Hữu Ái thì vi tế hơn nữa và cũng
mãnh liệt hơn cả Hữu ái rất nhiều. Ví như một người có nhiều tỷ đô la, nếu mất
đi thì người đó sẽ đau đớn quằn quại nhưng nếu anh ta mắc một bệnh nan y chỉ
còn vài tuần sẽ chết và nếu đánh đổi toàn bộ khối tài sản kia mà bảo toàn được
sự sống thì người đó sẵn sàng cho sự đánh đổi. Đây là biểu hiện Hữu ái mãnh
liệt hơn Dục Ái. Tính mạng đáng quý như vậy nhưng một số người lại đánh
bom tự sát để đánh đổi lấy hạnh phúc lạc thú nơi thiên đường của Thượng đế.
Đây là biểu hiện Phi Hữu Ái mãnh liệt hơn Hữu Ái. Một số đạo sĩ loã thể xưa
và nay đã "đè nén" được Dục Ái và Hữu Ái, họ được dân chúng Ấn độ tôn
sùng vì ít ai "đè nén" được Dục Ái như họ. Ví như không quần áo che thân,
không cần che những chỗ hổ thẹn, một phụ nữ cầm lấy "cái đó" xoa xoa rồi bôi
lên đầu nhưng đạo sĩ vẫn bình thản, không "cương" lên. Đạo sĩ đè nén được
Dục Ái và Hữu Ái như vậy nhưng lại dồn tất cả nghị lực chỉ với ước mong
tương lai, khi không còn thân xác, Linh hồn sẽ được "hoà nhập" với Thượng
đế, với Đại Ngã.

B - Tâm Si là Nguyên nhân Khổ: Tham Sân Si là Nguyên nhân Khổ nhưng bài
này chỉ bàn về tâm Si nên chỉ đề cập tới Khổ do Si khởi lên. Trong Kinh
Chuyển Pháp Luân tuyên bố Nguyên nhân Khổ là: Khát Ái tìm cầu hỷ lạc chỗ
này chỗ kia như Dục Ái, Hữu Ái và Phi Hữu Ái. Trong Kinh Pháp Môn Căn
Bản tuyên bố: Dục hỷ là Căn bản của Khổ (Dục hỷ bao gồm: Dục hỷ Dục lạc,
Dục hỷ Hữu và Dục hỷ Niết Bàn). Trong những tuyên bố này đã nhấn mạnh đến
Si là Nguyên nhân Khổ, vì nếu xét theo thời gian thì Tham Sân chỉ chiếm 20
đến 30% còn Si chiếm đến 70 đến 80% thời gian. Nguyên nhân Khổ đã được
khảo sát kĩ trong nhiều bài giảng khác nhau, bài này chỉ giải đáp một thắc mắc:
Tâm Si là động lực mà nhờ đó loài người thay đổi được Thế giới ngoại cảnh Sắc
Thanh Hương Vị Xúc Pháp, biến Thế giới lạc hậu, tối tăm, nghèo đói, thiếu tiện
nghi... thành một thế giới ngày càng hiện đại, giàu có, sung túc, đầy đủ tiện
nghi... chấm dứt được những hoàn cảnh Khó chịu và Trung tính đạt được những
hoàn cảnh Dễ chịu như thế, nhưng TẠI SAO CON NGƯỜI KHÔNG HẾT
KHỔ? Bởi vì hiểu biết không đúng sự thật, hiểu biết Vô Minh đã chi phối con
người. Vô Minh là Tâm biết Ngoại Cảnh, là Khổ Tập Diệt Đạo thường hằng,
thường trú trong Ngoại Cảnh. Nhân loại hiểu Thực Tại này là Thế giới Ngoại
Cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp mà không Thấy Biết sự thật: Thực Tại mà
con người đang sống là CẢM THỌ, nó Vô Thường, Vô Chủ, Vô Sở Hữu. Thực
tại đó do Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần phát sinh ra. Vì Vô Minh chi phối mà con
người đang đuổi bắt để làm chủ, để sở hữu các Cảm Thọ dễ chịu (Lạc thọ) hòng
thay thế Khổ thọ và Bất Khổ Bất Lạc thọ. Đó ảo tưởng lớn nhất của nhân loại.

Vì rằng Cảm Thọ thuộc phàm trù Tâm, nó Vô thường, Vô chủ, Vô sở hữu nên
không thể nào nắm bắt hay xua đuổi, không thể nào làm chủ hay sở hữu nó. Tuy
rằng nhân loại đang sống trong ẢO TƯỚNG LỚN như vậy nhưng lại lầm tưởng
rằng, mình sẽ chiếm hữu, sẽ làm chủ được Hạnh phúc sẵn có, thường xuyên có
(thường hằng, thường trú) trong Thế giới vật chất Sắc đẹp, Tiếng hay, Hương
thơm, Vị ngon, Xúc chạm êm ái, trong sự sống trường tồn, hay trong một cảnh
giới giải thoát không sinh không diệt. Chính Vô minh đó ám ảnh dẫn dắt nhân
loại đuổi bắt các Cảm Giác Dễ Chịu, nhưng khi tìm gặp được nó, vì nó là Vô
Thường nên nó chỉ tồn tại trong giây lát rồi lại biến mất. Và khi nó biến mất lại
xuất hiện một Cảm Giác Khó chịu hoặc Trung Tính, nên lại phải tiếp tục đuổi
bắt Cảm Giác Dễ Chịu khác để thay thế. Cái "trò chơi" đuổi bắt tìm kiếm Lạc
Thọ như vậy cứ tiếp diễn liên tục vô định miên viễn trong luân hồi sinh tử
không dừng nghỉ và vì vậy mà Khổ sẽ khởi lên liên tục. Khổ khởi lên do tâm Si
đuổi bắt các Lạc thọ như vậy gọi là Hành Khổ. Ví như một người đi đường về
rất mệt mỏi, vừa ngồi lên ghế tựa thì cảm nhận một Cảm giác êm ái dễ chịu và
thích thú nhưng Cảm giác êm ái dễ chịu đó chỉ tồn tại khoảng 5 - 7 phút và khi
nó chấm dứt thì xuất hiện Cảm giác trung tính. Khi cảm nhận Cảm giác trung
tính xuất hiện, tâm Si khởi lên đưa đến tác ý tìm kiếm một đối tượng dễ chịu
khác để thay thế như đi tắm hay nghe nhạc, đọc báo, ngắm hoa... Một món ăn
thượng vị, ngon lành hấp dẫn được con người thích thú khi cảm nhận Cảm giác
vị ngon nhưng ăn liên tục 4 - 5 ngày liền thì Cảm giác vị ngon biến mất và khi
cảm nhận Cảm giác vị không ngon không dở cũng do thức ăn ấy tiếp xúc với
lưỡi phát sinh thì tâm Si khởi lên, tìm kiếm một thức ăn ngon khác để thay thế...
Một người mơ ước rồi nỗ lực cố gắng đạt được khối tài sản 10 tỉ và khi có được
10 tỉ thì thích thú hoan hỷ, hãnh diện nhưng sau vài ba tháng thì Cảm giác đó
phai nhạt dần và xuất hiện Cảm giác trung tính, lúc đó tâm Si khởi lên lại tìm
kiếm Niềm vui, Hạnh phúc khi có 100 tỉ. Những người đạt đến đỉnh cao danh
vọng, các nhà vô địch, những thiên tài nghệ thuật khi đạt đến tuyệt đỉnh họ cảm
nhận Cảm giác Hạnh phúc vô song nhưng rồi theo năm tháng cái Cảm giác
Hạnh phúc vô song ấy biến hoại, biến diệt và xuất hiện Cảm giác trung tính.

Lúc đó tâm Si khởi lên sẽ tìm kiếm một Cảm giác Hạnh phúc mãnh liệt hơn
trước để thay thế, nhưng mọi nỗ lực cố gắng đều không vượt qua đỉnh cao đã
thành đạt. Sự tìm kiếm trở nên vô vọng nên nhiều người rơi vào trầm cảm, tự
sát... Cái ghế tựa vật chất, thức ăn "ngon" vật chất... không biến mất, hoặc có
biến mất cũng phải mấy năm, hoặc mất chỗ này thì vẫn còn chỗ khác, nhưng cái
Cảm giác dễ chịu do cái ghế hay thức ăn... tiếp xúc với thân hay lưỡi... thì biến
hoại, biến diệt tức thì không thể nào nắm giữ, làm chủ, sở hữu nó được. Phải
Thấy Biết như thật rằng: CON NGƯỜI ĐANG SỐNG TRONG THỰC TẠI
CẢM THỌ.

C - Chấm dứt Si là Chấm dứt Khổ: Tham Sân Si là nguyên nhân phát sinh
Khổ thì đương nhiên Chấm dứt Tham Sân Si là Chấm dứt Khổ, điều này là sự
thật như là đất ở dưới chân. Muốn chấm dứt Tham Sân Si phải thực hành Bát
Chánh Đạo như bậc Đại Giác đã chỉ dạy mà cụ thể là thực hành Tứ Niệm Xứ.
Thực hành Tứ Niệm Xứ là thực hành Chánh Niệm về Thân, Chánh Niệm về
Thọ, Chánh Niệm về Tâm, Chánh Niệm về Pháp mà cụ thể là:

1 - Chánh Niệm về Thân là NHỚ ĐẾN chú tâm quán sát thân nơi thân (quán
sát trực tiếp không qua suy luận) với Chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác để
nhiếp phục Tham ưu.

2 - Chánh Niệm về Thọ là NHỚ ĐẾN chú tâm quán sát thọ nơi thọ với
Chánh Niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác để nhiếp phục Tham Ưu

3 - Chánh Niệm về Tâm là NHỚ ĐẾN chú tâm quán sát tâm nơi tâm với
Chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác để nhiếp phục Tham Ưu

4 - Chánh Niệm về Pháp là NHỚ ĐẾN chú tâm quán sát pháp nơi pháp với
Chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác để nhiếp phục Tham Ưu

Lưu ý: Chánh Niệm là nhớ đến "như vậy" còn Tà Niệm là nhớ đến đủ thứ
chuyện trong đời, và vì vậy mà "phân tâm bởi mọi thứ chuyện thế gian". Vì như
khi có Nhớ đến ngồi thiền thì mới đi ngồi thiền, còn Nhớ đến xem phim thì sẽ
đi xem phim, Nhớ đến chú tâm (đối tượng nào) thì chú tâm mới xảy ra vì vậy
Chánh Niệm không phải là cái biết nên không phải là Ghi Nhận hay là Hay
Biết.

Khi có Chánh Niệm thì Bát Chánh Đạo siêu thế khởi lên và trong đó có Chánh
Định ở cấp độ: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền hoặc Tứ thiền lúc đó tâm Si mới
được nhiếp phục, lúc đó mới đối mặt được, không còn "chạy trốn" Trung Tính,
đặc biệt là tu sĩ.

Về mục lục

Bài 035: TƯỞNG TRI


Tưởng tri là một từ thuần tuý Hán ngữ và nếu hiểu theo tiếng Việt thì Tưởng tri
là biết do Tưởng. Đa phần người học lại đồng nhất "Tưởng" vởi tưởng tượng
nên suy luận ra, Tưởng tri là biết do tưởng tượng và từ đó kết luận: Tưởng tri là
biết sai lầm, là tri giác sai, là do tưởng tượng mà có, hay thế giới của tưởng
(tượng). Nghĩa chữ Tưởng và tưởng tri đa phần người học Phật dùng là như vậy,
nhưng nghĩa của Tưởng tri không phải như vậy. Ngữ cảnh mà Tưởng hay
Tưởng tri được dùng trong Kinh điển là: NHẬN BIẾT ĐỐI TƯỢNG. Trong lời
giới thiệu bản in Kinh Trung Bộ, cố Hoà thượng Minh Châu đã viết: Chúng tôi
in Kinh Trung Bộ từ năm 1973 đến năm 1975, được phiên dịch trong khoảng
1970 đến 1975 nên bản dịch có nhiều thiếu sót. Trước hết một số danh từ như
Adassan trước dịch là "không hiểu rõ", nay dịch lại là "không được thấy";
Sanjànàti trước dịch là "chấp nhận", nay dịch là "tưởng tri"; Parijànàti trước
dịch là "hiểu rõ", nay dịch là "liễu tri"; Abhijànàti, trước dịch là "biết rõ", nay
dịch lại là "thắng tri"; Pajànàti, trước dịch là "hiểu rõ", nay dịch lại là "Tuệ tri".
Ý nghĩa này phải được hiểu là trước đây Ngài dịch từ đó là Chấp nhận nay dịch
là Tưởng tri, về ý nghĩa cũng tương đương nhau và từ "Chấp nhận" là CHẤP
NHẬN ĐỐI TƯỢNG khi xuất hiện đối tượng, cũng đồng nghĩa NHẬN BIẾT
ĐỐI TƯỢNG, cũng tương tự GHI NHẬN ĐỐI TƯỢNG khi đối tượng xuất
hiện. Như vậy TƯỞNG TRI ĐỐI TƯỢNG nó có cùng một nghĩa với: Chấp
nhận, Nhận biết, Ghi nhận đối tượng khi đối tượng xuất hiện. Trong Kinh điển
không những có giảng nói Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần phát sinh sáu Cảm thọ
(Cảm giác) mà còn nói Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần phát sinh SÁU TƯỞNG (chứ
không phải MỘT TƯỞNG) và trong kinh Đại Kinh Mãn Nguyệt nói Tưởng
Uẩn do Xúc mà phát sinh, khẳng định Tưởng là một nhóm gồm sáu Tưởng chứ
không phải một Tưởng như hiểu biết sai lạc, cho Tưởng là tưởng lầm.

Nhận Biết, Chấp nhận, Ghi nhận đối tượng hay Tưởng tri đối tượng là như thế
nào? Đó là:
MẮT tiếp xúc SẮC TRẦN phát sinh Cảm giác hình ảnh và Nhãn thức. Nhãn
thức thấy Đối tượng Cảm giác hình ảnh nhưng không Biết đối tượng đó là cái
gì, tính chất ra sao. Ví như đưa một bông hồng lên trước mắt đứa bé mới sinh
ra, nó thấy hình ảnh nhưng không biết là cái gì. Đó là cái thấy thuần tuý Nhãn
thức không có Ý thức hiểu biết xen vào. Đấy gọi là NHẬN BIẾT ĐỐI
TƯỢNG. Như vậy Nhãn thức thấy đối tượng là cái biết TRỰC TIẾP GIÁC
QUAN và đó là NHẬN BIẾT, GHI NHẬN hay CHẤP NHẬN đối tượng mà
thuật ngữ Phật học gọi là TƯỞNG TRI đối tượng, triết học gọi là NHẬN
THỨC CẢM TÍNH đối tượng. Tương tự như vậy:

TAI tiếp xúc THANH TRẦN phát sinh: Cảm giác âm thanh và Nhĩ thức
MŨI tiếp xúc HƯƠNG TRẦN phát sinh: Cảm giác mùi và Tỉ thức

LƯỠI tiếp xúc VỊ TRẦN phát sinh: Cảm giác vị và Thiệt thức

THÂN tiếp xúc XÚC TRẦN phát sinh: Cảm giác xúc chạm và Thân thức
Ý tiếp xúc PHÁP TRẦN phát sinh: Cảm giác pháp trần và Tưởng thức.

Viết gộp lại là: XÚC - (Thọ - Tưởng)

Tưởng bao gồm tâm biết: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức,
Tưởng thức thấy Cảm giác hình ảnh, nghe Cảm giác âm thanh, cảm nhận Cảm
giác mùi, cảm nhận Cảm giác vị, cảm nhận Cảm giác xúc chạm, ghi nhận Cảm
giác pháp trần.

1 - Đối với lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu sau khi tâm biết trực tiếp
giác quan NHẬN BIẾT đối tượng thì NIỆM - TƯ DUY - Ý THỨC khởi lên
ngay để hiểu biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao, nên sự Nhận Biết đối
tượng xảy ra rất nhanh chóng và diệt đi ngay (lướt qua) và thời gian khởi lên,
tồn tại của Ý thức biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao là chủ yếu. Vì vậy
sự NHẬN BIẾT xảy ra "lướt qua" như vậy, nên gọi là TƯỞNG TRI đối tượng.
Kinh Pháp Môn Căn Bản đã dùng từ Tưởng tri theo ngữ cảnh này. Lộ trình này
được diễn tả theo sơ đồ:

XÚC - (Thọ - Tưởng) - TÀ NIỆM - TÀ TƯ DUY - Ý thức TÀ TRI KIẾN

2 - Đối với lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của bậc Thánh sau khi NHẬN BIẾT đối
tượng CHÁNH NIỆM khởi lên, Nhớ Đến chú tâm vào đối tượng với Nhiệt tâm,
Tỉnh giác, vì vậy CHÁNH TINH TẤN khởi lên và do vậy CHÁNH ĐỊNH (chú
tâm vào đối tượng) khởi lên. Lộ trình tâm sẽ dừng lại, kết thúc tại đó và nó sẽ
"nháy đi nháy lại" nhiều lần như vậy. Do vậy đối tượng và Nhận biết đối tượng
được kéo dài ra, nên NHẬN BIẾT rất rõ ràng đối tượng không còn xẹt qua như
Bát Tà Đạo. Sự Nhận Biết đối tượng như vậy không còn gọi là TƯỞNG TRI mà
thuật ngữ phật học gọi là TỈNH GIÁC hay Kinh Pháp Môn Căn Bản gọi là
THẮNG TRI đối tượng. Lộ trình diễn tả như sau:

XÚC - (Thọ - Tưởng) - CHÁNH NIỆM - CHÁNH TINH TẤN – CHÁNH

ĐỊNH - (Tỉnh Giác)

Sự NHẬN BIẾT được tư trợ bởi Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định
được gọi là Tỉnh giác này là cái biết Trực Tiếp Giác Quan thuần tuý không có Ý
Thức xen vào nên THẤY chỉ là THẤY, NGHE chỉ là NGHE, CẢM NHẬN chỉ
là CẢM NHẬN đối tượng, không thêm bớt.

Về mục lục

Bài 036: TỈNH GIÁC VÀ TÁNH KHÔNG

Tỉnh Giác là một từ được nhắc đến rất nhiều trong các bộ kinh Nikaya nhưng
không có một lời mô tả, giải thích để người học hiểu được, hình dung được
Tỉnh giác là cái gì. Ví như, trong Kinh thường mô tả: Vị Tỷ kheo khi đi tới, khi
đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn tới, nhìn lui đều tỉnh giác, khi mang bát, đắp y đều
tỉnh giác, khi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi đứng ngồi nằm, nói năng,
im lặng đều tỉnh giác. Cặp đôi Chánh Niệm - Tỉnh Giác là những pháp rất vi tế,
sâu kín, khó thấy, khó biết thuộc về Siêu thế chỉ dành cho bậc trí đã thực hành
Bát Chánh Đạo siêu thế thuần thục tự mình giác hiểu. Vì thế trong các bộ luận,
các chú giải, các luận sư đã không đề cập, không giải thích được Tỉnh Giác là
cái gì. Vì không hiểu biết như thật về Tỉnh Giác, có một số người đã dùng từ
Tỉnh Thức thay cho Tỉnh Giác, do không hiểu được Tỉnh Thức là chỉ cho trạng
thái đầu óc tỉnh táo, không hôn trầm, không ngủ gục nơi mọi người kể cả Phàm

phu, còn Tỉnh giác chỉ có nơi một bậc Thánh hữu học hay vô học đang sống với
lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế. Đa phần người tu học Phật cả Nam và Bắc
tông đều cho Tỉnh Giác là Trí Tuệ. Vậy Tỉnh Giác là gì?

Đối với loài người khi có một đối tượng xuất hiện thì cũng đồng thời xuất hiện
Tâm biết đối tượng đó, nhưng Tâm biết đối tượng lại có hai loại Tâm biết chứ
không phải chỉ có một loại tâm biết chung chung. Cụ thể như sau:

- Một là: Tâm biết trực tiếp giác quan (Tàu dịch trong các bộ A Hàm là Biết
Trực giác) có phận sự Ghi Nhận hay Nhận Biết đối tượng, nhưng chưa biết đối
tượng đó là cái gì, tính chất ra sao, nên khoa Tâm lý học đặt tên là NHẬN
THỨC CẢM TÍNH đối tượng. Đó chính là Nhãn thức thấy đối tượng hình ảnh,
Nhĩ thức nghe đối tượng âm thanh, Tỷ thức cảm nhận đối tượng mùi, Thiệt thức
cảm nhận đối tượng vị, Thân thức cảm nhận đối tượng xúc chạm và Tưởng thức
ghi nhận đối tượng pháp trần. Các tâm biết trực tiếp giác quan này được gọi với
tên chung là Tưởng hay Tưởng uẩn, do Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh, nó vô
thường, vô chủ vô sở hữu (vô ngã), vô niệm (không có khái niệm), vô ngôn
(không có ngôn từ), vô phân biệt (không có phân biệt cái này với cái kia) mà già
trẻ, Thánh Phàm, con người và các loài động vật đều có như nhau. Hãy hình
dung Tâm biết trực tiếp giác quan nơi một đứa trẻ vừa đẻ ra, khi sáu Căn của nó
tiếp xúc sáu Trần thì nó vẫn Thấy, Nghe, Cảm Nhận các đối tượng, nhưng nó
KHÔNG BIẾT đối tượng đó là cái gì, tính chất đối tượng đó ra sao. Các loại
tâm biết trực tiếp giác quan này gọi tắt là THẤY (gồm thấy, nghe, cảm nhận đối
tượng).

- Hai là: Tâm biết Ý thức khởi lên tiếp theo, có phận sự BIẾT đối tượng đó là
cái gì, tính chất ra sao nên khoa Tâm lý học đặt tên là NHẬN THỨC LÝ TÍNH
đối tượng. Tâm biết Ý thức do Niệm, Tư duy mà khởi lên theo lộ trình Niệm -
Tư duy - Ý thức, nên nó phụ thuộc vào những tri thức, kinh nghiệm đã học hỏi,
đã tích luỹ trong quá khứ được lưu giữ trong kho chứa tâm thức. Tánh chất của
nó cũng vô thường, vô ngã, có khái niệm, có ngôn từ, có phân biệt. Nó còn được
gọi là Thức uẩn. Tâm biết Ý thức biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao của
Thánh Phàm, người và động vật, già trẻ đều khác nhau. Tâm biết Ý thức của
Phàm phu là Tà Tri Kiến, là Vô minh, là hiểu biết sai sự thật đối tượng, là
Không Liễu tri đối tượng. Tâm biết Ý thức của bậc Thánh là Chánh Tri Kiến, là
Minh, là Trí Tuệ, là hiểu biết đúng sự thật đối tượng, là Liễu tri đối tượng. Tâm
biết Ý thức gọi tắt là BIẾT.

1 - Đối với Phàm phu khi xuất hiện một đối tượng thì THẤY đối tượng, rồi
BIẾT đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao khởi lên nối tiếp nhau, không gián
đoạn. Do vậy THẤY và BIẾT đi liền nhau, không tách rời nhau và Kinh Pháp
Môn Căn Bản thuộc Trung Bộ Kinh gọi THẤY như vậy là Tưởng tri đối
tượng, BIẾT như vậy là Không liễu tri đối tượng. Do BIẾT, là Tà Tri Kiến,
không liễu tri đối tượng mà sẽ phát sinh DỤC HỶ đối tượng. Và do DỤC HỶ
là Căn Bản của khổ nên sầu bi khổ ưu não, sinh già bệnh chết không thể kể xiết
khởi lên.

2 - Đối với bậc Thánh khi thực hành Niệm Thân nhờ có Chánh Niệm - Chánh
Tinh Tấn - Chánh Định, lộ trình tâm sẽ DỪNG LẠI THẤY MÀ BIẾT KHÔNG
KHỞI LÊN. Lúc này chỉ có thuần tuý Tâm biết trực tiếp giác quan Ghi nhận
đối tượng, không có Tâm biết Ý thức vô minh chấp ngã xen vào. Sự Ghi nhận
đối tượng thuần tuý với với Tâm biết trực tiếp giác quan như vậy gọi là TỈNH
GIÁC, mà trong kinh Pháp Môn Căn Bản gọi là Thắng tri đối tượng. Lúc đó chỉ
có Nhãn thức thấy, Nhĩ thức nghe, Tỷ thức cảm nhận, Thiệt thức cảm nhận,
Thân thức cảm nhận, Tưởng thức ghi nhận đối tượng, mà Ý thức không khởi
lên, không biết đối tượng đó là cái gì, nên không phát sinh thái độ tham sân si,
không quan tâm để ý đến đối tượng, không dính mắc ràng buộc với đối tượng.

Ví như, một cô hoa hậu sexy bốc lửa xuất hiện trước mặt một nam thanh niên
25 tuổi và một đứa bé trai vừa sinh ra. Lúc đó, Nhãn thức THẤY đối tượng hình
ảnh của anh thanh niên và đứa trẻ trai mới đẻ hoàn toàn giống nhau nhưng Ý
thức anh thanh niên khởi lên, BIẾT đó là cô hoa hậu rất đẹp, rất hấp dẫn. Và do
THẤY như vậy, BIẾT như vậy mà anh ta thích thú (tham) và bị cuốn hút vào
đối tượng. Còn đứa trẻ chỉ THẤY thôi, KHÔNG BIẾT đối tượng đó là cái gì vì
chưa có tri thức kinh nghiệm nên Ý thức chưa khởi lên, vì vậy nó sẽ không
thích ghét, không quan tâm để ý đến đối tượng, không dính mắc vào đối tượng
như anh thanh niên kia. Cũng y như vậy khi có Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn -
Chánh Định thì lộ trình tâm chỉ có tâm biết trực tiếp giác quan nên thấy chỉ là
thấy, nghe chỉ là nghe, cảm nhận chỉ là cảm nhận không thêm bớt và khi chỉ có
tâm biết trực tiếp giác quan thuần tuý ghi nhận đối tượng như vậy gọi là TỈNH
GIÁC. Lúc đó sẽ không có Tham Sân Si, không có Phiền não. Giải thoát khi an
trú Tỉnh Giác như vậy gọi là Tâm Giải Thoát.

3 - Tánh Không:

- Tâm biết Tỉnh Giác chính là tâm biết trực tiếp giác quan có tánh chất vô niệm,
vô ngôn, vô phân biệt (còn gọi là Tâm Vô Phân Biệt) nên trong Tỉnh Giác không
có khái niệm to nhỏ, vuông tròn dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua
cay, cứng mềm thô mịn, không có sinh diệt, nhơ sạch, tăng giảm, không có khái
niệm sắc thọ tưởng hành thức, không có khái niệm mắt tai mũi lưỡi thân ý,
không có khái niệm sắc thanh hương vị xúc pháp, không có khái niệm nhãn giới
cho đến ý thức giới, không có khái niệm vô minh cũng như minh, không có khái
niệm khổ tập diệt đạo, không có khái niệm chứng đắc... Những khái niệm, ngôn
từ, phân biệt đó là tánh chất của tâm biết Ý thức, không có trong tâm biết Tỉnh
Giác, vì vậy nên tánh chất của tâm biết Tỉnh Giác là KHÔNG TÁNH. An trú
Tỉnh giác cũng là an trú Không Tánh và giải thoát do an trú Không Tánh gọi là
Không Tánh Giải Thoát hay còn gọi tắt là Không Giải Thoát, là một trong ba
giải thoát gồm Không Giải Thoát, Vô Tướng Giải Thoát và Vô Tác Giải Thoát.

- Sự Giác Ngộ của Đức Phật là giác ngộ về Tâm chứ không phải giác ngộ về
Thế giới vũ trụ. Vì vậy trong kinh điển Ngài đã giảng dạy về Tánh Không,
thâm sâu, ý nghĩa sâu kín, thuộc về siêu thế và Tánh Không đó thuộc về tâm
Bát Chánh Đạo siêu thế của bậc Thánh. Đó chính là Không, Vô Tướng, Vô
Tác hay nói theo Tiếng Việt cho sát nghĩa không là Không Tánh, Không
Tướng, Không Tác. Không Tánh là tánh chất của Tâm biết Tỉnh giác, Không
Tướng là tánh chất của Tâm biết Ý thức Chánh Tri Kiến, Không Tác là tánh
chất của lời nói, hành động (không tạo tác nghiệp) trên lộ trình tâm Bát Chánh
Đạo siêu thế của bậc Thánh. Các Tánh Không này không có trong tâm Bát Tà
Đạo của Phàm phu. Sau khi Đức Phật nhập diệt, trải qua 100 năm sau, khi mà
các bậc Thánh Tăng phần nhiều đã vắng bóng, những nghĩa lý sâu xa về
Không Tánh, Không Tướng, Không Tác dần dà bị mai một, lúc đó các Luận sư
không có tu chứng, không có chứng ngộ xuất hiện nở rộ như nấm mùa xuân, đã
dùng tư duy lý luận suông của mình để giải thích về Không Tánh, Không
Tướng, Không Tác. Dựa trên hiểu biết vô minh của nhân loại với Tâm Biết
Cảnh, nghĩa là đối tượng được biết là Cảnh, là Vũ trụ, là Thế giới. Phật Giáo
Phát Triển sau này cũng chảy theo LỐI MÒN của tư duy nhân loại ấy, nên họ
không thể hiểu được Đức Phật giác ngộ về Tâm, họ vẫn đinh ninh chắc mẩm
Đức Phật giác ngộ về Thế giới vũ trụ. Và vì vậy, họ lấy hiểu biết vô minh, sai
lạc của mình GÁN CHO ĐỨC PHẬT giác ngộ về Vũ trụ, về Thế giới, nên họ
đã giải thích Không Tánh và Không Tướng là BẢN CHẤT CỦA THẾ GIỚI
VŨ TRỤ. Tuy có rất nhiều trường phái Tánh Không khác nhau, có chủ trương
khác nhau, giải thích về Tánh Không khác nhau, thậm chí là mâu thuẫn, cãi lộn
nhau, chung quy đều nói về Tánh Không rất mơ hồ khó hiểu, thiên về nguỵ
biện trườn uốn như lươn nhưng thống nhất là đều nói về TÁNH KHÔNG CỦA
THẾ GIỚI VŨ TRỤ chứ không phải nói về TÁNH KHÔNG CỦA TÂM BÁT
CHÁNH ĐẠO như Chân Nghĩa mà Đức Phật đã chứng ngộ và tuyên thuyết.
Đỉnh cao tinh hoa các quan điểm của Phật giáo phát triển là Tâm Kinh Bát Nhã
nói về Thế giới bản thể: Tánh Không hay Chân Không. Nội dung của Tâm
Kinh Bát Nhã y chang như nội dung Không Tánh của tâm biết Tỉnh Giác đã
mô tả ở phần trước. Vì hiểu biết sai lạc do tư duy lý luận suông theo LỐI MÒN
VÔ MINH như vậy nên Phật giáo phát triển đã diễn giải sai lạc về Tánh Không
và vì vậy, chỉ có tụng đọc nó, xem nó như một thần chú mà không hề có một
cách thức tu tập nào để chứng ngộ và thể nhập nội dung của bài kinh nói về
Không Tánh. Trong lúc đó Phật Giáo Nguyên Thuỷ thực hành Chánh Niệm Về
Thân là có thể chứng ngộ và thể nhập Không Tánh, đó chính là chứng ngộ và
thể nhập Tỉnh giác, còn gọi là chứng ngộ và thể nhập Tâm Giải Thoát. Nhưng
khác với hiểu biết của Phật Giáo Phát Triển cho rằng chứng ngộ Không Tánh
theo Bát Nhã Tâm Kinh là Giác Ngộ tột cùng, là thành Phật, Phật Giáo Nguyên
Thuỷ hiểu biết rằng, chứng ngộ và thể nhập Không Tánh như Bát Nhã Tâm
Kinh, mới chỉ là NHIẾP PHỤC tham sân si, phiền não chứ không thể ĐOẠN
TẬN tham sân si, phiền não. Muốn Giác Ngộ tột cùng còn phải tu Quán bằng
Chánh Niệm về Thọ, về Tâm và về Pháp để chứng ngộ và thể nhập Không
Tướng (Vô Tướng), chính là thể nhập Trí Tuệ Giác Ngộ Tứ Thánh Đế. Đó
chính là tánh chất của Tâm biết Ý thức Chánh Tri Kiến còn gọi là chứng ngộ
và thể nhập Tuệ Giải Thoát. Chính Tuệ Giải Thoát đó mới ĐOẠN TẬN VÔ
MINH, ĐOẠN TẬN THAM SÂN SI, ĐOẠN TẬN PHIỀN NÃO. Và để thành
tựu điều đó phải tu tập Tứ Niệm Xứ, gồm tu tập Niệm Thân, Niệm Thọ, Niệm
Tâm, Niệm Pháp mà Đức Phật đã dày công thuyết giảng.
Về mục lục

Bài 037: TÁNH KHÔNG

Trong Tăng Chi Bộ Kinh chương hai pháp, phẩm Hội chúng có nêu rõ: "Ở đây,
này các Tỷ kheo, tại hội chúng nào, các Tỷ kheo đối với các kinh điển do Như
Lai tuyên thuyết, thâm sâu, ý nghĩa sâu kín, siêu thế, liên hệ đến Không, khi
các kinh điển ấy được thuyết giảng, họ không khéo nghe, không lóng tai, không
an trú tâm để hiểu biết chúng, không nghĩ rằng các pháp ấy cần phải lãnh thọ,
cần phải học thuộc lòng. Nhưng đối với các kinh điển thi văn do thi sĩ làm ra,
với các nguyên âm hoa mỹ, với các phụ âm hoa mỹ, các kinh thuộc ngoại giáo,
được các đệ tử ngoại giáo nói lên, khi các kinh điển ấy được thuyết giảng, họ
khéo nghe, khéo lóng tai, họ an trú tâm để hiểu biết chúng, họ nghĩ rằng các
pháp ấy cần phải lãnh thọ, cần phải học thuộc lòng". Vậy những Kinh nào thâm
sâu, ý nghĩa sâu kín, siêu thế, liên hệ đến không?

Trong 45 năm thuyết giảng Đức Thế Tôn chỉ nói về Duyên Khởi và Tứ Thánh
Đế. Thực chất là Duyên Khởi lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu và Duyên
Khởi lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của bậc Thánh. Trên Bát Tà Đạo có sự thật
về Khổ và sự thật Nguyên nhân Khổ tức Khổ Đế và Tập Đế. Trên Bát Chánh
Đạo có sự thật Khổ Diệt và Con Đường đưa đến Khổ Diệt tức Diệt Đế và Đạo
Đế.

Khổ Đế và Tập Đế là hai sự thật thuộc về Thế gian, Diệt Đế và Đạo Đế là hai sự
thật thuộc Xuất Thế gian hay là Siêu Thế. Những Kinh thâm sâu, ý nghĩa sâu
kín, liên hệ đến Không là những Kinh có đề cập Diệt Đế, đề cập đến chứng ngộ
Tâm Giải Thoát, Tuệ Giải Thoát. Đây là những kinh đề cập đến nghĩa Không, là
chứng ngộ của bậc Thánh. Trong Trung Bộ Kinh có kinh Tiểu Không và Đại
Không liên hệ trực tiếp tới nghĩa Không, nhưng không phải chỉ có như vậy mà
Đức Phật đề cập tới nghĩa Không với rất nhiều chỗ khác nữa. Nghĩa Không này
chính là Niết bàn, là sự không có mặt, sự trống không các pháp hữu vi (Phi
Hữu). Đó là: Không, Vô Tướng, Vô Tác, Vô Ngã, Vô Thường, Vô Tham, Vô
Sân, Vô Si, Không Khổ, Không Nguyên nhân Khổ, Không Ràng buộc, Không
nắm giữ, Không xua đuổi, Không Sinh Già Bệnh Chết. Đối với vị hữu học,
Chánh Kiến trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo sẽ chứng ngộ và an trú một phần
Không này, còn vị vô học, Chánh Kiến đã chứng ngộ và an trú hoàn toàn Không
này (Vô cũng có nghĩa là Không). Các nghĩa Không này có thể được thuyết
minh trong ba cái Không chính, đó là Không, Vô Tướng, Vô Tác. Và thế nào là
Không, Vô Tướng, Vô Tác hay là Không Giải Thoát, Vô Tướng Giải Thoát, Vô
Tác Giải Thoát?

1 - Tâm Không Tánh và Không Giải Thoát: Tâm biết của con người có hai loại:
Tâm biết trực tiếp giác quan và Tâm biết Ý thức mà trong Tâm lý học gọi là
Nhận thức cảm tính và Nhận thức lý tính. Tâm biết trực tiếp giác quan hay
Nhận thức cảm tính bao gồm: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân
thức và Tưởng thức chính là thấy (nhãn thức), nghe (nhĩ thức), cảm nhận (tỉ
thức, thiệt thức, thân thức, tưởng thức) các đối tượng. Đối với người Phàm sau
khi thấy, nghe, cảm nhận đối tượng, sẽ suy nghĩ (tư duy) về đối tượng để xác
định đối tượng được thấy, nghe, cảm nhận là cái gì, tính chất ra sao, sẽ đối
chiếu Ta với đối tượng, sẽ so sánh Ta hơn, kém hay bằng đối tượng. Trong
Kinh Pháp Môn Căn Bản, Đức Phật gọi cái thấy, nghe, cảm nhận đó là Tưởng
tri và suy nghĩ đưa đến tâm biết Ý thức kia là Thức tri và khẳng định Ý thức là
không liễu tri tức hiểu biết không đúng sự thật về đối tượng. Trong lộ trình tâm
Bát Tà Đạo của người Phàm, Tưởng tri khởi lên thì Ý thức cũng khởi lên ngay,
nên phát sinh Thái độ và Phản ứng với đối tượng. Vì thế người Phàm không thể
nào tách bạch Tâm biết trực tiếp ra khỏi Tâm biết Ý thức nên không thể nào
kinh nghiệm được Tâm biết trực tiếp một cách minh bạch được.

Đối với một Hành giả thực hành Tứ Niệm Xứ đặc biệt là khi Niệm Thân thì khi
một cảm giác (cảm thọ) khởi lên, sau khi thấy, nghe, cảm nhận cảm thọ ấy,
Chánh Niệm nhớ đến chú tâm quán sát các cảm thọ nơi thân (đối với Niệm
Thân) khởi lên, thì sẽ phát sinh Chánh Tinh Tấn. Chánh Tinh Tấn này sẽ làm
phát sinh sự chú tâm quán sát các cảm thọ ấy. Sự chú tâm liên tục từ cảm giác
này sang cảm giác khác theo thứ tự sinh diệt của chúng làm phát sinh trạng thái
Chánh Định và do sự chú tâm này mà lộ trình tâm sẽ dừng lại Tâm biết trực tiếp
Ghi nhận đối tượng. Sự chú tâm gọi là Chánh Định này không những làm cho
lộ trình tâm kết thúc tại đấy mà nó còn là nhân duyên cho lộ trình tâm sau cũng
trên đối tượng đó sinh khởi. Diễn tiến như vậy cứ tiếp tục cho nên có rất nhiều
lộ trình tâm giống nhau trên Căn Trần ấy liên tiếp xảy ra. Khi có một Xúc khác
mạnh hơn xảy ra thì lộ trình tâm trên đối tượng đó kết thúc và diễn tiến tương
tự sẽ xảy ra trên đối tượng mới. Do các lộ trình tâm diễn tiến như vậy nên Tâm
biết trực tiếp được "kéo dài " ra và không có Tâm biết Ý thức nên Hành giả sẽ
kinh nghiệm được Tâm biết trưc tiếp sẽ Ghi nhận đối tượng một cách trọn vẹn,
minh bạch. Lộ trình tâm này được diễn tả như sau:

Xúc - <Thọ (Cảm giác) - Tưởng> - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh
Định - (Tỉnh Giác)

Tâm biết trực tiếp (thấy, nghe, cảm nhận) trong trường hợp như vậy không còn
gọi là Tưởng tri nữa mà gọi là Thắng tri như Kinh Pháp Môn Căn Bản hay gọi
là Tỉnh giác. Hãy hình dung một đứa trẻ mới đẻ, tức thì sáu căn nó tiếp xúc sáu
trần, lúc đó nó vẫn thấy, vẫn nghe, vẫn cảm nhận các đối tượng nhưng nó không
biết đó là cái gì vì Ý thức của nó chưa khởi lên được. Đây là tâm biết trực tiếp
thuần tuý không có Ý thức đan xen vào. Tâm biết Tỉnh giác cũng y như vậy, là
tâm biết ghi nhận đúng sự thật các cảm thọ ở mức độ cảm tính. Tâm biết này do
Căn Trần tiếp xúc phát sinh ra, không do học hỏi, là cái biết không tri thức khái
niệm, không ngôn ngữ chế định, không phân biệt. Vì tánh chất của nó là “VÔ
NIỆM, VÔ NGÔN, VÔ PHÂN BIỆT” nên tâm biết này còn có một tên gọi
khác là Không tánh. Gọi là Không Tánh bởi tâm biết này không tri thức khái
niệm, không phân biệt đối đãi, không ngôn ngữ chế định, không có khái niệm
vuông tròn, to nhỏ, dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, không có khái niệm mặn ngọt
chua cay, không có khái niệm mắt tai mũi lưỡi thân ý, không có khái niệm sắc
thanh hương vị xúc pháp, không có khái niệm nhãn giới cho đến ý thức giới,
không có khái niệm vô minh cũng như hết vô minh, không có khái niệm khổ tập
diệt đạo, không có khái niệm chứng đắc... Khi an trú Không Tánh này Chánh
Kiến sẽ kinh nghiệm được, Tâm biết Tỉnh giác hay Không tánh chỉ Ghi nhận
những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận, mà không tìm hiểu, không
nhận xét, không đánh giá đối tượng. Vì thế, không yêu thích, không chán ghét,
không dính mắc, không ràng buộc, không phiền não. Đây chính là Giải Thoát
và gọi là Không tánh Giải thoát hay Không Giải Thoát. Giải thoát này nhờ có
Chánh Niệm, Chánh Tinh Tấn, Chánh Định mà chứng ngộ và an trú, và ba chi
phần này thuộc về Định của Bát Chánh Đạo nên còn gọi là Tâm Giải Thoát.
Đời sống các vị đã Giác Ngộ phần lớn an trú Không Giải Thoát này ngoại trừ
khi phải giảng dạy, truyền bá Giáo pháp.

2 - Tâm Vô Tướng và Vô Tướng Giải Thoát hay Không Tướng Giải Thoát: Một
Hành Giả thực hành Tứ Niệm Xứ, khi Niệm Thọ, Niệm Tâm hoặc Niệm Pháp
thì khi các cảm thọ và tâm biết trực tiếp khởi lên, thì Chánh Niệm: nhớ đến
quán sát đối tượng ấy là Thọ (đối với Niệm Thọ), các loại tâm (đối với Niệm
Tâm), nhớ đến quán sát đối tượng ấy vô thường, vô ngã, ly tham, buông xả (đối
với Niệm Pháp) vv... khởi lên làm phát sinh Chánh Tinh Tấn. Chánh Tinh Tấn
làm phát sinh sự chú tâm liên tiếp các đối tượng (gọi là Chánh Định) và ghi
nhận đối tượng với tâm biết Tỉnh giác rồi Chánh Tư Duy khởi lên sẽ phân tích,
so sánh, đối chiếu thông tin về đối tượng được Tỉnh giác cung cấp với những
thông tin trong "kho chứa" (bao gồm Lý Duyên Khởi, Vô thường, Vô ngã, Khổ
Tập Diệt Đạo) đã được Pháp học lưu vào và được Chánh Niệm kích hoạt lên.
Chánh Tư Duy như vậy sẽ phát sinh tâm biết Ý thức, biết đúng như thật đối
tượng gọi là Chánh Kiến, biết đối tượng đó là Thọ, là các loại Tâm, đối tượng
đó Vô thường, Vô ngã, không có Tham Sân Si với đối tượng... Chánh Kiến như
vậy khởi lên thì cũng kinh nghiệm được không yêu thích, không chán ghét, độc
lập không ràng buộc, giải thoát không hệ luỵ đối với những gì được thấy, được
nghe, được cảm nhận, được nhận thức. Chánh Kiến còn có một tên gọi khác là
Vô Tướng vì Chánh Kiến biết rõ các đối tượng được thấy, được nghe, được
cảm nhận, được nhận thức là Tâm chứ không phải Cảnh. Và vì Cảnh thì có
tướng còn Tâm thì Vô Tướng nên tâm biết Ý thức Chánh kiến còn được gọi là
Tâm Vô Tướng. An trú Tâm Vô Tướng này chính là an trú Giải Thoát và giải
thoát này gọi là Vô Tướng Giải Thoát hay là Tuệ Giải Thoát. Chánh Kiến hay
Tâm Biết Vô Tướng không phải là Trí vô sư, không phải như Tâm biết Không
tánh, không do học hỏi mà có, mà nó được phát triển đúng theo lộ trình Văn -
Tư - Tu mới chứng ngộ và an trú Tâm biết Vô Tướng. Tuy Đức Phật không
thầy chỉ dạy nhưng sự sắc sảo của Ngài đã giúp Ngài tự học bằng sự quán sát
Sự Thật, các bậc Thanh Văn thì phải theo trình tự Văn - Tư - Tu mà Ngài đã chỉ
dạy. Chánh Kiến là tâm biết Ý thức nên vẫn là cái biết có tri thức khái niệm, có
phân biệt đối đãi, có ngôn từ chế định nhưng là tâm biết Ý thức đúng như thật,
không phải như tâm biết Ý thức Vô minh của Phàm phu. Chỉ có Chánh kiến
(Minh) mới giác ngộ Tứ Thánh Đế mới xoá bỏ được Vô Minh (Thường kiến,
Ngã kiến) trong "kho chứa", mới đạt thành đạo quả A La Hán. Chính vì vậy
Không Tướng (Vô Tướng) là Đại Không còn Không Tánh là Tiểu Không. Lộ
trình tâm diễn tiến như sau:

Xúc - Thọ - Tưởng - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - (Tỉnh Giác)

- Chánh Tư Duy - Chánh Kiến.

3 - Vô Tác và Vô Tác Giải Thoát (không tạo tác): Lộ trình Bát Chánh Đạo có
trường hợp dừng lại Tỉnh giác và an trú Không Giải Thoát, có trường hợp dừng
lại Chánh Kiến thì an trú Vô Tướng Giải Thoát nhưng cũng có khi phát sinh lời
nói, hành động gọi là Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng và như vậy toàn
bộ Tám chi phần khởi lên đầy đủ. Lộ trình như sau:

Xúc - Thọ - Tưởng - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - (Tỉnh Giác) -
Chánh Tư Duy - Chánh Kiến - Như lý tác ý - Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh
mạng.

Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng do Chánh Kiến, do Trí Tuệ khởi lên
không có Tham Sân Si nên không còn tạo tác, không còn là Nghiệp nhân như
Tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng của Phàm phu làm phát sinh khổ nữa, nên gọi là Vô
Tác Giải Thoát.

Như vậy Tánh Không bao gồm: Không, Vô Tướng, Vô Tác là Tánh Không của
tâm Bát Chánh Đạo, là Tánh Không của Tâm Thức, chứ không phải là Tánh
Không của Thế giới, Tánh Không của Vũ trụ như các trường phái Phật giáo sau
này chủ trương.

Thực tại của bậc Thánh tức là Tâm Bát Chánh Đạo và chỉ bậc Thánh mới giác
ngộ Tánh Không còn Phàm phu thì Thực tại là Tâm Bát Tà Đạo không thể có
Tánh Không mà chỉ có Tánh Vô Minh, Tánh Chấp Thủ. Vì thế không thể xảy ra
chuyện Kiến Tánh thành Phật nơi Tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu mà muốn
Kiến Tánh thành Phật thì phải có Pháp học, Pháp hành đầy đủ, chính xác theo lộ
trình Văn - Tư - Tu mới khởi lên Thực Tại Bát Chánh Đạo của bậc Thánh, mới
giác ngộ Tánh Không.

Về mục lục

Bài 038: THẤY BIẾT NHƯ THẬT KHỔ

Một lộ trình tâm khởi lên thì lúc đó mới phát sinh ĐỐI TƯỢNG và lần lượt phát
sinh THẤY rồi BIẾT đối tượng đó. THẤY là nói tắt của Thấy, Nghe, Cảm
Nhận đối tượng có phận sự Ghi Nhận hay Nhận Biết đối tượng mà Tâm Lý học
và Triết học dùng từ Nhận Thức Cảm Tính đối tượng, nên từ này gần gũi và dễ
hiểu hơn thuật ngữ Phật học. BIẾT đối tượng có phận sự xác định đối tượng đó
là cái gì, tính chất ra sao mà Tâm Lý học và Triết học gọi là Nhận Thức Lý Tính
đối tượng. Do THẤY và BIẾT đối tượng mà sẽ phát sinh THÁI ĐỘ thích ghét
đối tượng và do THÁI ĐỘ mà sẽ phát sinh PHẢN ỨNG với đối tượng, tức Lời
nói, Hành động. Do PHẢN ỨNG mà sẽ phát sinh KẾT QUẢ là KHỔ hay VUI.
Đối với KHỔ là một đối tượng cũng như bao đối tượng khác của Thực Tại phải
quan sát và thấu triệt được có hai loại Thấy Biết về Khổ. Thấy Biết của Phàm
phu về Khổ mà như ngôn từ của Kinh Pháp Môn Căn Bản, Thấy Khổ là Tưởng
Tri và Biết Khổ là Không Liễu tri (Tà kiến) còn Bậc Thánh Thấy Khổ là Thắng
tri (Tỉnh giác) và Biết Khổ là Liễu tri (Chánh kiến). Nói một cách dễ hiểu thì
Phàm phu Thấy Biết Không Như Thật Khổ còn Bậc Thánh Thấy Biết Như Thật
Khổ. Bài viết này chỉ trình bày Thấy Biết Như Thật Khổ đã được trình bày
trong Thánh Đế Về Khổ mà Đức Phật đã Giác Ngộ và tuyên thuyết trong kinh
Chuyển Pháp Luân với một câu ngắn gọn: Sinh là Khổ, Già là Khổ, Bệnh là
Khổ, Chết là Khổ, Cầu Mong mà không được là Khổ, Thù Ghét mà gặp nhau là
Khổ, Yêu Thương mà phải biệt ly là Khổ, Tóm Lại Năm Thủ Uẩn là Khổ.

Đa phần hiểu về Khổ Đế là BÁT KHỔ, gồm cả 8 cái trên, nhưng không phải
vậy, nội dung của đoạn kinh này chỉ ra BẢY KHỔ trong đoạn đầu là để THẤY
NHƯ THẬT KHỔ, đó là sự có mặt Khổ trong bảy trường hợp trên, còn phần
cuối TÓM LẠI NĂM THỦ UẨN LÀ KHỔ là BIẾT NHƯ THẬT KHỔ.

A - THẤY NHƯ THẬT KHỔ:

Trên thế gian này chỉ ngoại trừ người đã Giác Ngộ Pháp mà Đức Thế Tôn
khéo thuyết giảng còn bất kỳ một người nào, già trẻ, gái trai, giàu nghèo, thông
minh hay ngu dốt, sắc tộc, tôn giáo nào đều có 7 loại khổ:

1 - Đã bị sinh ra trên đời thì ai ai cũng đều có khổ, cho dù sống vài ba năm, ba
bốn chục năm, tám chín chục năm thì cuộc đời đều "vui ít, khổ nhiều, não
nhiều mà nguy hiểm lại càng nhiều hơn".

2 - Đã bị sinh ra thì ai ai cũng bị già và khi già đến đau nhức thường xuyên,
chân chậm, mắt mờ, tai nghễnh ngãng, trí nhớ suy giảm, thậm chí lú lẫn và
không ai không cảm nhận cái khổ đó. Thậm chí một số người già sống trên
trăm tuổi luôn mồm than vãn sao sống quá lâu, quá khổ.

3 - Đã bị sinh ra thì sẽ có thân và Đức Phật đã nói cái sự thật, "ai có ý nghĩ
thân này sẽ không có bệnh thì đó là kẻ ngu" và khi bệnh thì ai ai cũng cảm
nhận được Khổ có mặt.

4 - Đã bị sinh ra là có chết và khi cái chết đến là nỗi hoảng sợ kinh hoàng. Đó
chính là, chết là khổ vậy.

5 - Nhân loại ai ai cũng mong cầu cho có được hạnh phúc vật chất, hạnh phúc
tinh thần có trong sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái nên
tìm cầu chỗ này chỗ kia. Khi không đạt được mong cầu, không có được thứ
đang mong cầu thì khổ khởi lên, khi đạt được thì nắm giữ, mong cầu nó tồn tại
mãi mãi nhưng nó vô thường nên khi nó biến hoại, biến diệt, mất đi, khổ sẽ khởi
lên. Đây là cầu bất đắc khổ, không ai là không có.

6 - Thù ghét nhau, hay chán ghét một đối tượng nào đó, khổ sẽ khởi lên cũng
là sự thật phổ quát của đời sống nhân loại, đó là oán tắng hội khổ.

7 - Yêu thương mà phải chia lìa thì ai ai cũng cảm nhận được khổ, đó là ái
biệt ly khổ.

Đây là, THẤY NHƯ THẬT KHỔ, cái thấy đa chiều, toàn diện về Khổ, là SỰ
THẬT PHỔ QUÁT CHO TOÀN THỂ NHÂN LOẠI KHÔNG TRỪ MỘT AI
cho dù là tổng thống đầy quyền lực, tỷ phú giàu nhất thế giới, một người đang
ở trong tù, một người lê lết xin ăn, một người tật nguyền thiểu năng trí tuệ
hay thông minh xuất chúng... Mọi chúng sanh đều BÌNH ĐẲNG VỀ KHỔ
(ngoại trừ các bậc Thánh). Còn Phàm phu cũng THẤY KHỔ nhưng là cái
thấy phiến diện chỉ thấy hạng người nghèo đói bệnh tật, thiếu học, thất bại
mới khổ còn những người giàu có, thành đạt, quyền lực, nổi tiếng thì không
có khổ.

B- BIẾT NHƯ THẬT KHỔ:

Đó là NĂM THỦ UẨN LÀ KHỔ. Nghĩa là CHẤP THỦ NĂM UẨN là CỦA
TA, LÀ TA, LÀ TỰ NGÃ CỦA TA sẽ khởi lên Khổ. Cụ thể là tư tưởng Tà
Kiến, Chấp Thủ hoặc là Sắc, hoặc là Thọ, hoặc là Tưởng, hoặc là Hành, hoặc là
Thức là Của Ta, Là Ta, Là Bản Ngã của Ta sẽ làm Khổ khởi lên chứ không phải
Năm Uẩn Là Khổ. Vì vậy:

1- KHỔ là pháp duyên khởi và LỘ TRÌNH DUYÊN KHỞI LÊN KHỔ được mô
tả tóm tắt trong thập nhị nhân duyên:

Do có Xúc mà có Thọ, do có Thọ mà có Ái, do có Ái mà có Thủ, do có Thủ mà


có Hữu, do có Hữu mà có Sinh Già Bệnh Chết Sầu Bi Khổ Ưu Não không thể
kể xiết. XÚC - THỌ - ÁI - THỦ - HỮU - KHỔ. Nếu mô tả đầy đủ, tỉ mỉ hơn
thì lộ trình duyên khởi lên khổ là lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu:

XÚC - <Thọ - Tưởng> - Tà Niệm - Tà Tư Duy - Ý thức Tà Tri Kiến - Tham


Sân Si - Tà Định - Dục - Tà Tinh Tấn - Phi Như Lý Tác Ý - Tà ngữ, Tà nghiệp,
Tà mạng - Sinh Già Bệnh Chết Sầu Bi Khổ Ưu Não.

Trong lộ trình Bát Tà Đạo này Ý Thức Tà Tri Kiến chính là TƯ TƯỞNG
CHẤP THỦ NĂM UẨN LÀ CỦA TA, LÀ TA, LÀ BẢN NGÃ CỦA TA, chính
là NĂM THỦ UẨN.

2 - KHỔ khởi lên trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo nên KHỔ THUỘC PHẠM TRÙ
TÂM chứ không phải tồn tại nơi Thế giới ngoại cảnh như hiểu biết của Phàm
phu.

3 - KHỔ là Pháp duyên khởi nên khổ có tự tánh VÔ THƯỜNG, VÔ CHỦ VÔ


SỞ HỮU hay VÔ NGÃ, nghĩa là không có BẢN NGÃ (TỰ NGÃ) là chủ nhân,
chủ sở hữu khổ, đó là nghĩa VÔ NGÃ. Trong Tương Ưng Bộ Kinh đã nêu rõ
vấn đề Khổ có tính chất Vô thường, Vô Chủ, Vô sở hữu hay Vô ngã qua vấn
đáp giữa một Bà la môn và Đức Phật:

Bà la môn hỏi: Khổ do mình làm và mình lãnh thọ có phải không? (Nghĩa là có
ông A là chủ nhân, chủ sở hữu tạo tác ra cái nhân tạo ra khổ và chính ông A đó
là chủ nhân, chủ sở hữu của cái khổ do ông ta tạo ra từ quá khứ)

Đức Phật trả lời: Không phải vậy, đó là Thường Kiến. (Nghĩa là vì không biết
như thật khổ có tự tánh vô thường, vô chủ (vô ngã), phàm phu không biết như
thật ngôn từ ông A là chỉ cho các lộ trình sinh diệt của Năm Uẩn, có tác dụng là
để phân biệt Năm Uẩn này gọi là A, Năm Uẩn kia gọi là B chứ không phải có
một thực thể ông A không sinh không diệt, hiện hữu từ quá khứ đến hiện tại, vị
lai là chủ nhân, là tác giả tạo tác nhân của khổ và lãnh thọ quả Khổ. Hiểu biết
như vậy của Phàm phu gọi là Thường kiến).

Bà la môn lại hỏi: Vậy khổ do người khác làm mà mình chịu có phải không? (ví
như Khổ do Thượng đế trừng phạt loài người vì tội do tổ tông Adam và Eve đã
phạm phải, Khổ do tổ tiên ông bà đã quá vãng trong thế giới tâm linh trừng phạt
con cháu, ví như dân gian có câu cha ăn mặn con khát nước, quýt làm cam
chịu...)

Đức Phật trả lời: Không phải vậy, đó là Đoạn kiến.


Bà la môn lại cật vấn: Vậy thì, không có Khổ sao?

Đức Phật trả lời: Có khổ, TA ĐÃ THẤY KHỔ, TA ĐÃ BIẾT KHỔ.


Bà là môn lại hỏi: Vậy Khổ ở đâu?

Đức Phật trả lời: Khổ do duyên Xúc.

(Nghĩa là, Khổ là Pháp duyên khởi do duyên Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh
theo lộ trình tâm Bát Tà Đạo, nên nó Vô thường, không thường hằng, không
thường trú trong Thế giới vật chất ngoại cảnh như quan niệm Duy vật (Thường
kiến) cũng không phải là sự thưởng phạt của Thượng đế, của Thế giới tâm linh
như Quan niệm Duy tâm (Đoạn kiến), nó Vô chủ, vô sở hữu nên không có một
ai, một tác giả, một cái Ta, một Bản ngã nào tạo tác hay lãnh thọ, sở hữu Khổ,
đó là nghĩa vô ngã).

Ví như, Bệnh là Khổ phải được hiểu như sau: vì không hiểu biết đúng như thật
trạng thái khoẻ mạnh là một Lạc thọ vô thường, vô ngã nên thích thú rồi chấp
thủ trạng thái khoẻ mạnh là của Ta, là Ta nên nắm giữ và muốn nó tồn tại mãi
mãi, vì vậy khi ốm bệnh, Khổ thọ xuất hiện, trạng thái khoẻ mạnh, Lạc thọ đó
biến mất nên sầu bi khổ ưu não khởi lên. Khổ này gọi là Hoại khổ thuộc về tâm
chứ không phải ở nơi thế giới ngoại cảnh và đây là cầu mong mà không được là
khổ. Khi mất Lạc thọ, mất cái được chấp thủ là của Ta, là Ta (Thọ thủ uẩn) và
thay thế bằng Khổ thọ (đau) thì bực bội với Khổ thọ khởi lên, đó là chán ghét
mà gặp nhau là khổ. Khổ này gọi là Khổ khổ, nó là tâm chứ không phải là ngoại
cảnh. Khi đau bệnh như vậy thì cũng hoảng sợ cái chết, suy nghĩ tìm cầu, hy
vọng chữa lành bệnh tật do vậy sầu bi khổ ưu não khởi lên. Khổ này gọi là
Hành khổ. Như vậy, do Chấp Thủ khoẻ mạnh, Chấp Thủ chết chóc là Của Ta,
Là Ta (Thọ thủ uẩn, Hành thủ uẩn) nên trên thân có Khổ thọ, tâm sẽ có Hoại
khổ, Khổ khổ, Hành khổ khởi lên. Một người bà vì Chấp Thủ Sắc Thọ Tưởng
Hành Thức của đứa cháu là Của Ta, Là Ta nên khi đứa cháu bị tai nạn chết đi,
sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên nhưng vì Không Chấp Thủ Sắc Thọ Tưởng Hành
Thức đứa cháu nhà hàng xóm là Của Ta, là Ta nên dù đứa cháu nhà hàng xóm
có chết vì tai nạn, sầu bi khổ ưu não không thể khởi lên nơi bà. Một anh thanh
niên tuy có quen biết nhưng chưa yêu cô gái nên Không có tư tưởng Chấp Thủ,
cô gái này, cha mẹ, anh em cô gái là Của Ta, là Ta nên anh ta không vui khi họ
vui, không khổ khi họ khổ, nhưng khi anh ta yêu và cưới cô gái thì lập tức có tư
tưởng Chấp Thủ, cô gái cùng cha mẹ, anh em cô gái là Của Ta, Là Ta nên anh
ta sẽ vui cái vui của họ và khổ cái khổ của họ... Tóm lại Năm Thủ Uẩn Là Khổ
là như vậy.

Về mục lục

Bài 039: BẢN NGÃ

Mục đích của Pháp mà Đức Thế Tôn đã chứng ngộ và khéo léo thuyết giảng là
để LIỄU TRI tất cả các sự vật, hiện tượng hay liễu tri tất cả pháp. Đức Phật đã
đưa ra một công thức mẫu về Liễu Tri Khổ, để người tu học có thể áp dụng, ngõ
hầu có thể liễu tri mọi pháp. Liễu Tri Khổ là phải hiểu biết đúng sự thật về bốn
khía cạnh của Khổ. Đó là:

- Sự thật Khổ (Khổ đế)

- Sự thật Khổ tập khởi (Nguyên nhân Khổ, Tập đế)

- Sự thật Khổ đoạn diệt (Khổ chấm dứt, Diệt đế)

- Sự thật Con đường Khổ diệt (Đạo đế)

Vậy, để Liễu Tri pháp được gọi là Bản Ngã, phải tuệ tri bốn khía cạnh tương tự:
Sự thật về Bản ngã; Sự thật Bản ngã tập khởi; Sự thật Bản ngã đoạn diệt; Sự
thật Con đường Bản ngã đoạn diệt.

1 - Hiểu biết đúng sự thật về Bản ngã:

Tất cả nhân loại (chỉ ngoại trừ các bậc Thánh Phật giáo) đang từng giây phút
sống với một cái TA đồng nhất từ quá khứ, hiện tại cho đến vị lại. Cái TA ấy
được nhân loại cho là tự có, không được sinh ra cũng không bị mất đi, nên tiếng
Tàu gọi là BẢN NGÃ hay Tự Ngã. Bản Ngã ấy có mặt nơi tâm biết Ý thức có
“Chủ thể và Đối tượng” của con người. Ví như, Ta thấy - ngôi nhà, Ta nghe -
tiếng ngựa phi, Ta nếm - vị ngọt của quả xoài, Ta biết - cô bé rất xinh vv... Cái
Ta, Bản ngã ấy là chủ nhân, chủ sở hữu của các loại tâm biết từ nhãn thức thấy,
nhĩ thức nghe cho đến ý thức biết. Cái Ta, Bản ngã ấy còn là chủ nhân, chủ sở
hữu của các tâm hành như: Ta nhớ đến, Ta thương, Ta ghét, Ta nói, Ta làm, Ta
hạnh phúc, Ta khổ đau... Không những vậy mà Cái Ta, Bản ngã ấy còn là chủ
nhân, chủ sở hữu của các Đối tượng như: nhà của Ta, xe của Ta, con Ta, vợ Ta,
tiền của Ta... Tâm biết ý thức cũng luôn luôn so sánh Cái Ta, Bản ngã ấy với
Đối tượng nên có xác quyết Ta hơn, Ta kém, hay Ta bằng đối tượng. Như vậy,
tâm biết ý thức của con người luôn luôn có mặt một Cái Ta, Bản ngã với ba nội
dung: TA BIẾT, CỦA TA, TA HƠN, TA KÉM, TA BẰNG mà kinh điển dùng
tiếng Tàu là: Ngã kiến, Ngã sở kiến, Ngã mạn tuỳ miên. Vì vậy, khi đối diện
với đối tượng Dễ chịu thì tâm biết ý thức sẽ khởi lên hiểu biết, trong đối tượng
này có hạnh phúc, nó sẽ mang hạnh phúc đến cho Ta, nên sẽ phát sinh thái độ
yêu thích (Tham), khi đối diện với đối tượng khó chịu thì hiểu biết, trong đối
tượng này có khổ, nó sẽ mang đau khổ đến cho Ta, nên phát sinh thái độ chán
ghét (Sân), khi đối diện đối tượng Trung tính thì biết rằng trong đối tượng này
không có đau khổ nhưng cũng không có hạnh phúc, không mang hạnh phúc đến
cho Ta nên phát sinh hành vi tìm kiếm đối tượng Dễ chịu để thay thế đối tượng
Trung tính (Si). Đời sống nhân loại xoay quanh Cái Ta, Bản ngã ấy, nỗ lực để
nuôi dưỡng, bảo vệ, phát triển, làm đẹp, hoàn thiện, vinh danh, ca ngợi Cái Ta,
Bản ngã ấy.

Nhưng các pháp đều phát sinh theo quy luật Duyên khởi, nghĩa là do hai nhân
bình đẳng tương tác rồi cùng diệt mới phát sinh, nên các pháp là vô thường, vô
chủ vô sở hữu. Vì vậy không hề tồn tại một Cái Ta, Bản ngã không sinh không
diệt là chủ nhân chủ sở hữu của các pháp Danh và Sắc, nghĩa là các pháp đó VÔ
NGÃ. Vậy thì Cái Ta, Bản ngã mà nhân loại đang nuôi dưỡng, bảo vệ, vinh
danh đó là cái gì? Đó chính là TƯ TƯỞNG CHẤP NGÃ của tâm biết ý thức tà
kiến mà thôi, chứ không có một Cái Ta, Bản ngã nào hết. Ví như, một ông
chồng đang mắng chửi đánh đập vợ con, đập phá đồ đạc thì lúc đó tư tưởng
chấp ngã của anh ta chỉ chấp thủ thân tâm này là Ta thôi, còn vợ con, nhà cửa,
đồ đạc là Không Phải Ta. Lát sau đi ra khỏi nhà và bắt gặp một người đang nói
xấu, bịa đặt, xúc phạm vợ con anh ta thì ngay lập tức anh ta sẽ phản kháng và
cho kẻ kia một trận. Vì sao vậy? Vì lúc này tư tưởng chấp ngã của anh ta khởi
lên chấp thủ thân tâm, vợ con, nhà cửa, đồ đạc đều là của Ta, là Ta. Tối đó anh
ta xem trận đấu giải nhất nhì giữa Việt nam và Thái lan. Nếu Thái Lan thắng,
anh ta sẽ tức giận chửi rủa, thậm chí đập bể cả Tivi, nhưng nếu Việt nam thắng
anh ta sẽ sung sướng reo hò, gặp ai cũng bá vai bá cổ, ôm hôn thắm thiết kể cả
người lúc chiều anh ta vừa gây gổ. Vì sao vậy? Vì giờ đây tư tưởng chấp ngã
khởi lên, chấp thủ từ Mục Nam Quan đến Mũi Cà Mau đều là của Ta, là Ta cả.
Nếu anh ta lên tàu vũ trụ bay quanh quả đất vài năm thì anh ta không còn phân
biệt Việt Nam và Thái Lan mà tư tưởng chấp ngã của anh ta chấp thủ quả đất
này là của Ta, là Ta. Một cô nữ sinh đến trường với bộ quần áo đẹp đắt tiền rất
hiếm, chỉ một mình cô ta có và được học sinh cả trường khen ngợi. Đương
nhiên cô rất tự hào và sống với Bản ngã Ta hơn, nhưng sự thực không có một
Bản ngã Ta hơn nào cả mà chỉ là tư tưởng chấp ngã, chấp thủ bộ quần áo đẹp
hơn là Ta mà thôi vv...

Vậy thì không hề có một Cái Ta, Bản ngã đồng nhất từ quá khứ, hiện tại đến vị
lai con người đã mặc định mà con người đang sống với tư tưởng chấp thủ Bản
ngã, chấp thủ hoặc là Sắc, hoặc là Thọ, hoặc là Tưởng, hoặc là Hành, hoặc là
Thức là của Ta, là Ta, là Bản ngã mà thôi. Tư tưởng CHẤP NGÃ cũng đồng
nghĩa với tư tưởng làm chủ, tư tưởng sở hữu, nghĩa là Cái Ta, Bản ngã làm chủ,
sở hữu, điều khiển các pháp. Chính vì vậy mà nhân loại không trừ một ai đang
sống để làm chủ đời mình, làm chủ tương lai, làm chủ hạnh phúc, làm chủ bản
thân, gia đình, xã hội, làm chủ thiên nhiên. Người tu thì tu tập để làm chủ thân
khẩu ý, làm chủ tâm, làm chủ nghiệp, làm chủ cảm xúc, làm chủ sinh già bệnh
chết. Mọi định chế, mọi luật lệ từ tổ chức Liên Hợp Quốc đến các quốc gia,
vùng lãnh thổ, địa phương đến các cách cư xử quy định bất thành văn của một
nhóm người đều đặt nền tảng trên quyền sở hữu. Mọi tranh chấp, xung đột từ
quốc gia đến cấp độ cá nhân đều là xung đột về quyền sở hữu. Nhân loại đang
sống với tư tưởng CHẤP NGÃ trái với sự thật VÔ NGÃ nên mâu thuẫn, xung
đột với sự thật thực tại, vì thế mới có sầu bi khổ ưu não. Tư tưởng CHẤP NGÃ
chấp thủ hoặc là Sắc, hoặc là Thọ, hoặc là Tưởng, hoặc là Hành, hoặc là Thức là
của Ta, là Ta còn gọi là NĂM THỦ UẨN. Chính vì vậy, Đức Phật kết luận:
Năm Thủ Uẩn Là Khổ.

2 - Hiểu biết đúng sự thật về Bản Ngã tập khởi:

Bản ngã chính là TƯ TƯỞNG CHẤP NGÃ có mặt nơi tâm biết ý thức tà kiến
trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu. Hiểu biết đúng sự thật Bản ngã tập
khởi là biết đúng như thật Nguyên nhân phát sinh tư tưởng chấp ngã, nghĩa là
thuyết minh duyên khởi: do cái gì có mặt mà tư tưởng chấp ngã có mặt. Lộ trình
tâm Bát Tà Đạo diễn ra như sau:

XÚC - [Thọ - Tưởng] - Tà niệm - Tà tư duy - [Ý thức tà kiến] - Tham sân si -


Tà định - ...

Ý thức tà kiến do hai tâm hành Tà niệm - Tà tư duy mà phát sinh, nghĩa là Tà
niệm có nhiệm vụ tìm kiếm, kích hoạt các thông tin “cái này là của ta, là ta” như
mắt tai mũi lưỡi thân ý là của ta, là ta được lưu giữ trong kho chứa (bộ nhớ) tâm
thức và Tà tư duy phân tích, so sánh, đối chiếu đối tượng với thông tin mà Tà
niệm kích hoạt. Do vậy sẽ phát sinh tâm biết ý thức và tư tưởng Ta thấy, Ta
nghe, Ta ngửi... chính là tư tưởng chấp ngã. Các tư tưởng chấp ngã này lại được
lưu trở lại vào bộ nhớ tâm thức làm nhân cho Tà niệm kích hoạt ở lộ trình tâm
sau.

3 - Hiểu biết đúng sự thật về Bản ngã đoạn diệt:

Đó là hiểu biết đúng sự thật: do cái gì không có mặt mà Bản ngã không có mặt
nghĩa là Bản ngã đoạn diệt. Đó chính là khi Tà niệm - Tà tư duy - Ý thức tà kiến
không có mặt thì Bản ngã không có mặt, Tà niệm - Tà tư duy - Ý thức tà kiến
diệt thì Bản ngã diệt. Và đó cũng chính là lộ trình tâm Bát Tà Đạo diệt thì Bản
ngã, tư tưởng chấp ngã diệt.

4 - Hiểu biết đúng sự thật về Con đường Bản ngã đoạn diệt:

Đó là khi lộ trình tâm Bát Chánh Đạo khởi lên khi có Chánh niệm về Thân Thọ
Tâm Pháp thì không còn tư tưởng chấp ngã, không còn Bản ngã.

- Với Chánh niệm về thân, nghĩa là Nhớ đến chú tâm quán sát thân nơi thân thì
lộ trình tâm Bát Chánh Đạo gồm:

XÚC - [Thọ - Tưởng] - Chánh niệm - Chánh tích cực (tinh tấn) - Chánh định -
(Tỉnh giác).

Lộ trình tâm chỉ có tâm biết Tỉnh giác “vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt” nên
không tồn tại bất kỳ một tư tưởng nào, vì vậy tư tưởng chấp ngã, Bản ngã không
có mặt.

- Với Chánh niệm về thọ, về tâm, về pháp nghĩa là Nhớ đến chú tâm quán sát
Thọ Tâm Pháp thì lộ trình tâm Bát Chánh Đạo gồm:

XÚC - [Thọ - Tưởng] - Chánh niệm - Chánh tích cực - Chánh định - (Tỉnh
Giác) - Chán h tư duy - Ý thức Chánh kiến - Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh
mạng.

Lộ trình tâm này có Ý thức Chánh kiến là tư tưởng vô chủ, vô sở hữu hay vô
ngã nên không còn tồn tại tư tưởng chấp ngã, không còn tồn tại Bản ngã. Sự
thật Con đường Bản ngã đoạn diệt đã chỉ rõ, chỉ khi nào thực hành Bát Chánh
Đạo siêu thế lúc đó Bản ngã mới không có mặt, không hiện hữu. Lúc đó mới
đoạn diệt Năm Thủ Uẩn, lúc đó mới đoạn diệt Khổ.

Về mục lục

Bài 040: NGÃ MẠN


Tư tưởng CHẤP NGÃ, cho rằng có một cái TA (mà tiếng tàu gọi là NGÃ)
không sinh không diệt là chủ nhân, chủ sở hữu của Sắc Thọ Tưởng Hành Thức
gồm có ba nội dung hay ba phương diện:

- Cho rằng đối tượng đó LÀ TA

- Cho rằng đối tượng đó là CỦA TA

- So sánh với đối tượng và cho rằng TA HƠN, TA KÉM, TA BẰNG đối tượng.

Kinh thường nói đến ba nội dung này với tiếng Hán là: Ngã kiến, Ngã sở kiến,
Ngã mạn tuỳ miên. NGÃ MẠN chính là tư tưởng: TA HƠN, TA KÉM, TA
BẰNG. Khi đối diện với một người nào đó, Nhãn thức khởi lên thấy trực tiếp
đối tượng rồi tư duy khởi lên so sánh, đối chiếu TA với ĐỐI TƯỢNG và do tư
duy như vậy mà phát sinh tư tưởng TA hơn, TA kém, hay TA bằng đối tượng
và do tư tưởng NGÃ MẠN đó mà phát sinh cách cư xử với đối tượng, TA hơn
sẽ cư xử khác, TA kém cư xử khác, TA bằng sẽ cư xử khác. Ý thức khởi lên là
tư tưởng NGÃ MẠN khởi lên và nó là nguyên nhân phát sinh tư tưởng Hơn
Thua, Phải Quấy chi phối đời sống nhân loại. Không những tư tưởng NGÃ
MẠN xuất hiện khi đối diện với người khác mà nó đều xuất hiện khi đối diện
với mọi đối tượng, chính vì vậy mà nhân loại mới có Ngã Mạn, loài người là tối
thắng trong muôn vật, muôn loài.

Ba nội dung hay ba phương diện của tư tưởng CHẤP NGÃ là Vô Minh cần
phải thấu suốt để khi nó xuất hiện thì Tuệ Tri nó và lúc đó nó sẽ bị đoạn diệt,
còn nếu không Tuệ Tri Vô Minh CHẤP NGÃ cả ba phương diện đặc biệt là
NGÃ MẠN thì sẽ bị nó chi phối. Trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo, tư tưởng
CHẤP NGÃ không có mặt, không còn tư tưởng "TA, của TA, TA hơn, kém,
bằng" nên lời nói và hành động cư xử với đối tượng là Chánh ngữ, Chánh
nghiệp, Chánh mạng do Trí Tuệ VÔ NGÃ mà phát sinh KHÔNG VÌ MÌNH,
KHÔNG VÌ NGƯỜI nên nó không còn tạo tác và được gọi là VÔ TÁC GIẢI
THOÁT. Vì không Tuệ Tri Vô Minh, không Tuệ Tri tư tưởng CHẤP NGÃ đặc
biệt là NGÃ MẠN nên xuất hiện chủ trương phải sống VÔ NGÃ VỊ THA,
nghĩa là "Không Vì Mình mà Vì Người". Đây vẫn là so sánh BẢN NGÃ với đối
tượng và thực chất là "Biến Thái" của tư tưởng NGÃ MẠN, từ cực đoan "Vì
Mình không Vì Người" sang một cực đoan khác là "Vì Người không Vì Mình".
Nếu tu hành với mục đích TRỞ THÀNH thì việc trau dồi phẩm hạnh, nỗ lực cố
gắng để đạt được tri kiến siêu việt, những năng lực siêu phàm, để trở thành một
người siêu việt, chói sáng giữa nhân thiên, đạt được lý tưởng "thành tựu để cứu
khổ muôn loài", hay lý tưởng vĩ đại nhất, không có lý tưởng nào cao đẹp hơn,
"còn một chúng sinh chưa thành Phật thì TA chưa thành Phật", TA phải thành
Phật Chánh Đẳng Giác chứ không thành A La Hán, thì đó vẫn là đang vun bồi
NGÃ MẠN, vun bồi một BẢN NGÃ ảo tưởng vĩ đại mà thôi, chưa thấy Vô
Ngã là như thế nào.

Về mục lục

Bài 041: ĐỨC PHẬT PHỦ NHẬN BẢN NGÃ - LINH HỒN

1 - Quan niệm của các tôn giáo Duy tâm về Bản Ngã - Linh Hồn:

Nhân sinh quan hay quan niệm về con người được phân chia thành hai quan
điểm Duy vật và Duy tâm. Quan điểm Duy vật được đa số các nhà khoa học
chấp nhận, quan niệm con người do vật chất cấu thành và tâm thức là sản phẩm
của hoạt động thần kinh não bộ. Duy vật quan niệm tâm thức ấy vô thường,
không tồn tại một tâm thức thường hằng, không tồn tại một "thế giới tâm linh"
siêu hình. Sau khi các tế bào não chết, tâm thức đó diệt, không có cái gì "trao
truyền " từ người chết sang một thân thể ở kiếp sau, không có sinh tử luân hồi.
Chết là hết. Trái lại, Duy tâm cho rằng trong thân xác của một con người có
một linh hồn bất sanh bất diệt, thường hằng trú ngụ và khi thân xác tan rã thì
linh hồn đó sẽ thoát ra và hoặc là đi đầu thai vào một thân mới hoặc hoà nhập
vào một thế giới tâm linh siêu hình không sinh không diệt (Thượng đế hay Đại
ngã) hoặc bị đày đoạ vào địa ngục vĩnh viễn tuỳ theo chủ trương và tên gọi của
các tôn giáo khác nhau. Các tôn giáo Duy tâm đều quan niệm có một THẾ GIỚI
TÂM LINH TUYỆT ĐỐI không sinh không diệt, thấm nhuần khắp vũ trụ, gọi
là Thượng Đế, là Đại Ngã, là Đấng Sáng Tạo... tuỳ theo tên gọi của từng tôn
giáo và linh hồn trong mỗi chúng sinh cũng từ đó mà được phân chia ra. Và con
người với quan điểm Duy tâm như vậy sẽ quan niệm có một LINH HỒN LÀ
CHỦ NHÂN, CHỦ SỞ HỮU, ĐIỀU KHIỂN THÂN TÂM. Quan niệm có một
Linh hồn không sinh không diệt là chủ nhân, chủ sở hữu, điều khiển mọi hoạt
động của thân tâm CHÍNH LÀ QUAN NIỆM VỀ CÁI TA mà tiếng Tàu gọi là
NGÃ, tự có, không được sinh ra, không bị diệt đi, bất sanh bất diệt, nên gọi là
TỰ NGÃ hay BẢN NGÃ. Quan niệm về một Tự Ngã - Linh Hồn là một vấn đề
cơ bản, cốt lõi của các tôn giáo Duy tâm.

Đối với các tôn giáo như Hồi giáo, Do thái giáo, Cơ đốc giáo đặt nền tảng trên
Thánh Kinh Cựu ước thì con người do Thiên Chúa (Thượng Đế Toàn Năng)
sáng tạo ra với thuỷ tổ là Adam và Eve. Thiên Chúa đã thổi sinh khí qua lỗ mũi
cái thân người được Chúa nặn ra từ đất sét, nghĩa là thổi Linh hồn (Chúa) vào
trong thân thể đó và như vậy Linh hồn trong con người chính là phần Thượng
Đế, Thiên Chúa có trong mỗi một con người. Truyền thuyết về Con người và
Thiên đường trong Thánh Kinh Cựu ước nếu hiểu theo NGHĨA ẨN DỤ thì
phần Linh Hồn Chúa thổi vào trong mỗi người là trong sạch, thánh thiện chính
là "CÁI BIẾT TRỰC GIÁC VÔ NIỆM, VÔ NGÔN, VÔ PHÂN BIỆT" khi sinh

ra là có liền, không do học hỏi, kinh nghiệm mà có. Con người sống ở Thế gian
tiếp thu "CÁI BIẾT CÓ TRI THỨC, KHÁI NIỆM, PHÂN BIỆT" do học hỏi,
truyền đạt, tích luỹ kinh nghiệm thế gian nên làm cho Linh Hồn bị ô nhiễm, có
ác có bất thiện. Khi con người chết đi nếu CÁI BIẾT THẾ GIAN được để lại
thế gian thì cái Linh Hồn Chúa, vô nhiễm, thánh thiện mới trở về hoà nhập với
Thượng Đế, mới trở về Thiên Đường, mới trở về Nước Chúa. Nếu Linh Hồn
không rũ bỏ, không thoát được ô nhiễm thế gian, với ác, với bất thiện thì bị đoạ
vào địa ngục chờ đến ngày phán xử cuối cùng. Trong các tôn giáo đó, có khái
niệm Chúa Hài Đồng là đứa trẻ vừa sinh ra mà chết ngay thì sẽ được tới Thiên
Đường, vì lúc đó Linh hồn của đứa trẻ chính là phần Linh Hồn Chúa vô nhiễm,
thánh thiện chưa bị ô nhiễm bởi Cái Biết Thế Gian.

Bà la môn giáo thì quan niệm có một Linh hồn Đại Ngã thấm nhuần toàn bộ vũ
trụ vạn hữu và trong mỗi chúng sinh có Linh hồn Tiểu Ngã là chủ nhân, chủ sở
hữu, điều khiển thân tâm con người. Chính Linh hồn Tiểu Ngã ấy tạo nghiệp
nên phải chịu luân hồi, mang các thân xác khác nhau trong vòng luân hồi và
chịu đau khổ. Và khi nào Linh hồn Tiểu Ngã ấy do tu hành mà vĩnh viễn thoát
ra được khỏi thân xác, hoà nhập vào Linh hồn Đại Ngã thì lúc đó là Niết bàn, là
giải thoát, lúc đó thân xác sẽ vô ngã.

Kỳ na giáo là một tôn giáo vô thần, ra đời cùng thời với Phật giáo, tuy không
chủ trương có một Linh hồn Đại Ngã, một Thượng Đế Toàn Năng nhưng quan
niệm có Linh hồn là chủ nhân, chủ sở hữu, điều khiển thân xác, nhưng Linh hồn
ấy bị trói buộc trong thân xác bởi Nghiệp đã tạo tác. Linh hồn đó bị ô nhiễm do
Nghiệp đã tạo tác nên phải chịu sự luân hồi, chịu khổ đau từ thân xác này qua
thân xác khác. Kỳ na giáo chủ trương tu hành khổ hạnh để trả hết Nghiệp đã tạo
tác, để Linh hồn trở thành "Toàn Tri, Toàn Kiến" thánh thiện, thoát ra khỏi sự
giam hãm của thân xác, để hoàn toàn tự do, tự tại. Đó chính là chủ trương Giải
thoát của Kỳ na giáo.

Lão giáo quan niệm rằng có một thực thể gọi là Đạo, không hình không tướng,
không thể gọi tên, chính là Bản Thể của vũ trụ vạn hữu mà từ đó lưu xuất ra trời
đất, sáng tối, vạn vật, sum la vạn tượng. Cái gọi là Đạo, là Bản Thể ấy trùm
khắp, thấm nhuần trong từng hạt bụi thực chất là quan niệm Linh hồn Đại Ngã,
Thượng Đế Toàn Năng của các tôn giáo Duy tâm, chỉ khác ngôn từ, tên gọi.
Lão Giáo chủ trương tu hành để đạt đến "Hoà quang đồng trần" (hoà cùng ánh
sáng, đồng cùng bụi bặm) tức Hoà nhập với Đạo, Hoà nhập với Bản thể, là bản
chất, nền tảng của thế giới hiện tượng. Vậy cái gì sẽ hoà cùng ánh sáng, đồng
cùng bụi bậm, cái gì thể nhập vào Đạo, thể nhập Bản thể? Linh hồn không được
đề cập đến nhưng phải ngầm hiểu cái đó chính là Linh hồn tuy không có ngôn
từ Linh hồn được nói ra.

Phật Giáo Phát Triển (Đại thừa) chủ trương có Phật Tánh thanh tịnh, thường
hằng, bất sanh bất diệt bao trùm, thấm nhuần vũ trụ (Biển Tánh Thanh Tịnh) và
trong mỗi chúng sinh cũng có Phật Tánh không sinh không diệt đó. Phật Tánh
không sanh không diệt nơi mỗi chúng sanh là Tánh Biết sáng suốt thanh tịnh, vô
niệm, vô ngôn, vô phân biệt nhưng đã bị vô minh, cái biết phân biệt thiện ác làm
cho ô nhiễm. Khi Phật Tánh bị ô nhiễm bởi Nghiệp thiện ác như vậy thì Phật
Tánh đó bị giam hãm trong thân xác và phải chịu luân hồi. Và như vậy tu hành là
để thanh lọc Phật Tánh khỏi ô nhiễm của Nghiệp thiện ác và khi Phật Tánh được
thanh lọc khỏi ô nhiễm thì sẽ giải thoát không còn luân hồi. Lúc đó Phật Tánh sẽ
thoát ra khỏi thân xác và hoà nhập vào Biển Tánh Thanh Tịnh gọi đó là Nhập
Niết bàn. Tuy ngôn từ diễn tả có khác nhau nhưng nội dụng của quan niệm này
thì y chang quan niệm Tiểu Ngã và Đại Ngã của Bà La môn giáo. Kinh Thủ Lăng
Nghiêm của Phật giáo phát triển chủ trương có Tánh Thấy, Tánh Nghe, Tánh
Biết không sinh không diệt nơi mỗi chúng sanh, thực chất cũng y hệt như chủ
trương Linh hồn của Kỳ na giáo. Thiền tông Trung hoa chủ trương Bản Lai Diện
Mục, Ô Chủ, Con người trước khi cha mẹ sanh... tuy không có từ Linh hồn
nhưng thực chất là quan niệm Linh hồn của tôn giáo Duy tâm.

Tánh Không trong văn hệ Bát nhã của Phật Giáo phát triển tuy diễn giải bằng
những ngôn từ cao siêu, rất khó hiểu, ẩn chứa một khái niệm hết sức trừu tượng,
mơ hồ nhưng nếu khảo sát kỹ LỐI MÒN TƯ DUY của tư tưởng Duy Tâm thì sẽ
hiểu được Tánh Không được đề cập đó là THẾ GIỚI BẢN THỂ. Theo đó Thế
giới gồm hai phương diện: THẾ GIỚI BẢN THỂ TUYỆT ĐỐI không hình
không tướng, là thế giới chân thật, còn gọi là CHÂN KHÔNG mà bản chất
không phải là vật chất nên trong Chân Không không có Sắc Thọ Tưởng Hành
Thức, không có Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân Ý, không có Sắc Thanh Hương Vị Xúc
Pháp... Phương diện thứ hai của thế giới là: THẾ GIỚI HIỆN TƯỢNG TƯƠNG
ĐỐI mà Phàm phu đang sống, là thế giới vật chất có hình có tướng, có sinh có
diệt, có Sắc Thọ Tưởng Hành Thức, có Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân Ý, có Sắc
Thanh Hương Vị Xúc Pháp... Từ phương diện BẢN THỂ TUYỆT ĐỐI (còn gọi
là CHÂN ĐẾ) mà lưu xuất ra thế giới HIỆN TƯỢNG TƯƠNG ĐỐI (còn gọi là
TỤC ĐẾ) và thế giới HIỆN TƯỢNG TƯƠNG ĐỐI là biểu hiện của BẢN THỂ
TUYỆT ĐỐI. Chính vì chủ trương như vậy mà Tâm Kinh Bát Nhã khẳng định:
Sắc chẳng khác Chân Không, Chân Không chẳng khác Sắc, Sắc chính là Chân
Không, Chân Không chính là Sắc. Thọ Tưởng Hành Thức cũng đều như vậy.
THẾ GIỚI BẢN THỂ VÔ TƯỚNG (Chân Không) mới là chân thật còn THẾ
GIỚI HIỆN TƯỢNG HỮU TƯỚNG SINH DIỆT (Sắc Thọ Tưởng Hành Thức)
nên nó không thật, giả có, hư vọng. Và vì vậy mà công cuộc tu hành là để thể
nhập CHÂN KHÔNG, thể nhập THẾ GIỚI BẢN THỂ VÔ TƯỚNG CHÂN
THẬT hay còn gọi là thể nhập NIẾT BÀN. Đây thực chất là tư tưởng của
Thánh Kinh Cựu ước được diễn dịch một cách mới mẻ, với các ngôn từ khác lạ
mà thôi, trong đó Thế Giới Bản Thể tuyệt đối chính là Thượng Đế Toàn Năng
và Thế giới hiện tượng tương đối là do Thượng đế toàn năng sáng tạo ra. Quan
niệm này cũng tương đương với Đại Ngã và Tiểu Ngã của Bà La môn giáo.

Thời Phật tại thế có sự kiện được ghi lại trong Đại Kinh Đoạn Tận Ái thuộc
Trung Bộ Kinh là vị Tỷ kheo Sati đã có tà kiến xem Thức (Tâm thức) không
đổi khác, thường hằng mà chỉ rong ruổi (di chuyển) từ chỗ này sang chỗ khác
(từ thân xác này sang thân xác khác), chính Tâm thức ấy tạo tác và cũng chính
Tâm thức ấy thọ lãnh quả mà nó đã tạo tác. Đức Phật đã quở trách quan điểm tà
kiến đó. Thực chất đây cũng là quan niệm Linh hồn bất sanh bất diệt nhưng
dùng từ Tâm thức thay thế từ Linh hồn. Trong Mật tông cũng quan niệm chết đi
thì sẽ tái sanh vào một thân xác mới như thay một cái áo cũ đã bẩn thỉu, rách
nát bằng một cái áo mới thơm tho sạch sẽ thực chất cũng là quan niệm một linh
hồn bất sanh bất diệt cư ngụ trong thể xác này và chính linh hồn đó đi đầu thai.
Một số nhà khoa học nghiên cứu về Hiện Tượng Cận Tử đã quan sát hiện tượng
cận tử nhưng đã sử dụng hiểu biết ít ỏi và sai lạc của mình mà suy luận rằng sau
khi chết vẫn tồn tại một Tâm thức và một thế giới tâm linh. Tâm thức ấy tồn tại
cả khi các tế bào não đã chết nghĩa là Tâm thức không phải là sản phẩm của não
bộ, Tâm thức ấy tồn tại độc lập với não bộ. Quan niệm về Tâm thức tồn tại độc
lập với não bộ và sau khi thoát xác nó tồn tại trong một thế giới tâm linh thực
chất là quan niệm về một linh hồn không sanh không diệt. Chỉ một số người rất
ít ỏi theo quan niệm Duy vật, tin không có Linh hồn, chết là hết, còn đa phần
nhân loại tin vào thuyết Linh hồn kể cả đa phần tín đồ Phật giáo. Vì thế mới có
các từ như vong linh, hương linh, giác linh... mới có hành vi đốt vàng mã gửi
cho linh hồn nơi cõi âm, mới có cúng giỗ cho linh hồn tận hưởng, mới có cầu
siêu cho các linh hồn, mới có cúng thất 7 tuần cho trung ấm, mới có hồn ma,
bóng quỷ, mới có vong nhập, bắt vong, mới có những mẩu chuyện, tin tức
người thân, cha mẹ chết rồi đầu thai làm chó, làm lợn, làm gà, mới có tin lan
truyền mẹ chết đầu thai làm gà và con đã giết mẹ là con gà đó cúng giỗ cho
người mẹ đã chết...

Các tôn giáo Duy tâm đều quan niệm có một THỰC THỂ LINH HỒN tuy các
ngôn từ và hình thức mô tả có sự sai biệt và THỰC THỂ LINH HỒN đó là chủ
nhân, chủ sở hữu, điều khiển thân tâm chúng sanh. THỰC THỂ LINH HỒN đó
chính là BẢN NGÃ hay TỰ NGÃ, tự có, không được sinh ra, không bị diệt đi,
bất sanh bất diệt. Và trong những tôn giáo theo thuyết Luân Hồi thì Linh Hồn
đó có thể di chuyển từ thân thể này sang thân thể khác trong các kiếp sống, có
thể cư ngụ trong con muỗi, con giun, con cá, côn trùng, trong con chó, mèo lợn
gà, người thú... Vì vậy mỗi chúng sinh có hai phần: phần thể xác vật chất là sinh
diệt vô thường, còn phần Linh hồn là bất sanh bất diệt. Không thể GIẾT được
Linh hồn bằng dao bằng gậy, không có thứ gì có thể giết chết Linh hồn, kể cả
bom nguyên tử có thể huỷ diệt sự sống trên trái đất này cũng không thể giết
chết được Linh hồn. Và các tôn giáo có nói ra một cách rõ ràng, hay nói ra một
cách mơ hồ trừu tượng thì tôn chỉ của các tôn giáo duy tâm đều là GIẢI
THOÁT THỰC THỂ LINH HỒN ra khỏi thể xác vật chất để không còn bị giam
hãm, trói buộc trong thân thể vật chất, để LINH HỒN được tự do tự tại hoặc
HOÀ NHẬP LINH HỒN vào Thiên Chúa, vào Đại Ngã, vào Thế Giới Bản Thể,
vào Chân Tâm, vào Phật Tánh... Đối với các tôn giáo duy tâm kể cả một số tông
phái Phật Giáo Phát Triển GIẢI THOÁT LÀ SỰ HIỆN HỮU (của Linh Hồn),
Còn GIẢI THOÁT của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là PHI HIỆN HỮU CẢ
DANH VÀ SẮC.

2 - Đức Phật phủ nhận Bản Ngã - Linh Hồn:

Trong 45 năm thuyết pháp Đức Phật đã dùng rất nhiều phương tiện khác nhau
để phân tích, hiển thị, chỉ dẫn, giảng dạy rành mạch rằng không hề có, không hề
tồn tại một Bản Ngã - Linh Hồn không sanh không diệt, là chủ nhân, chủ sở
hữu, điều khiển thân tâm (Sắc và Danh), rằng tất cả pháp dù là Danh hay Sắc
đều VÔ NGÃ.

Trong bản kinh Vô Ngã Tướng tiếp sau bản kinh Chuyển Pháp Luân, Đức Phật
đã sử dụng một lập luận tuy rất đơn giản nhưng chắc nịch căn cứ vào sự thật
đang xảy ra chứ không phải xuất phát từ "tư duy lý luận suông", Ngài chỉ ra
rằng không hề tồn tại MỘT CÁI TA LÀM CHỦ hay BẢN NGÃ là chủ nhân,
chủ sở hữu, điều khiển Sắc Thọ Tưởng Hành Thức. Nếu có cái TA LÀM CHỦ,
có cái BẢN NGÃ đó, thì sẽ làm chủ, điều khiển được, sẽ làm cho Sắc Thọ
Tưởng Hành Thức này sẽ được như ý muốn CỦA TA, sẽ làm chủ, sẽ điều khiển
được Sắc uẩn này KHÔNG BỊ GIÀ, KHÔNG BỊ BỆNH, KHÔNG BỊ CHẾT,
Thọ Tưởng Hành Thức cũng như vậy. Nhưng sự thực Sắc uẩn (Thân thể) vẫn bị
già, bị bệnh, bị chết, bị khổ chi phối chứng tỏ không có CÁI TA LÀM CHỦ,
không có BẢN NGÃ - LINH HỒN làm chủ Thân Tâm, điều khiển được Sắc
Thọ Tưởng Hành Thức. Phải nghiên cứu kỹ lưỡng các bộ kinh Nikaya mà đặc
biệt là Trung Bộ Kinh và Tương Ưng Bộ Kinh để thấy được Đức Phật đã dùng
nhiều phương tiện chứng minh vấn đề này một cách chặt chẽ, rốt ráo.

Tất cả các sự vật và hiện tượng gọi là tất cả pháp được chia làm hai phạm trù:
Tinh thần và Vật chất mà thuật ngữ Phật học gọi là Hai nhóm Danh và Sắc,
trong đó Danh có thể được chia nhỏ thành 4 nhóm nhỏ là Thọ Tưởng Hành
Thức. Như vậy, tất cả pháp được chia thành 5 nhóm Sắc Thọ Tưởng Hành Thức
gọi theo tiếng Tàu là NĂM UẨN.

- Cho dù Danh hay Sắc, các pháp đều là Pháp Duyên Khởi, đều phát sinh theo
quy luật Duyên Khởi (Nhân Quả) theo định thức: Hai nhân bình đẳng tiếp xúc
(tương tác) rồi cùng diệt mới phát sinh quả và rồi quả ấy lại tiếp tục đóng vai
trò là nhân tương tác với nhân khác rồi cùng diệt và phát sinh quả khác (Nhân
diệt Quả sanh). Vì vậy, các pháp là Danh hay Sắc đều vô thường sinh diệt,
quan hệ giữa các pháp là quan hệ bình đẳng, không có chính phụ, không có
quan hệ chủ nhân, chủ sở hữu, vì vậy các pháp đó là VÔ CHỦ, VÔ SỞ HỮU.
Vì các pháp phát sinh theo Duyên khởi, VÔ THƯỜNG, VÔ CHỦ, VÔ SỞ
HỮU nên khẳng định chắc chắn rằng, không hề tồn tại một BẢN NGÃ LINH
HỒN không sinh không diệt nào là chủ nhân, chủ sở hữu, điều khiển Danh và
Sắc. Trong Đại Kinh Mãn Nguyệt thuộc Trung Bộ Kinh, Đức Phật đã giảng
Thọ do duyên Xúc, Tưởng do duyên Xúc, Hành do duyên Xúc, Thức phát sinh
theo tiến trình Xúc - Thọ - Tưởng - Tư, tức cũng do duyên Xúc. Duyên Xúc
được hiểu là hai nhân Căn Trần tiếp xúc nhau mà phát sinh Thọ Tưởng Hành
Thức. Và Sắc được định nghĩa là bốn đại và những gì do bốn đại hợp thành và
quan sát trên sự thật thì một sắc pháp phát sinh phải do hai sắc pháp tiếp xúc
nhau cùng diệt mới phát sinh sắc pháp đó (ví như hai sắc pháp là Hydro và
Oxy phải tương tác và cùng diệt đi mới phát sinh Nước) và như vậy Sắc Thọ
Tưởng Hành Thức do duyên Xúc mà sinh, cũng do duyên Xúc mà diệt, nên
không có cái gì thường hằng, bất sinh bất diệt. Trong Tương Ưng Bộ Kinh có
đến hàng trăm chỗ thường nhắc đi nhắc lại, nhắc nhở phải quán sát sự sinh diệt
của Năm Uẩn: Đây là sắc tập khởi, đây là sắc đoạn diệt. Đây là thọ tập khởi,
đây là thọ đoạn diệt. Đây là hành tập khởi, đây là hành đoạn diệt. Đây là thức
tập khởi, đây là thức đoạn diệt. Lưu ý rằng không phải là học thuộc lòng những
câu đó mà phải theo đó quan sát nơi sự thật đang xảy ra để thấy rõ sự sinh diệt
của Sắc Thọ Tưởng Hành Thức như thấy rõ quả xoài trong lòng bàn tay, để tự
mình xác quyết không có bất kỳ một cái gì thường hằng, thường trú, bất sanh
bất diệt theo thể cách Linh hồn, để thấy rõ Sắc Thọ Tưởng Hành Thức là một
LỘ TRÌNH SINH DIỆT theo thứ tự: Sắc diệt thì Thọ - Tưởng sanh, tiếp đến
Thọ - Tưởng diệt thì Hành sanh, tiếp đến Hành diệt thì Thức sanh, tiếp đến
Thức diệt thì các Hành lại sanh, tiếp đến Hành diệt thì một lộ trình Sắc - Thọ -
Tưởng - Hành - Thức khác lại phát sinh. Trong các lộ trình sinh diệt đó không
phải Năm Uẩn là 5 yếu tố ĐỒNG THỜI TỒN TẠI LIÊN KẾT VỚI NHAU
theo kiểu CẤU TRÚC NGUYÊN MỘT KHỐI giống như 5 yếu tố rui mè kèo
cột ngói đồng thời tồn tại để cấu trúc nên một ngôi nhà như cách hiểu của đa
phần người học Phật, mà Năm Uẩn là một lộ trình sinh diệt, tại mỗi một thời
điểm chỉ hiện hữu một pháp sinh lên rồi diệt đi, chỉ trừ Thọ - Tưởng là hai
pháp duy nhất đồng sanh đồng diệt. Thấy được như vậy thì hiểu được Chúng
Sanh là ngôn từ ám chỉ những lộ trình sinh diệt theo thứ tự Sắc - Thọ - Tưởng -
Hành - Thức - Hành nối tiếp, tương tục nhau và do thấy biết như vậy mà chấm
dứt vô minh, hiểu lầm Chúng Sanh như là NGUYÊN MỘT KHỐI.

- Cũng cần phải quán sát để hiểu rõ rằng: trong Năm Uẩn Sắc Thọ Tưởng
Hành Thức thì nhóm Tưởng và nhóm Thức là các TÂM BIẾT mà thế gian lầm
nhận là Linh Hồn.

Tưởng uẩn là tâm biết trực tiếp giác quan gọi tắt là TÂM BIẾT TRỰC GIÁC có
phận sự Ghi Nhận hay Nhận Biết đối tượng mà Tâm Lý học ngày nay gọi là
Nhận thức cảm tính đối tượng, có tính chất "Vô Niệm, Vô Ngôn, Vô Phân Biệt"
bao gồm Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng thức.
Tâm biết trực tiếp Tưởng này loài người, động vật đều có như nhau, sinh ra là
có, không do học hỏi, trao truyền, tích luỹ nhưng nó do duyên Căn Trần tiếp
xúc mà phát sinh, nó vô thường sinh diệt, không phải bất sanh bất diệt, nhưng
các tôn giáo Duy tâm không hiểu biết đúng như thật, lầm nhận nó không sinh
không diệt, gắn cho nó là Linh hồn Chúa được thổi vào con người, là Tiểu Ngã,
là Tánh Thấy Tánh Nghe không sinh không diệt, là Phật Tánh thánh thiện, là
Chân Tâm...

Thức uẩn là tâm biết Ý thức, là tâm biết gián tiếp khởi lên theo lộ trình Xúc -
Thọ - Tưởng - Tư (theo Đại Kinh Mãn Nguyệt) khác với Tưởng uẩn do Xúc
(Căn Trần) mà khởi lên. Vì vậy, Thức uẩn có "tri thức khái niệm, có ngôn từ, có
phân biệt" do học hỏi, trao truyền tích luỹ mà có nên các loài, các cá nhân đều
khác nhau, Thánh Phàm khác nhau. Phàm là Ý thức Tà Tri Kiến, Thánh là Ý
thức Chánh Tri Kiến. Tâm biết Ý thức này Tâm Lý Học ngày nay gọi là Nhận
thức lý tính đối tượng, nó cũng sinh diệt vô thường.

3 - Phàm phu Chấp Thủ Bản Ngã:

Phàm phu cho dù theo quan điểm Duy tâm quan niệm có một Bản Ngã - Linh
Hồn hay Duy vật phủ nhận linh hồn, phủ nhận thế giới tâm linh, phủ nhân luân
hồi, chết là hết nhưng đều đang sống với Bản Ngã, đang sống với một CÁI TA
là chủ nhân, chủ sở hữu, điều khiển thân tâm, đang vun bồi, tôn xưng, phấn đấu
nỗ lực để xác định, tăng trưởng quyền làm chủ, quyền sở hữu của CÁI TA-
BẢN NGÃ đó. Trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu, tâm biết Ý thức tà
kiến có tư tưởng về một CÁI TA - BẢN NGÃ với 3 nội dung là: TA biết, của
TA, TA hơn, kém, bằng mà trong kinh điển thường đề cập đến với ngôn ngữ
tiếng Hán là: NGÃ KIẾN, NGÃ SỞ KIẾN, NGÃ MẠN TUỲ MIÊN. Tất cả
nhân loại, già trẻ gái trai, giàu nghèo, ngu trí, dân tộc, tôn giáo nào cũng đang
sống với tâm biết Ý thức tà kiến trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo, tức đang sống
nhằm tô bồi, vinh danh, bảo vệ, nuôi dưỡng CÁI TA - BẢN NGÃ này, chỉ
ngoại trừ các bậc Thánh trong Phật giáo. Nhưng BẢN NGÃ vốn không có thật,
không hề tồn tại, nên phải hiểu rằng không phải là Phàm phu đang sống với
BẢN NGÃ mà Phàm phu đang sống với TƯ TƯỞNG CHẤP NGÃ. Đó là tư
tưởng chấp thủ Sắc Thọ Tưởng Hành Thức này là của ta, là ta, là bản ngã của
ta. Tư tưởng chấp thủ đó còn gọi là Năm Thủ Uẩn. Chính tư tưởng chấp thủ sai
lạc này, chính NĂM THỦ UẨN này mâu thuẫn, đối lập, xung đột với sự thật
thực tại vô ngã nên mới phát sinh Khổ, vì vậy, trong Kinh Chuyển Pháp Luân,
Đức Phật đã khẳng định: TÓM LẠI NĂM THỦ UẨN LÀ KHỔ. Ví như một
nữ sinh đến trường với một bộ quần áo đẹp, đắt tiền, lạ mắt, rực rỡ mà tất cả
học sinh ở trường đều ca ngợi thán phục thì nữ sinh ấy rất tự hào và Ý thức sẽ
khởi lên TA HƠN, Ta đẹp nhất, Ta rực rỡ nhất... Đó là CHẤP NGÃ, chấp vào
bộ quần áo đẹp này là của Ta, là Ta (Sắc thủ uẩn), còn thực chất là BỘ QUẦN
ÁO hơn chứ không có một BẢN NGÃ nào hơn cả. Một nghiên cứu sinh khi
đậu bằng Tiến sĩ thì sống với hiểu biết TA HƠN mấy anh thạc sĩ nhưng thực
chất cái TA HƠN đó chính là chấp thủ lượng kiến thức của Ta, (Thức thủ uẩn)
của tiến sĩ hơn lượng kiến thức thạc sĩ chứ không có một cái BẢN NGÃ TIẾN
SĨ lớn hơn BẢN NGÃ THẠC SĨ nào cả.

4 - Không có Linh Hồn - Bản Ngã, vậy cái gì luân hồi tái sinh?

Câu hỏi này là một vấn nạn cho người học Phật kể cả khi Phật còn tại thế cho
đến ngày nay. Vì câu hỏi này chưa được trả lời minh bạch, rõ ràng nên đa phần
người học Phật, đa phần các tông phái Phật giáo vẫn gắn cho thực thể bị luân
hồi tái sinh là Linh Hồn nhưng với các ngôn từ và diễn đạt khác nhau một cách
mơ hồ, trừu tượng và do đó Giải Thoát hay Niết Bàn là HIỆN HỮU ở một cảnh
giới, một trạng thái vi diệu, mầu nhiệm, bất khả tư nghì nào đó ra ngoài Có
Không, không phải là Có cũng không phải là Không theo mô thức lý luận trườn
uốn như lươn của Kỳ na giáo, được các tông phái Phật giáo phát triển thâu nạp
từ triết lý của Kỳ na giáo. Đối với Đức Phật và các vị đã giác ngộ, Chánh Trí đã
khởi lên: "Vị ấy biết, sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã
làm xong, không còn trở lui trạng thái HIỆN HỮU này nữa", chư vị biết rõ Giải
thoát, Niết bàn là PHI HIỆN HỮU CẢ DANH VÀ SẮC nên câu hỏi Đức Phật
sau khi nhập diệt còn hay không còn không được đặt ra và đương nhiên không
có trả lời câu hỏi. Đối với những người đã thể nhập Trí Tuệ Về Sanh Diệt các
pháp thì chúng sanh là những lộ trình sinh diệt của Danh và Sắc nối tiếp, tương
tục nhau diễn tiến theo thời gian vô cùng vô tận. Danh Sắc này diệt là nhân
duyên cho Danh Sắc khác phát sinh, trong một khoảng thời gian rất ngắn ngủi,
và cứ thế nối tiếp nhau vô cùng vô tận. Khi con người chết Danh Sắc đó diệt, lại
phát sinh một Danh Sắc là hoá sanh và Danh Sắc hoá sanh đó lại cũng sinh diệt
nối tiếp nhau trong từng sát na. Rồi khi Hoá Sanh chết, Danh Sắc hoá sanh diệt
đi lại là nhân duyên cho Danh Sắc phát sinh nơi Thai sanh hoặc Trứng sanh và
cứ thế mà diễn tiến theo cái vòng (người – hoá sanh - thai hoặc trứng sanh) vô
cùng vô tận. Diễn tiến vô cùng vô tận này đặt tên là Luân hồi tái sanh và trong
nó không có một chúng sinh nào CHẾT THẬT SỰ. Nguyên nhân của diễn tiến
sinh diệt nối tiếp nhau của Danh Sắc là Vô minh và Hữu ái do chấp thủ Sắc Thọ
Tưởng Hành Thức là của ta, là ta, là bản ngã của ta. Khi một người Giác Ngộ,
Vô minh, Hữu ái (Năm Thủ Uẩn) diệt tận, thì khi vị đó nhập diệt gọi là Vô dư
Niết bàn, Danh Sắc con người diệt tận nhưng không còn Nhân duyên để phát
sinh một Danh Sắc mới, vì vậy, dòng diễn tiến Luân hồi tái sinh chấm dứt tại
đây, KHÔNG CÒN HIỆN HỮU CẢ DANH VÀ SẮC ở bất kỳ đâu, dưới bất kỳ
hình thức nào, hình dung như ngủ một giấc ngon lành, không mộng mị vĩnh
viễn.

Người trí thì ít ỏi so với nhân loại ví như vàng bạc so với đất đá trên quả đất này
nên cần có câu trả lời minh bạch là cái gì luân hồi tái sinh, mà nhờ đó một số
người có duyên sẽ xoá bỏ được Thân kiến, xoá bỏ được chấp thủ Bản ngã linh
hồn. Ngày nay, Tin học, một bô môn khoa học về THÔNG TIN đã ra đời và
phát triển mạnh mẽ. Thành tựu của nó là chế tạo được máy vi tính do khoa học
thực nghiệm đã khám phá và "bắt chước" được quá trình nhận thức, đặc biệt là
quá trình tư duy phát sinh ý thức của con người. Hãy hình dung vài năm tới khi
mà chiếc xe tự lái hoàn thiện sẽ ra đời và hoạt động như một chiếc taxi hiện thời
có người lái. Chiếc xe tự lái gồm hai phần: Phần cứng là cấu trúc vật chất của
xe và nó là Sắc pháp, Phần mềm là lượng thông tin gồm các hệ điều hành, các
phần mềm được cài đặt trong bộ nhớ và đó là Danh pháp (Tinh thần). Như vậy
chiếc xe gồm hai phần Danh và Sắc hay Tinh thần và Vật chất như một con
người. Ví như đã cài đặt 3 giờ sáng, NÓ "thức dậy" và bắt đầu hoạt động do NÓ
bắt đầu được nối kết, tương tác với mạng Internet. NÓ nhận thông tin qua mạng
và NÓ xử lý thông tin đưa đến biết có khách gọi xe tại địa điểm nọ kia. NÓ lại
xử lý thông tin và tìm ra con đường ngắn nhất đi đến chỗ đó và NÓ bắt đầu lăn
bánh ra đi để đến chỗ đón khách. Trên đường đi camera sẽ ghi nhận hình ảnh,
âm thanh và NÓ lại xử lý để đi đúng đường, lựa chọn đúng chỗ rẽ, quành tránh
các chướng ngại và các phương tiện khác trên đường. Đến nơi NÓ thấy khách
và biết đúng là khách đó gọi xe, NÓ sẽ mở cửa và giọng nói của NÓ sẽ mời
khách lên xe. NÓ sẽ xử lý thông tin để biết địa chỉ, con đường ngắn nhất và mở
cửa, cất giọng nói mời khách xuống xe khi đã đến nơi. Và NÓ lại tiếp tục công
việc cho đến 12 giờ đêm nếu cài đặt nghỉ ngơi thì NÓ lại chạy về ga ra tắt máy.
Như vậy với Phần Cứng và Phần Mềm tức với Danh và Sắc, chiếc xe tự lái vẫn
"Thấy, Nghe, Biết" và "Làm Việc" như một con người bằng xương bằng thịt,
một tài xế. Nếu phần mềm cài đặt phân biệt đàn ông, đàn bà, phân biệt được
đàn bà đẹp xấu và thanh toán tiền theo đẹp xấu thì NÓ cũng sẽ "Thiên Vị" đối
với đàn bà đẹp xấu. NÓ cũng có thể nhận ra khách quen, khách lạ đến số lần mà
khách đó đã đi xe, vì mọi thông tin mà camera thu thập đều được lưu lại. NÓ
cũng có thể tự phân tích, so sánh và tìm ra con đường để thoát khỏi đoạn đường
đang tắc nghẽn nhờ thu thập thông tin qua mạng. Nó có thể được cài đặt phần
mềm TỰ HỌC nên NÓ Sẽ tự tích luỹ các kiến thức, các hiểu biết về các đối
tượng và do Tự Học mà NÓ ngày càng hiểu biết nhiều hơn, thông minh hơn. Và
như vậy, lượng thông tin được lưu vào bộ nhớ sẽ tăng trưởng từng ngày nên
dung lượng bộ nhớ phải đủ lớn mới lưu giữ hết thông tin. Chính vì vậy mà công
nghệ tin học đang chế tạo thẻ nhớ bằng ADN vì chỉ có cấu trúc ADN mới có
khả năng lưu giữ một dung lượng thông tin khổng lồ. Nếu chiếc xe đó hết tuổi
thọ, hết thời hạn sử dụng thì có thể chuyển toàn bộ dữ liệu thông tin của NÓ
sang bộ nhớ của một cái xe mới tinh chưa cài đặt phần mềm. Và cái xe thứ hai
lại tiếp tục học hỏi, tích luỹ thêm thông tin hiểu biết vào bộ nhớ và nó lại được
truyền cho đời thứ 3, thứ 4, thứ 5... Rõ ràng ở chiếc xe tự lái do tương tác giữa
Phần Cứng, Phần Mềm tức Danh và Sắc với Thế giới bên ngoài mà phát sinh
(tâm) Thấy, Nghe, Hiểu Biết và Làm Việc (lái xe, đón khách) và hoàn toàn
không có một LINH HỒN - BẢN NGÃ và NÓ cũng hoàn toàn không có Chấp
Thủ Bản Ngã vì trong thông tin phần mềm của nó không cài đặt, không có
thông tin "xe này là của Ta, là Ta, là Bản ngã của Ta", không giống như con
người lái xe sống với tư tưởng chấp thủ bản ngã, Ta lái xe, Ta biết đường, Ta
đón khách... Sự TRAO TRUYỀN THÔNG TIN từ xe 1 đến 2, 3, 4... là trao
truyền Lượng Thông Tin đã được cài đặt, học hỏi, tích luỹ.

Tương tự như chiếc xe tự lái, con người cũng gồm Danh và Sắc tức là Phần
Cứng là cấu trúc thân thể vật chất (Sắc) và Phần Mềm là Lượng Thông Tin
(Danh) bao gồm tri thức, kinh nghiệm đã được trao truyền, học hỏi, tích luỹ
trong đó có thông tin Vô minh (là những hiểu biết sai sự thật) và Chấp Ngã (cái
này là của Ta, là Ta, là tự ngã của Ta). Chính sự tương tác giữa Danh Sắc và
Thế giới ngoại cảnh sẽ làm phát sinh tâm "THẤY, NGHE, CẢM NHẬN,
BIẾT" và do vậy mà phát sinh Lời Nói, Hành Động. Lượng Thông Tin đã được
học hỏi, tích luỹ, trao truyền này gọi là THÔNG TIN PHÁP TRẦN và CHÍNH
LƯỢNG THÔNG TIN PHÁP TRẦN NÀY CÙNG VỚI THÔNG TIN DI
TRUYỀN được lưu giữ trong cấu trúc ADN của tế bào thần kinh não bộ Luân
hồi tái sinh, được trao truyền từ thân người chết sang một thân mới (giống như
những chiếc xe kia) chứ không phải một Linh hồn hay một Tâm thức Luân hồi
tái sinh.

Về mục lục

Bài 042: CÁC HÀNH VÔ THƯỜNG CÁC PHÁP VÔ NGÃ

Tất cả các sự vật và các hiện tượng được thuật ngữ Phật học gọi là các pháp.
Những sự vật, hiện tượng thuộc về vật chất thì gọi là Sắc Pháp, các sự việc, hiện
tượng thuộc tinh thần gọi là Danh pháp. Tất cả Sắc pháp và Danh pháp được
phân chia hay sắp xếp thành Năm Nhóm mà thuật ngữ Phật học gọi là Năm Uẩn
bao gồm: Sắc Thọ Tưởng Hành Thức. Tất cả các pháp thuộc Năm Uẩn Sắc Thọ
Tưởng Hành Thức đều VÔ THƯỜNG và VÔ NGÃ. Nhưng trong Kinh điển có
nhắc đến mệnh đề: CÁC HÀNH VÔ THƯỜNG, CÁC PHÁP VÔ NGÃ hay có
chỗ nói Chư Hành vô thường, chư Pháp vô ngã có mâu thuẫn gì với Tất cả các
pháp đều Vô thường, Vô ngã không?

Trong Tiểu Kinh Saccaka thuộc Trung Bộ Kinh có nói tới vấn đề này như sau:
"-- Này Aggivessana, như thế này, Thế Tôn huấn luyện đệ tử. Với những bộ
môn như thế này, phần lớn Sa-môn Gotama giảng dạy được dành cho đệ tử:

"Này các Tỷ-kheo, sắc là vô thường, thọ là vô thường, tưởng là vô thường, hành
là vô thường, thức là vô thường. Này các Tỷ-kheo, sắc là vô ngã, thọ là vô ngã,
tưởng là vô ngã, hành là vô ngã, thức là vô ngã. Tất cả hành là vô thường, tất cả
pháp là vô ngã". Như vậy này Aggivessana, Thế Tôn huấn luyện các đệ tử. Như
vậy là các bộ môn mà phần lớn Thế Tôn giảng dạy được dành cho đệ tử."

Trong đoạn trích này phần trên đã khẳng định Sắc Thọ Tưởng Hành Thức là Vô
thường và Vô ngã nhưng đoạn dưới lại khẳng định: Tất cả hành là vô thường,
tất cả pháp là vô ngã. Vậy thì, có gì khác nhau trong hai cách nói đó. Kinh điển
được truyền khẩu nên rất ngắn gọn, không có giải thích dài dòng, nên phải quan
sát kỹ để tìm ra ý nghĩa. Và ý nghĩa câu đó như sau:

- Sắc Thọ Tưởng Hành Thức, nếu quán sát diễn tiến theo THỜI GIAN thì đều
"sinh lên rồi diệt đi" không thường hằng, không thường trú, nên nó Vô
thường. Sắc Thọ Tưởng Hành Thức DIỄN TIẾN theo thời gian như vậy được
gọi là HÀNH và như vậy CÁC HÀNH VÔ THƯỜNG. Nhân đây để khẳng
định VÔ THƯỜNG phải hiểu theo nghĩa SINH DIỆT chứ không được hiểu
theo nghĩa BIẾN ĐỔI.

- Sắc Thọ Tưởng Hành Thức, nếu quán sát theo chiều KHÔNG GIAN thì sẽ
thấy: Quan hệ giữa các pháp theo chiều không gian theo Lý Duyên Khởi là HAI
NHÂN TIẾP XÚC NHAU RỒI CÙNG DIỆT MÀ PHÁT SINH QUẢ, nên hai
nhân này bình đẳng nhau, không có nhân chính, nhân phụ, không nhân nào là
chủ nhân, chủ sở hữu nhân nào. Như vậy các pháp đó VÔ CHỦ, VÔ SỞ HỮU.
Điều này đồng nghĩa không có cái Ta (tiếng Tàu là Ngã) hay Bản Ngã nào là
chủ nhân, chủ sở hữu của Năm Uẩn, của Sắc Thọ Tưởng Hành Thức, nghĩa là
các pháp đó VÔ NGÃ.

Vậy nếu quán sát các pháp theo chiều THỜI GIAN thì các pháp là Vô thường
hay còn gọi là các Hành vô thường, nếu quán sát các pháp theo KHÔNG GIAN
thì các pháp là vô ngã. Vì vậy nói các pháp vô thường, các pháp vô ngã hay nói
Các hành vô thường, các pháp vô ngã, là hai cách nói, không có gì mâu thuẫn.

Về mục lục
Bài 043: BUÔNG XẢ LÀ CHẤM DỨT TƯ TƯỞNG SỞ HỮU

BẢN TÁNH các pháp là VÔ CHỦ, VÔ SỞ HỮU, điều này đồng nghĩa với
không có một cái TA hay không có một BẢN NGÃ thường hằng, không sinh
không diệt nào là CHỦ NHÂN, CHỦ SỞ HỮU các pháp. Một cách nói khác là
các pháp VÔ NGÃ. Nhưng nhân loại bị Vô Minh che đậy, không thể Thấy Biết
sự thật VÔ NGÃ, do chấp thủ một cái TA hay BẢN NGÃ thường hằng, và vì
vậy từng giây từng phút một sống với TƯ TƯỞNG LÀM CHỦ, TƯ TƯỞNG
SỠ HỮU. Chính TƯ TƯỞNG LÀM CHỦ, TƯ TƯỞNG SỞ HỮU (Cái này là
của TA) đưa đến sự Ràng buộc vào các đối tượng và chính sự Ràng buộc (Thủ)
làm phát sinh Sầu Bi Khổ Ưu Não, Sinh Già Bệnh Chết.

Nếu Thấy Biết như thật các pháp là VÔ CHỦ, VÔ SỞ HỮU (VÔ NGÃ) thì sẽ
sống với TƯ TƯỞNG VÔ CHỦ, VÔ SỞ HỮU, do vậy Ràng buộc (Thủ) sẽ
chấm dứt và Sầu Bi Khổ Ưu Não, Sinh Già Bệnh Chết cũng sẽ chấm dứt. Hãy
quán sát nơi Thực Tại theo ĐỊNH THỨC tổng quát là: Hai sự vật, hiện tượng là
HAI NHÂN TƯƠNG TÁC với nhau mới phát sinh QUẢ. Như vậy CÁC
NHÂN và CÁC QUẢ đều bình đẳng, độc lập, không có pháp nào là Chủ nhân,
Chủ sở hữu của pháp nào. Do vậy, khi quan sát các mối quan hệ cha con, vợ
chồng, bạn bè, đối tác, nhà cửa, xe cộ... theo ĐỊNH THỨC HAI NHÂN
TƯƠNG TÁC, thì sẽ biết rõ, không có ai là chủ nhân, chủ sở hữu của ai, của
vật gì. Lúc đó cũng sẽ nhận ra, tư tưởng LÀM CHỦ, tư tưởng SỞ HỮU là Vô
Minh, đưa đến XUNG ĐỘT. Vì vậy, hãy tập sống với tư tưởng VÔ CHỦ, VÔ
SỞ HỮU, hãy tập sống: CHỈ SỬ DỤNG MÀ KHÔNG SỞ HỮU bất kỳ một đối
tượng nào. Ngay đó sẽ chứng nghiệm: độc lập không ràng buộc, giải thoát
không hệ luỵ với mọi đối tượng.

Nhưng sống với tư tưởng VÔ CHỦ, VÔ SỞ HỮU không phải MUỐN mà được,
không phải NGHE mà được, không phải TƯ DUY lý luận suông mà được.
Muốn sống với TƯ TƯỞNG VÔ CHỦ, VÔ SỞ HỮU, cách duy nhất là THỰC
HÀNH Bát Chánh Đạo siêu thế, sống an trú BỐN NIỆM XỨ, lúc đó trong chi
phần Ý thức Chánh Tri Kiến sẽ có tư tưởng VÔ CHỦ, VÔ SỞ HỮU, lúc đó
mới gọi là BUÔNG XẢ, mới chấm dứt tư tưởng CHỦ NHÂN, CHỦ SỞ HỮU.

Về mục lục

Bài 044: LUÂN HỒI TÁI SINH

Luân hồi tái sinh là vấn đề được đề cập đến trong các tín ngưỡng và tôn giáo
Đông phương và đặc biệt được đề cập đến như một vấn đề chính yếu trong Phật
Giáo. Nếu nói một cách chính xác thì Phật Giáo khảo sát luân hồi tái sinh nhằm
THẤY BIẾT NHƯ THẬT KHỔ do Luân Hồi Tái Sinh khởi lên và CHẤM
DỨT KHỔ do chấm dứt Luân Hồi Tái Sinh. Chính vì vậy mà trong Phật Giáo
có một thành ngữ phổ biến "Sinh Tử Sự Đại". Nhưng từ xưa cho đến nay, khái
niệm Tái Sanh Luân Hồi được hiểu rất mơ hồ trừu tượng. Mơ hồ trừu tượng ở
chỗ CÁI GÌ ĐI TÁI SANH, cái gì luân chuyển từ người chết này sang một
người sống trong kiếp kế tiếp. Theo các tôn giáo tin tưởng có một Linh Hồn thì
sau khi chết, Linh Hồn được quan niệm theo Cấu Trúc Nguyên Khối sẽ rời bỏ
thể xác đang tan rã, nhập vào một thể xác đang được đầu thai là một điều khá
dễ hiểu. Nhưng Phật Giáo phủ nhận Linh Hồn, đồng thời phủ nhận một Tâm
Thức theo kiểu Cấu Trúc Nguyên Khối, không sinh không diệt, thì CÁI GÌ ĐI
TÁI SINH là vấn đề nan giải mà các LUẬN GIẢI, CHÚ GIẢI, CÁC TÔNG
PHÁI đều không có câu trả lời rõ ràng hoặc né tránh. Ngay trong Đại Kinh
Đoạn Tận Ái thuộc Kinh Trung Bộ, sau khi phủ nhận không có Thức (Tâm
Thức) đi tái sinh vì Thức do Duyên khởi, nên Thức có tính Sinh Diệt, Vô
thường, không thường hằng, không thường trú, vì vậy không thể có Tâm Thức
di chuyển từ thân xác này sang một thân xác khác ở đời sau, nhưng bản Kinh
cũng không nói rõ cái gì đi đầu thai. Theo Bản Kinh này: Khi cha mẹ có giao
hợp, người mẹ trong thời kỳ có thai và có HƯƠNG ẤM hiện tiền thì mới xuất
hiện bào thai.
Như vậy CÁI ĐI ĐẦU THAI là HƯƠNG ẤM. HƯƠNG ẤM là cái gì, tính chất
ra sao, do cái gì có mặt mà Hương Ấm có mặt thì không có một lời giải thích
nên cũng là một khái niệm hết sức mơ hồ, trừu tượng. Một số chủ trương
NGHIỆP đi tái sinh, nhưng NGHIỆP là Thân hành, Khẩu hành, Ý hành sinh lên
rồi diệt đi, cũng vô thường mà nói nó đi đầu thai cũng rất mơ hồ và mang tính
Thường kiến. Vậy cái gì đi đầu thai, cái gì di chuyển từ một người chết vào bào
thai? Để có câu trả lời minh bạch phải quan sát sự thật đang xảy ra.

A - Luân hồi tái sinh của các loài thực vật:

Nếu có những hạt thóc H1 được xem là một nhân tố và cho tiếp xúc với thửa
ruộng đã cày bừa kỹ, được xem là nhân tố thứ hai thì sẽ phát sinh ruộng mạ theo
quy luật Nhân Quả (Hai nhân tiếp xúc nhau cùng diệt và phát sinh các quả). Rồi
ruộng mạ tiếp xúc với môi trường (nước, phân, không khí, ánh sáng...) sẽ phát
sinh ruộng lúa có bông. Ruộng lúa có bông tiếp xúc máy gặt sẽ phát sinh các hạt
lúa H2 và quá trình Nhân Quả cứ diễn tiến như thế không ngừng nghỉ. Giữa hạt
lúa H1 và H2 có mối quan hệ nhân quả, nhưng thành phần vật chất (mà thuật
ngữ Phật học gọi là Sắc pháp) thì khác nhau, không phải là Sắc pháp H1 tái sinh
lại thành Sắc pháp H2, mà lượng THÔNG TIN DI TRUYỀN (thuật ngữ Phật
học gọi là Danh pháp) được lưu giữ trong cấu trúc ADN của hạt thóc H1 đã
được trao truyền, ĐÃ ĐƯỢC TÁI SINH sang cấu trúc ADN của hạt lúa H2.
Vậy quá trình hạt lúa H1 diệt và hạt lúa H2 sinh, có thể gọi hạt lúa H2 tái sinh
và cái phần tái sinh không phải là Sắc pháp (vật chất) mà là lượng THÔNG TIN
DI TRUYỀN được lưu giữ trong cấu trúc ADN, là Danh pháp. Trong quá trình
Luân Hồi Tái Sinh của thực vật qua sinh sản hữu tính hoặc vô tính, cái luân hồi
tái sinh là THÔNG TIN DI TRUYỀN được lưu giữ trong ADN.

B - Luân hồi tái sinh của người và động vật:

1 - DANH VÀ SẮC:
Loài người và động vật gồm hai phần: phần vật chất gọi là SẮC và phần tinh
thần gọi là DANH. Đối với loài người Danh và Sắc còn được chia làm NĂM
NHÓM: SẮC THỌ TƯỞNG HÀNH THỨC mà tiếng Tàu gọi là NĂM UẨN.
Trong đó SẮC gồm sáu Căn: Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân Ý. DANH gồm Thọ
Tưởng Hành Thức, trong đó Nhóm Thọ là sáu cảm giác do sáu căn tiếp xúc sáu
trần phát sinh, chính là các đối tượng của thực tại, Nhóm Tưởng là sáu tâm biết
trực tiếp giác quan cũng do sáu căn tiếp xúc sáu trần phát sinh bao gồm nhãn
thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, tưởng thức có phận sự Nhận biết
hay Ghi nhận sáu đối tượng của thực tại, tức sáu cảm thọ. Nhóm Hành gồm rất
nhiều tâm hành như niệm, tư duy, ham muốn, chú tâm, tinh tấn, lời nói, hành
động, khổ, vui... Nhóm Thức là tâm biết ý thức, hiểu biết đối tượng đó là cái gì,
tính chất ra sao. Nhóm Hành và Nhóm Thức phát sinh lên được và tính chất của
nó như thế nào thì phụ thuộc vào "kho chứa thông tin" đã được học hỏi, tích
luỹ, kinh nghiệm từ quá khứ. Trong kho chứa thông tin này, lưu giữ các thông
tin bao gồm: các tri thức đã học hỏi, đã kinh nghiệm, đã luyện tập, các tính
cách, năng khiếu, ham muốn, xu hướng... của mỗi một người, trong đó có cả
những hiểu biết sai sự thật (Vô minh), những hiểu biết đúng sự thật (Minh),
những tư tưởng chấp thủ "cái này là của ta, là ta"... Khi lộ trình tâm khởi lên,
Niệm và Tư duy thuộc Hành uẩn sẽ dò tìm, kích hoạt các thông tin trong kho
chứa và sử dụng thông tin đó làm phát sinh tâm biết ý thức (Thức uẩn), biết về
các đối tượng là cái gì, tính chất ra sao và do tâm biết ý thức mà phát sinh Thái
Độ với đối tượng, do Thái Độ như vậy mà phát sinh Lời nói, Hành động với đối
tượng, do Lời nói và Hành động mà phát sinh kết quả là Khổ hay Vui. Thông
tin lưu giữ trong kho chứa quyết định sự hiểu biết (ý thức), vì vậy nó quyết định
lối sống của mỗi loài, mỗi cá thể. Thông tin này mỗi mỗi cá thể đều khác nhau,
là yếu tố chính để phân biệt tâm thức loài này với loài kia, người này với người
kia, Phàm và Thánh. Lượng thông tin này chính là PHÁP TRẦN, là đối tượng
của Ý căn được nói đến trong Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần. Khoa học
thông tin cũng bắt chước cấu trúc Danh Sắc của con người mà chế tạo ra máy
tính, cũng bao gồm Danh và Sắc. Máy tính bao gồm Phần Cứng và Phần Mềm.
Phần Cứng là vật chất, là Sắc bao gồm các linh kiện, các vi mạch... Phần Mềm
là lượng thông tin, là các lập trình được cài đặt trong bộ nhớ, là tinh thần, là
Danh.

2 - KHO CHỨA THÔNG TIN:

Cái kho để lưu giữ các thông tin này nằm ở đâu? Đa phần từ xưa tới nay, đều
cho rằng, lượng thông tin PHÁP TRẦN này được lưu giữ nơi tâm vì đa phần
đều quan niệm tâm theo CẤU TRÚC NGUYÊN KHỐI. Nhưng sự thật tâm là
một phạm trù, bao gồm các Danh pháp đang sinh và diệt theo một "lộ trình"
tuân theo định lý Duyên khởi, không phải cấu trúc nguyên khối nên không thể
lưu giữ thông tin. Có trường phái đề ra A lại da thức hay Tàng thức có công
năng lưu giữ các chủng tử (hạt giống, thông tin) và như vậy đương nhiên phải
công nhận A lại da thức không sinh không diệt. Chủ trương này cũng giống
như các tôn giáo Duy Tâm, công nhận một Năng lực tinh thần tuyệt đối, một
Thượng đế toàn năng không sinh không diệt. Chủ trương đó trái với định luật
Duyên khởi, trái với sự thật tâm vô thường, và không thể thuyết minh được: do
cái gì có mặt mà A lại da thức có mặt, do cái gì không có mặt mà A lại da thức
không có mặt.

Lượng thông tin về tâm ấy không thể được lưu giữ nơi tâm mà chỉ có thể lưu
giữ nơi thân, vì chỉ có vật chất mới có khả năng lưu giữ thông tin. Lượng thông
tin về tâm chỉ có thể lưu giữ ở một chỗ duy nhất là nơi CẤU TRÚC ADN của
các tế bào. Khoa học đã nghiên cứu rất kỹ càng về THÔNG TIN DI TRUYỀN
và khi giải mã bản đồ gen người, khoa học phát hiện lượng thông tin di truyền
chỉ có trong khoảng 5% lượng gen, còn 95% lượng gen còn lại chứa đựng cái gì
thì hiện khoa học đang bó tay. Chính 95% lượng gen không chứa thông tin di
truyền, lại là nơi lưu giữ lượng THÔNG TIN VỀ TÂM mà khoa học chưa biết
đến. Bằng chứng của sự thật này là việc ghép tạng trong y khoa đã làm thay đổi
tính cách của người nhận tạng theo tính cách của người cho tạng. Trước đây,
Jaime Sherman chẳng bao giờ nghĩ có lúc mình sẽ chơi thể thao hoặc ăn món
ăn Mêxico nhưng sau ca ghép tim, mọi chuyện đã khác hẳn. Cô tham gia đội
bóng chày, tập bơi và không bỏ sót một trận bóng đá nào trên truyền hình. Cô
mê mẩn trước những món cay xé lưỡi của đất nước Trung Mỹ. Ngạc nhiên vì
sự thay đổi của mình, cô tìm hiểu và được biết, tất cả những thói quen đó là của
người đã tặng cho cô trái tim. Anh ấy là vận động viên nghiệp dư của một
trường đại học bang Kansas, Mỹ. Một người đàn ông 47 tuổi sau khi ghép tim,
đột nhiên say mê các giai điệu cổ điển, đặc biệt là các bản nhạc viết cho đàn
violon, mặc dù từ nhỏ ông là người mù về âm nhạc. Thì ra trái tim mới của ông
trước đây thuộc về một thiếu nữ yêu nhạc cổ điển và chơi violon. Một người
khác, sau khi được ghép tim của một cô gái mắc bệnh biếng ăn bỗng xuất hiện
các triệu chứng khó chịu, buồn nôn khi ngửi thấy mùi xào nấu. Một doanh nhân
58 tuổi ở bang Arizona, Mỹ vốn là người say mê công việc và gần như suốt đời
chỉ có mối bận tâm duy nhất là tiền bạc, sau khi được ghép tim của một nhà
hoạt động xã hội đã từ bỏ kinh doanh và dành phần lớn thời gian để làm từ
thiện... (Tham khảo ghép tạng thay đổi tính cách trên Google).

Khi ghép tạng, thí dụ như thay tim thì lượng THÔNG TIN VỀ TÂM của người
chết được lưu giữ trong ADN của các tế bào tim sẽ được truyền dẫn vào ADN
của các tế bào trong thân thể người sống và trong ADN của người được ghép
tạng sẽ có HAI LƯỢNG THÔNG TIN VỀ TÂM của cả người sống và người
chết. Vì vậy, khi lộ trình tâm khởi lên sẽ sử dụng cả hai lượng thông tin nên
người được ghép tạng sẽ xuất hiện các tính cách mới. Ví như anh thanh niên
được thay tim của một thanh niên bị tai nạn giao thông thì khi mắt thấy cha
mẹ, bạn bè của người sống, nhãn thức chỉ Thấy hay Ghi nhận hình ảnh mà
không biết đối tượng đó là gì. Tiếp đến, thông tin về hình ảnh được nhãn thức
thấy sẽ được truyền về kho chứa thông tin trong ADN của tế bào thần kinh não
bộ để xử lý và Niệm (Trí nhớ) sẽ tìm kiếm các thông tin hình ảnh tương hợp đã
được lưu vào kho chứa từ quá khứ. Tiếp đến, Tư duy sẽ phân tích, so sánh, đối
chiếu, tổng hợp, kết luận và làm phát sinh tâm biết ý thức, biết đây là cha mẹ,
bạn bè của ta... (của người sống) và sẽ có thái độ, cách cư xử của người sống.
Nếu mắt thấy cha mẹ, bạn bè người chết thì Niệm và Tư duy sẽ so sánh, đối
chiếu với thông tin của người chết và ý thức khởi lên vẫn biết đây là cha mẹ,
bạn bè của ta... (của người chết) và sẽ có thái độ, cách cư xử của người chết. Ở
đây không phải có hai linh hồn hay hai tâm thức cư ngụ trong một cơ thể mà lộ
trình tâm sử dụng hai lượng thông tin của người sống và người chết được lưu
giữ trong cấu trúc ADN của tế bào.

Vậy thì, trong cấu trúc ADN của các tế bào trong thân thể có HAI LƯỢNG
THÔNG TIN, đó là THÔNG TIN DI TRUYỀN và THÔNG TIN VỀ TÂM. Tuy
nhiên THÔNG TIN DI TRUYỀN trong mọi tế bào đều giống nhau nhưng
THÔNG TIN VỀ TÂM được lưu giữ trong các loại tế bào khác nhau tuy có
phần giống nhau nhưng cũng có những phần khác nhau tuỳ theo chức năng của
từng loại tế bào. Ví như THÔNG TIN VỀ TÂM ở tế bào não, tuy có một số
giống, nhưng có một số thông tin khác với tế bào tim, gan, thận, tay, chân...

3 - CHẾT VÀ TÁI SANH THÀNH HOÁ SANH:

Khi một người chết không phải các Sắc pháp, cũng không có linh hồn, bản ngã
hay tâm thức tái sanh mà chính LƯỢNG THÔNG TIN DI TRUYỀN và LƯỢNG
THÔNG TIN VỀ TÂM được lưu giữ trong cấu trúc ADN của tế bào thần kinh
não bộ đi tái sanh. Lúc một người hấp hối và chết thì trong những lộ trình tâm
khởi lên có sự khao khát sống, mong muốn sống, bám víu sự sống, sợ chết,
hoảng loạn trước cái chết do Niệm (trí nhớ) kích hoạt thông tin HỮU ÁI (Tham
ái sự sống, sự hiện hữu) đã được huân tập, lưu giữ trong quá khứ. Các thông tin
này "kích động" kho chứa thông tin trong ADN cho đến khi tế bào não bộ chết
thì một sự "ĐỘT BIẾN" xảy ra. Theo thuyết lượng tử, các electron của các tế bào
thần kinh não bộ đang ở "mức" năng lượng cao "nhảy" xuống một mức năng
lượng thấp hơn sẽ làm phát sinh các "lượng tử". Đây là dạng vật chất đặc biệt vi
tế mang lưỡng tính SÓNG HẠT có khả năng "copy" toàn bộ lượng thông tin, bao
gồm THÔNG TIN DI TRUYỀN và THÔNG TIN VỀ TÂM trong tế bào não bộ
thoát ra ngoài. Thực thể thoát ra khỏi xác chết không phải là Linh Hồn, không
phải là TINH THẦN thuần tuý mà nó gồm hai phần, Vật chất và Tinh thần hay
DANH và SẮC. Điều này xảy ra giống như khi viết một tin nhắn trên điện thoại
và bấm Ok, thì sẽ phát sinh sóng điện từ (vật chất) mang lượng thông tin là tin
nhắn đó chuyển đi. Sóng điện từ là Sắc, tin nhắn đó là Danh và cặp Danh Sắc này
đến tương tác với một điện thoại khác và Danh (tin nhắn) được tách ra khỏi Sắc
(sóng điện từ). Có thể sau này, khoa học công nghệ sẽ chế tạo được các camera
ghi lại sự thoát xác của cặp Danh Sắc này.

Thực thể thoát ra khỏi xác chết gồm Danh và Sắc có đặc điểm như một chúng
sanh nên gọi là HOÁ SANH. Hoá sanh đó, do có sự tương tác giữa Danh và Sắc
mà thực chất là tương tác giữa các lượng thông tin nên vẫn phát sinh lộ trình
tâm và lộ trình tâm của Hoá Sanh tương tự lộ trình tâm thứ 6 (Ý tiếp xúc Pháp
trần) của con người với tâm biết Tưởng thức và Ý thức. Điều này tương tự như
con người thấy biết trong mộng nhưng những cảnh giới ấy không phải ở bên
ngoài mà do các thông tin đã lưu vào trong kho chứa tương tác nhau mà phát
sinh. Hoá sanh không những biết những cảnh do các thông tin trong kho chứa
tương tác mà phát sinh (nói nôm na là cảnh ảo) và tuy không có mắt tai mũi lưỡi
thân như con người, không thể thấy, nghe, cảm nhận trực tiếp thực tại nhưng vì
Sắc pháp của nó có lưỡng tính sóng hạt (lượng tử) nên có thể xuyên qua tường
vách, cây cối, người vật... và vì vậy, khi Hoá sanh xuyên qua một người thì xảy
ra tương tác giữa thông tin của Hoá sanh và thông tin trong kho chứa của người
đó. Do tương tác đó, mà phát sanh lộ trình tâm và Hoá sanh sẽ thấy biết thực tại
thông qua thấy biết thực tại của người đó. Đây là khả năng tha tâm thông, biết
được tâm người khác. Nhưng Hoá sanh thấy biết về thực tại thông qua mắt tai
mũi lưỡi thân của người khác cũng chỉ là "cảnh ảo". Với THẤY và BIẾT các
cảnh ảo như vậy, đời sống của hoá sanh vẫn thích ghét, vui buồn, hờn giận,
hạnh phúc, khổ đau, vẫn khao khát ăn uống, tình dục, hưởng thụ lạc thú nhưng
không thể nào được thoả mãn, cho dù là chút xíu vì tất cả đều là "cảnh ảo".

Các Hoá sanh tồn tại trong không gian này với loài người và có sự tương tác với
con người với vô vàn mức độ khác nhau. Các Hoá sanh có thể chia làm ba loại:
Loại thứ nhất mà vui và hạnh phúc là chủ yếu, khổ không có nhiều do khi còn là
con người đã tạo tác vô số thiện nghiệp. Các tôn giáo quan niệm đó là Chư
Thiên. Loại thứ hai mà đau khổ kinh hoàng, khủng khiếp do khi còn là con
người đã tiếp thu tà kiến và tạo tác vô số ác nghiệp khốc liệt. Loại này các tôn
giáo quan niệm đó là Địa Ngục. Loại thứ ba là các hoá sanh còn lại, rất đa dạng
về chủng loại và phức tạp về năng lực và tính cách, tuy cũng có một số niềm
vui, hạnh phúc nho nhỏ nhưng khổ đau vẫn là phần chính, và đó là nỗi thống
khổ mà đời sống loài người khó hình dung nổi. Loại này tôn giáo quan niệm là
Atula, Ngạ quỷ hay Phi nhân, vong linh, người cõi âm... Sự tồn tại của các Hoá
sanh này dài bao lâu, tuỳ thuộc vào các nghiệp lực đã tạo tác khi còn là con
người, có thể một hai giờ, một hai ngày cho đến hàng ngàn vạn năm. Hoá Sanh
tồn tại cho đến khi sự tương tác các thông tin làm cho nghiệp lực tạo tác trong
đời "cạn kiệt", lúc đó Hoá sanh sẽ tương tác được với trứng và tinh trùng đã kết
hợp, Hoá sanh chấm dứt tại đây và phát sinh một bào thai mới.

4 - HOÁ SANH TÁI SANH THÀNH TRỨNG SANH HOẶC THAI SANH:

Khi nghiệp lực tạo tác trong quá khứ của kiếp người đã cạn kiệt theo vận hành
của đời sống Hoá sanh, thì Hoá sanh đó tương tác được với "trứng và tinh trùng"
đã kết hợp. Đương nhiên, tương tác chỉ xảy ra khi có sự "tương hợp" giữa lượng
thông tin của Hoá sanh và lượng thông tin của cha mẹ. Ví như hai điện thoại có
hai số sim khác nhau gọi cho nhau, khi đó sẽ có sự tương hợp giữa hai loại thông
tin này thông qua mạng viễn thông và tín hiệu từ máy một sẽ duy nhất tới máy
hai cho dù hai máy đặt cạnh nhau hay cách nhau nửa vòng quả đất, tín hiệu sẽ
không đến với một máy thứ ba nào hết. Tương tự như vậy, khi có tương tác giữa
Hoá sanh và Hợp thể (trứng đã kết hợp với tinh trùng), cả hai cùng diệt đi và phát
sinh một Bào thai. Bào thai gồm hai phần: DANH và SẮC.

- DANH bao gồm: THÔNG TIN DI TRUYỀN CỦA BỐ MẸ, THÔNG TIN
DI TRUYỀN NGƯỜI CHẾT và THÔNG TIN VỀ TÂM NGƯỜI CHẾT.

- SẮC là phần vật chất của trứng và tinh trùng.

Bào thai này lại tương tác với Dưỡng chất từ cơ thể người mẹ mà phân chia và
phát triển thành các loại tế bào khác nhau. Quá trình phân chia và phát triển này
chịu sự chi phối của BA LOẠI THÔNG TIN trên, vì vậy khi được sinh ra cơ
thể không chỉ tiếp thu THÔNG TIN DI TRUYỀN từ bố mẹ mà còn từ người đã
chết ở kiếp trước nên những đứa trẻ có thể giống cha hoặc mẹ hoặc khác hẳn
cha mẹ (giống người ở tiền kiếp), nên những đứa trẻ sinh ra cùng cha mẹ nhưng
khác hẳn nhau, hoặc có những căn bệnh bẩm sinh không phải di truyền từ cha
mẹ, từ dòng họ mà di truyền từ con người kiếp trước... Mỗi đứa trẻ sinh ra tâm
tính đã khác hẳn nhau vì trong ADN của nó, trong kho chứa thông tin đã có
THÔNG TIN VỀ TÂM của người tiền kiếp. Trong quá trình phát triển của bào
thai, có những "đột biến gen" nên một số thông tin "trồi lên" làm cho nhiều đứa
trẻ thần đồng nhớ lại ngay từ nhỏ những năng khiếu ở kiếp trước của mình. Rất
nhiều người do những "tai nạn" đặc biệt làm "đột biến gen" nên nhớ được nhiều
chi tiết về tiền kiếp.

C - Kết Luận:

Luân hồi tái sinh phải được hiểu là một chúng sanh gồm DANH và SẮC và khi
một DANH SẮC này diệt sẽ làm phát sinh một DANH SẮC kế tiếp. Cụ thể là
Danh Sắc người hoặc thú diệt phát sinh Danh Sắc của Hoá sanh, rồi Danh Sắc
Hoá sanh diệt lại phát sanh Danh Sắc người hoặc thú. Quá trình cứ diễn tiến như
thế mãi nếu trong DANH của DANH SẮC ấy còn Vô minh và Hữu ái. Đây gọi là
LUÂN HỒI TÁI SANH. Danh Sắc cũ diệt là nhân duyên cho Danh Sắc mới phát
sinh nên quan hệ giữa Danh Sắc cũ và Danh Sắc mới là quan hệ nhân quả: nhân
diệt quả sanh. Cái đi luân hồi tái sinh, cái chuyển từ Danh Sắc cũ sang Danh Sắc
mới, cái chuyển từ kiếp sống cũ sang kiếp sống mới chính là LƯỢNG THÔNG
TIN DI TRUYỀN và LƯỢNG THÔNG TIN VỀ TÂM chứ không phải một linh
hồn, một bản ngã, một tâm thức không sinh không diệt. Bản thân HAI LƯỢNG
THÔNG TIN này cũng đang tương tác, đang sinh diệt, có tăng có giảm trong
từng giây phút chứ không phải một khối lượng cố định, không thay đổi với thời
gian. Nhưng có một loại thông tin được truyền từ kiếp sống này qua kiếp sống
khác, miên viễn như vậy trong luân hồi tái sinh là tư tưởng chấp thủ "CÁI NÀY
LÀ CỦA TA, LÀ TA". Chính hiểu biết sai lạc, mê lầm, vô minh này làm phát
sinh Hữu ái và Phi Hữu ái là nguyên nhân của luân hồi tái sinh, là nguyên nhân
phát sinh Khổ của Sinh Già Bệnh Chết.

Khi một người đã thành tựu trí tuệ, đã xoá bỏ thông tin Vô minh, thông tin "ta
và của ta" trong kho chứa thông tin nơi ADN của các tế bào thì khi Danh Sắc
này diệt, không còn phát sanh một Danh Sắc nào khác nữa. Đó là chấm dứt luân
hồi tái sinh, là Niết bàn vô dư, là Vô thượng an ổn thoát khỏi mọi khổ ách, là
Nhập diệt.

Về mục lục

Bài 045: KIẾP SAU VÀ KHÔNG CÓ KIẾP SAU

Nhiều người học Phật do hiểu biết một chiều, cho rằng Đức Phật chỉ dạy có đời
sau, có sinh tử luân hồi. Ai không tin có đời sau là Tà kiến. Người có Tà kiến
không tin có đời sau thì chỉ chăm lo cho kiếp hiện tại, chỉ lo thoả mãn những
ham muốn của kiếp hiện tại, và như vậy thì không có việc ác nào mà họ không
làm. Người tin có kiếp sau thì sợ hãi quả dữ của kiếp sau nên kiếp này cố gắng
làm lành lánh dữ để kiếp sau hưởng được quả lành.

Nếu chỉ thuyết giảng khẳng định có kiếp sau, có sinh tử luân hồi để cho đệ tử
làm lành lánh dữ, tạo phước báu cho đời sau để đời sau sống tốt đẹp hơn thì
Giáo pháp của Đức Phật ngang hàng với mọi tôn giáo khác, kể cả các tín
ngưỡng dân gian. Các tôn giáo và các tín ngưỡng đều khẳng định, tất cả chúng
sanh đều có kiếp sau. Tại vì các chúng sanh có Linh hồn bất sanh bất diệt, vì thế
không thể có sự chấm dứt hiện hữu của Linh hồn, không thể có sự chấm dứt
kiếp sau. Sự hiện hữu là vĩnh viễn chỉ khác là hiện hữu chỗ này hay chỗ kia,
hình thức này hay hình thức kia mà thôi. Cái khác thường trong Giáo pháp mà
Đức Thế Tôn đã khéo léo thuyết giảng là Ngài đã khẳng định rằng: CÓ MỘT
SỐ CHÚNG SANH CÓ KIẾP SAU VÀ CÓ MỘT SỐ CHÚNG SANH
KHÔNG CÓ KIẾP SAU. Cụ thể là loại chúng sanh nào còn Vô minh và Hữu ái
thì hết kiếp sống này lại tiếp nối kiếp sống sau (chỉ qua đời khác chứ không
chết), còn chúng sanh nào không còn Vô minh và Hữu ái thì hết kiếp sống này
không còn kiếp sau, chấm dứt kiếp sau. Loại chúng sanh không có kiếp sau là
các vị A La Hán, đã đoạn tận Vô minh và Hữu ái, khi vị đó nhập diệt thì hình
dung như ngủ say không mộng mị vĩnh viển, chấm dứt sự hiện hữu ở bất kỳ nơi
đâu, với bất kỳ hình thức nào, chấm dứt kiếp sau.

Đức Phật không cổ vũ cho cuộc sống có kiếp sau, không tán thán con đường đi
đến kiếp sau vì Ngài đã chỉ rõ, đó là Con Đường Đau Khổ, đưa đến Sinh Già
Bệnh Chết, Sầu Bi Khổ Ưu Não. Ngài cũng đã chứng ngộ, thuyết giảng, hiển
thị, phân tích, chỉ dẫn rành mạch về cuộc sống không có kiếp sau, tán thán Con
Đường Chấm Dứt Kiếp Sau, vì nó là Con Đường Chấm Dứt Khổ. Có thể diễn
đạt Tứ Thánh Đế mà Ngài đã giác ngộ và tuyên thuyết bằng các ngôn từ khác:
Đó là Bốn Sự Thật.
1 - Sự thật về kiếp sau (Sự thật Khổ, Bát Tà Đạo)

2 - Sự thật về nguyên nhân kiếp sau (Nguyên nhân Khổ, Vô minh và Hữu ái)

3 - Sự thật về chấm dứt kiếp sau (Khổ Diệt, Vô dư Niết Bàn)

4 - Sự thật về con đường chấm dứt kiếp sau (Đạo Đế, Bát Chánh Đạo)

Người xuất gia hay tại gia tự nhận là đệ tử của Đức Thế Tôn mà còn nghĩ rằng
mình đang còn phải luân hồi, còn phải tái sanh nhiều kiếp nữa thì sẽ hướng đến
một tái sanh tốt đẹp của đời sau, tu hành để có được tái sanh tốt đẹp với dung
sắc thù thắng, với dục lạc thù thắng của cõi thiên vv... ở đời sau, thì đó là những
người chưa ngộ Pháp, chưa thấy Pháp. Những ai đã thấy Pháp, ngộ Pháp, đã
lông tóc dựng ngược khi biết rõ sự thật khổ và nguyên nhân khổ của sinh tử
luân hồi thì sẽ xác định, đây là kiếp sống cuối cùng, sau kiếp sống này sẽ không
còn một kiếp sống nào khác nữa. Những ai chưa thấy Pháp, ngộ Pháp mà có trí
thì phải truy tìm và học hỏi cho bằng được cách thức chấm dứt sinh tử luân hồi
trong đời này và đặc biệt là trong tiến trình chết. Đức Phật đã khẳng định sự thật
này trong bản kinh Tứ Niệm Xứ: Ai tu pháp này tối thiểu 7 ngày cho đến tối đa
7 năm thì sự chờ đợi là Chánh Trí (quả A La Hán) trong hiện tại, nếu còn dư sót
là quả Bất Hoàn. Lời này của Ngài còn lưu lại trong kinh Nikaya không thể hư
dối, không có trong tạng Luận, không có trong các chú giải, không phải của
người sau vì người chưa giác ngộ không ai biết được điều sâu kín đó nên không
thể nói như vậy.

Về mục lục

Bài 046: THỨC TÁI SANH LÀ HOÁ SANH

Khi tế bào não chết, tại cấu trúc ADN của tế bào não sẽ xảy ra “đột biến”. Sự đột
biến này sẽ làm phát sinh một loại vật chất vi tế đặc biệt mang lưỡng tính sóng
hạt (lượng tử) có khả năng mang tải lượng “Thông Tin Pháp Trần và Thông Tin
Di Truyền” của người chết thoát ra. Đó là Thức tái sinh thoát ra.
1 - Đặc tính của Thức tái sinh:

Thức tái sinh không phải là Tâm thuần tuý, mà nó gồm hai phần Vật chất là Sắc
và thông tin là Danh, nghĩa là có cả hai phần Danh và Sắc. Trong Thức tái sinh
vẫn xảy ra sự tương tác giữa các lượng thông tin tương tự như tương tác xảy ra
bên trong tế bào thần kinh não bộ giữa Ý căn và Pháp trần, nên vẫn có các lộ
trình tâm, vẫn có các tâm biết tương tự như Tưởng thức và Ý thức, nên gọi là
Thức tái sanh. Vì thế "người chết" vẫn "thấy biết", vẫn chấp thủ vào thấy biết
đó, nên Thức tái sanh chính là một Hoá Sanh. Đối với người sống có sáu loại lộ
trình tâm khi sáu Căn tiếp xúc sáu Trần, mỗi một lộ trình tâm đều có hai cái
biết: cái biết trực tiếp giác quan nhận biết đối tượng còn được gọi là Nhận thức
cảm tính và Ý thức hiểu biết về đối tượng còn được gọi là Nhận thức lý tính. Cụ
thể là Mắt với Sắc trần thì có Nhãn thức thấy hình ảnh và Ý thức hiểu biết về
hình ảnh được thấy, Tai với Âm thanh thì có Nhĩ thức và Ý thức, Mũi với
Hương thì có Tỉ thức và Ý thức, Lưỡi với Vị trần thì có Thiệt thức và Ý thức,
Thân với Xúc trần thì có Thân thức và Ý thức, Ý với Pháp trần thì có Tưởng
thức và Ý thức. Đối với Lộ trình Ý tiếp xúc Pháp trần xảy ra với các thông tin
pháp trần trong kho chứa, thì Tưởng thức và Ý thức thấy biết những gì do lượng
thông tin trong kho chứa tương tác mà phát sinh ra. Khi con người thức tỉnh sáu
loại lộ trình tâm đan xen với nhau, và phân biệt được rõ ràng lộ trình Ý với
Pháp xảy ra nơi nội tâm chứ không phải bên ngoài, nhưng khi năm lộ trình bên
ngoài không có mặt thì con người vẫn tưởng lầm những gì đang xảy ra là ngoại
cảnh. Có thể hình dung thấy biết trong lộ trình tâm này qua thí dụ về thấy biết
khi mơ ngủ. Khi mơ ngủ, năm lộ trình tâm bên ngoài không khởi lên nên không
có thấy biết những gì bên ngoài đang xảy ra vì Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân không
hoạt động. Lúc này các tế bào thần kinh não bộ chỉ "lơ mơ" nên Ý tiếp xúc với
Pháp trần phát sinh “cảnh vật” và thấy biết “cảnh vật” đó. Những cảnh vật khi
mơ đó không phải là cảnh vật thật đang xảy ra bên ngoài, mà do lượng thông tin
trong kho chứa "biến hiện ra" nhưng người đó vẫn tưởng là cảnh vật thật bên
ngoài, vẫn thích, vẫn ghét, vẫn sợ hãi, vẫn lo lắng, vẫn hạnh phúc, khổ đau
trong mơ. Đối với Hoá Sanh, lộ trình tâm giống như lộ trình tâm trong mơ, và
Hoá Sanh tưởng lầm là những cảnh vật thật bên ngoài hoặc một thế giới tâm
linh như khi còn sống đã nghe nói đến.

Ngoài lộ trình tâm do loại vật chất lượng tử vi tế tiếp xúc với lượng thông tin về
tâm tương tự như Ý tiếp xúc với Pháp trần khi còn sống, Hoá Sanh còn có một
khả năng đặc biệt, đó là Tha tâm thông, khả năng đọc được tâm người khác. Vì
loại vật chất đặc biệt vi tế mang lưỡng tính sóng hạt, có thể xuyên qua các vật
thể, xuyên qua cơ thể con người, nên Hoá Sanh có khả năng "xâm nhập" kho
chứa thông tin người khác, tương tác với lượng thông tin đó làm phát sinh các
“cảnh vật” và Tưởng thức cùng Ý thức thấy biết các “cảnh vật” đó. Lúc đó, nếu
người bị xâm nhập thấy, nghe, cảm nhận, nhận thức gì về đối tượng thì Hoá
Sanh cũng thấy y hệt như vậy nhưng là "cảnh ảo" chứ không phải là cảnh thực.
Không những có khả năng đọc tâm người khác mà Hoá Sanh cũng giao tiếp với
các Hoá Sanh khác bằng cách tương tự như vậy. Một số hoá sanh có những
năng lực mạnh hơn, khi thâm nhập như vậy có thể tác ý và tương tác được với
các thông tin trong các lập trình và làm phát sinh lời nói, hành động của người
bị thâm nhập theo tác ý của Hoá Sanh.

2 - Phân loại Hoá Sanh:

Tuỳ theo Nghiệp lực khi còn sống, tức lượng thông tin "Thân hành, Khẩu
hành, Ý hành" trong kho chứa mà các Hoá Sanh sẽ có năng lực, tính chất và
thời gian tồn tại khác nhau. Có thể phân chia các Hoá Sanh thành ba loại
chính:

a - Loại Hoá Sanh thứ nhất: Hoá Sanh của những người đã tạo tác rất nhiều
nghiệp ác cường liệt hoặc những Tà Kiến mãnh liệt: Quá trình hấp hối và chết
xảy ra theo hai giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất người chết vẫn thấy, nghe, cảm
nhận, nhận thức được những gì đang xảy ra bởi sáu loại tế bào thần kinh vẫn
hoạt động, do vẫn xảy ra sự tiếp xúc giữa sáu Căn và sáu Trần. Giai đoạn thứ
hai là khi năm loại tế bào thần kinh ngưng hoạt động chỉ còn tế bào thần kinh
não bộ hoạt động nên không thấy biết gì về bên ngoài mà chỉ có một lộ trình
tâm Ý tiếp xúc với Pháp trần (tức lượng thông tin lưu giữ trong ADN của tế bào
thần kinh não bộ) và chỉ thấy biết cảnh vật do lượng thông tin ấy biến hiện ra.
Khác với giấc mơ, người sắp chết lại rất tỉnh táo, và chỉ có một lộ trình tâm duy
nhất nên những "cảnh vật" hiện ra rất sống động, người sắp chết tin rằng đây là
những cảnh giới thật đang hiện ra và bao trùm lên là nỗi sợ chết kinh hoàng.

Đối với những người đã tạo tác nhiều nghiệp ác cường liệt hay tin tưởng vào
những Tà Kiến, vào những thế giới tâm linh, thiên đường địa ngục, âm phủ,
Diêm vương, ma quỷ, trừng phạt... thì những Nghiệp đó, những thông tin đã
được lưu giữ đó "hoá hiện" rất nhiều cảnh giới khủng khiếp, đáng sợ, đe doạ,
xua đuổi, tấn công họ. Hoảng loạn và kinh hoàng, họ không thể nào chạy trốn
khỏi những hình thù, những nhân vật quái đản đang tấn công họ. Cho đến khi
hơi thở ra cuối cùng chấm dứt, cảnh giới ấy vẫn còn diễn ra cho đến khi tế bào
não chết. Lúc đó đột biến xảy ra làm phát sinh Thức tái sanh tức một Hoá Sanh
xuất hiện. Lộ trình tâm của Hoá Sanh lại diễn tiến tương tự như trong thời gian
hấp hối, diễn tiến với một sự tiếp nối. Hoá sanh thấy biết và tin rằng mình đang
tồn tại, đang bị rơi vào cảnh giới kinh hoàng, khủng khiếp, với nỗi thống khổ
vô cùng tận mà không biết rằng những cảnh giới đó là "cảnh ảo" do chính các
Ác Nghiệp và Tà Kiến đã được tích tập trong kho chứa trong đời sống trước
đây hoá hiện ra. Đối với hạng người này chỉ có duy nhất một cảnh giới như
vậy, vì tuy vẫn có khả năng tha tâm thông, có thể thâm nhập tâm người sống để
thấy biết các "cảnh ảo" khác, nhưng vì cảnh giới này quá mãnh liệt, nên tha tâm
thông không xảy ra. Diễn tiến như vậy cứ tiếp diễn theo thời gian cho đến khi
nào Ác Nghiệp và Tà Kiến cạn kiệt, tức lượng thông tin Ác Nghiệp, Tà Kiến
tiêu mòn hết trong thời gian tương tác, thì Hoá Sanh mới tương tác được với
một hợp tử trứng và tinh trùng tương hợp. Và do vậy kết thúc khoảng thời gian
tồn tại của Hoá Sanh, lượng thông tin còn lại tiếp tục vào Trứng (sanh) hoặc
Thai (sanh), tiếp tục một chu kỳ mới. Sự tồn tại một loại Hoá Sanh như vậy
được hiểu là Cảnh giới Địa ngục. Sự tồn tại, hay tuổi thọ của Hoá Sanh là bao
nhiêu tháng, bao nhiêu năm, hay bao nhiêu trăm năm, ngàn năm tuỳ thuộc
nghiệp ác đã tạo tác trước đó.

b - Loại Hoá Sanh thứ hai: Hoá Sanh của những người có đời sống chí thiện,
thương yêu và giúp đỡ đồng loại: Đối với hạng người này, trong thời gian hấp
hối và tiếp nối là Hoá Sanh do các thông tin về Thiện Nghiệp và hoan hỷ trong
các thiện nghiệp nên cảnh giới xuất hiện là những gì đẹp đẽ, an bình và hạnh
phúc. Giống như trong một giấc mơ đẹp, hạnh phúc, con người vẫn cảm nhận
vui sướng, hạnh phúc trong giấc mơ, thậm chí hạnh phúc trong mơ thường được
phóng chiếu lên gấp nhiều lần so với cảnh thực ngoài đời. Tương tự như vậy
Hoá Sanh tận hưởng niềm vui sướng, hạnh phúc trong các cảnh ảo ấy. Tuy vậy
nhưng hoá sanh vẫn còn tham ái đối với ăn uống, xúc chạm, sở hữu nên khi thấy
nghe, cảm nhận các “đối tượng ảo” mà không ăn uống, xúc chạm, sở hữu được
thì cũng đau khổ vô cùng. Diễn tiến như vậy kéo dài, kéo dài cho đến khi Thiện
Nghiệp ấy cạn kiệt, tức lượng thông tin thiện nghiệp do tương tác mà tiêu mòn
hết, lúc đó Hoá Sanh mới tương tác với một hợp tử trứng và tinh trùng và chấm
dứt tồn tại. Lượng thông tin còn lại vào bào thai, tiếp tục một chu kỳ mới. Cảnh
giới này được hiểu là Chư Thiên. Thời gian tồn tại hay tuổi thọ của Hoá Sanh
Chư Thiên là bao nhiêu năm, bao nhiêu trăm năm, hay bao nhiêu ngàn năm tuỳ
thuộc vào thiện nghiệp đã tạo tác.

c - Loại Hoá Sanh thứ ba: Ngoài hai loại Hoá Sanh với nghiệp quá khứ cực ác
hoặc cực thiện, số còn lại được xếp vào loại thứ ba này. Đối với Hoá Sanh loại
thứ ba này có hai loại cảnh giới được thấy biết: một là cảnh giới phát sinh trong
lộ trình tâm của Hoá Sanh, hai là cảnh giới nhờ tha tâm thông mà thấy biết qua
tâm của chúng sanh khác. Cả hai loại cảnh giới được thấy biết này đều là "cảnh
ảo". Đối với cảnh ảo của Hoá Sanh cũng có cảnh đưa đến vui sướng, hạnh phúc,
nhưng cũng có những cảnh đưa đến buồn đau, lo lắng sợ hãi, có những cảnh
thân quen đã từng trải qua, cũng có những cảnh xa lạ, khó hiểu, ngỡ ngàng... tất
cả xuất hiện một cách vô lối, lan man, không tuân theo một chủ đích nào, giống
như trong mơ. Tất cả cảnh giới xuất hiện như vậy đều do các nghiệp thiện ác, do
tà kiến và chánh kiến đã tạo tác trong quá khứ mà hoá hiện ra.

Khi Hoá Sanh tương tác được với “kho chứa thông tin" của một người nào đó,
thì người đó thấy, nghe, cảm nhận, hiểu biết về đối tượng như thế nào thì lượng
thông tin về đối tượng có ngay trong kho chứa và Hoá Sanh cũng thấy biết đối
tượng như vậy nhờ lượng thông tin đó. Không chỉ một người mà Hoá Sanh xâm
nhập kho chứa rất nhiều người và không điều khiển được, nên cảnh hiện ra cũng
không có một trật tự nào mà hoàn toàn vô lối, và bị trôi dạt từ cảnh ảo này sang
cảnh ảo khác. Do như vậy nên Hoá Sanh rất muốn trở về nhà, nhưng rất kinh
hoàng khủng khiếp, hoảng loạn giống như một người lạc giữa rừng sâu không
tìm thấy đường ra. Đôi lúc Hoá Sanh thâm nhập được kho chứa là người thân và
trở về nhà và hoàn toàn thất vọng, tức giận vì không ai nhận ra sự có mặt mình.
Hoá Sanh có thể chứng kiến đám tang, những thức ăn cúng giỗ cho mình,
chứng kiến mọi sự đang xảy ra. Như đã từng trước đây, như trong một giấc mơ,
Hoá Sanh vẫn cồn cào muốn ăn khi thấy món ăn thích thú hàng ngày, vẫn thèm
muốn tình dục... vẫn nghĩ là một con người cần phải hưởng thụ như đã sống
nhưng bây giờ tất cả là cảnh ảo không thể chạm vào nó được, không thể nào sử
dụng được. Mọi tài sản của Hoá Sanh giờ đây đã thuộc quyền người khác, nó cố
gắng chạm vào để sử dụng, để giành lại nhưng không chạm vào được. Hãy hình
dung ra nỗi khổ đau, tuyệt vọng đến nhường nào. Thử hình dung một người đã
từng yêu vợ thiết tha, nay Hoá Sanh đó chứng kiến cô vợ đang giao cấu với
người đàn ông khác với tình yêu say nồng, mà hoàn toàn bất lực, không thể
phản ứng, không thể dùng một cây gậy để thỏa mãn phẫn nộ như khi còn sống.
Tha tâm thông làm cho Hoá Sanh có khả năng thấy biết những gì đang xảy ra
nhưng cũng làm cho Hoá Sanh đau khổ khi biết được tâm địa người khác,
những người thân, bạn bè không thật lòng, phản bội, âm mưu hãm hại hoặc
đang giành giật tài sản của mình.

Các Hoá Sanh có thể thâm nhập kho chứa lẫn nhau nên có thể giao tiếp với
nhau theo cách thức tha tâm thông. Các Hoá Sanh cũng có thể thân thiết hoặc
dữ dội, xung đột với nhau, đe doạ nhau. Một số Hoá Sanh có nghiệp liên quan
đặc biệt với chúng sanh khác, không những thâm nhập được kho chứa thông
tin mà còn có thể tác ý, tương tác với các lập trình thông tin về lời nói, hành
động làm cho chúng sanh đó nói lên, hay hành động theo điều khiển của Hoá
Sanh. Các Hoá sanh đó làm vậy với mục đích tìm kiếm một nơi trú ẩn an toàn,
để thoả mãn nhu cầu và ham muốn mà Hoá Sanh không làm được.

Sự tồn tại của Hoá Sanh như vậy là tồn tại trong thống khổ. Sự thống khổ của
Hoá Sanh lớn hơn tất cả nỗi thống khổ của Thế gian cộng lại, đó là do nhu cầu
và ham muốn cần được thoả mãn vẫn như cuộc sống trước đây nhưng Hoá Sanh
KHÔNG HỀ ĐƯỢC THOẢ MÃN MỘT CHÚT NÀO CHO DÙ NHỎ NHẤT.
Nỗi thống khổ này là kết quả của nguyên nhân đã tạo tác là khát ái tìm cầu, nắm
giữ niềm vui, hạnh phúc, lạc thú (Dục lạc) mà quá khứ đã đã vun bồi. Hãy biết
rằng, một người càng thành đạt, càng giàu có, càng nổi tiếng, càng nhiều uy
quyền khi còn sống thì sự ràng buộc vào khối sở hữu ấy càng lớn lao thì khi
chết Hoá Sanh của họ càng nhiều thống khổ bấy nhiêu bởi không thể nào làm
chủ, không thể nào sở hữu cái mà họ đã làm chủ, đã sở hữu trước đây.

Hoá Sanh thuộc loại thứ ba này rất đa dạng, phức tạp với rất nhiều năng lực
khác nhau, rất nhiều chủng loại khác nhau, có sự tương tác với nhau và tương
tác với các chúng sinh khác đang còn sống và cùng hiện hữu trong một không
gian này chứ không phải tồn tại một thế giới tâm linh siêu hình nào khác. Sự
tồn tại của Hoá Sanh có thể vài ba phút, vài ba ngày, hay vài năm, vài trăm
năm... không nhất định, mà tuỳ thuộc vào nghiệp đã tạo tác trong quá khứ. Hoá
Sanh tồn tại cho đến khi nghiệp đã tạo tác ấy cạn kiệt, lượng thông tin ấy bị tiêu
mòn do tương tác, thì Hoá Sanh chấm dứt, lượng thông tin còn lại, nghiệp còn
lại, lại vào Thai hoặc Trứng tiếp tục một chu kỳ mới.

Về mục lục

Bài 047: ĐẠO QUẢ - NIẾT BÀN

Theo các Chú Giải được lưu truyền trong tạng Luận có Bốn Đạo, Bốn Quả và
Niết Bàn là chín. Bốn Đạo hay Bốn Con Đường đưa đến Bốn Quả là Tu Đà
Hoàn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán. Mỗi một Đạo khởi lên thì ngay
liền có Quả và vị đó thấy rõ Niết Bàn. Niết Bàn được hiểu là một, duy nhất
nhưng phải lần lượt và tuần tự thấy rõ Niết Bàn bốn lần như vậy. Đây là quan
điểm của các luận sư không phải do sự Tu Chứng có được, mà chỉ là Tư Duy Lý
Luận Suông, suy diễn tưởng tượng ra như vậy. Những quan điểm này chỉ lưu
truyền trong tạng Luận, là quan điểm của các luận sư mà không có nơi tạng
Kinh, là tạng do Đức Phật thuyết giảng. Những quan điểm trong tạng Luận như
vậy không phù hợp, thậm chí là trái ngược với tạng Kinh do Đức Phật thuyết
giảng.

Xuyên suốt toàn bộ tạng Kinh Đức Phật chỉ thuyết một ĐẠO DUY NHẤT, một
CON ĐƯỜNG DUY NHẤT là BÁT CHÁNH ĐẠO, không có Con Đường thứ
hai, thứ ba, thứ tư nào hết. Khi thực hành Bát Chánh Đạo, tuỳ theo sự THẤU
ĐẠT Bát Chánh Đạo đến đâu sẽ THẤU ĐẠT Niết Bàn đến đó và sẽ có KẾT
QUẢ tuỳ thuộc vào sự THẤU ĐẠT đó. Kết quả có thể được chia làm bốn mức
độ: Tu Đà Hoàn hay Nhập Lưu, Tư Đà Hàm hay Nhất Lai, A Na Hàm hay Bất
Lai và A La Hán.
1 - TU ĐÀ HOÀN hay Quả Nhập Lưu: Một vị nhờ Nghe và Tư Duy mà có
được Văn Tuệ và Tư Tuệ là hiểu biết đúng như thật về Duyên Khởi các pháp,
về Vô Thường, Vô Ngã (Vô chủ, Vô sở hữu), về Khổ Tập Diệt Đạo. Vị ấy nhờ
Nghe và Tư Duy mà THẤU ĐẠT được Bát Chánh Đạo, THẤU ĐẠT được Khổ
Diệt hay theo ngôn ngữ Ấn độ là Niết Bàn, nghĩa là THẤU ĐẠT Đạo Đế và
Diệt Đế. THẤU ĐẠT nhờ Văn và Tư đến MỨC ĐỘ Đoạn Trừ được Thân Kiến,
Nghi, Giới Cấm Thủ thì mọi Phiền não do Thân Kiến, Nghi, Giới Cấm Thủ
được đoạn trừ, lúc đó vị ấy đạt được Quả Tu Đà Hoàn hay là bậc Thánh Nhập
Lưu.

* Niết Bàn của một vị Nhập Lưu là sự chấm dứt, sự vắng mặt, sự vắng bóng
hoàn toàn PHIỀN NÃO do Thân Kiến, Nghi, Giới Cấm Thủ gây nên. Ví như
trước đó vị ấy có 100% phiền não, nay khoảng 30% phiền não do Thân Kiến,
Nghi, Giới Cấm Thủ đã được đoạn trừ còn dư sót lại 70% phiền não. Vị đó biết
rõ 30% phiền não đã đoạn diệt, còn dư sót 70% phiền não và đó là Niết bàn của
vị Nhập Lưu, gọi là Niết bàn hữu dư (con số 30% là tương đối chứ không chính
xác tuyệt đối, dùng làm ví dụ cho người đọc dễ hình dung). Quả Tu Đà Hoàn
có thể xảy ra do "đột chuyển" đối với các bậc thượng căn, thượng trí chỉ nhờ
Nghe và Tư Duy về Tứ Thánh Đế, còn đa phần xảy ra một cách "từ từ" khi
Nghe, Tư Duy và Tu Tập Bát Chánh Đạo siêu thế.

2 - TƯ ĐÀ HÀM hay Quả Nhất Lai: Một vị Nhập Lưu sẽ thực hành Bát
Chánh Đạo siêu thế và khi thực hành Bát Chánh Đạo siêu thế, Tham ái Dục lạc
do Sắc đẹp, Tiếng hay, Hương thơm, Vị ngon, Xúc chạm êm ái khởi lên được
giảm thiểu. Khi Tham ái đối với năm thứ Dục lạc được giảm thiểu thì Sân (thái
độ đối với các đối tượng ngược với Năm Dục) cũng được giảm thiểu. Do Tham
và Sân được giảm thiểu mà các Phiền não do Tham Sân giảm thiểu đó đã được
đoạn trừ. Vị ấy do có Văn Tư Tu như vậy mà THẤU ĐẠT Bát Chánh Đạo và
Niết Bàn đến MỨC ĐỘ đoạn trừ được Thân Kiến, Nghi, Giới Cấm Thủ và làm
muội lược Tham Sân đối với Năm Dục, thì đó là vị Tư Đà Hàm hay Nhất Lai.

* Niết Bàn mà vị ấy chứng ngộ và an trú là Vắng Mặt Phiền Não do Thân Kiến,
Nghi, Giới Cấm Thủ và phần Tham Sân đã được muội lược khởi lên. Phiền não
đã đoạn tận do Thân Kiến, Nghi, Giới Cấm Thủ là 30% còn phiền não đã đoạn
tận, do làm muội lược Tham sân áng chừng 20% nên vị Nhất Lai biết rõ Niết
bàn hữu dư là 50% phiền não đã đoạn tận còn dư sót 50% cần phải đoạn tận.
Trong ba Tham ái, nguyên nhân Khổ là Dục ái, Hữu ái và Phi Hữu ái, bậc
Thánh này mới chỉ làm MUỘI LƯỢC chứ chưa đoạn trừ được Dục ái nên nếu
tại đây, vị ấy thân hoại mạng chung thì vị đó sẽ còn tái sinh trở lại làm người
một lần nữa nên gọi là Nhất Lai.

3 - A NA HÀM hay Quả Bất Lai: Vị Nhất Lai tiếp tục tu tập Bát Chánh Đạo
siêu thế và khi thực hành Bát Chánh Đạo siêu thế, đến lúc Dục Ái được đoạn
tận, nghĩa là Tham và Sân đối với Năm Dục được đoạn tận. Vị ấy THẤU ĐẠT
Bát Chánh Đạo và Niết Bàn cho đến MỨC ĐỘ đoạn trừ được Năm Hạ Phần
Kiết Sử là Thân Kiến, Nghi, Giới Cấm Thủ, Tham, Sân (đối với Năm Dục) thì
đó là vị A Na Hàm hay Bất Lai.

* Niết Bàn mà vị ấy chứng ngộ và an trú là Niết bàn hữu dư, là sự Vắng Mặt
Phiền Não do Năm hạ phần kiết sử gây nên. Cụ thể là phiền não do Thân Kiến,
Nghi, Giới Cấm Thủ đã đoạn tận được 30%, phiền não do Tham Sân đối với
Dục ái đoạn tận được 50% ; tổng cộng phiền não đoạn tận được 80% còn dư sót
20%. Vị Bất Lai tại đây mà thân hoại mạng chung thì sẽ tái sinh làm chư thiên
và tại đấy Nhập Diệt, không còn trở lui cuộc đời này nữa. Đối với vị Bất Lai,
trong ba Ái là Dục ái, Hữu ái và Phi Hữu ái mới chỉ đoạn trừ Dục ái, còn Hữu ái
và Phi Hữu ái vẫn còn, và như vậy vẫn còn Nhân cho tái sinh. Các kiết sử mà vị
ấy chưa đoạn trừ được là Hữu ái (Tham ái hiện hữu có thân) trong kinh gọi là
Sắc tham, Phi Hữu ái (Tham ái sự hiện hữu không thân) trong kinh gọi là Vô
sắc tham, Vô Minh, Mạn (Ta hơn, Ta kém, Ta bằng), Trạo cử hối quá (chính là
Si). Đây chính là Năm Thượng Phần Kiết Sử chưa được đoạn trừ nơi vị Bất Lai
nên vị ấy còn tái sinh thành chư thiên một lần chót.

4 - A LA HÁN: Vị Bất Lai tiếp tục tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế và khi thực
hành Bát Chánh Đạo siêu thế, đến lúc Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái được đoạn
tận. Cho đến lúc đó, vị ấy THẤU ĐẠT Bát Chánh Đạo và Niết Bàn đến MỨC
ĐỘ mà cả MƯỜI KIẾT SỬ ĐƯỢC ĐOẠN TẬN. Do mười kiết sử được đoạn
tận, Vô Minh, Tham Sân Si được đoạn tận mà Sầu Bi Khổ Ưu Não, Sinh Già
Bệnh Chết được đoạn tận.

* Niết bàn của vị A la hán là sự đoạn tận phiền não gồm hoại khổ, khổ khổ,
hành khổ do Dục ái, Hữu ái, Phi hữu ái được đoạn tận nhưng vẫn còn dư sót
một ít khổ thọ trên thân khoảng 2 đến 3% còn lại. Đây là Niết bàn hữu dư của vị
A La Hán. Khi vị A La Hán nhập diệt thì 2 đến 3% khổ còn dư sót được diệt
tận. Đó là Niết bàn vô dư. Lúc đột chuyển xảy ra, kiết sử cuối cùng là VÔ
MINH được đoạn tận, CHÁNH TRÍ khởi lên nơi vị ấy: Sanh đã tận, phạm hạnh
đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lui cuộc đời này nữa.

Trong bốn quả vị thuộc về bậc Thánh, ba quả đầu là Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm,
A Na Hàm hay là Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất Lai là bậc Thánh hữu học (đang tu
học), quả A La Hán là bậc thánh vô học (không còn phải tu học). Ba quả đầu
thông thường chỉ xảy ra "từ từ" nên không phân biệt được một cách minh bạch,
rành rẽ, mà chỉ có quả A La Hán do "đột chuyển" nên vị ấy nhận ngay ra liền
khi xảy ra "đột chuyển". Vì vậy, trong Kinh thường không mô tả thời điểm cũng
như cách thức đạt được quả Nhập Lưu, Nhất Lai và Bất Lai mà chỉ mô tả thời
điểm và cách thức đạt được quả A La Hán: ...với tâm định tĩnh, nhu nhuyễn dễ
sử dụng, vững chắc, bình thản, không cấu nhiễm, vị ấy hướng đến, Chánh Tư
Duy và BIẾT NHƯ THẬT: Đây là Khổ, Đây là Nguyên nhân Khổ, Đây là Khổ
Diệt, Đây là Con đường Khổ Diệt. BIẾT NHƯ THẬT: Đây là Lậu Hoặc, Đây là
Nguyên nhân Lậu Hoặc, Đây là Lậu Hoặc Diệt, Đây là Con đường Lậu Hoặc
Diệt. DO THẤY NHƯ VẬY, BIẾT NHƯ VẬY mà MỌI LẬU HOẶC ĐƯỢC
ĐOẠN TẬN. Tại thời điểm đó, Minh xoá bỏ hoàn toàn Vô Minh, "đột chuyển"
xảy ra và CHÁNH TRÍ khởi lên nơi vị ấy: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành,
những việc cần làm đã làm xong, không còn trở lại cuộc đời này nữa.

Về mục lục

Bài 048: KHỔ DIỆT HAY NIẾT BÀN

NIẾT BÀN là một từ Hán Việt được phiên âm từ tiếng Ấn độ và nếu dịch sang
tiếng Việt thì có nghĩa là KHỔ DIỆT hay SỰ VẮNG MẶT KHỔ. Đây là một
trong Bốn Sự Thật hay Bốn Chân Lý mà bậc Thánh đã giác ngộ và tuyên thuyết.
Đây cũng là một đề tài mà đa phần học giả, đa phần tín đồ Phật giáo xem là cao
siêu, mầu nhiệm, vi tế không thể nào hiểu biết một cách rõ ràng, một điều bất
khả tư nghì (không thể nghĩ bàn), tuy nó được Đức Phật định nghĩa hết sức đơn
giản: Niết Bàn là đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si.

Định nghĩa của Đức Phật hết sức đơn giản như chính SỰ THẬT KHỔ DIỆT, nó
thật như là đất ở dưới chân, không thể có một định nghĩa nào diễn tả được Niết
Bàn chính xác hơn. Trong Lý Duyên Khởi Đức Phật đã tuyên bố: Nhân loại này
thường rơi vào hai cực đoan, chấp các pháp là (thường) Có hoặc chấp các pháp
là Không Có, còn Như Lai thì ly hai cực đoan mà thuyết pháp ở Trung Đạo,
nghĩa là:

Do cái này có, cái kia có. Do cái này sinh cái kia sinh.

Do cái này không có, cái kia không có. Do cái này diệt, cái kia diệt.

Trong Tứ Thánh Đế đã chỉ rõ TẬP ĐẾ: Nguyên nhân Khổ là THAM SÂN SI
thì đương nhiên DIỆT ĐẾ: Khổ Diệt hay Niết Bàn là Sự vắng mặt của THAM
SÂN SI. Vì theo nguyên lý duyên khởi:

Do Tham Sân Si có mặt, Khổ có mặt. Do Tham Sân Si sinh, Khổ sinh (TẬP
ĐẾ)

Do Tham Sân Si không có mặt, Khổ không có mặt. Do Tham Sân Si diệt, Khổ
diệt (DIỆT ĐẾ).

Và Đức Phật còn giải thích rõ ràng hơn: Khi Khổ sinh thì biết là Khổ sinh, khi
Khổ diệt thì biết là Khổ diệt, trí là trí của vị đó, không duyên một ai khác
(không do người khác chỉ cho biết). Có thể hình dung ra điều này qua một ví
dụ. Ví như một người đã từng bị ghẻ lở, hắc lào, khi ngứa khởi lên, Khổ khởi
lên và ai cũng tự thấy, tự biết Khổ đó. Khi bị Khổ hành hạ như vậy, họ gãi, hơ
lửa, bôi thuốc, và cảm nhận rất sung sướng, hạnh phúc. Sau khi chữa lành
bệnh đó, Khổ đó chấm dứt, Khổ đó không còn, ai cũng tự thấy, tự biết, không
cần người khác chỉ cho biết, Khổ đã diệt. Cho đến bây giờ sau nhiều năm Khổ
đó diệt, người đó vẫn biết rõ Khổ đó đã chấm dứt. Trong Khổ diệt đó chỉ là sự
vắng mặt của Khổ chứ không có một thứ "hạnh phúc" nào cả. Con người chỉ
cần hết Khổ như vậy thôi, chứ đâu cần hạnh phúc của gãi, hơ lửa, bôi thuốc
như trước đây. Nếu tất cả Khổ cùng đều chấm dứt, đều vắng mặt như vậy, thì
ai cũng có thể tự mình biết rõ điều đó. Đấy chính là KHỔ DIỆT hay NIẾT
BÀN trong đó không có một tí xíu hạnh phúc nào cả, không cần bất cứ một
hạnh phúc nào cả, không có vui không có buồn, không có hạnh phúc không
có khổ đau. Đức Phật gọi đó là Vô Thượng an ổn thoát khỏi mọi khổ ách.

Một người lau chùi nhà vệ sinh với sự thực hành Niệm Thân, tức lau chùi nhà
vệ sinh với Chánh Niệm: Nhớ Đến chú tâm quán sát thân nơi thân. Nếu Chánh
Niệm đó khởi lên liên tục không gián đoạn thì sự chú tâm các cảm giác nơi thân
như lau, cọ rửa, dội nước... cũng liên tục khởi lên không gián đoạn. Nhờ Chánh
Niệm như vậy và Chánh Định (chú tâm) như vậy mà không còn Nhớ Đến bất kỳ
chuyện gì trên đời (không có Tà Niệm) nên không có bất kỳ một tư tưởng nào
khởi lên. Vị đó Biết Rõ các Cảm giác chùi rửa từ Cảm giác này sang Cảm giác
khác với cái biết Thân Thức mà không có Ý Thức tham gia vào và cái biết Thân
Thức đó bây giờ gọi là Tỉnh Giác. Trong thời gian làm việc nhất tâm như vậy,
vị ấy an trú Tỉnh Giác và kinh nghiệm được trạng thái tâm vắng lặng: không
thích, không ghét, không tìm kiếm đối tượng nào (không có Tham Sân Si) và
KHỔ hoàn toàn vắng mặt. Vị ấy kinh nghiệm được: không yêu thích, không
chán ghét, độc lập không ràng buộc, giải thoát không hệ luỵ với bất kỳ đối
tượng nào. Đây chính là Tuệ tri KHỔ DIỆT hay NIẾT BÀN. Trong thời gian
lau nhà vệ sinh với Chánh Niệm Tỉnh Giác vị đó Tuệ tri Khổ Diệt, Niết Bàn
nhưng hoàn toàn không có bất kỳ một Sung sướng, Hạnh phúc nào khi lau nhà
vệ sinh. Chỉ sau khi lau nhà vệ sinh xong vị ấy có thể sung sướng, hạnh phúc vì
mình đã lau được nhà vệ sinh mà hoàn toàn không có khổ thì lúc đó Bát Chánh
Đạo không còn có mặt, Bát Tà Đạo đã khởi lên, không phải là Khổ Diệt. Thật là
đơn giản và dễ hiểu, nhưng đa phần người học không "Hiểu" được cái định
nghĩa đơn giản, "trực chỉ" Sự Thật Khổ Diệt đó, mà họ suy diễn: đây là vấn đề
tế nhị, sâu kín, bất khả tư nghì, nhân loại không thể nào hiểu nổi, nên Đức Phật
không nói rõ Niết bàn là như thế nào. Vì sao lại suy diễn như vậy? Vì rằng
trong hiểu biết Vô Minh về Khổ Tập Diệt Đạo của Phàm phu đã "Mặc Định":
CÓ HẠNH PHÚC MỚI CHẤM DỨT ĐƯỢC KHỔ. Vì Vô Minh đó che đậy
nên Phàm phu không thể nào hiểu được định nghĩa hết sức đơn giản của Đức
Phật, không chấp nhận được một Sự Thật quá giản đơn: Sự vắng mặt Tham Sân
Si là Niết Bàn. Vô Minh đã mặc định: Niết Bàn là đích đến của một sự phấn
đấu nỗ lực trong rất nhiều a tăng kỳ kiếp, nơi đó phải là nơi Hạnh Phúc Tuyệt
Đối, nơi Phúc lạc toàn vẹn và Pháp hỷ sung mãn, nơi đó tuy Chân Không mà
Diệu Hữu, nơi đó là Thường Lạc Ngã Tịnh hoặc Thường Lạc Vô ngã Tịnh, là
cảm nhận sung sướng đến tận đầu các ngón chân hay như cảm nhận cực khoái
khi "cha mẹ hoà hợp" trong mô tả của Mật tông... Những suy diễn do Vô Minh
mà khởi lên như vậy đã được Kinh Pháp Môn Căn Bản thuộc Trung Bộ Kinh
gọi là: Dục hỷ Niết Bàn (Phi Hữu Ái), nghĩa là muốn có và tìm kiếm Hạnh phúc
tuyệt đối của Niết Bàn cũng là Căn Bản Khổ.
1 - Biết được Niết Bàn hay Tuệ tri Niết Bàn bằng cái biết Ý thức chứ không
phải là cái biết Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng
thức. Ví như hôm trước đi qua chỗ có cây đa cao lớn thì Nhãn thức thấy Hình
ảnh cây đa cao lớn. Hôm sau cây đa cao lớn bị chặt hạ mang đi chỗ khác, thì
hôm nay khi đi qua chỗ đó Nhãn thức thấy Hình ảnh khác. Lúc này tư duy sẽ
khởi lên: phân tích so sánh đối chiếu Hình ảnh vừa được thấy với Hình ảnh
cây đa cao lớn đã được lưu giữ trong bộ nhớ. Tư duy như vậy sẽ đưa đến Kết
luận và Kết luận này là cái biết Ý thức biết rằng: Không còn (có) cây đa cao
lớn.

Cũng tương tự như vậy khi lộ trình tâm Bát Chánh Đạo khởi lên, thì Chánh Tư
Duy khởi lên so sánh "trạng thái" tâm Bát Chánh Đạo đó với trạng thái tâm Bát
Tà Đạo trước đây có Tham Sân Si, có Khổ đã được lưu giữ trong kho chứa (bộ
nhớ) và đưa đến kết luận. Kết luận đó là Ý thức Chánh Tri Kiến biết: không có
Tham Sân Si, không có Khổ hay Sự không có mặt Tham Sân Si đó là Khổ Diệt,
Niết Bàn. Ý thức biết Có Khổ và Ý thức biết Không Có Khổ (Khổ Diệt, Niết
Bàn). Có Khổ và Không Có Khổ là đối tượng của Ý thức và thuật ngữ Phật học
gọi là pháp. Có Khổ gọi là pháp Hữu Vi (là pháp Nhân Quả, do Nhân Duyên mà
phát sinh) còn Không Có Khổ hay Khổ Diệt, Niết Bàn là không có pháp đó
(Khổ) nên gọi là pháp Vô Vi (pháp không Nhân Quả).

2 - Niết Bàn theo nghĩa nhiếp phục và Niết Bàn theo nghĩa đoạn tận:

a - Niết Bàn hay Khổ Diệt theo nghĩa nhiếp phục Tham Sân Si là của vị Hữu
học khi đang thực hành Bát Chánh Đạo. Lúc đó Bát Tà Đạo bị nhiếp phục,
không khởi lên, nên Tham Sân Si bị nhiếp phục, Khổ được nhiếp phục, không
có mặt, không khởi lên. Trong bài kinh Tứ Niệm Xứ Đức Phật đã giảng: Vị Tỷ
kheo sống trú quán thân nơi thân, chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác ĐỂ NHIẾP
PHỤC THAM ƯU ở đời, sống trú quán thọ nơi thọ..., sống trú quán tâm nơi
tâm..., sống trú quán pháp nơi pháp, chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác ĐỂ
NHIẾP PHỤC THAM ƯU ở đời. Thực hành Tứ Niệm Xứ tức đang thực hành
Bát Chánh Đạo, lúc đó sẽ nhiếp phục Bát Tà Đạo, nhiếp phục Tham Ưu là nói
tắt nhiếp phục Tham Sân Si, nhiếp phục Phiền não khổ đau. Đây chính là Niết
bàn theo nghĩa nhiếp phục của Hữu học đạo. Nếu ngừng tu tập Bát Chánh Đạo,
Bát Tà Đạo khởi lên thì Tham Sân Si lại khởi lên, Khổ lại khởi lên. Vậy như
bài kinh Tứ Niệm Xứ đã chỉ rõ, mục đích của sự tu tập là để "thấy" Khổ Diệt,
Niết Bàn, có nghĩa là tu tập để khởi lên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo và Ý thức
Chánh Tri Kiến trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo sẽ biết rõ, sẽ Tuệ tri: VÔ
THƯỜNG, KHỔ DIỆT, VÔ NGÃ chứ không phải như hiểu biết sai, tu tập để
thấy: VÔ THƯỜNG, KHỔ, VÔ NGÃ. Vì rằng khi tu đúng Bát Chánh Đạo thì
Khổ được nhiếp phục, Khổ không còn nữa thì làm sao còn thấy Khổ, còn cảm
nhận Khổ, chỉ khi tu sai, tu không đúng Bát Chánh Đạo thì lúc đó Khổ sẽ có
mặt, Khổ sẽ hiện hữu, lúc đó mới thấy Khổ, cảm nhận Khổ. Như trong kinh đã
khẳng định, không thể nào giác ngộ Tứ Thánh Đế với Khổ và Ưu mà chỉ có thể
giác ngộ Tứ Thánh Đế với Lạc và Hỷ (của Bốn Thiền), vì vậy nếu tu để thấy
Khổ, cảm nhận Khổ thì chỉ cần sáng quất cho 100 hèo, trưa quất cho 100 hèo,
tối quất cho 100 hèo thì đã thấy Khổ, cảm nhận Khổ sâu sắc rồi chứ cần gì phải
Hành thiền mới cảm nhận Khổ. Người có trí phải hiểu rằng: thấy Khổ, cảm
nhận Khổ thuộc về Bát Tà Đạo, thuộc về Phàm phu không tu cũng cảm nhận
được Khổ nhưng lại HIỂU BIẾT SAI VỀ KHỔ. Thánh đệ tử phải tu học với
mục đích: HIỂU BIẾT ĐÚNG NHƯ THẬT VỀ KHỔ VÀ NGUYÊN NHÂN
KHỔ. Điều này có thể đạt được bởi VĂN và TƯ. Còn TU trong đó có Hành
thiền là để HIỂU BIẾT ĐÚNG NHƯ THẬT KHỔ DIỆT VÀ CON ĐƯỜNG
KHỔ DIỆT.

b - Niết Bàn hay Khổ Diệt theo nghĩa đoạn tận: Đó là Niết Bàn của vị Vô học
đạo, của vị A La Hán, của Phật mà Tham Sân Si đã được diệt tận, không có thể
khởi lên trong tương lai. Khi Bát Chánh Đạo được tu tập đi đến viên mãn thì
Chánh Tri Kiến là Minh được tu tập, đi đến viên mãn, sẽ có một thời điểm đột
chuyển xảy ra trong "kho chứa thông tin", lúc đó thông tin Minh sẽ xoá bỏ hoàn
toàn thông tin Vô Minh và do vậy sẽ phát sinh một cảm giác vô cùng lạ lẫm trên
thân. Ngay lúc đó vị ấy biết rõ sự chứng đạt Niết Bàn Vô học đạo. Thông tin
Vô Minh trong kho chứa đã được đoạn tận nên mọi lộ trình tâm sẽ không còn
Vô Minh, vì vậy không còn Tham Sân Si, không còn Khổ (sinh già bệnh chết)
Sầu Bi Ưu Não. Tuy vậy có trường hợp vị Thánh hữu học Nhập lưu cũng có
Niết Bàn theo nghĩa đoạn tận. Đó là những vị có trí, khi được nghe giảng về Tứ
Thánh Đế, vị ấy thấy Pháp, ngộ Pháp, mọi nghi ngờ diệt tận, mọi do dự được
vượt qua, vị ấy chấm dứt, đoạn diệt được Thân Kiến, Nghi, Giới Cấm Thủ và
trở thành bậc Thánh nhập lưu. Thân Kiến, Nghi, Giới Cấm Thủ được đoạn tận
thì Khổ do Thân Kiến, Nghi, Giới Cấm Thủ cũng được đoạn tận và đó là Niết
Bàn theo nghĩa đoạn tận của bậc Thánh nhập lưu, là một phần trong Niết Bàn
Vô học đạo.

3 - Niết Bàn hữu dư và Niết Bàn vô dư:

a - Niết Bàn hữu dư hay Khổ Diệt hữu dư là Niết bàn của vị A La Hán. Tuy
rằng Hoại khổ, Khổ khổ và Hành khổ do Tham Sân Si khởi lên đã đoạn diệt
không có dư tàn vì Tham Sân Si đã đoạn diệt không có dư tàn, nhưng còn một
số Cảm giác khó chịu (Khổ thọ) do Thân tiếp xúc với Xúc trần phát sinh ra vẫn
còn tồn tại. Đó là các Cảm giác quá nóng hoặc quá lạnh, bệnh tật... mà bậc
Thánh phải kham nhẫn, như Đức Phật vẫn bị bệnh phong thấp, bệnh lỵ huyết.
Đây chính là Khổ Diệt hữu dư và nó sẽ được diệt tận không có dư tàn khi vị đó
nhập diệt. Đức Phật đã ví Khổ Diệt hữu dư của vị A La Hán so với Khổ đã diệt
tận như đất trên đầu móng tay so với đất trên quả đất. Vì sao vậy? Vì khi sáu
Căn tiếp xúc sáu Trần phát sinh sáu loại Cảm Thọ, mỗi một loại Cảm thọ sẽ có
3: Lạc thọ, Khổ thọ, Bất khổ bất lạc thọ. Như vậy sẽ có 18 lộ trình và đối với
phàm phu do có Tham với Lạc thọ, Sân đối với Khổ thọ, Si với Bất khổ bất lạc
thọ nên cả 18 lộ trình đều phát sinh Khổ. Trong 18 lộ trình như vậy chỉ có một
lộ trình có Khổ thọ trên thân mà Thánh hay Phàm đều có như nhau. Kẻ Phàm
phu ngoài Khổ thọ trên thân còn có Khổ do Tham Sân Si khởi lên trên cả 18 lộ
trình, còn bậc A La Hán chỉ còn Khổ Diệt hữu dư là Khổ thọ trên thân, còn Khổ
do Tham Sân Si trên 18 lộ trình đã đoạn tận.

b - Niết Bàn vô dư hay Khổ Diệt vô dư: Khi một vị A La Hán nhập diệt thì Khổ
còn dư sót cũng đoạn diệt hoàn toàn và đó gọi là Niết Bàn vô dư hay Khổ Diệt
vô dư. Khi đó sáu Căn ngưng hoạt động, do vậy không còn sự tiếp xúc giữa sáu
Căn và sáu Trần nên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo cũng chấm dứt, không còn
khởi lên. Tiến trình Danh Sắc cũ chấm dứt, không còn phát sinh một Danh Sắc
mới. Tiến trình luân hồi sinh tử diễn tiến từ vô thuỷ chấm dứt tại đây. Đức Phật
đã ví sự việc nhập diệt này như: ngọn lửa đang cháy do dầu và bấc (Căn và
Trần) khi dầu hết (Căn diệt) thì ngọn lửa tắt. Nếu có người hỏi ngọn lửa đó tắt
thì nó đi về đâu? Câu hỏi ấy hoàn toàn không hợp lý, không thể được đặt ra
trong trường hợp này, huống hồ là đi tìm câu trả lời nó. Có thể hình dung ra sự
việc qua một ví dụ sau. Một ngày bắt đầu thức dậy vào lúc 6 giờ sáng và kết
thúc vào lúc 10 giờ đêm khi đi ngủ. Trong một ngày như vậy, từ khi thức dậy
đến khi ngủ say là sự HIỆN HỮU, vui cũng có mà buồn cũng có, hạnh phúc
chen lẫn khổ đau nhưng đa phần vui ít, khổ nhiều, não nhiều mà nguy hiểm
càng nhiều hơn. Từ 10 giờ đêm tới 6 giờ sáng hôm sau nếu ngủ say không
mộng mị thì trong thời gian đó có thể xem là KHÔNG HIỆN HỮU, không có
Hạnh Phúc lẫn Khổ Đau nào cả. Ai ai cũng đã kinh nghiệm cả hai khoảng thời
gian đó và nếu so sánh hai khoảng thời gian đó cho dù với một ngày hạnh phúc
nhất thì khoảng thời gian ngủ say không mộng mị TUYỆT hơn rất nhiều. Nếu
ngủ say không mộng mị như vậy vĩnh viễn không còn trở dậy, không có một
đời sau nào nữa thì nó cũng tương tự như sự nhập diệt của vị A La Hán, Khổ
còn dư sót trên thân diệt tận hoàn toàn, thân thể sẽ tan hoại theo định luật vật
chất, không còn phát sinh một Danh Sắc nào khác.

Khi nghe nói một vị A La Hán nhập diệt như vậy một số người học đạo thốt lên:
nhập diệt như vậy, không còn gì cả, buồn nhỉ. Tại sao họ thất vọng như vậy?

Bởi Hữu Ái chi phối họ, Tham ái sự hiện hữu, sự sống của thân xác chi phối họ
nên họ không thể nào chấp nhận nhập diệt là như vậy. Như Long Thọ, vị Tổ Sư
của Phật giáo Phát triển cũng không chấp nhận nhập diệt như dầu hết đèn tắt
nên đã từng nói: không thể có chuyện tu hành trong khoảng thời gian ba a tăng
kỳ rồi chỉ sống có bốn mươi lăm năm và nhập diệt như dầu hết đèn tắt. Không
thể như vậy. Quan điểm đó là do bị Phi Hữu Ái chi phối, là Tham ái sự hiện
hữu khi không còn thân xác và vì vậy mà suy diễn tưởng tượng ra có một Phật
Tánh không sanh không diệt bao trùm khắp vũ trụ như Thượng Đế Toàn Năng
của Cựu Ước hay Đại Ngã của Bà La Môn giáo và nhập Niết Bàn là nhập vào
Phật Tánh không sinh không diệt đó. Quan điểm đó không khác gì tôn giáo Tây
phương khi chết được trở về Nước Chúa, hoà nhập với Thượng Đế Toàn Năng
hay hoà nhập vào Đại Ngã của Bà La Môn giáo. Thực chất nội dung các quan
điểm đó giống nhau, chỉ khác nhau về tên gọi. Người trí nếu hiểu được Nguyên
nhân Khổ là Dục Ái, Hữu Ái và Phi Hữu Ái và đoạn tận được Dục Ái, Hữu Ái,
Phi Hữu Ái là đoạn tận Khổ thì hiển nhiên Niết Bàn vô dư như dầu hết đèn tắt
là điều hiển nhiên không còn phải nghĩ bàn gì nữa.

Về mục lục

Bài 049: HAI ĐIỀU RẤT KHÓ LĨNH HỘI CỦA PHẬT PHÁP

Giác Ngộ, Giải Thoát là mục đích cuộc sống nhân loại và đó cũng là mục đích
của Phạm Hạnh mà Đức Phật đã thuyết giảng trong 45 năm. Nhưng những
người đã Giác Ngộ, đã Giải Thoát lại rất ít ỏi và hiếm hoi trong lịch sử nhân
loại. Vì sao vậy? Thời Phật còn tại thế, Ngài đã tự thán và điều này được lưu
dấu trong Kinh Điển. "Pháp mà Ta chứng được sâu kín, tịch tĩnh, mỹ diệu, vượt
qua mọi tư duy lý luận suông, tế nhị, chỉ có người trí mới có khả năng giác
hiểu. Còn quần chúng này thì đam mê Ái Dục, bị Ái Dục ràng buộc nên Lý
Duyên Khởi là một điều rất khó lĩnh hội và Niết Bàn, sự từ bỏ mọi Tham ái, sự
chấm dứt mọi Tham ái, sự đoạn tận mọi Tham Ái cũng là điều rất khó lĩnh hội".
Đây chính là hai điều rất khó lĩnh hội của Phật pháp. Con người cho dù rất
thông minh, họ có thể phát minh, sáng chế ra gần như tất cả những thứ họ muốn
nhưng rất ít người có thể lĩnh hội được hai điều mà Đức Phật đã chứng ngộ và
tuyên thuyết, đó là LÝ DUYÊN KHỞI và NIẾT BÀN. Có phải nhân loại tuy
thông minh như vậy nhưng không có khả năng học hỏi về Lý Duyên Khởi và
Niết Bàn không? Không phải như vậy, mà là do nhân loại đã có hiểu biết về Lý
Duyên Khởi và Niết Bàn sai lạc và lại CHẤP THỦ vào hiểu biết sai lạc đó. Sự
chấp thủ vào hiểu biết sai lạc gọi là Vô Minh đó, như một tấm màn che mắt,
không cho nhân loại lĩnh hội được lời dạy của Đức Thế Tôn.

1- VỀ LÝ DUYÊN KHỞI:

Kẻ Phàm phu cũng nói đến các pháp phát sinh theo định luật Nhân Quả nhưng
là "Một Nhân biến đổi thành Quả" hay có bổ sung thêm "Nhân Chính biến đổi
thành Quả có các Nhân Phụ trợ giúp hoặc Nhân Chính biến đổi thành Quả có
các Duyên trợ giúp". Vì thế Nhân trong Quả, Quả trong Nhân, các pháp tương
tức, tương nhập, lệ thuộc lẫn nhau theo quan hệ chủ nhân, chủ sở hữu. Nội dung
của hiểu biết này là Vô Minh, Thường kiến, Ngã kiến và từ hiểu biết Vô Minh
này mà sẽ có hiểu biết Vô Minh về Khổ Tập Diệt Đạo. Chính hiểu biết sai lạc,
Vô Minh về Nhân Quả ngăn che không cho kẻ Phàm phu Quán Sát sự thật để
Thấy Biết như thật về Định Luật Nhân Quả: HAI NHÂN BÌNH ĐẲNG TIẾP
XÚC NHAU RỒI CÙNG DIỆT MỚI PHÁT SINH CÁC QUẢ. Do vậy tính
chất các pháp là Vô Thường, Vô Ngã (Vô chủ, Vô sở hữu), nghĩa là các pháp
sinh lên rồi diệt đi, các pháp độc lập, không phụ thuộc lẫn nhau. Với hiểu biết
đúng như thật về Định Luật Nhân Quả như vậy, mới có thể hiểu biết đúng như
thật các pháp, đúng như thật về Khổ Tập Diệt Đạo.

2 - VỀ KHỔ DIỆT HAY NIẾT BÀN:

Hiểu biết sai, tức Vô Minh về Khổ Tập Diệt Đạo đã "Mặc Định" sự Chấm Dứt
Khổ hay Khổ chỉ diệt đi khi có Hạnh Phúc thay thế. Chừng nào mà chưa sở hữu
đầy đủ Hạnh phúc (Vật chất và Tinh thần) thì chừng ấy Khổ chưa chấm dứt.
Chính vì Vô Minh hiểu biết về Khổ Diệt là như vậy nên kẻ Phàm phu Yêu thích
Hạnh phúc, Chán ghét Đau khổ và vì vậy mới "Khát Ái tìm cầu Hạnh phúc (Hỷ
Lạc) chỗ này chỗ kia như Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái" để Chấm Dứt Khổ.
Trong Thực Tại Thế Gian của Phàm phu tồn tại cả hai thứ HẠNH PHÚC và
KHỔ ĐAU luôn đắp đổi cho nhau: Khi có Hạnh phúc thì lúc đó không có Khổ
đau, khi có Khổ đau thì lúc đó không có Hạnh phúc. Vì hiểu biết Vô Minh, hiểu
biết một chiều, hiểu biết thiển cận cái Sự Thật đó mà kẻ Phàm phu "Mặc Định"
chỉ có Hạnh Phúc mới chấm dứt được Đau khổ. Và như vậy, Niết Bàn phải là
nơi có hạnh phúc tuyệt đối, vĩnh cửu, một nơi chốn phúc lạc toàn vẹn, pháp hỷ
sung mãn. Chính Vô Minh đã mặc định như vậy là tấm màn che mắt kẻ Phàm
phu, làm cho không thấy biết được sự thật lời dạy của Phật về Khổ Diệt, Niết
Bàn là vắng mặt Tham ái, đoạn tận Tham Ái chứ không phải là một trạng thái
Hạnh phúc tuyệt đối.

Thực Tại thế gian của Phàm phu do Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần phát sinh ra Sáu
Thọ và Sáu Tưởng và tiếp theo Tà Niệm, Tà Tư Duy, Tà Tri Kiến, Tà Định, Tà
Tinh Tấn, Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng khởi lên, nên Thực Tại đó có Vô Minh,
có Tham Sân Si, có Hạnh Phúc, có Khổ Đau (có Khổ Vui). Cuộc đời này, Thế
gian này đồng thời tồn tại Niềm Vui và Nỗi Khổ. Hai mặt KHỔ VUI của thực
tại là Sự Thật, là Chân Lý nhưng nó có tính chất Vô Thường và Vô Chủ. Nghĩa
là nó Sinh lên rồi Diệt đi và không có bất kỳ một cái gì, không có một cái Ta
nào là chủ nhân, chủ sở hữu của Khổ Vui, vì thế không có ai có thể thể nắm
giữ, không có ai có thể xua đuổi được Khổ Vui. Kẻ Phàm phu sống trong Vô
Minh nên ảo tưởng sẽ làm chủ, sẽ sở hữu Hạnh Phúc và sẽ xua đuổi, sẽ chấm
dứt được Khổ Đau. Thực Tại có hai mặt KHỔ và VUI như hai mặt của một
đồng tiền mà chỉ Chấp nhận một mặt và Không Chấp nhận mặt kia là ảo tưởng
lớn nhất của nhân loại. Sống bởi Vô Minh, bởi ảo tưởng như vậy nên kẻ Phàm
phu "Khát ái tìm cầu Hạnh phúc chỗ này chỗ kia như Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu
ái" tưởng rằng như vậy sẽ Chấm dứt được Khổ. Nhưng CHÍNH HÀNH VI
KHÁT ÁI TÌM CẦU HẠNH PHÚC đó lại là Nguyên Nhân Phát Sinh Khổ. Vì
vậy lao tâm khổ trí, nỗ lực phấn đấu để có được Hạnh phúc, và nhờ Hạnh phúc
đó mà chấm dứt được Khổ. Nhưng sự thật là có được Hạnh phúc chấm dứt
được cái khổ cũ nhưng lại làm phát sinh một cái Khổ mới, thậm chí còn trầm
trọng hơn. Và như vậy, thực chất thì chỉ đổi nỗi khổ này lấy một nỗi khổ khác
mà thôi, chứ không chấm dứt được Khổ.

Thực Tại Xuất Thế Gian của bậc Thánh cũng do Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần
phát sinh ra Sáu Thọ và Sáu Tưởng và tiếp theo Chánh Niệm, Chánh Tinh Tấn,
Chánh Định, Chánh Tư Duy, Chánh Tri Kiến, Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng khởi lên và Thực Tại đó không có Vô Minh, không có Tham Sân
Si, không có Hạnh Phúc và Khổ Đau (không có Khổ và Vui). Đối với bậc
Thánh, khi có Lạc thọ, không yêu thích nên Hạnh Phúc không có mặt, khi có
Khổ thọ hoặc Bất khổ bất lạc thọ, không chán ghét, không tìm kiếm Lạc thọ để
thay thế nên Khổ Đau không có mặt. Trong Thực Tại Xuất Thế Gian của bậc
Thánh, VẮNG LẶNG CẢ KHỔ ĐAU VÀ HẠNH PHÚC, đó gọi là KHỔ
DIỆT hay NIẾT BÀN. Đức Phật đã dùng nhiều phương tiện khác nhau thuyết
giảng chỉ nhắm đến một điều duy nhất là đoạn tận Tham ái, nhất hướng nhàm
chán Ly Tham. Mà đoạn tận Tham ái cái gì, Ly Tham cái gì? Đương nhiên là
đoạn tận Tham ái HẠNH PHÚC, Ly tham HẠNH PHÚC. Sự đoạn tận Tham ái
Hạnh Phúc, sự Ly tham Hạnh phúc xảy ra thì "Khát ái tìm cầu Hạnh Phúc chỗ
này chỗ kia như Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái" được đoạn tận, Nguyên Nhân
Khổ được đoạn tận. Đó chính là Đoạn tận Khổ Đau, là sự vắng mặt cả Khổ
Đau và Hạnh Phúc. Đây là con đường hoàn toàn khác, hoàn toàn ngược lại con
đường ĐI TÌM HẠNH PHÚC của Thế gian. Thực Tại Thế Gian CÓ HẠNH
PHÚC và CÓ KHỔ ĐAU còn Thực Tại Xuất Thế Gian KHÔNG CÓ HẠNH
PHÚC và KHÔNG CÓ KHỔ ĐAU nên Đức Phật dạy tu tập Bát Chánh Đạo là
để Chấm dứt Tham Ái Hạnh Phúc, Chấm dứt Thực Tại Thế Gian, để an trú
Thực Tại Xuất Thế Gian.

3 - TU HỌC ĐÚNG HƯỚNG:

Hai điều khó lĩnh hội trong lời dạy của Phật là Lý Duyên Khởi và Niết Bàn thì
Kiến thức về Lý Duyên Khởi của nhân loại tuy sai lạc nhưng có thể thay đổi dễ
dàng hơn Kiến thức sai lạc về Chấm Dứt Khổ. Đa phần nhân loại, hiểu biết về
Lý Duyên Khởi đang rất nông cạn, thậm chí là chưa hiểu biết gì nhiều về Nhân
Quả, chấp thủ kiến thức sai về Nhân Quả đang còn ít nên có thể tiếp thu một
Kiến thức mới, đúng sự thật về Nhân Quả dễ dàng nếu được chỉ thẳng trên sự
thật. Còn Vô Minh về Khổ Tập Diệt Đạo mà đặc biệt là Vô minh về Chấm Dứt
Khổ hay Khổ Diệt, Niết Bàn đã sâu dày quá mức, khó mà thay đổi. Từ hiểu biết
Vô Minh về Khổ Tập Diệt Đạo, đặc biệt là Vô Minh về Chấm Dứt Khổ mà phát
sinh hành vi Khao khát tìm cầu Hạnh Phúc chỗ này chỗ kia, nên cho dù có tu
học theo Phật thì vẫn hướng đến TÌM CẦU HẠNH PHÚC mà chỉ là đổi chỗ tìm
cầu từ "chỗ kia" sang "chỗ này" mà thôi. Vì thế khi chưa tu học thì tìm cầu
Hạnh Phúc vật chất, Hạnh Phúc tinh thần trong mọi lĩnh vực của đời sống, còn
khi tu học thì thích thú trong phước báo để tương lai có Hạnh Phúc trong Sống
lâu, Sắc đẹp, An vui, Sức mạnh trong Phật pháp, hoặc là muốn xa lánh Hạnh
phúc vật chất để tìm kiếm Hạnh phúc tinh thần thanh cao nhờ Phật pháp. Họ
thích thú với những kiến thức cao vời "siêu lý luận", những kiến thức Phật học
mà khoa học "không với tới được", họ trang bị những thứ đó để làm đẹp cuộc
đời, để cuộc đời nhiều màu mè, nhiều hạnh phúc hơn, nhiều người hành thiền để
đạt năng lực siêu nhiên, để chứng ngộ một Hạnh phúc tinh thần tuyệt đối. Nhiều
người tu quan niệm rằng thế gian tuy VUI mà KHỔ còn tu hành tuy KHỔ mà
VUI, và quan niệm đó vẫn là quan niệm của thế gian, vẫn chỉ quanh quẩn nơi
Vui và Khổ. Đa phần người tu mở miệng là nói đến Hạnh Phúc, vì trong họ đầy
ắp "Khao Khát Hạnh Phúc", và tu học như vậy là để tìm cầu Hạnh phúc trong
Phật pháp mà đỉnh cao là Hạnh Phúc Tuyệt Đối của Niết Bàn...

Sự tu học để tìm cầu Hạnh Phúc như vậy là KHÔNG ĐÚNG HƯỚNG vì chung
quy thì vẫn là "Tham ái tìm cầu Hạnh Phúc chỗ này chỗ kia như Dục ái, Hữu ái,
Phi Hữu ái". Nếu có bỏ được Dục ái, Hữu ái thì lại dồn năng lực tìm cầu Hạnh
Phúc ở Phi Hữu ái (Dục Hỷ Niết Bàn) và cũng chỉ quẩn quanh trong Thực Tại
Thế Gian có Hạnh Phúc lẫn Đau Khổ mà thôi. Sự tu học ĐÚNG HƯỚNG LÀ
ĐOẠN TẬN THAM ÁI HẠNH PHÚC để chứng ngộ và an trú Thực Tại Xuất
Thế Gian không có cả Hạnh Phúc lẫn Khổ Đau gọi là Khổ Diệt hay Niết Bàn.
Nếu tu học không đúng hướng sẽ không có kết quả, chỉ sự tu học DÙ LÀ YẾU
ỚT nhưng ĐÚNG HƯỚNG sẽ mang đến kết quả. Trong Tương Ưng Bộ Kinh đã
ví như sợi râu lúa mỳ, nếu đặt đúng hướng sẽ đâm thủng ngón tay thì tu học đúng
hướng sẽ đâm thủng Vô minh y như vậy. Sự TU HỌC ĐÚNG HƯỚNG chỉ xảy
ra khi Hiểu Biết Sai, khi Vô Minh về Khổ Tập Diệt Đạo, đặc biệt Vô Minh về
Chấm Dứt Khổ (có Hạnh Phúc mới chấm dứt được Đau Khổ) được thấy rõ, được
Nhận Mặt, được Điểm Chỉ như Đức Phật đã Nhận Mặt, Điểm Chỉ Vô Minh khi
Ngài thành đạo: Vô Minh, Ta đã thấy rõ ngươi rồi, từ nay ngươi sẽ không làm
nhà cho Như Lai được nữa, tất cả sườn nhà đã gãy, cây đòn dông ngươi dựng
cũng đã bị phá tan... Chỉ và chỉ khi Vô Minh bị Nhận Mặt thì lời dạy về Chấm
Dứt Khổ là "Đoạn tận Tham ái Hạnh Phúc" mới thấm được vào tim óc người tu,
mới có sự tu học đúng hướng. Trong kinh Ví Dụ Tấm Vải thuộc Trung Bô Kinh
đã chỉ rõ: một tấm vải đã ô nhiễm, không còn trắng sạch ví như đã có màu đen
thì không thể ăn màu nhuộm để trở thành đỏ hay vàng được. Chỉ khi nào tấm vải
ô nhiễm được TẨY SẠCH, trở nên trắng sạch mới có thể ăn màu nhuộm đỏ hay
vàng, mới có thể trở thành tấm vải đỏ hay vàng. Cũng y như vậy kho chứa tâm
thức đã bị ô nhiễm bởi Vô Minh, đã đen kịt thì không thể nào ăn được màu
nhuộm là Minh, chỉ khi Vô Minh được tẩy sạch thì kho chứa tâm thức mới
nhuộm được Minh, chỉ có điều không giống như vải, tẩy xong mới nhuộm mà
từng chút, từng chút một, Vô Minh được tẩy sạch đến đâu thì Minh sẽ thấm sâu
đến đấy.

HÃY ĐỊNH HƯỚNG lại sự tu học từ YÊU THÍCH, NỖ LỰC ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC
HẠNH PHÚC sang NỖ LỰC CHẤM DỨT THAM ÁI HẠNH PHÚC.

Về mục lục

Bài 050: TIN SÂU NHÂN QUẢ

Đây là câu nói cửa miệng của đa số người học Phật, tu Phật. Nhưng có thật sự
những người tự nhận là đệ tử Phật đã tin sâu nhân quả đúng theo lời dạy của
Đức Thế Tôn, hay đang xuyên tạc lời dạy về Nhân Quả của Ngài?

Trong bốn mươi lăm năm thuyết giảng, Đức Phật đã thuyết giảng rất nhiều bài
Kinh. Tuy nhiên các bài Kinh ấy đều xoay quanh một chủ đề chính là Khổ và
Sự chấm dứt Khổ. Nói rộng hơn chút nữa thì Đức Phật thuyết giảng về Tham
Sân Si là Nguyên nhân Khổ, Sự chấm dứt Tham Sân Si là Chấm dứt Khổ. Đây
là sự thuyết giảng quan trọng nhất, sự thuyết giảng về Nhân Quả đặc sắc nhất
của Bậc Chánh Đẳng Giác.

- Tham Sân Si là NHÂN và Khổ là QUẢ. Do Tham Sân Si có mặt mà Khổ có


mặt. Nghĩa là khi Thấy Biết một đối tượng mà có Tham Sân Si khởi lên thì Khổ
sẽ phát sinh.

- Do Tham Sân Si không có mặt mà Khổ sẽ không có mặt. Nghĩa là nếu Thấy
Biết một đối tượng mà Tham Sân Si không khởi lên thì Khổ sẽ không phát sinh.
Lời dạy về Nhân Quả này phải được hiểu biết rốt ráo trong Pháp Học, phải
được thực hành trong Pháp Hành, phải được Tuệ tri trong Pháp Thành. Nếu một
người nghe xong, tin hiểu sâu sắc Tham Sân Si là Nguyên nhân Khổ, phải là
một người rất hiếm có ở đời này, một người trí thực sự, bởi đa phần nhân loại
tuy có nghe như vậy nhưng lại xuyên tạc lời dạy Nhân Quả này theo Kiến thủ,
theo Vô minh của nhân loại.

Nếu tham khảo và nghiên cứu Kinh điển kỹ càng hơn, sẽ thấy trong Thập Nhị
Nhân Duyên, Đức Phật thuyết giảng Nhân Quả chủ chốt này theo một lộ trình
Nhân Quả nối tiếp nhau. Do có Lục Nhập (sáu Căn và sáu Trần) mà có Xúc. Do
có Xúc mà có Thọ. Do có Thọ mà có Ái. Do có Ái mà có Thủ. Do có Thủ mà có
Hữu. Do có Hữu mà có Khổ (Sinh Già Bệnh Chết), sầu bi ưu não không thể kể
xiết.

Xúc - Thọ - Ái - Thủ - Hữu - Khổ (sinh già bệnh chết, sầu bi ưu não)

Lộ trình Nhân Quả này được quan sát tỉ mỉ hơn chính là diễn tiến lộ trình tâm
của Phàm phu gọi là lộ trình tâm Bát Tà Đạo. Nếu khảo sát thật chi tiết, lộ trình
này diễn tiến như sau:

Xúc - <Thọ - Tưởng> - Tà Niệm - Tà Tư Duy - Ý thức Tà Tri Kiến - Tham Sân
Si - Tà Định - Dục (muốn) - Tà Tinh Tấn - Phi như lý tác ý - Tà ngữ, Tà
nghiệp, Tà mạng -(sinh già bệnh chết, sầu bi ưu não)

Trong lộ trình tâm Bát Tà Đạo này Khổ và Nguyên nhân Khổ (Tham Sân Si)
thuộc phạm trù Tâm chứ không phải Cảnh, phát sinh trên lộ trình tâm Bát Tà
Đạo của Phàm phu, nó Vô thường, Vô chủ, vô sở hữu chứ không Thường hằng,
thường trú nơi Cảnh, không phải của Cảnh như hiểu biết Vô minh của Phàm
phu. Khi Căn Trần tiếp xúc phát sinh Cảm thọ và Tâm biết trực tiếp giác quan
(gọi là Tưởng) nhận biết đối tượng (Cảm thọ) tiếp đến Tà Niệm - Tà Tư Duy
khởi lên, làm phát sinh Ý thức Tà Tri Kiến (hiểu biết về đối tượng) và nếu Biết
đối tượng đó là Dễ chịu, sẽ mang Hạnh phúc đến cho Ta thì sẽ thích thú đối
tượng (Tham), nếu Biết đối tượng đó là Khó chịu, sẽ mang đau khổ đến cho Ta
thì sẽ chán ghét (Sân), nếu Biết đối tượng đó là Trung tính không mang đến
Hạnh phúc cho Ta thì sẽ Tìm kiếm một đối tượng Dễ chịu, mang lại Hạnh phúc
đến cho Ta, để thay thế đối tượng Trung tính đó (Si). Như vậy, quán sát lộ trình
tâm Bát Tà Đạo, sẽ Tuệ tri được Nhân Quả:

- Tuệ tri được: Tham Sân Si là Nhân sanh Khổ

- Tuệ tri được: Sự tập khởi của Tham Sân Si (Nguyên nhân của Tham Sân Si)
là do Tà Niệm - Tà Tư Duy - Tà Tri Kiến.

Đức Phật cũng dạy về Nhân Quả của lộ trình tâm Bát Chánh Đạo như sau :
Xúc - <Thọ - Tưởng> - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - (Tỉnh
Giác) - Chánh Tư Duy - Chánh Tri Kiến - Như lý tác ý - Chánh ngữ, Chánh
nghiệp, Chánh mạng.

Để cho lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế gian (thuộc về bậc Thánh) này khởi
lên phải có Văn tuệ và Tư tuệ chuẩn bị, tức là nghe giảng và tư duy để biết như
thật về Lý Duyên khởi, về Vô thường, Vô ngã, về Khổ Tập Diệt Đạo. Trong lộ
trình Bát Chánh Đạo, khi Căn Trần tiếp xúc phát sinh Cảm thọ và Tâm biết trực
tiếp giác quan (Tưởng) nhận biết đối tượng, tiếp đến Chánh Niệm khởi lên (nhớ
đến Tham Sân Si là nguyên nhân Khổ)... Chánh Tư Duy - Chánh Tri Kiến khởi
lên, Biết như thật đối tượng đó là Cảm thọ, nó Vô thường, Vô chủ, Biết như thật
nếu Tham Sân Si với đối tượng thì Sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên. Do Thấy như
vậy, Biết như vậy mà Tham Sân Si không thể khởi lên. Ví như một người Thấy
hòn than cháy đỏ rồi Biết khởi lên, cầm lấy hòn than cháy đỏ bằng tay trần thì sẽ
bỏng ngay, rất đau khổ. Do Thấy như vậy, Biết như vậy về hòn than cháy đỏ mà
người đó không lấy bàn tay trần cầm lấy hòn than cháy đỏ. Như vậy, trên lộ trình
tâm Bát Chánh Đạo sẽ:

- Tuệ tri được: Sự chấm dứt Tham Sân Si, Sự chấm dứt Khổ
- Tuệ tri được: Con đường chấm dứt Tham Sân Si, Chấm dứt Khổ là Bát
Chánh Đạo.

Một người trí khi nghe và tư duy về Nhân Quả như vậy, có Chánh tín về Nhân
Quả như vậy, sẽ thực hành Chánh Niệm: nhớ đến Tham Sân Si là Nhân sanh
Khổ nên khi Thấy, Nghe, Cảm Nhận đối tượng, Chánh Niệm khởi lên... Chánh
Tư duy - Chánh Tri Kiến khởi lên. Và nhờ vậy, Tham Sân Si, Sầu bi khổ ưu não
không khởi lên. Nếu Chánh Niệm, nhớ đến Tham Sân Si khởi lên liên tục, thì
Khổ được nhiếp phục liên tục, người đó sống với Khổ Diệt. Sự tu tập này đi đến
viên mãn sẽ xoá bỏ thông tin Vô minh trong "kho chứa tri thức hiểu biết" đưa
đến quả A la hán, là giải thoát tối hậu, là đích đến của cuộc đời. Chính vì vậy
người trí TIN SÂU NHÂN QUẢ sẽ có Chánh Tín: Tham Sân Si là nhân sanh
Khổ. Do Chánh Tín như vậy mà Tinh Tấn khởi lên và do Tinh Tấn như vậy mà
tu tập Bát Chánh Đạo, và Bát Chánh Đạo nói gọn là Niệm - Định - Tuệ khởi
lên. Đây chính là: Tín - Tấn - Niệm - Định - Tuệ và do vậy mà an trú Khổ Diệt
hay Niết Bàn. Với một người như vậy, đã kinh nghiệm được khi không có
Tham Sân Si thì lúc ấy không có Khổ, sẽ không xuyên tạc Nhân Quả mà Đức
Thế Tôn giảng dạy. Sự thực hành của họ chỉ có một pháp môn duy nhất là Bát
Chánh Đạo, chỉ Chánh niệm ngay bây giờ và tại đây, không còn quan tâm về
những gì đã xảy ra trong quá khứ (không còn phải quan tâm ta đã gieo nhân
lành gì, nhân ác gì trong quá khứ), cũng không còn quan tâm đến cái gì sẽ xảy
ra trong tương lai (Không còn phát nguyện để trở thành cái gì trong tương lai).

Đa phần người học không có Chánh Tín về Nhân Quả theo lời dạy của Phật, tuy
họ vẫn nghe thuyết giảng Tham Sân Si là nhân sanh Khổ, nhưng lời dạy đó
giống như một gáo nước dội vào một khối sắt nóng đỏ, sẽ văng ra hoặc bốc hơi
tức thì, không một chút nào đọng vào tâm trí họ. Nghe xong họ lại trở về với
hiểu biết Vô minh từ vô thuỷ, Nguyên nhân Khổ không phải là Tham Sân Si
mà: Khổ là do Hoàn cảnh nghèo đói, lạc hậu, thiếu tiện nghi... Khổ là do
Nghiệp đã tạo tác trong quá khứ, Khổ là do thiếu phước đức, Khổ là do từ tiền
kiếp chưa tích luỹ đủ các Ba la mật... Với hiểu biết như vậy, họ sẽ đi ra khỏi
Nhân Quả mà Phật đã dạy: Tham Sân Si là Nhân sanh Khổ, họ sẽ không có
Chánh Niệm: nhớ đến Tham Sân Si là nhân sanh Khổ, họ sẽ xa rời Bát Chánh
Đạo. Những người như vậy, với hiểu biết như vậy họ sẽ thực hành tu tập để
thành tựu phước báu để tương lai được giàu có, hạnh phúc, sống lâu, để kiếp
sau được sinh cõi trời, để về thiên đường cực lạc, để tìm hạnh phúc tuyệt đối
của Niết bàn. Họ sẽ tu tập cho tương lai, một kiếp vị lai nào đó chứ không phải
cho Giải thoát ngay bây giờ và tại đây. Họ sẽ tụng kinh, niệm Phật, sám hối để
tiêu trừ các Nghiệp chướng đã tạo trong quá khứ, sẽ bố thí, trì giới để tạo ra
phước báo cho tương lai, để tích luỹ cho đủ các Ba la mật để kiếp tương lai Giác
ngộ, để nhẫn nhục chịu đựng khổ đã tạo từ kiếp trước, để trả nghiệp quá khứ
hoặc tu để chứng ngộ và thể nhập một Thế giới bản thể Chân Không hoặc một
Bản Tâm không sinh không diệt nào đó chứ không phải tu để đoạn tận Tham
Sân Si, đoạn tận Khổ ngay bây giờ và tại đây.

Vì không tin hiểu, không có Chánh Tín: Nhân sanh Khổ là Tham Sân Si nên
mới đề ra: tu để chứng được các pháp Vô thường, Khổ, Vô ngã. Thực tánh các
pháp là Vô thường, Vô ngã là điều Đức Phật đã dạy, nhưng các pháp là Khổ lại
là hiểu biết điên đảo, xuyên tạc lời dạy về Sự Thật Khổ của Đức Thế Tôn. Nếu
các pháp là Khổ, thì Khổ sẵn có, thường xuyên có, thường hằng, thường trú
trong các pháp, Khổ là của các pháp. Như vậy khổ không có nhân, không có
duyên, không thể thuyết minh được Duyên Khởi: Do cái gì có mặt mà Khổ có
mặt, do cái gì không có mặt mà Khổ không có mặt. Điều này trái với sự thật là
Thực tánh của Khổ phải Vô thường, Vô chủ. Nếu các pháp là Khổ thì Thánh
hay Phàm đều khổ, sẽ không có Sự chấm dứt Khổ, sẽ không có Con đường
chấm dứt Khổ. Nếu các pháp là Khổ thì Sự chấm dứt Khổ phải là Sự chấm dứt
tất cả các pháp chứ không phải là Chấm dứt Tham Sân Si. Lý luận hơn nữa thì
do các pháp Vô thường, sinh diệt nên các pháp là Khổ. Như vậy Nguyên nhân
Khổ là do Vô thường sinh diệt lại là sự xuyên tạc trắng trợn lời dạy của Phật:
Nguyên nhân Khổ là Tham Sân Si. Đức Phật chưa bao giờ giảng dạy Năm uẩn
Sắc Thọ Tưởng Hành Thức là Khổ, Danh Sắc là Khổ, Các pháp là Khổ, mà
ngay trong bài Kinh chuyển pháp luân, Ngài dạy: NĂM THỦ UẨN LÀ KHỔ.
Nghĩa là Chấp Thủ Năm Uẩn sẽ phát sinh Khổ. Đức Phật là Bậc Chánh Đẳng
Giác, Ngài đã tự mình giác ngộ Chân Lý, Ngài đã tuyên thuyết điều mình giác
ngộ: Năm Thủ Uẩn là Khổ, Nguyên nhân Khổ là Tham Sân Si, Ngài không
bao giờ thuyết giảng: Năm Uẩn là Khổ, Các pháp là Khổ do các pháp vô
thường vì Ngài không thể tự mình lại mâu thuẫn với chính mình.

Một người trí Tin Sâu Nhân Quả: Tham Sân Si là nhân sanh Khổ sẽ tinh tấn
thực hành Bát Chánh Đạo, cụ thể là thực hành Chánh Niệm về Thân Thọ Tâm
Pháp và đặc biệt là Chánh Niệm: nhớ đến Tham Sân Si là nhân sanh Khổ (Niệm
Pháp) thì khi Thấy, Nghe, Cảm Nhận đối tượng với Tỉnh Giác thì Chánh Tư
Duy - Chánh Tri Kiến sẽ tự động khởi lên, BIẾT Tham Sân Si là nguy hiểm,
Tham Sân Si đối tượng sẽ khởi lên Khổ. Do THẤY như vậy, BIẾT như vậy mà
Tham Sân Si không còn nhân duyên để khởi lên, Khổ không còn khởi lên. Nếu
Chánh Niệm: nhớ đến Tham Sân Si là nhân sanh Khổ liên tục khởi lên, từ đối
tượng này đến đối tượng khác, từ giây phút này đến giây phút khác thì người đó
sẽ kinh nghiệm giải thoát khổ từ giây phút hiện tại này sang giây phút hiện tại
khác không dừng nghỉ. Đó là Tuệ Quán trong giây phút hiện tại. Lúc đó sẽ
không còn Truy Tìm Quá Khứ, không cần biết đến đã tạo tác nghiệp nào trong
quá khứ, đã trả được bao nhiêu nghiệp, đã tích luỹ được bao nhiêu Ba la mật...
không còn Ước Vọng Tương Lai, không cần một phước báo nào cho tương lai,
không cần Ba la mật nào cho tương lai, không cần một sanh y nào cho tương
lai... Lúc đó sẽ không có đời trước, không có đời này, không có đời sau, không
có khoảng giữa của hai đời. Đó chính là Sự đoạn tận khổ đau.
Về mục lục

Bài 051: TÀM QUÝ LÀ TÀI SẢN CỦA BẬC THÁNH HỮU HỌC

Tàm và Quý là hai trong bảy tài sản đáng quý, đáng gìn giữ, đáng tích luỹ của
các bậc Thánh hữu học gồm: Tín - Giới - Tàm - Quý - Văn - Tinh tấn - Trí tuệ.
Tàm Quý là thuật ngữ Phật học tiếng Tàu, mà nghĩa tiếng Việt của Tàm là xấu
hổ, hổ thẹn, Quý là sợ hãi. Trong đời sống của Phàm phu, hàng ngày họ cũng
đang sống với xấu hổ, với sợ hãi và xấu hổ sợ hãi lại chính là Nguyên nhân phát
sinh đau khổ. Vậy thì Tàm Quý của Phàm phu không phải là tài sản đáng quý,
đáng gìn giữ, đáng tích luỹ mà là cái của nợ cần phải vứt bỏ. Nhưng tại làm sao
Tàm Quý lại là tài sản đáng quý, đáng trân trọng, đáng tích lũy của các bậc
Thánh hữu học? Vậy, có gì khác nhau giữa Tàm Quý của Phàm phu và Tàm
Quý của bậc Thánh?

1 - Tàm và Quý của Phàm phu:

Xấu hổ và Sợ hãi là hai tâm hành có mặt “thường xuyên” hàng ngày trong đời
sống nhân loại. Con người đang sống với đủ thứ xấu hổ; xấu hổ vì nghèo khổ, vì
thất bại, vì xấu xí, vì tàn tật, vì thất tình, vì bị khinh rẻ, vì nòi giống, vì địa vị, vì
lạc hậu, vì phá sản, vì bị tù tội, vì bị vạch mặt vv... Sợ hãi vì sợ bị mất những
niềm vui, hạnh phúc mà mình sở hữu như sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị
ngon, xúc chạm êm ái; sợ hãi bị đói khổ, nghèo thiếu, bệnh tật, thiên tai; sợ hãi
bị khinh rẻ, chê bai, áp bức; sợ hãi bị già, bị bệnh, bị chết vv... Tâm hành xấu
hổ, sợ hãi chính là biểu hiện của tâm hành Sân trong các trường hợp khác nhau.
Khi nào mà Xấu hổ và Sợ hãi có mặt thì Khổ có mặt, vì vậy đối với Phàm phu,
Xấu hổ, Sợ hãi là Nguyên nhân của Khổ đau.

2 - Tàm và Quý của bậc Thánh hữu học (Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm):
Bậc Thánh hữu học là người đã thấy Pháp, ngộ Pháp (Pháp của Đức Thế Tôn
thuyết giảng), mọi nghi ngờ được diệt tận, mọi do dự được vượt qua, nhờ nghe
giảng (Văn) và tư duy (Tư) mà có hiểu biết đúng như thật về Khổ Tập Diệt
Đạo. Đối với vị đã đoạn trừ được Thân kiến, Nghi, Giới cấm thủ như vậy, đã
ghi nhận chắc chắn Nguyên nhân phát sinh Khổ là Tham Sân Si, thuộc nội tâm
chứ không phải là từ thế giới ngoại cảnh mà đến với con người. Tuy có Văn tuệ
và Tư tuệ như vậy nhưng vị đó khi không tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế thì
Tham Sân Si vẫn có mặt, vẫn chi phối, vẫn tàn phá vị đó. Cho đến lúc vị đó
“Sực nhớ đến” lời dạy của Đức Phật về Tứ Thánh Đế, ngay lập lức vị đó Xấu
hổ, Hổ thẹn vì đã không Chánh niệm, đã không nhớ đến thực hành lời dạy của
Ngài. Vị đó sợ hãi, vì đã để cho Tham Sân Si chi phối nên phải lãnh thọ khổ do
Tham Sân Si khởi lên. Một người có Văn Tuệ và Tư Tuệ sâu sắc thì xấu hổ, hổ
thẹn, sợ hãi khi bị Tham Sân Si chi phối càng mãnh liệt. Một bậc Thánh hữu
học xuất gia, mỗi khi quên mất Chánh niệm, không nhớ đến Tứ Thánh Đế, đặc
biệt Tham Sân Si là nhân sanh khổ thì sau đó khi Sực Nhớ đến lời dạy của
Phật, Tàm và Quý sẽ dày xéo vị đó: “Thật đáng hổ thẹn cho ta, thật đáng ghê
sợ cho ta, thật khốn nạn cho ta. Ta đã xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia
đình, để đoạn trừ Tham, để đoạn trừ Sân, để đoạn trừ Si, để có thể chấm dứt
khổ nhưng Tham vẫn xâm chiếm tâm ta, Sân vẫn xâm chiếm tâm ta, Si vẫn
xâm chiếm tâm ta. Dục tầm, Sân tầm, Hại tầm vẫn xâm chiếm tâm ta. Thật là
khốn nạn cho ta, thật là đau đớn cho ta”. Tàm Quý như vậy là tài sản đáng quý,
đáng trân trọng, đáng nuôi dưỡng, đáng tích lũy. Vì sao vậy? Vì nó sẽ đưa đến
Chánh niệm, đưa đến tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế, đưa đến đoạn tận Tham
Sân Si, đưa đến chứng đạt Niết bàn.

Ngược lại với bậc Thánh hữu học biết như thật về sự nguy hiểm nên có Tàm
Quý về Tham Sân Si, Phàm phu không biết như thật về nguy hiểm nên không có
Tàm Quý về Tham Sân Si mà còn tự hào, ca ngợi Tham Sân Si. Phàm phu đã
Mặc Định rằng, nếu không có tham muốn giàu có, không có khao khát giàu có,
không có lý tưởng làm giàu thì nhân loại không có đủ nghị lực, không có đủ
tích cực để tìm kiếm, để phát minh, để làm giàu, để phát triển, để biến thế giới
nghèo nàn, lạc hậu, tối tăm ngày xưa thành một thế giới giàu có, tân tiến, đầy đủ
tiện nghi như ngày nay. Nếu không có lòng căm thù làm động lực thì một đất
nước không thể tự bảo vệ mình trước các cuộc xâm lăng. Nhiều ông bố bà mẹ
đã giáo dục con cái mình theo cái “lẽ phải” của nhân loại, bằng cách quát tháo
đứa con “nó đánh mày mà mày chỉ biết khóc, mày không có tay đánh lại nó à?"
v.v... Nhân loại ca ngợi sự sống, sự hiện hữu là mầu nhiệm, là kỳ diệu làm tăng
trưởng lòng tham ái sự sống, sự hiện hữu (Hữu ái) mà không biết sự nguy hiểm
là chính tham ái sự sống, sự hiện hữu (Hữu ái) là nguyên nhân đưa đến sinh tử
luân hồi, đưa đến nỗi thống khổ của sinh già bệnh chết. Người tu hành thì xem
sự hiện hữu của linh hồn không còn bị giam hãm trong thể xác là giải thoát tối
hậu nên tham ái sự hiện hữu không có thân xác nơi Đại ngã hay Thiên đường
(Phi Hữu ái hay Dục hỷ Niết bàn) mà không biết Phi Hữu ái cũng chỉ đưa đến
sinh tử luân hồi, đưa đến nỗi thống khổ của sinh tử luân hồi.

Bậc Thánh hữu học có Tàm Quý về Tham Sân Si, nhưng xảy ra trên lộ trình tâm
Bát Tà Đạo nhờ “Sực Nhớ Đến Tứ Thánh Đế”. Lúc “Sực nhớ đến Tứ Thánh
Đế”, tức nhớ lại được những điều đã học từ trước, đúng sự thật thì đó là Chánh
niệm. Nhưng Chánh niệm này xảy ra trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo, và vì thế mới
phát sinh Xấu hổ, Sợ hãi (Sân) nên Chánh niệm - Chánh tư duy - Chánh kiến đó
thuộc về BÁT CHÁNH ĐẠO HIỆP THẾ. Bát Chánh Đạo Hiệp Thế do Văn Tuệ
và Tư Tuệ khởi lên làm phát sinh Tàm Quý là bước CHUẨN BỊ HÀNH
TRANG cho BÁT CHÁNH ĐẠO SIÊU THẾ với Tu Tuệ khởi lên. Và khi Bát
Chánh Đạo siêu thế được tu tập, được khởi lên, lúc đó không còn Tham Sân Si
nên Tàm Quý cũng không còn nhân duyên để có mặt, Tàm Quý được nhiếp
phục và sẽ được đoạn tận. Đối với bậc Thánh vô học A la hán, Tham Sân Si đã
được đoạn tận nên Tàm Quý được đoạn tận, không còn là tài sản của vị vô học.
Bậc Thánh vô học sống với Chánh kiến, với tư tưởng Vô chủ, vô sở hữu, không
có bất kỳ một tài sản nào.

Về mục lục

Bài 052: BỐ THÍ

Trong Năm bộ kinh Nikaya, kinh nói riêng về bố thí rất ít ỏi, hình như chỉ có
một kinh duy nhất ở Tăng Chi Bộ Kinh. Trong bản kinh này Đức Phật có thuyết
giảng về hai cách bố thí. Một cách bố thí không được quả lớn, lợi ích lớn; một
cách bố thí được quả lớn, lợi ích lớn.

- Bố thí không được quả lớn, lợi ích lớn: "Ở đây, này Sariputta, có hạng người
bố thí với tâm mong cầu, bố thí với tâm trói buộc, bố thí với tâm mong cầu được
chất chứa, bố thí với ý nghĩ: "ta sẽ thọ hưởng cái này trong đời sau". Vị ấy bố thí
như vậy cho các Sa môn, Bà la môn, bố thí đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ, vòng
hoa, hương thơm, hương liệu, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Vị ấy bố thí như
vậy, khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư thiên ở bốn thiên
vương. Và vị ấy, khi nghiệp (ấy) được đoạn tận, thần lực ấy, danh tiếng ấy, uy
quyền ấy được đoạn tận, vị ấy trở thành "vị trở lui lại", trở lui cuộc đời này".

Đức Phật đã thuyết giảng, đây là cách bố thí thứ nhất, không phải không có kết
quả của bố thí, mà quả của bố thí như vậy có thể, sau khi chết được tái sinh ở
cõi trời bốn thiên vương, nhưng nó là bố thí không được quả lớn, không được
lợi ích lớn. Vì sao vậy? Vì đó là quả hữu lậu, thuộc phước báo, đưa đến quả
sanh y. Quả ấy có thể là tốt đẹp, giàu sang, mạnh khoẻ đối với kẻ Vô minh trong
luân hồi sinh tử, nhưng vẫn thuộc về Khổ cảnh. Bố thí như vậy thuộc về Phàm
phu, thuộc về lộ trình tâm Bát Tà Đạo, do Tham ái phước báo khởi lên. Đây là
Thực tại Thế Gian có kiếp sau, có con đường đi đến kiếp sau. Hành vi bố thí với
tâm mong cầu, với tâm trói buộc (về phước báo) như vậy là đang đi trên con
đường tới kiếp sau. Cho dù đi đến kiếp sau là cảnh giới Bốn Thiên Vương,
nhưng khi quả báo của nghiệp bố thí ấy tận thì lại tái sinh trở lui, trở lui cuộc
đời này. Đức Phật đã dùng nhiều phương tiện thuyết giảng về thực tại Thế Gian
có kiếp sau và Con đường đi đến kiếp sau là đáng kinh sợ, đầy khổ đau. Đức
Phật không có phủ nhận hay chê bai cách bố thí này, nhưng cũng không khuyến
khích vì bố thí như vậy là đang đi trên con đường tới kiếp sau. Cái mà Ngài
khuyến khích đệ tử, là đi trên con đường tới không có kiếp sau, vì vậy Ngài
không khuyến khích đệ tử bố thí theo cách đi đến kiếp sau này.

2- Bố thí được quả lớn, lợi ích lớn: "Này Sariputta, ở đây, ai bố thí với tâm
không mong cầu, bố thí với tâm không trói buộc, bố thí với tâm không mong
cầu được chất chứa, bố thí không với ý nghĩ: "ta sẽ hưởng thọ cái này trong
đời sau", bố thí không với ý nghĩ: "lành thay, sự bố thí", bố thí không với ý
nghĩ: "cái này đã được cho trong đời quá khứ, đã được tổ tiên làm trong đời
quá khứ, ta không nên để truyền thống này của gia đình bị bỏ quên", bố thí
không với ý nghĩ: "ta có ăn, những người này không có ăn, ta không xứng
đáng là người có ăn, nếu không bố thí cho người không có ăn", bố thí không
với ý nghĩ: "như các vị ẩn sĩ thời xưa có những tế đàn lớn như Atthaka,
Vâmka, Vâmdeva ..., cũng vậy ta sẽ là người san sẽ vật bố thí này", bố thí
không với ý nghĩ: "do ta bố thí vật bố thí này, tâm được tịnh tín, hỷ duyệt khởi
lên". Nhưng vị ấy bố thí với ý nghĩ để trang nghiêm tâm, để thanh tịnh tâm. Và
đối với Sa môn hay Bà la môn, vị ấy bố thí đồ ăn, đồ uống, vải mặc, xe cộ,
vòng hoa, hương liệu, giường nằm, trú xứ, đèn đuốc. Do vị ấy bố thí như vậy,
sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư thiên ở Phạm
Chúng thiên. Và khi vị ấy, nghiệp ấy được đoạn tận, thần lực ấy, danh tiếng
ấy, uy quyền ấy được đoạn tận, vị ấy trở thành Bất Lai, không còn trở lui cuộc
đời này nữa".

Đây là cách bố thí được quả lớn, lợi ích lớn, bố thí với Tâm Không. Nghĩa
Không này rất cụ thể, rõ ràng, không mơ hồ trừu tượng. Tâm Không mà Đức
Phật giảng giải ở đây nằm trong nghĩa Có Không thường ngày theo hiểu biết
của nhân loại. Bố thí với Tâm Không là bố thí với Tâm KHÔNG mong cầu,
KHÔNG trói buộc, KHÔNG chất chứa v.v.. Các Tâm Không này đã được liệt
kê tỉ mỉ, đầy đủ trong đoạn kinh trên. Bố thí với Tâm Không như vậy cũng tức
là bố thí với tâm không có Vô minh, không có Tham Sân Si, chỉ xảy ra khi lộ
trình tâm là Bát Chánh Đạo. Bố thí như vậy được quả lớn, lợi ích lớn là bởi quả
bố thí này thuộc Vô Lậu, Siêu Thế, thuộc Đạo Chi. Thuộc Đạo Chi nghĩa là bố
thí như vậy là Chi phần của Bát Chánh Đạo siêu thế, cụ thể là Chánh ngữ,
Chánh nghiệp trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo. Chánh ngữ, Chánh nghiệp do
Chánh Tri Kiến, do Minh mà khởi lên, không phải do Vô minh, Tham ái khởi
lên, nên hành vi bố thí như vậy không còn tạo nghiệp, không còn thuộc về Thế
gian hữu lậu, mà chính là Vô Tác Giải Thoát. Bố thí như vậy là đang đi trên con
đường không có kiếp sau. Bố thí như vậy có thể góp phần đạt được quả Bất Lai
(A Na Hàm), nghĩa là sau khi thân hoại mạng chung, tái sinh vào Phạm Chúng
thiên và tại đấy Nhập Diệt, tại đấy Niết Bàn không còn trở lui cuộc đời này nữa.
3 - Chủ trương về bố thí: Đức Phật không đề cao bố thí, không xem bố thí là
công việc hàng đầu của sự tu hành, nên trong các bộ kinh Nikaya, bài kinh
riêng biệt về đề tài bố thí chỉ có duy nhất bài kinh này. Trong Bát Chánh Đạo,
con đường chấm dứt khổ có 8 chi phần, nhưng không có chi phần bố thí. Trong
37 chi phần Đạo Đế cũng không có chi phần bố thí. Tuy Đức Phật không đề cao
bố thí, nhưng cũng không xem nhẹ chi phần này và bố thí để có quả lớn, lợi ích
lớn như đã thuyết giảng ở trên, đã ẩn tàng trong Bát Chánh Đạo. Không phải
mọi lời nói, mọi hành vi trong chi phần Chánh ngữ, Chánh nghiệp đều là bố thí,
nhưng khi nói Pháp cho một người nào đó, chia sẻ vật dụng cho một người nào
đó với lộ trình tâm Bát Chánh Đạo, thì có nghĩa là đang nói, đang cho với Tâm
Không, đang nói, đang cho với Tâm vắng lặng, không vì thương, không vì ghét
mà nói, mà cho; không vì một mục đích nào đó mà nói, mà cho. Hành vi bố thí
với Tâm Không như vậy không phải của ai cả, mà Ý thức Chánh Tri Kiến, là
Minh, là Trí Tuệ, là nhân duyên cho nó khởi lên. Ai khi đang tu tập Niệm Tâm
và Niệm Pháp, khi an trú Chánh Niệm thì có thể kinh nghiệm được “nói và
cho” với Tâm Không như vậy. Và đây cũng là lý do Đức Phật không nói nhiều
về bố thí với Tâm Không, và cũng vì "Pháp của Đức Thế Tôn khéo thuyết giảng
là ĐẾN ĐỂ MÀ THẤY", là để tự mình thấy, tự mình biết, tự mình trải nghiệm
bố thí với Tâm Không là như thế nào.

Đa phần về sau, không y theo kinh mà y theo chú giải, luận giải nên đề cao bố
thí, xem bố thí là sự nghiệp hàng đầu của tu hành. Nhưng thay vì đề cao bố thí
với Tâm Không để có quả lớn, lợi ích lớn, các chú giải đa phần đề cao bố thí với
tâm mong cầu, với tâm trói buộc, với tâm chất chứa về Phước Báo. Họ dùng đủ
mọi phương tiện phân tích về phước báo, về người thí, thái độ thí, vật thí, người
thọ thí để đạt được tối ưu phước báo. Chú giải, luận giải về mục đích của bố thí
là phước báo như vậy chính là Tham Dục, do Vô minh và Tham ái mà viết ra.
Bố thí với mục đích phước báo như vậy không phải không có kết quả, nhưng kết
quả đó không phải là quả lớn, lợi ích lớn. Quả đó xảy ra trong tương lai, hoặc
trong kiếp sau, trong luân hồi sinh tử, trong Khổ cảnh mà thôi. Một số lại biện
giải rằng tu là lâu dài, trong rất nhiều a tăng kỳ kiếp, vậy bây giờ phải tích luỹ
các phước báo để tương lai có hoàn cảnh tốt đẹp hơn để tiếp tục tu hành. Biện
giải như vậy là biện giải cho Tham Dục, do Vô minh và Tham ái mà phát sinh,
biện giải đó dẫn con người đi xa khỏi sự học hỏi và tu tập để đoạn trừ Tham Dục
ngay bây giờ và tại đây, ngay trong kiếp sống này. Khi tái sinh vào một kiếp
sống mới, cái biện giải ấy đã được huân tập vững chắc ở kiếp trước lại tiếp tục
vận hành, và cứ như thế mãi trong các kiếp tương lai, và sự học hỏi, tu tập để
đoạn trừ Tham Dục chỉ là tư duy, chỉ là lý luận suông, không bao giờ xảy ra
trong hiện tại. Vì thế mà phát sinh nhận thức, phải tu trong ba, bốn a tăng kỳ
kiếp và nếu tu bằng lý luận suông như vậy thì tu vĩnh viễn cũng không có kết
quả chứ nói gì đến ba, bốn a tăng kỳ.

Về mục lục
Bài 053: TỪ BI

Từ bi là lòng thương cảm của bậc Thánh đối với chúng sinh đang đắm chìm
trong đau khổ vì Vô Minh và Tham Ái. Đối với kẻ Phàm phu, nhiều người cũng
có lòng thương cảm đối với chúng sanh đang ở trong những hoàn cảnh đớn đau,
tuyệt vọng, tồi tệ nhưng đó không phải là Từ Bi. Vậy thì có gì khác nhau trong
Thương Cảm của bậc Thánh và Phàm phu?

Thương cảm của bậc Thánh được gọi là Từ Bi phát sinh trên lộ trình tâm Bát
Chánh Đạo siêu thế, cụ thể là do Ý thức Chánh Tri Kiến hiểu biết như thật về
Khổ Tập Diệt Đạo. Đó là Khổ bao gồm Hoại Khổ, Khổ Khổ, Hành Khổ và
Nguyên nhân Khổ là Vô Minh và Tham Ái thuộc về Nội Tâm phát sinh trên lộ
trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu chứ không phải nơi Ngoại Cảnh.

Ý thức Chánh Tri Kiến như vậy sẽ phát sinh lòng Thương Cảm đối với tất cả
chúng sinh không phân biệt giàu nghèo, gái trai, ngu trí, sang hèn, chủng tộc,
tôn giáo, vì tất cả không trừ một ai đều đang đau khổ (ngoại trừ các bậc Thánh).

Ý thức Chánh Tri Kiến là sự thấu đạt Vô Ngã, nên Thương Cảm như vậy không
có một cái Ta, một Bản Ngã nào là chủ nhân, chủ sở hữu của Thương Cảm. Đối
tượng của Thương Cảm là Vô Minh và Tham Ái của chúng sanh chứ không
phải Thương Cảm hoàn cảnh nghèo khó, tồi tệ, tuyệt vọng của chúng sanh.

Thương Cảm của bậc Thánh như vậy, sẽ phát sinh sự giúp đỡ chúng sinh Học,
Hiểu và Thực Hành Bát Chánh Đạo để đoạn trừ Vô Minh và Tham Ái chứ
không phải giúp cho chúng sinh từ nghèo thành giàu, từ khó khăn sang thuận
lợi, giúp cho chúng sanh thay đổi Hoàn Cảnh sống.

Thương Cảm của Phàm phu phát sinh trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo, cụ thể là do
Ý thức Tà Tri Kiến, hiểu biết sai lạc về Khổ Tập Diệt Đạo. Đó là Khổ, Nguyên
nhân Khổ, Sự chấm dứt Khổ đều thuộc về ngoại cảnh, thuộc về Hoàn cảnh sống
và Con đường chấm dứt Khổ là thay đổi Cảnh, thay đổi Hoàn cảnh sống.
Thương Cảm đó có một cái Ta, một Bản Ngã là chủ nhân, chủ sở hữu Của hành
vi Thương Cảm. Ý thức Tà Tri Kiến so sánh Ta (Bản Ngã) với đối tượng và
hiểu biết Ta hơn, Ta kém hoặc Ta bằng và Thương Cảm chỉ phát sinh khi biết
Ta hơn đối tượng. Thương Cảm không bao giờ phát sinh đối với đối tượng hơn
Ta: hoàn cảnh tốt đẹp hơn Ta, giàu có hơn Ta, thành đạt hơn Ta... Đối tượng
của Thương Cảm là hoàn cảnh khó khăn, nghèo đói, tuyệt vọng, đau thương
của chúng sinh chứ không phải là Thương Cảm sự Vô minh và Tham ái của
chúng sanh. Chính vì vậy mà Thương Cảm của phàm phu hướng đến giúp đỡ
chúng sinh thay đổi Hoàn Cảnh sống. Có thể hành vi giúp đỡ chúng sinh thay
đổi Hoàn Cảnh sống như vậy, xoa dịu tạm thời nỗi khổ, nhưng nó chỉ thay thế
nỗi khổ này bằng nỗi khổ khác mà thôi, không Chấm Dứt được Khổ, vì Nguyên
nhân Khổ là Vô Minh và Tham Ái thuộc Nội Tâm chứ không phải là Hoàn cảnh
khó khăn.

Từ Bi thuộc về bậc Thánh, Từ Bi không có nơi Phàm phu. Từ Bi không do tu


tập mà có, Từ Bi là sản phẩm có mặt trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế
của bậc Thánh do Trí tuệ phát sinh. Ý thức Chánh Tri Kiến là hiểu biết đúng
như thật về Khổ Tập Diệt Đạo thì sẽ phát sinh Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng, biểu hiện của Từ Bi, là sự tử tế, bi mẫn của bậc Thánh. Chính vì
điều này mà trong Ba Mươi Bảy chi phần của đạo bao gồm: Tứ niệm xứ, Tứ
chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo, Đức
Phật không có dạy tu tập Từ Bi. Tu tập Bát Chánh Đạo thì sẽ có được sản phẩm
Từ Bi. Nếu tu tập Từ Bi theo cách rải tâm từ đến muôn loài chúng sinh, là đang
thực hành theo tư tưởng có một chủ thể, một cái Ta, một Bản Ngã đang rải tâm
từ đến muôn loài chúng sinh đang đau khổ. Tư tưởng đó chính là Ý thức Tà Tri
Kiến: Ta hơn muôn loài chúng sinh đang đau khổ. Đây là điều rất vi tế, khó
thấy, khó biết và thực hành như vậy là đang vun bồi một "Đại Ngã".

Trong Phật giáo thường nói: Từ Bi và Trí Tuệ nhưng nếu theo ngữ pháp Tiếng
Việt phải nói là Trí Tuệ và Từ Bi để người nghe hiểu được Trí Tuệ phát sinh Từ
Bi, Trí Tuệ là Nhân, Từ Bi là Quả. Để tránh ngôn ngữ Hán Việt, để người bình
dân dễ tiếp thu và để Đạo Phật nhập thế, một số người lại chủ trương thay thế từ
Trí Tuệ và Từ Bi bằng từ Hiểu và Thương. Ngôn ngữ là phương tiện truyền
thông, được con người chế định, giúp cho con người giao tiếp với nhau, hiểu
được sự vật, hiện tượng mà ngôn ngữ chỉ bày. Vì vậy từ Hiểu và Thương thuộc
về giao tiếp thế gian, được thế gian chế định nội dung, nên khi nghe đến Hiểu
và Thương thì người nghe đã mặc định nội dung. Từ Hiểu được mọi người quan
niệm là hiểu biết của nhân loại và đương nhiên là hiểu Khổ Tập Diệt Đạo ở nơi
Ngoại Cảnh, Hiểu này là Vô minh, là "thấy sợi dây lại tưởng là con rắn", vì vậy
Thương phát sinh do Hiểu như vậy là Luyến ái, thuộc về Phàm phu chứ không
phải là Trí Tuệ và Từ Bi của bậc Thánh. Các thay đổi ngôn từ như vậy làm cho
người tu học hiểu sai nội dung khái niệm Trí Tuệ, Từ Bi mà Đức Phật đã dày
công chế định và các thế hệ trước đã cố gắng giữ gìn.

Về mục lục

Bài 054: BỘC LƯU

Trong Tương Ưng Bộ Kinh, chương một - Tương Ưng Chư Thiên có đề cập tới
Bộc Lưu như sau:

I: Bộc Lưu (S.I,1)

"Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Thắng Lâm), tại vườn ông
Anàthapindika (Cấp Cô Ðộc).

Rồi một vị Thiên, khi đêm đã gần tàn, với nhan sắc thù thắng chói sáng toàn
vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên.
Ðứng một bên, vị Thiên ấy bạch Thế Tôn:
-- Thưa Tôn giả, làm sao Ngài vượt khỏi bộc lưu?

-- Này Hiền giả, không đứng lại, không bước tới, Ta vượt khỏi bộc lưu.

-- Thưa Tôn giả, làm sao không đứng lại, không bước tới, Ngài vượt khỏi bộc
lưu?

-- Này Hiền giả, khi Ta đứng lại, thời Ta chìm xuống. Này Hiền giả, khi Ta bước
tới, thời Ta trôi giạt; do vậy, này Hiền giả, không đứng lại, không bước tới, Ta
vượt khỏi bộc lưu..."

Bộc lưu là dòng thác lũ nhấn chìm và cuốn trôi mọi thứ trên đường đi của nó.
Bộc Lưu nói đến trong đoạn kinh này là dòng thác lũ Tham Sân Si đang nhận
chìm và cuốn trôi kẻ Phàm phu. Đương nhiên đang bị nhận chìm, đang bị cuốn
trôi, đang bị đuối nước như vậy thì kẻ Phàm phu vô cùng đau khổ và muốn
thoát ra khỏi Bộc Lưu, muốn lên bờ để được an toàn, để hết khổ. Trước khi
thành đạo, Thái tử Tất Đạt Đa cũng bị nhấn chìm và cuốn trôi trong bộc lưu
Tham Sân Si đó, nhưng rồi Ngài đã vượt khỏi bộc lưu. Đức Phật đã vượt khỏi
Bộc Lưu và đã qua được bờ bên kia bằng cách nào ? Bằng cách: Không đứng
lại, Không bước tới. Nhưng tại sao Không đứng lại, Không bước tới mà lại
vượt khỏi bộc lưu? Đức Phật đã giải thích: Đứng lại thời chìm xuống, Bước
tới thời trôi giạt. Nhưng đứng lại thời chìm xuống, bước tới thời bị trôi giạt ám
chỉ điều gì?

Đứng lại thời chìm xuống là ám chỉ cho Tham và Sân trong thực tại thế gian.
Nghĩa là Phàm phu khi đối diện đối tượng Dễ chịu thì thích thú (Tham), đối
tượng Khó chịu thì chán ghét (Sân), do Tham Sân mà bị cuốn hút vào các đối
tượng đó. Đó gọi là đắm chìm trong hiên tại, là bị chìm xuống bộc lưu. Khi đối
diện đối tượng Trung tính (không dễ chịu không khó chịu) thì không thích
không ghét mà phát sinh hành vi tìm kiếm đối tượng Dễ chịu để thay thế đối
tượng Trung tính gọi là Si. Si sẽ tác ý phát sinh lộ trình tâm truy tìm trong quá
khứ hoặc ước vọng ở tương lai để tìm kiếm đối tượng Dễ chịu trong quá khứ
hoặc tương lai nhằm thay thế đối tượng Trung tính trong hiện tại nên bị cuốn
trôi vào quá khứ hoặc tương lai. Đó gọi là bị trôi dạt theo bộc lưu.

Đức Phật đã đoạn tận Tham và Sân nên không còn đắm chìm trong hiện tại,
không còn chìm xuống bộc lưu nên gọi là Không đứng lại. Ngài đã đoạn tận Si
nên không còn truy tìm quá khứ, không còn ước vọng tương lai, không bị bộc
lưu cuốn trôi nên gọi là Không bước tới. Đoạn tận Tham, đoạn tận Sân, đoạn
tận Si thì Bộc Lưu đã CẠN KIỆT và ngay tại đó là THẬT ĐỊA, ngay tại đó là
bờ đâu còn phải bước tới hay đứng lại. Chính vì thế mà Ngài tuyên bố: Không
đứng lại, không bước tới, Ta vượt khỏi bộc lưu.

Chính vì vậy: Giải Thoát, Khổ Diệt hay Niết Bàn mà Đức Thế Tôn khéo giảng
là NGAY BÂY GIỜ VÀ TẠI ĐÂY chứ không phải là một cảnh giới, một tương
lai nào khác. Tại nơi nào mà Tham Sân Si được đoạn tận thì ngay tại đó lập tức
Tuệ Tri Niết Bàn chứ không mất một khoảng thời gian để qua bờ bên kia nào
nữa.

Về mục lục

Bài 055: TỪ BỎ CÁC PHƯỚC BÁO

"Ngồi một bên, Bà la môn Bhikkhaka bạch Thế Tôn:

- Thưa Tôn giả Gotama, con là người khất thực và Tôn giả cũng là người
khất thực. Vậy có sự sai khác gì giữa chúng ta?

Thế Tôn:

Không phải ai xin ăn

Cũng gọi là khất sĩ

Nếu chấp trì độc pháp


Không xứng gọi tỷ kheo

Ai sống ở đời này

Từ bỏ các phước báo

Đoạn trừ mọi ác pháp

Hành trì theo phạm hạnh

Sống đời sống chánh trí

Vị ấy xứng “tỷ kheo”.

(Trích Tương Ưng Bộ kinh tập 1, Chương 7, Tương Ưng Bà la môn, X.


Bhikkhaka (S.i.182)

Vậy để xứng đáng với danh xưng Tỷ kheo, xứng đáng là đệ tử của Đức Thế
Tôn, để có thể lớn mạnh, chói sáng trong Pháp và Luật của Như Lai phải có bốn
yếu tố:

- Thứ nhất là từ bỏ các phước báo.

- Thứ nhì là đoạn trừ mọi ác pháp.

- Thứ ba hành trì theo phạm hạnh.

- Thứ tư sống nếp sống chánh trí.

Yếu tố đầu tiên, từ bỏ các phước báo là điều sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch
tịnh, mỹ diệu, vượt qua mọi tư duy lý luận suông, tế nhị, chỉ người trí mới có
khả năng giác hiểu. Vì sao vậy? Vì quần chúng này từ vô thủy đã Mặc Định,
chỉ khi nào có đầy đủ Hạnh phúc, lúc đó Khổ mới chấm dứt. Chính vì nhận
thức, CHỈ CÓ HẠNH PHÚC MỚI CHẤM DỨT ĐƯỢC KHỔ chi phối đời
sống, nên kẻ Phàm phu trong từng giây phút một, từng tháng năm một, suốt
trong cả cuộc đời khao khát tìm cầu Hạnh phúc, phước báo chỗ này chỗ kia
như Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái. Không những Phàm phu đang khao khát tìm
cầu hạnh phúc, phước báo chỗ này chỗ kia để chấm dứt khổ mà đa phần người
tu học trong Phật giáo cũng đang tìm cầu hạnh phúc để chấm dứt khổ, tuy đó
không phải là thứ hạnh phúc tầm thường, giả tạm của thế gian mà là thứ hạnh
phúc chân thật tuyệt đối, vĩnh cữu của Niết bàn. Vì vậy, đa phần người tại gia
cho đến xuất gia mở mồm là phước báo, ai ai cũng đang giảng nói, ca tụng,
vinh danh, đề cao phước báo, khuyến khích, hướng dẫn để thành tựu các
phước báo, với hy vọng tương lai sẽ hưởng thụ Hạnh phúc do phước báo
mang lại. Tất cả đang bị cái nhận thức vô minh (chỉ có hạnh phúc mới chấm
dứt được khổ) che đậy nên không ai quan sát được sự thật trần trụi đang được
phơi bày: Tìm cầu hạnh phúc, phước báo để chấm dứt khổ là liều thuốc giảm
đau, chỉ đổi cái khổ này lấy cái khổ khác mà thôi, không bao giờ chấm dứt
được khổ.

Nhận thức của Phàm phu, chỉ khi có hạnh phúc đầy đủ, Khổ mới chấm dứt cũng
đồng nghĩa với nhận thức, Nguyên nhân Khổ là do thiếu hạnh phúc, do thiếu
phước báo trong đời trước, nên để Chấm dứt Khổ phải tìm cầu cho đầy đủ hạnh
phúc, cho đầy đủ phước báo trong đời này thì tương lai đời sau có đầy đủ hạnh
phúc, phước báo, lúc đó sẽ Chấm dứt Khổ.

Sự thật Nguyên nhân Khổ mà Đức Phật đã chứng ngộ và thuyết giảng là Tham
Sân Si chứ không phải Khổ là do thiếu hạnh phúc, thiếu phước báo. Vì vậy, để
Chấm dứt Khổ, Đoạn tận Khổ phải Chấm dứt Tham Sân Si, Đoạn tận Tham
Sân Si. Và Con đường để Chấm dứt Tham Sân Si, Đoạn tận Tham Sân Si là Bát
Chánh Đạo với Chánh niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định - Chánh tư duy -
Chánh kiến - Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng. Đoạn tận Tham Sân Si
thì Khổ sẽ chấm dứt chứ không phải có đầy đủ hạnh phúc, phước báo Khổ mới
chấm dứt. Chính vì sự thật này, nên để là đệ tử của Đức Thế Tôn, để sáng chói
trong Pháp và Luật của Như Lai phải từ bỏ các phước báo, nghĩa là từ bỏ Tham
ái hạnh phúc, phước báo, từ bỏ tìm cầu hạnh phúc, phước báo chỗ này chỗ kia
như Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái. Điều này sẽ đưa đến đoạn tận Dục ái, Hữu ái,
Phi Hữu ái, đoạn tận Nguyên nhân Khổ. Và khi Nguyên nhân Khổ được đoạn
tận thì Khổ được đoạn tận.

Về mục lục

Bài 056: ĐOẠN TẬN BA ÁI

Trong bài Kinh Chuyển Pháp Luân, Đức Phật đã giảng dạy, Nguyên nhân Khổ
là: Khát ái, tìm cầu Hạnh phúc (hỷ lạc) chỗ này chỗ kia như Dục ái, Hữu ái, Phi
Hữu ái. Để chấm dứt được Khổ phải đoạn trừ, đoạn tận được BA ÁI này, tức
Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái. Và để đoạn trừ, đoạn tận BA ÁI, phải HIỂU BIẾT
ĐÚNG NHƯ THẬT BA ÁI hay Giác Ngộ BA ÁI. Nhưng trước tiên phải khẳng
định rằng, Tham ái là Tham ái HẠNH PHÚC. Vì vậy, CHẤM DỨT KHỔ là
chấm dứt THAM ÁI HẠNH PHÚC chứ không phải CHẤM DỨT HẠNH
PHÚC.

1 - DỤC ÁI: Là tham ái Hạnh phúc do Sắc đẹp, Tiếng hay, Hương thơm, Vị
ngon, Xúc chạm êm ái khởi lên. Vì tham ái Hạnh phúc do năm Dục như vậy
khởi lên, nên tìm kiếm Dục lạc (Hạnh phúc) chỗ này chỗ kia. Vì vậy mà lao
tâm khổ trí và sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên. Vì tham ái Dục lạc mà cha tranh
đoạt với con, vợ chồng tranh đoạt nhau, hàng xóm tranh đoạt nhau, dòng họ
tranh đoạt nhau, quốc gia tranh đoạt nhau. Vì tham ái Dục lạc mà có sát sanh,
trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu và các ác, bất thiện pháp khác. Vì tham ái
Dục lạc mà có biết bao lừa đảo, cướp bóc, phá sản, tàn sát, tàn hại lẫn nhau. Vì
tham ái Dục lạc mà loài người sáng chế biết bao loại vũ khí tối tân hiện đại, kể
cả bom nguyên tử để tàn sát nhau. Vì tham ái Dục lạc mà nhân loại phát minh
ra biết bao các loại thuốc kích thích, tăng trưởng để tự mình đầu độc mình. Vì
tham ái Dục lạc mà người ta phát minh ra ma tuý để buôn bán và tàn hại nhau.
Vì tham ái Dục lạc mà có biết bao cô hoa hậu, người mẫu bán dâm. Vì tham ái
Dục lạc mà có những đứa con trai giao cấu với mẹ đẻ của mình, có ông bố hiếp
dâm cả đứa con đẻ sáu tuổi của mình. Dục lạc thế gian là Phàm phu lạc, ô uế
lạc, bất tịnh lạc và Tham ái dục lạc đưa đến tìm cầu Dục lạc là Nguyên nhân
phát sinh những nỗi đau khổ, những nỗi thống khổ, những thảm hoạ của thế
gian này. Tham ái Dục lạc cũng phát sinh sự nắm giữ Hạnh phúc (Thủ) nhưng
vì Hạnh phúc chỉ là các CẢM THỌ (Cảm giác), do Căn Trần tiếp xúc mà phát
sinh, nó vô thường, biến hoại, biến diệt nên khi nó mất đi, sẽ phát sinh sầu bi
khổ ưu não.

Dục Lạc hay Hạnh phúc, được chia làm hai loại: Hạnh phúc vật chất (Lợi) và
Hạnh phúc tinh thần (Danh). Nhân loại ràng buộc mãnh liệt và bị chi phối mãnh
liệt vào Hạnh phúc vật chất là một điều rõ ràng mà ai cũng có thể nhận rõ. Bản
năng này giống nhau ở cả loài người và loài thú tuy mức độ có khác nhau.

Nhưng Hạnh phúc tinh thần, vi tế và cao siêu hơn Hạnh phúc vật chất lại ràng
buộc và chi phối loài người cao gấp nhiều lần Hạnh phúc vật chất. Và chính vì
vậy, Tham ái Hạnh phúc tinh thần lại gây ra những khổ đau gấp bội. Ví như một
người ăn mày đói lả được dọn cho một mâm cơm ngon lành nhưng người chủ
mâm cơm tung ra những lời miệt thị, chửi rủ , đay nghiến, sỉ nhục nặng nề, thì
chắc rằng người ăn mày không thể ngồi ăn với cách đối xử như vậy. Nhân loại
coi trọng Hạnh phúc tinh thần hơn Hạnh phúc vật chất, thể hiện ở chỗ tuy ở
trong nhà một mình mặt mũi nhem nhuốc, áo quần bẩn thỉu, sao cũng được
nhưng nếu phải ra đường thì phải rửa mặt mũi sạch sẽ, áo quần tươm tất. Rất ít
người tự tử vì nghèo khó, thiếu tiện nghi, mất tài sản mà rất nhiều người tự tử vì
thất tình, vì bị nghi oan, vì mất danh tiếng, vì nhục nhã khi bị phá sản. Con
người khi sống với các vật nuôi thì ít khi xảy ra xung đột nhưng khi sống trong
gia đình, giữa con người với nhau thì xung đột thường xuyên xảy ra bởi đời
sống tinh thần hơn thua, phải trái... Người nông dân sống nơi thôn làng hẻo
lánh, đời sống tinh thần của họ giản đơn nên nỗi khổ tinh thần của họ ít hơn hẳn
nỗi khổ của những ca sĩ, diễn viên, nhà văn, nhà thơ thành đạt, những người nổi
tiếng. Từ bỏ tham ái Hạnh phúc vật chất (Lợi) là một điều rất khó, mà từ bỏ
tham ái Hạnh phúc tinh thần (Danh) là điều khó khăn gấp bội. Nhiều người tu
không hiểu rõ sự thật này nên chủ trương từ bỏ Hạnh phúc vật chất mà phấn đấu
để đạt đến, để hưởng thụ một đời sống tinh thần thanh cao, để tận hưởng Hạnh
phúc trong giây phút hiện tại với trời xanh mây trắng, gió hát thông reo, với
những lý tưởng cao đẹp của cuộc đời. Làm vậy chỉ là đề cao bản ngã, ràng buộc
vào lý tưởng, vào danh tiếng, ràng buộc vào Hạnh phúc tinh thần và nỗi khổ
phát sinh còn khốc liệt hơn nhiều.

Trong tác phẩm Tiếu Ngạo Giang Hồ, nhà văn Kim Dung đã đưa ra cảnh báo
này qua ẩn dụ về Nhạc Bất Quần. Để đạt được mục đích là nhân vật số một,
thống lãnh thế giới giang hồ, đứng đầu Ngũ Nhạc, Nhạc Bất Quần đã tự thiến
mình để có đủ điều kiện luyện tập một môn võ Tịch tà kiếm phổ bí truyền vì với
môn võ bí truyền đó mới có thể đứng đầu Ngũ Nhạc. Hành động tự thiến là từ
bỏ, hy sinh cuộc sống vật chất nhưng là để phục vụ một mưu đồ đen tối, để đạt
đến Hạnh phúc tinh thần.

Tham ái Hạnh phúc vật chất và tinh thần (Lợi và Danh), tức Tham ái Dục lạc
gọi là DỤC ÁI là Nguyên nhân Khổ. Chấm dứt DỤC ÁI là Chấm dứt Khổ. Con
đường để chấm dứt Dục Ái, Chấm dứt Khổ là Bát Chánh Đạo. Trong Bát Chánh
Đạo có Chánh Định và trong Chánh Định có hỷ lạc của Sơ thiền, Nhị thiền, lạc
của Tam thiền và hiện tại lạc trú của Tứ thiền. Bậc Thánh hữu học và vô học an
trú Bát Chánh Đạo siêu thế, có được hỷ lạc của Chánh Định là Thánh lạc,
Chánh giác lạc, An tịnh lạc thì Chấm dứt Tham ái Dục lạc, chấm dứt tham ái
Phàm phu lạc, ô uế lạc, bất tịnh lạc.

2 - HỮU ÁI: Là tham ái sự sống, sự hiện hữu. Trong hiểu biết vô minh của
Phàm phu, sự sống là mầu nhiệm, là cao cả, là sản phẩm tuyệt vời của tạo hoá.
Sống là Hạnh phúc, sống là khám phá và tận hưởng hạnh phúc của thế giới mầu
nhiệm. Chết là chấm hết, là mất tất cả, là đau khổ, là một khoảng tối bí hiểm,
đầy đe dọa, khủng khiếp, đầy sợ hãi. Chính vì bị chi phối bởi hiểu biết vô
minh, không đúng sự thật như vậy mà nhân loại khao khát sống, mong muốn
sống, bám víu sự sống. Đây là tham ái sự sống, sự hiện hữu mà thuật ngữ Phật
học Hán Việt gọi là HỮU ÁI. Những thông tin Hữu ái này đã được lưu giữ
trong kho chứa ADN từ vô thuỷ và nó đều được tăng cường qua các kiếp sống.
Khi con người khoẻ mạnh, lượng thông tin Hữu ái ở yên trong kho chứa nhưng
khi có những nhân tố bên ngoài xuất hiện như bệnh tật, hấp hối... vv thì Niệm
(trí nhớ) sẽ kích hoạt các thông tin đó lên, làm phát sinh nỗi đau khổ vì sợ chết.

Chính sự khao khát sống, mong muốn sống, bám víu sự sống (Hữu Ái) làm
phát sinh nỗi sợ chết kinh hoàng là nguyên nhân đưa đến tái sanh, làm phát
sanh Thức Tái Sanh lúc chết, mà thực chất là một Hoá Sanh, tiếp tục luân hồi
sanh tử, tiếp tục nỗi khổ của Hoá Sanh và nỗi khổ của Sinh Già Bệnh Chết.
DỤC ÁI chi phối mãnh liệt đời sống nhân loại, là nguyên nhân phát sinh nỗi
thống khổ của con người nhưng HỮU ÁI còn chi phối mãnh liệt hơn, là nguyên
nhân phát sinh nỗi thống khổ còn mãnh liệt hơn nhiều. Ví như một người có tài
sản 5 tỉ đô la mà họ suốt đời lao tâm khổ trí để tích góp và họ ràng buộc mãnh
liệt đối với khối tài sản đó. Nhưng nếu họ đến bác sĩ, sau khi đã làm các xét
nghiệm đầy đủ, với mọi số liệu chính xác, bác sĩ kết luận, anh ta chỉ còn sống
tối đa một tháng nữa thôi thì chắc chắn rằng, nếu có một sự mầu nhiệm nào đó
mà anh ta hết bệnh, sống mạnh khoẻ như xưa thì anh ta sẵn sàng đánh đổi 5 tỉ
đô la kia để đổi lấy sự sống. Những người Duy vật cực đoan tin rằng chết là hết,
chết không có gì đáng sợ, nhưng chính những người này lại sợ hãi, đau khổ vô
cùng tận khi giáp mặt cái chết. Nguyên nhân nỗi khổ của con người là Tham ái,
do tham ái mà Nắm giữ nên khổ vì Sợ Mất và khổ khi bị Mất. Mất cái gì? Mất
Lợi, mất Danh, mất Sự Sống. Người Duy vật cực đoan khi trong đời sống, mất
Lợi Danh đã rất đau khổ thì khi giáp mặt với cái chết, mất tất cả lợi danh, thân
xác, sự sống, mất cả thế giới mầu nhiệm này, mất con mắt, mất cả trời xanh
mây trắng để nhìn... còn lại một khoảng tối đen ngòm không hề biết là cái gì...
Tất cả những cái đó sẽ làm phát sinh nỗi sợ hãi vô cùng tận, nó lớn lao gấp
nhiều lần so với người tin rằng TA vẫn còn tái sinh trong đời sau. Cho dù tin
rằng chết là hết, nhưng những người đó khi chết vẫn phát sanh Thức Tái Sanh
vì HỮU ÁI là nguyên nhân của tái sanh đang chi phối họ.

HỮU ÁI là nguyên nhân phát sinh nỗi khổ kinh hoàng khi nghĩ tưởng về cái
chết và khi giáp mặt thật sự với cái chết. Không chỉ có vậy, chính HỮU ÁI là
nguyên nhân phát sinh Thức Tái Sinh, thực chất là Hoá Sanh phải lãnh chịu nỗi
thống khổ mà kinh nghiệm của đời sống thế gian khó hình dung ra được một
cách đầy đủ. Cho dù là cảnh giới chư thiên vẫn còn bị tham ái Dục lạc chi phối
nên vẫn thích ghét, vui buồn... vẫn khao khát ăn uống, tình dục... nhưng Hoá
sanh không hề được thỏa mãn cho dù một chút xúi, vì tất cả chỉ là "cảnh ảo",
giống như nhìn thấy trên màn hình ti vi mà không ăn được, không cầm nắm
được, không sử dụng được. Do HỮU ÁI mà sau khi Danh Sắc của Hoá Sanh
diệt lại phát sinh một Danh Sắc khác là trứng sinh hay thai sanh tiếp tục luân
hồi sanh tử, tiếp tục nỗi khổ Sinh Già Bệnh Chết, nỗi khổ của Luân hồi tái sanh.

Chấm dứt Hữu Ái chính là Chấm dứt Khổ. Con đường chấm dứt Hữu Ái là Bát
Chánh Đạo. Chi phần đóng vai trò chính để chấm dứt Hữu Ái là Chánh Kiến,
còn được gọi là Trí Tuệ, là Minh. Trong một bản Kinh, Đức Phật đã dạy: Ai
thấy tư tưởng sanh y khởi lên mà đoạn diệt chậm chạp, Ta nói người đó vẫn
ràng buộc với sanh y. Ai thấy tư tưởng sanh y khởi lên, đoạn diệt nhanh chóng
ví như một cái chảo đã nung nóng đỏ, nhỏ một vài giọt nước thì "xèo" thành hơi
ngay, Ta nói người này vẫn còn ràng buộc bởi sanh y. Và Ngài dạy rằng: Ai
thấy biết như thật, SANH Y LÀ KHỔ, người ấy trở thành VÔ SANH Y. Trí tuệ
thấy biết như thật SANH Y LÀ KHỔ chính là giác ngộ Khổ đế và Tập đế, thấy
biết như thật CHẤM DỨT SANH Y là CHẤM DỨT KHỔ là giác ngộ Diệt đế
và Đạo đế. Thấy biết như thật Sanh Y Là Khổ, còn hiện hữu là còn khổ, còn tái
sanh là còn khổ, cho đến một vị A La Hán đã chấm dứt Khổ do Tham ái nhưng
đang còn tuổi thọ, đang còn hiện hữu thì vẫn còn cảm nhận một số cảm giác
khó chịu (Khổ thọ) do Nội và Ngoại xúc trần phát sinh. Đó là cái khổ còn dư
sót (Hữu dư Niết bàn) tuy rất ít ỏi ví như đất trên đầu móng tay so với đất trên
quả đất (ví cho khổ do tham ái đã diệt) và chỉ khi Nhập diệt, Danh Sắc của vị đó
diệt, không còn phát sinh một Danh Sắc nào nữa, KHÔNG CÒN HIỆN HỮU
thì lúc đó mới Khổ diệt hoàn toàn, mới Vô dư Niết bàn. Điều này có thể hình
dung ra với ví dụ sau: Ai cũng đã từng kinh nghiệm một ngày nào đó, tràn đầy
hạnh phúc, rất ít đau khổ phiền nhiễu từ sáng cho đến 10 giờ đêm. Nhưng sau
đó từ 10 giờ đêm cho đến 6 giờ sáng hôm sau, ngủ một giấc say, không mộng
mị. Rõ ràng khách quan mà xem xét thì thời gian từ 10 giờ đêm đến 6 giờ sáng
"tuyệt hơn" rất nhiều thời gian từ sáng đến 10 giờ đêm, tuy rất nhiều hạnh phúc
nhưng vẫn còn phiền nhiễu, còn phải ăn, đại tiện, tiểu tiện, vẫn phải chịu đựng
mệt mỏi, nóng lạnh... Thời gian từ sáng đến 10 giờ đêm là HIỆN HỮU có vui
có khổ, thời gian từ 10 giờ đêm tới sáng là KHÔNG HIỆN HỮU là không có gì
cả, không có khổ lẫn vui. Nếu một người ngủ say không mộng mị như vậy mãi
mãi thì cũng chấm dứt tất cả mọi lo toan, sợ hãi, toan tính, ràng buộc, chấm dứt
cả hạnh phúc cũng như đau khổ, chấm dứt cả dòng luân hồi sinh tử. Một vị A
La Hán nhập diệt hình dung cũng y như vậy, như một giấc ngủ say không mộng
mị, vĩnh viễn, không còn đời sau, không còn hiện hữu với bất cứ hình thức nào,
bất cứ nơi chốn nào.

Đa phần người tu học Phật chỉ mới nhận thức DỤC ÁI là Nguyên nhân Khổ, rất
ít người nhận thức được HỮU ÁI là nguyên nhân phát sinh khổ khốc liệt hơn rất
nhiều. Đoạn trừ DỤC ÁI chưa có thể chấm dứt được luân hồi tái sinh, chỉ đoạn
trừ HỮU ÁI mới chấm dứt luân hồi tái sinh. Trong Pháp Cú có đoạn:

"Sau khi giết mẹ cha.


Giết hai vua Sát ly.

Giết dân chúng quần thần.

Vô ưu Phạm chí sống".

Ẩn dụ của câu đầu là Cha và Mẹ sinh ra chúng sinh trong dòng luân hồi sinh tử
chính là VÔ MINH và HỮU ÁI và vị A La Hán, là vị đã đoạn trừ VÔ MINH và
HỮU ÁI, đồng nghĩa với giết mẹ cha. Vì chưa thấy biết như thật HỮU ÁI nên
các chú giải đã găm vào đầu óc đa số người tu là phải tu nhiều đời nhiều kiếp
nữa, và vì vậy đa phần người tu đang chăm bẵm, đang nuôi dưỡng cho cái
MẦM TÁI SANH bụ bẫm, tràn đầy sinh lực cho đời sau. Ví như, chủ trương
giữ giới không sát sinh để bảo vệ sự sống của chúng sanh, để đời sau sinh ra
được khoẻ mạnh, không bệnh tật, được trường thọ, được phước báu hạnh phúc
trong tương lai thực chất phát sinh từ DỤC ÁI và HỮU ÁI do hiểu biết nguyên
nhân khổ là do ngoại cảnh, do thiếu phước chứ không thấy biết được lời dạy của
Phật, Dục ái và Hữu ái là Nguyên nhân Khổ. Người trí thấy biết như thật còn
sanh y là còn khổ thì sẽ "lông tóc dựng ngược" và sẽ nhất hướng nhàm chán
sanh y, sẽ chỉ còn một tâm niệm duy nhất là phấn đấu nỗ lực để đây là kiếp sống
cuối cùng, không còn tái sinh lại nữa. Sự nhất hướng đó sẽ cắt đứt MẦM TÁI
SINH ngay trong hiện tại này.

3 - PHI HỮU ÁI: Là tham ái sự hiện hữu không có thân xác, hiện hữu trong
một cảnh giới tâm linh với phúc lạc toàn vẹn, pháp hỷ sung mãn, hạnh phúc
tuyệt đối. Đây là cảnh giới lý tưởng của mọi tôn giáo và là đích đến của cả một
quá trình tu hành dài dặc, gian khổ. Đối với Bà-la-môn giáo thì giải thoát là khi
nào hoà nhập linh hồn gọi là Tiểu ngã vào Đại ngã. Đối với tôn giáo đặt nền
móng trên Cựu ước thì đó là lúc linh hồn hiện hữu ở Thiên đường cực lạc hay
Nước Chúa. Đối với Kỳ-na giáo thì linh hồn được giải thoát tự do tự tại hoàn
toàn không còn bị bó buộc trong thân xác. Trong Phật giáo cũng có nhiều cá
nhân, nhiều tông phái hiểu Vô Dư Niết bàn là nơi Hạnh phúc tuyệt đối, là phúc
lạc toàn vẹn, pháp hỷ sung mãn, là một Trạng Thái Tâm, Niết bàn là Thường
Lạc Ngã Tịnh hay Thường Lạc Vô ngã Tịnh, Niết bàn là Chân Không Diệu
Hữu... và vì vậy hiểu rằng khi một vị A La Hán nhập Niết Bàn Vô Dư là tâm
thức thanh tịnh nhập vào Niết bàn. Những hiểu biết về Niết Bàn như vậy đã
hàm chứa một SỰ HIỆN HỮU không còn thân xác, mục đích là để tận hưởng
Hạnh phúc tuyệt đối của Niết bàn. Nhưng vì Phật giáo phủ nhận sự tồn tại của
linh hồn hay tâm thức không sinh không diệt, nên tuy công nhận một sự hiện
hữu không thân xác như vậy, nhưng cụ thể cái hiện hữu ở Niết bàn là cái gì thì
các tông phái tránh né bằng "bất khả tư nghì" hoặc tuy Chân Không mà Diệu
Hữu. Những hiểu biết vô minh như vậy xuất phát từ Tham ái hiện hữu không có
thân xác, nên không thể chấp nhận sự nhập diệt của vị A La Hán như dầu hết
đèn tắt, không còn đi về đâu, không còn hiện hữu ở bất kỳ đâu, bất kỳ hình thức
nào, giống như ngủ một giấc say không mộng mị vĩnh viễn. Hiểu biết vô minh
do tham ái hiện hữu không bao giờ chấp nhận một vị A LA HÁN CHẾT LÀ
HẾT, họ sẽ nguỵ biện rằng tu hành gian khổ như vậy suốt bao a tăng kỳ kiếp để
rồi chết là hết thì tu để làm gì. Chỉ những ai đã thành tựu Trí Tuệ Giác Ngộ Tứ
thánh Đế đã thấy biết như thật, CÒN SANH Y LÀ CÒN KHỔ, đã đoạn tận
DỤC ÁI, HỮU ÁI, PHI HỮU ÁI mới có thể bình thản chấp nhận tu để cuối
cùng đạt được CHẾT LÀ HẾT, không còn tái sinh, không còn hiện hữu có thân
xác hay không có thân xác.

HỮU ÁI tuy chi phối đời sống nhân loại mãnh liệt hơn DỤC ÁI nhưng PHI
HỮU ÁI còn chi phối mãnh liệt hơn HỮU ÁI. Những người Hồi giáo cực đoạn
thích thú mãnh liệt linh hồn sẽ được hiện hữu ở thiên đường cực lạc nếu "tử vì
đạo" nên họ sẵn sàng ôm bom tự sát, không hề sợ hãi đối với cái chết. Các đạo
sĩ loã thể Ấn độ xưa và nay do tham ái hiện hữu trong Đại Linh hồn (Đại ngã)
nên Phi Hữu ái đè nén được Dục ái và Hữu ái, họ không hướng đến hạnh phúc
thế gian (Dục ái) và mạng sống (Hữu ái).
Phi Hữu ái vẫn là tham ái sự hiện hữu nên khi chết lộ trình tâm khởi lên, tha
thiết hướng đến HIỆN HỮU thế giới tâm linh cực lạc ấy và vì vậy phát sinh
Thức Tái Sinh là một Hoá Sanh. Hoá Sanh có thể tồn tại một thời gian rất dài và
vẫn phải chịu mọi nỗi thống khổ của Hoá Sanh và khi nghiệp đó cạn kiệt thì lại
vào Thai sanh hoặc Trứng sanh, trở lui cuộc đời này với nỗi khổ của Sinh Già
Bệnh Chết. Trong kinh Pháp Môn Căn Bản đã nói rõ, kẻ Phàm phu không Liễu
Tri Niết bàn nên Dục hỷ Niết bàn và đó là Căn bản của Khổ. Nghĩa là kẻ Phàm
phu không hiểu biết đúng như thật Niết bàn mà cho rằng Niết bàn là thường lạc
ngã tịnh, Niết bàn là hạnh phúc tuyệt đối nên tham ái, tìm cầu hạnh phúc tuyệt
đối của Niết bàn gọi là Dục hỷ Niết bàn. Dục hỷ Niết bàn là tên gọi khác của
Phi Hữu ái.

Chấm dứt PHI HỮU ÁI là CHẤM DỨT KHỔ. Con đường chấm dứt Phi Hữu
ái, Chấm dứt Khổ là Bát Chánh Đạo. Chi phần chính có khả năng chấm dứt Phi
Hữu ái là Chánh Kiến. Chánh Kiến hay Trí Tuệ đạt được do Văn, do Tư và do
Tu. Khi Trí Tuệ ở cấp độ thứ ba, do Tu đã viên mãn thì CHÁNH TRÍ khởi lên,
vị ấy biết: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong,
không còn trở lui trạng thái này nữa. CHÁNH TRÍ khởi lên mới đoạn tận PHI
HỮU ÁI và đây cũng là thời điểm đạt thành đạo quả A La Hán.

Về mục lục

Bài 057: GIẢI THOÁT LÀ NHƯ THẾ NÀO

Câu trả lời nằm trong bài kệ thuộc Trường Bộ Kinh:

"Bậc Thánh bỏ gia đình

Du hành không trú xứ.

Với dân chúng trong làng,

Không tác thành hệ lụy


Tuyệt không các dục vọng,

Không mơ ước hão huyền,

Chấm dứt mọi tranh luận

Với bất kỳ một ai."

Bài kệ này nói về vị A la hán, người đã có Chánh Trí: “Sanh đã tận, phạm hạnh
đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lui đời này nữa”. Bài kệ
này phải được hiểu theo hai khía cạnh nghĩa đen và nghĩa bóng. Nghĩa đen nói
về dáng vẻ bên ngoài và nghĩa bóng nói về nội tâm của vị đó.

*Bậc Thánh bỏ gia đình.

*Du hành không trú xứ.

Nghĩa là bậc Thánh đã từ bỏ tài sản lớn, tài sản nhỏ, từ bỏ bà con lớn, bà con
nhỏ, từ bỏ gia đình lớn, gia đình nhỏ, xuất gia sống không gia đình. Vị ấy đi từ
nơi này qua nơi khác, xin ăn để nuôi mạng, xin tấm y để che thân. Vị ấy ngủ nơi
gốc cây, nơi đền miếu… dáng vẻ bề ngoài của vị ấy giống như một kẻ hành
khất không tài sản, không gia đình, không thân thích, tứ cố vô thân, đi từ nơi
này qua nơi khác xin miếng cơm để ăn, xin manh áo để mặc. Dáng vẻ bề ngoài
của bậc Thánh cũng giống như dáng vẻ bề ngoài của kẻ hành khất tứ cố vô thân.
Nhưng nghĩa bóng của hai câu này chính là nội tâm của bậc Thánh, là nội dung
quan trọng cần phải khảo sát. Gia đình mà bậc Thánh đã từ bỏ không chỉ là gia
đình theo nghĩa thế gian mà gia đình bậc Thánh đã từ bỏ chính là Năm Thủ
Uẩn. Đối với kẻ phàm phu chấp thủ một cái Ta, Bản ngã không sinh không diệt,
là chủ nhân, chủ sở hữu của sắc, thọ, tưởng, hành, thức làm khởi lên năm thủ
uẩn. Kẻ phàm phu đang sống với năm thủ uẩn: Ta thấy, Ta nghe, Ta ngửi, Ta
nếm, Ta xúc chạm, Ta nhận thức, Ta đau, Ta ngứa, Ta nói, Ta làm, Ta đau khổ,
Ta hạnh phúc… Đây là vọng tưởng và đây thực sự là gia đình của kẻ phàm phu
với nghĩa sâu xa nhất. “Năm thủ uẩn là Khổ” và kẻ phàm phu đang sống với
Năm thủ uẩn, sống với Khổ. Đối với Năm Thủ Uẩn, bậc Thánh đã đoạn tận,
đoạn trừ, đoạn ly, đoạn xả cũng có nghĩa là bậc Thánh đã đoạn tận, đoạn trừ,
đoạn ly, đoạn xả Khổ. Đó là bậc Thánh bỏ gia đình.

*Du hành không trú xứ.

Nghĩa là bậc Thánh đã đoạn trừ tham dục nên không còn thích thú, không còn
dính mắc, không còn ràng buộc với bất kỳ xứ nào như Sắc xứ, Thanh xứ,
Hương xứ, Vị xứ, Xúc xứ, Pháp xứ, Nhãn xứ, Nhĩ xứ, Tỉ xứ, Thiệt xứ,Thân xứ,
Ý xứ.

*Với dân chúng trong làng.

*Không tác thành hệ lụy.

Nghĩa là đối với đệ tử hay với các thí chủ, không xa lánh lạnh nhạt nhưng cũng
không thân mật gần gũi, khi có công việc liên quan thì không ràng buộc mình
vào công việc đó.

*Tuyệt không các dục vọng.

*Không mơ ước hão huyền.

Nghĩa là đối với niềm vui, hạnh phúc, lạc thú do sắc đẹp, tiếng hay, hương
thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái khởi lên, chư vị không có thích thú, không có
thèm muốn dục lạc ấy vì chư vị đã đoạn tận tham. Đối với những đối tượng khó
chịu, chư vị không khởi lên chống đối vì đã đoạn tận sân. Không mơ ước hão
huyền nghĩa là không truy tìm niềm vui, hạnh phúc trong quá khứ, không ước
vọng niềm vui, hạnh phúc trong tương lai vì chư vị đã đoạn tận Si. Phần lớn sự
an trú của các vị A la hán là an trú tâm biết Tỉnh giác hay còn gọi là Không
tánh, đây là cái biết trực tiếp không tri thức, khái niệm, ngôn từ. Cụ thể là tâm
biết nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, tưởng thức được tách
bạch ra khỏi tâm biết ý thức nhờ Chánh niệm, Chánh tinh tấn, Chánh định. Với
tâm biết Không tánh này thì không có khái niệm quá khứ, hiện tại, vị lai, không
có gì ở phía trước, không có cái gì ở phía sau, không có tương lai nào hiện hữu,
không có đời này, không có đời sau, không có khoảng giữa hai đời.

*Chấm dứt mọi tranh luận.

*Với bất kỳ một ai.

Nhân loại luôn luôn ở trong sự tranh luận Đúng và Sai. Đúng và Sai được hiểu
là đúng hay sai với sự thật nhưng khái niệm đúng và sai mà con người đang
dùng để tranh luận là kinh nghiệm cá nhân, nó tùy thuộc vào kho “tri thức hiểu
biết” của mỗi người đã được học hỏi và tích lũy trong quá khứ. Nhưng mọi tri
thức hiểu biết này lại nhuộm màu Thường kiến và Ngã kiến nên nó là cái hiểu
biết không đúng sự thật gọi là Vô Minh, là vọng tưởng, là Tà kiến. Bậc Thánh
có Chánh kiến, là hiểu biết đúng như thật thực tại gọi là Minh, là Trí tuệ sẽ
không tranh luận với bất kỳ một ai trên đời. Một trong những pháp sâu kín,
khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt qua những tư duy lý luận suông
chỉ có người Trí mới có khả năng nhận hiểu. Đó là định lý Duyên Khởi mà bậc
Thánh đã giác ngộ. Ví như khi có một viên đường tiếp xúc với lưỡi (một
người khỏe mạnh) ai cũng cảm nhận được vị ngọt cho dù là Phàm hay Thánh.
Cảm nhận vị ngọt là tâm biết trực tiếp gọi là Thiệt thức, Phàm Thánh đều như
nhau. Nhưng hiểu biết về vị ngọt (tâm biết ý thức) thì phàm thánh lại khác
nhau.

- Cảm nhận vị ngọt rồi kẻ phàm phu khởi lên cái biết ý thức, hiểu biết vị ngọt
là vật chất, sẵn có trong viên đường (thường trú trong viên đường), vị ngọt là
của viên đường. Đó là vô minh, là Tà kiến.

- Bậc Thánh quán sát nơi sự thật: có viên đường và lưỡi, tức có đủ hai nhân
nhưng chưa có sự tiếp xúc thì chưa có vị ngọt nào phát sinh cả. Khi viên
đường tiếp xúc với lưỡi thì lập tức phát sinh cảm giác vị ngọt. Cảm giác vị
ngọt do duyên xúc mà phát sinh nên gọi là pháp Duyên khởi và nó là tâm chứ
không phải vật. Xúc sinh cảm giác sinh, xúc diệt cảm giác diệt. Cảm giác vị
ngọt sinh lên rồi diệt đi, không sẵn có nơi viên đường, không thường hằng,
không thường trú nơi viên đường nên nó Vô thường. Cảm giác vị ngọt không
phải của lưỡi, không phải của viên đường nên nó Vô chủ, vô sở hữu (Vô
ngã). Đó là minh, là Chánh kiến. Bậc Thánh giác ngộ lý Duyên khởi, biết
như thật cảm giác vị ngọt đó là Tâm (không phải vật), nó vô thường, nó vô
chủ, vô sở hữu (vô ngã) và bậc Thánh cũng biết như thật rằng: hiểu biết vị
ngọt nằm trong đường, vị ngọt là của đường, vị ngọt là vật chất là thường
kiến và ngã kiến, là vô minh vọng tưởng. Khi đã tuệ tri như vậy bậc Thánh sẽ
không có phân vân, lưỡng lự, không có nghi ngờ, do dự về sự thật duyên
khởi, nên vị ấy sẽ không khởi lên tranh luận với thế gian, không khởi lên
tranh luận: nóng không nằm trong lửa, lạnh không nằm trong nước đá, ngọt
không nằm trong đường, mặn không nằm trong muối, ngon, dở không nằm
trong thức ăn v.v… bởi vị ấy biết rõ rằng: tuy những điều này là sự thật,
nhưng cái hiểu biết vô minh vọng tưởng của nhân loại sẽ cho rằng người nói
như vậy chắc là bị điên. Điều này đã được Đức Thế Tôn nói rõ trong Kinh
Mật Hoàn: Pháp mà Ta thuyết giảng không tranh luận một ai ở đời.

Về mục lục

Bài 058: A LA HÁN

Trong Kinh Pháp Cú có Pháp cú 294 là bài kệ 4 câu như sau:

"Sau khi giết mẹ cha

Giết hai vua Sát lỵ

Giết dân chúng quần thần

Vô ưu Phạm Chí sống"


Phạm Chí là người tu hành và vô ưu Phạm Chí sống là để chỉ cho một người tu
hành đã đoạn trừ phiền não mà trong Phật Giáo gọi là một vị A La Hán. Vậy
theo nghĩa đen của bài kệ này, để trở thành một vị A La Hán phải hoàn thành 3
việc: Giết mẹ cha; Giết hai vua; Giết dân chúng quần thần. Nếu hiểu bài kệ theo
nghĩa đen thì không thể chấp nhận được vì nó trái với tinh thần của Phật Giáo là
không sát sinh. Vậy bài kệ này phải hiểu theo nghĩa bóng, và là cách thức
truyền đạt tư tưởng của người Ấn Độ, để người trí suy tư và ghi nhớ sâu sắc
hơn về Giáo Pháp. Và nghĩa bóng, nghĩa ẩn dụ của 3 hành động giết đó là:

1 - Giết mẹ cha: Cha và mẹ sinh ra kẻ Phàm phu đang sống trong vòng luân hồi
sinh tử vô cùng tận, không có ngày kết thúc chính là Vô Minh và Hữu Ái. Bậc
Thánh A La Hán đã đoạn tận Khổ, đã đoạn tận luân hồi sinh tử, đây là đời sống
cuối cùng, sau kiếp sống này không còn bị sinh ra, không còn hiện hữu bất kỳ
chỗ nào với bất kỳ hình thức nào. Vì vậy, để đạt thành A La Hán phải đoạn trừ
Vô Minh và Hữu Ái. Vô minh và Hữu ái chính là cha mẹ sinh ra Phàm phu, nên
một vị A La Hán đã đoạn trừ Vô minh và Hữu ái nên gọi đó là giết mẹ cha.

2 - Giết hai vua: Phàm phu sống với tư tưởng Thường Kiến (còn gọi là Chấp
Có, hay Duy Vật) và Đoạn Kiến (còn gọi là Chấp Không, hay Duy Tâm).
Chính Thường Kiến và Đoạn Kiến như hai ông vua cai trị thế giới tâm thức,
chi phối mọi hoạt động tâm thức của Phàm phu. Bậc Thánh A La Hán đã đoạn
trừ cả Thường Kiến và Đoạn Kiến nên gọi là Giết hai vua Sát lỵ.

- Giết dân chúng quần thần: Thực tại thế gian của Phàm phu là Năm Thủ Uẩn,
nghĩa là Phàm phu sống với tư tưởng sai lạc (vô minh, chấp ngã) chấp thủ một cái
Ta, một bản ngã không sinh, không diệt, đồng nhất, là chủ nhân, chủ sở hữu của
Sắc Thọ Tưởng Hành Thức. Tư tưởng sai lạc đó chính là Năm Thủ Uẩn, và Năm
Thủ Uẩn là Khổ. Bậc Thánh A La Hán đã chấm dứt tư tưởng Chấp Ngã, nghĩa là
đã đoạn trừ, đoạn ly, đoạn xả Năm Thủ Uẩn, nên đã đoạn tận Khổ, đó gọi là Giết
dân chúng quần thần. Vậy thì, để trở thành một vị A La Hán phải đoạn trừ, đoạn
ly, đoạn diệt, đoạn tận ba điều:

- Một là VÔ MINH và HỮU ÁI.

- Hai là TƯ TƯỞNG THƯỜNG KIẾN và ĐOẠN KIẾN hay còn gọi là Tư


tưởng Chấp Có và Chấp Không, Tư Tưởng Chấp Thường và Chấp Đoạn,
Tư tưởng Duy Vật và Duy Tâm.

- Ba là TƯ TƯỞNG CHẤP NGÃ cũng tức là NĂM THỦ UẨN.

Về mục lục

Bài 059: BẬC THẤU THỊ

Bậc Thấu Thị là Bậc Nhìn Thấu, bậc Thấu Suốt. Chỉ có Đức Phật Chánh Đẳng
Giác và các vị A La Hán, đệ tử Thanh Văn của Ngài là các bậc thấu thị. Nhưng
các Bậc Giác Ngộ đó đã THẤU THỊ những gì?

Chư vị Giác Ngộ đó đã Thấu Thị TẤT CẢ PHÁP như thấy rõ quả xoài trong
lòng bàn tay với công thức Tứ Thánh Đế:

- Thấu Rõ NỘI DUNG PHÁP ĐÓ

- Thấu Rõ TẬP KHỞI PHÁP ĐÓ

- Thấu Rõ ĐOẠN DIỆT PHÁP ĐÓ

- Thấu Rõ CON ĐƯỜNG ĐOẠN DIỆT PHÁP ĐÓ

Có thể kể ra các pháp quan trọng nhất mà các bậc Giác Ngộ đã thấu thị:

1. - Một là, các Ngài đã THẤU THỊ, đã NHÌN THẤU Thực Tại của mỗi một
chúng sanh dù là Phàm hay Thánh KHÔNG PHẢI LÀ THẾ GIỚI ngoại
cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp MÀ LÀ SÁU CẢM THỌ do Sáu Căn
và Sáu Trần DUYÊN KHỞI lên. Thực Tại CẢM THỌ đó có tự tánh
DUYÊN KHỞI, VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ, CÓ VỊ NGỌT, CÓ SỰ NGUY
HIỂM, CÓ SỰ XUẤT LY.
2. - Hai là, các Ngài đã THẤU THỊ, đã NHÌN THẤU các pháp thuộc về NỘI
TÂM như Niệm, Tư Duy, Ý Thức, Dục, Định, Tinh Tấn, Tác Ý, Lời Nói,
Hành Động, Sầu Bi Khổ Ưu Não. Trong đó Niệm có hai loại Tà Niệm và
Chánh Niệm; Tư Duy có hai loại Tà Tư Duy và Chánh Tư Duy; Ý Thức có
hai loại Tà Tri Kiến (Vô Minh) và Chánh Tri Kiến (Minh); Tinh Tấn có hai
loại Tà Tinh Tấn và Chánh Tinh Tấn; Định của hai loại Tà Định và Chánh
Định; Tác Ý có hai loại Phi Như Lý Tác Ý và Như Lý Tác Ý; Lời nói, Hành
động có hai loại Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng và Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng. Ví như: NHÌN THẤU nội dung Tà niệm, NHÌN THẤU tập
khởi (nguyên nhân) Tà Niệm, NHÌN THẤU đoạn diệt của Tà Niệm, NHÌN
THẤU con đường đoạn diệt Tà Niệm (Bát Chánh Đạo). NHÌN THẤU nội
dung Chánh Niệm, NHÌN THẤU tập khởi (nguyên nhân) Chánh Niệm,
NHÌN THẤU đoạn diệt Chánh Niệm (Vô Dư Niết Bàn), NHÌN THẤU con
đường đoạn diệt Chánh Niệm (Bát Chánh Đạo đưa đến Vô Dư Niết Bàn).
Đối với các pháp khác cũng NHÌN THẤU như vậy.

3. Ba là, nhờ THẤU THỊ thực tại Cảm thọ và các pháp thuộc Nội tâm nên các
Ngài đã THẤU THỊ lộ trình Duyên Khởi lên BÁT TÀ ĐẠO thuộc về Phàm
phu có KHỔ ĐẾ và TẬP ĐẾ: XÚC - Thọ - Tưởng - TÀ NIỆM - TÀ TƯ
DUY - TÀ TRI KIẾN - Tham Sân Si - TÀ ĐỊNH - Dục - TÀ TINH TẤN -
Phi Như lý tác ý - TÀ (Ngữ, Nghiệp, Mạng) - Sầu Bi Khổ Ưu Não. Nói
gọn lại là: XÚC - THỌ - ÁI - THỦ - HỮU.

THẤU THỊ lộ trình Duyên Khởi lên BÁT CHÁNH ĐẠO thuộc bậc Thánh
có KHỔ DIỆT và CON ĐƯỜNG KHỔ DIỆT (DIỆT ĐẾ và ĐẠO ĐẾ):
XÚC - Thọ - Tưởng - CHÁNH NIỆM - CHÁNH TINH TẤN - CHÁNH
ĐỊNH - (Tỉnh Giác) - CHÁNH TƯ DUY - CHÁNH TRI KIẾN - Như Lý tác
ý - CHÁNH (Ngữ, Nghiệp, Mạng). Nói gọn lại là: XÚC - THỌ - KHÔNG -
VÔ TƯỚNG - VÔ TÁC.
Về mục lục

Bài 060: CÓ PHẬT THẬT KHÔNG?

Đối với người Phật tử, câu hỏi này được xem là tà kiến, là của ngoại đạo, là sự
phỉ báng đối với Đạo Phật. Và câu trả lời của họ là một khẳng định: Đức Phật là
một con người có thật, đã được sinh ra, đã giác ngộ và đã nhập diệt tại Ấn Độ
cách nay hơn 2600 năm trước. Câu trả lời đã được MẶC ĐỊNH như vậy và hầu
như không có người nào có ý định phản biện lại điều đã được mặc định này.
Tuy nhiên cần phải suy xét cẩn thận, kỹ càng và cần có câu trả lời hợp lý, chính
xác cho câu hỏi: có Phật thật không (hay chỉ là truyền thuyết).

Vậy có chứng cớ gì đầy đủ và hợp lý (yếu tố CẦN VÀ ĐỦ) để khẳng định Đức
Phật là có thật? Nếu lấy Kinh Điển để khẳng định Đức Phật là có thật thì trong
hai trường phái lớn của Phật Giáo là Nam Tông và Bắc Tông lại có những cứ
liệu sai khác. Bắc Tông ghi nhận Thái tử Tất Đạt Đa xuất gia khi 19 tuổi, sau 5
năm tìm đạo, 6 năm khổ hạnh rừng già thì chứng đạo vào năm 31 tuổi, thuyết
pháp 49 năm và nhập diệt vào năm 80 tuổi. Ngài sinh vào 8 tháng 4, thành đạo
vào 8 tháng 12 và nhập diệt vào (xin lỗi tôi không nhớ rõ). Nam Tông ghi nhận
Thái tử Tất Đạt Đa xuất gia năm 29 tuổi, sau một thời gian ngắn tìm đạo và 6
năm khổ hạnh rừng già thì chứng đạo vào năm 35 tuổi, thuyết pháp 45 năm và
nhập diệt năm 80 tuổi. Ngày sinh, thành đạo và nhập diệt đều là 15 tháng 4 âm
lịch. Người Phật tử Bắc Tông và Nam Tông đều chấp thủ vào cứ liệu của mình
và phủ nhận cứ liệu của người khác nhưng nếu thực sự khách quan sẽ thấy rằng
không thể dùng cứ liệu Bắc tông mà bác bỏ cứ liệu Nam tông và ngược lại
không thể dùng cứ liệu Nam tông để bác bỏ Bắc tông. Vì sao vậy? Là tại vì
không tồn tại một con người nào đã sống vào thời đó, đã chứng kiến, đã MẮT
THẤY TAI NGHE để có thể xác nhận cho cứ liệu trong kinh điển của Bắc tông
hoặc Nam tông cái nào đúng cái nào sai. Cho dù khảo cổ học đã khai quật một
số bia đá của vua A Dục được cho là ghi lại những lời dạy của Đức Phật nhưng
đó cũng chỉ là suy luận của ngày nay và đó cũng chưa phải yếu tố CẦN VÀ ĐỦ
để khẳng định có Phật thật. Kinh điển có nhắc đến, khi Đức Phật chứng đạo
Ngài đã không muốn thuyết giảng điều mà Ngài đã chứng ngộ (Pháp mà Ta
chứng được sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt qua mọi tư
duy lý luận suông, tế nhị, chỉ người trí mới có khả năng giác hiểu, còn quần
chúng này ham thích ái dục, ưa thích ái dục, bị ái dục chi phối nên rất khó lãnh
hội Pháp này...) và nhờ một vị Phạm thiên thưa thỉnh Ngài mới thuyết giảng
Pháp mà Ngài đã chứng ngộ. Không thể lấy chi tiết này để khẳng định Thái tử
Tất Đạt Đa đã giác ngộ, đã thành Phật và nhờ Phạm thiên thưa thỉnh Ngài mới
thuyết pháp cho nhân loại. Vì đây là chi tiết phi lý, vì rằng Phạm thiên cũng chỉ
là một kẻ Phàm phu như bao Phàm phu khác, chưa hề biết Giác Ngộ là như thế
nào thì sao có thể biết đó là Phật, biết đó là bậc đã giác ngộ mà thưa thỉnh
thuyết pháp. Trong kinh điển có nói đến Xá Lợi Phất, một vị A La Hán được
cho là Đại trí tuệ cũng không biết được tâm Phật huống nữa là Phàm phu như
Phạm thiên. Tại thời điểm mà Thái tử Tất Đạt Đa thành bậc Chánh Đẳng Giác
thì tất cả chư thiên và loài người đều là Phàm phu, vậy không có ai có thể biết
được Thái tử đã Chánh Đẳng Giác và nếu giả sử Ngài tuyên bố Ta đã thành
Phật thì liệu Phàm phu có tin không, có chấp nhận không, và có ai có đủ tư cách
pháp nhân để công nhận Ngài đã thành Phật không? Vậy thì kinh điển, các tư
liệu mà bộ môn lịch sử ghi chép lại, các công trình được khảo cổ học khai
quật... chưa phải là yếu tố Cần và Đủ để khẳng định có Phật thật. Vậy thì đối
với người Phật tử đang tu học, câu trả lời hợp lý cho câu hỏi có Phật thật hay
chỉ là truyền thuyết phải là:

TÔI TIN CÓ PHẬT THẬT. (Nhấn mạnh là Tôi Tin chứ không phải Tôi Khẳng
Định Có).

Câu trả lời Tôi tin có Phật lại chia ra hai trường hợp: Tôi tin với Chánh Kiến
tức Chánh tín và Tôi tin với Tà Kiến tức Mê tín. Người tin có Phật với Mê tín
thì xem Phật là thần linh tối thượng, giáo chủ cõi ta bà, điều khiển cả vũ trụ
này, thưởng phạt người làm thiện, làm ác, Phật chứng cho lòng thành của ta,
chứng cho mọi việc thiện, việc tu hành của ta, phù hộ ta trong cuộc sống...
Người tin có Phật thật với Chánh tín là sau khi được nghe giảng hoặc nghiên
cứu kinh điển có được HIỂU BIẾT ĐÚNG NHƯ THẬT (Văn Tuệ) về Lý
Duyên Khởi mà từ đó HIỂU BIẾT ĐÚNG NHƯ THẬT tất cả các Danh pháp
và Sắc pháp đều Vô thường, Vô chủ vô sở hữu (Vô ngã), HIỂU BIẾT ĐÚNG
NHƯ THẬT về Khổ, Nguyên Nhân Khổ, Khổ Diệt và Con Đường Khổ Diệt.
Sau khi có Văn Tuệ, người đó tiếp tục Tư Duy (Tư Tuệ) về điều đã học và đối
chiếu với những sự thật cuộc đời đang xảy ra và thấy ra rằng: nhân loại cũng có
hiểu biết về Danh và Sắc, về Khổ Tập Diệt Đạo nhưng hoàn toàn sai với sự thật,
trái ngược với Giáo pháp mà Đức Thế Tôn đã chứng ngộ và thuyết giảng.
Người đó thấy quả thật là Giáo Pháp thậm thâm vi diệu, chỉ người trí mới có
khả năng giác hiểu và phát sinh Đức tin chân chánh đối với Giáo Pháp. Khi đã
có Chánh tín về Giáo Pháp người đó cũng suy tư và kết luận, người nói ra Giáo
Pháp này phải là một bậc kỳ diệu, một con người đã giác ngộ. Do vậy, Chánh
tín khởi lên, tin rằng có Phật thật, là vị đã thuyết giảng Giáo Pháp thậm thâm vi
diệu này.

Vậy có Phật thật hay không? Có Phật thật chứ không phải truyền thuyết tạo
dựng lên. Nhưng khẳng định có Phật thật chỉ xảy ra đối với một người đã Giác
Ngộ và theo thuật ngữ Phật học gọi là một vị A La Hán. Chỉ có vị A La Hán
mới là người có tư cách pháp nhân khẳng định có Phật thật. Từ Đức tin có Phật
thật đến BIẾT NHƯ THẬT, khẳng định có Phật thật là một quá trình thực hành
và nó chỉ dành cho người trí chứ không phải cho tất cả mọi người. Đó là người
đã có Văn Tuệ và Tư Tuệ đầy đủ mới có thể thực hành Bát Chánh Đạo. Vậy
phải tu tập Bát Chánh Đạo cho đến mức độ như thế nào thì mới khẳng định
được có Phật thật?
- Cho dù vị hữu học đó thực hành Chánh Niệm về Thân Thọ Tâm Pháp và an trú
Chánh Niệm - Tỉnh giác trong mọi tư thế đi đứng nằm ngồi... và nhờ vậy mà an
trú Tâm Giải Thoát gần suốt cả thời gian của ngày đêm nhưng vẫn chưa thể
khẳng định có Phật thật.

- Cho dù vị đó an trú Chánh Định một cách không khó khăn, một cách không
mệt nhọc, nghĩa là “tuỳ theo ý muốn, vị đó ly dục, ly bất thiện pháp chứng và
trú sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh với chú tâm có tầm có tứ.
Diệt
chú tâm có tầm có tứ chứng và trú nhị thiền, một trạng thái hỷ lạc do định sanh,
với chú tâm không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, thân cảm lạc
thọ, chánh niệm tỉnh giác, chứng và trú tam thiền. Xả lạc xả khổ, diệt trừ hỷ ưu,
chứng và trú tứ thiền, tâm thanh tịnh nhờ xả” thì vẫn chưa thể khẳng định có Phật
thật.

- Nhờ có Chánh Niệm và Chánh Định như vậy, Chánh Kiến sẽ khởi lên nơi vị ấy,
nên khi Thấy, Nghe, Cảm Nhận những đối tượng của thực tại, Trí Tuệ sẽ BIẾT
NHƯ THẬT, các đối tượng đó là các “CẢM THỌ (Cảm Giác) do Căn Trần tiếp
xúc mà phát sanh, nó vô thường, vô chủ vô sở hữu (vô ngã), có vị ngọt, sự nguy
hiểm và sự xuất ly”. (Nói theo cách khác là Biết Như Thật Khổ, Nguyên Nhân
Khổ, Khổ Diệt và Con Đường Khổ Diệt). Nhờ Chánh Kiến như vậy, vị ấy an trú
phần lớn thời gian trong ngày với Tuệ Giải Thoát, tuy vậy vẫn chưa thể khẳng
định có Phật thật.

Cho đến thời điểm mà cả ba chi phần quan trọng, cốt lõi của Bát Chánh Đạo là
CHÁNH NIỆM - CHÁNH ĐỊNH - CHÁNH KIẾN (gọi tắt là NIỆM - ĐỊNH -
TUỆ) được phát triển, được tu tập cho đến viên mãn thì một sự “đột chuyển thẳm
sâu trong tâm thức” xảy ra, cụ thể là lượng thông tin MINH sẽ xoá bỏ thông tin
VÔ MINH trong kho chứa hay trong “bộ nhớ” của tâm thức. Lúc đó CHÁNH TRÍ
sẽ khởi lên, vị ấy tự mình biết đúng sự thật: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành,
những việc cần làm đã làm xong, không còn trở lại thế gian này nữa”. Cho đến lúc
đó vị ấy mới tự thấy tự biết, mới khẳng định có Phật thật. Vì sao vậy? Vì tại thời
điểm đột chuyển đó, không cần một thầy tổ hay vị Phật nào giúp đỡ hay xác nhận,
vị đó tự mình thấy, tự mình biết như thật về Vô Thường, về Khổ, về Vô Ngã, về
Niết Bàn (Khổ Diệt). Với tâm của mình, khi vị đó hướng đến một pháp nào cho dù
pháp đó có tinh xảo, vi tế đến đâu thì vị đó vẫn Tuệ Tri nó một cách dễ dàng. Ngay
nơi lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của mình vị đó Tuệ Tri “Không, Vô Tướng, Vô
Tác”, Tuệ Tri “Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn, Ngũ Lực,
Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo”, Tuệ Tri “ Diệt Đế và Đạo Đế”, vị đó biết rõ các
pháp đó như biết rõ quả xoài trong lòng bàn tay. Chỉ đối với người đã thân chứng
như vậy mới khẳng định Khổ Diệt hay Niết Bàn là có thật, Tứ Thánh Đế là có thật
và đương nhiên khẳng định: Người thuyết giảng được Giáo Pháp vi diệu mà theo
đó ta đã thực hành và thân chứng được Tứ Thánh Đế phải là một bậc Chánh Đẳng
Giác và do đó khẳng định, sự hiện hữu của bậc Chánh Đẳng Giác, của vị Phật
Toàn Giác hơn 2600 năm trước tại Ấn Độ là có thật, không phải là truyền thuyết
tạo dựng lên.

Về mục lục

Bài 061: TỰ MÌNH NƯƠNG TỰA CHÍNH MÌNH

Một trong những Phật ngôn quan trọng mà người tu phải ghi nhớ: "Hãy tự mình
là ngọn đèn, tự mình là hải đảo, tự mình nương tựa nơi chính mình, nương tựa
nơi Chánh Pháp, đừng nương tựa một gì khác". Nhưng còn quan trọng hơn là
Phật ngôn kèm theo: "Và thế nào là TỰ MÌNH NƯƠNG TỰA NƠI CHÍNH
MÌNH, NƯƠNG TỰA NƠI CHÁNH PHÁP KHÔNG NƯƠNG TỰA MỘT GÌ

KHÁC. Vị Tỷ kheo, sống trú quán thân nơi thân với chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh
giác để nhiếp phục tham ưu ở đời, sống trú quán thọ nơi thọ..., sống trú quán tâm
nơi tâm..., sống trú quán pháp nơi pháp, với chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác để
nhiếp phục tham ưu ở đời, là Tỷ kheo tự mình nương tựa nơi chính mình, nương
tựa nơi chánh pháp, không nương tựa một gì khác."

Với Phật ngôn này, thì khi thực hành Tứ Niệm Xứ, bao gồm Niệm Thân, Niệm
Thọ, Niệm Tâm, Niệm Pháp là tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa
một gì khác. Lúc đó Bát Chánh Đạo siêu thế khởi lên với ba yếu tố cơ bản Chánh
Niệm - Chánh Định - Chánh Tri Kiến gọi tắt là NIỆM - ĐỊNH - TUỆ, hành giả sẽ
kinh nghiệm được: không yêu thích, không chán ghét, độc lập, không ràng buộc,
giải thoát không hệ luỵ với bất kỳ đối tượng nào. Đây chính là sống không nương
tựa, không chấp trước bất kỳ một cái gì ở trên đời, kể cả Phật Pháp Tăng. Điều
này khẳng định rằng chỉ khi thực hành Tứ Niệm Xứ, lúc đó lộ trình tâm Bát
Chánh Đạo siêu thế khởi lên, thì mới có tự do, giải thoát, mới không ràng buộc
với bất kỳ một đối tượng nào. Và đây là CON ĐƯỜNG ĐỘC NHẤT đi đến Tự
Do và Giải Thoát. Điều này không chỉ là sự tu tập mà phải là một lối sống hàng
ngày, LỐI SỐNG XUẤT THẾ GIAN, lối sống TỰ MÌNH NƯƠNG TỰA CHÍNH
MÌNH, KHÔNG NƯƠNG TỰA MỘT GÌ KHÁC, và đây cũng là MỤC ĐÍCH
của giáo pháp. Hãy ghi nhớ điều này, để luôn luôn có Chánh Niệm, Nhớ Đến tự
mình nương tựa chính mình, không thể nương tựa một gì khác, không thể nương
tựa tài sản, con cái, vợ chồng, anh em, bạn bè, những giá trị vật chất, tinh thần kể
cả Phật Pháp Tăng và đặc biệt khi chết chỉ có tự mình vượt qua cái cửa ải ấy,
không có Phật Pháp Tăng nào có thể giúp mình và chỉ như vậy mới ĐOẠN TẬN
KHỔ.

Trong đời sống tôn giáo của Đạo Phật, người Phật tử phải quy y Tam Bảo, phải
nương tựa vào Phật Pháp Tăng, vậy điều này có mâu thuẫn với Phật ngôn trên
không? Để có được sự tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế với lối sống không nương
tựa bất kỳ cái gì ở trên đời, người Phật tử phải khởi đầu bằng nghe giảng hoặc
nghiên cứu kinh điển để có được hiểu biết đúng như thật về PHẬT, về PHÁP, về
TĂNG và tư duy để hiểu biết sâu sắc toàn diện về Phật Pháp Tăng. Một người trí,
sau khi VĂN và TƯ như vậy sẽ phát sinh Đức Tin và Đức Tin đó là CHÁNH
TÍN về PHẬT, về PHÁP, về TĂNG. Với Chánh Tín như vậy sẽ phát sinh nơi tự
tâm một sự QUY NGƯỠNG sâu sắc, đó chính là QUY Y TAM BẢO, cho dù có
được một vị Tăng làm lễ quy y hay không thì đó vẫn là sự quy y sâu sắc nhất.
Bản chất lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu là nương tựa và nương tựa là
Ràng Buộc, và Ràng Buộc sẽ phát sinh Phiền Não, nên Phàm phu nương tựa vào
gia đình chồng vợ con cái, nương tựa tiền bạc của cải, nương tựa vào hạnh phúc
vật chất tinh thần, nương tựa vào quá khứ vị lai, nương tựa vào lý tưởng sống,
tóm lại là nương tựa vào những gì được xem là CỦA TA, LÀ TA (Năm Thủ
Uẩn). Nương tựa TAM BẢO sẽ thay thế cho các nương tựa đó, chí ít cũng làm
giảm thiểu, cắt bỏ bớt rất nhiều sự nương tựa trước đó và do vậy Phiền Não sẽ
giảm đi. Nương tựa Tam Bảo sẽ phát sinh Tinh Tấn hướng đến tu tập Bát Chánh
Đạo siêu thế và vì vậy QUY Y TAM BẢO, nương tựa Phật Pháp Tăng do VĂN
và TƯ là bước CHUẨN BỊ, không thể thiếu để khởi lên Bát Chánh Đạo siêu thế
và nó thuộc về Bát Chánh Đạo HIỆP THẾ. Khi tu tập, Bát Chánh Đạo SIÊU THẾ
khởi lên thì nương tựa Tam Bảo không còn nữa, lúc đó không nương tựa, không
chấp trước bất kỳ một cái gì, kể cả Phật Pháp Tăng. Khi không có Chánh Niệm,
Bát Chánh Đạo siêu thế không khởi lên, thì lúc đó hành giả trở lại Bát Tà Đạo
nhưng nhờ Bát Chánh Đạo hiệp thế nên quay về nương tựa Tam Bảo. Con đường
tu học mà Phật giảng dạy đi từ Bát Chánh Đạo hiệp thế sang Bát Chánh Đạo siêu
thế, BẮT ĐẦU TỪ NƯƠNG TỰA TAM BẢO TIẾN ĐẾN KHÔNG NƯƠNG
TỰA BẤT CỨ GÌ Ở TRÊN ĐỜI. Nếu suốt đời nương tựa Tam Bảo mà không tu
tập Bát Chánh Đạo để vượt qua sự nương tựa tối thượng cuối cùng ấy thì vẫn là
Ràng Buộc, mà còn Ràng Buộc là còn Phiền Não, cho dù Ràng buộc bởi dây xích
bằng sắt hay bằng vàng ròng. Bởi nương tựa Tam Bảo, nương tựa Phật Giáo là
dựa trên tư tưởng Phật Giáo là CỦA TA, LÀ TA nên khi Phật Giáo được tôn
sùng, được ca ngợi, thấy người khác thực hành chính xác lời dạy của Phật thì
thích thú, mừng vui, ca ngợi, còn khi Phật Giáo bị phỉ báng, bị kỳ thị, thấy người
khác hiểu và thực hành sai Kinh và Luật, thấy Kinh điển bị xuyên tạc, bị làm cho
sai lạc, phạm giới cấm, làm hoen ố phẩm hạnh của Tăng thì tức tối, giận dữ, đả
kích. Vì Bát Chánh Đạo hiệp thế vẫn là lộ trình tâm Bát Tà Đạo có chấp thủ của
Ta, là Ta nên Văn Tuệ và Tư Tuệ đã được lưu giữ trong kho chứa lại là nhân
duyên khởi lên NGÃ MẠN (Ta hơn) còn lớn hơn khi chưa có nó. Vì vậy Văn
Tuệ và Tư Tuệ phải đưa đến tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế, đưa đến BÌNH
THẢN trước mọi tốt xấu, đúng sai, chánh tà, trước tám pháp thế gian, nếu không
thì nó lại là nhân duyên cho NGÃ MẠN.

Về mục lục

Bài 062: NIỆM HƠI THỞ VÔ, HƠI THỞ RA


Trong ba bản kinh chuyên về Pháp Hành thuộc Trung Bộ Kinh là Kinh Niệm
Xứ, Kinh Nhập Tức Xuất Tức Niệm và Kinh Thân Hành Niệm, phần Niệm hơi
thở, thuộc về Niệm Thân, đều giống nhau và được diễn tả như sau:

"Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là nhập tức xuất tức niệm được tu tập? Như
thế nào, làm cho sung mãn, khiến bốn niệm xứ được viên mãn? Khi nào, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thở vô dài, vị ấy biết: “Tôi thở vô dài”. Hay khi thở ra dài, vị
ấy biết “Tôi thở ra dài”. Hay thở vô ngắn, vị ấy biết: “Tôi thở vô ngắn”. Hay khi
thở ra ngắn, vị ấy biết: “Tôi thở ra ngắn”. “Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô”,
vị ấy tập. “Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “An tịnh thân hành, tôi
sẽ thở vô”, vị ấy tập. “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. Trong khi tùy
quán thân trên thân, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh
niệm để nhiếp phục tham ưu ở đời".

Đối với đoạn kinh này hay bất kỳ một bản kinh nào khác, muốn hiểu rõ đoạn
kinh truyền đạt nội dung gì, phải quan sát và tư duy trên SỰ THẬT NGỮ
CẢNH mà đoạn kinh nói đến. Vì vậy phải quan sát ngữ cảnh để hiểu, chứ không
phải phân tích, chia chẻ ngôn từ. Quan sát ngữ cảnh đoạn kinh mô tả, sẽ thấy:

1 - HÀNH VI CHÚ TÂM: Để khi thở vô dài, biết thở vô dài, khi thở ra dài biết
thở ra dài... thì phải có sự CHÚ TÂM vào đối tượng. Thông thường con người
không có chú tâm vào hơi thở nên không biết hơi thở vô ra dài ngắn đang xảy ra
như thế nào. Đoạn kinh này nói đến vị ấy tu tập nhưng phải hiểu: không phải là tu
tập THỞ VÔ, THỞ RA mà tu tập CHÚ TÂM vào các đối tượng hơi thở vô, hơi
thở ra, cảm giác toàn thân, an tịnh thân hành. Do tu tập sự CHÚ TÂM vào các đối
tượng trên mà vị ấy NHẬN BIẾT RÕ hơi thở vô hay ra, dài hay ngắn, nhận biết
rõ các Cảm giác cả toàn thân, nhận biết rõ Cảm giác trên thân đang được an tịnh.

2 - HÀNH VI CHÁNH NIỆM: Muốn có được sự CHÚ TÂM vào các đối tượng
hơi thở vô, ra, cảm giác cả toàn thân, an tịnh thân hành thì phải NHỚ ĐẾN CHÚ
TÂM thì chú tâm mới xảy ra. Nếu hơi thở khởi lên mà không NHỚ ĐẾN CHÚ
TÂM mà lại NHỚ ĐẾN CHUYỆN KHÁC thì chắc chắn Chú Tâm không xảy ra.
Vì vậy Nhớ Đến Chú Tâm khi xuất hiện các đối tượng hơi thở vô ra, cảm giác
toàn thân, an tịnh thân hành là yếu tố tiên quyết phát sinh chú tâm.

Hành vi NHỚ ĐẾN CHÚ TÂM được gọi là CHÁNH NIỆM. Có CHÁNH NIỆM
mới có CHÁNH ĐỊNH tức có chú tâm vào đối tượng, và sự thực hành là thực
hành CHÁNH NIỆM. Vì thế cho nên trong Pháp Hành, Đức Phật chỉ dạy thực
hành NIỆM bao gồm: Niệm Thân, Niệm Thọ, Niệm Tâm, Niệm Pháp, Niệm hơi
thở vô, hơi thở ra, Niệm Thân Hành (Thân hành Niệm). Tại sao thực hành Bát
Chánh Đạo lại chỉ thực hành Chánh Niệm. Bởi vì trong Duyên khởi lên Bát
Chánh Đạo đã thấy rõ: Nếu Chánh Niệm khởi lên thì toàn bộ lộ trình Bát Chánh
Đạo siêu thế sẽ tự động khởi lên theo Định luật duyên khởi.

3 - ĐỐI TƯỢNG CHÚ TÂM: Trong đoạn kinh này nói đối tượng chú tâm là hơi
thở và Cảm giác cả toàn thân, an tịnh thân hành nhưng phải hiểu đối tượng chú
tâm là CẢM GIÁC hay CẢM THỌ chứ không phải là hơi thở vô, ra. Vì sự thật
xảy ra là chỉ có thể chú tâm trên những đối tượng được THẤY, được NGHE,
được CẢM NHẬN một cách TRỰC TIẾP còn những đối tượng Không được
Thấy, Không được Nghe, Không được Cảm nhận trực tiếp, mà chỉ biết nó GIÁN
TIẾP qua suy luận thì không thể chú tâm. Mà những đối tượng được THẤY,
được NGHE, được CẢM NHẬN là CẢM GIÁC hay CẢM THỌ chứ không phải
SẮC PHÁP, còn hơi thở là luồng không khí chuyển động là Sắc pháp, không thể
biết trực tiếp, mà chỉ có thể biết qua suy luận là có nó chứ không thể Thấy, Nghe,
Cảm nhận trực tiếp luồng không khí. Ví như luồng gió tiếp xúc với thân thể phát
sinh CẢM GIÁC MÁT LẠNH đồng thời phát sinh THÂN THỨC. Lúc này
THÂN THỨC nhận biết hay cảm nhận TRỰC TIẾP CẢM GIÁC MÁT LẠNH
chứ THÂN THỨC không cảm nhận được luồng gió. Qua cảm nhận Cảm giác mát
lạnh của Thân thức, ý thức khởi lên do tư duy, suy luận biết GIÁN TIẾP có luồng
gió thổi. Và như vậy, chỉ có thể chú tâm vào Cảm giác mát lạnh và nhờ chú tâm
mới cảm nhận rõ ràng CẢM GIÁC MÁT LẠNH, chứ không thể chú tâm vào
luồng không khí, không thể cảm nhận trực tiếp luồng không khí. Cũng y như vậy,
hơi thở là luồng không khí tiếp xúc với thân phát sinh Cảm giác thở vô, Cảm giác
thở ra và Thân thức cảm nhận trực tiếp các Cảm giác ấy. Vì vậy chú tâm vào Cảm
giác thở vô, Cảm giác thở ra và nhờ chú tâm mà biết rõ cảm giác thở vô dài hay
cảm giác thở ra dài, cảm giác thở vô ngắn hay cảm giác thở ra ngắn, chứ không
thể nào chú tâm vào hơi thở vô, ra, không thể nào biết trực tiếp hơi thở vô hay ra,
dài hay ngắn. Và vì vậy BIẾT THÂN là biết CÁC CẢM GIÁC NƠI THÂN do
THÂN THỨC là cái biết trực tiếp giác quan, BIẾT TRỰC TIẾP các CẢM GIÁC
trên thân do NGOẠI XÚC hoặc NỘI XÚC gây ra chứ không phải biết THÂN
THỂ SẮC PHÁP. Đây là những pháp rất vi tế, sâu kín, khó thấy, khó biết vì sự
thật này trái với hiểu biết nhân loại. Nhân loại dựa trên Vô Minh Tâm biết Cảnh
nên các đối tượng được Thấy, Nghe, Cảm nhận là Sắc pháp là Sắc Thanh Hương
Vị Xúc trần, vì vậy đối tượng chú tâm là hơi thở là Sắc pháp. Đức Phật giác Ngộ
sau khi Tuệ Tri sáu xúc xứ nên Kinh Phạm Võng đã tuyên bố là Ngài Giác ngộ
CẢM THỌ chứ không phải Giác ngộ Thế giới Sắc pháp. Trong Tiểu Kinh Đoạn
Tận Ái cũng đã khẳng định tu tập với đối tượng là Cảm thọ. "Do biết rốt ráo tất cả
pháp, cho nên bất kỳ một CẢM THỌ nào khởi lên, Lạc thọ, Khổ thọ, Bất khổ bất
lạc thọ, vị ấy sống quán tánh vô thường, quán tánh ly tham, quán tánh đoạn diêt,
quán tánh xả ly nơi CẢM THỌ ĐÓ". Trong đoạn kinh này ngụ ý chú tâm vào hơi
thở vô, hơi thở ra để biết rõ hơi thở vô hay ra, dài hay ngắn là sai lạc, và sự sai lạc
này do đâu, do truyền khẩu, do người sau hiểu sai rồi sửa cho đúng ý mình... điều
đó không cần phải phân giải, điều cần làm là quán sát SÁU XÚC XỨ để thấy ra
ĐỐI TƯỢNG CHÚ TÂM LÀ CẢM THỌ, HAY "CẢM GIÁC HƠI THỞ VÔ
RA" CHỨ KHÔNG PHẢI "HƠI THỞ VÔ RA".

4 - MỤC ĐÍCH TU TẬP NIỆM HƠI THỞ VÔ HƠI THỞ RA: Trong đoạn
kinh này đã nói rõ mục đích của sự tu tập qua câu: "Trong khi tuỳ quán thân nơi
thân, này các Tỷ kheo, vị Tỷ kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để
NHIẾP PHỤC THAM ƯU ở đời". Tuỳ quán thân nơi thân là quán sát các cảm
giác trên thân tuỳ thuận theo cách thức, thứ tự sinh diệt của các cảm giác trên
thân, không điều khiển, không áp đặt. Tại một thời điểm, trên thân chỉ có duy
nhất một Cảm giác sinh lên và tồn tại nhưng chỉ trong khoảng khắc cỡ phần
trăm, thậm chí là cỡ phần ngàn giây, rồi diệt đi và một cảm giác khác lại sinh
lên và diệt với khoảng thời gian tương tự. Một cảm giác hơi thở vô có vẻ "rất
dài" nhưng kỳ thực nó gồm rất nhiều những cảm giác "cực ngắn" liên tiếp nhau
mà thành, không những thế mà nó xảy ra đan xen với các cảm giác khác trên
thân hoặc cảm giác âm thanh, cảm giác mùi... nên có cảm tưởng, cùng một lúc
cảm nhận nhiều cảm giác đồng thời xảy ra. Vì vậy, chú tâm không phải một đối
tượng duy nhất là cảm giác hơi thở mà chú tâm cảm giác hơi thở đan xen với
chú tâm các cảm giác khác trên thân theo thứ tự sinh diệt của chúng. Lặp lại
chữ tuỳ quán "thân nơi thân" để nhấn mạnh là quán sát thân để BIẾT TRỰC
TIẾP các CẢM GIÁC trên thân bởi THÂN THỨC chứ không phải BIẾT GIÁN
TIẾP bởi Ý THỨC.

Vị Tỷ kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nghĩa là trong sự thực hành này
không những có chú tâm là Chánh Định mà có Chánh Niệm, nhiệt tâm là Chánh
Tinh Tấn và nhờ Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định mà THÂN THỨC
NHẬN BIẾT TRỰC TIẾP các CẢM GIÁC trên thân một cách rõ ràng minh
bạch, từ Cảm giác này sang Cảm giác khác mà không có Ý Thức xen vào. Chỉ có
Thân Thức biết như vậy, không có Ý thức khởi lên, nên cái biết trực tiếp Thân
thức trong trường hợp này gọi là TỈNH GIÁC. Trong đoạn kinh trên nói rằng:
thở vô dài, biết thở vô dài, thở vô ngắn biết thở vô ngắn, thở ra dài, biết thở ra
dài, thở ra ngắn biết thở ra ngắn phải được hiểu là ý nói rằng: cảm giác hơi thở
vô ra như thế nào thì NHẬN BIẾT như thế đó, không thêm bớt. Đó chính là Biết
Trực Tiếp của THÂN THỨC. Lộ trình được diễn tả:

XÚC - Cảm giác (Thọ) - Thân thức - CHÁNH NIỆM - CHÁNH TINH TẤN -
CHÁNH ĐỊNH - (TỈNH GIÁC)

Khi an trú TỈNH GIÁC, kinh nghiệm được CÁI BIẾT TRỰC TIẾP Vô niệm, Vô
ngôn, Vô phân biệt này thì sẽ kinh nghiệm được tâm vắng lặng mọi suy nghĩ,
vắng lặng Tham Sân Si, vắng lặng Phiền Não. Đây chính là mục đích tu tập:
Kinh nghiệm Giải thoát, kinh nghiệm Khổ diệt hay là như cách nói trong Kinh là
kinh nghiệm được NHIẾP PHỤC THAM ƯU (Tham ái, Phiền não). Như vậy,
mục đích tu tập đã được nêu rõ trong kinh là Nhiếp phục tham ưu cũng có nghĩa
là kinh nghiệm Khổ Diệt, Niết Bàn, kinh nghiệm Giải Thoát và Sự Thật này khác
xa hiểu biết hiện nay theo các luận giải, chú giải, mục đích tu tập để thấy tam
tướng VÔ THƯỜNG, KHỔ, VÔ NGÃ của hơi thở.

5 - PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH: Vì mục đích của tu tập là kinh nghiệm cái
biết trực tiếp Tỉnh Giác, kinh nghiệm Giải thoát, độc lập không ràng buộc với bất
kỳ một đối tượng nào, không phải mục đích buộc tâm vào một đối tượng để nó
không phóng dật hay để thấy được tam tướng của hơi thở là Vô thường, Khổ, Vô
ngã nên sự thực hành này không đặt tâm ở đâu cả, không đặt tâm nơi điểm xúc
chạm của hơi thở với chóp mũi, cũng không đặt tâm vào phồng xẹp nơi bụng mà
Cảm giác xuất hiện ở đâu thì chú tâm sẽ xảy ra tại Cảm giác đó. Sự chú tâm phải
liên tục, từ cảm giác này sang cảm giác khác theo thứ tự sinh diệt của nó mới có
trạng thái định. Nhưng có Chánh Niệm, Nhớ Đến chú tâm các cảm giác trên thân
là chuyện không phải dễ, đạt được nhất tâm không phải dễ, vì thói quen Tà Niệm
nhớ đến chuyện này chuyện kia là một thói quen vững chắc từ vô thuỷ nên người
mới thực hành rất dễ phân tâm. Cảm giác trên thân có rất nhiều, liên tiếp xuất
hiện, có mạnh, có nhẹ, có thô, có tế, có dài, có ngắn khác nhau, nên khi mới thực
hành không thể nào chú tâm tuần tự hết được mà chỉ có thể chú tâm vào những
cảm giác nổi trội. Khi mới toạ thiền, cảm giác thở vô, thở ra nổi trội đều đặn khởi
lên, vì vậy phải lấy nó làm "trục chính" và các cảm giác cả toàn thân sẽ đan xen
với cảm giác thở vô, cảm giác thở ra. Khi đạt được định thì cảm giác hơi thở vô,
ra sẽ xảy ra theo tuần tự: cảm giác thở vô, tiếp đến một khoảng ngưng thở ngắn
trước khi thở ra, tiếp đến cảm giác thở ra, tiếp đến một khoảng dài ngưng thở
trước khi thở vô, tiếp đến cảm giác thở vô và quá trình lại tiếp tục lặp lại như cũ.
Hãy ghi nhớ là sẽ chú tâm liên tục từ cảm giác này sang cảm giác khác theo bốn
giai đoạn của hơi thở như đã nêu trên.

Khi ngồi kiết già hay bán già lưng thẳng, đầu thẳng, cổ thẳng một cách tự nhiên,
hai hàm răng xiết nhẹ vào nhau, đầu lưỡi chạm vào hàm răng và khởi lên Chánh
Niệm: nhớ đến chú tâm các cảm giác nơi thân theo thứ tự bốn giai đoạn của hơi
thở đã nêu trên thì chú tâm theo trình tự trên sẽ tự động xảy ra và lúc đó sẽ trải
nghiệm những gì sẽ xảy ra chứ không có làm thêm một cái gì khác nữa. Đương
nhiên giữ được Chánh Niệm trong giai đoạn thở vô - ngưng thở - thở ra là việc dễ
dàng, rất ít phân tâm bởi Tà Niệm trong giai đoạn này ít xảy ra, nhưng giai đoạn
ngưng thở trước khi thở vô vì không có cảm giác gì cố định nên rất dễ bị phân
tâm, Tà Niệm nhớ đến chuyện khác rất dễ phát sinh ở giai đoạn này, vì vậy hãy
tác ý lắc qua lắc lại thân, tạo ra cảm giác chuyển động qua lại nhè nhẹ giống như
chuyển động của quả lắc đồng hồ và sẽ tự động chú tâm vào cảm giác chuyển
động đó. Đến khi cảm giác thở vô khởi lên lại lặp lại chu trình như cũ. Để cho
quá trình chú tâm xảy ra liên tục, khít khao theo chu trình trên, HÃY BẮT ĐẦU
BẰNG CÁCH LẮC QUA LẮC LẠI VÀI LẦN KÈM THEO NIỆM THẦM thân
thân (hay chú tâm, chú tâm) VÀ DỪNG LẠI, TIẾP ĐẾN SẼ CẢM NHẬN CẢM
GIÁC THỞ VÔ - CẢM GIÁC NGƯNG THỞ - CẢM GIÁC THỞ RA một cách
tự nhiên. Hết cảm giác thở ra lại tiếp tục lắc qua, lắc lại vài ba cái kèm với niệm
thầm thân thân hay chú tâm chú tâm và dừng lại. Quá trình

lại lặp lại chu trình như cũ. Khi đã thuần thục thì không cần niệm thầm thân thân
hay chú tâm chú tâm mà chỉ cần tăng cường chú tâm đối với cảm giác thở ra thì
Định sẽ được tăng cường. Khi Chánh Niệm đã thuần thục, thì chú tâm liên tục,
khít khao các đối tượng cảm giác theo trình tự trên, sẽ tự động xảy ra một cách tự
nhiên, không còn có sự hướng đến đối tượng, hay điều khiển chú tâm và trở thành
một lập trình tự động thì đó là chú tâm không tầm không tứ và sẽ kinh nghiệm
được Định Nhị thiền. Tăng cường sự chú tâm tự động và khít khao đó bằng cách
tăng cường sự chú tâm cảm giác thở ra thì sẽ lần lượt kinh nghiệm được Tam
thiền và Tứ thiền.

Nếu ai đọc kỹ và thực hành đúng thì sẽ kinh nghiệm và an trú được Chánh Định
tối thiểu là Nhị thiền và sẽ tự mình trải nghiệm được mục đích của tu tập Niệm
Hơi Thở Vô, Hơi Thở Ra là kinh nghiệm được TỈNH GIÁC và kinh nghiệm được
NHIẾP PHỤC THAM ƯU là như thế nào.

Về mục lục

Bài 063: THÂN HÀNH NIỆM

Có thể nói, cốt tuỷ của bài kinh Thân Hành Niệm thuộc Trung Bộ Kinh được tóm
tắt trong hai câu sau: "Nhờ có THÂN HÀNH NIỆM (Nhớ đến chú tâm quán sát
các CẢM GIÁC trên thân) mà CÁC NIỆM VÀ TƯ DUY THẾ TỤC được đoạn
trừ. Do các Niệm và Tư Duy Thế Tục được đoạn trừ, nên tâm được AN TRÚ,
AN TOẠ, CHUYÊN NHẤT, ĐỊNH TĨNH". Hãy thực hành Thân Hành Niệm,
tức NHỚ ĐẾN CHÚ TÂM QUÁN SÁT CÁC CẢM GIÁC TRÊN THÂN, một
cách liên tục, nối liền, không gián đoạn trong mọi tư thế đi đứng ngồi nằm, trong
mọi công việc giặt giũ, ăn uống, tắm giặt, cuốc đất, khi ngồi trên xe hay khi đi bộ,
từ khi thức dậy cho đến khi nằm lên giường cho đến khi đi vào giấc ngủ, để kinh
nghiệm được Tâm Giải Thoát và hãy thực hành tinh tấn để nó trở thành Lối Sống
Chánh Niệm Tỉnh Giác. Muốn làm được LIÊN TỤC như vậy chỉ có một việc
đơn giản là liên tục Niệm Thầm: thân thân thân... để tạo duyên, để nhắc nhở làm
khởi lên Chánh Niệm (Trí Nhớ): NHỚ ĐẾN CHÚ TÂM QUÁN SÁT CÁC
CẢM GIÁC TRÊN THÂN. Chỉ cần NIỆM THẦM như vậy là xong, không cần
hướng tâm đến đối tượng nào cả, không phải làm gì thêm nữa. Lúc đó sẽ kinh
nghiệm được Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - Tỉnh Giác gọi tắt là
CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC sẽ TỰ ĐỘNG KHỞI LÊN.

Về mục lục

Bài 064: CHỈ VÀ QUÁN


Chỉ và Quán là hai pháp hành trong Bát Chánh Đạo. 1
- CHỈ:

Chỉ là Đình Chỉ, là Dừng Lại, nhưng Dừng Lại cái gì? Trong lộ trình tâm khởi lên
cái biết đối tượng, tuần tự xuất hiện hai Cái biết: Cái biết Trực Tiếp Giác Quan có
phận sự Nhận Biết đối tượng (bao gồm Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức,
Thân thức, Tưởng thức) và tiếp theo Cái biết Ý Thức khởi lên có phận sự xác
định đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao. Đối với tất cả nhân loại và các loài
động vật thì các biết Trực Tiếp Giác Quan đều giống nhau, đều Vô ngôn, Vô
niệm, Vô phân biệt. Cái biết này không phát sinh Thái độ (thích, ghét hay không
thích không ghét), không phát sinh Lời nói, Hành đông và do vậy không có Kết
quả Khổ hay Vui. Cái biết Ý thức của nhân loại (ngoại trừ bậc Thánh) sẽ hiểu biết
đối tượng đó là cái gì, dễ chịu, khó chịu hay trung tính, kèm theo những Kiến thức
sai sự thật gọi là Vô minh về đối tượng. Do Ý Thức là Vô Minh như vậy mà sẽ
phát sinh Thái độ Tham Sân Si, và do Tham Sân Si mà phát sinh Tà ngữ, Tà
nghiệp, Tà mạng và do Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng mà phát sinh Khổ hay Vui.
Ví như một đứa bé trai vừa đẻ ra và một thanh niên 25 tuổi cùng nhìn thấy một cô
hoa hậu sexy bốc lửa. Nhãn thức thấy Hình ảnh nơi đứa trẻ và anh thanh niên đều
giống nhau nhưng đứa trẻ chỉ có Nhãn thức thuần tuý, Ý thức không khởi lên,
không biết đối tượng đó là cái gì nên không có Thái độ, không có Phản ứng còn
anh thanh niên kia cũng Thấy như đứa trẻ nhưng Ý Thức khởi lên Biết đối tượng
là cô gái rất đẹp, hấp dẫn mê hồn... Do Ý thức biết về đối tượng như vậy nên Thái
độ thích thú (Tham) khởi lên và bị cuốn hút vào đó... Nếu anh thanh niên Dừng
Lại cái Thấy, không cho cái Biết (Ý thức) khởi lên thì sẽ không có Tham đắm,
không bị cuốn hút vào đối tượng và sẽ không có Khổ Vui vì đối tượng đó như
đứa bé kia. Cũng y như vậy tu tập CHỈ là làm cho lộ trình tâm DỪNG LẠI cái
biết trực tiếp giác quan Vô niệm, Vô ngôn, Vô phân biệt, không cho Ý thức khởi
lên. Đó là khi thực hành Niệm Thân trong Tứ Niệm Xứ: Nhớ Đến quán sát thân
nơi thân với chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác để nhiếp phục Tham ưu. Lộ trình
tâm Bát Chánh Đạo đó có các chi phần sau: XÚC - Thọ - Tưởng - Chánh Niệm -
Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - (Tỉnh Giác)

Cái biết trực tiếp giác quan Nhận Biết đối tượng được gọi là Tưởng (Tưởng tri)
nhờ có Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định nên Ý thức không khởi lên,
và do đó mà Thấy Rõ, Nghe Rõ, Cảm Nhận Rõ đối tượng. Vì vậy Cái biết trực
tiếp giác quan không gọi là Tưởng Tri nữa, mà bây giờ được gọi là TỈNH GIÁC
hay là Thắng tri. An trú TỈNH GIÁC như vậy, không có Ý thức khởi lên, sẽ kinh
nghiệm được không có Vô Minh, không có Tham Sân Si, không có Phiền não.
Giải thoát do Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - Tỉnh Giác mà có
được như vậy gọi là TÂM GIẢI THOÁT hay KHÔNG GIẢI THOÁT.

2 - QUÁN:

Là thực hành Niệm Tâm và Niệm Pháp để khởi lên CHÁNH TRI KIẾN với lộ
trình tâm Bát Chánh Đạo như sau:

XÚC - Thọ - Tưởng - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - (Tỉnh
Giác) - Chánh Tư Duy - Chánh Tri Kiến

Trong lộ trình này Chánh Niệm sẽ tìm kiếm kích hoạt các thông tin đã được Văn
Tuệ và Tư Tuệ lưu vào kho chứa. Đó là những hiểu biết Đúng Như Thật về Lý
Duyên Khởi, về Vô thường, Vô ngã, về Khổ Tập Diệt Đạo gọi là MINH mà
không kích hoạt VÔ MINH. Do vậy Chánh Tư Duy sẽ đối chiếu, so sánh thông
tin về đối tượng vừa Nhận Biết với thông tin MINH và làm phát sinh Ý thức
Chánh Tri Kiến, Biết đúng như thực đối tượng là CẢM THỌ, nó Vô thường, Vô
ngã, nó có Vị ngọt, sự Nguy hiểm và sự Xuất ly. Do Ý Thức Chánh Tri Kiến là
MINH nên lộ trình tâm này không có Vô Minh, không có Tham Sân Si, không có
Phiền não. Giải thoát do Chánh Tri Kiến mà có được như vậy gọi là TUỆ GIẢI
THOÁT hay VÔ TƯỚNG GIẢI THOÁT.

Mục đích của QUÁN là để thay thế Ý Thức Tà Tri Kiến là Vô Minh, là Không
Liễu Tri các pháp sang Ý Thức Chánh Tri Kiến là Minh, là Liễu Tri các pháp. 3
- KẾT LUẬN:

Quá trình nhận thức đối tượng bao gồm Cái biết trực tiếp giác quan Nhận Biết
đối tượng và Ý thức hiểu biết nội dung đối tượng, Phật học gọi là Tưởng tri đối
tượng và Thức tri đối tượng, Triết học gọi là Nhận thức cảm tính và Nhận thức
lý tính đối tượng gọi tắt là THẤY và BIẾT.

 Tu tập CHỈ là Dừng Lại THẤY để chỉ là THẤY mà không cho BIẾT khởi
lên. THẤY đó ở Phàm phu gọi là Tưởng Tri còn bậc Thánh tu tập CHỈ thì
gọi là Tỉnh Giác hay Thắng Tri. Với tu tập CHỈ sẽ chứng ngộ và an trú TÂM
GIẢI THOÁT hay KHÔNG GIẢI THOÁT.

 Tu tập QUÁN để thay đổi BIẾT từ Vô Minh, Không Liễu Tri của Phàm
phu sang Minh, Liễu Tri của bậc Thánh. Với tu tập QUÁN sẽ chứng ngộ
và an trú TUỆ GIẢI THOÁT hay VÔ TƯỚNG GIẢI THOÁT.

Đây là Yếu Chỉ của sự tu tập Phật Giáo đã được Đức Phật giảng dạy trong
Kinh Pháp Môn Căn Bản. Đó là tu tập CHỈ và Quán để Thấy Biết như thật:

a - TÂM BIẾT của Phàm phu bao gồm: THẤY là Tưởng tri đối tượng và BIẾT là
Vô Minh, Không Liễu Tri đối tượng. Do THẤY và BIẾT như vậy mà có Dục hỷ
là Căn Bản Khổ (KHỔ ĐẾ và TẬP ĐẾ)

b - TÂM BIẾT của bậc Thánh bao gồm: THẤY là Thắng tri đối tượng và BIẾT
là Minh, Liễu Tri đối tượng. Do THẤY và BIẾT như vậy mà chấm dứt Dục hỷ,
chấm dứt Căn Bản Khổ (DIỆT ĐẾ và ĐẠO ĐẾ).

Về mục lục

Bài 065: TẨU HOẢ NHẬP MA

Tẩu hoả nhập ma là cụm từ được dùng để chỉ cho hiện tượng những người tu trở
nên kỳ dị, khác thường, điên điên khùng khùng. Tẩu hoả nhập ma có thể được
phân chia thành hai trường hợp:
Một là bị hoang tưởng, nghĩa là luôn luôn bị ám ảnh, thấy rõ mồn một sự vật hay
hiện tượng không có thật đang hiện hữu trước mắt họ. Hai là bị các hoá sanh (phi
nhân) xâm nhập, tương tác nên có được một vài khả năng đặc biệt, hoặc bị các
hoá sanh "cài đặt" thông tin về các tà kiến, chấp thủ của hoá sanh nên họ ảo
tưởng mình đã giác ngộ, giải thoát.

1 - TẨU HOẢ NHẬP MA DO HOANG TƯỞNG:

Một vị sư hễ khi toạ thiền nhắm mắt lại liền thấy ngay một con nhện to lớn, gớm
ghiếc ở trước mặt giương cặp mắt đau đáu nhìn. Vị sư đã tìm mọi cách xua đuổi,
đến cả rải tâm từ, van xin con nhện hãy đi đi cho mình tu tập, nhưng con nhện cứ
ở đó, không chịu đi và vị sư không thể nào tu tập thiền định. Đã nhiều ngày trôi
qua trong sự khổ sở vì con nhện và vị sư không thể nào chịu đựng được sự phá
bĩnh của con nhện, ông ta quyết định giết chết con nhện. Nhưng trước khi giết
con nhện, ông ta tham vấn ý kiến của sư huynh. Vị sư huynh đã biết rõ sự việc
nên ông khuyên sư đệ dùng hòn than đánh dấu con nhện, để biết có một con hay
nhiều con quấy phá, lúc đó mới hành động. Và khi toạ thiền con nhện lại xuất
hiện và ông ta dùng hòn than mà sư huynh đưa cho vạch một chữ thập trên người
con nhện và vội vã đi báo sư huynh. Vị sư huynh đã chỉ cho ông ta thấy dấu chữ
thập bằng than mà ông ta đánh dấu nằm ngay trên ngực của ông ta, và nhờ chỉ dạy
của sư huynh mà ông ta hiểu rằng, con nhện mà ông ta thấy là Cảm giác pháp trần
do Ý tiếp xúc Pháp trần mà phát sinh (nói nôm na là tưởng ra) nhưng lại hiểu lầm
là con nhện thật bên ngoài và hiểu lầm đó được lặp đi lặp lại nhiều lần mà thành
ra HOANG TƯỞNG. Đó là biểu hiện của tẩu hoả nhập ma và khi nào biết đó là
Hoang tưởng thì người đó mới trở lại bình thường.

Một người toạ thiền, trình bày thấy rõ mồn một, hơi thở bắt đầu vào mũi qua bụng
rồi kết thúc tại đan điền rồi lại từ đan điền đi qua bụng và kết thúc ở mũi. Vị thầy
hỏi lại, có thật anh thấy rõ "mồn một" hơi thở đi ra đi vào như vậy không? Con
thấy rõ mồn một như vậy. Vậy thì chắc phổi anh bị thủng nên hơi thở nó đi xuống
đan điền, vị thầy hài hước. Cái mà anh ta cảm nhận đó là CẢM GIÁC do hơi thở
tiếp xúc với thân mà phát sinh chứ không phải là hơi thở. Nếu hiểu lầm của anh ta
không chấm dứt, được lặp đi lặp lại thì đến một lúc nào đó, nó phát triển thành
HOANG TƯỞNG và sẽ tẩu hoả nhập ma.

Một người tu thiền, quán hơi thở vô, hơi thở ra và sau một thời gian thì "thành
tựu" đến nỗi đi đứng nằm ngồi ăn nói gì cũng thấy "đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn
cuối" của hơi thở vô ra. Cái thấy như vậy cứ bám riết lấy, không buông tha một
giây phút nào, người đó muốn buông ra, không muốn thấy như thế nữa cũng
không được. Vì vậy rất căng thẳng, khuôn mặt "cứng đơ" ra, không trốn chạy
thoát khỏi cái thấy đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối của hơi thở. Thấy như vậy là
HOANG TƯỞNG bởi quá tin tưởng vào các kiến thức sai lạc đã được nhồi sọ bởi
các chú giải nên thấy rõ đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối hơi thở vô ra do tưởng
tượng nhưng lại tưởng lầm là thấy hơi thở vô ra thật. Lặp đi, lặp lại nhiều lần điều
đó với Đức Tin mãnh liệt thì trở thành HOANG TƯỞNG. Khi được vị thầy chỉ
dẫn, hơi thở vô ra là luồng không khí, là Xúc trần tiếp xúc với Thân căn thì phát
sinh CẢM GIÁC hơi thở vô ra và đồng thời phát sinh Thân thức, có phận sự cảm
nhận hay ghi nhận Cảm giác thở vô ra. Đối tượng được Thân thức nhận biết hay
ghi nhận trực tiếp là CẢM GIÁC THỞ VÔ RA chứ KHÔNG PHẢI LÀ HƠI
THỞ VÔ RA. Biết CÓ hơi thở vô, hơi thở ra là Ý thức do SUY LUẬN mà biết,
chứ không có cái biết trực tiếp nào ghi nhận được đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối
của hơi thở, của luồng không khí. Hiểu biết rằng, thấy hơi thở đoạn đầu, đoạn
giữa, đoạn cuối như vậy là Hoang tưởng, người ấy trở lại bình thường, chấm dứt
HOANG TƯỞNG, không còn thấy đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối của hơi thở
nữa.

Một số người tu thiền, quán tiền kiếp sau khi đã nhồi nhét đầy ắp các kiến thức
về tiền kiếp của sách vở, của người khác nên cố tưởng tượng ra những tình huống
tương tự. Cố gắng nỗ lực hướng tâm đến tiền kiếp như vậy, đến một lúc nào đó
do lượng thông tin đã được nhồi nhét tương tác với nhau và xuất hiện các hình
ảnh, sự kiện và người đó "tin chắc" đó là tiền kiếp đời mình. Lặp đi lặp lại nhiều
lần như vậy với đức tin mãnh liệt thì nó trở thành HOANG TƯỞNG, và điều
Hoang tưởng đó hiện ra liên tục trong tọa thiền, thậm chí trong đời sống hàng
ngày và kết quả là người đó phải đến Bệnh viện tâm thần.

Thời Phật còn tại thế, một số Tỷ kheo tu thiền, quán thân bất tịnh. Đương nhiên
họ ngồi rồi tưởng tượng ra các bộ phận của thân thể đầy ô uế nhơ nhớp, bất tịnh,
ghê tởm, không thể nào chịu đựng nổi. Họ đang cố gắng tự nhồi sọ, thân thể là bất
tịnh, đáng ghê tởm như vậy. Lặp đi, lặp lại như vậy cái điều được tưởng tượng ra,
không phải là SỰ THẬT ĐƯỢC NHÌN THẤY, thì sẽ đến lúc "thấy" thân thể ô
uế, nhơ nhớp, bất tịnh, ghê tởm đó xuất hiện liên tục trong mọi lúc, và khi
HOANG TƯỞNG như vậy thì ghê tởm thân thể bất tịnh này, không thể nào chịu
đựng nỗi và họ đã tự sát.

Tóm lại, tẩu hoả nhập ma do Hoang tưởng tức những cái tưởng tượng ra, mắt
không thể thấy, tai không thể nghe, mũi không thể ngửi, lưỡi không thể nếm, tay
không thể sờ nhưng người bị hoang tưởng thì lại chắc chắn rằng mình đang thấy,
nghe, ngửi, nếm, sờ được những cái đó. Đó chính là một căn bệnh tâm thần, căn
bệnh hoang tưởng.

2 - TẨU HOẢ NHẬP MA DO HOÁ SANH XÂM NHẬP:

A - Hiện tượng xảy ra trong đời sống:

Sống trong thế giới này, không những có các chúng sinh thuộc Trứng sanh và
Thai sanh như loài người và các loài động vật mà còn có các loài Hoá sanh. Các
loài Hoá sanh bao gồm Danh và Sắc phát sinh sau khi loài Trứng sanh hay Thai
sanh chết, tiếp tục của chu kỳ Luân hồi tái sanh và khi Nghiệp lực đó cạn kiệt,
Hoá Sanh lại tiếp tục "vào" Thai sanh hoặc Trứng sanh, tiếp tục chu kỳ Luân hồi
sinh tử. Chúng sanh thuộc loài Hoá Sanh này theo quan niệm tôn giáo bao gồm:
Chư thiên, Địa ngục, Ngạ quỷ, A tu la hay Phi nhân, vong linh, người âm... Sắc
(THÂN) của Hoá Sanh là một dạng vật chất vi tế, TỒN TẠI DƯỚI DẠNG
LƯỢNG TỬ, mang lưỡng tính sóng hạt. Vì thế nó vẫn di chuyển trong không
gian nhưng vì mang tính sóng nên nó có thể "xuyên qua" tường vách, cây cối,
người, động vật... Danh của Hoá Sanh là lượng THÔNG TIN DI TRUYỀN và
LƯỢNG THÔNG TIN VỀ TÂM của người đã chết và do Xúc (tương tác) tương
tự như Ý tiếp xúc với Pháp trần của người sống nên Hoá Sanh vẫn có các lộ trình
tâm với cái biết Tưởng thức và Ý thức, hình dung như một người đang nằm
mộng, tuy nó là "cảnh ảo" nhưng Hoá Sanh vẫn " tưởng lầm" là thế giới ngoại
cảnh bên ngoài. Ngoài những lộ trình tâm có các cảnh giới là do lượng thông tin
trong kho chứa đã tích luỹ trong kiếp quá khứ "hoá hiện" ra, Hoá Sanh nhờ "thân"
vi tế nên thâm nhập được thân thể người sống, thâm nhập và tương tác được
lượng thông tin trong ADN của tế bào người sống nên Hoá Sanh vẫn thấy, nghe,
cảm nhận thực tại bên ngoài qua thấy, nghe, cảm nhận thực tại của người sống.
Nhưng đấy vẫn là "cảnh ảo" như thấy trên ti vi mà thôi. Hoá Sanh không những
"thấy thực tại" qua cái thấy của người đó mà nó có thể biết được thông tin về quá
khứ của người đó, nó còn có thể "cài đặt thông tin" của nó vào kho chứa thông tin
của người đó, và khi người đó sử dụng thông tin của nó, sẽ có cái "thấy ngoại
cảm". Một số Hoá Sanh có duyên nghiệp đặc biệt với người đó, có thể tương tác
vào các "lập trình" lời nói, hành động, tác ý "điều khiển" người đó nói năng hay
hành động theo ý muốn của Hoá Sanh. Điều này tương tự trên xa lộ thông tin
hiện đại, các hacker có thể theo các đường truyền thâm nhập kho chứa thông tin
trong bộ nhớ của các máy tính. Hacker có thể đánh cắp thông tin, có thể cài đặt
thông tin, có thể "điều khiển" các lập trình, các phần mềm hoạt động theo ý muốn
của hacker. Hoá Sanh rất đa dạng, phức tạp, hiểu biết và năng lực cũng rất khác
nhau mà đặc biệt là Hoá Sanh có tiền kiếp tu hành trong các đạo giáo, tín ngưỡng,
đức tin, hiểu biết đa dạng và khác nhau của nhân loại.

Hoá sanh sống trong "cảnh ảo" không làm chủ, không sở hữu được bất kỳ cái gì,
không một chỗ trú, là nỗi thống khổ vô cùng tận nên nhiều Hoá Sanh tương tác
được với một số con vật, có được chỗ trú ẩn thì bám riết lấy không rời ra nữa.

Ví như Hoá Sanh của người cha có sự tương hợp "điều khiển" được con lợn và
những người con lầm tưởng cha đã tái sinh thành lợn nên chăm sóc nó. Một con
lợn biết bỏm bẻm nhai trầu do Hoá Sanh nghiện trầu điều khiển được nó, một con
rắn hổ mang có cách đối xử kỳ lạ với con người, những con mãng xà có những
hành vi khó hiểu, những con vật đi đến với gia đình người chết... là những con vật
bị hoá sanh điều khiển chứ không phải con người tái sanh thành. Các hiện tượng
mộng du, cận tử, nhập đồng, áp vong, ngoại cảm, gọi hồn đều do Hoá Sanh xâm
nhập kho chứa thông tin của thân chủ hoặc kho chứa thông tin của hoá sanh khác,
cung cấp thông tin hoặc điều khiển.

Hoá Sanh thâm nhập lượng thông tin trong bộ gen, điều khiển các lập trình lời
nói, hành động đã được mã hoá trong ADN nên làm cho người bị điều khiển có
sức mạnh ghê gớm, làm tê liệt thần kinh xúc giác nên không còn cảm giác đau,
một số trường hợp không chảy máu. Một số người khi bị xâm nhập cho dù lấy
dây thừng quấn cổ và 4 người siết mạnh vẫn không sao, một số lấy xiên nhọn
xuyên má, xuyên qua tay chân vẫn không đau, không chảy máu. Một số Hoá sanh
mà tiền kiếp rất hung bạo, độc ác hoặc bị chết rất thảm khốc như chết đuối hoặc
bị dìm chết, có những mối thù hận ghê ghớm, khi bị kích động có thể làm cho một
số con vật hoặc con người chết một cách bí ẩn mà y học không khám phá được
nguyên nhân cái chết. Đó là vì tương tác xảy ra ngay trong gen của tế bào mà
trong đó có các lập trình liên quan đến sự sống đang vận hành. Các lập trình về sự
sống này bị tương tác, bị thay đổi, bị phá huỷ thì sự sống sẽ chấm dứt. Rất nhiều
hiện tượng bí ẩn, kỳ dị xảy ra trong cuộc sống mà hiểu biết bình thường, hiểu biết
của khoa học không giải thích được, trong đó có rất nhiều hiện tượng là do Hoá
Sanh gây ra.

Có một số Hoá Sanh mà tiền kiếp hiền thiện đã làm nghề chữa bệnh hay luyện tập
một thứ khí công trị bệnh, có thể thâm nhập vào lượng thông tin trong các gen và
chữa lành một số bệnh nào đó cho một số người. Ví như vị "thần y" chữa được
các bệnh câm điếc bẩm sinh, hoặc bại liệt bẩm sinh là do Hoá Sanh thông qua bàn
tay của thần y, cài đặt các "lập trình" lời nói, hành động vào trong ADN của các tế
bào tương ứng phát ra lời nói hoặc cử động. Một người sinh ra chưa thể nào nói
và có các cử động đi lại mà phải được luyện tập từ khi mới lọt lòng. Khi sự luyện
tập đã thành tựu thì hình thành một lập trình, một phần mềm (lời nói, cử động)
được cài đặt trong các gen của cấu trúc ADN và khi bộ não tác ý nói âm gì hay cử
động gì thì lập trình đó vận hành làm phát ra lời nói hoặc hành động. Đối với
động vật cấp thấp như rùa, trâu bò... lượng thông tin lập trình cử động được bảo
tồn khi hình thành bào thai nên khi sinh ra là đi đứng hay bò ngay được. Đối với
con người phức tạp hơn rất nhiều và chỉ các thông tin ở tế bào thần kinh não bộ
tái sinh nên các lập trình lời nói, cử động không có ở tế bào não bộ nên bào thai
con người không có các lập trình lời nói, cử động này. Chính vì vậy, loài người
muốn nói, muốn đi lại được phải luyện tập từ nhỏ để hình thành và cài đặt các lập
trình này vào trong ADN. Những người câm điếc, bại liệt bẩm sinh không thể
luyện tập từ nhỏ nên trong ADN của các tế bào các bộ phận tương ứng, không có
các lập trình này nên họ không nói, không đi lại được. Khi "thần y" bấm huyệt thì
Hoá Sanh sẽ tương tác và "cài đặt" lập trình đó cho họ và họ nói hoặc cử động tức
thì.

Hiện tượng thôi miên chữa bệnh được các nhà Phân tâm học nói đến cũng do
tương tác của Hoá Sanh. Phân tâm học quan niệm, tâm có hai phần gồm Ý thức
và Tiềm thức. Tuy họ chưa thuyết minh được một cách rõ ràng, minh bạch Tiềm
thức là gì, do đâu mà có nhưng Tiềm thức họ quan niệm chính là lượng thông tin
tri thức, kinh nghiệm, sự kiện của quá khứ đời này hoặc tiền kiếp được lưu giữ
trong kho chứa ở ADN. Chữa bệnh bằng thôi miên là hoá giải các sự kiện xấu, là
nguyên nhân gây bệnh ở tận sâu thẳm của tiềm thức. Khi một bác sĩ hướng dẫn
cho bệnh nhân đạt đến trạng thái nửa thức nửa ngủ gọi là trạng thái thôi miên
người bệnh khám phá trong "sâu thẳm" tiềm thức những sự kiện, tình huống, bức
xúc, căm hận đã xảy ra trong quá khứ và hoá giải nó và nhờ vậy mà khỏi bệnh
nhất là các căn bệnh về tâm thần. Không phải ai cũng học được cách chữa bệnh
bằng thôi miên vì thực chất của việc đó phải được trợ giúp bởi một Hoá Sanh.
Lúc đó Hoá sanh thâm nhập kho chứa thông tin trong ADN của người bệnh, thấy
ra các thông tin, các sự kiện xấu đã xảy ra trong quá khứ của bệnh nhân và bệnh
nhân trong trạng thái thôi miên sẽ "thấy" ra sự kiện do "cái thấy" của Hoá sanh.
Chính nhờ trạng thái thôi miên, nửa ngủ nửa thức mà bệnh nhân sẽ tương tác và
hoá giải được các sự kiện đó.

Gần như mọi bí mật đều nằm trong các loại thông tin chứa trong cấu trúc ADN
của tế bào và tương lai khoa học thông tin của nhân loại, nhất là tương tác thông
tin sẽ giải mã được nhiều bí ẩn đang ẩn chứa trong cấu trúc ADN khi nghiên cứu
thông tin di truyền và đặc biệt là thông tin về tâm cũng ở trong ADN.

B - Hiện tượng xảy ra với người tu:

Các Hoá Sanh tương tác được với người tu vì tiền kiếp của họ cũng là những
người tu. Nhưng đa phần các Hoá Sanh đó có những tà kiến, những chấp thủ vào
những kiến giải của họ, chấp thủ Bản ngã rất ghê gớm. Các Hoá sanh đó rất đa
dạng thuộc rất nhiều tôn giáo, tín ngưỡng, các môn phái tu hành khác nhau như
đạo phật với các tông phái khác nhau, đạo lão, khí công, võ nghệ, các trường
phái Bà la môn giáo, Kỳ na giáo, đạo Jin, đạo Hồi, Thiên Chúa... nên có các tà
kiến, có các năng lực khác nhau.

Có những người toạ thiền bỗng dưng họ vào được trạng thái định có hỷ lạc rất
sung mãn xảy ra trong 10 ngày liên tục nhưng sau đó họ không thể nào vào định
như vậy được nữa vì định đó do Hoá Sanh tương tác, "điều khiển" chứ không phải
họ đạt được. Một người toạ thiền 5 - 6 năm liền, bị hôn trầm liên tục bỗng nhiên
họ đạt được định và chấm dứt hôn trầm và có thêm nhiều hiểu biết là do Hoá Sanh
tương tác. Vì tương tác của Hoá Sanh xảy ra trong ADN nên có những Hoá Sanh
có thể làm cho một người tọa thiền liên tục bảy ngày không ăn uống và thậm chí
là nhiều tháng liền trong rừng và được mọi người xem là Phật là Thánh. Hoá Sanh
xâm nhập làm cho người đó có thể thấy được những hình ảnh rất xa hoặc nghe
những âm thanh rất xa và cứ tưởng lầm là mình đã có thiên nhãn thông, thiên nhĩ
thông hoặc biết được tâm người khác đang nghĩ gì (tha tâm thông) đều do Hoá
Sanh thâm nhập những người đó rồi cung cấp thông tin. Có những Hoá Sanh
trong tiền kiếp đã tu hành miên mật, tinh tấn nhưng theo những hiểu biết tà kiến
của các trường phái triết học và tôn giáo khác nhau và họ cũng đạt được một vài
thành quả theo kiểu thay thế ràng buộc này bằng một ràng buộc khác nhưng lại
chấp cứng vào đó là chân lý, là giải thoát tối hậu. Những Hoá Sanh đó sẽ tìm
kiếm những người tương hợp với nó và sẽ xâm nhập kho chứa thông tin những
người đó đang tọa thiền nhưng đang rơi vào trạng thái thôi miên, nửa thức nửa
ngủ (một trạng thái hôn trầm). Lúc đó Hoá sanh sẽ "cài đặt" những thông tin của
Hoá sanh, những hiểu biết, những kinh nghiệm đạt được, những tà kiến chấp thủ.
Những người bị xâm nhập trong trạng thái thôi miên như vậy sẽ cảm nhận mình
có những hiểu biết mới siêu việt, đạt được trạng thái chứng ngộ viên mãn, tràn
đầy hỷ lạc, sung sướng. Giống như một người ngủ mơ, thấy mình viết được một
quyển sách hay cực kỳ hay có những phát minh vĩ đại, sung sướng khôn tả nhưng
khi tỉnh dậy họ biết là mơ và tất cả những cái đó biến mất, nhưng người bị Hoá
Sanh xâm nhập khi đang toạ thiền cảm thấy mình hiểu biết như vậy, chứng ngộ
như vậy trong trạng thái nửa thức tỉnh nên khi thức tỉnh hẳn, người ấy tin chắc đó
là thật và do vậy, những thông tin do Hoá Sanh xâm nhập được "cài đặt" vững
chắc vào kho chứa của họ. Từ đó, trong kho chứa thông tin của người đó có hai
lượng thông tin, một của người đó đã tích luỹ, hai là của Hoá sanh. Và kiến thức
của người này là tổng hợp của cả hai loại kiến thức như trường hợp những người
thay tim hoặc ghép tạng. Chính vì vậy mà từ đó họ đạt được một vài trạng thái
định, một vài trạng thái tâm có hỷ lạc, sung sướng mà Hoá sanh đã thành tựu và
cài đặt. Cũng từ đó, họ lầm tưởng tự mình tu chứng và thành tựu nên tuyên bố
mình đã giác ngộ, là Đạo Sư này, Vô Thượng Sư nọ, Thánh A La Hán này, Thánh
Tu Đà Hoàn kia v.v, thậm chí có người còn tuyên bố chứng ngộ cao hơn cả Như
Lai. Đặc tính chung của hạng người bị Hoá Sanh cài đặt thông tin này rất cao
ngạo, ưa thích nói nhiều, lớn lối phê phán, chửi rủa, chỉ trích đủ thứ, là biểu hiện
Chấp Ngã mãnh liệt của Hoá Sanh, những kiến thức họ nói ra tuy đề cập đủ thứ
nhưng lại rất nông cạn, ấu trĩ, KHÔNG CÓ ĐƯỢC HIỂU BIẾT ĐÚNG NHƯ
THẬT VỀ DUYÊN KHỞI, VỀ VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ, VỀ KHỔ TẬP DIỆT
ĐẠO, những kiến thức đó pha tạp từ những truyết thuyết, đạo giáo khác nhau,
không những không phải là Sự Thật mà thậm chí còn thấp kém hơn cả kiến thức
thế gian. Những người đó được Hoá Sanh hỗ trợ, do Hoá Sanh khao khát thỏa
mãn danh vọng, tương tác được với những đệ tử tương hợp nên có rất nhiều
người cuồng tín theo họ. Các đệ tử của họ cũng được cài đặt các thông tin đó theo
kiểu "ánh xạ" với các mức độ khác nhau, kiểu như các vi rút máy tính lây lan trên
mạng, nên cũng có được một số cảm giác, một vài trạng thái tâm hỷ lạc, sung
sướng khi thực hành các phương pháp đó. Một số được các Hoá sanh trực tiếp hỗ
trợ nên có thể cải thiện được sức khoẻ, khỏi được một số bệnh tật nan y nên họ rất
cuồng tín đối với thần tượng "giác ngộ" của họ.

Rất nhiều người có Hoá sanh tương tác, khi được nghe giảng có một số điều phù
hợp với Hoá sanh nên Hoá sanh thích thú, tác ý làm cho người đó nỗ lực thực
hành và đạt tiến bộ nhanh chóng. Khi được ghi nhận sự tiến bộ và khuyến khích
thì Hoá sanh rất hoan hỷ, nhưng vì chấp thủ tà kiến, dần dà biểu hiện ra các tà
kiến và sân si còn giấu kín của mình nên khi bị chỉ trích về tà kiến, những hiểu
biết sai, những hành vi tham sân giấu kín thì Hoá sanh sẽ phản ứng dữ dội, chống
đối mãnh liệt, có những trường hợp tìm cách làm hại thầy.

KẾT LUẬN: Tẩu hoả nhập ma là hiện tượng phổ biến xảy ra với người tu mọi
tông phái chứ không phải riêng đối với hạng tu thiền. Cội gốc của các hiện tượng
ấy là VÔ MINH tức hiểu biết sai, hiểu biết không đúng sự thật các sự vật và hiện
tượng của THỰC TẠI (những gì Được Thấy, Được Nghe, Được Cảm nhận, Được
Nhận thức). Để chấm dứt được Vô Minh, chấm dứt Tẩu Hoả Nhập Ma phải
QUAN SÁT THỰC TẠI để TUỆ TRI SÁU XÚC XỨ. Nhờ vậy mà THẤU HIỂU
VÀ ĐẠT ĐƯỢC sự Giác Ngộ của Đức Phật mà Ngài đã tuyên bố trong Kinh
Phạm Võng thuộc Trường Bộ Kinh: "Này các Tỷ kheo, Như Lai nhờ như thật tuệ
tri SỰ SINH DIỆT CỦA THỌ, VỊ NGỌT, SỰ NGUY HIỂM VÀ SỰ XUẤT LY
CỦA THỌ mà Như Lai được giải thoát hoàn toàn không có chấp thủ".

Về mục lục

Bài 066: CÓ CẦN THIẾT HỶ LẠC CỦA CHÁNH ĐỊNH KHÔNG

Đây là bài viết bình luận về bài viết của Tuệ Đông tựa đề: HÀNH GIẢ CÓ THỂ
DÍNH MẮC VỚI ĐỊNH KHÔNG, nhưng chắc dài quá, đăng không thành công
trong phần bình luận. Vì thế, không có đầu đuôi minh bạch mà chỉ là phản biện
một số tư tưởng đương thời xuất hiện trong các bình luận đó.

Thứ nhất là, Hạnh phúc không phải là Nguyên nhân Khổ nhưng vì hiểu sai Hạnh
phúc là Nguyên nhân Khổ mà Ngoại đạo đã chủ trương xa lánh, sợ hãi Hạnh phúc
nên đi đến Khổ Hạnh, một cực đoan khác của thế gian. Đức Phật đã chỉ ra Sự thật
kẻ Phàm phu vì bị vô minh che đậy, bị tham ái chi phối khi cảm nhận Hạnh phúc
thì CHẤP CÓ hoặc CHẤP KHÔNG đối tượng đó nên Tham ái Hạnh phúc và do
Tham ái nên Nắm giữ (Ràng buộc, muốn nó còn mãi với mình), vì vậy khi nó mất
đi, khổ sẽ khởi lên. CHẤP CÓ hạnh phúc là tư tưởng Duy vật, là cho rằng Hạnh
phúc sẵn có, thường xuyên có, thường hằng, thường trú trong Sắc đẹp, Tiếng hay,
Hương thơm, Vị ngon, Xúc chạm êm ái, tức sẵn có, thường xuên có, thường hằng,
thường trú trong thế giới vật chất ngoại cảnh. CHẤP KHÔNG là tư tưởng Duy
tâm, là cho rằng Hạnh phúc do Thượng đế, do Phật, Bồ Tát, do công đức tổ tiên...
đưa đến cho con người. Đức Phật nhờ TUỆ TRI Hạnh phúc là Cảm giác (Cảm
thọ), nó vô thường, vô chủ (vô ngã), nó có vị ngọt, SỰ NGUY HIỂM và sự xuất
ly. SỰ NGUY HIỂM là: hạnh phúc là cảm giác, nó vô thường sinh diệt, nếu tham
ái thì sẽ nắm giữ nên khi nó biến hoại, biến diệt, mất đi Sầu bi khổ ưu não sẽ khởi
lên. Ngài đã tuyên bố sự giác ngộ của mình trong kinh Phạm võng: Này các Tỷ
kheo, Như Lai nhờ tuệ tri sự sinh diệt của thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly
của Thọ mà Như Lai được giải thoát hoàn toàn không còn chấp thủ. Người Phật
tử không nên NHẦM LẪN hạnh phúc là nguyên nhân đau khổ mà phải ghi nhớ
THAM ÁI HẠNH PHÚC là nguyên nhân đau khổ. Vì hiểu nhầm tiền bạc là
nguyên nhân đau khổ, không hiểu như thật Tham ái tiền bạc là nguyên nhân khổ
mà Thiền tồng Trung hoa đã ca ngợi hành vi đổ tất cả tài sản vàng bạc xuống
sông của một vị cư sĩ, rồi làm nghề đan sọt mà cả nhà đắc đạo.

Thứ hai là vì không quan sát, không hiểu biết Chánh Định (gồm Sơ thiền, Nhị
thiền, Tam thiền, Tứ thiền) trong lộ trình tâm Bát Chánh đạo siêu thế bao gồm cả
TÁM CHI PHẦN trong đó có ba chi phần quan trọng nhất CHÁNH NIỆM -
CHÁNH ĐỊNH - CHÁNH KIẾN gọi tắt là NIỆM - ĐỊNH - TUỆ nên các Chú
Giải sau này đã suy diễn về tu tập Thiền định và Thiền quán riêng rẽ, không quan
sát trong mối liên hệ nhân quả với bảy chi phần còn lại, nên không đúng với Kinh
mà Đức Phật thuyết giảng. Tu tập theo lời giảng của Đức Phật là tu tập Bát Chánh
đạo để chứng ngộ và an trú ba chi phần cơ bản là NIỆM gồm Tứ Niệm xứ (Chánh
Niệm về Thân thọ tâm pháp), ĐỊNH gồm Tứ Thiền, TUỆ gồm Tứ Thánh đế (Khổ
đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế). Đương nhiên khi tu tập Bát Chánh đạo siêu thế thì
phải có Chánh Định, tức phải an trú được tối thiểu Sơ thiền hoặc các tầng định
cao hơn và đương nhiên có hỷ lạc của Sơ thiền, Nhị thiền, lạc của Tam thiền, hiện
tại lạc trú của Tứ thiền. Đây có thể gọi là hạnh phúc nội tâm của bậc Thánh hữu
học và vô học. Khi an trú được hỷ lạc nội tâm này thì mới tuệ tri đây là Thánh lạc,
Chánh giác lạc, an tịnh lạc và mới tuệ tri được Dục lạc thế gian do sắc đẹp, tiếng
hay... mà phàm phu mê đắm có tính chất vui ít, khổ nhiều, não nhiều mà nguy
hiểm lại nhiều hơn, là Phàm phu lạc, ô uế lạc, bất tịnh lạc. Đương nhiên khi an trú
Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thì hành giả "hưởng thụ" hạnh phúc nội
tâm nhưng hoàn toàn không có Tham ái hạnh phúc đó vì lộ trình tâm Bát Chánh
Đạo với Niệm - Định - Tuệ thì không thể có tham ái. Nhưng khi rời sự tu tập Bát
Chánh Đạo, lộ trình tâm Bát Tà Đạo của phàm phu khởi lên, hồi tưởng về hỷ lạc
đã có được khi tu tập, lúc đó Tham ái hỷ lạc (đã qua) khởi lên. Đây chính là tham
ái hỷ lạc của định, xảy ra nơi lộ trình tâm Bát Tà Đạo. Nhưng Tham ái này không
đáng sợ hãi vì Tham này đưa đến Muốn tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế và Tham
Muốn này chính là Dục Như Ý Túc trong Tứ Như Ý Túc mà Đức Phật đã giảng
dạy, cần phải phát triển tu tập, nó thuộc về Bát Chánh Đạo hiệp thế.

Trong Tiểu Kinh Khổ Uẩn, Đức Phật đã giảng giải cho Ma Ha Nam khi ông ấy
trình bày với Đức Phật là tại sao tuy ông ấy đã nhận thức, đã tuệ tri Các Dục (Dục
lạc thế gian) vui ít, khổ nhiều, não nhiều mà nguy hiểm lại càng nhiều hơn nhưng
tham vẫn chiếm cứ tâm, sân vẫn chiếm cứ tâm, si vẫn chiếm cứ tâm, là tại vì chưa
chứng được sơ thiền hoặc các tầng định cao hơn. Rõ ràng nếu tu tập Bát Chánh
Đạo mà chưa chứng tối thiểu là Sơ thiền thì lộ trình tâm đó vẫn là Bát Tà Đạo,
vẫn bị chi phối, lôi kéo, khống chế của Dục lạc thế gian vui ít, khổ nhiều. Vì sao
vậy? Vì còn tham ái. Chừng nào mà tu tập chứng được tối thiểu là Sơ thiền, có hỷ
lạc nội tâm thì mới xa lánh, từ bỏ, viễn ly, ly tham Dục lạc thế gian. Chính vì lý
do đó mà trong Kinh Trung Bộ, rất nhiều lần, rất nhiều lần, Đức Phật khuyến
khích tu tập để đạt được Sơ, Nhị thiền... để có được hỷ lạc nội tâm này và phải
thân cận, đừng sợ hãi, đừng xa lánh hỷ lạc này như Tuệ Đông đã trích dẫn.

Đức Phật nói rằng chứng được tứ thiền một cách không khó khăn, một cách
không mệt nhọc, một cách không phí sức, còn sau này vì hiểu không đúng, thực
hành không đúng, không chứng ngộ và an trú các tầng định nên các Luận sư, các
Chú giải thuộc Tạng Luận có tư tưởng tà kiến phủ nhận sự tu tập Định theo các
tầng thiền với tà kiến là nó cản trở Thiền quán. Họ chủ trương Quán là phải xuất
định, là không có Định và lúc đó mới tư duy được. Thực chất không có định thì lộ
trình tâm đó là Bát Tà Đạo và Tư duy như vậy là Tà Tư Duy. Do tư duy như vậy
mà phát sinh hiểu biết, nhưng hiểu biết do Tà Tư Duy như vậy chỉ là Tà Tri Kiến
chứ không thể là Chánh Tri Kiến. Trong Tạng Kinh, Chỉ và Quán phải song hành
và đã được khẳng định bởi rất nhiều bản kinh như sau: Vị ấy ly dục, ly bất thiện
pháp, chứng và trú Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. VỚI TÂM ĐỊNH
TĨNH, NHU NHUYỄN, DỄ SỬ DỤNG, VỮNG CHẮC, BÌNH THẢN, KHÔNG
CẤU NHIỄM NHƯ VẬY (trạng thái Tứ thiền), vị ấy hướng đến (Chánh Tư Duy)
và BIẾT NHƯ THẬT, đây là sự thật về khổ, đây là sự thật về nguyên nhân khổ,
đây là sự thật về Chấm dứt khổ, đây là sự thật về Con đường chấm dứt khổ. Do
THẤY NHƯ VẬY, BIẾT NHƯ VẬY mà mọi lậu hoặc được đoạn tận. Chánh Trí
khởi lên, vị ấy biết Sanh đã tận... Cả Văn và Nghĩa đều nói rõ phải an trú trong
trạng thái định Tứ thiền mới Chánh Tư Duy và phát sinh Chánh Tri Kiến, là hiểu
biết đúng như thật (là Trí Tuệ, Minh) mới xoá bỏ được Vô Minh và giác ngộ Tứ
Thánh Đế. Tuy nhiên an trú Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền vẫn đạt được điều đó
nhưng Tứ thiền thì hiệu quả nhanh hơn. Không an trú trong định thì không thể
Quán như vậy được. Sự thành đạo của Đức Phật đã khẳng định như vậy, CHỈ VÀ
QUÁN SONG HÀNH.

Trong Thất Giác Chi có Hỷ giác chi là một trong 7 yếu tố của giác ngộ, nó hiện
hữu nơi các vị đã giác ngộ và nó hiện hữu khi tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế của
hành giả đang tu tập, đó chính là hỷ lạc của các tầng định Sơ thiền, Nhị thiền... Vì
vậy, sự phủ nhận tu tập Chánh Định với Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền
là Tà Kiến của các luận sư, của các chú giải, của tất cả những ai chủ trương như
vậy.
Về mục lục

Bài 067 : HÀNH THIỀN CÓ PHẢI ĐỂ THẤY CÁC PHÁP LÀ KHỔ?

Hành thiền để thấy các pháp Sắc Thọ Tưởng Hành Thức là VÔ THƯỜNG KHỔ
VÔ NGÃ và Giác Ngộ là thấy được các pháp vô thường khổ vô ngã, đã được đa
phần người tu theo các trường phái Phật giáo mặc định. Đặc biệt trong đó, thấy tất
cả các pháp là khổ, Năm uẩn Sắc Thọ Tưởng Hành Thức là khổ, cuộc đời là khổ,
là mục đích của hành thiền, là mục đích của giác ngộ đã được các chú giải, luận
giải thuộc tạng Luận khẳng định và đề cao. Những quan điểm đó, phát sinh từ suy
nghĩ, nếu khi hành thiền thấy được các pháp là khổ, cuộc đời là khổ thì sẽ chán
ghét, sẽ không còn tham ái cuộc đời và sẽ được giải thoát. Đây là những hiểu biết
hết sức sai lầm, được giáo dục nhồi sọ, được cha truyền con nối, làm cho người tu
chỉ chuyển từ cực đoan Tham Ái cuộc đời khi thấy nó tràn đầy niềm vui hạnh
phúc, sang cực đoan Chán Ghét khi thấy cuộc đời chỉ toàn đau khổ, ô uế, bất tịnh.
Và người tu, giống như những con cá chỉ vùng vẫy, bơi lặn, nhảy lên nhảy xuống
trong vùng nước có cái lưới (tà kiến, tham sân) bao chặt mà không thể nào nhảy
thoát ra khỏi tấm lưới (tà kiến, tham sân) đó.

Nhân loại này, từ kẻ ngu đến người trí, hễ có khổ thì ai ai cũng cảm nhận được
khổ, ai ai cũng thấy khổ, không cần tu mới thấy khổ. Và ai ai cũng đang nỗ lực cố
gắng làm các công việc, kể cả việc tu hành của các tôn giáo, để Chấm dứt Khổ, để
Hết Khổ. Khi chưa tu hành, họ thấy cuộc đời có cả khổ lẫn vui, họ chỉ muốn chấm
dứt khổ, chỉ muốn giữ lại niềm vui hạnh phúc. Nếu họ tu theo Phật giáo theo cách
thức trên và giả sử họ đạt được, thấy được tất cả các pháp là khổ, cuộc đời chỉ duy
nhất khổ, họ cảm nhận được tất cả đều là khổ, ô uế, bất tịnh thì họ sẽ cảm nhận
khổ còn khốc liệt hơn khi chưa tu. Vậy liệu có ai có thể tiếp tục sự tu học như vậy
nữa không? Giả sử có người tu mà đạt được, thấy tất cả các pháp là khổ như vậy,
không có bất kỳ một niềm vui hạnh phúc nào (giống như người trầm cảm hoang
tưởng), liệu họ còn tiếp tục tu nữa hay họ sẽ tự sát?
Phải hiểu biết đúng sự thật, mục đích khi tu học theo lời dạy của Đức Phật là để
thấy: HẾT KHỔ, để thấy: KHỔ CHẤM DỨT, để thấy GIẢI THOÁT KHỔ, chứ
không phải tu để thấy các pháp là khổ, cuộc đời chỉ có một vị duy nhất là khổ, như
các chú giải, luận giải của Phật giáo hiện nay.

Đức Phật giác ngộ và thuyết giảng về TỨ THÁNH ĐẾ, là giác ngộ Khổ đế, Tập
đế, Diệt đế, Đạo đế (giác ngộ bốn Chân lý hay bốn Sự thật về Khổ Tập Diệt Đạo).
SỰ GIÁC NGỘ KHÔNG PHẢI LÀ THẤY Khổ Tập Diệt Đạo mà là: HIỂU BIẾT
ĐÚNG SỰ THẬT về Khổ Tập Diệt Đạo. Vì sao vậy? Vì thấy Khổ, cảm nhận Khổ
thì Thánh Phàm đều tự mình cảm nhận được Khổ, không cần ai chỉ bày mà cái
phân biệt giữa Phàm và Thánh là HIỂU BIẾT hay NHẬN THỨC về Khổ, Nguyên
nhân Khổ, Chấm dứt Khổ và Con đường Chấm dứt Khổ (Khổ Tập Diệt Đạo).

Phàm phu Hiểu Biết về Khổ Tập Diệt Đạo một cách sai lạc, không đúng sự thật
và đó là tâm biết Ý thức Tà kiến, còn gọi là Vô minh, Không liễu tri Khổ. Và
Hiểu biết Vô minh, Tà kiến về Khổ Tập Diệt Đạo đó, sẽ chi phối toàn bộ đời
sống của Phàm phu. Bậc Thánh Hiểu Biết đúng sự thật Khổ Tập Diệt Đạo và đó
là tâm biết Ý thức Chánh kiến, còn gọi là Minh, là Trí tuệ, là Liễu tri Khổ. Và
Hiểu biết Minh, Chánh kiến về Khổ Tập Diệt Đạo đó, sẽ chi phối đời sống bậc
Thánh. Tuy Phàm phu có hiểu biết Vô minh, Tà kiến về Khổ Tập Diệt Đạo và bị
hiểu biết đó chi phối nhưng Phàm phu không thể phân tích, chỉ dẫn, hiển thị,
giảng giải về hiểu biết đó mà chỉ có bậc Thánh đã giác ngộ mới có thể phân tích,
chỉ dẫn, hiển thị, giảng giải về hiểu biết Vô minh, Tà kiến đó của Phàm phu.

1 - Phân biệt hiểu biết sai sự thật (Tà kiến) và hiểu biết đúng sự thật
(Chánh kiến) về Khổ:

 Phàm phu hiểu biết theo nguyên lý “Tâm biết Cảnh” nên mọi đối tượng được
thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức đều thuộc về Thế giới
ngoại cảnh. Vì vậy, Khổ là cái sẵn có, luôn luôn có, thường hằng, thường trú
trong thế giới ngoại cảnh và đó là những hoàn cảnh khó khăn, tồi tệ. Khi con
người sống trong những hoàn cảnh khó khăn tồi tệ như nghèo đói, lạc hậu,
thất học, bị thiên tai, bị áp bức, bệnh tật vv... thì người đó phải thọ lãnh khổ
từ những hoàn cảnh đó. Hiểu biết này là Tà kiến mang hai nội dung Thường
kiến (chấp thường) và Ngã kiến (chấp ngã). Tương tự như vậy, một số
trường phái Phật giáo cho rằng, tất cả các pháp sắc thọ tưởng hành thức là
khổ, nghĩa là khổ thường hằng, thường trú trong các pháp (chấp thường),
khổ là của các pháp đó (chấp ngã).

 Đức Phật thuyết minh Khổ là pháp duyên khởi, phát sinh theo những quá
trình nhân quả nối tiếp nhau theo định thức mười hai nhân duyên: Do Căn
Trần tiếp xúc mà có Thọ; do có Thọ mà có Ái; do có Ái mà có Thủ; do có
Thủ mà có Hữu; do có Hữu mà có Sinh; do có Sinh mà có Già Chết sầu bi
khổ ưu não không thể kể xiết. Nếu quan sát tỉ mỉ hơn, thì lộ trình nhân quả
đó là lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu:

XÚC - <Thọ - Tưởng> - Tà niệm - Tà tư duy - <Ý thức - Tà kiến> - Tham


Sân Si - Tà định - Dục - Tà tinh tấn - Phi như lý tác ý - Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà
mạng - Khổ hoặc Vui.

Như vậy, Khổ là Cảm Giác mà thuật ngữ Phật học gọi là Cảm Thọ (gọi tắt là
Thọ) thuộc nhóm Thọ trong năm nhóm Sắc Thọ Tưởng Hành Thức và Khổ thuộc
phạm trù Tâm chứ không phải thuộc Thế giới ngoại cảnh. Khổ do Căn Trần tiếp
xúc mà phát sinh nên có tánh chất Vô thường sinh diệt, không thường hằng,
không thường trú trong Thân (Sáu Căn), cũng không thường hằng, không thường
trú nơi Thế giới (Sáu Trần), không thường hằng, không thường trú trong Sắc Thọ
Tưởng Hành Thức. Khổ có tánh chất Vô chủ vô sở hữu, nghĩa là Sáu Căn và Sáu
Trần đều không phải là chủ nhân, chủ sở hữu khổ, không có Ta, Bản ngã, ông A,
bà B nào là chủ nhân, chủ sở hữu, lãnh thọ khổ cả (Vô ngã). Trong bài kinh
Chuyển Pháp Luân Đức Phật có nói: “Tóm lại Năm thủ uẩn là khổ” chứ không
phải “Năm uẩn là khổ” như các chú giải, luận giải sau này.
2 - Phân biệt hiểu biết sai sự thật (vô minh) và hiểu biết đúng sự thật
(minh) về Nguyên nhân của Khổ (Khổ tập khởi):

 Phàm phu cảm nhận khổ bằng tâm biết trực tiếp giác quan và tiếp theo tâm
biết ý thức khởi lên, biết nguyên nhân của khổ là từ thế giới ngoại cảnh mà
đến với mình. Khổ là từ những hoàn cảnh xấu xa tồi tệ như nghèo đói, lạc
hậu, thất học, bệnh tật, áp bức bất công, thiên tai lũ lụt vv... mà đến với ta.
Chính vì vậy, khi cảm nhận khổ liền oán trời trách đất, giận dữ, oán trách, đổ
lỗi cho người này người kia. Ví như, đi trong mưa bão ướt lạnh thì nghĩ ngay
đến khổ này do mưa bão gây nên; bị một con chó cắn đau thì nghĩ ngay khổ
này do con chó cắn; bị ông chồng chửi mắng, khổ khởi lên thì nghĩ ngay khổ
này do ông chồng gây ra ... Đa phần người người học Phật cho rằng nguyên
nhân khổ là do tội lỗi ở kiếp trước, do thiếu phước, do tổ tiên ông bà không
phù hộ, do oan gia trái chủ... Một số trường phái Phật giáo lại quan niệm,
nguyên nhân khổ là do các pháp vô thường theo lý luận: vì sắc thọ tưởng
hành thức vô thường cho nên sắc thọ tưởng hành thức là khổ.

 Bậc Thánh hiểu biết đúng sự thật nguyên nhân khổ là do hiểu biết vô minh
mà phát sinh tham sân si trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu. Và có
thể diễn tả tóm tắt lộ trình tâm Bát Tà Đạo từ <Ý thức - Tà kiến> đến Sầu bi
khổ ưu não, bằng các sơ đồ sau và là sự thật phổ quát đối với toàn thể nhân
loại (ngoại trừ các bậc Thánh Phật giáo):

- Đối tượng Dễ chịu (Lạc thọ) - Tham - Ràng buộc - Hoại khổ.

- Đối tượng khó chịu (Khổ thọ) - Sân - Ràng buộc - Khổ khổ.

- Đối tượng Trung tính (Bất khổ bất lạc thọ) - Si - Ràng buộc - Hành khổ.

(Để hiểu rõ lộ trình này tìm hiểu kỹ ở bài Liễu Tri Tham Sân Si và một số bài
khác)

Như vậy, Nguyên nhân Khổ là Tham Sân Si thuộc nội tâm chứ không phải thuộc
về thế giới ngoại cảnh, không phải là hoàn cảnh sống tồi tệ. Tham sân si cũng là
pháp duyên khởi nên nó vô thường sinh diệt, không thường hằng, không thường
trú đâu cả. Tham sân si là vô ngã nên không có Ta, Bản ngã, ông A, bà B nào là
chủ nhân, chủ sở hữu, điều khiển tham sân si cả.

Theo định luật duyên khởi, phải thuyết minh rõ ràng minh bạch: “Do cái gì có
mặt mà Khổ có mặt”. Câu trả lời rõ ràng, minh bạch là : “Do Tham Sân Si có mặt
mà Khổ có mặt”. Vậy, Tham Sân Si là nguyên nhân phát sinh Khổ.

3 - Phân biệt hiểu biết sai sự thật (vô minh) và hiểu biết đúng sự thật (minh)
về Khổ diệt hay Niết bàn:

 Phàm phu cho rằng, khi nào đạt được đầy đủ Hạnh phúc thì lúc đó Chấm dứt
Khổ, lúc đó Khổ diệt. Mà Hạnh phúc thì sẵn có, luôn luôn có, thường hằng
thường trú trong thế giới ngoại cảnh, trong sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm,
vị ngon, xúc chạm êm ái, trong những hoàn cảnh tốt đẹp như giàu có, khỏe
mạnh, thành đạt, danh tiếng vv... Chỉ khi nào ta làm chủ, ta sở hữu được
những hoàn cảnh tốt đẹp như ý muốn, ta có đầy đủ, tràn trề hạnh phúc, lúc đó
ta sẽ hết khổ. Một số trường phái Phật giáo cho rằng Niết bàn là đích đến của
sự tu hành, nơi đó có hạnh phúc chân thật tuyệt đối vĩnh cửu, nơi đó là
thường lạc ngã tịnh hoặc nơi đó là thường lạc vô ngã tịnh và đa phần dùng từ
“nhập Niết bàn” để chỉ cho hành vi nhập vào, đi vào, đến nơi cảnh giới có
hạnh phúc chân thật tuyệt đối vĩnh cửu của Niết bàn.

 Bậc Thánh tuệ tri Lý duyên khởi: “Do cái gì không có mặt, Khổ sẽ không có
mặt”. Câu trả lời rõ ràng, minh bạch của bậc Thánh sẽ là : “Khi Tham Sân Si
không có mặt thì Khổ không có mặt”. Lúc đó chính là Khổ diệt, Khổ chấm
dứt hay thuật ngữ Phật học gọi là Niết bàn. Trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo của
Phàm phu có Tham Sân Si nên có cả Khổ đau lẫn Hạnh phúc và trên lộ trình
tâm Bát Chánh Đạo của bậc Thánh không có Tham Sân Si, nên không có cả
Khổ đau lẫn Hạnh phúc. Vì vậy, khi Bát Chánh Đạo khởi lên, Chánh kiến sẽ
Tuệ tri trạng thái vắng lặng cả Khổ đau và Hạnh phúc và gọi đó là Niết bàn,
chứ không phải Niết bàn là trạng thái phúc lạc toàn vẹn, pháp hỷ sung mãn
hay hạnh phúc chân thật tuyệt đối. Kinh điển thường mô tả : “Niết bạn là
đoạn tận, đoạn trừ, đoạn ly, đoạn xả tham sân si”, nghĩa là, Niết bàn là sự
vắng bóng Tham sân si, vắng bóng Phiền não. Như vậy, Khổ diệt hay Niết
bàn không thuộc về Thế giới ngoại cảnh, không xảy ra nơi Thế giới ngoại
cảnh mà Khổ diệt, Niết bàn chỉ có mặt nơi lộ trình tâm Bát Chánh Đạo. Và
Khổ diệt, Niết bàn còn được gọi với các tên khác như Tâm giải thoát - Tuệ
giải thoát hay Không giải thoát - Vô tướng giải thoát - Vô tác giải thoát.

4 - Phân biệt hiểu biết sai sự thật (vô minh) và hiểu biết đúng sự thật
(minh) về Con đường Chấm dứt khổ:

 Phàm phu hiểu biết Khổ, Nguyên nhân Khổ, Chấm dứt Khổ (Hạnh phúc)
đều thuộc về Thế giới ngoại cảnh nên Con đường Chấm dứt Khổ là thay đổi
Thế giới ngoại cảnh, thay đổi hoàn cảnh sống, thay đổi môi trường sống.
Chính vì vậy mà mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi đất nước và toàn thể nhân
loại đang ngày đêm nỗ lực, lao tâm khổ trí để cải tạo, biến đổi hoàn cảnh
sống từ khó khăn tồi tệ sang tốt đẹp, hiện đại, sang giàu. Khoa học thì ra sức
khám phá để cải tạo, thay đổi thế giới. Người tu thì tổ chức tụng kinh, lễ bái,
cầu nguyện thế giới tâm linh, để tai qua nạn khỏi, để khỏe mạnh, giàu có,
hạnh phúc, để biến thế gian chiến tranh đau khổ thành thế giới hoà bình,
chúng sanh an lạc. Xa hơn nữa các tôn giáo chủ trương tu hành để sau khi
chết thì thay đổi được sự hiện hữu từ thế giới ta bà đau khổ tồi tệ sang một
thế giới cực lạc, một thiên đường, một nước Chúa, một Niết bàn vi diệu
không thể nghĩ bàn vv...

 Bậc Thánh hiểu biết đúng sự thật Khổ, Nguyên nhân Khổ, Chấm dứt Khổ
thuộc về Tâm chứ không thuộc về Thế giới ngoại cảnh, nên Con đường
Chấm dứt Khổ thuộc về Tâm chứ không thuộc về Cảnh. Và để Chấm dứt
Khổ là phải thay đổi Tâm chứ không phải thay đổi Thế giới ngoại cảnh. Cụ
thể là thay đổi tâm, từ lộ trình tâm Bát Tà Đạo có Vô minh, có Tham Sân
Si, có Phiền não sang lộ trình tâm Bát Chánh Đạo không có Vô minh,
không có Tham Sân Si, không có Phiền não. Lộ trình tâm Bát Chánh Đạo
gồm:

XÚC - <Thọ - Tưởng> - Chánh niệm - Chánh tích cực - Chánh định - [Tỉnh
giác] - Chánh tư duy - Ý thức Chánh kiến - Như lý tác ý - Chánh ngữ, Chánh
nghiệp, Chánh mạng.

- Nếu có Chánh niệm về thân, tức “Nhớ Đến chú tâm quán sát thân nơi thân” thì lộ
trình tâm Bát Chánh Đạo khởi lên gồm: XÚC - <Thọ - Tưởng> - Chánh niệm -
Chánh tích cực - Chánh định - [Tỉnh giác]. Đây gọi là tu CHỈ, dừng lại tâm biết
trực tiếp giác quan (Tưởng), vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt (bây giờ gọi với tên
khác là Tỉnh giác) nên không có Vô minh, không có Tham sân si, không có Phiền
não (Tâm giải thoát).

- Nếu có Chánh niệm về thọ, về tâm, về pháp, tức “Nhớ Đến chú tâm quán sát thọ
tâm pháp” thì lộ trình tâm Bát Chánh Đạo khởi lên gồm: XÚC - <Thọ - Tưởng> -
Chánh niệm - Chánh tích cực - Chánh định - [Tỉnh giác] - Chánh tư duy - Ý thức
Chánh kiến - Như lý tác ý - Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng. Đây là tu
QUÁN, lúc này có tâm biết Ý thức Chánh kiến, không còn tâm biết Ý thức Tà
kiến nên không có Vô minh, không có Tham sân si, không có Phiền não (Tuệ giải
thoát).

KẾT LUẬN: Người tu học Phật trước tiên phải được nghe giảng hoặc nghiên
cứu kinh điển để có hiểu biết đúng sự thật và phân biệt được hai loại hiểu biết Vô
minh và Minh về Khổ Tập Diệt Đạo. Trí tuệ đạt được do nghe như vậy gọi là
Văn Tuệ và Trí tuệ phân biệt giữa Vô minh và Minh như vậy gọi là Trạch Pháp
và chính là Trạch pháp giác chi, một trong bảy yếu tố giác ngộ (Thất giác chi).
Sau khi có Văn Tuệ phải tư duy, nghiền ngẫm để Văn Tuệ sâu sắc và toàn diện
hơn. Và Trí tuệ đạt được do tư duy như vậy gọi là Tư Tuệ. Sau khi có Văn Tuệ
và Tư Tuệ sẽ tu tập Bát Chánh Đạo với bốn loại Chánh niệm để TỰ MÌNH
KIỂM CHỨNG, TỰ MÌNH THÂN CHỨNG Văn Tuệ và Tư Tuệ đã học, đã tư
duy. Cụ thể là thân chứng Khổ diệt và Con đường Khổ diệt tức thân chứng Diệt
đế và Đạo đế. Vì vậy, khi tu tập Bát Chánh Đạo (chứ không phải Hành thiền vì
thiền chỉ là một chi phần Chánh định trong tám chi phần Bát Chánh Đạo) thì thân
chứng Khổ diệt, Niết bàn, lúc đó còn đâu khổ để mà thấy các pháp là khổ nữa.
Các chú giải, luận giải sau này, đang quanh quẩn nơi Bát Tà Đạo có Tham sân si,
có Khổ, chưa có hiểu biết về Bát Chánh Đạo, con đường vắng mặt Tham sân si,
vắng mặt Khổ, cho nên không thể thuyết minh, tu để thấy Hết khổ.

Về mục lục

Bài 068: TAM PHÁP ẤN, ĐÚNG HAY SAI?

PHÁP ẤN được hiểu là Dấu Ấn của Chánh Pháp, xác định đó là Chánh Pháp, là
Sự Thật do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng. Pháp Ấn là khái niệm phát
sinh sau này trong các Chú Giải, là chủ trương của các tông phái Phật Giáo mà
không có trong Tạng Kinh là tạng Đức Phật thuyết giảng. Vì vậy, hai trường phái
lớn là Bắc tông và Nam tông có chủ trương về Pháp Ấn khác nhau. Theo Nam
tông là TAM PHÁP ẤN gồm VÔ THƯỜNG, KHỔ, VÔ NGÃ, còn theo Bắc tông
là TỨ PHÁP ẤN gồm VÔ THƯỜNG, KHỔ, KHÔNG, VÔ NGÃ. Điều này được
hiểu là tất cả các pháp có tính chất, có tự tánh, có thực tánh theo Nam tông là Vô
thường, Khổ, Vô ngã, theo Bắc tông là Vô thường, Khổ, Không, Vô ngã.

Đương nhiên tính chất, tự tánh, thực tánh các pháp là VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ là
Sự Thật, là Chân Lý đã được Đức Phật thuyết giảng nhất quán, xuyên suốt toàn
bộ kinh điển nên không có gì phải bàn. Nhưng ở đây trong Tam Pháp Ấn và Tứ
Pháp Ấn của cả Nam tông và Bắc tông đều khẳng định: tính chất, tự tánh, thực
tánh các pháp là KHỔ, hay CÁC PHÁP LÀ KHỔ là điều cần phải quan sát lại với
trí tuệ.
1 - CÁC PHÁP LÀ KHỔ KHÔNG ĐÚNG SỰ THẬT:

 Nếu tất cả Danh và Sắc hay Năm Uẩn Sắc Thọ Tưởng Hành Thức là Khổ thì
Năm Uẩn nơi Phàm cũng là Khổ và Năm Uẩn nơi Thánh cũng Khổ. Như thế
một vị A La Hán cũng là Danh và Sắc, cũng là Năm Uẩn, cũng cứ là Khổ,
chứ không thể Khổ Diệt, Niết Bàn được. Và nếu như vậy, thì Đức Phật Giác
Ngộ và thuyết giảng về Khổ Diệt và Con đường Khổ Diệt (Diệt Đế và Đạo
Đế) là HƯ NGUỴ ư? Nhưng lời giảng của Đức Thế Tôn, Bậc Chánh Đẳng
Giác không thể hư nguỵ, vì vậy CÁC PHÁP LÀ KHỔ không đúng với Diệt
Đế và Đạo Đế mà Đức Phật thuyết giảng.

 Nếu các pháp là Khổ thì phải hiểu là Khổ sẵn có, tự nhiên có, luôn luôn có,
thường hằng, thường trú nơi các pháp, Khổ là của các pháp. Điều này là trái
với Sự thật Duyên Khởi, Khổ khởi lên phải do nhân do duyên. Đây chính là
tư tưởng Vô minh, là Thường kiến và Ngã kiến của Phàm phu theo mô thức
ngọt trong đường và của đường, mặn trong muối và của muối, ngon dở trong
thức ăn và của thức ăn, nóng trong lửa và của lửa, lạnh trong nước đá và của
nước đá... Do bị tư tưởng Vô minh che đậy, các LUẬN SƯ đã không THẤY
BIẾT NHƯ THẬT VỀ KHỔ, không Giác Ngộ KHỔ ĐẾ theo thuyết giảng
của Bậc Đạo Sư. Đức Phật đã dày công thuyết giảng, tất cả các pháp, kể cả
Khổ đều phát sinh theo Định Luật Duyên Khởi: "Do cái này có, cái kia có, do
cái này sinh, cái kia sinh. Do cái này không có, cái kia không có, do cái này
diệt, cái kia diệt". Ví như có viên đường và lưỡi (một người khoẻ mạnh) là
hai nhân nhưng chưa tiếp xúc thì chưa có "ngọt" nào cả. Khi Lưỡi tiếp xúc
với Viên đường thì phát sinh Cảm giác ngọt. XÚC sinh Cảm giác ngọt sinh
(Cái này có thì Cái kia có). XÚC diệt Cảm giác ngọt diệt (Cái này diệt thì
Cái kia diệt). Cảm giác ngọt sinh lên rồi diệt, nó Vô Thường, Vô Chủ (không
phải của đường hay của lưỡi). Vì vậy, "ngọt" không phải là vật chất mà là
Cảm Giác (hay Cảm Thọ) thuộc phàm trù Tâm, nó Vô thường, Vô chủ nên
nó không sẵn có, không luôn luôn có, không thường hằng, không thường trú
nơi viên đường, không phải của viên đường. Cũng y như vậy, Đức Phật cũng
đã thuyết minh, Khổ phát sinh theo một lộ trình Duyên Khởi: Do có Lục
Nhập mà có XÚC; do có XÚC mà có Thọ; do có Thọ mà có Ái; do có Ái mà
có Thủ; do có Thủ mà có Hữu; do có Hữu mà có Sinh Già Bệnh Chết, Sầu
Bi Khổ Ưu Não không thể kể xiết. Nghĩa là toàn bộ Khổ Uẩn TẬP KHỞI.
Lục Nhập - XÚC - Thọ - Ái - Thủ - Hữu - Sinh Già Bệnh Chết, Sầu Bi Khổ
Ưu Não. Hay quan sát tỉ mỉ hơn thì KHỔ phát sinh theo lộ trình Bát Tà Đạo:
XÚC - Thọ - Tưởng - Tà Niệm - Tà Tư Duy - Tà Tri Kiến - Tham Sân Si -
Tà Định - Dục - Tà Tinh Tấn - Phi như lý tác ý - Tà (ngữ, nghiệp, mạng) -
Sầu Bi Khổ Ưu Não, Sinh Già Bệnh Chết.

Như vậy, KHỔ LÀ PHÁP DUYÊN KHỞI, nó là CẢM THỌ, nó VÔ


THƯỜNG, VÔ NGÃ, nó không tự nhiên có, không sẵn có, không thường
hằng, thường trú trong Danh và Sắc, hay trong Sắc Thọ Tưởng Hành Thức.
Khổ bao gồm Khổ thọ trên thân và Hoại Khổ, Khổ Khổ, Hành Khổ thuộc về
Nội Tâm nhưng con người cảm nhận Hoại Khổ, Khổ Khổ, Hành Khổ bởi các
Cảm Giác khó chịu (Khổ thọ) do Nội Xúc bên trong các tế bào nội tạng gây ra
nên cũng là Cảm thọ.

 Các LUẬN SƯ cho rằng các pháp là Khổ, nghĩa là SẮC THỌ TƯỞNG
HÀNH THỨC LÀ KHỔ trái với thuyết giảng của Đức Phật trong toàn bộ
kinh điển mà mở đầu bằng bài kinh Chuyển Pháp Luân là: Sinh là Khổ, Già
là Khổ, Bệnh là Khổ, Chết là Khổ, Cầu mà không được là Khổ... TÓM LẠI
NĂM THỦ UẨN LÀ KHỔ. Năm Thủ Uẩn là Khổ chứ KHÔNG PHẢI NĂM
UẨN LÀ KHỔ như các Chú Giải chủ trương, nghĩa là CHẤP THỦ NĂM
UẨN là của Ta, là Ta, là Bản Ngã (Tự Ngã) của Ta sẽ phát sinh Tham Sân
Si, do Tham Sân Si mà XUNG ĐỘT với Thực Tại, do XUNG ĐỘT mà KHỔ
phát sinh.

 Các LUẬN SƯ đã không quán sát các pháp với Trí Tuệ nên đã y chỉ vào
Kinh điển, y chỉ vào một chi tiết hiểu biết sai không biết là do kết tập hay
truyền miệng sai lời văn là: "Sắc Thọ Tưởng Hành Thức là vô thường, nên
Sắc Thọ Tưởng Hành Thức là Khổ". Với lời văn này, ý nghĩa cần phải hiểu:
Nguyên nhân Khổ là do các pháp Vô thường, hay Vô thường là Nguyên
nhân Khổ. Điều này là hoàn toàn mâu thuẫn, trái ngược với thuyết giảng của
Đức Phật xuyên suốt kinh điển: Nguyên nhân Khổ là Tham ái bao gồm Dục
ái, Hữu ái, Phi Hữu ái. Đức Phật là bậc Đại Trí Tuệ đã đoạn diệt Vô minh,
không bao giờ lại tự mình mâu thuẫn với chính mình nên biết rằng " Sắc Thọ
Tưởng Hành Thức là vô thường, Cái gì vô thường thì cái đó là khổ" không
phải là lời dạy của Đức Thế Tôn.

 Đức Phật Giác Ngộ nhờ: Tuệ Tri sự tập khởi, sự đoạn diệt của Thọ, vị ngọt,
sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ. Ngài đã Giác Ngộ Thực Tại của Phàm
hay Thánh là Sáu loại Cảm Thọ do Sáu Căn và Sáu Trần tiếp xúc mà phát
sinh và mỗi một loại Cảm Thọ gồm ba là Lạc thọ, Khổ thọ và Bất khổ bất
lạc thọ. Thực Tại không phải chỉ có duy nhất là Khổ thọ, không chỉ duy nhất
là KHỔ mà còn có Lạc thọ, có VUI là Vị Ngọt. Vì có Lạc thọ, có Vui, có Vị
Ngọt nên Phàm phu mới Tham ái vị ngọt, nếu tất cả đều là Khổ thì đâu có
thể phát sinh Tham Ái. Đức Phật đã nói rõ: Ta đã tuệ tri vị ngọt là vị ngọt.
Nghĩa là Vị ngọt, Hạnh phúc là có thực nhưng nó là Cảm thọ, là Lạc thọ và
nó Vô thường, Vô chủ, Vô sở hữu vì thế nếu Tham ái Vị ngọt thì sẽ Nắm
giữ nên khi nó biến hoại, biến diệt, mất đi, Sầu Bi Khổ Ưu Não sẽ khởi lên.
Đây là sự nguy hiểm, Tham ái vị ngọt là nguy hiểm vì nó đưa đến Khổ. Các
LUẬN SƯ vì bị Vô minh Thường kiến và Ngã kiến che đậy, KHÔNG
THẤY BIẾT NHƯ THẬT lời dạy của Bậc Đạo Sư VỀ KHỔ đã chủ trương
sai lạc, xuyên tạc lời dạy của Phật thành CÁC PHÁP LÀ KHỔ và đã "Nhồi
Sọ" tư tưởng đó cho biết bao thế hệ, làm cho họ không biết được SỰ THẬT
VỀ KHỔ. Hiện trạng này giống như trong kinh điển đã đưa ra hình ảnh một
đoàn người mù ôm nhau mà đi, người trước không thấy, người giữa không
thấy, người sau không thấy. Chủ trương hành thiền Vipassana hay Minh Sát
để THẤY CÁC PHÁP LÀ KHỔ là Hoang Tưởng và nếu có người nào
Hoang Tưởng đến độ THẤY CÁC PHÁP LÀ KHỔ, thì cũng giống như
người bị bệnh trầm cảm rất nặng, họ cũng Hoang Tưởng TẤT CẢ LÀ KHỔ
thì họ sẽ tìm cách tự sát.

2 - GIÁC NGỘ TỨ THÁNH ĐẾ LÀ GIÁC NGỘ VỀ KHỔ:

Giác Ngộ về Khổ là THẤU TRIỆT bốn phương diện của Khổ. Đó là:

 THẤU TRIỆT KHỔ: Là hiểu thấu thực tánh Duyên khởi, thực tánh Vô
thường, Vô ngã (Vô chủ, Vô sở hữu) của Khổ, do quán sát quá trình
Duyên khởi lên Bát Tà Đạo, Duyên khởi lên Khổ, do vậy Chấm dứt
được tà kiến là Thường kiến và Đoạn kiến về Khổ (Chấp Có và Chấp
Không về Khổ).

 THẤU TRIỆT TẬP KHỞI KHỔ: Là hiểu thấu Nguyên Nhân phát sinh Khổ
là Tham Sân Si trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo.

 THẤU TRIỆT ĐOẠN DIỆT KHỔ: Là khi Bát Tà Đạo được nhiếp phục
hoặc đoạn tận thì Tham Sân Si được nhiếp phục hoặc đoạn tận, lúc đó có
Khổ Diệt hay Niết Bàn. Nhiếp phục là hữu học, đoạn tận là vô học.

 THẤU TRIỆT CON ĐƯỜNG ĐOẠN DIỆT KHỔ: Là khi Bát Chánh Đạo
siêu thế khởi lên sẽ nhiếp phục và đi đến Đoạn tận Bát Tà Đạo.

Khi đã THẤU HIỂU và ĐẠT ĐƯỢC Tứ Thánh Đế sẽ phân biệt rành rẽ HAI
THỰC TẠI Thế Gian và Xuất Thế Gian. THỰC TẠI không phải là THẾ GIỚI
ngoại cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp mà THỰC TẠI, những đối tượng
Thấy, Nghe, Cảm Nhận LÀ SÁU CẢM THỌ do SÁU CĂN (của người đó) tiếp
xúc với THẾ GIỚI mà phát sinh. THỰC TẠI mỗi mỗi người là khác nhau tuy rất
vi tế và phân thành hai loại: THỰC TẠI THẾ GIAN của Phàm phu phát sinh theo
lộ trình Bát Tà Đạo, THỰC TẠI XUẤT THẾ GIAN của bậc Thánh phát sinh theo
lộ trình Bát Chánh Đạo.

a - THỰC TẠI THẾ GIAN của Phàm phu có VÔ THƯỜNG, KHỔ, VÔ NGÃ,
BẤT TỊNH. Nghĩa là trong THỰC TẠI THẾ GIAN các pháp đều Vô Thường, Vô
Ngã, có KHỔ (Sầu Bi Khổ Ưu Não, Khổ của Sinh Già Bệnh Chết) chứ không phải
tất cả pháp trong thực tại này là Khổ. BẤT TỊNH nghĩa là Niềm vui, Hạnh phúc,
Dục lạc thế gian vui ít khổ nhiều, não nhiều mà nguy hiểm càng nhiều hơn. Đó là
Phàm phu lạc, Ô uế lạc, Bất tịnh lạc chứ BẤT TỊNH không phải là Thân bất tịnh.

b - THỰC TẠI XUẤT THẾ GIAN của bậc Thánh khởi lên khi tu tập Bát Chánh
Đạo siêu thế có VÔ THƯỜNG, KHỔ DIỆT, VÔ NGÃ, THANH TỊNH. Nghĩa là
trong THỰC TẠI XUẤT THẾ GIAN các pháp đều Vô Thường, Vô Ngã,
KHÔNG CÓ KHỔ. THANH TỊNH nghĩa là có hỷ lạc của Sơ thiền, hỷ lạc của
Nhị thiền, lạc của Tam thiền và hiện tại lạc trú của Tứ thiền không còn vui ít khổ
nhiều nữa mà hoàn toàn vô hại, được gọi là Thánh lạc, Chánh giác lạc, An tịnh
lạc. Đó là nghĩa Thanh Tịnh chứ không phải là Thân thanh tịnh.

Về mục lục

Bài 069: LẠC TU NHANH CHỨNG

Trong Tăng Chi Bộ Kinh có đề cập đến bốn cách tu, bốn cách chứng ngộ và đánh
giá của Đức Phật:

1 - Một là Khổ tu mà Chậm chứng. Đức Phật nói, đó là hạ liệt.

2 - Hai là Khổ tu mà Nhanh chứng. Đức Phật cũng cho là hạ liệt.

3 - Ba là Lạc tu mà Chậm chứng. Đức Phật vẫn cho là hạ liệt.

4 - Bốn là LẠC TU mà NHANH CHỨNG. Đây là pháp tu mà Đức Phật tán thán.

Vậy thế nào là Lạc tu mà Nhanh chứng?

a - Lạc tu: Đó là sự tu tập Bát Chánh Đạo, xảy ra theo lộ trình Văn - Tư - Tu.
Trong đó Văn và Tư là Nghe giảng (hoặc tự mình nghiên cứu) và Tư duy về những
điều đã nghe để Hiểu biết đúng sự thật về Khổ Tập Diệt Đạo. Đây là bước chuẩn bị
và gọi là Bát Chánh Đạo hiệp thế (thế gian) vì đang phải sử dụng tâm Bát Tà Đạo
của Phàm phu để học và tư duy về Tứ Thánh Đế. Tu là sự thực hành để khởi lên lộ
trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế của bậc Thánh với: Chánh Niệm - Chánh Tinh
Tấn - Chánh Định - [Tỉnh Giác] - Chánh Tư Duy - Chánh Kiến - Như Lý Tác Ý -
Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng. Khi Bát Chánh Đạo siêu thế khởi lên, thì
lộ trình tâm đó Vắng mặt Khổ, hay Khổ diệt, là một trạng thái vắng lặng, bình an
nhưng sẽ có hỷ lạc do Chánh Định phát sinh, cụ thể là hỷ lạc do ly dục sanh của Sơ
thiền, hỷ lạc do định sanh của Nhị thiền, lạc do xả sanh của Tam thiền và hiện tại
lạc trú của Tứ thiền. Đây chính là Lạc tu, nghĩa là khi thực hành có lạc có hỷ, có
Khổ Diệt, Niết bàn.

b - Nhanh chứng: Với hiểu đúng và tu đúng có được Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ
như vậy, Đức Phật đã khẳng định:

Trong bài kinh “Nhất Dạ Hiền Giả: "Trú như vậy nhiệt tâm; Đêm ngày không mệt
mỏi; Xứng gọi Nhất dạ Hiền. Bậc an tịnh trầm lặng”. Đức Phật khẳng định, chỉ cần
thực hành tích cực trọn một đêm ngày là trở thành một bậc Hiền, một bậc Thánh
nhập lưu.

Trong bài kinh Tứ Niệm Xứ: Ai tu pháp này trong 7 năm, 6 năm, 5 năm, 4 năm, 3
năm, 1 năm hoặc trong 7 tháng, 6 tháng, 5 tháng... 1 tháng, nửa tháng và tối thiểu 7
ngày thì sự chờ đợi người đó là Chánh trí trong hiện tại và nếu còn dư sót là quả Bất
lai. Nghĩa là ai tu Bát Chánh Đạo bằng cách thực hành bốn loại Chánh Niệm (Tứ
Niệm Xứ) trong thời gian từ 7 ngày cho đến 7 năm thì sẽ đạt quả A La Hán ngay
trong hiện tại và nếu không được thì sẽ là quả Bất Lai (nghĩa là sau khi chết thì hoá
sanh làm chư thiên và tại đấy nhập diệt, không trở lại cuộc đời này nữa).

Trong các bộ kinh Nikaya cũng đã nhiều lần khẳng định: Không thể chứng ngộ Tứ
Thánh Đế với khổ và ưu mà chỉ có thể chứng ngộ Tứ Thánh Đế với lạc và hỷ. Và
trong kinh có thí dụ rất thuyết phục: Nếu chứng ngộ Tứ Thánh Đế với khổ và ưu thì
chỉ cần sáng đánh 100 hèo, chiều đánh 100 hèo, tối đánh 100 hèo là chứng ngộ khổ
và ưu ngay, đâu cần tu tập Bát Chánh Đạo nữa. Nếu hiểu sai và tu tập sai Bát Chánh
Đạo thì có tu vô vàn a tăng kỳ kiếp thì vẫn là phàm phu không thể giác ngộ Tứ
Thánh Đế. Nếu tu tập Bát Chánh Đạo mà chưa đạt được Chánh Định với mức độ tối
thiểu là Sơ thiền (hoặc Nhị, Tam, Tứ thiền) thì lộ trình tâm đó vẫn chỉ là Bát Tà Đạo
với khổ và ưu nên vẫn đau nhức, hôn trầm, phóng tâm, không thể hiểu được Lạc tu
là như thế nào. Đa phần người tu vì bị dẫn dắt bởi các chú giải sai lạc, không hiểu
được Lạc tu Nhanh chứng mà Phật đã dạy nên lý giải tu để đạt quả A La Hán là phải
ba bốn a tăng kỳ kiếp nên dễ duôi, không tinh tấn trong kiếp hiện tại để chấm dứt
luân hồi. Một số trường phái tin theo Chú giải nên có quan điểm, tu là để thấy các
pháp “vô thường, khổ, vô ngã” nên các thiền sư đó thường hỏi người tu khi trình
pháp là hôm nay đã thấy khổ chưa và trong Tuệ Minh Sát có đề cập, tu sẽ đến lúc
đạt được “Tuệ hoảng sợ” do thấy được khổ khi tu. Tu là để hiểu biết đúng sự thật,
và đó Chánh kiến, là Tuệ đưa đến chấm dứt mọi lo lắng, mọi sợ hãi, mọi đau khổ.
Vì thế nếu Tuệ Minh Sát đó mà đưa đến hoảng sợ thì đó là hiểu biết vô minh của
Phàm phu. Hiểu và tu như vậy là sai, vì khi chưa tu đã thấy khổ rồi mới tu, bây giờ
tu cũng để thấy khổ thì tu để làm gì. Phải hiểu rằng, khi chưa tu đã thấy Khổ, còn
bây giờ tu là để thấy Khổ Diệt, để thấy Hết Khổ, để thấy lạc hỷ của Bát Chánh Đạo
nên gọi là Lạc tu. Trong kinh điển cũng có nói đến Nhàm chán thực tại thế gian và
Tham muốn thực tại Xuất thế gian, tuy vẫn là Tham và Sân nhưng cần phát triển
viên mãn vì nó thuộc Dục Như Ý Túc. Dục Như Ý Túc do Văn tuệ và Tư tuệ khởi
lên trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo nên được gọi là Bát Chánh Đạo hiệp thế, là bước
chuẩn bị để khởi lên Bát Chánh Đạo siêu thế nhưng khi tu tập đã khởi lên Bát
Chánh Đạo siêu thế rồi thì Dục Như Ý Túc diệt, không còn Tham muốn thực tại
Xuất thế gian, cũng không còn hoảng sợ chán ghét thực tại Thế gian nữa.

Về mục lục

Bài 070: THỰC TẠI LÀ CẢM THỌ


Thực tại là những sự thật của đời sống nhân loại, là những sự vật, hiện tượng
đang xảy ra trong giây phút hiện tại. Ví như, khi Mắt THẤY đối tượng, tiếp đến
BIẾT đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao. Do BIẾT đối tượng như vậy mà sẽ
phát sinh THÁI ĐỘ thích hay ghét đối tượng. Do THÁI ĐỘ với đối tượng như
vậy mà phát sinh PHẢN ỨNG với lời nói hoặc hành động với đối tượng. Do
PHẢN ỨNG với đối tượng như vậy mà phát sinh KẾT QUẢ là Khổ hay Vui. Lộ
trình tương tự như vậy đều xảy ra với tất cả Sáu Căn và Sáu Trần. Vậy thì trong
đời sống nhân loại, ĐỐI TƯỢNG được thấy, được nghe, được ngửi, được nếm,
được xúc chạm, được tưởng ra gọi tắt là THẤY, rất quan trọng. Vì rằng, THẤY
rồi BIẾT, rồi THÁI ĐỘ, rồi PHẢN ỨNG, rồi KẾT QUẢ đều là với ĐỐI TƯỢNG
của Thực Tại. ĐỐI TƯỢNG của thực tại là cái gì ? Nó có hay không có, thật hay
giả đang còn là tranh cãi giữa quan điểm Duy vật và Duy tâm chưa có hồi hết.
Hiểu biết của nhân loại cho dù là Duy tâm hay Duy vật, đều cho rằng THỰC TẠI
là THẾ GIỚI được phân chia thành HAI PHẠM TRÙ, Thế giới vật chất và Thế
giới tinh thần mà thuật ngữ Phật học gọi là DANH và SẮC. Nói một cách khác
thì Thực Tại bao gồm Cái Biết và Đối Tượng được biết, trong đó Cái Biết là Tâm
và đối tượng được biết là Cảnh (Vật), là Thế Giới. Cụ thể là Nhãn thức thấy Sắc
trần, Nhĩ thức nghe Thanh trần, Tỉ thức cảm nhận Hương trần, Thiệt thức cảm
nhận Vị trần, Thân thức cảm nhận Xúc trần, Ý thức biết Pháp trần. Đây gọi là Nhị
Nguyên Tâm Vật trong hiểu biết của nhân loại.

1 - QUAN ĐIỂM DUY VẬT:

Quan điểm Duy vật chấp nhận một "Tiên Đề" là Thế giới vật chật vốn tự có,
không sinh không diệt (vật chất không sinh ra cũng không mất đi mà chỉ biến đổi
từ vật này sang vật khác, từ trạng thái này sang trạng thái khác) và Tinh thần là
sản phẩm phát sinh từ vật chất. Vì vậy, Vật Chất có trước Tinh Thần có sau và
Thực Tại mà nhân loại đang sống là Thế Giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp
trần. Tất cả mọi ĐỐI TƯỢNG được Thấy, Nghe, Cảm Nhận như to nhỏ, vuông
tròn, dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng mềm thô mịn, đàn
ông, đàn bà, xe cộ, người vật, hạnh phúc, khổ đau, sum la vạn tượng... là Thế Giới
vật chất, hoặc là tính chất của Thế giới vật chất.

 Mọi Sắc pháp đã SẴN CÓ, LUÔN LUÔN CÓ, THƯỜNG HẰNG,
THƯỜNG TRÚ trong thế giới vật chất. Ví như, ngọt có trong đường, mặn
trong muối, ngon dở trong thức ăn, cứng mềm thô mịn, nặng nhẹ có trong
địa đại, sự sống có trong các hạt vật chất, năng lượng có trong dầu lửa, trong
ánh sáng...

 Mọi Danh pháp như hiểu biết, cảm xúc, thái độ... đều do hoạt động của vật
chất não bộ mà hình thành. Sự nhận thức là nhận thức về thế giới: "Thế giới
khách quan được phản ánh qua đầu óc chủ quan của con người". Chính vì
vậy: ĐỐI TƯỢNG vật chất là cái có trước và TÂM BIẾT đối tượng là cái có
sau và trong hiểu biết đó xuất hiện cặp đôi: CHỦ THỂ và ĐỐI TƯỢNG, chủ
thể nhận thức và đối tượng được nhận thức, và đó là Bản Ngã và Thế Giới.
Quan điểm Duy Vật phủ nhận hoàn toàn một thế giới tâm linh không sinh
không diệt, phủ nhận một Linh hồn, một Phật tánh, một Thế giới bản thể vô
tướng, một Chân tâm thường trụ, một Thượng đế, một Tâm thức không sinh
không diệt, phủ nhận sự tái sinh luân hồi.

 Quan điểm Duy vật cũng thấy các Sắc pháp đang biến đổi từ vật này sang
vật khác từ dạng này sang dạng khác theo quy luật Nhân Quả: Nhân chính
biến đổi thành Quả có Nhân phụ hoặc Duyên trợ giúp (không biết như thật
hai nhân bình đẳng tương tác nhau rồi cùng diệt mới phát sinh quả) nên nhân
trong quả, quả trong nhân, nhân và quả tương tức tương nhập, nên "Một có
trong Tất Cả, Tất Cả có trong Một".

 Hạnh Phúc và Khổ Đau: Quan điểm Duy vật như vậy đã thâm căn cố đế
trong tâm thức, nên nhân loại cho rằng Hạnh phúc sẵn có, thường hằng,
thường trú trong Thế giới ngoại cảnh, trong sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm,
vị ngon, xúc chạm êm ái, Đau khổ cũng sẵn có, thường hằng, thường trú nơi
những hoàn cảnh khó khăn tồi tệ của Thế giới ngoại cảnh. Chính sự nhận
thức Khổ, Nguyên nhân Khổ, Sự chấm dứt Khổ (là Hạnh phúc) sẵn có nơi
thế giới ngoại cảnh nên Con đường chấm dứt Khổ là thay đổi thế giới ngoại
cảnh. Hiểu biết Khổ Tập Diệt Đạo nơi thế giới ngoại cảnh theo Duy vật như
vậy đang từng giây phút chi phối đời sống nhân loại và vì vậy mà nhân loại
đang cố gắng học hỏi, khám phá thế giới để thay đổi nó. Từng giây phút một
có vô vàn lao tâm khổ trí, vô vàn phát minh để thay đổi thế giới với hy vọng
giúp cho loài người hết khổ. Chính vì vậy mà con người lao vào học tập
nghề nghiệp để sản xuất, buôn bán, kinh doanh, lao vào những cuộc cạnh
tranh vô cùng khốc liệt để giành giật, chiếm hữu, sở hữu những đối tượng
vật chất tốt đẹp, để chấm dứt khổ. Nhưng mặc cho thế giới đang thay đổi
từng giây phút một, có nhiều cái tốt đẹp hơn rất nhiều cái đã qua nhưng loài
người thì không hết khổ mà chỉ đổi cái khổ này lấy cái khổ khác mà thôi. Vì
sao vậy? Tại vì, hiểu biết THỰC TẠI, hiểu biết Khổ Tập Diệt Đạo theo quan
điểm Duy vật như vậy là sai sự thật, là vô minh, tà kiến. Quan điểm Duy vật
được Đức Phật gọi là THƯỜNG KIẾN hay CHẤP CÓ.

2 - QUAN ĐIỂM DUY TÂM:

Quan điểm Duy tâm lại mặc định một "Tiên Đề" là có một Thế giới tâm linh
không sinh không diệt được hiểu như một Tâm Thức Vũ Trụ với các tên gọi khác
nhau tuỳ theo các tôn giáo (Thượng đế, Đức Chúa Trời, Đại Ngã, Đấng Sáng Tạo,
Chân Không, Tánh Không, Thế Giới Bản Thể, Chân Tâm Thường Trụ, Phật
Tánh...) và Thế giới vật chất có sanh có diệt mà con người đang sống là do Năng
Lực của Thế giới tâm linh hoá hiện ra và điều khiển. Và như vậy, Thế giới tâm
linh (Tinh thần) có trước Thế giới vật chất có sau.

 Mọi Danh pháp được giải thích theo truyền thống Duy tâm của kinh Cựu
Ước là từ Đức Chúa mà đến với con người như truyền thuyết đã mô tả. Đức
Chúa làm ra A-đam và E-va và Chúa đã thổi linh hồn của Ngài vào hai thân
thể được Chúa nặn ra. Và đó là thuỷ tổ loài người với linh hồn từ Chúa trao
truyền. Tiểu ngã và Đại ngã của Bà-la-môn giáo cũng được hiểu tương tự.
Một số trường phái Phật Giáo Phát Triển chủ trương Tánh Thấy, Tánh Nghe
rồi Phật Tánh, Chân Tâm không sinh không diệt nơi mỗi chúng sinh thực
chất cũng theo "lối mòn" Duy tâm mà chủ trương có một Tâm Thức Vũ Trụ,
không sinh không diệt như vậy, thực chất là tên gọi khác của Thượng đế toàn
năng của Cựu ước mà thôi. Tuy chủ trương có tâm thức không sinh không
diệt như vậy nhưng Phật Giáo Phát Triển vẫn không lập luận được rõ ràng
nên rất mơ hồ, trừu tượng, là Tâm thức vũ trụ đó làm sao mà vào cư ngụ
được trong thân thể con người, không rõ ràng, minh bạch như lập luận của
Cựu Ước là Chúa thổi linh hồn Chúa vào trong mỗi người. Hiểu biết theo
quan điểm Duy tâm đã ăn sâu, bám rễ trong kho chứa tri thức, hiểu biết của
nhân loại nên đa số người học Phật và thậm chí có tông phái còn thuyết minh
Tâm thức cư ngụ trong thể xác lấy sáu căn làm sáu cửa để thấy biết Thế giới
và khi thân xác tan rã nó lại thoát ra đầu thai vào một thân xác mới. Nói tóm
lại quan điểm Duy tâm cho rằng có một Tâm Thức Vũ Trụ TỰ CÓ, không
sinh không diệt được gọi bằng các tên gọi khác nhau tuỳ theo mỗi tôn giáo,
là Thượng đế, là Đức Chúa, là Tạo Hoá, là Đại ngã, là Chân tâm thường trụ,
là Thế giới bản thể, là Phật tánh, là Tánh thấy Tánh nghe không sinh không
diệt... "THẤM NHUẦN" vào mọi chúng sanh. Và khi một chúng sanh tu
hành đã thành mãn thì cái linh hồn, tiểu ngã, Phật tánh, Tánh thấy tánh nghe
không sinh không diệt nơi chúng sanh đó sẽ không còn bị giam hãm trong
cái thể xác vô thường này nữa mà trở về hoà nhập với Tâm thức vũ trụ không
sinh diệt ban đầu đó.

 Mọi Sắc pháp đều do năng lực tâm linh của Tâm thức vũ trụ hay Thượng đế
toàn năng hoá hiện ra như Cựu Ước đã mô tả, Đức Chúa đã làm ra Thế Giới
này trong sáu ngày. Mọi quy luật, mọi định luật về vận hành của thế giới vật
chất này đều do năng lực thế giới tâm linh sáng chế và điều khiển. Cũng y
như vậy, Phật giáo Đại thừa là Phật giáo phát triển sau này đã y chỉ theo tư
tưởng Duy tâm này mà phát kiến ra rất nhiều cách nói khác nhau để giải
thích về thế giới vật chất hiện tượng sinh diệt là do năng lực tâm linh tạo ra.
Đó là "Nhất thiết duy tâm tạo" nghĩa là tất cả các pháp (các sự vật hiện
tượng) đều do Tâm tạo ra. Ví như, Do nguyện lực của Phật A Di Đà mà Thế
giới Tây Phương Cực Lạc được phát sinh ra, như thuyết A lại da duyên khởi,
Chân như duyên khởi, Tánh không duyên khởi... đều cùng một lối tư duy là
Thế giới bản thể, Chân đế, Chân Không tuyệt đối vô tướng là nền tảng mà từ
đó thế giới hiên tượng vật chất sinh diệt (Tục đế) được biểu hiện ra.

 Hạnh Phúc và Khổ Đau: theo quan điểm Duy tâm vẫn có trong thế giới vật
chất, như Hạnh phúc có trong tiền bạc, tài sản, có trong sắc đẹp, tiếng hay...
Khổ Đau có mặt trong người hoàn cảnh khó khăn, tồi tệ. Nhưng những thứ
vật chất tốt đẹp hay tồi tệ đó mà con người có được đều do Thế giới tâm linh
"Thưởng Phạt" con người. Theo Cựu Ước thì sở dĩ loài người chịu nhiều đau
khổ hiện nay là do bị Chúa trừng phạt vì tội lỗi của tổ tông. Đó là tội của A-
đam và E-va ăn quả cấm cây tri thức trong vườn địa đàng mà Chúa đã ra lệnh
cấm ăn. Trong tín ngưỡng Á đông, mọi may mắn hanh thông hay trắc trở thất
bại trong cuộc đời đều do tổ tiên đã quá vãng phù hộ hoặc trừng phạt. Như
vậy, Duy tâm hiểu biết Khổ, Nguyên nhân Khổ là sự trừng phạt từ Thế giới
tâm linh, Sự chấm dứt Khổ là Hạnh phúc từ Thế giới tâm linh ban tặng. Vì
vậy, Con đường chấm dứt Khổ là thờ phụng, ăn năn, lễ bái, cầu nguyện, làm
hài lòng mãn nguyện thế giới tâm linh. Các tôn giáo đều chủ trương Hạnh
phúc tuyệt đối là nơi thế giới tâm linh, hạnh phúc thế gian này là giả tạm,
không thật. Chỉ khi nào tu hành thành mãn, linh hồn được hoà nhập vào thế
giới tâm linh đó mới là hạnh phúc tuyệt đối vĩnh cửu. Cũng không ngoại lệ,
một số tông phái Phật Giáo phát triển dựa trên tư tưởng Duy tâm, xem Niết
Bàn là Bản thể tuyệt đối có tính chất Thường Lạc Ngã Tịnh nên khi tu hành
thành mãn thì Phật tánh không còn luân hồi, không còn bị giam giữ trong
thân xác vô thường mà nhập vào Niết Bàn, nơi đó là Hạnh phúc chân thật,
tuyệt đối, vĩnh cửu. Chính vì tin vào Hạnh phúc hay Đau khổ từ Thế giới tâm
linh thưởng phạt con người mà các tín đồ tôn giáo hàng ngày tụng kinh, trì
chú, cầu nguyện, lễ bái, ăn năn sám hối, xây dựng nhà thờ, đền miếu, bảo
tháp nguy nga đồ sộ, lăng mộ hoành tráng, tôn thờ xá lợi, nghi lễ trang
nghiêm, hiến tế đầy đủ, giỗ chạp linh đình, cầu siêu bạt độ... với hy vọng có
được phước báo, hạnh phúc từ thế giới tâm linh ban thưởng. Đó chính là vô
minh, là tà kiến.

Quan điểm Duy tâm được Đức Phật xếp vào ĐOẠN KIẾN hay CHẤP KHÔNG.

3 - GIÁC NGỘ THỰC TẠI CẢM THỌ CỦA ĐỨC PHẬT:

Cho dù là Duy vật hay Duy tâm đều hiểu biết Thực Tại mà con người đang sống
là Thế giới ngoại cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần. Trên thế gian này, từ
cổ chí kim, độc nhất vô nhị, có một con người không thầy chỉ dạy đã tự mình giác
ngộ sự thật thực tại này là Cảm Thọ. Đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Bản kinh Phạm Võng là bản kinh đầu tiên của Trường Bộ Kinh, một bản kinh dài
nhưng được cấu trúc đặc biệt nhằm đăng tải và chỉ rõ tuyên bố về sự giác ngộ của
Đức Phật là giác ngộ thực tại Cảm thọ. Tuy bài kinh đề cập rất nhiều chủ đề
nhưng đều nhằm mục đích nhấn mạnh tuyên bố được lặp đi lặp lại gần cả trăm
lần trong bản kinh của Đức Phật: "Này các Tỷ kheo, Như Lai nhờ như thật tuệ tri
sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ mà Như Lai
được giải thoát hoàn toàn không còn chấp thủ". Muốn hiểu rõ được sự giác ngộ
của Đức Phật, phải quan sát sự thật thực tại khi sáu căn tiếp xúc sáu trần và tuệ tri
Sáu Xúc Xứ đó.

a - Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ:

 ĐỐI TƯỢNG của Thực Tại là CẢM THỌ: Ví như một người khoẻ mạnh khi
ăn khúc mía khởi lên hiểu biết: khúc mía ngọt, nghĩa là NGỌT là tính chất
vật chất, sẵn có, thường xuyên có, thường hằng, thường trú nơi khúc mía, là
của khúc mía. Đây là quan điểm Duy vật. Nhưng cũng với khúc mía đó một
người khác bị bệnh đã 6 - 7 ngày khi ăn lại thấy cây mía đắng và người ấy
kết luận NGỌT không có trong cây mía, NGỌT không có thật, Ngọt do tâm
tạo. Đây là quan điểm Duy tâm. Nếu quan sát sự thật: Khúc mía là một nhân
và Lưỡi là nhân thứ hai. Có hai nhân nhưng chưa tiếp xúc với nhau thì chưa
có NGỌT hay ĐẮNG nào xuất hiện. Khi hai nhân Lưỡi và Khúc mía tiếp
xúc nhau thì lập tức phát sinh CẢM GIÁC NGỌT (hay ĐẮNG tuỳ khoẻ hay
bệnh) và đồng thời phát sinh cái biết trực tiếp giác quan THIỆT THỨC ghi
nhận hay nhận biết CẢM GIÁC NGỌT. Lưỡi tiếp xúc Khúc mía (Vị trần)
phát sinh: <Cảm giác ngọt - Thiệt thức>. XÚC sinh thì <Cảm giác ngọt -
Thiệt thức> sinh, XÚC diệt thì <Cảm giác ngọt - Thiệt thức> diệt. Vì thế,
Cảm giác ngọt và Thiệt thức sinh lên rồi diệt đi, không thường hằng, không
thường trú nơi khúc mía, hay nơi lưỡi nên nó Vô Thường. Cảm giác ngọt và
Thiệt thức không phải của Lưỡi, cũng không phải của Khúc mía nên nó Vô
Chủ (Vô ngã). Vậy ĐỐI TƯỢNG của Thực Tại là CẢM GIÁC NGỌT (hay
ĐẮNG) thuộc phạm trù Tâm chứ không phải là KHÚC MÍA NGỌT thuộc
Thế giới vật chất. THIỆT THỨC biết CẢM GIÁC NGỌT chứ không phải
THIỆT THỨC biết KHÚC MÍA NGỌT. Sự thực là Tâm biết Tâm (Cảm
giác) chứ không phải Tâm biết Cảnh (Thế giới) như hiểu biết của nhân loại.
Tương tự như vậy:

- Mắt tiếp xúc Sắc trần phát sinh: < Cảm giác hình ảnh - Nhãn thức>

- Tai tiếp xúc Thanh trần phát sinh: <Cảm giác âm thanh - Nhĩ thức>

- Mũi tiếp xúc Hương trần phát sinh: <Cảm giác mùi - Tĩ thức>

- Lưỡi tiếp xúc Vị trần phát sinh: <Cảm giác vị - Thiệt thức>

- Thân với Xúc trần phát sinh: <Cảm giác xúc chạm - Thân thức>

- Ý tiếp xúc Pháp trần phát sinh: <Cảm giác pháp trần - Tưởng thức>.

Năm cảm giác hình ảnh, âm thanh, mùi, vị, xúc chạm xảy ra liền được lưu vào
kho chứa dưới dạng thông tin đã được mã hoá. Khi Ý tiếp xúc Pháp thì các Cảm
giác đó được "tái hiện" lại và gọi đó là Cảm giác pháp trần và ghi nhận hay nhận
biết Cảm giác pháp trần là Tưởng thức. ĐỐI TƯỢNG của Thực Tại, những gì
được thấy, được nghe, được cảm nhận là sáu loại Cảm giác, bao gồm: Cảm giác
hình ảnh, Cảm giác âm thanh, Cảm giác mùi, Cảm giác vị, Cảm giác xúc chạm và
Cảm giác pháp trần thuộc phạm trù Tâm chứ không phải là thế giới Sắc Thanh
Hương Vị Xúc Pháp thuộc phạm trù vật chất như hiểu biết sai của nhân loại. Các
Cảm giác này do Căn Trần tiếp xúc mà sanh ra, nên nó Vô thường, Vô chủ (Vô
ngã). SỰ THẬT là Nhãn thức thấy Cảm giác hình ảnh chứ không phải Nhãn thức
thấy Sắc trần. Nhĩ thức nghe Cảm giác âm thanh chứ không phải Nhĩ thức nghe
Thanh trần, Tỷ thức cảm nhận Cảm giác mùi chứ không phải Tỷ thức biết Hương
trần, Thiệt thức cảm nhận Cảm giác vị chứ không phải biết Vị trần, Thân thức
cảm nhận Cảm giác xúc chạm chứ không phải biết Xúc trần, Tưởng thức biết
Cảm giác pháp trần chứ không phải biết Pháp trần. ĐỐI TƯỢNG thực tại mà
nhân loại đang sống như to nhỏ, vuông tròn, dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn
ngọt chua cay, cứng mềm thô mịn, đàn ông đàn bà, nhà cửa cây cối, xe cộ, sum la
vạn tượng... được con người Thấy, Nghe, Cảm Nhận là các Cảm giác (CẢM
THỌ) do Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh ra chứ không phải là thế giới ngoại cảnh
Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần. Trong trường hợp ngủ say không mộng mị,
gây mê sâu khi mổ, ngất đi trong một tai nạn thì lúc đó Sáu Căn không hoạt động
nên không có XÚC, và vì vậy không có Thực tại, không có ĐỐI TƯỢNG thực
tại.

 ĐỐI TƯỢNG và TÂM BIẾT PHÁT SINH ĐỒNG THỜI: Sáu Căn tiếp xúc
Sáu Trần phát sinh Sáu Thọ và Sáu Tưởng viết gộp lại như sau: XÚC: <Thọ -
Tưởng>. Sáu Tưởng là sáu tâm biết trực tiếp giác quan (gọi tắt là trực giác)
gồm Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức và Tưởng thức có
phận sự ghi nhận hay nhận biết Sáu Thọ (tâm lý học gọi là nhận thức cảm
tính đối tượng).
- Tâm biết trực tiếp Tưởng sinh lên rồi diệt đi đồng thời với đối tượng
Thọ, không trước không sau, bởi quan sát sự thật thì thấy rõ, XÚC
sinh <Thọ - Tưởng> sinh, XÚC diệt <Thọ - Tưởng> diệt. Sự thật
này trái ngược với Duy vật, đối tượng vật chất có trước, tâm biết đối
tượng có sau, trái ngược với Duy tâm là tâm biết đối tượng có trước,
đối tượng vật chất được biết có sau. Vật lý lượng tử mới đây cũng có
một phát hiện mới rất quan trọng phù hợp với sự thật: Người quan
sát (tâm biết) và Đối Tượng được quan sát xuất hiện cùng một lúc,
không trước không sau.

- Tâm biết gián tiếp Ý thức phát sinh theo lộ trình: XÚC - <Thọ -
Tưởng> - Niệm - Tư Duy - <Tư tưởng - Ý thức >. Hành vi Tư duy xảy
ra với các thông tin do tâm biết Tưởng cung cấp nên phát sinh ra TƯ
TƯỞNG và đồng thời phát sinh Ý THỨC biết TƯ TƯỞNG vừa phát
sinh. Ý thức biết tư tưởng và ĐỐI TƯỢNG được biết là tư tưởng cũng
đồng sinh đồng diệt, không có trước sau như Duy tâm và Duy vật.
Tâm biết Ý thức do tư duy, suy luận nên là tâm biết gián tiếp dựa vào
các thông tin đã lưu giữ từ quá khứ trong kho chứa thông tin, nhưng
các thông tin đã được lưu giữ đó lại là các THÔNG TIN VỀ CẢM
THỌ chứ không phải THÔNG TIN VỀ THẾ GIỚI nên hiểu biết Ý
thức KHÔNG PHẢI LÀ HIỂU BIẾT về Thế Giới Vật Chất hay Thế
Giới Tâm Linh. Nhân loại với quan điểm Duy tâm và Duy vật cho
rằng Ý thức Hiểu biết về Thế Giới Vật Chất hay Thế Giới Tâm Linh là
hoàn toàn nhầm lẫn vì Ý thức phát sinh do tư duy, suy luận dựa trên
các thông tin, kinh nghiệm về Cảm Thọ, không phải là thông tin về
Thế Giới. Nếu SUY LUẬN HỢP LÝ dựa trên kinh nghiệm về Cảm
thọ thì có thể kết luận là CÓ THẾ GIỚI VẬT CHẤT, CÓ SẮC PHÁP
còn nó là cái gì, ra sao thì không biết được.Ví như, dựa trên Cảm giác
hình ảnh mà Nhãn thức thấy, có thể Suy luận hợp lý là các Sắc trần
đang tương tác theo quy luật: Hai nhân tương tác nhau rồi cùng diệt
mà phát sinh quả, nên Sắc trần Vô thường, Vô chủ (Vô ngã). Đó là
GIỚI HẠN ĐỎ của hiểu biết nhân loại về Thế giới vật chất, về Sắc
pháp. Chính vì vậy mà một số nhà khoa học xuất sắc lỗi lạc đã công
nhận sự thật: Cho đến nay, một điều chắc chắn là, chúng ta không biết
vật chất là cái gì. Vì vậy, hiểu biết của nhân loại về Thế Giới Vật Chất
và Thế Giới Tâm Linh là do SUY DIỄN, TƯỞNG TƯỢNG, không
phải là hiểu biết đúng sự thật.

b - Tuệ tri vị ngọt: Thực tại có ba loại Thọ, Lạc thọ, Khổ thọ và Bất khổ bất lạc
thọ trong đó Lạc thọ là Hạnh phúc, là Vị ngọt nên Thực tại không phải chỉ có duy
nhất Đau khổ mà có cả Hạnh phúc và Khổ đau. Nhưng Hạnh phúc và Khổ đau là
các Cảm giác do duyên Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh nơi thân chứ không
thường hằng, thường trú nơi Thế giới vật chất như Duy vật hay Thế giới tâm linh
như Duy tâm. Khi có một Lạc thọ phát sinh nơi các giác quan, tâm Tham liền
khởi lên và thông tin tâm tham đó được dẫn truyền về các tế bào nội tạng như tim
phổi gan ruột... và do tương tác giữa lượng thông tin tham với các tế bào nội tạng
tương ứng mà phát sinh một "làn sóng" Cảm giác dễ chịu vi tế. Đó chính là Cảm
thọ Hạnh phúc mà con người cảm nhận. Tương tự khi có Khổ thọ, Bất khổ bất lạc
thọ thì Sân, Si ưu não khởi lên và cũng phát sinh một "làn sóng" Cảm giác khó
chịu vi tế nơi tế bào nội tạng tương ứng. Đó chính là Cảm thọ Khổ đau mà con
người cảm nhận.

c - Tuệ tri sự nguy hiểm: Lạc thọ là vô thường, vô chủ, nó sinh lên rồi diệt ngay,
không thể nắm giữ hay xua đuổi, vì thế nếu Tham ái Lạc thọ sẽ muốn nắm giữ nó
tồn tại mãi với mình nên khi nó biến hoại, biến diệt, mất đi Sầu Bi Khổ Ưu Não
sẽ khởi lên. Nếu Thấy, Nghe, Cảm nhận một Lạc thọ mà không tham đắm thì khi
nó mất đi, Khổ không khởi lên. Vậy thì, Tham ái Lạc thọ là NGUY HIỂM, vì nó
phát sinh Khổ. Sân đối với Khổ thọ, Si đối với Bất khổ bất lạc thọ là NGUY
HIỂM là các "biến thể" của Tham. Như vậy, Khổ và Nguyên nhân Khổ thuộc
NỘI TÂM do duyên Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh chứ không phải từ Thế giới
vật chất hay Thế giới tâm linh ngoại cảnh mà đến với con người.

d - Tuệ tri sự xuất ly của Thọ: Khi thấy, nghe, cảm nhận các đối tượng của
Thực tại mà TUỆ TRI các đối tượng đó là Cảm thọ do duyên Căn Trần tiếp xúc
mà phát sinh, nó Vô thường, Vô chủ (Vô ngã), có vị ngọt, có sự nguy hiểm thì sẽ
KHÔNG CÓ THAM với Lạc thọ, KHÔNG CÓ SÂN với Khổ thọ, KHÔNG CÓ
SI với Bất khổ bất lạc thọ. Đó gọi là Tuệ tri sự xuất ly của Thọ, đồng nghĩa với
Tuệ tri Khổ diệt, Tuệ tri Niết bàn. Như vậy, Khổ diệt và Con đường Khổ diệt xảy
ra nơi NỘI TÂM, nơi Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần mà phát sinh chứ không phải nơi
Thế giới vật chất hoặc Thế giới tâm linh ngoại cảnh như hiểu biết Duy vật và Duy
tâm của nhân loại.

4 - KẾT LUẬN: Nội dung giác ngộ của Đức Phật là: Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ,
vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ là cách diễn nói khác của Tứ Thánh
Đế. Cách diễn đạt khác như vậy toát lên: Sự thật Khổ, Sự thật Nguyên nhân Khổ,
Sự thật Chấm dứt Khổ, Sự thật Con đường Chấm dứt Khổ đều thuộc về Thực tại
Cảm thọ, thuộc về NỘI TÂM chứ không thuộc Thế giới ngoại cảnh vật chất hoặc
Thế giới ngoại cảnh tâm linh như hiểu biết mê lầm Duy tâm hoặc Duy vật của
nhân loại. Ngài lại còn tuyên bố: “Ta tuyên bố, thế gian, nguồn gốc thế gian, sự
chấm dứt thế gian và con đường chấm dứt thế gian đều nằm nơi tấm thân dài hơn
thước mấy có Tưởng và Thức này.” Thế gian chứ không phải Thế giới, là thực tại
của phàm phu có Khổ và Nguyên nhân Khổ. Chấm dứt thế gian là chấm dứt thực
tại phàm phu khi thể nhập Thực tại Xuất thế gian của bậc Thánh có Khổ diệt và
Con đường Khổ diệt. Vì vậy, tu tập để chứng ngộ Tứ Thánh Đế là tu tập nơi thân
này, TUỆ TRI SÁU XÚC XỨ nơi thân này chứ không cần phải tu tập nơi hang
sâu núi thẳm, khám phá cấu trúc vũ trụ hay thể nhập Tánh thấy, Tánh nghe hay
một cảnh giới tâm linh không sinh không diệt nào đó.

Về mục lục
Bài 071: THỰC TẠI CỦA PHÀM VÀ THÁNH

Thực Tại của Phàm là Thế Gian và Thực Tại của Thánh là Xuất Thế Gian, đều là
pháp Duyên Khởi, do Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần phát sinh ra. Hai Thực Tại có sự
giống nhau và khác nhau.

 Thực Tại Thế Gian của Phàm có: VÔ THƯỜNG, KHỔ, VÔ NGÃ, BẤT
TỊNH.

 Thực Tại Xuất Thế Gian của Thánh có: VÔ THƯỜNG, KHỔ DIỆT, VÔ
NGÃ, THANH TỊNH.

Hai Thực Tại giống nhau là đều: VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ, và khác nhau là Phàm
thì có KHỔ, BẤT TỊNH, Thánh thì có KHỔ DIỆT, THANH TỊNH.

Vì vậy, khi thực hành Tứ Niệm Xứ, khởi lên Bát Chánh Đạo siêu thế là để kinh
nghiệm và an trú Thực Tại Xuất Thế Gian của bậc Thánh (Hữu học và Vô học),
để chứng ngộ và an trú VÔ THƯỜNG, KHỔ DIỆT, VÔ NGÃ chứ không phải để
chứng ngộ và an trú Thực Tại Thế Gian của Phàm phu, không phải để chứng ngộ
và an trú VÔ THƯỜNG, KHỔ, VÔ NGÃ.

Về mục lục

Bài 072: CON GÀ TRỐNG CÓ MÀO ĐỎ CHÓI

Đây là một câu chuyện ngụ ngôn rất nổi tiếng và được nhiều người biết đến. Truyện
kể rằng, chú gà trống có cái mào đỏ chói, thắc mắc về hành vi của con chồn. Nó
thấy chồn rất thích ăn thịt gà và hễ thấy con gà mái nào là chồn chén thịt ngay.
Nhưng hễ bắt gặp gà trống thì chồn sợ hãi, hoảng hốt bỏ chạy. Không thể lý giải
được hành vi của chồn, một hôm gà trống đánh bạo đến gặp chồn để hỏi cho ra lẽ.

- Này bác chồn, tại sao hễ thấy gà mái thì bác chẳng sợ hãi, ăn thịt ngay còn thấy tôi
là bác lại hoảng sợ bỏ chạy?
Chồn lí nhí trả lời:

- Chả giấu gì bác, dòng họ nhà tôi thích ăn thịt gà nhưng lại rất sợ lửa, mà trên đầu
bác lại có một cục lửa to như vậy, nên khi gặp bác tôi bỏ chạy để tránh xa cục lửa
đó.

Gà trống cười ngặt nghẽo và la lên:

- Bác nhầm rồi, trên đầu tôi làm gì có lửa. Đó chỉ là cái mào, một cục thịt có màu
đỏ chói. Nghe gà trống nói vậy, chồn tỏ ra không tin. Thấy vậy, gà trống vội lấy
chân gãi gãi lên cái mào đỏ chói của mình và nói:

- Nếu bác không tin thì hãy sờ lên cái mào của tôi thử coi.

Chồn nghe vậy liền rụt rè sờ lên và nó biết ngay liền, đó là một cục thịt có màu đỏ
chói, chứ không phải là cục lửa như từ xưa đến nay nó đã hiểu lầm và sợ hãi.

Và ngày hôm sau, khi gặp gà trống chồn liền chén thịt ngay gà trống.

Câu chuyện được kể với ngôn từ như vậy, nhắm trỏ đến một vấn đề khác của đời
sống nhân loại nên gọi là NGỤ NGÔN. Câu chuyện này ám chỉ thực trạng của đời
sống thế gian, một bãi chiến trường với sự cạnh tranh khốc liệt. Những ai với tâm
thức ngây thơ, thật thà phơi bày cho người khác thấy mọi phẩm chất tốt cũng như
xấu của mình thì sẽ nhận được một kết cục cay đắng như chú gà trống có mào đỏ
chói kia. Những ai muốn tồn tại, muốn thành đạt trong thế gian này thì phải "thông
minh" mưu mẹo, phải biết giấu kín những khiếm khuyết của mình, phải biết làm
cho người khác "ảo tưởng" về những phẩm chất vốn không có của mình, tôn sùng,
hoặc sợ hãi những phẩm chất vốn không có của mình. Đây là một thực trạng đáng
sợ hãi của thế gian nơi mà phẩm tánh thật thà, ngây thơ không có cơ hội tồn tại.

Nhưng câu chuyện ngụ ngôn này còn có ẩn ý khác hơn đối với người học và tu theo
Đạo Phật. Đó là thực trạng Thấy và Biết của Phàm phu và thực trạng Thấy và Biết
của bậc Thánh.

1 - Thấy và Biết của Phàm phu: Con chồn Thấy đối tượng (cái mào gà) rồi
Hiểu Biết đối tượng đó là cục lửa và do Hiểu Biết như vậy mà hoảng sợ đối với
đối tượng được thấy. Vì sao vậy? Vì Hiểu Biết đó sai với sự thật, vốn đối tượng
là cục thịt có màu đỏ chói, con chồn lại Hiểu Biết sai đối tượng đó là cục lửa.
Con chồn sợ hãi cục lửa trên đầu con gà trống là sợ hãi cái ĐỐI TƯỢNG ẢO
TƯỞNG, do HIỂU BIẾT SAI LẠC của chính mình tạo ra. Cũng y như vậy, con
người Thấy, Nghe, Cảm nhận đối tượng thực tại nhưng lại Hiểu Biết đối tượng
đó sai lạc (Vô minh), ví như con chồn thấy cục thịt có màu đỏ chói lại hiểu lầm
là cục lửa. Và chính Hiểu biết sai lạc đó, đã tạo ra những Đối tượng thực tại ảo
tưởng. Vì vậy, nhân loại đang yêu thích, chán ghét, tham muốn sở hữu, dính
mắc, ràng buộc, khổ vui với các ĐỐI TƯỢNG ẢO TƯỞNG DO HIỂU BIẾT
SAI LẠC CỦA CHÍNH MÌNH TẠO RA. Và tại sao Hiểu Biết của Phàm phu là
Hiểu Biết sai lạc, còn gọi là Vô Minh, là Tà Tri Kiến, là Không Liễu Tri đối
tượng? Đây là những điều khó thấy, khó chứng, sâu kín, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt
qua mọi tư duy lý luận suông, tế nhị, chỉ người trí mới có khả năng giác hiểu.

Sau khi Thấy, Nghe, Cảm nhận đối tượng thực tại (hình ảnh, âm thanh, mùi vị,
xúc chạm, pháp trần) tâm biết Ý thức của Phàm phu khởi lên, Hiểu Biết các đối
tượng đó là Thế giới ngoại cảnh, là Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần. Vì các
đối tượng đó là Thế giới vật chất ngoại cảnh nên có thể nắm giữ, điều khiển, sở
hữu hoặc có thể xua đuổi, tiêu diệt được nó. Do Hiểu Biết đối tượng là Thế giới
ngoại cảnh nên cũng Hiểu Biết: Khổ, Nguyên nhân Khổ, Sự Chấm dứt Khổ
(Hạnh phúc) và Con đường chấm dứt Khổ thuộc về Thế giới ngoại cảnh. Cụ thể
Khổ và Nguyên nhân Khổ có mặt nơi những đối tượng Khó chịu và Trung tính,
Sự Chấm dứt khổ (Hạnh phúc) có mặt nơi đối tượng Dễ chịu và Con đường
Chấm dứt khổ là thay đổi Thế giới ngoại cảnh. Do Hiểu Biết đối tượng như vậy
mà phát sinh Tham với đối tượng Dễ chịu, phát sinh Sân với đối tượng Khó chịu,
phát sinh Si với đối tượng Trung tính. Do có Tham Sân Si với đối tượng mà Ràng
Buộc với đối tượng và do Ràng Buộc với đối tượng mà Phiền Não khởi lên
không thể kể xiết. Vì sao vậy? Vì Hiểu Biết đó là sai sự thật về đối tượng được
thấy, được nghe, được cảm nhận. Vốn các đối tượng đó là CẢM GIÁC (CẢM
THỌ) nhưng lại Hiểu Biết nó là THẾ GIỚI NGOẠI CẢNH. Và chính HIỂU
BIẾT SAI LẠC đó, đã tạo ra ĐỐI TƯỢNG ẢO TƯỞNG (là Thế Giới Ngoại
Cảnh) nên kẻ Phàm phu đang Yêu ghét, Ràng buộc, Chấp thủ chính cái ĐỐI
TƯỢNG ẢO TƯỞNG do hiểu biết sai lạc của chính mình tạo ra như con chồn sợ
cục lửa do hiểu biết sai của nó tạo ra vậy.

2 - Thấy và Biết của bậc Thánh: Con chồn sau khi nghe gà trống nói về cái mào
là cục thịt có màu đỏ chói và sờ thử, kiểm chứng thì Hiểu Biết đúng sự thật, đối
tượng là cục thịt có màu đỏ chói, do vậy chấm dứt Hiểu Biết sai sự thật và chấm
dứt sợ hãi do cái Hiểu Biết sai sự thật phát sinh từ trước đến này. Cũng y như vậy,
tuy bậc Thánh Thấy, Nghe, Cảm nhận đối tượng (cũng giống Phàm phu) nhưng
lại Hiểu Biết đúng sự thật đối tượng đó là Cảm Giác (Thọ) do Căn Trần tiếp xúc
mà phát sinh, nó Vô thường, Vô chủ vô sở hữu (Vô ngã), có Vị ngọt, sự Nguy
hiểm và sự Xuất ly. Các đối tượng thực tại là CẢM THỌ thuộc phạm trù tâm, chứ
không phải là thế giới vật chất ngoại cảnh, nó sinh lên rồi diệt ngay, nó vô chủ vô
sở hữu (vô ngã), nghĩa là không thể làm chủ, điều khiển, sở hữu, nắm giữ, cũng
không thể xua đuổi, diệt trừ nó. Các Cảm thọ bao gồm Lạc thọ, Khổ thọ, Bất khổ
bất lạc thọ thì Lạc thọ là Vị ngọt. Sự Nguy hiểm là nếu có Tham ái Lạc thọ thì sẽ
muốn nắm giữ, sở hữu nên khi nó biến hoại, biến diệt, mất đi Phiền não sẽ khởi
lên. Do Hiểu Biết đúng sự thật về đối tượng như vậy nên không có Tham Sân Si
với đối tượng. Đây gọi là Tuệ Tri sự Xuất ly của Thọ hay chính là Tuệ Tri Khổ
Diệt, Tuệ Tri Niết Bàn.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là người độc nhất vô nhị, không thầy chỉ dạy, tự
mình Giác Ngộ và Tuyên Thuyết về sự thật các đối tượng của thực tại không
phải là Thế Giới (Cảnh) mà là Cảm Thọ (Tâm) do Căn Trần tiếp xúc mà phát
sinh. Bản kinh Phạm Võng với cấu trúc đặc biệt, đề cập tới rất nhiều vấn đề
nhưng cũng chỉ với mục đích duy nhất là chỉ rõ và nhấn mạnh về tuyên bố giác
ngộ của Ngài được nhắc đi nhắc lại hàng chục lần trong bản kinh: “Này các Tỷ
kheo, Như Lai nhờ như thật tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và
sự xuất ly của Thọ mà Như Lai được giải thoát hoàn toàn không có chấp thủ”.
Muốn giác ngộ, giải thoát hãy Văn - Tư - Tu theo nội dung của tuyên bố về sự
giác ngộ của Đức Phật trong kinh Phạm Võng thuộc Trường Bộ Kinh.

Về mục lục

Bài 073: CUỘC ĐỜI ĐÃ ĐƯỢC LẬP TRÌNH

Khi nghe nói Cuộc đời đã được lập trình thì nhiều người nghĩ ngay đến thuyết
định mệnh. Rằng mọi cái trên đời từ khi sinh ra đã được lập trình sẵn, đã được an
bài, không thể thay đổi được. Số mệnh đã an bài, Thượng Đế toàn năng đã an bài
cuộc đời và vì vậy tu hành để thay đổi cuộc đời đã an bài, đã được lập trình là
điều không thể. Vậy thì, cuộc đời đã được lập trình hay nó xảy ra một cách ngẫu
nhiên, hay có một Bản Ngã, một Thượng Đế điều khiển, vận hành nó?

Hãy quan sát cuộc đời bất kỳ một ai, già trẻ, gái trai, giàu nghèo, ngu trí, dân tộc,
tôn giáo nào cũng không xảy ra một cách ngẫu nhiên, mà nó đều xảy ra theo QUY
LUẬT NHẤT ĐỊNH. Quy luật nhất định đó chính là LẬP TRÌNH, vì vậy, cuộc
đời đã được LẬP TRÌNH. Ví như, cuộc đời bất cứ ai cũng xảy ra theo LẬP
TRÌNH Sinh Già Bệnh Chết, không cuộc đời một ai có thể thoát ra khỏi cái quy
luật đã được lập trình ấy. Cuộc đời có rất nhiều lập trình từ Thô đến Tế đã được
cài đặt, nơi tấm thân vật chất này thôi, nhưng có hai lập trình quan trọng nhất cần
phải khám phá và hiểu biết tường tận. Khám phá và hiểu biết tường tận hai lập
trình cơ bản đó thì mới Thấy Biết Đúng Sự Thật là Con người bao gồm DANH và
SẮC hay Thân và Tâm phát sinh và vận hành một cách hoàn toàn "MÁY MÓC"
theo LẬP TRÌNH đã cài đặt. Lúc đó mới Thấy Biết Như Thật THỰC TÁNH của
DANH và SẮC là VÔ THƯỜNG và VÔ NGÃ. Đặc biệt là VÔ NGÃ nghĩa là
DANH và SẮC phát sinh và vận hành một cách

hoàn toàn "MÁY MÓC" không có ai, không có Thượng Đế hay Bản Ngã là chủ
nhân, chủ sở hữu, điều khiển thân tâm.
1 - LẬP TRÌNH CỦA NHÂN LOẠI:

Đây là lập trình cho toàn thể Nhân loại chỉ ngoại trừ các bậc Thánh đã Giác ngộ.
Khi con người ngủ say không mộng mị, thì cái lập trình đó tuy vẫn tồn tại nhưng
không vận hành, giống như một máy tính tuy có cắm điện, có các lập trình đã cài
đặt nhưng không vận hành. Khi thức tỉnh, LẬP TRÌNH sẽ lập tức vận hành. Nếu
quán sát một cách Thô (không tỉ mỉ) sẽ thấy ngay có CĂN TRẦN tiếp xúc và
phát sinh Các Đối Tượng và Các Tâm Biết, có phận sự Nhận Biết hay Ghi Nhận
các đối tượng ấy. Đó là Nhãn thức thấy Hình ảnh, Nhĩ thức nghe Âm thanh, Tỉ
thức cảm nhận Mùi, Thiệt thức cảm nhận Vị... Đây là Thấy, Nghe, Cảm nhận đối
tượng (hay Nhận thức cảm tính đối tượng) gọi tắt là THẤY đối tượng. Tiếp đến
Tâm Biết Ý thức sẽ khởi lên BIẾT đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao. Cụ thể
Ý thức BIẾT đối tượng đó là cái gì, tên gì, đặc tính ra sao, Dễ chịu, Khó chịu hay
Trung tính và so sánh Ta hơn, Ta kém hay Ta bằng đối tượng đó. Do BIẾT về đối
tượng như vậy mà sẽ phát sinh THÁI ĐỘ đối với đối tượng: Dễ chịu thì Thích
(Tham), Khó chịu thì Ghét (Sân), Trung tính thì tìm kiếm một đối tượng Dễ chịu
để thay thế (Si). Do có THÁI ĐỘ như vậy mà sẽ phát sinh LỜI NÓI, HÀNH
ĐỘNG tương ứng. Do có LỜI NÓI, HÀNH ĐỘNG tương ứng như vậy mà sẽ
phát sinh KẾT QUẢ là KHỔ hay VUI.

XÚC - Đối Tượng - thấy ĐT - biết ĐT - phát sinh thái độ với ĐT (Tham Sân Si) -
phát sinh lời nói, hành động cư xử với ĐT - KẾT QUẢ KHỔ HAY VUI (ĐT là
viết tắt chữ đối tượng).

Đây là một lập trình cứ lặp đi lặp lại đối với các Đối Tượng phát sinh khi Sáu
Căn (Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân Ý) tiếp xúc Sáu Trần (Sắc Thanh Hương Vị Xúc
Pháp). Điều này xảy ra tương tự như một LẬP TRÌNH đã được "cài đặt" nơi một
chiếc xe đạp. Khi Bàn Chân tiếp xúc (tương tác) với Bàn Đạp (tương tự như Căn
Trần tiếp xúc) thì sẽ phát sinh Chuyển Động của Dĩa ; Chuyển Động Dĩa tiếp xúc
với Dây Xích phát sinh Chuyển Động Xích ; Chuyển Động Xích tiếp xúc với Líp
phát sinh Líp Quay; Líp Quay tương tác với Bánh Xe phát sinh Bánh Xe quay ;
Bánh Xe quay tiếp xúc với Đường phát sinh Chuyển Động di chuyển. Chỉ cần
Bàn Chân tiếp xúc (tương tác) với Bàn Đạp thì LẬP TRÌNH đã "cài đặt" vận
hành và kết quả là Xe Đạp di chuyển. Lập trình này vận hành hoàn toàn MÁY
MÓC, bản thân người ngồi trên xe đạp, không phải là CHỦ NHÂN, không thể
ĐIỀU KHIỂN các bộ phận như Dĩa, Xích, Líp, Bánh Xe, Chuyển Động di
chuyển, mà những Kết Quả đó là do tương tác phát sinh, phụ thuộc vào chất
lượng cũng như tương tác giữa các bộ phận.

Nếu quan sát tỉ mỉ, vi tế hơn sẽ thấy được LẬP TRÌNH đã cài đặt nơi con người
vận hành theo một lộ trình mà theo thuật ngữ Phật học gọi là Bát Tà Đạo: XÚC -
Thọ (ĐT) - Tưởng (THẤY) - Tà Niệm - Tà Tư Duy - Tà Tri Kiến (BIẾT) - Tham
Sân Si (THÁI ĐỘ) - Tà Định - Dục (MUỐN) - Tà Tinh Tấn - Phi Như Lý tác ý -
Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng - Kết Quả là KHỔ hoặc VUI. Đây là một LẬP
TRÌNH đã được cài đặt và hễ có tiếp xúc (hay tương tác) giữa CĂN và TRẦN
xuất hiện một Cảm thọ tức là xuất hiện ĐỐI TƯỢNG thì LẬP TRÌNH đó vận
hành. Lộ trình đó vận hành xong, diệt đi thì một đối tượng khác xuất hiện và lộ
trình khác, tương tự như vậy lại tự động khởi lên.

A - Có tác giả, có chủ nhân của LẬP TRÌNH này không?

Một rô bốt có thể phát ra lời nói và hành động để phản ứng lại ngoại cảnh do
Camera ghi nhận (THẤY) là bởi LẬP TRÌNH đã được cài đặt vào ổ cứng của
máy. Các nhà khoa học đã quan sát LẬP TRÌNH đã được cài đặt nơi con người để
bắt chước và hoàn thiện dần các LẬP TRÌNH cài đặt cho Rô bốt. Nhưng cái LẬP
TRÌNH đã được cài đặt nơi "ổ cứng", nơi "kho chứa thông tin" của con người thì
nó ở ngay nơi cấu trúc ADN của mỗi tế bào trong thân thể con người. Trong cái
"ổ cứng" đó, lưu giữ thông tin về các tri thức hiểu biết, các thói quen, kinh
nghiệm, năng khiếu... mà mỗi một lộ trình tâm trong quá khứ của đời này và các
đời trước đã lưu vào. Trong các thông tin đó có thông tin VÔ MINH là những
hiểu biết sai sự thật về thực tại, hiểu sai về Vô thường, Vô ngã, hiểu sai về Khổ
Tập Diệt Đạo, những tư tưởng sai, chấp thủ cái này là của Ta, là Ta, là bản ngã
của Ta. Chính VÔ MINH cùng với CẤU TRÚC THÂN THỂ đã hình thành nên
cái LẬP TRÌNH ấy và cái LẬP TRÌNH ấy được hoàn thiện dần theo lịch sử tiến
hoá nhiều đời nhiều kiếp trong cấu trúc ADN của các tế bào nơi thân thể. Hãy
quan sát các thông tin được cài đặt vào kho chứa là do học hỏi và tự cài đặt mà
không phải được "bên ngoài" cài đặt vào. Ví như, một đứa trẻ khi đẻ ra và khi
CĂN TRẦN tiếp xúc, nó vẫn Thấy, Nghe, Cảm Nhận đối tượng nhưng nó không
biết đối tượng là cái gì, không biết xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay... Quá
trình lớn lên nó học qua nhiều cách để hiểu biết về các đối tượng được Thấy,
Nghe, Cảm nhận đó và một cách TỰ ĐỘNG các thông tin đó được lưu vào kho
chứa, củng cố và hoàn thiện LẬP TRÌNH. Vì vậy, KHÔNG CÓ AI LÀ TÁC GIẢ,
LÀ CHỦ NHÂN, KHÔNG CÓ THƯỢNG ĐẾ, KHÔNG CÓ BẢN NGÃ LÀ
TÁC GIẢ, LÀ CHỦ NHÂN CỦA LẬP TRÌNH. Hiện nay, các nhà khoa học đã
thành công ở một mức độ nào đấy trong việc bắt chước LẬP TRÌNH này của con
người nên đã sáng tạo ra phần mềm cho các Rô bốt tự học, tự cài đặt các kiến
thức và tự phản ứng trên những gì tự học được. Nhưng cho đến hiện nay, Rô bốt
cũng chỉ bắt chước được nhưng đang còn thô thiển hai trong sáu lộ trình là thấy,
nghe còn ngửi, nếm, xúc chạm và "tưởng lại" thì chưa thể bắt chước con người.
Quan sát thật sâu sắc và tỉ mỉ, thì rốt cuộc con người cũng là một "rô bốt" sinh
học hoàn thiện, TỰ cài đặt các dữ liệu, TỰ cài đặt các LẬP TRÌNH trong quá
trình tiến hoá lâu dài theo các chu kỳ tái sinh mà không có một ai, không có một
Thượng Đế toàn năng, không có một Bản Ngã, không có một Bản Tâm không
sinh không diệt nào, là Chủ Nhân, Chủ Sở Hữu, điều khiển cái "cỗ máy sinh học"
rất tinh vi và hoàn thiện này.

B - Đức Phật là người đầu tiên khám phá ra LẬP TRÌNH:

Đức Phật không phải là tác giả, không phải là chủ nhân của LẬP TRÌNH mà là
con người đầu tiên, độc nhất vô nhị, không thầy chỉ dạy, tự mình khám phá, tự
mình chứng ngộ và thuyết giảng về cái LẬP TRÌNH Bát Tà Đạo này. Ngài đã
quảng bá, phân tích, hiển thị, chỉ dẫn rành mạch rằng: Con người là Danh và Sắc
được phân chia thành Năm Nhóm Sắc Thọ Tưởng Hành Thức (Năm Uẩn) đang
vận hành theo một LẬP TRÌNH: Lục Nhập - Xúc - Thọ - Ái - Thủ - Hữu - Sinh
Già Bệnh Chết Sầu Bi Khổ Ưu Não (Thập Nhị Nhân Duyên) mà tỉ mỉ hơn là Lộ
trình Bát Tà Đạo : Lục Nhập - Xúc - Thọ - Tưởng - Tà Niệm - Tà Tư Duy - Tà
Tri Kiến - Tham Sân Si - Tà Định - Dục - Tà Tinh Tấn - Phi như lý tác ý - Tà
ngữ, Tà Nghiệp, Tà mạng - KHỔ và VUI.

Vận hành của LẬP TRÌNH Bát Tà Đạo này đưa đến KẾT QUẢ là KHỔ lẫn VUI
và đó cũng chính là Thực Tại Thế Gian của Nhân loại nhưng "Vui thì ít, khổ thì
nhiều, não nhiều mà nguy hiểm lại càng nhiều hơn". Trong Thực Tại Thế Gian
khởi lên do LẬP TRÌNH Bát Tà Đạo, có VÔ MINH, có THAM SÂN SI, có
KHỔ. Giác Ngộ LẬP TRÌNH Bát Tà Đạo là Giác Ngộ KHỔ ĐẾ và TẬP ĐẾ trên
nền tảng Giác Ngộ các pháp là VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ. Điều này cũng có
nghĩa là không thể tu hành mà THAY ĐỔI được Thực Tại Thế Gian, không thể
chấm dứt Tham Sân Si, chấm dứt Khổ nơi Bát Tà Đạo, nơi Thực Tại Thế Gian vì
nó đã được LẬP TRÌNH. Nhưng không phải chỉ có duy nhất một lập trình như
vậy, mà còn có một LẬP TRÌNH khác, và nếu được cài đặt vận hành thì sẽ chấm
dứt LẬP TRÌNH Bát Tà Đạo, chấm dứt Thực Tại Thế Gian, khởi lên Thực Tại
Xuất Thế Gian không có Tham Sân Si, không có Khổ.

2 - LẬP TRÌNH CỦA BẬC THÁNH:

Không những khám phá LẬP TRÌNH Bát Tà Đạo mà Đức Phật cũng là người đầu
tiên, độc nhất vô nhị, không thầy chỉ dạy, tự mình khám phá, chứng ngộ và thuyết
giảng về một LẬP TRÌNH khác nữa. Đó là lập trình Bát Chánh Đạo.

Ngài cũng đã quảng bá, phân tích hiển lộ, chỉ dẫn rành mạch về LẬP TRÌNH Bát
Chánh Đạo, vận hành nơi bậc Thánh. Đó là:

Lục Nhập - Xúc - Thọ - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - (Tỉnh Giác)
- Chánh Tư Duy - Chánh Tri Kiến - Như lý tác ý - Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng.
LẬP TRÌNH Bát Chánh Đạo này, khởi lên Thực Tại Xuất Thế Gian cũng là Năm
Nhóm Sắc Thọ Tưởng Hành Thức nhưng không có VÔ MINH, không có Tham Sân
Si, không có KHỔ và VUI, mà nói theo cách khác là có KHÔNG GIẢI THOÁT,
VÔ TƯỚNG GIẢI THOÁT, VÔ TÁC GIẢI THOÁT.

Để cài đặt LẬP TRÌNH Bát Chánh Đạo này phải VĂN và TƯ nghĩa là phải Nghe
và Tư Duy về Giáo Pháp mà Đức Thế Tôn khéo léo thuyết giảng. Nhờ Nghe và Tư
Duy mà có được HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT về Duyên khởi lên các pháp, về Vô
thường, Vô ngã, lộ trình tâm Bát Tà Đạo với Khổ Đế và Tập Đế, lộ trình tâm Bát
Chánh Đạo với Diệt Đế và Đạo Đế, về Vị ngọt, sự Nguy hiểm, sự Xuất ly. Những
hiểu biết đúng sự thật này là MINH sẽ được lưu vào kho chứa và như vậy trong kho
chứa của một người có VĂN TUỆ và TƯ TUỆ, đã được cài đặt HAI LẬP TRÌNH
Bát Tà Đạo và Bát Chánh Đạo. Nếu người này có Tà Niệm kích hoạt VÔ MINH thì
LẬP TRÌNH Bát Tà Đạo khởi lên, nếu có Chánh Niệm kích hoạt MINH thì LẬP
TRÌNH Bát Chánh Đạo khởi lên. Sự kích hoạt MINH (bằng Chánh Niệm) để LẬP
TRÌNH Bát Chánh Đạo vận hành thì gọi là TU và nhờ TU liên tục, cho đến mức độ
LẬP TRÌNH Bát Chánh Đạo xoá bỏ được LẬP TRÌNH Bát Tà Đạo (Thông tin
MINH xoá bỏ Thông tin VÔ MINH trong kho chứa) thì Chánh Trí sẽ khởi lên:
Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lại
cuộc đời này nữa. Đây chính là lộ trình tu học mà Bậc Đạo Sư đã dày công thuyết
giảng VĂN - TƯ - TU để cài đặt MINH và xoá bỏ VÔ MINH trong “bộ nhớ”.

Những ai không có VĂN TƯ TU theo giảng dạy của Đức Phật thì cuộc đời sẽ vận
hành theo LẬP TRÌNH Bát Tà Đạo và sẽ nhận được kết quả là có KHỔ lẫn VUI mà
trong đó VUI thì ít, KHỔ thì nhiều, não nhiều mà nguy hiểm lại càng nhiều hơn.
Khi chết đi, Thức tái sanh sẽ di chuyển cái LẬP TRÌNH Bát Tà Đạo đó vào một
bào thai mới và lại tiếp tục một chu kỳ mới của Sinh Già Bệnh Chết với sự vận
hành của LẬP TRÌNH Bát Tà Đạo. Nên nhớ cho rằng, không có ai, không có linh
hồn hay một tâm thức nào đi đầu thai mà chính là cái LẬP TRÌNH Bát Tà Đạo tái
sinh trở lại thôi.
Những ai có VĂN TƯ TU theo lời dạy của Đức Phật sẽ TỰ MÌNH cài đặt LẬP
TRÌNH Bát Chánh Đạo để trong đời hiện tại sống với KHÔNG GIẢI THOÁT, VÔ
TƯỚNG GIẢI THOÁT, VÔ TÁC GIẢI THOÁT, sống với sự vắng mặt cả KHỔ
lẫn VUI của thế gian và khi chết đi sẽ chấm dứt tái sinh của cả LẬP TRÌNH Bát Tà
Đạo lẫn Bát Chánh Đạo, chấm dứt Sinh Già Bệnh Chết trong tương lai, chấm dứt
luân hồi sinh tử. Đó chính là ĐOẠN TẬN KHỔ ĐAU là VÔ DƯ NIẾT BÀN.

3 - KẾT LUẬN:

Cuộc đời cho dù Phàm hay Thánh đều đã được LẬP TRÌNH và sự vận hành LẬP
TRÌNH đó đưa đến KẾT QUẢ cuộc sống của mỗi hạng người. Đối với Phàm phu
thì do sự vận hành của lập trình Bát Tà Đạo mà đưa đến Kết Quả là có cả Hạnh
Phúc và Khổ Đau nhưng Hạnh Phúc thì ít mà Đau Khổ thì nhiều, cay đắng nhiều mà
nguy hiểm lại càng nhiều hơn. Đối với bậc Thánh, do sự vận hành của lập trình Bát
Chánh Đạo mà đưa đến Kết Quả là vắng mặt cả Hạnh Phúc và Khổ Đau và gọi đó là
Niết Bàn. Nhân loại có quyền chọn lựa LẬP TRÌNH cho cuộc đời mình. Những ai
muốn sống một cuộc đời KHÔNG CÓ KHỔ, VẮNG MẶT KHỔ, CHẤM DỨT
KHỔ thì hãy TỰ MÌNH cài đặt LẬP TRÌNH Bát Chánh Đạo để phá huỷ LẬP
TRÌNH Bát Tà Đạo theo lộ trình VĂN - TƯ - TU mà Bậc Đạo Sư đã dày công
giảng dạy.

Về mục lục

Bài 074: KHÚC NHẠC DẠO ĐẦU

Toàn thể nhân loại, cho dù ngu hay trí, dân tộc hay tôn giáo nào cũng đang từng
giây phút một của hiện tại, nỗ lực cố gắng, chịu đựng mọi gian truân cay đắng để
mong đạt được đích đến của cuộc đời tại một nơi chốn nào đó, một thời gian nào
đó trong tương lai. Và ai cũng nghĩ rằng, khi nào đạt được đích đến ấy, thì đó là
lúc kết thúc mọi lao tâm khổ trí, mọi khổ đau cay đắng của cuộc đời, và đó là lúc
cuộc sống được an bài, là lúc vĩnh viễn chỉ còn tận hưởng mọi niềm vui, hạnh
phúc đã đạt được. Những người không theo tôn giáo thì quan niệm đó là lúc đạt
được sự giàu có, tình yêu, thành đạt, danh tiếng, quyền lực như đã mong ước.
Những người theo các tôn giáo thì quan niệm sẽ đạt đến một đời sau hoàn mãn
mà tận cùng là được hiện hữu trong một thiên đường cực lạc, một thế giới tâm
linh kỳ diệu, mầu nhiệm và vĩnh hằng. Trong cái nhận thức về đích đến của cuộc
đời như vậy đã thể hiện rõ rệt quan điểm, mục đích cuộc sống là tận hưởng niềm
vui, hạnh phúc và cũng thể hiện rõ ràng quan điểm, chỉ khi nào có hạnh phúc viên
mãn, đầy đủ không gián đoạn ấy thì lúc đó Khổ mới chấm dứt. Với nhận thức và
lối sống bị nhận thức như vậy chi phối, nhân loại trong từng giây phút một, chịu
đựng mọi đau khổ để đạt được đích đến trong tương lai. Nhưng khi đạt được đích
đến ấy thì sự sung sướng hãnh diện vì đích đến ấy lại chấm dứt nhanh chóng
không tồn tại mãi mãi. Vì sao vậy? Vì đích đến ấy không còn nữa, nó chấm dứt
và xuất hiện một đích đến mới lớn lao hơn, vĩ đại hơn đích đến vừa đạt được. Ví
như đứa trẻ đi học lớp 1 thì đích đến là học xong lớp 1 nhưng đến đích rồi thì
đích mới là lớp 2, rồi trung học, rồi cử nhân, rồi thạc sĩ, tiến sĩ... Đến đích tiến sĩ
lại phải tiếp tục phấn đấu vì còn có một cái đích phía trước còn cao cả hơn. Vợ
chồng có đích là sinh ra đứa con xinh đẹp, khỏe mạnh nhưng đạt được nó rồi lại
phát sinh cái đích mới, con học đại học, công việc làm tốt cho con, lấy vợ gả
chồng cho con, phải có cháu, chăm sóc cháu cho nó khỏe mạnh học giỏi... Đích
đến là danh mục tài sản 1 tỷ, nhưng sở hữu 1 tỷ rồi thì cái đích đến đó biến mất
và xuất hiện đích đến 10 tỷ, rồi 100 tỷ, rồi ngàn tỷ, rồi 20 ngàn tỷ... Hễ mỗi lần
đạt đến một đích đến đã xây dựng, mơ ước, kỳ vọng trong quá khứ thì nó lại biến
mất và lại xuất hiện một đích đến mới hấp dẫn hơn và lại phải tiếp tục lao tâm
khổ trí, chịu đựng mọi đắng cay để đạt cho bằng được cái đích mới ấy trong
tương lai. Và nhân loại suốt đời chịu đựng khổ để đuổi bắt đích đến trong tương
lai không dừng nghỉ, không bao giờ đạt được trạng thái an bài, đã làm xong mọi
việc để tận hưởng niềm vui, hạnh phúc như mơ ước. Vì sao vậy? Vì đích đến là
niềm vui, hạnh phúc ấy không tồn tại vĩnh viễn vì nó là các CẢM GIÁC thuộc về
phạm trù Tâm, nó xuất hiện rồi biến mất ngay chứ niềm vui, hạnh phúc ấy không
có mặt, không thường hằng, không thường trú trong thế giới vật chất như hiểu
lầm của nhân loại. Điều này giống như đứa trẻ đang đuổi bắt để nắm giữ các
bong bóng xà phòng và hễ nó nắm bắt được cái bong bóng thì cái bong bóng ấy
vỡ tan ngay trong tay nó. Vì con người đang đau khổ trong hiện tại lại đi tìm lối
thoát khổ trong tương lai nên công việc đó không bao giờ hoàn thành, không bao
giờ kết thúc. Vì vậy mới phải luân hồi tái sinh, nghĩa là chết, kết thúc đời này lại
tái sinh, bắt đầu một đời mới để hoàn tất một mục đích không bao giờ hoàn tất
được. Chính Liszt, một nhà soạn nhạc Hung-ga-ri đã nhận ra điều này khi ông
viết bản giao hưởng “Khúc nhạc dạo đầu” với Chủ đề: “Cuộc đời từ những tiếng
ru êm đềm của mẹ, những hương vị ngọt ngào của tình yêu đầu tiên, những niềm
tin ngây thơ và dễ dãi vào tình yêu, hạnh phúc bị cuộc đời vùi dập, chà đạp và tan
vỡ. Đến khi con người lao vào cuộc đấu tranh, tìm được hạnh phúc trong chiến
thắng. Và cả bản hành khúc tang lễ cuối cùng. Tất cả, tất cả ĐỀU CHỈ LÀ KHÚC
NHẠC DẠO ĐẦU”.

Rất nhiều vĩ nhân, nhiều nhà triết học, nhà thơ, nhà văn, nghệ sĩ thiên tài đã nhận
ra sự thật, tìm kiếm niềm vui, hạnh phúc trong tương lai để thoát khỏi nỗi khổ
cuộc đời là phi lý, là ảo tưởng nhưng họ không có khả nặng tự mình tìm ra lối
thoát cho cuộc đời đau khổ. Và họ cũng không có nhân duyên để bắt gặp giáo lý
thậm thâm vi diệu mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chứng ngộ và thuyết giảng,
nên nhiều người trong số họ đã tự sát. Nhân loại này từ cổ chí kim, độc nhất vô
nhị chỉ có một con người duy nhất, không thầy chỉ dạy đã tự mình tìm ra, tự mình
chứng ngộ và tuyên thuyết một lối thoát ra khỏi mọi đau khổ của cuộc đời NGAY
TRONG HIỆN TẠI, ngay bây giờ và ở đây. Đó chính là Đức Phật Thích Ca Mâu
Ni. Và những ai có may mắn gặp được Giáo Lý của Ngài, hiểu đúng, thực hành
đúng thì ngay trong hiện tại, ngay bây giờ và tại đây sẽ đạt đến mục đích tối hậu
của cuộc đời: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm
(xong), không còn trở lại thế gian này nữa”.

Về mục lục
Bài 075: THAY ĐỔI THẾ GIỚI

Gần như tất cả nhân loại đang học hỏi, khám phá, đang nỗ lực phấn đấu để thay
đổi Thế giới. Mục đích của việc thay đổi Thế giới là gì vậy? Câu trả lời là: Chỉ
một mục đích duy nhất là Chấm dứt Khổ. Nhưng tại sao con người lại muốn thay
đổi Thế giới ngoại cảnh? Bởi hiểu biết của nhân loại đã được Mặc định: Khổ và
Nguyên nhân Khổ là những hoàn cảnh khó khăn, tồi tệ như nghèo khó, lạc hậu,
thiếu tiện nghi... thuộc về Thế Giới ngoại cảnh. Sự Chấm dứt Khổ là những hoàn
cảnh tốt đẹp như giàu có, sắc đẹp, thành đạt... cũng thuộc về Thế Giới ngoại cảnh.
Và vì vậy, đương nhiên Con đường Chấm dứt Khổ là thay đổi hoàn cảnh sống,
thay đổi Thế Giới ngoại cảnh. Chính hiểu biết của nhân loại đã được Mặc định
như vậy, đang chi phối đời sống của họ, nhưng vì hiểu biết đó KHÔNG ĐÚNG
SỰ THẬT, là VÔ MINH, là ĐIÊN ĐẢO nên cho dù nhân loại có thay đổi được
Thế giới ngoại cảnh thì cũng chỉ ĐỔI cái Khổ này bằng một cái Khổ khác mà
thôi.

Sự thật Khổ, Sự thật Nguyên nhân Khổ, Sự thật Chấm dứt Khổ, và Sự thật Con
đường Chấm dứt Khổ (Tứ Thánh Đế) đã được Đức Thế Tôn chứng ngộ và thuyết
giảng thuộc Phạm trù Tâm, thuộc nội Tâm chứ không phải là Thế giới ngoại
cảnh. Vì vậy, những ai muốn chấm dứt Khổ, muốn Giải thoát Khổ hãy học hỏi về
Tâm chứ không phải học hỏi về Thế Giới, phải tu tập để thay đổi Tâm chứ không
phải tu tập để thay đổi Thế Giới. Cụ thể: Hãy học hỏi để thấy biết đúng sự thật, lộ
trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu, trong đó có Khổ và Nguyên nhân Khổ
(Tham Sân Si), lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của bậc Thánh có Chấm dứt Khổ
(Chấm dứt Tham Sân Si) và Con đường Chấm dứt Khổ. Vì vậy, hãy tu tập để
thay đổi từ lộ trình tâm Bát Tà Đạo thành lộ trình tâm Bát Chánh Đạo thì sẽ
Chấm dứt được Khổ chứ không cần thay đổi hoàn cảnh sống, thay đổi Thế giới.

Về mục lục

Bài 076: HY VỌNG


Đã là con người thì sống bởi hy vọng. Hy vọng một ngày mai tốt lành, hy vọng một
tương lai tươi sáng, hy vọng có được niềm vui, hạnh phúc ở tương lai, hy vọng
chấm dứt mọi nỗi khổ trong tương lai. Già trẻ, gái trai, giàu nghèo ngu trí đều sống
với hy vọng. Có một cuốn sách mang tựa đề "Những kẻ lữ hành trên đường hy
vọng" đã nói lên thực trạng của đời sống nhân loại. Đó là những kẻ lữ hành đang nỗ
lực đi trong gian khổ, đói khát, sức cùng lực kiệt với nóng bức, mưa gió bão bùng,
những sa mạc khô cằn hay miền đất đầy thú dữ đe doạ... với hy vọng cháy bỏng,
phía trước mặt là miền đất hứa đầy sữa và mật ong. Chính niềm hy vọng về tương
lai giúp cho con người vượt qua mọi nỗi gian truân cay đắng của cuộc đời để tiếp
tục sống, chịu đựng được mọi cay đắng của cuộc đời. Điều gì sẽ xảy ra khi một
người chấm dứt mọi hy vọng tương lai? Sẽ xảy ra một trong hai trường hợp sau:

1 - MỘT LÀ: Người đó sẽ tự sát khi không còn bất cứ một hy vọng nào ở tương
lại, khi mọi lối thoát ở tương lai đã bị bít chặt và lúc đó cái đau khổ trong hiện tại
mới HIỆN RA NGUYÊN HÌNH không thể nào chịu đựng nổi. Có một thống kê
không biết chính xác đến mức độ nào đã chỉ ra: Ở Việt Nam mỗi năm có khoảng 10
nghìn người chết vì tai nạn giao thông, 120 nghìn người chết vì ung thư nhưng có
đến 40 ngàn người tự tử vì trầm cảm. Những người bị trầm cảm luôn nghĩ đến cái
chết để chấm dứt nỗi khổ đang trải qua trong hiện tại khi không còn một hy vọng,
một lối thoát trong tương lai. Rất nhiều người nổi tiếng, thiên tài, các nhà triết học,
nhà thơ, nhà văn, nghệ sĩ được cho là vĩ nhân đã tự sát vì họ đã phần nào thấy ra sự
thật, HY VỌNG THOÁT KHỔ TRONG TƯƠNG LAI thì giống như một chú cừu
kéo một cỗ xe nặng nề cố sức chạy nhanh lên với hy vọng được ăn bó cỏ non gắn
vào càng xe cách mỏm nó có một gang tay. Chính vì thấy ra cái sự thật CHẤM
DỨT KHỔ Ở TƯƠNG LAI LÀ ẢO TƯỞNG và không có duyên để học hỏi nên
không biết CÒN CÓ MỘT CÁCH THỨC CHẤM DỨT KHỔ TRONG HIỆN TẠI
nên vì không có lối thoát, họ đã kết liễu cuộc đời mình.

2 - HAI LÀ: Người đó giác ngộ, trở thành một bậc A La Hán. Đó là những người
đã đi đến đích, đã ĐOẠN TẬN KHỔ. Vì vậy, họ không còn hy vọng thoát khổ ở
tương lai, họ không còn tham ái Hạnh phúc nên không còn ước vọng bất cứ một
niềm vui, hạnh phúc tương lai nào nữa. Họ đã đoạn tận hy vọng và sống như bài kệ
kinh Nhất dạ hiền giả đã mô tả:

"Quá khứ không truy tìm

Tương lai không ước vọng

Quá khứ thì đã qua

Tương lai thì chưa tới

Chỉ có pháp hiện tại

Tuệ quán chính ở đây

Không động không rung chuyển."

Nhưng đối với vị hữu học chưa đạt được "Vô thượng an ổn thoát khỏi các khổ
ách" thì vị đó vẫn còn phải nuôi dưỡng hy vọng. Hy vọng đương nhiên do Tham
ái khởi lên nhưng vị hữu học có Văn Tuệ và Tư Tuệ biết rõ Nguyên nhân Khổ là
Tham ái Dục lạc (Dục ái), Tham ái Hiện hữu (Hữu ái), Tham ái Hiện hữu không
có thân xác (Phi Hữu ái) nên vị đó có tham muốn chấm dứt Dục ái, Hữu ái, Phi
Hữu ái để đạt được Chấm Dứt Khổ trong tương lai nhờ tu tập Bát Chánh Đạo. Hy
vọng này khởi lên sẽ NHIẾP PHỤC hy vọng về niềm vui, hạnh phúc tương lai do
Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái khởi lên. Hy vọng này mới phát sinh Tinh Tấn để tu
tập Bát Chánh Đạo siêu thế. Hy vọng này do tham muốn tu tập Bát Chánh Đạo
siêu thế cần phải được nuôi dưỡng đầy đủ, như ý cho đến mức độ nó nhiếp phục
mọi hy vọng khác của con người và đó chính là Dục như ý túc. Do có Dục như ý
túc là nhân sẽ phát sinh Tinh Tấn như ý túc để tu tập Bát Chánh Đạo. Có được hai
yếu tố Dục như ý túc và Tinh Tấn như ý túc do Văn Tuệ và Tư Tuệ khởi lên thuộc
Bát Chánh Đạo hiệp thế sẽ phát sinh tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế với Định như
ý túc và Tuệ như ý túc. Định như ý túc là tuỳ theo ý muốn CHỨNG VÀ TRÚ sơ
thiền, nhị thiền, tam thiền hoặc tứ thiền. Tuệ như ý túc là khi thấy, nghe, cảm
nhận đối tượng thì Trí Tuệ khởi lên BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT ĐỐI TƯỢNG ĐÓ
LÀ CẢM THỌ DO CĂN TRẦN TIẾP XÚC MÀ PHÁT SINH, NÓ VÔ
THƯỜNG, VÔ CHỦ (VÔ NGÃ), CÓ VỊ NGỌT, SỰ NGUY HIỂM VÀ SỰ
XUẤT LY. Khi Bát Chánh Đạo siêu thế khởi lên với Định như ý túc, Tuệ như ý
túc đang được tu tập thì Hy Vọng Chấm Dứt Khổ cũng được nhiếp phục còn khi
Tứ Như Ý Túc gồm Dục như ý túc, Tinh Tấn như ý túc, Định như ý túc, Tuệ như
ý túc được tu tập, được làm cho VIÊN MÃN thì lúc đó đạo quả A La Hán xảy ra,
và lúc đó MỌI HY VỌNG ĐƯỢC ĐOẠN TẬN.

Về mục lục

Bài 077: BỊ TREO LƠ LỬNG

Ngoại trừ các bậc Thánh đã giác ngộ theo chỉ dạy của Đức Phật, còn tất cả nhân
loại, dù gái hay trai, già hay trẻ, giàu hay nghèo, ngu hay trí đang tìm lối thoát
khỏi khổ trong tương lai. Vì vậy, ai ai cũng đang cố gắng chịu đựng khổ, nhẫn
nhục chịu đựng khổ với hy vọng tương lai sẽ thoát khỏi các nỗi khổ đó. Những
người giàu có, thành đạt nhẫn chịu để hy vọng giàu có thành đạt hơn để có thể hết
khổ phải nhẫn chịu. Trẻ con hy vọng lớn lên trở thành người lớn để tự do tự tại đi
đây đi đó, làm những việc mình muốn và không còn khổ vì lệ thuộc bố mẹ. Hy
vọng sẽ thành đạt, giàu sang để không còn khổ vì nghèo đói, vì bị coi thường. Hy
vọng cơn bão không đổ bộ vào nơi mình ở, hy vọng mưa thuận gió hoà, hy vọng
kẻ thù sẽ bị trừng phạt đích đáng... Đến kẻ tử tù cũng sống trong hy vọng ngày đó
chưa phải là ngày mai, vẫn phấp phỏng hy vọng mình thoát án tử. Tín đồ các tôn
giáo thì hy vọng sau khi chết có một đời sau tốt đẹp, hy vọng sẽ được hiện hữu
nơi thiên đường cực lạc, hiện hữu nơi thế giới tâm linh mầu nhiệm, vĩnh hằng.

Lối sống HY VỌNG TƯƠNG LAI chi phối toàn thể đời sống nhân loại nên bất
cứ một ai không còn một tia hy vọng nào ở tương lai, không còn hy vọng thoát
khổ trong tương lai thì họ sẽ tự sát. Hiện tượng này phơi bày một sự thật: Khi con
người không còn hy vọng thoát được khổ trong tương lai thì KHỔ MỚI HIỆN
NGUYÊN HÌNH KHÔNG CÒN ĐƯỢC CHE GIẤU BỞI HY VỌNG VÀ LÚC
ĐÓ NÓ GHÊ GỚM ĐẾN MỨC KHÔNG THỂ NÀO CHỊU ĐỰNG NỔI. Chính
vì nhận thức của nhân loại đã mặc định “chỉ có một lối thoát khổ duy nhất xảy ra
trong tương lai” nên toàn bộ cuộc sống từ triết học, văn học, nghệ thuật, ca nhạc
đến sự tán gẫu hàng ngày đều nhắm đến tạo dựng, ca tụng một lý tưởng sống lạc
quan, tin tưởng tương lai, cổ vũ cho tương lai. Và lối sống đó đã cột chặt con
người vào những ước vọng tương lai, vào những dự định tốt đẹp sẽ xảy ra trong
tương lai.

Lối sống Hy Vọng Tương Lai tuy có mặt tốt là đã giúp cho con người chịu đựng
được mọi gian truân cay đắng của cuộc đời để tồn tại, nhưng nó lại làm phát sinh
một nỗi khổ mới còn kinh khủng hơn. Đó là nỗi khổ bị treo lơ lửng giữa Hy vọng
và Thất vọng. Từ việc làm hiện tại đến kết quả hy vọng trong tương lai là thời
gian Chờ Đợi. Hy Vọng thì phải Chờ Đợi, nhưng ở đâu có Chờ Đợi thì ở đó có
căng thẳng và có cả thấp thỏm lo âu thất vọng. Và ở đâu có căng thẳng, có thấp
thỏm lộ âu thất vọng thì ở đó có Đau khổ. Chờ đợi là thấp thỏm, là lo âu, là căng
thẳng, là đau khổ, cho dù chờ đợi những điều tốt đẹp nhất chỉ một giờ nữa sẽ xảy
ra, ví như bà mẹ thấp thỏm chờ chàng rể đến rước dâu là con gái của mình từ 9
giờ sáng đến 10 giờ sáng. Cái một giờ chờ đợi đó nó dài hơn rất nhiều so với một
giờ của cuộc sống thường ngày và đầy thấp thỏm. Máy bay đến trễ giờ 30 phút và
sự chờ đợi tuy sự thực chỉ có 30 phút nhưng sao cảm thấy nó dài ghê. Từ khi mua
tờ vé số đến khi xem được kết quả là thấp thỏm chờ đợi... Kỳ vọng tương lai càng
lớn bao nhiêu thì nỗi khổ bị treo lơ lửng cũng càng lớn bấy nhiêu.

Có một lối thoát khỏi mọi khổ đau, cay đắng của cuộc đời trong hiện tại, NGAY
BÂY GIỜ VÀ TẠI ĐÂY đã được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tự mình tìm ra, giác
ngộ và thuyết giảng. Lối thoát đó là thay đổi TÂM chứ không phải thay đổi
CẢNH, cụ thể là thay đổi lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu gồm: Tà Niệm -
Tà Tư Duy - Tà Kiến - (Tham Sân Si) - Tà Định - Tà Tinh Tấn - Tà ngữ, Tà
nghiệp, Tà mạng sang lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của Bậc Thánh gồm: Chánh
Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chán h Định - Chánh Tư Duy - Chánh Kiến - Chánh ngữ,
Chánh nghiệp, Chánh mạng. Khi tu tập, lộ trình tâm Bát Chánh Đạo khởi lên gọi là
Bát Chánh Đạo siêu thế thì đó cũng chính là Thực Tại Xuất Thế Gian của Bậc
Thánh và trong thực tại Xuất Thế đó không còn Nhân, không còn Duyên cho Vô
minh, cho Tham Sân Si sinh khởi, nên không còn Nhân Duyên cho Khổ khởi lên.
Khi Bát Chánh Đạo siêu thế khởi lên nơi một vị đệ tử hữu học (đang tu học) hay vị
vô học (đã tu học xong) thì thực tại của vị đó Vắng mặt Khổ, không còn Khổ mà
thuật ngữ Phật học gọi là Khổ Diệt hay Niết Bàn. Vì vậy, Khổ Chấm Dứt, Khổ
Diệt hay Niết Bàn là ngay bây giờ và tại đây khi mà Bát Chánh Đạo khởi lên.
Nghĩa là thay đổi được Tâm từ Bát Tà Đạo sang Bát Chánh Đạo ngay lập tức KHỔ
HẾT LIỀN, không còn phải chờ đợi khổ sẽ hết trong tương lai nữa. Nếu giây phút
hiện tại, ngay bây giờ và tại đây làm được như vậy thì khi giây phút tương lai trở
thành hiện tại thì cũng hết khổ như vậy và thực tại của người đó từ giây phút này
sang giây phút khác sẽ không còn khổ. Vì điều này mà kinh điển có nói: Pháp mà
Đức Thế Tôn khéo giảng là Thiết thực hiện tại (khổ diệt ngay bây giờ và tại đây),
Không bị chi phối bởi thời gian. Bị chi phối bởi thời gian là pháp hữu vi, phát sinh
theo định luật Nhân Quả theo thứ tự nhân trước quả sau, còn Khổ Diệt hay Niết
Bàn là sự vắng mặt, sự không hiện hữu của Khổ nên là pháp vô vi, do không còn
Nhân Duyên nên Khổ không có, chứ Không phải Bát Chánh Đạo là nhân, Khổ
Diệt, Niết Bàn là quả. Khi tu tập Bát Chánh Đạo, Khổ được chấm dứt ngay bây giờ
và tại đây nên không còn hy vọng tương lai, vì vậy không còn khổ do bị treo lơ
lửng giữa hy vọng và thất vọng. Tu tập Bát Chánh Đạo thân chứng được Khổ Diệt,
Niết Bàn ngay bây giờ và tại đây thì sẽ chấm dứt được hiểu biết sai lạc, tu là để
thấy được các pháp vô thường, khổ, vô ngã. Thực tại bậc Thánh là Bát Chánh Đạo
tuy vẫn vô thường, vô ngã như Phàm phu nhưng đâu còn khổ như của Phàm phu
nữa để mà thấy khổ. Đúng sự thật là tu để biết đúng như thật, thực tại bậc Thánh là
Vô thường, Khổ diệt, Vô ngã chứ không phải tu để thấy các pháp vô thường, khổ,
vô ngã.
Có lý luận cho rằng có hai loại khổ, khổ để tiếp tục khổ và khổ để hết khổ, nghĩa là
Phàm phu chịu khổ để rồi khổ tiếp còn người tu chịu đựng khổ để hết khổ. Đó
cũng là tà kiến tu để hết khổ trong tương lai.

Về mục lục

Bài 078: ĐÃ BIẾT VÔ THƯỜNG, SAO CÒN PHIỀN NÃO?

Đây là một câu hỏi nhưng gần như không có câu trả lời cho đa số những người tu
học theo Phật Giáo. Câu trả lời chỉ đến với một số người trí khi lật lại vấn đề. Có
phải biết các pháp vô thường thì chấm dứt phiền não không? Vậy tại sao những
người tu học nói là đã biết vô thường nhưng họ vẫn than phiền không hết phiền
não? Câu trả lời là tại vì, hiểu biết về Vô thường của những người đó "ĐANG CÓ
VẤN ĐỀ", chưa đúng với SỰ THẬT VÔ THƯỜNG nên còn phiền não. Vậy thì,
biết các pháp VÔ THƯỜNG cho đến MỨC ĐỘ NHƯ THẾ NÀO thì mới chấm
dứt phiền não? Để chấm dứt được Phiền não, chấm dứt được Khổ phải Tuệ tri vô
thường, Tuệ tri sự nguy hiểm, Tuệ tri sự xuất ly.

I - TUỆ TRI VÔ THƯỜNG:

Phải nhận thức rằng, BIẾT các pháp (Danh và Sắc) là vô thường có hai loại: Biết
vô thường không đúng với sự thật, do tưởng tượng ra gọi là Vô Minh hay Tà Tri
kiến thuộc về Phàm phu, phát sinh trên lộ trình tâm Bát tà Đạo và Biết vô thường
đúng như thật gọi là Minh, là Tuệ tri, là Chánh Tri kiến thuộc về bậc Thánh, phát
sinh trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo.

A - Hiểu biết vô thường không đúng như thật cho nên vẫn phiền não:

- Một là: Hiểu biết của nhân loại các pháp VÔ THƯỜNG theo nghĩa là các pháp
đang BIẾN ĐỔI từ cái này sang cái kia. Hạt gạo biến đổi thành hạt cơm, trẻ biến
đổi thành già, thân thể biến đổi từ khoẻ sang bệnh, không khí từ lạnh sang nóng,
mùa hạ sang thu, từ hoa sang trái, từ xanh sang chín, từ sống sang chết v.v... Theo
nghĩa này thì sau khi thấy, nghe, cảm nhận một đối tượng, Tư Duy Suy Diễn theo
kinh nghiệm cá nhân khởi lên, SUY ĐOÁN đối tượng đó sẽ mất đi, sẽ không còn
tồn tại trong một tương lai xa hay gần nào đó, và vì vậy, đối tượng đó vô thường.
Ví như nhìn một đứa bé rồi khởi lên, mấy chục năm nữa nó sẽ chết, nó sẽ vô
thường. Thấy một cô thiếu nữ xinh đẹp rồi hiểu rằng xinh đẹp đó sẽ vô thường
trong mươi lăm năm sắp tới. Thấy một bông hoa đang nở tươi rói nhưng nghĩ rằng
nó sẽ vô thường vì một tuần sau nó sẽ tàn lụi. Thấy một toà nhà cao tầng hiện đại,
nghĩ rằng nó sẽ bị huỷ hoại, sẽ vô thường biến mất sau một ngàn năm nữa... Hiểu
biết các đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận sẽ biến đổi thành cái
khác, sẽ vô thường TRONG TƯƠNG LAI chứ không không phải nó vô thường
trong giây phút hiện tại là SUY DIỄN TƯỞNG TƯỢNG ra vô thường mà
KHÔNG TRỰC TIẾP thấy vô thường. Với hiểu biết vô thường như vậy thì vẫn
còn rất nhiều thời gian để mà tận hưởng Dục lạc, tận hưởng niềm vui, hạnh phúc
dài dài từ các đối tượng đó. Hiểu biết vô thường như vậy sẽ đưa đến một lối sống
gấp, tận hưởng mọi lạc thú, không để nó trôi qua một cách uổng phí kiểu như:
"Nhanh lên chứ, vội vàng lên với chứ. Em, em ơi, tình non sắp già rồi"... Hiểu biết
vô thường do suy diễn, tưởng tượng như vậy thì Tham ái càng mãnh liệt và Phiền
não càng tăng thêm nên mới ca thán, "đã biết vô thường, sao lại còn phiền não".

- Hai là: Hiểu biết vô thường nhưng thực chất là Thường kiến: Hiểu biết bởi Ý
thức của nhân loại là Nhị Nguyên TÂM CẢNH, nghĩa là cái biết là TÂM và đối
tượng được biết là CẢNH, là THẾ GIỚI sắc thanh hương vị xúc pháp, vì vậy
những đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là THẾ
GIỚI NGOẠI CẢNH. Tất cả các pháp như to nhỏ, vuông tròn dài ngắn, đẹp xấu,
xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng mềm thô mịn... là tính chất của thế
giới ngoại cảnh, SẴN CÓ, THƯỜNG XUYÊN CÓ, THƯỜNG HẰNG, THƯỜNG
TRÚ nơi thế giới ngoại cảnh, như ngọt ở trong đường, mặn trong muối, ngon dở
trong thức ăn, nóng ở trong lửa, lạnh ở trong nước đá, cứng mềm thô mịn, nặng
nhẹ ở trong hòn đá, trong địa đại, Hạnh phúc sẵn có, thường xuyên có, thường
hằng, thường trú trong thế giới ngoại cảnh. Hạnh phúc có trong sắc đẹp, tiếng hay,
hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái, trong tiền bạc, xe cộ, nhà cửa, tài sản, trong
sắc đẹp, thành đạt, danh tiếng... Hiểu biết này không đúng sự thật, là vô minh tà
kiến mà thuật ngữ Phật học gọi là THƯỜNG KIẾN hay CHẤP CÓ. Hiểu biết vô
thường của đa số người học Phật trên nền tảng THƯỜNG KIẾN hay CHẤP CÓ
như vậy nên vẫn khát ái tìm cầu hạnh phúc chỗ này chỗ kia trong thế giới ngoại
cảnh và vì vậy vẫn cứ phiền não nên ca thán hoài, "đã biết vô thường, sao lại còn
phiền não".

B - Hiểu biết đúng như thật vô thường:

- Muốn có được hiểu biết như thật vô thường hay Tuệ tri vô thường thì phải có
được hiểu biết đúng như thật về Định Luật Nhân Quả hay Lý Duyên Khởi mà cụ
thể là các pháp phát sinh theo quy luật: Hai nhân tiếp xúc nhau (tương tác) rồi
cùng diệt mới phát sinh quả, chứ không phải một nhân biến đổi thành quả hay
nhân chính biến đổi thành quả có các nhân phụ hay duyên trợ giúp như hiểu biết
vô minh của nhân loại. Với quy luật này, nếu quan sát theo thời gian thì các pháp
sinh lên rồi diệt đi, chỉ xuất hiện và tồn tại một lần duy nhất trong một khoảng thời
gian rất ngắn ngủi, không lặp lại lần thứ hai nên nó Vô thường, nếu quán sát theo
chiều không gian thì các pháp là Vô chủ, vô sở hữu (hay Vô ngã).

- Thấu hiểu THỰC TẠI này là các CẢM THỌ chứ không phải THẾ GIỚI: Quan
sát Lý Duyên Khởi để thấy biết sự thật, THỰC TẠI mà nhân loại đang sống là
SÁU LOẠI CẢM GIÁC (CẢM THỌ) do Sáu Căn tiếp xúc (tương tác) Sáu Trần
mà phát sinh gồm: Cảm giác hình ảnh, Cảm giác âm thanh, Cảm giác mùi, Cảm
giác vị, Cảm giác xúc chạm và Cảm giác pháp trần. Nhân loại đã nhầm lẫn (vô
minh) một cách căn bản là Nhãn thức thấy Sắc trần, Nhĩ thức nghe Thanh trần, Tỷ
thức ngửi Hương trần, Thiệt thức nếm Vị trần, Thân thức cảm nhận Xúc trần và Ý
thức biết Pháp trần (Tâm biết Cảnh) mà SỰ THẬT là Nhãn thức thấy Cảm giác
hình ảnh, Nhĩ thức nghe Cảm giác âm thanh, Tỷ thức cảm nhận Cảm giác mùi,
Thiệt thức cảm nhận Cảm giác vị, Thân thức cảm nhận Cảm giác xúc trần và
Tưởng thức cảm nhận Cảm giác pháp trần (Tâm biết Tâm). Vì vậy, tất cả các pháp
như to nhỏ, vuông tròn, dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng
mềm thô mịn, nặng nhẹ, nóng lạnh, đàn ông, đàn bà, xe cộ, nhà cửa, sum la vạn
tượng... mà nhân loại lầm tưởng là thế giới hiện tượng, CHÍNH LÀ CÁC CẢM
GIÁC do Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh chứ không phải là Thế giới ngoại cảnh
sắc thanh hương vị xúc pháp trần. Khi BIẾT NHƯ THẬT các đối tượng được
thấy, được nghe, được cảm nhận đó là CẢM GIÁC thì cũng BIẾT NHƯ THẬT
NGAY LIỀN NÓ VÔ THƯỜNG. Ví như Phàm phu thấy cái bàn gỗ lim rồi hiểu
biết khởi lên, cái bàn CỨNG, thì CỨNG là tính chất của cái bàn, sẵn có, thường
xuyên có, thường hằng, thường trú nơi cái bàn. Cái bàn đó sẽ bị hư hoại, sẽ biến
mất trong vài ba chục năm nữa và lúc đó CỨNG của cái bàn cũng hoại diệt, lúc đó
CỨNG SẼ VÔ THƯỜNG. Đó là Phàm phu chấp thường hay chấp có và thấy vô
thường như vậy là do suy diễn, tưởng tượng. Nếu quan sát sự thật Bàn là một nhân
và Bàn tay là nhân thứ hai nhưng chưa tiếp xúc thì chưa có CỨNG nào xuất hiện.
Khi Bàn tay TIẾP XÚC Bàn thì lập tức phát sinh CẢM GIÁC CỨNG mà Thánh
hay Phàm đều cảm nhận được và Cảm giác cứng này mới là Thực tại của cuộc
sống. XÚC sinh Cảm Giác Cứng sinh, XÚC diệt Cảm Giác Cứng diệt. Cảm Giác
Cứng sinh lên rồi diệt đi, nó VÔ THƯỜNG, nó không sẵn có, không thường xuyên
có, không thường hằng, không thường trú nơi cái bàn gỗ lim. Đây là thấy biết vô
thường TRỰC TIẾP không phải là Suy Diễn Tưởng Tượng vô thường. Các pháp
khác cũng quan sát tương tự như vậy. Khi Tuệ tri SÁU XÚC XỨ như vậy, sẽ Tuệ
tri các pháp vô thường, bằng một cái biết trực tiếp về vô thường và quan trọng nhất
là Tuệ tri được Hạnh phúc (Vị ngọt) là CẢM GIÁC DỄ CHỊU (Lạc Thọ) do Căn
Trần tiếp xúc mà phát sinh, nó Vô thường, nó sinh lên rồi diệt đi tức thì, nó không
sẵn có, không thường xuyên có, không thường hằng, không thường trú trong thế
giới ngoại cảnh, nó không có trong sức khoẻ, sắc đẹp, tiền bạc, tài sản, thành đạt,
danh tiếng. Ví như, khi lưỡi tiếp xúc với một loại thức ăn thượng vị, phát sinh một
cảm giác (Lạc thọ) và phát sinh tâm thích thú (Tham) cảm giác đó, và do thích thú
cảm giác đó mà phát sinh một cảm giác hạnh phúc. Nếu bắt ăn món ăn thượng vị
đó nhiều ngày liên tục thì cảm giác ngon không còn nữa, cảm giác hạnh phúc
không còn phát sinh mà phát sinh cảm giác nhàm chán, đau khổ. Vì vậy, hạnh
phúc là cảm giác, nó không có trong món ăn thượng vị. Một người lúc mới bắt đầu
có tài sản một tỷ đô la sẽ rất thích thú khi nghĩ đến khối tài sản mà mình có được
và do thích thú đó mà phát sinh cảm giác hạnh phúc, nhưng anh ta không thể nào
suốt ngày chỉ nghĩ đến khối tài sản và cảm nhận hạnh phúc như vậy, anh ta còn có
rất nhiều việc phải làm, phải lo nghĩ, phải toan tính, phải đối phó để giữ gìn và
tăng trưởng khối tài sản nên lúc đó cảm giác hạnh phúc diệt đi, cảm giác bức xúc,
đau khổ phát sinh. Vì vậy, hạnh phúc không có trong một tỷ đô la kia vì nếu có ở
đó thì anh ta đã hạnh phúc liên tục suốt ngày, vì hạnh phúc chỉ là cảm giác. Nếu
Tuệ tri Sáu Xúc Xứ, biết như thật Thực Tại là sáu loại Cảm Giác, Hạnh phúc chỉ là
Cảm Giác, nó Vô thường, Vô chủ thì mới thấy nhân loại này quá vô minh, quá ngu
si khi tham ái và nắm giữ Cảm Giác Hạnh phúc, là đối tượng không bao giờ có thể
nắm giữ được vì nó vô thường và vô chủ.

II - TUỆ TRI SỰ NGUY HIỂM:

- Thực Tại Cảm Giác là cuộc sống hàng ngày của con người và Thực Tại đó đang
sinh diệt nhanh chóng, liên tục, không có bất kỳ một đối tượng nào của Thực Tại
tồn tại lâu dài. Từ khi mở mắt thức dậy cho đến khi nhắm mắt nằm ngủ, đã có vố
số, vô lượng Cảm giác hình ảnh, những đối tượng được thấy, LIÊN TỤC SINH
LÊN RỒI DIỆT ĐI. Mắt tiếp xúc với Sắc trần này làm phát sinh Cảm giác hình
ảnh này và phát sinh Nhãn thức thấy đối tượng đó rồi Mắt lại tiếp xúc với Sắc
trần khác làm phát sinh Cảm giác hình ảnh khác và phát sinh Nhãn thức thấy đối
tượng khác. Khi đối tượng khác là Cảm giác hình ảnh khác phát sinh thì đối
tượng này là Cảm giác hình ảnh này đã diệt. Các đối tượng được thấy là các Cảm
giác hình ảnh đang SINH DIỆT nhanh chóng như vậy. Các đối tượng phát sinh
nơi các giác quan khác cũng đang sinh diệt tương tự. Thực Tại không những
đang sinh diệt, Vô Thường mà nó còn có tính chất là Vô chủ, Vô sở hữu nghĩa là
không có một cái gì, không có một ai, không có một cái Ta nào là chủ nhân, chủ
sở hữu, điều khiển các đối tượng thực tại hay thuật ngữ Phật học gọi là VÔ
NGÃ. Thấy được các đối tượng của Thực Tại đang sinh diệt là phần quan trọng
để đi đến thể nhập TRÍ TUỆ VỀ SỰ SINH DIỆT CỦA CÁC PHÁP mà như
Kinh Pháp Cú đã xác nhận: "Ai sống một trăm năm. Không thấy pháp sanh diệt.
Không bằng sống một ngày. Thấy được pháp sanh diệt".

- Các đối tượng của Thực Tại, trong đó có Lạc Thọ là vô thường, sinh diệt nên nếu
Tham ái (thích thú) các Lạc thọ thì sẽ nắm giữ, muốn nó tồn tại mãi. Vì vậy, khi nó
vô thường, biến hoại, biến diệt, mất đi thì sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên. Đây chính
là SỰ NGUY HIỂM, THAM ÁI LẠC THỌ LÀ NGUY HIỂM vì nó sẽ đưa đến
khổ. Vì tham ái và nắm giữ Lạc thọ nên khi không có Lạc thọ mà xuất hiện Khổ
thọ thì Sân (chán ghét) khởi lên làm phát sinh khổ, hoặc xuất hiện Bất khổ bất lạc
thọ thì Si khởi lên, tìm kiếm một Lạc thọ để thay thế Bất khổ bất lạc thọ nên cũng
sẽ phát sinh khổ. Vì vậy, THAM ÁI LẠC THỌ LÀ NGUYÊN NHÂN KHỔ.

- Không những phải Tuệ tri các đối tượng của Thực Tai là Cảm Giác, Vô Thường,
Vô Chủ mà còn phải Tuệ tri SỰ NGUY HIỂM tức Tuệ tri Tham ái lạc thọ là
Nguyên Nhân Khổ, thì lúc đó mới Chấm Dứt Khổ, mới chấm dứt Phiền não. Lúc
đó mới thực sự kinh nghiệm, "biết vô thường thì không còn phiền não". Ví như,
cùng thấy một hòn than lửa đỏ nhưng đứa trẻ một, hai tuổi không biết Sự nguy
hiểm nên nó cầm lên chơi và kết quả bỏng tay rất đau khổ. Trái lại, người lớn đã
trải nghiệm nên khi thấy hòn than cháy đỏ liền biết rõ Sự nguy hiểm nên không thể
tay trần cầm lấy hòn than cháy đỏ nên không bỏng tay, không đau khổ.

III- TUỆ TRI SỰ XUẤT LY VÀ CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN XUẤT LY:

Nếu thấy, nghe, cảm nhận đối tượng thực tại mà HIỂU BIẾT NHƯ THẬT hay
CHÁNH KIẾN khởi lên, BIẾT RÕ đối tượng đó là Cảm Thọ, nó Vô thường, Vô
chủ, có vị ngọt (Lạc thọ), có sự nguy hiểm thì sẽ BIẾT RÕ SỰ XUẤT LY, nghĩa
là biết rõ không có Tham Sân Si với đối tượng, cũng có nghĩa là biết rõ Khổ Diệt
hay thuật ngữ Phật học gọi là biết rõ Niết Bàn. Nhưng không thể chỉ NGHE và
TƯ DUY về Vô thường, về Sự nguy hiểm như vậy là có thể chấm dứt được Tham
ái, chấm dứt được Khổ mà phải tu tập Bát Chánh Đạo mới có thể Tuệ tri về sự
xuất ly, tuệ tri về Khổ Diệt. Tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế cũng có nghĩa là thực
hành Tứ Niệm Xứ, thực hành Chánh Niệm về Thân Thọ Tâm Pháp mà thực chất
là luyện tập TRÍ NHỚ, để Nhớ được các nội dung quan trọng đã Nghe và Tư Duy
trên. Luyện tập Chánh Niệm nghĩa là luyện tập Trí Nhớ cho thuần thục đến mức
độ, sau khi thấy, nghe, cảm nhận đối tượng bởi tâm biết trực tiếp giác quan (gọi là
Tỉnh Giác) LẬP TỨC Trí Nhớ về nội dung đã nghe, đã tư duy như trên khởi lên,
và cái đó gọi là CHÁNH NIỆM. Do có Chánh Niệm như vậy mà Chánh Tư Duy
khởi lên làm phát sinh Chánh Kiến, là tâm biết ý thức, BIẾT đối tượng đó là Cảm
thọ, nó Vô thường, Vô chủ, nó có vị ngọt, có SỰ NGUY HIỂM. Với CHÁNH
KIẾN biết đối tượng như vậy thì sẽ biết ngay, không có Tham Sân Si, không có
Phiền não với đối tượng. Đó gọi là biết rõ SỰ XUẤT LY. Sự luyện tập Chánh
Niệm, luyện tập Trí Nhớ với nội dung này phải liên tục, phải kỳ công hình dung
như khi học ngoại ngữ. Người học ngoại ngữ sau khi thấy hình ảnh chữ đó, nghe
âm thanh chữ đó phải liên tục luyện tập trí nhớ, để nhớ được nội dung chữ viết và
âm thanh đó kể cả phải thực tập phiên dịch trực tiếp cho đến khi thành tựu. Lúc
đó, hễ nhìn hay nghe thì Trí nhớ về nội dung đó TỰ ĐỘNG THUẦN THỤC khởi
lên. Sự tinh tấn, tinh cần, liên tục luyện tập Chánh Niệm (Trí nhớ có nội dung
trên) sẽ đưa đến xoá bỏ Vô minh và thành tựu sự Giác Ngộ mà Đức Phật đã tuyên
bố trong Kinh Phạm Võng thuộc Trường Bộ Kinh:

"NÀY CÁC TỶ KHEO, NHƯ LAI NHỜ NHƯ THẬT TUỆ TRI SỰ SINH DIỆT
CỦA THỌ, VỊ NGỌT, SỰ NGUY HIỂM VÀ SỰ XUẤT LY CỦA THỌ MÀ
NHƯ LAI ĐƯỢC GIẢI THOÁT HOÀN TOÀN KHÔNG CÓ CHẤP THỦ".

Về mục lục

Bài 079: KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT

Đây là thuật ngữ dùng trong Thiền tông Trung quốc. Chữ Tánh trong ngữ cảnh
này là ngôn ngữ miền nam, còn miền bắc Việt nam gọi là Tính. Nội dung của từ
này là để chỉ cho Tánh Chất hoặc Tính Chất của các pháp. Chữ Kiến là ngôn ngữ
Hán đã được Việt hoá để chỉ cho hành vi Thấy và Biết. Từ KIẾN TÁNH phải
được hiểu là Thấy Biết Như Thật, Thấy Biết đúng sự thật TÁNH CHẤT của các
pháp mà Kinh Pháp Môn Căn Bản thuộc Kinh Trung Bộ gọi là Liễu Tri tất cả
pháp. Một người nếu Liễu Tri tất cả pháp hay Thấy Biết đúng sự thật TÁNH
CHẤT của tất cả pháp thì gọi là KIẾN TÁNH và người đó Thành Phật. Phật
trong ngữ cảnh này được hiểu là có ba loại: Phật Chánh Đẳng Giác, Phật Độc
Giác, Phật Thanh Văn Giác (A La Hán).

Đã là KIẾN TÁNH là tự mình Thấy, tự mình Biết đúng như thật Tánh Chất của
các pháp như thấy quả xoài trong lòng bàn tay thì đương nhiên có thể mô tả, phân
tích, diễn giải, hiển thị các TÁNH CHẤT đó một cách rõ ràng minh bạch, không
mơ hồ trừu tượng, không suy diễn tưởng tượng. Quá trình KIẾN TÁNH đã được
Đức Phật giảng dạy theo lộ trình VĂN - TƯ - TU với nhiều phương cách khác
nhau và rất rõ ràng minh bạch, không có một chi tiết nào thách đố chúng sanh.
Còn quan niệm về Kiến Tánh của Thiền Tông Trung Hoa, cũng như hiểu biết về
Kiến Tánh của đa số hiện nay là một cái gì đó rất cao quý, rất vi diệu, rất mầu
nhiệm, không thể nói ra được, "không thể nghĩ bàn", nhưng cũng rất mơ hồ trừu
tượng, khó mà "tưởng tượng" ra nổi. Và vì thế cái Tánh đó là cái gì, nó như thế
nào thì không ai nói ra được, không ai mô tả được. Mỗi một ông thầy đều "tưởng
tượng" ra Kiến Tánh theo kiểu của riêng mình và vì vậy có hàng ngàn công án
khác nhau để thách đố đệ tử Kiến Tánh. Thực tế cách Kiến Tánh của Thiền Tông
Trung Hoa đã phủ nhận Giáo Pháp của Đức Phật Thích Ca, không cần phải VĂN
- TƯ - TU, không cần phải nghe giảng về Tứ Thánh Đế, không cần phải tư duy về
Tứ Thánh Đế, không cần phải tu tập Bát Chánh Đạo, mà là "Giáo ngoại biệt
truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thàn h Phật".

Vậy KIẾN TÁNH đúng nghĩa là KIẾN những TÁNH CHẤT gì? Các TÁNH
CHẤT đó sẽ được trình bày tuần tự như sau:
1 - KIẾN TÁNH DUYÊN KHỞI:

Quán sát sự thật thì tất cả các pháp bao gồm Sắc pháp và Danh pháp hay nói theo
cách thông thường là tất cả các sự vật hiện tượng Vật chất và Tinh thần đều phát
sinh theo Nguyên Lý Duyên Khởi hay Nguyên Lý Nhân Quả: HAI NHÂN TIẾP
XÚC NHAU RỒI CÙNG DIỆT MỚI PHÁT SINH CÁC QUẢ. Hay các pháp
phát sinh theo lộ trình NHÂN DUYÊN QUẢ, có nghĩa Nhân bao gồm hai nhân tố
hay hai yếu tố. Có hai nhân tố hay hai yếu tố nhưng chưa tiếp xúc thì chưa xảy ra
kết quả, khi hai nhân tiếp xúc hay tương tác với nhau thì gọi là Duyên (duyên
Xúc). Do duyên Xúc mà phát sinh Quả: Hai nhân cùng diệt và Quả sanh. Thí dụ
về Sắc pháp: Một gói thuốc nhuộm đỏ và Một chậu nước trong là Hai Nhân. Khi
gói thuốc nhuộm đỏ tiếp xúc hay tương tác với chậu nước trong (duyên Xúc) thì
cả Hai Nhân đó cùng diệt đi và phát sinh Quả là Chậu thuốc nhuộm đỏ. Tất cả các
Sắc pháp cũng đều phát sinh như vậy. Thí dụ về Danh pháp: Lưỡi và Viên muối là
Hai Nhân nhưng chưa tiếp xúc thì chưa phát sinh Quả. Khi Lưỡi tiếp xúc Viên
muối thì lập tức pháp sinh Cảm giác mặn. Cảm giác mặn thuộc Phạm trù tâm và
nó là Danh pháp. Nếu quan sát kỹ thì khi Cảm giác mặn sinh thì Viên muối diệt
và bản thân Lưỡi cũ diệt, phát sinh Lưỡi mới (sinh diệt rất vi tế, tham khảo các
bài khác để thấy rõ). Tất cả các Danh pháp khác cũng phát sinh như vậy. Ngoài
Tánh Chất Duyên Khởi lên từng pháp phải quán sát để biết rõ diễn tiến của Duyên
Khởi nối tiếp nhau, theo các lộ trình khác nhau và liên tục, không có kết thúc. Thí
dụ đối với Sắc pháp: Bao thóc giống tiếp xúc Ruộng đã làm đất, phát sinh Ruộng
mạ. Tiếp đến Ruộng mà tiếp xúc Môi tường (nước, phân, ánh sáng...) phát sinh
Ruộng lúa chín. Tiếp đến Ruộng lúa chín tiếp xúc Máy gặt, phát sinh Bao thóc...
tiến trình như vậy sẽ diễn tiến mãi mãi, không có kết thúc theo quy luật Nhân
Duyên Quả. Đối với Danh pháp phải quán sát để thấy rõ Duyên Khởi lên hai lộ
trình tâm:

- Tánh Chất Duyên Khởi lộ trình tâm Bát Tà Đạo thuộc về Phàm phu: XÚC - Thọ -
Tưởng - Tà Niệm - Tà Tư Duy - Tà Tri Kiến - Tham Sân Si - Tà Định - Dục - Tà
Tinh Tấn - Phi như lý tác ý - Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng - Khổ (sinh già bệnh
chết) Sầu Bi Ưu Não

- Tánh Chất Duyên Khởi lên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của bậc Thánh: XÚC -
Thọ - Tưởng - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - (Tỉnh Giác) - Chánh
Tư Duy - Chánh Tri Kiến - Như lý tác ý - Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng.

2 - KIẾN TÁNH VÔ THƯỜNG:

Nếu quan sát các pháp theo chiều THỜI GIAN, thì tất cả các Sắc pháp (Vật chất)
và Danh pháp (Tâm) đều do DUYÊN XÚC mà khởi lên, cũng do DUYÊN XÚC
mà diệt đi nên Tất Cả Các Pháp SINH LÊN RỒI DIỆT đi, không tồn tại mãi mãi,
không thường hằng, trước khi có duyên Xúc nó chưa có, khi diệt đi nó không còn
nữa nên không thường trú đâu cả. Tánh Chất Không thường hằng, Không thường
trú của các pháp gọi là Tánh Chất Vô Thường. Kiến Tánh Vô Thường cũng có
nghĩa là biết rõ tất cả các đối tượng đó sẽ đến rồi đi, không thể nào Nắm Giữ nó
được, và nếu Tham ái các đối tượng đó thì sẽ muốn Nắm Giữ nó, muốn nó tồn tại
mãi với mình nên khi nó mất đi, đương nhiên sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên.
Người Kiến Tánh Vô Thường thì khi Thấy, Nghe, Cảm Nhận đối tượng, Kiến
Tánh Vô Thường sẽ xuất hiện, biết rõ đối tượng đó vô thường, biết rõ sự nguy
hiểm (nếu Tham ái đối tượng thì sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên). Do Biết như vậy
về đối tượng mà Tham ái được đoạn tận. Kẻ Phàm phu không Kiến Tánh Vô
Thường mà chấp thủ Thường kiến, hiểu lầm vị ngọt, hạnh phúc sẵn có, thường
xuyên có, thường hằng, thường trú trong các Sắc pháp nên Tham ái đối tượng
khởi lên, và Nắm giữ nó nên khi nó mất đi, Sầu bi khổ não khởi lên.

Vì không hiểu biết đúng như thật Tánh Duyên Khởi của các pháp, nên không biết
như thật Tánh Vô Thường, bị tư tưởng tà kiến Thường Kiến chi phối, một số tông
phái Phật giáo nhìn nhận Thế giới theo kiểu TĨNH TẠI, nên đã suy diễn, thành
lập ra quan điểm Nhị Đế. Nhị Đế quan niệm có Hai Thế giới thực tại tuyệt đối và
tương đối. Thế giới thực tại tuyệt đối là thế giới bản thế không sinh không diệt,
không hình không tướng, vô ngôn , vô niệm còn gọi là Chân Không và Thế giới
thực tại tương đối có sinh có diệt, có hình có tướng, có ngôn ngữ chế định mà
nhân loại đang sống chính là Sắc Thọ Tưởng Hành Thức. Thế giới thực tại Vô
tướng tuyệt đối là nền tảng, là cở sở mà từ đó Thế giới thực tại tương đối Có
tướng được biểu hiện ra. Trong đó có Tâm Bản Thể tuyệt đối không sinh không
diệt, không phân biệt là nền tảng, là cơ sở để Tâm Sinh Diệt, phân biệt biểu hiện
ra. Chính vì vậy mà "Sắc chẳng khác Chân Không, Chân Không chẳng khác Sắc.
Sắc chính là Chân Không, Chân Không chính là Sắc. Thọ Tưởng Hành Thức
cũng đều như vậy". Những tư tưởng này không có gì mới lạ, nó là bản sao có sửa
đổi của tư tưởng Cựu Ước: Thượng Đế Toàn Năng là tuyệt đối không sinh không
diệt, là nền tảng, là cơ sở để Thế giới loài người là tương đối, có sinh có diệt được
biểu hiện ra hoặc nó là bản copy tư tưởng Đại Ngã, Đại Linh Hồn của kinh điển
Vệ đà. Kinh Phạm Võng đã xếp quan điểm này vào một trong 62 tà kiến: Quan
niệm Thế giới này một phần Thường trú luận (Thế giới bản thể tuyệt đối) và một
phần Vô thường luận (Thế giới hiện tượng tương đối).

3 - KIẾN TÁNH VÔ NGÃ:

Do Tánh Duyên Khởi các pháp nên nếu quán sát quan hệ giữa các pháp theo
chiều KHÔNG GIAN thì sẽ thấy: Hai Nhân tiếp xúc nhau rồi Cùng Diệt Đi mà
phát sinh Quả. Hai nhân này bình đẳng, không có chính phụ vì vậy giữa chúng
Không Có Quan Hệ Chủ Nhân, Không Có Quan Hệ Sở Hữu. Vì Vậy Các Pháp có
tánh chất: VÔ CHỦ, VÔ SỞ HỮU. Điều này cũng đồng nghĩa Không có một cái
Ta, một Bản Ngã nào là chủ nhân, chủ sở hữu các pháp Sắc Thọ Tưởng Hành
Thức. Kiến Tánh Vô Chủ, Vô Sở Hữu hay Vô Ngã là biết rõ đối tượng đó độc
lập, không thể làm chủ, không thể điều khiển nên không thể nào có thể Nắm giữ
hoặc Xua đuổi nó. Người Kiến Tánh Vô Chủ, Vô Sở Hữu thì sau khi Thấy, Nghe,
Cảm Nhận đối tượng Kiến Tánh Vô Chủ, Vô Sở Hữu khởi lên biết đối tượng đó
vô chủ, vô sở hữu, không thể nắm giữ, không thể xua đuổi thì Thái độ BUÔNG
XẢ phát sinh ngay. Lúc đó tư tưởng tà kiến: "Cái này là của Ta, là Ta, là Bản Ngã
của Ta" cùng những hậu quả của nó được đoạn tận.

Vì Không Kiến Tánh Vô Chủ, Vô Sở Hữu hay Vô Ngã nên bị chi phối bởi hiểu
biết sai lạc, tà kiến là các pháp lệ thuộc vào nhau, nương nhau mà tồn tại, quan hệ
giữa các pháp là quan hệ chủ nhân, quan hệ SỞ HỮU nên nhân loại sống để thiết
lập, khẳng định, củng cố Quyền Làm Chủ, Quyền Sở Hữu. Nhân loại đang sống
để xác định quyền làm chủ bản thân, làm chủ gia đình, xã hội, làm chủ thiên
nhiên, làm chủ ước mơ, tương lai, hạnh phúc, làm chủ, sở hữu cả biển rộng trời
cao. Người tu hành thì làm chủ Nghiệp, làm chủ thân khẩu ý, Làm Chủ Sinh Già
Bệnh Chết... Chính vì tư tưởng làm chủ, tư tưởng sở hữu trái với sự thật, đang chi
phối đời sống nhân loại nên biết bao xung đột, đau khổ phát sinh. Vì Không Kiến
Tánh Vô Ngã nên một số trường phái định nghĩa các pháp Vô Ngã là Vô Tự Tánh
với ý nghĩa các pháp không độc lập mà lệ thuộc lẫn nhau, tương tức, tương nhập,
nương nhau mà tồn tại. Rõ ràng các pháp có Tự Tánh, đó là Tự Tánh Duyên
Khởi, Tự Tánh Vô Thường, Tự Tánh Vô Ngã... chứ đâu vô tự tánh. Nếu bản tánh
các pháp là Không Độc Lập nghĩa là Không Vô Chủ, Không Vô Sở Hữu, mà phụ
thuộc lẫn nhau thì không thể có giải thoát, không thể có độc lập không ràng buộc,
và Đức Phật không thể thoát ra khỏi sự lệ thuộc lẫn nhau giữa các pháp để mà giải
thoát. Chính tư tưởng Tà Kiến chủ nhân, chủ sở hữu: "Cái này là của Ta, là Ta, là
Bản Ngã của Ta" làm cho nhân loại bị lệ thuộc, bị ràng buộc, bị nô lệ chứ không
phải bản tánh các pháp là lệ thuộc, là ràng buộc. Chấm dứt các tư tưởng Tà Kiến
đó bằng Kiến Tánh Vô Ngã là Giải Thoát.

4 - KIẾN TÁNH THỰC TẠI CẢM THỌ:

Kiến Tánh Duyên Khởi sẽ thấy biết như thật Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần phát sinh
Sáu Cảm Thọ và sáu Tưởng. Cụ thể Sáu Cảm Thọ gọi tắt là Sáu Thọ hay Sáu
Cảm Giác bao gồm: Cảm giác hình ảnh, Cảm giác âm thanh, Cảm giác mùi, Cảm
giác vị, Cảm giác xúc chạm, Cảm giác pháp trần. Sáu Tưởng bao gồm: Nhãn
thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng thức. Sáu Tưởng có phận
sự Nhận Biết Đối tượng là Sáu Thọ. Cụ thể Nhãn thức thấy Cảm giác hình ảnh,
Nhĩ thức nghe Cảm giác âm thanh, Tỉ thức cảm nhận Cảm giác mùi, Thiệt thức
Cảm nhận Cảm giác vị, Thân thức cảm nhận Cảm giác xúc chạm, Tưởng thức
cảm nhận Cảm giác pháp trần. Tiếp đến Ý thức khởi lên để biết đối tượng đó là
cái gì, tính chất ra sao, thực chất là biết về Cảm Giác. Do Ý thức biết về đối tượng
như thế nào mà phát sinh Thái Độ tương ứng, và cũng là Thái Độ đối với Cảm
Giác. Do Thái Độ mà phát sinh Phản Ứng bằng Lời nói hay Hành động và Lời
nói hay Hành động này là Phản Ứng đối với Cảm Giác. Do Lời nói, Hành động
mà phát sinh Kết Quả Khổ hay Vui, cũng xuất phát từ Cảm Giác.

Vậy THỰC TÁNH CỦA THỰC TẠI NÀY LÀ CẢM GIÁC hay CẢM THỌ.

Tất cả các pháp được thấy, được nghe, được cảm nhận là Cảm Thọ, các pháp như
to nhỏ, trước sau, vuông tròn, dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay,
cứng mềm thô mịn, nhà cửa xe cộ, đàn ông, đàn bà, mặt trăng mặt trời... đều là
ngôn từ chỉ các Cảm thọ. Trong Thực Tại Cảm Thọ có VỊ NGỌT, có SỰ NGUY
HIỂM, và có SỰ XUẤT LY. Khi đã Kiến Tánh Thực Tại Cảm Thọ thì cũng thấy
ngay các đối tượng đều là Cảm thọ, nó Vô Thường, Vô Chủ, Vô Sở Hữu. Một
người Kiến Tánh Thực Tại Là Cảm Thọ thì sau khi Thấy, Nghe, Cảm Nhận đối
tượng, Kiến Tánh Thực Tại khởi lên, biết đối tượng là Cảm Thọ, nó Vô thường,
Vô chủ, Vô sở hữu, nó có Vị ngọt, Sự nguy hiểm và Sự xuất ly thì an trú ngay
Giải Thoát: không yêu thích, không chán ghét, độc lập không ràng buộc, giải
thoát không hệ luỵ. Lúc đó tư tưởng Vô Minh, Tâm biết Cảnh, Tà Kiến Chấp
Thường, Chấp Ngã gọi là Thường Kiến, Ngã Kiến được đoạn tận. Vì Không Kiến
Tánh Thực Tại Cảm Thọ, nhân loại này cho rằng: Nhãn thức thấy Sắc trần, Nhĩ
thức nghe Thanh trần, Tỉ thức ngửi Hương trần, Thiệt thức nếm Vị trần, Thân
thức cảm nhận Xúc trần, Tưởng thức và Ý thức biết pháp trần và vì vậy Thực Tại
này là Thế Giới ngoại cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp (Tâm biết Cảnh). Với
hiểu biết sai lạc được ví như Thấy đối tượng vốn là sợi dây lại Biết nó là con rắn,
là Vô Minh, Tà Kiến nhân loại gắn cho Đức Phật giác ngộ về Thế giới vũ trụ vạn
hữu, cho rằng Ngài biết vô lượng vô biên thế giới từ vô thuỷ đến vô chung.
Nhưng Kinh Phạm Võng thuộc Kinh Trường Bộ đã khẳng định Đức Phật giác
ngộ về Cảm Thọ chứ không phải giác ngộ về Thế giới. "Này các Tỷ kheo, Như
Lai nhờ như thật tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly
của Thọ mà Như Lai được giải thoát hoàn toàn không còn chấp thủ". Kiến Tánh
Thực Tại Cảm Thọ cũng đưa đến một hiểu biết sâu sắc rằng RÀNG BUỘC hay
GIẢI THOÁT là đối với CẢM THỌ chứ không phải Ràng Buộc hay Giải Thoát
đối với THẾ GIỚI SẮC PHÁP. Chính vì vậy Đức Phật không quan tâm, không
trả lời về Thế Giới là như thế nào, hữu biên hay vô biên, thường còn hay vô
thường... Ngài chỉ dạy đoạn tận Tham Sân Si với những đối tượng được Thấy,
được Nghe, được Cảm Nhận, được Nhận Thức mà thực chất là các Cảm Thọ.
Ngài không nói Thế giới là không có, không nói không có cõi trời hay không có
địa ngục nhưng Ngài hoàn toàn không đề cập về Thế giới cõi trời hay địa ngục.
Vì sao vậy? Vì Pháp mà Ngài thuyết giảng đưa đến đoạn tận Tham Sân Si để
chấm dứt tái sinh, chấm dứt luân hồi sinh tử, chứ không phải để tái sinh, không
phải để tìm hiểu một chỗ tốt lành như cõi trời để tái sinh tốt đẹp, tránh bị tái sinh
vào địa ngục xấu xa. Vì vậy nếu chú tâm vào thực hành Bát Chánh Đạo để đoạn
tận Tham Sân Si thì tồn tại hay không tồn tại cõi trời hay địa ngục đều không có
liên quan. Nhưng trong lịch sử phát triển của Đạo Phật trên đất Ấn Độ, nơi mà
Tôn Giáo ngự trị, yếu tố Tôn Giáo đã thâm nhập vào Giáo Pháp và như cố Hoà
Thượng Minh Châu đã nhận xét: Thượng Toạ bộ tuy rất bảo thủ về Pháp và Luật
nhưng cũng phải "nhi tiến" về phía tôn giáo. Và vì vậy một Thế giới quan về các
cõi trời, các cõi địa ngục đã ra đời để đáp ứng nhu cầu tôn giáo của tín đồ, mà
thực chất là bản copy các kiến thức trong kinh điển Vệ Đà của Bà la môn giáo.

5 - KIẾN TÁNH TÂM BIẾT:

Trong phạm trù Tâm các Danh pháp có phận sự BIẾT gọi là THỨC bao gồm: Nhãn
thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng thức, Ý thức. Sáu Thức đầu
làm phận sự Nhận Biết hay Ghi Nhận đối tượng chính là TÂM BIẾT TRỰC TIẾP
đối tượng, Khoa học gọi là Nhận Thức Cảm Tính đối tượng. Còn lại là TÂM BIẾT
Ý THỨC, có phận sự hiểu biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao, là TÂM
BIẾT GIÁN TIẾP đối tượng, Khoa học gọi là Nhận Thức Lý Tính đối tượng.

a - TÂM BIẾT TRỰC TIẾP: Nhãn thức thấy Cảm giác hình ảnh, Nhĩ thức nghe
Cảm giác âm thanh, Tỉ thức cảm nhận Cảm giác mùi, Thiệt thức cảm nhận Cảm
giác vị, Thân thức cảm nhận Cảm giác xúc chạm, Tưởng thức cảm nhận Cảm giác
pháp trần. Sáu Tâm biết này bao gồm Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức,
Thân thức, Tưởng thức gọi chung là TƯỞNG, xảy ra nơi sáu giác quan và Nhận
Biết hay Ghi Nhận TRỰC TIẾP đối tượng khi đối tượng xuất hiện. Đối tượng như
thế nào thì Nhận Biết, Ghi Nhận như thế đó, không thêm bớt. Sáu cái biết trực tiếp
giác quan này chỉ Nhận Biết hay Ghi Nhận đối tượng nhưng không biết đối tượng
đó là cái gì, tính chất ra sao nên nó hoàn toàn không có bất kỳ một KHÁI NIỆM
nào, không có to nhỏ, vuông tròn dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay,
cứng mềm thô mịn, không có khái niệm sinh diệt, nhơ sạch, tăng giảm, không có
khái niệm Sắc Thọ Tưởng Hành Thức, không có khái niệm Nhãn Nhĩ Tỉ Thiệt Thân
Ý, không có khái niệm Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp, không có khái niệm nhãn
giới cho đến ý thức giới, không có khái niệm Vô minh cũng như hết Vô minh,
không khái niệm Khổ Tập Diệt Đạo, không có khái niệm chứng đắc... Cái biết trực
tiếp giác quan này tánh chất của nó là không có KHÁI NIỆM, không có NGÔN
NGỮ chế định, không có PHÂN BIỆT pháp này với pháp kia nên nó VÔ NIỆM,
VÔ NGÔN, VÔ PHÂN BIỆT. Do tánh chất của nó là Vô Niệm, Vô Ngôn, Vô Phân
Biệt nên nó còn có tên gọi là KHÔNG TÁNH (không có các tánh chất trên). Hãy
hình dung Cái Biết này khi một đứa trẻ vừa đẻ ra, nó thấy hình ảnh nhưng không có
khái niệm to nhỏ vuông tròn, xanh vàng đỏ trắng, lưỡi nó cảm nhận Cảm giác vị
nhưng không có khái niệm mặn ngọt chua cay... Tâm biết trực tiếp giác quan này
các loài động vật thấp cao, THÁNH PHÀM ĐỀU NHƯ NHAU, nó không do học
hỏi, tích luỹ kinh nghiệm mà có, hễ có Căn Trần tiếp xúc thì nó phát sinh ngay.

- TÂM BIẾT TRỰC TIẾP CỦA PHÀM PHU trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo khởi
lên Nhận Biết đối tượng thì Ý thức khởi lên tiếp theo để xác định đối tượng đó là
cái gì, tính chất ra sao. Vì vậy Nhận Biết đối tượng "xẹt qua" nhanh chóng và
không có được trạng thái Nhận Biết thuần tuý vì Ý thức đã xen vào. Trong thuật
ngữ Phật học, Tâm biết trực tiếp giác quan trong trường hợp Phàm phu như vậy
gọi là TƯỞNG TRI đối tượng. Lộ trình được diễn tả như sau:

XÚC - Thọ - Tưởng - Tà Niệm - Tà Tư Duy - Ý thức Tà Tri Kiến.

- TÂM BIẾT TRỰC TIẾP CỦA BẬC THÁNH trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo
của bậc Thánh khởi lên Nhận Biết đối tượng rồi Chánh Niệm khởi lên: Nhớ đến
chú tâm quán sát các cảm giác nơi thân với chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác (Niệm
Thân). Do có Chánh Niệm như vậy mà Chánh Tinh Tấn khởi lên. Do Chánh Tinh
Tấn mà Chánh Định khởi lên, CHÚ TÂM vào đối tượng. Sự Chú Tâm làm cho lộ
trình tâm Dừng Lại cái biết trực tiếp giác quan nhưng Ý Thức không khởi lên. Lúc
này chỉ có duy nhất Tâm Biết trực tiếp giác quan Nhận Biết hay Ghi Nhận đối
tượng, không thêm bớt. Cái Biết trực tiếp giác quan bây giờ có tên gọi là TỈNH
GIÁC hay KHÔNG TÁNH hay THẮNG TRI đối tượng. An trú Tỉnh Giác hay
Không Tánh này sẽ kinh nghiệm được THẤY chỉ là THẤY, NGHE chỉ là NGHE,
CẢM NHẬN chỉ là CẢM NHẬN không thêm bớt, đó cũng gọi là Thấy thực tại
như chúng Đang là. An trú Tỉnh Giác hay Không Tánh cũng chứng ngộ được Tâm
Biết Vô Niệm, Vô Ngôn, Vô Phân Biệt, chứng ngộ được Giải Thoát do Khổ được
nhiếp phục. Giải Thoát này do Chánh Định mà có nên gọi là TÂM GIẢI THOÁT
hay KHÔNG GIẢI THOÁT. Nhưng đây không phải là Giải Thoát tối hậu, nó chỉ
nhiếp phục Tham Sân Si chứ không thể đoạn tận Tham Sân Si. Lộ trình được diễn
tả như sau:

XÚC - Thọ - Tưởng - Chánh N iệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - (Tỉnh Giác)

b - TÂM BIẾT GIÁN TIẾP: Là Ý THỨC phát sinh theo lộ trình Nhân Quả: Niệm -
Tư Duy - Ý Thức. Vì vậy nội dung của Ý thức phụ thuộc vào những thông tin là
những tri thức hiểu biết, những kinh nghiệm, những tạo tác trong quá khứ được lưu
giữ trong kho chứa và được Niệm kích hoạt. Ý thức hiểu biết mọi đối tượng Sắc
pháp và Danh pháp nhưng không phải biết trực tiếp các đối tượng mà BIẾT GIÁN
TIẾP thông qua SUY LUẬN. Ý thức của Phàm phu phát sinh trên lộ trình tâm Bát
Tà Đạo có nội dung khác biệt với Ý thức của bậc Thánh phát sinh trên lộ trình tâm
Bát Chánh Đạo.

Ý THỨC TÀ TRI KIẾN CỦA PHÀM PHU phát sinh trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo:
Tà Niệm - Tà Tư Duy - Ý thức Tà Tri Kiến. Do Tà Niệm kích hoạt các loại thông
tin trong kho chứa mà nổi trội nhất là hiểu biết sai sự thật, gọi là Vô Minh bao gồm:
hiểu biết sai về Duyên khởi, sai về Khổ Tập Diệt Đạo, chấp thường, chấp ngã, bốn
điên đảo về Thường Lạc Ngã Tịnh nên Ý thức Tà Tri Kiến mang nội dung Vô
Minh. Do Ý thức là Tà Tri Kiến, là Vô Minh mà sẽ phát sinh Tham Sân Si. Do có
Tham Sân Si mà phát sinh Khổ (sinh già bệnh chết) Sầu Bi ưu não.

Ý THỨC CHÁNH TRI KIẾN CỦA BẬC THÁNH phát sinh trên lộ trình tâm Bát
Chánh Đạo: Chánh Niệm - Chánh Tư Duy - Ý thức Chánh Tri Kiến. Do Chánh
niệm không kích hoạt những thông tin Vô Minh trong kho chứa mà kích hoạt những
thông tin là những hiểu biết đúng sự thật gọi là Minh như các loại Kiến Tánh:
Duyên khởi, Vô thường, Vô ngã, Thực tại cảm thọ, Tâm biết, Khổ Tập Diệt Đạo đã
được học hỏi, tư duy và được lưu vào kho chứa nên nội dung của Ý thức là Chánh
Tri Kiến, là Minh, là Trí Tuệ, là Kiến Tánh. Khi an trú Ý thức Chánh Tri Kiến sẽ
kinh nghiệm, sẽ chứng ngộ Giải Thoát và Giải Thoát do Trí Tuệ khởi lên này có tên
gọi là TUỆ GIẢI THOÁT. Trí Tuệ cũng biết rõ Thực Tại này là Cảm Thọ thuộc
phàm trù tâm, nên Thực Tại là Vô Tướng, vì vậy Giải Thoát này còn có tên là VÔ
TƯỚNG GIẢI THOÁT. Tu tập Chánh Tri Kiến, tu tập TUỆ GIẢI THOÁT mới
đoạn tận được Vô Minh, đoạn tận được Tham Sân Si, đoạn tận được Khổ, mới là
giải thoát tối hậu.

c - VÌ KHÔNG KIẾN TÁNH TÂM BIẾT nên đa phần không có hiểu biết đúng sự
thật về TÂM BIẾT TRỰC TIẾP GIÁC QUAN, tuy hằng ngày Cảm nhận nó nhưng
lại gắn cho nó là Vô Sư Trí, là Trí Tuệ Bát Nhã, là Trí Tuệ Ba Đời Chư Phật, là
Tánh Biết không sinh không diệt, sẵn có, thường xuyên có, tồn tại vĩnh hằng cùng
vũ trụ, là Phật Tánh thuấn nhuần muôn vật, muôn loài. Gắn cho nó là Tâm Vô Phân
Biệt không sinh không diệt, còn Tâm Ý Thức là tâm phân biệt, sinh diệt. Tuy chủ
trương trở về sống với tâm đó nhưng họ lại không biết cách thức nào để an trú Tỉnh
Giác hoặc Không Tánh, vì chủ trương đó chỉ là tư duy, lý luận suông, không hiểu
biết đúng sự thật. Đức Phật đã chứng ngộ và an trú Không Tánh nên Ngài đã giảng
dạy hướng dẫn thực hành để an trú Không Tánh. Đó là thực hành ba chi phần của
Bát Chánh Đạo: Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - Tỉnh Giác (Không
Tánh) gọi tắt là CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC. Những người đã lâu đời bị nhồi sọ
bởi Thường Kiến: Đó là Vô Sư Trí, là Trí Tuệ Bát Nhã, là Tánh Biết không sanh
không diệt thì không bao giờ quan sát nơi sự thật để thấy được cái vô lý, vô minh
của họ. Nếu đã là Tánh Biết (thấy, nghe) không sinh không diệt thì trong khi ngủ
say không mộng mị, khi bị gây mê sâu để mổ, khi bị ngất trong một tai nạn, Tánh
Biết không sinh không diệt nên Tánh Biết đó vẫn có mặt thì đương nhiên trong các
trường hợp đó, vẫn thấy, vẫn nghe, vẫn biết. Sự thực có xảy ra như vậy không?
Không có như vậy, trong những trường hợp đó, không thấy, không nghe, không
cảm nhận cái gì hết. Hãy quay về Quán sát sự thật để nhận ra sự phi lý của tư tưởng
Thường kiến đó, để từ bỏ nó. Không phải sau khi Phật diệt độ Tà kiến này mới xuất
hiện, mà trong Đại Kinh Đoạn Tận Ái, Tà kiến này đã được Tỷ kheo Sati nói lên
với Đức Phật: Theo như con hiểu thì Thức (Tánh biết) rong ruổi (từ chỗ này sang
chỗ kia, từ đời này sang đời kia) nhưng Không Đổi Khác. Đức Phật đã quở trách vị
Tỷ kheo đó: Này kẻ mê mờ kia, vì ai mà ngươi đã xuyên tạc lời Ta thuyết giảng. Ta
đã dùng nhiều phương tiện để nói Thức do duyên khởi, không có duyên Thức
không khởi. Do duyên Mắt và Sắc, Nhãn Thức sanh khởi, do duyên Tai với Tiếng,
Nhĩ Thức sanh khởi... Tà kiến này nội dung không khác gì ẩn dụ về Thiên đường
trong kinh Cựu ước: Ông Adam và bà Eva được Chúa cho sống trong một Thiên
đường cực lạc, nhưng là "ăn lông ở lỗ" và không được ăn quả cấm của cây Tri
Thức. Nhưng một thời gian sau vì bị Sa Tăng xui khiến Adam và Eva ăn quả cấm
của cây Tri thức nên cảm thấy vô cùng xấu hổ, phải tìm lá cây để che thân và bị
Chúa đuổi ra khỏi Thiên đường cực lạc, sống ở thế gian với cuộc sống cay cực.
Truyền thuyết này nếu hiểu theo nghĩa ẩn dụ thì Adam và Eva ăn lông ở lỗ nhưng
sống ở Thiên đường là để chỉ cho Tâm biết trực tiếp giác quan, Biết Sự Vật một
cách TRẦN TRỤI, không bị che đậy bởi "Tri thức khái niệm" và Cái biết đó không
có khổ. Còn ăn quả cấm của cây Tri Thức, xấu hổ phải lấy lá che thân, bị đuổi
xuống trần gian sống khổ cực là Cái biết Ý thức, Biết sự vật, hiện tượng với cách
không còn là sự thật trần trụi mà BỊ CHE ĐẬY bởi tri thức, khái niệm, kinh nghiệm
được tích luỹ và chính Cái biết Ý thức đó mới phát sinh khổ. Và các tôn giáo dựa
trên Cựu ước cũng quan niệm Tâm biết trực tiếp giác quan này là Không Sinh
Không Diệt và chính là LINH HỒN CHÚA được Chúa "thổi vào" trong mỗi người,
nó trong sạch không ô nhiễm, còn Ý thức là cái biết của thế gian ô nhiễm. Trở về
Nước Chúa là trở về với Linh hồn Chúa và điều này cũng y chang chủ trương trở về
sống Tánh Biết không sinh không diệt nơi mỗi người. Vì không kiến tánh Tâm biết
mà đa phần cho rằng an trú được Tỉnh Giác để "Thấy các pháp như chúng Đang là"
là Giải Thoát tối hậu mà không hiểu rằng đây là Tâm Giải Thoát, là giải thoát do
Định, nó chỉ có tác dụng "Nhiếp Phục" Vô minh, Tham Sân Si, Phiền não chứ
không thể đoạn tận các pháp ấy. Chỉ có tu tập Tuệ (Niệm Tâm, Niệm Pháp) thay Ý
thức Tà Tri Kiến thành Ý thức Chánh Tri Kiến, đưa đến Tuệ Giải Thoát mới đoạn
tận Vô minh, Tham Sân Si, Phiền não.

6. KIẾN TÁNH KHỔ TẬP DIỆT ĐẠO:

Khi Kiến Tánh Duyên Khởi lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu thì hiểu biết
được như thật KHỔ và NGUYÊN NHÂN KHỔ, thuộc nội Tâm Bát Tà Đạo chứ
không thuộc Ngoại Cảnh, do Duyên Xúc mà khởi lên, nên nó Vô Thường, Vô Ngã.
Kiến Tánh Duyên Khởi lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của bậc Thánh thì hiểu biết
được như thật KHỔ DIỆT và CON ĐƯỜNG KHỔ DIỆT thuộc nội Tâm Bát Chánh
Đạo chứ không phải Ngoại Cảnh.

Vì Không Kiến Tánh Khổ Tập Diệt Đạo mà kẻ Phàm phu hiểu biết sai lạc: Khổ,
Nguyên Nhân Khổ, Sự Chấm Dứt Khổ thường hằng, thường trú nơi Thế Giới Ngoại
Cảnh và Con Đường Chấm Dứt Khổ là thay đổi Thế Giới Ngoại Cảnh.

7. KIẾN TÁNH PHÁP VÔ VI:

Cần phải hiểu rõ có hai loại pháp: Hữu vi là pháp do duyên khởi và Vô vi là không
có pháp hữu vi đó. Ví như khi biết rõ trên bàn có CUỐN SÁCH thì đối tượng được
biết, CUỐN SÁCH là PHÁP HỮU VI. Khi cuốn sách đó bị thiêu huỷ đi thì cũng
biết rõ KHÔNG CÓ CUỐN SÁCH, và đối tượng được biết, KHÔNG CÓ CUỐN
SÁCH là PHÁP VÔ VI. Khi bị đau răng khổ khởi lên và người đó biết KHỔ đang
có mặt và đối tượng được biết, KHỔ, là PHÁP HỮU VI. Khi lành bệnh thì cũng
biết rõ Khổ không có mặt, KHỔ DIỆT và đối tượng được biết, KHỔ DIỆT, là
PHÁP VÔ VI. Khổ có thể thường hay vô thường, hữu ngã hay vô ngã, là nội tâm
hay ngoại cảnh và nhiều tính chất khác được trình bày tuỳ theo sự hiểu biết là Minh
hay Vô Minh nhưng Khổ Diệt, Niết Bàn là vắng mặt Khổ thì cũng hoàn toàn vắng
mặt tất cả những tánh chất đó của Khổ, kể cả những hiểu biết đúng hay sai về Khổ.
Khổ Diệt, Niết Bàn là Pháp Vô Vi là vắng mặt Khổ, vắng mặt Pháp Hữu Vi thì cũng
vắng mặt, không có mọi khái niệm liên quan tới Pháp Hữu Vi, vì thế nó là Sự
TRỐNG KHÔNG TUYỆT ĐỐI. Niết Bàn Vô Dư là sự trống không tuyệt đối, trống
không Sắc Thọ Tưởng Hành Thức cùng những tánh chất Duyên khởi, Vô thường,
Vô ngã của nó, trống không khái niệm Thường Lạc Ngã Tịnh hay Thường Lạc Vô
Ngã Tịnh. Chỉ những ai có được hiểu biết như thật Nguyên Nhân Khổ là Dục ái,
Hữu ái, Phi Hữu ái, Sự Chấm Dứt Khổ hay Niết Bàn là Chấm Dứt Dục ái, Hữu ái,
Phi Hữu ái , mới có thể hiểu được và chấp nhận không sợ hãi: Niết Bàn Vô Dư là sự
TRỐNG KHÔNG TUYỆT ĐỐI.

CUỐI CÙNG:

Các Tánh Chất này của cả pháp Hữu vi và Vô vi phải được Nghe Giảng hoặc Tự
Đọc và Tư Duy kỹ càng, sâu sắc. Đó là Văn Tuệ và Tư Tuệ. Nhưng những kiến
thức này được Văn và Tư tiếp nhận sẽ được lưu vào kho chứa dưới dạng thông tin
với tên gọi là Minh, chỉ là bước chuẩn bị (gọi là Bát Chánh Đạo hiệp thế). Khi tu
tập, Bát Chánh Đạo siêu thế khởi lên, trong đó: Chánh Niệm sẽ kích hoạt những
thông tin Minh, Kiến Tánh này lên để Chánh Tư Duy so sánh, đối chiếu thông tin
về đối tượng vừa Nhận Biết với thông tin Minh, Kiến Tánh được Chánh Niệm kích
hoạt. Do Chánh Tư Duy mà sẽ phát sinh Ý thức Chánh Tri Kiến, Biết Như Thật đối
tượng. Do Biết Như Thật đó là Minh, là Trí Tuệ, là Kiến Tánh nên kinh nghiệm
được Tuệ Giải Thoát, xoá bỏ, đoạn tận Vô Minh, đưa đến quả A La Hán, là giải
thoát tối hậu. Vì vậy KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT xảy ra theo lộ trình VĂN - TƯ -
TU.

Về mục lục

Bài 080: THƯỢNG TRÍ

Thượng trí là trí tuệ, là HIỂU BIẾT ĐÚNG NHƯ THẬT tột cùng, do bậc Chánh
Đẳng Giác chứng ngộ và tuyên thuyết. Vậy THƯỢNG TRÍ ấy dùng để làm gì?
Đó là:

- Có pháp cần phải LIỄU TRI với THƯỢNG TRÍ: đó là NĂM THỦ UẨN. Đây
chính là hiểu biết đúng như thật về Khổ (CHẤP THỦ Sắc Thọ Tưởng Hành
Thức là Khổ chứ không phải Sắc Thọ Tưởng Hành Thức là Khổ). Đây là KHỔ
ĐẾ.

- Có pháp cần phải ĐOẠN TẬN với THƯỢNG TRÍ: đó là VÔ MINH và THAM
ÁI. Đây chính là hiểu biết đúng như thật về Nguyên nhân Khổ. Đây là TẬP ĐẾ.

- Có pháp cần phải TU TẬP với THƯỢNG TRÍ: đó là CHỈ và QUÁN. Đây là
hiểu biết đúng như thật về Con đường chấm dứt Khổ, là Bát Chánh Đạo với ba
trụ cột NIỆM - ĐỊNH - TUỆ (Chánh Niệm - Chánh Định - Chánh Kiến). Đây là
ĐẠO ĐẾ.

- Có pháp cần phải CHỨNG NGỘ với THƯỢNG TRÍ: đó là MINH và GIẢI
THOÁT. Đây là hiểu biết đúng như thật tất cả pháp, liễu tri tất cả pháp, là
TUỆ TRI TÂM GIẢI THOÁT, TUỆ GIẢI THOÁT hay TUỆ TRI KHÔNG
GIẢI THOÁT, VÔ TƯỚNG GIẢI THOÁT, VÔ TÁC GIẢI THOÁT hay TUỆ
TRI NIẾT BÀN. Đây là DIỆT ĐẾ.

Vậy THƯỢNG TRÍ chính là trí tuệ Giác Ngộ TỨ THÁNH ĐẾ.

Về mục lục

Bài 081: THẤY VÀ BIẾT CỦA PHẬT HAY TRI KIẾN PHẬT

Trong bài kinh Kalaka thuộc Tăng Chi Bộ Kinh có lời tuyên bố của Đức Phật như
sau: “Như vậy, này các Tỷ kheo, Như Lai là vị đã thấy những gì cần thấy, nhưng
không có tưởng tượng về những gì được thấy, không có tưởng tượng về những gì
không được thấy, không có tưởng tượng về những gì cần phải thấy, không có
tưởng tượng về người thấy. Đã nghe những gì cần nghe, nhưng không có tưởng
tượng về những gì được nghe, không có tưởng tượng về những gì không được
nghe, không có tưởng tượng về những gì cần phải nghe, không có tưởng tượng về
người nghe. Đã cảm nhận những gì cần cảm nhận nhưng không có tưởng tượng
về những gì được cảm nhận, không có tưởng tượng về những gì không được cảm
nhận, không có tưởng tượng về những gì cần cảm nhận, không có tưởng tượng về
người cảm nhận. Đã nhận thức những gì cần nhận thức nhưng không có tưởng
tượng về những gì được nhận thức, không có tưởng tượng về những gì không
được nhận thức, không có tưởng tượng về những gì cần phải nhận thức, không có
tưởng tượng về người nhận thức. Như vậy, này các Tỷ kheo, Như Lai đối với các
pháp được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức, đều đã biết rõ, nên
vị ấy là như vậy. Lại nữa, hơn người như vậy, không có ai tối thượng hơn và thù
thắng hơn. Ta tuyên bố như vậy.”

Thấy, Nghe, Cảm Nhận và Nhận Thức đối tượng được chia ra thành hai loại tâm
THẤY và BIẾT trong đó:

- Thấy, Nghe, Cảm nhận đối tượng thực tại là để chỉ cho Tâm biết trực tiếp giác
quan có nhiệm vụ Ghi nhận đối tượng thực tại khi đối tượng xuất hiện. Cụ thể:
Nhãn thức thấy đối tượng hình ảnh, Nhĩ thức nghe đối tượng âm thanh, Tỷ thức
cảm nhận đối tượng mùi, Thiệt thức cảm nhận đối tượng vị, Thân thức cảm nhận
đối tượng xúc chạm, Tưởng thức cảm nhận đối tượng pháp trần. Gọi chung Thấy,
Nghe, Cảm nhận này là THẤY và Tâm lý học gọi là Nhận thức cảm tính đối
tượng.

- Nhận thức là hiểu biết đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận là cái gì,
tính chất ra sao. Đó chính là BIẾT, là nội dung của tâm biết Ý thức mà Tâm lý
học gọi là Nhận thức lý tính đối tượng.

- Ví dụ về tâm Thấy và tâm Biết: Giơ một quả cam lên một đứa trẻ vừa mới đẻ
Thấy đối tượng nhưng nó Không Biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao.
Nghĩa là đứa trẻ mới sinh chỉ có tâm Thấy mà chưa có tâm Biết. Cũng giơ quả
cam đó lên, một người lớn sẽ Thấy (như đứa trẻ) nhưng Biết đó là quả Cam chua
hay ngọt... nghĩa là người lớn vừa có cả tâm Thấy và tâm Biết.

1 - THẤY và BIẾT của Phàm phu: Thấy và Biết của Phàm phu trái ngược với
Thấy và Biết của Phật, nghĩa là Thấy, Nghe, Cảm nhận và Nhận thức đối tượng
đều có tưởng tượng với 4 loại tưởng tượng:

- Một là tưởng tượng về điều được thấy (nghe, cảm nhận, nhận thức)

- Hai là tưởng tượng về điều không được thấy (nghe, cảm nhận, nhận thức)

- Ba là tưởng tượng về điều cần phải thấy (nghe, cảm nhận, nhận thức)

- Bốn là tưởng tượng về người thấy (nghe, cảm nhận, nhận thức)

Và thế nào là thấy, nghe, cảm nhận, nhận thức có 4 loại tưởng tượng trên? Thí dụ
Phàm phu khi Mắt tiếp xúc Bông sen phát sinh Cảm giác hình ảnh đồng thời phát
sinh tâm biết trực tiếp Nhãn thức. Khi Nhãn thức thấy Cảm giác hình ảnh thì tiếp
liền theo đó tâm biết Ý thức khởi lên, BIẾT đối tượng đó theo bốn nội dung sau:

- Một là biết đối tượng được thấy đó là Bông hoa sen vật chất (Sắc trần). Đây
chính là Thấy rồi Tưởng tượng về điều được thấy. Vì sao lại như vậy? Vì đối
tượng được thấy là Cảm giác hình ảnh, là Cảm thọ, là Tâm chứ không phải Bông
hoa sen vật chất, không phải là Sắc trần, không phải là bông sen Sắc pháp. Vì vậy,
BIẾT đối tượng được thấy là bông hoa sen vật chất, bông hoa sen sắc pháp là
không đúng sự thật, là do Tưởng tượng ra, không phải là biết đúng sự thật về đối
tượng được thấy.

- Hai là: khi thấy đối tượng rồi biết đó là bông hoa sen sắc pháp thì cũng thấy luôn
những cánh đồng bạt ngàn hoa sen, thấy những bông hoa sen được bày bán ngoài
chợ, thấy những bông hoa sen trên bàn thờ Phật, thấy những người thu hoạch sen,
bán sen... Đây là thấy rồi tưởng tượng (liên tưởng) về điều không được thấy. Vì
sao lại như vậy? Vì lúc này Nhãn thức chỉ thấy Cảm giác hình ảnh duy nhất đang
hiện hữu, còn những hình ảnh sau là do liên tưởng, do tưởng tượng mà có chứ
không là đối tượng được thấy lúc đó.

- Ba là: khi thấy bông hoa sen rồi quán tưởng tính chất đẹp đẽ, tinh khiết, cao quý
của sen như sinh ra trong bùn, lớn lên trong bùn, nhưng khi trổ hoa thì thơm sạch
không ô nhiễm mùi bùn, hoa sen là biểu tượng của Đạo Phật... Đây là thấy rồi
tưởng tượng về điều cần phải thấy.

- Bốn là: nhãn thức thấy đối tượng rồi biết: Ta thấy Bông hoa sen. Nghĩa là có Ta
(ông A, bà B là Người thấy, là chủ nhân của tâm thấy. Đây gọi là thấy rồi tưởng
tượng về Người Thấy. Vì sao lại như vậy? Bởi sự thực chỉ có Nhãn thức thấy mà
Nhãn thức thì vô chủ, vô sở hữu nên không có bất kỳ một cái gì, không có bất kỳ
một ai, không có bất kỳ một con người nào là chủ nhân, chủ sở hữu của tâm thấy
nhãn thức (vô ngã). Vì vậy, có Ta thấy, có một con người là chủ nhân của tâm thấy
là do Tưởng tượng ra mà thôi, không đúng sự thật.

Tất cả những pháp khác cũng đều phải được hiểu tương tự, nghĩa là Thấy, Nghe,
Cảm nhận, Nhận thức của Phàm phu đều không đúng sự thật, đều có bốn loại
tưởng tượng xen vào.

2 - THẤY và BIẾT của Phật không có bốn loại tưởng tượng, là Thấy Biết đúng
sự thật.

- Một là: khi thấy, nghe, cảm nhận đối tượng thực tại Đức Phật có Chánh niệm về
thân, tức Nhớ đến chú tâm quán sát các Cảm giác nơi thân nên có sự chú tâm liên
tục từ đối tượng này đến đối tượng khác (Chánh định). Do có Chánh niệm và
Chánh định như vậy, lộ trình tâm dừng lại tâm biết trực tiếp giác quan ghi nhận
đối tượng mà tâm biết ý thức không khởi lên. Lúc đó chỉ có Nhãn thức thấy đối
tượng, Nhĩ thức nghe đối tượng, Tỷ thức cảm nhận đối tượng, Thiệt thức cảm
nhận đối tượng, Thân thức cảm nhận đối tượng, Tưởng thức cảm nhận (ghi nhận)
đối tượng mà không hề khởi lên bất kỳ một khái niệm nào về đối tượng, không có
khái niệm người hay vật, to hay nhỏ, đẹp hay xấu, mặn hay ngọt, thiện hay ác, có
hay không... Đây chính là trạng thái Tỉnh giác, là trạng thái Thấy chỉ là thấy, Nghe
chỉ là nghe, Cảm nhận chỉ là cảm nhận. Nghĩa là chỉ có tâm biết trực tiếp giác
quan (trực giác) ghi nhận đối tượng trung thực không thêm bớt. Đây là Thấy,
Nghe, Cảm nhận đối tượng trung thực không thêm bớt, không có tưởng tượng.
Một người có hiểu biết đúng như thật do Nghe và Tư duy (Văn tuệ, Tư tuệ) có thể
luyện tập Chánh niệm về thân tức luyện tập trí nhớ để Nhớ đến chú tâm quán sát
các cảm giác nơi thân thì trong mọi tư thế đi đứng nằm ngồi hễ trí nhớ nhớ đến
chú tâm quán sát các cảm giác trên thân có mặt thì sẽ kinh nghiệm, sẽ thân chứng
được trạng thái Tỉnh giác, thân chứng được Thấy chỉ là thấy, Nghe chỉ là nghe,
Cảm nhận chỉ là cảm nhận không hề có tưởng tượng xen vào là như thế nào.

- Hai là: khi thấy, nghe, cảm nhận đối tượng với tâm biết Tỉnh giác nếu có đối
tượng nổi trội hơn các đối tượng khác và cần phải nhận thức đối tượng đó là cái gì
thì sẽ có Chánh niệm về Thọ, Chánh niệm về Tâm, Chánh niệm về Pháp khởi lên
làm phát sinh tâm biết ý thức Chánh kiến, BIẾT đối tượng là Cảm Thọ do Căn
Trần tiếp xúc mà phát sinh, BIẾT nó Vô thường, Vô chủ, Vô sở hữu (Vô ngã),
BIẾT nó có Vị ngọt, Sự nguy hiểm và Sự xuất ly. Đây là BIẾT đúng như thật về
đối tượng vừa được thấy, được nghe, được cảm nhận không hề có một tưởng
tượng nào xen vào.
Một vị đệ tử của bậc Thánh thực hành Chánh niệm về Thọ, về Tâm, về Pháp là
luyện tập Trí nhớ Chánh để thuần thục đến mức độ hễ thấy, nghe, cảm nhận đối
tượng thì lập tức nhớ được: đó là Cảm thọ (Cảm giác) do Căn Trần tiếp xúc mà
phát sinh, nó vô thường, vô chủ vô sở hữu, nó có vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất
ly thì sẽ Giác ngộ và Giải thoát.

Tu là để thay đổi THẤY và BIẾT từ Thấy Biết của Phàm phu là Thấy Biết không
đúng sự thật, là Thấy Biết có tưởng tượng và do Thấy Biết không đúng sự thật mà
có Tham Sân Si, có Khổ THÀNH Thấy Biết của bậc Thánh đúng sự thật, không có
tưởng tượng. Bản kinh này làm rõ ràng hơn nữa nội dung bản kinh Pháp Môn Căn
Bản trong Trung Bộ Kinh: Tu là để thay đổi THẤY và BIẾT từ: Thấy là Tưởng tri
đối tượng của Phàm phu thành Thấy là Thắng tri đối tượng (Tỉnh giác) của bậc
Thánh và Biết từ Không liễu tri đối tượng (Tà kiến) của Phàm phu thành Biết Liễu
tri đối tượng (Chánh kiến) của bậc Thánh.

Về mục lục

Bài 082: NỘI DUNG BÀI KINH KALAKA LÀ THẤY BIẾT CỦA PHẬT

"Một thời Thế Tôn trú ở Saketa, tại khu vườn Kalaka. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ
kheo:

- Này các Tỷ kheo.

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

- Này các Tỷ kheo, cái gì trong toàn thế giới này được quần chúng Sa môn, Bà la
môn, chư Thiên và loài người thấy, nghe, cảm nhận... tư sát, tất cả Ta đều biết.
Này các Tỷ kheo, cái gì trong toàn thế giới này được chư thiên và loài người thấy,
nghe... tư sát, Ta đã được biết rõ như sau: "Tất cả đều được Như Lai biết đến, Như
Lai không có dựng đứng lên". Này các Tỷ kheo, nếu Ta nói rằng: "Ta biết tất cả
những gì trong toàn thế giới này". Như vậy là có nói láo trong Ta. Nếu Ta nói
rằng: "Ta cả hai biết và không biết". Như vậy là có nói láo trong Ta. Nếu Ta nói
như sau: "Ta không biết và cũng không phải biết". Như vậy là có nói láo trong Ta.
Như vậy là có lỗi trong Ta.

- Như vậy, này các Tỷ kheo, Như Lai là vị đã thấy những gì cần thấy, nhưng
không có tưởng tượng về điều được thấy, không có tưởng tượng về những gì
không được thấy, không có tưởng tượng về những gì cần phải thấy, không có
tưởng tưởng về người thấy. Đã nghe những gì cần nghe nhưng không có tưởng
tượng về những gì được nghe, không có tưởng tượng về những gì cần nghe,
không có tưởng tượng về người nghe. Đã cảm nhận những gì cần cảm nhận
nhưng không có tưởng tượng về những gì cảm nhận, không có tưởng tượng
những gì cần cảm nhận, không có tưởng tượng về người cảm nhận. Đã nhận thức
những gì cần nhận thức nhưng không có tưởng tượng về những gì được nhận
thức, không có tưởng tượng về những gì không được nhận thức, không có tưởng
tượng về những gì cần phải nhận thức, không có tưởng tượng về người nhận
thức. Như vậy, này các Tỷ kheo, Như Lai đối với các pháp được thấy, được
nghe, được cảm nhận, được nhận thức, đều đã biết rõ, nên vị ấy là như vậy. Lại
nữa, hơn người như vậy, không có ai tối thượng hơn và thù thắng hơn. Ta tuyên
bố như vậy.

Những gì được thấy, nghe

Được cảm nhận (rồi) chấp trước

Được nghĩ là chân thực

Giữa những người thấy vậy

Ta không phải như vậy

Những điều chúng tuyên bố

Dầu là thật hay láo

Ta không xem tối hậu


Ta trong thời đã qua

Thấy được mũi tên này

Loài người bị câu móc

Ta thấy và Ta biết

Các Đức Phật Như Lai

Không tham đắm như vậy."

(Trích Tăng Chi Bộ Kinh)

Bàn luận: Nếu theo hiểu biết vô minh của thế gian sẽ thấy câu đầu "Tất cả đều
được Như Lai biết đến, Như Lai không có dựng đứng lên" và 3 câu sau "Nếu Ta
nói rằng Ta biết tất cả trong toàn thế giới này là có nói láo trong Ta" v.v... mâu
thuẫn nhau. Và như vậy lời tuyên bố của Đức Phật có sự mâu thuẫn. Nhưng Đức
Phật là bậc Đại Trí Tuệ, lời nói Ngài không thể tiền hậu bất nhất, không thể mâu
thuẫn nhau. Hãy bằng Văn Tư Tu để thấy ra ý nghĩa thật sự của các câu đó và
thấy 3 câu sau không hề mâu thuẫn với câu đầu mà 3 câu sau còn làm rõ hơn
nghĩa lý của câu đầu.

Về mục lục

Bài 083: SỰ KHÁC BIỆT GIỮA NHÂN LOẠI VÀ ĐỨC PHẬT

Toàn thể nhân loại cho dù gái trai, già trẻ, giàu nghèo, ngu trí đang phấn đấu nỗ
lực, làm các công việc với một mục đích giống nhau và duy nhất là CHẤM DỨT
KHỔ. Đức Phật cũng tuyên bố: Xưa và nay ta chỉ nói về KHỔ và CON ĐƯỜNG
CHẤM DỨT KHỔ. Vì vậy, mục đích tối hậu mà nhân loại hướng đến và mục
đích giáo pháp mà Đức Phật chứng ngộ và thuyết giảng trùng nhau, không có sai
khác.

Vậy thì có sự khác biệt gì giữa Đức Phật và Nhân Loại? Sự khác biệt đó là:

- NHÂN LOẠI thì TÌM CẦU HẠNH PHÚC để CHẤM DỨT KHỔ. Mà Hạnh
phúc theo hiểu biết của nhân loại là thứ sẵn có, luôn luôn có (thường hằng,
thường trú) trong sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái...
Hạnh phúc sẵn có, luôn luôn có trong thế giới vật chất ngoại cảnh. Vì vậy, muốn
chấm dứt khổ phải thay đổi hoàn cảnh sống, thay đổi thế giới ngoại cảnh nhưng
kết quả mà nhân loại nhận được là chỉ đổi cái khổ này lấy cái khổ khác mà thôi,
không chấm dứt được khổ. Cách thức tìm kiếm Hạnh phúc để Chấm dứt Khổ của
nhân loại chỉ là liều thuốc giảm đau chứ không phải là liều thuốc chữa bệnh Khổ.

- ĐỨC PHẬT thì đã chứng ngộ và thuyết giảng là: ĐOẠN TẬN THAM SÂN SI
để CHẤM DỨT KHỔ. Những ai tin hiểu và thực hành đúng thì đều Chấm dứt
Khổ, Chấm dứt Luân hồi sinh tử. Việc thực hành này là thay đổi Nội Tâm chứ
không phải thay đổi Thế giới Ngoại Cảnh và là liều thuốc chữa bệnh, Chấm dứt
Khổ chứ không phải là liều thuốc giảm đau như cách thức của nhân loại.

Về mục lục

Bài 084: ĐỨC PHẬT VÀ KHOA HỌC

Khoa học và Đức Phật đều có cùng một mục đích, một mong muốn duy nhất là
CHẤM DỨT KHỔ. Nhưng khoa học với hiểu biết theo nguyên lý TÂM BIẾT
CẢNH nên đã MẶC ĐỊNH thực tại là thế giới vật chất, nên bị chi phối bởi hiểu
biết về Khổ, Nguyên nhân Khổ, Chấm dứt Khổ và Con đường Chấm dứt Khổ
(Khổ Tập Diệt Đạo) thuộc về thế giới ngoại cảnh. Cụ thể Khổ, Nguyên Nhân
Khổ, Chấm dứt Khổ sẵn có, luôn luôn có, thường hằng, thường trú nơi thế giới
ngoại cảnh, sẵn có nơi hoàn cảnh sống và đương nhiên Con đường Chấm dứt Khổ
là thay đổi thế giới, thay đổi hoàn cảnh sống. Chính vì hiểu biết đó mà Khoa học
nỗ lực khám phá thế giới vật chất để thay đổi thế giới, thay đổi hoàn cảnh sống,
để con người hết Khổ. Ngược lại Đức Phật nhờ quan sát và tư duy sự tương tác
giữa 6 căn và 6 trần mà giác ngộ ra thực tại là Cảm thọ, là Tâm chứ không phải
Cảnh, theo nguyên lý TÂM BIẾT TÂM chứ không phải TÂM BIẾT CẢNH và do
vậy Ngài đã giác ngộ về Tâm chứ không phải giác ngộ về Thế Giới, về Vũ Trụ.
Ngài giác ngộ Tứ Thánh Đế là giác ngộ Sự thật Khổ, Sự thật Nguyên nhân Khổ,
Sự thật Chấm dứt Khổ, Sự thật Con đường Chấm dứt Khổ (Khổ Tập Diệt Đạo)
thuộc về Tâm chứ không phải thuộc về Cảnh, về Thế Giới, nên Con đường Chấm
dứt Khổ là thay đổi Tâm chứ không phải thay đổi Thế giới, như hiểu biết của
Khoa học. Chính vì vậy, Giáo Pháp mà Đức Phật chứng ngộ và thuyết giảng là
KHÁM PHÁ TÂM, THAY ĐỔI TÂM chứ không phải KHÁM PHÁ THẾ GIỚI,
THAY ĐỔI THẾ GIỚI như Khoa học.

Đối với một người đã giác ngộ, sau khi hiểu đúng và thực hành đúng Giáo Pháp
mà Đức Thế Tôn khéo giảng, đã chấm dứt khổ, đã đoạn tận khổ thì mọi việc cần
làm đã làm xong, không có gì phải làm nữa, có chăng là việc chia sẻ điều mình đã
chứng ngộ với những người có duyên, nhưng đấy không phải là công việc bắt
buộc phải làm. Đối với vị đó Thế giới vũ trụ có vuông hay tròn, dài hay ngắn, vô
thường hay thường, hữu biên hay vô biên, nguồn gốc con người và thế giới từ đâu
mà có vv... không còn làm vị đó quan tâm tìm hiểu nữa.

Vì vậy, Đức Phật và Khoa học không thể đồng hành, không cùng một hướng đi.
Các tông phái Phật giáo phát triển về sau không hiểu được sự giác ngộ của Đức
Phật là giác ngộ về Tâm chứ không phải giác ngộ về Thế giới vũ trụ và do hiểu
biết vô minh theo nguyên lý Tâm biết Cảnh, nên họ gán cho Đức Phật giác ngộ về
Thế giới, về Vũ trụ. Vì vậy, các chú giải, luận giải, các bản kinh họ nói ra theo tư
tưởng đó, chủ yếu bàn về Thế giới tương đối hay tuyệt đối nhưng họ lại gán cho
Đức Phật nói. Nhiều người, thậm chí là đa số Phật tử không hiểu được sự giác
ngộ về Tâm của Đức Phật nên ngộ nhận là những thành tựu của Khoa học ngày
càng chứng minh cho sự giác ngộ về thế giới, biết về thế giới “trước cả” khoa học
của Đức Phật. Chính vì những ngộ nhận và những kinh, luận của các tông phái
như vậy mà thậm chí Einstein cũng ngộ nhận, tôn giáo của tương lai phải là Phật
giáo vì nó đáp ứng được các tiêu chí của Khoa học hiện đại.

Về mục lục
Bài 085: RÀNG BUỘC HAY GIẢI THOÁT ĐỀU LÀ TƯ TƯỞNG

Khát vọng của nhân loại là ĐỘC LẬP TỰ DO cho mỗi một con người, mỗi một
gia đình, mỗi một đất nước. Điều này được thể hiện trong Hiến Chương Liên Hợp
Quốc là để hiện thực hoá: Quyền Sống, QUYỀN TỰ DO và Quyền Mưu Cầu
Hạnh phúc của mỗi một con người. Nhưng cho dù nhân loại có "vùng vẫy" kiểu
nào đi nữa thì ĐỘC LẬP TỰ DO hay GIẢI THOÁT cũng chỉ là Khát Vọng,
không bao giờ là Hiện Thực, ngoại trừ một số bậc Thánh đã Giác Ngộ, rất ít ỏi.
Vì sao vậy? Vì nhân loại không hiểu được RÀNG BUỘC NÔ LỆ hay TỰ DO
GIẢI THOÁT đều do TƯ TƯỞNG.

Vậy tư tưởng là cái gì? Tư Tưởng theo nguyên nghĩa của từ Hán Việt này là sản
phẩm của Tưởng và Tư. Nghĩa là tư tưởng phát sinh do Tư duy (phân tích so sánh
đối chiếu) những thông tin do Tưởng cung cấp (Tưởng là tâm biết trực tiếp giác
quan có phận sự ghi nhận đối tượng mà Triết học và Tâm lý học gọi là Nhận thức
cảm tính đối tượng) với những thông tin tri thức, hiểu biết, kinh nghiệm đã học
hỏi từ quá khứ. Tư tưởng chính là nội dung của tâm biết Ý thức, hiểu biết về các
đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức. Tuỳ thuộc vào
tư tưởng (hiểu biết đối tượng) mà sẽ phát sinh Thái độ đối với đối tượng. Nếu
Thái Độ có Tham, có Sân, có Si thì sẽ Ràng buộc với đối tượng. Nếu Thái Độ
không Tham, không Sân, không Si thì sẽ Giải Thoát khỏi đối tượng.

1 - TƯ TƯỞNG ĐƯA ĐẾN GIẢI THOÁT: là những hiểu biết đúng sự thật tính
chất các pháp, đúng sự thật về thực tánh các pháp như tánh chất Duyên khởi, tánh
chất Vô thường, tánh chất Vô chủ, Vô sở hữu hay Vô ngã. Đặc biệt một thực tánh
khó thấy, khó biết là VÔ CHỦ, VÔ SỞ HỮU của các pháp, nghĩa là không có bất
kỳ một cái gì là Chủ nhân, Chủ sở hữu các pháp. Điều này cũng có nghĩa là không
có một cái TA hay BẢN NGÃ là chủ nhân, chủ sở hữu của các pháp, nghĩa là VÔ
NGÃ. Bậc Thánh giác ngộ thực tánh nên khi đối diện với bất kỳ một đối tượng
nào (được thấy, nghe, cảm nhận, nhận thức) đều sống với TƯ TƯỞNG VÔ CHỦ,
VÔ SỞ HỮU (VÔ NGÃ), và vì vậy mà không yêu thích, không chán ghét, độc
lập không ràng buộc, giải thoát không hệ luỵ với bất kỳ đối tượng nào. Vì vậy,
sống với tư tưởng Vô chủ, Vô sở hữu (Vô ngã) là sống với ĐỘC LẬP TỰ DO,
sống với GIẢI THOÁT.

2 - TƯ TƯỞNG ĐƯA ĐẾN RÀNG BUỘC: là những hiểu biết SAI SỰ THẬT
về thực tánh các pháp, gọi là Vô minh mà đặc biệt là Tư tưởng CHỦ NHÂN,
CHỦ SỞ HỮU (Tư tưởng làm chủ, tư tưởng sở hữu). Nhân loại hiểu biết quy luật
nhân quả theo định thức Một Nhân Sinh Quả hay Nhân chính biến đổi thành Quả
có các Nhân phụ (hay Duyên) trợ giúp nên các pháp LỆ THUỘC LẪN NHAU,
quan hệ với nhau theo tính chất CHỦ NHÂN, CHỦ SỞ HỮU và vì vậy giữa các
pháp luôn luôn tồn tại chữ CỦA. Ngọt của đường, mặn của muối, ngon dở của
thức ăn, nóng của lửa, lạnh của nước đá, mẹ của con... Trong tư tưởng Chủ nhân,
Chủ Sở Hữu xuất hiện một cái Ta, hay một Bản Ngã là chủ nhân, chủ sở hữu của
các pháp. Thân của Ta, Tâm của Ta, nhà của Ta, xe của Ta, vợ của Ta, đất nước
của Ta, vũ trụ của Ta, Đạo của Ta vv... Tư tưởng Chủ nhân, Chủ sở hữu chi phối
đời sống nhân loại nên dù là một cá nhân, một gia đình, một giai cấp, một đất
nước, hay toàn thể nhân loại, ai ai cũng đang nỗ lực phấn đấu để xác lập, củng cố,
bảo vệ quyền làm chủ, quyền sở hữu. Kẻ Phàm phu khi đối diện với các đối
tượng, thì sống với TƯ TƯỞNG CHỦ NHÂN, CHỦ SỞ HỮU, "Cái này là của
Ta, là Ta, là Bản ngã của Ta", vì vậy mà RÀNG BUỘC NÔ LỆ vào đối tượng. Ví
như đôi trai gái chưa yêu nhau, chưa cưới nhau thì Không Ràng Buộc nhau nhưng
khi yêu nhau cưới nhau, lập tức xuất hiện tư tưởng: "Cô này là của Ta, là vợ Ta"
thì Ràng Buộc nhau, lệ thuộc nhau. Từ cổ chí kim loài người đã sáng tạo ra biết
bao nhiêu hệ tư tưởng, biết bao tôn giáo với các tư tưởng khác nhau, làm cách
mạng để thay đổi ý thức hệ nhưng rốt cuộc cái ràng buộc, CÁI TRÓI CHẶT CON
NGƯỜI LẠI LÀ TƯ TƯỞNG DO CHÍNH CON NGƯỜI SÁNG TẠO RA. Vì
sao vậy? Vì các tư tưởng ấy, các ý thức hệ ấy đều là Vô Minh, đều là tư tưởng
Chủ nhân, Chủ sở hữu (Chấp ngã).
Lịch sử nhân loại đã ghi lại biết bao nhiêu cuộc cách mạng giai cấp, biết bao
nhiêu cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật nhằm đưa lại tự do, giải thoát cho con
người khỏi kiếp nô lệ giai cấp, nô lệ thiên nhiên, nô lệ môi trường sống nhưng kết
quả đạt được chỉ là thay cái ách nô lệ này bằng ách nô lệ khác mà thôi. Vì sao
vậy? Vì con người sống bởi tư tưởng Vô minh chấp ngã và vì thế con người mãi
mãi là nô lệ của THAM ÁI do chính tư tưởng Vô minh chấp ngã của mình tạo
nên.

3 - Kẻ Phàm Phu ít nghe, không gặp các bậc Thánh, không thuần thục pháp
các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh (không có Văn Tư Tu) nên
sống bởi tư tưởng Vô Minh, CHỦ NHÂN, CHỦ SỞ HỮU, tư tưởng "Cái này
là của Ta, là Ta, là Tự ngã của Ta", mà không biết đó là Vô Minh, nên cũng tu
học Đạo của Đức Phật nhưng với mục đích LÀM CHỦ. Làm chủ Hạnh phúc,
làm chủ tương lai, làm chủ Nghiệp, làm chủ Nhân Quả, làm chủ Thân Khẩu
Ý, làm chủ Lời nói, Hành động, LÀM CHỦ SINH GIÀ BỆNH CHẾT vv...
Nếu không thấy được tư tưởng Chủ nhân, Chủ sở hữu là Vô Minh, Tà Kiến thì
vẫn tu học với tư tưởng đó, thì cho dù giữ giới đến đâu, tinh tấn đến đâu, đè
nén tâm đến đâu đi nữa thì vẫn đang đi rất xa, ra khỏi lời dạy của Đức Phật.
Chỉ khi nào nhờ Văn Tư Tu đúng cách, Thấy Biết Như Thật thực tánh Duyên
khởi, thực tánh Vô thường, thực tánh Vô chủ, Vô sở hữu (Vô ngã) thì lúc đó
mới Nhận Mặt, mới Điểm Chỉ được Vô Minh như khi Phật thành đạo: "Vô
Minh, Ta đã thấy rõ ngươi rồi. Từ nay, ngươi sẽ không làm nhà cho Như Lai
được nữa, tất cả sườn nhà đã bị gãy, cây đòn dông ngươi dựng cũng đã bị phá
tan". Chỉ khi đó tư tưởng Vô minh, tư tưởng Chủ nhân, Chủ sở hữu mới bị
đoạn diệt và thay thế bởi tư tưởng Minh, tư tưởng Vô chủ, Vô sở hữu (Vô
ngã). Vì vậy, mục đích tu học là THAY ĐỔI NHẬN THỨC từ tư tưởng Vô
Minh, Tà Kiến, Không Liễu Tri sang tư tưởng Minh, Chánh Kiến, Liễu Tri
các pháp như Kinh Pháp Môn Căn Bản thuộc Trung Bộ Kinh đã thuyết minh.

Về mục lục
Bài 086: SỐNG TRONG THỰC TẠI HIỆN TIỀN

Thực tại hiện tiền là gì? Thực tại hiện tiền là những SỰ THẬT đang xảy ra trong
hiện tại, nói nôm na là những gì được mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm,
thân xúc chạm và những gì được "tưởng" ra, những gì được nhận thức ngay bây
giờ và tại đây. Những đối tượng đó là thực tại hiện tiền và Thánh hay Phàm đều
đang sống với những đối tượng thực tại hiện tiền đó. Nhưng có hai cách sống
trong thực tại hiện tiền, là cách sống trong thực tại hiện tiền của Phàm phu và
cách sống trong thực tại hiện tiền của bậc Thánh.

1 - Sống trong thực tại hiện tiền của Phàm phu:

- Phàm phu thấy, nghe, cảm nhận các đối tượng thực tại với cái biết trực tiếp giác
quan (gọi tắt là trực giác) hay triết học và tâm lý học ngày nay gọi là "nhận thức
cảm tính" đối tượng bao gồm Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân
thức, Tưởng thức (gọi tắt là Tưởng) có nội dung là Nhận biết hay Ghi nhận đối
tượng không thêm bớt. Tâm biết trực tiếp giác quan mà thuật ngữ Phật học gọi là
Tưởng này đối với Phàm và Thánh đều như nhau, không sai khác, có tính chất
Vô niệm, Vô ngôn, Vô phân biệt (gọi là Không tánh), nhưng đối với Phàm thì gọi
là Tưởng tri đối tượng.

- Sau khi Tưởng Tri đối tượng, Tâm biết Ý thức khởi lên để hiểu biết đối tượng
đó là gì, tính chất ra sao. Tâm biết Ý thức của Phàm phu là Nhị nguyên Tâm Vật,
nghĩa là có hai phần chủ thể biết là BẢN NGÃ và đối tượng được biết là THẾ
GIỚI ngoại cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần. Tâm biết Ý thức Phàm phu
biết rằng những đối tượng của thực tại như to nhỏ, vuông tròn, dài ngắn, xanh
vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng mềm, thô mịn, đàn ông, đàn bà, xe cộ,
mây núi... đều thuộc về thế giới vật chất ngoại cảnh. Hiểu biết như vậy không
đúng với Sự thật thực tại, nên Tâm biết Ý thức đó là Vô Minh, Không liễu tri các
pháp mà thuật ngữ Phật học gọi là Tà Tri Kiến. Do Vô Minh mà Hiểu biết sai
thực tại nên Dục hỷ đối tượng. Vì vậy, Phàm phu sống trong thực tại hiện tiền với
Tham Sân Si với Sầu Bi Khổ Ưu Não, sống trong thực tại hiện tiền theo cách
"truy tìm quá khứ, ước vọng tương lai hoặc đắm chìm trong hiện tại".

2 - Sống trong thực tại hiện tiền của bậc Thánh: Là an trú Bốn Niệm Xứ với
CHỈ và QUÁN.

a - CHỈ: Bậc Thánh sau khi thấy, nghe, cảm nhận đối tượng với tâm biết trực tiếp
giác quan, sẽ có Chánh niệm (nhớ đến chú tâm quán sát thân nơi thân) khởi lên.
Do có Chánh Niệm mà phát sinh Chánh tinh tấn, do Chánh Tinh Tấn mà phát sinh
Chánh định (chú tâm vào đối tượng). Do Chánh định như vậy mà lộ trình tâm sẽ
DỪNG LẠI tâm biết trực tiếp giác quan và do vậy tâm biết Ý thức không khởi
lên, nên không tìm hiểu, phán đoán, phán xét đối tượng là cái gì, tính chất ra sao.
Lúc đó Thấy chỉ là thấy, Nghe chỉ là nghe, Cảm nhận chỉ là cảm nhận, không có
tri thức kinh nghiệm xen vào, nên không có Vô Minh, không có Tham Sân Si,
không có Phiền não. Nhờ có Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định như
vậy, nên chỉ Nhận biết hoặc Ghi nhận đối tượng bởi tâm biết trực tiếp nên thuật
ngữ Phật học gọi là Tỉnh giác hay Thắng tri đối tượng. Lộ trình này gọi là CHỈ, và
Giải thoát này gọi là Tâm Giải Thoát hay Không Giải Thoát.

b - QUÁN: Đức Phật đã tuyên bố trong Kinh Năm Ba thuộc Trung Bộ Kinh: "Vô
thượng tịch tĩnh, tối thắng đạo được Như Lai Chánh Đẳng Giác sau khi như thật
tuệ tri Sáu Xúc Xứ" hay cụ thể hơn trong Kinh Phạm Võng thuộc Trường Bộ
Kinh : "Này các Tỷ kheo, Như Lai nhờ như thật tuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt
(sinh diệt) của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ, mà Như Lai
được giải thoát hoàn toàn không có chấp thủ". Vì vậy, Đức Phật giác ngộ các ĐỐI
TƯỢNG THỰC TẠI là CÁC CẢM THỌ do Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần phát sinh
ra, chứ không phải là THẾ GIỚI ngoại cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần
như hiểu biết sai lạc của Phàm phu. Những đối tượng của thực tại như to nhỏ,
vuông tròn, dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng mềm thô mịn,
đàn ông, đàn bà, xe cộ, mây núi... là các CẢM THỌ hay CẢM GIÁC thuộc phạm
trù tâm (không phải vật) do Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh, tất thảy đều Vô
thường, Vô ngã.

Khi thấy, nghe, cảm nhận đối tượng rồi Chánh niệm (nhớ đến chú tâm quán sát
thọ nơi thọ, tâm nơi tâm và pháp nơi pháp) khởi lên thì sẽ thấy, nghe, cảm nhận
đối tượng với Tỉnh giác rồi do Chánh Niệm - Chánh Tư Duy mà Tâm biết Ý thức
sẽ khởi lên, Biết như thật đối tượng đó là CẢM THỌ, DO DUYÊN CĂN TRẦN
TIẾP XÚC KHỞI LÊN, NÓ VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ, NÓ CÓ VỊ NGỌT, SỰ
NGUY HIỂM VÀ SỰ XUẤT LY. Tâm biết Ý thức, biết như thật đối tượng như
vậy gọi là Minh, là Trí Tuệ, là Chánh Tri Kiến, là Liễu tri nên sẽ chấm dứt Vô
minh, chấm dứt Tham Sân Si, chấm dứt Phiền não. Giải thoát được khởi lên do
Trí Tuệ như vậy gọi là Tuệ Giải Thoát hay Vô Tướng Giải Thoát. Bậc Thánh
sống trong thực tại hiện tiền với CHỈ và QUÁN như vậy nên “không truy tìm quá
khứ, không ước vọng tương lai, không đắm chìm trong hiện tại”.

TÓM LẠI: Quan trọng là THẤY và BIẾT


Phàm phu sống trong thực tại hiện tiền với THẤY (Nghe, Cảm nhận) là TƯỞNG
TRI và BIẾT là KHÔNG LIỄU TRI đối tượng thực tại hiện tiền. Do vậy có DỤC
HỶ đối tượng và đây là Nguyên nhân Khổ.
Bậc Thánh sống trong thực tại hiện tiền với THẤY (Nghe, Cảm nhận) là TỈNH
GIÁC (hay THẮNG TRI) và BIẾT là LIỄU TRI đối tượng thực tại hiện tiền.

Do vậy KHÔNG DỤC HỶ đối tượng và không còn Nguyên nhân Khổ.

Bài 087 TỈNH GIÁC - LỐI THOÁT KHỔ NGAY TRONG HIỆN TẠI

Lối thoát khổ trong hiện tại, ngay bây giờ và tại đây được Đức Phật tự mình tìm
ra, chứng ngộ và thuyết giảng. Đó là thực hành Bát Chánh Đạo với hai phương
pháp: CHỈ và QUÁN. Lối tu CHỈ để người tu an trú Tâm biết trực tiếp giác
quan nhờ Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định, gọi là an trú Tỉnh Giác
và giải thoát do an trú Tỉnh Giác như vậy gọi là Tâm giải thoát hay Không giải
thoát. Lối tu QUÁN để người tu an trú Tâm biết ý thức Chánh Kiến nhờ Chánh
Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - Chánh Tư Duy - Chánh Kiến, gọi là an
trú Chánh Kiến và giải thoát do an trú Chánh Kiến (Trí Tuệ) như vậy gọi là Tuệ
giải thoát hay Vô tướng giải thoát.

1 - Tỉnh Giác là gì?

Đây là một khái niệm chỉ được Kinh điển đặt tên mà không được định nghĩa,
giải thích, chỉ rõ là cái gì. Trong kinh chỉ nói như sau: “Vị Tỷ kheo khi đi tới đi
lui đều Tỉnh Giác; khi ngó tới ngó lui đều Tỉnh Giác; khi mang y, mang bát đều
Tỉnh giác; khi ăn uống nhai nuốt đều Tỉnh Giác; khi đại tiện tiểu tiện đều Tỉnh
Giác; khi đi đứng ngồi nằm thức nói đều Tỉnh Giác”. Vì Tỉnh Giác là tâm biết
“vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt” (nghĩa là không có khái niệm, không có ngôn
từ, không có phân biệt) nên nếu dùng khái niệm, ngôn từ, phân biệt để diễn tả
nó thì sẽ rơi vào tâm biết ý thức có “khái niệm, ngôn từ, phân biệt” làm cho
người đọc càng nhầm lẫn hơn về Tỉnh Giác nên Kinh chỉ dùng từ Tỉnh Giác mà
không có thêm một định nghĩa, một giải thích nào. Vì không thân chứng Tỉnh
Giác, nên đa phần người tu sẽ dùng tâm biết ý thức để tư duy, suy diễn và sẽ
đánh đồng tâm biết Tỉnh Giác với tâm biết Ý thức tà kiến (vô minh, chấp ngã)
của Phàm phu. Và họ sẽ giải thích đoạn kinh trên là: Khi đi tới, đi lui, tôi biết
tôi đang đi tới đi lui; khi ngó tới ngó lui, tôi biết tôi đang ngó tới ngó lui; khi
đại tiện, tiểu tiện, tôi biết tôi đang đại tiện tiểu tiện; khi nhặt rau, rửa bát, tôi
biết tôi đang nhặt rau, rửa bát; khi thở vô thở ra, tôi biết tôi đang thở vô thở ra;
khi thân thể đang làm gì, tư thế nào, tôi biết rõ thân thể tôi đang ở tư thế đó...
Đa phần đều hiểu “ý thức sáng tỏ” mỗi một việc làm trong giây phút hiện tại
như vậy là Tỉnh Giác. Đây là một sự nhầm lẫn, một sai lầm nghiêm trọng,
không hiểu biết đúng như thật “ý thức sáng tỏ” như vậy là tâm biết ý thức vô
minh, tà kiến. Đó không phải là tâm biết Tỉnh Giác.

Muốn hiểu được Tỉnh Giác là gì phải quan sát và hiểu biết đúng sự thật Sáu
Xúc Xứ (sự tiếp xúc giữa Sáu Căn và Sáu Trần). Thực tại gồm tâm biết và đối
tượng được biết không có sẵn ở đâu cả, mà do Sáu Căn và Sáu Trần tiếp xúc
mới phát sinh. Khi đối tượng của thực tại xuất hiện (Cảm Thọ) thì cũng xuất
hiện các Tâm Biết có phận sự biết các đối tượng đó. Tâm biết lại được chia làm
hai loại: một là tâm biết trực tiếp giác quan, có phận sự ghi nhận hay nhận biết
đối tượng mà tâm lý học gọi là Nhận thức cảm tính đối tượng; hai là tâm biết
gián tiếp Ý thức, có phận sự xác định đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao mà
tâm lý học gọi là Nhận thức lý tính đối tượng.

- Một là: Tâm biết trực tiếp giác quan (dịch từ tiếng Tàu là trực giác) gồm
Nhãn thức thấy đối tượng Cảm giác hình ảnh, Nhĩ thức nghe Cảm giác âm
thanh, Tỷ thức cảm nhận Cảm giác mùi, Thiệt thức cảm nhận Cảm giác vị,
Thân thức cảm nhận Cảm giác xúc chạm, Tưởng thức ghi nhận Cảm giác pháp
trần. Tâm biết trực giác này không do học hỏi, mà do Căn Trần tiếp xúc phát
sinh nơi các giác quan, nên trong nó không có khái niệm, không có ngôn từ để
chỉ các khái niệm, không phân biệt đây là cái này, đây không phải là cái kia, nên
tính chất của nó là “vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt”. Hình dung tâm biết trực
giác này giống như tâm biết của một đứa trẻ vừa sinh ra, nó vẫn thấy, nghe, cảm
nhận mọi đối tượng của thực tại nhưng không biết các đối tượng đó là cái gì,
vuông hay tròn, mặn hay ngọt, đẹp hay xấu, ngon hay dở, đúng hay sai, thiện
hay ác... vì phần lớn tâm biết ý thức do học hỏi của nó chưa khởi lên. Tâm biết
trực giác này không có Vô minh, cũng không có Minh nhưng nó ghi nhận trung
thực đối tượng, đối tượng như thế nào thì ghi nhận như thế đó, không thêm bớt.
Tâm biết trực tiếp này Thánh Phàm đều như nhau.

- Hai là: Tâm biết gián tiếp Ý thức do học hỏi mà có và phát sinh theo lộ trình
nhân quả Niệm - Tư duy - Ý thức, xảy ra nơi các tế bào thần kinh não bộ, nên
thường gọi là cái biết trí óc, do suy nghĩ mà có. Tâm biết ý thức có phận sự biết
đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao mà Tâm lý học gọi là Nhận thức lý tính
đối tượng. Nội dung của tâm biết ý thức phụ thuộc vào Niệm (nghĩa tiếng Việt
là Trí nhớ), nhớ được những tri thức hiểu biết đã học hỏi từ quá khứ được lưu
giữ trong “bộ nhớ”. Nội dung tâm biết ý thức của Phàm phu, biết sai sự thật về
đối tượng, mà thuật ngữ Phật học gọi là Tà kiến, là vô minh chấp ngã, nên nó
chính là nguyên nhân phát sinh Tham Sân Si, phát sinh Phiền não. Tâm biết Ý
thức của bậc Thánh biết đúng sự thật đối tượng nên gọi là Chánh Kiến, là
Minh, là Trí Tuệ nên không còn phát sinh Tham Sân Si, không còn phát sinh
Phiền não. Đối với lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu thì tâm biết trực tiếp
khởi lên rồi tâm biết ý thức sẽ khởi lên tiếp theo ngay, nên đó chính là nguyên
nhân phát sinh tham sân si, phát sinh Phiền não.

* Lộ trình tâm do Mắt tiếp xúc Sắc trần sẽ có tâm biết: Nhãn thức - Ý thức

* Lộ trình Tai tiếp xúc Thanh trần sẽ có: Nhĩ thức - Ý thức.

* Lộ trình Mũi tiếp xúc Hương trần sẽ có: Tỷ thức - Ý thức

* Lộ trình Lưỡi tiếp xúc Vị trần sẽ có: Thiệt thức - Ý thức


* Lộ trình Thân với Xúc trần sẽ có: Thân thức - Ý thức

* Lộ trình Ý tiếp xúc Pháp trần sẽ có: Tưởng thức - Ý thức

Đối với trẻ con càng ít tuổi thì lộ trình tâm đa phần dừng lại tâm biết trực tiếp,
tâm biết ý thức do tri thức hiểu biết, kinh nghiệm học hỏi còn ít nên phần nhiều
chưa khởi lên, vì vậy chúng sống rất vô tư, rất ít phiền não. Người trưởng thành
có mọi tri thức, hiểu biết, kinh nghiệm đã học hỏi trong cuộc đời nên tâm biết
trực tiếp và tâm biết ý thức khởi lên nối tiếp nhau, vì vậy có vô số phiền não chi
phối. Nếu quan sát đời sống từ khi sinh ra đến khi lớn lên rồi già cả thì tâm biết
trực giác như nhau, nhưng càng lớn lên, càng từng trải thì tâm biết ý thức sẽ
biết càng nhiều và càng biết nhiều bao nhiêu thì càng khổ nhiều bấy nhiêu. Lúc
5 tuổi biết ít hơn 10 tuổi, 10 tuổi biết ít hơn 20 tuổi, 40 tuổi biết nhiều hơn 20
tuổi nên 5 tuổi sống vô tư, ít khổ hơn khi 10 tuổi, 10 tuổi ít khổ hơn 20 tuổi, 20
tuổi sống vô tư, ít khổ hơn 40 tuổi. Vì sao vậy? Vì tâm biết ý thức đó là vô
minh, tà kiến là nguyên nhân phát sinh tham sân si, phát sinh khổ. Nếu lộ trình
tâm chỉ có tâm biết trực tiếp mà tâm biết ý thức không khởi lên thì sẽ không có
tham sân si, không có phiền não. Vì vậy, tu CHỈ là dừng lại, không cho tâm biết
ý thức khởi lên, chỉ có tâm biết trực tiếp giác quan Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ
thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng thức ghi nhận đối tượng mà thôi. Vì tâm
biết ý thức do suy nghĩ không có mặt nên người tu sẽ cảm nhận tâm rỗng lặng,
trống không mọi suy nghĩ và lúc đó thực sự thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe,
cảm nhận chỉ là cảm nhận, không hề có nhận xét, đánh giá đối tượng. Khi chỉ có
tâm biết trực tiếp ghi nhận đối tượng mà tâm biết gián tiếp ý thức không có mặt
như vậy thì đó gọi là Tỉnh Giác. Đoạn kinh vị Tỷ kheo khi đi tới đi lui đều Tỉnh
Giác... được hiểu là: khi có các hành động đó thì trên thân xuất hiện các Cảm
giác và lúc đó nhờ có Chánh Niệm (Nhớ đến chú tâm quán sát các Cảm giác nơi
thân) nên chỉ có Thân thức ghi nhận các Cảm giác xúc chạm, từ Cảm giác này
sang Cảm giác khác, nhưng tâm biết trực tiếp ghi nhận đó không hề có ngôn từ,
khái niệm như “tôi đang bước tới, tôi đang bước lui, chân trái tôi đang bước,
chân phải tôi đang bước... Vì chỉ có tâm biết Thân thức, vô niệm, vô ngôn, vô
phân biệt nên không thể có ngôn từ để diễn tả nó, chỉ có thể thân chứng nó nên
vạn bất đắc dĩ phải đặt ra từ Tỉnh Giác để truyền thông với nhau, để người trí
hình dung ra sự việc.

2 - Phương pháp tu CHỈ để an trú Tỉnh Giác:

Muốn an trú Tỉnh Giác phải thực hành Chánh Niệm về Thân, theo nghĩa tiếng
Việt là thực hành Trí Nhớ Chánh, cụ thể là: Nhớ đến chú tâm quán sát các Cảm
giác trên thân. Khi Chánh Niệm (Nhớ đến chú tâm quán sát các Cảm giác trên
thân) liên tục khởi lên thì do nhân Chánh Niệm sẽ phát sinh một tâm hành “Tích
Cực” mà thuật ngữ Phật học gọi là Chánh Tinh Tấn và do Chánh Tinh Tấn là
nhân sẽ phát sinh tâm hành Chú Tâm từ Cảm giác này đến Cảm giác khác trên
thân mà thuật ngữ Phật học gọi là Chánh Định. Nhờ có Chánh Định mà lộ trình
tâm sẽ dừng lại tâm biết trực tiếp (gọi là Tỉnh Giác) và tâm biết Ý thức không
khởi lên. Khi Chánh Niệm có mặt, lộ trình duyên khởi Chánh Niệm - Chánh Tinh
Tấn - Chánh Định - Tỉnh Giác sẽ tự động khởi lên nên người tu chỉ luyện tập
Chánh Niệm, tức luyện tập Trí Nhớ để luôn luôn Nhớ đến chú tâm các Cảm giác
trên thân là đủ, không cần làm thêm bất cứ điều gì, còn làm thêm điều gì nữa là
sai.

- Khi tọa thiền: Để luôn luôn nhớ được chú tâm các cảm giác trên thân người tu
luôn luôn nhớ đến xiết chặt hai hàm răng lại, chú tâm vào cảm giác nơi răng
lưỡi và để tự nhiên. Phải hiểu rõ nội dung của Chánh Niệm, của Trí Nhớ gồm 2
phần: một là chú tâm nơi răng lưỡi, và hai là để tự nhiên. Nghĩa là không những
phải chú tâm cảm giác xảy ra nơi răng lưỡi mà hãy để cho sự chú tâm tự động
xảy ra nơi các cảm giác thở vô, thở ra và mọi cảm giác khác xuất hiện trên thân,
hãy để cho tâm biết trực tiếp ghi nhận các cảm giác một cách tự nhiên chứ
không “lôi” tâm về nơi răng lưỡi. Sự thực hành chỉ có vậy, không làm thêm điều
gì nữa mà chỉ trải nghiệm cái gì sẽ xảy ra lúc đó. Người thực hành sẽ cảm nhận
được, lúc đó sự chú tâm bắt đầu nơi cảm giác răng lưỡi tiếp đến chú tâm sẽ tự
động xảy ra nơi cảm giác thở vô rồi đến cảm giác thở ra, rồi lại đến cảm giác
răng lưỡi... Sự chú tâm sẽ tự nhiên dần và liên tục từ cảm giác này sang cảm
giác khác trên cả toàn thân và Thân thức sẽ ghi nhận từ Cảm giác này đến Cảm
giác khác trên thân. Lúc đó tâm vắng lặng, rỗng không, không có tư tưởng tôi
đau, tôi ngứa, tôi đang thở vào, tôi đang thở ra... nghĩa là tâm biết ý thức không
có mặt. Đó chính là Tỉnh Giác. Lúc tọa thiền nếu nhắm mắt lại thì chỉ có 3 đối
tượng chính xuất hiện là Cảm giác trên thân, Cảm giác âm thanh và Cảm giác
pháp trần còn 3 đối tượng còn lại là Cảm giác hình ảnh, Cảm giác mùi, Cảm
giác vị gần như không có. Người tu sẽ trải nghiệm được tuy chỉ thực hành
Chánh Niệm về Thân, tức nhớ đến chú tâm các cảm giác trên thân nhưng lúc đó
Tỉnh Giác không những là thuần tuý Thân thức ghi nhận các Cảm giác trên thân
mà còn có thuần tuý Nhĩ thức ghi nhận Cảm giác âm thanh và thuần tuý Tưởng
thức ghi nhận Cảm giác pháp trần mà không có Ý thức đi kèm. Người tu có thể
mở kèm một bản nhạc không lời hoặc một bài hát hay và chỉ nhớ đến xiết chặt
răng lưỡi, chú tâm cảm giác nơi răng lưỡi và để tự nhiên thì sẽ kinh nghiệm
được rất dễ dàng nhất tâm (không còn phân tâm với những chuyện khác) và lúc
đó chỉ có Thân thức ghi nhận đối tượng (Cảm giác trên thân), Tưởng thức ghi
nhận đối tượng (Cảm giác pháp trần), Nhĩ thức ghi nhận đối tượng (Cảm giác
âm thanh). Lúc đó mới thực sự thân chứng, thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe,
không nhận xét đánh giá đối tượng vì ý thức không có mặt, nên không thích
ghét, không bị cuốn hút vào bản nhạc hay bài hát như trước đây nữa. Đây là một
trải nghiệm rất có giá trị để người tu hiểu rằng chỉ cần nhớ đến xiết chặt răng
lưỡi, chú tâm vào cảm giác răng lưỡi và để tự nhiên như nhiên thì sẽ không có
thích ghét (tham sân), không bị lôi cuốn vào bất kỳ một đối tượng nào trên đời.
Có thể mở nhạc nửa thời đầu và nửa thời sau cứ để tự nhiên như vậy thì sẽ trải
nghiệm nhất tâm rất dễ dàng. (Muốn biết vì sao phải xiết chặt răng lưỡi, vì sao
khi có nhạc thực hành dễ nhất tâm hơn và định mạnh hơn thì hãy tham dự một
khoá tu sẽ hiểu rõ).

- Trong sinh hoạt đi đứng nằm ngồi, làm việc: thực tại lúc đó sẽ có 6 đối tượng
là 6 Cảm giác (Cảm thọ) và để Chánh Niệm, nhớ đến chú tâm các Cảm giác trên
thân được liên tục, không gián đoạn (nhớ đến chuyện khác tức Tà Niệm khởi
lên) cần phải nhớ thêm niệm thầm “theo dõi, theo dõi” để nhắc nhở, hỗ trợ
Chánh Niệm có mặt. Nếu có nhịp thì niệm thầm “theo dõi, theo dõi” theo nhịp,
nếu không có nhịp thì thỉnh thoảng niệm thầm “theo dõi, theo dõi”. Lúc đó đa
phần lộ trình tâm, đến khoảng 70 đến 80% chỉ có tâm biết Tỉnh giác ghi nhận
đối tượng nên không có thích ghét và tâm sẽ bình an, vắng lặng mọi tư tưởng,
không có phiền não. Người đó nhờ liên tục chú tâm lên thân mà sẽ chú tâm vào
công việc và sẽ “làm tốt việc của mình, không xen vào việc người khác, không
lo lắng việc của trời đất” nên sẽ kinh nghiệm khổ diệt ngay bây giờ và tại đây,
không còn phải hy vọng khổ diệt trong tương lai nữa.

Về mục lục

Bài 088: KỸ NĂNG SỐNG THÍCH NGHI

Phàm phu vì bị vô minh che đậy, bị tham ái trói buộc nên sống với tâm thích và
ghét mà thuật ngữ Phật học gọi là Tham và Sân. Thích các đối tượng Dễ chịu vì
nghĩ rằng các đối tượng này sẽ mang đến hạnh phúc, chấm dứt đau khổ cho mình,
Ghét các đối tượng khó chịu vì nghĩ rằng chúng mang đau khổ đến cho mình. Vì
thích nên cố gắng nỗ lực để nắm giữ, làm chủ, sở hữu các đối tượng dễ chịu, vì
ghét nên cố gắng nỗ lực để xua đuổi, xa lánh, vứt bỏ các đối tượng khó chịu. Vì
thế suốt đời nỗ lực cố gắng để tích lũy tiền bạc, của cải, danh tiếng, sức khỏe,
hạnh phúc (các đối tượng dễ chịu) với hy vọng một tương lai được đảm bảo, được
an toàn nhất là khi già cả. Nhưng vì các đối tượng Dễ chịu và Khó chịu đó là các
Cảm Thọ, do 6 Căn và 6 Trần tương tác mà phát sinh, không phải là Thế Giới vật
chất ngoại cảnh, nên nó Vô Thường, Vô Chủ Vô Sở Hữu (Vô ngã), nó sinh lên rồi
diệt đi tức khắc, không ai có thể nắm giữ, tích luỹ, làm chủ, điều khiển được nó,
vì thế cuộc sống của Phàm phu mâu thuẫn, xung đột với sự thật thực tại nên chỉ
quanh quẩn nơi khổ, không thể chấm dứt khổ.

Bậc Thánh THẤY BIẾT NHƯ THẬT Khổ thuộc về Tâm chứ không phải Cảnh và
THẤY BIẾT NHƯ THẬT Nguyên nhân Khổ là Thích và Ghét thuộc về Tâm chứ
không phải Cảnh, nên sống thích nghi với mọi đối tượng, nghĩa là không thích đối
tượng dễ chịu, không ghét đối tượng khó chịu. Vì không thích đối tượng dễ chịu
nên không còn cố gắng nỗ lực để nắm giữ, làm chủ, sở hữu đối tượng dễ chịu, vì
không ghét đối tượng khó chịu nên không cố gắng nỗ lực để xua đuổi, xa lánh,
vứt bỏ các đối tượng khó chịu, bình thản khi mọi đối tượng đến và đi. Vị ấy sống
Thích Nghi với mọi đối tượng như vậy nên đời sống vị đó không còn khổ đau. Vị
ấy thân chứng, thấy biết như thật Con Đường Thích Nghi ấy là Bát Chánh Đạo
với Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - Chánh Tư Duy - Chánh Tri
Kiến - Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng.

Phàm phu chỉ sống trong kinh nghiệm thích và ghét, lý giải mọi sự của cuộc đời
bằng tri thức, kinh nghiệm của thích và ghét nên không thể nào hiểu nổi, không
thể nào hình dung nổi một cuộc sống không có thích ghét của bậc Thánh là như
thế nào. Chỉ có người nào thực hành Bát Chánh Đạo kinh nghiệm được, thân
chứng được cuộc sống không có thích ghét là như thế nào nên khi so sánh với lối
sống có thích ghét, thì sẽ tự mình biết lựa chọn lối sống thích nghi, không thích
ghét để chấm dứt khổ.

Là đệ tử của Đức Thế Tôn hãy noi gương các bậc thánh, sống với lối sống Thích
Nghi bằng cách sống an trú Chánh Niệm về thân thọ tâm pháp. Lối sống này sẽ
không còn hướng đến tích lũy hạnh phúc, tiền bạc, của cải, tri thức, danh tiếng với
hy vọng đảm bảo một cuộc sống an toàn cho tương lai mà hướng đến “tích lũy”
một lối sống THÍCH NGHI VỚI MỌI ĐỐI TƯỢNG. Nhờ thực hành và an trú Tứ
Niệm Xứ mà Thân Chứng và An Trú “THÍCH NGHI MỌI ĐỐI TƯỢNG” ngay
bây giờ và tại đây nên tương lai có xảy ra như thế nào, giàu có sang trọng hay tai
nạn khốc liệt thì vị đó vẫn sống thích nghi, không có yêu thích, không có chán
ghét, độc lập không ràng buộc nên không có khổ vì các đối tượng đó. Hãy học tập
và rèn luyện KỸ NĂNG SỐNG THÍCH NGHI VỚI MỌI ĐỐI TƯỢNG.

Về mục lục

Bài 089: PHÀM LÀM VIỆC GÌ PHẢI NGHĨ ĐẾN HẬU QUẢ

Đây là câu nói được nhiều người nhấn mạnh, được xem là nguyên lý sống,
nguyên lý của sự tu tập Phật Giáo vì đa phần đều cho rằng, lỗi lầm mà con người
phạm phải là không tính đến hậu quả của lời nói việc làm. Chính vì hiểu biết như
vậy nên đa phần chủ trương tu học Phật giáo là tu LỜI NÓI, HÀNH ĐỘNG là
hàng đầu, là quan trọng nhất. Nhưng sự thật không phải như vậy. Nhân loại này ai
ai cũng đã so đo tính toán kết quả của việc làm trước khi hành động, không ai
không suy nghĩ về kết quả (hậu quả) trước khi hành động cả. Điển hình như tên
trộm trước khi cạy cửa vào nhà người ta, nó phải chắc đến 80-90% ăn trộm được
và an toàn thì nó mới làm. Nếu nó biết chắc vào nhà đó là bị bắt, nó sẽ không bao
giờ cạy cửa. Cũng y như vậy, con người đã so đo tính toán thiệt hơn về kết quả, về
hậu quả, biết việc đó thành công mới làm còn biết chắc việc đó thất bại thì chẳng
ai làm. Đương nhiên khi đã tính toán như vậy sẽ RÀNG BUỘC vào dự định, tính
toán và RÀNG BUỘC vào kết quả sẽ xảy ra. Nếu thành công sẽ vui mừng sung
sướng, nếu thất bại sẽ chán ghét khổ đau.
Một vị Thánh đệ tử của Đức Thế Tôn thì luôn luôn nhớ đến lời dạy của Ngài:
Phàm làm việc gì với Tà Niệm của tâm Bát Tà Đạo thì KHỔ khởi lên. Phàm làm
việc gì với Chánh Niệm của tâm Bát Chánh Đạo thì KHỔ CHẤM DỨT. Hay nói
rõ hơn vị Thánh Đệ tử luôn luôn có Chánh Niệm (Trí Nhớ Chánh), tức luôn luôn
nhớ đến: Chú tâm quán sát Thân Thọ Tâm Pháp, nhớ đến: Phàm làm việc gì với
lộ trình tâm Bát Tà Đạo, có Tham, có Sân, có Si thì Khổ sẽ có mặt. Phàm làm
việc gì với lộ trình tâm Bát Chánh Đạo, không có Tham, không có Sân, không có
Si thì KHỔ không có mặt, KHỔ CHẤM DỨT. Khi làm với Chánh Niệm như vậy,
Khổ đã chấm dứt không cần đến kết quả thành công hay thất bại, không còn bị
RÀNG BUỘC bởi kết quả thành công hay thất bại nữa.

Về mục lục

Bài 090: THỰC TƯỚNG VÔ TƯỚNG

Bị Vô minh che đậy, không Tuệ tri SÁU XÚC XỨ, nên không biết đúng như
thật các pháp tức các đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận, được
nhận thức, nhân loại thường rơi vào hai cực đoan: Chấp các pháp là CÓ hoặc
KHÔNG CÓ. Cực đoan thứ nhất CHẤP CÓ cho rằng các đối tượng đó là Sắc
Thanh Hương Vị Xúc Pháp, là Thế giới vật chất ngoại cảnh. Vì các pháp là vật
chất nên các pháp CÓ TƯỚNG vuông tròn, to nhỏ, dài ngắn, đàn ông đàn bà...
Đây là Thường Kiến thuộc về Duy Vật. Cực đoạn thứ hai cho rằng các đối
tượng đó KHÔNG CÓ THẬT chỉ do Thượng Đế hoặc Bản Tâm không sinh
không diệt hoá hiện ra. Đây là CHẤP KHÔNG, là Đoạn Kiến thuộc về Duy
Tâm. Nhiều trường phái Phật giáo về sau, để tránh cực đoan CHẤP CÓ, họ chủ
trương các pháp GIẢ CÓ chứ KHÔNG CÓ THẬT. Bởi họ suy tư rằng nếu các
pháp là Không thật chỉ là Giả có thôi, thì sẽ không tham sân với các pháp.

Nhưng nếu chủ trương các pháp là giả, không có thật thì sẽ rơi vào Chấp Không
và để tránh cực đoan Chấp Không họ khôn khéo đề ra, tuy CHÂN KHÔNG MÀ
DIỆU HỮU. Từ chủ trương đó họ suy ra: THỰC TƯỚNG các pháp là VÔ
TƯỚNG. Chủ trương này phát sinh từ Tư Duy Lý Luận Suông chứ không phát
sinh từ quan sát sự thật để Tuệ tri Sáu Xúc Xứ. Cũng từ các cực đoan mà các
tông phái thiết lập lên quan điểm Chân Đế và Tục Đế mà thực chất là dung hoà,
thêm bớt, chế biến, xào xáo lại hai cực đoan bằng tư duy lý luận suông cho mới
lạ hơn, hấp dẫn hơn. Hiểu biết của cả hai cực đoan thuộc hai trường phái Duy
Tâm và Duy Vật đều không đúng sự thật và được ví như: THẤY đối tượng vốn
là Sợi Dây lại BIẾT LẦM là Con Rắn.

Tuệ tri SÁU XÚC XỨ sẽ biết như thật các pháp bao gồm các đối tượng được
thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là SÁU CẢM THỌ do sáu
căn tiếp xúc sáu trần mà phát sinh. Vì vậy thực tại mà con người đang sống
không phải là Thế giới ngoại cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp, không phải
Tâm biết thuộc về sáu căn và Đối tượng được biết là sáu cảnh trần (Tâm biết
Cảnh) mà thực tại bao gồm Tâm Biết và Đối Tượng được biết (Sáu Cảm thọ)
đều do Con người chủ quan (Sáu Căn) và Thế giới khách quan (Sáu Cảnh trần)
tiếp xúc mà phát sanh ra. Thực tại bao gồm Tâm Biết và Đối Tượng được biết là
các CẢM THỌ thuộc Phạm Trù Tâm, và vì các pháp đó thuộc Phạm Trù Tâm
nên không có tướng, cho nên THỰC TƯỚNG CÁC PHÁP LÀ VÔ TƯỚNG.
Một vị vô học đã giác ngộ, hay một vị hữu học tu tập Niệm Tâm, Niệm Pháp thì
sau khi Thấy, Nghe, Cảm Nhận đối tượng với cái biết TỈNH GIÁC thì Ý Thức
CHÁNH TRI KIẾN khởi lên BIẾT NHƯ THẬT đối tượng là Cảm thọ, nó Vô
thường, Vô chủ (Vô ngã), nó có Vị ngọt, có Sự nguy hiểm, có sự xuất ly. Ý
thức CHÁNH TRI KIẾN này biết THỰC TƯỚNG ĐỐI TƯỢNG CẢM THỌ,
LÀ VÔ TƯỚNG nên còn gọi cái biết đó là VÔ TƯỚNG. An trú Ý Thức
CHÁNH TRI KIẾN là an trú giải thoát và được gọi là TUỆ GIẢI THOÁT hay
VÔ TƯỚNG GIẢI THOÁT.

Về mục lục

Bài 091: CHẤP CÓ CHẤP KHÔNG VÀ TRUNG ĐẠO


Trong các bộ kinh Nikaya thường lặp đi lặp lại rất nhiều lần để nhấn mạnh Phật
ngôn sau đây: “Ai với chánh trí tuệ, thấy như chơn các pháp tập khởi thì không
cho rằng các pháp là không có. Ai với chánh trí tuệ, thấy như chơn các pháp
đoạn diệt thì không cho rằng các pháp là có. CHẤP CÓ CHẤP KHÔNG là hai
cực đoan của nhân loại, ly hai cực đoan đó, Như Lai thuyết pháp ở Trung Đạo,
"nghĩa là cái này có do cái kia có, cái này sinh do cái kia sinh, cái này không có
do cái kia không có, cái này diệt do cái kia diệt ..."

CHẤP CÓ và CHẤP KHÔNG là hai cực đoan, là hai kiểu hiểu biết sai, hai kiểu
tà kiến về các pháp của nhân loại. Nhưng để có được hiểu biết đúng như thật
Chấp Có là một Tà kiến, Chấp không là một Tà kiến là điều không dễ đối với
người học Phật nếu khái niệm CHẤP CÓ và CHẤP KHÔNG trong ngữ cảnh
của Phật ngôn trên không được quan sát đúng theo ngữ cảnh một cách thấu đáo
rõ ràng.

1 - HIỂU SAI CHẤP CÓ CHẤP KHÔNG đưa đến mâu thuẫn, nghịch lý:

Nhiều người học Phật khi nghe về CHẤP CÓ CHẤP KHÔNG thì hiểu rằng, tri
thức của nhân loại cho rằng những sự vật, hiện tượng mà thuật ngữ Phật học gọi
là các pháp gồm những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận
thức là THẬT CÓ chính là Tà kiến và gọi đó là CHẤP CÓ. Đương nhiên khi đã
hiểu CHẤP CÓ là như vậy, là một Tà kiến, thì sẽ cho rằng các pháp là KHÔNG
CÓ THẬT, là giả có mà thôi. Và chính hiểu biết mới này, các pháp không có
thật, là giả có, lại chính là CHẤP KHÔNG, cũng là Tà kiến, cũng là hiểu biết
sai, là một cực đoan khác trong tri thức của nhân loại. Như vậy, cho rằng các
pháp thực có là sai, mà cho rằng các pháp không thực có cũng sai, vậy rốt cuộc
các pháp là cái gì, có hay không có? Người học Phật sẽ rơi vào mâu thuẫn,
nghịch lý không thể nào hiểu nổi. Để giải quyết cái THÁCH ĐỐ VĨ ĐẠI đó thì
câu trả lời cho mọi người dễ chấp nhận nhất là "Bất khả tư nghì" (Không thể
suy nghĩ bàn luận được) đối với chúng sanh, chỉ có trí tuệ chư Phật mới thấu
suốt. Vì không hiểu biết đúng như thật khái niệm Chấp Có, Chấp Không mà
Đức Phật đã thuyết giảng nên để giải quyết cái mâu thuẫn, nghịch lý giữa chấp
có chấp không này, mà Phật giáo phát triển đã dày công sáng tác ra rất nhiều bộ
kinh, rất nhiều kiến giải về Tánh Không nhằm giải thích các pháp vượt ra ngoài
Có Không bằng các lý luận hết sức rối rắm, giống như tung hoả mù để người
học cảm thấy bí ẩn, mầu nhiệm. Rằng các pháp vượt ngoài Có Không nghĩa là:
"vừa có vừa không có, không phải có cũng không phải không, không phải
không có cũng không phải không không..." Thực chất đây không phải là cách
thức quan niệm về các pháp mới mẻ do Phật giáo phát triển phát minh ra, mà
chính là sự du nhập cách thức lý luận trườn uốn như lươn của Kỳ Na Giáo, một
giáo phái Duy tâm vô thần phát triển và xiển dương cùng thời với Đức Phật.

2 - THẾ NÀO LÀ CHẤP CÓ:

CHẤP CÓ chính là tư tưởng THƯỜNG KIẾN, chính là tư tưởng DUY VẬT:


Đây là một tư tưởng tà kiến, hiểu biết sai lạc về các pháp của tri thức nhân loại
mà Đức Phật xếp vào một loại hiểu biết cực đoan trong hai cực đoan là DUY
VẬT và DUY TÂM. Quan điểm Duy Vật cho rằng các đối tượng được thấy,
được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là THẾ GIỚI VẬT CHẤT, mà Vật
Chất không được sinh ra, cũng không mất đi mà chỉ biến đổi từ vật này sang vật
khác, từ trạng thái này sang trạng thái khác còn tâm là sản phẩm của tương tác
vật chất mà phát sinh. Vì vậy, VẬT CHẤT CÓ TRƯỚC TÂM THỨC CÓ SAU,
nên không có một thế giới tâm linh không sinh không diệt, không có linh hồn,
không có luân hồi của các linh hồn. Các pháp vận hành theo quy luật Nhân Quả,
với định thức một nhân chính biến đổi thành quả nên "nhân trong quả, quả trong
nhân, nhân quả tương tức, tương nhập, các pháp nương tựa nhau, phụ thuộc vào
nhau mà cùng tồn tại". Vì vậy, các pháp to nhỏ, dài ngắn, vuông tròn, xanh vàng
đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng mềm thô mịn, đàn ông đàn bà, xe cộ, nhà
cửa... tóm lại là thế giới sum la vạn tượng đều là Vật Chất hoặc là Thuộc Tính
Vật Chất. Ví như, cứng mềm thô mịn, nặng nhẹ là tánh chất của vật chất địa đại,
trơn ướt là tính chất của vật chất thuỷ đại, nóng lạnh là tính chất của vật chất
hoả đại, chuyển động, co giãn là tính chất của vật chất phong đại...

Với quan điểm Duy Vật như vậy thì các pháp là SẴN CÓ, LUÔN LUÔN CÓ,
THƯỜNG HẰNG THƯỜNG TRÚ NƠI THẾ GIỚI VẬT CHẤT. Đức Phật gọi
quan điểm Duy Vật này là CHẤP CÓ, đồng nghĩa với THƯỜNG KIẾN. Ví như,
nhân loại cho rằng cây mía ngọt, nghĩa là vị ngọt là vật chất sẵn có, luôn luôn có,
thường hằng, thường trú nơi cây mía. Nếu ép cây mía thì vị ngọt đó sẽ chuyển
sang nước mía, nước mía nấu thành đường thì vị ngọt chuyển vào đường, nếu ủ
đường cho thành dấm thì vị ngọt lại biến đổi thành vị chua... Vị ngọt sẵn có,
không được sinh ra, không bị diệt đi mà chỉ di chuyển từ vật này sang vật khác,
biến đổi từ trạng thái này (ngọt) sang trạng thái khác (chua).

Tương tự như vậy, cứng, nặng sẵn có, thường xuyên có, thường hằng thường trú
trong hòn đá. Ngọt sẵn có nơi đường, mặn nơi muối, ngon dở nơi thức ăn, nóng
nơi lửa, lạnh nơi nước đá, đẹp xấu nơi ngôi nhà... Hạnh phúc sẵn có, luôn luôn
có, thường hằng thường trú trong thế giới vật chất, nơi tiền bạc, sắc đẹp, sức
khoẻ, tiện nghi... Đau khổ sẵn có, luôn luôn có, thường hằng thường trú trong
thế giới vật chất, nơi nghèo đói, bệnh tật, thiên tai, môi trường sống tồi tệ...

Với quan điểm Duy Vật thì VẬT CHẤT CÓ TRƯỚC TÂM THỨC CÓ SAU,
nên đối tượng được biết là vật chất (Sắc) có trước và tâm biết đối tượng đó
(Danh) có sau. Danh biết Sắc hay Tâm biết Cảnh được các tông phái Phật giáo
cả Nam và Bắc tông mặc định và sử dụng trong mọi lý giải của mình. Cụ thể là
Nhãn thức thấy Sắc trần, Nhĩ thức nghe Thanh trần, Tỷ thức cảm nhận Hương
trần, Thiệt thức cảm nhận Vị trần, Thân thức cảm nhận Xúc trần, Ý thức biết
Pháp trần. Các kinh sách đều mô tả Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần phát sinh Sáu
Thức và Sáu Thức đó biết Sáu Trần. Ví như, Mắt tiếp xúc Sắc trần phát sinh
Nhãn thức và Nhãn thức thấy Sắc trần đó, nên Sắc trần là đối tượng được thấy
(Sắc) có trước và Nhãn thức là tâm thấy (Danh) có sau và như vậy Sắc trần
trước khi tiếp xúc với Mắt và sau khi tiếp xúc vẫn là Sắc trần đó, nên đối tượng
được thấy sẵn có, luôn luôn có, không sinh diệt. Đây chính là Thường kiến, là
Chấp Có. Tương tự, khi Lưỡi tiếp xúc với Khúc mía phát sinh Thiệt thức và
Thiệt thức cảm nhận vị ngọt của khúc mía. Và như vậy, Vị ngọt (Vị trần) là đối
tượng được biết (Sắc) có trước, sẵn có, thường hằng thường trú nơi khúc mía,
Thiệt thức là tâm biết (Danh) có sau...

Với quan điểm Duy Vật thì TOÀN THỂ VŨ TRỤ VẬT CHẤT không được
sinh ra, cũng không bị diệt đi nên CÁI TOÀN THỂ đó không sinh không diệt và
mỗi một sự vật chỉ là sự biến đổi từ vật này sang vật khác, từ dạng này sang
dạng khác trong CÁI TOÀN THỂ đó, nên mỗi sự vật chỉ BIẾN MẤT ở chỗ này
và lại TRÌNH HIỆN ở chỗ khác chứ không có sinh ra, không có diệt đi. Vì tư
duy, suy luận theo quan điểm Duy Vật như vậy mà có bộ phái đã tuyên bố: "Các
pháp vốn không sinh. Các pháp vốn không diệt. Nếu thấy được như thế. Chư
Phật thường hiện tiền". Cũng do tư duy theo Duy Vật như vậy mà thấy hoa
trong rác, rác trong hoa, hạnh phúc trong đau khổ, đau khổ trong hạnh phúc, tu
là chuyển hoá khổ đau thành hạnh phúc, một trong tất cả, tất cả trong một theo
nguyên lý trùng trùng duyên khởi, thấy trong một ngọn cỏ có đầy đủ cả tam
thiên đại thiên thế giới...

3 - THẾ NÀO LÀ CHẤP KHÔNG:

CHẤP KHÔNG chính là tư tưởng ĐOẠN KIẾN, chính là tư tưởng DUY TÂM:
Duy Tâm cho rằng Tinh thần có trước Vật chất có sau, mà Tinh thần chính là
một thế giới tâm linh không sinh không diệt với các tên gọi khác nhau (tuỳ theo
các tôn giáo khác nhau) như Thượng Đế, Thiên Chúa, Tạo Hoá, Đại Ngã, Bản
Tâm... mà từ đó phát sinh ra thế giới vật chất con người thấy, nghe, cảm nhận
được. Thuyết minh một cách rõ ràng nhất cho quan điểm Duy Tâm là Thánh
Kinh Cựu Ước mô tả Thiên Chúa là Đấng tâm linh tối cao đã sáng tạo ra thế
giới rồi nặn ra con người từ đất sét và chúa đã thổi linh hồn Chúa vào con người
qua hai lỗ mũi. Nội dung của Cựu ước là có một thế giới tâm linh tuyệt đối bao
trùm vũ trụ gọi là Thiên Chúa chính là Linh Hồn Chúa đã HOÁ HIỆN ra thế
giới vật chất trong đó có con người và trong mỗi con người có một phần Linh
Hồn Chúa được Chúa thổi vào và đó chính là Tâm Biết. Nếu con người khi chết
đi do thực hành các điều răn của Chúa nên Linh Hồn được trở về hoà nhập với
Thiên Chúa thì đó là giải thoát nơi Thiên đường cực lạc. Vì vậy, thế giới vật
chất mà con người thấy, nghe, cảm nhận như to nhỏ, vuông tròn dài ngắn, xanh
vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng mềm thô mịn, nhơ sạch, đàn ông đàn
bà, xe cộ, nhà cửa, sum la vạn tượng đều KHÔNG CÓ THẬT, LÀ GIẢ CÓ do
Thượng đế hoá hiện ra mà thôi. Nếu Thượng đế quyết định làm cho nó biến mất
thì thế giới sẽ biến mất ngay theo ý Chúa, không còn dấu vết. Quan điểm DUY
TÂM này chính là CHẤP KHÔNG hay còn gọi là ĐOẠN KIẾN.

Với quan điểm Duy Tâm, Bà la môn giáo cho rằng có một Đại Ngã hay Đại Linh
Hồn không sinh không diệt bao trùm thấm nhuần khắp vũ trụ và trong mỗi một
chúng sanh có một Tiểu Ngã hay một Tiểu Linh hồn cũng bất tử và Tiểu Linh
Hồn này phải luân hồi mang các thân xác khác nhau qua từng kiếp sống. Khi nào
đến một kiếp sống mà Tiểu Linh Hồn thoát ra, không còn bị giam hãm trong thân
xác và hoà nhập vào Đại Linh Hồn thì lúc đó là Niết bàn, Giải thoát. Các tôn giáo
và các tín ngưỡng Duy Tâm tuy có khác nhau về tên gọi và một vài chi tiết nhưng
quan điểm cơ bản là giống nhau, đều quan niệm có THẾ GIỚI TÂM LINH và
LINH HỒN KHÔNG SINH KHÔNG DIỆT tồn tại khách quan làm nền tảng và
từ đó HOÁ HIỆN ra thế giới vật chất được thấy, được nghe, được cảm nhận.
Hạnh phúc và Khổ đau mà con người cảm nhận chính là do Thượng đế mang đến
thưởng phạt con người hay như tín ngưỡng dân gian là do linh hồn ông bà tổ tiên
đã quá vãng đang sống trong thế giới tâm linh thưởng phạt con cháu. Có tông
phái Phật giáo chủ trương có Phật tánh thanh tịnh bao trùm, thấm nhuần khắp vũ
trụ (Biển tánh thanh tịnh) và trong một chúng sanh cũng có cái Phật tánh là do
tiếp thu tư tưởng Đại Ngã và Tiểu Ngã của Bà la môn giáo hình thành nên.
Với quan điểm Duy Tâm, Tinh thần có trước Vật chất có sau thì TÂM BIẾT CÓ
TRƯỚC, ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC BIẾT CÓ SAU. Tâm biết chính là Thượng đế, là
Linh hồn bất sanh bất diệt là cái có trước rồi từ đó hoá hiện ra thế giới vật chất là
cái có sau, nên Tâm biết có trước, đối tượng được biết có sau. Vì vậy, một số
tông phái Phật giáo chủ trương có TÁNH BIẾT không sinh không diệt, PHẬT
TÁNH không sanh không diệt, có cái HẰNG THẤY, HẰNG NGHE không sinh
không diệt, BẢN LAI DIỆN MỤC, BẢN TÂM THANH TỊNH... thuộc về Thế
giới tâm linh không sinh diệt, đương nhiên là VÔ TƯỚNG MỚI CHÂN THẬT,
còn thế giới vật chất mà con người thấy, nghe, cảm nhận được hoá hiện ra, là
HỮU TƯỚNG, VÔ THƯỜNG SANH DIỆT HƯ VỌNG nên nó là giả huyễn,
không thật có, giả có mà thôi (Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng). Các quan
điểm: trần gian là giả tạm huyễn hoá; Nhất thiết duy tâm tạo (tất cả các pháp do
tâm tạo ra), Tam giới duy tâm vạn pháp duy thức... đều là tư tưởng Duy Tâm, và
đều là Chấp Không hay Đoạn Kiến.

Với chủ yếu quan điểm Duy Tâm pha trộn một ít quan điểm Duy Vật, Phật giáo
phát triển có quan niệm Chân Không Diệu Hữu cho rằng, có hai thế giới gồm:
Thế giới BẢN THẾ và Thế giới HIỆN TƯỢNG. Thế giới Bản Thể là Chân lý
tuyệt đối không sinh không diệt còn gọi là Chân Đế, là Tánh Không hay Chân
Không, không hình không tướng (Vô Tướng) vượt ngoài thấy biết của Phàm
phu, trong đó không có sắc thọ tưởng hành thức, không có mắt tai mũi lưỡi thân
ý, không có sắc thanh hương vị xúc pháp, không có nhãn giới cho đến ý thức
giới, không có Vô minh cũng như minh, không có khổ tập diệt đạo... như Tâm
Kinh Bát Nhã đã mô tả. Thế giới HIỆN TƯỢNG là thế giới vật chất mà chúng
sanh thấy, nghe, cảm nhận, vận hành theo định luật nhân quả, nó vô thường sinh
diệt, còn gọi là Thế giới Tục Đế, có sắc thọ tưởng hành thức, có mắt tai mũi lưỡi
thân ý, có sắc thanh hương vị xúc pháp... Thế giới BẢN THỂ TUYỆT ĐỐI
KHÔNG SANH DIỆT, CHÂN ĐẾ là nền tảng lưu xuất, biểu hiện ra Thế giới
HÌNH TƯỚNG TƯƠNG ĐỐI SANH DIỆT, TỤC ĐẾ nhưng cả hai không rời
nhau, hình dung như Nước là Bản Thể, Sóng là Hiện Tượng, Sóng và Nước
không rời nhau. Vì vậy mà KHÔNG (Bản Thể) chẳng khác SẮC (Hiện Tượng),
SẮC (Hiện Tượng) chẳng khác KHÔNG (Bản Thể). KHÔNG (Bản Thể) chính
là SẮC (Hiện Tượng), SẮC (Hiện Tượng) chính là KHÔNG (Bản Thể). Thọ
Tưởng Hành Thức cũng đều như vậy, nghĩa là THỌ TƯỞNG HÀNH THỨC
(Hiện Tượng) chẳng khác KHÔNG (Bản Thể)... Quan niệm về Thế giới Bản
Thể và Thế giới Hiện tượng như vậy là cách trình bày rất thông thái, thâm thuý,
vi diệu nhưng nội dung thì y chang Thánh Kinh Cựu Ước trong đó Thế giới Bản
Thể tuyệt đối không sinh diệt chính là Thượng Đế Toàn Năng còn Thế giới hiện
tượng tương đối sinh diệt chính là vũ trụ do Thượng Đế Toàn Năng hoá hiện ra.
Học thuyết Tam Thân cũng như vậy, trong đó Pháp thân là Bản Thể không sinh
diệt, vô tướng còn Hoá thân và Ứng thân là Hiện Tượng hữu tướng, vô thường
sinh diệt.

4 - TRUNG ĐẠO DUYÊN KHỞI:

Trong lịch sử loài người từ cổ chí kim, có một con người độc nhất vô nhị,
không thầy chỉ dạy đã xếp hai quan điểm Duy Vật và Duy Tâm vào hai cực
đoan, tức hai loại tà kiến, hai loại hiểu biết sai lạc về các pháp. Vì sao vậy? Vì
Ngài đã THẤY BIẾT NHƯ THẬT thế giới các pháp mà con người thấy, nghe,
cảm nhận, nhận thức không phải là thế giới vật chất sắc thanh hương vị xúc
pháp, tồn tại khách quan đối với con người như Duy Vật, cũng không phải là
một thế giới huyễn hoá do Tâm tuyệt đối hoá hiện ra như Duy Tâm, mà nó là
thế giới CẢM GIÁC (hay CẢM THỌ) do Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần phát sinh
ra, nó vô thường, vô chủ vô sở hữu (vô ngã) như lời tuyên bố của Ngài trong
kinh Phạm Võng thuộc Trường Bộ Kinh: "Này các Tỷ kheo, Như Lai nhờ như
thật tuệ tri sự sinh diệt của thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của thọ mà
Như Lai được giải thoát hoàn toàn không còn chấp thủ". Hãy quan sát sự thật
để hiểu rõ vấn đề này. Ví như, Duy Vật cho rằng vị ngọt là tính chất vật chất
của cây mía, vị ngọt sẵn có, luôn luôn có, thường hằng thường trú nơi cây mía
(chấp có, thường kiến) còn một người khi đau bệnh nhiều ngày cũng ăn khúc
mía đó nhưng cảm thấy đắng thì sẽ tư duy theo quan điểm Duy Tâm, vị ngọt
không có thật nơi cây mía, mà chỉ là do Tâm tạo ra mà thôi (chấp không, đoạn
kiến). Khi quan sát sự thật thấy Lưỡi là một nhân tố, Khúc mía là nhân tố thứ
hai. Khi hai nhân (tố) này chưa tiếp xúc với nhau thì chưa có vị ngọt nào được
cảm nhận cả. Khi Lưỡi tiếp xúc Khúc mía thì lập tức phát sinh CẢM GIÁC
ngọt (hoặc đắng) và đồng thời phát sinh Tâm biết trực tiếp (Thiệt thức) cảm
nhận (hay ghi nhận) đối tượng CẢM GIÁC ngọt (hoặc đắng) đó. Đây mới là VỊ
NGỌT THỰC của đời sống thực tại hàng ngày và nó là CẢM GIÁC (CẢM
THỌ) thuộc phạm trù tâm chứ không phải là vật chất. Xúc sinh (Lưỡi và Khúc
mía) thì Cảm giác ngọt và Thiệt thức sinh, Xúc diệt thì Cảm giác ngọt và Thiệt
thức diệt nên Cảm giác ngọt và Thiệt thức đều sinh diệt, vô thường. Đối tượng
được Tâm biết Thiệt thức cảm nhận hay ghi nhận là CẢM GIÁC NGỌT chứ
không phải là VỊ NGỌT CỦA CÂY MÍA. Với sự thật này, đối tượng được cảm
nhận, được ghi nhận là CẢM GIÁC thuộc phàm trù tâm, nó sinh lên rồi diệt, nó
vô thường, nó không phải là vật chất, nó không sẵn có, không luôn luôn có,
không thường hằng, không thường trú nơi cây mía. Thấy biết sự thật như vậy
thì chấm dứt tà kiến Chấp Có - Thường Kiến. Với sự thật này cũng thấy biết sự
thật đối tượng được cảm nhận là CẢM GIÁC là thật có, nên Thánh Phàm đều
cảm nhận được, tuy nó thuộc phạm trù tâm nhưng KHÔNG PHẢI DO TÂM
TẠO, mà nó do Căn Trần tiếp xúc (tương tác) mà phát sinh. Thấy biết sự thật
như vậy thì chấm dứt tà kiến Chấp Không - Đoạn Kiến.

Tương tự như vậy, Mắt tiếp xúc Sắc phát sinh đồng thời Cảm giác hình ảnh và
Nhãn thức, Tai với Tiếng phát sinh đồng thời Cảm giác âm thanh và Nhĩ thức,
Mũi với Hương phát sinh đồng thời Cảm giác mùi và Tỷ thức, Lưỡi với Vị phát
sinh đồng thời Cảm giác vị và Thiệt thức, Thân với Xúc trần phát sinh đồng thời
Cảm giác xúc chạm và Thân thức, Ý với Pháp phát sinh đồng thời Cảm giác
pháp trần và Tưởng thức. Và sáu thức gồm Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt
thức, Thân thức, Tưởng thức thấy, nghe, cảm nhận Sáu Cảm giác hay Sáu Cảm
thọ tương ứng chứ không phải Sáu Thức đó thấy, nghe, cảm nhận thế giới vật
chất Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần. Quan sát sự thật này cũng đưa đến
thấy biết như thật: TÂM BIẾT và ĐỐI TƯỢNG được biết PHÁT SINH CÙNG
MỘT LÚC, đồng sinh đồng diệt, không trước không sau, không phải như Duy
Vật, Đối tượng có trước, Tâm biết có sau hay như Duy Tâm, Tâm biết có trước,
Đối tượng có sau. Và một sự thật nữa cũng cần nhấn mạnh là Cái biết là Tâm và
Đối tượng được biết cũng là Tâm nên là TÂM BIẾT TÂM chứ không phải
TÂM BIẾT CẢNH như hiểu biết vô minh của nhân loại. Với sự thật này thì các
sự vật, hiện tượng (các pháp) mà con người thấy, nghe, cảm nhận có tên gọi như
to nhỏ, vuông tròn dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng mềm
thô mịn, đàn ông đàn bà, nhà cửa xe cộ, hạnh phúc, khổ đau, sum la vạn tượng...
là CÁC CẢM GIÁC (CẢM THỌ), không sẵn có, không luôn luôn có, không
thường hằng, không thường trú ở đâu cả, nó chỉ xuất hiện khi Căn Trần tiếp xúc
nhau rồi lại diệt đi liền. Muốn giải thoát không còn chấp thủ thì không những
phải tuệ tri các đối tượng thực tại là Cảm giác (Cảm thọ) do Căn Trần tiếp xúc
mà phát sinh, nó vô thường, vô chủ (vô ngã) mà còn phải tuệ tri vị ngọt, sự
nguy hiểm và sự xuất ly của nó.

Về mục lục
Bài 092: CHẤP CÓ CHẤP KHÔNG VỀ HẠNH PHÚC

Nhân loại này, dù già trẻ gái trai giàu nghèo ngu trí, dù thuộc dân tộc, tôn giáo
nào, hễ khi có Hạnh phúc thì ai ai cũng cảm nhận được Hạnh phúc, không cần
ai dạy bảo, không cần học hỏi. Nhưng đa phần nhân loại KHÔNG HIỂU BIẾT
ĐÚNG SỰ THẬT HẠNH PHÚC, như Kinh Pháp Môn Căn Bản nói là KHÔNG
LIỄU TRI HẠNH PHÚC, nên đã Mặc định rằng, có được Hạnh phúc thì chấm
dứt được Khổ, như ánh sáng xuất hiện thì bóng tối biến mất. Chính vì hiểu biết
không đúng sự thật đó, nên tham ái, tìm cầu Hạnh phúc chỗ này chỗ kia như
Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái để Chấm dứt Khổ, nhưng kết quả là chỉ đổi cái khổ
này lấy cái khổ khác mà thôi. Hiểu biết sai lạc, vô minh về Hạnh phúc của nhân
loại được chia làm hai loại:

- Một là hạnh phúc sẵn có, luôn luôn có, thường hằng, thường trú trong thế giới
vật chất ngoại cảnh, như Hạnh phúc có trong Sắc đẹp, Tiếng hay, Hương thơm,
Vị ngon, Xúc chạm êm ái. Hạnh phúc có trong tiền bạc, xe cộ, đất đai, nhà cửa,
sắc đẹp, sự sống, khoẻ mạnh, danh tiếng, sự thành đạt... Đây là quan điểm Duy
vật, còn gọi là Thường Kiến hay CHẤP CÓ. Chính vì tư tưởng tà kiến CHẤP
CÓ như vậy nên nhân loại lao tâm khổ trí, cố gắng học hành, trau dồi nghề
nghiệp, sản xuất buôn bán, nỗ lực cố gắng để kiếm tìm hạnh phúc trong thế giới
vật chất ngoại cảnh.

- Hai là Hạnh phúc là phần thưởng từ các đấng thần linh, từ Chúa, từ Phật, từ
Bồ Tát, từ tổ tiên đã quá vãng mang đến cho con cháu, từ thế giới tâm linh mà
đến với con người. Đây là quan điểm Duy tâm còn gọi là Đoạn kiến hay CHẤP
KHÔNG. Chính vì tư tưởng tà kiến CHẤP KHÔNG như vậy mà nhân loại thờ
cúng đủ loại thần linh, xây dựng bảo tháp nguy nga, mộ phần đồ sộ, cúng tế, lễ
bái cầu nguyện thường xuyên, dâng sao giải hạn định kỳ... hầu mong mỏi
phước báo từ thế giới tâm linh được ban phát đến mình.
Đa phần người tu học Phật giáo cũng đang CHẤP CÓ và CHẤP KHÔNG về
Hạnh phúc như vậy, nên đa phần các giảng sư đang thuyết giảng để tìm cầu
hạnh phúc. Có thể là từ bỏ hạnh phúc vật chất giả tạm, nhưng tìm kiếm để tận
hưởng hạnh phúc tinh thần chân thật thanh cao. Nhiều diễn giả nổi tiếng khuyên
bảo hãy từ bỏ truy tìm hạnh phúc trong quá khứ và tương lai mà hãy khám phá
và tận hưởng hạnh phúc trong giây phút hiện tại của thế giới thực tại mầu nhiệm
này. Vì mải mê với quá khứ và tương lai nên con người không thể tiếp xúc
được với thế giới thực tại mầu nhiệm, tràn đầy hạnh phúc với trời xanh, mây
trắng, gió hát thông reo, tình yêu thiên nhiên cây cỏ, tình cảm thiêng liêng giữa
cha mẹ, vợ chồng, con cái... đó chính là CHẤP CÓ. Một số khác thì hàng ngày
siêng năng lễ bái, tụng kinh với mong ước phước báo cháy bỏng, cầu xin tam
bảo, chư thiên, Phật, Bồ Tát gia hộ, ngăn ngừa mọi tai ương, mọi mộng mị bất
thường, mọi nghịch duyên trở ngại, thảy đều mau tan biến. Một số thì siêng
nặng tụng niệm, siêng năng hành thiền với ước nguyện đắc được thần thông để
thâm nhập thế giới tâm linh, sau khi chết được về Tây phương cực lạc, được
tâm thanh tịnh để nhập Niết bàn với hạnh phúc tuyệt đối... đó chính là CHẤP
KHÔNG.

Người trí với Văn tuệ, với Tư tuệ, với Tu tuệ THẤY BIẾT NHƯ THẬT Hạnh
phúc là CẢM THỌ (CẢM GIÁC) mà cụ thể là LẠC THỌ do CĂN TRẦN tiếp
xúc mà phát sinh, nó VÔ THƯỜNG, VÔ CHỦ VÔ SỞ HỮU, NÓ CÓ VỊ
NGỌT, CÓ SỰ NGUY HIỂM VÀ CÓ SỰ XUẤT LY. Chính hiểu biết đúng sự
thật về Hạnh phúc làm cho người trí không khao khát, mong mỏi tìm cầu Hạnh
phúc, không còn đuổi bắt Hạnh phúc. Người trí đoạn tận ba ái gồm Dục ái, Hữu
ái, Phi Hữu ái là Nguyên nhân phát sinh mọi nỗi khổ trên đời. Đây chính là điều
mà Đức Thế Tôn đã giác ngộ và Ngài đã tuyên bố trong kinh Phạm Võng thuộc
Trường Bộ Kinh: "Này các Tỷ kheo, Như Lai nhờ như thật tuệ tri sự sinh diệt
của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ, mà Như Lai được giải
thoát hoàn toàn không có chấp thủ".

Về mục lục

Bài 093 : KHOAN VỘI TIN CŨNG KHOAN VỘI BÁC BỎ

Đây là tinh thần mà Đức Phật khuyên nhủ hàng đệ tử, phải cẩn trọng khi nghe
giảng, đọc và nghiên cứu kinh điển. Trong rừng kinh điển của các tông phái
hiện nay, tìm cho ra Giáo Pháp mà Đức Thế Tôn đã khéo léo thuyết giảng, Giáo
Pháp thật, là một gian nan đối với người tu học. Nếu không thông minh, không
khéo léo, không cẩn trọng thì có thể bỏ qua Giáo Pháp thật của Đức Phật và
chấp nhận những điều có vẻ tương tự hoặc trái ngược với Giáo Pháp thật, do
người đời sau kết tập hoặc sáng tác ra. Tuy các bộ kinh Nikaya được xem là
gần với Nguyên Thuỷ nhất nhưng trong đó cũng có rất nhiều tư tưởng, nhiều
bài kinh của người đời sau kết tập, sáng tác theo hiểu biết của họ. Trong số đó
có những bài kinh được hiểu theo nghĩa đen, có bài phải hiểu theo nghĩa bóng,
có bài phù hợp với lời dạy của Phật, có bài lại sai lạc, mâu thuẫn với lời dạy của
Phật. Hãy lấy bài kinh “Tiểu Kinh Đoạn Tận Ái” trong Trung Bộ Kinh để làm
ví dụ. Bài kinh này gồm hai phần. Phần đầu mô tả thiên chủ Đế Thích, vị vua
cai quản cõi trời tam thập tam thiên (33) đến xin Thế Tôn giảng nói cho mình
một cách tóm tắt về “Ái tận giải thoát”. Thế Tôn nói như sau: “Thật không
xứng đáng nếu thiên vị tất cả pháp. Sau khi nghe thật không xứng đáng nếu
thiên vị tất cả pháp, vị ấy học hỏi để biết rõ tất cả pháp. Sau khi biết rõ tất cả
pháp, vị ấy học hỏi để biết rốt ráo tất cả pháp. Do biết rốt ráo tất cả pháp nên
bất kỳ một Cảm thọ nào khởi lên, Lạc thọ, Khổ thọ, Bất khổ bất lạc thọ, vị ấy
sống quán tánh vô thường, quán tánh ly tham, quán tánh đoạn diệt, quán tánh xả
ly nơi Cảm thọ đó. Do sống quán tánh vô thường, quán tánh ly tham, quán tánh
đoạn diệt, quán tánh xả ly nơi các cảm thọ, nên không chấp trước bất kỳ cái gì
trên đời; do không chấp trước nên không phiền não, vị ấy chứng đạt Niết bàn,
vị ấy biết sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không
còn trở lại thế gian này nữa.” Phần hai bản kinh mô tả, lúc đó tôn giả Mục Kiền
Liên chứng kiến câu chuyện, liền khởi lên tư tưởng, phải kiểm tra xem thiên
chủ Đế Thích thọ trì lời dạy của Thế Tôn như thế nào, nên trong nháy mắt, tôn
giả dùng thần thông liền có mặt tại cõi trời 33 và bắt gặp thiên chủ đang nghe
nhạc với dàn nhạc có 500 nhạc công và 500 nhạc khí. Thiên chủ Đế Thích
ngưng cuộc vui, đón tiếp tôn giả và tôn giả Mục Kiền Liên liền hỏi: “Thật tốt
lành thay cho chúng tôi, nếu thiên chủ tường thuật lại một phần lời dạy tóm tắt
về Ái tận giải thoát của Đức Thế Tôn”. Thiên chủ Đế Thích từ chối bằng một
câu trả lời khéo léo: “Lời dạy của Đức Thế Tôn được khéo thọ trì không thể dễ
quên được nhưng nay chúng tôi đang bận rất nhiều công việc, đó là việc riêng
của chúng tôi, và việc của cõi trời tam thập tam thiên”. Và nhân đó Thiên chủ
Đế Thích dẫn Mục Kiền Liên đi thăm toà lâu đài vừa xây xong với 700 căn
phòng, mỗi căn phòng có một tiên nữ và mỗi tiên nữ có 7 tiên đồng hầu cận; tất
cả đều là vợ của thiên chủ Đế thích. Mục Kiền Liên thấy vậy liền khởi lên tư
tưởng, thiên chủ này phóng dật quá đáng và tôn giả liền dí ngón cái chân phải
xuống đất, vận thần thông lực, làm cho cõi trời 33 rung lắc mạnh, chao động
mạnh, làm cho chư thiên cõi trời 33 và thiên chủ Đế thích sợ hãi lông tóc dựng
ngược. Lúc đó Mục Kiền Liên lại hỏi: thật tốt lành thay cho chúng tôi nếu thiên
chủ nhắc lại một phần lời dạy tóm tắt về Ái tận giải thoát của Đức Thế Tôn. Chỉ
đến lúc đó thiên chủ Đế Thích mới chịu tường thuật lại một cách trôi chảy và
đầy đủ lời dạy tóm tắt về Ái tận giải thoát mà Đức Thế Tôn đã thuyết giảng.

Phần một là lời dạy tóm tắt những gì mà Ngài đã thuyết giảng trong 45 năm với
chỉ 5 câu, bao gồm Pháp học là 3 câu đầu, Pháp hành là câu thứ 4 và Pháp thành
là câu thứ 5. Đương nhiên để hiểu được điều này, đòi hỏi người đọc phải là một
người am hiểu tường tận về Giáo Pháp, phải có sự thực hành tinh tấn, phải là
người có được thân chứng Giáo Pháp ở mức độ tương đối, mới có thể tư duy,
suy luận về 5 câu này và hiểu ra ý nghĩa sâu kín mà bài kinh nhắm đến. Vì vậy,
người sơ cơ, mới tìm hiểu Giáo Pháp thì không thể hiểu được ý nghĩa của phần
này nên bài kinh không thể dùng cho người bước đầu tìm hiểu Giáo Pháp. Bài
viết này không phân tích sâu về phần một mà sẽ bàn về phần hai để làm rõ tựa
đề của bài viết. Khi đọc và suy ngẫm phần hai hãy lưu ý:

- KHOAN VỘI TIN: Nếu đọc kỹ và sau khi so sánh câu với câu, chữ với chữ
sẽ thấy, nếu theo nghĩa đen thì có mâu thuẫn với sự thật và do vậy không thể
chấp nhận đoạn kinh này theo nghĩa đen. Đó là tôn giả Mục Kiền Liên được
biết đến là một vị A La Hán đã giải thoát, không còn ràng buộc với bất cứ điều
gì kể cả việc hoằng pháp độ sinh, nên việc tôn giả khởi lên tư tưởng kiểm tra
xem thiên chủ Đế thích thọ trì lời dạy của Đức Thế Tôn như thế nào và việc tôn
giả vận thần thông lực làm cho chư thiên và thiên chủ Đế Thích sợ hãi, lông tóc
dựng ngược là điều không có thực, không thể xảy ra. Tại vì, một vị A La Hán
không thể còn ràng buộc, không thể còn đe dọa, không thể còn làm cho chúng
sinh sợ hãi. Vậy thì đoạn kinh đó không thể chấp nhận theo nghĩa đen và phải
bác bỏ nghĩa đen của đoạn kinh đó.

- KHOAN VỘI BÁC BỎ: Nghĩa là hãy tư duy để nghĩ xem, đoạn kinh không
được hiểu theo nghĩa đen, thì nghĩa bóng của đoạn kinh này là gì, và nhờ vậy
lúc đó sẽ thấy ra cái nút thắt của đoạn kinh. Đó là, tại sao khi thiên chủ Đế
Thích đang nghe nhạc và xem toà lâu đài với 700 bà vợ thì không chịu trả lời
câu hỏi nhưng khi đã sợ hãi lông tóc dựng ngược thì trả lời mạch lạc đầy đủ?
Nghĩa bóng, nghĩa ẩn dụ mà bài kinh hướng người đọc tìm hiểu nằm ở nút thắt
này và nó gồm 2 ý chính nhằm ám chỉ các sự thật thực tại đang xảy ra:

a - Một là: Khi một người đang say mê hưởng thụ Dục lạc, ví như thiên chủ Đế
Thích đang say mê thưởng thức âm nhạc và đàn bà (hạnh phúc tinh thần và
hạnh phúc vật chất) thì người đó không thể nào tìm cầu để nghe Giáo Pháp, mà
dù có nghe cũng không nhớ và hành trì được. Chỉ khi nào thất bại, khốn khổ họ
mới có thể tìm đến Giáo Pháp. Sự thật thực tại đang xảy ra là những người
đang say mê vào sự giàu có, thành đạt, danh tiếng của mình và bị cuốn hút vào
đó để đạt được đỉnh cao hơn nữa thì họ sẽ tự cao vào khả năng của họ và họ sẽ
chẳng đến chùa để tìm hiểu, để thực hành Giáo Pháp. Chỉ khi họ thất bại, phá
sản, bệnh tật, gia đình lục đục... họ mới quáng quàng tìm đến chùa chiền, đền
miếu để van vái cầu xin. Và điều này cũng ngụ ý rằng Giáo Pháp mà Đức Thế
Tôn đã khéo giảng chỉ thích hợp với những người từng trải, đã trải nghiệm sâu
sắc những nỗi khổ của cuộc đời không phụ thuộc giàu nghèo, còn những người
còn quá trẻ, chưa trải nghiệm sâu sắc, còn nhiều ảo tưởng về hạnh phúc, về Dục
lạc của cuộc đời thì khó mà lĩnh hội Giáo Pháp.

b - Hai là: Trong bốn sự thật mà bậc Thánh đã giác ngộ gồm Khổ Đế, Tập Đế,
Diệt Đế và Đạo Đế thì mục đích của việc tu học là Chánh Trí, là Diệt Đế, là
Niết bàn nhưng Khổ Đế lại là nền tảng đầu tiên phải giác ngộ. Nếu không giác
ngộ được Khổ Đế là căn bản đầu tiên thì mãi mãi không thể giác ngộ được Diệt
Đế. Sự giác ngộ Khổ Đế không phải là thấy khổ, cảm nhận được khổ, vì thấy
khổ, cảm nhận khổ thì Thánh Phàm đều như nhau còn giác ngộ Khổ Đế của bậc
Thánh là HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT KHỔ, còn Phàm phu thì HIỂU BIẾT
SAI SỰ THẬT KHỔ. Người trí sẽ là người khi có được hiểu biết đúng sự thật
Khổ thì đối với thế gian, đối với luân hồi sinh tử sẽ “lông tóc dựng ngược”.

Chắc hẳn bài kinh này không phải của Đức Phật thuyết giảng nhưng cái nghĩa
bóng, nghĩa ẩn dụ của bài kinh thì phù hợp với Giáo Pháp mà Đức Phật đã
thuyết giảng và người trí sẽ chấp nhận. Đương nhiên bài kinh không nhắm đến
đối tượng là người sơ cơ, người mới tìm hiểu Giáo Pháp mà dành cho người trí,
sau khi họ đã thẩm thấu Giáo Pháp bởi Văn Tư Tu thì bài kinh giúp họ suy tư
tìm ra nghĩa ẩn dụ để củng cố, làm sâu sắc hơn sự thẩm thấu Giáo Pháp của
mình. Nếu không phải người trí thì với Đức tin tôn giáo, người đọc tin vào tất
cả những gì có trong kinh điển đều là do Phật thuyết và họ sẽ “bẻ cong sự thật
thực tại” cho phù hợp với “kinh điển”, cho phù hợp với Đức tin tôn giáo đã
được nhồi sọ và họ sẽ không lĩnh hội được Giáo Pháp mà Đức Thế Tôn đã khéo
léo thuyết giảng.

Về mục lục

Bài 094: HAI LOẠI ĐẠO PHẬT

Đạo Phật thật do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng là Đạo Phật Xuất Thế
mà đích đến cho mỗi một cá nhân là chấm dứt sinh tử luân hồi, THOÁT KHỎI
THẾ GIAN vui ít, khổ nhiều, não nhiều mà nguy hiểm lại càng nhiều hơn. Đạo
Phật tôn giáo hình thành về sau là Đạo Phật Nhập Thế, nhắm đến thay đổi Thế
gian, nhắm đến làm đẹp cho cuộc đời thế gian. Đó là ảo tưởng vì BẢN CHẤT
THẾ GIAN LÀ VUI ÍT KHỔ NHIỀU, NÃO NHIỀU MÀ NGUY HIỂM LẠI
CÀNG NHIỀU HƠN, nhưng không có một ai, một cái gì là Chủ nhân, chủ sở
hữu, điều khiển được nó (Vô Ngã), nên không ai thay đổi được BẢN CHẤT ĐÓ
của Thế gian. Về Đạo Phật thật, Đạo Phật Xuất Thế, Đức Phật đã tuyên bố:
"Trong TẤM THÂN dài độ thước mấy này cùng với TƯỞNG VÀ THỨC, Ta
tuyên bố có Thế Gian, Nguồn Gốc Thế Gian, Sự Chấm Dứt Thế Gian và Con
Đường Chấm Dứt Thế Gian". Nghĩa là trong tấm thân dài độ thước mấy này
cùng với Tưởng và Thức của Phàm phu có Thế Gian và Nguồn gốc Thế Gian
đồng nghĩa với Khổ Đế và Tập Đế. Trong tấm thân dài độ thước mấy này cùng
với Tưởng và Thức của Bậc Thánh có Sự Chấm Dứt Thế Gian và Con Đường
Chấm Dứt Thế Gian, đồng nghĩa với Diệt Đế và Đạo Đế.

Đạo Phật Nhập Thế là Đạo Phật tôn giáo như mọi tôn giáo khác, là một nhu cầu
không thể thiếu của đời sống nhân loại, xoa dịu nỗi đau của đời sống nhân loại
nhưng chỉ là liều thuốc GIẢM ĐAU, không phải là liều thuốc chữa lành căn
bệnh khổ. Đạo Phật thật, Đạo Phật Xuất Thế mới cung cấp liều thuốc CHỮA
LÀNH căn bệnh khổ. Có Chánh Kiến tức hiểu biết đúng như thật, phân biệt
minh bạch hai loại Đạo Phật Xuất Thế và Nhập Thế cũng là Trạch Pháp Giác
Chi.

Về mục lục

Bài 095: ĐẠO PHẬT THẬT CHỈ DÀNH CHO NGƯỜI TRÍ

Một ngộ nhận của đa số người học Phật là Đạo Phật cứu khổ được muôn loài, là
Đạo dành cho tất cả nhân loại, tất cả chúng sanh. Điều ngộ nhận này trái với
Đạo Phật thật, trái với Giáo Pháp mà Đức Thế Tôn đã khéo léo thuyết giảng
gồm 5 tính chất là: Thiết thực hiện tại; Đến để mà thấy; Không bị chi phối bởi
thời gian; Có tính hướng thượng và Cho Người Trí Tự Mình Giác Ngộ. Đạo
Phật thật do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng là CHO NGƯỜI TRÍ chứ
không phải cho mọi hạng người như ngộ nhận của đa số. Mà người trí thì như
trong Kinh điển có đề cập đến là người trí so với nhân loại thì giống như vàng
bạc so với đất đá trên quả đất này, hết sức ít ỏi. Điều này đã được Kinh điển lưu
lại sự băn khoăn của Đức Phật bởi lời tự thán của Ngài: “Pháp mà Ta chứng
được khó thấy, khó chứng, sâu kín, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt qua mọi tư duy lý
luận suông, tế nhị, chỉ có người trí mới có khả năng giác hiểu. Còn quần chúng
này thì ham mê ái dục, bị ái dục chi phối, nên Lý Duyên Khởi là một điều rất
khó lãnh hội và Niết Bàn (Khổ Diệt), sự từ bỏ mọi khát ái, sự xả ly mọi khát ái,
sự đoạn tận mọi khát ái cũng là một điều rất khó lãnh hội. Nếu Ta thuyết giảng
pháp này mà quần chúng không hiểu thì thật là mệt nhọc cho Ta”. Do băn
khoăn như vậy nên Ngài đã thụ động với sự khai giảng Giáo Pháp nhưng sau do
Ngài thấy rõ có một số ít chúng sinh “có ít bụi trong mắt” có thể hiểu được Giáo
Pháp nên Ngài đã quyết định thuyết giảng Giáo Pháp cho hạng người này.

Có một Đạo Phật mang tính tôn giáo, phát sinh và phát triển sau khi Đức Thế
Tôn nhập diệt, đáp ứng nhu cầu tôn giáo của nhân loại thì dành cho tất cả mọi
người. Đạo Phật tôn giáo cũng dựa vào Giáo Pháp của Đức Phật thuyết giảng
nhưng được hiểu theo cách của nhân loại, được diễn dịch, được giải thích phù
hợp với hiểu biết của nhân loại. Nó đáp ứng khát vọng của loài người là Chấp
Ngã và Tham Ái một cách kín đáo, vi tế và khôn ngoan nên đã phát triển rực rỡ
tại Ấn Độ (nơi đã sản sinh ra Đạo Phật thật) trong một thời gian dài cho đến thế
kỷ 11 sau Tây lịch và lan rộng thành một tôn giáo lớn trên thế giới. Ngược lại
Đạo Phật thật, gọi là Phật Giáo Nguyên Thuỷ không tồn tại quá 300 năm trên
đất nước Ấn Độ. Khi Phật Giáo Nguyên Thuỷ biến mất tại Ấn Độ thì một chi
phái của Phật Giáo Thượng Toạ Bộ (Therevada) đã được truyền đến Tích Lan
và truyền thừa ở phương nam cho đến ngày nay. Tuy Phật Giáo Therevada mà
thực chất là Phật Giáo Thượng Toạ Bộ, không phải là Phật Giáo Nguyên Thuỷ,
nhưng là tông phái GẦN VỚI NGUYÊN THUỶ nhất, đã cố gắng bảo thủ về
Giáo Pháp, Giới Luật cũng như mọi cách thức sinh hoạt của Tăng đoàn từ thời
Phật còn tại thế nhưng cũng không thể không chịu tác động của yếu tố tôn giáo.
Và vì vậy, như cố Hoà thượng Minh Châu khi nghiên cứu, phiên dịch so sánh
Kinh điển, Giới luật của các bộ phái Phật Giáo đã kết luận: Thượng tọa bộ tuy
rất bảo thủ về Pháp và Luật nhưng cũng phải “nhi tiến” về phía tôn giáo. Trong
Đạo Phật tôn giáo dù là tông phái nào cũng đã biến đổi Đức Phật thật thành
Đức Phật tôn giáo không nhiều thì ít có tính chất thần thánh siêu hình, thần
thông phép lạ, hào quang sáng chói để gây dựng đức tin tôn giáo cho tín đồ về
một vị giáo chủ phải sáng chói hơn các đạo khác. Nếu không biến đổi Đức Phật
lịch sử thành Đức Phật tôn giáo với thần thông phép lạ, không biến đổi Giáo
Pháp cao siêu chỉ người trí mới có khả năng lĩnh hội cho phù hợp với vô minh
và tham ái của con người thì Đạo Phật tôn giáo sẽ không ra đời và không tồn tại
được. Đạo Phật tôn giáo cũng như mọi tôn giáo khác trên thế giới căn bản dựa
vào đức tin, đến để mà tin thậm chí là tin vào những tín điều rất ngây thơ và ấu
trĩ đã được nhồi sọ chứ không phải đến để mà thấy, để giác ngộ chân lý, để
khám phá sự thật thực tại như Đạo Phật thật. Đạo Phật tôn giáo cũng như mọi
tôn giáo khác có tác dụng xoa dịu nỗi khổ của con người tuy nhanh chóng và
hữu hiệu nhưng chỉ là liều thuốc giảm đau chứ không phải là phương thuốc trị
bệnh, chấm dứt được đau khổ như Đạo Phật thật.

Trong Đạo Phật tôn giáo những lời dạy căn bản của Đức Phật Thích Ca vẫn còn
tồn tại nhưng đã bị bao trùm bởi tôn giáo, nên rất khó cho con người bình
thường hiểu và thực hành được. Vì vậy Đạo Phật tôn giáo đã che lấp mất Giáo
Pháp mà Đức Thế Tôn đã dày công thuyết giảng. Nhưng cũng có một sự thật, là
nếu không có Đạo Phật tôn giáo với hệ thống kinh điển phát triển đồ sộ thì
những lời dạy cốt lõi của Đức Phật Thích Ca không thể tồn tại đến ngày nay để
người trí hiểu ra và thực hành. Giáp Pháp mà Đức Phật Thích Ca thuyết giảng
giống như một viên ngọc quý nhưng rất dễ vỡ khi va chạm với các vật thể khác
trong lúc chuyển động, và Đạo Phật tôn giáo đã tạo ra một lớp vỏ bọc cứng chắc
hơn cả sắt thép bao bọc lấy viên ngọc và bảo vệ được nó. Vỏ bọc tôn giáo đó
bảo vệ được viên ngọc Giáo Pháp nhưng cũng ngăn che làm cho người thường
không thấy được viên ngọc Giáo Pháp, mà nhầm lẫn cái vỏ bọc đó là Giáo
Pháp. Người trí là người khác thường, dám đập vỡ cái vỏ bọc để thấy được viên
ngọc Giáo Pháp, nhưng người trí theo tinh thần Giáo Pháp, là người sẽ không
kỳ thị, không phản bác, không chán ghét, không chủ trương phá bỏ cái vỏ bọc
tôn giáo bởi người trí biết rất rõ rằng, nhờ Đạo Phật tôn giáo mà Giáo Pháp của
Đức Phật Thích Ca còn tồn tại đến ngày nay cho người trí tự mình giác hiểu.

Đương nhiên, tất cả mọi người kể cả người trí ngày nay đều phải bắt đầu từ Đạo
Phật tôn giáo, nhưng khác với người thường, người trí không dừng lại, không
thỏa mãn với Đạo Phật tôn giáo mà biết cách thẩm thấu Giáo Pháp qua mớ bòng
bong thật giả lẫn lộn nơi Đạo Phật tôn giáo.

Được gợi cảm hứng từ Đạo Phật tôn giáo, đa phần người tu học hiểu rằng phải
tu hành trong nhiều a tăng kỳ kiếp mới thành Phật quả, thành Phật Chánh Đẳng
Giác hay thành Phật Thanh Văn Giác trong tương lai. Và đó là một con người vĩ
đại, một bậc thánh nhân có thể biến một thân ra thành nhiều thân, có thể đi
xuyên qua vách núi, có thể lấy tay sờ vào mặt trời, mặt trăng những vật có đại
thần lực, đại uy lực; là người có trí tuệ bất khả tư nghì, không thể dùng ngôn từ
mà diễn tả được, người biết hết tận cùng tam thiên đại thiên thế giới, người có
năng lực cứu khổ muôn loài chúng sanh, có tình thương thấm nhuần vào từng
hạt bụi, từng ngọn cỏ, hạt sương, người đã chứng nghiệm một thế giới tâm linh
siêu hình mầu nhiệm, người chứng ngộ được trạng thái sung sướng đến tận đầu
các ngón chân của thiền định, của Niết bàn. Tóm lại là trở thành một người bất
khả tư nghì, không gì sánh bằng mà trí tưởng tượng của phàm nhân không thể
hình dung nổi.

Nhưng Giáo Pháp mà Đức Phật Thích Ca chứng ngộ và thuyết giảng không phải
để trở thành như vậy, mà chỉ nhằm thay đổi hiểu biết không đúng sự thật về
thực tại của phàm phu gọi là vô minh thành hiểu biết đúng sự thật thực tại của
bậc thánh gọi là minh, là trí tuệ. Do hiểu biết sai sự thật về thực tại mà có tham
ái và do có tham ái (dục ái, hữu ái, phi hữu ái) mà phàm phu bị ràng buộc nên
có khổ có vui với các đối tượng thực tại, nhưng vui thì ít khổ thì nhiều, não
nhiều mà nguy hiểm lại càng nhiều hơn. Khi đã học hỏi và tu tập thay đổi được
hiểu biết thực tại từ vô minh thành minh, thành trí tuệ, người đó sẽ hiểu biết
đúng như thật, rõ ràng, minh bạch như thấy rõ quả xoài trong lòng bàn tay, các
đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận của thực tại là Cảm Thọ, do
Căn Trần tiếp xúc mà phát sanh, nó vô thường, vô chủ vô sở hữu (vô ngã), có vị
ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly. Với hiểu biết là trí tuệ, là minh như vậy, tham ái
không còn nhân duyên sanh khởi, tham ái được đoạn tận. Do vô minh và tham
ái được đoạn tận mà tất cả đã rõ ràng minh bạch, không còn mảy may nghi ngờ
do dự, không còn mảy may phân vân lưỡng lự, không còn bất kỳ một câu hỏi
nào phải trả lời, không còn bất kỳ một vấn đề nào phải giải quyết. Ngay bây giờ
và tại đây chứ không phải tương lai, người đó đối diện với mọi đối tượng (mọi
hoàn cảnh) giàu hay nghèo, thành công hay thất bại, khỏe mạnh hay bệnh nan y,
ca ngợi hay hủy báng, sống hay chết... hoàn toàn bình thản, vắng lặng mọi vui
buồn, thương ghét, độc lập không ràng buộc, giải thoát không hệ lụy với bất kỳ
đối tượng nào. Người đạt được như vậy sẽ sống không vui buồn, không thương
ghét, không ràng buộc, không khổ đau cho đến hết cuộc đời và bình thản đón
nhận cái chết thật sự. Cái chết đó gọi là nhập diệt, đó chính là chấm dứt sự luân
hồi sinh tử, đó chính là chấm dứt sự hiện hữu với bất kỳ hình thức nào, bất kỳ
nơi chốn nào, hình dung như ngủ một giấc say không mộng mị vĩnh viễn, khác
hẳn phàm phu chỉ qua đời, chết chỉ là chuyển từ đời này sang đời khác trong
vòng luân hồi sinh tử mà thôi.

Về mục lục

Bài 096: LÝ LUẬN SUÔNG VÀ THỰC CHỨNG

Rất nhiều người nói được và thậm chí các nhà văn, nhà thơ thiện xảo ngôn từ đã
sử dụng các mỹ từ, các hình dung từ sống động, nói rất hay, rất hấp dẫn, lôi
cuốn người đọc rằng là: tu theo lời dạy của Phật là để THẤY CHỈ LÀ THẤY,
NGHE CHỈ LÀ NGHE (đầy đủ nữa là CẢM NHẬN CHỈ LÀ CẢM NHẬN).
Họ có thể mô tả rất chi tiết, rất cặn kẽ sự kỳ diệu, sự mầu nhiệm của THẤY
CHỈ LÀ THẤY, NGHE CHỈ LÀ NGHE nhưng Thấy chỉ là Thấy, Nghe chỉ là
Nghe là trạng thái như thế nào thì họ mù tịt, không mô tả được và đặc biệt LÀM
SAO ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC Thấy chỉ là Thấy, Nghe chỉ là Nghe thì họ cũng hoàn
toàn mù tịt, không diễn giải được huống nữa là hướng dẫn cho người khác đạt
được Thấy chỉ là Thấy, Nghe chỉ là Nghe. Vì sao vậy? Tại vì họ CHƯA THỰC
HÀNH, CHƯA ĐẠT ĐƯỢC, CHƯA AN TRÚ trạng thái Thấy chỉ là Thấy,
Nghe chỉ là Nghe, chưa THẤY BIẾT NHƯ THẬT Thấy chỉ là Thấy, Nghe chỉ
là Nghe, nên chưa thể diễn nói, phân tích, chỉ dẫn rành mạch trạng thái đó và
cách thức thực hành để đạt được trạng thái đó. Cái điều mà họ nói ra do họ nghe
giảng hoặc đọc sách rồi tư duy suy diễn theo kiến thức của họ và đó chính là
TƯ DUY LÝ LUẬN SUÔNG.

Người đã thực chứng trạng thái Thấy chỉ là Thấy, Nghe chỉ là Nghe, Cảm nhận
chỉ là Cảm nhận là họ đã thực hành, đã đạt được, đã an trú, đã THẤY BIẾT
NHƯ THẬT trạng thái đó nên họ có thể thuyết giảng, phân tích chỉ dẫn rành
mạch trạng thái đó, mà hơn thế nữa, họ còn diễn giải, phân tích, chỉ dẫn rành
mạch về CÁCH THỨC THỰC HÀNH để người khác có thể chứng ngộ và an
trú trạng thái đó. Họ có thể diễn tả, trình bày rành mạch, chi tiết về lộ trình tâm
Bát Tà Đạo của Phàm phu: Khi Sáu Căn và Sáu Trần tiếp xúc sẽ phát sinh các
đối tượng và các tâm biết trực giác (trực tiếp giác quan) có phận sự Thấy, Nghe,
Cảm nhận đối tượng. Đó là Nhãn thức thấy đối tượng, Nhĩ thức nghe đối tượng,
Tỉ thức ngửi đối tượng, Thiệt thức nếm đối tượng, Thân thức cảm nhận đối
tượng, Tưởng thức thấy đối tượng. Tiếp đến do Niệm, Tư Duy mà phát sinh tâm
biết Ý thức có phận sự biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao. Tâm biết Ý
thức sẽ nhận xét, đánh giá đối tượng với nội dung sai sự thật (vô minh) nên gọi
là Ý thức Tà Kiến. Do Ý thức Tà Kiến này mà phát sinh Tham Sân Si, do Tham
Sân Si mà Dính mắc, Ràng buộc, do Dính mắc Ràng buộc mà Khổ khởi lên.

Nếu dừng lại Nhãn thức thấy đối tượng, Nhĩ thức nghe đối tượng... mà Ý thức
Tà kiến không khởi lên, không nhận xét, đánh giá đối tượng là đẹp xấu, ngon
dở, thơm thối, thiện ác... thì sẽ không có Tham Sân Si, không có Dính mắc
Ràng buộc, không có Khổ khởi lên. Lúc đó lộ trình tâm DỪNG LẠI Thấy,
Nghe, Cảm nhận đối tượng, không có diễn tiến nào tiếp theo nữa, không có khổ
khởi sinh. Đó là Thấy chỉ là Thấy, Nghe chỉ là Nghe, Cảm nhận chỉ là Cảm
nhận (Tâm lý học ngày nay gọi là Nhận thức cảm tính đối tượng). Đây là pháp
tu CHỈ hay còn gọi là Chánh Niệm - Tỉnh Giác.

Rất nhiều người hiểu lầm khi đạt được Thấy chỉ là Thấy, Nghe chỉ là Nghe... là
xong, là giải thoát tối hậu. Không phải vậy, đây chỉ là pháp tu CHỈ khởi đầu và
còn một quãng đường rất dài với pháp tu QUÁN theo lộ trình Văn - Tư – Tu
mới có thể đạt đến đến đích giải thoát tối hậu. Bởi tu Chỉ để dừng lại tâm biết
trực tiếp giác quan, chỉ có Nhãn thức thấy đối tượng, Nhĩ thức nghe đối
tượng... mà tâm biết Ý thức không khởi lên, không xen vào nên không nhận xét
đánh giá đối tượng. Lúc này chỉ có tâm biết thuần tuý Nhãn thức, Nhĩ thức... và
do như vậy, tâm biết trực tiếp giác quan đó được gọi là TỈNH GIÁC, vì vậy
Tỉnh Giác không phải là Ý Thức Chánh Kiến, không phải là Trí Tuệ. Tu QUÁN
với mục đích xoá bỏ hiểu biết sai sự thật trong tâm biết Ý thức Tà Kiến và thay
bằng hiểu biết đúng sự thật trong tâm biết Ý thức Chánh Kiến. Tu Quán là thực
hành theo lộ trình Văn - Tư - Tu để khi thực hành thì đạt được Trí Tuệ, nghĩa
là: Sau khi Thấy, Nghe, Cảm Nhận đối tượng thì Chánh Niệm - Chánh Tư Duy
khởi lên làm phát sinh tâm biết Ý Thức Chánh Kiến, BIẾT NHƯ THẬT: "Đối
tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận đó là CẢM THỌ do Căn Trần
tiếp xúc mà phát sinh, nó vô thường, vô chủ vô sở hữu (vô ngã), nó có vị ngọt,
sự nguy hiểm và sự xuất ly".

Về mục lục

Bài 097: ĐỌC TRỌN BỘ KINH NIKAYA LÀ KHÓ

Theo cố Hoà Thượng Minh Châu khi Ngài nghiên cứu, phiên dịch Kinh điển từ
ngôn ngữ Pali ra tiếng Việt đã kết luận: Các bộ kinh Nikaya là gần với Nguyên
thủy nhất. Nguyên thủy ở đây được hiểu là lời dạy nguyên thủy của Đức Phật
chưa bị pha trộn bởi tri kiến của người sau. Vì vậy, đọc, nghiên cứu, suy tư tìm
hiểu các bộ kinh Nikaya, bỏ qua một bên Tạng Luận, bỏ qua một bên các tác
phẩm của các vị tổ, các thiền sư nổi tiếng trong quá khứ và đương thời là cơ hội
cho người học Phật tìm được lời dạy thật, tìm được chân nghĩa của Phật, vì như
vậy sẽ không bị chi phối bởi kiến giải của người sau, không phải tiếp thu Giáo
pháp lệch lạc bởi lăng kính các bộ phái. Những người có duyên, có trí say mê
đọc và nghiền ngẫm các bộ kinh Nikaya là rất hiếm có. Đa phần người học Phật
không đủ kiên nhẫn để đọc hết 5 bộ kinh Nikaya, đều ngán ngẩm với các chủ đề
cứ lặp đi lặp lại nhiều lần có vẻ như vô tận, ngán ngẩm với những đoạn văn trùng
trùng điệp điệp cứ nhắc đi nhắc lại hoài. Nhưng cũng có một số ít người, thậm
chí rất ít, say mê đọc, tìm hiểu, nghiền ngẫm về 5 bộ kinh Nikaya. Có những
người không chỉ đọc một hai lần mà có những bài kinh, những đoạn kinh họ còn
đọc đến 5 - 600 lần, nhắc lại là năm sáu trăm lần chứ không phải năm sáu lần,
không phải là đọc một vài thời điểm mà ngày nào cũng đọc, rảnh là đọc suốt cả
chục năm dài chứ không phải một hai năm. Những người đó chắc chắn trong “bộ
nhớ” tâm thức đã có những thông tin tương hợp với những thông tin của các bộ
kinh nên xảy ra tương tác như vậy. Người nào có say mê như vậy sẽ dần dà khám
phá ra chân nghĩa lời dạy của Đức Phật đang ẩn kín trong các ngôn từ của bộ
kinh. Tuy trong các bộ kinh Nikaya cũng đầy rẫy các chi tiết do nhu cầu tôn giáo
mà phải đưa vào, cũng có vô số tri kiến của người sau, vô số quan điểm của Bà la
môn, trong đó có nghĩa đen nghĩa bóng, thật giả lẫn lộn nhưng người có duyên
có trí sẽ tìm ra lời dạy nguyên thủy của Đức Phật giống như người thợ vàng thiện
xảo tách được vàng ròng ra khỏi đống quặng lộn xộn kia. Để có thể làm được
điều đó người học có thể đọc qua năm bộ kinh Nikaya gồm: Trường bộ, Trung
bộ, Tương ưng bộ, Tăng chi bộ và Tiểu bộ nhưng phải đọc kỹ, nghiền ngẫm
Trung bộ, Tương ưng bộ và Tăng chi bộ. Khi nghiền ngẫm các bộ kinh đó phải
nắm chắc tiêu chuẩn để phân biệt bài kinh, đoạn kinh nào là thật, bài kinh, đoạn
kinh nào là giả và chỉ chấp nhận Giáo pháp mà Đức Thế Tôn đã khéo giảng gồm
năm tiêu chuẩn là:

1 - Thiết thực hiện tại


2 - Đến để mà thấy

3 - Không bị chi phối bởi thời gian

4 - Có tính hướng thượng

5 - Cho người trí tự mình giác ngộ

Trong đó, Thiết thực hiện tại là khi thực hành pháp, thì khổ chấm dứt tức thì
chấm dứt ngay bây giờ và tại đây, không còn phải chịu đựng khổ, khác hẳn với
thế gian và mọi tôn giáo là làm việc và tu hành để chịu đựng khổ trong hiện tại,
mục đích để hết khổ trong tương lai, hết khổ vào một ngày mai hay đời sau, hết
khổ tại một nơi chốn nào đó trong tương lai. Đến để mà thấy chứ không phải
đến để mà tin, nghĩa là có thể kiểm tra, kiểm chứng (bằng mắt thấy, tai nghe) lời
dạy của Phật. Đối với Sự thật Khổ và Sự thật Nguyên nhân Khổ (Khổ đế và Tập
đế) người đọc có thể kiểm tra, kiểm chứng bằng kinh nghiệm của quãng đời mà
mình đã sống. Đối với Diệt đế và Đạo đế người đọc hiểu được Diệt đế (Chấm
dứt Khổ hay Niết bàn) và cách thức thực hành để đạt được Diệt đế (Bát Chánh
Đạo), sau đó thực hành thì sẽ kiểm tra, kiểm chứng được điều đã học Diệt đế và
Đạo đế là có thực hay không có thực. Sự thực hành Bát Chánh Đạo sẽ tự mình
thấy, tự mình biết, tự mình thân chứng được Diệt đế và Đạo đế chứ không phải
chỉ tin vào lời dạy của Phật. Nghĩa là đến để mà thấy Khổ diệt hay Niết bàn, đến
để mà thấy Chánh niệm về thân, về thọ, về tâm, về pháp; đến để mà thấy Chánh
định với sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền; đến để mà thấy Chánh kiến với
“tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ”. Đến
để mà thấy Diệt đế và Đạo đế như vậy, vì nó xảy ra nơi sáu căn tiếp xúc với sáu
trần, xảy ra nơi tấm thân dài độ thước mấy này cùng với Tưởng và Thức, chứ
không phải xảy ra nơi một Bản tâm không sinh không diệt nào đó, một cảnh
giới Niết bàn thường lạc ngã tịnh hay thường lạc vô ngã tịnh, một cảnh giới Tây
phương cực lạc, một thế giới tâm linh mầu nhiệm nào đó. Bởi những nơi như
vậy chỉ đến để mà tin thôi chứ không thể đến để thấy, để kiểm tra, để kiểm
chứng được.

Đa phần người học Phật, kể cả các tín đồ Phật giáo Nam tông tại gia hay xuất
gia đều không thích thú đọc, không kiên nhẫn đọc năm bộ kinh Nikaya, là năm
bộ kinh gần với lời dạy nguyên thủy của Phật nhất, bởi trong “bộ nhớ” tâm thức
chưa có các thông tin tương hợp với các thông tin của bộ kinh nên không xảy ra
tương tác. Những thông tin trong kho chứa tâm thức phản ánh cái “tư kiến” của
mỗi người nên họ chỉ thích những thông tin nào phù hợp với tư kiến của họ, họ
có xu hướng bẻ cong sự thật, bẻ cong kinh điển cho phù hợp với tư kiến của họ.
Bài viết được trích dẫn dưới đây của Sujato là người am hiểu sâu sắc các bộ
kinh Nikaya, đã lý giải chính xác, lý do tại làm sao mà người ta lại không thích
đọc các bản kinh gốc này, KHÔNG THỰC HÀNH THEO KINH, mà chỉ thích
đọc và hành theo các bản chú giải, thích đọc và hành theo tạng Luận, thích đọc
và hành theo sách của các thiền sư nổi tiếng hoặc các truyện tiền thân...

MƯỜI BẢY LÝ DO THỜI NAY ÍT NGƯỜI ĐỌC KINH GỐC (NIKAYA)

Việt dịch: Hieu Cao

1 - Những sư cúng lễ không thích kinh, bởi mất thu nhập do trong kinh
Đức Phật dạy rằng cúng lễ là lãng phí thời gian và các sư thì không nên
làm.

2 - Những người theo Vi Diệu Pháp thì không thích kinh, bởi kinh chỉ ra
rằng Đức Phật không dạy Vi Diệu Pháp.

3 - Những nhà sư quản lý hệ thống chùa lớn không thích kinh, bởi họ muốn
kiểm soát tập trung tăng đoàn, trong khi một tăng đoàn thực sự thì phi tập
trung quyền lực và không nằm dưới quyền điều hành của một ai cả.

4 - Những người theo thiền quán (Vipassana) không thích kinh, bởi trong
kinh dạy về thiền định và các tầng thiền. Trong kinh cũng không nói về con
đường giác ngộ chỉ thuần thiền quán.

5 - Truyền thống trong rừng (chủ yếu ở Thái lan) không thích kinh, bởi trong
kinh dạy rằng hãy dựa vào chính bản thân mình và lời dạy của Đức Phật,
đừng chấp nhận mù quáng những điều thầy mình nói.

6 - Và bởi trong kinh không hề có thứ gọi là Bản Tâm hay Chân Tâm hay
Phật tánh.

7 - Những người theo Mật tông không thích kinh, bởi trong kinh không có
gì giống với Mật tông hay trì chú cả.

8 - Giới học thuật không thích kinh, bởi học ngôn ngữ cổ là rất khó và ít học
sinh học, bởi phần lớn học sinh cũng cảm thấy bị thách thức bởi các kiến
thức trong kinh.

9 - Những người theo Đại thừa không thích kinh, bởi kinh chỉ ra rằng
những kinh sách Đại thừa là đời sau, không phải do Đức Phật dạy.

10 - Những người theo Bồ Tát Đạo không thích kinh, bởi trong kinh chẳng có
Bồ Tát Đạo.

11 - Tương tự với những người thờ Phật A Di Đà.

12 - Những người theo chủ nghĩa dân tộc (Thái, Miến, Sri Lanka) không
thích kinh bởi Đức Phật chưa đặt chân đến nước họ [như họ vẫn tin]; và rằng
kinh Đức Phật thuyết xem nhẹ tất cả mọi chủ thuyết dân tộc.

13 - Các sư giàu không thích kinh vì kinh dạy về sự buông bỏ.

14 - Các sư có chức tước, áo đẹp và chức vị trọng vọng không thích kinh,
bởi kinh chẳng liên quan gì đến mấy thứ linh tinh đó cả.

15 - Những người tin vào các truyện tiền thân Đức Phật không thích kinh, bởi
kinh chỉ ra rằng những truyện tiền thân chỉ là tổng hợp lại các truyện dân gian.
16 - Bất cứ ai đã lựa chọn theo một truyền thống đều không thích kinh, bởi
kinh thách thức các tư tưởng truyền thống.

17 - Những người mang sự kỳ thị giới tính không thích kinh bởi kinh có đề cập
đến ni giới. Và trong kinh không tán đồng quan điểm: tái sinh làm nữ nhân là
kết quả của nghiệp xấu.

Về mục lục

Bài 098: GIẢI MÃ KINH A DI ĐÀ

Muốn chấm dứt khổ phải thay đổi Tâm chứ không phải thay đổi Cảnh, vì Khổ
và Nguyên nhân Khổ thuộc về Tâm chứ không thuộc về Cảnh. Và cụ thể là thay
đổi từ Tâm Bát Tà Đạo có thích ghét sang Tâm Bát Chánh Đạo không có thích
ghét để sống Thích Nghi với mọi hoàn cảnh. Nếu không thay đổi Tâm từ thích
ghét sang không thích ghét thì cho dù có ở trong cảnh Cực Lạc thì rồi cảnh Cực
Lạc lại trở thành Cực Khổ mà thôi. Hãy quan sát để thấy sự thật tâm thích ghét
cho dù hoàn cảnh nào cũng không thoát khỏi khổ. Ví như một món ăn cực
ngon, ăn vào là mê ly ngay nhưng rồi ngày nào cũng ăn món đó cả tuần, cả
tháng thì món ăn mê ly đó lại trở thành không chịu đựng nổi. Chuyện xưa kể
rằng, hai chàng Lưu và Nguyễn lạc vào chốn đào tiên, hàng ngày được các nàng
tiên hầu hạ cùng với rượu tiên, nhạc tiên, hoa quả tiên, tình dục tiên... Lúc đầu
hai chàng thích thú hưởng thụ hạnh phúc tiên nhưng rồi ngày nào cũng như
ngày nào, đều giống nhau như vậy và nhàm chán bắt đầu xuất hiện, tăng trưởng.
Và sau hai năm khi mà chính cái Cực Lạc đó lại trở thành Cực Khổ, hai chàng
mới trốn thoát khỏi động tiên để trở về với cuộc sống thế gian vô thường.

Bản Kinh A DI ĐÀ là giáo lý của tông Tịnh Độ, một tông phái của Phật giáo
Bắc tông. Sự xiển dương và hành trì của tông Tịnh độ trong quá khứ cũng như
hiện nay chứng tỏ những vị Tổ sư của tông phái này chưa bao giờ đọc kỹ kinh
A di đà, chưa so sánh câu với câu, chữ với chữ nên đã không hiểu được nội
dung cũng như ẩn ý của kinh A Di Đà, vì vậy xiển dương và hành trì sai lạc với
nội dung và chủ đích của Kinh A Di Đà hướng đến. Muốn hiểu rõ nội dung một
bản kinh phải đọc kỹ và so sánh câu với câu, chữ với chữ để tìm ra nội dung
bản kinh đó nói gì chứ đừng dùng tri thức hiểu biết, quan điểm mà mình đã học
hỏi và chấp thủ để áp đặt cho nội dung bản kinh đăng tải.

A - Một nội dung quan trọng nhất mà người đọc kinh thường bỏ qua, đó là ẩn ý
về phong cảnh sinh hoạt và đời sống sau khi được vãng sanh Tịnh độ:

1 - Phong cảnh của Tây phương cực lạc được mô tả rất hoành tráng với vàng
bạc, hổ phách, xà cừ, mã não... nhưng điểm nhấn của phong cảnh này là những
loài chim quý như Bạch hạc, Khổng tước, Anh võ, Xá lợi, Ca lăng tần già...
ngày đêm sáu thời, tiếng hót hoà nhã phát ra Pháp Âm: NGŨ CĂN, NGŨ
LỰC, THẤT BỒ ĐỀ PHẦN, BÁT CHÁNH ĐẠO PHẦN. Và những hàng cây
báu những lưới ngọc giăng, phát ra những âm thanh vi diệu, khiến cho những ai
nghe được thì đều sinh lòng Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng.

Qua sự mô tả này, phải hiểu Tây phương cực lạc là môi trường lý tưởng cho
người Phật tử, và cho người nào muốn tìm hiểu và tu tập Pháp mà Đức Thế Tôn
đã khéo léo thuyết giảng. Tại sao vậy? Tại vì, ở đây có đầy đủ điều kiện để
nghe Pháp, ẩn dụ qua hình ảnh các loài chim quý ngày đêm sáu thời diễn nói
Pháp Âm như Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề phần, Bát Chánh Đạo phần. Đây
là điều kiện lý tưởng để có được Văn Tuệ, là Trí Tuệ do Đức Phật Thích Ca
thuyết giảng về Tứ Thánh Đế, về Bát Chánh Đạo. Những hàng cây báu, những
lưới ngọc giăng phát ra những âm thanh vi diệu liên tục, có tác dụng làm cho
Chánh Niệm: Nhớ đến Phật, Nhớ đến Pháp, Nhớ đến Tăng liên tục khởi lên và
nhờ vậy các Niệm và Tư duy thế tục (tức Tà Niệm) được đoạn trừ. Nhờ có
Chánh Niệm về Phật, về Pháp, về Tăng như vậy mà sẽ có Chánh Tư duy về
những điều đã được nghe và do đó mà có được sự hiểu biết sâu rộng hơn về
Phật, Pháp, Tăng, tức có Tư Tuệ. Không những Chánh Niệm về Phật, Pháp,
Tăng phát sinh Tư Tuệ mà Chánh Niệm sẽ khởi lên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo,
đưa đến thấy biết như thật gọi là Tu Tuệ, chính là Chánh Tri Kiến trên lộ trình
tâm Bát Chánh Đạo. Như vậy, Tây phương cực lạc là hình ảnh ẩn dụ cho một
môi trường lý tưởng để có được Văn Tuệ, Tư Tuệ và Tu Tuệ về Tứ Thánh Đế
và Bát Chánh Đạo.

Điểm nhấn của phong cảnh Tây phương cực lạc này chỉ nhắc đến Ngũ Căn, Ngũ
Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Chánh Đạo Phần mà không nhắc đến bất kỳ một
pháp môn nào khác của Tịnh độ tông, Mật tông, Thiền tông... khẳng định tại đây
chỉ có Giáo Pháp Nguyên Thuỷ, Giáo Pháp Tứ Thánh Đế, Bát Chánh Đạo của
Đức Phật Thích Ca thuyết giảng thuần tuý không pha tạp.

2 - Đời sống sinh hoạt của cư dân Tây phương cực lạc:

Hãy đọc và suy ngẫm kỹ để thấy, khi được sinh ra tại Tây phương cực lạc là bắt
đầu một đời sống mới, một đời sống tu tập Bát Chánh Đạo liên tục không
ngừng nghỉ chứ không phải như chủ trương của tông Tịnh độ, được vãng sinh
về Tây phương cực lạc là xong, không còn phải tu hành gì nữa. Bản văn mô tả:
“chúng sanh trong cõi đó, thường vào lúc sáng sớm đều lấy đãy đựng các hoa
tốt, đem cúng dường mười muôn ức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền về bổn
quốc, cơm nước xong liền đi kinh hành. Cõi đó thường có những giống chim
màu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạc, Khổng tước, Anh võ, Xá lợi,
Ca lăng tần già, Cọng mạng, những giống chim đó ngày đêm sáu thời tiếng hót
hoà nhã, tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề
phần, bát chánh đạo phần...v.v. Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong,
thảy đều sinh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Xá lợi Phất, trong cõi
nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu, và động mành lưới
báu, làm vang ra tiếng vi diệu, ví như trăm ngàn thứ âm nhạc đồng một lúc hoà
chung. Người nào nghe tiếng đó đều sinh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng.” Đoạn trích từ Kinh A Di Đà trên cho thấy đời sống và sinh hoạt của cư
dân nơi cõi nước Cực lạc diễn ra như sau:

a - Sáng sớm thức dậy lễ bái cúng dường chư Phật mười phương, sau đó cơm
nước xong liền đi kinh hành. Ẩn ý của câu văn này là cư dân Tịnh độ ăn
ngày một bữa, ăn xong thì lập tức tu hành.

b - Những loài chim quý ngày đêm sáu thời diễn nói Pháp Âm của Phật, những
âm thanh do các hàng cây báu, những lưới báu phát ra làm cho cư dân Tịnh Độ
sinh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng ẩn ý nói rằng ở đây tu hành liên tục
không dừng nghỉ, niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng không dừng nghỉ. Và thế
nào là Niệm Phật, Niệm Pháp, Niệm Tăng?

- Niệm Phật là nhớ đến: Phật là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh
Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên
Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Không những nhớ đến mười danh hiệu tức mười phẩm
tánh của một Đức Phật Chánh Đẳng Giác mà còn tư duy tìm hiểu, thấu rõ mười
phẩm tánh của một Đức Phật. Nhờ thực hành Niệm Phật như vậy mà tâm tư
được lắng trong, các ô nhiễm và lậu hoặc được nhiếp phục và người ấy đạt được
an lạc không có khó khăn. Pháp Niệm Phật như vậy là pháp Niệm Phật được tất
cả các tông phái Phật Giáo chấp nhận, được thực hành ở Tây phương cực lạc,
được Kinh điển mọi tông phái đề cập đến. Còn niệm Nam mô A di đà Phật cũng
là niệm Phật nhưng chỉ là pháp niệm Phật của tông Tịnh độ chủ trương nhưng
lại không được nhắc đến, không được thực hành tại Tây phương cực lạc.

- Niệm Pháp là nhớ đến và thực hành Pháp bao gồm:

Nhớ đến Pháp mà Đức Thế Tôn khéo léo thuyết giảng có tính chất: Thiết thực
hiện tại, Đến để mà thấy, Không bị chi phối bởi thời gian, Có tính hướng
thượng, Cho người trí tự mình giác ngộ.

Nhớ đến Lý Duyên Khởi, nhớ đến các pháp Vô thường, Vô ngã, nhớ đến để
Thấy Biết như thật về Khổ, Tập, Diệt, Đạo tức nhớ đến Tứ Thánh Đế.

Nhớ đến sự thực hành: Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc, Ngũ Căn,
Ngũ Lực, Thất Giác Chi, Bát Chánh Đạo.

- Niệm Tăng là nhớ đến: Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, Trực hạnh là
chúng đệ tử Thế Tôn, Ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, Chơn chánh hạnh là
chúng đệ tử Thế Tôn, tức là có bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử Thế Tôn là
đáng cung kính, đáng tôn trọng, đáng cúng dường, đáng được chắp tay, là
phước điền vô thượng ở đời. Nhờ Niệm Tăng như vậy, tâm được tịnh tín, hân
hoan sanh khởi, các phiền não được nhiếp phục.

B - Định nghĩa khái niệm cực lạc:

Vì chúng sanh trong cõi đó không có những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui
nên cõi nước đó tên là Cực Lạc. Theo sự mô tả về đời sống sinh hoạt của cư
dân Tịnh độ, họ chỉ học tập về Tứ Thánh Đế và tu tập Bát Chánh Đạo. Tuy Tứ
Thánh Đế không được nhắc đến, chỉ đề cập Bát Chánh Đạo, nhưng sự tu tập
Bát Chánh Đạo không thể tách biệt Tứ Thánh Đế, vì rằng Bát Chánh Đạo là
một Đế trong bốn Đế. Tuy kinh đề cập tới ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần,
bát chánh đạo phần nhưng hàm ý là ba mươi bảy phẩm trợ đạo và thực chất ba
mươi bảy phẩm trợ đạo là cách thức đề cập các khía cạnh khác nhau của Bát
Chánh Đạo hiệp thế và siêu thế.

Do sự thực hành liên tục như vậy mà lộ trình tâm Bát Chánh Đạo khởi lên, lộ
trình tâm Bát Tà Đạo của phàm phu được nhiếp phục, không khởi lên. Do vậy
vị ấy chứng ngộ được trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo, vắng mặt Vô minh,
vắng mặt Tham Sân Si, vắng mặt sầu bi khổ ưu não, nghĩa là chứng ngộ được
Khổ Diệt hay thuật ngữ Phật học gọi là Niết Bàn. Vị ấy cũng chứng ngộ được
Bát Chánh Đạo là con đường Chấm dứt Khổ và đây là chứng ngộ Diệt Đế và
Đạo Đế. Cư dân nơi Cực Lạc không có những sự khổ là do thực hành Bát
Chánh Đạo như vậy.

Cư dân ở đó chỉ hưởng những điều vui là như thế nào? Khi Bát Chánh Đạo
khởi lên có ba pháp là cái trục chính của Bát Chánh Đạo gồm Chánh Niệm -
Chánh Định - Chánh Kiến mà nói tắt là Niệm - Định - Tuệ. Trong đó Chánh
Định có thể là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền hoặc Tứ thiền. Nếu là Sơ thiền thì
sẽ có hỷ lạc do ly dục sanh, nếu Nhị thiền sẽ có hỷ lạc do định sanh, nếu Tam
thiền sẽ có lạc do xả sanh, nếu Tứ thiền sẽ có xả niệm thanh tịnh. Cư dân Tịnh
độ chỉ hưởng những điều vui, đó là cái vui nội tâm do các mức độ định của
Chánh Định mà có. Đây gọi là vui hay kinh gọi là lạc, một thứ lạc vô hại, không
nguy hiểm như Dục Lạc thế gian vui ít, khổ nhiều, não nhiều mà nguy hiểm lại
càng nhiều hơn. Kẻ phàm phu vì tham đắm và khát khao Dục Lạc, phải lao tâm
khổ trí tìm cầu Dục Lạc nên sầu bi khổ ưu não khởi lên. Vì Dục Lạc mà cha con
tranh đoạt nhau, vợ chồng tranh đoạt nhau, người ta đâm chém giành giật nhau,
người ta tạt a xít vào mặt nhau, người ta chế tạo và buôn bán ma tuý, người ta
chế tạo bom đạn kể cả bom hạt nhân để tàn sát tàn hại lẫn nhau. Vì Lạc ấy mà
có sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu. Vì lạc ấy mà có biết bao lừa
đảo, phá sản, biết bao tội ác và khổ đau trên thế gian này. Vì lạc ấy mà các cô
hoa hậu bán dâm, vì lạc ấy mà có con trai giao cấu với cả mẹ đẻ của mình, có
ông bố hiếp dâm đứa con đẻ sáu tuổi... Lạc đó của Dục Lạc thế gian gọi là
phàm phu lạc, ô uế lạc, bất tịnh lạc. Lạc đó đáng sợ hãi và cần xa lánh. Trái với
Dục Lạc thế gian, lạc của các bậc thiền Chánh Định là vô hại, lạc đó đưa đến xa
lánh Dục Lạc, viễn ly, đoạn trừ, đoạn tận tham ái Dục Lạc nên nó là Thánh lạc,
chánh giác lạc, an ổn lạc, viễn ly lạc.

Như vậy khái niệm Cực Lạc ở đây khác với các khái niệm Thiên đường cực lạc
của các tôn giáo khác, khác với quan niệm của phàm phu về cực lạc. Đối với
các tôn giáo và phàm phu thì Thế giới cực lạc là nơi chỉ có sắc đep, tiếng hay,
hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái... muốn tận hưởng bao nhiêu cũng có,
không bao giờ thiếu, muốn gì được nấy. Thế giới cực lạc như vậy là do tâm
tham ái Dục lạc mơ ước suy diễn rồi tưởng tượng ra.

Như vậy, cư dân ở Tây phương cực lạc không có những sự khổ, chỉ hưởng toàn
vui là do họ có được môi trường lý tưởng để học tập Tứ Thánh Đế, tu tập Bát
Chánh đạo. Nhờ môi trường lý tưởng nên sự tu tập của họ xảy ra liên tục không
gián đoạn, vì vậy họ chứng ngộ và an trú Khổ Diệt (Niết Bàn). Sự an trú Khổ
Diệt, Niết Bàn của các cư dân Tịnh độ không phải do THA LỰC của Đức Phật
A di đà mang đến mà do mỗi người TỰ LỰC thực hành Bát Chánh Đạo liên tục
mà đạt được.

C - Mâu thuần về vãng sanh và ẩn ý của bản kinh A Di Đà:

Trong bản kinh này có một tình tiết phi lý, tiền hậu bất nhất mà từ trước tới nay
những người tu tịnh độ không ai phát hiện ra. Đó chính là cái nút thắt, và nếu
cởi được nút thắt đó thì sẽ hiểu được ẩn ý của bản kinh muốn nói gì. Tình tiết
phi lý đó là, mở đầu bản kinh nói rằng, ai niệm Phật A Di Đà cho đến 10 niệm,
nhất tâm bất loạn, khi chết tâm không điên đảo thì được vãng sanh về Tây
phương cực lạc, nghĩa là VÃNG SANH SAU KHI CHẾT nhưng cuối kinh lại
khẳng định, ai đã niệm Phật thì đã sanh, đang niệm Phật thì đang sanh, ai sẽ
niệm Phật thì sẽ sanh, nghĩa là VÃNG SANH KHI CÒN SỐNG. Cả văn và
nghĩa của đoạn văn này là mâu thuẫn, tiền hậu bất nhất vì trước nói chết xong
mới vãng sanh (như mọi tín đồ tịnh độ hiểu) nhưng đoạn cuối lại khẳng định là
hễ niệm Phật A Di Đà là vãng sanh ngay lúc đó, lúc còn sống chứ không phải
chết mới vãng sanh. Tác giả của bản kinh này là một người thông thái, hiểu
nhiều biết rộng, không thể là loại người nói trước quên sau, để có thể phạm một
lỗi ngớ ngẩn như vậy, mà cái “tiền hậu bất nhất” này là do tác giả cố tình trưng
ra để người đọc có trí sẽ hiểu được ẩn ý của bản kinh. Và cái ẩn ý đó là: bản
kinh này phải hiểu theo nghĩa bóng, nghĩa ẩn dụ chứ không được hiểu theo
nghĩa đen mà ngôn từ đã mô tả. Nghĩa ẩn dụ ở đây là, cho dù ở bất kỳ thế giới
nào, cho dù đó là thế giới Tây phương cực lạc đi nữa, con người muốn chấm
dứt khổ thì chỉ có một Cách Duy Nhất là học tập Tứ Thánh Đế và tu tập Bát
Chánh Đạo. Vậy thì hãy NGAY BÂY GIỜ VÀ TẠI ĐÂY học tập Tứ Thánh
Đế và tu tập Bát Chánh Đạo thì sẽ chứng ngộ NGAY BÂY GIỜ VÀ TẠI ĐÂY
là Tây phương cực lạc đâu phải chờ đến sau khi chết. Khẳng định về sau của
bản kinh: Ai đã niệm Phật thì đã sanh, ai đang niệm Phật thì đang sanh, ai sẽ
niệm Phật thì sẽ sanh, nhấn mạnh đã vãng sanh rồi thì đừng chờ đợi đến lúc
chết mà ngay bây giờ và tại đây, hãy tu tập Bát Chánh Đạo liên tục ngày đêm
sáu thời không dừng nghỉ. Lúc đó sẽ như Pháp, ĐẾN ĐỂ MÀ THẤY, sẽ thân
chứng được thực tại Tây phương cực lạc là gì, chứ không phải ĐẾN ĐỂ MÀ
TIN như các tín đồ tông Tịnh Độ hiện nay.

Về mục lục

Bài 099: TÀ VÀ CHÁNH TRONG "BÁT TÀ ĐẠO" VÀ "BÁT CHÁNH


ĐẠO"

CÂU HỎI:

Đại Đức Nguyên Tuệ, phần trên Sư giảng con hiểu nhưng phần dưới về Bát
Chánh Đạo hiệp thế con chưa rõ. Vì nói như sư, nếu phàm nhân có niềm tin tu
tập theo Bát Chánh Đạo thì đều là “tà” hết sao Sư?

TRẢ LỜI:

Chữ Tà và Chánh trong Bát Tà Đạo và Bát Chánh Đạo phải được hiểu theo ngữ
cảnh có liên quan đến tham sân si, không nên hiểu Tà Chánh theo những ngữ
nghĩa khác.

Bát Tà Đạo có 8 chi phần gồm: Tà niệm, Tà tư duy, Tà tri kiến, Tà định, Tà tinh
tấn, Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng là những chi phần làm khởi lên tham sân si
hoặc từ tham sân si mà khởi lên. Cụ thể Tà niệm - Tà tư duy - Tà tri kiến làm
khởi lên tham sân si; Tà định - Tà tinh tấn - Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng từ
tham sân si mà khởi lên.

Bát Chánh Đạo có 8 chi phần gồm: Chánh niệm, Chánh tinh tấn, Chánh định,
Chánh tư duy, Chánh tri kiến, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng là những
chi phần đoạn trừ tham sân si hoặc không từ tham sân si khởi lên. Cụ thể Chánh
niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định - Chánh tư duy - Chánh tri kiến đưa đến
đoạn trừ tham sân si còn Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng không do
tham sân si khởi lên mà do Chánh tri kiến (Trí tuệ) khởi lên.

Một người chưa bao giờ được nghe giảng về Tứ Thánh Đế, Bát Chánh Đạo thì
trong “bộ nhớ” tâm thức họ có các tri thức, kinh nghiệm đã học hỏi nhuốm màu
VÔ MINH CHẤP NGÃ, là những hiểu biết sai sự thật. Khi Căn Trần tiếp xúc,
lộ trình tâm Bát Tà Đạo khởi lên sẽ có Tà niệm kích hoạt Vô minh chấp ngã làm
phát sinh Tà tư duy, Tà tư duy làm phát sinh Tà tri kiến mang nội dung Vô
minh chấp ngã. Tà tri kiến đó làm phát sinh Tham sân si vv... Khi người đó
được nghe giảng ĐÚNG SỰ THẬT về Tứ Thánh Đế, Bát Chánh Đạo và người
đó lĩnh hội được, có được hiểu biết đúng sự thật về Khổ Tập Diệt Đạo thì đó là
Văn Tuệ, là Trí tuệ do nghe mà có được. Văn Tuệ đó sẽ được lưu vào bộ nhớ
dưới dạng thông tin được mã hoá với tên gọi là Minh. Người này có được Văn
Tuệ lưu vào bộ nhớ rồi tiếp tục tư duy về điều đã học để hiểu biết đúng sự thật
về Tứ Thánh Đế được sâu sắc và lớn rộng hơn. Đó chính là Tư Tuệ. Văn Tuệ và
Tư Tuệ (Minh) sẽ được cài đặt chắc chắn vào bộ nhớ nhưng nó cũng mới xoá bỏ
được một phần nhỏ Vô minh chấp ngã trong bộ nhớ. Đối với người thượng căn,
chỉ cần Văn và Tư như vậy sẽ xoá bỏ được Thân kiến, Nghi, Giới cấm thủ và trở
thành bậc Thánh nhập lưu. Tiếp đến người đó tu tập Đạo đế, tu tập Bát Chánh
Đạo. Lúc đó, khi Căn Trần tiếp xúc Niệm sẽ kích hoạt Minh trong bộ nhớ chứ
không kích hoạt Vô minh chấp ngã và nội dụng của Niệm là Minh nên là Chánh
niệm (nội dung của Niệm là Vô minh chấp ngã là Tà niệm). Do Niệm có nội
dung Minh, là Chánh niệm không còn là Tà niệm có nội dung Vô minh chấp
ngã nên toàn bộ các chi phần khác cũng thay đổi từ Tà sang Chánh. Tà tư duy
sang Chánh tư duy, Tà tri kiến sang Chánh tri kiến, Tà tinh tấn sang Chánh tinh
tấn, Tà định sang Chánh định, Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng sang Chánh ngữ,
Chánh nghiệp, Chánh mạng nghĩa là từ Bát Tà Đạo sang Bát Chánh Đạo.

Cốt lõi của sự tu tập là nhằm thay đổi hiểu biết, thay đổi nhận thức từ Tà tri kiến
(Vô minh chấp ngã) sang Chánh tri kiến (Minh, Trí tuệ). Khi lộ trình tâm Bát
Chánh Đạo siêu thế này được tu tập, được làm cho viên mãn thì Minh hay Trí
tuệ được tu tập, được làm cho viên mãn thì thông tin Minh trong bộ nhớ sẽ xoá
bỏ thông tin Vô minh chấp ngã. Đó là giây phút đột chuyển và Chánh trí khởi
lên: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong, không
còn trở lui trạng thái này nữa.

Để giải thoát tối hậu, đạt đạo quả A La Hán phải tiến hành tuần tự Văn - Tư -
Tu để đạt được Văn Tuệ - Tư Tuệ - Tu Tuệ. Trong tiến trình đó Văn Tuệ và Tư
Tuệ xảy ra nơi lộ trình tâm Bát Tà Đạo, nghĩa là lúc đầu phải nghe giảng (Văn)
và tư duy (Tư) trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo, nhưng là bước khởi đầu hết sức
quan trọng, không thể thiếu, làm công tác chuẩn bị cho quá trình tu tập Bát
Chánh Đạo. Vì vậy, Văn và Tư về Bát Chánh Đạo như vậy gọi là Bát Chánh
Đạo hiệp thế. Khi tu tập khởi lên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo thì gọi là Bát
Chánh Đạo siêu thế. Tiến trình Văn Tư Tu gồm Bát Chánh Đạo hiệp thế và Bát
Chánh Đạo siêu thế, trong đó Văn Tư là Bát Chánh Đạo hiệp thế làm công tác
chuẩn bị và Tu là Bát Chánh Đạo siêu thế. Pháp hành mà Đức Phật thuyết giảng
gồm 37 phẩm thì trong đó Ngài thuyết giảng về sự thực hành cả Bát Chánh Đạo
hiệp thế lẫn Bát Chánh Đạo siêu thế. Trong Tứ như ý túc thì Dục như ý túc
(Tham Muốn tu tập Bát Chánh Đạo) và Tinh tấn như ý túc là Bát Chánh Đạo
hiệp thế do Văn tuệ và Tư tuệ khởi lên. Định như ý túc và Tuệ như ý túc là Bát
Chánh Đạo siêu thế. Tứ Chánh Cần thì hai cái đầu thuộc Bát Chánh Đạo hiệp
thế, hai cái sau thuộc Bát Chánh Đạo siêu thế. Ngũ Căn và Ngũ Lực gồm 5 yếu
tố cơ bản cần tu tập cho viên mãn là Tín - Tấn - Niệm - Định - Tuệ thì Tín - Tấn
thuộc Bát Chánh Đạo hiệp thế do Văn tuệ và Tư tuệ khởi lên, còn Niệm - Định -
Tuệ chính là 3 chi phần cốt lõi của Bát Chánh Đạo siêu thế tức Chánh niệm -
Chánh định - Chánh tri kiến do tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế mà viên mãn. Tứ
Niệm Xứ là nói về Bát Chánh Đao siêu thế, Thất giác chi cũng là nói về Bát
Chánh Đạo siêu thế.

Theo ngữ cảnh Phật học, khi có Tham Sân Si thì gọi là Tà, là Bất thiện, khi nào
không có Tham Sân Si là Chánh, là Thiện. Vì vậy, phàm phu không có Văn Tư
Tu nên lúc nào cũng là Tà, là Bất thiện cho dù họ có làm được những việc vĩ đại
đến đâu đi nữa, được nhân loại ca ngợi đến đâu đi nữa. Vì sao? Vì những việc
đó do tham, do sân, do si mà thành tựu. Chỉ có Đức Phật và các vị A La Hán
mới là Chánh, là Thiện vì chư vị đó đã đoạn tận Tham Sân Si. Còn các vị Thánh
đệ tử hữu học Nhập lưu, Nhất lai, Bất lai thì có cả Tà lẫn Chánh, cả Bất thiện
lẩn Thiện. Chừng nào mà chư vị an trú Chánh niệm, lộ trình tâm chư vị là Bát
Chánh Đạo, không có tham sân si thì lúc đó là Chánh, là Thiện. Lúc nào mà chư
vị không có Chánh niệm thì Tà niệm khởi lên, lộ trình tâm là Bát Tà Đạo có
tham sân si thì lúc đó là Tà, là Bất thiện. Một vị Thánh đệ tử Nhập lưu đoạn trừ
được Thân kiến, Nghi, Giới cấm thủ, không có tham sân si với 3 vấn đề đó
nhưng vẫn tham sân si với các vấn đề khác. Vị Thánh đệ tử Nhất lai mới chỉ
làm muội lược (giảm bớt) tham sân với Dục lạc, vẫn còn tham sân si với các
vấn đề còn lại, vị Thánh đệ tử Bất lai mới chỉ đoạn tận tham sân với Dục, vẫn
còn tham sân si với Hữu và Phi Hữu.

Về mục lục

Bài 100: HAI LỖI NGHIÊM TRỌNG TRONG QUÁ TRÌNH NHẬN
THỨC

Để hiểu rõ hai lỗi nghiêm trọng trong quá trình nhận thức của nhân loại hãy
quan sát các lỗi đó trong một thí dụ cụ thể. Thí dụ như hai lỗi mắc phải khi giải
một bài toán số học đơn giản. Toàn bộ vấn đề được mô tả như sau: Cô gái mượn
bố 50 đồng, mượn mẹ 50 đồng, lúc đó cô có 100 đồng và dùng số tiền đó mua
một cái áo với giá 97 đồng. Còn dư lại 3 đồng, cô ta đem trả bố 1 đồng và trả
mẹ 1 đồng và giữ lại 1 đồng. Kiểm lại, lúc này cô ta còn nợ bố 49 đồng, nợ mẹ
49 đồng và cô ta còn trong túi 1 đồng, vậy thì số tiền hiện tại cô có gồm: 49
đồng (nợ bố) + 49 đồng (nợ mẹ) + 1 đồng (hiện còn) = 99 đồng. So với số tiền
cô có ban đầu là 100 đồng, bây giờ chỉ còn 99 đồng. Như vậy cô đã mất đi 1
đồng, vậy 1 đồng đó mất đi đâu?

- Đa phần người giải thấy cách trình bày như vậy rất hợp lý, rất lôgic nhưng
không thể tìm ra 1 đồng bị mất đi trong trường hợp nào. Không chỉ với các học
sinh nhỏ tuổi mà các vị tiến sĩ cũng không tìm được 1 đồng mất đi đó, xảy ra ở
đâu. LỖI XẢY RA ở đây là do thấy biết MỘT CHIỀU, PHIẾN DIỆN không có
thấy biết ĐA CHIỀU, TOÀN DIỆN nên chỉ suy luận trên đồng tiền mà bỏ quên,
không thấy biết chiếc áo vừa mua. Nếu thấy biết đa chiều toàn diện thì sẽ tìm ra
1 đồng bị thiếu đó nằm ở nơi cái áo vừa mua. Đây được coi là lời giải hợp lý.

- Nhưng thấy biết đa chiều toàn diện đưa đến kết luận 1 đồng còn thiếu nằm nơi
cái áo vừa mua như vậy cũng sẽ đưa đến một phi lý khác, là chiếc áo tuy mua
thực 97 đồng nhưng bây giờ lại được tính 1 đồng. Bởi số tiền hiện có của cô ta
gồm: 49 đ (nợ bố) + 49 đ (nợ mẹ) + 1 đ (hiện còn) + cái áo = 100 đồng. Vậy cái
áo phải có giá 1 đồng. LỖI XẢY RA ở đây là sự lầm lẫn giữa tài khoản NỢ và
tài khoản CÓ, và việc đem tài khoản NỢ + tài khoản CÓ = tài khoản CÓ là sai,
là phi lý. Lúc đầu tài khoản NỢ của cô là 100 đ (nợ bố mẹ) và tài khoản CÓ của
cô là 100 đ. Tài khoản NỢ và tài khoản CÓ bằng nhau. Sau khi mua áo và trả
nợ cho bố mẹ, tài khoản NỢ của cô là 49 đ + 49 đ = 98 đ và tài khoản CÓ của
cô là 1đ + cái áo (97 đ) = 98 đồng. Như vậy tài khoản NỢ và CÓ vẫn bằng nhau
như ban đầu và không có mất 1 đồng nào, cái áo vẫn có giá 97 đồng đúng như
khi mua, không phải là 1 đồng theo như lý luận có hai lỗi trên. Cái sai trong lý
luận có lỗi trên là từ biểu thức: 49 đ (nợ bố) + 49 đ (nợ mẹ) + 1 đ (hiện còn) +
cái áo = 100 đ là tài khoản CÓ, mà trong đó < 49 đ (nợ bố) + 49 đ (nợ mẹ) > là
số tiền cô ấy NỢ (tài khoản NỢ) không thể CỘNG với < 1 đ (hiện còn) + cái áo
> là số tiền cô ấy CÓ (tài khoản CÓ) để thành 100 đ là tài khoản CÓ được.
Tương tự như hai lỗi xảy ra trong khi giải bài toán số học trên, quá trình nhận
thức của nhân loại cũng có hai lỗi nghiêm trọng và vì vậy mà hiểu biết của
nhân loại về các sự vật, hiện tượng có những mâu thuẫn, sai lạc với sự thật mà
thuật ngữ Phật học gọi là Vô minh, là điên đảo, vọng tưởng. Và chính vì hiểu
biết vô minh, điên đảo vọng tưởng này mà tham sân si, sầu bi khổ ưu não, sinh
già bệnh chết không thể kể xiết khởi lên.

1 - Lỗi thứ nhất là thấy biết một chiều, phiến diện:

Đây là lỗi nghiêm trọng được nhắc đến rất nhiều trong các bản kinh Nikaya khi
Đức Phật phê phán lối nói một chiều, không nói theo kiểu phân tích đa chiều.
Điển hình nhất là ví dụ những người mù sờ voi. Mỗi người mù chỉ sờ được một
bộ phận của voi rồi chấp cứng vào thấy biết một chiều, phiến diện của mình mà
phủ nhận thấy biết của những người mù khác. Còn người có mắt ví dụ cho thấy
biết đa chiều, toàn diện thấy voi gồm toàn thể các bộ phận mà từng người mù
biết riêng rẽ, thì không còn tranh cãi với những người mù. Lỗi nghiêm trọng này
trong quá trình nhận thức là thấy biết một chiều về Lý Duyên Khởi hay thấy biết
một chiều về Định Luật Nhân Quả. Đó là hiểu biết Nhân Quả theo định thức:
MỘT NHÂN BIẾN ĐỔI THÀNH QUẢ hoặc chặt chẽ hơn là MỘT NHÂN
CHÍNH BIẾN ĐỔI THÀNH QUẢ CÓ NHÂN PHỤ HOẶC DUYÊN TRỢ
GIÚP. Nếu quan sát đa chiều, toàn diện sự thật, có thể có được hiểu biết đúng
như thật về Định luật Nhân Quả, hiểu biết đúng như thật là sự phát sinh cho dù là
Danh pháp hay Sắc pháp đều tuân theo định thức: HAI NHÂN TƯƠNG TÁC
VỚI NHAU CÙNG DIỆT MỚI PHÁT SINH QUẢ. Với thấy biết rõ ràng định
thức Hai nhân tiếp xúc (hay tương tác) rồi cùng diệt đi mới phát sinh các quả, thì
sẽ thấy biết rõ ràng hai nhân bình đẳng, không có nhân chính, nhân phụ, quan hệ
giữa các nhân, và giữa nhân và quả là quan hệ nhân quả chứ không hề tồn tại
quan hệ chủ tớ, quan hệ sở hữu. Chính vì vậy sẽ thấy biết như thật mọi pháp
duyên khởi đều vô thường, vô chủ, vô sở hữu (hay vô ngã). Nghĩa là các pháp
đang sinh và diệt, không tĩnh tại, các pháp độc lập với nhau, không lệ thuộc vào
nhau, và như vậy mới có thể có SỰ GIẢI THOÁT khỏi các pháp. Vì chỉ thấy biết
một chiều là NHÂN CHÍNH BIẾN ĐỔI THÀNH QUẢ CÓ NHÂN PHỤ HOẶC
DUYÊN TRỢ GIÚP nên vì thế mà nhân trong quả, quả trong nhân, tương tức,
tương nhập, nương nhau mà hiện hữu, không độc lập mà lệ thuộc lẫn nhau, giữa
các pháp luôn tồn tại quan hệ chủ tớ, quan hệ sở hữu, tồn tại chữ CỦA, pháp này
là của pháp kia (ngọt của đường, mặn của muối...). Nếu tự tánh các pháp là lệ
thuộc, ràng buộc, nương nhau mà hiện hữu như vậy thì Đức Phật sẽ chẳng thể có
sự giải thoát khỏi các pháp. Chính thấy biết một chiều về Duyên Khởi như vậy sẽ
đưa đến CHẤP THƯỜNG và CHẤP NGÃ, đưa đến hiểu biết sai lạc TỰ TÁNH
DUYÊN KHỞI, TỰ TÁNH VÔ THƯỜNG và TỰ TÁNH VÔ CHỦ (vô ngã) của
các pháp. Chính vì vậy, nên toàn thể đời sống nhân loại tồn tại trên tư tưởng
LÀM CHỦ, tư tưởng SỞ HỮU. Mọi công ước của Liên Hợp Quốc, luật pháp của
mỗi quốc gia, hương ước của làng xã, hoặc những luật lệ bất thành văn giữa con
người với nhau đều đặt nền tảng trên tư tưởng sở hữu, và ai ai cũng đang nỗ lực
phấn đấu để xác định quyền làm chủ, quyền sở hữu, làm chủ cuộc đời, tài sản,
con cái, hạnh phúc, tương lai... người tu thì làm chủ thân tâm, làm chủ lời nói,
hành động (nghiệp), làm chủ sinh già bệnh chết...

2 - Lỗi thứ hai là "thấy sợi dây lại tưởng là con rắn":

Lỗi này tương tự như lỗi thứ hai ở bài toán trên là nhầm lẫn giữa tài khoản CÓ
và tài khoản NỢ. Đó là nhân loại đã nhầm lẫn các đối tượng của thực tại bao
gồm những gì được Thấy, được Nghe, được Cảm nhận vốn là CẢM THỌ (hay
Cảm Giác) lại tưởng lầm là THẾ GIỚI SẮC THANH HƯỢNG VỊ XÚC PHÁP.
Vốn Nhãn thức thấy Cảm giác hình ảnh, Nhĩ thức nghe Cảm giác âm thanh, Tỷ
thức cảm nhận Cảm giác mùi, Thiệt thức cảm nhận Cảm giác vị, Thân thức cảm
nhận Cảm giác xúc chạm, Tưởng thức cảm nhận Cảm giác Pháp trần thì hiểu
biết của nhân loại lại MẶC ĐỊNH, Nhãn thức thấy Sắc trần, Nhĩ thức nghe
Thanh trần, Tỷ thức ngửi Vị trần, Thiệt thức nếm Vị trần, Thân thức biết Xúc
trần, Tưởng thức biết Pháp trần. Vốn là TÂM BIẾT TÂM nhưng nhân loại vô
minh đã nhầm lẫn TÂM BIẾT VẬT (Thế Giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc
Pháp). Các đối tượng của Thực Tại vốn là các CẢM THỌ thuộc PHẠM TRÙ
TÂM do Sáu Căn tiếp xúc với Sáu Trần phát sinh ra nhưng không phải DO
TÂM TẠO, không phải do một BẢN TÂM không sinh không diệt nào đó tạo
ra. Đức Phật với Thượng Trí đã giác ngộ và tuyên thuyết: "Này các Tỷ kheo,
Như Lai nhờ như thật tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự
xuất ly của Thọ mà Như Lai được giải thoát hoàn toàn không còn chấp thủ."

Quá trình nhận thức của nhân loại đã phạm phải hai lỗi nghiêm trọng này, nên
sự hiểu biết của nhân loại về các pháp là sai sự thật, là vô minh, là điên đảo
vọng tưởng, là CHẤP THƯỜNG (Chấp Có), là CHẤP ĐOẠN (Chấp Không), là
CHẤP NGÃ.

KẾT LUẬN: Quá trình nhận thức của nhân loại có hai lỗi nghiêm trọng và hai
lỗi này được lưu giữ trong kho chứa thông tin và được cài đặt nơi cấu trúc ADN

của các tế bào. Mỗi một lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu khởi lên theo
tuần tự: XÚC - < Thọ - Tưởng > - Tà Niệm - Tà Tư Duy - Ý thức Tà Tri Kiến
thì Ý thức Tà Tri Kiến là hiểu biết vô minh, chấp thường, chấp đoạn, chấp ngã
sẽ làm phát sinh tham sân si, phát sinh Phiền não. Nguyên nhân là do Tà Niệm
tức Trí Nhớ đã KÍCH HOẠT thông tin về hai lỗi trên được lưu giữ trong kho
chứa. Khi nghe giảng và tư duy để có Văn Tuệ và Tư Tuệ về hai lỗi trên thì
lượng thông tin Văn Tuệ và Tư Tuệ ấy chỉ lưu giữ vào kho chứa thông tin, chưa
xoá bỏ được thông tin về hai lỗi trên. Để xoá bỏ thông tin về hai lỗi trên phải
luyện tập Chánh Niệm về Pháp tức LUYỆN TẬP TRÍ NHỚ để KÍCH HOẠT
thông tin Văn Tuệ đã học hỏi đưa đến phát sinh Ý thức Chánh Tri Kiến theo lộ
trình tâm Bát Chánh Đạo: XÚC - < Thọ - Tưởng > - Chánh Niệm - Chánh Tinh
Tấn - Chánh Định - Chánh Tư Duy - Ý thức Chánh Tri Kiến. Chính Ý thức
Chánh Tri Kiến là Minh, là Trí Tuệ, là Liễu tri các pháp được rèn luyện, được tu
tập viên mãn sẽ đoạn diệt Ý thức Tà Tri Kiến và khi thành đạt quả A La Hán sẽ
xoá bỏ thông tin về hai lỗi nghiêm trọng đã được cài đặt trong kho chứa thông
tin nơi cấu trúc ADN của tế bào cơ thể. Đó chính là đột chuyển đoạn tận khổ
đau. Chìa khoá ở đây là LUYỆN TẬP TRÍ NHỚ cho thuần thục để NHỚ
ĐƯỢC ĐIỀU ĐÃ HỌC về hai lỗi trên mà thuật ngữ Phật học gọi là tu tập
CHÁNH NIỆM hay tu tập TỨ NIỆM XỨ.

Về mục lục

Bài 101: ĐỨC TIN VÀ TRÍ TUỆ

Đức Tin là nền tảng của tôn giáo phát sinh do những Tri Thức Hiểu Biết đã
được tôn giáo ấy "Nhồi Sọ". Đó là những cảnh giới, những miền đất hứa cao
vời, mầu nhiệm nhưng lại rất mơ hồ trừu tượng không thể kiểm chứng bởi Sự
Thật cuộc sống. Đức Tin ấy thậm chí tin vào những điều rất ngây thơ ấu trĩ, đã
được chứng minh là trái ngược với sự thật cuộc sống những vẫn không hề lay
chuyển đối với tín đồ tôn giáo. Đức Tin tôn giáo ngăn cản không cho các tín đồ
tôn giáo tiếp cận và khám phá sự thật. Đạo Phật tôn giáo cũng y cứ vào Đức Tin
như vậy tuy có phần ít cực đoan hơn các tôn giáo khác. Nhưng lời dạy của Đức
Phật hay Đạo Phật Thật thì khác, nền tảng của Đạo Phật Thật KHÔNG PHẢI
LÀ ĐỨC TIN mà là TRÍ TUỆ.

TRÍ TUỆ có thể là từ ngữ được chế định khi phiên dịch Kinh điển Phật giáo từ
tiếng Ấn độ sang tiếng Trung hoa nhưng đã vượt ra khỏi lĩnh vực Phật giáo và
được Thế gian sử dụng với ý nghĩa là những hiểu biết sâu rộng, uyên thâm,
uyên bác. Nguyên nghĩa của TRÍ TUỆ được dùng trong Phật giáo là những TRI
THỨC HIỂU BIẾT ĐÚNG VỚI SỰ THẬT. Còn những Tri Thức Hiểu Biết
(hay Kiến Thức) nào không đúng với sự thật cho dù sâu rộng, uyên thâm, uyên
bác tới đâu đi nữa thì không phải là Trí Tuệ mà thuật ngữ Phật học gọi nó là VÔ
MINH hay VỌNG TƯỞNG.

Tuy nhiên trong lời dạy của Phật, trong Đạo Phật thật cũng có nói đến Đức Tin
nhưng Đức Tin đó là CHÁNH TÍN do VĂN TUỆ và TƯ TUỆ mà khởi lên,
nghĩa là do Nghe và Tư Duy mà có được Tri Thức Hiểu Biết đúng sự thật nên
phát sanh Niềm Tin. Niềm Tin này gọi là Chánh Tín. Chánh Tín này khác hẳn
Đức Tin tôn giáo phát sinh do các tín điều được giáo dục nhồi sọ. Hãy phân
biệt những điều đó qua thí dụ sau đây. Ví như một người đàn bà bị chồng chửi
mắng thì cảm nhận được Khổ khi nó khởi lên và hiểu biết: Khổ từ người chồng
mà đến, Nguyên nhân Khổ là do người chồng. Đây là hiểu biết chung của nhân
loại: Khổ và Nguyên nhân Khổ là ở nơi thế giới ngoại cảnh, và Kiến thức này
đã được lưu giữ trong kho chứa tâm thức nhân loại từ vô thuỷ. Đức Phật đã
dùng rất nhiều phương tiện khéo léo thuyết giảng nhằm khai thị, hiển thị, phân
tích, chỉ dẫn rành mạch rằng: Khổ và Nguyên nhân Khổ là thuộc Nội tâm chứ
không thuộc Ngoại cảnh, Nguyên nhân Khổ là Tham Sân Si. Trải qua hơn hai
ngàn năm trăm năm, do phương thức truyền thông của thời đó mà lời dạy của
Ngài không được bảo toàn một cách mạch lạc, tuần tự, tỉ mỉ mà nó chỉ được lưu
truyền và tồn tại dưới dạng các đề mục, các dàn bài tóm tắt nên người học cần
phải lục lọi, tìm kiếm kỹ càng trong Năm bộ kinh Nikaya, xâu chuỗi lại, sử
dụng thêm các Kiến thức của Khoa học thực nghiệm để Thấy Biết Như Thật:
THAM SÂN SI LÀ NGUYÊN NHÂN KHỔ. Đây là những điều không hề đơn
giản, sâu kín, khó thấy, khó chứng, chỉ có người trí mới có khả năng lĩnh hội.

Làm sao quán sát rõ ràng minh bạch lộ trình Nhân quả liên tiếp nhau khởi lên
Khổ, để thấy ra được Nguyên nhân Khổ là Tham Sân Si? Nếu không lục lọi, tìm
kiếm, phân tích, đối chiếu, xâu chuỗi các lời giảng dạy trong kinh điển thì
không thể thấy được điều này đã được diễn tả trong lộ trình Nhân Quả nối tiếp
nhau: Xúc - Thọ - Ái - Thủ - Hữu - Khổ (sinh già bệnh chết) Sầu Bi Ưu Não.
Một cách đầy đủ tỉ mỉ thì lộ trình nhân quả liên tiếp này là lộ trình tâm Bát Tà
Đạo của Phàm phu:

Xúc - Thọ - Tưởng - Tà Niệm - Tà Tư Duy - (Ý thức) Tà Tri Kiến - Tham Sân
Si - Tà Định - Dục - Tà Tinh Tấn - Phi như lý tác ý - Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà
mạng - Khổ (sinh già bệnh chết) Sầu Bi Ưu Não.

Thấy Biết được như thật lộ trình duyên khởi lên Khổ và Nguyên nhân Khổ, lộ
trình duyên khởi lên Sự Chấm Dứt Khổ và Con Đường Chấm Dứt Khổ (giác
ngộ Tứ Thánh Đế) là công việc của VĂN TUỆ, TƯ TUỆ và TU TUỆ chứ
không phải là LỄ BÁI CẦU NGUYỆN, GÓP NHẶT PHƯỚC BÁO, những
công việc ấy là của Đức Tin tôn giáo. Vì vậy Đạo Phật thật là ĐẾN ĐỂ MÀ
THẤY chứ không phải ĐẾN ĐỂ MÀ TIN như Đạo Phật tôn giáo. Chánh Tín do
Văn Tuệ và Tư Tuệ là Nhân để khởi lên Tinh Tấn. Do có Tinh Tấn tu tập Bát
Chánh Đạo mà lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế với ba trụ cột Chánh Niệm -
Chánh Định - Chánh Kiến khởi lên, được tu tập và đi đến viên mãn. Lộ trình
này được mô tả trong Ngũ Căn, Ngũ Lực: Tín - Tấn - NIỆM - ĐỊNH - TUỆ.

Khi đã đến đích, Tuệ Giải Thoát đã rốt ráo, viên mãn, đã tự mình biết rõ, tự
mình Tuệ tri Khổ Diệt hay Niết Bàn của vị VÔ HỌC ĐẠO thì Chánh Tín cũng
không còn nữa, chỉ còn Trí Tuệ mà thôi. Khi CHÁNH TRÍ khởi lên, vị ấy đã tự
mình thấy, tự mình biết Phật thật, Pháp thật, Tăng thật thì Chánh Tín về Phật,
về Pháp, về Tăng của vị hữu học không còn nữa mà được thay thế bằng Chánh
Trí. Trái lại với Trí Tuệ, Đức Tin tôn giáo sẽ làm cho con người thích thú khi
nghe: Nguyên nhân Khổ là Tham Sân Si nhưng không có tìm tòi, nghiên cứu,
tham khảo để giải đáp vấn đề: Vì sao nguyên nhân Khổ là tham sân si? Vì
không có Văn Tuệ và Tư Tuệ như vậy, nên khi nghe xong, Kiến thức đó tuy có
được lưu vào kho chứa nhưng nó bị chìm ngay xuống dưới và Vô Minh nổi lên,
lại chi phối mọi hiểu biết giống như một ao nước phủ đầy bèo cám, khi ném
một hòn đá xuống, bèo dạt ra, để lộ mặt nước nhưng chỉ một loáng sau, bèo lại
trở lại phủ đầy mặt ao, không còn trông thấy mặt nước nữa. Vì vậy khi nghe nói
đến Phước, họ hoan hỷ, thích thú, ca ngợi và tinh tấn thực hành để giảng nói về
Phước, động viên làm Phước, nỗ lực cố gắng làm Phước, tích luỹ Phước, hồi
hướng Phước... Phước là thông tin nổi trội nhất trong kho chứa bởi nó phù hợp
với hiểu biết đang chi phối đời sống các tín đồ tôn giáo: nguyên nhân Khổ là do
thiếu Phước, nên phải tích luỹ Phước, để hết Khổ, Phước là thứ hành trang duy
nhất mang đi được, để kiếp sau được tái sanh vào những hoàn cảnh tốt đẹp, mới
hết Khổ. Chính hiểu biết: Khổ và Nguyên nhân Khổ nơi thế giới Ngoại Cảnh, là
Vô Minh từ vô thuỷ đã khởi lên hiểu biết Khổ là do thiếu Phước và lúc đó SỰ
THẬT NGUYÊN NHÂN KHỔ LÀ THAM SÂN SI sẽ không còn dấu vết trong
hiểu biết do Đức Tin tôn giáo khởi lên. Đức Tin tôn giáo nói đến Tin Sâu Nhân
Quả: Khổ là do Nghiệp, Khổ là do thiếu Phước và gán cho Phật giảng như vậy.
Đây chính là Vô Minh. Trong bốn mươi lăm năm thuyết pháp của mình Đức
Phật chưa bao giờ nói Nguyên nhân Khổ là do Nghiệp đã tạo tác trong quá khứ,
chưa bao giờ nói Khổ là do thiếu Phước mà trước sau như một, Ngài đã giảng
dạy nhất quán và duy nhất: Nguyên nhân Khổ là Tham Sân Si thuộc Nội tâm và
muốn Chấm dứt Khổ là đoạn tận Tham Sân Si thuộc Nội tâm chứ không phải
thay đổi Ngoại Cảnh, chứ không phải tích luỹ Phước để tương lai thay đổi
Ngoại cảnh. Đương nhiên không thể phủ nhận quá trình nhân quả: Phước và
Quả báo của Phước nhưng Quả Báo đó chỉ "Thật Sự Tốt" cho những ai còn đam
mê luân hồi sinh tử, những ai không nhận ra, làm như vậy là chỉ đổi cái khổ này
lấy một cái khổ khác mà thôi, chứ không bao giờ Chấm Dứt Khổ. Đó là Phước
báo thuộc thế gian, thuộc hữu lậu, đưa đến quả Sanh y. Đó không phải là chủ
trương của Phật, Phật chỉ dạy: Chấm dứt Sanh y, Chấm dứt luân hồi sinh tử.

Về mục lục

Bài 102: NGỮ CẢNH CỦA NGÔN TỪ

Ngôn từ là pháp được con người chế định, là quy ước, có nhiệm vụ làm
PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN THÔNG. Nhân loại tồn tại và phát triển là nhờ
ngôn ngữ làm phương tiện truyền thông, truyền đạt thông tin để mỗi người hiểu
sự việc và tư duy trên các thông tin đó. Đương nhiên để ngôn từ làm được phận
sự là phương tiện truyền thông, và còn làm phương tiện của tư duy thì phải
QUY ƯỚC ngôn từ đó ám chỉ sự vật hay hiện tượng nào (pháp nào). Vì vậy, để
hiểu được chính xác ngôn từ trong một bản văn hay trong các câu nói thì hiểu
biết về hoàn cảnh ra đời hay NGỮ CẢNH của ngôn từ rất quan trọng, nó quyết
định sự hiểu biết đúng hay sai cái hiện tượng mà ngôn từ ấy truyền thông. Hiểu
biết đúng sự thật về Ngữ Cảnh của ngôn từ cũng đồng nghĩa với hiểu biết đúng
sự thật thực tại (các pháp) mà ngôn từ ấy chỉ bày. Được vậy thì con người sẽ
không cãi nhau và ngôn từ sẽ làm tốt chức năng truyền thông của nó. Ví như,
loài người cãi nhau con gà có trước hay quả trứng có trước, bất phân thắng bại,
bởi do tư duy lý luận suông mà luận ra: con gà đẻ ra quả trứng, rồi từ quả trứng
lại nở ra con gà nên không thể kết luận dứt khoát con gà có trước hay quả trứng
có trước. Lỗi lầm này là do không quan sát ngữ cảnh của từ con gà và quả
trứng, nên không phân biệt “con gà” đẻ ra quả trứng (1) là khác, và “con gà” do
quả trứng nở ra (2) là khác, KHÔNG THỂ ĐỒNG NHẤT HAI CON GÀ (1)
VÀ (2) ĐÓ LÀ MỘT để cãi nhau như tư duy lý luận suông được. Nếu đưa ra
một con gà thật và một quả trứng thật thì sẽ xác định ngay được con gà hay quả
trứng có trước, không ai cãi nhau nữa. Bởi đó là gà thật, trứng thật mắt thấy tai
nghe, còn nhân loại cãi nhau về con gà khái niệm, con gà tư tưởng, được tưởng
tượng ra.

Đặc biệt trong Pháp học Phật giáo nếu không quan sát NGỮ CẢNH các ngôn
từ, đặc biệt là các thuật ngữ Phật học thì sẽ hiểu sai SỰ THẬT THỰC TẠI mà
ngôn từ, thuật ngữ đó chỉ bày. Ví như, Đức Phật khi thuyết giảng “Các Dục vui
ít khổ nhiều, não nhiều mà nguy hiểm lại càng nhiều hơn” đã ví Dục như khúc
xương không, như bó đuốc rơm đi ngược gió, như miếng thịt sống, như cây sai
trái, như hố than hừng, như mũi tên nhọn, như đầu rắn hổ mang, như món nợ,
như giấc mộng v.v.. để chứng minh. Đa phần người nghe lại hiểu những hình
ảnh đó dựa vào tri thức về ngữ cảnh của mình đang trải qua nên không thể hiểu
đúng điều Đức Phật đề cập, vì thế họ hiểu đời người như cây sai trái, mỗi trận
gió rung cành, thì trái xanh chín đều rụng rơi, hoặc là đời thối tha như miếng thịt
sống. Họ không tư duy, tìm hiểu cái Ngữ Cảnh mà Phật nói là Ấn Độ trên 2600
năm trước, khi mà chăn nuôi và trồng trọt không phát triển như ngày nay, mà
người ta đi hái lượm hoa quả trong rừng và hễ cây cao có dăm ba quả thì họ vất
vả trèo lên để hái, còn cây đó có hàng trăm quả thì họ sẽ đốn ngay cây đó để
nhặt cho nhanh (ví cho sự nguy hiểm của Dục); hoặc là Ấn độ cổ đại có rất
nhiều chim kền kền và hễ một con chim kền kền cắp được miếng thịt sống thì
bầy chim với hàng trăm con sẽ lao đến xâu xé miếng thịt sống và có thể xé xác
cả con chim đó (ví cho sự nguy hiểm của các Dục). Đa phần người tu lấy hoàn
cảnh hiện tại và hiểu biết của mình để hiểu về những điều luật Phật đã chế định
(Giới Luật) mà không quan sát và tư duy trên Ngữ Cảnh của các điều luật, nên
không thể hiểu đúng, hành đúng lời dạy của Phật về Giới Luật. Ví như, đa phần
người tu dựa vào hoàn cảnh hiện tại, hiểu điều luật tu sĩ chỉ được thọ nhận 3 y
là chỉ được dùng 3 bộ quần áo nhưng họ không hề biết, hiểu như vậy là sai. Bởi
3 y trong Luật phải hiểu gồm: 1 tấm vải để quấn quanh thân từ rốn trở xuống
như một cái váy gọi là y nội; 1 tấm vải để quấn quanh thân trên nhưng để hở
một bên vai trái gọi là y vai trái; 1 tấm vải như y vai trái nhưng dày 2 lớp dùng
để đắp khi ngủ hoặc quấn thân trên khi trời lạnh gọi là y Tăng già lê. Ba y chỉ
có vậy và đương nhiên khi giặt y nội, vị đó phải lấy y vai trái quấn quanh thân
chờ cho y nội khô mới có thể đi lại, sinh hoạt bình thường. Vì không hiểu Ngữ
Cảnh của điều luật “Tỷ kheo chỉ được ăn khi có người dâng tận tay” nên người
dâng hiểu như vậy mới có phước (nên mới chạm tay vào nhau kéo thành hàng
dài khi dâng cúng cho một vị Tăng), người nhận thì hiểu là người dâng phải tôn
trọng Tăng như vậy mới nhận. Điều luật “dâng tận tay...” mà Đức Phật chế định
xuất phát từ Ngữ Cảnh là có một thí chủ dâng cúng thức ăn đến Tỷ kheo tăng
nhưng khi bày ra thì mới biết quên đi một món ăn quan trọng và lập tức đi về
nhà để lấy. Một số Tỷ kheo nhìn thấy thức ăn, họ chẳng hỏi là của ai mà ngồi
ngay xuống và ăn số thức ăn đó. Khi thí chủ quay lại thấy thức ăn mình chưa
dâng cúng cho ai mà đã biến mất nên mới phàn nàn. Do lý do đó Đức Phật mới
chế ra điều luật dâng tận tay mới được ăn để ngăn chặn tình trạng tương tự.
Mọi điều luật trong tạng Luật mà Đức Phật chế định đều có lý do, đều có Ngữ
Cảnh. Phải quan sát và tư duy trên Ngữ Cảnh đó mới hiểu đúng như thật mục
đích của Giới Luật là để ĐỐI TRỊ CÁC TỆ NẠN của những hạng người không
có trí, để các Tỷ kheo hiền thiện có điều kiện tu học Chánh Pháp, để người
chưa có Đức tin có được Đức tin, người có Đức tin thì được tăng trưởng, chứ
không phải Giới Luật là Nguyên nhân phát sinh Định, Định phát sinh Tuệ (Giới
sinh Định, Định sinh Tuệ) như hiểu biết sau này. Nếu Giới Luật sinh Định,
Định sinh Tuệ mới đắc quả thì mười mấy năm đầu của lịch sử Tăng đoàn, Đức
Phật chưa chế định một Điều Luật nào, nên thời kỳ đó chưa có Giới Luật thì
chưa thể sinh Định, Định chưa có thì không thể sinh Tuệ, vậy không thể có một
ai chứng quả được?

Khi đọc bài kệ:

Đốn rừng không đốn cây


Từ rừng sinh sợ hãi
Đốn rừng đốn ái dục
Tỷ kheo được tịch tĩnh.

người đọc hoang mang bởi sự phi lý của câu đầu “Đốn rừng không đốn cây”. Vì
sao vậy? Vì họ không quan sát SỰ THẬT THỰC TẠI mà câu kệ chỉ bày, tức
Ngữ Cảnh của câu kệ, mà họ dùng hiểu biết của mình để hiểu về câu kệ. Hiểu
biết của nhân loại là “rừng là cây, cây là rừng” và so sánh câu đầu với hiểu biết
đó thì đốn rừng mà không đốn cây là điều đại phi lý. Họ không quan sát rừng
nguyên sinh để thấy như thật, cây mới chỉ là một yếu tố tạo nên rừng nguyên
sinh còn yếu tố thứ hai nữa là các loại dây leo chằng chịt quấn quýt từ cây này
sang cây khác, bít bùng không có lối đi mới tạo thành rừng nguyên sinh. Chỉ
cần loại bỏ một trong hai yếu tố, thì rừng sẽ không còn. Vì vậy, chỉ cần chặt bỏ
toàn bộ dây leo chằng chịt, không đốn cây thì rừng không còn, nên “đốn rừng
không đốn cây” là vậy. Từ nghĩa đen của câu một mà nhắm đến nghĩa ẩn dụ
cho câu thứ ba, nghĩa tu là chặt bỏ sợi dây Ái Dục (Dây leo) ràng buộc với Đối
Tượng thực tại chứ không phải tu để xa lánh, chối bỏ, đoạn diệt Đối Tượng
thực tại (Cây rừng).

Trong thiền quán Vispassana thuộc về Chú giải, thuộc tạng Luận có đưa ra quan
điểm thực hành thiền Vispassana để thấy rõ “các pháp vô thường, khổ, vô ngã”.
Tuy mọi pháp đều vô thường, vô ngã nhưng mọi pháp Sắc Thọ Tưởng Hành
Thức (Danh và Sắc) đều khổ là sai sự thật, sai với thuyết giảng của Đức Phật
trong kinh Chuyển Pháp Luân: Tóm lại Năm Thủ Uẩn là khổ. Điều này phải
được hiểu theo Ngữ Cảnh, thực tại Phàm phu sống là Thực tại Thế gian có tính
chất vô thường, có khổ, có vô ngã (vô thường, khổ, vô ngã) nhưng tu không
những để thấy biết như thật Thực tại thế gian là vô thường, khổ, vô ngã mà còn
phải thấy biết như thật Thực tại Xuất thế gian (thuộc bậc Thánh) có tính chất vô
thường, KHỔ DIỆT, vô ngã (vô thường, khổ diệt, vô ngã). VÔ THƯỜNG,
KHỔ, VÔ NGÃ và VÔ THƯỜNG, KHỔ DIỆT, VÔ NGÃ là tính chất của hai
loại thực tại Thế gian và Xuất thế gian thuộc về Phàm và Thánh.

Trong các Chú giải thuộc tạng Luận (là tri kiến của các Luận sư) của cả hai phái
Bắc truyền và Nam truyền đều có đề ra hai khái niệm Tục Đế và Chân Đế, và cả
hai đều sai lạc với Ngữ Cảnh của tạng Kinh. Trong tạng Kinh, Đế được hiểu là
Sự thật hay Chân lý mà bậc Thánh đã giác ngộ gồm Bốn Đế: Khổ Đế, Tập Đế,
Đạo Đế, Diệt Đế. Trong Bốn Đế này thì Khổ Đế và Tập Đế là Sự thật thực tại
Thế gian thuộc Phàm phu (nếu sử dụng từ Tục Đế để chỉ hai Đế này thì phù hợp
với Kinh) và Diệt Đế và Đạo Đế là Sự thật thực tại Xuất thế gian thuộc bậc
Thánh (nếu sử dụng từ Chân Đế để chỉ hai Đế này thì phù hợp với Kinh).

Nhưng trong các chú giải thuộc tạng Luận thì Tục Đế được cho là Sự thật tương
đối thuộc về Thế tục và Chân Đế là Sự thật tuyệt đối thuộc về Xuất thế. Hiểu
như vậy là mâu thuẫn với Sự thật thực tại, bởi đã là Sự thật thì chỉ duy nhất có
một, không thể có hai loại Sự thật: Sự thật tương đối và Sự thật tuyệt đối. Tạng
Luận quan niệm rằng có đàn ông, đàn bà, xe cộ v.v.. là pháp chế định, là sự thật
tương đối, là pháp thế gian, là Tục đế. Trên phương diện Sự thật tuyệt đối, Chân
đế thì không có pháp chế định như đàn ông, đàn bà, xe cộ v.v.. mà tất cả chỉ là
Danh và Sắc. Cái mà họ cho là Sự thật tuyệt đối, là Chân đế, chính là Danh và
Sắc, thực chất cũng là ngôn từ, cũng vẫn là pháp chế định, dùng để ám chỉ các
đối tượng thực tại với mức độ tổng quát mà thôi. Hai pháp được mô tả bởi hai
từ Danh và Sắc này cũng tương tự như đàn ông, đàn bà, xe cộ... đều là Pháp Chế
Định, chỉ khác nhau là ám chỉ các sự vật hiện tượng với mức độ tổng quát hay
cụ thể hơn mà thôi. Danh Sắc là nói chung, đàn ông, đàn bà, xe cộ... là nói
riêng, nói cụ thể hơn về Danh và Sắc.

Bản chất của sự việc là: Sự thật thực tại chỉ có một nhưng lại có hai cách hiểu
khác nhau về Sự thật thực tại. Một là, Hiểu sai Sự thật thực tại, gọi là Vô minh
tà kiến. Hai là, Hiểu đúng Sự thật thực tại, gọi là Minh, Chánh kiến. Ví như một
người khỏe mạnh nhai khúc mía, thì dù người đó là Phàm hay Thánh đều cảm
nhận được vị ngọt. Ngôn từ vị ngọt là pháp chế định để chỉ cho đối tượng thực
tại mà Thánh hay Phàm đều cảm nhận được này.

- Nhưng Phàm phu vì không quan sát Ngữ Cảnh của ngôn từ vị ngọt nên hiểu
biết vị ngọt theo tri thức học hỏi trong quá khứ, cho rằng vị ngọt là vật chất, sẵn
có, luôn luôn có (thường hằng, thường trú) trong khúc mía, vị ngọt là “của”
khúc mía. Đây là hiểu biết sai, Vô minh tà kiến về vị ngọt.

- Bậc Thánh quan sát Ngữ Cảnh của ngôn từ vị ngọt sẽ biết đúng sự thật vị
ngọt: Lưỡi và Khúc mía là hai nhân tố (Căn và Trần) nhưng chưa tiếp xúc thì
chưa ai cảm nhận được vị ngọt nào cả. Khi Lưỡi và Khúc mía tiếp xúc thì lập
tức phát sinh vị ngọt và cũng đồng thời phát sinh tâm biết ghi nhận hay cảm
nhận đối tượng (vị ngọt). Đây là Ngữ Cảnh của từ vị ngọt được chế định để ám
chỉ hiện tượng Lưỡi tiếp xúc Khúc mía thì phát sinh đồng thời Cảm giác vị
(ngọt) và Thiệt thức (ghi nhận đối tượng Cảm giác vị ngọt đó). Xúc sinh Cảm
giác vị ngọt sinh; Xúc diệt Cảm giác vị ngọt diệt nên Cảm giác vị ngọt sinh lên
rồi diệt đi, vô thường, không sẵn có, không luôn luôn có, không thường hằng,
không thường trú nơi khúc mía. Cảm giác vị ngọt không phải của Lưỡi, không
phải của Khúc mía nên nó Vô chủ, vô sở hữu (Vô ngã). Vậy từ vị ngọt là để chỉ
cho Cảm giác vị ngọt do Lưỡi tiếp xúc Khúc mía mà phát sinh và nó là Danh
(Tâm) chứ không phải Sắc (Cảnh), và nó Vô thường, Vô chủ, vô sở hữu (Vô
ngã), chứ không thường hằng thường trú trong khúc mía, không phải của Khúc
mía như hiểu biết vô minh tà kiến của nhân loại. Mọi pháp khác như to nhỏ
vuông tròn dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng mềm thô
mịn, không gian thời gian, năng lượng khối lượng, sự sống cái chết, đàn ông
đàn bà, sum la vạn tượng v.v.. đều có HAI CÁCH HIỂU VÔ MINH VÀ MINH
NHƯ VẬY. Ngôn từ mà Đức Phật đã dày công chế định căn cứ trên SỰ THẬT
THỰC TẠI mà Ngài đã tự mình chứng ngộ và thuyết giảng, vẫn được bảo tồn
khá nguyên vẹn trong các bộ kinh Nikaya, nhưng để hiểu được Chân Nghĩa các
ngôn từ ấy phải quán sát Ngữ Cảnh của ngôn từ mới thấy ra sự thật thực tại mà
ngôn từ chỉ bày, mới thấy được Chân Nghĩa lời dạy của Phật. Nếu không dùng
ngôn từ ấy để quan sát sự thật thực tại, mà dùng tri thức kinh nghiệm học hỏi từ
thế gian, cắt nghĩa từ ngữ đó hình thành từ ngữ căn này, ngữ căn kia mà giải
nghĩa, thì sẽ biến ngôn từ Phật dạy thành hiểu biết vô minh tà kiến của Phàm
phu. Đặc biệt những ngôn từ nói về Bát Chánh Đạo siêu thế như Không tánh,
Vô tướng, Vô tác, Niết bàn, Chánh niệm, Chánh định, Chánh kiến, Tỉnh giác
v.v.. nếu không tu tập thân chứng được các trạng thái vi tế đó thì chỉ dùng tư
duy lý luận suông suy diễn mỗi người mỗi kiểu và đưa đến cãi lộn nhau, như
tình trạng một số bộ Luận, một số bộ chú giải thuộc tạng Luận của các tông
phái Phật giáo hiện nay.

Về mục lục

Bài 103: ĐÚNG VÀ SAI

Đúng Sai là một cặp khái niệm đối lập để phán định một TRI THỨC HIỂU
BIẾT là Đúng hay là Sai. Đúng hay Sai phát sinh như thế nào? Ví như một thầy
giáo chấm bài thi của học sinh phải phân tích, so sánh đối chiếu những Kiến
thức được học sinh trình bày trong bài thi với những Kiến thức được liệt kê
trong đáp án. Hành vi: phân tích (ra từng câu, từng đoạn, từng kết quả), đối
chiếu so sánh giữa hai loại kiến thức hiểu biết như vậy gọi là TƯ DUY và do Tư
Duy mà phát sinh kết luận: Hiểu Biết đó là Đúng hay Sai. Kết luận Đúng hay
Sai này chính là nội dung của Cái biết Ý thức. Vậy thì biết Đúng hay Sai là nội
dung của Ý thức, không phải là nội dung của cái biết của các thức khác như
Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng (thức). Các Thức
này chỉ "nhận biết" đối tượng chứ không Biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra
sao, đúng hay sai.

ĐÚNG hay SAI là nội dung cái biết Ý thức do Tư Duy mà phát sinh, mà Tư
Duy là hành vi phân tích, so sánh đối chiếu, phán đoán, kết luận giữa một TRI
THỨC HIỂU BIẾT mới và những TRI THỨC HIỂU BIẾT đã thu thập, kinh
nghiệm, tích luỹ trong quá khứ (các tri thức hiểu biết đó đã được mã hoá và lưu
giữ trong kho chứa tâm thức dưới dạng thông tin, tương tự ổ nhớ máy vi tính).
Nhưng trong những TRI THỨC HIỂU BIẾT đã được thu thập, tích lũy trong
quá khứ đó cũng được phân làm hai loại: một loại Tri thức hiểu biết ĐÚNG SỰ
THẬT mà thuật ngữ Phật học gọi là MINH và một loại Tri thức hiểu biết
KHÔNG ĐÚNG SỰ THẬT mà thuật ngữ Phật học gọi là VÔ MINH. Như vậy
trong cái biết Ý thức có HAI LOẠI ĐÚNG SAi. Đó là Đúng Sai khi so sánh đối
chiếu với những Tri thức hiểu biết sai lạc (Vô Minh) thuộc về Phàm phu và
Đúng Sai khi so sánh đối chiếu với Tri thức hiểu biết đúng Sự Thật (Minh) của
các bậc Thánh.

1 - ĐÚNG và SAI của Phàm phu:

Trong kho chứa tâm thức của Phàm phu lưu giữ những thông tin về những Tri
thức hiểu biết sai lạc từ vô thuỷ, đó là VÔ MINH. Cụ thể là Ý thức nhị nguyên
Tâm biết Cảnh, Khổ Tập Diệt Đạo ở nơi thế giới ngoại cảnh Sắc Thanh Hương
vị Xúc Pháp, là tư tưởng cái này là của Ta, là Ta, là bản ngã của Ta, là Thường
Kiến, Ngã Kiến, là bốn điên đảo Thường Lạc Ngã Tịnh... Tư Duy của Phàm phu
sẽ so sánh đối chiếu một Tri thức hiểu biết mới với Tri thức hiểu biết sai lạc này
nên Đúng hay Sai là Đúng Sai với Vô Minh, Thường Kiến, Ngã Kiến. Nói theo
cách khác, ĐÚNG SAI CỦA PHÀM PHU LÀ ĐÚNG SAI VỚI HỆ QUY
CHIẾU VÔ MINH. Ví như anh thanh niên có hàm răng tốt ăn xong cái bánh đa
vừa quạt liền nói: Tôi biết bánh đa này giòn quá. Tri thức hiểu biết mà anh vừa
truyền tải là bánh đa này giòn nghĩa là "giòn" sẵn có, thường xuyên có (thường
hằng, thường trú) nơi cái bánh đa, "giòn" là của bánh đa. Tất cả nhân loại từ
người không biết chữ đến nhà bác học đều phán định: lời nói đó là ĐÚNG. Vì
sao vậy? Bởi vì ai cũng so sánh, đối chiếu với hiểu biết đã được lưu giữ trong
kho chứa tâm thức của họ: ngọt nằm trong đường và của đường, mặn nằm trong
muối và của muối, ngon dở nằm trong thức ăn và của thức ăn, giòn nằm trong
bánh đa và của bánh đa... Tư Duy như vậy đương nhiên sẽ đi đến kết luận: hiểu
biết của anh thanh niên là ĐÚNG. Nhưng đây là ĐÚNG với hiểu biết VÔ
MINH của nhân loại chứ hiểu biết đó KHÔNG ĐÚNG SỰ THẬT. Vì rằng nếu
hiểu biết "giòn" nằm trong bánh đa, của bánh đa là ĐÚNG SỰ THẬT thì tất cả
mọi người ai ăn cũng cảm nhận được cái giòn ấy như anh thanh niên có răng tốt
kia, kể cả một ông già 90 tuổi đã rụng hết tất cả răng chỉ nhai bằng lợi. Nhưng
sự thật không phải như vậy, ông già 90 rụng hết răng thì không thấy giòn đâu
cả. Tuy nhân loại đang sống với thực tại Thấy, Nghe, Cảm Nhận các pháp như
to nhỏ, vuông tròn, dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng mềm
thô mịn, nặng nhẹ, đàn ông đàn bà, nhà cửa xe cộ, hạnh phúc, khổ đau,... nhưng
họ HIỂU Biết các pháp đó là vật chất hoặc tính chất của vật chất, sẵn có, thường
xuyên có (thường hằng, thường trú) trong vật chất, trong thế giới ngoại cảnh
Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp và Mặc Định hiểu biết như vậy là ĐÚNG, ngoài
hiểu biết này là SAI. Đây chính là là quan điểm Duy Vật. Một hiểu biết thứ hai
cho rằng các pháp như vậy là không có thật mà chỉ là do Thượng Đế Toàn Năng
(hoặc Bổn Tâm) hoá hiện ra, đây mới là ĐÚNG, ngoài ra là SAI. Đây chính là
là quan điểm Duy Tâm. ĐÚNG và SAI của Phàm phu như vậy đưa đến tranh
cãi, hơn thua, đưa đến các cuộc chiến tranh miệng lưỡi là khởi đầu của các cuộc
chiến tranh binh khí, huỷ diệt nhau. Vì sao vậy? Vì trong ĐÚNG SAI đó đã
mang nội dung Ngã Kiến, chấp thủ một Bản Ngã không sinh không diệt.

2 - ĐÚNG và SAI của bậc Thánh:

Đúng và Sai của bậc Thánh là Đúng Sai đối với Sự Thật của các Pháp. Ví như
khi quán sát Sự Thật trong ví dụ trên: Hàm răng tốt là một nhân, Bánh đa nướng
giòn là nhân thứ hai, nhưng chưa tiếp xúc nhau thì chưa có cái "giòn" nào cả.

Khi bánh đa tiếp xúc với hàm răng tốt thì lập tức phát sinh Cảm giác giòn mà
Thánh hay Phàm đều cảm nhận được. Đây mới là "giòn" thực, là Thực Tại của
cuộc sống hàng ngày. Nó là một Cảm Giác hay thuật ngữ Phật học gọi là Cảm
Thọ, thuộc phàm trù Tâm chứ không phải vật chất. Xúc sinh Cảm giác giòn sinh,
Xúc diệt Cảm giác giòn diệt. Vì vậy Cảm giác giòn Vô thường, không sẵn có,
không thường xuyên có, không thường hằng, không thường trú trong bánh đa.
Cảm giác giòn cũng Vô chủ, Vô sở hữu nên không phải là của bánh đa. Như vậy
"Giòn" là Cảm giác, không nằm trong bánh đa, không phải của bánh đa.

Đây chính là Hiểu Biết ĐÚNG SỰ THẬT.

Bậc Thánh hiểu biết ĐÚNG SỰ THẬT: Thực Tại cuộc sống này chính là
những đối tượng được Thấy, được Nghe, được Cảm Nhận là CẢM THỌ do sáu
Căn tiếp xúc Sáu Trần phát sinh ra, nó đều Vô Thường, Vô Chủ, Vô Sở Hữu
(Vô Ngã), có Vị ngọt, Sự Nguy hiểm, Sự Xuất ly. Vì vậy những pháp như to
nhỏ, vuông tròn, dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng mềm
thô mịn, đàn ông đàn bà, nhà cửa xe cộ, hạnh phúc, khổ đau... đều là CẢM
THỌ do sáu Căn tiếp xúc sáu Trần phát sinh ra, đều Vô thường, Vô chủ, không
phải là vật chất, không thường hằng, không thường trú nơi thế giới ngoại cảnh
Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp. KHỔ TẬP DIỆT ĐẠO là nội tâm chứ không
có nơi thế giới ngoại cảnh. Thực Tại của Phàm phu có Vô Thường, Khổ, Vô
Ngã, Bất Tịnh. Thực Tại của bậc Thánh có Vô Thường, Khổ Diệt, Vô Ngã,
Thanh Tịnh. Bậc Thánh có Chánh Tư Duy nên so sánh đối chiếu một Kiến thức
nào đó với những Tri Thức Hiểu Biết Đúng Sự Thật này nên Đúng Sai của bậc
Thánh là Đúng Sai với Sự Thật. Nói cách khác ĐÚNG SAI CỦA BẬC
THÁNH LÀ ĐÚNG SAI THEO HỆ QUY CHIẾU MINH. Bậc Thánh vẫn sống
với Ý thức Chánh Tri Kiến nên vẫn phân biệt ĐÚNG SAI nhưng không còn
tranh cãi hơn thua vì trong nội dung ĐÚNG SAI đó không còn Ngã Kiến,
không còn chấp thủ một Bản Ngã không sinh không diệt.

Trong Phật Giáo có mẫu chuyện Người Mù Sờ Voi mô tả bốn người mù sờ voi.
Người sờ được vòi tuyên bố voi như con đỉa, người sờ được chân tuyên bố voi
như cột nhà, người sờ được tai tuyên bố voi như quạt mo, người sờ được đuôi
tuyên bố voi như chỗi xể. Và họ xông vào tranh cãi đánh lộn nhau để tranh
giành, mình mới là người duy nhất Biết Đúng. Một người có mắt sáng biết rõ voi
gồm các bộ phận trên và cũng biết rõ những người mù "AI CŨNG ĐÚNG
THEO HIỂU BIẾT CỦA HỌ" và do hiểu biết như vậy không có tranh cãi, hơn
thua với những người mù. Ẩn dụ này ví Hiểu Biết của người có mắt sáng là
Hiểu Biết của Như Lai, còn hiểu biết của những người mù là Hiểu Biết một
chiều của nhân loại. Chính vì vậy mà trong Kinh Mật Hoàn thuộc Trung Bộ
Kinh Ngài đã tuyên bố: PHÁP MÀ TA THUYẾT GIẢNG KHÔNG TRANH
LUẬN MỘT AI Ở ĐỜI.
Về mục lục

Bài 104: NHẤT DẠ HIỀN GIẢ

Đây là một bản kinh rất nổi tiếng, được nhiều người biết đến và ca tụng. Hầu
như mọi người đều nhất trí với nhau, đây là lối sống do Đức Phật chủ trương và
giảng dạy. Đó là sống trong giây phút hiện tại. Có nhiều bản kinh Nhất Dạ Hiền
Giả khác nhau, nhưng đều là các giải thích nhằm sáng tỏ bài kệ trong phần Tổng
thuyết mà Đức Phật đã giảng. Toàn bộ bài kệ như sau:

"Quá khứ không truy tìm


Tương lai không ước vọng
Quá khứ thì đã qua
Tương lai thì chưa tới
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính ở đây
Không động không rung chuyển
Biết vậy nên tu tập

Hôm nay nhiệt tâm làm


Ai biết chết ngày mai
Không ai điều đình được
Với đại quân thần chết

Trú như vậy nhiệt tâm


Đêm ngày không mệt mỏi
Xứng gọi Nhất Dạ Hiền
Bậc an tịnh trầm lặng."

Toàn bộ bài kệ này, phần đầu, phần cuối đều quan trọng, nhưng bảy câu đầu là
nền tảng để thẩm thấu chín câu sau. Nội dung bảy câu đầu này nói rõ chủ trương
Sống Trong Hiện Tại của Đức Phật là như thế nào? Thấu rõ nội dung của bảy
câu kệ này sẽ phân biệt rõ ràng giữa Sống Trong Hiện Tại của bậc Thánh và
Sống Trong Hiện Tại của Phàm phu.

1 - Chỉ có pháp hiện tại:

Đời sống của mỗi một người hay là Thực tại của mỗi một người là những gì
Được Thấy, Được Nghe, Được Cảm Nhận và những hành vi Nhận Thức các đối
tượng đó, tiếp đến là Thái Độ (như yêu hoặc ghét...), Phản Ứng (lời nói, hành
động) đối với đối tượng và Kết Quả (khổ, vui hoặc không khổ không vui) đối
với đối tượng đó của Thực tại. Thực tại không có mặt trong khi ngủ say không
mộng mị, trong khi ngất đi vì một tai nạn, trong khi gây mê sâu để mổ. Thực tại
chỉ có mặt khi thức tỉnh, khi sáu Căn (Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân Ý) tiếp xúc sáu
Trần (Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp) và những đối tượng Được Thấy, Nghe,
Cảm Nhận là sáu Cảm Thọ hay sáu Cảm Giác bao gồm: Cảm giác hình ảnh,
Cảm giác âm thanh, Cảm giác mùi, Cảm giác vị, Cảm giác xúc chạm và Cảm
giác pháp trần.

Khi Căn Trần tiếp xúc, một Cảm giác xuất hiện, tức có một đối tượng xuất hiện,
thì Thấy, Nghe, hay Cảm Nhận đối tượng xuất hiện, tiếp đến Nhận Thức đối
tượng xuất hiện, tiếp đến Thái Độ xuất hiện, tiếp đến Phản Ứng xuất hiện, tiếp
đến Kết Quả (khổ, vui, không khổ không vui) đối với đối tượng xuất hiện. Mỗi
một Tâm hành hay mỗi một Danh pháp này đều sinh lên rồi diệt đi theo một thứ
tự, theo một lộ trình và được gọi là Lộ Trình Tâm. Mỗi một Danh pháp sinh lên
rồi diệt, nó chỉ tồn tại trong giây lát hiện tại, toàn bộ một lộ trình Tâm cũng sinh
lên rồi diệt đi, cũng chỉ tồn tại trong giây lát hiện tại. Vì vậy tất cả các pháp
không còn tồn tại trong quá khứ, không có mặt, không tồn tại trong tương lai,
mà chỉ có mặt, chỉ tồn tại trong giây phút hiện tại. Như vậy Thực tại đang sinh
lên rồi diệt đi, không có một pháp nào thường hằng, thường trú ở đâu cả, tất cả
các pháp của Thực tại đều Vô Thường. Câu kệ của Đức Phật đã chỉ rõ: "Quá
khứ thì đã qua. Tương lai thì chưa tới. Chỉ có pháp hiện tại". Các pháp chỉ có
mặt, chỉ tồn tại duy nhất trong phút giây hiện tại.

Mỗi buổi sáng thức dậy, Mắt tiếp xúc Sắc trần phát sinh Cảm giác hình ảnh -
Nhãn thức và Nhãn thức thấy Cảm giác hình ảnh. Đối tượng được thấy là Cảm
giác hình ảnh chỉ tồn tại trong giây lát hiện tại và khi đầu quay sang hướng khác
tạo duyên cho Mắt tiếp xúc Sắc trần khác thì đối tượng được thấy cũ diệt đi và
xuất hiện một đối tượng được thấy mới. Khi Thực tại cũ tức Cảm giác hình ảnh
cũ trở thành quá khứ, thì nó diệt đi, không còn tồn tại và xuất hiện một Thực tại
mới, một Cảm giác hình ảnh mới tồn tại trong giây phút hiện tại. Trong một ngày
biết bao hằng hà sa số Cảm giác hình ảnh tức đối tượng được Thấy sinh lên rồi
diệt đi. Hiện tại chỉ tồn tại một Cảm giác hình ảnh, còn tất cả các Cảm giác hình
ảnh đã thấy đều đã diệt. Các Cảm giác âm thanh, Cảm giác mùi, Cảm giác vị,
Cảm giác pháp trần cũng sinh lên rồi diệt đi tương tự như vậy, chỉ tồn tại trong
giây lát hiện tại, khi diệt đi, khi hiện tại đã trở thành quá khứ, nó không còn tồn
tại trong quá khứ, mà chỉ có lượng thông tin về nó được lưu giữ trong kho chứa
tâm thức. Khi Ý tiếp xúc với Pháp tức tiếp xúc với lượng thông tin được lưu giữ
này thì một tư tưởng khởi lên, nhớ tưởng về các pháp đã diệt, thì đó thuần tuý là
tư tưởng chứ không phải là cảm giác thật, thực tại thật đã từng tồn tại trước đây.
Các tư tưởng về quá khứ hoặc vị lai do Ý tiếp xúc Pháp mà phát sinh cũng phát
sinh và tồn tại trong giây lát hiện tại. Chính vì Thực tại chỉ xảy ra và tồn tại trong
giây phút hiện tại, cho nên chỉ có sống trong giây phút hiện tại chứ không thể nào
sống trong quá khứ hoặc sống trong tương lại vì vậy Thánh hay Phàm đều đang
sống trong hiện tại chứ không phải như một số hiểu lầm là bậc Thánh sống trong
hiện tại còn Phàm phu sống bởi quá khứ và tương lai. Vậy thì có gì khác nhau
giữa Sống Trong Hiện Tại của Phàm phu và Sống Trong Hiện Tại của bậc Thánh
theo giảng dạy của Đức Phật?

2 - Sống Trong Hiện Tại của Phàm phu:

Lộ trình tâm của Phàm phu là Bát Tà Đạo, có Vô minh, có Tham Sân Si, có Sầu
Bi Khổ Ưu Não mà đặc điểm nổi bật đã được Đức Phật nói đến là: Khát ái
(tham ái và khao khát) tìm cầu hỷ lạc (hạnh phúc) chỗ này chỗ kia như Dục ái,
Hữu ái, Phi Hữu ái. Vì vậy kẻ Phàm phu cũng Sống Trong Hiện Tại nhưng là
lối sống: "Truy tìm quá khứ, ước vọng tương lai và đắm chìm trong hiện tại".
Vì tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu có Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái nên khi đối
diện một đối tượng dễ chịu (Lạc thọ) thì Tham khởi lên, đối diện một đối tượng
khó chịu (Khổ thọ) thì Sân khởi lên, đối diện một đối tượng trung tính (Bất khổ
bất lạc thọ) thì Si khởi lên.

- Khi đối diện một đối tượng dễ chịu (Lạc thọ) Tham khởi lên, đối diện một đối
tượng khó chịu (Khổ thọ) Sân khởi lên. Do thích thú (tham) đối tượng dễ chịu
nên bị lôi cuốn vào đối tượng đó, do chán ghét, tức tối, bực bội (sân) đối tượng
khó chịu nên cũng bị lôi cuốn vào đối tượng đó. Khi bị lôi cuốn, bị cuốn hút
vào các đối tượng do Tham và Sân thì không còn quan tâm, để ý đến các đối
tượng khác. Sự việc này xảy ra trong giây phút hiện tại và được gọi là đắm chìm
trong hiện tại.

- Khi đối diện một đối tượng trung tính (Bất khổ bất lạc thọ) thì không thích,
không ghét đối tượng, không bị lôi cuốn vào đối tượng mà Si khởi lên đưa đến
tác ý, tạo nhân duyên cho một lộ trình tâm do Ý tiếp xúc với Pháp khởi lên. Lộ
trình tâm do Si tạo nhân duyên khởi lên này sẽ truy tìm Niềm vui, Hạnh phúc
đã có trong quá khứ hay dự định, tính toán, tìm kiếm Niềm vui, Hạnh phúc
trong tương lai. Đây được gọi là truy tìm quá khứ, ước vọng tương lai do Si mà
khởi lên. Các tư tưởng truy tìm quá khứ, ước vọng tương lai cũng đang xảy ra
trong giây phút hiện tại. Phải hết sức lưu ý: Truy tìm quá khứ, ước vọng tương
lai mà Đức Phật giảng dạy không phải là truy tìm các sự kiện xảy ra trong quá
khứ, không phải là ước vọng các sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai mà là truy tìm
NIỀM VUI, HẠNH PHÚC đã từng có trong các sự kiện quá khứ, ước vọng
NIỀM VUI, HẠNH PHÚC trong các sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai.

Kẻ Phàm phu cũng SỐNG TRONG HIỆN TẠI nhưng theo cách "Truy tìm quá
khứ, ước vọng tương lai hoặc đắm chìm trong hiện tại" do Tham, do Sân, do Si.
3 - Sống Trong Hiện Tại của Bậc Thánh:

Bậc Thánh Sống Trong Hiện Tại với Tuệ Quán, nghĩa là khi xuất hiện một Cảm
thọ, cho dù Lạc thọ, Khổ thọ hay Bất khổ bất lạc thọ thì quán sát Cảm thọ đó
với Trí Tuệ. Đó chính là lộ trình tâm Bát Chánh Đạo, với hai cấp độ: cái biết
Tỉnh giác và cái biết Ý thức Chánh Kiến.

- Sống Trong Hiện Tại với cái biết Tỉnh Giác: Đó là khi Niệm Thân và Niệm
Thọ. Khi có một Cảm thọ khởi lên, Chánh Niệm khởi lên, tức nhớ đến chú tâm
quán sát các cảm giác trên thân (Niệm Thân) hay nhớ đến chú tâm quán sát mọi
Cảm giác (Niệm Thọ) thì Chánh Tinh Tấn, Chánh Định liên tiếp khởi lên và lộ
trình tâm Bát Chánh Đạo kết thúc tại đó. Do vậy lộ trình tâm này chỉ có cái biết
trực tiếp giác quan nhận biết đối tượng mà Ý thức không khởi lên. Cái biết trực
tiếp giác quan cụ thể là Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức,
Tưởng thức nhờ có Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định được an trú,
được tách bạch ra khỏi cái biết Ý thức và được gọi là Tỉnh Giác hay Không
Tánh. Với cái biết Tỉnh Giác hay Không Tánh Vô niệm, Vô ngôn, Vô phân biệt
(vô cũng là không) này, Thấy chỉ là thấy, Nghe chỉ là nghe, Cảm nhận chỉ là
cảm nhận, không có Nhận Thức (Ý thức), không có Thái Độ, không có Phản
Ứng, không có Kết Quả (khổ, vui). An trú cái biết Tỉnh Giác này là sống trong
hiện tại, không có Tham, không có Sân, không có Si. Vì không có Si nên không
truy tìm quá khứ, không ước vọng tương lai, không có Tham, Sân nên không
đắm chìm trong hiện tại. Đó là Sống Trong Hiện Tại với cái biết Tỉnh Giác. Ví
như khi quét nhà, nếu có Chánh Niệm, nhớ đến chú tâm quán sát các cảm giác
trên thân liên tục khởi lên trong thời gian quét nhà (không phân tâm, không nhớ
đến việc khác) thì Chánh Định tức chú tâm các cảm giác trên thân liên tục khởi
lên. Do sự chú tâm như vậy nên biết rõ các cảm giác quét nhà với cái biết trực
tiếp Thân thức, đầu óc trống không, không suy nghĩ, không có tư tưởng về quá
khứ, không có tư tưởng về tương lai, nên không truy tìm quá khứ, không ước
vọng tương lai, không có cái gì ở phía trước để bị lôi đi, không có gì ở phía sau
để kéo lại. Trong thời gian quét nhà với cái biết Tỉnh giác như vậy, tâm sẽ tĩnh
lặng, tự tại, không có đời trước, không có đời sau, không có đời này. Đó chính
là nhiếp phục, đoạn tận khổ đau. Đó là không truy tìm quá khứ, không ước vọng
tương lai, không đắm chìm trong hiện tại. Một vị Tỷ kheo thực hành Chánh
Niệm Tỉnh Giác với mọi thân hành, thì vị đó đang sống trong hiện tại với Tỉnh
Giác: Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh
đều tỉnh giác, khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y kép, y bát đều
tỉnh giác, khi ăn, uống, nhai, nuốt, đều tỉnh giác, khi đi đại tiện, tiểu tiện đều
tỉnh giác, khi đi, đứng, ngồi nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác.

- Sống Trong Hiện Tại với Ý thức Chánh Tri Kiến: Đó là khi Niệm Tâm, Niệm
Pháp. Khi Căn Trần tiếp xúc, phát sinh một đối tượng và có Chánh Niệm khởi
lên, nhớ đến đối tượng đó là Cảm giác, là Tâm, nhớ đến quán sát nội tâm (Niệm
Tâm), nhớ đến đối tượng đó Vô thường, Vô ngã, nhớ đến ly tham, buông xả,
nhớ đến tuệ tri vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly... (Niệm Pháp) thì lộ trình tâm
Bát Chánh Đạo siêu thế khởi lên và sau khi nhận biết đối tượng với cái biết
Tỉnh Giác, Ý thức Chánh Tri Kiến khởi lên sẽ biết như thật đối tượng đó là Cảm
giác, là Tâm, biết đối tượng đó Vô thường, Vô ngã, ly tham, buông xả, biết như
thật vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly của đối tượng... Do thấy như vậy, biết như
vậy về đối tượng mà sẽ không yêu thích, không chán ghét, độc lập không ràng
buộc, giải thoát không hệ luỵ đối với các đối tượng được Thấy, được Nghe,
được Cảm Nhận, được Nhận Thức.

Với Ý thức Chánh Tri Kiến trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế này mới
thực sự "Tuệ quán chính ở đây. Không động không rung chuyển". Với Ý thức
Chánh Tri Kiến là Minh, là Trí Tuệ này mới thực sự chấm dứt "Truy tìm quá
khứ, ước vọng tương lai, đắm chìm hiện tại".

Rất nhiều người nhầm lẫn chủ trương Sống Trong Hiện Tại của chủ nghĩa Hiện
Sinh, cho nó là Sống Trong Hiện Tại như Phật đã chủ trương. Chủ nghĩa hiện
sinh và rất nhiều người chủ trương từ bỏ quá khứ và tương lai để quay về sống
trong hiện tại. Nhưng họ chủ trương sống trong hiện tại như thế nào? Đó là quay
về hiện tại để nhận chân ra và tận hưởng được NIỀM VUI HẠNH PHÚC trong
giây phút hiện tại. Chính vì vậy, với lời văn hoa mỹ, câu văn hoa mỹ, các hình
dung từ hoa mỹ, họ cổ xuý cho giây phút hiện tại tràn đầy vẻ đẹp diệu kỳ, mầu
nhiệm, tràn đầy Niềm vui, Hạnh phúc và nhân loại vì sống bởi quá khứ hoặc
tương lai mà không tận hưởng được Hạnh phúc của giây phút hiện tại nhiệm
mầu. Giây phút hiện tại có trời xanh, mây trắng, gió hát, chim ca, có đôi mắt
lành lặn của người thương, có nụ cười thơ ngây, bé bỏng... đều là hạnh phúc.
Hạnh phúc đang hiện hữu trong làn khói lam chiều, trong hạt sương đọng trên
mạng nhện trong tiết trời lành lạnh mỗi buổi sáng mai, trong hoàng hôn khi mặt
trời lặn khuất núi đồi... Chủ trương quay về giây phút hiện tại để nhận chân ra
Hạnh phúc đang tràn đầy trong hiện tại và quay về giây phút hiện tại để tận
hưởng được Hạnh phúc nhiệm mầu trong giây phút hiện tại xuất phát từ tư
tưởng sâu xa trong tâm thức nhân loại mà Đức Phật đã chỉ ra: "Khát Ái tìm cầu
hỷ lạc (Hạnh phúc) chỗ này chỗ kia như Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ai". Và đó
chính là Nguyên nhân Khổ. Tư tưởng đó vẫn từ Vô minh mà phát sinh ra, vẫn
như những con cá không thể nhảy ra khỏi tấm lưới rộng lớn Bát Tà Đạo, tấm
lưới Tà Kiến đang bủa vây quanh chúng.

Về mục lục

Bài 105: CHÁNH NIỆM VÀ TRÍ TUỆ

Câu hỏi của A-ji-ta:


Mọi nơi dòng nước chảy
Cái gì ngăn dòng nước?
Hãy nói lên cái gì,
Chế ngự được dòng nước?
Cái gì đóng dòng nước?
Thế Tôn liền đáp lại:
Hỡi này A-ji-ta
Các dòng nước ở đời
Chánh niệm ngăn chặn lại
Chánh niệm được ta gọi
Chế ngự các dòng nước
Và chính do Trí Tuệ
Đóng lại các dòng nước.
(Kinh Tiểu Bộ - Phẩm con đường đến bờ bên kia.)

Nội dung câu hỏi và câu trả lời là về "dòng nước" chảy ở đời. Vậy "dòng nước"
chảy ở đời là cái gì mà phải ngăn chặn lại, phải đóng lại? Nền tư tưởng và văn
học Ấn độ thường sử dụng lối nói ẩn dụ để người học sáng tỏ hơn, nhớ kỹ hơn,
lâu hơn điều cần hiểu, cần ghi nhớ. Trong Kinh điển có sử dụng hình ảnh dòng
nước thác lũ với từ Hán dịch là "bộc lưu". Và "dòng nước" chảy ở đời là các
dòng thác lũ đang cuốn trôi kẻ phàm phu bao gồm: Vô minh bộc lưu, Dục bộc
lưu và Hữu bộc lưu.

- Vô minh bộc lưu: Vô minh chính là Ý thức Tà Tri Kiến phát sinh trên lộ trình
tâm Bát Tà Đạo, là hiểu biết sai sự thật về các đối tượng được Thấy, được
Nghe, được Cảm Nhận. Vốn các đối tượng đó là Sáu Cảm thọ, nó Vô thường,
Vô chủ lại cho nó là Thế giới ngoại cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp, cho
nó Thường hằng, thường trú và Hữu chủ. Vốn Khổ Tập Diệt Đạo là Danh pháp
thuộc nội tâm lại cho là thuộc ngoại cảnh. Vốn Thực Tại của Phàm phu có Vô
thường, Khổ, Vô ngã, Bất tịnh lại Biết một cách điên đảo là Thường, Lạc, Ngã,
Tịnh. Điều này ví như Thấy đối tượng vốn là Sợi dây lại Biết nó là Con rắn. Kẻ
Phàm phu đang bị cuốn trôi, đang ngoi ngóp, đang chao đảo trong dòng thác lũ
Vô minh bộc lưu.

- Dục bộc lưu: Do Vô minh mà phát sinh Tham ái Hạnh phúc vật chất và Hạnh
phúc tinh thần gọi là Dục ái, là Hạnh phúc do Sắc đẹp, Tiếng hay, Hương thơm,
Vị ngon, Xúc chạm êm ái gây nên. Đây là dòng thác lũ gọi là Dục bộc lưu cuốn
trôi, nhận chìm, đưa đẩy, kéo lê kẻ Phàm phu trong dòng chảy của nó.

- Hữu bộc lưu: Do Vô minh mà phát sinh Tham ái sự sống, sự hiện hữu gọi là
Hữu ái. Đây là dòng thác lũ gọi là Hữu bộc lưu đang nhận chìm, cuốn trôi,
đưa đẩy, kéo lê kẻ Phàm phu trong luân hồi sinh tử, trong các cảnh giới tái
sanh, chịu nỗi khổ của Sinh Già Bệnh Chết.

Ba bộc lưu này là "dòng nước chảy" ở đời đang nhận chìm và cuốn trôi nhân
loại. Ba bộc lưu này đều do cái BIẾT Ý thức Tà Tri Kiến mà phát sinh. Đức
Phật dạy người tu phải làm hai việc: một là ngăn chặn ba bộc lưu, hai là đóng
bít ba bộc lưu lại.

a - Chánh Niệm Tỉnh Giác ngăn chặn ba bộc lưu:

Trong bài kệ nói: Chánh Niệm ngăn chặn lại dòng nước, nhưng vì đây là bài kệ
với mỗi câu năm chữ nên đó là nói tắt của Chánh Niệm Tỉnh Giác. Vậy tại sao
Chánh Niệm Tỉnh Giác ngăn chặn được ba bộc lưu?

Khi Căn Trần tiếp xúc phát sinh Cảm thọ và cũng phát sinh hành vi THẤY và
BIẾT đối tượng Cảm thọ đó. THẤY là nói gọn của Thấy, Nghe, Cảm Nhận đối
tượng, là sự nhận biết đối tượng mà Tâm lý học gọi là Nhận thức cảm tính đối
tượng. Tiếp đến Niệm và Tư Duy khởi lên làm phát sinh Ý thức, hiểu biết đối
tượng đó là cái gì, tính chất ra sao. Đây chính là BIẾT, mà Tâm lý học gọi là
Nhận thức lý tính đối tượng. Đối với Phàm phu THẤY là đúng sự thật, còn
BIẾT là Vô minh và do BIẾT là Vô minh nên mới phát sinh Vô minh bộc lưu,
Dục bộc lưu, Hữu bộc lưu. Nếu khi một Cảm thọ phát sinh, nếu thực hành cách
nào đó để cho lộ trình tâm DỪNG LẠI THẤY, và do vậy NGĂN CHẶN BIẾT,
không cho BIẾT khởi lên thì Vô minh bộc lưu, Dục bộc lưu, Hữu bộc lưu được
ngăn chặn, không còn tuôn chảy. Để dừng lại THẤY, không cho BIẾT khởi lên,
phải thực hành Chánh Niệm Tỉnh Giác. Đó là thực hành Niệm Thân: nhớ đến
chú tâm quán sát các Cảm thọ nơi thân. Lộ trình tâm Bát Chánh Đạo đó xảy ra
như sau:

Xúc - Thọ - Tưởng - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định (chú tâm) -
(Tỉnh Giác)

Khi Cảm thọ phát sinh thì đồng thời cái biết trực tiếp giác quan (Tưởng) nhận
biết Cảm thọ, tiếp đến Chánh Niệm khởi lên làm phát sinh Chánh Tinh Tấn,
Chánh Tinh Tấn sẽ làm phát sinh Chánh Định, chú tâm vào đối tượng. Do
Chánh Định, chú tâm vào đối tượng mà lộ trình tâm dừng lại và một số lộ trình
tâm tương tự như vậy xảy ra, và nhờ vậy mà Cảm thọ được cái biết trực tiếp
giác quan nhận biết một cách rõ ràng minh bạch. Cái biết trực tiếp giác quan lúc
này không còn gọi là Tưởng tri mà gọi là Tỉnh Giác. Như vậy để dừng lại
THẤY (gọi là Tỉnh Giác) phải có: Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định
- (Tỉnh Giác) gọi tắt là Chánh Niệm Tỉnh Giác. Người tu sẽ kinh nghiệm được
Thấy chỉ là Thấy, Nghe chỉ là Nghe, Cảm Nhận chỉ là Cảm Nhận đối tượng
không thêm bớt, được gọi là Thấy thực tại như chúng đang là, không có Ý thức
khởi lên, không biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao nên không có Tham
Sân Si, không có Phiền não. Người tu cũng kinh nghiệm được giải thoát, và giải
thoát này được gọi là Tâm Giải Thoát hay Không Giải Thoát. Như vậy Chánh
Niệm Tỉnh Giác ngăn chặn không cho cái BIẾT Ý thức Tà Tri Kiến khởi lên, vì
vậy ngăn chặn không cho các "dòng nước" tuôn chảy.

b - Trí Tuệ đóng lại các dòng nước:

Không chỉ dừng lại THẤY mà phải tu tập để Thay Đổi BIẾT, từ Ý thức Tà Tri
Kiến sang Ý thức Chánh Tri Kiến, BIẾT NHƯ THẬT đối tượng đó là Cảm thọ
do Căn Trần tiếp xúc mà phát sanh, đối tượng đó Vô thường, Vô chủ (Vô ngã),
có Vị ngọt, Sự nguy hiểm, Sự xuất ly. Khi Ý thức Chánh Tri Kiến là Trí Tuệ
có mặt thì Ý thức Tà Tri Kiến là Vô Minh bị đoạn diệt và điều này xảy ra khi
thực hành Niệm Tâm và Niệm Pháp. Lộ trình tâm đó xảy ra như sau:
Xúc - Cảm thọ - Tưởng - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - (Tỉnh
Giác) - Chánh Tư Duy - Chánh Tri Kiến

Sự tu tập Niệm Tâm và Niệm Pháp làm cho Hành giả kinh nghiệm và an trú giải
thoát. Giải thoát này có tên gọi là Tuệ Giải Thoát. Thực hành Niệm Tâm và
Niệm Pháp sẽ làm cho sự tu tập Trí Tuệ đi đến viên mãn và sẽ xảy ra "đột
chuyển nơi thẳm sâu" tâm thức. Lúc đó lượng thông tin Vô Minh trong kho
chứa "tri thức kinh nghiệm hiểu biết" bị xoá bỏ hoàn toàn, nhân của Bát Tà
Đạo, nhân của Ý thức Tà Tri Kiến bị đoạn diệt hoàn toàn. Đó chính là quả A la
hán.

Đây gọi là đóng lại vĩnh viễn dòng nước dữ: Vô Minh bộc lưu, Dục bộc lưu,
Hữu bộc lưu.

Trong kinh điển, sự tu tập để dừng lại THẤY gọi là Tỉnh Giác, còn gọi là
THẤY THỰC TẠI NHƯ CHÚNG ĐANG LÀ được diễn tả: Vị Tỷ kheo, khi đi
tới, khi đi lui đều Tỉnh giác, khi ngó tới, khi ngó lui đều Tỉnh giác, khi mang y
kép, mang bình bát đều Tỉnh giác, khi đại tiện, tiểu tiện đều Tỉnh giác, khi nhai
nuốt đều Tỉnh giác, khi đi đứng ngồi nằm thức nói, yên lặng đều Tỉnh giác. Đây
gọi là ngăn chặn dòng nước, chế ngự dòng nước chứ không đóng lại được dòng
nước, không đưa đến quả A la hán được.

Sự tu tập để thay đổi BIẾT từ Ý thức Tà Tri Kiến sang Ý Thức Chánh Tri Kiến
được mô tả trong kinh điển: Vị ấy ly dục, ly các bất thiện pháp chứng và trú Sơ
thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Với tâm định tĩnh, nhu nhuyễn dễ sử
dụng, vững chắc, bình thản, không cấu nhiễm như vậy, vị ấy hướng tâm đến
quán sát để BIẾT NHƯ THẬT: Đây là Khổ, Đây là Nguyên nhân Khổ, Đây là
Sự chấm dứt Khổ, Đây là con đường chấm dứt Khổ. Đây là lậu hoặc, Đây là
Nguyên nhân lậu hoặc, Đây là chấm dứt lậu hoặc, Đây là con đường chấm dứt
lậu hoặc. Do THẤY như vậy BIẾT như vậy mà mọi lậu hoặc được đoạn tận. Vị
ấy BIẾT NHƯ THẬT: Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc cần làm
đã làm, không còn trở lui thế gian này nữa. Đây mới là đóng lại dòng nước vĩnh
viễn.

Về mục lục

Bài 106: VÔ MINH GỐC

Vô minh gốc là hiểu biết sai lạc căn bản, mà từ đó những hiểu biết sai lạc khác
phát sinh. Vô minh gốc chính là Ý thức nhị nguyên Tâm Cảnh hay Tâm Vật, cụ
thể Cái biết là Tâm và đối tượng được biết là Cảnh hay Vật. Cái biết hay là Tâm
biết bao gồm: nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức và đối
tượng được biết là Thế giới ngoại cảnh: Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần.

Trong Ý thức nhị nguyên có nội dung:

- Nhãn thức thấy Sắc trần,

- Nhĩ thức nghe Thanh trần

- Tỉ thức ngửi Hương trần

- Thiệt thức nếm Vị trần

- Thân thức biết Xúc trần

- Ý thức biết Pháp trần (Pháp trần là các pháp như to nhỏ, vuông tròn, dài
ngắn, mặn ngọt chua cay, cứng mềm thô mịn, sinh diệt, nhơ sạch, tăng
giảm, hạnh phúc, khổ đau...)

Đây chính là VÔ MINH GỐC hay Vô minh căn bản, là nền tảng mà các Vô
minh khác phát sinh. Nói rõ hơn, trong Ý thức nhị nguyên Tâm Cảnh có Con
người chủ quan với sáu Căn (Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân Ý) trong đó TÂM BIẾT
dựa vào Sáu Căn được hiểu là thường hằng, thường trú nơi Sáu Căn và Thế giới
khách quan (Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp). Sáu Căn cùng với Tâm biết dựa
vào Sáu Căn là CHỦ THỂ NHẬN THỨC, có tác dụng nhận thức về thế giới
ngoại cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp và Thế giới ngoại cảnh Sắc Thanh
Hương Vị Xúc Pháp là ĐỐI TƯỢNG NHẬN THỨC. Cặp đôi Phạm Trù CĂN
TRẦN hay CHỦ THỂ NHẬN THỨC và ĐỐI TƯỢNG NHẬN THỨC được
Kinh Phạm Võng, bản kinh mở đầu của Trường Bộ Kinh gọi là BẢN NGÃ và
THẾ GIỚI.

Trong Kinh Phạm Võng, sau khi liệt kê 62 quan điểm, là những hiểu biết về
BẢN NGÃ và THẾ GIỚI, Đức Phật đã khẳng định, những hiểu biết đó là Vô
minh, đó là sự không thấy, không biết sự thật của các Sa môn, Bà la môn bị
tham ái kích động và chi phối. Những hiểu biết không đúng sự thật đó, những
Vô minh đó sẽ tác thành những định mệnh như vậy, những cõi thú như vậy
(nghĩa là đưa đến những cảnh giới luân hồi tương ứng như vậy). Trong Kinh
Năm Ba thuộc Trung Bộ Kinh, Đức Phật đã tuyên bố :"Vô thượng tịch tĩnh, tối
thắng đạo được Như Lai Chánh Đẳng Giác sau khi NHƯ THẬT TUỆ TRI SÁU
XÚC XỨ". Và do như thật tuệ tri sáu xúc xứ mà Ngài đã tuyên bố sự giác ngộ
của Ngài là GIÁC NGỘ VỀ CẢM THỌ trong Kinh Phạm Võng: "Này các Tỷ
kheo, do Như Lai như thật tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và
sự xuất ly của Thọ mà Như Lai được giải thoát hoàn toàn không còn chấp thủ".
TUỆ TRI SÁU XÚC XỨ là Thấy Biết như thật Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần. Khi
ngủ say không mộng mị, có Sáu Trần nhưng Sáu Căn không hoạt động (hệ thần
kinh không làm việc) và như vậy không có XÚC, do không có XÚC nên không
có Thực Tại, nghĩa là không có Tâm Biết cũng như Đối Tượng được biết. Khi
thức tỉnh sáu Căn tiếp xúc sáu Trần và do có XÚC nên Thực Tại phát sinh.
Thực Tại đó là các lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu và lộ trình tâm Bát
Chánh Đạo của bậc Thánh bao gồm TÂM BIẾT và ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC BIẾT
đều do CĂN TRẦN TIẾP XÚC MÀ PHÁT SINH. TÂM BIẾT và ĐỐI
TƯỢNG ĐƯỢC BIẾT đều Vô Thường, Vô Chủ (Vô Ngã) chứ không Thường
Hằng, Thường Trú nơi CĂN hay CẢNH. THỰC TẠI do Sáu Căn tiếp xúc Sáu
Trần phát sinh là Sáu Cảm Thọ (Tiếng Việt gọi là sáu Cảm Giác) và sáu Cái
biết trực tiếp giác quan nhận biết sáu Cảm Thọ (mà thuật ngữ Phật học gọi là
Tưởng tri đối tượng). Cụ thể:

- Mắt tiếp xúc Sắc trần phát sinh: Cảm giác hình ảnh và Nhãn thức. Nhãn
thức thấy Cảm giác hình ảnh chứ không phải thấy Sắc trần.

- Tai tiếp xúc Thanh trần phát sinh: Cảm giác âm thanh và Nhĩ thức. Nhĩ
thức nghe Cảm giác âm thanh chứ không phải nghe Thanh trần.

- Mũi tiếp xúc Hương trần phát sinh: Cảm giác mùi hương và Tỉ thức. Tỉ
thức cảm nhận Cảm giác mùi hương chứ không phải cảm nhận Hương
trần.

- Lưỡi tiếp xúc Vị trần phát sinh: Cảm giác vị và Thiệt thức. Thiệt thức
cảm nhận Cảm giác vị trần chứ không phải cảm nhận Vị trần.

- Thân tiếp xúc Xúc trần phát sinh: Cảm giác xúc trần và Thân thức. Thân
thức cảm nhận Cảm giác xúc trần chứ không phải cảm nhận Xúc trần.

- Ý tiếp xúc Pháp trần phát sinh: Cảm giác pháp trần và Tưởng (thức).
Tưởng (thức) cảm nhận Cảm giác pháp trần chứ không phải cảm nhận
Pháp trần.

Tiếp theo là Niệm và Tư Duy khởi lên làm phát sinh Ý thức: Ý thức nhận
thức về đối tượng là các Cảm giác chứ không phải nhận thức về Thế giới Sắc
Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần (nhưng Vô minh lại Mặc Định là nhận thức
về Thế giới)

Thái độ, Lời nói, Hành động do Ý thức khởi lên là đối với Thực Tại Cảm Thọ
chứ không phải đối với Thế giới ngoại cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp
trần.
TUỆ TRI SÁU XÚC XỨ thì sẽ thấy biết như thật Thực Tại của mỗi người tức
những gì được Thấy, được Nghe, được Cảm nhận như là to nhỏ, vuông tròn, dài
ngắn, xanh vàng đỏ trắng đẹp xấu, mặn ngọt chua cay ngon dở, cứng mềm thô
mịn, nhơ sạch, đàn ông, đàn bà, xe cộ, hạnh phúc, khổ đau... là các CẢM THỌ,
nó Vô thường (không thường hằng, không thường trú đâu cả), nó Vô chủ
(không có cái gì là chủ nhân, chủ sở hữu nó) hay Vô ngã (không có cái Ta chủ
nhân, chủ sở hữu nó). Đây là hiểu biết đúng như thật, là MINH, là TRÍ TUỆ và
MINH GỐC này mới xoá bỏ, đoạn diệt VÔ MINH GỐC, xoá bỏ, đoạn diệt hiểu
biết sai lạc.

Đây là những pháp sâu kín, khó thấy, khó biết, tịch tịnh, mỹ diệu vượt qua mọi
tư duy lý luận suông chỉ có người trí mới có khả năng giác hiểu. Những pháp
này Đức Phật đã tự mình chứng tri và tuyên thuyết. Nhưng những giảng giải tỉ
mỉ của Đức Phật đã không được truyền lại đầy đủ, do phương thức truyền thông
của thời đại ấy, nên ngày nay chỉ tồn tại dưới dạng các đề mục, khung sườn, các
dàn bài sơ lược. Ví như Đức Phật đã giảng dạy cho nhóm Kiều Trần Như trong
một tuần liền về bài Kinh Chuyển Pháp Luân, chắc phải rất tỉ mỉ nhưng ngày
nay lời dạy ấy chỉ tồn tại trong Kinh Chuyển Pháp Luân với độ dài chỉ cần đọc
độ vài chục phút.

Phàm phu bị VÔ MINH GỐC là TÂM BIẾT CẢNH che đậy không có thể quán
sát sự thật, không có thể thấy biết như thật: ngọt, mặn... là các ngôn từ được chế
định, dùng làm phương tiện truyền thông nhằm ám chỉ Thực Tại là các Cảm
Thọ do Lưỡi tiếp xúc với Đường, Muối mà phát sinh ra, nó Vô thường, Vô chủ,
nên ngọt không ở trong đường, không phải của đường, mặn không ở trong
muối, không phải của muối... Trong sự phát triển của Phật giáo có vô số các
Luận giải, Chú giải về lời dạy của Đức Phật, nhưng bộ Luận nào, bộ Chú giải
nào mà sử dụng hiểu biết TÂM BIẾT CẢNH, theo kiểu ngọt ở trong đường và
của đường, mặn ở trong muối và của muối, ngon dở ở trong thức ăn và của thức
ăn, nóng nằm trong lửa và của lửa, lạnh nằm trong nước đá và của nước đá,
cứng mềm thô mịn nặng nhẹ là đặc tính của địa đại... thì đích thị đó là VÔ
MINH và Luận giải đó, Chú giải đó là suy diễn tưởng tượng do Vô minh mà ra,
là sự xuyên tạc Pháp của Đức Thế Tôn khéo giảng.

Về mục lục

Bài 107: BỐN ĐIÊN ĐẢO: THƯỜNG, LẠC, NGÃ ,TỊNH

Bốn điên đảo là bốn hiểu biết sai sự thật, đảo ngược sự thật của Phàm phu. Đó
là các pháp là Vô thường thì hiểu biết là Thường, các pháp Vô ngã thì hiểu biết
là Hữu ngã, Thực tại thế gian là Khổ thì hiểu biết là Lạc, Niềm vui, Hạnh phúc,
Lạc thú thế gian là ô uế, bất tịnh thì hiểu biết nó là Thanh tịnh. Như vậy kẻ
Phàm phu có bốn hiểu biết không đúng sự thật, bốn hiểu biết điên đảo đó là:
THƯỜNG LẠC NGÃ TỊNH.

1 - Điên đảo thứ nhất: Các pháp vốn Vô Thường lại hiểu biết điên đảo là
Thường: Các pháp đều do duyên Xúc mà khởi lên theo định luật: Hai nhân tiếp
xúc nhau (tương tác) rồi cùng diệt mà phát sinh quả. Quả ấy lại đóng vai trò là
nhân tiếp xúc với nhân khác rồi cùng diệt mà phát sinh quả khác. Quá trình cứ
xảy ra miên viễn như vậy. Vậy thì các pháp sinh lên rồi diệt đi, nó chỉ tồn tại,
chỉ hiện hữu trong một khoảng thời gian nhất định, không tồn tại vĩnh viễn,
không thường hằng, nó chỉ có mặt Duy Nhất Một Lần, không lặp lại lần thứ hai
nên nó không thường trú ở đâu cả. Các pháp không thường hằng, không thường
trú như vậy nên gọi là Vô Thường. Nhưng Phàm phu vì bị Vô Minh che đậy,
không thấy biết như thật Lý Duyên Khởi, mà thấy biết sai lạc theo kiểu Một
Nhân sinh Quả, Nhân biến đổi thành Quả. Với Vô Minh căn bản này sẽ có hiểu
biết: Thực tại những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức
là Thế giới ngoại cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp. Trong cái Thế giới
ngoại cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp ấy, các sự vật, hiện tượng không
sinh ra, không mất đi mà chỉ BIẾN ĐỔI từ vật này sang vật khác, từ trạng thái
này sang trạng thái khác mà thôi. Tất cả các pháp như to nhỏ, vuông tròn, dài
ngắn, xanh vàng đỏ trắng, nóng lạnh, mặn ngọt chua cay, cứng mềm thô mịn,
đẹp xấu, nhơ sạch... đều "Ở" trong Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp, sẵn có,
thường xuyên có, thường hằng, thường trú trong Sắc Thanh Hương Vị Xúc
Pháp. Ví như nóng ở trong lửa, lạnh ở trong nước đá, ngọt ở trong đường, mặn
ở trong muối, ngon dở trong thức ăn... Hạnh phúc có ở trong sắc đẹp, tiếng hay,
hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái, trong những hoàn cảnh tốt đẹp. Đau khổ
nằm trong những hoàn cảnh xấu xa, tồi tệ, như nghèo đói, lạc hậu, thiếu tiện
nghi, thiên tai, lũ lụt... Khổ Tập Diệt Đạo nằm trong Thế giới ngoại cảnh Sắc
Thanh Hương Vi Xúc Pháp... Những hiểu biết như vậy, cho rằng Thực tại được
thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là Thế giới Sắc Thanh Hương
Vị Xúc Pháp, hoặc thường hằng, thường trú trong Sắc Thanh Hương Vị Xúc
Pháp là không đúng sự thật, là vọng tưởng, là điên đảo. Vì rằng Thực tại được
thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là Sáu Cảm Thọ do duyên Sáu
Căn tiếp xúc Sáu Trần mà phát sinh ra, sinh lên rồi diệt đi, các pháp đó Vô
Thường, không thường hằng, không thường trú ở đâu cả.

Vì hiểu biết điên đảo như trên, gọi là Thường Kiến mà Phàm phu không thể nào
tuỳ thuận, không thể nào thích nghi được với Thực tại Vô Thường. Phàm phu
mong muốn ổn định, khát khao ổn định, tích lũy cho ổn định, hướng đến ổn
định, hướng đến an cư lạc nghiệp. Phía trước, nơi tương lai có một đích đến ổn
định, đạt được cái đích ấy là xong, không có gì phải suy tính, phải lo lắng, phải
lao tâm khổ trí nữa, kẻ Phàm phu nghĩ vậy. Nhưng rồi, cho dù đạt được cái đích
đến ấy với biết bao cay đắng, nhọc nhằn nhưng vì nó vô thường, nó lại diệt đi,
một đích đến khác lại hiện ra, lại phải tìm cách đạt đến đích mới với bao bươn
chải. Nhưng nó không dừng lại đó, mà như chủ đề của bản giao hưởng "Khúc
nhạc dạo đầu": “Cuộc đời, từ những tiếng ru êm đềm của mẹ, những hương vị
ngọt ngào của tình yêu đầu tiên, những niềm tin ngây thơ và dễ dãi bị cuộc đời
vùi dập, chà đạp và tan vỡ. Đến khi con người lao vào cuộc đấu tranh, tìm được
hạnh phúc trong chiến thắng và cả bản hành khúc tang lễ cuối cùng. Tất cả, tất
cả đều chỉ là "Khúc nhạc dạo đầu"”. Vì Thường kiến mà nhân loại mơ ước
trường sinh, mơ ước một cuộc sống trẻ mãi không già và cuộc đời bất diệt. Vì
không biết rằng Hạnh phúc là một Cảm giác dễ chịu, một Lạc thọ, nó Vô
Thường, kẻ Phàm phu vì hiểu biết Thường kiến điên đảo, cho rằng Hạnh phúc
thường hằng, thường trú trong hoàn cảnh tốt đẹp bên ngoài nên yêu thích, tham
đắm, tìm cầu và nắm giữ nó, nên khi nó biến hoại, biến diệt, mất đi, sầu bi khổ
ưu não khởi lên.

2 - Điên đảo thứ hai: Các pháp là Vô chủ, Vô sở hữu cũng đồng nghĩa là Vô
ngã lại hiểu biết điên đảo là Hữu Ngã. Vì không tuệ tri Lý Duyên Khởi nên
không thấy biết như thật quan hệ giữa các pháp theo chiều không gian và theo
chiều thời gian chỉ có mối quan hệ tương tác, nghĩa là hai nhân tố tiếp xúc nhau,
tương tác nhau rồi cùng diệt đi và phát sinh quả, giữa các pháp không hề tồn tại
quan hệ chủ nhân, quan hệ sở hữu, không có một cái Ta (Bản Ngã) là chủ nhân,
chủ sở hữu các pháp, kẻ Phàm phu điên đảo cho rằng "CÁI NÀY LÀ CỦA CÁI
KIA", điên đảo sống với "CÁI TA" là chủ nhân, chủ sở hữu của Sắc Thọ Tưởng
Hành Thức. Cái Ta mà theo tiếng Hán là Bản Ngã nghĩa là tự có, vốn có, không
từ đâu sinh ra, không diệt đi, Bản Lai Diện Mục, xưa nay vốn có như vậy, xưa
đã có cái Ta đó, nay đang có cái Ta đó, mai sau cũng là cái Ta đó. Cái Ta đó là
chủ nhân, chủ sở hữu của mọi thân hành, mọi tâm hành, của các đối tượng được
thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức. Ta thấy, Ta nghe, Ta cảm
nhận, Ta nhận thức, Ta nói, Ta làm, Mắt tai mũi lưỡi thân ý của Ta, nhà của Ta,
xe của Ta, con Ta, cháu Ta, đất nước Ta, Ta hơn, Ta kém, Ta bằng... Đời sống
nhân loại đặt nền tảng trên hiểu biết điên đảo Hữu Ngã, trên một cái Ta là chủ
nhân, chủ sở hữu các pháp, trên nền tảng quan hệ chủ nhân, chủ sở hữu giữa các
đối tượng. Chính vì hiểu biết điên đảo Hữu Ngã này mà con người ngày đêm
lao tâm khổ trí, nỗ lực phấn đấu để chiếm hữu, để xác lập quyền làm chủ, quyền
sở hữu. Làm chủ bản thân, làm chủ gia đình, xã hội, vợ con, làm chủ tình yêu,
hạnh phúc, làm chủ thiên nhiên... người tu thì phấn đấu làm chủ lời nói, hành
động, làm chủ nghiệp, làm chủ sinh già bệnh chết... Phấn đấu chiếm hữu, xác
lập quyền sở hữu, mở rộng quyền sở hữu, quyền làm chủ tiền bạc, đất đai, xe
cộ, tài sản... ngày nay nhân loại đang tranh giành nhau xác lập quyền sở hữu,
quyền làm chủ các đại dương, các khoảng không gian được cho là vô tận vốn
không phải của ai cả... Nhân loại không trừ một ai, chỉ ngoại trừ các bậc Thánh
đã giác ngộ, đang phấn đấu nỗ lực để mở rộng, để khẳng định, để bảo vệ, để
nâng cao quyền chiếm hữu, quyền sở hữu cho cái Ta chủ nhân điên đảo này.

Những hiểu biết Hữu Ngã điên đảo như vậy, phát sinh những lời nói, hành động
điên đảo như vậy, đưa đến những xung đột điên đảo như vậy và kết quả là cả
nhân loại đang khổ đau. Thực tại được thấy, được nghe, được cảm nhận, được
nhận thức mà Thánh hay Phàm đang sống là các Cảm Thọ do Căn Trần tiếp xúc
mà phát sinh, nó Vô Chủ, Vô Sở Hữu, Vô ngã, nó đến, nó đi không ai có thể
làm chủ, điều khiển, sở hữu được nó, vì kẻ Phàm phu hiểu biết và sống trái với
sự thật này nên đang "mò trăng đáy nước", và chỉ gặt hái được khổ đau mà thôi.
Thấy biết điên đảo này gọi là Ngã Kiến.

3 - Điên đảo thứ ba là Lạc: kẻ Phàm phu không thấy biết như thật về Khổ, không
thấy biết như thật Nguyên nhân Khổ, nên cho rằng Thực tại thế gian tràn đầy
Niềm vui, Hạnh phúc, Lạc thú. Do hiểu biết Vô minh, Tâm biết Cảnh, nghĩa là
những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là Thế giới ngoại
cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp, nên kẻ Phàm phu hiểu biết Niềm vui, Hạnh
phúc, Lạc thú gọi chung là Lạc luôn luôn có, thường hằng, thường trú trong Thế
giới Ngoại cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp. Nó có trong sắc đẹp, tiếng hay,
hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái, nó có trong những hoàn cảnh tốt đẹp như
tiền bạc, giàu có, sắc đẹp, thành đạt, sống lâu, nó có trong những tiện nghi sang
trọng, những phương tiện nghe nhìn tân tiến, nó có trong các tác phẩm văn học,
hội hoạ, âm nhạc, điện ảnh, thi ca hấp dẫn, nó tràn đầy thế giới này, đâu đâu cũng
có. Hiểu biết như vậy là không đúng sự thật, là điên đảo vì Thực tại được thấy,
được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là sáu loại Cảm Thọ, thuộc phạm trù
Tâm chứ không phải là ngoại cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp. Vì vậy Hạnh
Phúc và Khổ đau đều là các Cảm Thọ, thuộc phạm trù Tâm, chỉ cảm nhận được
nó trên thân, không phải là ngoại cảnh nên Hạnh phúc và Khổ đau không thường
hằng, không thường trú trong Thế giới Sắc Thanh Hương Vi Xúc Pháp. Thực tại
thế gian của Phàm phu phát sinh khi sáu Căn tiếp xúc sáu Trần, phát sinh sáu Cảm
thọ bao gồm Lạc thọ, Khổ thọ, Bất khổ bất lạc thọ. Do Vô minh và Tham ái mà
Thực tại ấy diễn tiến như sau:
Lạc thọ - Tham - Ràng buộc - Hoại Khổ
Khổ thọ - Sân - Ràng buộc - Khổ Khổ
Bất khổ bất lạc thọ - Si - Ràng buộc - Hành Khổ.

Nghĩa là khi có Lạc thọ xuất hiện thì thích thú, tham ái Lạc thọ, vì vậy sẽ ràng
buộc, nắm giữ Lạc thọ. Nhưng Lạc thọ vô thường, không tồn tại mãi mãi, nên
khi nó biến hoại, biến diệt, mất đi, sầu bi khổ ưu não khởi lên. Khổ này được
đặt tên là Hoại Khổ. Khi Khổ thọ xuất hiện thì chán ghét, Sân khởi lên, muốn xa
lánh, chấm dứt nó, phản ứng mãnh liệt với Khổ thọ và ràng buộc với Khổ thọ,
nên sầu bi khổ ưu não khởi lên. Khổ này đặt tên là Khổ Khổ. Khi Bất khổ bất
lạc thọ xuất hiện, Si khởi lên đưa đến tác ý tìm kiếm một Lạc thọ để thay thế
Bất khổ bất lạc thọ, nên sẽ ràng buộc với các đối tượng đó và sẽ khởi lên sầu bi
khổ ưu não. Khổ này đặt tên là Hành Khổ.

Đây là Thực tại thế gian của Phàm phu: Cho dù Thế giới ngoại cảnh Sắc Thanh
Hương Vị Xúc Pháp như thế nào thì Thực tại của Phàm phu vẫn xuất hiện Hoại
Khổ, Khổ Khổ, Hành Khổ. Ngoại trừ các bậc Thánh thì bất kỳ một người nào,
già trẻ, gái trai, giàu nghèo, ngu trí, sang hèn, dân tộc nào, tôn giáo nào hễ sáu
Căn tiếp xúc sáu Trần thì đều phát sinh Hoại Khổ, Khổ Khổ, Hành Khổ. Đây là
sự thật về khổ, là Chân lý về Khổ (Khổ Đế), là sự thật phổ quát của nhân loại.
Vì không thấy biết như thật Thực tại thế gian có Hoại Khổ, Khổ Khổ, Hành
Khổ như vậy, kẻ Phàm phu sống vọng tưởng điên đảo về một Thế giới ngoại
cảnh tràn đầy Lạc.

4- Điên đảo thứ tư là xem Bất tịnh là Thanh tịnh: Kẻ Phàm phu chưa bao
giờ thân chứng được hỷ lạc của Sơ thiền, hỷ lạc của Nhị thiền, Xả niệm lạc trú
của Tam thiền, Xả niệm thanh tịnh của Tứ thiền mà chỉ quẩn quanh nơi Dục lạc
thế gian. Vì chưa thân chứng được hỷ lạc nội tâm của bậc Thánh trên lộ trình
tâm Bát Chánh Đạo, Phàm phu không có được kinh nghiệm, không có được
thông tin về hỷ lạc nội tâm của bậc Thánh, nên không đối chiếu được với Dục
lạc thế gian, vì thế không thể biết được Dục lạc thế gian là vui ít, khổ nhiều,
não nhiều mà nguy hiểm càng nhiều hơn, không thể biết được đây là phàm phu
lạc, ô uế lạc, bất tịnh lạc. Phàm phu tham ái Dục lạc, xem Dục lạc là cao quý,
kỳ diệu, sáng chói, thanh tịnh. Nhân loại vinh danh, ca ngợi, đề cao Dục lạc, đó
là Hạnh phúc vật chất, Hạnh phúc tinh thần, xem đó là giá trị cốt lõi của cuộc
sống thế gian. Đó chính là xem Dục lạc là thanh tịnh, đó chính là hiểu biết điên
đảo. Vì rằng do tham ái Dục lạc đó mà cha con tranh đoạt nhau, vợ chồng tranh
đoạt nhau, anh em, bạn bè, dòng họ, đất nước tranh đoạt nhau, tàn sát, tàn hại
nhau. Vì tham ái Dục lạc mà có sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu
và các chất say. Vì tham ái Dục lạc mà có phá sản, lừa đảo, tội ác và tất cả mọi
khổ đau không thể kể xiết của thế gian này. Vì tham ái Dục lạc mà người ta chế
tạo nhiều loại vũ khí huỷ diệt hàng loạt, bom nguyên tử, vũ khí hoá học để tàn
sát lẫn nhau. Vì tham ái Dục lạc mà sản xuất ra ma tuý, các chất kích thích thực
vật, động vật để huỷ hoại nhau. Vì tham ái Dục lạc mà hoa hậu bán dâm, con
trai giao cấu với mẹ đẻ, bố đẻ bắt con gái làm nô lệ tình dục... Dục lạc thế gian
vui ít, khổ nhiều, não nhiều mà nguy hiểm lại nhiều hơn, nó là phàm phu lạc, ô
uế lạc, bất tịnh lạc nhưng kẻ Phàm phu lại xem nó là sáng chói, là Thanh Tịnh.

Chỉ khi nào một người thân chứng được hỷ lạc của Sơ thiền, hỷ lạc của Nhị
thiền, Xả niệm lạc trú của Tam thiền, Xả niệm thanh tịnh của Tứ thiền, biết rõ
đây là Thánh lạc, Chánh giác lạc, an tịnh lạc thì mới nhận ra Dục lạc thế gian là
phàm phu lạc, ô uế lạc, Bất Tịnh lạc.

Kết luận: Thực tại thế gian của Phàm phu chính là lộ trình tâm Bát Tà Đạo,
trong Thực tại thế gian đó các pháp Vô thường, Vô ngã, có Khổ, có Bất Tịnh,
nói một cách cho dễ hiểu, dễ nhớ là, thực tại đó: VÔ THƯỜNG, KHỔ, VÔ
NGÃ, BẤT TỊNH. Nhưng vì bị Vô minh che đậy, kẻ Phàm phu không thấy biết
như thật các sự thật Vô thường, Khổ, Vô ngã, Bất tịnh này mà thấy biết không
đúng sự thật, thấy biết điên đảo thực tại thế gian này là THƯỜNG LẠC NGÃ
TỊNH. Chỉ bậc Thánh không còn bị Vô minh che đậy mới thấy biết như thật,
mới giác ngộ Thực tại thế gian là Vô thường, Khổ, Vô ngã, Bất tịnh, đó cũng
chính là giác ngộ Khổ Đế và Tập Đế.

Thực tại Xuất thế gian là thực tại thuộc về bậc Thánh cũng do sáu Căn tiếp xúc
sáu Trần mà phát sinh. Thực tại Xuất thế gian đó là lộ trình tâm Bát Chánh Đạo
cũng có sáu Cảm thọ và sáu cái biết trực tiếp giác quan như thực tại phàm phu
nhưng không có tám chi phần của Bát Tà Đạo mà có tám chi phần Bát Chánh
Đạo bao gồm: Chánh Niệm, Chánh Tinh Tấn, Chánh Định, Chánh Tư Duy,
Chánh Tri Kiến, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng. Trong Thực tại Xuất
thế gian của bậc Thánh này các pháp vẫn Vô thường, Vô ngã, không có Khổ mà
Khổ diệt, Niết bàn, có hỷ lạc do Chánh định là Thanh tịnh. Nói một cách cho dễ
nhớ, dễ hiểu là Thực tại Xuất thế gian là VÔ THƯỜNG, KHỔ DIỆT, VÔ NGÃ,
THANH TỊNH.

Vì không thân chứng được hai Thực tại thế gian và Thực tại xuất thế nên một số
trường phái suy diễn ra Thực tại xuất thế, Thực tại giải thoát, đó là Cảnh giới
Niết Bàn của các bậc Thánh phải là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh hoặc Thường, Lạc,
Vô ngã, Tịnh để đối lập với Thực tại thế gian của Phàm phu là Vô thường, Khổ,
Vô ngã, Bất tịnh. Suy diễn như vậy chính là do Vô minh mà khởi lên, do hiểu
biết điên đảo Thường, Lạc, Ngã, Tịnh chi phối mà khởi lên.

Về mục lục

Bài 108: HỒI ĐẦU THỊ NGẠN

Đây là một thành ngữ được sử dụng rất nhiều trong Phật Giáo Trung quốc và
Việt Nam, nguyên văn bằng tiếng Hán và nếu dịch sang tiếng Việt thì có nghĩa
là: Biển sinh tử trùng trùng bao la, vô tận nhưng "quay lại" ở đâu thì ngay tại đó
là bờ. Nếu hiểu Hồi Đầu Thị Ngạn theo nghĩa đen thì một người đang bị trôi dạt
trên biển cả mênh mông với sức cùng lực kiệt, đói khát, mất phương hướng,
tuyệt vọng với nỗi sợ chết kinh hoàng và khi phát hiện ra bờ ở phía đằng sau,
ngược hướng mình đang bơi thì phải quay lại và tiếp tục bơi vào bờ để thoát ra
khỏi đau khổ và hiểm nguy. Nhưng thành ngữ này lại khẳng định "quay lại ở
đâu thì đó là bờ", mâu thuẫn với tình trạng trên và vì vậy Hồi Đầu Thị Ngạn
không được hiểu theo nghĩa đen mà phải hiểu theo nghĩa bóng, nghĩa ẩn dụ.
Nếu biết bờ ở đằng sau, thông thường thì phải quay đầu lại, tiếp tục bơi vào bờ
và sau một khoảng thời gian nào đó vào được bờ thì sẽ chấm dứt được khổ. Vào
được bờ là ẩn dụ cho Chấm Dứt Khổ mà thuật ngữ Phật học gọi là KHỔ DIỆT
hay NIẾT BÀN. KHỔ DIỆT hay NIẾT BÀN theo cách như vậy, đạt được sau
một khoảng thời gian như vậy, là Pháp bị chi phối bởi thời gian. Và KHỔ DIỆT
hay NIẾT BÀN như vậy không phải là Pháp mà Đức Thế Tôn khéo giảng. Hồi
đầu thị ngạn có nghĩa quay lại ở đâu thì đó là bờ, có nghĩa là Hết khổ phải xảy
ra tại đó, ngay lập tức tại đó, KHỔ DIỆT hay NIẾT BÀN ngay tại đó, không
cần bơi trở ngược vào bờ. Và KHỔ DIỆT hay NIẾT BÀN như vậy mới là Pháp
không bị chi phối bởi thời gian, mới là Pháp của Đức Thế Tôn khéo giảng. Đây
chính là Ý nghĩa: Pháp mà Đức Thế Tôn khéo giảng có tính chất "Thiết thực
hiện tại, KHÔNG BỊ CHI PHỐI BỞI THỜI GIAN, Đến để mà thấy, Có tính
hướng thượng, Cho người trí tự minh giác hiểu".

Và tại sao lại là Hồi Đầu Thị Ngạn mà không cần bơi ngược vào bờ?

Thực Tại Thế Gian của Phàm phu do Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần mà phát sinh
ra Sáu Cảm Thọ. Kẻ Phàm phu Thấy, Nghe, Cảm nhận các đối tượng ấy nhưng
lại hiểu biết một cách sai lạc (các đối tượng Cảm Thọ) đó là Thế giới ngoại
cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp. Điều này giống như: Thấy đối tượng vốn
là sợi dây lại Biết lầm là con rắn. Hiểu biết như vậy gọi là VÔ MINH và do VÔ
MINH (cả về Khổ Tập Diệt Đạo) mà phát sinh Thái độ THAM SÂN SI, do
THam Sân Si mà phát sinh Lời Nói, Hành Động, Nuôi Mạng TÀ NGỮ, TÀ
NGHIỆP, TÀ MẠNG. Do Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng mà Phát sinh Khổ của
Sinh Già Bệnh Chết, Sầu Bi Khổ Ưu não không thể kể xiết. Đây chính là Thực
Tại Thế Gian, Thực Tại của Phàm phu có Vô Minh, có Tham Sân Si, có Sầu Bi
Khổ Ưu Não, là biển khổ mênh mông, được ví như biển sinh tử trùng trùng vô
tận và kẻ Phàm phu đang bị "đuối nước" trong biển sinh tử đó. Khi Danh Sắc
này là Nhân diệt đi lại phát sinh Quả là một Danh Sắc khác tiếp nối nỗi thống
khổ của luân hồi sinh tử ấy. Đấy là nói tóm tắt Thực Tại Thế Gian, chính là lộ
trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu:

Xúc - Thọ - Tưởng - Tà Niệm - Tà Tư Duy - (Vô minh) Tà Tri Kiến - Tham Sân
Si - Tà Định - Dục - Tà Tinh Tấn - Phi như lý tác ý - Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà
mạng - Khổ (sinh già bệnh chết) sầu bi ưu não.

Thực Tại Xuất Thế Gian của bậc Thánh cũng do Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần
phát sinh ra Sáu Cảm Thọ. Bậc Thánh Thấy, Nghe, Cảm nhận các đối tượng ấy
rồi BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT: đó là các Cảm Thọ, nó Vô Thường, Vô Chủ, Vô
Sở Hữu, nó có Vị Ngọt, có Sự Nguy Hiểm, có Sự Xuất Ly. Hiểu biết này là
MINH, là TRÍ TUỆ là LIỄU TRI TẤT CẢ PHÁP. Do có MINH như vậy nên
Không Có Tham Sân Si, Không Có Sầu Bi Khổ Ưu Não. Thực Tại Xuất Thế
Gian của bậc Thánh KHÔNG CÓ VÔ MINH, KHÔNG CÓ THAM SÂN SI,
KHÔNG CÓ KHỔ nên gọi là KHỔ DIỆT hay NIẾT BÀN. Thực Tại ấy chính
là lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của bậc Thánh:

Xúc - Thọ - Tưởng - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - (Tỉnh Giác)
- Chánh tư Duy - (Minh) Chánh Tri Kiến - Như lý tác ý - Chánh ngữ, Chánh
nghiệp, Chánh mạng.

Khi Lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế khởi lên thì Thực Tại Xuất Thế Gian
khởi lên và ngay khi đó lộ trình tâm Bát Tà Đạo, Thực Tại Thế Gian được nhiếp
phục, được đoạn tận, lúc đó cái "biển sinh tử khổ đau trùng trùng" CẠN KIỆT,
ĐOẠN DIỆT, BIẾN MẤT và ngay tại đó ĐÂU CŨNG LÀ BỜ, đâu còn biển
sinh tử để mà bơi vào bờ. Đây chính là "THẬT ĐỊA". Đây chính là "Hồi Đầu Thị
Ngạn".

Nhân loại ai cũng cho rằng mình đang gánh một gánh nặng đau khổ vì thế muốn
thay thế gánh nặng Đau Khổ bằng một gánh Hạnh Phúc. Vì vậy họ hy vọng trong
một tương lai nào đó, một nơi chốn nào đó họ sẽ đi đến được cái nơi có gánh
Hạnh Phúc tràn đầy. Tại đó họ sẽ đặt gánh Đau Khổ xuống và mang gánh Hạnh
Phúc lên và sẽ Hết Khổ. Hết Khổ theo kiểu như vậy là Pháp bị chi phối bởi thời
gian. Sự thật cái gánh nặng hai đầu mà con người thế gian đang chịu đựng thì
một đầu là Đau Khổ, một đầu là Hạnh Phúc, cân bằng nhau, không thua kém
nhau một tẹo nào. Gánh nặng hai đầu mà khư khư níu giữ, nâng niu lấy đầu Hạnh
Phúc không chịu đặt xuống chỉ muốn vứt đầu Đau Khổ đi, là một ảo tưởng lớn
nhất của nhân loại. Đầu Đau Khổ ai ai cũng muốn buông ra nên Đức Phật không
khuyên bảo mà Ngài khuyên buông cái đầu Hạnh Phúc xuống.
Ngài chỉ dạy chấm dứt Tham Ái, mà Tham Ái là Tham Ái Hạnh Phúc chứ
không ai Tham Ái Đau Khổ. Tại chỗ nào mà ĐẶT XUỐNG CẢ HAI ĐẦU
HẠNH PHÚC VÀ ĐAU KHỔ thì ngay tại chỗ đó Gánh Nặng Được Đặt
Xuống và ngay lập tức tại đó sẽ TUỆ TRI KHỔ DIỆT hay NIẾT BÀN chứ
không phải ở một nơi chốn, một cảnh giới hay một tương lai, một đời sau nào
khác, chứ không phải đi tìm kiếm một thứ Hạnh phúc tuyệt đối, Hạnh phúc
Niết Bàn nào cả.

Vấn đề cốt lõi của Đạo Phật là tu tập Minh (Chánh Tri Kiến) để đoạn diệt Vô
Minh (Tà Tri Kiến) nghĩa là THAY ĐỔI HIỂU BIẾT thì mới có thể Hồi Đầu
Thị Ngạn. Có thể hình dung ra THAY ĐỔI HIỂU BIẾT qua ví dụ sau. Ví như
có một người thanh niên đến ở một xóm trọ và thấy căn nhà đối diện một cô gái
rất trẻ đẹp (tên là Nụ) sống với một cụ già lọm khọm. Anh ta hỏi người hàng
xóm và bị người hàng xóm gạt cô Nụ là cháu nội cụ già. Không biết bị gạt anh
ta tin là thật và lượng thông tin đó được lưu vào bộ nhớ và vì vậy mỗi khi thấy,
nghe, nghĩ đến cô Nụ hoặc những sự kiện liên quan đến cô Nụ thì lộ trình tâm
sử dụng lượng thông tin đó và Ý thức khởi lên, Biết cô Nụ là cháu nội ông già.
Nhưng một thời gian sau, có một ngày ông già chờ mãi cô Nụ ở cửa, rồi qua
nhà anh ta hỏi: Anh có biết vợ tôi đi đâu không? Vợ ông là ai? Là cô Nụ chứ ai
nữa. Nghe đến đây, anh ta mới biết Sự thật và thông tin sự thật này sẽ lưu vào
bộ nhớ và chính nó mới xoá bỏ được thông tin sai đã lưu vào trước đó. Và từ
đây trở đi hễ thấy, nghe, nghĩ đến cô Nụ, hoặc những sự kiện liên quan đến cô
Nụ thì lộ trình tâm khởi lên sẽ sử dụng thông tin mới và Ý thức khởi lên, biết cô
Nụ là vợ ông già. Sự tu tập Phật giáo cũng y như vậy: HIỂU BIẾT MINH sẽ
xoá bỏ HIỂU BIẾT VÔ MINH tương tự như vậy nhưng không đơn giản như là
hiểu biết Đúng Sai của thí dụ trên mà phải theo lộ trình VĂN - TƯ - TU do Đức
Phật chỉ dạy. VĂN và TƯ có thể đoạn diệt được Thân Kiến, Nghi, Giới Cấm
Thủ, nhưng chỉ có thực hành Tứ Niệm Xứ mới khởi lên Bát Chánh Đạo siêu thế
có Ý thức Chánh Tri Kiến là MINH mới nhiếp phục và "từ từ" xoá bỏ Ý thức
Tà Tri Kiến là VÔ MINH được.

Về mục lục

Bài 109 : BUÔNG XẢ CÁI GÌ?

Buông xả được nhiều người hiểu là xa lánh, vứt bỏ, quăng bỏ, không thấy,
không nghe, không cảm nhận các đối tượng. Các đối tượng đó là Thực tại của
đời sống bao gồm: những gì được Thấy, những gì được Nghe, những gì được
Cảm nhận, những gì được Nhận thức. Hiểu biết như vậy xuất phát từ hiểu biết
của nhân loại là tư tưởng làm chủ, tư tưởng sở hữu. Khi vứt bỏ, quăng bỏ, cho
đi một cái gì thì sẽ khởi lên tư tưởng Cái này không phải là của Ta. Khi tư
tưởng "cái này không phải là của Ta" khởi lên, thì tư tưởng đó vẫn dựa trên nền
tảng hiểu biết có một cái Ta làm chủ, một cái Ta sở hữu và các đối tượng được
chia đôi: Cái này là của Ta - Cái kia không phải của Ta. Nếu hiểu Buông xả là
xa lánh, vứt bỏ, quăng bỏ, đem cho các đối tượng để "nó không phải là của Ta"
thì vẫn là tư tưởng chấp thủ một cái Ta (chấp thủ một Bản ngã), là chủ nhân,
chủ sở hữu của Danh và Sắc (Năm Uẩn).

Tất cả các pháp bao gồm các đối tượng được Thấy, được Nghe, được Cảm
nhận, được Nhận thức do duyên Sáu Căn và Sáu Trần tiếp xúc nhau mà phát
sinh theo Định luật Duyên khởi: Hai nhân tiếp xúc nhau và cùng diệt sẽ phát
sinh các quả. Do vậy quan hệ giữa các pháp nếu quan sát theo chiều thời gian
thì không hề tồn tại quan hệ chủ nhân, chủ sở hữu, nếu quan sát theo chiều
không gian thì hai nhân bình đẳng, tương tác với nhau đồng thời diệt đi, giữa
hai nhân không tồn tại quan hệ chủ nhân, chủ sở hữu. Vì vậy các pháp là VÔ
CHỦ, VÔ SỞ HỮU. Điều này cũng đồng nghĩa không có một cái TA (Bản
Ngã) là chủ nhân, chủ sở hữu của các đối tượng được Thấy, được Nghe, được
Cảm nhận, được Nhận thức, nghĩa là VÔ NGÃ. Vì vậy BUÔNG XẢ là buông
xả "TƯ TƯỞNG CHỦ NHÂN, CHỦ SỞ HỮU" các đối tượng được Thấy,
được Nghe, được Cảm nhận, được Nhận thức chứ không phải là buông xả các
đối tượng đó. Tư tưởng chủ nhân, chủ sở hữu là Vô Minh, là Tà Kiến, chính nó
là Nhân của Tham Sân Si, của Sầu Bi Khổ Ưu Não. Chấm dứt tư tưởng Tà
Kiến đó sẽ chấm dứt Khổ. Người trí qua thí dụ sau sẽ hình dung ra sự thật này.
Ví như một người dùng xe máy của mình và nhờ một người khác chở đi một
quãng đường 30 km. Trong khi sử dụng xe máy để di chuyển như vậy, người
này sống bởi tư tưởng "xe này là của Ta" và do tư tưởng này chi phối nên suốt
quảng đường đi người này không thể thoát khỏi phiền não, khi xe xịt lốp, hỏng
hóc, khi công an kiểm tra giấy tờ, khi bị va quệt trầy xước, khi tìm chỗ gửi xe,
lo xe bị mất cắp... Nhưng cũng chính người đó thuê một người có chiếc xe thồ
và cũng sử dụng chiếc xe để di chuyển trên đoạn đường đó thì sẽ không có tư
tưởng "xe này của Ta" và do không có tư tưởng "chủ nhân, chủ sở hữu" như
vây người đó không có các phiền não như trên.

Bản chất hay bản tánh hay pháp tánh của các pháp là: VÔ CHỦ, VÔ SỞ HỮU
nhưng vì không Giác Ngộ sự thật ấy nên nhân loại sống bởi tư tưởng: CHỦ
NHÂN, CHỦ SỞ HỮU và vì vậy đang chuốc lấy Sầu Bi Khổ Ưu Não. Vì các
pháp là Vô chủ, Vô sở hữu nên không hề có một cái Ta, một Bản ngã nào có thể
Nắm Giữ (Thủ) hoặc Xua Đuổi (Xả) các pháp, vì vậy không cần phải xa lánh,
xua đuổi, buông bỏ, vứt bỏ, không thấy, không nghe, không cảm nhận mà chỉ
buông xả Vô minh, Tà kiến, buông xả tư tưởng "chủ nhân, chủ sở hữu". Một
người có một xe ô tô hạng sang mà sống với tư tưởng "xe này là của Ta, là Ta"
thì chắc chắn sẽ sống với phiền não nhưng nếu người ấy sử dụng cái xe đó mà
không có tư tưởng "xe này là của Ta, là Ta" thì sẽ không còn lo lắng, phiền não
kể cả khi có nó hay mất nó. Cái xe Không Phải Là Khổ mà tư tưởng chấp thủ
"Cái xe này là của Ta" mới khởi lên Khổ. Đây chính là điều Đức Phật thuyết
giảng trong Kinh Chuyển Pháp Luân: Tóm lại Năm Thủ Uẩn là Khổ.
Muốn buông xã được tư tưởng chủ nhân, chủ sở hữu thì phải có được Trí Tuệ
tức Hiểu biết đúng như thật về các đối tượng được Thấy, được Nghe, được Cảm
nhận, được Nhận thức như Đức Phật đã giác ngộ và tuyên thuyết, đó là: Tuệ tri
sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ. Khi BIẾT
như thật các đối tượng được Thấy, được Nghe, được Cảm nhận, được Nhận
thức do Sáu Căn và Sáu Trần tiếp xúc mà phát sinh thì BIẾT như thật nó là
SÁU CẢM THỌ và biết ngay liền nó Vô Thường, nó Vô Chủ, Vô Sở Hữu.

Chính tư tưởng VÔ CHỦ, VÔ SỞ HỮU này là Minh, là Trí Tuệ mới xoá bỏ
được tư tưởng Vô minh, Tà kiến CHỦ NHÂN, CHỦ SỞ HỮU. Ví dụ sau có
thể hình dung ra điều đó: Có một hồ nước phẳng lặng sâu khoảng một mét nước
vào một đêm sáng trăng có hai người cùng nhìn vào hồ nước. Người thứ nhất
sau khi Thấy đối tượng liền khởi lên Biết đối tượng đó là trăng có ánh sáng đẹp
đẽ đang ở dưới hồ sâu chừng một thước. Người đó Thích thú trăng và do Thích
thú mà Muốn có trăng đẹp về treo ở nhà. Do Muốn có trăng đẹp về treo ở nhà
mà sẽ Cố Gắng lội xuống hồ để vớt trăng lên. Kết quả nhận được là khổ vì ướt
lạnh, vô ích. Trong cái Biết của người này có mặt tư tưởng "chủ nhân, chủ sở
hữu" nên đưa đến Hành động và Kết quả như vậy. Người thứ hai sau khi Thấy
đối tượng khởi lên Biết (như thật) đối tượng đó là Bóng trăng dưới nước. Do
Thấy như vậy và Biết như vậy nên người đó ngắm nhìn ánh trăng đẹp đẽ (sử
dụng) nhưng không có nhảy xuống hồ để vớt bóng trăng lên. Hiểu Biết của
người thứ hai nay là hiểu biết đúng như thật đối tượng, trong hiểu biết như vậy
không có tư tưởng "chủ nhân, chủ sở hữu" nên Kết Quả là "sử dụng" mà không
có Khổ.

Nếu Thấy và Biết như thật các đối tượng được Thấy, được Nghe, được Cảm
nhận, được Nhận thức là Sáu Cảm giác hay thuật ngữ Phật học là Sáu Cảm thọ,
nó Vô thường, Vô chủ, Vô sở hữu thì người đó đang sống trong Buông Xả. Đây
chính là Xả Giác Chi trong Thất Giác Chi mà Đức Phật đã thuyết giảng.
Về mục lục

Bài 110: TU ĐỂ BUÔNG BỎ, VẬY BUÔNG BỎ CÁI GÌ

Cũng như mọi pháp khác có hai loại hiểu biết về BUÔNG BỎ trong tu tập Phật
Giáo. Một là hiểu biết không đúng như thật, hiểu biết sai về Buông bỏ đưa đến
sự thực hành sai, do vậy sẽ không có được kết quả Chấm dứt Khổ, không có
được kết quả giải thoát. Hai là hiểu biết đúng như thật, hiểu biết không sai lạc
về Buông bỏ đưa đến sự thực hành đúng, do vậy sẽ có được kết quả Chấm dứt
Khổ, có được kết quả giải thoát.

1 - Một là hiểu biết sai, hiểu biết không như thật về Buông bỏ:

Do hiểu biết của Phàm phu theo nguyên lý “TÂM biết CẢNH” nghĩa là Chủ thể
biết là Tâm và Đối tượng được biết là Cảnh, là Thế Giới Sắc Thanh Hương Vị
Xúc Pháp, nên Khổ, Nguyên nhân Khổ, Chấm dứt Khổ, Con đường Chấm dứt
Khổ đều thuộc về Thế giới. Chính vì hiểu Chấm dứt Khổ là khi có đầy đủ Hạnh
phúc, khi không thiếu một thứ Hạnh phúc nào, mà Hạnh phúc thì sẵn có, luôn
luôn có, thường hằng, thường trú trong Thế giới Sắc đẹp, Tiếng hay, Hương
thơm, Vị ngon, Xúc chạm êm ái nên thích thú, đam mê, tham ái các đối tượng
đó. Vì vậy, Phàm phu ngày đêm lao tâm khổ trí, nỗ lực cố gắng để xác lập, củng
cố QUYỀN LÀM CHỦ, QUYỀN SỞ HỮU ngày càng nhiều tiền bạc, ruộng
vườn, xe cộ, nhà cửa, tiện nghi, danh tiếng, thành đạt, quyền lực vv... bởi những
thứ đó chứa đầy hạnh phúc và chỉ khi nào làm chủ, sở hữu được đầy đủ những
thứ đó, lúc đó con người mới hết khổ. Khi nghe Đức Phật giảng nói về Nguyên
nhân Khổ là “Ái và Thủ” nghĩa là Tham ái đưa đến Nắm giữ (Ràng buộc) với
các đối tượng đó, thì Phàm phu hiểu và lý giải lời dạy của Phật theo nguyên lý
Tâm biết Cảnh, Khổ Tập Diệt Đạo thuộc về Cảnh, thuộc về Thế giới nên hiểu
chữ BUÔNG BỎ là buông bỏ, từ bỏ, xa lánh, vứt bỏ các đối tượng vật chất và
tinh thần chứa đựng hạnh phúc đã làm chủ, đã sở hữu trước đây. Do hiểu biết
như vậy nên ức chế tâm, đè nén tâm để TỪ BỎ QUYỀN LÀM CHỦ, QUYỀN
SỞ HỮU các đối tượng đó. Hiểu biết như vậy, thực hành như vậy sẽ đưa đến lối
tu hành khổ hạnh như các đạo sĩ Ấn Độ từ cổ xưa và còn tồn tại cho đến ngày
nay. Và đó cũng chính là chuyển từ cực đoan tham ái lợi dưỡng sang cực đoan
khổ hạnh, là hai cực đoan mà Đức Phật đã khuyến cáo người tu chân chính phải
tránh xa trong bài kinh Chuyển Pháp Luân.

2 - Hai là hiểu biết đúng, hiểu biết như thật về Buông bỏ:

Nền tảng Giáo Pháp mà Đức Phật đã chứng ngộ và thuyết giảng là Định lý
duyên khởi. Giác ngộ sự thật duyên khởi là thấy biết như thật: Tất cả mọi Sắc
pháp và Danh pháp đều phát sinh do HAI NHÂN TƯƠNG TÁC NHAU RỒI
CÙNG DIỆT MỚI PHÁT SINH QUẢ. Hệ quả của Định lý này là: Tất cả các
Sắc pháp và Danh pháp đều Vô thường, Vô chủ vô sở hữu. Điều này cũng đồng
nghĩa không có bất kỳ một cái gì, một Cái Tôi, Cái Ta, Bản Ngã không sinh,
không diệt nào, là chủ nhân, chủ sở hữu các pháp, nghĩa là các pháp Vô ngã. Sự
thật này khẳng định rằng: trong quá khứ, hiện tại, vị lại không bao giờ, chưa
bao giờ tồn tại QUYỀN LÀM CHỦ, QUYỀN SỞ HỮU, cho nên cho dù Phàm
hay Thánh chưa bao giờ LÀM CHỦ, SỞ HỮU bất kỳ một đối tượng vật chất
hoặc tinh thần nào. Vậy thì, chủ trương buông bỏ là từ bỏ quyền làm chủ, từ bỏ
quyền sở hữu đối với các đối tượng vật chất và tinh thần chứa đựng hạnh phúc
là từ bỏ cái không hề tồn tại và chủ trương buông bỏ như vậy là không đúng sự
thật vô minh.

Phàm phu vì bị vô minh che đậy, không thấy biết sự thật duyên khởi nên sống
với Ý thức Tà kiến, sống với TƯ TƯỞNG CHẤP NGÃ, chấp thủ một Cái Ta,
Bản ngã là chủ nhân, chủ sở hữu của Danh và Sắc. Tư tưởng chấp ngã cũng
đồng nghĩa với tư tưởng làm chủ, tư tưởng sở hữu của Bản ngã đang chi phối
đời sống nhân loại. Cho nên dù chủ trương buông bỏ quyền làm chủ, quyền sở
hữu đối với các đối tượng vật chất như sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon,
xúc chạm êm ái nhưng lại chủ trương tu để LÀM CHỦ TÂM, làm chủ cảm xúc,
làm chủ lời nói hành động, làm chủ nhân quả nghiệp báo, làm chủ sinh già bệnh
chết. Đây thực chất là từ bỏ quyền làm chủ, quyền sở hữu đối với đối tượng này
nhưng lại xác lập, củng cố quyền làm chủ, quyền sở hữu đối với đối tượng khác
mà thôi. Tư tưởng chấp ngã chính là chấp thủ một Cái Ta, Bản ngã không sinh
không diệt là CHỦ NHÂN, CHỦ SỞ HỮU của Sắc Thọ Tưởng Hành Thức nên
tư tưởng chấp ngã đó còn được gọi là Năm Thủ Uẩn. Phàm phu sống với Năm
Thủ Uẩn mâu thuẫn, xung đột với sự thật thực tại Vô ngã, nên Sầu bi khổ ưu
não sinh già bệnh chết sẽ khởi lên. Vì vậy, Đức Phật đã chứng ngộ và thuyết
giảng: “Năm Thủ Uẩn Là Khổ” là vậy.

Vậy tu là để buông bỏ, xả ly, đoạn diệt “TƯ TƯỞNG CHẤP NGÃ, TƯ
TƯỞNG LÀM CHỦ, TƯ TƯỞNG SỞ HỮU”. Khi đã buông bỏ, xả ly, đoạn
diệt tư tưởng chấp ngã, tư tưởng làm chủ, tư tưởng sở hữu, lúc đó Năm thủ uẩn
đoạn diệt, Khổ đoạn diệt. Có thể hình dung điều này qua một ví dụ. Ví như, một
người sở hữu một chiếc ô tô sang trọng của mình để tài xế đưa mình đi làm việc
cách 30 cây số. Khi năm Căn (Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân) xúc chạm với Chiếc xe
sẽ phát sinh các loại Cảm giác và “anh ta” sẽ cảm nhận các Cảm giác dễ chịu
đó. Tuy vậy, vì tư tưởng “xe này là của Ta” là tư tưởng làm chủ, tư tưởng sở
hữu đang chi phối anh ta, nên hễ xe va quyệt, tai nạn, công an hỏi giấy, đến chỗ
gửi xe vv... anh ta đều phải để ý, đều phải căn dặn, lưu ý lái xe chuyện nọ
chuyện kia. Và đương nhiên những để ý như vậy, những can thiệp như vậy sẽ
phát sinh phiền não và nguyên nhân làm phát sinh phiền não đó chính là tư
tưởng “xe này là của Ta”, tư tưởng làm chủ, tư tưởng sở hữu. Nhưng nếu anh ta
thuê xe Grab y xì như chiếc xe của anh ta đã đi thì cũng trên đoạn đường 30 cây
số đó, năm Căn tiếp xúc với Chiếc xe và phát sinh các Cảm giác và “anh ta” vẫn
cảm nhận được các Cảm giác dễ chịu tương tự trước đây. Nhưng giờ đây vì
không có tư tưởng “xe này là của Ta”, không có tư tưởng làm chủ, tư tưởng sở
hữu nên xe có bị va quyệt, bị hỏi giấy, bị tai nạn vv... anh ta sẽ không có phiền
não vì những chuyện ấy.

Để buông bỏ, xả ly, đoạn diệt tư tưởng chấp ngã, tư tưởng làm chủ, tư tưởng sở
hữu thì phải thay đổi LỘ TRÌNH TÂM BÁT TÀ ĐẠO trong đó có Ý thức Tà
kiến với tư tưởng làm chủ, tư tưởng sở hữu thành LỘ TRÌNH TÂM BÁT
CHÁNH ĐẠO có Ý thức Chánh kiến với tư tưởng vô chủ, vô sở hữu (vô ngã).
Khi có Chánh niệm về thân thì trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo chỉ có một loại
tâm biết trực tiếp giác quan gọi là Tỉnh giác, “vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt”
không có bất kỳ một tư tưởng nào, nên không có tư tưởng làm chủ, tư tưởng sở
hữu. Khi có Chánh niệm về thọ, về tâm, về pháp lộ trình tâm Bát Chánh Đạo sẽ
có Ý thức Chánh kiến với tư tưởng vô ngã, vô chủ, vô sở hữu nên tư tưởng làm
chủ, tư tưởng sở hữu bị buông bỏ, bị xả ly, bị đoạn diệt. Vì vậy, khi sống với
Bát Chánh Đạo, sáu căn vẫn tiếp xúc với mọi đối tượng kể các đối tượng sắc
đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái nhưng vì đã buông bỏ “tư
tưởng làm chủ, tư tưởng sở hữu” nên không yêu thích, không chán ghét, độc lập
không ràng buộc, giải thoát không hệ lụy với bất kỳ đối tượng nào. Vì vậy,
không cần phải xa lánh, phải quăng bỏ bất kỳ đối tượng nào. Để chỉ cho lối
sống này, tạm dùng từ là “chỉ sử dụng mà không sở hữu”. Đối với ví dụ trên kia,
nếu anh ta sống với Bát Chánh Đạo thì tư tưởng làm chủ, tư tưởng sở hữu
không có mặt nên cho dù anh ta vẫn sử dụng chiếc xe “của mình” nhưng không
còn tư tưởng “xe này là của ta” nên không còn ràng buộc với chiếc xe. Vì vậy,
anh ta không cần phải quăng bỏ nó, đập bỏ nó, xa lánh nó hay đem cho người
khác mà vẫn sử dụng nhưng dù xe có chạy tốt hay hỏng hóc, còn hay mất, đi xe
đó hay đi bộ... thì anh vẫn hoàn toàn thích nghi, hoàn toàn bình thản, không có
phiền não vì những chuyện đó.

Những điều này rất vi tế, sâu kín, khó thấy khó chứng vì trước khi Đức Phật ra
đời các đạo giáo Ấn Độ cũng có nói đến Vô thường, nhưng sự thật các pháp Vô
ngã, vô chủ vô sở hữu thì chỉ duy nhất Đức Phật Thích Ca phát hiện ra. Có thể
nguyên nhân khổ là tham ái hạnh phúc, thời bấy giờ họ đã hiểu phần nào nhưng
họ chấp thủ bản ngã linh hồn, chấp thủ tư tưởng làm chủ, tư tưởng sở hữu của
Bản ngã linh hồn, nên họ chỉ chủ trương buông bỏ các đối tượng vật chất và tinh
thần. Họ có thể ức chế tâm, kiềm chế tâm để từ bỏ mọi thứ từ gia đình, vợ con tài
sản, danh tiếng, ăn uống ngủ nghỉ cho đến mức sống lõa thể không quần áo, đến
vỏ cây che thân cũng không cần. Họ ức chế tâm, kiềm chế tâm đến mức mà
người đàn bà xứ Ấn xem họ là các thánh nhân nên lấy tay xoa xoa dương vật họ
và bôi lên đầu để lấy phước nhưng dương vật họ vẫn không cương lên. Tuy rèn
luyện, ức chế tâm như vậy nhưng hiểu biết của họ là tu hành để Bản ngã linh hồn
làm chủ thân, điều khiển được thân, bắt thân phải tuân phục điều khiển của linh
hồn. Đó thực chất là từ bỏ quyền làm chủ, quyền sở hữu với các đối tượng này
nhưng lại xác lập, củng cố quyền làm chủ, quyền sở hữu trên đối tượng khác mà
thôi. Đây là lý do tuy ngoại đạo tu hành hết sức tinh tấn, thậm chí có người còn
tinh tấn vượt xa Phật giáo nhưng kết quả họ nhận được là phải Chịu Đựng Khổ
chứ không thể Chấm dứt Khổ.

Về mục lục

Bài 111: THẤY SỢI DÂY TƯỞNG LÀ CON RẮN

Đây là một thí dụ được nhắc đến rất nhiều, nhằm minh hoạ cho hiểu biết sai lạc,
hiểu biết điên đảo về những đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận.
Thí dụ này phải được khảo sát, phân tích tỉ mỉ và so sánh với hiểu biết của Phàm
phu để biết được hiểu biết của Phàm phu sai lạc, điên đảo như thế nào. Để thí dụ
này trở nên rõ ràng hơn, hãy quan sát hai trường hợp. Một người "thấy" sợi dây
rồi "tưởng là" con rắn. Một người khác cũng "thấy" sợi dây nhưng "biết là" sợi
dây. Hành vi "thấy" của hai người là giống nhau, nghĩa là cùng "thấy" đối tượng.
Nhưng hành vi "biết" của hai người này lại khác nhau. Như vậy có hai hành vi
xảy ra là THẤY và BIẾT đối tượng, trong đó THẤY rồi mới BIẾT, THẤY trước
BIẾT sau.

Hành vi THẤY đối tượng chính là cái biết trực tiếp giác quan, theo thuật ngữ
Phật học gọi là Nhãn thức, theo khoa Tâm Lý học gọi là Nhận thức cảm tính đối
tượng. Thấy đối tượng của hai người kia và một đứa trẻ vừa đẻ ra đều giống
nhau, thấy nhưng chưa biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao. Cái biết trực
tiếp giác quan hay Nhận thức cảm tính bao gồm Nhãn thức thấy đối tượng hình
ảnh. Nhĩ thức nghe đối tượng âm thanh. Tỉ thức cảm nhận đối tượng mùi. Thiệt
thức cảm nhận đối tượng vị. Thân thức cảm nhận đối tượng xúc chạm. Tưởng
thức cảm nhận đối tượng pháp trần. Tóm gọn lại là: THẤY, NGHE, CẢM
NHẬN các đối tượng nhưng không BIẾT đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao,
là Nhận thức cảm tính không có khái niệm, không có ngôn ngữ chế định, không
có phân biệt đối tượng này với đối tượng kia (Vô niệm, Vô ngôn, Vô phân biệt)
mà Thánh Phàm đều như nhau, không do học hỏi mà có.

Hành vi BIẾT, hay hiểu biết về đối tượng xảy ra sau khi thấy, nghe, cảm nhận
đối tượng, để xác định đối tượng là cái gì, tính chất ra sao. Đây là cái biết Ý
thức do Niệm và Tư Duy mà phát sinh. Ý thức phụ thuộc vào Niệm, Tư Duy và
phụ thuộc vào những thông tin trong kho chứa gồm những gì đã học hỏi, kinh
nghiệm, tích luỹ trong quá khứ nên Ý thức hiểu biết về đối tượng của mỗi
người đều khác nhau, Thánh Phàm đều khác nhau. Vì vậy ở thí dụ trên, hai
người cùng thấy đối tượng nhưng Ý thức một người biết đối tượng đó là con
rắn, một người lại biết đối tượng đó là sợi dây.

Trong hai cái biết biết: Cái biết trực tiếp giác quan và Cái biết Ý thức thì Cái
biết trực tiếp giác quan không phát sinh Thái độ mà chỉ Ý thức mới phát sinh
Thái độ. Khi một đứa trẻ mới đẻ ra mắt nó tiếp xúc đối tượng và Nhãn thức phát
sinh thấy đối tượng, chỉ thuần tuý là Nhãn thức thấy, còn Ý thức chưa phát sinh,
nó không biết đối tượng là con rắn hay sợi dây nên nó không có bất kỳ một Thái
độ nào với đối tượng. Trái lại hai người kia, một người sau khi thấy đối tượng,
Ý thức biết đối tượng là con rắn sẽ phát sinh Thái độ sợ hãi, Ý thức người thứ
hai biết nó là sợi dây sẽ có Thái độ không sợ hãi.

Thí dụ này ám chỉ cho Thấy Biết của Phàm và Thánh. Phàm và Thánh đều
THẤY, NGHE, CẢM NHẬN các đối tượng của Thực tại, đó là cái biết Trực
tiếp giác quan và THẤY, NGHE, CẢM NHẬN các đối tượng của Phàm và
Thánh đều như nhau nhưng HIỂU BIẾT tức cái biết Ý thức về các đối tượng là
khác nhau. Phàm phu hiểu biết sai lạc về các đối tượng được thấy, được nghe,
được cảm nhận như người thấy sợi dây tưởng là con rắn nên mới phát sinh Thái
độ Tham Sân Si với đối tượng, mới ràng buộc vào đối tượng, mới phát sinh Sầu
Bi Khổ Ưu Não. Bậc Thánh hiểu biết đúng như thật các đối tượng được thấy,
được nghe, được cảm nhận như người thấy sợi dây thì biết đúng đó là sợi dây,
nên không còn phát sinh Thái độ Tham Sân Si, nên không ràng buộc vào đối
tượng, không có Sầu Bi Khổ Ưu Não. Nhưng kẻ Phàm phu hiểu biết sai lạc đối
tượng là sai lạc như thế nào mà lại được ví như thấy sợi dây tưởng là con rắn?
Hiểu biết của bậc Thánh đúng với đối tượng là như thế nào mà lại được ví như
thấy sợi dây biết đó là sợi dây?

Đức Phật đã giác ngộ Thực tại, tức là hiểu biết đúng như thật Thực tại được
thấy, được nghe, được cảm nhận và Ngài đã tuyên bố trong bản kinh Phạm
Võng: "Này các Tỷ kheo, Như Lai nhờ tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự
nguy hiểm, sự xuất ly của Thọ mà Như Lai được giải thoát hoàn toàn không có
chấp thủ". Như vậy Như Lai giác ngộ là giác ngộ về các Cảm Thọ chứ không
phải giác ngộ về Thế giới ngoại cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần.

Đúng như vậy, Thực tại được thấy, được nghe, được cảm nhận do Sáu Căn tiếp
xúc Sáu Trần mà phát sinh. Đó là sáu Cảm Thọ (hay Cảm Giác) và sáu Cái biết
Trực tiếp giác quan nhận biết sáu Cảm Thọ. Nghĩa là Thực tại bao gồm: Nhãn
thức thấy Cảm giác hình ảnh, Nhĩ thức nghe Cảm giác âm thanh, Tỉ thức cảm
nhận Cảm giác mùi, Thiệt thức cảm nhận Cảm giác vị, Thân thức cảm nhận Cảm
giác xúc chạm, Tưởng thức cảm nhận Cảm giác pháp trần, chứ không phải Nhãn
thức thấy Sắc trần, Nhĩ thức nghe Thanh trần, Tỉ thức cảm nhận Hương trần,
Thiệt thức cảm nhận Vị trần, Thân thức cảm nhận Xúc trần, Tưởng thức cảm
nhận Pháp trần như hiểu biết của Phàm phu. Các Cảm giác hay Cảm Thọ có tự
tánh Vô thường, Vô chủ (hay Vô ngã), có Vị ngọt, có Sự nguy hiểm, có Sự xuất
ly. Cái biết của bậc Thánh khởi lên như sau: Sau khi Thấy, Nghe, Cảm nhận đối
tượng, Ý thức Chánh Tri Kiến khởi lên biết đối tượng đó là Cảm Thọ, nó Vô
thường, Vô chủ (Vô ngã), nó có Vị ngọt, có sự Nguy hiểm, có sự Xuất ly. Thấy
biết này là đúng bản chất của đối tượng và được ví như người thấy đối tượng (sợi
dây) biết đúng như thật đối tượng là sợi dây. Với Ý thức Chánh Tri Kiến biết như
thật về Thực tại như vậy sẽ không có Thái độ Tham Sân Si, không Dính mắc
ràng buộc với đối tượng nên không có Sầu Bi Khổ Ưu Não.

Kẻ Phàm phu bị Vô minh che đậy, bị Tham ái dẫn dắt không Tuệ tri Lý Duyên
khởi, không biết như thật Thực tại phát sinh do duyên (Xúc) giữa sáu Căn và
sáu Trần nên sau khi Thấy, Nghe, Cảm nhận đối tượng giống như bậc Thánh rồi
Ý thức Tà Tri Kiến biết đối tượng đó là Thế giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc
Pháp trần. Với hiểu biết đã được mặc định (Tâm biết Cảnh) thì các đối tượng đó
là các Sắc pháp (là Vật chất, là các vật thể), hoặc là tính chất của vật chất. Các
pháp đó thường hằng, thường trú trong vật chất, là của vật chất. Ví như to nhỏ,
vuông tròn, dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng mềm thô
mịn... đều là tính chất của vật chất, sẵn có, thường xuyên có trong vật chất và
của vật chất, như ngọt ở trong đường và của đường, mặn ở trong muối và của
muối, ngon dở ở trong thức ăn và của thức ăn, nóng ở trong lửa và của lửa, lạnh
ở trong nước đá và của nước đá... Và như vậy, các đối tượng là Thường hằng,
thường trú và Hữu chủ (có chủ nhân sở hữu các pháp đó). Chính vì hiểu biết
của Phàm phu đã được mặc định theo Tâm biết Cảnh có nội dung Thường kiến
(thường hằng, thường trú) và Ngã kiến (hữu chủ) như vậy nên sau khi Thấy,
Nghe, Cảm nhận đối tượng rồi Ý thức Tà Tri Kiến khởi lên biết đối tượng đó là
Sắc pháp (vật chất), thường hằng, thường trú, sở hữu được nó, chiếm hữu được
nó, chính nó sẽ làm cho Ta đau khổ hoặc hạnh phúc. Hiểu biết như vậy được ví
như người thấy đối tượng (sợi dây) lại tưởng là con rắn. Với hiểu biết như vậy
sẽ phát sinh Thái độ Tham Sân Si, sẽ Dính mắc ràng buộc với đối tượng và sẽ
có Sầu Bi Khổ Ưu Não.

Giống như có hai người trong một đêm sáng trăng cùng nhìn vào một hồ nước
phẳng lặng và đều thấy một đối tượng dưới nước. Người thứ nhất thấy đối
tượng rồi biết đó là trăng đang ở trong hồ, có thể vớt lên được, đem về nhà sử
dụng được thì người đó sẽ nhảy xuống hồ lặn hụp để vớt trăng lên. Và kết quả
là cực khổ vô ích. Người thứ hai thấy đối tượng rồi biết đó là bóng trăng trong
nước, nhìn ngắm vẻ đẹp của bóng trăng nhưng không có tư tưởng chiếm hữu, sẽ
không nhảy xuống lặn hụp tìm trăng và sẽ không cực khổ vô ích. Cũng y như
vậy, bậc Thánh sau khi Thấy, Nghe, Cảm nhận đối tượng, Ý thức Chánh Tri
Kiến khởi lên biết các đối tượng đó là Cảm thọ thuộc phạm trù Tâm, nó sinh lên
rồi diệt ngay (Vô thường), không chiếm hữu, không sở hữu được nó (Vô chủ),
nó có Vị ngọt, nếu thích thú thì sẽ muốn nắm giữ, sở hữu nó thì khi nó mất đi
sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên (Sự nguy hiểm) thì bậc Thánh vẫn Thấy, Nghe,
Cảm nhận nó nhưng hoàn toàn vắng lặng Tham Sân Si, Sầu Bi Khổ Ưu Não.

Còn kẻ Phàm phu, sau khi Thấy, Nghe, Cảm nhận đối tượng rồi tưởng lầm nó là
Thế giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp, tưởng lầm nó thường hằng, thường trú
trong Thế giới vật chất, tưởng lầm có thể chiếm hữu, sở hữu nó, tưởng lầm là nó
mang đến hạnh phúc hoặc đau khổ cho Ta nên mới có Thái Độ Tham Sân Si,
Dính mắc ràng buộc với nó, mới có Sầu Bi Khổ Ưu Não.

Về mục lục

Bài 112: LÝ DUYÊN KHỞI VÀ VÔ THƯỜNG VÔ NGÃ

Vô thường và Vô ngã là hai tánh chất, hai tự tánh của các sự vật, hiện tượng Vật
chất và Tinh thần mà theo thuật ngữ Phật học là Sắc pháp và Danh pháp. Vô
thường đã được nói đến cả khi Phật chưa ra đời, nhưng với quan điểm, một số
thường hằng, một số vô thường chứ không phải tất cả các pháp đều vô thường
như sự chứng ngộ và tuyên thuyết của Đức Phật. Riêng về Vô ngã thì chỉ một
mình Đức Phật, độc nhất vô nhị từ cổ chí kim, chứng ngộ và thuyết giảng. Trong
bản kinh Đại Kinh Khổ Uẩn có đề cập tới bốn thủ là Dục thủ, Kiến thủ, Giới cấm
thủ và Ngã luận thủ, đức Phật đã giảng giải và khẳng định rằng: Các du sĩ ngoại
đạo có thể liễu tri Dục thủ, Kiến thủ, Giới cấm thủ nhưng không thể liễu tri Ngã
luận thủ. Chính vì vậy, thấy biết như thật hay liễu tri Vô thường đã là chuyện
khó, thấy biết như thật hay liễu tri Vô ngã lại càng khó khăn hơn.

Đức Phật chứng ngộ và tuyên thuyết các pháp Vô thường, Vô ngã dựa trên sự
thấy biết Như Thật về Lý Duyên Khởi hay Định luật Nhân Quả. Nhưng phải
phân biệt kỹ, có hai loại thấy biết về Lý Duyên Khởi: Một là thấy biết NHƯ
THẬT về Lý Duyên Khởi, thuộc về Đức Phật và Hai là thấy biết KHÔNG NHƯ
THẬT về Lý Duyên Khởi của Phàm phu.

1 - Thấy biết KHÔNG NHƯ THẬT về Lý Duyên Khởi: Đó là MỘT NHÂN


sinh QUẢ hay Một Nhân biến đổi thành Quả. Hoặc trên quan điểm Một Nhân
sinh quả đó, có bổ sung thêm: Một Nhân biến đổi thành Quả, có các nhân phụ
trợ giúp hay Một Nhân biến đổi thành Quả có các duyên trợ giúp. Ví như hạt
thóc sinh ra cây mạ, cây mạ biến đổi thành cây lúa, cây lúa phát sinh ra thóc,
thóc biến đổi thành gạo, gạo biến đổi thành cơm, quả chuối xanh biến đổi thành
quả chuối chín, đứa trẻ biến đổi thành người lớn, tiếng trống phát ra do cái
trống, nước biến thành hơi nước... Với thấy biết một nhân biến đổi thành quả,
thì nhân trong quả, quả trong nhân, tương tức, tương nhập, các pháp tương quan
với nhau, nối kết với nhau thành một toàn thể, và cái Toàn Thể như vậy sẽ
không sinh không diệt. Trong một cái Toàn Thể như vậy, các pháp sẽ phụ thuộc
lẫn nhau, nương nhau mà tồn tại, giữa các pháp sẽ tồn tại mối quan hệ sở hữu,
quan hệ chủ nhân, pháp này là của pháp kia. Ví như tiếng trống là "của" cái
trống, con là "của" mẹ, nhà "của" tôi, xe "của" tôi... Đối với thấy biết một nhân
sinh quả, nhân biến đổi thành quả thì mắt thấy quả táo màu hồng, tai nghe âm
thanh của quả táo rơi, mũi ngửi mùi thơm của quả táo, lưỡi nếm vị ngọt của quả
táo, tay biết cứng mềm của quả táo. Và như vậy, quả táo, màu hồng, âm thanh,
mùi thơm, vị ngọt, cứng mềm nương nhau tồn tại. Các pháp như màu hồng, âm
thanh, mùi thơm, vị ngon, cứng mềm sẵn có, thường xuyên có, thường hằng,
thường trú nơi quả táo, của quả táo. Tương tư như vậy, ngọt ở trong đường và
của đường, mặn ở trong muối và của muối, ngon dở ở trong thức ăn và của thức
ăn, nóng ở trong lửa và của lửa, lạnh ở trong nước đá và của nước đá, cứng
mềm, nặng nhẹ, thô mịn ở trong địa đại và của địa đại... Hạnh phúc có trong
những hoàn cảnh tốt đẹp, của hoàn cảnh tốt đẹp, Khổ đau ở trong những hoàn
cảnh tồi tệ, của hoàn cảnh tồi tệ, Khổ Tập Diệt Đạo ở trong thế giới ngoại cảnh,
của thế giới ngoại cảnh... Như vậy các pháp này Thường hằng và Hữu chủ.

Thấy biết Nhân Quả theo kiểu như vậy, là Thường kiến và Ngã kiến, không có
thể thấy biết NHƯ THẬT các pháp Vô thường, Vô chủ (Vô ngã).

2 - Thấy biết NHƯ THẬT về Lý Duyên Khởi: Đó là quan sát sự thật để thấy
biết tất cả các Sắc pháp và Danh pháp đều phát sinh theo định luật nhân quả
theo cách thức: "Hai Nhân tiếp xúc với nhau rồi cùng diệt mà phát sinh ra nhiều
quả".
Đối với các Sắc pháp, có thể quan sát hình ảnh, mà từ đó có thể hình dung ra
vận hành Nhân Quả của các Sắc pháp. Ví như có gói thuốc nhuộm đỏ và một
chậu nước trong là hai nhân, nhưng hai nhân này chưa tiếp xúc nhau thì chưa có
gì xảy ra. Khi hai nhân này tiếp xúc nhau, thì cả hai nhân là gói thuốc nhuộm đỏ
và chậu nước trong đều cùng diệt đi và phát sinh quả là chậu thuốc nhuộm đỏ.
Chậu thuốc nhuộm đỏ với cái áo trắng tiếp xúc nhau rồi cả hai cùng diệt, phát
sinh cái áo đỏ và một chậu thuốc nhuộm đỏ khác. Viên đá lửa và bánh xe bật
lửa tiếp xúc nhau rồi cùng diệt đi, phát sinh ánh lửa và viên đá mới, bánh xe
mới. Trống và dùi là hai nhân và khi hai nhân đó tiếp xúc với nhau cùng diệt
(trống cũ, dùi cũ diệt) phát ra tiếng trống, trống mới và dùi mới. Ô xy và Hydro
là hai nhân, tiếp xúc nhau rồi cùng diệt, phát sinh ra nước...

Đối với các Danh pháp phát sinh do hai nhân là Căn và Trần tiếp xúc nhau
(duyên Xúc). Ví như tay là Thân căn là một nhân, cục nước đá là Xúc trần là
nhân thứ hai, khi chưa tiếp xúc nhau, thì chưa có gì xảy ra. Khi tay tiếp xúc cục
nước đá, phát sinh Cảm giác lạnh, đồng thời phát sinh Thân thức nhận biết cảm
giác lạnh đó. Có viên đường là Vị trần và lưỡi là Thiệt Căn, hai nhân này chưa
tiếp xúc thì chưa có gì xảy ra. Khi lưỡi tiếp xúc viên đường thì lập tức phát sinh
Cảm giác vị ngọt và phát sinh Thiệt thức nhận biết Cảm giác vị ngọt đó.

- Mắt tiếp xúc Sắc trần phát sinh: Cảm giác hình ảnh và Nhãn thức
- Tai tiếp xúc Thanh trần phát sinh: Cảm giác âm thanh và Nhĩ thức
- Mũi tiếp xúc Hương trần phát sinh: Cảm giác mùi và Tỉ thức
- Lưỡi tiếp xúc Vị trần phát sinh: Cảm giác vị và Thiệt thức
- Thân tiếp xúc Xúc trần phát sinh : Cảm giác xúc chạm và Thân thức
- Ý tiếp xúc Pháp trần phát sinh: Cảm giác pháp trần và Tưởng thức

Các Danh pháp như Niệm, Tư duy, Ý thức, Tham Sân Si, Định, Dục... do hai
nhân là Ý tiếp xúc với Pháp trần mà phát sinh và đó là Nội xúc, xảy ra trong tế
bào thần kinh não bộ, thực chất là sự tương tác của hai nhân là hai lượng thông
tin.

- Chỉ có hai nhân tiếp xúc nhau: Có những trường hợp, có vẻ như có rất nhiều
nhân tiếp xúc nhau (nói theo cách nói ngày nay là tương tác với nhau) nhưng
quán sát kỹ thì chỉ hai nhân tiếp xúc rồi cùng diệt và phát sinh quả. Quả này lại
là một nhân tương tác với nhân thứ ba, phát sinh quả và quả mới này là một
nhân tương tác với nhân thứ tư... Ví như khi đúc một cột bê tông gồm rất
nhiều nhân tương tác với nhau như cát, sỏi, xi măng, nước, sắt thép, người thợ,
dụng cụ... nhưng sự tương tác chỉ xảy ra tuần tự từng đôi một. Đầu tiên tay
tiếp xúc dụng cụ, rồi dụng cụ tiếp xúc cát, dụng cụ tiếp xúc sỏi, dụng cụ tiếp
xúc xi măng, rồi cát sỏi tiếp xúc xi măng, rồi cát sỏi xi măng tiếp xúc với
nước...

Có thể quan sát theo tổng thể hay theo bộ phận nhưng vẫn là hai nhân tương tác
nhau. Ví như nếu xem con người đang đạp xe và cái xe đạp là một nhân, thì khi
cái nhân tổng thể ấy tương tác với nhân thứ hai là mặt đất thì sẽ phát sinh quả là
chuyển động của xe. Nếu quan sát chi tiết nhân quả trong cái tổng thể người và
xe đạp ấy sẽ thấy: chân tiếp xúc với bàn đạp phát sinh sự quay của vành đĩa.
Vành đĩa quay tương tác với xích, phát sinh sự chuyển động của dây xích. Dây
xích chuyển động tương tác với líp, phát sinh sự quay của líp. Sự quay của líp
tương tác với bánh xe, phát sinh sự quay của bánh xe. Bánh xe quay tương tác
với mặt đất phát sinh chuyển động của xe... Có thể quan sát lộ trình nhân quả
THÔ hay TẾ tuỳ theo quán sát tổng thể hay bộ phận.

- Hai nhân bình đẳng tương tác hay tiếp xúc nhau, không có nhân nào là chính,
nhân nào là phụ. Vì thế không thể nào có một nhân mà sinh được quả hay một
nhân biến đổi thành quả, không thể có quả theo hiểu biết một chiều "nhân nào
quả nấy". Không thể là sự thật khi nói: " thầy giỏi thì trò giỏi", bởi khi thầy giỏi
tương tác với một học sinh giỏi sẽ phát sinh một kết quả khác với kết quả khi
cũng thầy giỏi đó tương tác với một học sinh dốt hoặc lười. Một bao thóc giống
một mình nó không tiếp xúc với nhân thứ hai thì không phát sinh cái gì, nhưng
nếu bao thóc đó tiếp xúc với thửa ruộng đã làm đất kỹ, sẽ phát sinh ruộng mạ,
nếu tiếp xúc với đàn vịt sẽ phát sinh quả khác, nếu tiếp xúc với đống lửa sẽ
phát sinh quả khác, nếu tiếp xúc với đường nhựa nơi xe cộ đang chạy sẽ phát
sinh quả khác... Thấy biết Nhân Quả đa chiều như vậy sẽ chấm dứt được tà
kiến "nhân nào quả nấy", cái thấy một chiều theo kiểu "người mù sờ voi".

- Duyên được hiểu là sự tương tác hay sự tiếp xúc của hai nhân. Duyên Xúc
cũng đã thể hiện phải có hai nhân, không thể nào chỉ có một nhân mà có tiếp
xúc, có duyên Xúc được. Như vậy không thể nào có nhiều duyên bởi chỉ có hai
nhân, nên chỉ có một duyên Xúc mà thôi. Vì vậy không thể có quy luật Nhân
biến đổi thành quả nhờ nhiều duyên trợ giúp.

a - Vô thường: Như vậy các pháp do Nhân Duyên mà phát sinh, nghĩa là hai
nhân tiếp xúc nhau rồi cùng diệt và phát sinh quả. Pháp là quả đó lại tiếp xúc
với một nhân khác và rồi cùng diệt và phát sinh quả khác tiếp. Tiến trình cứ tiếp
diễn miên viễn như vậy. Vậy thì các pháp do duyên Xúc mà sinh, cũng do
duyên Xúc mà diệt, nó sinh lên rồi diệt đi, chỉ tồn tại trong một khoảng thời
gian nhất định, có thể rất ngắn ngủi, không tồn tại vĩnh viễn, nên nó không
thường hằng. Trước khi có duyên Xúc, nó chưa được sinh ra, sau khi diệt đi nó
không còn, nó chỉ sinh lên rồi diệt đi, chỉ hiện hữu, CHỈ CÓ MẶT DUY NHẤT
MỘT LẦN, không lặp lại, nên không thường trú ở đâu cả. Các pháp sinh diệt,
không thường hằng, không thường trú như vậy nên gọi là Vô thường. Phải lưu ý
rằng Vô thường là Sinh Diệt chứ không phải Vô Thường là Biến Đổi. Quán sát
để thấy biết các pháp vô thường là quán sát theo chiều thời gian, theo tính chất
Nhân diệt Quả mới sinh, vì vậy trong kinh có nói: Các Hành vô thường là chỉ
cho cách quan sát theo thời gian này.
Khi quan sát sáu Căn tiếp xúc sáu Trần thấy ra sáu Cảm thọ bao gồm: Cảm giác
hình ảnh, Cảm giác âm thanh, Cảm giác mùi, Cảm giác vị, Cảm giác xúc chạm,
Cảm giác pháp trần, sinh diệt vô thường khá dễ, nhưng thấy biết được sáu cái
biết trực tiếp giác quan nhận biết sáu Cảm thọ (theo thuật ngữ Phật học là
Tưởng tri đối tượng) là Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức,
Tưởng thức là vô thường, khó khăn hơn vì nó trừu tượng hơn. Một số trường
phái không thấy Như Thật duyên khởi, họ chủ trương những cái biết trực tiếp
giác quan này là Tánh Biết, Tánh Thấy, Tánh Nghe không sinh không diệt sẵn
có nơi mỗi người. Bởi vì họ cũng nhận xét thấy cái biết trực tiếp giác quan này
(trong hệ A Hàm của Hán Tạng dịch là trực giác) sinh ra là có liền, người hay
động vật cấp thấp, cấp cao đều có, Thánh Phàm đều như nhau, là cái biết Vô
niệm, Vô ngôn, Vô phân biệt, họ còn gọi là Bản tâm, Bản tánh. Còn Ý thức là
cái biết do học hỏi mà có, là cái biết sinh diệt ô nhiễm, phân biệt của Phàm phu.

Khi đang luân hồi sinh tử thì Tánh Biết này thường trú nơi mắt tai mũi lưỡi
thân ý, nó bị "trói buộc" trong thân này, khi chết đi nó thoát ra và lại nhập vào
bào thai, một thân xác khác, chỉ khi giác ngộ nhập Niết bàn, Tánh Biết mới
không nhập vào thân xác nào nữa. Chủ trương như vậy cũng y như chủ trương
Tiểu Ngã trong mỗi người, khi giác ngộ thì nhập vào Đại Ngã của Bà la môn
giáo, cũng đồng nghĩa với chủ trương Tánh Biết đó là Linh hồn Chúa thổi vào
con người (mà đầu tiên là Ađam và Eva), khi được lên thiên đường thì linh hồn
Chúa ấy trở về hoà nhập với Chúa như truyền thống Cựu ước. Họ không quan
sát sự thật để thấy không có Căn Trần tiếp xúc thì không thể có cái biết trực
tiếp giác quan đó. Nếu đó là Tánh Biết không sinh không diệt thì nó sẵn có,
luôn luôn có khi thức cũng như khi ngủ và thấy biết phải thường xuyên xảy ra
khi thức cũng như khi ngủ. Một người gây mê sâu khi phẫu thuật, nếu có Tánh
Biết không sinh không diệt thường trú nơi sáu Căn, thì họ vẫn thấy nghe mọi
sự, nhưng điều này không xảy ra, chứng tỏ Tánh Biết đó không có mặt, nó đã
diệt đi rồi. Lúc này tuy có sáu Trần, nhưng sáu Căn là hệ thống sáu loại tế bào
thần kinh bị gây mê, không hoạt động nên không đủ hai nhân, không có duyên
Xúc nên không có nhân duyên cho cái biết trực tiếp giác quan khởi lên, nên
không thấy biết những gì đang xảy ra.

b - Vô Chủ, Vô Sở Hữu: Khi quan sát quan hệ giữa các pháp sẽ phải quan sát
theo chiều thời gian và không gian.

Theo chiều thời gian thì giữa Nhân và Quả không cùng tồn tại trong một thời
điểm, nghĩa là nếu Nhân đang tồn tại thì Quả thuộc tương lai chưa sinh ra, nếu
Quả đang tồn tại thì Nhân thuộc quá khứ đã diệt. Vì vậy giữa giữa Nhân và Quả
không tồn tại Quan Hệ Sở Hữu, Quan Hệ Chủ Nhân. Giữa Nhân và Quả không
thể tồn tại chữ "Của". Không hề tồn tại quan hệ: tiếng trống là của cái trống, con
của mẹ, hạt thóc của cây lúa, ánh sáng của đèn điện...

Theo chiều không gian thì giữa các pháp là hai nhân hoàn toàn bình đẳng,
không có nhân chính, nhân phụ. Quan hệ giữa hai nhân là quan hệ tương tác và
cùng diệt đi, không hề tồn tại quan hệ sở hữu, quan hệ chủ nhân. Ví như trống
và dùi, xích và đĩa, mắt và sắc trần, lưỡi và viên đường, tay và cục nước đá...
đều là hai nhân bình đẳng, không nhân nào sở hữu, chủ nhân của nhân nào.

Quan hệ giữa các pháp chỉ có quan hệ TƯƠNG TÁC, không tồn tại quan hệ
CHỦ NHÂN, không tồn tại quan hệ SỞ HỮU. Vì vậy tất cả các Sắc pháp và
Danh pháp là VÔ CHỦ, VÔ SỞ HỮU.

Thấy biết như thật các pháp Vô chủ, Vô sở hữu để thấy rõ sự thật này trái ngược
hiểu biết thế gian. Các pháp Vô chủ, vô sở hữu nghĩa là quan hệ giữa các pháp
không có chữ "CỦA", còn mọi hiểu biết, mọi lối sống thế gian đặt nền tảng trên
quan hệ sở hữu với chữ "CỦA". Mặn của muối, ngọt của đường, ngon dở của
thức ăn, nóng của lửa, lạnh của nước đá, nặng nhẹ, cứng mềm, thô mịn của địa
đại, mẹ của con, xe của ta, nhà của ta, đất nước của ta... Vì thấy biết Thế gian
mặc định có quan hệ sở hữu, quan hệ chủ nhân, nên đời sống thế gian xoay
quanh sự chiếm hữu, phấn đấu chiếm hữu, bảo vệ chiếm hữu. Luật pháp bất kỳ
một nước nào, một thể chế chính trị nào cũng đặt trên quan hệ sở hữu. Thế gian
ca ngợi quyền sở hữu, quyền làm chủ: làm chủ Sinh Già Bệnh Chết, làm chủ
thân tâm, làm chủ hạnh phúc, làm chủ lời nói, hành động, làm chủ gia đình, xã
hội, làm chủ thiên nhiên. Cả thế gian đang sống trái với sự thật, đang phấn đấu
nỗ lực để đạt được sở hữu, đạt được làm chủ, đạt được cái không hề có. Chính
sự phi lý này, sự mâu thuẫn này, làm cho nhân loại chỉ quẩn quanh trong đau
khổ. Thực tại mà con người đang sống là Cảm thọ, những gì được thấy, được
nghe, được cảm nhận, được nhận thức là các Cảm giác, nó Vô thường, Vô chủ,
không thể sở hữu, không thể làm chủ, nên không có một cái gì đáng quý đến nỗi
phải chiếm hữu, phải giữ nó bằng mọi giá.

Trong hiểu biết và đời sống nhân loại tồn tại một cái Ta mà tiếng Hán gọi là
Ngã, là chủ nhân, chủ sở hữu của các Danh pháp và Sắc pháp, là chủ nhân, chủ
sở hữu của Sắc Thọ Tưởng Hành Thức. Ta thấy, Ta nghe, Ta ngửi, Ta nếm, Ta
xúc chạm, Ta nhớ, Ta tư duy, Ta nói, Ta làm, Ta hạnh phúc, Ta đau khổ, Ta tạo
nghiệp, Ta gặt hái quả của nghiệp... nhà của Ta, xe của Ta, gia đình Ta, con Ta,
đất nước Ta... Ta hơn, Ta kém, Ta bằng. Trong kinh diễn tả bằng tiếng Hán là
"Ngã kiến, Ngã sở kiến, Ngã mạn tuỳ miên". Phàm phu xoay quanh cái Ta này,
tô bồi, bảo vệ, xung đột vì cái Ta này, tin rằng cái Ta này thực sự hiện hữu.

Nhưng Sắc Thọ Tưởng Hành Thức là pháp duyên khởi, đặc tính của nó là Vô
chủ, nghĩa là không có bất kỳ một pháp nào, một cái gì là chủ nhân, chủ sở hữu
của nó nên không thể có cái Ta này, không thể hiện hữu cái Ta chủ nhân, chủ
sở hữu này, nghĩa là các pháp Vô Ngã. Cái Ngã trong thấy biết của Phàm phu
không có thật, chỉ là tư tưởng tà kiến do Tà Niệm - Tà Tư Duy tạo ra, là lý luận
suông, là lông rùa sừng thỏ. Ngoài Đức Phật, không ai trong nhân loại, thấy biết
được sự thật Vô Ngã này, nên không ai có thể liễu tri Ngã luận thủ. Như vậy
VÔ CHỦ, VÔ SỞ HỮU cũng đồng nghĩa với VÔ NGÃ.

- Vô Ngã là không có cái Ta (Ngã) chủ nhân, chủ sở hữu Sắc Thọ Tưởng Hành
Thức. Nếu chỉ quán Sắc Thọ Tưởng Hành Thức này "không phải là ta, không
phải của ta, không phải là bản ngã của ta" thì cũng có thể đạt được không chấp
thủ Sắc Thọ Tưởng Hành Thức, nhưng với Vô minh sâu dày thì quán như vậy
vẫn còn tồn tại một cái Ta. Và như vậy sẽ tư duy, suy diễn để tìm kiếm một cái
Ta ngoài Sắc Thọ Tưởng Hành Thức, đi tìm một cái Ta chân thực không sinh
không diệt, một Bản Tâm, Bản Tánh, một Bản Lai Diện Mục không sinh không
diệt... Điều này đã xảy ra sau khi Phật giáo phân phái. Trong bản kinh Giới
Phân Biệt, kinh 143 thuộc Trung Bộ Kinh, Đức Phật đã giảng: Ta là, là một
vọng tưởng. Ta không phải là, là một vọng tưởng. Chấm dứt (hai) vọng tưởng là
một ẩn sĩ tịch tịnh. Lời giảng chính xác về Vô Ngã, không còn khe hở cho suy
diễn tưởng tượng là đây, phủ nhận hoàn toàn cái Ta, Bản Ngã. Ta là Sắc Thọ
Tưởng Hành Thức là vọng tưởng điên đảo. Ta không phải là Sắc Thọ Tưởng
Hành Thức cũng là vọng tưởng điên đảo. Chấm dứt cả hai tư tưởng điên đảo về
cái Ta, vắng lặng tư tưởng về cái Ta là chứng đạt Vô Ngã.

- Một số trường phái phát triển không thấy biết như thật tánh chất Vô chủ hay
Vô ngã của các pháp, nên đề ra Hai Vô ngã là Nhân vô ngã và Pháp vô ngã. Đa
phần hiểu Vô ngã là Vô tự tánh, nghĩa là các pháp không có tự tánh. Điều này là
hiểu biết sai lạc vì hai tự tánh đặc biệt của các pháp là vô thường, vô ngã đã
được Đức Phật khẳng định. Vô thường, Vô ngã là hai tánh chất, hai bản tánh,
hai tự tánh của tất cả pháp, sẵn có nơi các pháp vì các pháp là do duyên khởi
như đã chỉ rõ trên đây. Hiểu biết các pháp là vô tự tánh cũng tự mâu thuẫn với
chính họ khi họ định nghĩa: pháp là nhậm trì tự tánh... nghĩa là mỗi pháp trì giữ
tự tánh của mình mới phân biệt được pháp này với pháp kia.

3 - Tin sâu Nhân Quả: Người học Phật trước tiên phải tin sâu nhân quả.
Nhưng phải phân biệt được có hai loại tin sâu nhân quả. Một là tin sâu nhân quả
theo thấy biết Vô minh, tà kiến. Hai là tin sâu nhân quả theo thấy biết như thật
nhân quả của lời Phật dạy. Đa phần chủ trương tin sâu nhân quả là Nhân Quả
Nghiệp Báo theo kiểu: Ta tạo nhân lành trong quá khứ thì hiện tại Ta lãnh thọ
quả vui. Ta tạo nhân ác trong quá khứ thì hiện tại Ta lãnh thọ quả khổ. Hiện tại
và tương lai cũng vậy. Đây là hiểu biết một chiều về nhân quả dựa trên Vô
minh, Thường kiến, Ngã kiến đã bị Đức Phất chỉ trích và phê phán trong Tương
Ưng Bộ Kinh. Trong bản kinh này một Bà la môn hỏi Đức Phật: Khổ do mình
làm rồi mình chịu hay Khổ do người khác làm, mình chịu? Đức Phật đã trả lời
rằng: Khổ do mình làm và rồi mình chịu là Thường kiến, Khổ do người khác
làm rồi mình chịu là Đoạn kiến. Và Đức Phật giảng Khổ do duyên Xúc. Thường
kiến và Đoạn kiến như vậy về Nhân Quả Nghiệp Báo chính là Tà kiến, không
thể thấy Như Thật về Nhân Quả Nghiệp Báo theo lời dạy của Phật, Khổ do
duyên Xúc. Tin sâu nhân quả với Trí Tuệ, theo lời dạy của Đức Phật, phải hiểu
là Đức Phật dạy hai loại nhân quả: Nhân quả Thế gian thuộc về Phàm phu và
Nhân quả Xuất thế gian thuộc về bậc Thánh.

a - Nhân quả thế gian chính là Nhân Quả Nghiệp Báo: Nhân Quả Nghiệp
Báo vận hành theo lộ trình: Do có Lục nhập mà có Xúc, do có Xúc mà có Thọ,
do có Thọ mà có Ái, do có Ái mà có Thủ, do có Thủ mà có Hữu, do có Hữu mà
có Sinh, do có Sinh mà có Già Bệnh Chết Sầu Bi Khổ Ưu Não không thể kể
xiết: Lục nhập - Xúc - Thọ - Ái - Thủ - Hữu - Sinh - Già Bệnh Chết Sầu Bi Khổ
Ưu Não.

Đức Phật đã thuyết minh tóm tắt để cho người nghe dể hiểu về lộ trình Nhân
Quả này, nếu khảo sát tỉ mỉ thì đó là lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu: Lục
Nhập - Xúc - Thọ - Tưởng - Tà Niệm - Tà Tư Duy - Ý thức Tà Tri Kiến - Tham
Sân Si - Tà Định - Dục - Tà Tinh Tấn - Phi Như Lý tác ý - Tà ngữ, Tà nghiệp,
Tà mạng - Sinh Già Bệnh Chết Sầu Bi Khổ Ưu Não.
Tin sâu nhân quả phải là Chánh tín do Văn - Tư - Tu về lộ trình tâm Bát Tà
Đạo, để thấy biết Như Thật về Khổ, thấy biết Như Thật về Nguyên nhân Khổ
hay giác ngộ Khổ đế và Tập đế. Muốn đạt được như vậy phải quan sát các quá
trình nhân quả này vận hành nối tiếp nhau, mỗi một giai đoạn hay mỗi một chi
phần đều xảy ra theo cách thức: hai nhân bình đẳng tương tác nhau rồi cùng diệt
mà phát sinh quả. Quan sát như vậy sẽ tránh được thấy biết có nhân là chủ thể,
nhân là đối tượng, tránh được quan hệ giữa hai nhân chủ thể và đối tượng là
quan hệ chủ nhân, chủ sở hữu. Ví như con dao và quả dưa. Tà kiến thấy con dao
là chủ thể, quả dưa là đối tượng, quả dưa bị con dao cắt làm đôi, con dao là
nhân, quả dưa bị cắt làm đôi là kết quả. Thấy như thật là: con dao và quả dưa
bình đẳng, hai nhân này tương tác với nhau và cả hai cùng diệt (quả dưa nguyên
vẹn ban đầu không còn, con dao ban đầu không còn vì nó đã mòn đi tuy rất vi
tế) và phát sinh hai nửa quả dưa và con dao mới. Tương tự như vậy phải chấm
dứt cái thấy chồng vợ, cha con, thầy trò, chủ khách... theo quan hệ chủ nhân,
chủ sở hữu bằng cách thấy các cặp này là hai nhân bình đẳng tương tác với
nhau thì sẽ thấy được kết quả phát sinh là Vô thường, Vô chủ. Phải thấy cho
được Căn Trần là hai nhân bình đẳng tiếp xúc nhau mà phát sinh Cảm thọ thì sẽ
thấy các Cảm thọ Vô thường, Vô chủ. Thấy được như thật con người đang sống
với những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là các Cảm
giác và các Cảm giác này vô thường, vô chủ. Thấy ra được Tà Niệm - Tà Tư
Duy làm phát sinh Ý thức Tà Tri Kiến, hiểu biết một cách sai lạc. Sự sai lạc ở
đây là những đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức
là các Cảm Thọ, lại thấy nó là Thế giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp, thấy nó
là ngoại cảnh và thấy nó Thường Hằng, Hữu chủ. Đó là nguyên nhân phát sinh
Tham Sân Si, phát sinh Khổ. Ví như Tà kiến thấy "vị ngọt" là tính chất của viên
đường, sẵn có, luôn luôn có trong viên đường (thường hằng, thường trú), "vị
ngọt" là của viên đường (hữu chủ). Quan sát nơi sự thật sẽ thấy Viên đường (Vị
trần) và Lưỡi (Căn) là hai nhân bình đẳng, nếu chưa tiếp xúc thì không có "vị
ngọt" nào cả. Khi lưỡi tiếp xúc Viên đường lập tức phát sinh Cảm giác vị ngọt,
và đây là "vị ngọt" thật của đời sống hàng ngày mà Thánh hay Phàm đều cảm
nhận được. Xúc sinh Cảm giác vị ngọt sinh, Xúc diệt Cảm giác vị ngọt diệt nên
Cảm giác vị ngọt Vô thường, không có trong viên đường, Cảm giác vị ngọt
cũng Vô chủ, không phải của viên đường, vì Lưỡi và Viên đường đều không
phải là chủ nhân, chủ sở hữu của Cảm giác vị ngọt.

b - Nhân quả Xuất Thế gian: Đó là thực tại của bậc Thánh. Nhân Quả Xuất Thế
gian vận hành theo lộ trình tâm Bát Chánh Đạo. Cụ thể:

Lục Nhập - Xúc - Thọ - Tưởng - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định -
(Tỉnh Giác) - Chánh Tư Duy - Chánh Tri Kiến - Như Lý tác ý - Chánh ngữ,
Chánh nghiệp, Chánh mạng.

Khi lộ trình Nhân Quả Xuất Thế gian này vận hành thì lộ trình Nhân Quả
Nghiệp Báo thế gian đoạn diệt. Đó chính là đoạn tận Khổ.

Kết Luận: Người Phật tử tin sâu nhân quả bằng Văn tức nghe giảng hoặc tự
mình đọc sách, bằng Tư tức tư duy về điều đã học, bằng Tu tức thực hành Bát
Chánh Đạo để thấy biết như thật Nhân Quả thế gian, tức sự vận hành của lộ
trình tâm Bát Tà Đạo và Nhân Quả Xuất thế gian tức sự vận hành lộ trình tâm
Bát Chánh Đạo. Và như vậy toàn bộ sự thuyết giảng của Đức Phật là thuyết
giảng về Nhân Quả hay về Duyên Khởi, chính vì vậy mà Ngài đã kết luận: "Ai
thấy Lý Duyên Khởi là thấy Pháp, ai thấy Pháp là thấy Như Lai"

Về mục lục

Bài 113: TUỆ TRI VỊ NGỌT, SỰ NGUY HIỂM VÀ SỰ XUẤT LY

Sự tu tập mà Đức Phật khéo léo thuyết giảng bằng nhiều phương tiện khác
nhau, dù là Giới, là Định, hay là Tuệ là để đoạn trừ Tham Sân Si vì Tham Sân
Si là Nhân sanh Khổ. Khi tu tập mà kinh nghiệm được không có Tham, không
có Sân, không có Si, không có Nhân sanh Khổ, thì vị đó cũng kinh nghiệm
được Không có Khổ, nói theo cách khác là kinh nghiệm được Khổ Diệt hay
Niết Bàn. Trong thời đại này, một người tu tập mà kinh nghiệm được không có
Nhân sanh Khổ, hay Khổ Diệt, Niết Bàn, chỉ có một cách duy nhất là tuân thủ
lời dạy của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chứ không thể có một con đường thứ
hai, một pháp môn thứ hai, lời dạy của một vị Phật thứ hai, một vị Tổ Sư nào
hết. Đức Phật giác ngộ nhờ: "Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy
hiểm và sự xuất ly của Thọ". Nhiều người học và tu theo Phật, nhiều trường
phái Phật giáo đã đi xa khỏi điều này, đặc biệt là nhiều người, nhiều trường
phái không tìm hiểu, không tư duy, không tu tập trên cái chủ đề đặc biệt quan
trọng này: "Tuệ tri vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly".

Người học Phật đều hiểu được cần chấm dứt Tham Sân Si nhưng nhiều người
không lĩnh hội được, không thấu triệt được cái sâu kín, khó thấy, khó chứng,
tịch tịnh, mỹ diệu, vượt qua mọi tư duy lý luận suông, chỉ người trí mới có khả
năng giác hiểu của Bát Chánh Đạo, nên họ đã chú tâm sang hướng khác. Để
viễn ly, ly tham đối với các pháp, tức những đối tượng được thấy, được nghe,
được cảm nhận, được nhận thức, họ chủ trương các pháp là giả có, không thật,
với mong ước viễn ly, ly tham các pháp. Điều này dựa trên sự tư duy, suy diễn,
là nếu biết đối tượng đó là thật có thì do hiểu biết đó, mà sẽ có thái độ Tham
Sân hay Si, nhưng nếu biết đối tượng đó là giả có, không thật thì sẽ không có
thái độ Tham Sân Si, sẽ viễn ly, ly tham đối tượng đó. Suy tư như vậy sẽ đưa
đến chủ trương các pháp không thật, chỉ giả có mà thôi. Chủ trương như vậy,
không phải do quán sát sự thật mà có, mà chỉ là tư duy lý luận suông, thực chất
là thuộc một trong hai cực đoan của tư tưởng nhân loại: Chấp Có và Chấp
Không. Chấp Có là tư tưởng cho rằng các đối tượng được thấy, được nghe,
được cảm nhận, được nhận thức là các Sắc pháp, là Vật chất, và các pháp như to
nhỏ, vuông tròn, dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, đẹp xấu, nhơ
sạch... là thuộc tính của sắc pháp, của vật chất, thường hằng, thường trú trong
sắc pháp, trong vật chất. Đây là tư tưởng Thường Kiến thuộc về Duy Vật. Chấp
Không là tư tưởng cho rằng những đối tượng được thấy, được nghe, được cảm
nhận, được nhận thức là không có thật, các Sắc pháp không thực có, nó do
Thượng đế toàn năng hay Bổn Tâm không sinh không diệt hoá hiện ra, nên chỉ
là giả có. Đây là tư tưởng Đoạn Kiến thuộc về Duy Tâm. Đức Phật đã chỉ rõ,
đây là hai cực đoan, là các tư tưởng không đúng sự thật, là Tà Kiến và ly hai cực
đoan đó, Đức Phật thuyết pháp ở Trung Đạo, nghĩa là các pháp phát sinh do
Duyên Khởi. Do không tuệ tri Lý Duyên Khởi do đức Phật giảng, không tuệ tri
Vô Thường, Vô Chủ (Vô Ngã), không liễu tri các pháp, cho nên một số trường
phái rơi vào chủ trương: Các pháp là do nhân duyên hoà hợp mà có nên nó là
Không, không thật có, nó chỉ là giả có thôi. Thực chất đây cũng là tư tưởng
thuộc cực đoan thứ hai là Chấp Không. Chủ trương này là một tư tưởng trái với
kinh nghiệm của con người, trái với sự thật của đời sống hàng ngày. Đó là
Thánh Hay Phàm đều cảm nhận được các pháp như cứng mềm thô mịn, mặn
ngọt chua cay... Các pháp đó là có thật nên Thánh hay Phàm mới cảm nhận
được. Vì vậy tuy bị áp đặt và nhồi sọ bởi tư tưởng các pháp là giả, không thật,
nhưng người học vẫn mơ hồ, trừu tượng, băn khoăn, nghi ngờ, do dự, phân vân,
lưỡng lự và không ai sống được với tư tưởng các pháp giả có, không thật và tuy
ngoài miệng nói, các pháp đó là giả có, là không thật nhưng nội tâm thì không
như vậy, mà vẫn Tham, vẫn Sân, vẫn Si với các pháp, không viễn ly, không ly
tham các pháp.

Vấn đề ở đây là do không "tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và
sự xuất ly của Thọ" như Đức Phật đã tuệ tri, không tuệ tri sự giác ngộ mà Đức
Thế Tôn đã thuyết giảng nên rơi vào tư duy suy diễn, rơi vào hai cực đoan, rơi
vào chủ trương thật giả, rơi vào Thường kiến, Đoạn kiến. Một người khi nghe
Giáo Pháp mà đức Phật khéo léo thuyết giảng, như thật tuệ tri được Lý Duyên
Khởi sẽ thấy biết như thật các pháp được thấy, được nghe, được cảm nhận, được
nhận thức do duyên hai nhân là Căn và Trần tiếp xúc nhau mà phát sinh, nó chính
là sáu loại Cảm Giác hay là sáu Cảm Thọ. Thấy biết ngay liền Xúc sinh thì Thọ
sinh, Xúc diệt thì Thọ diệt, thấy biết ngay liền Thọ là Vô Thường, Thọ là Vô Chủ
hay Vô Ngã. Với thấy biết đúng như thật này sẽ chấm dứt đươc Chấp Có, Chấp
Không, Chấp Thật, Chấp Giả, Thường Kiến, Đoạn Kiến. Đây là Trung Đạo, là
thấy biết khác người của Phật đã chứng ngộ và thuyết giảng.

- Tuệ tri vị ngọt: Vị ngọt được nói trong ngữ cảnh này là Niềm vui, Hạnh phúc,
Lạc thú cuộc đời, và đối với vấn đề này nhân loại vẫn tồn tại hai tư tưởng Chấp
Có và Chấp Không. Chấp Có là tư tưởng cho rằng vị ngọt sẵn có, thường xuyên
có, luôn luôn có trong Sắc pháp, tức là trong những hoàn cảnh tốt đẹp như giàu
có, mạnh khoẻ, sống lâu, xinh đẹp, thành đạt, danh tiếng... Chấp Không là tư
tưởng cho rằng vị ngọt không có thật, là giả, là phù du, là huyễn ảo. Đức Phật đã
khẳng định: Ta đã tuệ tri vị ngọt là vị ngọt. Đức Phật đã xác định, vị ngọt là có
thật, nếu vị ngọt không có thật thì chúng sanh đâu có tham đắm vị ngọt, vì vị
ngọt là có thật chúng sanh mới tham đắm vị ngọt. Vậy vị ngọt là có thật chứ
không phải không có thật, không phải là giả có như tư tưởng Chấp Không.
Không những tuệ tri vị ngọt có thật, Ngài còn tuệ tri hơn thế nữa. Vị ngọt là có
thật nhưng nó là Cảm thọ, cụ thể là Lạc thọ nên nó Vô thường, Vô chủ (hay Vô
ngã), nó thuộc phàm trù Tâm chứ không phải Cảnh, không sẵn có, không thường
hằng, thường trú nơi Sắc pháp, nơi ngoại cảnh như tư tưởng Chấp Có.

- Tuệ tri sự nguy hiểm: Vị ngọt Vô thường, Vô ngã, nếu thích thú vị ngọt thì sẽ
nắm giữ, ràng buộc với vị ngọt, nên khi vị ngọt biến hoại, biến diệt, mất đi, sầu
bi khổ ưu não sẽ khởi lên. Nếu không tham ái vị ngọt thì sẽ không nắm giữ,
không ràng buộc thì khi vị ngọt biến hoại, biến diệt, mất đi, sầu bi khổ ưu não
không thể khởi lên. Đây là nguy hiểm, tham ái vị ngọt là nguy hiểm vì nó đưa
đến khổ, nó là Nhân sanh Khổ. Tham ái sẽ phát sinh sự tìm cầu vị ngọt, phát sinh
lao tâm khổ trí, phát sinh ra tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, phát sinh sát sanh, trộm
cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, do vậy phát sanh sầu bi khổ ưu não. Vì tham ái
vị ngọt mà cha con tranh đoạt nhau, vợ chồng tranh đoạt nhau, anh em tranh đoạt
nhau, dòng họ tranh đoạt nhau, đất nước tranh đoạt nhau... Vì tham ái vị ngọt mà
có biết bao lừa đảo, phá sản, đâm chém, cướp giật, tàn sát nhau bằng gươm giáo,
súng đạn, hay bằng miệng lưỡi. Vì tham ái vị ngọt mà người ta chế tạo bom
nguyên tử để huỷ diệt nhau, phát minh ra các chất gây nghiện để đầu độc nhau,
phát minh ra các chất kích thích động, thực vật để huỷ hoại nhau. Vì tham ái vị
ngọt mà hoa hậu đi bán dâm, con trai giao cấu với mẹ đẻ, bố hiếp dâm con gái
ruột của mình. Tất cả những tội ác và khổ đau trên cõi đời này là do tham ái vị
ngọt. Tham ái vị ngọt là động lực phát minh, phát triển của nhân loại nhưng nó
không đưa con người tới Giác Ngộ và Giải Thoát mà nó đưa loài người đến Nô
Lệ và Tự Huỷ Diệt. Kể cả vị ngọt là hỷ lạc nội tâm khi an trú Sơ thiền, đó là hỷ
lạc do ly dục sanh, khi an trú Nhị thiền, đó là hỷ lạc do định sanh, khi an trú Tam
thiền, đó lạc do xả niệm lạc trú, khi an trú Tứ thiền, đó là hiện tại lạc trú do xả
niệm thanh tịnh, nếu tham ái và nắm giữ thì đó vẫn là sự nguy hiểm, vì khi tu tập
trông ngóng nó, không đạt được nó, thì sầu bi khổ ưu não vẫn khởi lên. Trong lời
dạy chính yếu của Đức Phật, Nguyên nhân Khổ là "khát ái tìm cầu hỷ lạc (hạnh
phúc, vị ngọt) chỗ này chỗ kia như Dục ái, Hữu ái và Phi Hữu ái" mà không đề
cập tới Sân và Si. Nhưng trong kinh điển rất nhiều chỗ thuyết minh Nguyên nhân
Khổ là Tham Sân Si. Sự thực là khi mất đi vị ngọt hoặc không có vị ngọt, lúc đó
đối diện với Khổ thọ hoặc Bất khổ bất lạc thọ, thì không có Tham mà có Sân đối
với Khổ thọ, có Si đối với Bất khổ bất lạc thọ cũng là nhân phát sinh khổ, vì vậy
nếu nói cô đọng Nguyên nhân Khổ là Tham ái, nói một cách chi tiết thì Nguyên
nhân Khổ là Tham Sân Si.

- Tuệ tri sự xuất ly: Nếu khi thấy, nghe, cảm nhận một đối tượng và hiểu biết về
"tuệ tri vị ngọt, tuệ tri sự nguy hiểm" khởi lên tức là Ý thức Chánh Tri Kiến khởi
lên thì đó là nhiếp phục nhân duyên khởi lên Tham Sân Si. Khi thực hành Bát
Chánh Đạo, Ý thức Chánh Tri Kiến khởi lên "tuệ tri vị ngọt, tuệ tri sự nguy
hiểm" như vậy, sẽ nhiếp phục (đưa đến đoạn diệt) nhân duyên phát sinh Tham
Sân Si, thì cũng thấy biết như thật không có Tham đối với Lạc thọ, không có Sân
đối với Khổ thọ, không có Si đối với Bất khổ bất lạc thọ. Đây là tuệ tri sự xuất ly
của Thọ, cũng là tuệ tri Khổ Diệt hay tuệ tri Niết Bàn. Ví như một đứa trẻ hai
tuổi, khi thấy hòn than lửa đỏ, hiểu biết về sự nguy hiểm, cầm lấy hòn than lửa
đỏ là bỏng tay, rất khổ, không khởi lên, nên nó sẽ cầm lấy hòn than lửa đỏ. Một
người lớn có kinh nghiệm, biết được sự nguy hiểm, thì khi thấy hòn than lửa đỏ,
hiểu biết về sự nguy hiểm, cầm lấy hòn than lửa đỏ là nguy hiểm, là bỏng tay
khởi lên và do vậy sẽ không lấy tay cầm lấy hòn than lửa đỏ như đứa trẻ hai tuổi.
Hoặc một người đang khát, nhìn thấy một cốc nước lọc trên bàn, nếu hiểu biết
khởi lên, cốc nước này ngon lành thì người đó sẽ uống, nếu hiểu biết về sự nguy
hiểm khởi lên, trong nước này có độc tố, uống vào là chết, thì người đó dù khát
cháy cổ, vẫn không uống. Cũng y như vậy, Ý thức Chánh Tri Kiến, Trí Tuệ, hay
Minh này "tuệ tri vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly" được tu tập, được làm cho
viên mãn bởi Văn - Tư - Tu, thì khi thấy, nghe, cảm nhận một đối tượng, hiểu
biết về Nguyên nhân Khổ, hiểu biết về sự nguy hiểm "nếu có Tham Sân Si với
đối tượng đó thì sẽ có sầu bi khổ ưu não" khởi lên, thì Tham Sân Si không thể
nào khởi lên được nữa. Như vậy chỉ khi nào thấy, nghe, cảm nhận đối tượng mà
có mặt Trí Tuệ: "tuệ tri vị ngọt, tuệ tri sự nguy hiểm" thì lúc đó mới viễn ly, ly
tham các pháp.

Minh hay Trí Tuệ "tuệ tri vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly" này được tu tập
theo lộ trình Văn - Tư - Tu sẽ dần dà trở nên viên mãn và khi đã viên mãn, nó sẽ
xoá bỏ Vô minh đưa đến giải thoát tối hậu, đưa đến quả A La Hán.

Trong Đại Kinh Khổ Uẩn thuộc Trung Bộ Kinh, Đức Phật đã phân biệt đặc thù
của các Sa môn, Bà la môn ngoại đạo với Như Lai và đệ tử Như Lai là ở "tuệ tri
vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly". Đức Phật đã giảng:

- Này các Tỷ kheo, các du sĩ ngoại đạo nói như vậy cần được trả lời như sau:
"Chư Hiền, thế nào là vị ngọt các dục? Thế nào là sự nguy hiểm, thế nào là sự
xuất ly? Thế nào là vị ngọt các sắc pháp, thế nào là sự nguy hiểm, thế nào là sự
xuất ly? Thế nào là vị ngọt các cảm thọ, thế nào là sự nguy hiểm, thế nào là sự
xuất ly?". Này các Tỷ kheo, khi được hỏi vậy, các Du sĩ ngoại đạo không thể
trả lời được và sẽ bị mắc vào các khó khăn khác. Vì sao vậy? Này các Tỷ
kheo, vì vấn đề này không thuộc khả năng hiểu biết của họ. Này các Tỷ kheo,
Ta không thấy một ai trong thế giới này với chư Thiên, Mara, Phạm thiên, với
chúng Sa môn, Bà la môn, với chư Thiên và loài Người, mà câu trả lời các câu
hỏi này được chấp nhận, ngoài Như Lai, đệ tử Như Lai và những ai được nghe
hai vị này.

Vậy thì những ai tự nhận mình là đệ tử của Đức Phật hãy thận trọng, hãy cảnh
giác: chừng nào mà "tuệ tri vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly" chưa được tìm
hiểu, chưa được tư duy, chưa được tu tập, đang bị nhồi sọ bằng các tư tưởng,
các pháp là Thật hay Giả có, thì chỉ là đệ tử của ngoại đạo mà thôi. Cũng trong
Đại Kinh Khổ uẩn Đức Phật khẳng định ở cuối kinh:

- Này các Tỷ kheo, những Sa môn, Bà la môn nào không như thật tuệ tri vị
ngọt các cảm thọ là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự
xuất ly là sự xuất ly như vậy, những vị này sẽ không như thật tuệ tri các cảm
thọ của họ, họ cũng không thể đặt người khác trong một địa vị tương tự, nghĩa
là như thật tuệ tri các cảm thọ, sự kiện như vậy không xảy ra. Này các Tỷ kheo,
những Sa môn, Bà la môn nào như thật tuệ tri vị ngọt các cảm thọ là vị ngọt
như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là xuất ly như vậy,
những vị này nhất định như thật tuệ tri các cảm thọ của họ, họ có thể đặt người
khác trong một địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các cảm thọ, sự kiện
như vậy có xảy ra.

Lời dạy này của Đức Phật cũng có thể đưa đến khẳng định rằng: một vị Thiền
sư cho dù nổi tiếng, lỗi lạc cỡ nào đi nữa nhưng nếu họ không như thật "tuệ tri
vị ngọt, tuệ tri sự nguy hiểm và tuệ tri sự xuất ly" thì họ sẽ không giảng dạy,
huống nữa là hướng dẫn, khuyến khích người khác "tuệ tri vị ngọt, sự nguy
hiểm và sự xuất ly". Hãy cẩn trọng, kể cả những Thiền sư như vậy, được cho là
lỗi lạc, nổi tiếng, có thể vẫn lạc lối khỏi con đường Giác Ngộ và Giải Thoát.

Về mục lục

Bài 114: THIỀN PHẬT GIÁO

Thiền đã trở thành thời thượng, được rất nhiều người ở Đông phương và Tây
phương nghiên cứu, học hỏi, tu tập và ngợi ca. Tuy nhiên Thiền có rất nhiều
trường phái, nhiều cách thực hành, với các mục đích khác nhau, trong đó có
Thiền Phật Giáo. Thiền Phật giáo chỉ có một mục đích duy nhất là Chấm dứt
Khổ, Giải thoát Khổ chứ không có mục đích rèn luyện sức khoẻ, chữa bệnh, đạt
những năng lực thần thông... Khi tu tập Thiền Phật Giáo có thể xảy ra những
cái đó, nhưng nó là các sản phẩm phụ, không phải là mục đích của Thiền Phật
giáo. Vì vậy tu tập Thiền Phật giáo phải là sự tu tập Bát Chánh Đạo, mà Thiền
chỉ là một chi phần trong tám chi phần Bát Chánh Đạo. Nếu nói một cách chính
xác thì Thiền Phật giáo gồm ba chi phần: Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn -
Chánh Định. Sự thực hành Thiền Phật giáo bao giờ cũng phải có mặt ba chi
phần này nhưng tuỳ theo nội dung của Chánh Niệm mà có thể đạt được mục
đích là chứng ngộ Tâm Giải Thoát hay vừa chứng ngộ cả Tâm Giải Thoát và
Tuệ Giải Thoát.

Tâm phải được hiểu là một phạm trù bao gồm rất nhiều Hành Vi mà thuật ngữ
Phật học gọi là Danh Pháp. Các Danh pháp ấy sinh lên rồi diệt đi nối tiếp nhau
theo một lộ trình. Lộ trình đó như sau: Khi đối tượng xuất hiện thì cũng đồng
thời xuất hiện Hành vi Thấy, Nghe, Cảm nhận đối tượng (Thấy đối tượng hình
ảnh, Nghe đối tượng âm thanh, Cảm nhận đối tượng mùi, vị, xúc chạm, pháp
trần). Đây là cái biết trực tiếp giác quan nhận biết đối tượng hay Tâm lý học gọi
là Nhận thức cảm tính đối tượng. Tiếp đến Ý thức khởi lên biết đối tượng đó là
cái gì, tính chất ra sao. Hành vi Ý thức hiểu biết bản chất đối tượng được Tâm
lý học gọi là Nhận thức lý tính đối tượng. Do Ý thức biết về đối tượng như vậy,
như vậy mà sẽ phát sinh Thái độ với đối tượng, do Thái độ mà phát sinh Ý
Muốn, do Ý Muốn mà phát sinh Lời nói hay Hành động, do Lời nói, Hành động
mà phát sinh Kết quả. Như vậy mọi Thái độ, Ý muốn, Lời nói Hành động và
Kết quả đều phụ thuộc vào Nhận thức cảm tính và Nhận thức lý tính đối tượng,
nói gọn lại là THẤY và BIẾT.

1 - Thực hành Thiền Phật giáo để kinh nghiệm (chứng ngộ) Tâm Giải
Thoát: Trong Thấy và Biết thì Thấy chỉ là nhận biết đối tượng, đối tượng đó
như thế nào thì nhận biết như thế đó, không bị ảnh hưởng bởi tri thức, hiểu
biết, kinh nghiệm. Nó là cái biết trực tiếp giác quan (xảy ra nơi các giác quan)
Vô niệm, Vô ngôn, Vô phân biệt. Nếu chỉ có cái biết này thì không có bất kỳ
một Thái độ nào, do vậy không có Ý muốn, Lời nói, Hành động và Kết Quả.

Ví như đứa trẻ vừa đẻ ra, nó vẫn Thấy, Nghe, Cảm nhận các đối tượng nhưng Ý
thức chưa khởi lên, chưa biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao nên không
có bất kỳ một Thái độ nào. Giả thiết có một bé trai vừa sinh ra bỗng lớn vụt lên
như một thanh niên hai mươi lăm tuổi. Lúc đó nếu có một cô hoa hậu rất hấp
dẫn, sexy bốc lửa và nếu một thanh niên đã sống hai mươi lăm năm sẽ Thấy rồi
Biết về đối tượng và sẽ Thích thú đắm say đối tượng, nhưng đứa trẻ kia Thấy
nhưng không Biết đó là cái gì, thì Thấy chỉ là thấy, không có thêm bất kỳ một
Thái độ, hành vi nào nữa. Chính vì vậy mà Thiền Phật giáo đầu tiên là thực
hành để lộ trình tâm DỪNG LẠI cái biết Trực tiếp giác quan, (Chỉ THẤY mà
không BIẾT) làm cho cái biết Ý thức không khởi lên. Người thực hành sẽ kinh
nghiệm được cái biết trực tiếp giác quan Vô niệm, Vô ngôn, Vô phân biệt được
gọi là Tỉnh Giác hay Không Tánh. Hơn thế nữa họ sẽ kinh nghiệm được đầu óc
trống không suy nghĩ, trống không Thái độ Tham Sân Si, trống không Ý muốn
(nắm giữ hay xua đuổi đối tượng), trống không Phiền não. Kinh nghiệm sự
trống không đó là kinh nghiệm Giải thoát. Giải Thoát này do Chánh Niệm -
Chánh Tinh Tấn - Chánh Định mà có nên gọi là Tâm Giải Thoát. Giải Thoát
này cũng do an trú cái biết Tỉnh Giác hay Không Tánh mà có nên cũng được
gọi là Không Giải Thoát. Đây cũng được gọi là thấy Thực tại như chúng đang
là, không thêm bớt, không tìm hiểu, không phán đoán, không phán xét đối
tượng. Sự thực hành này xảy ra theo lộ trình: Căn Trần tiếp xúc nhau phát sinh
một Cảm giác (hay Cảm thọ) và đồng thời phát sinh cái biết trực tiếp giác quan,
nhận biết đối tượng (Cảm thọ) tiếp đến Chánh Niệm khởi lên với nội dung "nhớ
đến chú tâm các cảm giác". Do Chánh Niệm như vậy mà Chánh Tinh Tấn (nỗ
lực) khởi lên. Do có Chánh Tinh Tấn mà chú tâm xảy ra. Sự chú tâm này gọi là
Chánh Định, do có Chánh Định mà lộ trình tâm dừng lại tại đó. Sự chú tâm này
lại tạo duyên Xúc cho Căn Trần và một lộ trình tâm tương tự như vậy khởi lên.
Diễn tiến nhiều lần như vậy nên Cảm thọ và Sự nhận biết Cảm thọ được "kéo
dài" ra. Vì vậy cái biết trực tiếp giác quan nhận biết đối tượng rất rõ ràng, minh
bạch. Sự nhận biết như vậy gọi là Tỉnh Giác. Khi có một Trần khác mạnh hơn
xuất hiện, lộ trình tâm đó diệt và Trần mới tiếp xúc Căn phát sinh đối tượng thứ
hai và lộ trình tâm cũng diễn tiến tương tự, rồi đối tượng thứ ba, thứ tư... Như
vậy từng đối tượng một sinh lên rồi diệt, đến rồi đi mà chỉ có cái biết trực tiếp
giác quan, nhận biết đối tượng. Đó là Thấy chỉ là thấy, Nghe chỉ là nghe, Cảm
nhận chỉ là cảm nhận không có gì thêm bớt vào đối tượng. Sự việc xảy ra nơi
các giác quan, còn trong não bộ chỉ có Chánh Niệm, Chánh Tinh Tấn, Chánh
Định mà không có Tư Duy (suy nghĩ), không có Thái độ, Ý muốn nên não bộ
gần như trống không, gần như an nghỉ hoàn toàn nên Hành giả cảm thấy thoải
mái, khoẻ khoắn. Trọng lượng não bộ chưa đến một phần mười cơ thể nhưng
nó tiêu thụ 40% năng lượng cơ thể tiêu thụ mà chủ yếu bởi hành vi Tư Duy, nên
khi Tư Duy vắng mặt thì Thái độ, Ý muốn, Phiền não cũng vắng mặt, Hành giả
cảm thấy rất thoái mái khoẻ khoắn là vì vậy.

Để có thể kinh nghiệm và an trú Tâm Giải Thoát hay Không Giải Thoát này
Hành giả thực hành Niệm Thân. Niệm Thân hay Chánh Niệm về Thân là "nhớ
đến chú tâm quán sát các Cảm giác nơi thân". Sự thực hành Niệm Thân trong
hai trường hợp: Trong khi toạ thiền và trong các tư thế khác của cuộc sống hàng
ngày.

a - Trong tư thế toạ thiền: Ngồi kiết già hay bán già lưng thẳng, cổ thẳng một
cách tự nhiên, hai hàm răng xiết nhẹ vào nhau, lưỡi đè lên nóc họng, nhắm mắt
lại. Khi Cảm giác hơi thở vô xuất hiện thì chú tâm vào Cảm giác thở vô. Khi
Cảm giác thở vô chấm dứt sẽ xuất hiện Cảm giác căng do hơi thở đầy phổi, hãy
tiếp tục chú tâm Cảm giác căng ấy. Cảm giác căng tồn tại trong giây lát, dài
ngắn không cố định, nó có thể chỉ là "sát na", rất ngắn. Tiếp đến Cảm giác thở
ra khởi lên, hãy chú tâm Cảm giác thở ra. Tiếp đến Cảm giác thở ra chấm dứt
thì sẽ có một khoảng ngưng thở trước khi thở vô. Khoảng ngưng thở trước khi
xuất hiện Cảm giác thở vô này cũng dài ngắn không cố định và có rất nhiều
Cảm giác xuất hiện trong khoảng thời gian này. Nếu một người đã thuần thục,
đã đạt đến "chú tâm không tầm không tứ" thì chú tâm sẽ tự động xảy ra, tự ứng
với các Cảm giác xảy ra trong thời gian ngưng thở này, nhưng người mới thực
hành thì nên thực hành như sau. Khi chú tâm Cảm giác thở ra chấm dứt thì "lắc
nhẹ" đầu sang trái, phải để tạo ra Cảm giác chuyển động rất nhẹ, rất vi tế và chú
tâm vào Cảm giác chuyển động vi tế đó. Có thể "lắc nhẹ" vài ba cái và chú tâm
Cảm giác chuyển động đó cho đến khi Cảm giác thở vô xuất hiện thì lại chú
tâm vào Cảm giác thở vô tiếp tục theo lộ trình như trước. Sự chú tâm như vậy
sẽ "liên tục, khít khao, không gián đoạn" theo bốn giai đoạn: thở vào, ngưng
thở, thở ra, ngưng thở và bốn đối tượng Cảm giác thở vô, Cảm giác căng, Cảm
giác thở ra, Cảm giác chuyển động. Lưu ý là chú tâm vào Cảm giác thở vào,
Cảm giác thở ra chứ không phải chú tâm vào "Hơi thở vô ra" vì Hơi thở, luồng
không khí là Xúc trần tiếp xúc với Thân phát sinh Cảm giác thở vô, ra và Thân
thức nhận biết Cảm giác thở vô, ra đó chứ không phải Thân thức nhận biết Hơi
thở. Vì vậy cảm nhận Cảm giác thở vô, ra được Thân thức nhận biết chỗ nào thì
chú tâm chỗ đó, có thể ở mũi, ngực, bụng... tuỳ lúc chứ không buộc tâm ở mũi
để theo dõi Hơi thở như hiểu biết sai của đa số hiện nay.

Sự tu tập ở đây là tu tập Chánh Niệm: Nhớ đến chú tâm quán sát các Cảm giác
trên thân theo bốn giai đoạn của hơi thở. Nếu Chánh Niệm (nhớ đến...) được tu
tập, liên tục khởi lên, không có Tà Niệm khởi lên (không phân tâm) thì chú tâm
liên tục khởi lên và sẽ cảm nhận bốn loại Cảm giác trên bằng cái biết trực tiếp
giác quan (gọi là Tỉnh Giác). Đương nhiên Hành giả vẫn nghe Cảm giác âm
thanh và cảm nhận một số Cảm giác khác đan xen với bốn loại Cảm giác được
chú tâm nhưng cũng chỉ dừng lại Cái biết trực tiếp giác quan, ý thức không khởi
lên với các đối tượng đó. Đối với toạ thiền thì hơn 90% lộ trình tâm dừng lại
Cái biết trực tiếp giác quan, vì vậy cái biết Tỉnh Giác gần như tuyệt đối, áp đảo.
Sự thực hành này trong kinh điển gọi là Chánh Niệm Tỉnh Giác.

Lúc khởi đầu chú tâm cảm giác thở vô từ ngực và sẽ cảm nhận cảm giác chuyển
động dưới lên, tiếp đến Cảm giác căng khi cảm giác thở vô chấm dứt, tiếp đến
Cảm giác thở ra... đang còn phải "hướng đến" đối tượng nhưng nó sẽ tự nhiên
dần, đến lúc chú tâm bắt đầu tự động diễn ra từ Cảm giác này sang Cảm giác
khác, không còn "hướng đến" đối tượng, lúc đó Hành giả sẽ kinh nghiệm được
Định không tầm không tứ (Nhị thiền), tiếp tục tăng mức độ chú tâm sẽ cảm
nhận Cảm giác thở vô, ra nhẹ dần, vi tế dần và chen lẫn với Cảm giác chuyển
động và Cảm giác pháp trần "trước mặt". Tiếp tục phát triển thì sẽ đến lúc Cảm
giác hơi thở vi tế đến mức không còn cảm nhận được nữa, chỉ còn một số Cảm
giác rất vi tế trên thân, đan xen với những Cảm giác pháp trần cũng rất vi tế
"trước mặt". Lúc đó rất "vắng lặng thanh tịnh". Đó là các mức Định cao hơn.

b - Trong đời sống hàng ngày: Khi đi đứng, nằm ngồi, ăn uống, sinh hoạt, làm
việc nếu có Chánh Niệm, nhớ đến chú tâm quan sát các Cảm giác trên thân, nói
tắt là nhớ đến chú tâm lên thân thì chú tâm sẽ tự động khởi lên và lộ trình tâm sẽ
dừng lại cái biết Trực tiếp giác quan gọi là Tỉnh Giác, lúc đó sẽ không thích,
ghét, không ràng buộc, không phiền não. Để cho Chánh Niệm liên tục khởi lên
không gián đoạn, Hành giả chỉ cần niệm thầm: "thân, thân, thân..." liên tục. Khi
đi hoặc làm việc có nhịp điệu thì niệm thầm "thân, thân, thân..." theo nhịp đó,
khi không có nhịp thì niệm cách nào đó cho phù hợp. Niệm thầm "thân thân
thân..." không phải là Chánh Niệm nhưng nó "Nhắc nhở" cho Chánh Niệm khởi
lên. Khi thực hành trong cuộc sống thì khi có Chánh Niệm, chú tâm sẽ tự động
khởi lên với những đối tượng nổi trội, không hướng đến Cảm giác thở vô ra vì
Cảm giác thở vô ra rất nhẹ, gần như không cảm nhận được. Ví như khi đi, nếu
Niệm "thân, thân, thân..." theo nhịp bước thì Chánh Niệm nhớ đến chú tâm trên
thân khởi lên và chú tâm tự động xảy ra. Sự chú tâm sẽ lần lượt từ Cảm giác
chạm đất của chân trái, tiếp đến Cảm giác chuyển động vai phải, tiếp đến chân
phải, tiếp đến vai trái, đan xen với chú tâm Cảm giác hình ảnh đường đi trước
mặt... Đương nhiên không phải 100% thời gian trong ngày đều thực hành được
vì khi nói năng giao tiếp, khi suy nghĩ để giải quyết một vấn đề gì đó thì không
thể thực hành Chánh Niệm trọn vẹn, nhưng mỗi người nếu cố gắng nỗ lực thì
60-70% thời gian trong ngày có thể thực hành tốt Niệm Thân và sẽ trải nghiệm
được Tâm Giải Thoát hay Không Giải Thoát. Nếu mỗi sáng thức dậy bắt đầu
Niệm Thân và nỗ lực thực hành thì khi đánh răng, rửa mặt, lau nhà, ăn sáng, đi
đến chỗ làm... 70 đến 80% lộ trình tâm chỉ có cái biết Tỉnh Giác và như vậy chỉ
sống với giây phút hiện tại, tư tưởng quá khứ, tư tưởng tương lai không có mặt,
sống với sự trống không suy nghĩ, trống không Tham Sân Si, trống không Phiền
Não. Não bộ sẽ được nghỉ ngơi, tiêu thụ năng lượng sẽ giảm đi rất nhiều. Niệm
Thân như vậy, không chỉ là phương pháp tu tập mà nó là một lối sống, sống với
Chánh Niệm Tỉnh Giác. Trong bài kinh Thân Hành Niệm Đức Phật nêu lên sự
khác biệt giữa Phàm và Thánh là: "Kẻ Phàm phu không an trú Niệm trên thân
còn bậc Thánh an trú Niệm trên thân". Nghĩa là Phàm phu không có Niệm nhớ
đến chú tâm lên thân, nên không biết thân, gọi là "quên mình theo vật", bậc
Thánh có Niệm nhớ đến chú tâm lên thân nên luôn biết thân, không quên mình
theo vật. Trong kinh điển có nói đến sự thực hành như sau: Tỷ kheo khi đi tới,
khi đi lui đều tỉnh giác, khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác, khi co tay,
duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y kép, mang bình bát đều tỉnh giác, khi ăn
uống, nhai nuốt đều tỉnh giác, khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi,
đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác.

Thực hành Niệm Thân chưa cần đến nhiều kiến thức Phật học, không phụ thuộc
vào tôn giáo, theo cách trên rất dễ thực hành, nó có thể giúp cho con người nâng
cao chất lượng sống, không suy nghĩ miên man, giờ nào việc nấy, có sự tập
trung, chất lượng làm việc tăng lên. Lối sống này giúp con người thoát ra khỏi
sự căng thẳng, áp lực của cuộc sống hiện đại, nó làm giảm thiểu, đi đến chấm
dứt stress, trầm cảm, phản ứng bạo lực bột phát do phẫn nộ, bức xúc bị dồn nén.
c - Giới hạn kết quả của Niệm Thân hay Thân Hành Niệm: Sự thực hành
Chánh Niệm Tỉnh Giác rất quan trọng, không thể thiếu đối với tu tập Phật giáo,
nó đưa đến Tâm giải thoát hay Không giải thoát nhưng nó không đưa đến giải
thoát tối hậu, không đưa đến quả A La Hán vì nó không đưa đến Trí Tuệ, không
đưa đến Ý thức Chánh Tri Kiến (Minh) để đoạn diệt Ý thức Tà Tri Kiến (Vô
Minh). Khi thực hành Niệm Thân, khoảng 80% lộ trình tâm Dừng Lại cái biết
Tỉnh Giác, còn khoảng 20% lộ trình tâm có Ý thức khởi lên và Ý thức đó vẫn là
Tà Tri Kiến, vẫn phát sinh Tham ái, Phiền não. Nếu dừng sự thực hành, không
Chánh Niệm thì lộ trình tâm Bát Tà Đạo lại khởi lên, thì vẫn như xưa, vẫn Vô
minh, vẫn Tham Sân Si, vẫn Phiền não. Trong THẤY và BIẾT thì Niệm Thân
như vậy mới chỉ Dừng Lại THẤY mà BIẾT chưa được tu tập nên phải tu tập
BIẾT để thay đổi nhận thức từ Tà Tri Kiến sang Chánh Tri Kiến. THẤY đó mới
chỉ là Nhận thức cảm tính đối tượng chưa phải là Nhận thức lý tính, hiểu biết
nội dung, bản chất đối tượng.

2 - Thực hành Thiền Phật Giáo để kinh nghiệm Tuệ Giải Thoát:

Sự tu tập Tuệ Giải Thoát là tu tập Nhận thức lý tính đối tượng, là tu tập Trí Tuệ,
để hiểu biết đúng như thật nội dung, bản chất đối tượng. Sự tu tập Tuệ phải
được diễn ra theo lộ trình Văn - Tư - Tu. Văn nghĩa là nghe giảng hoặc nghiên
cứu kinh điển để hiểu biết như thật về Lý Duyên Khởi, về Vô thường, Vô chủ
(Vô ngã), về lộ trình tâm Bát Tà Đạo có Khổ và Nguyên nhân Khổ, về lộ trình
tâm Bát Chánh Đạo có Khổ Diệt và Con đường Khổ Diệt. Đây là Pháp học về
Tứ Thánh Đế. Tư là Tư duy về những điều đã nghe để hiểu biết sâu rộng hơn
điều đã nghe. Tu là thực hành Bát Chánh Đạo với Niệm Tâm và Niệm Pháp.

- Đối với lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu, sau khi THẤY đối tượng,
BIẾT khởi lên, biết đối tượng đó là các Sắc pháp (người vật, nhà cửa, xe cộ, thế
giới sum la vạn tượng...) và Pháp trần (to nhỏ, vuông tròn, dài ngắn, mặn ngọt
chua cay, nhơ sạch, hạnh phúc, khổ đau...) thường hằng, thường trú trong Sắc
pháp, của Sắc pháp. Đây là BIẾT Vô minh, Thường kiến và Ngã kiến, là Ý thức
Tà Tri Kiến biết sai lạc về đối tượng được THẤY. THẤY và BIẾT như vậy của
Phàm phu được ví như: Thấy sợi dây lại biết đó là con rắn. Do THẤY như vậy,
BIẾT như vậy mà Tham Sân Si, Ràng buộc với đối tượng khởi lên, Phiền Não
khởi lên.

- Đức Phật đã Giác Ngộ sự thật là đối tượng được THẤY là CẢM THỌ và Ngài
đã tuyên bố: "Này các Tỷ kheo, Như Lai nhờ tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị
ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ mà Như Lai được giải thoát hoàn toàn
không còn chấp thủ". Vì vậy lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của bậc Thánh bao
gồm: THẤY đối tượng với Tỉnh Giác và BIẾT đối tượng là Cảm thọ, nó Vô
thường, Vô chủ, nó có Vị ngọt, có Sự Nguy hiểm, có Sự Xuất ly. THẤY và
BIẾT như vậy được ví như Thấy sợi dây thì Biết đó là sợi dây. Do THẤY như
vậy, BIẾT như vậy mà Tham Sân Si, Ràng Buộc, Phiền Não không còn khởi lên.

Khi Niệm Tâm với nội dung: nhớ đến chú tâm quán sát đối tượng đó là Cảm
giác (thuộc phàm trù Tâm) thì sau khi THẤY đối tượng với Tỉnh Giác, BIẾT tức
Ý thức Chánh Tri Kiến khởi lên, biết đối tượng đó là Cảm giác (Cảm thọ). Lộ
trình tâm dừng lại đó, không có diễn tiến tiếp theo, không có Tham Sân Si, Ràng
buộc, Phiền não. Hành giả sẽ kinh nghiệm được giải thoát và giải thoát này do Ý
thức Chánh Tri Kiến, là Trí Tuệ khởi lên nên gọi là Tuệ Giải Thoát. Khi Niệm
Pháp với nội dung: nhớ đến chú tâm quán sát đối tượng đó Vô thường hay Vô
chủ, hay Ly tham, hay buông xả thì sau khi THẤY đối tượng với cái biết Tỉnh
Giác, BIẾT tức Ý thức Chánh Tri Kiến khởi lên, biết đối tượng Vô thường, Vô
ngã, Ly tham, Buông xả tuỳ theo Niệm và Hành giả kinh nghiệm được Tuệ Giải
Thoát.

Lúc toạ thiền, tốt nhất là an trú được Tứ thiền, và với tâm định tĩnh, không cấu
nhiễm, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy hướng tâm
thực hành các Chánh Niệm trên, hướng tâm đến Chánh Tư Duy để phát sinh Ý
thức Chánh Tri Kiến tuệ tri Vị ngọt, Sự nguy hiểm, Sự xuất ly của Thọ, tuệ tri
Tứ Thánh Đế. Lúc đó Hành giả cũng kinh nghiệm được Tuệ Giải Thoát.

Như vậy với Niệm Tâm và Niệm Pháp, Hành giả sẽ kinh nghiệm được THẤY,
cái biết trực tiếp giác quan Vô niệm, Vô ngôn, Vô phân biệt, cũng kinh nghiệm
được BIẾT, hiểu biết Trí Tuệ, đúng như thật. Lộ trình tâm Bát Chánh Đạo khởi
lên khi Niệm Tâm, Niệm Pháp, tất cả 100% lộ trình có Tâm giải thoát, hoặc có
cả Tâm giải thoát và Tuệ giải thoát. Tuệ giải thoát còn được gọi là Vô Tướng
giải thoát vì Trí Tuệ biết như thật: những gì được thấy, được nghe, được cảm
nhận là Cảm thọ, thuộc phàm trù Tâm chứ không phải Cảnh và như vậy nó là Vô
Tướng. Sự tu tập Tuệ này được phát triển được làm cho viên mãn sẽ xoá bỏ
hoàn toàn Vô minh và đưa đến giải thoát tối hậu, đưa đến quả A La Hán. Như
vậy:

+ Tu tập Niệm Thân và Niệm Thọ đưa đến lộ trình tâm Dừng Lại THẤY và
kinh nghiệm được Tâm giải thoát.

+ Tu tập Niệm Tâm và Niệm Pháp vừa Dừng Lại THẤY vừa thay đổi BIẾT từ
Ý thức Tà Tri Kiến sang Ý thức Chánh Tri Kiến và kinh nghiệm được Tâm giải
thoát, Tuệ giải thoát và cuối cùng đưa đến giải thoát tối hậu, quả A La Hán.

Về mục lục

Bài 115: CHÁNH ĐỊNH VỚI HAI LOẠI CHÚ TÂM

Định là một trạng thái thuộc phạm trù tâm, phát sinh do sự CHÚ TÂM LIÊN
TỤC trên các đối tượng đang sanh diệt. Có hai loại Định là Tà Định và Chánh
Định. Để phân biệt hai loại Định này có thể phân biệt bằng các loại chú tâm. Đó
là hai loại chú tâm gồm: CHÚ TÂM CÓ TẦM CÓ TỨ và CHÚ TÂM KHÔNG
TẦM KHÔNG TỨ.

- Một là: Chú Tâm Có Tầm Có Tứ là sự chú tâm có hướng đến đối tượng (tầm
theo tiếng Tàu là hướng đến) và có duy trì sự chú tâm trên đối tượng đó. Đây là
sự chú tâm có sự hướng đến đối tượng và duy trì sự chú tâm trên đối tượng.

- Hai là: Chú Tâm Không Tầm Không Tứ là sự chú tâm không hướng đến bất
kỳ một đối tượng nào và cũng không duy trì sự chú tâm trên bất kỳ đối tượng
nào. Đây là sự chú tâm TỰ ĐỘNG XẢY RA từ đối tượng sinh diệt này sang
đối tượng sinh diệt khác.
1 - TÀ ĐỊNH là trạng thái Định phát sinh do chỉ có một loại chú tâm duy nhất
là Chú tâm có Tầm có Tứ. Đa phần các trường phái tu thiền chủ trương thực
hành duy nhất loại chú tâm này vì chú tâm có tầm có tứ phù hợp với quan điểm
buộc tâm vào một đối tượng duy nhất, để đạt được nhất tâm trên một cảnh, để
tâm không phóng dật. Ví như tu Định với biến xứ đất, họ lấy một miếng đất đặt
ra và ngồi ngắm miếng đất đó để hình ảnh, màu sắc đó được lưu giữ vào bộ
nhớ. Tiếp đến họ nhắm mắt lại để tưởng nhớ ra hình ảnh miếng đất vừa nhìn và
chú tâm vào hình ảnh vừa “tưởng ra” đó. Cứ lặp đi lặp lại cách đó suốt ngày
đêm, cho đến lúc cái hình ảnh được “tưởng ra” đó vững chắc, không mất đi nữa
và tâm an trú vững chắc trên hình ảnh đó thì đạt được trạng thái định. Trạng thái
định xảy ra này do chú tâm liên tục vào đối tượng được “tưởng ra” và sự chú
tâm đó là chú tâm Có Tầm Có Tứ, nghĩa là chú tâm có hướng đến đối tượng và
duy trì sự chú tâm trên đối tượng được tưởng ra. Tuy nhiên đây là chú tâm liên
tục từ đối tượng này sang đối tượng khác chứ không phải là một đối tượng duy
nhất như hiểu lầm hiện nay. Vì rằng chú tâm có tầm có tứ này là chú tâm có
hướng đến và có duy trì sự chú tâm trên “một” đối tượng được “tưởng ra”
nhưng bản thân đối tượng được “tưởng ra” đó đang sinh diệt rất nhanh chóng
(thay đổi nhanh chóng) chứ không phải là một đối tượng cố định duy nhất (hãy
thử nhắm mắt lại và chú tâm quan sát tỉ mỉ các hình ảnh xuất hiện trước mặt, là
đối tượng được “tưởng ra” thì sẽ thấy ngay các đối tượng đó đang sinh diệt rất
nhanh chóng). Nhắm mắt lại và đặt tâm nơi điểm xúc chạm giữa môi trên và hơi
thở rồi chú tâm vào đó để quan sát hơi thở vô ra cũng là chú tâm có tầm có tứ
trên đối tượng được “tưởng ra”, cũng y như là biến xứ đất, nước, lửa, gió... Vì
đa phần các trường phái tu Định đều đã Mặc Định là phải buộc tâm vào một
cảnh, nhất tâm trên một cảnh, tâm chỉ an trú trên một đối tượng duy nhất nên họ
chỉ biết đến duy nhất một loại chú tâm có tầm có tứ, họ không thể biết, không
thể chấp nhận loại chú tâm không tầm không tứ, không chấp nhận sự tồn tại của
Định không tầm không tứ. Trong Tăng Chi Bộ Kinh có tường thuật lại cuộc đối
đáp giữa cư sĩ Cita với người đứng đầu giáo phái Ni kiền tử (Kỳ na giáo) và
ngoại đạo đó đã nói về Đức Phật và Định không tầm không tứ như sau: “Sa
môn Gotama là hư ngụy, là dối trá. Sa môn Gotama chủ trượng định không tầm
không tứ thì có khác gì chủ trương dùng lưới để buộc gió lại giữa hư không,
thật là điều không tưởng”.

2 - CHÁNH ĐỊNH là trạng thái Định mà Đức Phật đã chứng ngộ và thuyết
giảng, với bốn mức độ định khác nhau là Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ
thiền. Kinh điển đã ghi nhận đặc tính của bốn trạng thái định đó như sau: “Ly
dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh với chú tâm có tầm có tứ. Diệt chú tâm có tầm có tứ chứng và trú Nhị
thiền, một trạng thái hỷ lạc do định sanh với chú tâm không tầm không tứ, nội
tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, thân cảm lạc thọ mà bậc thánh gọi là xả niệm lạc
trú, chánh niệm tỉnh giác, chứng và trú Tam thiền. Xả lạc xả khổ, diệt trừ hỷ ưu
đã cảm thọ trước, chứng và trú Tứ thiền, tâm thanh tịnh nhờ xả”. Bốn mức độ
Định này là sự phát triển tuần tự từ Sơ thiền lên Nhị thiền, lên Tam thiền rồi
lên Tứ thiền chứ không phải là đạt được nó một cách độc lập với nhau. Trong
bốn tầng định này thì Sơ thiền là Định có tầm có tứ và Nhị thiền, Tam thiền,
Tứ thiền là Định không tầm không tứ. Trong Định không tầm không tứ chỉ có
một loại chú tâm không tầm không tứ, không còn chú tâm có tầm có tứ nữa bởi
vì muốn chuyển từ Sơ thiền sang Nhị thiền thì phải diệt chú tâm có tầm có tứ
và còn lại duy nhất chú tâm không tầm không tứ. Chi tiết này cũng chỉ rõ là ở
Sơ thiền phải gồm có hai loại chú tâm có tầm có tứ lẫn không tầm không tứ còn
các tầng thiền cao hơn thì chỉ có chú tâm không tầm không tứ. Vậy thì Chánh
Định mà Đức Phật đã chứng ngộ có đặc trưng là loại chú tâm không tầm không
tứ mà ngoại đạo không thể nào hiểu nổi, không thể nào chấp nhận. Và sự tồn
tại loại chú tâm không tầm không tứ đã KHẲNG ĐỊNH LÀ TRONG CHÁNH
ĐỊNH CÓ SỰ CHÚ TÂM LIÊN TIẾP TỪ ĐỐI TƯỢNG SINH DIỆT NÀY
SANG ĐỐI TƯỢNG SINH DIỆT KHÁC CHỨ KHÔNG PHẢI CHÚ TÂM
VÀO MỘT ĐỐI TƯỢNG DUY NHẤT như quan điểm các trường phái Phật
Giáo hiện nay.

Chánh Định không chú tâm vào một đối tượng duy nhất, không có mục đích
buộc tâm vào một đối tượng duy nhất để nhất tâm trên một cảnh, để tâm không
phóng dật vì không hề có một cái tâm nào cố định cũng không hề có một đối
tượng nào cố định để mà buộc nó lại với nhau như vậy, do tâm và các đối tượng
đều đang sinh diệt. Vậy thì Chánh Định là sự chú tâm liên tiếp từ đối tượng sinh
diệt này sang đối tượng sinh diệt khác, mục đích là để làm gì? Phải hiểu rằng
tâm không phải là một cấu trúc nguyên khối và di chuyển từ đối tượng này sang
đối tượng khác mà là một lộ trình sinh diệt của nhiều Danh pháp khác nhau do
duyên Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh, trong đó có hai loại tâm biết: Tâm biết
trực tiếp giác quan (trực giác) có phận sự GHI NHẬN ĐỐI TƯỢNG và tâm biết
gián tiếp Ý thức có phận sự xác định đối tượng vừa được ghi nhận là cái gì, tính
chất ra sao (Tâm lý học hiện đại gọi tâm biết trực tiếp là Nhận thức cảm tính đối
tượng và tâm biết Ý thức là Nhận thức lý tính đối tượng). Tương tự như một
Camera giao thông có phận sự Ghi nhận hình ảnh của phương tiện nhưng
Camera không biết đối tượng được ghi nhận là cái gì (tương tự như nhãn thức
thấy, nhĩ thức nghe, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, tưởng thức cảm nhận đối
tượng nhưng không biết đối tượng đó là cái gì) tiếp đến là hình ảnh mà Camera
ghi nhận sẽ được máy tính xử lý và kết luận, biết đó là xe tải hay xe con, trọng
tải bao nhiêu, chủ xe là ai, đi đúng làn đường hay không... Biết về đối tượng như
vậy là do máy tính mà phát sinh, tương tự như tâm biết Ý thức, biết về đối tượng
được ghi nhận là cái gì, tính chất ra sao. Đối với Phàm phu thì tâm biết trực tiếp
thấy, nghe, cảm nhận đối tượng chỉ ghi nhận đối tượng, đối tượng như thế nào
thì ghi nhận như thế đó, nên nó là như thực ở mức độ cảm tính, còn tâm biết Ý
thức là hiểu biết sai lạc, gọi là vô minh nên sẽ phát sinh thái độ tham sân si, phát
sinh phiền não. Hãy theo dõi để biết rõ mục đích chú tâm liên tiếp từ đối tượng
sinh diệt này sang đối tượng sinh diệt khác trong hai cách tu CHỈ và QUÁN:

- TU CHỈ là khi thực hành Chánh Niệm về Thân. Chánh Niệm về Thân cụ thể
là: Nhớ đến chú tâm theo dõi (quán sát) các đối tượng (cảm giác) nơi thân. Ví
như khi tọa thiền trước tiên là xiết nhẹ hai hàm răng lại và đầu lưỡi chạm vào
hàm răng trước làm phát sinh cảm giác nổi trội nơi răng lưỡi và nếu Trí nhớ
Chánh (Chánh Niệm) “Nhớ đến chú tâm theo dõi các cảm giác nơi thân” khởi
lên liên tục thì Nhớ Nghĩ về thế gian (Niệm và Tư duy thế tục) không khởi lên
thì sự chú tâm theo dõi sẽ TỰ ĐỘNG khởi lên, bắt đầu từ cảm giác nơi răng
lưỡi tiếp đến cảm giác thở vô, tiếp đến cảm giác thở ra. Hết cảm giác thở ra lại
tiếp đến cảm giác nơi răng lưỡi rồi lại tiếp đến cảm giác thở vô... và cứ tiếp tục
xảy ra theo một vòng có ba cảm giác nổi trội là Cảm giác răng lưỡi, Cảm giác
thở vô, Cảm giác thở ra. Quá trình chú tâm theo dõi sẽ tự nhiên dần và sẽ quan
sát được thêm nhiều cảm giác trên thân đan xen với ba cảm giác nổi trội trên
như cảm giác chuyển động, cảm giác nơi chân, nơi ngực, nơi bụng... Do có sự
chú tâm liên tiếp từ đối tượng này sang đối tượng khác nên lúc đó chỉ có tâm
biết Thân thức Ghi nhận các cảm giác trên thân mà tâm biết Ý thức không khởi
lên (cảm nhận tâm vắng lặng, không suy nghĩ, không tư tưởng nào khởi lên),
nghĩa là lộ trình tâm DỪNG LẠI TÂM BIẾT TRỰC TIẾP (CHỈ) và lúc này gọi
tâm biết trực tiếp đó là TỈNH GIÁC. Nhờ lộ trình tâm dừng lại và chỉ có tâm
biết trực tiếp mà tâm biết Ý thức vô minh không khởi lên nên không tìm hiểu,
không nhận xét, không đánh giá đối tượng, và vì vậy sẽ không phát sinh thái độ
thích hay ghét (Tham hay Sân) với đối tượng. Do không có thái độ tham sân
với đối tượng nên không Dính mắc với đối tượng và do không dính mắc mà sẽ
không có Phiền não với đối tượng. Đây chính là giải thoát và giải thoát này do
tu Chỉ như vậy mà có nên gọi là Tâm Giải Thoát. Khi tọa thiền nhờ chú tâm
theo dõi liên tiếp từ đối tượng này đến đối tượng khác trên thân nên không
những Thân thức Ghi nhận các đối tượng (cảm giác xúc chạm) nơi thân mà Nhĩ
thức vẫn Ghi nhận đối tượng (cảm giác âm thanh) và Tưởng thức Ghi nhận đối
tượng (cảm giác pháp trần) nhưng Ý thức không khởi lên nên vẫn an trú Tâm
Giải Thoát. Tương tự như vậy, khi thiền hành nếu trong 20 phút mà Chánh
Niệm, nhớ đến chú tâm theo dõi các cảm giác nơi thân khởi lên liên tục không
gián đoạn, không Nhớ Nghĩ bất kỳ một chuyện gì khác thì trong thời gian đó
không bị phân tâm (nhất tâm), lúc đó chú tâm theo dõi tự động khởi lên. Lúc đó
chỉ có Thân thức Ghi nhận cảm giác chân trái, chân phải chạm đất, cảm giác
chuyển động của vai, cổ, cảm giác nơi bụng... (Với chú tâm không tầm không
tứ) nhưng Nhãn thức vẫn Ghi nhận cảm giác hình ảnh đường đi với chú tâm có
tầm có tứ và Nhĩ thức vẫn Ghi nhận các Cảm giác âm thanh nổi trội. Trong 20
phút đó chỉ có Thân thức ghi nhận Cảm giác trên thân, Nhãn thức ghi nhận
Cảm giác hình ảnh, Nhĩ thức ghi nhận Cảm giác âm thanh mà Ý thức không
khởi lên (nội tâm vắng lặng), nên không tìm hiểu, nhận xét, đánh giá đối tượng.
Lúc đó an trú tâm biết Tỉnh giác và an trú Tâm Giải Thoát và đó là Thấy chỉ là
thấy, Nghe chỉ là nghe, Cảm nhận chỉ là cảm nhận không thêm bớt, không bị
cái biết Ý thức Tà kiến vô minh bóp méo đối tượng.

- TU QUÁN là khi thực hành Chánh Niệm về Tâm, về Pháp với mục đích đoạn
diệt tâm biết Ý thức Tà kiến vô minh của Phàm phu bằng cách thay thế bởi tâm
biết Ý thức Chánh Kiến của bậc Thánh. Sẽ có rất nhiều đề mục khi quán tâm,
quán pháp ví dụ như đề mục quán sinh diệt (vô thường). Đó là thực hành Chánh
Niệm “Nhớ đến chú tâm quán sát để biết đối tượng đó vô thường, sinh diệt”.
Trong tư thế tọa thiền có thể hướng đến các Cảm giác trên thân và đối với các
Cảm giác nổi trội thì sau khi chú tâm và Thân thức ghi nhận rõ ràng Cảm giác
đó thì Ý thức Chánh Kiến khởi lên, biết trực tiếp Cảm giác đó đang sinh diệt
(vô thường) rồi khi Cảm giác đó diệt thì một Cảm giác nổi trội khác lại xuất
hiện thì sự chú tâm lại xảy ra và Thân thức ghi nhận rõ ràng đối tượng, tiếp đến
Ý thức Chánh Kiến xác nhận đối tượng đó đang sinh diệt. Và sự chú tâm lại
xảy ra liên tiếp từ đối tượng này đến đối tượng khác và nhờ vậy Ý thức Chánh
Kiến khởi lên, biết trực tiếp, biết đúng sự thật mọi Cảm giác trên thân đều đang
sinh diệt... Chính Ý thức Chánh Kiến, biết trực tiếp các đối tượng đang sanh
diệt sẽ xoá bỏ cái biết vô minh, thường kiến đã cài đặt từ vô thủy của Phàm
phu.

Không có thể trình bày đầy đủ về mục đích và diễn biến của việc Tu Quán này
trong một bài viết ngắn mà phải tham dự một khoá tu 10 ngày mới được chỉ dẫn
và phân tích đầy đủ trong phần Niệm Tâm và Niệm Pháp và mới có thể hiểu rõ
mối quan hệ giữa Chánh Niệm - Chánh Định - Chánh Kiến (Niệm - Định - Tuệ)
và Tuệ Giải Thoát trong lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế là như thế nào.

Về mục lục

Bài 116: TƯƠNG TÁC GIỮA HOÁ SANH VÀ CON NGƯỜI

Hoá sanh và con người cùng tồn tại trong một không gian và Sắc pháp (thân)
của Hoá sanh mang lưỡng tính sóng hạt (lượng tử) nên nó giống như sóng điện
từ có thể xuyên qua cây cối nhà cửa, tường vách, thân thể con người. Và khi nó
xuyên qua thân thể con người thì Hoá sanh sẽ tương tác với lượng thông tin
trong ADN của con người làm phát sinh lộ trình tâm và Hoá sanh sẽ biết thực
tại qua kho chứa thông tin của người đó. Các hoá sanh cũng tương tác với nhau
tương tự như vậy. Sau đây là một số tương tác:

a - Hiện tượng cận tử: Đây là hiện tượng được rất nhiều người nghiên cứu và
tranh cãi. Những người theo chủ trương duy vật đã phủ nhận hiện tượng này
hoặc đưa ra những giải thích hoàn toàn chủ quan không liên quan tới các sự
kiện của hiện tượng, không thuyết phục được người đọc. Một số khác, qua hiện
tượng này lại đề cao niềm tin có tồn tại một linh hồn, một thế giới tâm linh, một
tâm thức không sinh không diệt, tồn tại cả sau khi tế bào thần kinh não bộ chết.
Và hoạt động của linh hồn, của tâm thức như vậy là hoàn toàn độc lập với thần
kinh não bộ. Niềm tin này dựa vào tư tưởng Duy Tâm của tôn giáo, trong đó có
các trường phái của Phật Giáo phát triển, đặc biệt là Mật tông. Người nghe,
người đọc hiện tượng cận tử đa phần thiên về tư tưởng Duy Tâm và lại được
củng cố đức tin về một linh hồn hoặc một tâm thức không sinh không diệt.
"Hiện tượng cận tử là khi não bộ chết lâm sàng, linh hồn hay tâm thức thoát ra
khỏi xác và đi vào một thế giới tâm linh, thấy biết một số sự kiện và khi thân
xác hồi sinh trở lại, linh hồn hay tâm thức đó lại nhập trở lại vào thân xác, kể lại
những gì đã xảy ra trong thời gian hồn lìa khỏi xác. Với hiểu biết linh hồn hay
tâm thức tồn tại như vậy là thuần tuý tinh thần, không liên hệ với vật chất, họ
cũng tin rằng có một thế giới thuần tuý tinh thần, một thế giới tâm linh và khi
linh hồn hay tâm thức rời khỏi thể xác thì nó sẽ tồn tại trong thế giới tâm linh
ấy và nó sẽ thấy biết không cần bất cứ một giác quan nào". Thực chất của linh
hồn hay tâm thức đó là Thức tái sanh hay Hoá Sanh bao gồm Danh và Sắc như
đã trình bày trên. Đó là lượng Thông Tin trong ADN của tế bào thần kinh não
bộ (Danh) và loại vật chất lượng tử vi tế phát sinh khi tế bào não bộ chết (Sắc).

Hành vi thấy biết đó không phải là linh hồn hay tâm thức không sinh không
diệt, sẵn có, không cần một Nhân Duyên nào sinh ra nó, mà đây là Tưởng thức
và Ý thức phát sinh do sự tương tác các lượng thông tin trong "kho chứa" với
thông tin của lượng vật chất vi tế đó, tương tự như Ý tiếp xúc với Pháp trần, nó
Vô thường và Vô ngã (Vô chủ). Đối tượng được thấy biết của Hoá Sanh không
phải là một thế giới tâm linh có thật mà là các "cảnh ảo" do các lượng thông tin
tương tác mà phát sinh, hoặc là "cảnh ảo" trong tâm thức người sống khác, nó
cũng sinh diệt, Vô thường, Vô chủ. Khi thân xác hồi sinh trở lại Hoá Sanh đó
lại tương tác với các tế bào thần kinh não bộ tương tự như Hoá Sanh tương tác
với hợp tử trứng và tinh trùng và Hoá Sanh diệt. Khi Hoá Sanh diệt, lượng
thông tin đó lại được lưu vào ADN của tế bào thần kinh não bộ. Vì thế khi
người đó tỉnh lại, họ có thể kể lại những gì đã xảy ra trong thời gian "chết" bởi
những gì thấy biết đều được lưu lại trong kho chứa thông tin của Hoá Sanh và
truyền lại não bộ khi hồi sinh lại. Những sự kiện xảy ra trong khi người đó
"chết" vẫn được người đó thấy biết, chính là do khả năng tha tâm thông của
Hoá Sanh, thấy biết qua tâm của các bác sĩ, y tá trong phòng mổ, hoặc những
người khác, những Hoá Sanh khác. Hiện tượng một số người tu có thể xuất
"hồn" cũng có bản chất giống như hiện tượng cận tử.

b - Hiện tượng gọi hồn, đồng bóng, âm nhập: Đây là những hiện tượng xảy
ra phổ biến trong cuộc sống. Bản chất của các hiện tượng này là có Hoá Sanh,
có những nghiệp quá khứ tương hợp với những người đó, thì không những Hoá
Sanh thâm nhập được kho chứa thông tin, "đọc" được tâm người đó bằng khả
năng tha tâm thông mà có thể tác ý, làm phát sinh hoạt động các lập trình thông
tin trong kho chứa thông tin, phát sinh ra lời nói, hành động theo sự điều khiển
của Hoá Sanh. Những người bị Hoá Sanh thâm nhập và điều khiển như vậy
cũng có nhiều mức độ khác nhau. Một số hoàn toàn bị áp đảo đến nỗi các lộ
trình tâm không khởi lên được và thân thể hoàn toàn bị điều khiển bởi Hoá
Sanh, nên sau khi sự việc kết thúc, người đó hoàn toàn không biết gì về những
sự việc vừa xảy ra. Một số khác không bị áp đảo hoàn toàn, họ vẫn có những
nhận thức đan xen, biết một phần sự việc đang xảy ra, nhưng không hiểu biết
được bản chất sự việc. Trường hợp gọi hồn được nhiều người tin tưởng bởi nói
ra được một số thông tin của người chết khá chính xác. Thực chất của sự việc
đó là người nói ra được một số thông tin khá chính xác là do một Hoá Sanh có
năng lực mạnh điều khiển. Những thông tin về người chết được nói ra khá
chính xác đó là do Hoá Sanh “đọc được trong tâm các thân chủ đi gọi hồn”, bởi
người đi gọi hồn cho người thân đã chết thì mọi thông tin về người chết đang
được lưu giữ trong tâm họ. Cũng có trường hợp Hoá Sanh đó giao tiếp được
với Hoá Sanh của thân chủ chưa vào Thai sanh hoặc Trứng sanh, nên biết được
các thông tin về người quá cố, nhưng trường hợp này rất ít, rất hạn hữu.

c - Khả năng ngoại cảm và một số hiện tượng khác:

- Đây là hiện tượng một số người có khả năng nhìn thấy hoặc giao tiếp được với
"người âm". Cái gọi là "người âm" thực chất là một Hoá Sanh, không phải là
một linh hồn, một thần thánh nào cả. Khả năng ngoại cảm là khả năng tha tâm
thông, xâm nhập vào kho chứa thông tin của các Hoá Sanh khác, của chúng
sanh khác, đọc được các thông tin trong kho chứa đó. Khả năng tha tâm thông,
đọc được tâm người khác có thể tu tập và khi sự tu tập đã thành công thì kinh
nghiệm này sẽ được lưu giữ trong kho chứa thông tin của người đó. Khi người
đó chết lượng thông tin đó được "trao truyền" vào người sau, nhưng những kinh
nghiệm này bị nén xuống, bị chìm vào lượng thông tin khổng lồ nên không
"nhớ lại" được, không sử dụng được như đa phần con người không nhớ được
các tiền kiếp của mình tuy nó vẫn tồn tại trong kho chứa thông tin. Ngay trong
kiếp sống này, một người sáu bảy mươi tuổi nhớ lại quãng đời lúc mười tuổi
không phải bao giờ cũng làm được, trừ phi có đủ nhân duyên như gặp lại người
bạn lúc mười tuổi sau năm sáu mươi năm xa cách. Nếu có một sự đột biến gen
ví như một tai nạn đưa đến cái chết lâm sàng thì khi hồi sinh trở lại, lượng
thông tin có sự tương tác đưa đến một số thông tin được kích hoạt lên, được
"trồi lên" nên người đó có thể sử dụng lại được kinh nghiệm đó, hoặc có rất
nhiều người, sau một chấn động nào đó về thân tâm, có sự đột biến gen, họ
bỗng nhiên nhớ lại tiền kiếp của mình ví như cô gái sinh ra tại nước Anh, sau
khi ngã từ cầu thang, chết đi sống lại đã kể lại tiền kiếp là một tu sĩ trong một
đền thờ Ai Cập mười mấy thế kỷ trước đã tự sát vì không muốn để cho câu
chuyện cô đã yêu và ăn nằm với môt Pha-ra-ông bị lộ ra. Người có khả năng
ngoại cảm theo kiểu này rất là hiếm có, rất ít xảy ra, còn đa phần người có khả
năng ngoại cảm là do một Hoá Sanh thâm nhập và trợ giúp người đó. Khác với
đồng bóng gọi hồn, nhà ngoại cảm không bị các Hoá Sanh tác ý điều khiển để
nói lên những thấy biết của Hoá Sanh mà những thông tin do Hoá Sanh thấy
biết khi giao tiếp với những Hoá Sanh khác, (những người đã chết) được “cài”
vào kho chứa của nhà ngoại cảm và lộ trình tâm của nhà ngoại cảm sẽ sử dụng
những thông tin đó nên họ cũng thấy biết như vậy và họ cung cấp những thông
tin về người đã chết theo thấy biết của Hoá Sanh kết hợp với các Tà kiến của
họ. Vì vậy khi có Hoá Sanh xâm nhập trợ giúp thì họ nói đúng, nhưng khi
không có Hoá Sanh xâm nhập trợ giúp thì họ sẽ nói sai.

- Đã từng xuất hiện, tồn tại và biến mất rất nhiều nền văn minh trên quả đất này,
nên cũng đã từng tồn tại rất nhiều con người có những khả năng đặc biệt. Khi
họ chết đi, phát sanh những Hoá Sanh đặc biệt, có những Hoá Sanh tồn tại rất
lâu. Trong cùng một không gian này có rất nhiều Hoá Sanh có năng lực khác
nhau đang tồn tại và đang có sự tương tác giữa các Hoá Sanh với nhau, cũng
như sự tương tác giữa các Hoá Sanh với con người. Sự tương tác đó là sự tương
tác giữa các thông tin và nơi người sống thì lượng thông tin đó ở trong các
ADN của tế bào trong thân thể. Rất nhiều sự việc và hiện tượng khó hiểu, khó
giải thích đều liên quan đến "bí mật" kho chứa thông tin bao gồm Thông Tin Di
Truyền và Thông Tin Về Tâm trong ADN của tế bào. Hiện tượng những người
tham gia lễ hội tự đâm thủng má, xuyên qua má những thanh gươm, những con
dao, mũi tên... do được những Hoá Sanh có những năng lực đặc biệt tác động
được vào những gen trong tế bào vùng đó làm cho đương sự không đau đớn. Có
một y sĩ đã tự cắt một chân từ đầu gối trở xuống và đem giấu đi trong tủ thuốc
hoặc anh thanh niên sắp cưới vợ vào nhà tắm tự cắt cái “của quý” mà không hề
đau đớn là do Hoá sanh tương tác và điều khiển. Có những Hoá sanh là những
người chồng rất yêu vợ nên rất nhiều năm sau tương tác được với một thanh
niên nên cài đặt thông tin của mình vào kho chứa của thanh niên đó. Do lộ trình
tâm của thanh niên sử dụng thông tin của Hoá sanh cài vào nên xảy ra tình yêu
đặc biệt giữa cụ già 80, 90 tuổi với một thanh niên mới lớn... Có rất nhiều Hoá
sanh đang theo đuổi tình yêu với người mà khi còn sống nó theo đuổi nên làm
cho nhiều thanh niên nam nữ muốn kết hôn nhưng luôn bị cản trở vì các Hoá
sanh tương tác. Có những "thần y" chữa được nhiều căn bệnh như câm, điếc,
liệt, ngọng... do bẩm sinh bằng cách nắn bóp, bấm huyệt... thực chất không phải
tự người đó khám phá ra mà được một Hoá Sanh có năng lực đặc biệt tương tác
vào những gen khiếm khuyết bẩm sinh, làm cho nó hoạt động bình thường trở
lại. Có những Hoá sanh có khả năng giữ cho xác chết của nó hoặc người khác
không hư hoại trong một thời gian dài. Có những Hoá Sanh kiếp trước tu hành
cũng thành tựu những khả năng đặc biệt, nhưng chấp thủ kiên cố vào các kiến
giải của mình, khi chết đi phát sinh Hoá Sanh và Hoá Sanh đó tồn tại rất lâu dài.
Trong Hoá Sanh loại này, có những Hoá Sanh có khả năng thâm nhập kho chứa
những người tu (đa phần là người tu trong trạng thái thôi miên, nghĩa là nửa ngủ
nửa thức) và cài đặt thông tin của Hoá Sanh vào kho chứa thông tin người đó
làm cho người đó ở trong trạng thái định nhiều ngày liền, thậm chí nhiều tháng
liền không ăn uống. Có những người được Hoá Sanh cài đặt thông tin về hiểu
biết và chấp thủ của Hoá Sanh, lộ trình tâm sẽ sử dụng các thông tin đó làm cho
người đó nói lên những hiểu biết và chấp thủ của Hoá Sanh, tuyên bố chứng
này, chứng nọ. Do được năng lực của Hoá Sanh trợ giúp, họ cũng có thể lôi kéo
được hàng loạt tín đồ, có cùng nghiệp như họ, tôn sùng họ là bậc thánh đã giác
ngộ...

Chính vì trong thế giới này con người và Hoá Sanh cùng tồn tại, Hoá Sanh lại
có đặc điểm như vậy, có những Hoá Sanh chấp thủ rất ghê gớm nên đôi khi
cũng rất độc ác, bạo hành, tàn độc, xảo quyệt, sân hận, nên muốn được yên ổn,
hãy tránh xa những nơi có các hiện tượng trên và luôn luôn cố gắng đừng xúc
phạm bất kỳ một ai, cho dù là người dở hơi (cũng có thể là do Hoá sanh tương
tác mà ra như vậy). Muốn cho các Hoá Sanh không tương tác được thì chỉ có
một cách duy nhất là tu tập Bát Chánh Đạo. Lúc đó hoặc là an trú tâm biết Tỉnh
Giác hoặc là an trú tâm biết Chánh Kiến thì Hoá Sanh không thể xâm nhập,
không thể “điều khiển” được.

Về mục lục

Bài 117: HIỂU SAI VÀ HIỂU ĐÚNG VỀ ĐỊNH LÝ DUYÊN KHỞI

Định lý Duyên Khởi hay Định luật nhân quả đang vận hành và chi phối toàn thể
đời sống nhân loại, bất kể người đó có tin hay không. Tất cả nhân loại đang tư
duy dựa trên định luật nhân quả để nhận thức, để giải thích, để sống với quy luật
nhân quả theo nguyên tắc rất đơn giản: “không có Lửa làm gì có Khói”. Trong
đó Lửa là Nguyên nhân, Khói là Kết quả và quy luật là Nhân sinh ra Quả chứ
không có ngược lại Quả sinh ra Nhân. Tuy nhân loại đang mỗi một giây phút
sống với quy luật nhân quả nhưng HIỂU BIẾT QUY LUẬT NHÂN QUẢ lại có
hai loại: Một là hiểu biết sai lạc, không đúng sự thật về quy luật nhân quả, thuộc
Phàm phu; Hai là hiểu biết đúng sự thật quy luật nhân quả, thuộc bậc Thánh.

1 - Hiểu biết sai quy luật nhân quả:

Đó là hiểu biết chung của nhân loại và nội dung của hiểu biết đó là: MỘT
NHÂN BIẾN ĐỔI THÀNH QUẢ. Ví như tiếng trống là do cái trống phát sinh
ra, hạt thóc biến đổi thành cây mạ, nước biến đổi thành hơi nước, hơi nước biến
đổi thành mây, mây biến đổi thành mưa, rác biến đổi thành hoa, hoa biến đổi
thành rác vv... Hiểu biết này đồng nghĩa với tiên đề của triết học duy vật: “Vật
chất không được sinh ra, không bị mất đi mà chỉ biến đổi từ vật này sang vật
khác, từ dạng này sang dạng khác”.

Với hiểu biết “Một nhân biến đổi thành quả” thì sẽ suy ra hệ quả: nhân trong
quả, quả trong nhân, nhân và quả đồng thời tồn tại, tương tức tương nhập lẫn
nhau, phụ thuộc vào nhau, nương nhau mà tồn tại. Và đương nhiên cái thế giới
gồm “toàn thể các sự vật và hiện tượng” mà nhân loại đang thấy biết, sẽ không
sinh không diệt, thường hằng thường trú. Quan hệ giữa Nhân và Quả là quan hệ
phụ thuộc, quan hệ sở hữu: Quả là của Nhân. Vì vậy, quan hệ giữa các pháp
luôn luôn tồn tại chữ CỦA, biểu hiện của quan hệ sở hữu, quan hệ phụ thuộc,
như ngọt của đường, mặn của muối, ngon dở của thức ăn, nóng của lửa, lạnh
của nước đá, cứng mềm thô mịn nặng nhẹ của hòn đá, lực hút của quả đất, nhà
của ta, con của ta vv...

Hiểu biết của cả hai trường phái Phật Giáo Nam tông và Bắc tông đều đặt nền
tảng trên hiểu biết “Một Nhân Biến Đổi Thành Quả” của nhân loại nhưng có bổ
sung cho gần với sự thật hơn. Phật giáo Bắc tông thì “Nhân Chính biển đổi
thành Quả có Nhân Phụ trợ giúp” còn Phật giáo Nam tông thì “Nhân Chính biến
đổi thành Quả có Duyên trợ giúp”. Tuy Phật giáo Nam tông và Bắc tông có bổ
sung như vậy nhưng hiểu biết đó vẫn không phải hiểu biết đúng sự thật về quy
luật nhân quả, vẫn vô minh về nhân quả.

Hiểu biết quy luật nhân quả như vậy sẽ đưa đến hiểu biết các sự vật hiện tượng
thường còn (không diệt mất mà chỉ biến đổi) mà thuật ngữ Phật học gọi là
Thường Kiến hay Chấp Có. Và cũng sẽ đưa đến hiểu biết có một Cái Ta, Bản
Ngã là chủ nhân, chủ sở hữu của các pháp mà thuật ngữ Phật học gọi là Ngã
Kiến hay Chấp Ngã.

2 - Hiểu biết đúng sự thật về quy luật nhân quả:

Nếu quan sát sự phát sinh các sự vật hiện tượng sẽ thấy biết quy luật nhân quả
xảy ra là: HAI NHÂN TIẾP XÚC NHAU RỒI CÙNG DIỆT MỚI PHÁT SINH
QUẢ. Hãy quan sát nơi sự thật thực tại để khẳng định quy luật “hai nhân bình
đẳng tiếp xúc với nhau rồi cùng diệt mà phát sinh các quả”, chứ không hề có
nhân chính nhân phụ, không hề có một nhân biến đổi thành quả.

a - Sự phát sinh các Sắc pháp (các sự vật hiện tượng vật chất): Đương nhiên
không thể quan sát trực tiếp các sắc pháp nhưng qua các hình ảnh mà nhãn thức
thấy và do suy luận hợp lý thì sẽ biết đúng sự thật về sự phát sinh các sắc pháp
theo quy luật hai nhân bình đẳng tương tác rồi cùng diệt mới phát sinh các quả.
Ví như trống và dùi là hai nhân nhưng chưa tiếp xúc thì chưa phát sinh tiếng
trống, nhưng khi trống và dùi tiếp xúc (Nhân) thì lập tức phát sinh tiếng trống
(Quả). Khi dùi và trống tiếp xúc thì cả hai đều mòn đi (tuy rất nhỏ, rất vi tế)
nghĩa là trống cũ, dùi cũ diệt, lúc đó mới phát sinh tiếng trống, phát sinh dùi
mới và trống mới (nhiều quả). Chậu nước trong và gói thuốc nhuộm đỏ tiếp xúc
nhau rồi cùng diệt mà phát sinh chậu thuốc nhuộm đỏ, chậu thuốc nhuộm đỏ
tiếp xúc với cái áo trắng rồi cả hai cùng diệt mà phát sanh cái áo đỏ và chậu
thuốc nhuộm đỏ mới. Bao thóc giống tiếp xúc với thửa ruộng rồi cùng diệt mà
phát sinh ruộng mạ; ruộng mạ tiếp xúc môi trường (nước, ánh sáng, nước, phân
tro...) rồi cùng diệt mà phát sinh ruộng lúa chín; ruộng lúa chín tiếp xúc máy
gặt rồi cả hai cùng diệt mà phát sinh bao thóc; bao thóc tiếp xúc máy xay rồi cả
hai cùng diệt mà phát sinh bao gạo... Tương tự như vậy, viên đá lửa và bánh xe
tiếp xúc nhau rồi cùng diệt mới phát sinh tia lửa, bóng đèn điện và dòng điện,
gió và cành lá tiếp xúc nhau mới phát sinh sự lay động của cành lá, trọng lượng
của một vật là kết quả sự tương tác giữa quả đất và vật đó vv... Nếu quan sát
thô thì thấy có rất nhiều nhân tương tác với nhau cùng diệt mới phát sinh quả,
nhưng quan sát tỉ mỉ, vi tế thì thấy đó là cả một lộ trình các quá trình nhân quả
nối tiếp nhau theo trình tự: Hai nhân tương tác phát sinh quả, rồi quả đó tương
tác với nhân thứ ba phát sinh quả, rồi quả mới phát sinh lại tương tác với nhân
thứ tư vv... Điều này thể hiện rõ rệt nhất trong tương tác hoá học, nghĩa là trong
các phản ứng hoá học, chỉ hai chất phản ứng với nhau, ví như phản ứng có chất
phụ gia thì chất 1 phản ứng với phụ gia rồi cùng diệt và phát sinh ra chất 3, rồi
chất 3 mới phản ứng với chất 2. Mọi hiện tượng vật chất như năng lượng, khối
lượng, sự sống, gió bão, chim trời, cá nước, người vật vv ... đều không tự nhiên
có, đều không sẵn có ở đâu cả mà đều do Hai Nhân tương tác nhau rồi cùng
diệt mà phát sinh ra.

b - Sự phát sinh các Danh pháp (các hiện tượng tinh thần): Các hiện tượng tinh
thần cũng do Hai Nhân tương tác nhau rồi cùng diệt mà phát sinh các Danh
Pháp, bao gồm bốn nhóm Thọ Tưởng Hành Thức mà thuật ngữ Phật học gọi là
Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn. Cụ thể hai nhân đó là: Sáu Căn
(Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân Ý) và Sáu Trần (Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp). Cụ
thể là:

- Mắt tiếp xúc Sắc trần phát sinh đồng thời: <Cảm giác hình ảnh - Nhãn thức >

- Tai tiếp xúc Thanh trần phát sinh đồng thời: <Cảm giác âm thanh - Nhĩ thức >

- Mũi tiếp xúc Hương trần phát sinh đồng thời: <Cảm giác mùi - Tỷ thức>

- Lưỡi tiếp xúc Vị trần phát sinh đồng thời: <Cảm giác vị - Thiệt thức >

- Thân tiếp xúc Xúc trần phát sinh đồng thời: < Cảm giác xúc chạm - Thân thức>

- Ý tiếp xúc Pháp trần phát sinh đồng thời: < Cảm giác pháp trần - Tưởng thức>.

Viết gộp là XÚC: <Thọ - Tưởng>. Ở đây Căn tiếp xúc Trần thì cả hai cùng diệt
(nghĩa là Căn Trần cũ diệt, Căn Trần mới sinh) và phát sinh đồng thời Thọ và
Tưởng tức hai nhóm Thọ uẩn và Tưởng uẩn. Còn các Hành (Hành uẩn) gồm
Niệm, Tư duy, Tham sân si, Dục, Định, Tinh tấn, Tác ý, Lời nói, Hành động và
Ý thức (Thức uẩn) đều do Ý tiếp xúc với Pháp trần mà phát sinh. Nhưng sự tiếp
xúc làm phát sinh Hành uẩn và Thức uẩn vi tế hơn vì đây là tương tác giữa hai
nhân là HAI LƯỢNG THÔNG TIN, xảy ra trong bộ nhớ tâm thức. Vì vậy, các
Danh pháp thuộc bốn nhóm Thọ Tưởng Hành Thức không tự nhiên sinh, cũng
không sẵn có ở đâu, không thường hằng thường trú đâu cả, mà chỉ phát sinh khi
có hai nhân là Căn và Trần tương tác với nhau. Khi ngủ say không mộng mị,
khi ngất đi trong một tai nạn, gây mê sâu khi mổ thì do Sáu Căn không hoạt
động, tuy vẫn có Sáu Trần nhưng không có Xúc nên không có Thọ Tưởng Hành
Thức nào cả, không có Tâm nào cả.

c - Hệ quả từ quy luật nhân quả: Quy luật nhân quả xảy ra là từ NHÂN mà phát
sinh QUẢ, nhưng Nhân phải được hiểu đúng sự thật là gồm: Hai Nhân và Hai
Nhân Tiếp Xúc với nhau hay Tương Tác với nhau. Sự tiếp xúc hay tương tác
giữa hai nhân được gọi là DUYÊN, và sự phát sinh các pháp là do Duyên nên
gọi các pháp là Pháp Duyên Khởi. Vì vậy, nói quy luật nhân quả cũng đồng
nghĩa với quy luật duyên khởi, và chữ Duyên đã thể hiện là phải có hai nhân
mới có duyên nhau, nghĩa là có tương tác với nhau chứ một nhân thì không thể
có duyên được. Hệ quả từ quy luật này là: Tất cả các Danh pháp và Sắc pháp
đều có tự tánh Vô thường, Vô chủ, vô sở hữu (Vô ngã).

- Một là: Tất cả các pháp đều Vô thường: Vì các pháp do duyên Xúc mà sinh,
cũng do duyên Xúc mà diệt nên tất cả các pháp, cho dù là Danh hay Sắc đều
sinh lên rồi diệt đi, không thường hằng, không thường trú đâu cả, nên tính chất
đó gọi là Vô Thường. Thực tại đang xảy ra là từng cặp đôi các pháp đang tương
tác rồi cùng diệt đi và phát sinh quả (pháp khác) và quả đó lại tiếp tục đóng vai
trò là nhân tương tác với một nhân khác và lại diệt đi mà phát sinh một pháp
khác vv... Quá trình cứ diễn tiến nối tiếp nhau như vậy không bao giờ kết thúc
theo quy luật “nhân diệt quả sanh”.

- Hai là: Tất cả các pháp đều Vô chủ, vô sở hữu (hay Vô ngã): Theo quy luật
duyên khởi diễn tiến theo Thời Gian là “nhân diệt quả sanh” thì giữa Nhân và
Quả không hề có quan hệ phụ thuộc, không hề có quan hệ chủ nhân chủ sở hữu.
Nghĩa là các pháp đều Vô chủ, vô sở hữu, không hề có pháp nào là chủ nhân,
chủ sở hữu của pháp nào. Nếu quan sát theo chiều không gian thì quan hệ giữa
các pháp là quan hệ giữa hai nhân bình đẳng, tương tác với nhau rồi cùng diệt
nên các pháp đó cũng đều Với chủ vô sở hữu, không có pháp nào là chủ nhân
chủ sở hữu của pháp nào. Vì vậy, nếu xét quan hệ giữa các pháp theo chiều
không gian và thời gian thì không hề có quan hệ phụ thuộc, không hề có quan
hệ chủ nhân chủ sở hữu, không hề tồn tại chữ CỦA, nghĩa là các pháp vô chủ vô
sở hữu. Điều này cũng đồng nghĩa với không có một pháp nào, một cái Ta, một
Bản Ngã nào, là chủ nhân chủ sở hữu các pháp hay các pháp đều Vô ngã.

Hãy sử dụng bài giảng này làm phương tiện, làm công cụ để quán sát sự thật
thực tại, để tự mình rút ra kết luận, tự mình thấy, tự mình biết đúng sự thật quy
luật nhân quả là “hai nhân tiếp xúc với nhau rồi cùng diệt và phát sinh quả”, và
tự mình thấy, tự mình biết tất cả các pháp đều vô thường, đều vô chủ vô sở hữu
(vô ngã) nhằm mục đích xoá bỏ hiểu biết sai về quy luật nhân quả đã lưu giữ
trong bộ nhớ tâm thức. Đặc biệt là quan sát tương tác giữa Sáu Căn và Sáu Trần
để “Tuệ Tri Sáu Xúc Xứ”. Ví như, quan sát Viên đường và Lưỡi là hai nhân tố
nhưng chưa tiếp xúc thì chưa ai cảm nhận được ngọt cả. Khi Lưỡi tiếp xúc
Viên đường thì cả hai cùng diệt (viên đường diệt, lưỡi cũ diệt và lưỡi mới sinh)
thì lập tức phát sinh Cảm giác vị (ngọt). Đây mới là “NGỌT” thực, là thực tại
đời sống đang diễn ra hàng ngày và nó là Cảm giác (Cảm thọ), là Tâm chứ
không phải Cảnh. Xúc sinh Cảm giác ngọt sinh và Xúc diệt thì Cảm giác ngọt
diệt ngay tức thì nên Cảm giác ngọt Vô thường. Cảm giác ngọt không phải của
lưỡi, không phải của viên đường nên nó Vô chủ vô sở hữu, không ai có thể làm
chủ, sở hữu, nắm giữ hoặc xua đuổi được nó. Mọi đối tượng thực tại như to nhỏ
vuông tròn dài ngắn, mặn ngọt chua cay, cứng mềm thô mịn, đàn ông đàn bà,
người vật, trăng sao, không gian thời gian, khối lượng, năng lượng, sự sống, cái
chết vv... đều do Sáu Căn và Sáu Trần tương tác mà phát sinh, và đều là Cảm
giác (Cảm thọ), nó vô thường, vô chủ vô sở hữu (vô ngã). Đặc biệt phải quán
sát để thấy biết đúng sự thật: Khổ cũng do hai nhân tương tác mà phát sinh. Vì
vậy, khi đã biết rõ hai nhân ấy, thì để khổ không phát sinh, phải thực hành để
hai nhân ấy không tiếp xúc được với nhau. Đó là giai đoạn “nhiếp phục” khổ,
tiếp đến xoá bỏ một trong hai nhân ấy là giai đoạn “đoạn tận khổ”. Nhân cần
xoá bỏ đó là “vô minh chấp ngã” được lưu giữ trong bộ nhớ tâm thức.

Về mục lục

Bài 118: THAN KHÓC TRONG GIỚI LUẬT BẬC THÁNH

Có ba sự việc mà Tăng Chi Bộ Kinh đã đề cập mà người Phật tử phải nghiêm túc
suy ngẫm, đó là than khóc trong giới luật bậc Thánh, điên loạn trong giới luật bậc
Thánh và trẻ con trong giới luật bậc Thánh.

- Thế nào là than khóc trong giới luật bậc Thánh? Đó chính là: ca hát ngâm vịnh.
Một người đệ tử của bậc Thánh hoặc tự nhận mình là đệ tử của bậc Thánh mà lại
ca hát ngâm vịnh, tìm cầu ca hát ngâm vịnh, thích thú ca hát ngâm vịnh, sáng tác
để cho người khác ca hát ngâm vịnh thì kẻ đó đang than khóc trong giới luật bậc
Thánh. Vì sao vậy? Vì khi làm như vậy kẻ đó tham đắm và tìm cầu niềm vui,
hạnh phúc của ca hát ngâm vịnh. Đích thị đó là Tham Dục dẫu cho đó là niềm
vui hạnh phúc tinh thần thanh cao hơn niềm vui hạnh phúc vật chất.

- Thế nào là điên loạn trong giới luật bậc Thánh? Đó là nhảy múa. Đệ tử bậc
Thánh mà nhảy múa, tìm cầu nhảy múa, thích thú nhảy múa, sáng tác để người
khác nhảy múa là điên loạn trong giới luật bậc Thánh. Vì sao vậy? Vì đó là
Tham Dục, tham đắm và tìm cầu niềm vui, hạnh phúc trong nhảy múa. Dẫu cho
luyện tập võ nghệ, cung kiếm hay bất kỳ một hình thức tu tập nào sử dụng nhảy
múa mà đạt được nhất tâm, đạt được định thì nhất tâm ấy là nhất tâm do Tà
Niệm, định ấy là Tà Định vì nhất tâm và định ấy do Tham Dục mà khởi lên.

- Thế nào là trẻ con trong giới luật bậc Thánh? Đó là cười hô hố, cười ha hả,
cười để lộ cả hàm răng. Trẻ con được nói trong ngữ cảnh này chỉ cho sự thiếu
hiểu biết, thiếu kinh nghiệm trong sự tu tập giới luật của bậc Thánh. Và tại sao
cười hô hố, cười ha hả, cười để lộ cả hàm răng là trẻ con trong giới luật bậc
Thánh? Vì rằng đó là Tham Dục, là tham đắm mãnh liệt niềm vui, hạnh phúc
khi giao tiếp, khi trò chuyện.

Giáo pháp mà Đức Thế Tôn thuyết giảng trong bốn mươi lăm năm cốt lõi chỉ
nói về Tham Dục và sự đoạn trừ Tham Dục. Đức Thế Tôn đã dùng nhiều
phương tiện để thuyết giảng các Dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều mà nguy
hiểm lại càng nhiều hơn để các đệ tử viễn ly, ly tham các Dục. Ngài đã ví Dục
như khúc xương không, như miếng thịt sống, như cây sai trái, như bó đuốc
rơm đi ngược gió, như đầu rắn hổ mang, như hố than hừng, như mũi tên nhọn,
như ung nhọt, như món nợ... Trong Kinh Pháp Môn Căn Bản, bài kinh mở đầu
và quan trọng nhất của Trung Bộ Kinh, Ngài đã khẳng định Dục hỷ là căn
nguyên của Khổ. Dục hỷ là tham đắm và tìm cầu niềm vui, hạnh phúc. Dục hỷ
những gì? Đó là Dục hỷ Dục lạc, Dục hỷ Hữu và Dục hỷ Niết bàn, nghĩa là
tham đắm và tìm cầu niềm vui hạnh phúc ở cuộc sống vật chất và tinh thần
(Dục hỷ Dục lạc), tham đắm và tìm cầu niềm vui hạnh phúc ở sự sống, sự hiện
hữu (Dục hỷ Hữu), tham đắm và tìm cầu niềm vui hạnh phúc tuyệt đối của các
cảnh giới giải thoát (Dục hỷ Niết bàn). Như vậy Tham Dục (Dục hỷ) có ba
lãnh vực: Dục hỷ Dục lạc, Dục hỷ Hữu, Dục hỷ Niết bàn. Sự chấp thủ, sự ràng
buộc vào ba lĩnh vực đó cũng có cường độ khác nhau. Sự ràng buộc vào Dục
lạc ở cấp độ thấp nhất, cấp độ thứ hai là Dục hỷ Hữu và kinh khủng nhất là
ràng buộc vào Dục hỷ Niết bàn. Ở cấp độ thấp nhất, trong sự ràng buộc vào
Dục lạc thì ràng buộc vào hạnh phúc vật chất nó không có thấm tháp gì so với
sự ràng buộc vào tinh thần. Trong tiểu thuyết Tiếu ngạo giang hồ, Kim Dung
đã diễn tả điều này rất súc tích trong nhân vật Nhạc Bất Quần. Nhạc Bất Quần
đã tự thiến mình để có thể luyện một thứ võ công với mục đích giành ngôi bá
chủ giang hồ. Tự thiến mình là hy sinh, là từ bỏ hạnh phúc vật chất với mục
đích bá chủ giang hồ chính là tìm cầu hạnh phúc tinh thần. Trong cuộc sống
thường ngày của nhân loại, tương quan với các phương tiện vật chất, tương
quan với môi trường, tương quan với các loài động vật không gây ra nhiều rắc
rối, nhiều bức xúc, nhiều phiền não mà chính tương quan giữa con người với
con người mới có nhiều rắc rối, nhiều bức xúc, nhiều phiền não gấp bội. Một
người nếu có được một môi trường sống lý tưởng, muốn gì có nấy nhưng nếu
chỉ có một mình thì họ cũng không thể nào sống nổi. Đối với loài thú có lẽ
hạnh phúc vật chất là quan trọng, nhưng đối với loài người thì hạnh phúc tinh
thần quan trọng hơn nhiều và chính vì vậy mà tham đắm và tìm cầu hạnh phúc
tinh thần, ràng buộc vào hạnh phúc tinh thần mãnh liệt hơn rất nhiều so với
hạnh phúc vật chất, và đau khổ do ràng buộc vào hạnh phúc tinh thần cũng
nhiều nhất và tệ hại nhất so với đau khổ do ràng buộc với hạnh phúc vật chất.
Người tu nếu không nhận thức đúng về Dục hỷ, về Tham Dục, họ có thể viễn
ly, ly tham được hạnh phúc vật chất, họ có thể sống được với phương tiện vật
chất tối thiểu, kham khổ chịu đựng, bằng lòng với cuộc sống vật chất ấy nhưng
lại tìm kiếm một hạnh phúc tinh thần thanh cao nơi trời xanh mây trắng, gió
hát thông reo, hạnh phúc nơi một lý tưởng cao siêu, nơi cứu nhân độ thế, nơi
những điều kỳ diệu, màu nhiệm... họ cũng có được sự giải thoát đối với cuộc
sống vật chất, nhưng lại ràng buộc vào cuộc sống tinh thần còn mãnh liệt hơn.
Đó là Tà Giải Thoát chứ không phải Chánh Giải Thoát. Các đạo sĩ lõa thể đã từ
bỏ cuộc sống vật chất và một số giá trị hạnh phúc thế gian nhưng họ không giải
thoát vì họ đang đi tìm cầu một thứ hạnh phúc tuyệt đối khi rời bỏ thân xác,
khi hòa nhập vào một Đại Ngã, một Thượng đế toàn năng. Đây cũng gọi là
Dục hỷ Niết bàn, tham ái và tìm cầu một loại hạnh phúc tinh thần tuyệt đối.

Đức Phật đã chứng ngộ và giảng giải Tham Dục là tham ái và tìm cầu hạnh
phúc cho dù là hạnh phúc vật chất hay tinh thần, tương đối hay tuyệt đối đều là
nguyên nhân phát sinh Khổ. Điều này hoàn toàn trái ngược với hiểu biết của
nhân loại, đi ngược lại các giá trị hạnh phúc của nhân loại nên con đường tới
cái đích ấy cũng ngược đường với cuộc đời. Một vị đệ tử Phật cho dù được
nghe như vậy, cho dù biết rõ các Dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều mà nguy
hiểm lại càng nhiều hơn, cho dù là một bậc thánh Nhập lưu đi nữa nhưng sự tu
tập Bát Chánh Đạo của vị đó chưa chứng được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền
hoặc tứ thiền thì vị đó vẫn bị Dục lạc cuộc đời lôi cuốn và ràng buộc, vẫn than
khóc trong giới luật bậc Thánh, vẫn điên loạn trong giới luật bậc Thánh, vẫn trẻ
con trong giới luật bậc Thánh. Khi chứng ngộ và an trú sơ thiền hay nhị thiền,
hay tam thiền, hay tứ thiền vị đó sẽ kinh nghiệm và an trú được hỷ lạc của sơ
thiền, hỷ lạc của nhị thiền, lạc của tam thiền và xả niệm thanh tịnh của tứ thiền,
vị đó mới tuệ tri được một loại lạc do Chánh Định phát sanh, một loại lạc
không phải như Dục lạc, không phải vui ít, khổ nhiều, não nhiều mà nguy hiểm
càng nhiều hơn, một loại lạc vô hại, mới biết như thật đây là Thánh lạc, Chánh
giác lạc, an tịnh lạc. Khi chứng ngộ và an trú Chánh Định, có được Thánh lạc
như vậy vị đó mới có chất liệu để so sánh với Dục lạc và mới tuệ tri được Dục
lạc là Phàm phu lạc, ô uế lạc, bất tịnh lạc. Khi đã tuệ tri được Dục lạc là Phàm
phu lạc, ô uế lạc, bất tịnh lạc, vị ấy mới có thể viễn ly, ly tham Dục lạc, mới
không còn bị chi phối bởi Dục lạc, mới không còn than khóc, điên loạn, trẻ con
trong giới luật bậc Thánh.

Một đệ tử Phật khi tu tập Bát Chánh Đạo phải hiểu rõ ba trụ cột của lộ trình tâm
Bát Chánh Đạo bao gồm: Chánh Niệm - Chánh Định - Chánh Kiến hay nói tắt
là: Niệm - Định - Tuệ. Chánh Định không những đưa đến hiện tại lạc trú và nhờ
hiện tại lạc trú mà có viễn ly, ly tham Dục lạc mà còn nhờ có Chánh Định mới
khởi lên Chánh Tư Duy và do Chánh Tư Duy mới phát sinh Chánh Kiến đưa
đến giác ngộ Tứ Thánh Đế. Nếu sự tu tập mà không chứng ngộ và an trú được
Chánh Định bao gồm: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền thì lộ trình tâm
Bát Chánh Đạo chưa khởi lên, chưa có thể kinh nghiệm Bát Chánh Đạo. Chỉ khi
nào vị ấy chứng ngộ và an trú được cho dù chỉ sơ thiền thì khi đó mới kinh
nghiệm được lộ trình tâm Bát Chánh Đạo. Chính vì vậy chứng ngộ và an trú
Chánh Định, chứng ngộ và an trú sơ thiền trở lên là bước khởi đầu chứng ngộ
và an trú lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế.

Về mục lục

Bài 119: CÚ SỐC BẠO LỰC

Truy sát kinh hoàng tại chùa Bửu Quang. Ba vị sư đổ máu, một cô tu nữ thiệt
mạng. Bạo lực đã xuất hiện nơi chùa chiền, một cú sốc lớn đối với rất nhiều
người. Nhưng nếu hiểu biết cho thấu đáo, HIỂU BIẾT ĐÚNG NHƯ THẬT thì
chùa chiền cũng thuộc về Thế Gian, mà Bạo Lực là một thuộc tính của Thế
Gian. Sự thật thì con người gây ra vụ truy sát kinh hoàng tại chùa Bửu Quang bị
một "ngoại lực" chiếm cứ và điều khiển, hoàn toàn không còn biết gì về hành vi
bạo lực của mình và nếu đem so sánh với bức tranh toàn cảnh về hành vi bạo
lực có chủ ý của con người, thì sẽ còn sốc gấp nhiều lần. Trong một nhà máy
biết bao công trình sư tài giỏi, đội ngũ công nhân lành nghề với vẻ ngoài rất
lương thiện, với đầu óc vô cùng tỉnh táo đang thiết kế, sản xuất ra những công
cụ, những vũ khí tân tiến, tối tân... với mục đích làm đổ máu, làm chết càng
nhiều người càng tốt. Một viên phi công với đầu óc tỉnh táo, ném những quả
bom với mục đích phá huỷ mục tiêu và truy sát càng nhiều người càng tốt. Một
cuộc nhảy múa, reo hò ăn mừng chiến thắng của những con người rất tỉnh táo
khi giết chết được vô số người khác trên chiến tuyến... Đó chính là sự thật về
Bạo Lực Thế gian, xảy ra với tất cả con người kể cả những đầu óc thông minh
và tỉnh táo nhất. Nhưng phải quan sát để thấy như thật Nguyên Nhân Bạo Lực
không phải ở bên ngoài, không ở nơi thế giới ngoại cảnh mà nó có mặt trong
"kho chứa thông tin "của tâm thức nhân loại. Thế Gian này vận hành bởi VÔ
MINH và THAM ÁI, mà lượng thông tin VÔ MINH và THAM ÁI đã và đang
có mặt trong kho chứa tâm thức của mỗi một con người. Do Vô minh và Tham
ái mà phát sinh tư tưởng HƠN THUA, và do tư tưởng HƠN THUA mà phát
sinh BẠO LỰC. Tư tưởng bạo lực đã có sẵn, được lưu giữ trong kho chứa tâm
hức và khi có nhân duyên bên ngoài thì nó bột phát ra thành Lời nói hoặc Hành
ộng bạo lực. Ví như, xem một video clip về một nữ sinh nhỏ tuổi bị túm tóc, bị
ấm đá, bị chà đạp lên mặt bởi các nữ sinh hung hãn khác, tất cả đều phẫn nộ,
đều muốn tát tai, đá đít các nữ sinh hung hãn kia. Đó là phản ứng thường tình
của con người, của nhân loại, là phản ứng BẠO LỰC TRƯỚC BẠO LỰC.
Phản ứng bạo lực xảy ra trong nội tâm và mỗi một lần phản ứng như vậy, bạo
lực đang từng giây phút được nuôi dưỡng, được lưu vào kho chứa và nó sẽ bột
phát thành lời nói và hành động bạo lực trong tương lai. Thấy biết như thật Bạo
Lực chính là SÂN, là bản chất, là thật tánh của Thế Gian, chính là Giác Ngộ Sự
Thật Khổ và Sự Thật Nguyên Nhân Khổ, sẽ đưa đến nhàm chán, ly tham Thế
Gian, hướng đến Xuất Thế Gian.

Trên đường vào bệnh viện cấp cứu có người đã nói với tôi: "Xuất gia vào chùa
rồi mà vẫn còn tai nạn, vẫn còn khổ, vẫn không yên". Thực chất trong Thế Gian
này, cho dù trên trời cao, dưới biển sâu, giữa sa mạc hoang vắng hay nơi đô thị
phồn hoa không có chỗ nào không có tai nạn, không có chỗ nào mà thân này
được yên ổn. Bản thân Đức Phật vẫn bị đệ tử của mình là Đề Bà Đạt Đa âm
mưu lăn đá giết chết và Ngài bị một mảnh đá đâm vào chân chảy máu. Ma ha
Mục Kiền Liên bị ngoại đạo đánh chết... Vì sao vậy? Vì thân này là kết quả của
Nghiệp quá khứ và nơi thân này còn lưu giữ các thông tin về Nghiệp nhân đã
tạo tác trong quá khứ nên khi có tác nhân xảy ra trong hiện tại, tương tác được
với Nghiệp nhân đó thì sẽ phát sinh các kết quả trên thân. Kết quả đó chính là
sự tiếp xúc giữa Sáu Căn (Thân) và Sáu Trần (Thế Giới) phát sinh các Cảm
Thọ: Lạc thọ, Khổ thọ hoặc Bất khổ bất lạc thọ. Đó có thể là các Khổ thọ do đá
ném, gậy đâm, dao cắt... tiếp xúc với thân này. Nếu người không có Văn Tư Tu
về Tứ Thánh Đế thì khi thân bị gậy đâm, đá ném, dao cắt phát sinh một Khổ thọ
trên thân thì nội tâm tức tối, hoảng hốt, lo sợ, đau khổ. Họ bị trúng hai mũi tên,
kết quả là thân khổ và tâm khổ. Lộ trình đó là Bát Tà Đạo mà Đức Phật đã chỉ
rõ: XÚC - Thọ - Ái - Thủ - Hữu - Khổ

Những người đã thuần thục Tứ Thánh Đế, lộ trình tâm là Bát Chánh Đạo siêu
thế thì khi thân bị gậy đâm, đá ném, dao cắt tuy vẫn phát sinh một Khổ thọ
nhưng NỘI TÂM TỊCH TĨNH, họ an trú Không giải thoát, Vô tướng giải thoát,
Vô tác giải thoát. Lộ trình đó là: XÚC - Thọ - Không - Vô Tướng - Vô Tác.

An trú Bát Chánh Đạo siêu thế là an trú Không Giải Thoát, Vô Tướng Giải
Thoát, Vô Tác Giải Thoát hay Tâm Giải Thoát, Tuệ Giải Thoát là an trú NỘI
TÂM bậc Thánh, mới là nơi không còn tai nạn, nơi không có bạo lực, nơi vô
thượng an ổn khỏi các khổ ách. Đó chính là Xuất Thế Gian.

Khi con dao xúc chạm vào cánh tay, tôi cảm nhận Cảm Giác đó nhưng Chánh
Niệm BUÔNG (nhớ đến BUÔNG) tự động khởi lên, và Chánh Kiến BUÔNG
liên tục có mặt. Vì vậy, khi bước ra cổng, đi trên đường, nằm lên giường cấp
cứu, trên bàn mổ và cả mấy ngày nằm viện vẫn Thấy, Nghe, Cảm Nhận các sự
việc nhưng trong đầu vắng lặng, chỉ có một chữ BUÔNG. Nội tâm vắng bặt mọi
tư tưởng, mọi suy nghĩ, không có những hình ảnh vừa xảy ra, không có vui,
không có buồn. Nội tâm tịch tĩnh, tất cả đều CHÁNH NIỆM TỈNH GIÁC TRÚ
XẢ.

Không thể có được sự yên ổn tuyệt đối nơi tấm thân này vì nó vẫn thuộc về Thế
Gian mà chỉ có an trú nội tâm Bát Chánh Đạo siêu thế mới là nơi vô thượng an
ổn khỏi mọi khổ ách, nơi đó không có Vô minh, không có Tham ái, không có
hơn thua, không có bạo lực, không có kỳ thị, không có khổ đau. Nơi đó, Bát
Chánh Đạo chính là Xuất Thế Gian hay Siêu Thế.

Để an trú Bát Chánh Đạo siêu thế, nơi vô thượng an ổn thoát khỏi mọi khổ ách
thì phải từ bỏ mọi nương tựa, từ bỏ tư tưởng chư Phật, bồ tát, chư thiên, long
thần, hộ pháp sẽ gia hộ cho thân này được xinh đẹp, mạnh khoẻ, sống lâu, vô
bệnh, không còn bị tai nạn nước lửa, gươm đao ... Đức Phật và các Bậc giác
ngộ không gia trì, không bảo hộ được cho bất kỳ một ai, kể cả dòng họ Thích ca
của Ngài vẫn bị tàn sát khi Ngài còn tại thế, vì vậy, phải ghi khắc Phật ngôn:
"Hãy tự mình nương tựa nơi chính mình, nương tựa nơi Chánh Pháp, đừng
nượng tựa một gì khác. Và thế nào là tự mình nương tựa nơi chính mình, nương
tựa nơi Chánh Pháp, không nương tựa một gì khác? Đó là, vị Tỷ kheo sống trú
quán thân nơi thân với chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác để nhiếp phục tham ưu
ở đời, sống trú quán thọ nơi thọ.., sống trú quán tâm nơi tâm.., sống trú quán
pháp nơi pháp với chánh niệm, nhiệt tâm, tỉnh giác để nhiếp phục tham ưu ở
đời. Đó là tự mình nương tựa nơi chính mình, nương tựa nơi Chánh Pháp,
không nương tựa một gì khác".

Một số người đã nghe tôi giảng dạy và hướng dẫn thực hành Chánh Pháp, trong
số đó khi nghe "sư Nguyên Tuệ" bị truy sát tại chùa Bửu Quang, một số bị sốc,
một số khác không còn bị sốc mà vẫn bình thản. Những người chưa thuần thục
trong an trú Tứ Niệm Xứ, họ vẫn còn nhiều nương tựa, đặc biệt là nương tựa
vào vị thầy của mình. Còn nương tựa là còn dao động nên khi thầy bị dao đâm,
đá ném, họ sẽ lo lắng cho tính mạng và sức khoẻ của thầy, họ sợ mất đi chỗ
nương tựa, do đó họ bị sốc. Những người tu tập Tứ Niệm Xứ thuần thục, họ đã
tự mình nương tựa nơi chính mình, nương tựa nơi Chánh Pháp nên cho dù rất
kính trọng, rất tri ân thầy, nhưng không ràng buộc với thầy, họ không còn bị
sốc. Khi thầy họ bị dao đâm, đá ném mà họ bình thản được thì khi sự việc tương
tự có xảy ra nơi thân họ thì họ sẽ không còn sốc mà sẽ bình thản, Chánh Niệm
Tỉnh Giác Trú Xả.

Sẽ có hai thái độ đối với hiện tượng bạo lực xảy ra tại chùa Bửu Quang phát
sinh trên hai tư tưởng cực đoan Chấp Ngã. Một là, những người có tư tưởng
"Phật giáo là CỦA TA, LÀ TA" khi nghe tin đó sẽ bị sốc, sẽ đau buồn, bức xúc
bởi tư tưởng "Phật giáo là của Ta, là Ta" sẽ làm cho họ vui khi Phật giáo thành
công, sẽ làm cho họ buồn khi Phật giáo thất bại. Hai là, những người theo đạo
giáo đối lập có tư tưởng "Phật giáo KHÔNG PHẢI LÀ CỦA TA, KHÔNG
PHẢI LÀ TA" sẽ vui mừng, hoan hỷ bởi tư tưởng đó làm cho họ vui khi Phật
giáo thất bại và buồn khi Phật giáo thành công. Khi một người thực hành Bát
Chánh Đạo, an trú Tứ Niệm Xứ thì chấm dứt cả hai tư tưởng cực đoan Chấp
Ngã "Phật giáo là CỦA TA, LÀ TA" cũng như "Phật giáo KHÔNG PHẢI CỦA
TA, KHÔNG PHẢI LÀ TA". Do vậy, họ không còn bị sốc, bình thản với mọi
thăng trầm của Phật giáo, của Chánh Pháp.

Trong Kinh Mật Hoàn thuộc Trung Bộ Kinh, Đức Phật đã tuyên bố: "Pháp mà
Ta thuyết giảng không tranh luận một ai ở đời". Vì vậy, những ai thấy Pháp,
ngộ Pháp, liễu tri Pháp, thuần thục Pháp sẽ không còn tranh cãi, hơn thua với
bất cứ một ai ở đời. Trong tám năm, kể từ khi tôi bắt đầu giảng dạy và hướng
dẫn tu tập Chánh Pháp từ 2009 đã có biết bao nhiêu sự chống đối mà đặc biệt là
các thế lực vô hình, các phi nhân đã nhiều lần tấn công mà nổi bật nhất là sự
kiện tại chùa Bửu Quang. Cho dù như vậy, nhưng chưa một lần nào trong tôi
khởi lên tư tưởng " từ bỏ gánh nặng của thiện pháp này".

Về mục lục

Bài 120: CHẤP THỦ

Trong Đại Kinh Mãn Nguyệt Đức Phật đã dạy: Nơi nào có Tham và Dục nơi
đó có chấp thủ. Nghĩa là thích thú đối tượng nào (gọi là Tham) thì sẽ muốn có
được niềm vui, hạnh phúc từ đối tượng đó (gọi là Dục) thì sẽ khởi lên tư tưởng:
đối tượng này là của Ta, là Ta, là tự ngã (bản ngã) của Ta. Đây gọi là chấp thủ.
Chấp thủ cũng có nghĩa là Ràng buộc với đối tượng đã được xem là của Ta, là
Ta, là bản ngã của Ta. Sự chấp thủ sẽ khởi lên Năm Thủ Uẩn, tức là tư tưởng
Sắc Thọ Tưởng Hành Thức là của Ta, là Ta, là bản ngã của Ta.

Trong kinh Đại Không, khi nhìn thấy rất nhiều Tỷ kheo ở trong một trú xứ Đức
Phật đã khẳng định: (trích dẫn tóm tắt và đại ý) Tỷ kheo nào thích thú trong hội
chúng của mình, hân hoan trong hội chúng của mình, hoan hỷ trong hội chúng
của mình, thích thú trong hội chúng của người, hân hoan trong hội chúng của
người, hoan hỷ trong hội chúng của người, sự kiện Tỷ kheo ấy giải thoát khổ
đau không có thể xảy ra.

Thích thú, hân hoan, hoan hỷ trong hội chúng của mình hoặc của người cũng là
muốn có được niềm vui từ hội chúng. Đó là Tham và Dục. Khi đã có Tham và
Dục thì sẽ khởi lên tư tưởng: hội chúng này là của Ta, là Ta, là bản ngã của Ta.
Đây là chấp thủ, đây là sự ràng buộc với hội chúng. Do sự ràng buộc này mà vui
buồn vì hội chúng ấy. Hội chúng lớn mạnh thì sung sướng, hội chúng suy yếu
thì đau khổ, ai khen ngợi hội chúng thì hoan hỷ, ai chê bai hội chúng thì bực
bội...

Một chàng trai và một cô gái quen biết nhau nhưng chưa yêu nhau thì chàng trai
không có tư tưởng: cô gái này là của Ta, là Ta, không có tư tưởng cha mẹ cô
gái, anh em cô gái, dòng họ cô gái... là của Ta, là Ta. Chàng trai không có chấp
thủ các đối tượng đó (vì chưa có Tham và Dục), không ràng buộc với các đối
tượng đó nên không vui với cái vui, không buồn vì cái buồn của các đối tượng
đó, không có phiền não vì các đối tượng đó. Nhưng khi chàng trai yêu cô gái và
cưới cô ta làm vợ (có Tham và Dục) thì lập tức tư tưởng cô gái này là của Ta, là
Ta khởi lên và đồng thời tư tưởng cha mẹ, anh em, dòng họ cô gái là của Ta, là
Ta cũng khởi lên. Đây là chấp thủ, là ràng buộc. Do ràng buộc mà sẽ vui với cái
vui, buồn vì cái buồn của họ. Với sự ràng buộc này thì cuộc đời thực sự là: vui
ít khổ nhiều, não nhiều mà nguy hiểm lại càng nhiều hơn.

Đây là ví dụ để có thể hiểu rõ hơn về chữ Thủ trong lộ trình đã được Đức Phật
giảng dạy: Xúc - Thọ - Ái - Thủ - Hữu - Sinh Già Bệnh Chết Sầu Bi Khổ Ưu
Não.
Vậy thì do Tham và Dục diệt nghĩa là Ái diệt thì Thủ diệt, do Thủ diệt mà Hữu
diệt, do Hữu diệt mà Sinh Già Bệnh Chết Sầu Bi Khổ Ưu Não diệt, nghĩa là toàn
khối đau khổ diệt. Từ Ái diệt đến toàn bộ khối đau khổ diệt rất rõ ràng dễ hiểu,
đại đa số người học Phật hiểu được nhưng theo sơ đồ này thì Xúc diệt, Thọ sẽ
diệt, Thọ diệt Ái mới diệt mới là khó hiểu. Đa phần hiểu theo ngữ cảnh là phải
làm cho Xúc diệt thì Thọ mới diệt và Thọ diệt thì Ái mới diệt. Sự tranh cãi bắt
đầu từ đây, sự phân chia bộ phái cũng xuất phát từ đây, các luận giải khác nhau
cũng xuất phát từ đây. Nếu phát hiện và theo dõi cái mạch ngầm nhất quán
xuyên suốt các bộ kinh Nikaya thì Đức Phật không có giảng dạy bất kỳ một chỗ
nào về sự thực hành làm cho Xúc diệt, Thọ diệt. Xuyên suốt bộ kinh Nikaya Đức
Phật dạy phòng hộ sáu căn, tức phòng hộ sáu xúc xứ, dạy về Tuệ tri sáu xúc xứ
tức tuệ tri Duyên khởi cũng có nội dung tuệ tri sáu Thọ, dạy về tuệ tri sự sinh diệt
của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ. Pháp học và Pháp hành
Ngài chỉ dạy nhằm làm cho đệ tử có được hiểu biết đúng sự thật về Thọ, giác ngộ
về Thọ, có được Minh về Thọ và do vậy mà chấm dứt được hiểu biết không đúng
sự thật về Thọ, chấm dứt được Vô Minh về Thọ. Do chấm dứt Vô Minh về Thọ
mà Ái không còn khởi lên, Ái diệt. Lộ trình: Xúc - Thọ - Ái - Thủ - Hữu - ... là
nói một cách tóm tắt, nếu đề cập tỉ mỉ sẽ như sau:

Xúc - Thọ - Tưởng - Tà Niệm - Tà Tư Duy - Tà Tri Kiến - Ái - Thủ - ...

Chính Tà Niệm là nhân phát sanh Tà Tư Duy, Tà Tư Duy là nhân phát sanh Tà
Tri Kiến. Tà Tri Kiến là hiểu biết không đúng sự thật, là Vô Minh về Thọ. Vốn
đối tượng đó là Cảm thọ thuộc phạm trù Tâm, nhưng lại cho là ngoại Cảnh (Sắc
Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần), vốn đối tượng đó Vô Thường, Vô Chủ lại cho
là Thường hằng, Thường trú, Hữu chủ, nếu Tham ái đối tượng đó sẽ khởi lên
khổ lại cho rằng Tham ái đối tượng đó sẽ đưa đến Hạnh phúc, sẽ chấm dứt Khổ.
Chính Tà Tri Kiến này là Vô Minh là nhân cho Ái khởi lên.
Khi thực hành Bát Chánh Đạo lộ trình tâm sẽ khởi lên như sau:

Xúc - Thọ - Tưởng - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - (Tỉnh Giác)
- Chánh Tư Duy - Chánh Tri Kiến...

Chánh Niệm, Chánh Tư Duy sẽ khởi lên Chánh Tri Kiến là hiểu biết đúng như
thật, là Minh với nội dung: tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và
sự xuất ly của Thọ. Với chánh Tri Kiến là Minh này sẽ đoạn diệt Vô Minh, đoạn
diệt nhân của Ái, đoạn diệt sự sinh khởi của Ái. Cho nên Bát Chánh Đạo là con
đường chấm dứt Ái, chấm dứt Thủ. Trên Bát Chánh Đạo, lộ trình tâm của bậc
Thánh hữu học và vô học vẫn có Xúc - Thọ - Tưởng chứ không phải Xúc diệt,
Thọ diệt.

Về mục lục

Bài 121: GIỚI KHÔNG SÁT SINH

Năm giới, Tám giới và Mười giới vốn đã có trong xã hội Ấn độ trước khi Đức
Phật ra đời. Phật giáo ra đời đã tiếp thu những sự kiện đó của thời đại, nên trong
Phật giáo có sự thực hành Năm giới, Tám giới, Mười giới. Tuy Đức Phật có tiếp
thu, có chủ trương thực hành Năm giới, Tám giới, Mười giới nhưng mục đích
và phương pháp thực hành các giới này lại khác xa, ngược lại với hiểu biết của
các tôn giáo đương thời cũng như hiểu biết của nhân loại. Sự khác nhau về mục
đích và phương pháp thực hành Năm giới, Tám giới, Mười giới của Đức Phật và
ngoại đạo là ở chỗ nào? Bài viết này chỉ đề cập tới sự khác biệt về mục đích và
phương pháp thực hành giới không sát sinh giữa chủ trương của Đức Phật và
Ngoại đạo, người đọc có thể qua đây liên hệ với các giới khác tương tự.

1. - Mục đích và phương pháp thực hành giới Không sát sinh theo ngoại đạo:
Hiểu biết của nhân loại, cũng như của tất cả các tôn giáo (ngoại trừ lời dạy của
Phật) là Tâm biết Cảnh hay nhị nguyên Tâm Cảnh, nghĩa là Cái biết là Tâm và
đối tượng được biết là Cảnh. Cụ thể Tâm biết thường trú nơi Mắt Tai Mũi Lưỡi
Thân Ý và đối tượng được biết là Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần, nghĩa là
những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là Thế giới
ngoại cảnh. Đặc điểm của cái biết nhị nguyên này là Thường kiến, Ngã kiến và
Hướng ngoại. Với cái biết nhị nguyên này thì Khổ, Nguyên nhân Khổ, Sự chấm
dứt Khổ, Con đường chấm dứt Khổ (Khổ Tập Diệt Đạo) đều ở nơi Ngoại cảnh,
nơi Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần. Cụ thể:

- Khổ tồn tại nơi những hoàn cảnh khó chịu và trung tính như nghèo thiếu, lạc
hậu, thất học, bệnh tật, thiên tai, áp bức, bất công...

- Nguyên nhân Khổ là từ những hoàn cảnh khó chịu và trung tính trên mà đến
với con người, nghĩa là Nguyên nhân Khổ nằm nơi ngoại cảnh.

- Sự chấm dứt Khổ xảy ra khi có Hạnh phúc, mà Hạnh phúc tồn tại trong những
hoàn cảnh tốt đẹp như giàu có, mạnh khoẻ, sống lâu, xinh đẹp, thành đạt...
nghĩa là nơi ngoại cảnh.

- Con đường chấm dứt Khổ là thay đổi hoàn cảnh khó chịu và trung tính bằng
hoàn cảnh tốt đẹp.

Đây là hiểu biết về Khổ Tập Diệt Đạo của tất cả nhân loại, của tất cả các tôn
giáo ngoại trừ hiểu biết của Đức Phật và Thánh đệ tử của Đức Phật. Hiểu biết về
Khổ Tập Diệt Đạo theo kiểu Tâm biết Cảnh như vậy gọi là Vô Minh. Đời sống
của nhân loại bao gồm rất nhiều lĩnh vực nhưng tất cả mọi lĩnh vực của đời sống
nhân loại, đều bị chi phối bởi hiểu biết Vô Minh về Khổ Tập Diệt Đạo này. Do
hiểu biết Vô Minh chi phối nên nhân loại tham ái và tìm cầu Hạnh phúc trong
những hoàn cảnh tốt đẹp. Đó là tham ái và tìm cầu Hạnh phúc trong Sắc đẹp,
Tiếng hay, Hương thơm, Vị ngon, Xúc chạm êm ái gọi là Dục ái. Đó là tham ái
và tìm cầu Hạnh phúc trong sự sống, sự hiện hữu gọi là Hữu ái vì Vô minh cho
rằng sống là Hạnh phúc, chết là đau khổ. Đó là tham ái và tìm cầu Hạnh phúc
tuyệt đối ở các cảnh giới giải thoát khi không còn hiện hữu của thân xác gọi là
Phi Hữu ái. Nói gọn lại, là do Vô Minh chi phối mà nhân loại có Dục ái, Hữu ái
và Phi Hữu ái. Mọi lời nói, mọi hành động của nhân loại, của các tôn giáo là do
tham ái Hạnh phúc ở Dục, ở Hữu, ở Phi Hữu với mục đích là tìm cầu để đạt
được Hạnh phúc ở Dục, ở Hữu, ở Phi Hữu. Chính vì vậy mà mục đích thực
hành giới Không Sát Sinh của ngoại đạo là do Tham ái. Họ thực hành giới
không sát sinh để có được những quả báo là những hoàn cảnh tốt đẹp trong
tương lai, để chấm dứt những hoàn cảnh tồi tệ, khổ đau của hiện tại. Cụ thể là
Không sát sinh để có phước báu, để tương lai được mạnh khoẻ, không bệnh tật,
sống lâu, trường thọ, được thân tướng tốt đẹp, không đui què, khiếm khuyết các
căn... Do tham ái sự sống (Hữu ái), xem sự sống là cao quý, kỳ diệu, mầu
nhiệm, sự sống đưa đến Hạnh phúc, chấm dứt sự sống là đau khổ nên họ thực
hành Không sát sinh để bảo vệ sự sống của mình được trường tồn, để sự sống
của muôn loài, của thế giới được trường tồn. Mục đích và phương pháp thực
hành như vậy để tương lai có hạnh phúc trong những hoàn cảnh tốt đẹp và để
bảo vệ sự sống của muôn loài là hướng ngoại, hướng đến thay đổi hoàn cảnh, là
do Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái, nghĩa là do Tham Dục mà thực hành.

2 - Mục đích và phương pháp thực hành Không sát sinh theo chủ trương của
Đức Phật: Hiểu biết đúng như thật mà Đức Phật thuyết giảng dựa trên sự giác
ngộ của Ngài là do: "Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự
xuất ly của Thọ". Trong nội dung của sự giác ngộ này có một nội dung là, cái
biết là Tâm mà những đối tượng được biết cũng thuộc phạm trù Tâm chứ không
phải Cảnh. Do vậy Khổ Tập Diệt Đạo thuộc về phạm trù Tâm chứ không phải
Cảnh. Cụ thể:

- Khổ bao gồm Hoại khổ, Khổ khổ, Hành khổ phát sinh trên lộ trình tâm Bát Tà
Đạo của Phàm phu
- Nguyên nhân Khổ là Tham Sân Si phát sinh trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo của
Phàm phu.

- Sự chấm dứt Khổ là sự chấm dứt Tham Sân Si trên lộ trình tâm Bát Chánh
Đạo của bậc Thánh.

- Con đường chấm dứt Khổ là Bát Chánh Đạo, nghĩa là thay đổi lộ trình tâm từ
Bát Tà Đạo sang Bát Chánh Đạo.

Khổ Tập Diệt Đạo thuộc phàm trù Tâm chứ không phải thuộc về Cảnh nên
muốn chấm dứt Khổ phải thay đổi Tâm để chấm dứt Tham Sân Si chứ không
phải thay đổi Cảnh. Chính vì vậy mà mọi sự thực hành theo lời Phật dạy cho dù
là Giới, là Định hay là Tuệ đều nhằm đoạn tận Tham Sân Si. Vì vậy mục đích
thực hành Không sát sinh theo chủ trương của Đức Phật là để đoạn tận Tham
Sân Si, để thanh lọc tâm, chứ không phải là để có phước báu, không phải để có
hoàn cảnh tốt đẹp trong tương lai.

Kẻ Phàm phu sát sinh là do Tham, do Sân, do Si. Do tham ái tiền bạc, do tìm
cầu tiền bạc mà làm nghề giết mổ... đó là sát sinh do Tham. Tức tối giận dữ khi
bị muỗi cắn, khi bị chuột phá hoại mùa màng mà giết hại... đó là sát sinh do
Sân. Ngày chủ nhật nghỉ không đi làm thì tổ chức nhau đi câu cá, bắn chim...
đó là đi tìm niềm vui trong sự giết hại, là sát sinh do Si. Người Phật tử thực
hành Không sát sinh là để đoạn trừ các Tham Sân Si đó. Trong Tăng Chi Bộ
Kinh, chương ba, phẩm ba pháp có nói: Thánh đệ tử suy tư đối với giới Không
sát sinh như sau: Noi gương các bậc A La Hán, con từ bỏ sát sinh, bỏ trượng,
bỏ kiếm, có tàm quý (xấu hổ, sợ hãi) đối với sát sinh... Các bậc A La Hán đã
đoạn tận Tham Sân Si, các Ngài là tấm gương về đoạn tận Tham Sân Si, về Giải
Thoát, các Ngài không còn Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái, các Ngài sống trong
hiện tại với tâm vắng lặng không còn truy tìm quá khứ, không còn ước vọng
tương lai. Noi gương các vị A La Hán, thực hành giới Không sát sinh để đoạn
tận Tham Sân Si, để sống bình an trong hiện tại, để chấm dứt tìm cầu Hạnh
phúc trong những hoàn cảnh tốt đẹp ở tương lai. Đối với các bậc giác ngộ, Hữu
ái, tham ái sự sống, tham sống sợ chết, là Nguyên nhân của Khổ, nguyên nhân
của luân hồi tái sinh đưa đến đời sau, đưa đến khổ của Sinh Già Bệnh Chết
trong tương lai, là điều đáng sợ hãi. Vì vậy những ai đã giác ngộ thì đều không
còn xem sự sống là linh thiêng, là quý báu, là mầu nhiệm mà ai cũng biết chắc
chắn rằng: còn hiện hữu, còn sống là còn khổ, cho dù khổ còn dư sót (Niết bàn
hữu dư) đối với vị A La Hán so với khổ đã đoạn diệt giống như đất trên móng
tay so với đất trên quả đất. Đối với vị A La Hán khi vị đó cảm nhận một cảm
giác hơi thở tận cùng, cảm nhận một cảm giác sinh mạng (sự sống) cuối cùng
thì tất cả mới đều trở thành thanh lương. Chính vì các bậc giác ngộ không còn
tham ái, không còn ràng buộc vào sự sống của mình, nên các Ngài cũng không
tôn sùng, ca ngợi, bảo vệ sự sống, không có chủ trương thực hành giới Không
sát sinh để bảo vệ sự sống. Trong kinh điển không có một chỗ nào Đức Phật chủ
trương phóng sanh để bảo vệ sự sống. Đức Phật giảng dạy có kiếp sau, có con
đường đi đến kiếp sau. Đó là thực tại Thế gian, là lộ trình tâm Bát Tà Đạo của
Phàm phu trong đó Vô Minh và Hữu ái là cha mẹ sinh ra chúng sinh, là tác giả
của kiếp sau. Đa phần người học không tiếp thu một cách đầy đủ, họ chỉ đi sâu
vào có kiếp sau, vì điều này phù hợp với nhận thức Vô minh, sống bởi tương
lai, nên họ tu hành để cho kiếp sau có được những hoàn cảnh tốt đẹp, đầy đủ
phước báu, không bị đoạ vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Đức Phật không có
khuyến khích, không có cỗ vũ cho kiếp sau và con đường đi đến kiếp sau như
các tôn giáo chủ trương để rồi tạo dựng, tích luỹ phước báu cho kiếp sau, mà
Ngài cảnh báo đó là con đường đi đến sợ hãi và khổ đau. Cái quan trọng mà
Ngài giảng dạy và khuyến khích đệ tử thực hành là gì? Đó là thực tại không có
kiếp sau và con đường đi đến thực tại không có kiếp sau. Đó chính là lộ trình
tâm Bát Chánh Đạo, nơi vắng mặt Tham Sân Si, vắng mặt Vô Minh và Hữu ái,
vắng mặt tác giả kiếp sau, vắng mặt kiếp sau.

Trong ba tham ái, bao gồm Dục ái, Hữu ái, Phi hữu ái là Nguyên nhân Khổ, thì
Dục ái là cấp độ thấp nhất, Hữu ái mãnh liệt hơn rất nhiều, chính nó đưa đến
luân hồi sinh tử, đưa đến khổ của Sinh Già Bệnh Chết, nhưng lại vi tế khó thấy,
khó biết hơn rất nhiều so với Dục ái. Bởi do Hữu ái chi phối mà đa phần cho
rằng: Phật giáo tôn sùng sự sống, yêu thích sự sống, ca ngợi sự sống, bảo vệ sự
sống. Các bậc giác ngộ không có quan điểm như vậy. Nếu đọc kỹ Tạng Luật sẽ
thấy, nếu một vị Tỷ kheo phạm tội giết người thì tội đó là một trong bốn trọng
tội, phải bị trục xuất ra khỏi Tăng đoàn, là cấp độ thứ nhất của tội. Cấp độ thứ
hai là các tội Tăng tàn gồm mười ba tội, trong đó thí dụ như tội "khởi dục rồi
xúc chạm vào người nữ". Những tội này nghiêm trọng nên phải có hội đồng hai
mươi mốt vị Tăng nghị tội, phán xử và sau khi vị đó thực hiện hình phạt xong
thì hội đồng hai mươi mốt vị Tăng đó mới phục vị lại cho Tỷ kheo đó. Cấp độ
thứ ba là Ưng xả đối trị, ví như tội tàng trữ y quá số lượng quy định, thì vị Tỷ
kheo đó phải xả bỏ số y thừa rồi tìm một vị Tăng sám hối tội đã phạm. Cấp độ
thứ tư là Ưng đối trị, nghĩa là những tội này chỉ cần tìm một vị Tăng sám hối
tội đã phạm để ngăn ngừa trong tương lai. Trong những tội thuộc về Ưng đối
trị có tội sát sinh các con vật không kể lớn bé. Bốn cấp độ tội như vậy nói lên
trong giới luật của Tỷ kheo không đề cao bảo vệ sự sống. Kể cả tự sát, tự mình
huỷ diệt sự sống, không phải bao giờ Đức Phật cũng phê phán, cũng cho là có
tội, mà tuỳ theo từng trường hợp cụ thể, có những trường hợp là có tội, có
trường hợp Ngài nói không có tội. Trong Kinh Giáo Giới Channa, kinh số144
thuộc Trung Bộ Kinh có đề cập tới một vị Tỷ kheo Channa bệnh nặng được
Ngài Xá Lợi Phất và Ngài Maha Cunda thăm hỏi. Qua câu chuyện đối đáp giữa
vị Tỷ kheo đó với Ngài Xá Lợi Phất và Maha Cunda, có thể biết được vị Tỷ
kheo đã chứng đạo và vị đó bày tỏ ý định tự sát (đem lại con dao) vì không cần
phải chịu đựng những cơn đau khốc liệt nữa. Tỷ kheo Channa đã tuyên bố: "Tỷ
kheo Channa đem lại con dao không có phạm tội. Thưa Hiền giả Sariputta, hãy
thọ trì như vậy". Mặc cho sự can ngăn của hai Ngài, sau khi hai Ngài ra đi, vị
Tỷ kheo Channa đã mang lại con dao. Ngài Xá Lợi Phất đã thưa hỏi Đức Phật
và Đức Phật đã trả lời: Trước mặt hai người,Tỷ kheo đó đã khẳng định, vị đó
đem lại con dao mà không phạm tội. Ngài còn khẳng định: "Này Sariputta, ai
từ bỏ thân này và chấp thủ một thân khác, Ta nói rằng người đó có phạm tội.
Tỷ kheo Channa không có chấp thủ như vậy. Tỷ kheo Channa đem lại con dao
(cho mình) không có phạm tội".

Có một vấn đề liên quan là, tại sao Đức Phật KHÔNG CHỦ TRƯƠNG ĂN
CHAY HAY ĂN MẶN? Bởi cốt lõi của giáo lý Tứ Thánh Đế mà Đức Phật đã
chứng tri và tuyên thuyết là Khổ phát sinh nơi nội tâm, Nguyên nhân Khổ là
Tham Sân Si thuộc nội tâm chứ không ở ngoại cảnh nên sự chấm dứt khổ là
chấm dứt Tham Sân Si ở nội tâm chứ không phải thay đổi ngoại cảnh. Vì vậy
mặn hay chay là ngoại cảnh, không thể có giải thoát nơi thức ăn mặn hay chay.
Giải thoát không phụ thuộc vào ĂN GÌ mà giải thoát hay ràng buộc là do ĂN
NHƯ THẾ NÀO. Nếu ăn với Tà Niệm, với lộ trình tâm Bát Tà Đạo thì sẽ thích
thú vị ngon, sẽ chán ghét vị dở, sẽ ràng buộc vào ngon dở, sẽ ràng buộc với thức
ăn. Nếu ăn với Chánh Niệm, ăn với lộ trình tâm Bát Chánh Đạo thì sẽ không
thích thú, không chán ghét với các cảm giác vị, không ràng buộc với cảm giác
vị, không ràng buộc với bất kỳ một loại thức ăn nào, cho dù chay hay mặn. Nếu
ăn được như vậy thì cao lương mỹ vị hay cơm không có muối, chay hay mặn, vị
ấy vẫn thích nghi, vẫn ăn với tâm bình thản, không thích, không ghét (không
tham, không sân) và đó là giải thoát, không ràng buộc với thức ăn. Một người
khi chưa tu, thích thức ăn mặn, ghét thức ăn chay nhưng khi họ tu thì chuyển
sang thích thức ăn chay, ghét thức ăn mặn. Đối với người đó, chỉ là thay đổi
ngoại cảnh, thay đổi thức ăn từ mặn sang chay, còn tâm yêu ghét, tâm tham sân
vẫn cứ y nguyên và vẫn ràng buộc với thức ăn, vẫn khổ trong ăn uống.
Có một vấn đề cần nhận thức thấu đáo để không đồng nhất ăn mặn với sát sinh.
Khi một thức ăn dù là thịt cá hay rau củ đã được nấu chín thì trong nó không có
sự sống, không phải là một sinh mạng, không phải là một hữu tình. Xét về sự
sống, sinh mạng thì các thức ăn đã nấu chín như vậy cũng tương tự như các
chất vô cơ, cũng giống như đường hay muối, không có sự sống, không có sinh
mạng và ăn nó không phải là ăn "mạng" chúng sanh. Đang ăn thức ăn đã nấu
chín như vậy mà nghĩ là đang ăn sinh mạng chúng sinh thì đó là Vọng Tưởng
điên đảo, là suy diễn tưởng tượng ra cái không có thực, rồi bị nó ám ảnh. Đó
cũng là một loại "hoang tưởng". Nghe sự thật như vậy, nhiều người ấm ức thừa
nhận, nhưng vì Kiến thủ, vì chấp thủ vào hiểu biết của mình họ đã quyết liệt
đưa ra phản bác: "Tuy ăn mặn không trực tiếp sát sinh nhưng đang gián tiếp sát
sinh". Khi tuyệt đối hoá như vậy, họ đã không nhìn vào sự thật: như vậy những
người ăn chay cũng đang gián tiếp sát sinh. Lúa gạo, rau củ có được đều là sản
phẩm liên quan đến sát sinh sâu bọ, côn trùng... Một người cho dù không ăn bất
kỳ một loại thức ăn nào, dù chay hay mặn thì cũng chưa phải là không trực tiếp
và không gián tiếp sát sinh, là vì khi người đó uống nước, vì trong nước có vi
trùng, có sinh mạng, nên nếu uống nước lã, hay đun sôi lên để uống thì họ đang
trực tiếp sát sinh. Phản bác như vậy là đang tự mâu thuẫn với chính mình và
như Kinh đã nói: họ đang tự chẻ đôi cái đầu mình ra, mà họ lại không biết. Một
số người lại phản bác ăn chay mới phát sinh từ bi còn ăn mặn không thể có từ
bi. Từ bi của các bậc giác ngộ không phải do thức ăn mà có, mà nó phát sinh do
Trí Tuệ, do Minh, do thấu triệt Tứ Thánh Đế. Từ bi là sự thương cảm của các
bậc giác ngộ đối với tất cả chúng sanh không kể hoàn cảnh nào, giàu hay nghèo,
ngu hay trí, đạo Phật hay không phải đạo Phật... vì rằng khi đã thấu triệt về Khổ
và Nguyên nhân Khổ, thì thấy tất cả mọi hoàn cảnh, giàu hay nghèo, ngu hay
trí, sang hay hèn đều đang khổ, và khổ đó là vì Vô minh và Tham ái trong nội
tâm của mọi chúng sanh, chứ không phải vì hoàn cảnh. Từ bi là thương cảm
cho con người bị Vô minh và Tham ái chi phối nên phải đắm chìm trong khổ,
chứ không phải thương cảm hoàn cảnh khó khăn. Đa phần con người hiểu Từ bi
là thương cảm cho những hoàn cảnh cơ nhỡ, khó khăn, không nơi nương tựa,
tàn tật, nghèo đói... những hoàn cảnh không được may mắn như mình. Thương
cảm đó không phải là xấu, nó đưa đến sự giúp đỡ người khác, nó có tính chất
nhân văn, nhưng nó phát sinh trên hiểu biết Khổ và Nguyên nhân Khổ là hoàn
cảnh khó khăn, tồi tệ, trên hiểu biết có "Ta hơn, Ta kém, Ta bằng". Chỉ khi nào
thấy họ kém hơn Ta, họ khổ hơn Ta mới thương cảm, còn họ sướng hơn ta,
hoàn cảnh tốt hơn Ta thì không thương cảm mà ghen tỵ. Đó chính là hiểu biết
nhị nguyên Tâm Cảnh, là Vô minh. Thương cảm theo hiểu biết như vậy cũng
đưa đến sự giúp đỡ cho những hoàn cảnh khó khăn, nhưng về bản chất, nó chỉ
thay cái khổ này bằng một khổ khác mà không đoạn tận được khổ, giống như
trong một vở bi kịch cổ điển đã nói: Trên những vết thương không thể nào chữa
khỏi, tôi đã trải một lớp hương làm dịu nỗi đau. Thương cảm như vậy không
phải là Từ Bi của bậc giác ngộ, Thương cảm của bậc giác ngộ đưa đến giúp đỡ
để đoạn tận Vô minh và Tham ái, đoạn tận Khổ. Kể cả cái thương cảm do vô
minh về Khổ Tập Diệt đạo như vậy, thương cảm những hoàn cảnh khó khăn
như vậy cũng không phải do ăn chay mà có, ăn mặn không có. Có những người
không ăn chay, không thuộc tôn giáo nào, họ vẫn hết lòng, hết sức thương cảm
và giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn. Có nhiều người ăn chay trường trong
đạo Phật cũng như các tôn giáo khác mà đâu có được thương cảm đó, điển hình
như trùm phát xít Hitle, suốt đời ăn chay mà đâu có được thương cảm đó.

Về mục lục

Bài 122: NGOẠI KHÔNG VÀ NỘI KHÔNG

Trong kinh Đại Không thuộc Trung Bộ Kinh có đề cập tới: tác ý nội không, tác
ý ngoại không, tác ý nội ngoại không. Vậy nội không là cái gì, ngoại không là
cái gì và như thế nào là tác ý nội không, như thế nào là tác ý ngoại không, như
thế nào là tác ý nội ngoại không? Đây là lĩnh vực rất tế nhị, khó thấy, khó biết,
khó chứng, bởi vì nó thuộc về lộ trình tâm Bát Chánh Đạo, lộ trình tâm bậc
Thánh. Những ai chưa có Pháp học đầy đủ và chính xác về Duyên Khởi lộ trình
tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu, Duyên Khởi lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của
bậc Thánh, chưa biết rõ về Tứ Thánh Đế thì cho dù có giảng nói thế nào, họ
cũng không có thể biết được nội không là cái gì, ngoại không là cái gì. Một
người có Pháp học đầy đủ và chính xác nhưng chưa có tu tập Bát Chánh Đạo
siêu thế, có thể lĩnh hội được phần nào, chỉ có người có Pháp học đầy đủ, chính
xác và có tu tập Bát Chánh Đạo siêu thế, sẽ hiểu rõ và kinh nghiệm được ngoại
không và nội không.

Để có thể hiểu được khái niệm ngoại không và nội không thì phải hiểu rõ tâm là
một phạm trù bao gồm rất nhiều Danh pháp, trong đó có Cái Biết. Cái Biết trong
thuật ngữ Phật học gọi là thức bao gồm: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt
thức, Thân thức, Tưởng thức và Ý thức. Cái Biết được phân chia thành hai cấp
độ: Cái Biết trực tiếp giác quan và Cái Biết Ý thức. Cái Biết trực tiếp giác quan
(trong các kinh A Hàm thuộc Hán Tạng dịch là Trực giác), khoa Tâm Lý học gọi
là Nhận thức cảm tính bao gồm: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân
thức, Tưởng thức do Căn Trần tiếp xúc (hay tương tác) phát sinh ra. Cái Biết Ý
thức do Niệm và Tư Duy mà phát sinh, Tâm Lý học gọi là Nhận thức lý tính.

- Cái Biết trực tiếp giác quan trong thuật ngữ Phật học còn được gọi là Tưởng,
phát sinh khi Sáu Căn tương tác (Xúc) với Sáu Trần có phận sự nhận biết đối
tượng. Đây là Cái Biết không do học hỏi mà có, nên nó không có tri thức, khái
niệm, ngôn từ, phân biệt (Vô ngôn, Vô niệm, Vô phân biệt) mà già trẻ, gái trai,
ngu trí, loài người hay các loài động vật, thậm chí các loài thực vật cũng có. Cái
Biết trực tiếp giác quan là Vô ngôn, Vô niệm, Vô phân biệt nên không có Vô
Minh cũng không có Minh. Hãy hình dung ra Cái Biết trực tiếp giác quan của
loài người cũng tương tự cái biết của một đứa trẻ vừa đẻ ra, khi sáu Căn của nó
tiếp xúc sáu Trần, nó vẫn thấy, nghe, cảm nhận các đối tượng nhưng vì Ý thức
của nó hầu như chưa khởi lên, nên không biết đối tượng đó là cái gì, dễ chịu, khó
chịu hay trung tính. Ví như đưa một bông hoa lên trước mắt đứa bé thì nó vẫn
thấy (hình ảnh đó) nhưng nó không biết đó là bông hoa, không biết nó đẹp hay
xấu, đỏ hay vàng, vuông hay tròn, nhơ hay sạch, đắt hay rẻ... Cái thấy này là cái
thấy thuần tuý nhãn thức, Vô ngôn, Vô niệm, Vô phân biệt. Nếu chỉ có Cái Biết
trực tiếp giác quan này thì sẽ không phát sinh thái độ thích hay ghét (tham hay
sân), không phát sinh lời nới hay hành động để thể hiện thái độ đối với đối
tượng. Cái biết trực tiếp giác quan này Thánh hay Phàm đều như nhau, ở Thánh
thì gọi là Tỉnh Giác hay Thắng tri, ở Phàm thì gọi là Tưởng tri.

- Cái Biết Ý thức phải do học hỏi, tích luỹ kinh nghiệm mà có, nên mỗi mỗi
người đều khác nhau. Khi mới đẻ ra đứa trẻ thấy, nghe, cảm nhận đối tượng phần
lớn với Cái biết trực tiếp giác quan, nó chưa biết các khái niệm to nhỏ, vuông
tròn, dài ngắn, mặn ngọt, nhơ sạch, tăng giảm... Các tri thức, hiểu biết, kinh
nghiệm được học hỏi, được tích luỹ sau này và được lưu vào một "bộ nhớ" hay
một "kho chứa". Cái Biết Ý thức do Niệm và Tư Duy mà phát sinh, nghĩa là
Niệm kích hoạt (hay dò tìm) các thông tin trong kho chứa và Tư Duy sẽ phân
tích, so sánh, đối chiếu, phán đoán thông tin về đối tượng vừa được nhận biết (do
cái biết trực tiếp nhận biết) và thông tin trong kho chứa được Niệm dò tìm. Hành
vi tư duy đó sẽ phát sinh kết luận. Chính kết luận này là Ý thức hiểu biết về đối
tượng vừa được nhận biết. Ý thức là hiểu biết đối tượng, nội dung của nó tuỳ
thuộc vào các thông tin trong kho chứa, tuỳ thuộc vào những tri thức, hiểu biết,
kinh nghiệm đã tích luỹ trong quá khứ và tuỳ thuộc vào Niệm kích hoạt hay dò
tìm được thông tin nào. Trong thuật ngữ Phật học cái biết Ý thức còn được gọi là
Thức tri, là cái biết có Ngôn từ, có Khái niệm, có Phân biệt. Cái Biết Ý thức của
con người mỗi mỗi khác nhau nhưng có thể phân biệt thành hai loại: Tà Tri Kiến
của Phàm phu có nội dung Vô Minh và Chánh Tri Kiến của bậc Thánh có nội
dung Minh.

+ Cái Biết Ý thức Tà Tri Kiến của Phàm phu khởi lên theo lộ trình: Xúc (Căn
Trần) - Thọ - Tưởng - Tà Niệm - Tà Tư Duy - Tà Tri Kiến. Tà Niệm sẽ kích hoạt
thông tin Vô Minh, Ta, của Ta trong kho chứa thông tin nên Ý thức Tà Tri Kiến
sẽ mang nội dung Vô Minh, nghĩa là có một cái Ta là chủ nhân, chủ sở hữu của
cái biết (Bản ngã) và đối tượng được biết là Thế giới (Sắc Thanh Hương Vị Xúc
Pháp). Đây là Ý thức nhị nguyên Tâm Vật hay Tâm Cảnh mang nội dung
Thường Kiến và Ngã Kiến. Với hiểu biết này thì Khổ, Nguyên nhân Khổ, Sự
chấm dứt Khổ đều ở nơi Ngoại cảnh (Thế giới) và Con đường chấm dứt Khổ là
thay đổi ngoại cảnh.

+ Cái Biết Ý thức Chánh Tri Kiến của bậc Thánh khởi lên theo lộ trình: Xúc
(Căn Trần) - Thọ - Tưởng - Chánh Niệm - ... - Chánh Tư Duy - Chánh Tri Kiến.
Chánh Niệm sẽ không kích hoạt Vô Minh, Ta, của Ta trong kho chứa thông tin
mà kích hoạt Minh, những thông tin do học về Duyên Khởi, về Tứ Thánh Đế, đã
được lưu vào kho chứa. Vì vậy Ý thức Chánh Tri Kiến mang nội dung Minh là
hiểu biết đúng sự thật các pháp, đúng sự thật về Khổ Tập Diệt Đạo không còn
Thường Kiến, Ngã Kiến. Nghĩa là Khổ Tập Diệt Đạo thuộc về Nội Tâm chứ
không phải nơi Ngoại Cảnh.

1 - Thế nào là Ngoại Không?

Trước tiên phải hiểu về chữ Không. Ngôn ngữ là phương tiện truyền thông, là
pháp chế định, là quy ước với nhau về ngôn từ đó ám chỉ hay chỉ bày một sự vật,
một hiện tượng nào. Tất cả các loại ngôn ngữ của loài người đều quy ước: Có là
có một pháp nào đó và Không là không có một pháp nào đó. Có cũng có nghĩa là
sự hiện hữu, là sự có mặt của một pháp hữu vi (pháp vận hành theo nhân quả),
Không là sự phủ định, là sự không có mặt, sự vắng mặt, không có pháp hữu vi đó
nên không cũng ám chỉ pháp vô vi. Các trường phái có đặt ra một nghĩa Không bí
mật nào đó thì cũng xuất phát từ sự tư duy trên nghĩa Có Không thông thường này
và như vậy cũng không thể vượt qua nghĩa Có Không này. Trong các bộ kinh
Nikaya chỉ dùng Có Không theo nghĩa có không thông thường này chứ không có
nghĩa Không bí mật nào khác. Trong kinh Tiểu Không có nói: "Và những gì
không có mặt ở đây vị ấy xem là không có. Nhưng đối với cái còn lại, ở đây, vị ấy
tuệ tri: "cái này có, cái kia có". Như vậy, này Anan cái này đối với vị ấy là như
vậy, thật có, không điên đảo, sự thực hiện hoàn toàn thanh tịnh, không tánh". Khi
thực hành Tứ Niệm Xứ vị ấy tác ý tới Niệm Thân (hoặc Niệm Thọ) tức nhớ đến
chú tâm quán sát các cảm giác nơi thân với nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, thì
khi có một cảm giác khởi lên theo lộ trình: Xúc - Thọ - Tưởng, tiếp đến Chánh
Niệm (nhớ đến chú tâm quán sát cảm giác với nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm)
khởi lên. Do Chánh Niệm như vậy mà Chánh Tinh Tấn (nhiệt tâm) khởi lên và
làm phát sinh sự chú tâm vào cảm giác. Sự chú tâm này gọi là Chánh Định. Do có
sự chú tâm vào cảm giác mà lộ trình tâm dừng lại đây và lộ trình như vậy sẽ lặp
lại trên đối tượng nhiều lần bởi mỗi một lộ trình như vậy chỉ nháy lên và tồn tại
chỉ khoảng phần trăm hay phần nghìn của giây mà thôi. Lộ trình đó xảy ra như
sau: Xúc - Thọ - Tưởng - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - (Tỉnh
Giác). Do lộ trình được lặp đi, lặp lại nhiều lần như vậy nên cái biết trực tiếp
Tưởng được kéo dài ra và sẽ biết Cảm giác (Thọ) một cách rõ ràng, minh bạch. Lộ
trình tâm này nhờ Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định nên chỉ có Cái
Biết trực tiếp giác quan (Tưởng) mà không có Ý thức khởi lên, nên giờ đây không
gọi là Tưởng tri mà gọi là Tỉnh Giác. Nếu Chánh Niệm liên tục khởi lên trong 10
phút, 30 phút, 60 phút... thì trong khoảng thời gian ấy, các cảm giác trên thân khởi
lên đều được chú tâm và đều biết các cảm giác đó với cái biết trực tiếp giác quan
cụ thể là Thân thức, bây giờ gọi là Tỉnh Giác. Khi toạ thiền Hành giả sẽ có lộ trình
tâm này chiếm khoảng 90% các lộ trình tâm, sẽ kinh nghiệm và an trú cái biết
Tỉnh giác. Nhờ kinh nghiệm và an trú cái biết Tỉnh Giác, vị ấy tuệ tri được cái
biết này KHÔNG CÓ các tri thức khái niệm, không có ngôn từ, không có phân
biệt, không có khái niệm to nhỏ, vuông tròn, dài ngắn, trước sau, không có khái
niệm mặn ngọt chua cay, xanh vàng đỏ trắng, không có sinh diệt, nhơ sạch, tăng
giảm, không có khái niệm mắt tai mũi lưỡi thân ý, sắc thanh hương vị xúc pháp,
không có khái niệm sắc thọ tưởng hành thức, không có khái niệm nhãn giới cho
đến ý thức giới, không có Minh cũng như Vô Minh... Đây là cái biết Tỉnh Giác
Vô niệm, Vô ngôn, Vô phân biệt còn được gọi là Không Tánh. Trong cái biết
Tỉnh Giác này CÓ các cảm giác, là thực có, không điên đảo nhưng cái KHÔNG ở
đây là không có tri thức khái niệm, ngôn từ, phân biệt. Cái KHÔNG này được gọi
là Không Tánh, còn được gọi là NGOẠI KHÔNG bởi đây là tánh chất của cái biết
trực tiếp xảy ra nơi các giác quan còn Nội Không là cái KHÔNG ở nội tâm khi Ý
tiếp xúc với Pháp trần.
Khi an trú cái biết Tỉnh Giác hay Không Tánh này, Hành Giả cũng tuệ tri được:
thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, cảm nhận chỉ là cảm nhận không có gì thêm
vào nữa, không có suy nghĩ, không có thái độ thích hay ghét, không có lời nói hay
hành động đối với đối tượng đó. Hành Giả cũng tuệ tri được giải thoát do an trú
Tỉnh Giác hay Không Tánh này, là do có Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh
Định nên giải thoát này gọi là Tâm Giải Thoát hay Không Giải Thoát, nghĩa là
giải thoát do Định, chứ không phải giải thoát do Minh, do Trí Tuệ. Tuy Không
Giải Thoát không đưa đến và không phải là giải thoát tối hậu, chỉ có Tuệ Giải
Thoát do Minh, do Trí Tuệ mới đưa đến giải thoát tối hậu, mới đưa đến Chánh Trí
nhưng các bậc đã Giác Ngộ xong như Phật và các vị A La Hán chủ yếu an trú vào
Không Giải Thoát này, trừ những khi phải giảng dạy, hướng dẫn người khác. Bản
kinh Tiểu Không trong Kinh Trung Bộ tuy trình bày với cách thức thời xưa và vì
là phiên dịch nên có vẻ rất khó hiểu nhưng thực chất là nói về cái Không này, tức
Không Tánh hay Ngoại Không.
Một số trường phái khi thực hành thiền định họ cũng cảm nhận một phần Cái biết
Không tánh hay Ngoại Không này nhưng vì không tuệ tri Không Tánh, họ đã có
những chủ trương sai lạc về Không Tánh. Họ cho rằng đây chính là Tánh Thấy,
Tánh Nghe hay là Tánh Biết không sinh không diệt sẵn có nơi mỗi chúng sinh, là
Trí Tuệ Bát Nhã, là Vô Sư Trí. Trở về với Tánh Thấy, Tánh Nghe, Tánh Biết sẵn
có nơi mỗi chúng sanh (đẻ ra là đã sẵn có, không cần học hỏi nên thấy, nghe, cảm
nhận đối tượng liền) gọi là Trí Tuệ Bát Nhã hay Vô Sư Trí đó, là thấy các pháp
như chúng đang là, là giải thoát tối hậu rồi. Cái Biết này không liên quan tới Tứ
Thánh Đế, Bát Chánh Đạo, đâu cần phải học hỏi Tứ Thánh Đế, phải tu Bát Chánh
Đạo. Thực chất cái biết Không Tánh này mà nhiều trường phái chủ trương là
Tánh Thấy, Tánh Nghe, Tánh Biết, là Trí Tuệ Bát Nhã hay Vô Sư Trí chính là cái
biết trực tiếp giác quan mà cụ thể là: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức,
Thân thức, Tưởng thức do sáu Căn tiếp xúc sáu Trần phát sinh ra, nó Vô Thường,
Vô Chủ (hay Vô Ngã). Cái biết trực tiếp giác quan này Thánh hay Phàm đều
giống nhau, trong nó không có Vô Minh nhưng cũng không có Minh, không làm
nên sự khác biệt giữa Thánh và Phàm, mà sự khác biêt giữa Thánh và Phàm là ở
cái biết Ý thức, có Minh và Vô Minh. Cái được quan niệm là Tánh Thấy chính là
Nhãn thức, Tánh Nghe chính là Nhĩ thức hay Tánh Biết chính là sáu thức, đều là
pháp Duyên khởi nên nó sinh diệt, vô thường chứ không phải là thường hằng,
không sinh không diệt như một số trường phái chủ trương. Thời Phật còn tại thế
cũng đã tồn tại những chủ trương này thể hiện trong bản kinh Đại Kinh Đoạn Tận
Ái thuộc Trung Bộ Kinh. Trong bản kinh này Tỷ kheo Sati đã công khai tà kiến:
Thức này rong ruổi, luân chuyển chỗ này chỗ kia nhưng không đổi khác. Nghĩa là
các thức không sinh không diệt, nó chỉ di chuyển từ thân xác này qua thân xác
khác mà thôi. Đức Phật đã quở trách vị Tỷ kheo đó: Này kẻ mê mờ kia, vì ai mà
ông lại hiểu pháp Ta thuyết giảng như vậy. Này kẻ mê mờ kia, có phải chăng, Ta
đã dùng nhiều phương tiện nói thức do duyên khởi, không có duyên thì thức
không hiện khởi? Và này kẻ mê mờ kia, không những Ông đã xuyên tạc Ta, vì
Ông đã tự chấp thủ sai lạc, Ông còn phá hoại Ông và tạo nên nhiều tổn đức. Này
kẻ mê mờ kia, và như vậy sẽ đưa đến bất hạnh và đau khổ lâu dài cho Ông. Và
Đức Phật giảng tiếp: Này các Tỷ kheo, do duyên mà thức sanh, và thức ấy có tên
tuỳ theo duyên ấy. Do duyên mắt và các sắc, thức sanh, thức ấy có tên là nhãn
thức. Do duyên tai và tiếng, thức sanh, thức ấy có tên là nhĩ thức... Lời giảng này
phải được hiểu là: mắt là một yếu tố, là một nhân, sắc là một yếu tố, là nhân thứ
hai. Có hai nhân này mà không có tiếp xúc với nhau, chưa duyên nhau thì lúc đó
không có nhãn thức, hay nhãn thức không sanh khởi. Duyên mắt và sắc, tức mắt
tiếp xúc với sắc thì lúc đó nhãn thức mới sanh khởi. Chữ duyên phải được hiểu là
hai nhân tiếp xúc nhau, hai nhân duyên nhau. Xúc sanh nhãn thức sanh, Xúc diệt
nhãn thức diệt, nên nhãn thức sinh lên rồi diệt đi, nó không thường hằng, không
thường trú ở đâu cả. Nhãn thức không phải là không sinh không diệt vì nếu nó
không sinh không diệt thì không cần đến duyên (Xúc), vì nó đã thường xuyên có,
không cần nhân duyên gì sinh ra nó cả.
Thời Phật còn tại thế, trong đệ tử đã tồn tại những quan điểm về các thức không
sanh không diệt như vậy, bởi họ không thấu đạt, không tuệ tri Lý Duyên Khởi,
không từ bỏ được Vô minh Thường kiến nên đã xuyên tạc lời dạy của Phật, nhưng
ít có người công khai quan điểm của mình như Sati. Khi Phật diệt độ khoảng 100
năm thì các bộ phái mới bắt đầu tranh cãi và nhiều bộ phái trương cờ Thường
Kiến, Ngã Kiến của mình lên với những ngôn từ hoa mỹ, hấp dẫn và nhiều bộ
kinh Tà Kiến kiểu đó đã ra đời nhưng lại gắn cho Phật nói. Họ đã xiển dương cho
Tánh Thấy, Tánh Nghe, Bổn Tâm, Bổn Tánh không sanh không diệt nhưng đó là
tư duy suy diễn, là lý luận suông, không đối chiếu với sự thật đang xảy ra hàng
ngày, xảy ra nơi sáu Căn duyên với sáu Trần, nơi Thực Tại đang sanh đang diệt
này. Ví như khi kẻ Phàm phu nhìn quả quýt chín vàng liền khởi lên hiểu biết: quả
quýt này ngọt, nghĩa là vị ngọt có nơi quả quýt, luôn luôn có, thường xuyên có,
thường hằng, thường trú nơi quả quýt, vị ngọt đó không có nhân duyên nào được
sinh ra. Đây là Vô minh Thường kiến và chính cái hiểu biết Thường kiến này đã
ngăn che, không cho quán sát sự thật Duyên khởi lên vị ngọt. Nếu đặt Thường
kiến xuống và quan sát sự thật thì thấy ngay rằng: lưỡi là một nhân, quýt là nhân
thứ hai, nếu hai nhân đó chưa tiếp xúc thì chưa có vị ngọt ở đâu cả, chưa cảm
nhận được vị ngọt ở đâu cả. Khi lưỡi (của một người đang khoẻ mạnh) tiếp xúc
với quýt thì lập tức phát sinh Cảm giác vị ngọt. Đây mới là vị ngọt thật mà Thánh
hay Phàm đều cảm nhận được. Xúc sinh Cảm giác vị ngọt sinh, Xúc diệt Cảm
giác vị ngọt diệt vì vậy Cảm giác vị ngọt sinh lên rồi diệt đi nên nó Vô thường,
không thường hằng, không thường trú nơi quýt. Nghe đến đây một số người lập
tức phản bác: vị ngọt là của quả quýt, nó thường trú trong quả quýt vì rằng cái biết
Thiệt thức là của lưỡi, thường trú nơi lưỡi nên khi lưỡi chưa tiếp xúc với quýt thì
cái biết của lưỡi là Thiệt thức chưa biết vị ngọt của quýt nên chưa có vị ngọt, chỉ
khi tiếp xúc, lưỡi mới biết vị ngọt của quả quýt. Phản bác này xuất phát từ
Thường Kiến sâu dày nơi hiểu biết của nhân loại: thiệt thức thường trú nơi lưỡi, vị
ngọt thường trú nơi quả quýt. Thường Kiến này ngăn che không cho nhân loại
quán sát sự thật để thấy vị ngọt không có, không thường hằng, không thường trú
nơi quả quýt. Nếu sự thật vị ngọt có trong quả quýt, thường hằng, thường trú
trong quả quýt thì cũng chính người đó khi đã bệnh nặng bảy tám ngày, không ăn
không uống được, lúc đó lưỡi tiếp xúc quýt thì cái biết Thiệt thức của lưỡi cũng
vẫn phải cảm nhận được vị ngọt của quýt vì vị ngọt nằm trong quả quýt. Nhưng
sự thật thì chỉ cảm nhận Cảm giác đắng, và nếu vậy thì trong quả quýt có cả vị
ngọt và vị đắng chăng? Tương tự như vậy vì không thấy biết như thật, không liễu
tri các thức do duyên khởi, không liễu tri các thức (tâm biết) vô thường, vô ngã
nên họ chủ trương Tánh Thấy, Tánh Nghe, Tánh Biết là Bổn Tâm, Bổn Tánh
không sinh không diệt nơi mỗi người, họ không đối chiếu với sự thật để kiểm tra
chủ trương đó có phù hợp với sự thật không. Nếu Tánh Nghe là Nhĩ thức không
sinh không diệt thì nhân loại sẽ nghe được mọi âm thanh khi thức cũng như khi
ngủ, không bỏ sót một âm thanh nào. Nhưng sự thực thì người không ngủ vẫn
nghe được âm thanh đang xảy ra còn người ngủ say bên cạnh thì đâu có nghe
được các âm thanh đó. Nếu có cái Tánh Nghe không sinh không diệt, thường hằng
thì người ngủ say đó phải nghe được các âm thanh đó chứ. Thật là mâu thuẫn khi
hàng ngày tụng đọc: quán tâm vô thường trong lúc đó lại chủ trương Tánh Thấy,
Tánh Nghe, Tánh Biết chính là tâm lại không sinh không diệt.
2 - Thế nào là Nội Không?
Khi thực hành Tứ Niệm Xứ (Niệm Tâm và Niệm Pháp) nếu tác ý nhớ đến chú tâm
quán sát các đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là
các Cảm giác, là tâm thì Chánh Niệm có nội dung như vậy sẽ khởi lên. Do Chánh
Niệm như vậy sẽ phát sinh Chánh Tinh Tấn, do có Chánh Tinh Tấn sẽ phát sinh
Chánh Định nghĩa là chú tâm vào đối tượng và nhờ Chánh Định sẽ nhận biết đối
tượng với Tỉnh Giác, tiếp đến Chánh Tư Duy sẽ khởi lên. Chánh Tư Duy sẽ phân
tích, so sánh, đối chiếu thông tin về đối tượng được Tỉnh Giác cung cấp với thông
tin mà Chánh Niệm đã kích hoạt (Minh) đưa đến kết luận là Ý thức Chánh Tri
Kiến, biết đúng như thật đối tượng đó là Cảm giác (Thọ), là Tâm. Lộ trình được
diễn tả như sau: Xúc - Thọ - Tưởng - Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh
Định - (Tỉnh Giác) Chánh Tư Duy - Chánh Tri Kiến. Ý thức Chánh Tri Kiến
không những biết như thật đối tượng đó là Cảm giác, là Tâm mà cũng biết như
thật đối tượng đó là Cảm giác thuộc phạm trù tâm chứ không phải là Cảnh, không
phải là Sắc pháp nên nó Vô Tướng. Các tướng trạng to nhỏ, vuông tròn, dài ngắn,
xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng mềm thô mịn... không phải là tướng
trạng của đối tượng mà đó là các ngôn từ, là phương tiện truyền thông để ám chỉ
các cảm giác, để phân biệt cảm giác này với cảm giác khác. Tuệ Tri các đối tượng
được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là Vô Tướng (Không
Tướng) xảy ra nơi Ý thức Chánh Tri Kiến thuộc về nội tâm nên Vô Tướng là Nội
Không.
- Khi tác ý nhớ đến chú tâm quán sát các đối tượng Vô thường thì lộ trình cũng
diễn tiến tương tự và Ý thức Chánh Tri Kiến sẽ tuệ tri các đối tượng Vô
thường. Vô thường cũng thuộc Nội Không.
- Khi tác ý nhớ đến chú tâm quán sát các đối tượng Vô chủ (Vô ngã), lộ trình
cũng xảy ra tương tự và Ý thức Chánh Tri Kiến sẽ tuệ tri đối tượng Vô chủ.
Vô chủ hay Vô ngã cũng thuộc Nội Không.
- Khi tác ý nhớ đến chú tâm quán sát đối tượng được ly tham... Ý thức Chánh
Tri Kiến sẽ tuệ tri được nội tâm Không tham, Không sân, Không si với bất kỳ
đối tượng nào. Không này cũng là Nội Không.
- Khi tác ý nhớ đến chú tâm quán sát buông xả các đối tượng... Ý thức Chánh
Tri Kiến sẽ tuệ tri Không dính mắc, Không ràng buộc, Không phiền não,
Không khổ đau với bất kỳ một đối tượng nào. Không này cũng thuộc Nội
Không.
Thế nào là tác ý Nội Ngoại không?
Khi tác ý nhớ đến chú tâm quán sát nội tâm thì Chánh Niệm (nhớ đến) chú tâm
quán sát nội tâm sẽ khởi lên thì lộ trình cũng diễn tiến tương tự nhưng Ý thức
Chánh Tri Kiến sẽ vừa tuệ tri được cái biết Tỉnh Giác tức tuệ tri được Không
Tánh thuộc Ngoại Không nhưng cũng vừa tuệ tri được nội tâm vắng lặng, Không
tham, Không sân, Không si, Không dính mắc, Không ràng buộc, Không khổ đau,
Không phiền não nghĩa là tuệ tri Nội Không.
+ Khi Ý thức Chánh Tri Kiến tuệ tri Nội Không như vậy cũng đồng thời tuệ tri sự
vắng mặt của Khổ cũng có nghĩa tuệ tri Khổ Diệt hay tuệ tri Niết Bàn.
+ Khi thực hành Tứ Niệm Xứ Hành Giả tác ý tới Niệm Tâm hoặc Niệm Pháp, Ý
thức Chánh Tri Kiến trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo sẽ tuệ tri được Vô Tướng,
Vô Thường, Vô Ngã, Không Tham, Không Sân, Không Si, Không Ràng Buộc
(Thủ), Không Khổ (Khổ Diệt, Niết Bàn). Hành Giả an trú Ý thức Chánh Tri Kiến
là an trú những KHÔNG này và đó là là an trú Nội Không. Trong kinh Đại Không
thuộc Trung Bộ kinh có nói: "Nhưng sự an trú này, này Anan, Như Lai đã hoàn
toàn giác ngộ, nghĩa là sau khi không tác ý với tất cả tướng, chứng đắc và an trú
Nội Không". Không tác ý với tất cả tướng được hiểu là không tác ý sắc thanh
hương vị xúc pháp, là các tướng ở ngoại cảnh. Kinh Đại Không chủ yếu nói về
Nội không, còn kinh Tiểu Không chủ yếu thuyết minh Ngoại Không tức Không
Tánh.
Khi Hành Giả thực hành Niệm Tâm và Niệm Pháp, an trú Nội Không sẽ tuệ tri và
an trú được Giải Thoát. Giải Thoát do an trú Nội Không này có tên gọi là Vô
Tướng Giải Thoát. Giải thoát này do Ý thức Chánh Tri Kiến mà có được, hay do
Trí Tuệ, do Minh mà có nên còn được gọi là Tuệ Giải Thoát. Chánh Tri Kiến hay
Trí Tuệ, hay Minh được tu tập, được làm cho viên mãn không những làm cho an
trú Nội Không, an trú Tuệ Giải Thoát viên mãn mà Trí Tuệ, Minh này sẽ xoá bỏ
thông tin Vô Minh đã được cài đặt trong "kho chứa thông tin tri thức hiểu biết,
kinh nghiệm" đưa đến Chánh Trí của vị A La Hán: "Sanh đã tận, phạm hạnh đã
thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lui đời này nữa".
Sự khác biệt giữa Thánh và Phàm không phải ở cái biết trực tiếp giác quan (hay
Nhận thức cảm tính) mà ở cái biết Ý thức (hay Nhận thức lý tính). Ý thức của bậc
Thánh là Chánh Tri Kiến, là Trí Tuệ, là Minh có tính chất Liễu tri tất cả pháp, tức
hiểu biết đúng như thật tất cả pháp. Ý thức của Phàm phu là Tà Tri Kiến, là Vô
Minh, là Vọng Tưởng, có tính chất Không Liễu tri tất cả pháp, tức không hiểu biết
đúng như thật tất cả pháp. Tất cả Pháp học, Pháp hành mà Đức Thế Tôn khéo léo
thuyết giảng là nhằm thay đổi Ý thức từ Tà Tri Kiến thành Chánh Tri Kiến. Đó
còn gọi là chuyển Mê khai Ngộ. Sự giải thoát tối hậu chỉ xảy ra khi Chánh Tri
Kiến được tu tập, được làm cho viên mãn đưa đến đoạn diệt không có dư tàn Tà
Tri Kiến. Nhưng Chánh Tri Kiến hay Trí Tuệ hay Minh không sẵn có, không tự
có, không vốn có nơi mỗi chúng sanh mà muốn đạt được nó phải thực hành đúng
theo lộ trình mà Đức Phật đã giảng dạy. Đó là: Văn - Tư - Tu. Văn là nghe giảng
hoặc nghiên cứu lời dạy của Phật về Lý Duyên Khởi về Tứ Thánh Đế. Đây là
những điều chưa từng được nghe, chưa từng được biết, không phải những sự thật,
những chân lý này sẵn có nơi mỗi chúng sanh mà phải do Phật khai thị. Những
hiểu biết đúng sự thật này cũng không sẵn có, không tự có nơi Đức Phật, mà Ngài
đã tự mình quán sát và tư duy nơi sự thật đang diễn ra rồi tự mình chứng ngộ và
tuyên thuyết. Trong bài kinh Chuyển Pháp Luân Ngài đã tự thán: Sự thật về Khổ
(Khổ Thánh Đế) là điều mà Ta chưa bao giờ được nghe, nay đã khởi lên nơi Ta...
Nghĩa là cái hiểu biết đúng như thật về Khổ không có nơi Ngài trước đây, không
sẵn có nơi kho chứa tâm thức Ngài trước thời điểm này. Tư là tư duy về những
điều đã được nghe, chấp nhận điều đã được nghe, làm cho lớn rộng và sâu sắc
điều đã được nghe. Tu là thực hành Bát Chánh Đạo để kinh nghiệm, Thực Chứng
và An Trú được Những Điều Đã Được Nghe. Chính vì vậy Văn là bước đầu tiên,
nếu không có Văn thì không thể có Tư và Tu đúng pháp. Nội dung của Văn là
hiểu biết đúng như thật về Lý Duyên Khởi và hiểu biết đúng như thật về Khổ Tập
Diệt Đạo. Trong hai đề mục này thì Lý Duyên Khởi cực kỳ quan trọng vì chỉ có
Lý Duyên Khởi mới có thể soi sáng, mới có thể đưa đến hiểu biết đúng như thật
về Khổ Tập Diệt Đạo. Đức Phật đã khẳng định: Ai thấy (đúng như thật) Duyên
khởi là thấy Pháp, ai thấy Pháp là thấy Như Lai. Trí Tuệ này không có, không sẵn
có nơi hiểu biết của Phàm phu mà hiểu biết của Phàm phu chỉ có Tà Tri Kiến, chỉ
có Vô minh về Lý Duyên Khởi, Vô minh về Khổ Tập Diệt Đạo. Hãy từ bỏ tâm
Bát Tà Đạo của Phàm phu có Vô minh, Tà kiến. Hãy học hỏi, tu tập, chứng ngộ
và an trú tâm Bát Chánh Đạo của bậc Thánh có Minh, Chánh Kiến.

Về mục lục

Bài 123: CÓ PHẢI "NGŨ UẨN GIAI KHÔNG" KHÔNG?

Ngũ uẩn hay Năm uẩn là một thuật ngữ thông dụng trong Phật học để chỉ cho
Năm nhóm: Sắc Thọ Tưởng Hành Thức. Chữ Uẩn được dùng trong Ngũ uẩn
hay Năm uẩn đã được định nghĩa rõ ràng trong kinh Nikaya là nhóm, là tổ hợp.
Ví như: Phàm sắc gì thuộc quá khứ, vị lai, hiện tại, thô hay tế, thắng hay liệt,
nội hay ngoại, xa hay gần... đều là Sắc uẩn. Trong kinh điển Hán tạng dịch sang
tiếng Việt chữ Uẩn trong Ngũ uẩn được dùng theo nghĩa "ngăn che" thực tánh,
điều này đã "găm" vào đầu người học một hiểu biết sai lạc ngay từ đầu về Ngũ
uẩn.

Hiểu biết về Ngũ uẩn có hai loại: Một là hiểu biết không đúng sự thật về Ngũ
uẩn, hiểu biết đó gọi là Vô minh, là Vọng tưởng, là Không liễu tri Ngũ uẩn. Hai
là hiểu biết đúng sự thật về Ngũ uẩn, hiểu biết đó được gọi là Minh, là Trí tuệ,
là Liễu tri Ngũ uẩn.

1 - Vô Minh về Ngũ uẩn:

- Là hiểu biết của Phàm phu quan niệm Ngũ uẩn là Năm thành tố bao gồm Sắc
Thọ Tưởng Hành Thức đồng thời tồn tại, cấu hợp nên một chúng sanh, giống
như các thành tố Cột Kèo Rui Mè Ngói đồng thời tồn tại cấu hợp nên ngôi nhà.
Chúng sanh được sinh ra bao gồm Thân và Tâm tức Ngũ uẩn, cụ thể Thân là
Sắc uẩn và Tâm là Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn, Thức uẩn. Năm uẩn đồng
thời tồn tại, kết hợp với nhau gọi là một chúng sanh và khi chết Năm uẩn tan rã,
chia lìa nhau. Sắc uẩn hay Thân trở về với Tứ Đại (Đất Nước Gió Lửa) còn
Bốn uẩn còn lại là Tâm lại duyên với một Sắc uẩn khác nên cấu hợp trở lại
thành một chúng sinh mới. Nói một cách đơn giản thì hiểu biết đó cho rằng khi
một chúng sanh hiện hữu thì Tâm ở trong Thân, khi chết Thân này tan rã, Tâm
sẽ thoát ra và đi đầu thai vào một Thân mới. Và như vậy Chết và Tái Sanh là sự
di chuyển Tâm thức từ một thân xác này sang một thân xác khác, giống như
thay một cái áo mới vậy. Với hiểu biết này thì Năm Uẩn luôn luôn có, thường
xuyên tồn tại, chỉ trong thời gian chết không đủ duyên nên không cấu hợp
thành chúng sanh, khi đủ duyên tái sanh thì cấu hợp trở lại thành một chúng
sanh. Hiểu biết Năm Uẩn luôn luôn có, thường xuyên tồn tại như vậy gọi là
Thường Kiến. Phàm phu cũng sống với hiểu biết Thân này là của Ta, là Ta,
Tâm này là của Ta, là Ta, nghĩa là có một cái Ta là chủ nhân của Thân Tâm,
chủ nhân của Năm Uẩn. Hiểu biết như vậy gọi là Ngã Kiến. Hiểu biết Năm
Uẩn luôn luôn có, thường xuyên có được xếp vào một trong hai cực đoan của
nhân loại gọi là Chấp Có, là Thường Kiến thuộc về Duy Vật.

- Một quan điểm khác được xếp vào cực đoan thứ hai của nhân loại, là Năm
Uẩn không có thật, là giả có, Năm Uẩn do Tâm tạo ra. Tâm tạo ra Năm Uẩn
được quan niệm là Chân Tâm Thường Trụ hay Thượng Đế Toàn Năng, đây là
Chấp Không, là Đoạn Kiến thuộc về Duy Tâm.

- Có một số trường phái Phật Giáo tránh hai cực đoan Chấp Có và Chấp Không
trên, đã tư duy, lập luận và đề ra học thuyết Nhị Đế. Họ lập luận và cho rằng
Thế giới thực tại mà con người thấy, nghe, cảm nhận, nhận thức là một thế giới
ước lệ, tương đối, vận hành theo định luật nhân quả được gọi là Tục Đế. Đó là
thế giới hiện tượng có hình tướng, có sinh diệt, nhơ sạch, tăng giảm, có sắc thọ
tưởng hành thức, có mắt tai mũi lưỡi thân ý, có sắc thanh hương vị xúc pháp,
có nhãn giới cho đến ý thức giới, có vô minh, có minh... Ngoài thế giới hiện
tượng có tướng còn có một Thế giới thực tại bản thể tuyệt đối vô tướng gọi là
Chân Đế. Trong cái Thế giới thực tại bản thể tuyệt đối vô tướng đó không có
sinh diệt, nhơ sạch, tăng giảm, không có sắc thọ tưởng hành thức, không có
mắt tai mũi lưỡi thân ý, không có sắc thanh hương vị xúc pháp, không có nhãn
giới cho đến ý thức giới, không có vô minh cũng như minh... Hai thế giới thực
tại bản thể tuyệt đối và thế giới thực tại hiện tượng tương đối không đối lập
nhau mà thế giới thực tại bản thể tuyệt đối là nền tảng mà trên đó thế giới thực
tại hiện tượng tương đối phát sinh. Thế giới thực tại hiện tượng là biểu hiện, là
sự trình hiện của thế giới thực tại bản thể. Chính lập luận như vậy được hiểu là
thế giới thực tại tuyệt đối còn được gọi là Chân Không là nền tảng mà từ đó
phát sinh thế giới hiện tượng Sắc Thọ Tưởng Hành Thức, và Sắc Thọ Tưởng
Hành Thức là sự trình hiện của Chân Không, là sự biểu hiện của Chân Không
và vì vậy mà Sắc chẳng khác Chân Không, Chân Không chẳng khác với Sắc,
Sắc chính là Chân Không, Chân Không chính là Sắc.Thọ Tưởng Hành Thức
cũng đều như vậy. Đây chính là lập luận Ngũ uẩn giai không. Lập luận này
xuất phát từ sự hiểu biết thường ngày của nhân loại, ví như Đất là nền tảng mà
trên đó Cây cối phát sinh. Cây cối từ Đất mà sinh ra, khi mất đi nó lại trở về với
nền tảng là Đất. Chính vì vậy Cây cối là tương đối, là sự trình hiện của Đất, là
sự biểu hiện của Đất, còn Đất là tuyệt đối là nền tảng, nên Đất chẳng khác Cây
cối, Cây cối chẳng khác Đất, Đất chính là Cây cối, Cây cối chính là Đất.
Những lập luận cao siêu như vậy nhằm tránh hai cực đoan Chấp Có và Chấp
Không nhưng nền tảng của lập luận ấy là Thường Kiến, Duy Vật vẫn ở trong
cực đoan Chấp Có mà hình thành, nó là tư duy lý luận suông chứ không phải là
sự thật. Cái Thế giới thực tại bản thể tuyệt đối vô tướng đó chỉ là Tư Tưởng do
tư duy tác thành, không phải là sự thật bởi chính những người lập luận, tư duy
ra nó cũng hết sức mơ hồ, trừu tượng về nó, không ai vạch ra được một con
đường đi đến đó, không có một cách tu nào, cách thực hành cụ thể nào để thể
nhập và an trú Thế giới thực tại tuyệt đối Chân Đế (Chân Không) Vô niệm, Vô
ngôn, Vô phân biệt đó. Đức Phật không có giác ngộ một Thế giới thực tại bản
thể tuyệt đối Chân Đế hay Chân Không nên không có giảng dạy, chỉ dẫn, phân
tích bất kỳ một pháp tu nào để thể nhập và an trú Thế giới thực tại bản thể
Chân đế hay Chân Không như vậy mà Ngài giác ngộ Cảm thọ. Đó là Tuệ tri sự
sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ cũng có nghĩa là
Tuệ tri Tứ Thánh Đế. Sau khi đã tự mình chứng tri Ngài đã hiển thị, giảng giải,
phân tích, chỉ dẫn rành mạch về Thực tại giải thoát, về Tứ Thánh Đế và đặc
biệt Ngài đã hiển thị, giảng giải phân tích, chỉ dẫn rành mạch về con đường đi
đến thể nhập và an trú Thực tại giải thoát. Đó chính là Bát Chánh Đạo, bao
gồm: Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - Chánh Tư Duy - Chánh
Kiến - Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng.

2 - Minh về Ngũ Uẩn:

a - Năm Uẩn: Trong kinh Đại Kinh Mãn Nguyệt thuộc Trung Bộ Kinh đã trình
bày tóm tắt về Duyên Khởi của năm nhóm Sắc Thọ Tưởng Hành Thức. Kinh đã
chỉ rõ: Tứ đại là nhân, là duyên của Sắc uẩn, Căn Trần tiếp xúc là nhân, là
duyên của Thọ uẩn, Căn Trần tiếp xúc là nhân, là duyên của Tưởng uẩn, Căn
Trần tiếp xúc là nhân, là duyên của Hành uẩn, Xúc - Thọ - Tưởng - Tư (duy)
khởi lên Thức uẩn. Nếu quán sát tỉ mỉ theo Duyên Khởi thì Năm Uẩn khởi lên
theo một lộ trình sinh diệt. Đối với Phàm phu Năm uẩn khởi lên theo lộ trình
Bát Tà Đạo như sau:

Xúc - Thọ - Tưởng - Tà Niệm - Tà Tư Duy - Tà Tri Kiến (Thức Uẩn) - Tham
Sân Si - Tà Định - Dục - Tà Tinh Tấn - Phi Như Lý tác ý - Tà ngữ, Tà nghiệp,
Tà mạng - Sầu Bi Khổ Ưu Não Sinh Già Bệnh Chết.

Đây là tất cả pháp hay là Năm Uẩn hay Danh và Sắc.

- Sắc Uẩn hay nhóm Sắc bao gồm sáu Căn: Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân Ý và năm
Trần: Sắc Thanh Hương Vị Xúc.

- Thọ Uẩn hay nhóm Thọ bao gồm sáu Thọ hay sáu cảm giác do Căn Trần tiếp
xúc mà phát sinh: Cảm giác hình ảnh, Cảm giác âm thanh, Cảm giác mùi,
Cảm giác vị, Cảm giác xúc chạm, Cảm giác pháp trần.

- Tưởng Uẩn hay nhóm Tưởng bao gồm sáu cái biết trực tiếp giác quan do sáu
Căn tiếp xúc sáu Trần phát sinh (có phận sự nhận biết sáu Cảm thọ) bao gồm:
Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng thức.

- Hành Uẩn hay nhóm hành bao gồm: Niệm, Tư Duy, Tham Sân Si, Định,
Dục, Tinh Tấn, Tác Ý, Lời nói, Hành động, Ăn uống, Sầu Bi Khổ Ưu Não.
Các tâm hành này cũng do Ý tiếp xúc Pháp trần mà phát sinh.

- Thức Uẩn hay nhóm Thức chính là Ý thức do lộ trình Xúc - Thọ - Tưởng - Tư
(duy) phát sinh. Định nghĩa này trong kinh Đại Kinh Mãn Nguyệt đã chỉ rõ
Thức Uẩn chỉ là Ý thức nên tránh được sự hiểu lầm Thức uẩn bao gồm sáu thức
là Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức.

Năm uẩn hay Năm nhóm Sắc Thọ Tưởng Hành Thức là Pháp Duyên khởi nên
nó Vô thường, sinh lên rồi diệt không thường hằng, không thường trú bất kỳ
chỗ nào. Năm uẩn cũng Vô Chủ nghĩa là không có bất kỳ một cái gì là chủ
nhân, chủ sở hữu Năm uẩn, cũng đồng nghĩa không có một cái Ta nào là chủ
nhân, chủ sở hữu năm uẩn. Đây gọi là Vô Ngã.

Năm Uẩn sinh diệt theo một tiến trình Nhân diệt Quả sanh. Nghĩa là Căn Trần
tiếp xúc rồi cùng diệt thì Thọ - Tưởng sanh. Tiếp đến Thọ - Tưởng diệt thì Tà
Niệm sanh. Tà Niệm diệt thì Tà Tư Duy sanh. Tà Tư Duy diệt thì Tà Tri Kiến
(Thức Uẩn) sanh. Tà Tri Kiến diệt thì Tham hoặc Sân hoặc Si sanh. Tham hoặc
Sân hoặc Si diệt thì Tà Định sanh. Tà Định diệt thì Dục sanh. Dục diệt thì Tà
Tinh Tấn sanh. Tà Tinh Tấn diệt thì Tà ngữ hoặc Tà nghiệp hoặc Tà mạng sanh.
Tà ngữ hoặc Tà nghiệp hoặc Tà mạng diệt thì Sầu Bi Khổ Ưu Não khởi lên. Sầu
Bi Khổ Ưu Não diệt thì một lộ trình Năm uẩn sinh diệt tương tự lại tiếp tục khởi
lên. Viết gọn lại: Sắc - Thọ - Tưởng - Hành - Thức - Hành.

Căn Trần tiếp xúc rồi cùng diệt tức Sắc diệt, Thọ - Tưởng sanh nhưng cũng
phát sinh Căn Trần khác cho sự tiếp xúc của lộ trình sau. Thọ - Tưởng diệt thì
Hành sanh. Hành diệt thì Thức sanh. Thức diệt thì Hành sanh tiếp. Hành diệt thì
một lộ trình tiếp theo sẽ khởi lên tương tự. Như vậy Sắc Thọ Tưởng Hành Thức
là một lộ trình sinh diệt, Sắc Thọ Tưởng Hành Thức không đồng thời tồn tại,
không phải nương nhau mà hiện hữu, không phải là sự trình hiện, sự biểu hiện
của một Thế giới thực tại bản thể tuyệt đối vô tướng. Năm nhóm Sắc Thọ
Tưởng Hành Thức do duyên Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh nên nó là có thật
và vì nó có thật nên Thánh hay Phàm đều thấy, nghe, cảm nhận, nhận thức được
nó tuy nó Vô Thường, Vô Ngã. Hiểu biết đúng như thật này cũng gọi là tuệ tri
Lý Duyên khởi, cũng gọi là Trung Đạo và hiểu biết đúng như thật này xa lìa hai
cực đoan Chấp Có (Duy Vật) và Chấp Không (Duy Tâm).

b - Năm Thủ Uẩn: kẻ Phàm phu với Ý thức Tà Tri Kiến không Tuệ tri sự sinh
diệt của Năm uẩn, không tuệ tri Năm uẩn Vô thường, Vô ngã khởi lên chấp thủ
một cái Ta là chủ nhân của Năm uẩn. Kẻ phàm phu khởi lên tư tưởng: Sắc Thọ
Tưởng Hành Thức là của Ta, là Ta, là tự ngã (bản ngã) của Ta. Đây chính là
Năm Thủ Uẩn. Kẻ Phàm phu sống với Năm Thủ Uẩn: Ta thấy, ta nghe, Ta cảm
nhận, Ta tư duy, Ta hiểu biết, Ta nói, Ta làm... Đức Phật đã khẳng định: Năm
Thủ Uẩn là Khổ nên kẻ phàm phu sống với Khổ. Năm Thủ Uẩn là tư tưởng sai
lạc, do Tà Tri Kiến, do cái biết Ý thức nhị nguyên Vô minh khởi lên nên không
có thật, nó là lông rùa sừng thỏ, là hoa đốm giữa hư không do bệnh nhặm mắt
tạo thành chứ không phải Ngũ Uẩn giai không. Năm Thủ Uẩn là khổ chứ không
phải Năm Uẩn là khổ như các chú giải hiện hành. Chính sự chấp thủ là Vô Minh
đã khởi lên Năm Thủ Uẩn là cái màn ngăn che, không cho thấy biết tự tánh Vô
thường, Vô ngã của Năm Uẩn chứ không phải Năm Uẩn ngăn che tự tánh.

Các bậc A la hán sống với sự tuệ tri Năm Uẩn vô thường, vô ngã, đã đoạn diệt
không có dư tàn Năm Thủ Uẩn nên đối với chư vị, Năm Thủ Uẩn giai không
chứ không phải Năm Uẩn giai không. Trong bài kinh Sáu Thanh Tịnh thuộc
Trung Bộ kinh Đức Phật đã đưa ra sáu câu hỏi và sáu câu trả lời đúng pháp đối
với các vị đã tuyên bố chứng đắc A La Hán. Một trong sáu câu hỏi và sáu câu
trả lời như sau: Do thấy như thế nào, biết như thế nào về Năm Thủ Uẩn tức Sắc
Thủ Uẩn, Thọ Thủ Uẩn, Tưởng Thủ Uẩn, Hành Thủ Uẩn và Thức Thủ Uẩn mà
Tôn giả đã tuyên bố: Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành... Nếu một vị tu hành đã
thành mãn, hữu kiết sử đã đoạn diệt, những việc cần làm đã làm thì câu trả lời
hợp pháp của vị đó sẽ như sau: đối với Năm Thủ Uẩn tức Sắc thủ uẩn, Thọ thủ
uẩn, Tưởng thủ uẩn, Hành thủ uẩn, Thức thủ uẩn tôi đã đoạn diệt, đoạn trừ,
đoạn ly, đoạn xả không còn dư tàn, đã làm cho không còn tái sinh trong tương
lai. Do thấy như vậy, biết như vậy về Năm Thủ Uẩn mà tôi tuyên bố sanh đã
tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lui đời này
nữa.

Không những Đức Phật dạy Năm Thủ Uẩn giai không mà Ngài còn hiển thị,
giảng giải, phân tích chỉ dẫn rành mạch về con đường, về phương pháp tu tập để
đoạn diệt Năm Thủ Uẩn, để Năm Thủ Uẩn giai không.

- Năm Thủ Uẩn là sự chấp thủ một cái Ta (Bản ngã) là chủ nhân, chủ sở hữu
Năm Uẩn. Chính vì sự chấp thủ Năm Uẩn nên Khổ uẩn khởi lên, nên nói Năm
Thủ Uẩn là khổ.

- Sự tập khởi của Năm Thủ Uẩn là do Tà Niệm - Tà Tư Duy mà khởi lên Tà Tri
Kiến, chấp thủ Năm Uẩn là của Ta, là Ta, là tự ngã (bản ngã) của Ta trên lộ trình
tâm Bát Tà Đạo.

- Sự đoạn diệt của Năm Thủ Uẩn là khi có mặt Chánh Niệm - Chánh Tư Duy sẽ
khởi lên Chánh Tri Kiến là hiểu biết đúng như thật, không còn Ngã kiến, Ngã sở
kiến, Ngã mạn tuỳ miên. Đây chính là đoạn diệt Năm Thủ Uẩn.

- Con đường chấm dứt Năm Thủ Uẩn (Chấm dứt Khổ) là Bát Chánh Đạo bao
gồm: Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định - Chánh Tư Duy - Chánh Tri
Kiến - Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng.

Năm Thủ Uẩn cũng được giảng dạy, phân tích theo công thức Tứ Thánh Đế. Đó
là: Tuệ tri Năm Thủ Uẩn, Tuệ tri Năm Thủ Uẩn tập khởi, Tuệ tri Năm Thủ Uẩn
đoạn diệt, Tuệ tri Con đường đoạn diệt Năm Thủ Uẩn.
Về mục lục

Bài 124: PHÁP CÚ 372

"Không trí tuệ không thiền


Không thiền không trí tuệ
Người có thiền có tuệ
Nhất định gần Niết bàn"

Ba câu đầu của pháp cú này lặp đi lặp lại chữ tuệ. Sự lặp đi lặp lại ấy có ý nghĩa
gì? Trí Tuệ là hiểu biết đúng như thật và có ba loại: Hiểu biết đúng như thật về
Khổ Tập Diệt Đạo do nghe mà đạt được gọi là Văn tuệ. Hiểu biết đúng như thật
do tư duy về Khổ Tập Diệt Đạo được gọi là Tư tuệ. Hiểu biết đúng như thật về
Khổ Tập Diệt Đạo do thực hành Bát Chánh Đạo mà đạt được gọi là Tu tuệ.

Trí tuệ trong câu đầu được hiểu là Văn tuệ và Tư tuệ. Người có Văn tuệ và Tư
tuệ hiểu rằng: Năm Thủ Uẩn là Khổ nghĩa là Khổ phát sinh theo lộ trình Duyên
Khởi. Do có Xúc mà có Thọ, do có Thọ mà có Ái, do có Ái mà có Thủ, do có
Thủ mà có Hữu, do có Hữu mà có Sinh Già Bệnh Chết sầu bi khổ ưu não không
thể kể xiết... Khổ phát sinh theo một lộ trình tâm Bát Tà Đạo. Khổ chính là Tâm
chứ không phải là Cảnh, khổ không trú nơi cảnh, không từ nơi cảnh mà đến với
con người. Nguyên nhân của Khổ là Khát ái tìm cầu hỷ lạc (Hạnh phúc) chỗ này
chỗ kia như Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái. Nó cũng chính là Tâm chứ không phải
Cảnh, nó không trú nơi cảnh, không từ nơi cảnh đến với con người. Sự chấm dứt
Khổ là chấm dứt Khát ái ấy, nó không phải là Cảnh cũng không phải là Tâm, nó
là sự vắng mặt cả Tâm lẫn Cảnh. Con đường chấm dứt Khổ là Bát Chánh Đạo
cũng là Tâm, nghĩa là thay đổi Tâm chứ không thay đổi Cảnh. Lộ trình tâm Bát
Chánh Đạo bao gồm:

Xúc => Thọ => Tưởng => Chánh Niệm => Chánh Tinh Tấn => Chánh Định =>
(Tỉnh Giác) => Chánh Tư Duy => Chánh Kiến => Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng.

Trục chính của lộ trình là Chánh Niệm => Chánh Định => Chánh Kiến, nói tắt là
Niệm - Định - Tuệ. Trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo sẽ không có mặt Tham Sân
Si nhưng phải có mặt Chánh Định và Chánh Kiến vì thế phải tu thiền mới chấm
dứt được Khổ.

Một người không có Văn tuệ sẽ có hiểu biết Khổ và nguyên nhân của Khổ là ở
nơi hoàn cảnh, từ nơi hoàn cảnh mà đến, cụ thể đó là hoàn cảnh trung tính và khó
chịu như là nghèo khổ, bệnh tật, lạc hậu, thiếu thốn, thiên tai, thất bại, chiến
tranh... Hạnh phúc là sự chấm dứt Khổ, mà Hạnh phúc là những hoàn cảnh tốt
đẹp như giàu có, sắc đẹp, thành đạt, đầy đủ tiện nghi... Hiểu Khổ, Nguyên nhân
của Khổ, Sự chấm dứt Khổ ở nơi hoàn cảnh như vậy thì đương nhiên Con đường
chấm dứt Khổ là thay đổi hoàn cảnh sống. Hiểu biết như vậy về Khổ Tập Diệt
Đạo gọi là Vô Minh. Một người với Vô Minh như vậy sẽ hướng ngoại để thay
đổi Cảnh chứ không thiền để thay đổi Tâm, họ sẽ tìm cầu phước báo, họ sẽ tìm
cầu một tha lực để thay đổi hoàn cảnh, họ sẽ tìm kiếm những năng lực kỳ diệu,
những hiểu biết siêu việt, những cảnh giới kỳ diệu, một cái Ta chân thật không
sinh không diệt... để an trú vào đó chứ không thể thiền để thay đổi tâm từ Bát Tà
Đạo sang Bát Chánh Đạo.

Trí tuệ ở câu thứ 2: "Không thiền không trí tuệ" là chỉ cho Tu tuệ, là hiểu biết (ý
thức) đúng như thật do thực hành Bát Chánh Đạo mà có được. Tu tuệ này còn
được gọi là Minh hay còn gọi là Tuệ tri. Đây là Chánh Kiến trên lộ trình Chánh
Niệm => Chánh Định => Chánh Kiến với nội dung: Tuệ tri Duyên khởi, Tuệ tri
Vô thường, Tuệ tri Vô ngã, Tuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt của Thọ, Vị ngọt,
Sự nguy hiểm, Sự xuất ly của Thọ, Tuệ tri Khổ Tập Diệt Đạo. Với Tu tuệ này
mới chứng ngộ và an trú Tâm Giải thoát, Tuệ Giải thoát. Một người có Văn tuệ
và Tư tuệ nhưng nếu không thiền thì nó lại trở thành Sở Tri Chướng làm cho
Ngã mạn lớn thêm.

Câu thứ ba: "Người có thiền có tuệ" ám chỉ một người thực hành Bát Chánh
Đạo sẽ vừa có thiền tức có Chánh Định vừa có tuệ tức có Chánh Kiến cũng có
nghĩa là vừa có Chỉ vừa có Quán. Nếu nói một cách chi tiết thì lộ trình tâm Bát
Chánh Đạo bao gồm: Chánh Niệm => Chánh Tinh Tấn => Chánh Định =>
(Tỉnh Giác) => Chánh Tư Duy => Chánh Kiến... Chánh Niệm, Chánh Tinh Tấn,
Chánh Định thuộc về Định, còn Chánh Tư Duy, Chánh Kiến thuộc về Tuệ thì
bao giờ trên một lộ trình tâm Bát Chánh Đạo cũng có Định và Tuệ hiện hữu
song hành. Vì vậy sự thực hành là Chỉ Quán song hành chứ không có thực hành
Thiền Định và Thiền Quán riêng biệt.

Câu thứ tư: "Nhất định gần Niết bàn". Một người thực hành Bát Chánh Đạo có
Chỉ Quán song hành an trú Tâm Giải thoát, Tuệ Giải thoát mới chỉ nhiếp phục
Vô Minh, nhiếp phục Tham Sân Si, nhiếp phục Khổ chứ chưa phải Đoạn Tận
cho nên nói là "Nhất định gần Niết bàn". Khi Tu tuệ được tu tập được làm cho
viên mãn thì chính Tuệ ấy, chính Minh ấy mới xóa bỏ được Vô Minh được cài
đặt trong kho chứa tri thức hiểu biết, mới đoạn tận Vô Minh, đoạn tận Tham
Sân Si, đoạn tận Khổ. Đoạn tận đó chính là Niết bàn.

Về mục lục

Bài 125: CHÁNH ĐỊNH

Chánh định là một trạng thái tâm phát sinh khi có sự CHÚ TÂM LIÊN TỤC từ
đối tượng này đến đối tượng khác cho dù là đối tượng dễ chịu, khó chịu hay
trung tính. Sự chú tâm liên tục này bao gồm hai loại chú tâm: Một là chú tâm
có tầm có tứ tức chú tâm có hướng đến đối tượng và duy trì sự chú tâm trên đối
tượng (hoặc một loại đối tượng). Hai là chú tâm không tầm không tứ, nghĩa là
chú tâm không hướng đến, không duy trì sự chú tâm trên bất kỳ đối tượng nào
(hoặc bất kỳ loại đối tượng nào) mà tự động xảy ra từ đối tượng này đến đối
tượng khác. Trạng thái Chánh định xuất hiện khi có nhất tâm, không còn bị
phân tâm vì chuyện nọ chuyện kia. Lúc đó chỉ có một loại Niệm duy nhất là
Chánh Niệm, không còn Tà Niệm và Chánh Niệm đó là: NHỚ ĐẾN tích cực
chú tâm quán sát thân nơi thân, hay NHỚ ĐẾN tích cực chú tâm quán sát thọ
nơi thọ, hay NHỚ ĐẾN tích cực chú tâm quán sát tâm nơi tâm, hay NHỚ ĐẾN
tích cực chú tâm quán sát pháp nơi pháp. Chánh định có 4 mức độ gồm: Sơ
thiền, Nhị thiền, Tam thiền và Tứ thiền.

1 - Sơ thiền:

Chứng và trú sơ thiền khi có 4 pháp sau:

- Một là: Ly dục, ly bất thiện pháp. Vì nhất tâm, chỉ nhớ đến tích cực chú tâm
(thân thọ tâm pháp) nên không nhớ đến bất kỳ một chuyện gì trên đời, vậy nên
không có bất kỳ một tham muốn nào (ly dục), tâm vắng lặng, không có tư tưởng
nào nên không có bất kỳ một tư tưởng ác, bất thiện nào (ly bất thiện pháp).

- Hai là có cái vui nhè nhẹ thỉnh thoảng khởi lên nơi nội tâm gọi là Hỷ.

- Ba là có cảm giác Thoải mái, không căng thẳng, gò bó, mệt mỏi trên thân gọi
là Lạc.

- Bốn là có chú tâm có tầm có tứ. Tuy nhiên sơ thiền có cả hai loại chú tâm có
tầm có tứ lẫn không tầm không tứ nhưng nhấn mạnh sơ thiền với chú tâm có
tầm có tứ để phân biệt với nhị thiền, tam thiền, tứ thiền chỉ có một loại chú tâm
duy nhất là không tầm không tứ.

2 - Nhị thiền:

Thời điểm để chuyển từ Sơ thiền lên Nhị thiền là: diệt tầm diệt tứ tức là loại chú
tâm có tầm có tứ diệt đi chỉ còn lại loại chú tâm không tầm không tứ. Lúc đó
chứng và trú Nhị thiền sẽ có các pháp sau:

- Một là có Vui nội tâm do Định sanh gọi là Hỷ. Hỷ này rất mạnh, có thể
muốn cười lên, người ngoài có thể thấy nụ cười trên gương mặt người đó, có
thể nổi da gà, có thể có những luồng rân rân chạy dọc đùi, sống lưng, hay
xoáy trên đầu, cảm giác nhẹ bổng như bay lên...

- Hai là có cảm giác Thoái mái, dễ chịu trên thân gọi là Lạc. Lạc này rất mạnh
nên không còn bất kỳ một cảm giác khó chịu nào trên thân, không còn đau
nhức, không còn cảm giác đau khi hai chân đè lên nhau như trước nữa. Có thể
ngồi thoải mái như vậy rất lâu, tuỳ theo ý muốn.

- Ba là chỉ có một loại chú tâm duy nhất là không tầm không tứ, tức là sự chú
tâm tự động xảy ra liên tục từ đối tượng này đến đối tượng khác mà không hề
hướng đến bất kỳ một đối tượng nào. Trạng thái này rất vững chắc, không có
hôn trầm, phân tâm (phóng tâm) xảy ra gọi là nội tĩnh nhất tâm.

3 - Tam thiền:

Từ Nhị thiền chuyển lên Tam thiền là lúc trạng thái Hỷ chấm dứt, tâm không có
Vui cũng không có Buồn mà là trạng thái Bình thản. Chứng và trú Tam thiền
gồm:

- Một là trạng thái tâm Bình thản, không vui, không buồn gọi là Ly hỷ trú xả.

- Hai là cảm giác Thoải mái, dễ chịu vẫn có mặt như trạng thái Nhị thiền, không
có cảm giác khó chịu, đau nhức, căng thẳng. Đó gọi là Xả niệm Lạc trú.

4 - Tứ thiền:

Từ Tam thiền chuyển sang Tứ thiền là lúc các cảm giác trên thân nhẹ dần và
càng vi tế đến nỗi cả cảm giác thở vô, thở ra cũng nhẹ, cũng vi tế đến mức
không còn cảm nhận được nữa. Đa phần cảm nhận “mất thân” từ cổ trở xuống
vì các cảm giác ở đó nhẹ, vi tế đến mức đa phần không còn cảm nhận được
nữa. Lúc đó chứng và trú Tứ thiền gồm:

- Một là cảm giác nơi thân nhẹ và vi tế nên các cảm giác đó không phải là Dễ
chịu cũng không phải là Khó chịu, nó là các cảm giác Trung tính. Đó gọi là Xả
lạc, Xả khổ theo từ Hán Việt.

- Hai là nội tâm vắng lặng cả vui cả buồn gọi theo từ Hán Việt là diệt trừ Hỷ
Ưu (đã cảm thọ từ trước).

- Ba là trạng thái vắng lặng cả Hỷ cả Lạc, vắng lặng mọi tư tưởng gọi là Tâm
thanh tịnh nhờ xả.

Như vậy, khi có nhất tâm, không còn phân tâm được hiểu là chỉ có Chánh niệm,
CHỈ NHỚ ĐẾN tích cực chú tâm quán sát thân thọ tâm pháp mà KHÔNG NHỚ
ĐẾN bất kỳ chuyện gì trên đời (Tà niệm) thì lúc đó sẽ phát sinh trạng thái
Chánh định. Phân biệt các mức độ của Chánh định bằng:

a - Nếu có cả hai loại chú tâm có tầm có tứ và không tầm không tứ thì định đó là
Sơ thiền

b - Nếu chỉ có một loại chú tâm không tầm không tứ thì định đó có thể là Nhị
thiền, Tam thiền hoặc Tứ thiền:

- Nếu có cả Hỷ và Lạc thì đó là Nhị thiền.

- Nếu không có Hỷ mà chỉ có Lạc thì đó là Tam thiền.

- Nếu không có Hỷ, không có Lạc, tâm vắng lặng mọi tư tưởng thì đó là tứ thiền.
Về mục lục

Bài 126: VU LAN BÁO HIẾU

Vu Lan là một lễ hội có lịch sử xa xưa trong Phật giáo Bắc tông, diễn ra vào
ngày rằm tháng bảy âm lịch hàng năm. Lễ hội này ra đời với mục đích đem
Phật giáo đi vào cuộc sống, đặc biệt là những vùng đất mà Nho giáo ngự trị, nơi
mà chữ Hiếu được đề cao. Lễ Vu lan xưa xảy ra vào ngày rằm tháng bảy và cho
đến ngày nay vẫn khắc sâu trong tâm trí mọi người là ngày “Xá tội vong nhân”,
ngày “Mở cửa địa ngục”... là ngày con cháu bố thí, cúng dường, làm phước... để
báo hiếu, để tổ tiên ông bà cha mẹ của mình đã chết được giảm tội, được siêu
sanh. Ngày nay, nội dung ấy vẫn y nguyên và có phần được đề cao hơn nhưng
có một nội dung mới, thiết thực hơn được đưa vào là báo hiếu với ông bà cha
mẹ còn hiện tiền. Lễ Vu lan là một ngày lễ đặc biệt trong năm của Phật giáo
Bắc tông (và một số chùa của Phật giáo Nam tông Việt Nam) được tổ chức rất
long trọng, hoành tráng và phương tiện đó đã kích hoạt được tấm lòng hiếu thảo
của con cháu đối với cha mẹ ông bà còn hiện tiền. Lễ bông hồng cài áo, các bài
hát về mẹ cha, lễ con cái rửa chân cho cha mẹ... làm cả cha mẹ, lẫn con cái đều
hân hoan, đều hoàn hỷ trong tình thương yêu, trong lòng biết ơn vô tận.

Đương nhiên đó là một điều tốt đẹp của cuộc đời, và nó giúp xoa dịu nỗi đắng
cay, cơ cực của cuộc đời vui ít, khổ nhiều, não nhiều mà nguy hiểm lại càng
nhiều hơn của những bậc làm cha, làm mẹ đã trải qua. Nhưng hành vi của
những người con ấy trong ngày lễ Vu lan chỉ là liều thuốc giảm đau, cũng giống
như lời của một nhân vật trong một vở bi kịch cổ điển Đức đã thốt lên: “Trên
những vết thương không thể nào chữa khỏi, tôi đã trải một lớp hương làm dịu
nỗi đau”. Vì sao vậy? Vì không phải ngày nào cũng có lễ Vu Lan, ngày nào
cũng báo hiếu cha mẹ, vì sau ngày đó lại phải trở về với cuộc sống hàng ngày
với biết bao lo nghĩ, toan tính, cãi cọ, tranh chấp, hơn thua, biết bao cay đắng,
cô đơn, phiền não. Và quan trọng hơn là vì, nỗi khổ của con người do thế giới
ngoại cảnh như thời tiết khí hậu, thức ăn nước uống, các tiện nghi, tiền bạc...
chỉ chiếm khoảng 10%, còn nỗi khổ phát sinh nơi nội tâm do Thích các đối
tượng Dễ chịu, do Ghét các đối tượng Khó chịu, do Tìm kiếm các đối tượng Dễ
chịu chiếm đến 90%. Nếu người con hiếu thảo liên tục như trong các ngày lễ
Vu Lan có thể giúp cha mẹ giảm thiểu được 10% nỗi khổ bên ngoài thôi, còn
90% nỗi khổ thuộc về nội tâm cha mẹ thì con cái không thể làm tiêu tan đi
được. Những nỗi khổ này thuộc về nội tâm chỉ có các bậc cha mẹ tự mình giải
quyết, Phật không giúp được, Chúa không giúp được, con cháu không giúp
được, bạn bè thân thích không ai giúp được.

Ngày nay, một bộ phận người Việt khá giả đã không còn lo lắng, không còn khổ
sở về tiền bạc khi về già và phần nhiều không còn chung sống với con cái trong
một căn nhà duy nhất. Sự không sống chung với con cái trong một căn nhà làm
giảm thiểu được rất nhiều phiền não do tranh cãi, do thiên vị, do lối sống, do tư
tưởng, do nhu cầu khác nhau của các thế hệ nhưng cũng đưa đến nhiều thách
thức khi tuổi già sức yếu, khi bệnh tật đột ngột... Vì vậy nhiều người đã sắp xếp
hoặc con cái giàu có đã sắp xếp cho họ một cuộc sống trong các nhà dưỡng lão
sang trọng đầy đủ tiện nghi giống như các nhà dưỡng lão của các nước giàu có.

Ở đó, họ được các nhân viên chăm sóc sức khỏe thường xuyên, ăn uống đầy đủ,
phương tiện nghe nhìn giải trí không thiếu thứ gì, họ còn có bạn bè mới trong
nhà dưỡng lão... làm cho con cái họ yên tâm làm việc của mình. Tuy những
người già sống trong nhà dưỡng lão sang trọng đầy đủ tiện nghi, được chăm sóc
tử tế nhưng rất nhiều người trong số họ vẫn đang sống hoàn toàn cô đơn, héo
hắt trong đó, nhiều người bị trầm cảm, bị mất ngủ... Họ chấm dứt được nỗi khổ
do thiếu thốn vật chất, chấm dứt được nỗi khổ do sống chung với con cái nhưng
lại gặp phải những nỗi khổ còn trầm trọng hơn. Và tình trạng đó giống như cá
mắc câu, nuốt vào không được mà nhả ra cũng không được, sống với con cái
cũng khổ mà sống tại nhà dưỡng lão cũng khổ.

Vậy thì có giải pháp nào cho họ, những người già cả, những người về hưu sống
cùng con cái hay sống trong các nhà dưỡng lão? Có đấy! Và giải pháp này có
thể chấm dứt được gần hết 90% nỗi khổ phát sinh từ nội tâm do Thích, Ghét và
Tìm kiếm (mà thuật ngữ Phật Giáo gọi là Tham Sân Si). Họ có thể tham dự các
khoá học về KỸ NĂNG SỐNG THÍCH NGHI, KỸ NĂNG CHẤM DỨT KHỔ

NGAY BÂY GIỜ VÀ TẠI ĐÂY. Trước tiên họ sẽ học và rèn luyện KỸ NĂNG
CHÚ TÂM LIÊN TỤC giúp cho họ nhiếp phục Tham Sân Si, làm cho KHỔ
KHÔNG CÓ MẶT. Đây là chi phần Chánh Định trong Bát Chánh Đạo mà Đức
Phật Thích Ca đã chứng ngộ và thuyết giảng. Kỹ năng chú tâm liên tục không
những giúp họ sống thích nghi với mọi hoàn cảnh, mọi con người mà còn làm
phát sinh nơi NỘI TÂM một trạng thái TÍCH CỰC, VUI và THOẢI MÁI do
Chánh Tinh Tấn - Chánh Định khởi lên. Với kỹ năng chú tâm liên tục họ sống
bình an nơi nội tâm, tự mình nương tựa nơi chính mình, không cần nương tựa
vào bất kỳ một ai khác nữa. Trong khoá học nếu là người trí, họ có thể lĩnh hội
được một TRI THỨC MỚI là Hiểu Biết Đúng Sự Thật về các sự vật hiện tượng
và nhờ đó họ không còn sợ hãi đối với cái chết, bình thản đón nhận nó và đạt
giải thoát, chấm dứt luân hồi tái sinh trong tiến trình chết.

Học viện Gosinga ra đời để truyền bá Kỹ năng sống thích nghi, kỹ năng chấm
dứt khổ ngay bây giờ và tại đây sẽ làm thay đổi toàn diện cuộc đời con người
trong đó có những người già, những người đã nghỉ hưu, thay đổi về chất các
trung tâm dưỡng lão không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Những tri
thức này không phải là Kinh Nghiệm Cá Nhân (đúng cho người này mà không
đúng cho người kia) mà là Quy Luật Phổ Quát cho toàn thể nhân loại.

Về mục lục

Bài 128: SƯỚNG VÀ KHỔ

Con người dù già trẻ gái trai giàu nghèo ngu trí, dù thuộc sắc tộc hay tôn giáo
nào (ngoại trừ những người đã Giác Ngộ) có thể hiểu biết nhiều lĩnh vực khác
nhau, làm nhiều công việc khác nhau, tìm kiếm khác nhau, mục đích có vẻ khác
nhau nhưng đều xoay quanh SƯỚNG và KHỔ, đồng quy về SƯỚNG KHỔ hay
xoay quanh Khổ và Vui, đồng quy về Khổ Vui. Cụ thể mục đích sống của nhân
loại là nỗ lực cố gắng để HẾT KHỔ ĐƯỢC VUI. Mọi hoạt động của nhân loại
từ các khám phá, phát minh của triết học, khoa học kỹ thuật đến tôn giáo đều
nhằm mục tiêu giúp cho con người Hết Khổ Được Vui. Nhưng những tri thức
mà nhân loại đã khám phá, đặc biệt là các phát minh của khoa học kỹ thuật đã
biến thế giới này từ hiểu biết ít ỏi, tối tăm, nghèo đói lạc hậu, thiếu thốn tiện
nghi thành một thế giới thông minh, giàu có, đầy đủ tiện nghi nhưng nhân loại
thì không hết khổ mà chỉ đổi cái khổ này lấy cái khổ khác mà thậm chí những
nỗi khổ sau còn trầm trọng hơn những nỗi khổ trước đã qua.

Vì sao vậy? Vì nhân loại hàng ngày CẢM NHẬN KHỔ nhưng đã HIỂU BIẾT
SAI KHỔ. Nhân loại đã MẶC ĐỊNH rằng Khổ và Nguyên nhân Khổ thuộc về
Thế giới ngoại cảnh. Và vì bị hiểu biết đã mặc định đó chi phối, nên lịch sử
nhân loại đã làm là khám phá thế giới ngoại cảnh để thay đổi thế giới ngoại
cảnh hy vọng rằng sẽ Hết Khổ Được Vui.

Nhưng nếu biết cách khám phá và khám phá ĐÚNG SỰ THẬT KHỔ thì những
nỗi khổ do hoàn cảnh sống, do thế giới ngoại cảnh “gây ra” chỉ vẻn vẹn tối đa
từ 5 đến 10% toàn bộ nỗi khổ mà con người cảm nhận. Còn 90 đến 95% nỗi khổ
mà con người cảm nhận lại phát sinh từ nội tâm, từ Tham Sân Si nơi nội tâm mà
phát sinh. Vì vậy, thay đổi Thế giới ngoại cảnh để hết khổ được vui chỉ giải
quyết được 5 đến 10% nỗi khổ còn 90 đến 95% khổ vẫn còn y nguyên. Một
người nỗ lực cố gắng mà đạt được sự sang giàu, sức khỏe, danh tiếng tột đỉnh
thì chỉ giải quyết được tối đa 10% nỗi khổ còn 90% nỗi khổ vẫn y nguyên.

Một người trí sau khi biết như thật 90 đến 95% nỗi khổ phát sinh từ nội tâm, do
Tham Sân Si từ nội tâm thì chắc chắn họ sẽ ưu tiên chú tâm vào việc chấm dứt
90 đến 95% nỗi khổ phát sinh từ nội tâm. Đương nhiên Con đường chấm dứt
Khổ này phải là thay đổi nội tâm chứ không phải thay đổi thế giới ngoại cảnh.
Và sự thật thì cũng không dễ dàng mà thay đổi được tâm để chấm dứt được 90
đến 95% nỗi khổ này. Những người nào có phẩm chất trí tuệ, có nỗ lực cố gắng
mới có thể tiếp thu Pháp học (Tứ Thánh Đế), liên tục thực hành Pháp thành (Tứ
Niệm Xứ) và theo đó mà trải nghiệm, thân chứng Pháp thành (Tâm Giải Thoát -
Tuệ Giải Thoát) thì sẽ thay đổi được tâm, từ lộ trình tâm Tám Tà (Bát Tà Đạo)
có Tham Sân Si, có Khổ đau thành lộ trình tâm Tám Chánh (Bát Chánh Đạo)
không có Tham Sân Si, không có Khổ.

Về mục lục

Bài 129: CHỊU ĐỰNG VÀ CHỜ ĐỢI

Tâm thức nhân loại vận hành theo một LẬP TRÌNH đã được cài đặt, Lập trình
ấy có 8 chi phần gọi là Tám Tà (Bát Tà Đạo) gồm Trí nhớ tà (Tà niệm) - Tư duy
tà (Tà tư duy) - Hiểu biết tà (Tà kiến) - Chú tâm tà (Tà định) - Tích cực tà (Tà
tinh tấn) - Lời nói tà, Hành động tà, Nuôi mạng tà (Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà
mạng). Và kết quả của sự vận hành lập trình Tám tà ấy là CHỊU ĐỰNG VÀ
CHỜ ĐỢI. Nghĩa là với mọi đầu vào của lập trình là Sáu Căn tiếp xúc Sáu Trần
thì đầu ra là Chịu Đựng và Chờ Đợi.

Chịu đựng và Chờ đợi cái gì? Chịu đựng khổ, chịu đựng những nỗi khổ trong
giây phút hiện tại, trong những công việc đang làm trong giây phút hiện tại và
Chờ đợi kết quả sẽ xảy ra trong tương lai, đó là Chờ đợi chấm dứt khổ và Chờ
đợi tận hưởng những niềm vui hạnh phúc trong tương lai. Nhân loại ai ai cũng
đặt ra cho mình một mục đích về TÀI SẢN và DANH TIẾNG và đinh ninh,
mặc định rằng đạt được Tài sản và Danh tiếng ấy là cuộc đời được an bài là
“xong phim”, là HẾT KHỔ và kể từ đây chỉ còn tận hưởng niềm vui hạnh phúc,
còn những nỗ lực cố gắng, những nỗi khổ niềm đau chỉ còn là dĩ vãng. Chính vì
đã mặc định như vậy nên ai ai cũng cố gắng chịu đựng mọi cay đắng của cuộc
đời với tin tưởng, với hy vọng, đây là sự chịu đựng cuối cùng, sau sự chịu đựng
này không còn một sự chịu đựng nào khác nữa, không còn nỗi khổ niềm đau
nào khác nữa, chỉ còn toàn là niềm vui hạnh phúc lạc thú giống như cái kết thúc
có hậu của các câu chuyện dân gian, các cuốn tiểu thuyết hoặc thơ ca, điện ảnh.
Nhưng sự thật cuộc đời không xảy ra như vậy, không có cái kết có hậu như
phim ảnh tiểu thuyết. Sự thật là sự Chịu đựng và Chờ đợi diễn tiến suốt cả cuộc
đời từ khi sinh ra cho đến khi chết đi, liên tục không ngừng nghỉ, không hề có
sự chấm dứt Chịu đựng và Chờ đợi, ngoại trừ những người đã Giác Ngộ. Chịu
đựng và Chờ đợi để có được 10 tỷ, có được 10 tỷ lại Chịu đựng và Chờ đợi để
có 100 tỷ, rồi lại Chịu đựng và Chờ đợi để có 1000 tỷ, 10000 tỷ... Chịu đựng và
Chờ đợi để lên chức, từ chức này đến chức kia, Chịu đựng và Chờ đợi để được
nổi tiếng từ sắc đẹp, tài sản đến tri thức, phát minh, nghiên cứu khoa học...
Chịu đựng và Chờ đợi từ khi mang thai đến khi đứa con ra đời nhưng khi đứa
con ra đời tốt đẹp mỹ mãn thì Chịu đựng và Chờ đợi không kết thúc, mà lại tiếp
tục Chịu đựng và Chờ đợi đứa con biết nói, biết đi. Chịu đựng và Chờ đợi đứa
con vào lớp một, lên cấp hai, vào đại học rồi tìm kiếm việc làm, dựng vợ gả
chồng, đến cả việc sinh ra và lớn lên của các cháu nội ngoại... Cuộc đời không
bao giờ chấm dứt Chịu đựng và Chờ đợi bởi đó là bản chất, là tự tánh của thế
gian, là bản chất là tự tánh của lộ trình tâm Tám Tà đã được lập trình. Lizt, một
nhà soạn nhạc Hungary đã diễn tả điều này bằng âm nhạc qua bản giao hưởng
“Khúc nhạc dạo đầu” với chủ đề “Cuộc đời, từ những tiếng ru êm đềm của mẹ,
những hương vị ngọt ngào của tình yêu đầu tiên, những niềm tin ngây thơ và dễ
dãi bị cuộc đời vùi dập, chà đạp và tan vỡ, đến khi lao vào cuộc đấu tranh và
tìm được hạnh phúc trong chiến thắng... Và cả bản hành khúc tang lễ cuối cùng.
Tất cả, tất cả đều chỉ là khúc nhạc dạo đầu”.

Nhiều kiến giải cho rằng nhân loại không sống trong giây phút hiện tại, bỏ quên
hiện tại mà sống bởi quá khứ và tương lai, vì thế mà phải khổ. Điều này không
đúng sự thật. Sự thật là bất kỳ ai cũng đang sống trong giây phút hiện tại nhưng
với cách thức CHỊU ĐỰNG KHỔ VÀ CHỜ ĐỢI HẾT KHỔ. Chỉ có một con
người duy nhất, có một không hai trong lịch sử nhân loại đã chứng ngộ và
thuyết giảng một cách thức CHẤM DỨT KHỔ NGAY BÂY GIỜ VÀ TẠI
ĐÂY, cũng đồng nghĩa CHẤM DỨT CHỊU ĐỰNG KHỔ, CHẤM DỨT CHỜ
ĐỢI HẾT KHỔ. Đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài đã chứng ngộ và
thuyết giảng một lập trình tâm Tám Chánh (Bát Chánh Đạo) có bản chất, có tự
tánh là Chấm dứt khổ ngay bây giờ và tại đây gồm: Trí nhớ Chánh (Chánh
niệm) - Tích cực chánh (Chánh tinh tấn) - Chú tâm chánh (Chánh định) - Tư duy
chánh (Chánh tư duy) - Hiểu biết chánh (Chánh kiến) - Lói nói chánh, Hành
động chánh, Nuôi mạng chánh (Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng).

Nhưng bài giảng này không dành cho tất cả nhân loại mà chỉ dành cho người trí,
những ai khát khao khám phá sự thật thực tại, khát khao khám phá chân lý,
những ai muốn chấm dứt “Chịu đựng khổ và Chờ đợi hết khổ”.

Về mục lục

Bài 130: THÀNH CÔNG VÀ THẤT BẠI

Thành công và Thất bại cũng thuộc về Tám ngọn gió đời (Sống Chết, Sướng
Khổ, Vinh Nhục, Khen Chê) đang cuốn trôi con người trong dòng xoáy bất tận
của nó, quăng quật con người từ chỗ nọ sang chỗ kia, từ đời này cho đến đời kia
trong luân hồi bất tận và vì vậy, phải gánh chịu biết bao cay đắng, sầu bi khổ
não. Vì sao vậy? Vì con người sống bởi THÍCH VÀ GHÉT mà thuật ngữ Phật
học gọi là Tham và Sân. Thích THÀNH CÔNG, Ghét THẤT BẠI là bản chất,
là tự tánh của con người (ngoại trừ những người đã Giác Ngộ) vì nhân loại đã
hiểu biết, đã mặc định rằng Thành công mang đến Hạnh phúc còn Thất bại
mang đến Khổ đau. Nhưng sự thật không phải như vậy, chính Thích Thành
công và Ghét Thất bại là Nguyên nhân phát sinh Khổ đau trong cuộc sống. Vì
sao vậy? Vì THÀNH CÔNG hay THẤT BẠI là các CẢM GIÁC (Cảm Thọ)
thuộc phạm trù Tâm chứ không thuộc về Thế giới ngoại cảnh, nó có bản chất,
có tự tánh Vô Thường, Vô Chủ Vô Sở Hữu (Vô ngã). Vì nó Vô thường, sinh
lên
rồi diệt đi ngay (là những khoảnh khắc ngắn ngủi nối tiếp nhau) nên nếu yêu
thích Cảm giác thành công thì sẽ muốn nắm giữ nó, muốn nó là của mình mãi
mãi (ràng buộc) nên khi nó biến hoại, biến diệt, mất đi Sầu bi khổ não sẽ khởi
lên. Vì thích Cảm giác thành công nên khi mất nó đi lại phải lao tâm khổ trí để
tìm kiếm một Cảm giác thành công khác để thay thế và suốt đời tìm kiếm đuổi
bắt các Cảm giác thành công không dừng nghỉ, nhưng không bao giờ nắm giữ
được nó, sở hữu được nó. Điều này hình dung như những đứa trẻ chơi trò đuổi
bắt các bong bóng xà phòng và khi tay nó chạm nắm được một cái bong bóng
xà phòng thì cũng là lúc bong bóng vỡ tan. Tuy suốt đời Thích thú tìm kiếm,
đuổi bắt Thành công để nắm giữ nó, sở hữu nó bởi nghĩ như vậy sẽ đem lại
Hạnh phúc cho mình mãi mãi nhưng kết quả mà con người nhận được tuy có
được tí chút niềm vui nhưng vui thì ít, khổ nhiều, não nhiều mà nguy hiểm lại
càng nhiều hơn. Vì Ghét THẤT BẠI (do nghĩ rằng thất bại mang đến khổ cho
mình) nên muốn xa lánh nó, xua đuổi nó, tiêu diệt nó nhưng vì THẤT BẠI là
CẢM GIÁC (Cảm thọ) thuộc phạm trù Tâm, nó có bản chất, có tự tánh Vô chủ
Vô sở hữu (không có cái gì, không có ai có thể làm chủ, sở hữu, điều khiển,
nắm giữ, xua đuổi được nó). Vì sân mà muốn vậy nhưng không thể làm được
như vậy nên sầu bi, khổ não sẽ khởi lên.

Thích thú Thành công, Chán ghét Thất bại là Nguyên nhân phát sinh Sầu bi khổ
não trong cuộc đời. Đây là sự thật, nhưng vì Không hiểu biết đúng sự thật này
nên con người bị chi phối bởi Hiểu biết sai sự thật Thích thú Thành công, Chán
ghét Thất bại sẽ đưa đến Niềm vui hạnh phúc cho mình nên con người tìm mọi
cách học hỏi, trao truyền, phân tích, chỉ dẫn, giảng giải về Thành Công để tránh
Thất bại. Những cuốn sách được viết ra, những khoá học được tổ chức, những
phân tích giảng giải về Thành công đều phát sinh từ vô minh, từ thích ghét
(tham sân) không thể diễn giảng đúng sự thật về Thành công và Thất bại. Một
số kinh nghiệm Thành công và Thất bại mà một số người đạt được chia sẻ hết
sức thành thật nhưng nó là KINH NGHIỆM CÁ NHÂN KHÔNG MANG TÍNH
PHỔ QUÁT, nghĩa là nó đúng cho người này nhưng lại không đúng cho người
kia. Cái gì là Chân Lý sẽ có tính phổ quát, nghĩa là phải đúng cho tất cả mọi
người. Các khoá học về Thành công, kể cả người dạy và người học đều bị chi
phối bởi Thích Thành công, Ghét Thất bại (Tham Sân), các kiến thức được
giảng dạy vì thế cũng nhuốm màu Vô minh nên kết quả mà người học đạt được
cũng là Chịu đựng Khổ và Chờ đợi hết Khổ mà thôi, không thể chấm dứt Chịu
đựng Khổ, không thể chấm dứt Chờ đợi hết Khổ.

Giáo pháp mà Đức Thế Tôn đã chứng ngộ và thuyết giảng là để Chấm dứt
Thích Ghét (Tham Sân) nên khi chấm dứt thích ghét thì sẽ thích nghi với mọi
đối tượng kể cả Thành công và Thất bại. Khi đã thích nghi mọi đối tượng,
không còn thích ghét bất kỳ một đối tượng nào thì tâm thức người đó không
còn có khái niệm Thuận lợi hay Khó khăn, không còn có khái niệm Thành công
hay Thất bại. Tâm sẽ hoàn toàn “bất động” trước thành công hay thất bại, bất
động trước tám ngọn gió đời. Lúc nào tâm an trú bốn loại Trí nhớ Chánh
(Chánh niệm): Nhớ đến tích cực chú tâm quán sát (theo dõi) thân nơi thân; Nhớ
đến tích cực chú tâm quán sát thọ nơi thọ; Nhớ đến tích cực chú tâm quán sát
tâm nơi tâm; Nhớ đến tích cực chú tâm quán sát pháp nơi pháp (pháp mà Đức
Thế Tôn đã chứng ngộ và thuyết giảng) thì lúc đó sẽ thích nghi, sẽ bất động với
Thành công và Thất bại, lúc đó sẽ không tìm kiếm, không tìm đến lớp học để
tìm học các phương pháp để thành công trong mọi việc.

Về mục lục

Bài 131: TỈNH GIÁC CHÍNH LÀ TRỰC GIÁC

Tỉnh Giác là một thuật ngữ Phật học Hán Việt xuất hiện trong kinh điển Bắc tông
lẫn Nam tông. Ngôn từ Tỉnh Giác là pháp chế định, là quy ước của con người, do
con người đặt ra, dùng làm phương tiện truyền thông, nhằm trỏ đến một hiện
tượng đang xảy ra. Hiện tượng đó là trạng thái tâm chỉ có duy nhất một loại tâm
biết “TRỰC TIẾP GIÁC QUAN” ghi nhận hay nhận biết đối tượng còn loại tâm
biết Ý thức không khởi lên. Khi một đối tượng thực tại xuất hiện thì cũng xuất
hiện hai loại tâm biết có phận sự biết đối tượng đó:
- Một là: Tâm biết TRỰC TIẾP GIÁC QUAN có phận sự Ghi Nhận hay Nhận
Biết đối tượng mà Triết học, Tâm lý học gọi là NHẬN THỨC CẢM TÍNH đối
tượng. Cụ thể có 6 loại tâm biết trực tiếp ghi nhận 6 loại đối tượng thực tại: Nhãn
thức ghi nhận đối tượng hình ảnh, Nhĩ thức ghi nhận đối tượng âm thanh, Tỷ thức
ghi nhận đối tượng mùi, Thiệt thức ghi nhận đối tượng vị, Thân thức ghi nhận đối
tượng xúc chạm và Tưởng thức ghi nhận đối tượng pháp trần. Tâm biết trực tiếp
giác quan có nhiệm vụ ghi nhận đối tượng, đối tượng như thế nào thì sẽ ghi nhận
như vậy, không thêm bớt bởi tri thức kinh nghiệm nên biết đúng sự thật (ghi nhận
đúng sự thật). Tâm biết trực tiếp này không có khái niệm, không có ngôn từ,
không có phân biệt nên gọi nó là “vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt”, Thánh Phàm,
người và các động vật đều như nhau. Tâm biết trực tiếp giác quan sẽ không có nội
dung là Minh hay Vô Minh nên không làm phát sinh Tham Sân Si.
- Hai là: Tâm biết Ý thức có nhiệm vụ biết đối tượng vừa được ghi nhận đó là cái
gì, tính chất ra sao. Tâm biết Ý thức do Trí nhớ (Niệm) - Suy nghĩ (Tư duy) mà
khởi lên nên nó là TÂM BIẾT GIÁN TIẾP. Tâm biết Ý thức do học hỏi mà có
nên nội dung của nó phụ thuộc vào lượng thông tin được lưu giữ trong bộ nhớ tâm
thức. Nội dung của tâm biết Ý thức (tư tưởng) có khái niệm, có ngôn từ, có phân
biệt. Triết học, Tâm lý học gọi tâm biết này là NHẬN THỨC LÝ TÍNH đối
tượng. Tâm biết Ý thức khác nhau đối với các loài động vật, khác nhau đối với
các cá thể và được chia làm hai loại: Ý thức Tà kiến (Vô minh) và Ý thức Chánh
kiến (Minh). Ý thức Tà kiến (Vô minh) là nguyên nhân phát sinh tham sân si, Ý
thức Chánh kiến (Minh) thì không còn phát sinh tham sân si. Đối với lộ trình tâm
Tám Tà (Bát Tà Đạo) sau khi tâm biết trực tiếp thấy, nghe, cảm nhận đối tượng
(Ghi nhận đối tượng) thì tâm biết Ý thức Tà kiến khởi lên. Và do tâm biết Ý thức
Tà kiến nhận xét đánh giá đối tượng (tốt xấu, ngon dở, đúng sai, thiện ác...) nên sẽ
làm phát sinh hoặc Tham, hoặc Sân, hoặc Si với đối tượng. Ví như, đưa một bông
sen lên thì đứa trẻ mới đẻ chỉ có tâm biết trực tiếp Nhãn thức ghi nhận (thấy) đối
tượng, đứa trẻ không biết đối tượng được thấy đó là cái gì, vì tâm biết Ý thức
không khởi lên (do chưa được học hỏi). Đối với người lớn đã được học hỏi, sau
khi tâm biết trực tiếp Nhãn thức ghi nhận đối tượng thì tiếp liền theo đó, tâm biết
Ý thức khởi lên: Ta thấy bông hoa sen, đỏ hay trắng, thơm hay thối, đẹp hay xấu...
Người lớn có tâm biết Ý thức Tà kiến khởi lên như vậy sẽ làm phát sinh thích
hoặc ghét bông sen, còn đứa trẻ mới đẻ chỉ có tâm biết trực tiếp giác quan ghi
nhận đối tượng, nó không biết đối tượng đó là cái gì, đẹp hay xấu, thơm hay
thối... nên không có thích hay ghét đối tượng. Đoạn đầu của lộ trình tâm Tám Tà
(Bát Tà Đạo) diễn tả như sau: XÚC - < Thọ - Tưởng > - Tà niệm (Trí nhớ tà) - Tà
tư duy (Suy nghĩ tà) - Ý thức Tà kiến (Hiểu biết tà) - Tham Sân Si - ... (XÚC là
Căn Trần tiếp xúc nhau). Đối với lộ trình tâm Tám Chánh (Bát Chánh Đạo) khi có
Trí nhớ chánh về thân (Chánh niệm về thân) đó là: Nhớ đến tích cực chú tâm quán
sát thân nơi thân thì sẽ phát sinh Tích cực chánh (Chánh tinh tấn). Do Tích cực
Chánh mà sẽ phát sinh Chú tâm Chánh (Chánh định). Nhờ Chú tâm Chánh, là sự
chú tâm liên tục từ đối tượng này đến đối tượng khác theo tiến trình sinh diệt của
chúng, mà lộ trình tâm sẽ dừng lại tâm biết TRỰC TIẾP GIÁC QUAN, tâm biết Ý
thức không khởi lên. Trạng thái tâm chỉ có một loại tâm biết Trực tiếp giác quan
(tâm biết Ý thức không có mặt) thì được gọi là TỈNH GIÁC. Trạng thái tâm đó
không có Tham Sân Si, không có Phiền não. Kinh điển gọi tắt trạng thái đó là
Chánh niệm - Tỉnh giác. Tiến trình tâm này xảy ra theo lộ trình: XÚC - <Thọ -
Tưởng > - Chánh niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định - [ Tỉnh giác ] (XÚC là Căn
Trần tiếp xúc nhau).

Tâm biết TRỰC TIẾP GIÁC QUAN là tâm biết trực tiếp (khác với tâm biết Ý
thức là tâm biết gián tiếp) do Sáu Căn (Sáu Giác quan gồm Mắt Tai Mũi Lưỡi
Thân Ý) tiếp xúc với Sáu Trần gồm Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp mà phát
sinh nên gọi là tâm biết Trực tiếp giác quan và gọi tắt là TRỰC GIÁC. Vì vậy,
có thể dùng từ TRỰC GIÁC thay cho từ TỈNH GIÁC sẽ dễ hiểu hơn đối với
người học. Từ TRỰC GIÁC đã được dùng đến trong văn học Thiền tông Trung
hoa nhưng lại bị hiểu nhầm sang thành trực giác tâm linh, một cái biết mầu
nhiệm về tâm linh mà chỉ có các bậc thầy tâm linh mới có. Có thể diễn tả lộ
trình tâm có Chánh niệm - Tỉnh giác theo ngôn từ mới là: XÚC - < Cảm giác -
Ghi nhận (Thọ - Tưởng) > - Trí nhớ Chánh (Chánh niệm) - Tích cực Chánh
(Chánh tinh tấn) - Chú tâm Chánh (Chánh định) - [Trực giác (Tỉnh giác)]

Trong Bát Chánh Đạo gồm CHỈ và QUÁN thì lộ trình tâm có Trí nhớ Chánh:
Nhớ đến tích cực chú tâm quán sát thân nơi thân như sơ đồ trên gọi là CHỈ
(dừng lại tâm biết Trực Giác). Với Tu Chỉ thì không những người tu kinh
nghiệm được các tầng thiền như Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền mà
còn kinh nghiệm được tâm biết TRỰC GIÁC (Tỉnh Giác) với MỌI ĐỐI
TƯỢNG, kinh nghiệm được không có Tham Sân Si, kinh nghiệm được Khổ
Diệt hay Niết Bàn với tất cả MỌI ĐỐI TƯỢNG THỰC TẠI. Niết bàn hay Giải
thoát trong trường hợp Tu Chỉ như vậy do nhóm Định (Định uẩn) gồm Chánh
niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định mà có, nên gọi là Tâm giải thoát. Những
kiến giải sau này cho rằng Thiền Chỉ và Thiền Quán trong đó Thiền Chỉ là chú
tâm vào một đối tượng duy nhất, buộc tâm vào một đối tượng duy nhất để đạt
được Sơ thiền, Nhị thiền, Tâm thiền, Tứ thiền còn Thiền Quán thì ngược lại
không chú tâm vào một đối tượng duy nhất nào nên không có tầng định nào là
những kiến giải sai lạc, không thể đưa đến Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát,
không đúng với Giáo Pháp mà Đức Thế Tôn đã chứng ngộ và thuyết giảng.

Về mục lục
Bài 132: GIỚI CẤM THỦ VÀ GIỚI TRONG GIỚI LUẬT BẬC THÁNH

Có hai khái niệm khác nhau nhưng đa số người học Phật nhầm lẫn, đồng hoá
chúng, không phân biệt chúng rõ ràng, đó là GIỚI và LUẬT.

* GIỚI là những lời nói, hành động, ăn uống nuôi mạng có tính chất “trong
sạch”, đó là những lời nói, hành động không có sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói
dối, uống rượu (và các chất gây say sưa, nghiện ngập). Trong Bát Chánh Đạo,
gồm ba nhóm (ba uẩn) Giới - Định - Tuệ thì Giới chính là Chánh ngữ, Chánh
nghiệp, Chánh mạng. Đây là lời nói, hành động xảy ra trên lộ trình tâm Bát
Chánh Đạo do Chánh kiến làm nhân mà phát sinh. Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng được gọi là Giới vì nó không do Tham Sân Si khởi lên, không còn
là tác nhân phát sinh Khổ. Vì vậy, Giới (Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng)
không còn TẠO TÁC RA KHỔ nên gọi là VÔ TÁC GIẢI THOÁT, là một trong
ba giải thoát (Không giải thoát, Vô tướng giải thoát, Vô tác giải thoát). Giới phát
sinh do Định (Chánh định) và Tuệ (Chánh kiến) trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo
theo tuần tự:

XÚC Thọ - Tưởng Chánh niệm Chánh tinh tấn Chánh định [Tỉnh
giác] Chánh tư duy Chánh kiến Như lý tác ý Chánh ngữ, Chánh
nghiệp, Chánh mạng.

Mô tả thuần tuý tiếng Việt sẽ là:

XÚC Cảm giác - Ghi nhận Trí nhớ Chánh Tích cực Chánh Chú tâm
Chánh [Trực giác] Tư duy Chánh Hiểu biết Chánh Quyết định
(chánh) Lời nói Chánh, Hành động Chánh, Nuôi mạng Chánh.

* LUẬT là những điều học, những quy định mà Đức Phật chế định ra, những
điều cấm kỵ bắt buộc người học phải tuân thủ như cấm sát sanh, cấm trộm cắp,
cấm tà dâm... nhằm đưa đến lời nói hành động được “trong sạch”, để có Giới.
Luật của Phật tử tại gia có 5 điều cấm hoặc 8 điều cấm, luật của Tỷ kheo có 227
điều cấm, Tỷ kheo ni có trên 300 điều cấm... Luật còn gọi là Giới bổn hay tiếng
Pali gọi là Patimokha. Nguyên do Đức Phật chế định Giới bổn Patimokha, gồm
các điều luật, những điều cấm kỵ, những điều không được làm là do một số Tỷ
kheo không tu tập Bát Chánh Đạo, không có Chánh Định (Định), không có
Chánh Kiến (Tuệ) nên không có Giới (Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng).
Lời nói, hành động của họ do không tu tập Bát Chánh Đạo, không có Giới mà
nó phát sinh từ Bát Tà Đạo, nên nó là Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng do Tham Sân
Si khởi lên. Những lời nói, hành động đó làm phát sinh một số tệ nạn trong đời
sống Tăng đoàn, làm xáo động đời sống của các Tỷ kheo hiền thiện, làm cho
quần chúng chưa có lòng tin không có được lòng tin, làm cho ai có lòng tin nơi
Chánh pháp bị sụt giảm. Những điều luật, những điều cấm kỵ mà Đức Phật chế
định nhằm chế ngự hạng người không có Giới này, chứ không phải là giữ trọn
những điều cấm kỵ (Luật) sẽ phát sinh Định, Định sẽ phát sinh Tuệ (Giới Luật
sinh Định, Định sinh Tuệ) như các chú giải, luận giải sau này.

GIỚI và LUẬT là hai khái niệm khác nhau mà Đức Phật đã chứng ngộ và
thuyết giảng gồm Pháp và Luật, trong đó GIỚI thuộc về Pháp, còn LUẬT hiểu
đúng là Luật lệ được quy định trong đời sống Tăng đoàn thuộc về Luật. Vì GIỚI
thuộc về Pháp, thuộc Tạng Kinh, nên có tính chất là “không bị chi phối bởi thời
gian, không gian” nên bất kỳ vị Phật nào thuộc quá khứ, hiện tại, vị lai thuyết
giảng lộ trình tâm Bát Chánh Đạo đều thuyết giảng về Định, Tuệ, Giới, bất cứ
ai, nơi nào, thời gian nào mà Bát Chánh Đạo khởi lên thì đều có GIỚI, đều có
Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng như nhau không sai khác. LUẬT thuộc
về Tạng Luật, là luật lệ được đặt ra nên nó thay đổi theo thời gian và không
gian, tuỳ theo thời gian và địa điểm mà nó được chế ra, được áp dụng. Có những
điều luật chỉ áp dụng cho chỗ này mà không áp dụng cho chỗ kia, cho thời gian
này mà không cho thời gian kia. Vì vậy, trong 20 năm đầu của lịch sử Tăng
đoàn chưa có một điều luật nào được chế định, và trước khi nhập diệt Đức Phật
đã căn dặn: Sau khi Như Lai nhập diệt, chư Tăng có thể bỏ đi một số điều luật
(học giới) nhỏ nhặt (không quan trọng). Trong Tạng Luật cũng đã nói rõ, trong
sáu vị Phật quá khứ (xuất hiện trước Đức Phật Gotama) thì chỉ có 3 vị có chế
định các điều luật, 3 vị còn lại không chế định, không lưu hành một điều luật,
một cấm kỵ nào.

Giới cấm thủ và Giới trong Bát Chánh Đạo: lấy một Giới cụ thể là hành vi
không sát sanh để hiểu về tất cả Giới:

- Giới cấm thủ: Những người chưa học hỏi về Đạo Phật, chưa tiếp xúc với Đạo
Phật, chưa nghe nói đến cấm kỵ sát sanh thì họ có thể có hành vi sát sanh. Hành
vi sát sanh của họ hoặc do Tham, hoặc do Sân, hoặc do Si. Sát sanh do Tham
như thích thịt ngon của con vật, thích nhiều tiền nên làm nghề đồ tể..., sát sanh
do Sân như bị con muỗi đốt nên tức giận đập chết con muỗi..., sát sanh do Si là
tìm kiếm niềm vui trong việc sát sanh như ngày chủ nhật rảnh rỗi đi tìm thú vui
trong câu cá, bắn chim... Những người được nghe giảng: sát sanh sẽ bị đọa địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh, tương lai sẽ bị bệnh tật, kiếp sau sinh ra sẽ bị đui què
mẻ sứt, sẽ sống trong nghèo khổ, tật bệnh... Không sát sanh thì kiếp sau sẽ được
làm người tốt đẹp, khỏe mạnh giàu có. Do nghe, hiểu và tin như vậy nên những
điều đã học được lưu giữ vào bộ nhớ tâm thức. Khi những người này đối diện
với tình huống tương tự thì do Trí nhớ, nhớ lại những điều đã học trên mà sẽ
khởi lên Hiểu biết: nếu sát sanh sẽ bị đọa địa ngục, ngạ quỷ..., nếu không sát
sanh thì tương lai sẽ hạnh phúc... Do Hiểu biết như vậy mà sẽ phát sinh hành vi
Thích thú (tham) hạnh phúc do không sát sanh, Sợ hãi (sân) nỗi khổ của sát
sinh. Và do Thích, do Ghét (Tham Sân) như vậy mà những người đó sẽ không
sát sanh, họ thành tựu Giới không sát sinh. Nhưng Giới thành tựu như vậy do
Tham, do Sân mà khởi lên nên gọi là Giới Cấm Thủ. Mọi Giới khác thành tựu
nhưng do Tham, do Sân, do Si thì đều thuộc Giới Cấm Thủ, không phải là Giới
trong Giới Luật bậc Thánh.

- Giới thành tựu trong Bát Chánh Đạo: Những người đã nghe giảng về Tứ
Thánh Đế có được Hiểu biết đúng sự thật Nguyên nhân Khổ là Tham Sân Si,
Chấm dứt Tham Sân Si là Chấm dứt Khổ. Sát sanh là do Tham Sân Si, sẽ đưa
đến khổ, không sát sanh sẽ nhiếp phục rồi đoạn tận tham sân si, sẽ chấm dứt
khổ. Khi đối diện tình huống tương tự nếu họ Nhớ được điều đã học trên
(Chánh niệm) thì họ sẽ có Hiểu biết đúng sự thật về Khổ Tập Diệt Đạo (Chánh
kiến) và do hiểu biết đó mà họ sẽ không sát sanh, thành tựu được Giới không sát
sanh. Giới được thành tựu như vậy không do Tham Sân Si mà do Chánh niệm
(Trí nhớ chánh), do Chánh kiến (Hiểu biết chánh) trên Bát Chánh Đạo mà thành
tựu nên đó chính là Giới trong Giới Luật bậc Thánh.

Chỉ khi nào tu tập Bát Chánh Đạo, an trú lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế
với BA TRỤ CỘT là Chánh Niệm (Trí nhớ Chánh) - Chánh Định (Chú tâm
Chánh) - Chánh Kiến (Hiểu biết Chánh) gọi tắt là Niệm - Định - Tuệ thì lúc đó
GIỚI mới được thành tựu. Giới được thành tựu do Chánh Niệm - Chánh Định -
Chánh Kiến (Niệm - Định - Tuệ) mới là Giới trong Giới Luật bậc Thánh. Khi
không tu tập Bát Chánh Đạo, không có Niệm - Định - Tuệ thì lộ trình tâm đó là
Bát Tà Đạo với Tà Niệm - Tà Định - Tà Kiến, với Tham Sân Si, Phiền não và
nếu thành tựu Giới thì Giới đó là Giới Cấm Thủ. Muốn hiểu đúng và tu đúng
theo Chánh Pháp mà Đức Thế Tôn đã chứng ngộ và thuyết giảng, mức đầu tiên
là bậc Thánh Nhập lưu thì phải Chấm Dứt Giới Cấm Thủ.

Về mục lục

Bài 133: CHỨNG NGỘ TỨ THÁNH ĐẾ VỚI LẠC VÀ HỶ

Trong các bộ kinh Nikaya có một đoạn kinh được nhắc đi nhắc lại:

"Vô thỉ, này các Tỷ-kheo, là sự luân chuyển, khởi điểm không thể nêu rõ, đối
với (những đau khổ) do bị thương đâm, do bị kiếm chém, do bị búa chặt. Dầu
vậy đi chăng nữa, này các Tỷ-kheo, Ta cũng không tuyên bố rằng NHỜ KHỔ
VÀ ƯU mà Bốn Thánh Đế được chứng ngộ. Nhưng này các Tỷ-kheo, Ta tuyên
bố rằng NHỜ LẠC VÀ HỶ MÀ BỐN THÁNH ĐẾ ĐƯỢC CHỨNG NGỘ."
(Tương Ưng Bộ - Samyutta Nikaya, Tập V - Thiên Ðại Phẩm, Chương XII -
Tương Ưng Sự Thật (a), Phẩm rừng Simsapa, Kinh Một trăm cây thương, Hòa
thượng Thích Minh Châu dịch Việt).

Đoạn kinh trên là lời tuyên bố của Đức Phật, gồm có hai điều và điều thứ nhất,
không thể chứng ngộ Tứ Thánh Đế với Khổ và Ưu là một SỰ THẬT. Cho dù
một người đã kinh nghiệm khổ, đã trải qua trăm đắng ngàn cay, bị cắt chém, bị
tra tấn đày đọa với vô vàn đau đớn, tủi nhục suốt trong vô lượng kiếp thì người
đó cũng không thể chứng ngộ Tứ Thánh Đế. Trong kinh còn có một ví dụ với
lập luận khác tương tự: Nếu chứng ngộ được Tứ Thánh Đế với Khổ và Ưu thì
đâu cần phải Văn - Tư - Tu mà chỉ cần sáng đánh 300 hèo, chiều đánh 300 hèo,
tối đánh 300 hèo thì sẽ dư thừa khổ ưu để chứng ngộ Tứ Thánh Đế. Vì sao vậy?
Vì chứng ngộ Tứ Thánh Đế là chứng ngộ với Trí Tuệ chứ không phải chứng
ngộ với sự chịu đựng Khổ và Ưu. Nghĩa là chứng ngộ Khổ Đế và Tập Đế là
HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT về Khổ và Nguyên nhân Khổ (Trí Tuệ, Chánh
Kiến). Nhân loại, cho dù già trẻ gái trai, ngu trí, thánh phàm hễ có khổ thì ai ai
cũng cảm nhận được khổ, cũng thấy đó là khổ, cũng biết đó là khổ, không cần ai
chỉ dạy, không cần học hỏi ai. Nhưng nhân loại đều HIỂU BIẾT SAI SỰ THẬT
về Khổ và Nguyên nhân Khổ (Vô Minh, Tà Kiến) nên không thể chứng ngộ
Khổ Đế và Tập Đế. Trong lịch sử nhân loại, có một người duy nhất, không thầy
chỉ dạy, đã tự mình khám phá ra SỰ THẬT KHỔ và SỰ THẬT NGUYÊN
NHÂN KHỔ, Ngài đã có được HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT KHỔ VÀ
NGUYÊN NHÂN KHỔ. Đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, nên Ngài đã chứng
ngộ, đã giác ngộ Khổ Đế và Tập Đế. Ngoại trừ Đức Phật Chánh Đẳng Giác và
Độc Giác (tự mình giác ngộ, không thầy chỉ dạy) còn lại những ai muốn chứng
ngộ Khổ Đế và Tập Đế thì đều phải Nghe giảng, hoặc tự mình nghiên cứu lời
dạy của Đức Phật Chánh Đẳng Giác và Tư duy về những điều đã được nghe để
có được HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT về Khổ và Nguyên nhân Khổ (Văn Tuệ
và Tư Tuệ) thì mới chứng ngộ Khổ Đế và Tập Đế. Vì vậy, không thể chỉ trải
nghiệm khổ, chịu đựng khổ mà có thể chứng ngộ Khổ Đế và Tập Đế, tức không
thể chứng ngộ với Khổ và Ưu.

Điều thứ hai Ngài tuyên bố là phải chứng ngộ Tứ Thánh Đế với Lạc và Hỷ.
Nghĩa là thế nào? Nghĩa là Nghe giảng và Tư duy về những điều đã nghe giảng
để có được Văn Tuệ và Tư Tuệ, không những để chứng ngộ Khổ Đế và Tập Đế
mà còn có vai trò chuẩn bị để tu tập Bát Chánh Đạo. Khi và chỉ khi tu tập Bát
Chánh Đạo, làm khởi lên lộ trình tâm Tám Chánh mới có thể chứng ngộ hai đế
còn lại là Diệt Đế và Đạo Đế.

1 - Chứng ngộ Diệt Đế hay Niết Bàn (tiếng Ấn Độ phiên âm) là khi tu tập
khởi lên lộ trình tâm Tám Chánh (Bát Chánh Đạo) sẽ chứng và trú một trong
hai loại tâm biết.

* Một là khi khi Trí nhớ Chánh (Chánh niệm) nhớ đến tích cực chú tâm quán sát
thân nơi thân thì sẽ chứng và trú tâm biết Trực tiếp giác quan mà gọi tắt là Trực
Giác (Tỉnh Giác) có tánh chất “vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt” nên không có
Tham Sân Si với bất kỳ đối tượng thực tại nào, không có Ràng buộc, không có
Khổ Ưu, cũng không có Lạc Hỷ với bất kỳ đối tượng thực tại nào. Chứng ngộ
trạng thái vắng mặt, KHÔNG CÓ KHỔ ƯU, KHÔNG CÓ LẠC HỶ như vậy
gọi là chứng ngộ Diệt Đế hay chứng ngộ Niết Bàn (hữu dư).

* Hai là khi Trí nhớ Chánh, nhớ đến tích cực chú tâm quán sát thọ nơi thọ, tâm
nơi tâm, pháp nơi pháp thì sẽ chứng và trú tâm biết Ý thức Chánh Kiến. Lúc đó
sẽ chứng ngộ không có Tham Sân Si, không có Ràng buộc với bất kỳ đối tượng
thực tại nào, KHÔNG CÓ KHỔ ƯU, KHÔNG CÓ LẠC HỶ với bất kỳ đối
tượng thực tại nào. Đó là chứng ngộ Diệt Đế hay chứng ngộ Niết Bàn (hữu
dư).

2 - Chứng ngộ Đạo Đế hay chứng ngộ Con Đường Chấm Dứt Khổ là Con
Đường Tám Chánh (Bát Chánh Đạo). Đó là thấu đạt, là Hiểu biết đúng sự thật
về con đường Tám Chánh khởi lên theo quy luật Duyên khởi. Tuy lộ trình tâm
Tám Chánh có 8 chi phần khởi lên tuần tự theo quy luật Duyên khởi nhưng có
BA TRỤ CỘT chính là Chánh Niệm (Trí nhớ Chánh) - Chánh Định (Chú tâm
Chánh) - Chánh Kiến (Hiểu biết Chánh) gọi tắt là Niệm - Định - Tuệ. Chứng và
trú lộ trình tâm Tám Chánh là phải chứng và trú 3 chi phần căn bản là Chánh
Niệm - Chánh Định - Chánh Kiến. Mà Chánh Định gồm bốn mức độ là Sơ
thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền và Sơ thiền thì có Lạc Hỷ do ly dục sanh,
Nhị thiền thì có Lạc Hỷ do định sanh, Tam thiền có Lạc do xả sanh, Tứ thiền thì
có Hiện tại lạc trú nên chứng ngộ Bát Chánh Đạo thì sẽ chứng ngộ Lạc Hỷ do
Chánh Định khởi lên.

Vậy thì, khi tu tập Bát Chánh Đạo, sẽ chứng ngộ Diệt Đế và Đạo Đế với Lạc Hỷ
do Chánh Định khởi lên chứ không chứng ngộ với Khổ Ưu vì Khổ Ưu đã chấm
dứt trên Bát Chánh Đạo.

Trong thực tại thế gian (Bát Tà Đạo), tuy rằng có Khổ Ưu vẫn có Lạc Hỷ,
nhưng tại sao Lạc Hỷ ấy không chứng ngộ được Tứ Thánh Đế. Là tại vì, Lạc Hỷ
ấy do Tham ái các đối tượng bên ngoài mà phát sinh, do thích thú Sắc đẹp,
Tiếng hay, Hương thơm, Vị ngon, Xúc chạm êm ái... khởi lên. Lạc Hỷ ấy bản
chất vui ít, khổ nhiều, não nhiều mà nguy hiểm càng nhiều hơn. Lạc Hỷ ấy là
Phàm phu lạc, ô uế lạc, bất tịnh lạc. Lạc Hỷ trong thực tại xuất thế gian (Bát
Chánh Đạo) không do các đối tượng bên ngoài khởi lên mà do tâm hành Tích
cực Chánh, Chú tâm Chánh (Chánh tinh tấn, Chánh định) thuộc nội tâm khởi
lên, nên không ràng buộc với bất kỳ một đối tượng nào. Lạc Hỷ ấy là Thánh lạc,
Chánh giác lạc, an tịnh lạc. Một người tu tập mấy chục năm cho đến mấy a tăng
kỳ kiếp đi nữa nhưng chưa chứng và trú được Chánh định với mức độ tối thiểu
là Sơ thiền (hoặc các thiền chứng cao hơn) thì lộ trình tâm đó không phải Bát
Chánh Đạo mà chỉ là Bát Tà Đạo với Khổ và Ưu thì không bao giờ có thể Hiểu
biết đúng sự thật Tứ Thánh Đế, không thể chứng ngộ Tứ Thánh Đế với Lạc và
Hỷ được. Ngày nay, nhiều người bị nhồi sọ bởi hiểu biết sai lạc là thực hành để
chứng ngộ các pháp vô thường, khổ, vô ngã. Thực hành để chứng các pháp vô
thường, vô ngã là đúng nhưng để chứng ngộ các pháp là khổ là sai, là phi lý. Vì
sự thật, tu là để hết khổ, khi thực hành Bát Chánh Đạo để chứng ngộ Diệt đế,
chứng ngộ Khổ diệt, Hết khổ, còn đâu khổ nữa để mà chứng ngộ các pháp là
khổ. Hiểu sai như vậy, thì sẽ tu sai như vậy nên không thể chứng ngộ Tứ Thánh
Đế với khổ và ưu như vậy. Ngay cái hiểu biết các pháp đều khổ (các pháp vô
thường, khổ, vô ngã) là hiểu biết sai sự thật khổ, là vô minh về khổ, là cho rằng
khổ sẵn có, luôn luôn có, thường xuyên có, thường hằng, thường trú trong các
pháp Sắc Thọ Tưởng Hành Thức (Năm uẩn Sắc Thọ Tưởng Hành Thức là khổ).
Đó là Tà kiến gọi là Chấp Có, một trong hai Tà kiến là CHẤP CÓ và CHẤP
KHÔNG. Sự thật khổ là pháp duyên khởi, khổ do duyên xúc, khổ có tự tánh vô
thường, vô chủ vô sở hữu (vô ngã), nó sinh lên rồi diệt đi, không thường hằng
cũng không thường trú ở nơi nào, pháp nào cả.

Về mục lục

Bài 134: Ý CHỈ BÀI KINH PHÁP MÔN CĂN BẢN

Mở đầu Kinh Trung Bộ là bài kinh có tựa đề Pháp Môn Căn Bản, nhưng tựa đề
đó là theo Tiếng Tàu, còn theo ngữ pháp Tiếng Việt thì phải dịch là Căn Bản
Pháp Môn thì mới rõ nghĩa của bài kinh. Pháp môn phải được hiểu là những
Môn Học về Giáo Pháp mà Đức Phật đã chứng ngộ và giảng dạy. Ví như Pháp
mà Đức Phật đã chứng ngộ và thuyết giảng là Tứ Thánh Đế và trong Tứ Thánh
Đế lại gồm 4 pháp là Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Khi Ngài giảng về Tứ
Thánh Đế thì đó là một Môn Học nên gọi là một Pháp môn, giảng về Khổ đế là
một môn học nên cũng gọi là pháp môn, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế cũng là các
Pháp môn. Rồi trong Tứ Thánh Đế còn có môn học về Duyên khởi, môn học về
Vô thường, Vô ngã, môn học về Bát Tà Đạo, môn học về Bát Chánh Đạo v.v..
Tương tự như vậy, Giáo Pháp mà Đức Phật giảng dạy là các môn học có thể là
dạng tổng quát, có thể là dạng thành phần tỉ mỉ với các đề tài khác nhau nên có
rất nhiều môn học mà ngôn ngữ Ấn Độ thường cho con số rất nhiều pháp môn
đó vào con số tượng trưng là tám vạn bốn ngàn pháp môn.

Vậy thì nghĩa của tựa đề Căn Bản Pháp Môn là gì? Chữ Căn Bản trong Tiếng
Tàu là CỐT LÕI, là phần quan trọng nhất nên Căn Bản Pháp Môn là bài kinh
chỉ rõ cái CỐT LÕI, cái quan trọng nhất trong toàn bộ Giáo Pháp hay trong toàn
bộ các Môn Học (Pháp Môn) về Giáo Pháp mà Đức Thế Tôn đã chứng ngộ và
thuyết giảng. Bài kinh này có hai chủ đề chính:

A - Một là: Mục đích của thực hành Giáo Pháp là để thay đổi Thấy và Biết:
Trong bài kinh này mô tả Tâm Thấy và Tâm Biết của bốn hạng người gồm:
Phàm phu, Hữu học, A-la-hán và Như Lai. Trong đó Tâm Thấy là gọi tắt của
Thấy, Nghe, Cảm nhận các đối tượng thực tại (gồm Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ
thức, Thiệt thức, Thân thức và Tưởng thức) có phận sự ghi nhận hay nhận biết
trực tiếp đối tượng và Tâm Biết là Ý thức có phận sự biết đối tượng được ghi
nhận đó là cái gì, tính chất ra sao.

- Đối với Phàm phu: Thấy là Tưởng tri và Biết là Không liễu tri (biết của Ý thức
là không đúng sự thật, là Tà kiến). Gọi tâm thấy là Tưởng tri vì tâm thấy và tâm
biết khởi lên nối tiếp nhau, không tách rời tâm thấy ra khỏi tâm biết được.

- Đối với Hữu học (đang tu học, đang thực hành Bát Chánh Đạo): Thấy của vị
đó là Thắng tri, nghĩa là dừng lại tâm thấy mà tâm biết đối tượng là cái gì, tính
chất ra sao không khởi lên. Lúc này chỉ có tâm biết trực tiếp ghi nhận đối tượng
mà thôi nên gọi là Tỉnh Giác. Tâm Biết của vị đó chưa thành tựu rốt ráo Hiểu
Biết Đúng Sự Thật đối tượng (chưa thành tựu rốt ráo Chánh Kiến) nên tâm biết
ấy là Có thể Liễu tri.

- Đối với bậc A-la-hán và Như Lai (đã tu học xong, không còn phải tu học nữa
nên gọi là Vô học): Thấy là Thắng tri hay Tỉnh Giác và Biết là Đã Liễu tri tức
Chánh Kiến, Hiểu biết Đúng Sự thật đối tượng đã thành tựu rốt ráo.

Sự trình bày Thấy và Biết của 4 hạng người như vậy nhằm chỉ rõ một sự thật:
Tu Học theo Giáo Pháp mà Đức Thế Tôn đã chứng ngộ và thuyết giảng là để
thay đổi Thấy và Biết. Cụ thể là thay đổi TÂM THẤY từ TƯỞNG TRI của
Phàm phu thành THẮNG TRI hay TỈNH GIÁC của bậc Thánh và TÂM BIẾT
(Ý thức) từ TÀ KIẾN (Không Liễu tri) của Phàm phu thành CHÁNH KIẾN
(Liễu tri) của bậc Thánh. Vậy thì Căn Bản của sự tu học là để Giác ngộ, để
Chứng ngộ, để Thân chứng Tâm Thấy TỈNH GIÁC và Tâm Biết Ý thức
CHÁNH KIẾN.

1 - CHỨNG NGỘ TỈNH GIÁC: Chứng ngộ Tâm Thấy (Nghe, Cảm Nhận)
Tỉnh Giác. Nhờ Chánh Niệm về thân, Tiếng Việt là nhờ Trí Nhớ Chánh về
Thân, tức nhờ Nhớ đến: Tích cực chú tâm ghi nhận các đối tượng xuất hiện nơi
thân mà sẽ có Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định (Trí nhớ Chánh -
Tích cực Chánh - Chú tâm Chánh) thì lộ trình tâm sẽ dừng lại đó và lúc này chỉ
có tâm biết trực tiếp giác quan Thân thức ghi nhận các đối tượng (xúc chạm nơi
thân), Nhãn thức ghi nhận đối tượng (hình ảnh), Nhĩ thức ghi nhận đối tượng
(âm thanh), Tỷ thức ghi nhận đối tượng (mùi), Thiệt thức ghi nhận đối tượng
(vị), Tưởng thức ghi nhận đối tượng (pháp trần). Trạng thái tâm chỉ có tâm biết
trực tiếp ghi nhận đối tượng như vậy gọi là TỈNH GIÁC. Khi an trú tâm biết
trực tiếp gọi là Tỉnh Giác như vậy, sống với tâm biết Tỉnh giác như vậy, mới có
thể Tuệ tri tâm biết Tỉnh giác: Không Khái niệm, Không ngôn từ, Không Phân
biệt (Vô niệm, Vô ngôn, Vô phân biệt). Khi an trú Tỉnh Giác mới thân chứng,
mới tự thấy, tự biết chỉ có tâm biết trực tiếp ghi nhận đối tượng mà không có bất
kỳ ngôn từ, khái niệm nào khởi lên với đối tượng đó. Khái niệm thuộc tâm biết
ý thức cho nên khái niệm cũng gọi là ý niệm và khi an trú Tỉnh Giác thì không
khởi lên ý niệm (về đối tượng đó) to hay nhỏ, vuông hay tròn, dài hay ngắn, đẹp
hay xấu, thiện hay ác, sang hay hèn, vinh hay nhục, sống hay chết... đặc biệt là
không có ý niệm không gian, thời gian. Khi an trú Tỉnh giác không những Tuệ
tri Tỉnh giác “vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt” mà còn Tuệ tri, lúc đó Không
Tham Sân Si, Không Dính mắc, Không Ràng buộc, Không Phiền não với đối
tượng. Tuệ tri Không như vậy là Tuệ tri Giải thoát và Giải thoát đó gọi là Tâm
giải thoát hay Không giải thoát (hay Không tánh giải thoát). Vậy Tuệ tri Tỉnh
Giác cũng đồng nghĩa với Tuệ tri Tâm Không Tánh và Tâm Giải Thoát mà nói
tắt là chứng ngộ Tánh Không, chứng ngộ Giải Thoát. Nhưng phải lưu ý Tánh
Không là tánh chất của Tâm biết trực tiếp giác quan, gọi tắt là Trực giác chứ
không phải là Tánh Không của thế giới, của vũ trụ như cách hiểu của các trường
phái Phật giáo phát triển về sau.

Trong các khái niệm thì có khái niệm thời gian là cái mà người tu học phải thân
chứng trước tiên và nếu đã thân chứng được vô niệm thời gian (không có ý
niệm thời gian) thì các khái niệm còn lại sẽ thân chứng rất dễ dàng. Trước tiên
phải Tuệ tri khái niệm hay ý niệm thời gian trong đời sống của người không
thực hành Bát Chánh Đạo. Phải quan sát được ý niệm thời gian khởi lên như thế
nào. Ví như khi thấy hình ảnh mặt trời thì khởi lên ý niệm buổi sáng, trưa hay
tối; khi thấy kim đồng hồ chỉ số 9 thì khởi lên ý niệm đã 9 giờ; khi làm một việc
thì nghĩ đến đã sắp xong hay còn mấy giờ nữa mới xong hay bao giờ thì xong
v.v.. Đó là ý niệm thời gian đã khởi lên. Con người sống với ý niệm thời gian,
dự định mọi việc theo thời gian, sống bởi lạc quan, hy vọng là có ý niệm thời
gian... Khi ý niệm thời gian có mặt, nó là tư tưởng Tà kiến trên lộ trình tâm Bát
Tà Đạo thì con người bị trói buộc với thời gian và lúc đó là chờ đợi, hy vọng,
bất an, lo lắng, phiền não sẽ khởi lên. Hãy tuệ tri sự thật này khi không tu tập
Bát Chánh Đạo, khi có ý niệm thời gian thì Phiền não sẽ có mặt. Khi tu tập Bát
Chánh Đạo với Chánh niệm về thân thì khi thấy hình ảnh mặt trời chỉ có ghi
nhận đối tượng không khởi lên buổi sáng hay trưa chiều, khi thấy kim đồng hồ
chỉ con số 9, không có khởi lên 9 giờ... thì lúc đó không có khái niệm thời gian,
lúc đó là vô niệm (thời gian). Nếu trong một giờ tọa thiền, thiền hành, hay làm
việc... có Chánh niệm liên tục, không bị phân tâm, không hề có ý niệm thời gian
khởi lên thì khoảng thời gian đó là vô niệm, lúc đó sẽ biết rõ có sự an trú vững
chắc trong hiện tại bây giờ và ở đây, không bị trôi dạt vào quá khứ hay tương
lai, lúc đó sẽ tuệ tri Tánh không và Giải thoát. Điều này chỉ người thực hành
đúng mới thân chứng được. Nếu giả sử có một ý niệm thời gian khởi lên thì
Chánh kiến sẽ xuất hiện và ý niệm thời gian chấm dứt và tiếp tục an trú vô niệm
(đối với người đã tương đối thuần thục).

Nhưng tu tập Bát Chánh Đạo không phải chỉ thân chứng Tỉnh giác vô niệm, vô
ngôn, vô phân biệt mà còn phải thân chứng tâm biết ý thức Chánh Kiến có khái
niệm, có ngôn từ, có phân biệt nhưng Không Tham Sân Si, Không Dính mắc,
Không Ràng buộc, Không Phiền não.

2 - CHỨNG NGỘ CHÁNH KIẾN: Với Chánh niệm về Thọ, về Tâm, về Pháp
sẽ có 5 chi phần của Bát Chánh Đạo khởi lên gồm: Chánh niệm - Chánh Tinh
tấn - Chánh định - Chánh Tư duy - Chánh kiến (Trí nhớ Chánh - Tích cực
Chánh – Chú tâm Chánh - Tư duy Chánh - Hiểu biết Chánh). Và Chánh kiến
(Hiểu biết Chánh) sẽ tuệ tri, sẽ hiểu biết đúng sự thật các đối tượng thực tại
được ghi nhận gọi là Liễu tri các pháp. Có thể nói một cách tóm tắt sự chứng
ngộ Chánh Kiến là: Sau khi Thấy, Nghe, Cảm nhận đối tượng thực tại thì
Chánh kiến khởi lên, Biết Đúng Sự Thật (Tuệ Tri) các đối tượng đó là Cảm thọ,
do Căn Trần tiếp xúc mà phát sanh, nó vô thường, vô ngã (vô chủ, vô sở hữu),
có Vị ngọt, sự Nguy hiểm và sự Xuất ly. Như Đức Phật đã giác ngộ: Này các
Tỷ kheo, Như Lai nhờ tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự
xuất ly của Thọ mà Như Lai được giải thoát hoàn toàn không còn chấp thủ.
Không những chứng ngộ Chánh kiến (chứng ngộ Trí tuệ) mà còn chứng ngộ
Chánh kiến sẽ Không Tham Sân Si, Không Dính mắc, Không Ràng buộc,
Không Phiền não. Đó là chứng ngộ Giải thoát và Giải thoát này gọi là Tuệ giải
thoát hay Vô tướng giải thoát. Tâm biết ý thức Chánh kiến cũng còn gọi là Tâm
Vô Tướng (Tâm Không Tướng) nên giải thoát do Tâm Vô Tướng khởi lên như
vậy gọi là Vô Tướng Giải Thoát. Chứng ngộ Chánh Kiến phải theo lộ trình Văn
- Tư - Tu.

B - Hai là: Dục Hỷ là Nguyên nhân Khổ, Chấm dứt Dục hỷ là Chấm dứt Khổ:
Khi trình bày Thấy và Biết của Phàm phu với các đối tượng Đức Phật đều kết
luận: Do Biết của Phàm phu là Không Liễu tri đối tượng (Biết đó là Vô minh,
Tà kiến) làm phát sinh Dục hỷ (Tham muốn Hạnh phúc) và Dục hỷ là Nguyên
nhân Khổ. Đây là cốt lõi của Khổ đế và Tập đế.

Khi thay đổi được Thấy và Biết của Phàm phu từ Tưởng tri và Tà kiến (Không
Liễu tri) sang thành Thấy và Biết của bậc Thánh là Tỉnh Giác (Thắng tri) và
Chánh Kiến (Liễu tri) thì chấm dứt Dục hỷ, chấm dứt Nguyên nhân Khổ, chấm
dứt Khổ. Đây là cốt lõi của Diệt đế và Đạo đế.

Và cuối cùng thì cốt lõi hay căn bản pháp môn là Tứ Thánh Đế, Bốn Sự Thật
mà bậc Thánh đã giác ngộ.

Về mục lục

Bài 135: CHÁNH NIỆM: NHỚ ĐẾN TÍCH CỰC CHÚ TÂM GHI NHẬN
CÁC ĐỐI TƯỢNG NỔI TRỘI

Khi xuất hiện một đối tượng thực tại thì cũng xuất hiện hai loại Tâm biết, có
phận sự biết về đối tượng đó. Một là Tâm biết trực tiếp giác quan (gọi tắt là Trực
giác) có phận sự GHI NHẬN đối tượng mà triết học và tâm lý học gọi là Nhận
thức cảm tính đối tượng. Tâm biết trực giác này không có tri thức, khái niệm,
ngôn từ , phân biệt (vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt), ghi nhận trung thực đối
tượng, không thêm bớt, không bóp méo đối tượng bởi tri thức khái niệm, bởi yêu
ghét. Tâm biết trực giác không phát sinh tham sân si, không phát sinh khổ vui
với đối tượng, bao gồm: Nhãn thức ghi nhận đối tượng hình ảnh, Nhĩ thức ghi
nhận đối tượng âm thanh, Tỷ thức ghi nhận đối tượng mùi, Thiệt thức ghi nhận
đối tượng vị, Thân thức ghi nhận đối tượng xúc chạm và Tưởng thức ghi nhận
đối tượng pháp trần. Các tâm biết này chỉ có phận sự Thấy, Nghe, Cảm nhận đối
tượng.

Hai là Tâm biết ý thức có phận sự biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao.
Tâm biết ý thức khởi lên theo lộ trình: Niệm - Tư duy - Ý thức do quá trình học
hỏi mà có và nhờ Trí nhớ (Niệm) nhớ được những điều đã học, được lưu giữ
trong bộ nhớ tâm thức dưới dạng các thông tin pháp trần được mã hoá. Tâm biết
ý thức được triết học và tâm lý học gọi là Nhận thức lý tính đối tượng. Tâm biết
ý thức trên lộ trình tâm Tám Tà (Bát tà đạo), biết đối tượng không đúng sự thật,
gọi là vô minh tà kiến nên sẽ phát sinh tham sân si, phát sinh ràng buộc, phát
sinh khổ vui với đối tượng.

Trong cuộc sống hàng ngày, tại một thời điểm có rất nhiều đối tượng xuất hiện
sinh diệt nhanh chóng đan xen nhau nhưng bao giờ tại thời điểm đó cũng có
một ĐỐI TƯỢNG NỔI TRỘI nhất sinh lên rồi diệt đi và tiếp nối lại có một
ĐỐI TƯỢNG NỔI TRỘI khác sinh lên rồi diệt đi. Đối với các đối tượng không
nổi trội, lộ trình tâm sẽ DỪNG LẠI tâm biết trực giác không có thái độ, lời nói
hành động, không có khổ vui với các đối tượng này. Còn ĐỐI TƯỢNG NỔI
TRỘI thì tâm biết ý thức khởi lên xác định đối tượng đó là cái gì, đẹp hay xấu,
thơm hay thúi, trắng hay đen, đúng hay sai, thiện hay ác... Do tâm biết ý thức
như vậy mà sẽ có thái độ thích hay ghét, sẽ có lời nói, hành động phản ứng, và
sẽ có khổ vui với đối tượng. Nếu đối với các ĐỐI TƯỢNG NỔI TRỘI này mà
Trí nhớ, Nhớ đến chú tâm GHI NHẬN các đối tượng NỔI TRỘI khởi lên thì lộ
trình tâm sẽ DỪNG LẠI GHI NHẬN từ đối tượng nổi trội này sang đối tượng
nổi trội khác. Và như vậy TOÀN BỘ CÁC ĐỐI TƯỢNG kể cả các đối tượng
nổi trội hay không nổi trội sẽ chỉ có tâm biết trực giác ghi nhận đối tượng mà
tâm biết ý thức vô minh, tà kiến không khởi lên. Trạng thái tâm chỉ có tâm biết
trực giác như vậy gọi là TỈNH GIÁC. Với trạng thái Tỉnh Giác này sẽ không có
tham sân si, không có ràng buộc, không có phiền não với bất kỳ đối tượng này.
Tuệ tri trạng thái tâm Tỉnh Giác như vậy còn gọi là Tuệ tri Khổ Diệt hay Tuệ tri
Niết Bàn, còn gọi là tuệ tri Tâm Giải Thoát hay tuệ tri Không tánh giải thoát.
Trước đến nay khi thực hành Chánh niệm về thân là Nhớ đến tích cực chú tâm
ghi nhận các Cảm giác trên thân, cụ thể là nhớ đến tích cực chú tâm ghi nhận
các cảm giác trên thân theo 4 giải đoạn của hơi thở. Bây giờ hãy thực hành
Chánh niệm là Nhớ đến tích cực chú tâm ghi nhận mọi đối tượng nổi trội. Hãy
xiết chặt răng lưỡi và để tự nhiên, không hướng đến bất kỳ đối tượng nào. Khi
xuất hiện một ĐỐI TƯỢNG NỔI TRỘI thì lập tức có sự chú tâm vào đối tượng
nổi trội đó một cách tự động. Lúc đó nhớ đến GHI NHẬN thì lập tức hai từ
GHI NHẬN khởi lên với đối tượng và lộ trình tâm sẽ dừng lại tâm biết trực giác
ghi nhận đối tượng, không có gì diễn tiến tiếp theo (không có thích ghét, khổ
vui). An trú Tỉnh giác trên mọi đối tượng như vậy gọi là An trú với tâm không
hạn chế (đối tượng), an trú với tâm vô lượng.

- Khi tọa thiền: Lúc này chủ yếu có 3 loại đối tượng: Cảm giác trên thân, Cảm
giác âm thanh, Cảm giác pháp trần (Cảm giác hình ảnh, Cảm giác mùi, Cảm
giác vị không có). Xiết chặt răng lưỡi để hoàn toàn tự nhiên, hễ có đối tượng
nổi trội nào thì có sự chú tâm vào đối tượng một cách tự động thì lập tức khởi
lên GHI NHẬN. Đang ghi nhận, ghi nhận đối tượng đó mà xuất hiện một đối
tượng nổi trội hơn thì lập tức khởi lên ghi nhận đối tượng nổi trội mới. Sự chú
tâm ghi nhận sẽ xảy ra liên tục từ đối tượng nổi trội này sang đối tượng nổi trội
khác một cách liên tục, dễ dàng và tự nhiên. Nếu mới bắt đầu thực hành có thể
xiết chặt răng lưỡi rồi hướng đến từng loại đối tượng. Khởi đầu hướng đến cảm
giác trên thân và ở đâu xuất hiện cảm giác nổi trội thì khởi lên ghi nhận, ghi
nhận cảm giác nổi trội đó và rồi sự ghi nhận sẽ tự động xảy ra từ cảm giác nổi
trội này sang cảm giác nổi trội khác. Tiếp đến, hướng đến đối tượng âm thanh
và ghi nhận các đối tượng âm thanh nổi trội. Tiếp đến, hướng đến cảm giác
pháp trần tức những hình ảnh, âm thanh... được lưu giữ trong bộ nhớ được
“tưởng ra”, được tái hiện lại và nhớ đến ghi nhận thì sự ghi nhận sẽ xảy ra từ
đối tượng nổi trội này sang đối tượng nổi trội khác. Xong thì buông ra, không
hướng đến đối tượng nào, để tự nhiên như nhiên và nhớ đến ghi nhận các đối
tượng nổi trội.

- Khi thiền hành: Lúc này có 3 đối tượng chủ yếu là: Cảm giác hình ảnh, Cảm
giác âm thanh và Cảm giác trên thân. Xiết chặt răng lưỡi để tự nhiên và hễ đối
tượng nào nổi trội thì lập tức và tự động có sự chú tâm vào đối tượng đó, lúc đó
khởi lên hai từ GHI NHẬN, GHI NHẬN... Sự ghi nhận sẽ xảy ra liên tiếp từ
đối tượng nổi trội này sang đối tượng nổi trội khác một cách liên tục khít khao,
không gián đoạn.

- Mọi tư thế đi đứng nằm ngồi, ăn uống, làm việc phải rèn luyện trí nhớ ghi
nhận các đối tượng nổi trội. Hễ thấy, hễ nghe, hễ cảm nhận cái gì nổi trội, lập
tức có sự chú tâm vào đó thì nhớ khởi lên GHI NHẬN đối tượng đó. Việc này
phải luyện tập để trở thành một thói quen, một lối sống hàng ngày, lối sống
Chánh niệm - Tỉnh giác.

* Luyện tập Trí nhớ Chánh (Chánh niệm), Nhớ đến tích cực chú tâm ghi nhận
các đối tượng nổi trội phải thường xuyên, liên tục, không gián đoạn. Muốn
vậy chỉ cần luôn luôn nhắc thầm hay niệm thầm GHI NHẬN, GHI NHẬN thì
trí nhớ về ghi nhận đối tượng nổi trội sẽ khởi lên và khi xuất hiện đối tượng
nổi trội thì sự ghi nhận sẽ tự động xảy ra. Nếu đang đi hoặc làm việc có nhịp
thì nhắc thầm theo nhịp, nếu không có nhịp thì lên tục nhắc thầm ghi nhận, ghi
nhận... theo cách sao cho tự nhiên và thoải mái.

* Khi có Chánh niệm, Nhớ đến ghi nhận đối tượng nổi trội thì sẽ có sự chú tâm
liên tục, khít khao từ đối tượng nổi trội này sang đối tượng nổi trội khác và đó
là chú tâm không tầm không tứ sẽ làm phát sinh trạng thái Định không tầm
không tứ (nhị thiền trở lên). Lúc này sẽ kinh nghiệm trạng thái tâm Chánh Định
có Tích cực (tinh tấn), có Vui (hỷ), có Thoải mái (lạc) của nhị thiền cho dù
đang đi thiền hành.

* An trú Chánh niệm ghi nhận đối tượng nổi trội được liên tục sẽ an trú Tỉnh
giác, lúc đó sẽ kinh nghiệm trạng thái tâm trống rỗng, trống không, vắng lặng
mọi tư tưởng, mọi ý niệm (vô niệm) đặc biệt là ý niệm thời gian. Vì không có
khái niệm thời gian nên không có quá khứ, không có tương lai, không có đời
này, không có đời sau, không có khoảng giữa hai đời. Đó là Tâm giải thoát hay
Không tánh giải thoát. Đương nhiên Tâm giải thoát này chỉ nhiếp phục (đè nó
xuống) chứ không thể đoạn tận tham sân si, chỉ có Tuệ giải thoát khi Niệm thọ,
Niệm tâm, Niệm pháp mới đoạn tận tham sân si, mới đưa đến giải thoát tối
hậu. Tuy nhiên khi đã thuần thục Chánh niệm ghi nhận đối tượng nổi trội thì
thực hành Chánh niệm về thọ, về tâm, về pháp trên các đối tượng nổi trội sẽ rất
dễ dàng thành tựu. An trú Tỉnh giác với Chánh niệm ghi nhận đối tượng nổi
trội sẽ thấy các sự vật luôn luôn “tươi mới” như lần đầu tiên thấy vậy, không
cũ mòn, không nhàm chán như xưa, và sẽ nhiếp phục được 80 đến 90% nỗi khổ
trong đời do tham sân si khởi lên.

Về mục lục

Bài 136: KHỔ ĐẾ - CẦU BẤT ĐẮC KHỔ

Nghĩa tiếng Việt “cầu bất đắc khổ” là mong cầu một cái gì đó mà không được
thì sẽ phát sinh khổ, sẽ có khổ. Đây là một cái khổ trong 7 cái khổ của đời sống
nhân loại mà Đức Phật đã thuyết giảng trong bài kinh “Chuyển Pháp Luân”.
Đó là “Sinh là khổ, Già là khổ, Bệnh là khổ, Chết là khổ, Cầu bất đắc khổ, Ái
biệt ly khổ, Oán tắng hội khổ. Tóm lại Năm Thủ Uẩn là khổ”. Trong đoạn kinh
này có 7 cái khổ phát sinh trong 7 trường hợp trên và đó là chân lý, là sự thật
có tính chất phổ quát với toàn thể nhân loại. Chỉ ngoại trừ những người đã giác
ngộ, giải thoát không có 7 nỗi khổ nói trên còn những người còn lại cho dù già
trẻ gái trai, giàu nghèo, ngu trí đều có 7 nỗi khổ phát sinh khi ở trong các hoàn
cảnh nói trên. Tóm lại Năm Thủ Uẩn là khổ thì không phải là cái khổ thứ 8 như
nhiều người hiểu là bát khổ mà “Tóm lại Năm Thủ Uẩn là khổ” là thuyết minh
về sự thật khổ, nghĩa là khổ không sẵn có, không luôn luôn có, không thường
hằng, không thường trú trong các sự kiện trên, khổ chỉ phát sinh khi có tư
tưởng tà kiến, chấp thủ Năm Uẩn này là của Ta, là Ta, là tự ngã của Ta. Vì vậy,
khổ là do duyên khởi, bản chất nó là vô thường, vô chủ, vô sở hữu (vô ngã).

Mong cầu cái gì mà không đạt được thì khổ sẽ phát sinh. Đây là một sự thật
hiển nhiên mà con người bình thường ai cũng kinh nghiệm được và là sự thật
hiển nhiên như đất dưới chân mỗi người. Sự thật trong đời sống của mỗi một
người có vô số mong cầu nhưng có rất ít mong cầu đạt được, nó ít ỏi như cách
ví von trong kinh điển là đất trong móng tay so với đất trên quả địa cầu, ít ỏi vô
cùng. Và vì vậy, cuộc đời này vui thì ít, khổ thì nhiều, não nhiều mà nguy hiểm
lại càng nhiều hơn. Nhưng những mong cầu mà nhân loại cho rằng đã đạt được
và vui thú vì nó thì sẽ mong cầu nó là của ta mãi mãi. Nhưng vì nó vô thường,
sinh lên rồi diệt đi nên khi nó biến hoại, biến diệt, mất đi thì sầu bi khổ não khởi
lên. Đó cũng chính là Cầu bất đắc khổ.

Nhân loại mong cầu gì? Nhân loại mong cầu LÀM CHỦ, mong cầu SỞ HỮU
các đối tượng thực tại. Thế gian này, xã hội loài người này đang vận hành trên
nền tảng tư tưởng LÀM CHỦ, tư tưởng SỞ HỮU. Từ hiến chương Liên hợp
quốc đến Luật pháp của mỗi một quốc gia, hương ước làng xã, đến các quy
định bất thành văn về quan hệ giữa con người với các sự vật đều đặt nền tảng
trên quan hệ CHỦ NHÂN, CHỦ SỞ HỮU, đều công nhận một quyền cơ bản
của con người là QUYỀN LÀM CHỦ, QUYỀN SỞ HỮU. Nền văn học nghệ
thuật, văn hoá tư tưởng, phim ảnh ca nhạc của nhân loại đang từng giây phút
phát minh ra biết bao hình dung từ, biết bao mỹ từ tốt đẹp để ca ngợi, để bảo vệ
quyền làm chủ, quyền sở hữu của con người. Làm chủ cuộc sống, làm chủ hạnh
phúc, làm chủ tương lai, làm chủ gia đình, xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ
quy luật, làm chủ thân tâm, làm chủ cảm xúc, làm chủ lời nói hành động, làm
chủ sinh già bệnh chết... Nhân loại, ai ai cũng đang nỗ lực phấn đấu để khẳng
định, để tăng trưởng, để bảo vệ quyền làm chủ, quyền sở hữu. Sở hữu tiền bạc,
nhà cửa, đất đai, xe cộ, con cái vợ chồng, sông biển... Vậy thì nhân loại đang
mong cầu QUYỀN LÀM CHỦ, QUYỀN SỞ HỮU đối với các đối tượng mà họ
thấy, họ nghe, họ cảm nhận mà họ yêu thích như Sắc đẹp, Tiếng hay, Hương
thơm, Vị ngon, Xúc chạm êm ái... Nhân loại dù già trẻ gái trai ngu trí, dù sắc
tộc tôn giáo nào nếu đang bị vô minh che đậy thì đều hiểu, đều mặc định là ta
nhất định sẽ làm chủ, sẽ điều khiển được, ta nhất định sẽ sở hữu được các đối
tượng đó. Vì sao? Vì họ cho rằng, mặc định rằng các đối tượng được thấy, được
nghe, được cảm nhận mà họ yêu thích, mê đắm đó là THẾ GIỚI VẬT CHẤT và
đã là thế giới vật chất thì đương nhiên sẽ làm chủ, điều khiển, sở hữu được nó.

Nhưng sự thật đang xảy ra thì ngược lại hiểu biết và mong cầu của nhân loại. Sự
thật đó là: Không có bất kỳ một ai, một thế lực nào đạt được QUYỀN LÀM
CHỦ, QUYỀN SỞ HỮU với các ĐỐI TƯỢNG THỰC TẠI mà họ thấy, họ
nghe, họ cảm nhận rồi họ yêu thích, mê đắm. Và vì mong cầu mà không được
nên sầu bi khổ não sẽ khởi lên. Đó chính là “Cầu Bất Đắc Khổ”. Nhưng tại làm
sao mà loài người mong cầu quyền làm chủ, quyền sở hữu mà lại không đạt
được mong cầu đó? Tại vì nhân loại bị vô minh che đậy nên không “nhìn thấy”
SỰ THẬT THỰC TẠI mà lại “nhìn gà hoá cuốc”, tức hiểu biết sai sự thật về
thế giới thực tại. Nghĩa là thế giới thực tại này vốn là Thế giới Cảm giác (cảm
thọ) do Sáu Căn tương tác (tiếp xúc) với Sáu Trần mà phát sinh, nó là Tâm chứ
không phải Vật (thế giới vật chất), nó vô thường, vô chủ vô sở hữu nhưng nhân
loại lại hiểu nhầm nó là Thế giới Vật chất sẵn có, luôn luôn có, lấy được, nắm
giữ được, làm chủ được. Khi hiểu biết đúng sự thật thế giới thực tại gồm những
gì được thấy, được nghe, được cảm nhận là Thế giới Cảm thọ (Cảm giác hình
ảnh, Cảm giác âm thanh, Cảm giác mùi, Cảm giác vị, Cảm giác xúc chạm và
Cảm giác pháp trần) do sáu Căn tương tác sáu Trần mà phát sinh, hiểu biết đúng
như thật NÓ LÀ TÂM CHỨ KHÔNG PHẢI VẬT, hiểu biết đúng như thật nó
VÔ THƯỜNG, hiểu biết đúng như thật nó VÔ CHỦ VÔ SỞ HỮU, nghĩa là
hiểu biết đúng như thật không có một ai, một cái tôi, một cái ta (bản ngã) nào có
thể làm chủ, điều khiển, sở hữu được thế giới thực tại. Hiểu biết đúng như thật
đó sẽ làm phát sinh hiểu biết đúng như thật, BẢN CHẤT CỦA CUỘC SỐNG
THẾ GIAN LÀ CẦU BẤT ĐẮC KHỔ. Nguyên nhân của Cầu bất đắc khổ
chính là tư tưởng vô minh tà kiến, ảo tưởng về một cái Ta (bản ngã) là chủ
nhân, chủ sở hữu của Sắc Thọ Tưởng Hành Thức và mong cầu quyền làm chủ,
quyền sở hữu là mong cầu cho cái Ta ảo tưởng đó. Cho nên Kinh mới nói “Tóm
lại Năm Thủ Uẩn là khổ” là như vậy.

Nói Sinh là khổ, Già là khổ, Bệnh là khổ, Cầu bất đắc khổ, Ái biệt ly khổ (Yêu
mà phải chia lìa là khổ), Oán tắng hội khổ (Hận thù mà gặp nhau là khổ) là mô
tả khổ phát sinh trong những hoàn cảnh như vậy nhưng về bản chất thì đều là
Cầu bất đắc khổ.

- Sinh ra với kỳ vọng, với mong cầu cuộc đời luôn luôn an ổn hạnh phúc, tận
hưởng được mọi niềm vui, hạnh phúc, lạc thú cuộc đời, muốn gì được nấy
nhưng sự thực đã sinh ra là bất toại nguyện, là vui ít khổ nhiều, não nhiều mà
nguy hiểm lại càng nhiều hơn. Cho nên Sinh là khổ bản chất là Cầu bất đắc khổ.

- Già là khổ: con người với mong cầu trẻ mãi không già với sắc đẹp và sức khỏe
của tuổi thanh xuân để tận hưởng niềm vui của cuộc đời nhưng khi già đến tóc
bạc răng long, thân thể rã rời... không còn điều kiện để tận hưởng niềm vui,
hạnh phúc lạc thú. Đó là cái khổ của già mà bản chất là Cầu bất đắc khổ.

- Bệnh là khổ: con người mong cầu một cuộc sống mạnh khỏe, không bệnh tật
nên khi bệnh tật đến, mong cầu không được thỏa mãn nên không những trên
thân xuất hiện các khổ thọ mà nội tâm khởi lên khổ khổ. Bệnh là khổ là như vậy
và bản chất là Cầu bất đắc khổ.

- Chết là khổ: con người muốn trẻ không già, trường sinh bất diệt để tận hưởng
mọi niềm vui hạnh phúc cuộc đời, để sở hữu những thứ mà mình đã nỗ lực để
có được nhưng khi đối diện với cái chết thì mất tất cả, không còn được sở hữu
bất kỳ một thứ gì, không còn thân xác này, không còn đôi mắt để ngắm nhìn
người thương yêu, không còn ngắm nhìn được cả trời xanh mây trắng... Và sau
cái chết là một chốn đen ngòm khủng khiếp với biết bao nỗi sợ hãi khủng khiếp
đang chờ đợi. Mong cầu cho đừng chết, đừng rơi vào nơi chốn ấy nhưng không
thể được cho nên đau khổ khởi lên. Chết là khổ là vậy và bản chất cũng là Cầu
bất đắc khổ.

- Ái biệt ly khổ: yêu thương nhau mà phải xa cách, phải chia lìa chắc chắn là
khổ. Khổ này do mong cầu gần nhau mà không toại nguyên nên bản chất là Cầu
bất đắc khổ.

- Oán tắng hội khổ: thù hận nhau mà phải gặp nhau, phải gần nhau chắc chắn là
khổ. Khổ này do mong cầu xa cách nhau, không sống gần nhau, không gặp
nhau nhưng không được toại nguyện nên bản chất là Cầu bất đắc khổ.

Về mục lục

Bài 137: ĐỨC PHẬT DẠY NHÌN ĐỜI NHƯ THẾ NÀO?

Đức Phật không dạy các đệ tử nhìn đời bằng các quan điểm Duy vật hay Thường
kiến và Duy tâm hay Đoạn kiến:
- Một là quan điểm Duy vật: Duy vật mặc định rằng thế giới thực tại này là thế
giới vật chất. Thế giới vật chất không được sinh ra, cũng không bị mất đi mà chỉ
biến đổi từ dạng này sang dạng khác, từ vật này sang vật khác. Thế giới vật chất
không được sinh ra cũng không bị diệt đi và tinh thần là sản phẩm do tương tác,
vận động của vật chất mà phát sinh nên có sinh có diệt. Vì vậy, vật chất là cái có
trước, tinh thần là cái có sau. Đối tượng nhận thức là thế giới vật chất có trước,
tâm biết nhận thức hay chủ thể nhận thức là cái có sau. Cho dù có con người nhận
thức hay không có con người nhận thức thì thế giới vật chất vẫn tồn tại khách
quan, nên thế giới thực tại là THỰC CÓ với ý nghĩa là nó tồn tại độc lập với ý
thức con người, độc lập với chủ thể nhận thức. Vì vậy, Hạnh phúc và Khổ đau sẵn
có, luôn luôn có, thường hằng, thường trú nơi thế giới vật chất ngoại cảnh. Và
Khổ, Nguyên nhân Khổ, Chấm dứt Khổ (Hạnh phúc) và Con đường chấm dứt
Khổ (thay đổi hoàn cảnh sống) đều thuộc về thế giới vật chất ngoại cảnh. Đây là
một loại hiểu biết sai, một loại tà kiến mà trong Phật giáo gọi là Thường kiến hay
Chấp Có. Có một số trường phái Phật giáo y chỉ vào loại Thường kiến này khi
nghe Đức Phật thuyết giảng Nguyên nhân Khổ là do Tham ái, chấm dứt Tham ái
là Chấm dứt khổ mà Tham ái là Tham ái Hạnh phúc, không ai Tham ái khổ nên
họ suy luận rằng: Nếu mọi người hiểu tất cả cuộc đời là khổ, tất cả thế giới này,
tức tất cả các pháp là khổ thì sẽ không còn tham ái và lúc đó sẽ không còn khổ.
Chính vì suy tư như vậy nên họ cố gắng thuyết minh rằng cuộc đời là khổ, tất cả
các pháp là khổ, sắc thọ tưởng hành thức là khổ và nguyên nhân khổ là do các
pháp đó vô thường. Như vậy, theo thuyết minh đó, khổ sẵn có, luôn luôn có, khổ
thường hằng thường trú trong sắc thọ tưởng hành thức. Mục đích thuyết minh như
vậy là để con người không còn tham ái các pháp, và do vậy sẽ hết khổ. Nhưng sự
nhồi sọ đó không đưa đến kết quả vì nó là một tà kiến, một vọng tưởng trái với sự
thật mà con người đang sống là cuộc đời không những có khổ đau mà còn có vị
ngọt, có hạnh phúc. Những thuyết minh như vậy không đưa đến chấm dứt tham
ái, chấm dứt khổ mà chỉ đưa đến rất nhiều sự hiểu lầm, hiểu lầm rằng Đức Phật
nhìn đời một cách bi quan, chỉ thuyết minh về những nỗi khổ của cuộc đời mà
thôi. Sự thật không phải như vậy, Đức Phật không những thuyết minh về những
nỗi khổ của cuộc đời mà Ngài còn nói đến niềm vui, vị ngọt của cuộc đời. Ngài đã
khẳng định, Ngài đã biết như thật, biết với trí tuệ về vị ngọt, “Ta đã tuệ tri vị ngọt
là vị ngọt”. Vì cuộc đời có niềm vui, có vị ngọt nên Phàm phu mới tham đắm
cuộc đời, nếu cuộc đời này mà không có niềm vui, không có vị ngọt thì Phàm phu
sẽ không thích thú cuộc sống này và nhân loại này sẽ tự sát hết, sẽ không ai muốn
sống trên cuộc đời này nữa. Cái đặc biệt trong giáo pháp mà Đức Phật đã chứng
ngộ và thuyết giảng là không những Ngài thuyết giảng về những nỗi khổ mà con
người đang trải qua mà cái quan trọng, cái cốt lõi là Ngài thuyết giảng để TUỆ
TRI SỰ THẬT KHỔ, là hiểu biết đúng sự thật khổ. Đó là Khổ đế, là Sự thật Khổ,
và Khổ đế thuộc về Tâm chứ không thuộc về thế giới vật chất, Khổ không sẵn có,
không thường xuyên có, không thường hằng, không thường trú đâu cả, không
thường hằng thường trú trong thế giới vật chất, không thường hằng thường trú nơi
sáu căn, không thường hằng thường trú nơi sáu trần, không thường hằng thường
trú nơi năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức. Khổ không phải tự nhiên sinh, khổ
không phải do mình làm và mình chịu khổ (khổ do nghiệp quá khứ mình đã tạo
tác), khổ cũng không do người khác làm mà mình chịu khổ (khổ do thượng đế
trừng phạt tội của tổ tông), mà Khổ do duyên khởi, nghĩa là khi đủ nhân và duyên
thì khổ sẽ khởi lên, nên Khổ có tính chất Vô thường, Vô chủ vô sở hữu (Vô ngã).

- Hai là quan điểm Duy tâm: Duy tâm cũng mặc định rằng thế giới thực tại là
thế giới vật chất nhưng nó không thực có mà nó do một năng lực tinh thần tuyệt
đối gọi là Thượng Đế toàn năng hoá hiện ra. Vì vậy, nó KHÔNG THỰC CÓ chỉ
GIẢ CÓ mà thôi, nó không tồn tại một cách khách quan mà do Thượng Đế quyết
định.Theo quan điểm này Tinh thần (Thượng đế) có trước, Thế giới vật chất có
sau, do Thượng đế tạo dựng nên, vì vậy tâm biết là cái không sinh không diệt có
trước và Thế giới vật chất do Thượng đế làm ra có sinh có diệt là đối tượng được
biết là cái có sau. Quan điểm Duy tâm này trong Phật giáo cho là một tà kiến gọi
là Đoạn kiến. Một số trường phái Phật giáo phát triển y chỉ theo quan điểm Duy
tâm cho rằng thế giới thực tại này là thế giới vật chất nhưng do TÂM tạo ra
(TÂM đó là CHÂN TÂM không sinh không diệt như là Thượng đế của tôn giáo
phương tây) cho nên nó là Giả Có, Không Thật. Tại sao các trường phái Phật
giáo phát triển lại chủ trương thế giới thực tại này Không Thực Có, chỉ Giả Có vì
tất cả các pháp đó là do Tâm tạo nên (Nhất thiết duy tâm tạo)? Là tại vì khi nghe
Đức Phật thuyết giảng Tham ái là Nguyên nhân Khổ, chấm dứt Tham ái là Chấm
dứt Khổ nên họ suy luận rằng, nếu mọi người cho rằng tất cả các pháp là do tâm
tạo, là giả có không thật thì con người sẽ không còn tham ái cái thứ đồ giả đó
nữa và như vậy sẽ hết khổ. Chính vì suy luận như vậy mà họ đã tìm đủ mọi cách
thuyết minh và nhồi sọ các tín đồ các pháp là giả có, là không thật. Nhưng sự
giáo dục nhồi sọ đó không đi đến kết quả ly tham mà vẫn tham, vẫn sân, vẫn si
là vì hiểu biết các pháp là “giả có không thật” không đúng với sự thật thực tại mà
con người đang thấy nghe cảm nhận. Đương nhiên cách giải thích này cho rằng,
mọi sự vật hiện tượng, kể cả Hạnh phúc và Khổ đau là giả có, là ảo ảnh, là vọng
tưởng là không có thật. Nhưng chúng sanh lại cứ khư khư ôm giữ cái vọng
tưởng, cái không thật đó cho là của Ta, cho là Ta. Và kiến giải đó còn cho rằng
chỉ ở nơi Chân Tâm Thường Trụ (tương tự khái niệm Thượng đế toàn năng) mới
có Hạnh phúc chân thật, vĩnh cửu, mới là ông chủ thực sự, mới là của Ta, là Ta
chân thực. Nhận ra và thể nhập Chân Tâm (Chân không mà Diệu hữu) mới là
giác ngộ giải thoát và mới trở về với ông chủ, với cái Ta chân thật (Chân ngã)
của mình. Đó mới là thế giới Chân Đế không sanh không diệt (bất tử), còn chúng
sanh đang sống với thế giới vọng tưởng, giả có không thật này là thế giới Tục Đế
sanh diệt.

- Đức Phật dạy hãy nhìn đời bằng hiểu biết đúng sự thật, nhìn đời bằng TRÍ
TUỆ. Đó là nhìn đời bằng: TUỆ TRI SỰ SINH DIỆT CỦA THỌ, VỊ NGỌT, SỰ
NGUY HIỂM VÀ SỰ XUẤT LY CỦA THỌ. Đó chính là cách nhìn đời do sự
giác ngộ của Ngài, đã được Ngài tuyên bố trong bản kinh Phạm Võng, bản kinh
mở đầu Trường bộ kinh. “Này các Tỷ kheo, Như Lai nhờ tuệ tri sự tập khởi, sự
đoạn diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ mà Như Lai
được giải thoát hoàn toàn không còn chấp thủ”. Đức Phật đã giác ngộ thế giới
thực tại này KHÔNG PHẢI LÀ THẾ GIỚI VẬT CHẤT như quan điểm Duy vật
(Thường kiến) và Duy tâm (Đoạn kiến) đã mặc định mà thế giới thực tại này là
THẾ GIỚI CẢM THỌ, nó là Tâm chứ không phải là Thế giới Vật Chất (như
Duy vật), nó do Sáu Căn và Sáu Trần tương tác với nhau mà phát sinh chứ
không phải do Tâm tạo (như Duy tâm).

Về mục lục

Bài 138: THẤY SỰ THẬT GÌ QUA ĐẠI DỊCH COVID 19

Bài viết dài có 3 phần: một là Sự thật quy luật nhân quả hay lý duyên khởi, hai
là Sự thật Khổ và Nguyên nhân Khổ, ba là Sự thật Khổ diệt và Con đường Khổ
diệt nên sẽ đăng tuần tự từng phần. Nhưng để hiểu được những vấn đề này hãy
tham khảo và ghi nhớ sơ đồ con đường hai ngã. Đó là con đường hai ngã Tám
Tà (Bát Tà Đạo) và Tám Chánh (Bát Chánh Đạo). Chính vì con đường hai ngã
này mà trong kinh điển có lưu truyền bài kệ:

Đường này đến thế gian


Đường kia đến Niết bàn
Tỷ kheo đệ tử Phật
Phải hiểu biết rõ ràng.

I - THẤY BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT ĐỊNH LUẬT NHÂN QUẢ HAY ĐỊNH
LÝ DUYÊN KHỞI: MỌI SỰ VIỆC ĐANG XẢY RA ĐỀU DO HAI NHÂN
TƯƠNG TÁC MÀ PHÁT SINH

Cuộc sống nhân loại trong mùa đại dịch không còn vận hành như trước, gần
như tất cả đã đổi thay. Sản xuất và tiêu thụ đình trệ, các chuỗi cung ứng đình
trệ, giao thương buôn bán đình trệ. Đa số máy bay, tàu thuyền không hoạt động,
đa phần các nhà máy đóng cửa. Khách sạn nhà hàng quán ba đóng cửa, các lễ
hội vui chơi giải trí tạm hoãn. Nhiều nước đóng cửa biên giới quốc gia. Học
sinh không đến trường, công nhân không đến công xưởng, đám tang không có
người đưa... nỗi hoảng sợ lan tràn mọi xứ sở, mọi từng lớp...

1. HIỂU BIẾT SAI SỰ THẬT: Những sự việc đang xảy ra như vậy do đâu,
hay do Nhân nào mà Quả xảy ra như vậy? Đương nhiên đa phần nhân loại sẽ trả
lời: Nguyên nhân của sự việc này là do Covid 19, Covid 19 là chủ nhân gây ra
và điều khiển đại dịch này. Đây là câu trả lời theo hiểu biết đã được mặc định
“Một nhân sinh ra Một quả” theo kiểu “không có lửa thì sao có khói”, đã được
lưu giữ trong bộ nhớ của tâm thức nhân loại. Câu trả lời theo kiểu một nhân
sinh một quả như vậy có đúng với sự thật thực tại không? Phải thấy sự thật là
không. Vậy sự việc đang xảy ra do Nguyên nhân nào?

2. HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT: Quan sát đầy đủ ở mức độ vĩ mô (quan sát
thô) sẽ thấy rằng Covid 19 chỉ là MỘT TÁC NHÂN và tác nhân đó phải tương
tác (hay tiếp xúc) với MỘT TÁC NHÂN nữa là Con người mới là Nguyên nhân
làm phát sinh các sự việc trên. Nghĩa là Hai Tác Nhân là Covid 19 và Con
người tiếp xúc nhau hay tương tác với nhau là Nguyên Nhân phát sinh các Kết
Quả trên. Nếu Covid 19 xuất hiện trên sao Hoả, không tiếp xúc được với con
người trên quả đất thì đời sống nhân loại sẽ không bị đảo lộn như đại dịch đang
xảy ra. Không những Kết Quả phát sinh tuỳ thuộc cả Hai Nhân mà còn tuỳ
thuộc vào mức độ tương tác của hai nhân ấy. Như lúc đầu Covid 19 mới tương
tác với người Trung Quốc ở Vũ Hán thì người Mỹ và Châu Âu đang còn coi
thường dịch bệnh nhưng khi nó tương tác với con người châu Âu và Mỹ thì làn
sóng hoảng loạn đã bao trùm thế giới. Đại dịch phát sinh do Hai Nhân tương
tác như vậy nên nó có hai tánh chất:
- Một là: Hai nhân Covid 19 và Con người tương tác thì phát sinh Đại dịch và
đến một thời gian nào đó (có thể là khi mùa hè đến) Hai nhân không còn tương
tác với nhau thì Đại dịch sẽ diệt. Sự kiện Đại dịch sinh lên rồi chắc chắn sẽ diệt
đi trong thời gian tới, nó không tồn tại vĩnh viễn nên nó có tánh chất Vô thường.

- Hai là: Hai tác nhân tương tác với nhau mới làm phát sinh kết quả, hai nhân ấy
bình đẳng với nhau, không có cái này là chính, không có cái kia là phụ, không
có cái này là chủ nhân, chủ sở hữu, điều khiển cái kia. Quan hệ giữa Covid 19
và Con người là hai nhân bình đẳng như vậy, không có cái nào điều khiển được
cái nào, không có cái nào là chủ nhân của cái nào. Và kết quả do hai nhân bình
đẳng ấy tương tác với nhau nên không có nhân nào là chủ nhân sở hữu, điều
khiển được kết quả theo ý muốn của nó. Vì vậy, sự kiện đang xảy ra trong đời
sống nhân loại trong đại dịch không có ai, không có cái gì là chủ nhân, không
có ai, không có cái gì điều khiển đại dịch, bởi Covid 19 không phải là chủ nhân,
không phải là tác giả và Con người cũng không phải là chủ nhân, không phải là
tác giả gây ra đại dịch. Qua đây hiểu biết đúng sự thật rằng các sự kiện đang
xảy ra không có chủ nhân sở hữu, không có chủ nhân điều khiển các sự kiện đó
hay các sự vật hiện tượng đều vô chủ sở hữu. Nghĩa là tất cả mọi sự vật, hiện
tượng (vật chất tinh thần) không có ai, không có ông A, bà B nào là chủ nhân sở
hữu, làm ra, điều khiển nó cũng đồng nghĩa không có cái Ta, cái Tôi hay một
Bản Ngã nào là chủ nhân sở hữu, điều khiển các sự vật hiện tượng. Thuật ngữ
Phật học gọi tính chất vô chủ sở hữu này của các pháp là VÔ NGÃ.

Các sự kiện đang xảy ra trong mùa dịch đã minh chứng cho tính chất vô chủ sở
hữu, nghĩa là không một ai có thể làm chủ, điều khiển được các sự vật hiện
tượng. Các guồng máy sản xuất ngừng chạy, các giao dịch bị hủy bỏ, các kế
hoạch được hoạch định một cách chắc chắn bị đổ vỡ, đời sống bị đảo lộn... mà
không một cá nhân, một tổ chức quốc gia hoặc quốc tế nào có thể làm chủ, điều
khiển được. Năm 2019 mọi việc đang trôi chảy, thế giới đang trong đỉnh cao
của sự phát triển nhưng bỗng nhiên đại dịch xảy ra, mọi thứ bị đảo lộn mà
không một cá nhân, một tổ chức quốc gia, quốc tế nào làm chủ, điều khiển được
theo ý muốn con người. Sự thật thực tại là VÔ CHỦ SỞ HỮU (Không có chủ
nhân sở hữu) đã chứng minh cho hiểu biết của nhân loại là sai lạc, là vô minh, là
tà kiến. Nhân loại mặc định rằng có một cái Ta (Bản Ngã) là chủ nhân sở hữu,
là chủ nhân làm chủ, điều khiển các sự vật hiện tượng theo ý muốn của nó.

Từng giây phút, con người sống với cái Ta làm chủ, thực chất là sống với TƯ
TƯỞNG LÀM CHỦ, TƯ TƯỞNG SỞ HỮU, là tư tưởng vô minh, tà kiến. Đó
là tư tưởng làm chủ thế giới, làm chủ xã hội, làm chủ hạnh phúc, tương lai, làm
chủ gia đình, tiền bạc, làm chủ thân tâm, làm chủ công việc, làm chủ kế hoạch
nhân sự, làm chủ cảm xúc (quản trị cảm xúc), làm chủ nghiệp, làm chủ sinh già
bệnh chết... Chính vì nhân loại đang sống với tư tưởng làm chủ, tư tưởng sở
hữu trái ngược với sự thật vô chủ sở hữu nên đời sống của họ mâu thuẫn, xung
đột với sự thật thực tại nên họ sống trong sầu bi khổ não.

Quan sát vi tế với mọi sự vật hiện tượng thì sẽ thấy biết như thật Quy luật nhân
quả hay Lý Duyên Khởi: Các sự vật hiện tượng cho dù là vật chất hay tinh thần
(Sắc hay Danh) đều do Hai Nhân tương tác (tiếp xúc) rồi cùng diệt mới phát
sinh một hay nhiều Quả. Vì vậy, các sự vật hiện tượng (các pháp) đều có tánh
chất Vô Thường, Vô Chủ Sở Hữu (Vô Ngã). Thấy biết như thật Lý Duyên Khởi
thì sẽ thấy biết ngay rằng trong đại dịch, sự kiện kẻ phàm phu phải chịu đựng
khổ, bậc thánh hữu học và vô học không phải chịu đựng khổ cũng xảy ra theo
quy luật duyên khởi.

II - THẤY BIẾT NHƯ THẬT KHỔ VÀ NGUYÊN NHÂN KHỔ (KHỔ


ĐẾ VÀ TẬP ĐẾ)

Trong đại dịch, từ nguyên thủ quốc gia đến mọi cư dân, ai ai cũng cảm nhận
được nỗi khổ đang áp chế nhân loại. Nỗi khổ mùa đại dịch có tính phổ quát chứ
không phải của riêng ai, không phân biệt sắc tộc, tôn giáo, giai cấp. Dù người
giàu, kẻ nghèo, chủ doanh nghiệp hay người làm công, người bị dịch hay người
không bị, người cách ly hay không bị cách ly... đều cảm nhận nỗi khổ trong
mùa dịch. Cảm nhận khổ trong mùa dịch thì ai ai cũng cảm nhận được, không
cần học hỏi, không cần người khác chỉ cho biết nhưng HIỂU BIẾT về Khổ và
Nguyên nhân Khổ thì sẽ chia làm hai loại. Một là HIỂU BIẾT SAI SỰ THẬT
về Khổ và Nguyên nhân Khổ, được gọi là Vô minh, Tà kiến của Phàm phu. Hai
là HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT về Khổ và Nguyên nhân Khổ, được gọi là
Minh, Chánh kiến của bậc Thánh.

A - HIỂU BIẾT SAI SỰ THẬT Khổ và Nguyên nhân Khổ: Nhân loại cho
rằng mọi nỗi khổ trong mùa dịch mà con người phải chịu là do Covid 19 gây ra.
Vì Covid 19 mà cuộc sống nhân loại bị đảo lộn, mọi hoạt động mang đến niềm
vui hạnh phúc bị đình trệ... Ai ai cũng thấy rõ ràng mọi nỗi khổ trong mùa đại
dịch là từ Covid 19 mà đến với con người, Nguyên nhân Khổ là do Covid 19
gây ra những hoàn cảnh khó khăn tồi tệ mang đến khổ cho con người. Nhiều
người còn đưa ra quan điểm là nỗi khổ mà con người gánh chịu là do Đấng toàn
năng trừng phạt những lỗi lầm của loài người, Luật Nhân Quả trừng phạt loài
người, dạy cho nhân loại một bài học... bằng cách tạo ra Covid 19 và dùng nó
làm phương tiện trừng phạt loài người. Đây là hiểu biết mà cả nhân loại đã mặc
định: Khổ và Nguyên nhân Khổ từ THẾ GIỚI BÊN NGOÀI (Thế giới ngoại
cảnh) mà đến với con người. Và vì hiểu biết đã được mặc định, Khổ và Nguyên
nhân Khổ từ thế giới ngoại cảnh mà đến với con người nên khi cảm nhận khổ, ai
cũng oán trời trách đất, trách mắng cái này cái kia, tức giận cái này cái kia, đổ
lỗi cho người này người kia. Thậm chí nhiều người còn đi xa hơn nữa quy kết
cho tổ chức này hay tổ chức kia, đất nước này hay đất nước kia, chế độ này hay
chế độ kia đã làm ra Covid 19, gây ra nỗi khổ này cho nhân loại.

B - HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT Khổ và Nguyên nhân Khổ: Trước tiên
phải thấy biết như thật Lý Duyên Khởi để thấy biết như thật các pháp Vô thường,
Vô chủ sở hữu (Vô ngã) thì sẽ thấy biết như thật Khổ do duyên khởi, nên khổ
không sẵn có, không thường hằng, không thường trú nơi thế giới ngoại cảnh, mà
phải quán sát để thấy biết như thật, Khổ phát sinh nơi nội tâm và Nguyên nhân
khổ là nội tâm chứ không phải thế giới ngoại cảnh, Khổ không có nơi Covid 19
và Nguyên nhân Khổ không phải do Covid 19 gây nên.

Trước tiên hãy quan sát sự thật đang xảy ra trong cuộc sống. Đó là khi thấy,
nghe, cảm nhận (thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm) đối tượng thực tại và rồi hiểu
biết rằng các đối tượng thực tại đó là thế giới ngoại cảnh (đây là hiểu biết của
nhân loại), đối tượng đó đẹp hay xấu, thơm hay thúi, ngon hay dở, cứng hay
mềm, tốt hay xấu, thiện hay ác, nguy hiểm hay an toàn... Do hiểu biết đối tượng
thực tại như vậy mà phát sinh thái độ Thích hay Ghét đối tượng. Do thái độ
thích hay ghét mà sẽ phát sinh lời nói, hành động đối xử với đối tượng. Và do
lời nói và hành động mà sẽ phát sinh Khổ hay Vui với đối tượng. Vậy thì, nếu
cho đối tượng thực tại được thấy, nghe, cảm nhận là thế giới ngoại cảnh thì các
sự kiện thấy, nghe, cảm nhận, hiểu biết, thái độ thích ghét, khổ vui với đối tượng
là tâm chứ không phải là thế giới ngoại cảnh. Vì vậy, Khổ hay Vui (Đau khổ
hay Hạnh phúc) với đối tượng và Nguyên nhân của Khổ hay Vui với đối tượng
là do Thích hay Ghét (Tham hay Sân) đều là Nội Tâm chứ không phải là Thế
giới ngoại cảnh. Lộ trình duyên khởi lên Khổ hay Vui được diễn tả như sau:

XÚC - [Thọ - Tưởng] - Tà niệm - Tà tư duy - Tà tri kiến - {Tham Sân Si} - Tà
định - Dục - Tà tinh tấn - Phi như lý tác ý - {Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng} - Khổ
hoặc Vui.
Có thể dùng thuật ngữ tiếng Việt để mô tả lộ trình duyên khởi này cho dễ hiểu
hơn:
XÚC - [Cảm giác - Ghi nhận] - Trí nhớ tà - Tư duy tà - Hiểu biết tà - {Thcí h,
Ghét, Tìm kiếm} - Chútâm tà - Muốn (do thích và ghét) - Tích cực tà - Quyết định
sai - { lLời nói tà, Hành động tà, Nuôi mạng tà} - Khổ hoặc Vui.
XÚC được hiểu là Căn Trần tiếp xúc.

Lộ trình tâm Tám Tà (Bát Tà Đạo) này khởi lên được là do BỘ NHỚ TÂM
THỨC, lưu giữ các thông tin của các lộ trình tâm trong quá khứ. Các thông tin
đó gồm những tri thức hiểu biết, những kinh nghiệm, thói quen đã được học
hỏi, rèn luyện trong quá khứ, trong đó có vô minh chấp ngã, có Dục ái, Hữu ái
và Phi hữu ái. Dục ái là tham ái và ràng buộc với những niềm vui hạnh phúc vật
chất và tinh thần do sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái...
khởi lên. Hữu ái là tham ái và ràng buộc với sự sống, sự hiện hữu có thân xác
(sắc ái). Phi Hữu ái là tham ái và ràng buộc với sự hiện hữu không có thân xác,
chỉ có linh hồn (vô sắc ái).

Khi Căn tiếp xúc Trần sẽ phát sinh đồng thời Thọ và Tưởng (XÚC - [Thọ -
Tưởng ]) nghĩa là Con người (Căn) tiếp xúc với Covid 19 (Trần) phát sinh Cảm
giác (đối tượng thực tại) đồng thời phát sinh tâm biết trực giác Ghi nhận các đối
tượng thực tại đó. Đây là tâm biết phát sinh nơi các giác quan có phận sự ghi
nhận (hay thu thập) các dữ liệu thông tin về đối tượng thực tại nhưng không có
nhiệm vụ xử lý các thông tin đó. Tiếp đến tế bào thần kinh não bộ (ý căn) sẽ xử
lý các thông tin đó, gồm Tà niệm - Tà tư duy - Tà tri kiến. Do Tà niệm (Trí nhớ
tà) tìm kiếm, kích hoạt các thông tin vô minh chấp ngã, dục ái, hữu ái trong bộ
nhớ mà Tà tư duy (Tư duy tà) sẽ phân tích so sánh, đối chiếu thông tin mà tâm
biết trực giác cung cấp với các thông tin do Trí nhớ tà kích hoạt. Hành vi tư duy
sẽ đưa đến kết luận và kết luận đó chính là nội dung tâm biết ý thức Tà tri kiến
(Hiểu biết tà, Hiểu biết sai).

a - Tà niệm kích hoạt Hữu ái: Lúc khỏe mạnh tuy thông tin Hữu ái có trong
bộ nhớ nhưng không được kích hoạt, nên không ai sợ chết, không ai có nỗi khổ
vì sợ chết nhưng khi đại dịch xảy ra thì Tà niệm kích hoạt Hữu ái nên Tà tri
kiến khởi lên hiểu biết sự sống, sự hiện hữu, tính mạng cao quý, kỳ diệu, nhiệm
màu của Ta đang bị đe dọa. Lúc đó chính là Hữu ái đồng nghĩa với THAM
SỐNG SỢ CHẾT khởi lên chi phối tâm và do vậy Sợ hãi chết, một dạng tâm
Sân khởi lên. Và do Sân, sợ hãi chết mà phát sinh các tâm hành, các lời nói,
hành động xảy ra theo phản ứng dây chuyền nối tiếp nhau như những con bài
domino. Và do lời nói, hành động phát sinh từ nỗi sợ chết bao trùm, áp đảo
nhân loại mà thế giới bị đảo lộn, cuộc sống bị đảo lộn, mọi công việc, mọi kế
hoạch, mọi tính toán bị đình trệ, phá sản, mọi hoạt động bình thường của thế
giới gần như tê liệt... Vậy mọi nỗi khổ sở, hoảng loạn phát sinh trong đại dịch
là do Tâm Ham Sống Sợ Chết, tức do Hữu ái, do Tham ái sự sống, bám víu sự
sống mà phát sinh. Bản chất của nỗi khổ này là “Cầu bất đắc khổ”, nghĩa là do
Hữu ái, do tham ái sự sống sự hiện hữu nên bị ràng buộc bởi mong cầu cho sự
sống, sự hiện hữu của Ta được an toàn, được ổn định, được vĩnh viễn nhưng
nay mong cầu đó không được toại nguyện, sự sống, sự hiện hữu của Ta bị uy
hiếp nghiêm trọng. Vì mong cầu mà không được toại nguyện nên sầu bi khổ
não khởi lên. Vậy Khổ và Nguyên nhân Khổ này là Tâm chứ không phải Cảnh,
phát sinh nơi Nội Tâm mỗi người chứ không phải nơi Thế giới ngoại cảnh,
không phải từ ai đó, từ một tổ chức nào đó hay từ một thế lực siêu nhiên nào đó
bên ngoài gây ra cho con người.

b - Do Tà niệm kích hoạt Dục ái tức là những thông tin tham ái, nắm giữ, ràng
buộc với những niềm vui hạnh phúc đã xảy ra trong quá khứ, Ta đã có trong quá
khứ mà nay do đại dịch những cái đó mất đi, cho nên sầu bi khổ não khởi lên.
Biết bao đau khổ, thống khổ mà nhân loại phải trải qua trong đại dịch do bị MẤT
NIỀM VUI, HẠNH PHÚC đã có, do nhà máy không hoạt động, do công ty bị
phá sản, do chuỗi cung ứng ngừng hoạt động, do không có nguyên liệu, do không
xuất khẩu được, do khách sạn nhà hàng đóng cửa, do chứng khoán lao dốc, do
mất việc làm, do máy bay, tàu thuyền ngưng hoạt động, do các lễ hội, các hoạt
động nghệ thuật bị đình chỉ, do không có doanh thu, không có tiền lương... Đối
với người bị bệnh, do yêu thích trạng thái khỏe mạnh và ràng buộc với trạng thái
khỏe mạnh nên khi bị dịch bệnh trạng thái khỏe mạnh bị mất đi thì lúc đó sầu bi
khổ não khởi lên là do bị Mất trạng thái khỏe mạnh (mất hạnh phúc).

Do tham ái và ràng buộc với những đối tượng Dễ chịu (mang đến niềm vui hạnh
phúc) nên khi đại dịch bị mất đi những đối tượng Dễ chịu đó làm phát sinh khổ
nơi nội tâm (gọi là Hoại khổ) nhưng hiện tại lại phải đối diện với những đối
tượng Khó chịu về vật chất và tinh thần (thức ăn dở, khu cách ly tồi tệ, nóng bức,
không điều hoà, thiếu tiện nghi, thiếu tiền bạc...) nên Sân, tức tối giận dữ khởi
lên. Sân này là một biến thể của Tham ái và do Sân sẽ phát sinh sầu bi khổ não
(gọi là Khổ khổ). Riêng đối với người bị bệnh, trên thân thể xuất hiện các cảm
giác đau nhức, khó chịu thì Sân khởi lên và do vậy Khổ khởi lên. Trong mùa
dịch không đi làm, không ra khỏi nhà vì giới nghiêm, vì bị phong tỏa nên cha mẹ
con cái gần gũi nhau nhiều hơn nhưng vì sở thích khác nhau, quan điểm khác
nhau nên có nhiều gia đình xảy ra tranh cãi nhiều hơn, hơn thua nhau nhiều hơn,
sân hận nhiều hơn, bạo lực gia đình nhiều hơn và khổ não cũng nhiều hơn.

Do tham ái và ràng buộc với các đối tượng Dễ chịu nên khi đại dịch xảy ra, các
đối tượng Dễ chịu mất đi nên hiện tại phải đối diện với đối tượng Khó chịu
hoặc đối tượng Trung tính (Không dễ chịu cũng không khó chịu). Nếu là đối
tượng Khó chịu thì Sân khởi lên và phát sinh Khổ khổ như đã nói trên, còn đối
diện đối tượng Trung tính thì không tham, không sân nhưng sẽ ĐI TÌM MỘT
ĐỐI TƯỢNG DỄ CHỊU ĐỂ THAY THẾ ĐỐI TƯỢNG TRUNG TÍNH. Hành
vi này thuật ngữ Phật học gọi là SI và do Si mà sầu bi khổ não khởi lên. Loại
khổ do Si làm phát sinh gọi là Hành khổ. Tham và Hoại khổ do tham khởi lên,
Sân và Khổ khổ do Sân khởi lên là thô, nên dễ dàng quan sát và thấu hiểu
nhưng Si và Hành khổ do Si khởi lên rất vi tế, rất khó quan sát, rất khó thấu
triệt. Bài viết này chỉ đề cập một vài chi tiết về Si và Hành khổ do Si khởi lên
trong mùa dịch. Mùa dịch bệnh mọi việc gần như tê liệt, giao tiếp ít đi, công
việc ít đi, di chuyển ít đi, phải ở yên một chỗ đặc biệt là những người bị cách
ly... và đó là trạng thái trung tính, không dễ chịu cũng không khó chịu và lúc đó
xuất hiện tâm lý nhàm chán. Lúc đó tâm Si khởi lên đưa đến suy nghĩ, tìm kiếm
Niềm Vui để thay thế tình trạng trung tính, nhàm chán hiện tại. Nếu không có
dịch thì có thể đi chơi, ăn uống, gặp bạn bè trò chuyện hay chỉ cần xách xe chạy
một vòng là giải tỏa được tâm lý đó nhưng nay đang cách ly thì không thể, cho
nên càng tù túng hơn. Có người không biết làm gì phải đưa túi gạo 5 ký ra đếm
xem bao nhiêu hạt để giết thời gian. Trong cuộc sống nếu phải ăn mãi món đó
cho dù lúc đầu rất ngon rồi cũng đến lúc nhàm (trung tính), cũng y như vậy
trong đại dịch kể cả truy cập intenet để tìm kiếm niềm vui, giải trí trong đó rồi
cũng sẽ nhàm, trung tính và tâm si lại suy nghĩ tìm kiếm một cái gì hay hơn để
thay thế. Tâm si khởi lên chính là mong cầu tìm kiếm niềm vui để thay thế tình
trạng trung tính, nhàm chán trong hiện tại nhưng không thỏa mãn được mong
cầu ấy trong mùa dịch nên sầu bi khổ não khởi lên. Khổ này gọi là Hành khổ và
là nỗi khổ này rất ghê gớm, nỗi khổ của mất tự do, nỗi khổ tù túng mà ai cũng
cảm nhận rõ ràng.

Những nỗi khổ trong mùa dịch do Dục ái được kích hoạt (gồm tham sân si) bản
chất cũng là “Cầu bất đắc khổ”, là mong cầu mà không được nên nó là Tâm
chứ không phải Cảnh, nó phát sinh từ Nội Tâm mỗi người chứ không phải từ
Covid 19, không phải từ một tổ chức, một cá nhân nào đó nơi Thế giới ngoại
cảnh mà đến với con người.

Tóm lại, những nỗi khổ mà con người cảm nhận trong mùa dịch phát sinh từ
Nội Tâm mỗi người và Nguyên nhân khổ là Hữu ái và Dục ái được lưu giữ
trong bộ nhớ tâm thức được kích hoạt. Đặc biệt là Hữu ái, tham ái sự hiện hữu,
tham ái sự sống khi được kích hoạt trong đại dịch này đã làm cho nhân loại khổ
sở điêu đứng. Lịch sử nhân loại đã trải qua nhiều biến cố, nhiều khổ đau, hoảng
loạn do suy thoái kinh tế, do thiên tai nhưng nỗi khổ không ghê gớm như lần
này, vì lúc đó chỉ có Dục ái được kích hoạt và Hữu ái chỉ bị kích hoạt lẻ tẻ.
Trong đại dịch này khi Hữu ái được kích hoạt đồng loạt trên phạm vi toàn thế
giới thì hậu quả của nó là những phản ứng dây chuyện làm tê liệt cả thế giới.
Đa phần người học Phật chỉ mới thấy một phần nhỏ Dục ái chi phối và làm
phát sinh Khổ trong đời sống nhân loại mà ít ai thấu suốt được Hữu ái (sắc ái)
trong đó bao gồm cả Phi Hữu ái (vô sắc ái) chi phối và làm phát sinh nỗi khổ
còn kinh khủng hơn rất nhiều so với Dục ái. Đại dịch cho thấy cái mà nhân loại
trân quý nhất là tính mạng, không có cái gì trên đời này quan trọng hơn tính
mạng. Ví như có một người có một ngàn tỷ đô-la tài sản nhưng phát hiện đang
bị ung thư gan giai đoạn cuối, chỉ còn một tháng nữa sẽ chết và giả sử có một ai
đó có phương thuốc kỳ diệu chữa khỏi căn bệnh, trả lại sự sống nhưng phải trả
cả ngàn tỷ đô-la, phải trả bằng toàn bộ tài sản thì anh ta sẽ chấp nhận liền. Hữu
ái ghê gớm hơn Dục ái nên nỗi khổ do Hữu ái gây nên cũng ghê gớm hơn rất
nhiều nỗi khổ do Dục ái gây, đặc biệt là nỗi khổ của tái sanh, của sinh tử luân
hồi. Sự thật là trong tất cả nỗi sợ của con người thì nỗi sợ chết là kinh khủng
nhất, bao trùm hết tất cả, nếu nỗi sợ chết chấm dứt thì những nỗi sợ khác không
còn đáng kể.

Đương nhiên những thuyết minh này nhằm minh chứng một sự thật: Khổ và
Nguyên nhân Khổ không sẵn có, không luôn luôn có nơi Thế giới ngoại cảnh
mà Khổ thuộc về Tâm, phát sinh nơi Nội Tâm, Nguyên nhân Khổ là Tham ái
bao gồm Dục ái, Hữu ái và Phi Hữu ái cũng phát sinh từ Nội Tâm nhưng đây
mới chỉ là yếu tố CẦN mà chưa có yếu tố ĐỦ để xác quyết vấn đề. Để có đủ
yếu tố CẦN và ĐỦ xác quyết vấn đề trên thì hãy quan sát Diệt đế và Đạo đế
trong mùa dịch.

III- THẤY BIẾT SỰ THẬT KHỔ DIỆT VÀ CON ĐƯỜNG KHỔ


DIỆT (DIỆT ĐẾ VÀ ĐẠO ĐẾ)

Tương tự Khổ đế và Tập đế sẽ có hai loại hiểu biết về Khổ diệt và Con đường
Khổ diệt:
A - HIỂU BIẾT SAI SỰ THẬT Khổ diệt và Con đường Khổ diệt:

Nhân loại đã mặc định Khổ và Nguyên nhân Khổ là từ Thế giới ngoại cảnh mà
đến với con người và cũng mặc định rằng Khổ diệt là khi có được, làm chủ
được Hạnh phúc. Mà Hạnh phúc thì sẵn có, luôn luôn có, thường hằng, thường
trú nơi thế giới ngoại cảnh, trong sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc
chạm êm ái... Vì vậy, Con đường đưa đến Khổ diệt là thay đổi thế giới ngoại
cảnh, thay đổi hoàn cảnh sống. Nghĩa là Khổ Tập Diệt Đạo thuộc về thế giới
ngoại cảnh. Từ cổ chí kim trong lịch sử nhân loại và các tôn giáo đều có một
cách thức duy nhất để hết khổ là khám phá thế giới để thay đổi thế giới, thay
đổi hoàn cảnh sống. Bây giờ cũng vậy, nhân loại hiểu biết mặc định rằng khi
nào mà Covid 19 chấm dứt, bị tiêu diệt, cuộc sống trở lại bình thường như xưa
thì Khổ bị diệt (hết khổ) và Con đường hay cách thức làm cho Khổ diệt là khám
phá, phát minh các phương tiện, các loại thuốc, các loại vacxin để tiêu diệt, vô
hiệu Covid 19. Vì vậy, trong giây phút này cho đến khi tìm ra vacxin tiêu diệt
hết Covid 19 nhân loại sống trong tình trạng CHỊU ĐỰNG KHỔ VÀ CHỜ ĐỢI
HẾT KHỔ, nghĩa là chịu đựng khổ trong giây phút hiện tại và chờ đợi, hy vọng
chấm dứt khổ trong tương lai. Trong Phật giáo nhiều người có cách hiểu về
Nhân Quả sai lạc đưa đến cách giải thích rằng Quả khổ mà nhân loại phải chịu
bây giờ là là do con người đã gieo Nhân trong quá khứ và bây giờ Nhân đó trổ
quả. Đó là một định nghiệp theo quy luật Nhân Quả và nếu người tu tin sâu
Nhân Quả thì đương nhiên phải vui vẻ mà cam chịu cái nghiệp quả ấy, cam chịu
cái khổ ấy, không thể nào tránh được. Tà kiến này được rất nhiều người chấp
nhận và đương nhiên đó cũng là Chịu đựng khổ trong hiện tại và Chờ đợi, hy
vọng sẽ hết khổ trong tương lai. Thực chất đây là quan điểm của Kỳ na giáo, tu
để trả nghiệp, mà Đức Phật đã đề cập và phê phán nhiều lần trong kinh Nikaya.
Cũng có tà kiến cho rằng Covid 19 là những linh hồn hung hãn, sân hận giết
chết con người là do quá khứ nó là các sinh linh đã bị con người tàn ác, giết
chết, ăn thịt trong quá khứ nên bây giờ phải khởi lòng từ bi thương xót nó, hồi
hướng công đức cho nó được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thì lúc đó sẽ hết
dịch...

Rồi sẽ đến một ngày Covid 19 sẽ chấm dứt, đại dịch sẽ chấm dứt, thế giới sẽ
thay đổi vì tất cả mọi sự vật hiện tượng đều vô thường, không tồn tại mãi mãi
nhưng con người sẽ KHÔNG HẾT KHỔ mà chỉ đổi cái khổ của dịch bệnh này
lấy cái khổ khác mà thôi. Lịch sử nhân loại đã minh chứng cho điều đó, nghĩa là
nếu so thế giới hôm nay với 10000 năm trước, 1000 năm, 100 năm hay 10 năm
trước thì đã đổi thay rất nhiều, hiện đại, văn minh, giàu có hơn rất nhiều nhưng
con người thì không hết khổ mà chỉ thay đổi nỗi khổ này bằng một nỗi khổ khác
mà thôi. Vì sao vậy? Vì con người đã hiểu sai về Khổ và Nguyên nhân Khổ nên
cũng đã hiểu sai về Khổ diệt và Con đường Khổ diệt. Vốn Khổ và Nguyên nhân
Khổ thuộc về Nội Tâm lại đi tìm Khổ diệt và Con đường Khổ diệt nơi Thế giới
ngoại cảnh.

B - HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT Khổ diệt và Con đường Khổ diệt:

Khi Con người (Sáu Căn) tiếp xúc với Covid 19 (Sáu Trần) có thể xảy ra nơi
Mũi, Lưỡi, Thân căn và có thể phát sinh kết quả là một trận ốm với các Cảm
giác khó chịu (Khổ thọ) nơi thân. Đây là một loại Khổ phát sinh trong mùa dịch,
cái khổ nơi thân, cái khổ thứ 19 trong 19 loại khổ (18 loại khổ phát sinh nơi tâm
do 18 ý hành). Khi Covid 19 tiếp xúc với Mắt, Tai, Ý căn thì không phải tiếp
xúc trực tiếp mà tiếp xúc gián tiếp, tiếp xúc với các hình ảnh, âm thanh, pháp
trần có chứa thông tin Covid 19 không gây ra ốm đau, không làm phát sinh Khổ
thọ trên thân. Nhưng cả 6 loại tương tác của Covid 19 với 6 Căn (Mắt Tai Mũi
Lưỡi Thân Ý) này đều khởi lên lộ trình tâm Tám Tà, kích hoạt Hữu ái, Dục ái,
phát sinh Tham Sân Si làm phát sinh 18 cái Khổ nơi nội tâm (Hoại khổ, Khổ
khổ, Hành khổ).

1. Đối với cái khổ thứ nhất, Khổ thọ trên thân khi bị dịch bệnh là do Mũi, Lưỡi,
Thân tiếp xúc trực tiếp với Covid 19 thì theo Lý Duyên Khởi phải làm sao để
Hai tác nhân này không tiếp xúc, không tương tác với nhau thì sẽ không có cái
khổ đó. Vì vậy, để Khổ thọ đó không có mặt, Khổ thọ đó diệt, phải đeo khẩu
trang, phải vệ sinh sát khuẩn, phải cách ly, phải hạn chế đi lại, phải hủy bỏ các
lễ hội... như các tổ chức, các chính phủ đã áp dụng, đã khuyến cáo. Biện pháp
này sẽ kết thúc khi nào một trong Hai tác nhân không còn, nghĩa là khi Covid
19 bị diệt đi hoặc là Con người được tiêm Vacxin đề kháng được Covid 19.
Biện pháp này phù hợp với Quy luật Nhân Quả (Hai Nhân tiếp xúc phát sinh
Quả, Hai nhân Không tiếp xúc hoặc Một Nhân diệt thì không phát sinh Quả)
nên kết quả xảy ra đã rõ ràng, không ai có thể phủ nhận. Nơi nào, tổ chức nào,
quốc gia nào mà thực hiện nhanh chóng, nghiêm túc thì số người bị dịch bệnh ít
đi và ngược lại. Phải công nhận rằng Khổ thọ này là do Covid 19 tiếp xúc trực
tiếp Con người mà phát sanh nhưng so với cái khổ do Hữu ái và Dục ái thì nó
rất nhỏ nhoi, không đáng kể đến. Gần như tất cả nhân loại đang đau khổ, đang
hoảng loạn do Hữu ái và Dục ái khởi lên như đã nói trên nhưng so với hơn 7 tỷ
người trên trái đất, số người mắc bệnh cúm có Khổ thọ này cho đến hôm nay
(29/3/2020) chỉ hơn 500.000 người là rất nhỏ và số người chết là hơn 10 ngàn
người là rất nhỏ so với dân số nhân loại. Và khổ thọ trên thân do bệnh của 5
trăm ngàn người này so với nỗi khổ toàn nhân loại đang trải qua thì có đáng là
bao. Bản thân những người đang nằm viện vì bị cúm thì cái Cảm giác khó chịu
trên thân mỗi người, cái Khổ thọ đó nhỏ nhoi vô cùng so với Hoại khổ, Khổ
khổ, Hành khổ khởi lên nơi nội tâm do Dục ái và Hữu ái của họ. Tuy nhiên
không thể đề phòng một cách tuyệt đối vì Covid 19 là siêu hình học, không thể
thấy được sự di chuyển, lây lan của nó nên vẫn có thể bị bệnh và khi bị bệnh,
Khổ thọ sẽ khởi lên thì phải kham nhẫn với nó, cho dù là Thánh hay Phàm. Một
người đã giác ngộ, đã giải thoát khỏi sinh già bệnh chết khi bị dịch bệnh thì vẫn
phải chịu đựng cái Khổ hữu dư, cái Khổ thọ còn dư sót này.
2. Đối với cái khổ thứ hai do Hữu ái và Dục ái khởi lên: trên lộ trình tâm nếu
Hữu ái và Dục ái được kích hoạt thì Khổ sẽ khởi lên. Hữu ái và Dục ái không
bị kích hoạt thì khổ sẽ không có mặt, Khổ diệt. Vậy, làm thế nào để lộ trình tâm
không kích hoạt Dục ái và Hữu ái để Khổ diệt?

Phải thấu hiểu rằng khi Căn Trần tiếp xúc phát sinh đồng thời Thọ và Tưởng:
XÚC - [Thọ - Tưởng] hay XÚC - [Cảm giác - Ghi nhận] nghĩa là do Xúc mà
xuất hiện đối tượng (Thọ, Cảm giác) và đồng thời xuất hiện tâm biết trực tiếp
giác quan có phận sự Ghi nhận thông tin đối tượng (Tưởng). Cụ thể Nhãn thức
ghi nhận Cảm giác hình ảnh, Nhĩ thức ghi nhận Cảm giác âm thanh, Tỷ thức
ghi nhận Cảm giác mùi, Thiệt thức ghi nhận Cảm giác vị, Thân thức ghi nhận
Cảm giác xúc chạm, Tưởng thức ghi nhận Cảm giác pháp trần. Tiếp đến thông
tin do tâm biết trực tiếp (Tưởng) ghi nhận sẽ được tế bào thần kinh não bộ xử lý
(theo cách nói của khoa học) với lộ trình nối tiếp là Tà niệm - Tà tư duy - Tà tri
kiến (ý thức). Quá trình xử lý thông tin thực chất là sự tương tác Hai Loại
THÔNG TIN xảy ra trong BỘ NHỚ TÂM THỨC chứa các loại thông tin trong
cấu trúc ADN của tế bào thần kinh não bộ. Toàn bộ giai đoạn này gồm: XÚC -
[Cảm giác - Ghi nhận] - Tà niệm - Tà tư duy - Tà tri kiến (ý thức) -... Nội dung
của tâm biết ý thức Tà tri kiến sẽ có nội dung Vô minh, chấp ngã, Dục ái, Hữu
ái, Phi Hữu ái. Có hai cách để không kích hoạt Vô minh, Chấp ngã, Dục ái, Hữu
ái, Phi Hữu ái.

Một là: Dừng lại tâm biệt trực tiếp, chỉ Ghi nhận đối tượng mà Tà niệm - Tà tư
duy - Tà tri kiến không khởi lên bằng cách thay bằng lộ trình Chánh niệm -
Chánh tinh tấn - Chánh định.

Hai là: thay thế ý thức Tà tri kiến bằng ý thức Chánh tri kiến có Minh không có
Vô minh Chấp ngã, không có Dục ái, Hữu ái, Phi hữu ái bằng cách thay lộ trình
Tà niệm - Tà tư duy - Tà tri kiến bằng lộ trình Chánh niệm - Chánh tư duy -
Chánh tri kiến.
a - Cách thứ nhất, gọi là CHỈ, nghĩa là đình chỉ, dừng lại tâm biết trực tiếp giác
quan, chỉ Ghi nhận (hay nhận biết) đối tượng mà không cho tâm biết ý thức Tà tri
kiến khởi lên bằng cách thay thế Tà niệm - Tà tư duy – Tà tri kiến bằng Chánh
niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định. Lộ trình tâm sẽ xảy ra như sau: XÚC - [Thọ
- Tưởng] - Chánh niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định - <Tỉnh giác> hay để dễ
hiểu hơn là:

XÚC - [Cảm giác - Ghi nhận] - Trí nhớ chánh - Tích cực chánh – Chú tâm
chánh - <Tỉnh giác>

Lộ trình tâm này chỉ có tâm biết trực giác (trực tiếp giác quan) Ghi nhận đối
tượng, tâm biết ý thức (biết đối đó là cái gì, tính chất ra sao) không khởi lên và
gọi trạng thái như vậy là Tỉnh Giác. Để có lộ trình tâm này khởi lên với trạng
thái Tỉnh Giác thì chỉ cần RÈN LUYỆN TRÍ NHỚ CHÁNH (Chánh niệm) là
NHỚ ĐẾN TÍCH CỰC CHÚ TÂM GHI NHẬN CÁC ĐỐI TƯỢNG NỔI
TRỘI. Đó là xiết chặt răng lưỡi để tự nhiên như nhiên và hễ có một đối tượng
nào nổi trội xuất hiện (có thể là hình ảnh, âm thanh, mùi vị, xúc chạm hay pháp
trần) thì sẽ tự động xuất hiện sự chú ý vào đối tượng nổi trội đó. Lúc đó chỉ cần
NHỚ ĐẾN Ghi nhận đối tượng, khởi lên hai từ GHI NHẬN thì chỉ có tâm biết
trực giác Ghi nhận đối tượng mà thôi, không hề suy nghĩ tìm hiểu, nhận xét,
đánh giá đối tượng. Tiếp đến đối tượng nổi trội khác xuất hiện lại chú tâm ghi
nhận đối tượng nổi trội mới đó... Và nếu Trí nhớ Chánh, “nhớ đến tích cực chú
tâm ghi nhận các đối tượng nổi trội” khởi lên liên tục không gián đoạn thì sẽ có
sự chú tâm GHI NHẬN liên tục không gián đoạn từ đối tượng nổi trội này sang
đối tượng nổi trội khác mà tâm biết ý thức không khởi lên, không suy nghĩ, tìm
hiểu, nhận xét, đánh giá đối tượng. Phải thấy rằng, tại một thời điểm có thể có
nhiều đối tượng xuất hiện (thực chất là sinh diệt đan xen nhanh chóng) nhưng
chỉ có một đối tượng nổi trội mới xuất hiện tâm biết ý thức, mới suy nghĩ, tìm
hiểu, nhận xét, đánh giá đối tượng đó, còn các đối tượng khác, không nổi trội thì
bỏ qua, tâm biết ý thức không khởi lên, chỉ có tâm biết trực tiếp ghi nhận đối
tượng mà thôi. Vì vậy, khi thực hành NHỚ ĐẾN GHI NHẬN ĐỐI TƯỢNG
NỔI TRỘI thì gần như tất cả mọi đối tượng chỉ có tâm biết Trực giác Ghi nhận
các đối tượng mà không có tâm biết ý thức khởi lên. Trạng thái tâm này gọi là
Tỉnh Giác. Lúc này thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, cảm nhận chỉ là cảm nhận
không thêm bớt, nghĩa là đối tượng như thế nào thì ghi nhận như thế đó không
thêm bớt bởi tri thức, khái niệm của tâm biết ý thức, không bị bóp méo, xuyên
tạc, thiên vị bởi thích ghét. Hành giả chứng nghiệm được tâm biết trực giác (gọi
là Tỉnh Giác) không có khái niệm, không có ngôn từ, không có phân biệt (vô
niệm, vô ngôn, vô phân biệt) trong đó vô niệm là không có khái niệm, khổ vui,
đẹp xấu, ngon dở, thiện ác, thuận nghịch, không gian, thời gian... đặc biệt là
không có khái niệm thời gian. Vì an trú Tỉnh Giác vô niệm, vô ngôn, vô phân
biệt, tâm biết ý thức không khởi lên nên không có tư tưởng, không có suy nghĩ
tìm hiểu nhận xét đánh giá đối tượng, nên kinh nghiệm được trạng thái trống
rỗng, trống không, vắng lặng tham sân si, vắng lặng mọi khổ vui với bất kỳ đối
tượng nào. Đây là Khổ diệt hay Niết bàn còn gọi là Giải thoát. Trạng thái giải
thoát này do Chánh niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định khởi lên nên gọi là Tâm
Giải Thoát.

Khổ diệt trong cách tu Chỉ này là do an trú Tỉnh Giác, không có tâm biết ý thức
Tà tri kiến nên không kích hoạt Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái. Sự thực hành Trí
nhớ chánh (Chánh niệm) này trong Tứ Niệm Xứ là Chánh niệm về thân gọi tắt
là Niệm Thân, lộ trình tâm gọi tắt là Chánh niệm Tỉnh giác và đây là một lối
sống, lối sống Chánh niệm Tỉnh giác. Sự thực hành Chánh niệm (Nhớ đến tích
cực chú tâm ghi nhận các đối tượng nổi trội) phải thực hành trong mọi tư thế,
khi tọa thiền, thiền hành và mọi sinh hoạt, mọi công việc hàng ngày trong cuộc
sống. Phải thực hành cho được liên tục từ khi thức dậy buổi sáng mai cho đến
khi lên giường đi vào giấc ngủ vào buổi tối. Lối sống này là lối sống thích nghi
với mọi đối tượng, không thích ghét, không dính mắc ràng buộc, không khổ vui
với bất kỳ một đối tượng nào, với bất kỳ công việc gì trong đời, với bất kỳ một
hoàn cảnh nào. Cho dù đại dịch hay không đại dịch, cho dù đông vui hay vắng
vẻ, cho dù cách ly hay không phải cách ly, cho dù bị bệnh hay không bị bệnh,
cho dù nghèo hay giàu, cho dù ăn uống cao lương mỹ vị hay chỉ có cơm với
muối, đi bộ hay đi xe, bất kỳ một hoàn cảnh, bất kỳ đối tượng nào kể cả tính
mạng đang bị đe dọa nếu nhớ đến ghi nhận các đối tượng nổi trội thì nội tâm sẽ
trống rỗng, trống không mọi lo lắng, sợ hãi, mọi toan tính suy nghĩ, mọi khổ
đau. Người đó sẽ chứng ngộ KHỔ CHẤM DỨT NGAY BÂY GIỜ VÀ TẠI
ĐÂY khi đang trong đại dịch, không phải Chịu đựng và Chờ đợi hy vọng hết
dịch mới hết khổ như đa phần nhân loại. Sống với Chánh niệm, nhớ đến tích
cực chú tâm ghi nhận các đối tượng nổi trội thì sẽ LÀM TỐT CÔNG VIỆC
CỦA MINH, KHÔNG XEN VÀO VIỆC NGƯỜI KHÁC, KHÔNG LO LẮNG
VIỆC CỦA TRỜI ĐẤT. Nghĩa là chú tâm vào công việc của mình không xao
nhãng, không thích ghét, làm với Chánh định có Tích cực, Vui và Thoải mái
nên khi đánh răng rửa mặt, tắm rửa, nấu ăn, lau nhà, chăm sóc con cái, làm
đồng áng công xưởng, văn phòng... mọi công mọi việc sẽ hoàn thành tốt đẹp,
không nghĩ tưởng đến bất kỳ cái gì, bất kỳ người nào thì sẽ không xen vào việc
của người khác, không ca tụng cũng không phê bình chỉ trích bất cứ ai và làm
việc với tâm rỗng không như vậy thì không lo lắng việc của trời đất, việc dịch
bệnh, việc của Mỹ hay của Tàu.

Sự thực hành để an trú Khổ diệt (Niết bàn) này ai cũng có thể làm được nhưng
chưa thể liên tục từ khi thức dậy cho đến khi đi ngủ ngay lập tức được, bởi đây
là sự rèn luyện trí nhớ chánh để trở thành một thói quen không phải là việc dễ
dàng. Khi không NHỚ ĐẾN chú tâm ghi nhận đối tượng nổi trội gọi là mất
Chánh niệm thì Tà niệm, NHỚ ĐẾN những chuyện theo THÓI QUEN Cũ lại
khởi lên và Bát Tà Đạo với Tà tri kiến lại khởi lên. Vì vậy, phải kiên trì rèn
luyện Trí nhớ chánh cho được liên tục, cho trở thành một thói quen mới, thói
quen nhớ đến chú tâm ghi nhận đối tượng nổi trội. Đương nhiên khi tu Chỉ lộ
trình tâm chủ yếu là dừng lại tâm biết trực giác đến khoảng 85% đến 90%
nhưng còn khoảng 10% đến 15% lộ trình tâm vẫn có tâm biết ý thức khởi lên
để tác ý làm việc nọ việc kia nhưng tâm biết ý thức đó lại là Chánh tri kiến.

b - Cách thứ hai gọi là QUÁN để thay đổi tâm biết ý thức từ Tà tri kiến thành
Chánh tri kiến bằng cách thay Tà niệm - Tà tư duy - Tà tri kiến bằng Chánh
niệm - Chánh tư duy - Chánh tri kiến. Lộ trình tâm đó sẽ khởi lên như sau:
XÚC - [Thọ - Tưởng] - Chánh niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định - <Tỉnh
giác> - Chánh tư duy - Chánh tri kiến... hay để dễ hiểu hơn là:

XÚC - [Cảm giác - Ghi nhận] - Trí nhớ chánh - Tích cực chánh – Chú tâm
chánh - <Tỉnh giác> - Tư duy chánh - Hiểu biết chánh...

Để thực hành Quán, thay đổi ý thức Tà tri kiến thành ý thức Chánh tri kiến phải
theo lộ trình Văn - Tư - Tu, nghĩa là có 2 bước: Chuẩn bị gồm Văn - Tư và
Thực hành là Tu. Chuẩn bị gồm Nghe giảng hoặc nghiên cứu kinh điển để Hiểu
Biết Đúng Sự Thật về sự giác ngộ của Phật là “Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị
ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ”. Tuệ tri duyên khởi, tuệ tri vô
thường, vô chủ sở hữu (vô ngã), tuệ tri khổ tập diệt đạo, tuệ tri vô minh, minh...
Lượng thông tin tuệ tri này gọi là Văn tuệ được lưu vào bộ nhớ với tên gọi là
MINH. Nhờ Văn tuệ này mà sẽ tư duy (Tư) để hiểu biết sâu sắc, rộng lớn hơn
gọi là Tư tuệ, nó sẽ làm cho thông tin MINH được nổi trội hơn thông tin VÔ
MINH trong bộ nhớ. Nhờ chuẩn bị MINH trong bộ nhớ như vậy mà lộ trình tâm
QUÁN mới khởi lên khi thực hành Chánh niệm (Trí nhớ chánh) về Thọ, về
Tâm, về Pháp gọi tắt là Niệm Thọ, Niệm Tâm, Niệm Pháp. Trên nền tảng Niệm
Thân, nhớ đến chú tâm ghi nhận các đối tượng nổi trội nên khi Niệm Thọ, sau
khi chú tâm ghi nhận đối tượng nổi trội thì Chánh tư duy khởi lên làm phát sinh
tâm biết ý thức Chánh tri kiến, BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT đối tượng đó là Thọ
(Cảm thọ), biết Thọ đó là loại Cảm giác gì, do Căn Trần nào tiếp xúc mà phát
sinh, biết các Thọ đó vô thường, vô chủ sở hữu (vô ngã). Đây là tâm biết ý thức
Chánh tri kiến, biết đúng sự thật về đối tượng do quán sát đối tượng ĐANG
XẢY RA chứ không phải là suy nghĩ về đối tượng trong quá khứ, nên Đức Phật
đã dùng từ “quán thọ nơi thọ” để chỉ cho hành vi quán sát trực tiếp này. Cũng y
như vậy, khi quán tâm nơi tâm, quán pháp nơi pháp là quán sát trực tiếp các sự
kiện đang xảy ra để hiểu biết đúng sự thật về các sự kiện đó. Đây chính là
chuyển Văn tuệ và Tư tuệ đã học, đã tư duy ứng dụng vào thực tiễn, ứng dụng
vào “hiện trường”, cũng có nghĩa là hành giả đang thực sự SỐNG VỚI
CHÁNH TRI KIẾN. Với Niệm Thọ, Niệm Tâm, Niệm Pháp được rèn luyện
từng phần (bài viết không thể trình bày cách tu tập chi tiết) sẽ thành tựu dần dần
nhưng mục đích là đạt đến lối sống Chánh tri kiến, diễn tả một cách tóm tắt là:
Sau khi thấy, nghe, cảm nhận đối tượng thì BIẾT ĐỐI TƯỢNG BỞI CHÁNH
TRI KIẾN, nghĩa là biết đúng sự thật, đối tượng đó là Thọ (cảm giác), do Căn
Trần tiếp xúc mà phát sanh, nó là Tâm chứ không phải Vật, nó vô thường, vô
ngã, nó có vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly (đọc bài Trung Đạo trên
Facebook Đại Đức Nguyên Tuệ). Khi biết các sự vật hiện tượng đang xảy ra với
Chánh tri kiến như vậy thì kinh nghiệm được ngay liền: Không yêu thích,
không chán ghét, độc lập không ràng buộc, giải thoát không hệ lụy, không có
khổ vui với bất kỳ đối tượng nào. Đây là Giải thoát và Giải thoát này do Chánh
tri kiến, là Trí tuệ khởi lên nên gọi là Tuệ giải thoát. Khi mà lộ trình tâm có
Chánh tư duy - Chánh tri kiến khởi lên như vậy thì Khổ chấm dứt ngay bây giờ
và tại đây với bất kỳ đối tượng, hoàn cảnh nào, đại dịch hay không đại dịch, bị
bệnh hay không bị bệnh, giàu hay nghèo, đói hay no, nóng hay lạnh... Vì sao
vậy? Vì khi Chánh niệm - Chánh tư duy - Chánh tri kiến khởi lên thì Tà niệm -
Tà tư duy - Tà tri kiến không khởi lên, không kích hoạt Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu
ái và khi Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái không có mặt thì Khổ không có mặt, lúc đó
là giải thoát khổ hay thuật ngữ Phật học gọi là Niết bàn. Khi tu Quán, có những
đối tượng nổi bật thì lộ trình tâm sẽ có lời nói hành động khởi lên nhưng lời nói
hành động này là do Chánh tri kiến nên sẽ không có tham sân si và gọi là Chánh
ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng. Lộ trình tâm tổng quát sẽ là:
XÚC - [Thọ - Tưởng] - Chánh niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định - <Tỉnh
giác> - Chánh tư duy - Chánh tri kiến - Như lý tác ý - {Chánh ngữ, Chánh
nghiệp, Chánh mạng}

Hay dễ hiểu hơn là:

XÚC - [Cảm giác - Ghi nhận] - Trí nhớ chánh - Tích cực chánh - Chútâm

chánh - <Tỉnh giác> - Tư duy chánh - Hiểu biết chánh - Quyết định đúng - {Lời
nói chánh, Hành động chánh, Nuôi mạng chánh}

Đây chính là lộ trình tâm Tám Chánh hay Bát Chánh Đạo.

Khi tu QUÁN Chánh tri kiến hay Trí tuệ được tu tập, được rèn luyện nên Hiểu
biết đúng sự thật về Khổ, Nguyên nhân Khổ, Chấm dứt Khổ và Con đường
Chấm dứt Khổ được đầy đủ, được sâu rộng đặc biệt là Khổ đế và Tập đế. Biết
như thật rằng hiện hữu trên đời này thì vui ít khổ nhiều, não nhiều mà nguy
hiểm lại càng nhiều hơn và sau khi chết do Hữu ái mà phát sinh Thức tái sinh
trở thành Hoá sanh, cho dù là hoá sanh đó gọi là chư thiên đi nữa thì vẫn phải
chịu nỗi thống khổ còn hơn nỗi khổ của kiếp người và sau khi hết kiếp Hoá sanh
lại tiếp tục vào trứng sanh hoặc thai sanh... Và kiếp luân hồi cùng nỗi khổ cứ lặp
đi lặp lại như thế và sự thật là kẻ phàm không có chết đi mà sự thực là chỉ “qua
đời”, chỉ chuyển từ đời này sang đời khác trong cái vòng luân hồi bất tận.

Người trí thấy Khổ đế và Tập đế thì sợ hãi, lông tóc dựng ngược nhưng lại biết
có một con đường khác thoát khỏi thế gian, thoát khỏi sinh tử luân hồi, đó là
Bát Chánh Đạo. Người trí thấy được vấn đề, thấy được cách giải quyết vấn đề,
định hướng lại cuộc đời, hướng đến mục đích Chấm dứt khổ ngay bây giờ và tại
đây, Chấm dứt tái sanh trong tiến trình chết, Chấm dứt sinh tử luân hồi đạt đến
Vô thượng an ổn khỏi mọi khổ ách. Chấm dứt sinh tử luân hồi là chấm dứt hiện
hữu với bất kỳ hình thức nào, bất kỳ nơi chốn nào. Hãy hình dung một người
trong thời gian tỉnh thức ban ngày từ 6 giờ sáng đến 10 giờ đêm là đang hiện
hữu và khi đang hiện hữu thì có cả khổ lẫn vui nhưng vui thì ít khổ thì nhiều,
não nhiều mà nguy hiểm lại càng nhiều hơn. Tối từ 10 giờ đêm đến 6 giờ sáng
người đó ngủ một giấc say không mộng mị và khoảng thời gian đó tương đương
không hiện hữu. Trong thời gian ngủ say không mộng mị, tương đương với
không hiện hữu, không tồn tại cả khổ cả vui, nếu so với khoảng thời gian ban
ngày cho dù là một ngày tràn đầy hạnh phúc, khổ chỉ có một chút xíu nho nhỏ
thôi thì đương nhiên khoảng thời gian ngủ say không mộng mị, tương đương
không hiện hữu ấy sẽ HAY HƠN rất nhiều. Nghe đến đây nhiều người mơ ước
giá mà ngủ say vĩnh viễn không bao giờ tỉnh dậy nữa thì hay biết mấy, nó sẽ
không còn phải chịu mọi đau khổ cả thân lẫn tâm nữa. Hình dung một người
giác ngộ khi chết, gọi là nhập diệt chấm dứt sinh tử luân hồi, chấm dứt hiện hữu
cũng tương tự như ngủ say không mộng mị, nghĩa là khi chết giống như đi vào
một giấc ngủ say không mộng mị vĩnh viễn, sáu căn chấm dứt hoạt động không
phát sinh thức tái sanh, không còn hiện hữu với bất kỳ hình thức nào, bất kỳ nơi
chốn nào. Để chấm dứt được tái sanh luân hồi trong tiến trình chết thì phải
chấm dứt được Hữu ái trong tiến trình chết bởi chính Hữu ái, chính Ham sống
sợ chết được kích hoạt trong tiến trình chết là Nguyên nhân phát sinh Thức tái
sanh nối tiếp sự hiện hữu, nối tiếp khổ. Để chấm dứt Hữu ái trong tiến trình
chết phải tư duy, phải quán sát sự thật còn hiện hữu là còn khổ, còn tái sanh,
còn bị sanh ra là còn khổ. Phải chấm dứt cái thấy sai lạc cho rằng sự sống của
mình và của chúng sanh là mầu nhiệm, là cao cả, là quý giá phải trân quý, phải
bảo vệ cái sự sống đó. Phải quan sát, tư duy để không còn nuôi lớn, chăm bẵm
cái mầm mống của tái sanh mà phải cắt đứt nó tận gốc rễ. Giống như có một
cây lớn phải chặt nó xuống, phải đào lên mọi rễ cái rễ con, nhặt nhạnh hoa quả,
cành lá, phải cưa ra thành từng khúc, chẻ nhỏ ra, phơi khô, đem đốt đi và rải tro
đó xuống dòng nước chảy thì cái cây đó không còn tái sanh được nữa.
Người trí biết rõ đích đến là như vậy, quyết tâm đây là kiếp sống cuối cùng, sau
kiếp sống này không còn kiếp sống nào nữa, hàng ngay tu tập Chỉ và Quán đặc
biệt là tiến trình chết thì sẽ không còn tham sống sợ chết, không còn sợ hãi dịch
bệnh, không hề sợ hãi khi bị dịch cúm cũng như bất kỳ một bệnh nan y nào.
Người đó sẽ đón nhận cái chết do bất kỳ lý do gì như là một cơ hội giải thoát tối
hậu, vô thượng an ổn thoát mọi khổ ách.

Như vậy, lộ trình tâm Tám Chánh khởi lên do TU CHỈ hoặc TU QUÁN hoặc là
Chỉ Quán đan xen (Chỉ Quán Đồng Tu) và kết quả là an trú Tâm Giải Thoát,
Tuệ Giải Thoát. Khi một người sống với lộ trình tâm Bát Tà Đạo, sống với tâm
biết Ý thức Tà tri kiến là sống với Vô minh, Chấp ngã, sống với Dục ái, Hữu ái,
Phi Hữu ái, sống với Khổ và Vui của thế giới ngoại cảnh, mặc định rằng KHỔ
TẬP DIỆT ĐẠO thuộc về thế giới bên ngoài. Khi người đó sống với lộ trình
tâm Bát Chánh Đạo, sống với tâm biết Tỉnh giác và tâm biết Ý thức Chánh tri
kiến là sống với Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát, không còn Khổ Vui với thế giới
ngoại cảnh, người đó biết với Trí tuệ KHỔ TẬP DIỆT ĐẠO thuộc về Nội tâm
chứ không phải thuộc thế giới bên ngoài. Người đó biết đúng như thật, người đó
tuệ tri nội tâm vắng mặt Tham Sân Si, không thích, không ghét, không khổ
không vui với bất kỳ một cái gì ở trên đời. Đó chính là Tuệ tri Khổ diệt hay Tuệ
tri Niết bàn. Tuy bình thản, không khổ vui với bất kỳ cái gì ở trên đời (thế giới
bên ngoài) nhưng nội tâm vẫn có Tích cực, Vui, Thoải mái do Chánh tinh tấn -
Chánh định phát sinh. Người đó vẫn sống với hoàn cảnh như trước, vẫn tài sản
đó, vẫn công việc đó, vẫn những con người đó, vẫn những mối quan hệ đó, vẫn
môi trường đó... nhưng tâm đã thay đổi từ Tám tà sang Tám chánh nên không
còn bị chi phối bởi hoàn cảnh, không còn khổ vui với hoàn cảnh nên không có
đại dịch hay có đại dịch Covid 19 người đó vẫn bình an, vẫn an nhiên tự tại.
Vậy thì, để Hết Khổ phải thay đổi Tâm chứ không phải thay đổi Thế giới bên
ngoài, không phải thay đổi Cảnh.
Thay đổi tâm là thay đổi lộ trình tâm Tám tà (Bát Tà Đạo) sang lộ trình tâm
Tám Chánh (Bát Chánh Đạo) cũng xảy ra theo Quy luật Nhân Quả hay Định Lý
Duyên Khởi nghĩa là Hai Nhân tiếp xúc với nhau mới phát sinh Quả. Hai Nhân
không tiếp xúc với nhau hoặc Một Nhân diệt đi thì cũng không có Quả. Sự tiếp
xúc, tương tác này xảy ra giữa Hai Loại Thông Tin. Một là THÔNG TIN bên
ngoài do tâm biết trực tiếp giác quan ghi nhận đối tượng khi sáu Căn tiếp xúc
sáu Trần phát sinh nơi các giác quan. Hai là THÔNG TIN Pháp trần được lưu
giữ trong bộ nhớ, nơi tế bào thần kinh não bộ được Trí nhớ (Niệm) kích hoạt.

Hình dung điều này tương tự như trong mạng Internet có rất nhiều loại thông
tin và trong điện thoại thông minh cũng cài đặt nhiều phần mềm tức nhiều loại
thông tin. Hai loại thông tin trên mạng và trong điện thoại đó sẽ tương tác với
nhau nhưng không phải bao giờ nó cũng tương tác với nhau. Hai nhân đó phải
có “duyên” hay “điều kiện” mới tương tác được. Đó là khi bấm ứng dụng
Facebook trên máy điện thoại thì chỉ có thông tin Facebook trong điện thoại
tương tác được với thông tin Facebook trên mạng, không tương tác được với
các thông tin khác trên mạng.

Nếu một người không có Văn tuệ, không có thông tin MINH lưu trong bộ nhớ,
chỉ có duy nhất một loại thông tin VÔ MINH, thì Niệm sẽ kích hoạt thông tin
VÔ MINH (vô minh chấp ngã, dục ái, hữu ái, phi hữu ái) và kết quả là Tà niệm
khởi lên và toàn bộ Bát Tà Đạo sẽ tự động tuần tự khởi lên theo quy luật duyên
khởi như một lập trình đã cài đặt. Nếu một người có Văn tuệ, có MINH trong bộ
nhớ thì sẽ có hai khả năng:

- Một là: Thông Tin bên ngoài tương tác với Thông Tin VÔ MINH thì Tà niệm
khởi lên và Bát Tà Đạo tuần tự khởi lên.

- Hai là: Thông Tin bên ngoài tương tác với Thông Tin MINH thì Chánh niệm
sẽ khởi lên và Bát Chánh Đạo sẽ tuần tự khởi lên theo quy luật duyên khởi. Đối
với vị hữu học thì việc tu tập Bát Chánh Đạo là ngăn chặn, không cho Thông
Tin bên ngoài tiếp xúc với Thông Tin VÔ MINH để không cho Bát Tà Đạo khởi
lên, tương tự như đeo khẩu trang, cách ly không cho Covid 19 tiếp xúc với Con
người. Đây là thời kỳ thực hành Chánh niệm để Thông Tin từ ngoài vào không
tiếp xúc với Thông Tin VÔ MINH trong bộ nhớ mà chỉ tiếp xúc với Thông Tin
MINH. Tuy Một Nhân là VÔ MINH vẫn còn đó nhưng không có Xúc nên Bát
tà Đạo không khởi lên, vô minh chấp ngã không khởi lên, Tham Sân Si không
khởi lên, Phiền não không khởi lên. Nhưng đó chỉ là NHIẾP PHỤC không cho
khởi lên chứ chưa phải ĐOẠN TẬN. Khi Chánh tri kiến của vị hữu học được tu
tập, được làm cho viên mãn thì thông tin MINH “xoá” thông tin VÔ MINH
trong bộ nhớ tâm thức thì sẽ xảy ra sự đột chuyển trong “thẳm sâu tâm thức”,
lúc này mới ĐOẠN TẬN. Đó là quả A-la-hán, là giải thoát tối hậu, trở thành vô
học đạo, không còn phải học, phải hành nữa. Tương tự như khi Một Nhân diệt
thì không còn quả, VÔ MINH diệt thì không còn quả Bát Tà Đạo nữa, lúc này
vô minh chấp ngã, Tham Sân Si, Phiền não được đoạn tận, giống như Covid 19
diệt thì không còn phải đeo khẩu trang, không còn phải cách ly nữa.

KẾT LUẬN:

Đại dịch rồi sẽ qua, tất cả rồi sẽ qua cho dù sự việc có tốt đẹp hay khắc nghiệt
tới đâu đi nữa vì tất cả đều do duyên khởi nên đều vô thường, vô chủ sở hữu.
Nhưng sẽ có hai cách đi qua cho nhân loại lựa chọn. Cách thứ nhất là qua với lộ
trình tâm Bát Tà Đạo, đi qua với lo lắng, sợ hãi, hoảng loạn, đau khổ. Cách thứ
hai là đi qua với tâm Bát Chánh Đạo với Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát, bình an
tự tại. Bài học cho người trí, cho những ai muốn học hỏi khám phá sự thật, cho
những ai muốn hết khổ là: Khi đại dịch Covid 19 xảy ra đại trà trên toàn thế
giới thì có hai loại khổ chi phối đời sống nhân loại. Một là những người bị bệnh
do tiếp xúc trực tiếp với Covid 19 sẽ có Khổ thọ, là những Cảm giác khó chịu
xuất hiện trên thân. Hai là nỗi khổ nội tâm do Tham ái (Hữu ái và Dục ái). So
sánh hai loại khổ này thì Khổ thọ, Cảm giác khó chịu nơi thân của người bệnh
so với nỗi khổ nội tâm của họ do tham ái, do tham sống sự chết, do mất đi
những điều kiện sống tốt đẹp, do phải cách ly, do phải điều trị, do mất tự do, tù
túng... kinh khủng hơn rất nhiều. Đối với người không bị bệnh, đây là đa số
nhân loại không có Khổ thọ trên thân do không bị bệnh nhưng nỗi khổ nội tâm
do Tham ái (do Hữu ái và Dục ái) là nỗi khổ khủng khiếp vẫn bao trùm nhân
loại tuy thân họ không bị bệnh. Tương tự như vậy, trong đời sống nhân loại xảy
ra hàng ngày cũng có hai loại khổ. Một là Khổ thọ, Cảm giác khó chịu xuất hiện
trên thân do Thân Căn, là một trong sáu căn tiếp xúc với thế giới ngoại cảnh mà
phát sinh. Hai là Khổ phát sinh nơi nội tâm do Dục ái, Hữu ái và Phi Hữu ái.
Nỗi khổ thứ nhất là Khổ thọ trên thân (do môi trường sống) so với Nỗi khổ thứ
hai do Tham ái chỉ là 1/19, tức chỉ khoảng xấp xỉ 5% toàn bộ nỗi khổ của con
người. Nỗi khổ thứ nhất có thể chấm dứt được do thay đổi môi trường, thay đổi
thế giới nhờ các phát minh khoa học, nhờ phát minh ra các loại thuốc, các loại
vacxin, nhờ tăng trưởng kinh tế nhưng Nỗi khổ thứ hai, nỗi khổ chính, căn bản
chiếm đến 95% nỗi khổ con người thuộc về Nội tâm thì chỉ có thay đổi tâm từ
Bát Tà Đạo sang Bát Chánh Đạo mới chấm dứt được. Nhưng hiểu biết sai của
nhân loại là toàn bộ nỗi khổ đều do thế giới ngoại cảnh gây ra, nên đa phần
nhân loại từ cổ chí kim chỉ khám phá thế giới ngoại cảnh để thay đổi thế giới,
thay đổi hoàn cảnh sống để mong cầu hết khổ chứ không khám phá tâm để thay
đổi tâm. Đương nhiên thay đổi thế giới cũng hết khổ nhưng chỉ hết được 5% nỗi
khổ nên nếu một người thành đạt, giàu có, khỏe mạnh, nổi tiếng đến đâu chăng
nữa cũng chỉ chấm dứt được 5% nỗi khổ còn 95% nỗi khổ thì vẫn y nguyên. Và
sự thật, hết được 5% nỗi khổ đó chỉ là tạm thời bởi tất cả đều không chắc chắn,
không vĩnh cửu mà vô thường sinh diệt như đại dịch đã chứng minh, bao nhiêu
công sức, nỗ lực, cố gắng nhằm đưa đến hết khổ bỗng nhiên tan thành mây khói
bởi đại dịch. Nếu một người thấu triệt và tu tập Tứ Thánh Đế, khám phá và thay
đổi tâm thì sẽ chấm dứt được 95% đến 99% nỗi khổ, còn dư sót một ít Khổ thọ
trên thân không đáng kể. Nhưng Chánh tri kiến không phản đối khoa học,
không phản đối thay đổi hoàn cảnh sống, không phản đối các tiện nghi bởi nó
đã phần nào giảm thiểu được nỗi khổ của nhân loại mà Chánh tri kiến hiểu rằng
phải làm các công việc đó hàng ngày bởi tâm Bát Chánh Đạo không có tham
sân si thì sẽ hết khổ ngay khi đang làm. Nhưng đây lại là những điều sâu kín,
khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt qua MỌI TƯ DUY LÝ LUẬN
SUÔNG, tế nhị, chỉ có người trí mới có khả năng lĩnh hội, là pháp thiết thực
hiện tại, ĐẾN ĐỂ MÀ THẤY, chứ không phải Đến để nhờ người khác thấy hộ
hay Đến để thấy hộ người khác.

Về mục lục

Bài 139: TIẾP NHẬN VÀ XỬ LÝ THÔNG TIN

Thực tại của đời sống con người là các loại Cảm giác và hiểu sâu hơn theo khái
niệm mới là khái niệm thông tin thì thế giới thực tại của con người là THÔNG
TIN. Thông tin di truyền cài đặt nơi 6 giác quan (Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân Ý)
tương tác với thông tin có trong 6 trần cảnh (Ánh sáng, Âm thanh, Mùi, Vị, Xúc
trần và Thông tin pháp trần) làm phát sinh các THÔNG TIN, là các Cảm giác
(Cảm thọ). Tương tự như mạng Internet đang truyền dẫn thông tin (có nhiều loại
thôn g tin trong đó Facebook, Google, YouTube, các phần mềm...) tương tác với
thông tin chứa trong điện thoại thông minh (các phần mềm cài đặt) làm phát ra
các các thông tin trên màn hình hay loa của máy. Thực chất đời sống con người
là TIẾP NHẬN VÀ XỬ LÝ THÔNG TIN DO SÁU CĂN TƯƠNG TÁC SÁU
TRẦN MÀ PHÁT SINH. Vậy cái gì tiếp nhận và xử lý thông tin đó? Đó chính
là tâm tiếp nhận hay ghi nhận và xử lý thông tin.

- Tiếp nhận thông tin: Khi Thấy, Nghe, Cảm nhận đối tượng là tiếp nhận thông
tin mà khoa tâm lý học gọi là Nhận thức cảm tính đối tượng. Thuật ngữ Phật
học gọi là tâm biết Trực tiếp giác quan, gọi tắt là trực giác. Phật học còn phân
chia tâm biết trực giác này thành 6 loại, cụ thể Thấy là Nhãn thức thấy hình
ảnh, Nghe là Nhĩ thức nghe âm thanh, Cảm nhận gồm Tỷ thức cảm nhận mùi,
Thiệt thức cảm nhận vị, Thân thức cảm nhận xúc chạm, Tưởng thức cảm nhận
pháp trần. Quá trình này xảy ra nơi các giác quan.

- Xử lý thông tin: Biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao chính là tâm biết
xử lý thông tin. Tâm biết này trong tâm lý học gọi là Nhận thức lý tính đối
tượng, Phật học gọi là tâm biết Ý thức, nhiều chỗ gọi tắt là Ý (ý dẫn đầu các
pháp). Từ tâm biết Ý thức này là nguyên nhân làm phát sinh thái độ, phản ứng
(lời nói hành động), khổ vui với đối tượng. Quá trình này xảy ra trong tế bào
thần kinh não bộ. Phật học nghiên cứu và chỉ rõ hai cách xử lý thông tin. Một là
quá trình xử lý các thông tin được ghi nhận bằng quy trình Tà niệm - Tà tư duy
- Tà tri kiến xảy ra trên lộ trình tâm Tám tà (Bát tà đạo). Hai là quá trình xử lý
các thông tin được ghi nhận bằng quy trình Chánh niệm - Chánh tư duy - Chánh
tri kiến.

Đối với người không học hỏi Tứ Thánh Đế, không tu tập Bát Chánh Đạo thì
qua trình Tiếp nhận hay Ghi nhận thông tin đi liền ngay với quá trình xử lý
thông tin: XÚC - [Cảm giác - Ghi nhận] - Tà niệm - Tà tư duy - Tà tri kiến. Quá
trình Tà niệm - Tà tư duy - Tà tri kiến xử lý thông tin một cách sai lạc, không
đúng sự thật nên sẽ làm phát sinh tham sân si, phát sinh Phiền não.

Đối với người có hiểu biết đúng sự thật Tứ Thánh Đế khi tu tập Bát Chánh Đạo,
quá trình tiếp nhận và xử lý thông tin xấy ra như sau:

- Một là tu Chỉ: là dừng lại quá trình tiếp nhận hay ghi nhận thông tin mà không
có quá trình xử lý thông tin. Lúc này chỉ thấy, nghe, cảm nhận đối tượng không
có xử lý thông tin nên không tìm hiểu, không nhận xét, không đánh giá đối
tượng nên thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, cảm nhận chỉ là cảm nhận không
thêm bớt bởi các tri thức kinh nghiệm quá khứ, không bóp méo đối tượng bởi
thích ghét. Sự dừng lại (Chỉ) này nhờ có Chánh niệm (nhớ đến tích cực chú tâm
ghi nhận đối tượng) - Chánh tinh tấn - Chánh định. Lộ trình tâm này là: XÚC -
[Cảm giác - Ghi nhận] - Trí nhớ chánh - Tích cực chánh – Chú tâm chánh -

<Tỉnh giác>

- Hai là tu Quán: sau khi tiếp nhận thông tin bởi Tỉnh giác sẽ xử lý thông tin đó
bởi Chánh niệm - Chánh tư duy - Chánh Tri kiến. Các thông tin được tiếp nhận
sẽ được xử lý bằng Chánh tri kiến, không còn xử lý bằng Tà tri kiến, sẽ được xử
lý bằng hiểu biết đúng sự thật về duyên khởi, về vô thường, vô ngã về tuệ tri vị
ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly. Khi các thông tin tiếp nhận được xử lý bằng
Chánh tri kiến, không còn xử lý bằng Tà tri kiến (hiểu biết sai sự thật) nên
không còn tham sân si, không còn phiền não mà có Tuệ giải thoát. Lộ trình tâm
này là:

XÚC - [Cảm giác - Ghi nhận] - Trí nhớ chánh - Tích cực chánh – Chú tâm
chánh - <Tỉnh giác> - Tư duy chánh - Hiểu biết chánh.

Người thực hành Bát Chánh Đạo hàng ngày tu Chỉ an trú tâm biết Tỉnh giác là
chủ yếu nhưng vẫn phải tu Quán để xử lý các thông tin đặc biệt khi tiếp nhận
các thông tin trên mạng nhưng không xử lý các thông tin đó bằng Tà niệm - Tà
tư duy - Tà tri kiến, không xử lý bởi yêu ghét mà phải xử lý thông tin bới Chánh
niệm - Chánh tư duy - Chánh tri kiến, xử lý bởi bởi TUỆ TRI VỊ NGỌT, SỰ
NGUY HIỂM VÀ SỰ XUẤT LY. Nếu cố gắng thực hành liên tục thì sẽ nhìn
đời bằng ánh mắt Tuệ tri vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly liên tục.

Về mục lục

Bài 140: KINH PHẠM VÕNG VÀ SỰ GIÁC NGỘ CỦA ĐỨC PHẬT

Kinh Phạm Võng là bản kinh đầu tiên thuộc Trường Bộ kinh, một bộ kinh gồm
những bản kinh dài mà như cố Hoà thượng Minh Châu đã nhận xét là dùng để
đối ngoại với Bà-la-môn giáo và các ngoại đạo khác. Đây là bản kinh được xếp
số 1 của Trường Bộ, là bản kinh đặc biệt và quan trọng nhất của Trường Bộ,
giống như bản kinh Pháp Môn Căn Bản được xếp số 1 của Trung Bộ là bản
kinh đặc biệt và quan trọng nhất của Trung Bộ kinh. Kinh Phạm võng có một
cấu trúc đặc biệt nhằm làm sáng tỏ sự giác ngộ của Đức Phật, là bản tuyên ngôn
về sự giác ngộ của Đức Phật. Có ba chủ đề được đề cập trong Kinh:

- Một là Đức Phật giác ngộ không phải là giác ngộ về Giới Luật

- Hai là Đức Phật giác ngộ không phải là giác ngộ về Bản Ngã và Thế Giới

- Ba là Đức Phật giác ngộ là giác ngộ về các Cảm thọ

1 - Sự Giác ngộ của Đức Phật không phải là giác ngộ về giới luật: Phần đầu
của bản kinh mô tả về Tiểu giới, Trung giới, Đại giới mà Đức Phật đã thành tựu
không ai có thể sánh bằng. Sau mỗi tiểu tiết thuộc Tiểu giới, Trung giới, Đại
giới Ngài đều nhắc đi, nhắc lại rằng những ai tán thán Như Lai về những điều
đó là kẻ phàm phu tán thán Như Lai. Và Ngài luôn luôn khẳng định: “Này các
Tỷ kheo, đấy là những vấn đề không quan trọng, nhỏ nhặt, chỉ thuộc giới luật
mà kẻ phàm phu dùng để tán thán Như Lai. Và Ngài nói tiếp: Này các Tỷ kheo,
lại có những pháp khác, sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt
ngoài tầm của lý luận suông, tế nhị chỉ những người trí mới nhận hiểu. Những
pháp ấy Như Lai đã tự chứng tri, giác ngộ và tuyên thuyết. Và chính những
pháp ấy những ai như thật chân chánh tán thán Như Lai mới nói đến.”

Như vậy chính tại phần đầu của bản kinh Đức Phật đã khẳng định sự giác ngộ
không phải là giác ngộ Giới Luật. Đối với người trí thì giới luật là điều nhỏ nhặt
không quan trọng mà quan trọng là Trí Tuệ, bởi vậy hai mươi năm đầu của lịch
sử Tăng đoàn không có một giới điều nào được chế định. Sau hai mươi năm khi
Tăng đoàn đã phát triển thì trong số đó có nhiều người không phải là người trí
nên có nhiều tệ nạn phát sinh và Đức Phật đã chế định giới luật để ngăn chặn.
Bản thân sự thành tựu giới luật không thể đoạn tận Tham Sân Si mà sự thành
tựu giới luật là duyên cho Chánh Niệm khởi lên, khi Chánh Niệm khởi lên thì
Bát Chánh Đạo sẽ tự động khởi lên theo Lý Duyên khởi và chỉ có Bát Chánh
Đạo mới đoạn tận Tham Sân Si.

2 - Sự Giác Ngộ của Đức Phật không phải là sự giác ngộ về Bản Ngã và Thế
Giới: Kinh liệt kê có 62 loại lý luận, tư tưởng chấp thủ về Bản Ngã và Thế Giới
tức những nhận thức về một cái Ta là chủ nhân, chủ thể của nhận thức, tức Bản
Ngã và Thế giới được nhận thức bao gồm Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần.
Sáu mươi hai lý luận chấp thủ đó đều xuất phát từ các quan điểm sau:

- Thường trú luận: Bản ngã và Thế giới là thường hằng (không sinh ra cũng
không mất đi mà chỉ biến đổi từ vật này sang vật khác, từ trạng thái này sang
trạng thái khác)

- Vừa Thường trú luận vừa Vô thường luận: Bản ngã và Thế giới một số thường
hằng một số khác thì vô thường. Ví như quan niệm Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân là
vô thường còn Tâm, Ý, Thức là thường hằng nên cho rằng khi chết Thân này
tan rã (vô thường) còn Tâm, Ý, Thức thoát ra đầu thai vào thân thể khác. Tâm,
Ý, Thức đó luân chuyển từ thân xác này sang thân xác khác nhưng bản thân nó
thì thường hằng, không đổi khác.

- Hữu biên luận hoặc Vô biên luận: Cho rằng Thế giới (vũ trụ) hoặc hữu biên
hoặc là vô biên không giới hạn.

- Nguỵ biện luận: Giải thích Bản ngã và Thế giới theo lối nguỵ biện trườn uốn
như lươn ví như khi được hỏi về cây cam lại trả lời về con chó...

- Vô nhân luận: Cho rằng Bản ngã và Thế giới vô nhân sanh.

- Hữu tưởng luận: Cho rằng sau khi chết Bản ngã có Tưởng
- Vô tưởng luận: Cho rằng Bản ngã sau khi chết không có Tưởng.

- Hữu biên và vô biên, Phi hữu biên và Phi Vô biên: Cho rằng Bản ngã sau khi
chết là hữu biên, là vô biên, là phi hữu biên, là phi vô biên.

- Đoạn diệt luận: Cho rằng sau khi chết Bản ngã đoạn diệt không có tái sinh.

- Niết bàn hiện tại luận: Cho rằng Bản ngã đạt đến tối thượng khi được thọ
hưởng đầy đủ, sung mãn năm món dục lạc hoặc khi an trú Sơ thiền, Nhị thiền,
Tam thiền hoặc Tứ thiền.

Sau mỗi một chủ trương, mỗi một lý luận được nêu ra Đức Phật thường xuyên
lặp đi, lặp lại khẳng định: “Này các Tỷ kheo, Như Lai tuệ tri như thế này:
"Những sở kiến ấy, chấp trước như vậy sẽ đưa đến các cõi thú như vậy, sẽ tác
thành những định mạng như vậy". Như Lai tuệ tri như vậy, Ngài tuệ tri hơn thế
nữa và Ngài không chấp trước sở tri ấy. Nhờ không chấp trước sở tri ấy, nội tâm
được tịch tịnh. Ngài như thật tuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt của các Thọ, vị
ngọt, những nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ. Nhờ tuệ tri như vậy, này các Tỷ
Kheo, Như Lai được giải thoát hoàn toàn không có chấp thủ.” Như vậy Ngài
khẳng định những tư tưởng về Bản ngã và Thế giới như vậy, những nhận thức
như vậy là Tà Kiến, nó sẽ đưa đến tái sinh, đưa đến khổ trong luân hồi sinh tử.
Hơn thế nữa Ngài chỉ ra nguồn gốc của những hiểu biết sai lầm ấy là do không
thấy, không biết về Cảm thọ. "Chủ trương ấy là kinh nghiệm cá nhân (không
phải là sự thật phổ quát) là sự không thấy, không biết các Cảm thọ của các Sa
môn, Bà -la-môn, là sự kích thích dao động, xuyên tạc (sự thật) của những vị bị
tham ái chi phối". Ngài còn chỉ rõ những Chủ trương ấy khởi lên là do sự tiếp
xúc giữa sáu Căn và Sáu Trần. Điều này được hiểu như sau: khi sáu Căn tiếp
xúc sáu Trần phát sinh sáu Cảm thọ và sáu Tưởng đó là:

- Nhãn xúc phát sinh Cảm giác hình ảnh và Nhãn thức
- Nhĩ xúc phát sinh Cảm giác âm thanh và Nhĩ thức
- Tỉ xúc phát sinh Cảm giác mùi và Tỉ thức
- Thiệt xúc phát sinh Cảm giác vị và Thiệt thức
- Thân xúc phát sinh Cảm giác xúc chạm và Thân thức
- Ý xúc phát sinh Cảm giác pháp trần và Tưởng thức

Viết chung lại thành: Xúc - Thọ - Tưởng. Tưởng là sáu cái biết trực tiếp giác
quan nhận biết đối tượng là các Cảm giác còn gọi là Nhận thức cảm tính và cái
biết này được hình dung như một đứa trẻ vừa đẻ ra, khi Căn Trần tiếp xúc nó
vẫn nhận biết đối tượng tức thấy, nghe, cảm nhận đối tượng nhưng không biết
đó là cái gì, tính chất ra sao. Sau Tưởng, Niệm và Tư duy sẽ khởi lên để tìm
hiểu đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao. Do có Niệm và Tư duy mà phát sinh
cái biết Ý thức hiểu biết về đối tượng được thấy, được nghe, được nhận biết đó.
Lộ trình được diễn tả như sau:

Xúc Thọ - Tưởng Niệm Tư duy Ý thức

Như vậy Niệm, Tư duy và Ý thức là hiểu biết về các Cảm thọ chứ không phải
hiểu biết về Thế giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần bên ngoài. Nhưng vì
không thấy, không biết các đối tượng được nhận biết và được nhận thức là các
Cảm thọ, loài người từ vô thuỷ đã nhận thức: Mắt thấy Sắc trần, Tai nghe Thanh
trần, Mũi ngửi Hương trần, Lưỡi nếm Vị trần, Thân biết Xúc trần, Ý biết Pháp
trần (Tâm biết Cảnh) và có các tư tưởng Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân Ý là của Ta...
nên những nhận thức, những tư tưởng này được lưu giữ trong "kho chứa". Khi
Niệm khởi lên sẽ dò tìm và kích hoạt các thông tin ấy trong kho chứa và Tư duy
khởi lên sẽ so sánh đối chiếu thông tin về đối tượng được Tưởng nhận biết với
các thông tin trong kho chứa đã được Niệm kích hoạt. Niệm và Tư duy như vậy
sẽ phát sinh cái biết Ý thức và nội dung cái biết Ý thức sẽ có: Ta thấy, Ta nghe,
Ta cảm nhận, Ta nhận thức... và đối tượng được thấy, nghe, cảm nhận, nhận thức
là Thế giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần. Trong cái biết Ý thức đã xuất
hiện một cái Ta hay là một Bản ngã chủ nhân, chủ sở hữu của cái biết và Ý thức
có hai phần: Chủ thể nhận thức là Bản ngã, phân biệt, đối đãi với đối tượng nhận
thức là Thế giới. Loài người vì không thấy, không biết về các Cảm thọ nên tin
chắc vào Bản ngã và tin chắc vào mình đang nhận thức Thế giới nên hiểu biết
của loài người xoay quanh Bản ngã và Thế giới. Chính vì tin chắc vào Bản ngã
và Thế giới mà một số bộ phái Phật giáo cũng chủ trương Hữu Ngã như Độc tử
bộ, Hoá địa bộ, hoặc một số đông khác băn khoăn rằng không có Bản ngã thì cái
gì luân hồi, cái gì tạo nghiệp, cái gì thọ lãnh quả của nghiệp, cái gì thừa tự
nghiệp...? Cũng nơi Ý thức nhị nguyên Hữu ngã này mà suy diễn ra hai cách tu
hành:

- Một là trở về với Bản ngã không còn quan tâm, tìm hiểu, dính mắc, ràng buộc
với Thế giới bởi Thế giới là vô thường, huyễn hoá, không thật. Bản ngã ấy được
quan niệm là Chân Tâm thường trụ, được quan niệm là Phật tánh không sinh
không diệt nơi mỗi người, được quan niệm là Tánh thấy, Tánh nghe không sinh
không diệt, được quan niệm là Tánh Không, được quan niệm là Tự Tánh, là Tánh
Giác... Các quan điểm đó tuy tên gọi có khác nhau nhưng nội dung đều giống
nhau đều mang màu sắc của chủ nghĩa Duy tâm, đều tin tưởng một Năng Lực
Tinh Thần tuyệt đối, như một Thượng Đế Toàn Năng của tôn giáo Tây phương,
một Đại Ngã của Bà-la-môn giáo. Những quan điểm này cũng đã được liệt kê
trong kinh Phạm võng với luận chấp một phần Thường trú luận một phần Vô
thường luận: Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân là Vô thường còn Tâm, Ý, Thức là Thường
hằng.

- Hai là hoà nhập Bản ngã với Thế giới để không còn Nhị nguyên, không còn
phân biệt đối đãi như kiểu "hoà quang đồng trần" nghĩa là hoà cùng ánh sáng
đồng cùng bụi bặm của Lão giáo. Hay Ta là cây cỏ, cây cỏ này chính là Ta, Ta là
con cóc đang bị con rắn nuốt, con rắn đang nuốt con cóc cũng chính là Ta, Ta là
vũ trụ này, vũ trụ này cũng chính là Ta, hay chứng ngộ Tánh Không của vũ trụ
vạn hữu dung chứa cả Bản ngã và Thế giới... Đây cũng là Đại Ngã.

Hai cách tu hành này là nội dung của các tôn giáo dựa trên Ý thức nhị nguyên về
Bản ngã và Thế giới cho nên thực chất các tôn giáo đều giống nhau, chỉ khác
nhau về tên gọi.

3- Sự Giác Ngộ của Đức Phật là giác ngộ về các Cảm thọ: Trong phần kết
luận Đức Phật nêu lên: “Những Sa môn, Bà-la-môn luận bàn về quá khứ tối sơ,
những Sa môn, Bà-la-môn luận bàn về tương lai, chấp kiến quá khứ tối sơ và
tương lai, y cứ vào quá khứ tối sơ và tương lai đề xướng nhiều sở kiến sai khác
với sáu mươi hai luận chấp. Tất cả những vị này có những chủ trương trên do
sự xúc chạm qua sáu xúc xứ. Do duyên với các Cảm thọ mà Tham ái phát khởi,
do duyên Tham ái mà Thủ phát khởi, do duyên Thủ mà Hữu phát khởi, do
duyên Hữu mà Sinh phát khởi, do duyên Sinh mà Già Chết Sầu Bi Khổ Ưu Não
phát khởi.” Lộ trình này được diễn tả theo sơ đồ:

Xúc Thọ Ái Thủ Hữu Sinh Già Chết Sầu Bi Khổ Ưu Não.

Lộ trình này Đức Phật trình bày một cách tóm tắt nên làm nhiều người khó hiểu
vì giữa Thọ và Ái còn có Niệm, Tư duy và Ý thức nhị nguyên và chính Ý thức
nhị nguyên này là Vô Minh, không tuệ tri Thọ nên mới là nhân duyên cho Ái
phát khởi. Lộ trình đã được thuyết minh ở phần trước:

Xúc Thọ - Tưởng Niệm Tư duy Ý Thức

Ý thức này có nội dung là Bản ngã biết Thế giới nghĩa là đối tượng được biết là
Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần chứ không phải Thọ và đối tượng đó được
xác định là Dễ chịu, Khó chịu hay Trung tính (mà thực chất là Lạc thọ, Khổ thọ
hay Bất khổ bất lạc thọ). Trong hiểu biết này còn có nội dung: đối tượng dễ
chịu chính là hạnh phúc, là sự chấm dứt Khổ, đối tượng khó chịu chính là Khổ
và nguyên nhân Khổ, đối tượng trung tính cũng là nguyên nhân Khổ nên sẽ
phát sinh thích thú (Tham) đối với đối tượng dễ chịu, chán ghét (Sân) đối với
đối tượng khó chịu và Tìm kiếm một đối tượng dễ chịu để thay thế đối tượng
trung tính (gọi là Si). Lộ trình chi tiết sẽ là:

Xúc Thọ - Tưởng Niệm Tư duy Ý thức Tham Sân Si Thủ Hữu
Sinh Già Chết Sầu Bi Khổ Ưu Não.

Rõ ràng vì cái biết Ý thức là Vô minh, là Tà Tri kiến, biết về Bản ngã và Thế
giới, không đúng sự thật, không tuệ tri Thọ và đó là nhân cho Tham ái, cho sầu
bi khổ ưu não khởi lên. Khi tuệ tri Thọ, tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt,
những nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ thì Tham ái không thể khởi lên và vì
vậy Sầu bi khổ ưu não không thể khởi lên. Chính vì điều này nên Đức Phật
tuyên bố: “Ngài như thật tuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt của Thọ, vị ngọt,
những nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ. Nhờ tuệ tri như vậy, này các Tỷ kheo,
Như Lai được giải thoát hoàn toàn không có chấp thủ”. Và tại sao khi tuệ tri sự
sinh diệt của Thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ lại được giải
thoát hoàn toàn không có chấp thủ?

a - Tuệ tri sự tập khởi (sinh), sự đoạn diệt (diệt) của Thọ: Ví như có một cục
nước đá và bàn tay xúc chạm với nhau thì Thánh hay Phàm đều cảm nhận được
lạnh. Lạnh là một hiện tượng hay nói theo thuật ngữ Phât học là một pháp, tuy
rằng Thánh hay Phàm đều sống với thực tại này nhưng hiểu biết về lạnh thì
Thánh và Phàm lại khác nhau.

Phàm hiểu biết: Ta biết cục nước đá này lạnh. Đây là Ý thức nhị nguyên bao
gồm: Ta biết là Bản ngã và cái được biết cục nước đá là Thế giới. Đương nhiên
cái hiểu biết này cho rằng: lạnh là vật chất, là sắc pháp, lạnh thường trú, thường
hằng trong cục nước đá, cục nước đá này mất đi thì vẫn còn những cục nước đá
khác, khi một cục nước đá được nấu chảy thì nó biến đổi thành nước nóng, và vì
lạnh là vật chất nên nó chỉ biến đổi thành nóng chứ nó không hề mất đi, nó
không sinh không diệt mà chỉ biến đổi từ vật này thành vật khác, từ trạng thái
này sang trạng thái khác. Lạnh của cục nước đá nghĩa là cục nước đá là chủ
nhân, chủ sở hữu của lạnh. Như vậy Phàm phu với Ý thức nhị nguyên (Tâm biết
Cảnh) biết về Bản ngã và Thế giới tin rằng: Lạnh là vật chất, là thuộc tính vật
chất, lạnh thường hằng, thường trú, lạnh Hữu chủ.

Bậc Thánh giác ngộ Lý Duyên khởi thấy rằng: Tay là một nhân tố, Cục nước đá
là nhân tố thứ hai. Có hai nhân này nhưng chưa có sự tiếp xúc thì chưa có cái
lạnh nào cả. Khi có Xúc (tay tiếp xúc cục nước đá) thì lập tức phát sinh lạnh,
đây mới là lạnh thực mà Phàm hay Thánh đều cảm nhận được. Ngoài xúc này
không thể cảm nhận được lạnh ở bất kỳ đâu, và lạnh này là Cảm giác (hay Cảm
thọ), nó là Tâm chứ không phải Cảnh. Xúc sinh Cảm thọ lạnh sinh, Xúc diệt
Cảm thọ lạnh diệt, Cảm thọ lạnh sinh lên rồi diệt đi, trước khi sinh nó chưa có
nên nó không thường trú trong cục nước đá, khi diệt nó không có nữa nên
không trở về đâu, nó không thường hằng, không thường trú đâu cả, nên nó Vô
thường. Cảm giác lạnh cũng Vô chủ vì khi quán sát cũng biết ngay rằng: cục
nước đá và bàn tay đều không phải là chủ nhân, chủ sở hữu Cảm giác lạnh, cũng
có nghĩa Vô ngã, nghĩa là không có Ta (Bản ngã) chủ nhân, chủ sở hữu Cảm
giác lạnh. Như vậy lạnh là Cảm thọ, là Tâm chứ không phải Cảnh và nó Vô
thường, Vô chủ (hay Vô ngã). Khi quán sát sự tiếp xúc giữa sáu Căn và sáu
Trần với Lý Duyên khởi: Hai nhân tiếp xúc với nhau rồi cùng diệt và phát sinh
hai quả đồng thời là Thọ (Cảm giác) và Tưởng (cái biết trực tiếp nhận biết Cảm
thọ) thì sẽ có được hiểu biết: những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận,
được nhận thức là các Cảm thọ, nó là Tâm, nó Vô thường, Vô chủ (Vô ngã) chứ
không phải là Cảnh, Thường hằng và Hữu chủ. Đây là hiểu biết đúng như thật
về các pháp và gọi là liễu tri, là Minh hay Trí Tuệ. Đây là Tuệ tri sự tập khởi, sự
đoạn diệt của Thọ.

Như vậy các pháp được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là do
duyên sáu Căn và sáu Trần mà khởi lên, nó Là Tâm, nó Vô thường, Vô ngã và
nó có thật chứ không phải nó không có thật như nhiều người hiểu, chỉ có cái
hiểu biết không đúng như thật không liễu tri các pháp, tin rằng các pháp đó là
Cảnh (Thế giới), Thường hằng, Hữu chủ mới là không thật.

b - Tuệ tri vị ngọt: Thọ có sáu loại, nhưng theo tính chất có ba: Lạc thọ, khổ
thọ và bất khổ bất lạc thọ. Lạc thọ chính là vị ngọt của Thọ. Ý chính về vị ngọt
muốn đề cập là Hạnh phúc, nó có thật của Thế gian chứ không phải là không có
thật. Vì nó có thật chúng sanh mới tham đắm Hạnh phúc. Nhưng tuệ tri vị ngọt
là biết như thật Hạnh phúc là Cảm thọ, nó là Tâm, nó Vô thường, Vô chủ (Vô
ngã), còn kẻ phàm phu thì tin rằng Hạnh phúc là những hoàn cảnh tốt đẹp như
giàu có, sắc đẹp, danh tiếng... thường trú, thường hằng nơi hoàn cảnh tốt đẹp và
Hữu chủ (hạnh phúc của Ta)

c - Tuệ tri sự nguy hiểm: Lạc thọ vô thường và vô chủ (nghĩa là không có một
cái gì, một cái Ta nào sở hữu, điều khiển được nó) vì vậy nếu yêu thích (Tham)
thì sẽ nắm giữ nó nên khi nó biến hoại, biến diệt, sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên.
Nếu không yêu thích thì sẽ không nắm giữ, do vậy khi nó biến hoại, biến diệt,
sầu bi khổ ưu não không thể khởi lên. Đây chính là sự nguy hiểm. Kẻ phàm phu
vì không tuệ tri sự nguy hiểm nên tham đắm Hạnh phúc (Lạc thọ) nên mới nắm
giữ và khao khát tìm cầu Hạnh phúc chỗ này chỗ kia như Dục ái, Hữu ái, Phi
hữu ái. Đây chính là Nguyên nhân Khổ.

d - Tuệ tri sự xuất ly của Thọ: khi thực hành Bát Chánh Đạo các chi phần sẽ
tuần tự khởi lên theo Lý duyên khởi:

Xúc Thọ - Tưởng Chánh Niệm Chánh Tinh Tấn Chánh Định (Tỉnh
Giác) Chánh Tư Duy Chánh Tri Ki ến

Chánh Tri Kiến sẽ có nội dung: tuệ tri sự sinh diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm của
Thọ và do cái biết Ý thức là Chánh Tri Kiến như vậy mà Tham không khởi lên
đối với Lạc thọ, Sân không có với Khổ thọ và Si không có với Bất khổ bất lạc
thọ. Đây gọi là Tuệ tri sự xuất ly của Thọ. Tuệ tri sự xuất ly của Thọ là biết như
thật không có Tham Sân Si đối với Thọ cũng có nghĩa là Tuệ tri Khổ diệt hay
Niết bàn. Khi Tuệ tri Khổ diệt thì Chánh Tri kiến cũng tuệ tri Con đường đưa
đến Khổ diệt là Bát Chánh Đạo. Như vậy Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt,
sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ cũng có nghĩa là Tuệ tri Khổ Tập Diệt Đạo.

Kết luận: Sự giác ngộ của Đức Thế Tôn không phải là sự chứng ngộ về Bản
ngã, chứng ngộ một Chân Tâm hay một Tánh Giác không sinh không diệt nào
đó, cũng không phải giác ngộ Thế giới là như thế này hay như thế kia mà sự
giác ngộ của Ngài là giác ngộ về Cảm Thọ, nghĩa là Tuệ tri sự tập khởi, sự đoạn
diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ cũng đồng nghĩa giác
ngộ Tứ Thánh Đế nghĩa là Tuệ tri Khổ Tập Diệt Đạo. Chính vì vậy để đoạn tận
Khổ, đoạn tận luân hồi sinh tử phải tu tập Bát Chánh Đạo. Đây là con đường
độc nhất, pháp môn độc nhất đoạn tận Tham Sân Si, không có một pháp môn
thứ hai nào khác, không thể đi tìm một Chân Tâm hay một Tánh Giác không
sinh không diệt, một Tánh Không của vũ trụ vạn hữu mà có thể đoạn trừ được
Tham Sân Si vì nó là các Tà kiến mà kinh Phạm võng đã liệt kê. Trong Đại
Kinh Khổ Uẩn thuộc Trung Bộ kinh Đức Phật đã khẳng định: “Này các Tỷ
kheo, những Sa môn, Bà-la-môn nào không như thật tuệ tri vị ngọt là vị ngọt
như vậy, sự nguy hiểm là sự nguy hiểm như vậy, sự xuất ly là xuất ly như vậy,
những vị này nhất định sẽ không như thật tuệ tri các cảm thọ của họ, họ sẽ
không đặt người khác trong địa vị tương tự, nghĩa là như thật tuệ tri các cảm
thọ, sự kiện ấy không xảy ra. Này các Tỷ kheo, những Sa môn, Bà-la-môn nào
như thật tuệ tri vị ngọt các cảm thọ là vị ngọt như vậy, sự nguy hiểm là nguy
hiểm như vậy, sự xuất ly là xuất ly như vậy, những vị này nhất định như thật tuệ
tri các cảm thọ của họ, họ có thể đặt người khác trong địa vị tương tự, nghĩa là
như thật tuệ tri các cảm thọ, sự kiện như vậy có xảy ra”. Những ai muốn chấm
dứt Khổ, muốn giúp đỡ người khác hay muốn độ thoát chúng sanh hãy suy
ngẫm và thuộc lòng những điều này.

Về mục lục

Bài 141: HỮU TƯỚNG VÀ VÔ TƯỚNG

Hữu tướng và Vô tướng là những thuật ngữ Phật học có nguồn gốc Hán ngữ đã
được Việt hoá nhưng đa phần người Việt hiểu rất mơ hồ các khái niệm này. Và
đặc biệt tại sao Hữu tướng là hư vọng và Vô tướng là không hư vọng, Vô tướng
là Chư Phật thì lại càng khó hiểu. Ở đây có thể xảy ra sự phán đoán: Hữu tướng
thuộc về chúng sanh nên là hư vọng còn Vô tướng thuộc về Chư Phật nên là
chân thật. Phán đoán đó tuy đúng với sự thật nhưng không nên vội tin do phán
đoán mà hãy khảo sát sự thật để biết như thật Hữu tướng là gì và tại sao Hữu
tướng lại hư vọng? Cũng như khảo sát sự thật để biết như thật Vô tướng là gì và
tại sao Vô tướng là chân thật?

1 - Hữu tướng là như thế nào?

Khi một người ngủ say không mộng mị, hoặc bị gây mê sâu khi mổ, hoặc bị
ngất đi trong một tai nạn thì lúc đó không có Thực tại, nghĩa là không có Cái
Biết và cũng không có Đối Tượng được biết. Lúc người đó thức tỉnh, có sáu
Căn tiếp xúc sáu Trần, lúc đó mới có Thực Tại bao gồm Cái Biết và Đối Tượng
được biết. Cái Biết có hai cấp độ gồm: Cái biết trực tiếp giác quan và Cái biết
Ý thức mà Tâm Lý học gọi là Nhận thức cảm tính và Nhận thức lý tính. Cái
biết trực tiếp giác quan là sự nhận biết đối tượng, đó là thấy, nghe, cảm nhận
đối tượng, nhưng chưa phân biệt đó là cái gì, tính chất ra sao, còn được gọi là
Tưởng hay tưởng tri đối tượng. Hãy hình dung Cái biết trực tiếp là cái biết của
đứa trẻ vừa đẻ ra, nó vẫn thấy, nghe, cảm nhận các đối tượng nhưng nó không
có biết đó là cái gì. Tiếp theo cái biết trực tiếp, cái biết Ý thức sẽ khởi lên. Ví
như giơ một một chiếc đồng hồ lên, mắt đứa trẻ mới đẻ thấy cái hình ảnh đó
nhưng nó không biết đó là cái đồng hồ vì cái biết Ý thức của nó chưa khởi lên
được, còn người lớn sau khi thấy hình ảnh thì Ý thức khởi lên: Ta biết đó là cái
đồng hồ, không những thế mà còn biết đồng hồ này to hay nhỏ, đẹp hay xấu,
trắng hay vàng... Trong cái biết Ý thức của con người có hai phần riêng biệt:
Chủ thể biết và đối tượng được biết. Chủ thể biết là Ta (tiếng Tàu gọi là Ngã)
hay còn gọi là Bản Ngã, là chủ nhân, chủ sở hữu cái biết. Đối tượng được biết
là Thế giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần. Cái biết là Tâm và Cái được
biết là Cảnh nghĩa là Nhãn thức thấy Sắc trần, Nhĩ thức nghe Thanh trần, Tỉ
thức cảm nhận Hương trần, Thiệt thức cảm nhận Vị trần, Thân thức biết Xúc
trần và Tưởng thức biết Pháp trần. Cái biết Ý thức này gọi là nhị nguyên Tâm
và Cảnh hay Bản ngã và Thế giới. Với cái biết này thì những gì được thấy,
được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là Thế giới nên các pháp đó có
tướng: to nhỏ, vuông tròn, dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay,
nặng nhẹ cứng mềm... Với cái biết này thì hòn đá có các tướng như nặng hay
nhẹ, to hay nhỏ, cứng hay mềm, thô hay mịn, tròn hay dẹt. Ngôi nhà cũng có
tướng vuông hay tròn, to hay nhỏ, nâu hay trắng... Như vậy tất cả những gì
được thấy, nghe, cảm nhận, nhận thức đều có tướng. Đối tượng được biết là
Thế giới như vậy nên nó là Hữu tướng. Đây là cái biết của toàn thể nhân loại
cho dù thuộc dân tộc hay tôn giáo nào, ngoại trừ các bậc Thánh.

Với cái biết Hữu tướng này thì các pháp là Cảnh trần, các pháp Thường hằng,
thường trú và các pháp Hữu chủ (hay Hữu ngã). Ví như một người khởi lên Ý
thức Ta biết cái bánh đa này giòn. Với hiểu biết này "giòn" là một hiện tượng
hay còn gọi là một pháp thuộc về vật chất (Vị trần), giòn thường hằng thường
trú nơi bánh đa, cái bánh đa đó có mất đi thì giòn vẫn còn tồn tại trong những
cái bánh đa khác, cái bánh đa có bị ẩm thì giòn biến đổi thành mềm, giòn không
tự nhiên sinh ra, không tự nhiên mất đi mà nó chỉ biến đổi từ vật này sang vật
khác, từ trạng thái này sang trạng thái khác, giòn không sinh không diệt. Giòn
Hữu chủ vì giòn là một thuộc tính của một vật gì đó, nên vật đó là chủ nhân, chủ
sở hữu của giòn. Như vậy giòn Hữu tướng, giòn là Cảnh (Vị trần), giòn Thường
hằng, giòn Hữu chủ. Khi một người khởi lên: Ta thấy ngôi nhà to và đẹp nghĩa
là ngôi nhà có tướng to, đẹp. Các tướng to, đẹp cũng là Cảnh (Sắc trần), nó
Thường hằng, nó Hữu chủ (hay Hữu ngã).

Khi một người thấy thân thể của mình với tướng cao hay thấp, trắng hay đen,
đẹp hay xấu... và hiểu biết những tướng đó là Ta, thì đó là thấy tướng Ngã, thấy
người khác với các tướng tương tự và hiểu biết những tướng đó không phải Ta
mà là người khác thì đó là thấy tướng Nhân, thấy con người và các loài vật có
tướng như thế này, hay như thế kia, và hiểu biết những tướng đó không phải là
Ta mà là chúng sanh, thì đó là thấy tướng Chúng sanh, khi một người có tư
tưởng Ta là vũ trụ vạn hữu này, vũ trụ vạn hữu này là Ta, thì đó là thấy tướng
Thọ giả.

Những gì Hữu tướng thì đều là hư vọng. Hư vọng là không có thật, nó được ví
như "lông rùa sừng thỏ", như “hoa đốm hư không” do mắt bị nhặm (bị bệnh) mà
sinh ra. Cái thế giới mà kẻ phàm phu thấy và biết có tướng như vậy là “lông rùa
sừng thỏ”, là “hoa đốm hư không” do bệnh Vô Minh của phàm phu mà phát
sinh ra. Nhưng tại sao những gì Hữu tướng đều hư vọng? Vì rằng những gì
được thấy, nghe, cảm nhận, nhận thức không phải là Thế giới, không phải là Sắc
Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần mà là các Cảm Thọ. Phải theo dõi Vô tướng là
Chân thật, không Hư vọng thì mới hiểu được Hữu tướng là Hư vọng.

2. Vô Tướng là như thế nào?

Thực tại phát sinh khi sáu Căn tiếp xúc sáu Trần phát sinh sáu Cảm thọ và sáu
cái biết trực tiếp nhận biết sáu Cảm thọ, cụ thể:

- Nhãn xúc phát sinh: Cảm giác hình ảnh - Nhãn thức
- Nhĩ xúc phát sinh: Cảm giác âm thanh - Nhĩ thức
- Tỉ xúc phát sinh: Cảm giác mùi - Tỉ thức
- Thiệt xúc phát sinh: Cảm giác vị - Thiệt thức
- Thân xúc phát sinh: Cảm giác xúc chạm - Thân thức
- Ý xúc phát sinh: Cảm giác pháp trần - Tưởng thức

Sự thật là:

- Nhãn thức thấy Cảm giác hình ảnh chứ không phải Nhãn thức thấy Sắc trần
- Nhĩ thức nghe Cảm giác âm thanh chứ không phải Nhĩ thức nghe Thanh
trần
- Tỉ thức nhận biết Cảm giác mùi chứ không phải Tỉ thức nhận biết Hương
trần
- Thiệt thức nhận biết Cảm giác vị chứ không phải Thiệt thức nhận biết Vị
trần
- Thân thức nhận biết Cảm giác xúc chạm chứ không phải Thân thức nhận
biết Xúc trần
- Tưởng thức nhận biết Cảm giác pháp trần chứ không phải Tưởng thức nhận
biết Pháp trần.
Thấy, nghe, cảm nhận đối tượng là Tâm, nhưng đối tượng được thấy nghe, cảm
nhận là các Cảm thọ, cũng là Tâm chứ không phải là Cảnh, không phải là Thế
giới. Sau khi thấy, nghe, nhận biết đối tượng gọi là Tưởng tri, hay Nhận thức cảm
tính đối tượng, Niệm và Tư duy sẽ khởi lên để tìm hiểu đối tượng là cái gì, tính
chất ra sao, và phát sinh Ý thức hiểu biết về đối tượng. Đối tượng của Niệm, Tư
duy và Ý thức cũng là các Cảm thọ. Tiếp đến với hiểu biết Ý thức sẽ phát sinh
Thái độ và Phản ứng với đối tượng cũng là các Cảm thọ đó. Như vậy Thực tại của
con người bao gồm các Cảm thọ và các Danh pháp khác phát sinh tiếp theo, Thực
Tại này là Tâm chứ không phải Cảnh, không phải là Thế giới.
Khi Tư duy để tìm hiểu các Cảm thọ, một nhu cầu đặt ra là phải phân biệt Cảm
thọ này với Cảm thọ kia mà ngôn ngữ ra đời. Ngôn ngữ vừa là phương tiện truyền
thông vừa là phương tiện của Tư duy nên những ngôn từ như to nhỏ, vuông tròn,
dài ngắn, cứng mềm, nặng nhẹ, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, tốt xấu,
sang hèn, không gian, thời gian... là tên đặt cho các Cảm thọ, để phân biệt cảm thọ
này với Cảm thọ kia. Vì không hiểu biết Sự Thật này nên kẻ Phàm phu mới áp đặt
cho các ngôn từ này là Sắc pháp hay thuộc tính của Sắc pháp. Ví như khi thấy một
hòn đá kẻ phàm phu cho rằng hòn đá có tướng nặng hay nhẹ, cứng hay mềm, thô
hay mịn, tròn hay vuông... Nếu quán sát sự thật thì thấy rằng: hòn đá là một nhân
và bàn tay là nhân thứ hai, nhưng hai nhân này chưa tiếp xúc thì chưa có nặng hay
nhẹ, cứng hay mềm, thô hay mịn, tròn hay vuông nào có mặt cả, chưa có pháp nào
phát sinh cả. Khi tay và hòn đá tiếp xúc thì lập tức phát sinh Cảm giác nặng hay
nhẹ, cứng hay mềm, thô hay mịn, vuông hay tròn. Đây mới là các pháp thực, nó là
các Cảm giác, là Tâm chứ không phải Cảnh. Xúc sinh các Cảm giác này sinh, Xúc
diệt các Cảm giác này diệt nên nó Vô thường, không thường hằng, không thường
trú trong hòn đá. Các Cảm giác này Vô chủ (Vô ngã) vì hòn đá và bàn tay đều
không phải chủ nhân, chủ sở hữu của Cảm giác và như vậy không có cái gì là chủ
nhân, chủ sở hữu của Cảm giác. Như vậy các pháp nặng nhẹ, cứng mềm, thô mịn,
vuông tròn... là cảm thọ, là Tâm nên nó không có tướng trạng, vì vậy nó là Vô
Tướng.
Tương tự như vậy có thể quán sát tất cả các pháp, tất cả Thực Tại, tức tất cả
những gì được thấy, nghe, cảm nhận, nhận thức đều là Tâm, đều Vô thường, đều
Vô chủ hay Vô ngã. Các pháp đó là Tâm nên nó hoàn toàn không có tướng trạng,
đây là cái biết Vô Tướng. Đây là hiểu biết đúng sự thật về Thực Tại, về các pháp
tức Vô Tướng. Còn cái biết Hữu tướng của phàm phu không biết như thật Thực
Tại này là Tâm mà cho rằng Thực Tại mà con người đang thấy, nghe, cảm nhận,
nhận thức là Thế Giới, là Sắc pháp nên là Hữu Tướng. Hiểu biết như vậy không
phải là sự thật, nên nó là Hư vọng. Với cái biết Hữu tướng thì các pháp là Cảnh,
Hữu tướng, Thường hằng, Hữu chủ (Hữu ngã). Cần phải lưu ý rằng với cái biết
Vô tướng thì tất cả các pháp được thấy, nghe, cảm nhận, nhận thức đều là Tâm,
nhưng các Danh pháp hay các Tâm đó đều do Căn Trần (Các Sắc pháp) tiếp xúc
mà phát sinh ra, nó sinh lên rồi diệt liền, nó Vô thường, Vô ngã chứ không phải
các pháp do một Chân Tâm tuyệt đối sinh ra, không phải các pháp do Tâm tạo.

3 - Chấm dứt Hữu tướng và đạt được Vô tướng bằng cách nào?

Câu nói: Những gì có tướng đều hư vọng, ly tất cả tướng là Chư Phật. Nếu
chỉ có như vậy thì chỉ là hiểu biết sơ sài về Hữu tướng hư vọng. Ví như rất
nhiều người nói được: Còn ham muốn là còn khổ. Đó là do những người đó
thấy được một phần sự thật hoặc nghe được từ người khác chứ không phải
người đó giác ngộ sự thật đó. Một người giác ngộ, không những họ chứng ngộ
và an trú sự thật mà họ có thể phân tích, chỉ dẫn rành mạch: ham muốn là khổ là
như thế nào? Duyên khởi của ham muốn hay do cái gì có mặt mà ham muốn có
mặt? Sự

chấm dứt ham muốn, chấm dứt khổ là như thế nào? Con đường hay phương
pháp chấm dứt ham muốn là như thế nào? Đặc biệt con đường chấm dứt ham
muốn, chấm dứt khổ mới là điều cần thuyết giảng nhiều nhất. Cũng y như vậy
một người giác ngộ Hữu tướng là hư vọng thì không dừng lại câu nhận xét
suông mà sẽ phân tích, chỉ dẫn, giảng nói rành mạch những điều sau:

- Hữu tướng hư vọng là như thế nào?

- Duyên khởi lên Hữu tướng hư vọng hay do cái gì có mặt mà Hữu
tướng hư vọng có mặt?

- Sự chấm dứt Hữu tướng hư vọng là như thế nào?

- Con đường hay phương pháp chấm dứt Hữu tướng hư vọng là như thế
nào?

Câu nói: Sanh tâm vô sở trụ, nghĩa là không trụ vào Sắc Thanh Hương Vị
Xúc Pháp mà sanh tâm. Câu này có nghĩa là sinh tâm không dính mắc, không
ràng buộc, không nương tựa vào Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp, cũng có nghĩa
là sanh tâm không có Tham ái đối với Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp. Câu nói
này với ngôn từ khác có vẻ cao siêu nhưng lại gây khó hiểu cho người đọc, tuy
vậy nó cũng đồng nghĩa với cách nói Sắc ái, Thanh ái, Hương ái, Vị ái, Xúc ái,
Pháp ái và sự chấm dứt Tham ái đối với Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp. Hai
cách nói này đều xuất phát từ cùng một hiểu biết Hữu tướng hư vọng nghĩa là
Tâm biết Cảnh, nghĩa là những gì được thấy, nghe, cảm nhận, nhận thức là Thế
giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần, cho nên đối tượng của Ái là Sắc
Thanh Hương Vị Xúc Pháp. Chính vì không biết Vô Tướng là như thế nào,
không biết sự thật về Cảm thọ, không biết sự thật đối tượng của Ái là các Cảm
thọ nên những người này hiểu như vậy và giải thích sai lạc lời dạy của Phật.
Đức Phật đã thuyết giảng: Do có Xúc mà có Thọ, do có Thọ mà có Ái, do có Ái
mà có Thủ... Rõ ràng Ngài đã giảng sự thật: đối tượng của Ái là Thọ chứ không
phải đối tượng của Ái là Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp. Đây là những pháp
khó thấy, khó chứng, sâu kín, tịch tịnh, mỹ diệu vượt qua mọi tư duy lý luận
suông, chỉ người trí mới có khả năng nhận hiểu.

a - Duyên khởi lên Hữu tướng hư vọng: Khi sáu Căn tiếp xúc sáu Trần phát
sinh sáu Cảm thọ và sáu cái biết trực tiếp (gọi chung là Tưởng) nhận biết sáu
Cảm thọ đó: Xúc Thọ (Cảm giác) - Tưởng

Sự kiện này Thánh hay Phàm đều xảy ra như nhau. Tiếp đến Niệm, Tư duy sẽ
khởi lên, tìm hiểu đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao: dễ chịu, khó chịu hay
trung tính. Niệm và Tư duy sẽ phải sử dụng các thông tin trong "kho chứa thông
tin". Mỗi một người đều có một "kho chứa thông tin" bao gồm những tri thức,
hiểu biết đã được học hỏi và được lưu vào, những thói quen, kinh nghiệm đã
được luyện tập, đặc biệt là những hiểu biết không đúng sự thật với tên gọi là Vô
Minh như Tâm biết Cảnh (Mắt thấy Sắc trần, Tai nghe Thanh trần, Mũi ngửi
Hương trần...) như Khổ Tập Diệt Đạo là Cảnh và những tư tưởng: cái này là của
Ta, là Ta như Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân Ý là của Ta, là Ta, nhà của Ta, xe của
Ta... Tất cả những thông tin đó bao gồm các Thân hành, Khẩu hành, Ý hành
được lưu vào kho chứa thông tin với tên gọi là Nghiệp hay Pháp trần. Đặc biệt
Vô Minh và Ta, của Ta là những thông tin nổi bật nhất trong "kho chứa thông
tin" đó. Tiếp theo sự nhận biết đối tượng (Tưởng), Niệm khởi lên tìm kiếm và
kích hoạt thông tin trong kho chứa cho Tư duy sinh khởi và Tư duy sẽ phân tích
so sánh, đối chiếu thông tin về đối tượng được nhận biết với thông tin trong kho
chứa do Niệm kích hoạt. Hành vi Tư duy sẽ làm phát sinh cái biết Ý thức, hiểu
biết về đối tượng: Xúc Thọ - Tưởng Niệm Tư duy Ý thức

Như vậy nội dung của Ý thức tuỳ thuộc vào Niệm và Tư duy, tuỳ thuộc vào
thông tin trong kho chứa, tức tuỳ thuộc vào tri thức, hiểu biết, kinh nghiệm quá
khứ. Trong những thông tin này thì "Vô Minh, Ta, của Ta" là nổi trội nhất nên
Niệm bao giờ cũng kích hoạt nó lên và Tư duy sẽ đối chiếu với "Vô Minh, Ta,
của Ta" nên nội dung của Ý thức sẽ có mặt các thông tin này. Vì vậy nội dung
của Ý thức sẽ xuất một cái Ta (Bản ngã) chủ thể biết và đối tượng được biết là
Thế Giới. Đây chính là Ý thức nhị nguyên, cũng chính là Vô Minh, cũng là
Vọng Tưởng, cũng là Tà Tri Kiến, cũng là Hữu tướng hư vọng. Tuy tên gọi có
khác nhau nhưng đều cùng chỉ Ý thức Tà Tri kiến của kẻ phàm phu. Do vậy
Niệm này là Tà Niệm, Tư duy này là Tà Tư duy và Ý thức này là Tà Tri kiến
Xúc Thọ - Tưởng Tà Niệm Tà Tư duy Tà Tri kiến

Đây chính là đoạn đầu của lộ trình tâm Bát Tà Đạo, lộ trình tâm của phàm phu.
Như vậy nguyên nhân của Hữu tướng hư vọng là do Tà Niệm kích hoạt "Vô
Minh, Ta, của Ta" trong kho chứa và Tà Tư duy làm phát sinh Tà Tri kiến chính
là Hữu Tướng hư vọng. Khi đã có Hữu tướng hư vọng (Tà Tri kiến) thì Tham
Sân Si, Ràng buộc, Sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên.
b - Sự chấm dứt Hữu tướng hư vọng và Con đường chấm dứt Hữu tướng
hư vọng: Một vị hữu học có Văn tuệ tức được nghe giảng hoặc tự mình nghiên
cứu kinh điển mà hiểu biết như thật về Lý Duyên khởi, biết như thật Vô thường,
Vô ngã, biết như thật Khổ Tập Diệt Đạo. Những thông tin này sẽ được lưu vào
"kho chứa thông tin" với tên gọi là Minh. Vị đó Tư duy về Minh để hiểu sâu và
rộng hơn điều đã học, đồng thời kích hoạt thông tin đó làm cho nó trở nên nổi
trội nhất trong kho chứa, nổi trội hơn cả "Vô Minh, Ta, của Ta". Khi vị đó tu
tập Tứ Niệm Xứ thì khi sáu Căn tiếp xúc sáu Trần: Xúc Thọ - Tưởng khởi
lên, tiếp đến Niệm khởi lên sẽ kích hoạt Minh chứ không kích hoạt Vô Minh,
Ta, của Ta nên Tư duy sẽ đối chiếu với Minh làm phát sinh cái biết Ý thức đúng
với sự thật. Niệm này bây giờ là Chánh Niệm, Tư duy là Chánh Tư duy, Ý thức
là Chánh Tri kiến. Lộ trình tâm này gọi là Bát Chánh Đạo như sau:

Xúc Thọ - Tưởng Chánh Niệm Chánh Tinh Tấn Chánh Định (Tỉnh
Giác) Chánh Tư Duy Chánh Tri Kiến

Trong lộ trình tâm Bát Chánh Đạo, sau khi nhận biết đối tượng với cái biết Tỉnh
Giác (trực tiếp) nếu Chánh Niệm là nhớ đến chú tâm quán sát đối tượng đó là
tâm (đối với Niệm Tâm), nhớ đến chú tâm quán sát đối tượng đó Vô thường, Vô
ngã, Ly tham (đối với Niệm Pháp) thì Chánh Tư Duy khởi lên đối chiếu thông
tin về đối tượng do Tỉnh Giác cung cấp với các thông tin do Chánh Niệm kích
hoạt và sẽ phát sinh Ý thức Chánh Tri Kiến biết như thật đối tượng đó là Tâm,
nó Vô thường, Vô ngã, Ly tham. Chánh Tri Kiến này chính là cái biết Vô
Tướng cũng là Minh, là Trí Tuệ và cũng chính là Vô Tướng Giải Thoát trong
Tam Giải Thoát: Không Giải Thoát - Vô Tướng Giải Thoát - Vô Tác Giải
Thoát. Với Chánh Tri Kiến là Vô Tướng này Hành Giả cũng kinh nghiệm được
Sự chấm dứt Hữu tướng hư vọng, cũng kinh nghiệm được Sự chấm dứt Tham
Sân Si, cũng có nghĩa kinh nghiệm được Sự chấm dứt Khổ. Hành Giả cũng kinh
nghiệm được Con đương chấm dứt Hữu tướng hư vọng chính là Bát Chánh Đạo.
Khi Chánh Tri Kiến hay Vô Tướng được tu tập cho đến viên mãn thì thông tin
Minh được lưu vào kho chứa xoá bỏ hoàn toàn thông tin "Vô Minh, Ta, của Ta"
và đây là thời điểm chứng đạt đạo quả A-la-hán. Sự xoá bỏ hoàn toàn thông tin
"Vô minh, Ta, của Ta" trong kho chứa thông tin chính là sự đoạn tận Tà Niệm,
đoạn tận Vô Minh, đoạn tận Tà Tri Kiến, đoạn tận Hữu tướng hư vọng, đoạn tận
Tham Sân Si, đoạn tận Khổ đau. Sự kiện này xảy ra nơi lộ trình tâm Bát Chánh
Đạo do sáu Căn tiếp xúc sáu Trần mà phát sinh ra, nó là những lộ trình tâm sinh
diệt, vô thường, vô ngã chứ không phải nơi một Chân Tâm không sinh không
diệt hay một Tánh giác nào đó. Sự kiện xoá bỏ hoàn toàn thông tin "Vô Minh,
Ta, của Ta" xảy ra ngay trong cấu trúc ADN của các tế bào cơ thể vì kho chứa
thông tin chính là cấu trúc ADN của tế bào. Chính vì vậy mà Đức Phật tuyên
bố: Thế gian, Nguồn gốc Thế gian, Sự chấm dứt Thế gian và Con đường chấm
dứt Thế gian đều nằm trong tấm thân dài độ thước mấy này cùng với Tưởng và
Thức.

Về mục lục

Bài 142: CHẤP CÓ CHẤP KHÔNG VÀ LÝ DUYÊN KHỞI

Ai với Chánh trí tuệ thấy như chơn các pháp tập khởi thì không cho rằng các pháp
là không có. Ai với Chánh trí tuệ thấy như chơn các pháp đoạn diệt thì không cho
các pháp là có. Chấp Có, chấp Không có là những biên kiến. Như Lai xa lìa hai
cực đoan mà thuyết pháp ở Trung Đạo: cái này có do cái kia có, cái này sinh do cái
kia sinh, cái này không có do cái kia không có, cái này diệt do cái kia diệt.
- Trước tiên phải hiểu thế nào là chấp Các pháp là Có, thế nào là chấp các pháp là
Không có. Ví như một người thấy một khúc mía, liền khởi lên hiểu biết: khúc mía
này ngọt. Với hiểu biết này ngọt là một pháp, ngọt là vật chất, ngọt thường trú nơi
cây mía, cây mía có bị ép ra thành nước thì ngọt thường trú nơi nước mía, nước
mía được nấu thành đường thì ngọt ở nơi đường, đường được chế biến thành kẹo
bánh thì ngọt ở nơi kẹo bánh, đường đó có chế biến thành giấm thì ngọt không
mất đi mà chỉ biến đổi thành chua mà thôi. Như vậy ngọt là một pháp, thường
hằng, thường trú, không sinh ra cũng không mất đi mà chỉ biến đổi từ vật này sang
vật khác, từ trạng thái này sang trạng thái khác mà thôi. Như vậy theo hiểu biết
này ngọt là thường có, sẵn có, không từ đâu sanh, không bao giờ diệt. Tất cả các
pháp khác như đất nước gió lửa, vuông tròn, to nhỏ, đẹp xấu, xanh vàng đỏ trắng,
mặn ngọt chua cay, cứng mềm, thô mịn... cũng đều như vậy, nghĩa là các pháp
thường còn, sẵn có, luôn luôn có, thường trú nơi Cảnh, nên gọi là chấp các pháp
là Thường Có. Quan niệm này gọi là Thường Kiến, thuộc về chủ nghĩa Duy Vật.
Khi một người khoẻ mạnh cảm nhận được cây mía ngọt, nhưng khi người đó ốm
nặng cũng cây mía đó lại cảm nhận nhạt nhẽo hoặc đắng, không còn ngọt nữa.
Người này kết luận ngọt không nằm trong cây mía, mà ngọt là do Tâm tạo, ngọt
do Tâm sanh. Từ những nhận xét tương tự như vậy mà khái quát lên, trừu tượng
lên đưa đến chủ trương các pháp do Tâm tạo, các pháp do Tâm sanh. Tâm sanh ra
các pháp (các sự vật hiện tượng) là một Năng Lực Tinh Thần tuyệt đối, một
Thượng Đế Toàn Năng, một Đại Ngã, một Chân Tâm Thường Trụ... Tên gọi Tâm
đó thì tuỳ thuộc vào từng trường phái, từng tôn giáo nhưng quan niệm thì đều
giống nhau, nghĩa là các pháp không có thật, chỉ do Tâm tạo ra. Đây chính là chấp
các pháp là Không Có, chỉ do Tâm hoá hiện ra và quan điểm này là Đoạn Kiến,
thuộc về chủ nghĩa Duy Tâm.
- Thấy như chơn các pháp tập khởi, thấy như chơn các pháp đoạn diệt thì ly hai
cực đoan Thường Có và Không Có. Một người nếu quán sát sự thật sẽ thấy rằng:
Có khúc mía và có lưỡi, tức có hai nhân nhưng chưa tiếp xúc nhau thì chưa có vị
ngọt nào phát sinh cả. Khi lưỡi tiếp xúc với khúc mía, lập tức phát sinh cảm giác
vị ngọt. Đây là "ngọt" thực, dù là Phàm hay Thánh đều cảm nhận được. Ngọt là
cảm giác, nó là Tâm chứ không phải Cảnh (vật chất). Xúc sinh cảm giác vị ngọt
sinh, Xúc diệt cảm giác vị ngọt diệt vì vậy cảm giác vị ngọt Vô thường, không
luôn luôn có, không Thường Có. Cảm giác vị ngọt do duyên Căn Trần tiếp xúc
mà sinh ra, Thánh hay Phàm đều cảm nhận được, Xúc sinh nó sinh, Xúc diệt nó
diệt, tuy nó chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn ngủi nhưng nó có thật chứ
không phải do Tâm hoá hiện ra nên không phải là Không Có. Như vậy thấy như
chơn ngọt tập khởi, thấy như chơn ngọt đoạn diệt là như vậy, cũng có nghĩa là
Liễu tri "ngọt" thì chấm dứt được cái thấy sai lạc gọi là hai cực đoan Thường Có
và Không Có hay Thường Kiến và Đoạn Kiến theo chủ nghĩa Duy Vật và Duy
Tâm.
Lý Duyên Khởi được Đức Phật giới thiệu rất ngắn gọn: do cái này có, cái kia có,
do cái này sinh, cái kia sinh, do cái này không có, cái kia không có, do cái này diệt
cái kia diệt. Cái này là Nhân và Cái kia là Quả, nhưng không phải là một nhân
sinh quả, hay nhân chính biến đổi thành quả có nhân phụ trợ giúp, hay nhân chính
biến đổi thành quả có duyên trợ giúp. Quán sát sự thật để thấy cụ thể: Cái này là
nhân bao gồm lưỡi là nhân thứ nhất (Căn) và khúc mía là nhân thứ hai (Trần). Hai
nhân này bình đẳng, không nhân nào là chính, không nhân nào là phụ. Có đủ hai
nhân nhưng chưa có sự tiếp xúc thì chưa có Cảm giác vị ngọt nào phát sinh. Khi
lưỡi và khúc mía tiếp xúc với nhau thì lập tức phát sinh Cảm giác vị ngọt. Như
vậy Nhân là Cái này bao gồm hai nhân Căn Trần duyên nhau, tức tiếp xúc với
nhau hay còn gọi là duyên Xúc. Đây gọi là Nhân duyên hay duyên khởi lên các
pháp. Cái kia chính là Quả, nhưng không phải hai nhân tiếp xúc phát sinh một quả
mà phát sinh nhiều quả. Khi lưỡi tiếp xúc với khúc mía không những phát sinh
Cảm giác vị ngọt, mà còn đồng thời phát sinh một cái biết, nhận biết Cảm giác vị
ngọt đó. Cái biết này là cái biết trực tiếp giác quan, hay còn gọi là Nhận thức cảm
tính có tên gọi là Thiệt thức. Như vậy Cái kia hay Quả bao gồm Cảm giác vị ngọt
và Thiệt thức. Quán sát sự thật như vậy để thấy được lời dạy của Đức Thế Tôn, rất
ngắn gọn, rất đơn giản, không thừa, không thiếu một chi tiết nào. Cần phải quán
sát một chi tiết cũng hết sức quan trọng là Nhân diệt thì Quả sanh, Nhân và Quả
không bao giờ cùng đồng thời tồn tại. Khi lưỡi và khúc mía tiếp xúc với nhau phát
sinh Cảm giác vị ngọt và Thiệt thức thì Lưỡi không còn y nguyên như ban đầu,
mà nó đã đổi khác, nghĩa là lưỡi cũ diệt, lưỡi mới phát sinh, khúc mía cũng tương
tự như vậy. Sự sinh diệt này rất vi tế nên có thể lấy một thí dụ khác để thấy Nhân
diệt Quả sanh dễ hơn. Ví như chậu nước trong và gói thuốc nhuộm đỏ tiếp xúc với
nhau và cả hai cùng diệt mới phát sinh chậu thuốc nhuộm đỏ. Căn Trần tiếp xúc
nhau gọi tắt là Xúc. Xúc sinh Cảm giác vị ngọt và Thiệt thức sinh, Xúc diệt Cảm
giác vị ngọt và Thiệt thức diệt nên Cảm giác vị ngọt và Thiệt thức Vô thường. Khi
Cảm giác vị ngọt và Thiệt thức sinh lên thì Căn Trần (lưỡi cũ và khúc mía cũ) đã
diệt nên nó hoàn toàn độc lập hay nó Vô chủ nghĩa là lưỡi và khúc mía không có
quan hệ chủ nhân hay chủ sở hữu cảm giác vị ngọt. Như vậy thấy được Duyên
khởi lên Cảm giác vị ngọt và Thiệt thức cũng thấy luôn Cảm giác vị ngọt và Thiệt
thức đều Vô thường, Vô chủ (Vô ngã). Mỗi người phải tự mình quán sát tỉ mỉ sáu
căn tiếp xúc sáu trần để tự mình thấy, tự mình biết như thật quy luật Duyên khởi
nghĩa là: Hai nhân Căn và Trần tiếp xúc nhau rồi cùng diệt mà phát sinh hai quả
đồng thời là Cảm giác và Cái biết trực tiếp giác quan (còn gọi là Thọ và Tưởng),
các pháp này đều Vô thường, Vô chủ (Vô ngã).
- Nhãn xúc phát sinh: Cảm giác hình ảnh - Nhãn thức
- Nhĩ xúc phát sinh: Cảm giác âm thanh - Nhĩ thức
- Tỉ xúc phát sinh: Cảm giác mùi - Tỉ thức
- Thiệt xúc phát sinh: Cảm giác vị - Thiệt thức
- Thân xúc phát sinh: Cảm giác xúc chạm - Thân thức
- Ý xúc phát sinh: Cảm giác pháp trần - Tưởng thức
Viết tóm tắt là: Xúc Cảm giác (Thọ) - Tưởng

Khi sáu Căn tiếp xúc sáu Trần phát sinh sáu Cảm thọ và sáu Tưởng tức sáu cái
biết trực tiếp nhận biết sáu Cảm thọ, sự việc này xảy ra nơi các giác quan. Sau
đó lượng thông tin của cái biết trực tiếp được truyền dẫn vào trong tế bào thần
kinh não bộ. Tại tế bào thần kinh não bộ phát sinh sự tiếp xúc (tương tác) giữa
lượng thông tin được truyền vào với lượng thông tin Pháp trần được lưu giữ
trong cấu trúc ADN của tế bào. Đây cũng là Ý tiếp xúc với Pháp và gọi là Nội
xúc. Sự tiếp xúc hay tương tác này sẽ phát sinh Niệm, tiếp đến lượng thông tin
do Niệm kích hoạt sẽ tương tác với lượng thông tin được truyền vào phát sinh
Tư duy. Lộ trình cứ thế tiếp diễn làm phát sinh Ý thức, rồi từ Ý thức phát sinh
Thái độ và Phản ứng với đối tượng và cuối cùng là kết quả. Từ Niệm trở đi, các
Danh pháp này đều do Ý tiếp xúc với Pháp trần mà phát sinh, cụ thể là sự tương
tác giữa hai lượng thông tin ngay trong bản thân tế bào thần kinh não bộ, hoặc
các tế bào chức năng khác (phát sinh ra lời nói, hành động) nên gọi là Nội xúc.
Các Danh pháp này đều Vô thường, Vô ngã. Lý Duyên khởi này được đề cập
trong Thập nhị nhân duyên: Do duyên Vô minh mà có Hành, do duyên Hành mà
có Thức (tái sinh), do duyên Thức (tái sanh) mà có Danh Sắc, do duyên Danh
Sắc mà có Lục nhập, do duyên Lục nhập mà có Xúc, do duyên Xúc mà có Thọ,
do duyên Thọ mà có Ái, do duyên Ái mà có Thủ, do duyên Thủ mà có Hữu, do
duyên Hữu mà có Sinh, do duyên Sinh mà có Già chết sầu bi khổ ưu não không
thể kể xiết. Lý Duyên khởi này phải được quán sát theo hai phân đoạn: Một là
Vô minh - Hành - Thức (tái sanh) - Danh Sắc để thấy rõ Nguyên lý luân hồi tái
sanh, để thấy được sự xuất hiện, sự phát sinh của Danh Sắc. Hai là Lục nhập -
Xúc - Thọ - Ái - Thủ - Hữu - Sinh - Già chết sầu bi khổ ưu não để biết về Bát Tà
Đạo, để tuệ tri Khổ Đế và Tập Đế. Quán sát một cách tỉ mỉ sẽ là:

Xúc Thọ - Tưởng Tà Niệm Tà Tư duy Tà Tri kiến Tham Sân Si Tà


Định Dục Tà Tinh tấn Phi Như Lý tác ý Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng
Sinh già bệnh chết sầu bi khổ ưu não.

Đây là lộ trình Duyên khởi lên Thực tại của Phàm phu, nó chính là lộ trình tâm
Bát Tà Đạo. Lộ trình duyên khởi lên Thực tại của bậc Thánh cũng do duyên sáu
Căn và sáu Trần mà phát sinh, nó là lộ trình Bát Chánh Đạo trên đó có Diệt Đế
và Đạo Đế như sau: Xúc Thọ - Tưởng Chánh Niệm Chánh Tinh tấn
Chánh Định (Tỉnh Giác) Chánh Tư duy Chánh Tri kiến Như Lý tác ý
Chánh ngữ Chánh nghiệp Chánh mạng.

Quán sát Lý Duyên Khởi để thấy biết như thật Thực tại đang là của Phàm và
Thánh, để thấy biết như thật Khổ Tập Diệt Đạo chứ không phải để có được sự
hiểu biết về Thế giới, hiểu biết về nguồn gốc Thế giới, hiểu biết về các giai
đoạn Thành Trụ Hoại Không của Thế giới, hiểu biết về các bí ẩn của Thế giới,
hiểu biết sự thật tuyệt đối của Thế giới.

Như vậy quán sát Lý Duyên khởi là quán sát sự tiếp xúc giữa sáu Căn và sáu
Trần, để thấy biết như thật sự phát sinh các pháp, để thấy biết như thật Thực tại
của mỗi người bao gồm Cái biết (Tâm biết) và Cái được biết đều do sáu Căn và
sáu Trần tiếp xúc mà phát sinh ra. Cái biết (Tâm biết) và Cái được biết đều là
Tâm, đều Vô thường, Vô ngã chứ không phải là Cảnh, không phải là Sắc Thanh
Hương vị Xúc Pháp trần bên ngoài, không phải là Thế giới. Vì không giác ngộ
Lý Duyên khởi nơi sáu Căn tiếp xúc sáu Trần nên kẻ phàm phu lầm chấp Thực
tại là Thế giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần bên ngoài, không phân biệt
được Thực tại của mỗi người với Thế giới, nên lầm chấp các pháp là Thường
hằng và Hữu ngã rồi trôi lăn theo vọng tưởng đó. Chừng nào chưa giác ngộ Lý
Duyên khởi thì chừng đó còn xoay quanh Bản ngã và Thế giới nghĩa là Tâm
biết là Bản ngã và Đối tượng được biết là Thế giới thì các pháp là Thường hằng
và Hữu ngã và như vậy sẽ lầm chấp các pháp là Thường Có hoặc Không Có
(chấp Có, chấp Không), chứ không thể nào liễu tri các pháp, thấy biết như thật
các pháp Vô thường, Vô ngã được. Chính vì lý do này mà Đức Phật khẳng định:
Ai thấy Duyên khởi là thấy Pháp, ai thấy Pháp là thấy Ta.

Về mục lục

Bài 143: CHÂN ĐẾ VÀ TỤC ĐẾ


Chân đế và Tục đế là những khái niệm xuất hiện về sau, nó không có trong các
bộ kinh Nikaya, nghĩa là không do Phật nói. Kinh điển có nói đến Đế, nói đến
Chân Lý hay Sự Thật phổ quát mà các bậc Thánh đã giác ngộ, đó là Tứ Thánh
Đế bao gồm Khổ Đế, Tập Đế, Đạo Đế và Diệt Đế. Như vậy Kinh điển nói đến
Tứ Đế chứ không phải là Nhị Đế. Nhị Đế bao gồm Tục đế và Chân đế là quan
niệm của người đời sau và các quan niệm đó không ăn nhập gì với Tứ Đế.

Tục đế được hiểu là Sự thật tương đối, Chân đế được hiểu là Sự thật tuyệt đối.
Trong cách hiểu như vậy đã có sự mâu thuẫn. Nếu đã là sự thật, là chân lý thì
chỉ duy nhất có một sự thật, chứ không thể nào có hai sự thật tương đối và tuyệt
đối được. Nếu hiểu sự thật tương đối là gần với sự thật, thì nó đâu phải là sự
thật, cho dù nó gần sự thật bao nhiêu đi nữa thì nó vẫn không phải là sự thật.
Hiểu Tục đế và Chân đế như vậy là do sự đồng nhất giữa Thực tại và Thế giới,
bắt nguồn từ Ý thức nhị nguyên của loài người có nội dung là Bản ngã và Thế
giới. Chủ thể biết là Bản ngã và Đối tượng được biết là Thế giới, vì thế mới phát
sinh khái niệm: Tục đế là biết về sự thật tương đối về Thế giới và Chân đế là
biết sự thật tuyệt đối về Thế giới. Tục đế là thấy biết sự thật tương đối về Thế
giới của Phàm phu, với những khái niệm, ngôn ngữ chế định, có Ta, có người,
có to nhỏ, nặng nhẹ, cứng mềm, thô mịn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua
cay, có Phật có chúng sanh... Chân đế là sự thật tuyệt đối về Thế giới, không có
khái niệm, không có ngôn ngữ chế định. Những ai giác ngộ Chân đế là giác ngộ
sự thật tuyệt đối về thế giới thì không thể nào có thể diễn giảng, giảng nói về cái
sự thật tuyệt đối vô ngôn, vô niệm, vô phân biệt ấy. Đây là một sự nhầm lẫn rất
lớn, nhầm lẫn cơ bản về sự giác ngộ của Đức Phật. Sự giác ngộ của Đức Phật là
giác ngộ Tứ Thánh Đế, chứ không phải giác ngộ về Thế giới và sau khi giác ngộ
Tứ Thánh Đế, Ngài đã thuyết giảng, xác chứng, hiển thị, phân tích, chỉ dẫn rành
mạch về Bốn Sự Thật đó. Tục đế và Chân đế theo cách hiểu là sự thật tương đối
và tuyệt đối của Thế giới là Căn bản Vô minh, Tâm biết Cảnh, Tâm biết các Sắc
pháp, nghĩa là Nhãn thức thấy Sắc trần, Nhĩ thức nghe Thanh trần, Tỉ thức biết
Hương trần, Thiệt thức biết Vị trần, Thân thức biết Xúc trần, Tưởng thức biết
Pháp trần. Chính Căn bản Vô minh này là màn che, ngăn không cho kẻ phàm
phu thấy như thật Thực tại, không phân biệt được Thực tại và Thế giới là hai
phạm trù hoàn toàn khác nhau. Thực tại của Phàm hay Thánh bao gồm Cái biết
và Cái được biết đều do sáu Căn và sáu Trần tiếp xúc mà phát sanh ra và Cái
được biết (đối tượng) là sáu Cảm thọ chứ không phải là Thế giới Sắc Thanh
Hương Vị Xúc Pháp trần. Thực tại còn bao gồm: Niệm, Tư duy, Ý thức, Thái
độ, Phản ứng với đối tượng cũng là đối với Cảm thọ, kết quả của Thái độ và
Phản ứng ấy cũng là với Cảm thọ. Như vậy có một Con người chủ quan và một
Thế giới khách quan tiếp xúc với nhau phát sinh một "Thế giới cảm thọ" và
những gì được Thấy, được Nghe, được Cảm nhận, được Nhận thức là "thế giới
Cảm thọ" chứ không phải là Thế giới khách quan (Thế giới). Thực tại cũng
được phân chia thành hai loại: Thực tại của kẻ Phàm phu và Thực tại của bậc
Thánh nhưng không phải Thực tại của Phàm phu là Thực tại tương đối còn
Thực tại của bậc Thánh là Thực tại tuyệt đối, mà kẻ Phàm phu không thấy biết
như thật hay không giác ngộ Thực tại, chỉ có bậc Thánh mới thấy biết như thật,
mới giác ngộ cả hai Thực tại này.

- Thực tại của Phàm phu: Khi sáu Căn tiếp xúc sáu Trần phát sinh sáu Thọ và
sáu Tưởng, tức sáu cái biết trực tiếp giác quan nhận biết sáu Thọ (Xúc Thọ -
Tưởng) tiếp đến Tà Niệm, Tà Tư duy khởi lên làm phát sinh Tà Tri kiến, là cái
biết Ý thức nhị nguyên có nội dung Bản ngã và Thế giới (Cái biết là Bản ngã,
Đối tượng được biết là Thế giới) không đúng sự thật, không liễu tri đối tượng
nên gọi là Vô Minh. Do có Vô Minh mà sẽ phát sinh Thái độ là Tham Sân Si và
Ràng buộc vào đối tượng (gọi là Thủ), do có Thủ mà sẽ có Phản ứng với đối
tượng, do có Phản ứng (gọi là Nghiệp Hữu) mà có sầu bi khổ ưu não sinh già
bệnh chết... Trong Duyên Khởi có thuyết minh một cách tóm tắt:
Xúc Thọ Ái Thủ Hữu Sinh Già chết sầu bi khổ ưu não...

Nếu Thực tại này thuyết minh một cách đầy đủ thì đó là những lộ trình tâm Bát
Tà Đạo, do sáu Căn tiếp xúc sáu Trần phát sinh ra:

Xúc Thọ - Tưởng Tà Niệm Tà Tư duy Tà Tri kiến Tham, Sân, Si (Ái)
Tà Định Dục Tà Tinh tấn Phi như lý tác ý Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà
mạng Sầu bi khổ ưu não Sinh già bệnh chết...

Trong Thực tại của Phàm phu có Vô minh, có Tham Sân Si, có sầu bi khổ ưu
não, Sinh già bệnh chết nghĩa là có Sự thật Khổ và Sự thật Nguyên nhân Khổ.
Kẻ Phàm phu tuy sống trong Thực tại có Sự thật Khổ và Sự thật Nguyên nhân
Khổ nhưng vì bị Vô Minh che đậy nên không giác ngộ hai sự thật này. Bậc
Thánh giác ngộ Lý Duyên khởi nên thấy biết như thật Khổ khởi lên theo lộ trình
tâm Bát Tà Đạo, Khổ là Tâm chứ không phải Cảnh, Khổ vô thường, vô ngã.
Năm Thủ Uẩn là khổ chứ không phải Năm Uẩn là khổ. Nguyên nhân Khổ là
Tham Sân Si cũng là Tâm chứ không phải Cảnh và Nguyên nhân Khổ cũng vô
thường, vô ngã. Thấy biết như thật về Khổ và Nguyên nhân Khổ của bậc Thánh
gọi là Giác ngộ Khổ Đế và Tập Đế. Hai chân lý hay hai sự thật này thuộc về
Thực tại của Phàm phu nhưng chỉ có bậc Thánh mới giác ngộ, có thể nói gộp lại
là Tục Đế, sự thật của Thế tục.

- Thực tại của bậc Thánh: Thực tại của bậc Thánh cũng do sáu Căn tiếp xúc
sáu Trần phát sinh và đó là lộ trình tâm Bát Chánh Đạo được diễn tả như sau:
Xúc Thọ - Tưởng Chánh Niệm Chánh Tinh tấn Chánh Định (Tỉnh
Giác) Chánh Tư duy Chánh Tri kiến Như Lý tác ý Chánh ngữ, Chánh
nghiệp, Chánh mạng

Trong Thực tại của bậc Thánh không còn Tà Tri kiến, không còn Vô Minh,
không còn thấy biết về Bản ngã và Thế giới mà có Chánh Tri kiến, là thấy biết
như thật về Duyên Khởi, về Vô thường, Vô ngã, là Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ,
vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ. Do thấy như vậy, biết như vậy mà
các lậu hoặc được đoạn tận, chư vị tuệ tri được Khổ Diệt (Niết Bàn), tuệ tri
được Con đường đưa đến Khổ Diệt là Bát Chánh Đạo. Đây gọi là giác ngộ Diệt
đế và Đạo đế. Nếu nói gộp thì hai sự thật hay hai chân lý này là Chân Đế, thuộc
về bậc Thánh, thuộc về Xuất thế.

Như vậy sự chứng ngộ và thuyết giảng của Đức Phật là Bốn Sự Thật, Bốn Chân
Lý hay là Bốn Đế bao gồm: Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế, Đạo Đế và nếu nói gộp
lại là Tục đế và Chân đế thì phải hiểu một cách chính xác: Tục đế bao gồm Khổ
đế và Tập đế là hai sự thật thuộc về Thế gian (Thế tục), Chân đế bao gồm Diệt
đế và Đạo đế là hai sự thật thuộc về bậc Thánh, Siêu thế.

Hãy ghi nhớ rằng Đối tượng mà Đức Phật và chư vị A-la-hán giác ngộ là Cảm
thọ, là Khổ Tập Diệt Đạo chứ không phải là Bản ngã hoặc Thế giới. Đó là Tuệ
tri (thấy biết như thật) Sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly
của Thọ, Tuệ tri Khổ Tập Diệt Đạo, chứ không phải là giác ngộ về Bản ngã,
giác ngộ một Chân Tâm không sinh không diệt, hay giác ngộ về Thế giới là như
thế này hay như thế kia. Nhưng sự giác ngộ này xảy ra nơi cái Tâm nào?
Đương nhiên sự giác ngộ ấy, sự tuệ tri ấy xảy ra trên lộ trình tâm Bát Chánh
Đạo, và cụ thể là Chánh Tri kiến, là cái biết Ý thức, chứ không phải là cái biết
trực tiếp, cái biết Tỉnh giác.

Cái biết hay Tâm biết còn được gọi là Năng kiến có hai cấp độ: Cái biết trực
tiếp giác quan và cái biết Ý thức mà khoa học gọi là Nhận thức cảm tính và
Nhận thức lý tính đối tượng. Thánh hay Phàm đều cùng có Nhận thức cảm tính
và Nhận thức lý tính.

- Nhận thức cảm tính đối tượng: Khi sáu Căn tiếp xúc sáu Trần, phát sinh sáu
Cảm thọ và đồng thời phát sinh cái biết trực tiếp, nhận biết sáu Cảm thọ đó. Đó
là Nhãn thức nhận biết Cảm giác hình ảnh, Nhĩ thức nhận biết Cảm giác âm
thanh, Tỉ thức nhận biết Cảm giác mùi, Thiệt thức nhận biết Cảm giác vị, Thân
thức nhận biết Cảm giác xúc chạm, Tưởng thức nhận biết Cảm giác pháp trần.
Đây là sáu cái biết trực tiếp giác quan do sáu Căn tiếp xúc sáu Trần phát sinh
ra, cái biết không tri thức, khái niệm, không ngôn ngữ chế định, cái biết không
do học hỏi mà có. Đã là động vật, không phân biệt lớn nhỏ, tiến hoá ở mức độ
nào, động vật sơ đẳng hay bậc cao đều có cái biết trực tiếp này để nhận biết các
Cảm giác của chúng. Nó là cái biết như thật đối tượng ở cấp độ nhận thức cảm
tính. Hãy hình dung cái biết này khi một đứa trẻ được sinh ra, tức thì sáu Căn
nó tiếp xúc sáu Trần, nó vẫn nhận biết các đối tượng, nó vẫn thấy, nghe, cảm
nhận các Cảm giác nhưng không biết đó là cái gì. Đây là cái biết trực tiếp thuần
tuý chưa có Ý thức khởi lên. Trong cái biết trực tiếp hay Nhận thức cảm tính
này không có tri thức, khái niệm, không có ngôn ngữ chế định, không có khái
niệm không gian thời gian, không có khái niệm to nhỏ, vuông tròn, dài ngắn,
cứng mềm, không có xanh vàng đỏ trắng, không có mặn ngọt chua cay, không
có khái niệm sinh, không có khái niệm diệt, không có khái niệm nhơ sạch, tăng
giảm, không có khái niệm sắc thọ tưởng hành thức, không có khái niệm mắt tai
mũi lưỡi thân ý, không có khái niệm sắc thanh hương vị xúc pháp, không có
khái niệm nhãn giới cho đến ý thức giới, không có khái niệm Minh và Vô minh,
không có khái niệm Khổ Tập Diệt Đạo, không có khái niệm chứng đắc... Tóm
lại đây là cái biết vô ngôn, vô niệm, vô phân biệt mà Phàm hay Thánh hay bất
cứ một động vật cấp cao, cấp thấp nào cũng có. Cái biết trực tiếp này nơi người
Phàm thì gọi là Tưởng tri và sau khi Tưởng tri đối tượng, cái biết Ý thức nhị
nguyên khởi lên ngay, nên kẻ Phàm phu không kinh nghiệm và an trú được cái
biết trực tiếp này. Bậc Thánh hữu học hoặc vô học, sau cái biết trực tiếp khởi
lên nhận biết đối tượng thì Chánh Niệm, Chánh Tinh tấn, Chánh Định liên tiếp
khởi lên nên tách bạch được cái biết trực tiếp ra khỏi cái biết Ý thức và nhờ vậy
mà kinh nghiệm và an trú thuần tuý cái biết trực tiếp. Đối với bậc Thánh cái
biết trực tiếp có tên gọi là Tỉnh giác hoặc Thắng tri hoặc là Không tánh. Đa số
người học Phật có một sự nhầm lẫn rất lớn là xem cái Nhận thức cảm tính vô
ngôn, vô niệm, vô phân biệt này là Chân đế, là Thực tánh pháp, là Niết bàn, là
sự thật tuyệt đối, là Trí tuệ Bát nhã, là Chân Tâm.

- Nhận thức lý tính đối tượng: Đây là cái biết Ý thức do Niệm, Tư duy mà
phát sinh. Nó là cái biết có tri thức, khái niệm, có ngôn từ, có phân biệt đối đãi
cái này với cái kia. Nó là cái biết do học hỏi, do tích luỹ kinh nghiệm trong quá
khứ, nó phụ thuộc lượng thông tin trong kho chứa thông tin của mỗi loài. Cái
biết Ý thức của loài người có được như ngày nay phải trải qua một quá trình
dài lâu, khám phá, học hỏi, tích luỹ trao truyền kinh nghiệm. Chính cái biết Ý
thức hay Nhận thức lý tính này là thước đo trình độ tiến hoá của các loài động
vật, phân biệt giữa người này và người kia, giữa Phàm và Thánh. Ví như khi
mắt tiếp xúc với đống lửa thì sự nhận biết đối tượng hay Nhận thức cảm tính
đối tượng của con người và con thiêu thân tương tự như nhau, nhưng Nhận
thức lý tính hay hiểu biết Ý thức về đối tượng thì hoàn toàn khác nhau, vì vậy
con thiêu thân lao vào lửa và tự thiêu xác còn con người thì không như vậy.
Cùng một đống lửa, khi mắt các loài vật tiếp xúc thì sự nhận biết đối tượng hay
Nhận thức cảm tính về đối tượng giống nhau nhưng hiểu biết của các loài đó về
đối tượng (lửa) lại hoàn toàn khác nhau và vì vậy đưa đến Thái độ và Phản ứng
với đối tượng đó khác nhau. Nhận thức cảm tính của Phàm và Thánh đều giống
nhau nhưng Nhận thức lý tính của Phàm và Thánh lại khác nhau.

Nhận thức lý tính hay Ý thức của Phàm phu do Tà Niệm và Tà Tư duy mà khởi
lên, nó là cái hiểu biết không đúng như thật đối tượng nên gọi là Tà Tri kiến hay
Vô minh. Nội dung Vô Minh là Tâm biết Cảnh, là Thường kiến và Ngã kiến, là
không biết như thật Khổ Tập Diệt Đạo nên nó là nhân cho Tham ái sinh khởi và
Tham ái lại là nhân cho toàn bộ Khổ uẩn sinh khởi.
Nhận thức lý tính hay Ý thức của bậc Thánh do Chánh Niệm, Chánh Tư duy mà
khởi lên, nó là Chánh Tri kiến là hiểu biết như thật đối tượng: đó là Cảm thọ, nó
Vô thường, Vô ngã, Tuệ tri sự sinh diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và Sự xuất ly của
Thọ, Tuệ tri Khổ Tập Diệt Đạo. Chính nhờ Chánh Tri kiến mà không còn nhân
duyên cho Tham ái khởi lên. Chánh Tri kiến là cái biết Ý thức do Chánh Tư duy
khởi lên nên vẫn là cái biết có tri thức, khái niệm, có ngôn ngữ chế định, có phân
biệt pháp này với pháp kia, vẫn sử dụng các thông tin trong kho chứa nhưng đã
được thanh lọc khỏi Vô Minh và phải do học hỏi mà có được, vì vậy lộ trình tu
tập Chánh Tri kiến là Văn Tư Tu. Chánh Tri kiến được tu tập, được làm cho viên
mãn sẽ đưa đến xoá bỏ hoàn toàn nguyên nhân phát sinh Tà Tri kiến và thời điểm
đó chính là giác ngộ Tứ Thánh Đế. Vì vậy sự giác ngộ xảy ra nơi Nhận thức lý
tính, nơi Ý thức Chánh Tri kiến chứ không phải nơi Nhận thức cảm tính, nơi cái
biết Tỉnh giác.

Tác giả của tập truyện Tây Du Ký cũng hiểu rõ vấn đề này khi mô tả chương Tôn
Ngộ không thật và Tôn Ngộ không giả đánh nhau bất phân thắng bại. Trận chiến
xảy ra ác liệt nhưng loài người, loài trời và cả bồ tát cũng không ai phân biệt
được đâu là Ngộ không thật, đâu là Ngộ không giả. Chỉ khi Như Lai xuất hiện thì
Ngộ không giả mới hiện nguyên hình và Ngộ không thật mới phang một gậy kết
liễu Ngộ không giả. Ý nghĩa của truyện này được hiểu như sau: Tôn Ngộ không
là nhân cách hoá của cái biết Ý thức. Ngộ không thật là Ý thức Chánh Tri kiến,
Ngộ không giả là Ý thức Tà Tri kiến. Một vị hữu học đang tu tập, đang thực hành
hướng đến vô thượng an ổn thoát khỏi mọi khổ ách nhưng không phải mọi lúc,
mọi nơi Chánh Niệm đều khởi lên liên tục mà Tà Niệm vẫn đan xen vào. Nếu có
Chánh Niệm thì Chánh Tri kiến khởi lên (Ngộ không thật) nếu Tà Niệm có mặt
thì Tà Tri kiến có mặt (Ngộ không giả) và cứ đắp đổi cho nhau như vậy. Cho đến
khi Như Lai xuất hiện với ẩn dụ là đắc quả A-la-hán thì Chánh Tri kiến mới đoạn
diệt hoàn toàn Tà Tri kiến với ẩn dụ Ngộ không thật phang chết Ngộ không giả.
Về mục lục

Bài 144: THIỀN NÓI

Thiền nói là gì? Là thiền bằng lời nói, là thiền nơi đầu môi chóp lưỡi. Tác giả
của Tây Du Ký đã có quan điểm về loại thiền này bằng ẩn dụ trong chương Tôn
Ngộ Không đánh nhau với Hồng Hài Nhi. Tôn Ngộ Không võ nghệ cao cường
áp đảo được Hồng Hài Nhi, nhưng Hồng Hài Nhi có một loại vũ khí lợi hại là
súng bắn ra Lửa Khói Tam Muội làm cho Tôn Ngộ Không mê man bất tỉnh,
suýt bỏ mạng. Tôn Ngộ Không phải nhờ Bồ tát cứu viện. Bồ tát sai Mộc xoa
Huệ ngạn lên Thiên đình mượn bộ đao thiên cung của Thác tháp Lý thiên
vương, sai đệ tử rùa múc đầy một hồ lô nước biển Nam hải. Lại sai một con
chim màu trắng bay ngang tầm mắt dẫn đường. Đến nơi Bồ tát sai sơn thần, thổ
địa đuổi các loài thú ra ngoài 800 dặm, sau đó sai rùa đổ nước biển Nam Hải
trong hồ lô ra khoảng trống kia. Tiếp đến Bồ tát dùng đao Thiên cung làm thành
đài sen và an toạ trên đó. Tiếp đến bảo Tôn Ngộ Không nhử Hồng Hài Nhi đến.
Hồng Hài Nhi dùng giáo đâm vào Bồ tát, khiến Bồ tát phải rời đài sen và đánh
nhau với Hồng Hài Nhi. Bồ tát ném ra năm vòng kim cô còn lại (tất cả có tám
vòng kim cô, một vòng trên đầu Tôn Ngộ Không, hai vòng đã được sử dụng
nhưng người viết không nhớ rõ). Năm vòng kim cô mà Bồ tát ném ra trói chặt
hai tay, hai chân và cổ của Hồng Hài Nhi buộc y phải quy hàng và chấp nhận
cạo đầu quy y với Bồ tát. Vừa cạo đầu quy y xong, Hồng Hài Nhi lại cầm giáo
đâm Bồ tát và nhảy lên chiếm đài sen, nhưng đài sen hoá hiện nguyên hình các
đao Thiên cung đâm xoáy vào đùi Hồng Hài Nhi, làm cho y vô cùng đau đớn.
Hồng Hài Nhi cố gắng rút các mũi đao ra khỏi đùi, nhưng càng rút thì đao càng
xoắn lại và kết quả là y phải hàng phục Bồ tát. Từ đây Hồng Hài Nhi đi theo Bồ
tát về biển Nam Hải, cứ mỗi bước đi lạy xuống một lạy và đúng năm mươi hai
bước chân thì về đến Nam Hải.
Ẩn dụ này được hiểu như sau: Tôn Ngộ Không là nhân cách hoá của Ý Thức
con người, là cái biết do tư duy (suy nghĩ) tạo thành, nói nôm na là cái biết của
trí óc. Tam Muội theo nghĩa của tiếng Hán là Định. Hình ảnh Tôn Ngộ Không
bị khói lửa Tam Muội làm cho ngất đi, suýt mất mạng khẳng định rằng: không
thể nào có thể đắc được các bậc Thiền bằng trí óc, bằng hiểu biết, bằng lời nói,
bằng thuyết giảng về Thiền. Cho dù một người suốt đời nghiên cứu về Thiền
định, thuộc làu làu những kinh điển, những chú giải nói về Thiền, thuộc lòng
quyển Thiền Luận của Suzuki hay những thiền luận hay hơn thế nữa, có thể
thuyết giảng tự tại vô ngại về Thiền, và nếu chỉ có như vậy thì chắc chắn người
đó không thể chứng ngộ và an trú các bậc Thiền. Vậy muốn đắc các bậc Thiền
phải làm thế nào? Muốn đắc các bậc Thiền phải thực hành tuần tự. Trước tiên
phải giữ giới theo tinh thần: không làm các điều ác, thực hiện các hạnh lành ẩn
dụ là đuổi các con thú ra ngoài 800 dặm trước khi tưới nước biển Nam Hải
(nước từ bi). Tiếp đến là tư thế ngồi: hai chân gài chặt vào nhau theo tư thế kiết
già, ẩn dụ là hai vòng kim cô trói chặt hai chân, hai tay gài vào nhau theo kiểu
Định Ấn, nghĩa là ngón trỏ và ngón giữa của hai bàn tay cài vào nhau, ngón út
và ngón áp út đặt lên nhau, hai đầu ngón cái chạm nhau mà ẩn dụ là hai tay bị
trói chặt, hai hàm răng chạm khít, đầu lưỡi chạm vào răng hoặc nóc họng mà ẩn
dụ là cổ bị trói chặt. Người toạ thiền cần phải lưu ý ba điểm chạm như trên.
Đầu thẳng, cổ thẳng, lưng thẳng mà ẩn dụ là con chim màu trắng dẫn đường
bay ngang dưới tầm mắt. Tiếp đến phải hàng phục được cái đau, đặc biệt là cái
đau nơi hai chân. Phải hàng phục để cái đau nơi chân không còn chi phối được
tâm ẩn dụ là Hồng Hài Nhi hàng phục Bồ tát. Từ đây trở đi mới có thể sử dụng
Định như một phương tiện tu tập Trí Tuệ, để đắc các quả vị, mà ẩn dụ là Hồng
Hài Nhi đi về Nam Hải bằng cách vừa đi vừa lạy. Năm mươi hai bước mới về
đến Nam Hải ẩn dụ cho 52 quả chứng từ: Thập tín, thập hạnh, thập trụ, thập hồi
hướng, thập địa, đẳng giác bồ tát và Phật quả (theo quan điểm tu chứng của
Phật Giáo Bắc tông).

Con đường của Giác ngộ và Giải thoát là con đường Giới Định Tuệ, là sự thực
hành Tăng thượng Giới học, Tăng thượng Định học, Tăng thượng Tuệ học chứ
không phải là con đường tư duy lý luận suông, không phải là Thiền nói, không
phải tu nơi đầu môi chóp lưỡi. Đức Phật đã Giải thoát, không những Ngài tuyên
thuyết về sự giải thoát mà Ngài còn thuyết giảng, phân tích, hiển thị, chỉ dẫn
rành mạch về Con đường đưa đến Giải thoát. Ngài là bậc Huấn Luyện Sư tối
thượng, huấn luyện kẻ phàm phu thành bậc Thánh giải thoát. Sự huấn luyện của
Ngài xảy ra tuần tự: Vị Tỷ kheo giữ giới hạnh, chế ngự với sự chế ngự của giới
bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong mỗi lỗi nhỏ nhặt, thọ trì
và học tập các học giới. Tiếp đến hộ trì sáu căn, nghĩa là khi mắt tiếp xúc với
sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên
nhân gì, vì nhãn căn không được chế ngự khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện
pháp khởi lên, vị Tỷ kheo chế ngự nguyên nhân ấy... Tiếp đến vị Tỷ kheo tiết độ
trong ăn uống, tức là chơn chánh giác sát thọ dụng món ăn không phải để vui
đùa, không phải để thưởng thức, không phải để làm đẹp thân thể, mà chỉ để thân
này được bảo trì, khỏi bị gia hại, để chấp trì Phạm hạnh... Vị Tỷ kheo thực hành
Chánh Niệm Tỉnh giác trong mọi tư thế đi đứng ngồi nằm, trong mọi công việc,
mọi lúc, mọi nơi. Tiếp đến ngồi kiết già lưng thẳng an trú Chánh Niệm trước
mặt, vị Tỷ kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Sơ thiền..., Nhị thiền...,
Tam thiền..., Tứ thiền. Với tâm định tĩnh, nhu nhuyễn, dễ sử dụng, vững chắc,
bình thản không cấu nhiễm như vậy, vị ấy hướng tâm quán sát và biết như thật:
Đây là Khổ, đây là Nguyên nhân Khổ, đây là Sự chấm dứt Khổ, đây là Con
đường chấm dứt Khổ. Do thấy như vậy, biết như vậy các lậu hoặc được đoạn
tận. Vị ấy biết: Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm
xong, không còn trở lui đời này nữa. Đây là con đường tuần tự, được thiết kế rất
"chuyên nghiệp" do cái biết rốt ráo của bậc Chánh Đẳng Giác. Bốn mươi lăm
năm thuyết pháp, Ngài chỉ thuyết giảng có hai điều: Khổ và Sự chấm dứt Khổ
mà cụ thể là Tứ Thánh Đế và điều Ngài thuyết giảng nhiều nhất là Con đường
chấm dứt Khổ, đó là Bát Chánh Đạo bao gồm Giới - Định - Tuệ. Giới đã được
Ngài chế định cho Phật tử tại gia và cho người xuất gia. Định được Ngài giảng
bằng ba bản kinh chính là: Tứ Niệm Xứ, Niệm hơi thở vô, hơi thở ra và Thân
hành niệm. Tuệ được Ngài giảng giải xuyên suốt kinh điển theo tiến trình Văn -
Tư - Tu.

Đức Phật là bậc Chánh Đẳng Giác, nghĩa là Ngài tự mình giác ngộ Tứ Thánh
Đế không thầy chỉ dạy, sự thuyết giảng của Ngài là toàn thiện ở đoạn đầu, toàn
thiện ở đoạn giữa, toàn thiện ở đoạn cuối, không bao giờ chống trái nhau,
không bao giờ mâu thuẫn nhau. Lời dạy nhất quán này chỉ còn tồn tại trong
năm bộ kinh Nikaya của Phật giáo nguyên thuỷ. Tuy rằng năm bộ kinh Nikaya
được xem là gần với Nguyên thuỷ nhất, chứ không phải là Nguyên thuỷ (lời dạy
của Phật) vì nó chứa đựng rất nhiều yếu tố tôn giáo được thêm vào sau này,
nhưng lời dạy cao quý này vẫn còn lấp lánh xuyên suốt toàn bộ bộ kinh. Lời
dạy của Đức Phật về Tứ Thánh Đế không phải là kinh nghiệm cá nhân do tư
duy tác thành mà nó là Chân Lý, là Sự Thật phổ quát, nơi Đức Phật cũng như
vậy, nơi người khác cũng như vậy. Ngài đã giảng dạy Chân Lý, giảng dạy cái
Sự Thật phổ quát mà Ngài đã chứng ngộ. Đó là:

- Đối với kẻ Phàm phu, do nhân như vậy, duyên như vậy nên hễ sáu Căn tiếp
xúc sáu Trần, lộ trình tâm Bát Tà Đạo khởi lên và trên Thực tại đó sẽ có Vô
Minh, sẽ có Tham Sân Si, sẽ có sầu bi khổ ưu não.

- Đối với bậc Thánh do nhân như vậy, duyên như vậy nên khi sáu Căn tiếp xúc
sáu Trần, lộ trình tâm Bát Chánh Đạo khởi lên và nơi Thực tại đó sẽ có Tâm Giải
thoát, Tuệ Giải thoát. Để chấm dứt Khổ, phải tu tập để khởi lên lộ trình tâm Bát
Chánh Đạo mới nhiếp phục và đoạn tận lộ trình tâm Bát Tà Đạo, mới đoạn tận
Tham Sân Si, đoạn tận Khổ.

Có rất nhiều người, có thể là nhà tu hành, nhà văn, thi sĩ, nhà triết học... họ cũng
nói được về Giải thoát, thậm chí với những lời văn hoa mỹ, câu văn hoa mỹ,
những hình dung từ hoa mỹ làm say đắm người đời, nhưng họ đã Giải thoát hay
chưa thì hãy thận trọng, hãy khoan vội tin mà hãy xem xét thận trọng trong một
khoảng thời gian đủ dài, họ có còn Tham Sân Si hay không? Nếu không có điều
kiện để xem xét như vậy thì hãy xem xét những điều họ thuyết giảng. Một người
thực sự giải thoát thì không những họ nói được về Giải thoát mà họ còn giảng
nói, phân tích, chỉ dẫn rành mạch về cách thức, phương pháp hay con đường thực
hành để đạt được sự giải thoát ấy, bởi họ đã thực chứng giải thoát bằng cách thức
đó và cách thức ấy hoàn toàn phù hợp với lời dạy của Phật. Một người nói hay,
nói giỏi, nói hấp dẫn bao nhiêu đi nữa về Giải thoát nhưng không nói rõ được về
sự thực hành, hoặc lời dạy thực hành ấy không phù hợp với lời dạy của Phật,
hoặc không đề cập đến phương pháp thực hành, thì chỉ là lý luận suông do tư duy
tác thành, đó chỉ là Thiền nói. Đức Phật chỉ có một, lời dạy của Đức Phật cũng
chỉ có một, nhưng hiện nay kinh điển thì nhiều vô số kể, một lượng thông tin
khổng lồ, thậm chí là trái ngược nhau, cãi lộn nhau. Đức Phật giác ngộ Chân Lý,
giác ngộ cái Sự thật phổ quát đó là: Tuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt của Thọ, vị
ngọt, những nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ cũng có nghĩa là giác ngộ Tứ
Thánh Đế chứ không phải giác ngộ về Bản ngã, giác ngộ một Bản Tâm, một
Tánh biết, một Phật tánh, một Tánh không, không sinh không diệt nào đó, hay
giác ngộ Thế giới là thế này hay thế kia, tương đối hay tuyệt đối. Những bậc
Thánh A-la-hán đã giác ngộ Tứ Thánh Đế do Phật chỉ dạy cũng như vậy, những
vị đó sẽ không hề thêm bớt, không hề chú giải về lời dạy của Ngài, do chư vị
quán sát, đối chiếu lời dạy với sự thật của Thực tại, chư vị cảm nhận được sự
giản dị, dễ hiểu, đầy đủ, minh bạch đâu còn cần đến lời giải thích dông dài. Đa
phần nhân loại, khi nghe lời dạy của Đức Phật, theo quy luật nhận thức, họ đối
chiếu lời dạy đó với kho "tri thức hiểu biết" đã được học hỏi, tích luỹ từ quá khứ
của họ. Những tri thức hiểu biết của nhân loại đó nhuốm màu Vô minh, Thường
kiến, Ngã kiến, ví như ngọt nằm trong đường và của đường, mặn nằm trong muối
và của muối, ngon dở nằm trong thức ăn và của thức ăn, nóng nằm trong lửa,
lạnh nằm trong nước đá, đất đá thì cứng, bánh đa thì giòn... Hiểu biết này là Ý
thức nhị nguyên Tâm Vật hay Tâm biết Cảnh, trong đó Chủ thể biết là Tâm, là
Bản ngã, đối tượng được biết là Cảnh, là Thế giới. Khi đối chiếu lời Phật dạy với
kho "tri thức hiểu biết" Vô minh Bản ngã và Thế giới đó, thì sẽ biến lời dạy của
Phật ra thành Vô minh, giải thích sự giác ngộ của Phật là giác ngộ về Bản ngã
(Bản Tâm) và Thế giới. Kho "tri thức hiểu biết" của con người mỗi mỗi khác
nhau, mỗi mỗi tông phái đều khác nhau nên mới phát sinh ra kho tàng kinh điển,
chú giải, luận giải đồ sộ, mênh mông, khổng lồ và đều gắn cho Phật nói. Trên thế
gian này, không có một ai chịu nhiều sự xuyên tạc như Đức Phật. Lý do cũng
thật dễ hiểu: chỉ duy nhất một mình Ngài, độc nhất vô nhị, không có người thứ
hai, quán sát và tư duy trên Sự Thật mà chứng ngộ Chân lý. Còn nhân loại này
cho dù có quán sát nhưng lại tư duy trên kho tri thức hiểu biết Vô minh, không
đúng với sự thật và họ suy diễn sự giác ngộ của Ngài theo cái kho tri thức hiểu
biết của họ. Họ có thể thao thao bất tuyệt về những điều cao siêu, kỳ diệu, về
Thiền, về Định, về Chân không diệu hữu, về Thế giới tương đối hay tuyệt đối...
được người mê khoái trí, nhưng cái Sự thật trước mắt như: ngọt không nằm trong
đường, mặn không nằm trong muối, ngon dở không nằm trong thức ăn, nóng
không có trong lửa, lạnh không có trong nước đá... thì họ hoàn toàn không biết.
Những điều cao siêu kỳ diệu, hoành tráng đó là do Vô minh mà tư duy, suy diễn,
tưởng tượng ra, người nghe không bao giờ "đến để mà thấy" được, không thể
kiểm chứng được, mà chỉ có "đến để mà tin" theo đức tin Tôn giáo, nó không
phải là Chân lý, không phải là sự thật phổ quát, nhưng lại phù hợp với tâm Tham
ái của con người, kích thích được Tham ái của nhân loại. Đặc biệt những tư
tưởng đó, những thao thao bất tuyệt đó là do tư duy suy diễn tác thành, là lý luận
suông, là ảo tưởng do Vô minh mà phát sinh, là “lông rùa sừng thỏ”, nên họ
không có thể trình bày được cách thức, không thể trình bày được phương pháp
thực hành để chứng ngộ và an trú được những điều "cao siêu kỳ diệu" đó, họ chỉ
dừng lại ở Thiền nói. Bốn mươi lăm năm thuyết pháp Đức Phật chỉ xoay quanh
Khổ và Sự chấm dứt Khổ, hay chỉ xoay quanh Tham - Dục và Sự chấm dứt
Tham - Dục (Dục hỷ Dục lạc - Dục hỷ Hữu - Dục hỷ Niết bàn) hay chỉ xoay
quanh vấn đề Nội tâm, tức lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu và lộ trình tâm
Bát Chánh Đạo của bậc Thánh, đều Vô thường, Vô ngã chứ không thuyết giảng
về Chân Tâm không sinh không diệt hoặc Thế giới, hoặc những gì kỳ diệu, mầu
nhiệm, cao siêu. Nhưng con người vì Vô minh che đậy, y chỉ vào hiểu biết đã
được mặc định, những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức
là Thế giới, nên đã vô tình xuyên tạc lời dạy của Phật. Ví như tất cả các bộ phái,
các luận sư, các chú giải đều nói đến đối tượng của Tham ái là Sắc Thanh Hương
Vị Xúc Pháp, nghĩa là Thế giới, vì hiểu biết mặc định của họ là những gì được
thấy, được biết là Thế giới, nhưng Sự thật đối tượng của Tham ái là Cảm thọ, là
Tâm chứ không phải là Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp. Đức Phật đã thuyết rất
rõ ràng trong Thập Nhị Nhân Duyên mà bộ phái nào cũng chấp nhận: Do có Xúc
mà có Thọ, do có Thọ mà có Ái, do có Ái mà có Thủ... nghĩa là đối tượng của Ái
là Cảm thọ chứ không phải Sắc Thanh Hương Vị xúc Pháp. Muốn chấm dứt
Thiền nói, phải trở về với Duyên khởi, với Tứ Thánh Đế, trở về với sự tu tập Bát
Chánh Đạo theo lộ trình Giới - Định - Tuệ mới có thể đoạn trừ Tham Sân Si, mới
có thể chứng ngộ và an trú Khổ Diệt, an trú Niết Bàn được.

Về mục lục

Bài 145: AI SẼ GIẢI THOÁT?

Đức Phật trả lời:


“Người có trí trú giới
Tu tập Tâm và Tuệ
Nhiệt tâm và thận trọng
Tỷ kheo ấy thoát triền.”

Thế nào là thoát triền? Triền ở đây là nói tắt của triền phược, nghĩa là chúng
sinh bị tham ái trói buộc và dẫn dắt đi trong khổ đau, trong luân hồi sinh tử. Để
giải thoát khỏi triền phược phải có bốn yếu tố: thứ nhất là người có trí, thứ nhì
là trú giới, thứ ba là tu tập Tâm và Tuệ, thứ tư là nhiệt tâm và thận trọng.

1. Phải là người có trí:

Pháp mà Đức Thế Tôn khéo léo thuyết giảng có tính chất “thiết thực hiện tại,
đến để mà thấy, không có thời gian, có tính chất hướng thượng, cho người trí tự
mình giác hiểu”. Tôn giáo có thể dành cho đa số nhân loại nhưng Pháp của Đức
Thế Tôn chỉ để dành cho một thiểu số ít ỏi của nhân loại ví như vàng bạc so với
đất đá trên quả đất này. Nhưng thế nào là người có trí. Trí ở đây cũng đồng
nghĩa với Trí tuệ, đồng nghĩa với Minh, là cái biết ý thức đúng như thật. Trí có
được ở ba cấp độ: hiểu biết như thật về Tứ Thánh Đế do nghe giảng mà đạt
được gọi là Văn tuệ, hiểu biết như thật về Tứ Thánh Đế do tư duy, về điều đã
được nghe giảng gọi là Tư tuệ và hiểu biết như thật do thực hành Bát Chánh
Đạo mà có được gọi là Tu tuệ.

Trong ngữ cảnh của bài kệ này, người có trí là chỉ cho người có Văn tuệ. Là
người do nghe giảng hoặc nghiên cứu kinh điển mà có được hiểu biết như thật
về Duyên Khởi, hiểu biết như thật các pháp Vô thường, Vô ngã; hiểu biết như
thật Duyên khởi lên lộ trình tâm Bát Tà Đạo của phàm phu và Duyên khởi lên
lộ trình Bát Chánh Đạo của bậc Thánh. Trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo thấy được
như thật về Khổ và Nguyên nhân của Khổ; trên lộ trình Bát chánh đạo thấy
được như thật về Khổ diệt và Con đường đưa đến Khổ diệt. Nói tóm lại người
có trí là người hiểu biết như thật về Duyên khởi, về Vô thường, về Vô ngã, về
Khổ Tập Diệt Đạo.

2. Trú giới:

Người này phải thọ trì và thực hành các học giới và thấy sợ hãi trong mỗi lỗi
nhỏ nhặt. Các học giới có thể nhiều ít khác nhau nhưng cốt lõi là năm giới được
triển khai rộng và tỉ mỉ hơn. Người có trí thực hành các học giới với hiểu biết là
để tạo duyên cho Chánh Niệm khởi lên. Nhân phát sinh Chánh Niệm là Văn tuệ
nhưng không có duyên thì Chánh Niệm không khởi lên. Sự thực hành giới làm
cho tâm tương đối trong sạch và đó là duyên cho Chánh Niệm khởi lên. Chánh
Niệm khởi lên sẽ phát sinh Chánh Định, Chánh Định khởi lên sẽ phát sinh
Chánh Kiến. Đây là trục chính của lộ trình tâm Bát Chánh Đạo: Niệm - Định -
Tuệ và với lộ trình tâm Bát Chánh Đạo sẽ chứng ngộ và an trú Tâm giải thoát -
Tuệ giải thoát. Trong bản kinh Phạm Võng, sau khi nêu lên Tiểu giới, Trung
giới, Đại giới mà Như Lai đã thành tựu đầy đủ không ai sánh bằng, Đức Phật
khẳng định: những ai tán thán Như Lai như vậy là kẻ phàm phu tán thán Như
Lai. Đó là những điều nhỏ nhặt, không quan trọng, chỉ thuộc giới luật mà kẻ
phàm phu dùng để tán thán Như Lai, Như Lai không có kể đến. Còn có những
pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu vượt qua những tư duy lý
luận suông chỉ có người trí mới có khả năng giác hiểu, những pháp ấy Như Lai
đã tự chứng tri và tuyên thuyết, và những ai như thật tán thán Như Lai về
những pháp đó, Như Lai mới kể đến.

Rõ ràng Đức Phật không đề cao quá mức giới luật, vì vậy hai mươi năm đầu
hoằng pháp Ngài chưa chế ra một giới điều nào. Ngài đề cao trí tuệ và giải thoát
vì thế đối với người trí không đề cao quá mức việc thực hành giới mà đề cao
việc tu tập Tâm và Tuệ. Đối với người trí việc giữ gìn giới luật là một việc tự
nhiên, không phải dụng công, không cần nỗ lực, tâm họ vốn đã trong sạch nên
nó là việc nhỏ nhặt, không quan trọng, mà việc quan trọng là tu tập Tâm và Tuệ.
Đương nhiên nếu với một người mà việc giữ giới vốn nhỏ nhặt không quan
trọng mà còn không làm được thì nói gì đến việc to lớn quan trọng là tu tập Tâm
và Tuệ. Đó là người có trí trú giới, nếu trú giới không với trí tuệ như vậy thì
giới đó sẽ trở thành giới cấm thủ.

3. Tu tập Tâm và Tuệ:

Đó là tu tập Bốn Niệm Xứ bao gồm: quán thân, quán thọ, quán tâm, quán pháp.
Quán Thân, Quán Thọ với sự có mặt của Chánh niệm, Chánh tinh tấn, Chánh
định làm cho hành giả kinh nghiệm và an trú Tâm giải thoát nên gọi là tu tập
Tâm. Quán Tâm, Quán Pháp với Chánh Niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định -
Chánh tư duy - Chánh kiến làm cho hành giả kinh nghiệm và an trú Tâm giải
thoát và Tuệ giải thoát nên được gọi là tu tập Tuệ.

- Tu tập Tâm: đối với người không tu tập Tứ Niệm Xứ, khi sáu căn tiếp xúc với
sáu trần phát sinh sáu cảm giác và sáu cái biết trực tiếp giác quan, biết như thật
sáu cảm giác đó. Đó là thấy (nhãn thức), nghe (nhĩ thức), cảm nhận (tỉ thức,
thiệt thức, thân thức, tưởng thức). Sau khi thấy, nghe, cảm nhận thì suy nghĩ (tư
duy) về cái được thấy, cái được nghe, cái được cảm nhận làm phát sinh cái biết
ý thức. Nơi cái biết ý thức này sẽ xuất hiện một cái Ta là chủ nhân của cái thấy,
nghe, cảm nhận (Ta thấy, Ta nghe, Ta ngửi, Ta nếm, Ta xúc chạm, Ta tưởng ra)
và là chủ nhân của các cảm giác (Ta đau, Ta ngứa, Ta đói, Ta hạnh phúc, Ta
đau khổ…). Với cái Ta (bản ngã) xuất hiện nơi cái biết ý thức này, lộ trình tâm
sẽ phát sinh tham sân si, phát sinh ràng buộc, phát sinh sầu bi khổ ưu não. Đây
là lộ trình tâm Bát Tà Đạo. Đối với người tu Tứ Niệm Xứ khi căn trần tiếp xúc
phát sinh sáu loại cảm giác và sáu cái biết trực tiếp giác quan nếu có Chánh
niệm (nhớ đến quán thân nơi thân hay nhờ đến quán thọ nơi thọ) thì sự chú tâm
quán sát sẽ tự động xảy ra. Nhờ có sự chú tâm (Chánh định) mà lộ trình tâm
dừng lại tại đấy và sự chú tâm này lại là duyên cho một lộ trình tâm sau khởi lên
nơi đối tượng đó. Sự chú tâm sẽ làm cho các lộ trình tâm khởi lên nơi đối tượng
đó nhiều lần nên cảm giác và cái biết trực tiếp cảm giác đó được “kéo dài” ra.
Hành giả sẽ an trú cái biết trực tiếp từ cảm giác này sang cảm giác khác mà
không có mặt của cái biết ý thức. Cái biết trực tiếp giác quan được Chánh niệm,
Chánh tinh tấn, Chánh định an trú như vậy được gọi là cái biết Tỉnh giác hoặc
gọi là cái biết Không Tánh hay còn gọi là Thắng Tri như trong kinh Pháp Môn
Căn Bản. Hành giả sẽ kinh nghiệm được cái biết trực tiếp giác quan này được
gọi là Không Tánh vì trong cái biết này không có tri thức khái niệm, không có
phân biệt đối đãi. Trong cái biết này không có khái niệm to nhỏ vuông tròn dài
ngắn, mặn ngọt chua cay, xanh vàng đỏ trắng, không có khái niệm thời gian,
không gian không có khái niệm mắt tai mũi lưỡi thân ý, không có khái niệm sắc
thanh hương vị xúc pháp, không có khái niệm vô thường, vô ngã, không có
niệm khổ tập diệt đạo, không có khái niệm minh, khái niệm vô minh, không có
ngôn từ (pháp chế định). Cái biết trực tiếp giác quan này (tâm lý học gọi là
nhận thức cảm tính) vốn phàm thánh đều như nhau, người và thú vật đều có. Hễ
căn trần tiếp xúc thì phát sinh, nó không do học hỏi mà có như cái biết ý thức
nhưng kẻ phàm phu không an trú được nó, không tách bạch nó ra khỏi cái biết ý
thức nhị nguyên được, còn bậc thánh nhờ có Chánh niệm, Chánh tinh tấn,
Chánh định mà kinh nghiệm và an trú được nó. Khi an trú Tỉnh giác hành giả
kinh nghiệm được thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, cảm nhận chỉ là cảm nhận,
vì thế đầu óc trống không (không suy nghĩ), không tìm hiểu, không phán đoán,
không phán xét, không yêu thích, không chán ghét, không ràng buộc, không
phiền não với tất cả mọi đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận. Giải
thoát này gọi là Tâm giải thoát. Lộ trình tâm xảy ra như sau:

Xúc Cảm giác – Tưởng Chánh niệm Chánh tinh tấn Chánh định
(Tỉnh giác)

- Tu tập Tuệ: Là khi thực hành quán Tâm và quán Pháp. Khi căn trần tiếp xúc
phát sinh sáu loại cảm giác và sáu cái biết trực tiếp thì tùy thuộc vào Chánh
niệm: nhớ đối tượng đó là Vô thường, nhớ đối tượng đó là Vô ngã, nhớ đối
tượng đó là ly tham… mà sau khi thấy, nghe hoặc cảm nhận cảm giác đó với cái
biết Tỉnh giác, Chánh tư duy khởi lên làm phát sinh cái biết ý thức đúng như
thật gọi là Chánh kiến, biết đối tượng đó vô thường, biết đối tượng đó vô ngã,
biết đối tượng đó ly tham… lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của quán Tâm và quán
Pháp xảy ra như sau:

Xúc Thọ - Tưởng Chánh niệm Chánh tinh tấn Chánh định (Tỉnh giác)
Chánh tư duy Chánh kiến.

Ví dụ: Đối với Chánh niệm quán vô thường, sau khi thấy, nghe hoặc cảm nhận
cảm giác đó với cái biết Tỉnh giác, Chánh tư duy khởi lên sẽ đối chiếu cảm giác
đó với những hiểu biết về vô thường đã được học (lưu giữ trong kho chứa) được
Chánh niệm kích hoạt lên làm phát sinh cái biết ý thức đúng như thật gọi là
Chánh kiến, biết đối tượng đó vô thường. Lộ trình tâm dừng lại cái biết Chánh
kiến vô thường, không có diễn tiến gì thêm nữa, không còn khởi lên biết đối
tượng đó là ngon hay dở, đẹp hay xấu, thơm hay thối… Với cái biết Chánh kiến
đối tượng đó vô thường hành giả cũng kinh nghiệm được không yêu thích, không
chán ghét, độc lập không ràng buộc, giải thoát không hệ lụy. Đó chính là giải
thoát. Giải thoát này do Chánh kiến mà kinh nghiệm được nên gọi là Tuệ giải
thoát. Sự tu tập Chánh kiến: các đối tượng được thấy, được nghe, được cảm
nhận, được nhận thức, các đối tượng ấy là tâm (không phải cảnh), các đối tượng
ấy vô thường, các đối tượng ấy vô ngã, các đối tượng ấy ly tham, các đối tượng
ấy buông xả, Tuệ tri Thọ, Tuệ tri vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly của Thọ, Tuệ
tri Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế, được gọi là tu tập Tuệ. Trong sự tu tập Tuệ
này không những đưa đến chứng ngộ và an trú Tuệ giải thoát mà còn an trú cái
biết Tỉnh giác nên có cả Tâm giải thoát. Sự tu tập Chánh kiến hay tu tập Tuệ
không những làm cho hành giả kinh nghiệm được pháp này là thiết thực hiện tại,
an trú được Khổ diệt của hữu học đạo mà sự tu tập Tuệ này mới đưa đế n xóa bỏ
Vô minh, Thường kiến, Ngã kiến đã được cài đặt trong kho chứa “tri thức, hiểu
biết, kinh nghiệm” của mỗi người, mới đưa đến quả vị A-la-hán, mới đưa đến
giác ngộ Tứ Thánh Đế.

4. Nhiệt tâm và thận trọng:

Sự tu tập Tâm và Tuệ giúp cho hành giả chứng ngộ và an trú Tâm giải thoát,
Tuệ giải thoát phải được thực hành với sự tinh tấn (nhiệt tâm) cao nhất, không
những khi tọa thiền mà phải liên tục suốt cả ngày từ khi thức dậy cho đến khi đi
ngủ, phải nối liền liên tục từ ngày này sang ngày khác, từ tháng này sang tháng
khác, từ năm này sang năm khác. Mỗi một ngày hành giả phải thận trọng suy
xét lại kết quả của sự tu tập, đã nhất hướng nhàm chán ly tham đối với dục lạc,
nhàm chán ly tham đối với hữu, nhàm chán ly tham đối với phi hữu chưa? Đã
nhiếp phục tham sân si ở mức độ nào? Đã nhất hướng đoạn diệt năm thủ uẩn
chưa? Đã nhất hướng hướng đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ, niết bàn chưa? Nếu
chưa có hãy nỗ lực tinh tấn tu tập, nếu đã có hãy hoan hỷ trong sự tu tập ấy. Một
người nếu có đủ bốn yếu tố này có thể tu tập thời gian từ bảy ngày đến bảy năm
có thể chờ đợi kết quả là Chánh Trí trong hiện tại (Quả A-la-hán) và nếu còn dư
sót là quả Bất Lai. Đây là lời khẳng định của Đức Phật trong bài kinh Niệm Xứ.

Về mục lục

Bài 146: ĐỐN RỪNG KHÔNG ĐỐN CÂY

(Pháp cú 283)

“Đốn rừng không đốn cây


Từ rừng sinh sợ hãi
Đốn rừng đốn ái dục
Tỷ kheo được tịch tịnh”
Đọc câu đầu tiên thì cho dù người ngu hay trí, cả nhân loại này đều hoang
mang. Làm gì có chuyện “đốn rừng không đốn cây”, từ trong thâm tâm họ có
cái nghi ngờ, có cái hoang mang đó nhưng một số người vì đức tin tôn giáo, họ
cho rằng Phật nói là “bất khả tư nghì”, chúng sanh không thể nào hiểu được nên
gạt nó sang một bên.

Một số người cho rằng do phiên dịch hoặc do sai sót trong lưu truyền. Cả hai
loại suy nghĩ đó phát sinh do khi nghe câu kinh “Đốn rừng không đốn cây”, liền
đối chiếu với hiểu biết trong kho chứa “tri thức hiểu biết” của mình, mà cái hiểu
biết được lưu giữ trong kho chứa đó là “cây là rừng, rừng là cây” nên khi đối
chiếu như vậy sẽ đưa đến hoang mang. Trong “cái biết” của mỗi người và nhân
loại (là vô minh, là vọng tưởng) thì “rừng là cây, cây là rừng” là cái hiểu biết
một chiều, không đúng sự thật. Rừng thật thì không những là có cây mà giữa
các cây này có vô vàn, vô số loại dây leo chằng chịt, quấn quít từ cây này sang
cây khác. Các loại dây leo đó làm cho cây oằn xuống, bị phủ kín, che lấp, bít
bùng thành một khối âm u, mờ tối… Từ bên ngoài nhìn vào khu rừng sẽ phát
sinh sợ hãi: rắn rít, côn trùng, thú dữ, đêm tối thì sợ ma quỷ… Từ rừng sinh sợ
hãi là như vậy. Nếu không đốn cây nào mà chỉ quét sạch tất cả mọi dây leo
chằng chịt thì khu rừng đầy sợ hãi đó diệt đi và xuất hiện một vườn cây thoáng
đãng như ở chùa Bửu Quang này, và mọi sợ hãi rắn rít, côn trùng, thú dữ, ma
quỷ… cũng được chấm dứt. Đốn rừng không đốn cây là như vậy. Nếu quán sát
nơi sự thật thì lời dạy của Đức Phật rất đơn giản, nó đơn giản đến mức “bất khả
tư nghì” nghĩa là đơn giản đến mức không có gì cần phải nghĩ bàn nữa. Hai câu
sau: “Đốn rừng đốn ái dục, Tỷ kheo được tịch tịnh” lấy hai câu đầu làm minh
họa cụ thể. Việc tu hành của một vị tỳ kheo giống như đốn rừng không đốn cây
vậy, nghĩa là chỉ đoạn trừ ái dục, giống như chặt hết những dây leo chằng chịt
từ cây này sang cây khác mà không đốn cây nào. Đức Phật đã chỉ rõ: hễ có căn,
trần và căn trần ấy tiếp xúc với nhau thì đó gọi là xúc. Do có Xúc mà có Thọ,
do có Thọ mà có Ái, do có Ái mà có Thủ, do có Thủ mà có Hữu, do có Hữu mà
có Sinh già bệnh chết sầu bi khổ ưu não không thể kể xiết. Nếu Ái diệt thì Thủ
diệt, Thủ diệt thì Hữu diệt, Hữu diệt thì Sinh già bệnh chết sầu bi khổ ưu não
diệt nghĩa là toàn bộ khối đau khổ diệt. Nếu nói một cách tóm tắt có Ái thì có
Ràng buộc, có Ràng buộc thì có Khổ. Ái chấm dứt thì Ràng buộc chấm dứt,
Ràng buộc chấm dứt thì Khổ chấm dứt. Ví như có anh thanh niên và cô gái mới
biết nhau nhưng chưa yêu nhau thì anh ta không ràng buộc với cô gái, không
ràng buộc với cha mẹ, anh em, họ hàng, bạn bè của cô gái. Anh ta không vui
khi những người đó vui cũng không buồn khi những người đó buồn và cũng
không có đau khổ vì những người đó. Nhưng khi hai người yêu nhau và cưới
nhau thì do luyến ái mà anh ta không những ràng buộc với cô gái mà còn ràng
buộc với cả cha mẹ, anh em, họ hàng, bạn bè cô gái đó. Khi đã ràng buộc thì
anh ta sẽ vui khi họ vui, buồn khi họ buồn và biết bao đau khổ sẽ phát sinh do
sự ràng buộc đó. Nếu sau 5 năm chung sống, luyến ái chấm dứt, họ ly dị chia
tay nhau và nếu anh ta không có thù hận thì sự ràng buộc với cô gái, với cha
mẹ, anh em, họ hàng, bè bạn cũng chấm dứt và anh ta sẽ không còn vui khi họ
vui, buồn khi họ buồn, anh ta sẽ bình thản với mọi sự việc của họ và đau khổ sẽ
không còn phát sinh đối với các đối tượng đó. Hãy quán sát sự thật về quan hệ
con người. Đối với cha mẹ, vợ chồng, con cái, họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp,
chủ tớ… sự luyến ái có thể có ở các mức độ khác nhau. Nhưng hễ có Ái (yêu
thích) thì có Ràng buộc, có Ràng buộc thì có Khổ. Hễ chỗ nào không có Ái thì
không có Ràng buộc, không có Ràng buộc thì không có Khổ. Ái càng lớn bao
nhiêu thì Khổ càng lớn bấy nhiêu, như trong một gia đình hễ Ái đứa con nào
nhiều nhất thì đau khổ về đứa đó nhiều nhất. Khi vị tỷ kheo đốn được Ái dục thì
do Ái diệt mà Thủ diệt, do Thủ diệt thì Hữu diệt, do Hữu diệt mà toàn khối đau
khổ diệt nên vị tỷ kheo được tích tịnh.

Đốn rừng không đốn cây. Nhưng cây ở đây là cái gì mà không được đốn. Cây ở
đây là chỉ cho đối tượng của Ái, nghĩa là diệt Ái chứ không phải diệt đối tượng
của Ái. Đối tượng của Ái là gì? Gần như tất cả người đọc đều nói rằng đối
tượng của Ái là sắc thanh hương vị xúc pháp, một thế giới khách quan (ngoại
cảnh) và là sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái. Đây lại một lần nữa
không quán sát sự thật mà so sánh, đối chiếu với hiểu biết được lưu giữ trong
kho chứa tri thức hiểu biết của nhân loại. Phải thấy như thật rằng: đối tượng của
Ái bao gồm: những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức
không phải là sắc thanh hương vị xúc pháp trần. Đối với nhân loại dựa vào vô
minh gốc: Tâm thấy Cảnh nghĩa là nhãn thức thấy sắc trần, nhĩ thức nghe thanh
trần, tỉ thức cảm nhận hương trần, thiệt thức cảm nhận vị trần, tưởng thức cảm
nhận pháp trần và ý thức nhận thức pháp trần, thì đương nhiên khi đối chiếu câu
hỏi đối tượng của Ái là gì? Thì câu trả lời sẽ là: sắc thanh hương vị xúc pháp
trần là đúng với cái hiểu biết đó. Nhưng nếu đối chiếu với câu hỏi đối tượng
của Ái là gì? Với lời dạy của Đức Phật do có Xúc mà có Thọ, do có Thọ mà có
Ái thì câu trả lời là đối tượng của Ái là Thọ, là cảm giác chứ không phải là sắc
thanh hương vị xúc pháp. Mỗi người sẽ tự thấy, tự biết lời dạy của Đức Phật
bằng cách quán sát sự thật. Có một quả chuối đã bóc vỏ (vị trần) tiếp xúc với
lưỡi của một người khi người đó đang đói và khỏe mạnh phát sinh một cảm
giác ngon ngọt và người đó sẽ thích cảm giác ngọt ngon đó, nếu cũng quả chuối
đó tiếp xúc với lưỡi người đó khi bị ốm nặng sẽ phát sinh một cảm giác đắng và
người đó sẽ ghét cảm giác đắng đó. Vậy thì cái được cảm nhận ở đây là cảm
giác (Thọ) và thái độ yêu ghét phát sinh là yêu ghét đối với cảm giác vị (Thọ)
chứ không phải là vị trần (quả chuối). Ví như một người mù khi lưỡi họ tiếp
xúc với một loại thức ăn (vị trần) mà họ chưa bao giờ ăn thì sẽ phát sinh một
cảm giác vị, nếu cảm giác vị ngon thì họ sẽ thích, nếu cảm giác vị dở thì họ sẽ
ghét. Vậy thì cái được người mù cảm nhận là cảm giác vị chứ không phải vị
trần (thức ăn), và yêu ghét phát sinh có đối tượng là cảm giác vị chứ không phải
vị trần (thức ăn). Nếu một người với áo mặc trên thân nếu có một con gì đó bò
lên sau lưng thì cái mà họ cảm nhận là cảm giác xúc chạm chứ không phải cảm
nhận xúc trần (con gì). Có sáu Xúc phát sinh sáu cảm giác (Thọ) và sáu cái biết
trực tiếp các cảm giác đó:

- Nhãn xúc Cảm giác hình ảnh - Nhãn thức


- Nhĩ xúc Cảm giác âm thanh - Nhĩ thức.
- Tỉ xúc Cảm giác mùi - Tỉ thức
- Thiệt xúc Cảm giác vị - Thiệt thức
- Thân xúc Cảm giác xúc chạm - Thân thức
- Ý xúc Cảm giác pháp trần - Tưởng thức

Lời dạy của Đức Phật là chân lý nên nó hoàn toàn phù hợp với quán sát sự thật
này. Đối tượng của Ái là Thọ (cảm giác) và Ái là Ái những gì được thấy, được
nghe, được cảm nhận, được nhận thức bao gồm cảm giác hình ảnh, cảm giác âm
thanh, cảm giác mùi, cảm giác vị, cảm giác xúc chạm, cảm giác pháp trần chứ
không phải sắc thanh hương vị xúc pháp. Quán sát sự thật này để biết như thật:
Tâm biết Tâm, để xóa đi cái biết Vô minh: Tâm biết Cảnh (vật) mà từ Vô minh
gốc này phát sinh cái biết vô minh Khổ, Tập, Diệt, Đạo ở nơi hoàn cảnh. Ví như
ai cũng nghĩ rằng mắt thấy chiếc ô tô thực (sắc trần), nếu mắt (nhãn thức) thấy
chiếc ô tô thực thì khi ô tô đó cách mắt 10 mét, cách mắt 50 mét, cách mắt 500
mét thì cái được thấy là ô tô đó phải là một nghĩa là nó bằng nhau hoàn toàn,
nhưng sự thực thì lại khác nhau vì nhãn thức không thể thấy cái ô tô thực (pháp
trần) mà chỉ thấy các cảm giác hình ảnh do cái ô tô thực tiếp xúc với mắt với
các xúc khác nhau mà phát sinh ra các cảm giác hình ảnh to nhỏ khác nhau như
vậy.

Rất nhiều người đọc thấy: do Xúc diệt mà Thọ diệt, do Thọ diệt mà Ái diệt… và
không quan sát sự thật nên không biết được ngữ cảnh mà câu nói này diễn tả
đưa đến cái hiểu biết một chiều: muốn Ái diệt thì Thọ phải diệt mà muốn Thọ
diệt thì Xúc phải diệt, từ đó suy diễn ra phải làm cho Xúc diệt - Thọ diệt - Ái
diệt và như vậy giải thoát là phải chứng được một cái biết (chân tâm) không
sinh không diệt, cái biết không cần đến Xúc. Điều này trái ngược với những gì
Đức Phật thuyết giảng, Ngài chưa bao giờ chủ trương Xúc diệt - Thọ diệt thì Ái
diệt.

- Một pháp hết sức quan trọng được Đức Phật đề cao đó là phòng hộ sáu căn,
tức là phòng hộ đối với sáu xúc xứ chứ không phải chủ trương xúc diệt.

- Trong kinh Căn Tu Tập, thuộc Trung Bộ kinh, khi ngoại đạo trình bày căn
được tu tập là mắt không thấy sắc, tai không nghe tiếng… nghĩa là xúc diệt,
Đức Phật đã phê phán ngay: Nếu như vậy người mù, người điếc đều có căn
được tu tập.

Trong Tiểu kinh Đoạn Tận Ái thuộc Trung Bộ Kinh, Đức Phật giảng về cốt lõi
của sự thực hành bằng một câu: “Do biết rốt ráo tất cả pháp nên bất kỳ một cảm
thọ nào khởi lên, lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ vị ấy sống quán tánh vô
thường, quán tánh ly tham, quán tánh đoạn diệt, quán tánh xả ly nơi cảm thọ
đó.”

Trong Kinh Phạm Võng, Ngài tuyên bố: “Ngài như thật tuệ tri sự tập khởi, sự
đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm, và sự xuất ly của các cảm thọ. Nhờ tuệ tri như
vậy, này các tỷ kheo, Như Lai được giải thoát hoàn toàn không có chấp thủ”.

Như vậy sự tu tập không phải là Xúc diệt Thọ diệt thì Ái Thủ Hữu
mới diệt. Vậy phải như thế nào? Lộ trình Đức Phật thuyết Xúc Thọ Ái
Thủ Hữu là nói một cách tóm tắt, nếu quán sát một cách tỉ mỉ sẽ là như sau:

Xúc Thọ (cảm giác) - Tưởng (biết trực tiếp) Tà niệm Tà tư duy Tà kiến
Tham sân si Tà định Dục (muốn) Tà tinh tấn Phi như lý tác ý Tà
ngữ, tà nghiệp, tà mạng Sinh già bệnh chết sầu bi khổ ưu não.

Đây chính là lộ trình tâm Bát Tà Đạo, lộ trình tâm của nhân loại. Giữa Thọ và
Ái còn có Tưởng Tà niệm Tà tư duy Tà tri kiến, ở khoảng giữa này có
một chỗ rẽ sang lộ trình tâm Bát Chánh Đạo (lộ trình tâm của bậc Thánh) đó
chính là Niệm. Nếu là Tà niệm sẽ khởi lên lộ trình tâm Bát Tà Đạo, trên lộ trình
này sẽ có Vô minh (Tà tri kiến), sẽ có Tham sân si, Ràng buộc và Sầu bi khổ ưu
não. Nếu Chánh niệm thì toàn bộ Bát Chánh Đạo sẽ khởi lên:

Xúc Thọ (cảm giác) - Tưởng (biết trực tiếp) Chánh niệm Chánh tinh tấn
Chánh định (Tỉnh giác) Chánh tư duy Chánh Kiến Như lý tác ý
Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.

Như vậy con đường hai ngã này có một đoạn chung là Xúc Thọ - Tưởng
và tại đây sẽ là chỗ rẽ:

- Tà niệm khởi lên thì toàn bộ Bát Tà Đạo khởi lên

- Chánh niệm khởi lên thì toàn bộ Bát Chánh Đạo sẽ khởi lên.

Trên Bát Chánh Đạo này sẽ không có Vô minh, không có Tham sân si, không
có Ràng buộc, không có Sầu bi khổ ưu não, vì vậy Bát Chánh Đạo là con đường
chấm dứt Ái, chấm dứt Khổ.

Về mục lục

Bài 147: PHÁP CÚ 243 (Vô Minh và Minh)

Trong hàng cấu uế ấy


Vô Minh nhơ tối thượng
Đoạn nhơ ấy Tỷ kheo
Thành bậc không uế nhiễm

Tham là cấu uế, sân là cấu uế, si là cấu uế, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng là cấu uế,
sầu bi khổ ưu não là cấu uế. Tại sao trong hàng cấu uế ấy Vô Minh lại là cấu uế
tối thượng? Chính vì từ Vô Minh mà phát sinh Tham Sân Si và từ Tham Sân Si
mà phát sinh các cấu uế khác. Vậy Vô Minh là gì mà lại là nhơ tối thượng?

Vô Minh theo nghĩa rộng là hiểu biết không đúng như thật về các sự vật hiện
tương hay các pháp, theo nghĩa "những việc cần làm" là hiểu biết không đúng
như thật về Khổ Tập Diệt Đạo. Đối lại Vô Minh là Minh là hiểu biết đúng như
thật về các pháp và về Khổ Tập Diệt Đạo.

Ví như khi lưỡi tiếp xúc với hạt muối thì Thánh hay Phàm đều cảm nhận được
vị mặn, nhưng sẽ có hai loại hiểu biêt Vô Minh và Minh về vị mặn sẽ khởi lên.
Kẻ Phàm hiểu rằng vị mặn nằm trong hạt muối, vị mặn của hạt muối, vị mặn có
thuộc tính vật chất. Hiểu biết vị mặn là vật chất là Tâm biết Cảnh, vị mặn
thường trú trong hạt muối là Thường kiến, vị mặn của hạt muối tức có chủ nhân
gọi là Ngã kiến. Bậc Thánh giác ngộ Lý Duyên khởi nên hiểu biết rằng: hạt
muối là một nhân, lưỡi là một nhân, có đầy đủ hai nhân nhưng chưa có sự tiếp
xúc giữa hai nhân ấy thì chưa có vị mặn nào phát sinh cả. Khi Lưỡi tiếp xúc Hạt
muối thì lập tức phát sinh Cảm giác vị mặn. Đây mới thực là vị mặn mà cả
Thánh và Phàm đều cảm nhận được và nó là Cảm giác, nó là Tâm chứ không
phải Vật. Xúc sinh cảm giác vị mặn sinh, Xúc diệt cảm giác vị mặn diệt. Cảm
giác vị mặn sinh lên rồi diệt đi, nó Vô Thường, nó không thường hằng, không
thường trú trong hạt muối. Cảm giác vị mặn cũng Vô Chủ, hạt muối không là
chủ nhân, lưỡi cũng không là chủ nhân của cảm giác vị mặn, vì vậy cũng không
có một cái Ta nào là chủ nhân của cảm giác vị mặn (Vô Ngã). Hiểu biết vị mặn
là Cảm giác, nó là Tâm, nó Vô Thường, nó Vô Chủ (Vô Ngã) là hiểu biết đúng
như thật về vị mặn nên gọi là Minh hay Trí Tuệ. Hiểu biết của kẻ Phàm là Tâm
biết Cảnh, Thường kiến, Ngã kiến như vậy là không đúng sự thật nên gọi là Vô
Minh vọng tưởng. Có quan niệm cho rằng Năm uẩn do Duyên khởi nên Năm
uẩn không thật, chỉ là giả có. Đây cũng là một hiểu biết sai lạc, cũng là Vô
Minh. Tuy Năm uẩn do Duyên khởi, nó Vô Thường, Vô Ngã nhưng kẻ Phàm và
bậc Thánh đều Thấy, Nghe, Cảm nhận, Nhận thức được nó. Cái Không Thực ở
đây là hiểu biết Vô Minh về Năm uẩn, chính hiểu biết Vô Minh về Năm uẩn
làm khởi lên Năm Thủ uẩn. Năm Thủ uẩn mới là không thực, mới là "lông rùa
sừng thỏ". Kẻ Phàm đang sống với Năm Thủ uẩn tức đang sống với "lông rùa
sừng thỏ".

Đối với Khổ Tập Diệt Đạo, kẻ Phàm hiểu Khổ và Nguyên nhân của Khổ ở nơi
hoàn cảnh, cụ thể là những hoàn cảnh trung tính và khó chịu như nghèo đói, lạc
hậu, thiếu tiện nghi, thất học, chiến tranh, bất công, thiên tai... Hạnh phúc chính
là Sự chấm dứt Khổ, mà hạnh phúc là những hoàn cảnh tốt đẹp như giàu có,
xinh đẹp, thành đạt, đầy đủ tiện nghi... Con đường chấm dứt Khổ là thay đổi
hoàn cảnh cụ thể là tìm cầu hoàn cảnh tốt đẹp để chấm dứt hoàn cảnh xấu. Hiểu
biết Khổ Tập Diệt Đạo ở nơi Cảnh là Tâm biết Cảnh, là Thường kiến. Kẻ Phàm
cũng khởi lên Ta đau khổ, Ta hạnh phúc, Ta đang làm để chấm dứt Khổ (có một
cái Ta chủ nhân), đây gọi là Ngã kiến. Hiểu biết như vậy gọi là Vô Minh. Hiểu
biết Vô Minh chính là cái biết ý thức trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo, vì vậy khi
đối diện một đối tượng Dễ chịu (Lạc thọ) Tham sẽ khởi lên, khi đối diện một
đối tượng khó chịu (Khổ thọ) Sân sẽ khởi lên, khi đối diện một đối tượng trung
tính Si sẽ khởi lên. Vô Minh là nhân phát sinh Tham Sân Si nên Vô Minh là
nhơ tối thượng.

Đối với Khổ Tập Diệt Đạo, bậc Thánh quán sát theo Lý Duyên khởi: Căn Trần
tiếp xúc với nhau gọi là Xúc, do có Xúc mà có Thọ, do có Thọ mà có Ái, do có
Ái mà có Thủ, do có Thủ mà có Hữu, do có Hữu mà có Khổ (sinh già bệnh
chết) sầu bi khổ ưu não... không thể kể xiết. Như vậy khổ phát sinh trên lộ trình
tâm Bát Tà Đạo, khổ là Tâm chứ không phải Cảnh, khổ cũng Vô Thường, Vô
Ngã. Nguyên nhân của Khổ là Khát Ái tìm cầu Hạnh phúc (hỷ lạc) chỗ này chỗ
kia như Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái. Nguyên nhân của Khổ cũng là Tâm chứ
không phải Cảnh, nó cũng Vô Thường, Vô Ngã. Sự chấm dứt Khổ là sự chấm
dứt Khát Ái ấy và nó xảy ra trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo và nó xảy ra nơi
Tâm chứ không xảy ra nơi Cảnh. Khổ diệt hay Niết bàn là pháp vô vi, nó vắng
mặt cả Tâm lẫn Cảnh nên Thường hay Vô Thường, Ngã hay Vô Ngã cũng
không áp dụng được ở đây. Con đường chấm dứt Khổ là Bát Chánh Đạo cũng
là thay đổi Tâm chứ không thay đổi Cảnh, Bát Chánh Đạo cũng Vô Thường,
Vô Ngã.

Đối với người có Văn Tuệ (được nghe giảng Tứ Thánh Đế) thì không những
thông tin về Vô Minh được lưu trong kho chứa "tri thức hiểu biết" mà thông tin
về Minh cũng được lưu vào kho chứa đó. Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần, nếu
thông tin Vô minh nổi trội thì Tà Niệm sẽ khởi lên và Bát Tà Đạo sẽ khởi lên và
trên lộ trình tâm đó sẽ có Vô Minh, Tham Sân Si, sầu bi khổ ưu não. Nếu Minh
được kích hoạt lên thì Minh sẽ nổi trội và Bát Chánh Đạo sẽ khởi lên và trên lộ
trình tâm này sẽ có Minh và Giải Thoát. Đây chính là con đường hai ngã, đưa
đến Hữu (Thế gian) và Phi Hữu (Niết bàn). Nếu lộ trình tâm Bát Chánh Đạo
khởi lên liên tục thì lộ trình tâm Bát Tà Đạo được nhiếp phục và Minh sẽ xoá
dần Vô Minh trong kho chứa. Muốn đoạn nhơ tối thượng này thì phải:

- Tuệ tri được Vô minh (biết như thật nội dung của Vô minh).

- Tuệ tri được sự tập khởi của Vô minh: Do Tà niệm kích hoạt thông tin Vô minh
trong kho chứa làm phát sinh Tà tư duy và Tà tư duy trên thông tin Vô minh đó
mà phát sinh Tà tri kiến. Tà tri kiến chính là Vô minh.

- Tuệ tri sự đoạn diệt của Vô minh: Tà niệm diệt thì Tà tư duy diệt do đó Tà tri
kiến diệt tức Vô minh diệt.

- Tuệ tri con đường đoạn diệt Vô minh: Đó là Bát Chánh Đạo. Khi Chánh niệm
khởi lên kích hoạt Minh chứ không kích hoạt Vô minh nên Chánh tư duy sẽ tư
duy trên thông tin về Minh đó đưa đến phát sinh Chánh tri kiến là Minh nên
không còn Vô minh nữa.

Cho đến khi nào Minh được tu tập, được làm cho viên mãn thì lúc ấy thông tin
Vô Minh trong kho chứa bị xoá sạch một cách hoàn toàn, nhân của Tà Niệm và
Bát Tà Đạo bị đoạn diệt hoàn toàn thì đó là đoạn nhơ tối thượng. Lúc đó vị ấy
thành bậc không uế nhiễm, một vị A-la-hán.

Về mục lục

Bài 148: PHÁP CÚ 282

“Tu thiền trí tuệ sanh


Bỏ thiền trí tuệ diệt
Biết con đường hai ngả
Đưa đến Hữu, Phi Hữu
Hãy tự mình nỗ lực
Khiến trí tuệ tăng trưởng.”

Con đường hai ngã là con đường như thế nào? Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần
phát sinh sáu cảm giác hay sáu cảm thọ và sáu cái biết trực tiếp, biết như thật
sáu cảm thọ ấy, gọi chung là Thọ và Tưởng viết tắt là: Xúc Thọ (Cảm giác) -
Tưởng (biết trực tiếp). Đến đây Niệm sẽ khởi lên. Nếu Niệm là Tà Niệm thì
Bát Tà Đạo sẽ khởi lên. Nếu Niệm là Chánh Niệm thì Bát Chánh Đạo sẽ khởi
lên vì vậy đây là chỗ rẽ của con đường hai ngã.

- Nếu Tà Niệm khởi lên sẽ phát sinh Tà Tư Duy, Tà Tư Duy sẽ phát sinh Tà Tri
Kiến, sẽ phát sinh Tham Sân Si, sẽ phát sinh Tà Định, sẽ phát sinh Dục (mong
muốn), sẽ phát sinh Tà Tinh Tấn, sẽ phát sinh Phi Như Lý tác ý, sẽ phát sinh
Tà ngữ Tà nghiệp Tà mạng, và sẽ phát sinh Sầu Bi Khổ Ưu Não, Sinh Già
Bệnh Chết...

Xúc Thọ - Tưởng Tà Niệm Tà Tư Duy Tà Tri Kiến Tham Sân Si


Tà Định Dục Tà Tinh Tấn Phi Như Lý tác ý Tà ngữ Tà nghiệp Tà mạng
Khổ uẩn

Trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo có Tà Tri Kiến (chính là cái biết ý thức Vô Minh
vọng tưởng) có Tham Sân Si, có sầu bi khổ ưu não. Đây chính là con đường
Thế gian, con đường đưa đến Hữu, con đường đưa đến Sinh Già Bệnh Chết sầu
bi khổ ưu não.

- Nếu Chánh Niệm khởi lên sẽ phát sinh Chánh Tinh Tấn, sẽ phát sinh Chánh
Định, sẽ phát sinh Chánh Tư Duy, sẽ phát sinh Chánh Kiến, sẽ phát sinh Như
Lý tác ý, sẽ phát sinh Chánh ngữ Chánh nghiệp Chánh mạng:

Xúc Thọ - Tưởng Chánh Niệm Chánh Tinh Tấn Chánh Định (Tỉnh
Giác) Chánh Tư Duy Chánh Tri Kiến Như Lý tác ý Chánh ngữ Chánh
nghiệp Chánh mạng.

Trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo sẽ không có Vô Minh, không có Tham Sân Si,
không có sầu bi khổ ưu não mà có Chánh Tri Kiến là cái biết ý thức đúng như
thật gọi là Minh hay Tri Tuệ. Đây chính là con đường Niết bàn, con đường đưa
đến Phi Hữu, con đường đưa đến chấm dứt Sinh Già Bệnh Chết sầu bi khổ ưu
não.

Đây là con đường đưa đến Hữu, Phi Hữu. Trong Tương Ưng Bộ kinh ở bản
kinh Cỗ xe thù thắng, Đức Phật ví Niệm là người đánh xe, nghĩa là nếu Tà
Niệm thì xe sẽ đi trên Bát Tà Đạo, nếu Chánh Niệm thì xe sẽ đi trên Bát Chánh
Đạo. Có thể hình dung đi từ TP Hồ Chí Minh ra Hà Nội nếu đi đường bộ sẽ bắt
gặp Nha Trang, Đà Nẵng, Vinh (tương tự Bát Tà Đạo có Vô Minh, Tham Sân
Si, sầu bi khổ ưu não), nhưng nếu đi đường hàng không sẽ không bắt gặp Nha
Trang, Đà Nẵng, Vinh đâu cả (tương tự Bát Chánh Đạo không có Vô Minh,
Tham Sân Si, sầu bi khổ ưu não).
“Tu thiền Trí Tuệ sanh” nghĩa là khi sáu căn tiếp xúc sáu trần, Thọ - Tưởng
khởi lên, nếu có Chánh Niệm khởi lên (nhớ đến chú tâm quán sát thân nơi thân,
nhớ đến chú tâm quán sát thọ nơi thọ, nhớ đến chú tâm quán sát tâm nơi tâm,
nhớ đến chú tâm quán sát pháp nơi pháp) thì Chánh Tinh Tấn sẽ khởi lên và sẽ
phát sinh sự chú tâm quán sát Thân Thọ Tâm Pháp. Sự chú tâm này gọi là
Chánh Định. Tu thiền trong Bát Chánh Đạo là để chỉ cho ba chi phần này:
Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn - Chánh Định. Khi Chánh Định khởi lên thì do
nhân đó mà Chánh Tư Duy khởi lên làm phát sinh Chánh Kiến, đây là cái biết ý
thức đúng như thật về Duyên Khởi, về Vô Thường, Vô Ngã, về Khổ Tập Diệt
Đạo. Chánh Kiến này là Minh hay Trí Tuệ.

“Bỏ thiền Trí Tuệ diệt” nghĩa là khi sáu căn tiếp xúc sáu trần, nếu Chánh Niệm
không có mặt nghĩa là không nhớ đến chú tâm quán sát Thân Thọ Tâm Pháp thì
sẽ không có Chánh Tinh Tấn và sẽ không có chú tâm quán sát, tức không có
Chánh Định, sẽ không có Chánh Tư Duy nên sẽ không có Chánh Kiến, tức Trí
Tuệ diệt. Lúc này Tà Niệm sẽ có mặt nên Bát Tà Đạo khởi lên và sẽ có Vô
Minh, sẽ có Tham Sân Si, sầu bi khổ ưu não.

Trí Tuệ được tăng trưởng ở đây là chỉ cho Tu Tuệ tức Chánh Kiến hay Minh
trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo. Khi Trí Tuệ được tăng trưởng, được tu tập,
được làm cho viên mãn thì chính nó sẽ xoá bỏ Vô minh đưa đến giải thoát tối
hậu, quả A-la-hán. Sự tu tập thiền là sự tu tập Chánh Định nhưng nó là một chi
phần của Bát Chánh Đạo, nó nằm trong lộ trình tâm Bát Chánh Đạo, nó không
phải là toàn bộ Bát Chánh Đạo. Nếu rời Bát Chánh Đạo mà tu Định thì Định ấy
là Tà Định vì vậy Chánh Định được Kinh đề cập bao gồm: Sơ thiền, Nhị thiền,
Tam thiền, Tứ thiền, còn Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ,
Phi tưởng phi phi tưởng xứ không phải là Chánh Định mà chỉ là tịch tịnh trú, nó
không phát sinh Trí Tuệ.
Lộ trình tâm Bát Chánh Đạo, con đường độc nhất đoạn tận khổ đau không do
một tha lực nào khởi lên mà phải do tự lực của mỗi người khởi lên con đường
chưa bao giờ khởi, tu tập con đường chưa bao giờ được tu tập, chứng ngộ và an
trú Giải Thoát chưa bao giờ được chứng ngộ và an trú. Đây chính là: “Hãy tự
mình nỗ lực”.

Về mục lục

Bài 149: PHÁP CÚ 294

“Sau khi giết mẹ cha


Giết hai vua Sát lỵ
Giết vương quốc, quần thần
Vô ưu, Phạm chí sống”.
- “Vô ưu, Phạm chí sống” là ám chỉ một người đã giải thoát hoàn toàn, một vị A-
la-hán. Nhưng tại sao một vị A-la-hán được giải thoát hoàn toàn sau khi giết mẹ
cha, giết hai vua Sát lỵ, giết vương quốc quần thần? Pháp cú này không được hiểu
theo nghĩa đen, mà phải được hiểu theo nghĩa ẩn dụ. Cha Mẹ của chúng sanh là
gì? Đó là Vô Minh và Hữu Ái. Vô Minh là Không Hiểu Biết Như Thật về Duyên
Khởi, về Vô Thường, Vô Ngã, về Khổ Tập Diệt Đạo. Do Vô Minh mà có Hành:
Khát ái tìm cầu Hạnh phúc (hỷ lạc) chỗ này chỗ kia như Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu
ái. Đặc biệt là Hữu ái, nghĩa là khao khát tìm cầu hạnh phúc ở sự sống, sự hiện
hữu nên khi đối diện cái chết Hữu ái sẽ khởi lên mãnh liệt. Chính Hành này, sự
khao khát sống, bám víu sự sống, yêu thích sống là nhân phát sinh Thức Tái Sinh
và phát sinh một Danh Sắc tiếp tục vòng luân hồi sinh tử của chúng sanh. Giết
Cha Mẹ ám chỉ vị A-la-hán là vị đã đoạn tận Vô Minh và Hữu Ái, đã đoạn tận sự
sinh khởi của Danh Sắc trong tương lai.
- “Giết hai vua Sát lỵ” là ám chỉ sự đoạn tận Thường Kiến và Đoạn Kiến. Bậc
Thánh A-la-hán đã giác ngộ Lý Duyên Khởi, đã biết như thật các pháp Vô thường,
Vô ngã nên đã đoạn tận Thường Kiến và Đoạn Kiến. Đức Phật đã tuyên bố: Ai
thấy Duyên Khởi là thấy Pháp, ai thấy Pháp là thấy Ta. Và Ngài nói về Lý Duyên
Khởi: Đa phần nhân loại cho các pháp là thường có (Thường Kiến) hoặc là không
có (Đoạn Kiến) còn Như Lai thì xa lìa hai cực đoan ấy mà thuyết pháp ở Trung
Đạo, nghĩa là: "Do cái này có, cái kia có. Do cái này sinh cái kia sinh. Do cái này
không có cái kia không có. Do cái này diệt cái kia diệt." Lý Duyên Khởi được Đức
Phật diễn tả một cách ngắn gọn nhưng để hiểu được điều ngắn gọn ấy phải quán
sát nơi sự thật. Cái này là nhân và cái kia là quả. Nhân ở đây phải quán sát nơi sự
thật thì không phải một nhân biến đổi thành quả, hay một nhân chính biến đổi
thành quả có các nhân phụ trợ giúp, hay các duyên trợ giúp mà phải đầy đủ hai
nhân và các nhân này phải tiếp xúc với nhau, đây gọi là duyên. Đầy đủ hai nhân
và duyên như vậy mới phát sinh quả. Lộ trình của Nhân và Quả diễn ra theo quy
luật Nhân diệt Quả sinh. Ví như có một gói thuốc nhuộm đỏ và một chậu nước
trong, đây là đầy đủ hai nhân và hai nhân này bình đẳng không nhân nào chính,
không nhân nào phụ. Cho hai nhân này tiếp xúc thì cả hai nhân đều diệt và phát
sinh quả là chậu thuốc nhuộm đỏ. Có chậu thuốc nhuộm đỏ và cái áo trắng là đủ
hai nhân và cho hai nhân đó tiếp xúc với nhau thì cả hai cùng diệt và phát sinh
một cái áo đỏ và một chậu thuốc nhuộm đỏ khác (chậu thuốc nhuộm cũ diệt, chậu
thuốc nhuộm mới sinh). Tất cả các Sắc pháp đều do duyên Xúc mà sanh, cũng đều
do duyên Xúc mà diệt (duyên Xúc đã nói lên phải đầy đủ hai nhân) vì vậy các Sắc
pháp sinh lên rồi diệt đi không thường hằng, không thường trú ở đâu cả, nghĩa ấy
gọi là Vô Thường. Biết các Sắc pháp không thường hằng, không vĩnh cửu là điều
dễ biết, nhưng biết các Sắc pháp không thường trú là điều sâu kín, khó thấy, khó
biết. Người xưa có nói: sinh không từ đâu đến diệt không đi về đâu là nghĩa không
thường trú vậy.
Có một bao thóc giống tiếp xúc với một thửa ruộng đã được cày bừa kỹ (hai nhân)
phát sinh ruộng mạ, ruộng mạ lại tiếp xúc với các nhân khác, phát sinh ruộng lúa
có bông, ruộng lúa có bông lại tiếp xúc với máy gặt làm phát sinh bao thóc, bao
thóc tiếp xúc với máy xay làm phát sinh bao gạo... Trong diễn tiến của các lộ trình
Nhân diệt Quả sinh sẽ thấy rõ: bao thóc diệt ruộng mạ sinh, ruộng mạ diệt ruộng
lúa có bông sinh, ruộng lúa có bông diệt bao thóc sinh, bao thóc diệt bao gạo
sinh... Như vậy tất cả các Sắc pháp đang sinh và diệt nên nó Vô Thường không
thường hằng, thường trú ở đâu cả. Các Danh pháp hay Tâm phát sinh do hai nhân
Căn và Trần tiếp xúc. Ví như khi có viên đường và có lưỡi (đầy đủ hai nhân)
nhưng chưa tiếp xúc thì chưa có vị ngọt nào phát sinh cả, nhưng khi lưỡi tiếp xúc
với viên đường thì lập tức phát sinh Cảm giác vị (ngọt) và đồng thời phát sinh cái
biết Trực Tiếp Giác Quan gọi là Thiệt thức biết như thật Cảm giác vị (ngọt) ấy.
Cảm giác vị và Thân thức là Danh pháp hay Tâm, sinh lên rồi diệt đi theo duyên
Xúc, nó Vô Thường nghĩa là không thường hằng, không thường trú nơi viên
đường hay nơi lưỡi. Tương tự như vậy Mắt tiếp xúc với Sắc Trần phát sinh Cảm
giác hình ảnh và Nhãn thức. Tai tiếp xúc với Thanh trần phát sinh Cảm giác âm
thanh và Nhĩ thức. Mũi tiếp xúc với Hương trần phát sinh Cảm giác mùi và Tỉ
thức. Lưỡi tiếp xúc với Vị trần phát sinh Cảm giác vị và Thiệt thức. Thân tiếp xúc
với Xúc trần phát sinh Cảm giác xúc chạm và Thân thức. Ý tiếp xúc với Pháp trần
phát sinh Cảm giác pháp trần và Tưởng thức. Các Danh pháp hay Tâm khác như
Niệm, Tư duy, Ý thức, Tham Sân Si, Tác ý... phát sinh do Ý tiếp xúc với Pháp (sự
tương tác giữa hai lượng thông tin ngay bên trong tế bào thần kinh não bộ). Tất cả
các Danh pháp hay Tâm đều phát sinh do duyên Xúc. Xúc sinh Tâm sinh, Xúc
diệt Tâm diệt nên Tâm Vô Thường, không thường hằng không thường trú ở đâu
cả. Giác ngộ Lý Duyên Khởi là hiểu biết như thật các Danh pháp và Sắc pháp
phát sinh do duyên Xúc, các Danh pháp và Sắc pháp Vô Thường, Vô Chủ (Vô
Ngã) thì sẽ đoạn trừ được Thường Kiến Và Đoạn Kiến là cái hiểu biết sai sự thật
về các pháp.

a - Đoạn trừ các Thường Kiến biểu hiện như sau:


- Hiểu biết xanh đỏ tím vàng... thường trú trong Sắc trần như màu đỏ nằm
trong tấm vải đỏ, là của tấm vải đỏ. Mặn ngọt chua cay... thường trú trong Vị
trần. Nóng lạnh cứng mềm thô mịn... thường trú trong Xúc trần... đây là
Thường Kiến cứng chắc và phổ thông nhất của kẻ Phàm.

- Hiểu biết có một cái TA (Bản Ngã) chủ nhân của Thân và Tâm này là thường
hằng đã có mặt trong quá khứ, đang có mặt trong hiện tại và sẽ có mặt trong
tương lai là Thường Kiến.

- Hiểu biết Ta đã tạo nghiệp trong quá khứ và Ta đang gặt quả trong hiện tại,
chính người đó tạo nghiệp và chính người đó gặt quả, người làm ra khổ và chính
người đó chịu khổ... đó là Thường Kiến .

- Thường Kiến làm cho kẻ Phàm luôn luôn khao khát ổn định, mong cho mọi
sự được ổn định lâu dài, mong an cư lạc nghiệp...

- Hiểu biết Khổ Tập Diệt Đạo ở nơi hoàn cảnh, thường trú nơi hoàn cảnh nên
muốn chấm dứt khổ phải thay đổi hoàn cảnh là Thường Kiến.

Tuy Đức Phật giảng dạy sự thật Danh và Sắc vô thường và Phật Giáo Phát
Triển cũng có pháp quán Tứ Niệm Xứ: "Quán Thân bất tịnh, Quán Tâm vô
thường, Quán Pháp vô ngã, Quán Thọ là khổ" nhưng cũng có chủ trương sự tồn
tại một Chân Tâm thường trú, không sinh không diệt, một Tánh Thấy Tánh
Nghe không sinh không diệt. Chủ trương như vậy vừa trái với Đức Phật vừa tự
mâu thuẫn với chính mình, nói là Tâm vô thường. Chủ trương như vậy sẽ rơi
vào Tà Kiến vừa Vô Thường luận vừa Thường Trú luận với luận điểm: là mắt,
là tai, là mũi... là vô thường, cái gì là tâm, là ý, là thức là thường, là không sinh
không diệt. Chủ trương Tâm không sinh không diệt như vậy cũng sẽ rơi vào Tà
Kiến không có nhân không có duyên sinh khởi Tâm và đó là Vô Nhân luận.
Đây chính là các Tà Kiến trong 62 tà kiến mà Kinh Phạm Võng đã liệt kê.
b - Đoạn trừ các Đoạn Kiến biểu hiện như sau:

- Chủ nhĩa Duy Tâm và các Tôn giáo nhất thần cho rằng các sự vật và hiện tượng
(các pháp) do Thượng Đế Toàn Năng hoá hiện ra. Sự tồn tại và sự biến mất của
các sự vật và hiện tượng tuỳ thuộc vào ý chí của Thượng Đế. Thượng Đế, Đấng
Sáng Tạo, Đại Ngã... là các tên gọi khác nhau về một Năng Lực Tinh Thần tuyệt
đối, sáng tạo và điều khiển mọi sự vật hiện tượng. Hiểu biết như vậy thì các pháp
không phát sinh theo duyên Xúc, không phát sinh theo quy luật Nhân Quả. Đây
là Đoạn Kiến.

- Có chủ trương cho rằng: Các pháp do Tâm tạo và đương nhiên cái Tâm đó phải
là Chân Tâm thường trụ không sinh không diệt, hay cái Tánh Không không sinh
không diệt và do vậy phủ nhận Lý Duyên Khởi (các pháp phát sinh do duyên
Xúc). Quan niệm về Chân Tâm hay Tánh Không như vậy thì chỉ khác nhau về
ngôn từ còn nội dung thì chính là quan niệm Thượng Đế trong chủ nghĩa Duy
Tâm và tôn giáo nhất thần mà thôi. Đây cũng là Đoạn Kiến.

- Có những suy diễn cho rằng: Các Danh pháp và Sắc pháp sinh diệt trong một
cái "Toàn Thể". Chính cái Toàn Thể ấy (được xem là Thế Giới hay Vũ Trụ) là
bất sanh bất diệt. Suy diễn như vậy là cái "Lối Mòn" của tâm thức loài người đưa
đến chủ trương Duy Tâm hay Duy Vật tức quan niệm về khởi nguyên của Thế
Giới là Vật chất có trước hay Tinh thần có trước. Khi xem cái Toàn Thể ấy là
không sinh không diệt thì Duy Vật quan niệm cái Toàn Thể ấy là Vật Chất và nó
không tự nhiên sinh ra, không tự nhiên mất đi mà nó chỉ biến đổi từ vật này sang
vật khác, từ dạng này sang dạng khác mà thôi. Duy Tâm thì cho rằng cái Toàn
Thể ấy là Tâm Thức Vũ Trụ, là Chân Tâm, là Tánh Khôn, là Thượng Đế Toàn
Năng, Đấng sáng tạo (muôn vật muôn loài) không sinh không diệt. Ở đây Duy
Vật là Thường Kiến, Duy Tâm là Đoạn Kiến.

- Đức Phật không Giác Ngộ về cái Toàn Thể (Vũ trụ hay Thế giới) mà Ngài Giác
Ngộ sự Sinh Diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ, nhờ vậy
Ngài được Giải thoát hoàn toàn khỏi các chấp thủ. Vì vậy khi được hỏi Thế giới
là hữu biên hay vô biên, Thế giới là thường hay vô thường, Thế giới là một hay
là khác... Ngài cho rằng đó là Kiến hoang vu, Kiến trù lâm, Kiến triền phược đưa
đến nhiệt não, đưa đến ưu não, đưa đến phiền não... Kiến mà Ngài Giác Ngộ chỉ
là: Đây là sự thật về Khổ. Đây là sự thật về Nguyên nhân của Khổ. Đây là sự thật
về Chấm dứt Khổ. Đây là sự thật về Con đường chấm dứt Khổ.

Vậy cái Toàn Thể ấy là như thế nào? Hãy để cái Toàn Thể ấy qua một bên vì đó
không phải là mục đích của Phạm hạnh. Những việc cần làm là sử dụng Lý Duyên
Khởi như là một công cụ để giác ngộ Tứ Thánh Đế, giác ngộ Khổ Tập Diệt Đạo.
Khi đã giác ngộ Tứ Thánh Đế, đã hết khổ, vị ấy sẽ không còn quan tâm đến cái
Toàn Thể ấy là gì nữa. Hãy chú tâm vào cái sự thật mắt thấy tai nghe: Còn Tham
Ái thì còn Khổ, Ái diệt thì hết khổ đau.
- “Giết vương quốc quần thần” là gì? Vương quốc quần thần ám chỉ: sáu căn, sáu
trần, sáu thức, cộng là mười tám giới. Vị A-la-hán không yêu thích, không chán
ghét, độc lập không ràng buộc, giải thoát không hệ luỵ đối với sáu căn, sáu trần và
sáu thức nên giết vương quốc quần thần là vậy.
- Pháp cú 295:
“Sau khi giết mẹ cha
Hai vua Bà la môn
Giết hổ tướng thứ năm
Vô ưu Phạm chí sống.”

Pháp cú này cũng được giải thích tương tự với hai câu đầu, còn câu thứ ba “Giết
hổ tướng thứ năm” ám chỉ Năm Thủ Uẩn. Kẻ Phàm chấp thủ một cái Ta là chủ
nhân của Năm Uẩn làm khởi lên Năm Thủ Uẩn. Ta thấy, Ta nghe, Ta cảm nhận,
Ta nhận thức, Ta đau, Ta đói, Ta hạnh phúc, Ta nói, Ta làm... Kẻ Phàm đang
mang một gánh nặng và gánh nặng đó là Năm Thủ Uẩn. Một bậc A-la-hán đã
đoạn tận, đoạn trừ, đoạn ly Năm Thủ Uẩn, đã đặt gánh nặng xuống, đã Giải
Thoát hoàn toàn, đó gọi là “giết hổ tướng thứ năm”.

Về mục lục

Bài 150: THẤY THỰC TẠI NHƯ CHÚNG ĐANG LÀ

Đây là một tựa đề mà nhiều người đề cập đến. Tựa đề này cần sửa đổi một chút
thì ý nghĩa sẽ sáng rõ thêm. Đó là thấy Như thật thực tại đang là. Với tựa đề này
có ba vấn đề cần đề cập. Một là Thực tại đang là là gì? Hai là thấy thực tại đang
là không đúng như thật là như thế nào? Ba là thấy thực tại đang là đúng như
thật là như thế nào?

1 - Thực tại đang là là cái gì?

Đó chính là đời sống của mỗi người bao gồm Cái thấy, Cái nghe, Cái cảm
nhận, Cái nhận thức và Những gì được thấy, Những gì được nghe, Những gì
được cảm nhận, Những gì được nhận thức. Nếu nói gọn lại như tựa đề thì đó là
Cái thấy và Cái được thấy. Khi một người ngủ say không mộng mị, khi bị gây
mê để mổ, khi ngất đi trong một tai nạn, lúc đó không có Cái Biết cũng như Cái
Được Biết nghĩa là Thực tại không có mặt.

Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần sẽ xuất hiện Cái biết và Cái Được Biết. Vậy thì
Thực tại chính do sáu căn và sáu trần tiếp xúc mà phát sinh ra. Như vậy Thực tại
của người này sẽ khác với Thực tại của người kia vì tuy sáu trần Sắc Thanh
Hương Vị Xúc Pháp trần là chung nhưng sáu căn Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân Ý của
con người khác nhau. Tuy rằng Thực Tại của con người mỗi mỗi khác nhau (tuy
sự khác nhau rất nhỏ, rất vi tế) nhưng có thể phân thành hai nhóm chính: Thực
Tại của kẻ Phàm và Thực Tại của bậc Thánh. Nhưng tại sao lại gọi là Thực Tại
"đang là"? Bởi cái Thực Tại ấy do duyên Căn Trần mà phát sinh, nghĩa là Xúc
sinh Thực Tại sinh, Xúc diệt Thực Tại diệt, vì vậy Thực Tại quá khứ đã diệt,
Thực Tại tương lai chưa sinh, Thực Tại chỉ hiện hữu trong giây lát hiện tại và
rồi nó sẽ diệt đi.

- Thấy Thực Tại đang là không đúng như thật là Cái Thấy của kẻ Phàm: Đó là
sau khi thấy, nghe, cảm nhận một đối tượng, hiểu biết về đối tượng đó khởi lên.
Nội dung của hiểu biết đó có: Ta thấy, Ta nghe, Ta cảm nhận. Đối tượng đó của
Ta (hoặc không phải của Ta) và Ta hơn, Ta kém hay Ta bằng đối tượng đó. Đây
gọi là phần Chủ Thể của hiểu biết (có một cái Ta là chủ nhân của hiểu biết) mà
trong Kinh gọi là Ngã kiến, Ngã sở kiến, Ngã mạn tuỳ miên. Nội dung thứ hai
của hiểu biết này là đối tượng được biết là Cảnh trần (Sắc Thanh Hương Vị Xúc
Pháp trần) được xác định là: dễ chịu, khó chịu hay trung tính. Đây là cái biết Ý
thức Nhị nguyên gồm hai phần: Chủ Thể biết và Đối tượng được biết. Triết học
đưa ra nhận định: Con người chủ quan nhận thức Thế giới khách quan. Với
quan điểm này Tâm biết thuộc về con người là Chủ thể nhận thức và Thế giới
khách quan là Đối tượng nhận thức. Cái biết này gọi là Nhị nguyên Tâm biết
Cảnh. Với cái biết Nhị nguyên này, những gì được thấy, được nghe, được cảm
nhận, được nhận thức đều là Cảnh, thường hằng thường trú nơi Cảnh, Cảnh là
chủ nhân của nó (hữu chủ). Tất cả nhân loại (trừ các bậc Thánh) đang thấy Thực
Tại bằng cái thấy Nhị nguyên này. Ví như:

Khi mắt tiếp xúc với bông hoa, (nhãn thức) thấy đối tượng đó rồi Ý thức khởi
lên: Ta thấy bông hoa đẹp (Tâm biết Cảnh) và như vậy Đẹp chính là thuộc tính
của bông hoa, Đẹp thường trú thường hằng trong bông hoa, Đẹp là của bông
hoa (bông hoa là chủ nhân của Đẹp).

Khi lưỡi tiếp xúc với thức ăn, cảm nhận một vị ngon thì Ý thức khởi lên: Ta
đang nếm một Thức ăn ngon (Tâm biết Cảnh) và như vậy Ngon là thuộc tính
của thức ăn, Ngon thường trú thường hằng trong thức ăn, Ngon là của thức ăn
(thức ăn là chủ nhân của Ngon).
Khi thân xúc chạm với cục nước đá, cảm nhận một cảm giác lạnh rồi Ý thức
khởi lên: Ta biết cục nước đá này rất lạnh (Tâm biết Cảnh) và như vậy Lạnh là
thuộc tính của cục nước đá, Lạnh thường hằng thường trú nơi cục nước đá,
Lạnh của cục nước đá (nước đá là chủ nhân của Lạnh).

Khi cảm nhận Hạnh phúc, Ý thức khởi lên Hạnh phúc chính là hoàn cảnh tốt
đẹp này (giàu có, xinh đẹp...) nghĩa là Tâm biết Cảnh thì đương nhiên Hạnh
phúc thường hằng thường trú trong hoàn cảnh tốt đẹp, Hạnh phúc là của hoàn
cảnh tốt đẹp (hữu chủ).

Khi cảm nhận một Đau khổ, Ý thức khởi lên: Đau khổ chính là hoàn cảnh tồi tệ
này, Đau khổ thường hằng thường trú trong hoàn cảnh tồi tệ này, Đau khổ là
của hoàn cảnh tồi tệ này.

Nói tóm lại khi thấy (nhãn thức), nghe (nhĩ thức), cảm nhận (tỉ thức, thiệt thức,
thân thức, tưởng thức) các đối tượng (Thực tại) thì Ý thức nhị nguyên khởi lên
hiểu biết Thực Tại đó là Cảnh, nó thường hằng thường trú, nó Hữu chủ (Hữu
ngã). Cái hiểu biết của Ý thức nhị nguyên như vậy gọi là Thường Kiến và Ngã
Kiến. Cái biết Ý thức Nhị nguyên này chấp thủ một cái Ta là chủ nhân của cái
biết, chấp thủ Cái được biết là Cảnh, Cái được biết thường hằng thường trú
trong Cảnh, Cái được biết Hữu chủ. Đây chính là Vô Minh (Thường Kiến, Ngã
Kiến), và vì sao Ý thức nhị nguyên này là Vô Minh xem phần sau sẽ rõ.

- Thấy như thật Thực Tại đang là là cái Thấy (biết) của bậc Thánh đã Giác ngộ
Lý Duyên Khởi. Bậc Thánh thấy như thật Thực Tại của kẻ Phàm cũng như thấy
như thật Thực Tại của bậc Thánh.

a - Thấy như thật Thực Tại đang là của kẻ Phàm:

Sáu căn tiếp xúc với sáu trần gọi là sáu xúc gồm: Nhãn xúc, Nhĩ xúc, Tỉ xúc,
Thiệt xúc, Thân xúc và Ý xúc. Do có sáu xúc mà phát sinh sáu Cảm giác (Cảm
thọ) và sáu cái biết trực tiếp giác quan biết như thật sáu cảm thọ ấy:

- Nhãn xúc phát sinh: Cảm giác hình ảnh - Nhãn thức

- Nhĩ xúc phát sinh: Cảm giác âm thanh - Nhĩ thức

- Tỉ xúc phát sinh: Cảm giác mùi - Tỉ thức

- Thiệt xúc phát sinh: Cảm giác vị - Thiệt thức

- Thân xúc phát sinh: Cảm giác xúc chạm - Thân thức

- Ý xúc phát sinh: Cảm giác pháp trần - Tưởng thức

Viết thành một công thức chung: Xúc Cảm giác (Thọ) - Tưởng

Ví như có một cục nước đá và bàn tay là hai nhân (Căn và Trần) nhưng chưa có
sự tiếp xúc thì chưa có cái Lạnh nào phát sinh cả. Khi bàn tay tiếp xúc với cục
nước đá thì Lạnh lập tức phát sinh và đồng thời có một cái biết (gọi là Thân
thức) phát sinh Biết cái Lạnh đó. Đây mới là Lạnh thực mà Thánh hay Phàm
đều cảm nhận được. Lạnh này là cảm giác, nó là Tâm chứ không phải Cảnh.
Xúc sinh Cảm giác lạnh và Thân thức sinh, Xúc diệt Cảm giác lạnh và Thân
thức diệt. Cảm giác lạnh và Thân thức sinh lên rồi diệt nên nó không thường
hằng, không thường trú ở trong cục nước đá hay trong tay nên nó Vô Thường.
Cảm giác lạnh và Thân thức cũng không có cái gì là chủ nhân của nó nên nó
Vô Chủ hay Vô Ngã. Như vậy cái biết là Tâm và cái được biết là Thực Tại đều
là Tâm cả và nó Vô Thường, Vô Ngã. Diễn tiến của Thực Tại không dừng lại
đây mà sẽ tiếp tục phát triển. Đối với kẻ Phàm thì Tà Niệm và Tà Tư Duy sẽ
khởi lên để tìm hiểu về đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận. Tà
Niệm sẽ tìm kiếm và kích hoạt các thông tin Thường Kiến và Ngã Kiến được
lưu trong "kho chứa" và Tà Tư Duy sẽ phân tích, so sánh, đối chiếu đối tượng
đó với những thông tin được Tà Niệm kích hoạt và làm phát sinh cái biết Ý
thức hiểu biết về đối tượng đó. Cái biết Ý Thức này mang nội dung Thường
Kiến, Ngã Kiến gọi là Ý thức nhị nguyên, không đúng với sự thật, vì Thực Tại
là Tâm, nó Vô Thường, Vô Ngã nhưng Ý thức nhị nguyên lại cho là Cảnh,
Thường hằng thường trú và Hữu Chủ (Hữu Ngã) như đã phân tích trong cái
biết không như thật Thực tại. Lộ trình sẽ là: Xúc Cảm giác (Thọ) - Tưởng
Tà Niệm Tà Tư Duy Tà Tri Kiến (Ý thức). Đây là lộ trình khởi lên cái biết
bao gồm: Cái biết trực tiếp (Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân
thức và Tưởng thức) không tri thức khái niệm, không phân biệt đối đãi, biết
như thật đối tượng và Tâm lý học gọi là Nhận thức cảm tính, còn Ý thức gọi là
Nhận thức lý tính lại là hiểu biết không đúng sự thật về đối tượng nên gọi là Tà
Tri Kiến. Trong Kinh Pháp Môn Căn Bản gọi cái biết trực tiếp (thấy nghe cảm
nhận) là Tưởng tri và Ý thức gọi là Thức tri có tính chất là không liễu tri (không
biết như thật). Thực tại của kẻ Phàm không dừng lại đây mà sẽ diễn tiến tiếp.
Khi Ý thức xác định đối tượng là Dễ chịu thì Tham khởi lên, là khó chịu thì
Sân khởi lên, là không dễ chịu không khó chịu thì Si khởi lên. Nếu Tham và
Sân thì sẽ bị thu hút và chú tâm vào đối tượng, nếu Si sẽ tác ý tìm kiếm một đối
tượng dễ chịu để thay thế đối tượng trung tính. Sự chú tâm do Tham và Sân
khởi lên này gọi là Tà Định và do Tà Định mà khởi lên mong muốn có được đối
tượng dễ chịu hoặc xa lánh đối tượng khó chịu đó (gọi là Dục). Do có Dục mà
phát sinh nỗ lực cố gắng để đạt được Dục gọi là Tà Tinh Tấn và do có Tà Tinh
Tấn mà phát sinh tác ý để đưa đến lời nói, hành động. Tác ý này cũng do từ Tà
Tri Kiến nên gọi là Phi Như Lý Tác Ý và do Phi Như Lý Tác Ý mà Tà ngữ Tà
nghiệp Tà mạng khởi lên và do Tà ngữ Tà nghiệp Tà mạng mà Khổ (của Sinh
Già Bệnh Chết) sầu bi ưu não không thể kể xiết khởi lên.

Xúc Cảm giác (Thọ) - Tưởng Tà Niệm Tà Tư Duy Tà Tri Kiến Tham
Sân Si Tà Định Dục Tà Tinh Tấn Phi Như Lý Tác Ý Tà ngữ Tà
nghiệp Tà mạng Khổ uẩn

Ví như có một thanh niên đang đi bộ trên đường bỗng Mắt tiếp xúc với một cô
gái đang đi ở một quãng xa trước mặt làm phát sinh một cảm giác hình ảnh và
nhãn thức cũng phát sinh thấy cảm giác hình ảnh đó rồi Tà Niệm, Tà Tư Duy
khởi lên đưa đến Tà Tri Kiến: Ta thấy một cô gái đẹp và thích thú (Tham) khởi
lên. Do có Tham mà chú tâm vào hình ảnh đó (Tà Định) và Dục (muốn xem
mặt) khởi lên và sẽ nỗ lực cố gắng (Tà Tinh Tấn) đưa đến Tác Ý (chạy nhanh
lên) nên phát sinh hành động chạy nhanh. Do chạy nhanh mà căng thẳng và sự
căng thẳng đó chính là khổ thân khổ tâm vậy.

Đây là Thực Tại của kẻ Phàm, chính là lộ trình Tâm Bát Tà Đạo mà Đức Phật
nói một cách vắn tắt là: Xúc Thọ Ái Thủ Hữu Sinh già bệnh chết sầu
bi khổ ưu não...

Trong Thực Tại này mỗi một Danh pháp đều đang sinh và diệt nên nó Vô
thường, Vô ngã và cả lộ trình cũng sinh lên và diệt đi theo lý Duyên Khởi. Xúc
diệt Thọ Tưởng sinh, Thọ Tưởng diệt Tà Niệm sinh, Tà Niêm diệt Tà Tư Duy
sinh, Tà Tư Duy diệt Tà Tri Kiến sinh... Mỗi một lộ trình này khởi lên rồi diệt
chỉ trong phần trăm đến phần nghìn giây và nó xảy ra liên tiếp như vậy. Vì vậy
cả lộ trình cũng Vô thường, Vô ngã. Trong Thực Tại Đang Là này có Vô Minh
(Tà Tri Kiến), có Tham Sân Si, có Sầu bi khổ ưu nã, nghĩa là có Khổ và có
Nguyên nhân của Khổ. Thấy biết như thật Thực Tại Đang Là của kẻ Phàm cũng
là Thấy biết như thật về Khổ và Nguyên nhân Khổ gọi là Khổ Đế và Tập Đế.

Như vậy Khổ và Nguyên nhân Khổ là Tâm và nó cũng Vô thường, Vô ngã.
Thực Tại này của kẻ Phàm nhưng kẻ Phàm không giác ngộ được nó mà chỉ bậc
Thánh mới giác ngộ được.

b - Thấy như thật Thực Tại Đang Là của bậc Thánh:

Thực Tại Đang Là của bậc Thánh cũng do Sáu Căn và Sáu Trần tiếp xúc mà
phát sinh ra . Đó chính là lộ trình tâm Bát Chánh Đạo: Xúc Cảm giác (Thọ) -
Tưởng Chánh Niệm Chánh Tinh Tấn Chánh Định (Tỉnh Giác) Chánh
Tư Duy Chánh Kiến Như Lý Tác Ý Chánh ngữ Chánh nghiệp Chánh
mạng.

Thực Tại Đang Là này cũng là Tâm và nó cũng Vô thường, Vô ngã. Thấy như
thật Thực Tại Đang Là này xảy ra theo hai cấp độ: Nhận thức cảm tính (trực
tiêp giác quan) và Nhận thức lý tính (ý thức).

- Thấy như thực với cấp độ Nhận thức cảm tính: Khi một Hành giả thực hành
Niệm Thân và Niệm Thọ thì khi có các cảm giác và cái biết trực tiếp khởi lên,
Chánh niệm nhớ đến chú tâm quán sát các cảm thọ nơi Thân (đối với Niệm
Thân), nhớ đến chú tâm quán sát các cảm thọ (đối với Niệm Thọ) khởi lên sẽ
phát sinh Chánh Tinh Tấn. Chánh Tinh Tấn sẽ phát sinh sự chú tâm trên cảm
thọ đó. Sự chú tâm đó là Chánh Định. Do có Chánh Định mà lộ trình tâm dừng
lại đấy. Lộ trình tâm dừng lại đó lại là duyên cho lộ trình tâm sau cũng trên đối
tượng ấy khởi lên tương tự và nhiều lộ trình tâm như vậy khởi trên cùng đối
tượng ấy nên cảm thọ và cái biết trực tiếp được "kéo dài" ra nên Hành giả sẽ
kinh nghiệm được cái biết trực tiếp một cách rõ ràng minh bạch. Lộ trình Tâm
đó được diễn tả như sau: Xúc Cảm giác (Thọ) - Tưởng Chánh Niệm
Chánh Tinh Tấn Chánh Định (Tỉnh Giác).

Lúc này lộ trình tâm chỉ có cái biết trực tiếp giác quan (Tưởng) là duy nhất,
không có Ý thức và được gọi bằng một tên mới là Tỉnh Giác. Đây là cái biết
như thật các cảm thọ không tri thức khái niệm, không phân biệt đối đãi, không
ngôn từ chế định. Cái biết Tỉnh Giác này còn có một tên gọi khác là Không tánh
hoặc trong Kinh Pháp Môn Căn Bản gọi la Thắng tri. Hãy hình dung một đứa
trẻ mới sinh tức thì sáu căn của nó tiếp xúc sáu trần thì nó vẫn Thấy Nghe Cảm
Nhận nhưng Ý thức nó chưa khởi lên nên nó không biết cái đó là cái gì. Tương
tự cái biết Tỉnh Giác cũng như vậy, là cái Thấy, Nghe, Cảm Nhận thuần tuý của
đứa trẻ kia và lúc đó Hành giả mới kinh nghiệm được Thấy chỉ là thấy, Nghe
chỉ là nghe, Cảm nhận chỉ là cảm nhận. Thấy, Nghe, Cảm nhận này Thánh hay
Phàm đều như nhau nhưng kẻ Phàm không thể tách bạch nó ra khỏi cái biết Ý
thức nên không thể kinh nghiệm được nó một cách minh bạch nên cái Thấy,
Nghe, Cảm nhận đó gọi là Tưởng tri. Thực Tại Đang Là của bậc Thánh lúc này
chỉ có Tỉnh Giác nên Vô Minh, Tham Sân Si, Khổ không có mặt. Sự không có
mặt của Khổ và Nguyên nhân Khổ này chính là Giải Thoát và sự giải thoát này
do Chánh Niệm, Chánh Tinh Tấn, chánh Định mà có nên gọi là Tâm Giải
Thoát. Lộ trình này gọi tắt là Chánh Niệm Tỉnh Giác.

- Thấy như thật với cấp độ Nhận thức lý tính (Ý thức): Đó là khi Hành giả thực
hành Niệm Tâm và Niệm Pháp. Khi các cảm thọ và cái biết trực tiếp khởi lên thì
Chánh Niệm sẽ khởi lên. Chánh Niệm ở đây là: nhớ đến quán sát đối tượng là
Tâm (đối với Niệm Tâm), nhớ đến quán sát đối tượng đó vô thường, đối tượng
đó vô ngã, đối tượng đó ly tham, đối tượng đó buông xả (đối với Niệm Pháp) thì
sau khi thấy, nghe, cảm nhận cảm thọ với cái biết Tỉnh Giác thì Chánh Tư Duy
sẽ khởi lên. Đối với một Hành giả Tứ Niệm Xứ Văn Tuệ đã được lưu giữ trong
"kho chứa" bao gồm: hiểu biết như thật về Duyên Khởi, về Vô Thường, Vô ngã,
về Khổ Tập Diệt Đạo (gọi là Minh) sẽ được Chánh Niệm kích hoạt lên (không
kích hoạt Vô Minh, Thường Kiến, Ngã Kiến) nên Chánh Tư Duy sẽ phân tích,
so sánh, đối chiếu thông tin về cảm thọ do Tỉnh Giác cung cấp với Minh nên
phát sinh cái biết Ý thức đúng như thật gọi là Chánh Kiến biết đối tượng đó là
Tâm, đối tượng đó Vô thường, đối tượng đó Vô ngã, đối tượng đó được ly
tham, đối tượng đó được buông xả. Lộ trình này là: Xúc Cảm giác (Thọ) -
Tưởng Chánh Niệm Chánh Tinh Tấn Chánh Định (Tỉnh Giác) Chánh
Tư Duy Chánh Kiến Như Lý Tác Ý Chánh ngữ Chánh nghiệp Chánh
mạng. Thực Tại Đang Là này không có Vô Minh, không có Tham Sân Si,
không có Sầu bi khổ ưu não và như vậy là không có Khổ cũng như Nguyên
nhân của Khổ. Đó chính là Khổ Diệt (Niết Bàn) đó chính là Giải Thoát. Giải
Thoát này do Chánh Kiến mà chứng ngộ và an trú nên gọi là Tuệ Giải Thoát. Sự
thực hành Tứ Niệm Xứ đặc biệt là Niệm Tâm và Niệm Pháp sẽ làm cho Chánh
Kiến được tu tập, được làm cho viên mãn sẽ dẫn đến "đột chuyển" tức Minh sẽ
xoá bỏ Vô Minh đã được cài đặt lâu ngày trong "kho chứa" và đó là lúc thành
đạt đạo quả A-la-hán.

Như vậy Thực Tại Đang Là của bậc Thánh hữu học và vô học không có Khổ và
Nguyên nhân của Khổ mà có Tâm Giải Thoát, Tuệ Giải Thoát. Đó chính là Khổ
Diệt hay Niết bàn và chính Thực Tại đó là Con Đường Chấm Dứt Khổ. Thấy
như thật Thực Tại Đang Là của bậc Thánh có nghĩa là Giác Ngộ Diệt Đế và
Đạo Đế. Thấy không như thật Thực Tại Đang Là là thấy Thực Tại ấy là Cảnh,
Thực Tại ấy thường hằng thường trú, Thực Tại ấy hữu chủ (hữu ngã) đó là Vô
Minh. Thấy như thật Thực Tại Đang Là là thấy Thực Tại ấy là Tâm, Thực Tại
ấy Vô thường, Thực Tại ấy Vô ngã. Thấy như thật Thực Tại Đang Là chính là
Giác Ngộ Tứ Thánh Đế.

Về mục lục

Bài 151: VÔ THƯỜNG LÀ KHỔ HAY LÀ LẠC

Mở đầu bài viết này xin trích dẫn một đoạn trong Lời nói đầu khi xuất bản Kinh
Trung Bộ của Hoà thượng Thích Minh Châu: "... Chúng tôi cũng không có
trách nhiệm nêu lên cho độc giả rõ, đoạn nào là nguyên thuỷ, đoạn nào không
phải nguyên thuỷ. Chỉ có người đọc, sau khi tự mình đọc, tự mình tìm hiểu, tự
mình suy tư, tự mình quán sát, tự mình chứng nghiệm trên bản thân, mới có thể
tự mình hiểu và thấy đoạn nào là thật sự nguyên thuỷ. Trách nhiệm tìm hiểu,
chứng nghiệm cá nhân là trách nhiệm của người đọc, không phải của người dịch
vì Đạo Phật là Đạo đến để mà thấy chứ không phải Đạo đến để nhờ người khác
thấy hộ, đạo của người có mắt, không phải Đạo của người nhắm mắt, Đạo của
người thấy, của người biết, không phải Đạo của người không thấy không biết".
Trong Kinh điển đặc biệt Kinh Ví dụ con rắn thuộc Kinh Trung Bộ Đức Phật
nhấn mạnh: Sau khi học Pháp phải quán sát ý nghĩa các pháp với trí tuệ (đối
chiếu với sự thật) nếu không sẽ nắm giữ ý nghĩa các pháp một cách sai lạc và
điều đó sẽ đưa đến tự hại giống như người bắt rắn ngu si nắm lấy đuôi con rắn.
Vì vậy người học Pháp và hành Pháp phải quán sát ý nghĩa lời giảng bằng cách
đối chiếu với sự thật và đối chiếu với lời dạy "Nhất quán xuyên suốt Kinh điển"
của Đức Phật và sau khi biết đó là sự thật, biết nó phù hợp với "Nhất quán
xuyên suốt Kinh điển" thì mới chấp nhận và thực hành. Với tinh thần đó hãy
quán sát một đoạn Kinh sau:

- “Các ông nghĩ thế nào, này các Tỷ kheo, sắc là thường hay vô thường?

- Vô thường, bạch Thế Tôn.

- Những gì vô thường là khổ hay là lạc?

- Là khổ, bạch Thế Tôn.

- Những gì vô thường, khổ, bị biến hoại, có hợp lý chăng khi xem: "Cái này của
ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta?"

- Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.

- Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ kheo, thọ ...tưởng ...hành ...thức là thường hay
vô thường?

- Vô thường, bạch Thế Tôn.

- Những gì vô thường, là khổ hay lạc?

- Là khổ, bạch Thế Tôn.

- Những gì vô thường, khổ, bị biến hoại, có hợp lý chăng khi xem: "Cái này là
của ta, cái này là ta, cái này là tự ngã của ta?"

- Thưa không vậy, bạch Thế Tôn.”


Đoạn Kinh này chỉ có thể hiểu theo nghĩa đen chứ không thể hiểu theo nghĩa
bóng gió nào cả. Theo nghĩa đen của đoạn Kinh này thì: Sắc thọ tưởng hành
thức là vô thường, Vì sắc thọ tưởng hành thức là vô thường nên sắc thọ tưởng
hành thức là khồ, sắc thọ tưởng hành thức là vô ngã. Nguyên nhân của sắc thọ
tưởng hành thức khổ là do nó vô thường, vì vậy nguyên nhân của khổ là vô
thường. Từ nội dung này những tư duy hợp lý, đúng logic "tam đoạn luận" sẽ
khởi lên như sau: Sắc thọ tưởng hành thức của Phàm hay Thánh đều vô thường
và như vậy đều là khổ. Nếu vậy sẽ không có Khổ Diệt và Con đường đưa đến
Khổ Diệt nơi sắc thọ tưởng hành thức. Nếu Sắc thọ tưởng hành thức là vô
thường, khổ sẽ không hợp lý nếu xem những cái đó là của ta, là ta, là tự ngã của
ta. Tư duy như vậy thì vẫn có một cái Ta để mà suy diễn và dựa trên luận đề đó
một suy diễn hợp lý sẽ khởi lên, vậy cái gì thường còn sẽ là lạc và cái đó mới là
của Ta, là Ta, là tự ngã của Ta.

Cái thường còn và lạc đó phải ở ngoài sắc thọ tưởng hành thức. Vì thế bậc
Thánh giải thoát Khổ an trú Niết bàn thì Niết bàn ắt hẳn là Thường, Lạc, Ngã,
Tịnh như một số người chủ trương hay Niết bàn là Thường, Lạc, Vô Ngã, Tịnh
như một số khác chủ trương. Cũng từ đoạn Kinh này mà xuất hiện quan điểm:
có ba đặc điểm hay ba dấu ấn để khẳng định đó là Chánh pháp (Tam pháp ấn) là
các pháp Vô thường - Khổ - Vô ngã.

1 - Nếu thấy như thật Lý Duyên Khởi nghĩa là phải có đủ hai nhân tiếp xúc với
nhau rồi cùng diệt mới phát sinh quả, thì quả ấy là Pháp duyên khởi, quả ấy
sinh lên rồi diệt, không thường hằng thường trú ở đâu cả (gọi là Vô thường), và
quả ấy vô chủ, không có một pháp nào là chủ nhân, vì thế cũng không có một
cái Ta là chủ nhân pháp ấy (gọi là vô ngã). Sắc thọ tưởng hành thức là Vô
thường, ở đây không có suy diễn nào có thể khởi lên. Nhưng vì Sắc... thức vô
thường, khổ nên không thể xem Sắc thọ tưởng hành thức là của Ta, là Ta thì
vẫn tồn tại một cái Ta, và như vậy vẫn có một khoảng trống lớn cho các suy
diễn khác khởi lên. Một trong các suy diễn đó là, vậy cái gì thường, không sinh
không diệt đương nhiên là lạc sẽ là của Ta, là Ta và như vậy sẽ kích thích suy
nghĩ tìm kiếm rồi tưởng tượng ra một Chân Tâm thường trú không sinh không
diệt, một Tánh Thấy Tánh Nghe không sinh không diệt và chấp thủ đó là cái Ta
chân thật không sinh không diệt hằng thấy hằng biết, một Chân Ngã. Trong
Kinh Giới Phân Biệt kinh số 143 thuộc Kinh Trung Bộ Đức Phật có nói: Ta là...
là một vọng tưởng, Ta không phải là... là một vọng tưởng. Chấm dứt vọng
tưởng sẽ trở thành một ẩn sĩ tịch tịnh. Lời dạy này đã rất rõ ràng: Ta là... và Ta
không phải là... đều là các tư tưởng phát sinh trên sự chấp thủ một cái Ta (Bản
Ngã), khi chấm dứt hai vọng tưởng này thì chấm dứt chấp thủ cái Ta, (Bản ngã)
nghĩa là không có cái Ta nào hết. Đây mới là cách giảng giải về Vô Ngã toàn
triệt nhất.

2 - Vấn đề Khổ và Nguyên nhân Khổ: Theo đoạn văn này thì sắc thọ tưởng
hành thức là khổ và nguyên nhân khổ là do sắc thọ tưởng hành thức vô thường.
Nếu Sắc pháp là khổ thì hòn đá đang khổ, mặt trăng, mặt trời, trăng sao, ánh
sáng... đang khổ. Vậy có ai trong loài người này dù là Phàm hay Thánh cảm
nhận được hòn đá, mặt trăng, mặt trời... đang khổ không? Nếu không ai cảm
nhận được các sắc pháp ấy đang khổ thì sắc thọ tưởng hành thức là khổ chính là
hoang tưởng, một chứng bệnh, bệnh Vô Minh. Vô Minh là thấy Khổ và Nguyên
nhân Khổ ở nơi hoàn cảnh. Đức Phật không nói Năm uẩn là khổ mà ngay bài
kinh Chuyển Pháp Luân Ngài đã nói: Năm Thủ Uẩn là khổ nghĩa là chấp thủ
Năm Uẩn mới phát sinh Khổ.

Duyên khởi lên Khổ đã được thuyết minh rất rõ ràng: Do có Xúc (sáu căn tiếp
xúc sáu trần) mà có Thọ, do có Thọ mà có Ái, do có Ái mà có Thủ, do có Thủ
mà có Hữu, do có Hữu mà có Khổ (của Sinh Già Bệnh Chết) sầu bi ưu não
không thể kể xiết. Đây chính là thuyết minh một cách tóm tắt lộ trình tâm Bát
Tà Đạo. Xúc sinh thì Khổ sinh, Xúc diệt thì Khổ diệt, sầu bi khổ ưu não là Tâm
chứ không phải Cảnh và nó thuộc Hành uẩn, nó sinh diệt Vô thường, không
thường trú ở đâu cả, không thường trú trong sắc thọ tưởng hành thức. Khổ cũng
vô ngã nghĩa là không có một cái gì, không có một cái Ta nào là chủ nhân, sở
hữu Khổ. Đức Phật đã nói: Khi khổ sinh thì biết là khổ sinh, khi khổ diệt thì biết
là khổ diệt, trí là trí của người đó không duyên một ai khác. Nghĩa là khi có Khổ
sinh thì Thánh hay Phàm đều cảm nhận được Khổ nhưng hiểu biết của kẻ Phàm
thì Khổ là Cảnh, thường trú nơi Cảnh, và có chủ nhân (Hữu ngã - Ta khổ) gọi là
Vô minh, còn bậc Thánh thì hiểu biết Khổ do duyên Xúc, Khổ là Tâm, nó Vô
thường, Vô ngã đây gọi là Minh.

Cũng chính trong Kinh Chuyển Pháp Luân Ngài đã tuyên bố: Nguyên nhân Khổ
là khát ái tìm cầu hỷ lạc chỗ này chỗ kia như Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái. Như
vậy Đức Phật nói nguyên nhân Khổ là Tham ái chứ không phải là vô thường. Sự
thật về Khổ và Nguyên nhân Khổ này được Đức Phật tuyên thuyết Nhất Quán
trong toàn bộ Kinh điển vì vậy đoạn văn trên mâu thuẫn với sự thật, mâu thuẫn
với lời dạy của Ngài.

Đức Phật không bao giờ lại tự mình mâu thuẫn với chính mình nên biết đoạn
văn trên không phải là lời của Phật.

3 - Vô thường là khổ hay là lạc? Bây giờ hãy đối chiếu ý nghĩa của đoạn văn
trên với sự thật. Khi sáu căn và sáu trần tiếp xúc phát sinh thực tại của kẻ Phàm
thì cái thực tại là vô thường bao gồm cái thấy, cái nghe, cái cảm nhận, cái nhận
thức và những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức.
Những đối tượng được thấy, nghe, cảm nhận là các cảm thọ được chia làm ba
trường hợp: dễ chịu (lạc thọ), khó chịu (khổ thọ), trung tính (bất khổ bất lạc
thọ).

- Nếu dễ chịu hay lạc thọ, vô thường nghĩa là mất nó thì đó là khổ như mất đi tài
sản, danh tiếng, sức khoẻ, thân mạng...
- Nếu đối tượng là khó chịu hay khổ thọ thì khi vô thường mất nó thì lúc đó là
lạc chứ không phải khổ. Ví như trời nắng ba tháng dữ dằn thì khi mưa xuống là
lạc; khi một cơn đau đã kéo dài thì khi nó chấm dứt, vô thường đó là lạc; khi
nấu cơm hạt gạo diệt phát sinh cơm thì vô thường là lạc; khi gieo lúa giống, hạt
thóc diệt phát sinh cây mạ, vô thường này cũng là lạc...

- Nếu một đối tượng trung tính hay bất khổ bất lạc thọ thì khi nó vô thường
cũng có thể khởi lên lạc hoặc khổ hoặc không khổ không lạc.

Khi đối chiếu với sự thật như vậy thì kết luận "Cái gì vô thường là khổ" không
đúng với sự thật, là cái thấy thiên lệch, một chiều chắc chắn không phải là lời
dạy của bậc đã Giác Ngộ Sự Thật. Rất nhiều chỗ trong Kinh điển Ngài nói rằng:
Nếu thực tại chỉ có khổ mà không có lạc thì chúng sanh sẽ không tham đắm
thực tại ấy và vì thực tại có lạc nên chúng sanh mới tham đắm thực tại ấy. Ngài
nói “Ta đã Tuệ tri vị ngọt là vị ngọt” nghĩa là Ngài xác nhận vị ngọt là có thật
tuy nó vô thường vô ngã và nó chỉ là một cảm giác dễ chịu (lạc thọ). Nhưng
Ngài cũng nói luôn rằng: Ta đã Tuệ tri sự nguy hiểm nghĩa là vị ngọt vô thường
nếu thích thú (Tham) và nắm giữ nó thì khi nó vô thường, biến hoại, biến diệt,
sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên. Nếu một cảm giác dễ chịu mà không thích thú, sẽ
không nắm giữ thì khi nó mất đi sầu bi khổ ưu não không thể khởi lên. Như
vậy, chính Tham ái là Nguyên nhân Khổ chứ không phải là vô thường.

4 - Thường còn là lạc hay là khổ?

Đối với vấn đề này cũng phân ra ba trường hợp để khảo sát:

- Đối tượng dễ chịu: Ví như có một món ăn ngon hợp khẩu vị, người đó thích
thú thưởng thức, nhưng nếu bắt người đó bữa nào cũng phải ăn món khoái
khẩu đó liên tục không được đổi món kéo dài ra cả năm trời (chưa phải là vĩnh
viễn) thì đó là một điều kinh khủng, rất là khổ. Một khuôn viên rất mát mẻ, đẹp
mê hồn với các nàng tiên, với rượu tiên, âm nhạc tiên, món ăn tiên, lạc thú của
tiên... và những thứ đó không thay đổi cứ lặp đi lặp lại từ ngày này sang ngày
khác làm cho hai anh chàng Lưu, Nguyễn chỉ chịu đựng được hai năm và phải
trốn về trần gian vô thường thay đổi. Sự thật là những điều dễ chịu mà nó kéo
dài quá mức cũng là khổ kinh khủng chứ chưa nói là nó vĩnh viễn như vậy.

- Một đối tượng khó chịu mà nó thường hằng vĩnh viễn thì làm sao chịu nổi.

- Một đối tượng trung tính mà kéo dài thì con người cũng phát điên vì khổ.

Vậy thì thường là khổ tuyệt đối chứ không như vô thường vừa khổ vừa lạc. Đối
với kẻ Phàm thì vô thường hay thường đều có khổ vì Nguyên nhân Khổ là Vô
minh và Tham ái.

5 - Thực hành Thiền Minh Sát với mục đích thấy Khổ hay thấy Khổ Diệt?
Pháp hành trong Phật giáo là để thấy Sự thật Vô Thường, Sự thật Vô Ngã là
điều không cần bàn luận. Vấn đề cần làm sáng rõ là mục đích của pháp hành là
để thấy Khổ hay để thấy Khổ diệt. Theo chủ trương thực hành Thiền Minh Sát
của một số người thì mục đích là thấy Tam Tướng: Vô thường, Khổ, Vô ngã và
như vậy họ chủ trương thấy Khổ. Vì vậy khi Thiền sinh trình pháp câu hỏi của
họ là đã thấy khổ chưa? Một số hướng dẫn Thiền sinh phải thấy cho được Thân
Tâm đang biến đổi, đang sinh diệt nên đó là khổ. Thậm chí có Thiền sư giảng
giải một vị A-la-hán thấy được sự sinh diệt liên tục nên các vị ấy cũng thấy khổ
liên tục và do vậy các vị cũng "ngán" nên các vị phải nhập vào Diệt Thọ Tưởng
định để an trú. Nếu một người không tu, họ không thấy sinh diệt họ không có
cái khổ như người tu thấy được sinh diệt là khổ như vậy, thì cách tu như vậy
chẳng có lợi ích gì. Một người bị chứng bệnh trầm cảm họ cũng thấy tất cả đều
là khổ, vì vậy họ đều có ý định kết liễu cuộc đời, đó là chứng bệnh hoang
tưởng. Thời Phật tại thế có một số vị Tỷ kheo quán thân bất tịnh nhưng do họ
hiểu sai ý nghĩa lời dạy của Phật nên họ chán ghét, ghê tởm, xấu hổ với cái thân
bất tịnh nên hàng loạt Tỷ kheo đã tự sát. Đó cũng là một chứng bệnh, bệnh
hoang tưởng. Trong Tứ Thánh Đế đã được giảng rõ: Khổ cần phải Biết (Liễu
tri), Tập cần phải đoạn, Đạo cần phải tu, Diệt cần phải chứng. Vậy thì khi thực
hành Tứ Niệm Xứ hay Thiền Minh Sát thì cũng là thực hành Bát Chánh Đạo
với mục đích là chứng ngộ và an trú Khổ Diệt. Khi lộ trình tâm Bát Chánh Đạo
khởi lên sẽ nhiếp phục lộ trình tâm Bát Tà Đạo (đối với hữu học) và Chánh
Kiến trên lộ trình Bát Chánh Đạo sẽ kinh nghiệm được không có Tham Sân Si
tức không có Nguyên nhân Khổ nên cũng không có Khổ, đó chính là kinh
nghiệm Khổ Diệt. Vì vậy thực hành Tứ Niệm Xứ hay Minh Sát Tuệ không phải
để thấy Khổ mà là để thấy Hết Khổ hay là Khổ Diệt.

Tiểu Kinh Đoạn Tận Ái là bản kinh tóm tắt lời dạy trong 45 năm của Đức Phật
bằng 5 câu mà pháp hành nằm trọn trong một câu: "Do biết rốt ráo tất cả pháp
nên bất kỳ một cảm thọ nào khởi lên, lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ, vị ấy
sống quán vô thường, sống quán ly tham, sống quán đoạn diệt, sống quán xả ly
nơi cảm thọ ấy". Quán đoạn diệt là đoạn diệt Năm thủ uẩn nghĩa là đoạn diệt
một cái Ta chủ nhân Năm uẩn, cũng có nghĩa là quán Vô ngã. Quán ly tham,
quán buông xả để thấy không có Tham Sân Si đối với cảm thọ cũng có nghĩa là
thấy Khổ Diệt. Như vậy pháp hành mục đích để thấy Vô thường, Vô ngã và
Khổ Diệt. Khi một Hành giả quán pháp với Chánh Niệm: quán vô thường, thì
sau khi thấy, nghe, cảm nhận đối tượng với cái biết Tỉnh Giác, Chánh Tư Duy
sẽ khởi lên. Chánh Tư Duy sẽ phân tích, so sánh, đối chiếu thông tin về đối
tượng được Tỉnh Giác cung cấp với những thông tin vô thường (được pháp học
lưu trong kho chứa) đã được Chánh Niệm kích hoạt. Hành vi tư duy này sẽ
phát sinh cái biết Ý thức đúng như thật gọi là Chánh Kiến, biết đối tượng đó vô
thường. Trong cái biết Chánh Kiến này cũng có mặt nội dung về sự nguy hiểm
nghĩa là đối tượng đó vô thường, nếu thích thú và nắm giữ nó thì khi nó biến
hoại, biến diệt, sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên. Với Chánh Kiến vô thường như
vậy thì Tham Sân Si không thể khởi lên. Ví như khi một người đang khát nước,
thấy một cốc nước và nếu anh ta hiểu biết cốc nước này an toàn uống vào sẽ
hết khát thì anh ta sẽ uống, nhưng nếu hiểu biết của anh ta là cốc nước có độc,
uống vào sẽ rất nguy hiểm thì anh ta sẽ không uống. Chánh Kiến vô thường
khởi lên như vậy thì lộ trình tâm sẽ dừng lại đó không diễn tiến nào tiếp theo và
Chánh Kiến cũng kinh nghiệm được lúc đó: không yêu thích, không chán ghét,
độc lập không ràng buộc, giải thoát không hệ luỵ với đối tượng được thấy,
được nghe, được cảm nhận, được nhận thức ấy. Đó chính là Khổ diệt, chính là
Giải thoát. Giải thoát này do Chánh Kiến Vô thường mà kinh nghiệm và an trú
nên gọi là Tuệ Giải Thoát.

Khi Chánh Kiến Vô thường khởi lên thì cũng kinh nghiệm ngay Giải Thoát nên
pháp này khôn g có thời gian là vậy chứ không phải Bát Chánh Đạo là nhân,
Giải Thoát là quả. Vì rằng nếu Bát Chánh Đạo là nhân, Giải Thoát là quả thì khi
Bát Chánh Đạo diệt thì Giải thoát sinh, và như vậy Giải Thoát là pháp bị chi
phối bởi thời gian, là pháp hữu vi thì không phải là giải thoát. Hành giả phải
thực hành quán Vô thường không chỉ lúc toạ thiền mà phải thực hành mọi tư
thế sao cho từ lúc thức dậy cho đến khi nằm ngủ, một dòng Chánh Kiến Vô
thường khởi lên liên tục. Dòng Chánh Kiến Vô thường liên tục nhiều ngày như
vậy mới có thể xoá bỏ Vô minh Thường kiến đã được cài đặt từ rất lâu trong
"kho chứa", mới đưa đến quả A-la-hán. Như vậy Thấy Vô thường là Thấy Khổ
Diệt chứ không phải thấy Khổ.

6 - Tam Pháp Ấn hay Tứ Pháp Ấn? Pháp Ấn là khái niệm phát sinh sau này,
còn trong Kinh điển không có khái niệm này. Pháp ấn là gì? Là những đặc điểm,
dấu hiệu để phân biệt Chánh Pháp do Đức Thế Tôn thuyết giảng với giáo pháp
không do Đức Thế Tôn thuyết giảng. Vậy những đặc điểm nào, những dấu ấn
nào để khẳng định đó là Chánh Pháp? Bốn mươi lăm năm thuyết giảng đức Phật
chỉ có nói đến hai đề mục: Lý Duyên Khởi và Tứ Thánh Đế. Lý Duyên Khởi
nói đến Sự Thật Vô Thường, Sự Thật Vô Ngã. Tứ Thánh Đế nói đến Sự Thật
Khổ, Sự Thật Nguyên Nhân Khổ, Sự Thật Khổ Diệt và Sự Thật Con Đường đưa
đến Khổ Diệt. Như vậy đặc điểm hay dấu ấn để khẳng định đó là Chánh Pháp
phải có sáu. Trong Kinh Đức Phật luôn khẳng định: Xưa nay Ta chỉ nói về Khổ
và Sự chấm dứt Khổ. Đức Phật đã nói gọn lại như vậy nên đặc điểm hay dấu ấn
của Chánh Pháp nói gọn lại là có bốn: Vô thường, Vô ngã, Khổ và Khổ diệt.
Đây gọi là Tứ Pháp Ấn. Nếu nói Tam Pháp Ấn là Vô thường, Khổ, Vô ngã thì
Giáo lý như vậy không phải là Chánh Pháp vì không có Khổ diệt mà mục đích
của Chánh Pháp là Khổ diệt.

Về mục lục

Bài 152: HẠNH PHÚC VÀ KHỔ ĐAU

Cuộc sống của con người rất đa dạng và phức tạp, con người có hiểu biết và
quan tâm tới rất nhiều vấn đề, rất nhiều lãnh vực đa dạng khác nhau. Tuy vậy
tất cả những sự hiểu biết, những sự quan tâm ấy đều đồng quy về một vấn đề
duy nhất là Hạnh phúc và Khổ đau. Cảm nhận Hạnh phúc và Khổ đau thì người
ngu và trí, Phàm và Thánh đều cảm nhận được, nhưng hiểu biết về Hạnh phúc
và khổ đau thì khác nhau và được chia làm hai loại:

- Hiểu biết không đúng sự thật về Hạnh phúc và Khổ đau được gọi là Vô minh,
vọng tưởng thuộc về kẻ Phàm.

- Hiểu biết đúng sự thật về Hạnh phúc và Khổ đau được gọi là Minh, là Trí tuệ
thuộc về bậc Thánh.

Không chỉ đối với Hạnh phúc và Khổ đau mà tất cả các sự vật và hiện tượng
(gọi là pháp) khác cũng tương tự như vậy. Ví như có một cục nước đá, khi sờ
tay vào cục nước đá, Phàm hay Thánh đều cảm nhận được lạnh. Đối với người
Phàm sau khi cảm nhận lạnh liền khởi lên hiểu biết về lạnh: lạnh này ở trong
cục nước đá (thường trú trong cục nước đá), lạnh này của cục nước đá (cục
nước đá là chủ nhân của lạnh), lạnh là thuộc tính của cục nước đá, là vật chất.
Cái hiểu biết đó của người phàm gọi là Thường kiến (thường trú) và Ngã kiến
(chủ nhân) và cái được biết thuộc về cảnh (vật). Hiểu biết của bậc Thánh về
lạnh phát sinh do quán sát sự thật: bàn tay là một nhân và cục nước đá là nhân
thứ hai. Có đầy đủ hai nhân nhưng chưa có sự tiếp xúc thì không có cái lạnh
nào cả. Có đủ hai nhân đó và có sự tiếp xúc giữa bàn tay và cục nước đá
(duyên) tức đầy đủ nhân và duyên thì sẽ phát sinh lạnh. Đây mới là cái lạnh
thực, cho dù Phàm hay Thánh đều cảm nhận cái lạnh thực này. Lạnh này do
nhân duyên mà phát sinh nên gọi là pháp duyên khởi. Lạnh này là một cảm
giác, nó là tâm chứ không phải là cảnh (vật chất). Xúc sinh cảm giác lạnh sinh,
xúc diệt cảm giác lạnh diệt. Cảm giác lạnh này sinh lên và diệt đi do duyên
xúc. Khi chưa có xúc cảm giác lạnh này không có nên nó không thường hằng,
không thường trú trong cục nước đá. Cảm giác lạnh này có tính chất vô thường
nghĩa là sinh lên rồi diệt đi không thường hằng, không thường trú ở đâu cả.
Cảm giác lạnh này do duyên xúc mà khởi lên nên nó vô chủ, có nghĩa là bàn
tay không phải là chủ nhân của cảm giác lạnh, cục nước đá không phải chủ
nhân của cảm giác lạnh, không có cái gì là chủ nhân của cảm giác lạnh. Đối với
người Phàm khởi lên “Ta lạnh” tức có một cái Ta là chủ nhân của cảm giác
lạnh, đây gọi là ngã kiến. Sự thực không có một cái Ta nào là chủ nhân của
cảm giác lạnh, cảm giác lạnh vô chủ cũng có nghĩa là vô ngã. Bây giờ trở lại
với chủ đề Hạnh phúc và Khổ đau với hai loại hiểu biết Vô minh và Minh của
Phàm và Thánh.

1. Hiểu biết của người Phàm về Hạnh phúc và Khổ đau:

- Người Phàm cảm nhận Khổ rồi khởi lên hiểu biết khổ ở nơi hoàn cảnh,
nguyên nhân của khổ là do hoàn cảnh như nghèo đói, bệnh tật, lạc hậu, thiếu
tiện nghi, áp bức bất công, thiên tai, chiến tranh… tóm lại là hoàn cảnh khó
chịu. Khổ ở trong hoàn cảnh khó chịu, thường trú trong hoàn cảnh khó chịu.
Đây chính là Thường kiến. Người Phàm khởi lên “Ta đau khổ” nghĩa là có một
cái Ta là chủ nhân của khổ, đây gọi là Ngã kiến (tiến Hán gọi là Ngã, tiếng Việt
gọi là Ta).

- Người Phàm cảm nhận Hạnh phúc rồi khởi lên hiểu biết: Hạnh phúc chính là
những hoàn cảnh tốt đẹp như: giàu có, xinh đẹp, khỏe mạnh, thành đạt, quyền
lực… Hạnh phúc thường trú trong những hoàn cảnh dễ chịu, tốt đẹp đó. Đây là
Thường kiến. Người Phàm cũng khởi lên “Ta hạnh phúc” có nghĩa có một cái
Ta (Ngã) là chủ nhân của Hạnh phúc. Đây gọi là Ngã kiến. Người Phàm cũng
khởi lên hiểu biết là chỉ có Hạnh phúc mới có thể chấm dứt được Khổ đau.
Chính vì vậy, người Phàm yêu thích Hạnh phúc, khao khát tìm cầu Hạnh phúc
(hỷ lạc) chỗ này chỗ kia như Dục, như Hữu, như Phi hữu để chấm dứt khổ.

- Khi đã hiểu Hạnh phúc và Khổ đau như vậy thì con đường chấm dứt khổ đối
với người Phàm là thay đổi hoàn cảnh tức tìm cầu những hoàn cảnh tốt đẹp, dễ
chịu để thay thế những hoàn cảnh khó chịu. Đây chính là hiểu biết về Khổ,
nguyên nhân của Khổ, sự chấm dứt Khổ (Hạnh phúc) và con đường chấm dứt
Khổ ở nơi hoàn cảnh, ở nơi sắc thanh hương vị xúc pháp trần của kẻ Phàm.
Hiểu biết như vậy được gọi là Vô minh và nó được cài đặt trong kho chứa tri
thức hiểu biết của mỗi người. Hễ sáu căn và sáu trần tiếp xúc, lộ trình tâm Bát tà
đạo khởi lên sẽ có (Tà) Niệm kích hoạt các thông tin đó lên và (Tà) Tư duy sẽ
đối chiếu, so sánh với các thông tin đó làm khởi lên cái biết ý thức (không đúng
sự thật) gọi là (Tà) Tri kiến có nội dung là Vô minh này. Và cái biết ý thức Vô
minh này sẽ chi phối toàn bộ đời sống nhân loại.

Chính vì hiểu biết Vô minh này mà:

- Khi đối diện với một đối tượng dễ chịu (Hạnh phúc) thì thích thú đối tượng đó,
đây gọi là Tham.

- Khi đối diện với đối tượng khó chịu (Khổ đau) thì chán ghét, đây gọi là Sân.
- Khi đối diện với một đối tượng trung tính (không dễ chịu không khó chịu) thì
tìm kiếm một đối tượng dễ chịu (Hạnh phúc) để thay thế đối tượng trung tính đó,
đây gọi là Si.

2. Hiểu biết của bậc Thánh về Hạnh phúc và Khổ đau:

Bậc Thánh ở đây là Đức Phật và các đệ tử chân chính của Phật. Mở đầu Trường
Bộ Kinh là bản kinh Phạm Võng, Đức Phật tuyên bố về sự giác ngộ của Ngài
như sau: “Ngài như thật tuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm
và sự xuất ly của các cảm thọ. Nhờ tuệ tri như vậy, này các Tỷ kheo, Như Lai
được giải thoát hoàn toàn không có chấp thủ”. Sự giải thoát của Đức Phật là nhờ
tuệ tri như vậy. Vậy tuệ tri sự tập khởi (sinh), sự đoạn diệt (diệt), vị ngọt, sự
nguy hiểm, sự xuất ly của Thọ là như thế nào?

a. Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ:

Sáu căn tiếp xúc với sáu trần gọi là sáu xúc gồm: Nhãn xúc, Nhĩ xúc, Tỉ xúc,
Thiệt xúc, Thân xúc, Ý xúc. Do có sáu xúc mà phát sinh sáu cảm giác hay sáu
cảm thọ gọi tắt là Thọ và sáu cái biết trực tiếp biết các cảm thọ đó:
- Nhãn xúc Cảm giác hình ảnh - Nhãn thức
- Nhĩ xúc Cảm giác âm thanh - Nhĩ thức
- Tỉ xúc Cảm giác mùi - Tỉ thức
- Thiệt xúc cảm giác vị - Thiệt thức
- Thân xúc Cảm giác xúc chạm - Thân thức
- Ý xúc Cảm giác pháp trần - Tưởng thức

Xúc sinh thời cảm giác sinh, xúc diệt thời cảm giác diệt. Khi không có xúc thì
không có thọ vì vậy thọ sinh lên rồi diệt, trước khi sinh không thường trú ở đâu
cả, khi diệt cũng không trở về thường trú ở đâu cả nên Thọ có tính chất Vô
thường, không thường hằng, không thường trú ở đâu cả. Thọ cũng vô chủ nghĩa
là Căn không phải là chủ nhân của Thọ, Trần không phải là chủ nhân của Thọ,
không có c ái gì là chủ nhân của Thọ, không có một cái Ta nào là chủ nhân của
Thọ nên Thọ là Vô ngã.

Phải phân biệt Căn và Trần tiếp xúc với nhau phát sinh ra Thọ giống như Trống
và Dùi tiếp xúc với nhau phát sinh ra Tiếng trống. Tiếng trống là khác mà Trống
và Dùi l à khác. Vì vậy nhãn thức thấy cảm giác hình ảnh (Thọ) chứ không phải
nhãn thức thấy sắc trần; nhĩ thức nghe cảm giác âm thanh (Thọ) chứ không phải
nghe thanh trần; tỉ thức cảm nhận cảm giác mùi (Thọ) chứ không phải là hương
trần, thiệt thức cảm nhận cảm giác vị (Thọ) chứ không phải vị trần, thân thức
cảm nhận cảm giác xúc chạm (Thọ) chứ không phải xúc trần; tưởng thức cảm
nhận cảm giác pháp trần (Thọ) chứ không phải pháp trần. Vậy những gì được
thấy, được nghe, được cảm nhận là các cảm giác, là Thọ, là Tâm chứ không
phải Cảnh, không phải là sắc thanh hương vị xúc pháp.

b. Tuệ tri vị ngọt

Các cảm thọ có sáu loại nhưng nếu căn cứ theo tính chất có thể chia làm ba
loại: cảm giác dễ chịu (lạc thọ), cảm giác khó chịu (khổ thọ) cảm giác trung
tính (bất khổ bất lạc thọ).

- Hạnh phúc chính là cảm giác dễ chịu hay lạc thọ. Khi cảm nhận một cảm giác
dễ chịu như một cảm giác hình ảnh đẹp, một cảm giác vị ngon, một xúc chạm
êm ái… con người thích thú các cảm giác dễ chịu đó thì đó là Hạnh phúc. Khi
thcí h thú (tham) các c ảm giác dễ chịu hay lạc thọ, thì hành vi thích thú thuộc
về nội tâm do ý tiếp xúc với pháp phát sinh nơi tế bào thần kinh não bộ nhưng
lượng thông tin này (thích thú) được lưu vào “kho chứa” cụ thể là cấu trúc
ADN của tế bào thần kinh não bộ (trong cấu trúc ADN có 20% số lượng gene
chứa thông tin di truyền còn 80% lượng gene chứa các lượng thông tin về Tâm)
và được dẫn truyền tới các tế bào trong cơ thể. Tại các tế bào nội tạng như tim,
gan, phổi, thận, ruột non, ruột già, dạ dày… sẽ có sự tiếp xúc giữa lượng thông
tin này và lượng thông tin trong tế bào của một nội tạng tương ứng làm phát
sinh một cảm giác dễ chịu. Cảm nhận Hạnh phúc chủ yếu là cảm nhận cảm giác
dễ chịu do nội xúc này gây nên. Như vậy Hạnh phúc chính là cảm giác dễ chịu
do ngoại xúc và nội xúc gây nên, nó là Tâm chứ không phải là Cảnh. Hạnh phúc
cũng vô thường, vô ngã (không có một cái Ta nào là chủ nhân của Hạnh phúc).

- Khổ đau cũng là các cảm giác khó chịu. Khi thấy, nghe, cảm nhận các cảm
giác khó chịu thì con người chán ghét, lo lắng, sợ hãi, sầu bi khổ ưu não. Những
hành vi như chán ghét, lo lắng, sợ hãi, sầu bi khổ ưu não phát sinh do ý tiếp xúc
với pháp tại các tế bào thần kinh não bộ. Những thông tin này được lưu vào
ADN của tế bào thần kinh não bộ và được truyền dẫn đến ADN của các tế bào
khắp cơ thể. Tại các tế bào nội tạng tương ứng như tim gan, phổi, thận, lá lách,
dạ dày… phát sinh một nội xúc. Do các nội xúc này mà phát sinh những cảm
giác khó chịu. Tuy các cảm giác do nội xúc này phát sinh nơi nội tạng rất vi tế
nhưng nó lại cực kỳ khó chịu. Ví như khi ngồi thiền do hai chân đè lên nhau mà
phát sinh một cảm giác đau có thể rất dữ dội, rất khó kham nhẫn đối với nó,
nhưng nếu lúc đó có một con gì đó rất nhỏ, nhỏ hơn con kiến nhỏ nhất, bò lên
mặt và do vậy phát sinh một cảm giác. Tuy cảm giác này rất nhẹ, rất vi tế
nhưng nó khó chịu hơn nhiều lần so với cảm giác đau ở nơi chân. Cũng y như
vậy khi thấy, nghe, cảm nhận một cảm giác khó chịu do ngoại xúc phát sinh thì
sau đó sẽ cảm nhận một cảm giác khó chịu rất vi tế nhưng cực kỳ ghê gớm do
nội xúc gây nên. Đây chính là cảm nhận khổ đau. Vì vậy khổ là Tâm chứ không
phải là Cảnh, khổ cũng Vô thường, Vô ngã.

Một đôi tình nhân ngoại tình đang ôm nhau say đắm. Họ cảm nhận hạnh phúc
và nghĩ rằng hạnh phúc là ở nơi thân thể của người kia (cảnh). Nếu đèn bật
sáng, người nhà hay vợ chồng của họ xuất hiện thì Hạnh phúc biến mất và Khổ
đau xuất hiện. Nếu Hạnh phúc ở nơi thân thể thì nó vẫn còn đó, nó đâu có thể
biến mất và xuất hiện đau khổ như vậy. Vậy thì Hạnh phúc và Khổ đau nó chỉ là
các cảm giác, nó là Tâm chứ không phải là Cảnh.

c. Tuệ tri sự nguy hiểm:

- Đối với kẻ phàm khi thấy, nghe, cảm nhận một Lạc thọ (hạnh phúc) thì khởi lên
thích thú (thuật ngữ Phật học gọi là Tham), do có thích thú mà muốn có được nó
và nắm giữ nó nên Ràng buộc với nó (thuật ngữ Phật học gọi là Thủ). Và như
vậy khi Lạc thọ (hạnh phúc) vô thường, biến hoại, biến diệt, mất nó đi thì sầu bi
khổ ưu não sẽ khởi lên: Lạc thọ (hạnh phúc) Ràng buộc Sầu bi khổ ưu não
(hoại khổ). Nếu thấy, nghe, cảm nhận một Lạc thọ (hạnh phúc) mà không thích
thú thì sẽ không Ràng buộc với Lạc thọ đó nên khi nó biến diệt (mất đi) sầu bi
khổ ưu não không thể khởi lên. Vì vậy thích thú, tham ái hạnh phúc chính là
nguyên nhân phát sinh đau khổ. Vì tham ái hạnh phúc mà tất cả nhân loại này
đều sợ mất đi hạnh phúc vật chất và tinh thần đó chính là đau khổ và khi mất
hạnh phúc thì lại càng đau khổ hơn.

- Hiểu biết của nhân loại là có Hạnh phúc thì mới chấm dứt được Đau khổ.
Nhưng sự thực là Hạnh phúc có thể chấm dứt được Đau khổ này nhưng nó lại
làm phát sinh một Đau khổ khác. Cho nên Hạnh phúc chỉ là thay đổi một nỗi khổ
này bằng một nỗi khổ khác mà thôi. Ví như một cô gái đã nhiều tuổi chưa có
người yêu, chưa có chồng, cô ta khổ vì cô đơn. Khi cô ta có người yêu vừa ý,
cưới làm chồng thì đó là hạnh phúc. Hạnh phúc này làm chấm dứt nỗi khổ cô
đơn nhưng nó lại là nguyên nhân phát sinh muôn vàn nỗi khổ khác của đời sống
gia đình, con cái. Tất cả nhân loại (ngoại trừ các bậc Thánh) đang sống nhằm
thỏa mãn sự đòi hỏi của thân xác, thỏa mãn sự đòi hỏi của mắt tai mũi lưỡi thân
ý, thỏa mãn sự đòi hỏi của ham muốn. Để thỏa mãn sự đòi hỏi đó phải có hạnh
phúc vật chất và hạnh phúc tinh thần. Và để có được hạnh phúc vật chất và hạnh
phúc tinh thần thỏa mãn được sự đòi hỏi đó thì không biết là bao nhiêu lao tâm
khổ trí, không biết bao nhiêu cay đắng, sầu bi khổ não khởi lên.
- Vì khao khát tìm cầu Hạnh phúc mà đời sống của nhân loại này xảy ra biết bao
thảm cảnh. Cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với cha, vợ chồng tranh đoạt
với nhau, người ta tạt a xít vào mặt nhau, người ta chế tạo và buôn bán ma túy để
đầu độc nhau, người ta chế tạo ra bom đạn kể cả bom hạt nhân để tiêu diệt nhau.
Vì khao khát và tìm cầu Hạnh phúc mà biết bao nhiêu lừa đảo, phá sản, sát sinh,
trộm cắp, tà dâm, nói dối, biết bao cuộc chiến tranh tàn sát lẫn nhau kể cả chiến
tranh tôn giáo. Nhiều kẻ nghiên cứu ra biết bao hóa chất, chất kích thích… đang
đầu độc đời sống nhân loại, đang tự hủy diệt mình. Vì khát ái tìm cầu Hạnh phúc
mà biết bao cô hoa hậu bán dâm, thậm chí đứa con trai giao cấu với mẹ đẻ của
mình, ông bố hiếp dâm đứa con gái sáu tuổi… Những thảm cảnh đó, những đau
khổ đó của nhân loại phát sinh do khát ái tìm cầu Hạnh phúc.

- Khát ái tìm cầu Hạnh phúc ở sự sống, sự hiện hữu (Hữu ái) làm phát sinh đau
khổ khi mắc một chứng bệnh nặng, khi đối diện với cái chết đặc biệt nó là
nguyên nhân phát sinh Thức tái sinh đưa đến khổ đau của luân hồi sinh tử.

- Khát ái tìm cầu Hạnh phúc ở Phi hữu (Phi Hữu ái) tức chấm dứt sự sống, sự
hiện hữu để hưởng thụ Hạnh phúc tuyệt đối nơi thiên đường cực lạc như những
kẻ cực đoan đánh bom tự sát để khi chết xong linh hồn được lên thiên đường
hưởng lạc thú với 72 tiên nữ trinh nguyên. Đây cũng là một trong những cách
“Dục hỷ Niết bàn” cũng là căn nguyên của Khổ.

Như vậy nguyên nhân của Khổ đau: “Khát ái tìm cầu hỷ lạc (Hạnh phúc) chỗ này
chỗ kia như Dục ái, Hữu ái, Phi hữu ái” như trong bài Kinh Chuyển Pháp Luân
Đức Phật đã giảng.

d. Tuệ tri sự xuất ly của Thọ

Sự đoạn trừ tham, đoạn trừ sân, đoạn trừ si đối với các cảm thọ gọi là sự xuất ly
của Thọ. Khi thực hành Tứ Niệm Xứ, lộ trình tâm Bát Chánh đạo khởi lên hành
giả sẽ kinh nghiệm được các cảm thọ sinh lên rồi diệt đi nhưng không có tham
đối với lạc thọ, không có sân đối với khổ thọ, không có si đối với bất khổ bất
lạc thọ và cũng kinh nghiệm được không có dính mắc ràng buộc với các cảm
thọ, không có khổ đau phiền não nào khởi lên. Khi các lộ trình tâm Bát chánh
đạo khởi lên liên tục không gián đoạn, Bát tà đạo được nhiếp phục, không khởi
lên thì trên các lộ trình tâm Bát chánh đạo, Chánh Tư duy khởi lên sẽ so sánh
đối chiếu lộ trình tâm Bát chánh đạo hiện tại với các lộ trình tâm Bát tà đạo (có
tham sân si, có dính mắc ràng buộc, có khổ đau phiền não xảy ra trước đây và
được lưu vào kho chứa) và phát sinh kết luận. Kết luận này chính là cái biết ý
thức, biết như thật gọi là Chánh kiến: không có tham sân si, không có ràng
buộc, không có khổ đau phiền não, hay biết như thật trên Bát chánh đạo này
vắng mặt tham sân si, vắng mặt khổ đau phiền não. Chánh kiến như vậy cũng
được gọi là Tuệ tri Khổ diệt hay Tuệ tri Niết bàn. Trong cái được tuệ tri đó (niết
bàn) chỉ là sự trống rỗng, sự không có mặt, sự vắng mặt cả Khổ đau lẫn Hạnh
phúc. Vì rằng lộ trình tâm Bát chánh đạo không có tham sân si nên những nội
xúc xảy ra nơi các tế bào nội tạng không có nên sự cảm nhận Hạnh phúc và Khổ
đau cũng đều không có mặt. Tuệ tri sự xuất ly của Thọ là biết như thật sự đoạn
trừ Tham, đoạn trừ Sân, đoạn trừ Si đối với Thọ cũng có nghĩa là tuệ tri Khổ
diệt (Niết bàn). Có thể có một thí dụ, qua thí dụ này nhiều người sẽ hình dung ra
Khổ diệt (Niết bàn) là như thế nào. Một người trước đây bị ghẻ lở, hắc lào và
khổ khởi lên vì nhân duyên đó. Khi bị khổ chi phối, người đó muốn hết khổ nên
bôi thuốc, gãi, hơ lửa… và cảm nhận hạnh phúc sung sướng khi thực hiện các
hành vi đó. Bây giờ người đó đã hoàn toàn khỏi bệnh, người đó biết rõ bây giờ
cái khổ đó đã đoạn diệt, người đó biết rõ bây giờ hoàn toàn vắng mặt cái khổ đó
và cũng biết rõ rằng trong sự vắng mặt cái khổ đó không có một thứ hạnh phúc
gì cả. Người đó cũng chỉ cần sự vắng mặt khổ như vậy mà thôi (gọi là yên ổn)
chứ không cần một thứ hạnh phúc gì để mà diệt khổ nữa. Tuệ tri Niết bàn là cái
biết ý thức Chánh kiến, biết như thật: sự trống không, sự vắng mặt cả Khổ đau
và Hạnh phúc. Kẻ phàm không tuệ tri Niết bàn, không biết như thật Niết bàn mà
với cái biết ý thức Vô minh tà kiến: “có hạnh phúc mới chấm dứt được khổ
đau” nên suy diễn Niết bàn phải là nơi có “Hạnh phúc tuyệt đối, phúc lạc toàn
vẹn, pháp hỷ sung mãn…” Tuệ tri sự xuất ly của Thọ cũng đồng thời tuệ tri
được con đường đưa đến sự xuất ly đó là Bát chánh đạo. Đây chính là tuệ tri
Diệt đế và Đạo đế.

3. Khi tuệ tri sự tập khởi, sự đoạn diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự
xuất ly của Thọ cũng có nghĩa là giác ngộ Tứ Thánh Đế.

- Khổ Đế: Khổ khởi lên theo lộ trình tâm Bát tà đạo (Năm Thủ Uẩn là khổ), khổ
là Tâm chứ không phải ở nơi hoàn cảnh.

- Tập đế: Nguyên nhân của khổ là khát ái tìm cầu hỷ lạc (hạnh phúc) chỗ này
chỗ kia như dục ái, hữu ái và phi hữu ái.

- Diệt đế: Khổ diệt nay Niết bàn là sự vắng mặt của khát ái, sự vắng mặt của cả
Khổ đau và Hạnh phúc.

- Đạo đế: Là Bát chánh đạo.

Sự giác ngộ của Đức Phật chỉ có như vậy, như đã được Ngài tuyên bố ở kinh
Phạm Võng. Tuy có vẻ đơn giản như vậy nhưng lại là pháp sâu kín, khó thấy,
khó chứng, tịch tịnh, mỹ diệu vượt qua mọi tư duy lý luận suông, tế nhị chỉ có
người trí mới có khả năng nhận hiểu. Còn quần chúng này đam mê ái dục, bị ái
dục ràng buộc nên lý Duyên khởi là một điều rất khó lãnh hội và Niết bàn, sự
chấm dứt khát ái, sự vắng mặt cả Khổ đau và Hạnh phúc cũng là một điều rất
khó lãnh hội. Đã là đệ tử của Đức Thế Tôn, hãy chú tâm vào những điều mà
Ngài đã tuệ tri, đã giác ngộ, còn nếu rời xa cái hiểu biết đúng sự thật về Khổ
Tập Diệt Đạo đi tìm một cái hiểu biết vi diệu, cao siêu, siêu việt, bất khả tư
nghì nào khác để thành Phật thì đó là đang đi tìm “lông rùa, sừng thỏ”, đó chỉ là
dục hỷ Niết bàn, cũng là căn nguyên của khổ.

Về mục lục

Bài 153: ĐÓI ĂN KHÁT UỐNG

Đây là một thành ngữ được sử dụng rộng rãi trong Thiền tông Trung Hoa và
được du nhập vào Việt nam. Rất nhiều người hiểu thành ngữ "đói ăn khát
uống" trong ngữ cảnh ăn uống, bởi họ không biết xuất xứ, không biết ngữ cảnh
của thành ngữ này. Nếu như không biết ngữ cảnh của câu nói "cửa miệng" của
Thiền tông Trung Hoa thì sẽ hiểu sai lạc thành ngữ đó, cho là nói chuyện ăn,
chuyện uống. Ví như một người bà nói với cháu khi đùa vui: cha bố mày, hoặc
khi giận giữ cũng nói: cha bố mày. Hai câu nói đó có ý nghĩa hoàn toàn trái
ngược nhau vì ngữ cảnh khác nhau.

Trong văn học Thiền Việt Nam, thành ngữ này được nhắc đến hai lần (theo sự
hiểu biết của người viết) đó là trong bài Cư Trần Lạc Đạo của Trần Nhân Tông
và trong lần gặp gỡ của Từ Đạo Hạnh với sư Sùng Phạm.

 Với Cư Trần Lạc Đạo:

“Ở đời vui đạo, mặc tuỳ duyên


Lúc đói thời ăn, mệt ngủ liền
Của báu đầy nhà thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm, chẳng hỏi thiền.”

Có thể có nhiều cách giải thích, nhiều cách hiểu ý nghĩa của đoạn thơ này tuỳ
theo hiểu biết và kinh nghiệm riêng của mỗi người, nhưng ý nghĩa thật sự của
bài thơ thì chỉ Trần Nhân Tông mới biết. Sau đây là một lý giải về bài thơ đó.
"Ở đời vui đạo" là một công thức sống, một triết lý sống rất cao đẹp. Đời là bể
khổ, đời vui ít khổ nhiều, não nhiều mà sự nguy hiểm lại càng nhiều hơn, cái
vui của đời chỉ là phù du giả tạm, không thể vui với cái vui ấy. Vậy thì hãy tìm
niềm vui trong sự tu hành, vui ấy mới là cái vui cao thượng. Đây là một triết lý
sống cao thượng, hãy tuân thủ và tôn sùng triết lý cao thượng ấy, hãy gắn chặt
cuộc sống của mình vào triết lý cao thượng ấy. Nhưng câu trả lời của bài thơ
này là Không. Bởi một triết lý, một lý tưởng, một hệ tư tưởng có cao đẹp, có
hoàn hảo bao nhiêu đi nữa vẫn là sản phẩm sáng tạo của bộ óc con người với cái
hiểu biết một chiều, phiến diện, cực đoan và sai sự thật, và vì vậy chính cái triết
lý đó, cái lý tưởng, hệ tư tưởng cao đẹp đó sẽ trói buộc con người, chính con
người tự giam hãm mình bằng chính cái tự mình tạo nên. Triết lý, lý tưởng, hệ
tư tưởng càng cao đẹp bao nhiêu thì càng trói chặt con người bấy nhiêu. Nguyên
bản tiếng Hán là: “Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên”. Thả có nghĩa là thả ra, buông
ra nghĩa là mặc kệ nó, không màng đến cái triết lý cao siêu kia. Vậy phải sống
như thế nào? Phải tuỳ duyên nghĩa là phải thich nghi với mọi hoàn cảnh dễ chịu
cũng như khó chịu. Thích nghi cũng có nghĩa là không yêu thích, không chán
ghét bất kỳ một hoàn cảnh nào, bình thản với mọi hoàn cảnh. Khi đối diện với
hoàn cảnh mà tâm thích nghi, không yêu thích (không có Tham), không chán
ghét (không có Sân) bình thản thì sẽ rất bình an, đó chính là hết Khổ. Nhưng
phải sống tuỳ duyên như thế nào? Sự tuỳ duyên phải xảy ra một cách "Tự nhiên
như nhiên " không cần nỗ lực cố gắng như là đói thì ăn, khát thì uống, mệt thì
nghỉ không cần một cố gắng nỗ lực nào hết. Vậy thì câu: “Lúc đói thì ăn mệt
ngủ liền” là bổ ngữ cho hai chữ “tuỳ duyên”, nói lên phải đạt được tuỳ duyên
một cách tự nhiên như nhiên chứ ý nghĩa của nó không phải là ăn gì hay ăn như
thế nào.

“Của báu đầy nhà thôi tìm kiếm” ý nói: một người đã sống tuỳ duyên được như
vậy thì đã hết Khổ, người đó không cần bất cứ một cái gì khác nữa. Đối với
người Phàm cho rằng phải có nhiều của báu, vì của báu sẽ làm cho họ hết Khổ
và do vậy họ khát khao tìm cầu của báu. Đối với người đã hết Khổ, họ sẽ không
còn tìm của báu nữa.
“Đối cảnh vô tâm chẳng hỏi thiền”. Câu này thì hoàn toàn mơ hồ không thể biện
minh được. Vô tâm hay là không có tâm chỉ xảy ra khi người đó ngủ say không
mộng mị, gây mê sâu khi mổ hoặc ngất đi trong một tai nạn, còn ngoài các
trường hợp đó ra, đối cảnh nhất định là có thấy, có nghe, có cảm nhận, có nhận
thức nghĩa là có tâm chứ không thể vô tâm. Các bậc Giác Ngộ có lộ trình tâm
Bát Chánh Đạo, khi đối cảnh các vị thấy nghe, cảm nhận với cái biết Tỉnh Giác,
vẫn có Chánh Tư Duy, Chánh Kiến ,Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng.
Đối với chư vị không có Tâm Tham, Tâm Sân, Tâm Si, không có Tâm Khổ mà
thôi. Lúc không có Tham Sân Si Khổ thì đang ở trong Bát Chánh Đạo, đang ở
trong Chánh Định thì đâu còn hỏi thiền nọ với thiền kia. Vô tâm phải được hiểu
là không có tâm Tham, tâm Sân, tâm Si.

 Với Từ Đạo Hạnh và sư Sùng Phạm:

Từ Đạo Hạnh vân du tìm kiếm một bậc cao minh chỉ giáo, hầu giải quyết nghi vấn
của mình. Gặp vị nào ông cũng chỉ dùng một bài kệ để hỏi Đạo:
“Lẩn trong bụi đời tự bấy lâu
Chân Tâm vàng ngọc biết tìm đâu
Cúi xin chỉ rõ bày phương tiện
Thấy được Chân như sạch khổ sầu.”

Ông đã gặp nhiều vị cao tăng nhưng không ai giải quyết được cho ông cái nghi
vấn ấy. Đến một ngày ông gặp sư Sùng Phạm và dùng kệ để hỏi thì Sùng Phạm
quắc mắt lên và hỏi lại: “Thế cái gì không phải là Chân tâm?” Hốt nhiên Đạo
Hạnh tỏ ngộ, sụp xuống lạy và hỏi: “Làm thế nào để giữ gìn?” Sùng Phạm trả
lời: “Đói ăn khát uống.” Đoạn văn này có thể lý giải như sau: Từ Đạo Hạnh vân
du tìm thầy hỏi đạo với một mối nghi đã kết khối, một nghi tình làm ông không
ăn ngủ được vì nó. Đó là "Chân Tâm là cái gì"? Câu hỏi này chiếm cứ tâm ông
đến nỗi ông không còn quan tâm tới bất cứ cái gì trên đời, mà chỉ xoay quanh,
hay trực chỉ nghi tình để phá vỡ nó. Nhân sự quắc mắt và lặp lại câu hỏi của sư
Sùng Phạm mà hốt nhiên khối nghi tình đột nhiên rơi rụng, và ló rạng một
khoảng "lặng". Khoảng "lặng" đó chính là Xả, nó đầy bình an. Đã bao lâu ông
khổ sở vì chỉ duy nhất một mối nghi tình đó, những cái khác ông không quan
tâm, đã buông xả, nay thì cái ràng buộc cuối cùng cũng được cắt đứt. Đó cũng
chính là Giải Thoát và Từ Đạo Hạnh tỏ ngộ là tỏ ngộ cái giây lát có khoảng
lặng, tức là Tâm Xả ấy chứ không phải hiểu ra Chân Tâm là gì. Rồi khoảng lặng
ấy biến mất, vì vậy Từ Đạo Hạnh mới hỏi: Làm thế nào để giữ gìn (cái khoảng
lặng ấy)? Sùng Phạm trả lời: “Đói ăn khát uống”, nghĩa là nó phải xảy ra một
cách tự nhiên như nhiên như là đói ăn khát uống.

Thiền tông Trung Hoa đã dùng rất nhiều phương cách, sáng tạo ra rất nhiều thủ
thuật để giúp Thiền sinh có được khoảng lặng và kinh nghiệm khoảng lặng đó.
Đặc biệt là các công án, nó tạo ra một khối nghi tình và Thiền sinh đau khổ, vật
vã với khối nghi đó, toàn bộ cuộc sống của họ hoà làm một với khối nghi, mọi
chuyện khác đều được dẹp bỏ, không dính mắc, không ràng buộc. Khi khối
nghi lên đến đỉnh điểm thì hoặc phát điên (nếu thần kinh yếu) hoặc là tự động
rơi xuống. Lúc đó xuất hiện khoảng lặng, đó chính là buông xả khối nghi tình,
cũng là buông xả tất cả (những cái khác đã buông trước đó), đây là Xả, một
trạng thái bình an, hết Khổ. Nó là một trạng thái khác hẳn trước đó, đầy nghi
ngờ, căng thẳng khổ sở nên Thiền sinh sẽ cảm nhận nó đầy cảm hứng. Trạng
thái này kéo dài bao lâu thì tuỳ thuộc vào nghi, nghi lớn ngộ lớn, nghi nhỏ ngộ
nhỏ nghĩa là ngộ lớn hay nhỏ là thời gian của khoảng lặng đó kéo dài bao lâu.
Trạng thái Xả này cũng có thể xảy đến một cách tự nhiên không cần công án.
Ví như khi một người đàn bà đau đẻ, lúc đó cơn đau quá lớn chi phối toàn bộ
tâm nên họ chỉ chú tâm trên cơn đau, nỗ lực chịu đựng cơn đau, mọi thứ còn lại
dường như không tồn tại nên khi đứa con tụt ra, cơn đau cùng với sự nỗ lực
cũng chấm dứt. Lúc ấy khoảng "lặng" xuất hiện đầy bình an vắng mặt khổ đau.
Đó cũng chính là Xả, là giải thoát, nhưng nó chỉ tồn tại trong 5 đến 10 giây gì
đó thôi. Trong cuộc sống của đời thường khi có một việc làm gì phải cố gắng
quá sức, khi kết thúc nó thì cũng có một khoảng lặng nhỏ tương tự xảy ra.

Khái niệm ngộ của Thiền tông là kinh nghiệm trạng thái Xả và kinh nghiệm này
chỉ tồn tại trong những khoảng khắc ngắn ngủi nên câu hỏi được đặt ra là làm
thế nào để giữ gìn, sống thường xuyên với trạng thái Xả ấy. Các vị Tổ trả lời
không thể có cố gắng nỗ lực mà giữ được, mà phải tự nhiên như nhiên như là
đói ăn khát uống vậy. Tuy câu này trở thành một thành ngữ, một câu nói cửa
miệng của Thiền tông nhưng vẫn là một thách đố: làm thế nào để nó khởi lên tự
nhiên như nhiên như là đói ăn khát uống. Không có một diễn giảng, một phân
tích, một hướng dẫn thực hành nào được nói lên. Vì thế các vị Tổ Thiền tông
cũng chỉ dùng từ Ngộ chứ không có ai nói Giác Ngộ. Nổi tiếng như Triệu Châu
ngộ lớn, ngộ nhỏ trên dưới 20 lần nhưng rõ ràng chưa sống được thường xuyên
với trạng thái Xả ấy, nên mới ngộ đi ngộ lại như vậy. Chính vì không sống
được thường xuyên với trạng thái Ngộ ấy nên Thiền tông mới tuyên bố: “Lý tuy
đốn ngộ, sự phải tiệm tu.”

Trạng thái Xả mà Thiền tông Trung Hoa kinh nghiệm do các thủ thuật mà có
được, không có con đường, không có một phương pháp, một định luật phổ quát
để đạt được và an trú lâu dài, nó là kinh nghiệm cá nhân không phải là sự thật
phổ quát. Xả đó cũng giống như Xả của Tam thiền và Tứ thiền nhưng Xả của
Tam thiền và Tứ thiền lại có phương pháp, nếu tu tập đúng lời dạy của Đức Thế
Tôn thì bất kỳ ai cũng có thể chứng ngộ và an trú bao lâu tuỳ theo ý muốn vì thế
Xả của Tam thiền và Tứ thiền là Sự Thật phổ quát, là Chân Lý chứ không phải
kinh nghiệm cá nhân. Xả của Tam thiền hoặc Tứ thiền có thể an trú liên tục và
bao lâu thời gian tuỳ theo ý muốn nhưng nó phải do tu tập Chánh Định mới
chứng ngộ và an trú, chưa phải khởi lên một cách tự nhiên như nhiên.
Có một Xả còn cao hơn Xả của Tứ thiền đó là Xả trong Xả Giác Chi, là Giải
Thoát viên mãn nhất. Xả này phát sinh do Chánh Kiến là Trí Tuệ trong lộ trình
tâm Bát Chánh Đạo, theo lộ trình Văn Tư Tu. Khi Chánh Kiến được tu tập, được
làm cho viên mãn bao gồm: Hiểu biết như thật về Duyên khởi, về Vô thường, Vô
ngã, về Khổ Tập Diệt Đạo thì buông xả (Xả) sẽ xảy ra một cách tự nhiên như
nhiên như là đói ăn khát uống vậy. Ví như có một người đi đường nhìn thấy một
bao ni lông đen bóng mượt, căng phồng, buộc chặt đặt ở ven đường vắng vẻ
không ai qua lại. Người này dừng lại tò mò tự hỏi: không biết là của ai, trong đó
có gì nhỉ? Càng nhìn sự tò mò càng tăng thêm, muốn biết nó đựng cái gì càng
tăng trưởng và do không thấy có ai, anh ta mở ra xem thử. Hồi hộp chờ đợi
nhưng khi mở ra thấy chỉ là rác rưởi dơ thối người ta quăng bỏ thì anh ta mới bỏ
đi không ngoái đầu nhìn lại. Cũng y như vậy khi Thấy biết như thật Duyên khởi,
Thấy biết như thật Tứ Thánh Đế thì sự buông xả cũng xảy ra như vậy, một cách
tự nhiên như nhiên như đói ăn khát uống.

Về mục lục

Bài 154: NĂM UẨN VÀ NĂM THỦ UẨN

1 - Năm uẩn

Năm uẩn và Năm Thủ uẩn là những thuật ngữ Phật học nói về hai khái niệm
phổ thông trong Phật học, nhưng phần đông hiểu nó một cách mơ hồ trừu
tượng. Đa phần cho nó như năm thành tố kết hợp với nhau để tạo thành một
chúng sinh giống như cột, kèo, rui, mè, ngói... kết hợp với nhau để tạo thành
một căn nhà. Năm uẩn là Thực tại của mỗi chúng sinh, cũng là tất cả pháp của
một người (Danh và Sắc) được chia thành Năm nhóm: Sắc Thọ Tưởng Hành và
Thức mà tiếng Hán gọi là Sắc uẩn, Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn, Thức uẩn.
Đối với một người ngủ say không mộng mị, gây mê sâu khi mổ, ngất đi trong
một tai nạn lúc đó vẫn có Sắc, tức thân thể đang sống nhưng sáu căn không hoạt
động và Danh là lượng thông tin tri thức, hiểu biết, kinh nghiệm học hỏi tích
luỹ được lưu trong "kho chứa". Trong các trường hợp này không có Thọ Tưởng
Hành Thức. Khi một người thức tỉnh, sáu căn tiếp xúc sáu trần phát sinh sáu
cảm thọ và sáu cái biết trực tiếp biết như thật sáu cảm thọ ấy. Đó là: Cảm thọ
hình ảnh, Cảm thọ âm thanh, Cảm thọ mùi, Cảm thọ vị, Cảm thọ xúc chạm,
Cảm thọ pháp trần và Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức và
Tưởng thức. Sáu cái biết trực tiếp này chính là thấy, nghe, cảm nhận đối tượng
(sáu cảm thọ) gọi là nhận thức cảm tính. Tiếp đến Tư duy khởi lên tìm hiểu đối
tượng, tư duy sẽ phân tích, so sánh, đối chiếu thông tin về đối tượng được nhận
thức cảm tính cung cấp với những thông tin về tri thức hiểu biết đã tích luỹ
trong "kho chứa". Nhưng không thể nào đối chiếu với tất cả lượng thông tin
khổng lồ này nên phải có Niệm kích hoạt, dò tìm thông tin cần thiết để đối
chiếu (niệm nói nôm na là trí nhớ). Niệm và Tư duy như vậy sẽ phát sinh cái
biết Ý thức biết đối tượng đó là cái gì, dễ chịu, khó chịu hay trung tính. Do có
cái biết Ý thức như vậy mới phát sinh thái độ Thích hay Ghét (Tham hay Sân)
đối với đối tượng Dễ chịu hay Khó chịu hoặc tìm kiếm một đối tượng Dễ chịu
để thay thế đối tượng trung tính (gọi là Si). Đối với trường hợp Tham và Sân sẽ
tiếp tục phát sinh hành vi chú tâm vào đối tượng (gọi là Định) và khởi lên
mong muốn có được đối tượng hoặc xa lánh đối tượng (gọi là Dục). Có Dục
như vậy sẽ phát sinh nỗ lực cố gắng để đạt được Dục (gọi là Tinh Tấn). Tiếp
đến sẽ tác ý làm phát sinh lời nói, hành động để đạt được Dục và do vậy mà
phát sinh Khổ thân và Khổ tâm. Lộ trình kết thúc tại đây nhưng một Xúc khác
lại phát sinh và một lộ trình tương tự lại tiếp diễn... Đây là Thực tại của người
Phàm và đây cũng là Tất Cả Pháp bao gồm Danh và Sắc. Sơ đồ của lộ trình này
gọi là Bát Tà Đạo như sau:

Xúc Thọ - Tưởng Tà Niệm Tà Tư Duy Tà Tri Kiến (Ý thức) Tham


Sân Si Tà Định Dục Tà Tinh Tấn Phi Như Lý tác ý Tà ngữ Tà nghiệp
Tà mạng Sầu bi khổ ưu não Sinh Già Bệnh Chết.

Toàn bộ Thực tại hay toàn bộ Danh và Sắc này có thể được chia làm năm nhóm
Sắc Thọ Tưởng Hành Thức cho dễ gọi, dễ diễn tả và thuật ngữ Hán Việt gọi là
Năm Uẩn.

- Nhóm Sắc bao gồm: sáu căn và năm trần cụ thể là Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân
Ý và Sắc trần, Thanh trần, Hương trần, Vị trần, Xúc trần.

- Nhóm Thọ bao gồm sáu thọ: Cảm thọ hình ảnh, Cảm thọ âm thanh, Cảm thọ
mùi, Cảm thọ vị, Cảm thọ xúc chạm và Cảm thọ pháp trần.

- Nhóm Tưởng bao gồm sáu cái biết trực tiếp giác quan: Nhãn thức, Nhĩ thức,
Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức và Tưởng thức.

- Nhóm Hành bao gồm: Tà Niệm, Tà Tư duy, Tham Sân Si, Tà Định, Dục, Tà
Tinh Tấn, Phi như lý tác ý, Tà ngữ Tà nghiệp Tà mạng, Khổ.

- Nhóm thức chính là Ý thức (Tà Tri Kiến)

a - Năm uẩn vô thường: Tất cả các pháp thuộc Năm uẩn do duyên Xúc mà
phát sinh theo Lý Duyên Khởi: Hai nhân tiếp xúc với nhau cùng diệt mới phát
sinh quả (nhân diệt quả sinh) ví như gói thuốc nhuộm đỏ và chậu nước trong
tiếp xúc với nhau rồi cùng diệt đi mới phát sinh chậu thuốc nhuộm đỏ, hay một
bì thóc giống tiếp xúc với đám ruộng được cày bừa kỹ, sau vài ba ngày phát
sinh ruộng mạ, khi đó bao thóc và thửa ruộng được cày bừa kỹ đã diệt, cũng tại
đó khi ruộng lúa có bông xuất hiện thì ruộng mạ diệt, khi bao thóc xuất hiện
(gặt) thì ruộng lúa có bông diệt, khi bao thóc đó diệt (xay xát) thì bao gạo mới
phát sinh...

- Căn Trần tiếp xúc rồi cùng diệt sẽ phát sinh Thọ - Tưởng (cùng Căn Trần
mới), Thọ - Tưởng diệt Tà Niệm sinh, Tà Niệm diệt Tà Tư Duy sinh, Tà tư Duy
diệt Tà Tri Kiến sinh, Tà Tri Kiến diệt Tham Sân Si sinh... Như vậy đây là lộ
trình sinh diệt theo thứ lớp, tuần tự chứ không phải tất cả cùng sinh lên rồi cùng
diệt đi. Và như vậy Tâm là một phạm trù bao gồm nhiều Danh pháp đang sinh
lên rồi diệt đi liên tiếp nhau và tại một thời điểm chỉ có một Danh pháp duy
nhất. Thí dụ như tại thời điểm có Tà Định thì những gì đằng trước nó (như Tà
Tri Kiến, Tham Sân Si chẳng hạn) đã diệt và những Danh pháp đằng sau nó
chưa sinh nên chỉ có Tà Định là duy nhất không có một Danh pháp nào khác
nữa và rồi Tà Định diệt, Dục sinh lên cũng duy nhất y như vậy. Như vậy Năm
uẩn là một lộ trình sinh diệt theo tuần tự: Sắc Thọ Tưởng Hành Thức Hành chứ
không phải là năm yếu tố cùng đồng thời tồn tại cấu thành một chúng sinh.
Thấy Pháp sinh diệt là thấy sự sinh diệt của Năm uẩn. Pháp Cú có nói:

“Ai sống một trăm năm


Không thấy Pháp sinh diệt
Không bằng sống một ngày
Thấy được Pháp sinh diệt.”
- Lộ trình sinh diệt của Bát Tà Đạo cũng là lộ trình sinh diệt của Năm uẩn và nó
không xảy ra nhất nhất giống nhau mà nó có thể kết thúc ở một chỗ nào đó. Có
những lộ trình kết thúc ở Tưởng, có lộ trình ở Ý thức, có lộ trình ở Dục... tuỳ theo
Xúc tiếp theo như thế nào. Trong ba trường hợp, ngủ say không mộng mị, gây mê
sâu khi mổ, ngất đi trong tai nạn thì không có lộ trình tâm nào hết, biểu hiện là
không có cái biết nào hết, vì lúc đó các Căn ngưng hoạt động nên không có Xúc.
b - Năm uẩn vô ngã: Khi một Danh pháp trong Năm uẩn sinh lên thì chỉ trơ trọi
một mình nó nên nó độc lập, không có bất kỳ pháp nào sở hữu, chủ nhân nó. Vì
vậy nó vô chủ cũng có nghĩa không có một cái Ta nào là chủ nhân của nó nên nó
vô ngã.

2 - Năm Thủ uẩn

Vì không biết như thật Năm uẩn vô thường, vô ngã nên kẻ Phàm chấp thủ một
cái Ta là chủ nhân của Năm uẩn làm khởi lên Năm Thủ uẩn. Đó chính là Tà Tri
Kiến là Ý thức Vô minh trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo khởi lên:

- Sắc này là của Ta, là Ta: Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân Ý là của Ta, là Ta. Nhà của
Ta, xe của Ta, con của Ta, đất nước của Ta, quả đất của Ta... Những tư tưởng
đó chính là Sắc Thủ uẩn.

- Thọ này là của Ta, là Ta, như: Ta đau, Ta ngứa, Ta đói, Ta hạnh phúc, Ta
đau khổ ... Những tư tưởng đó là Thọ Thủ uẩn.

- Tưởng này là của Ta, là Ta, như: Ta thấy, Ta nghe, Ta ngửi, Ta nếm, Ta xúc
chạm... Những tư tưởng đó chính là Tưởng Thủ uẩn.

- Hành này là của Ta, là Ta: Ta tư duy, Ta nhớ nghĩ, Ta nói, Ta làm, Ta muốn,
Ta nỗ lực... Những tư tưởng như vậy là Hành Thủ uẩn.

- Ta nhận thức, Ta hiểu biết, hiểu biết này là của Ta. Đây là Thức Thủ uẩn.

Như vậy Năm Thủ uẩn chính là Tà kiến không có thật như “lông rùa sừng
thỏ”, như “hoa đốm hư không” do mắt nhặm tạo ra. Tất cả kẻ Phàm đang sống
với Năm Thủ uẩn, sống với cái không có thật, sống với “lông rùa sừng thỏ”.
Năm uẩn tuy vô thường, vô ngã nhưng nó có thật nên Năm uẩn không thể là
Không mà chính Năm Thủ uẩn mới không có thật, mới là Không. Năm Thủ
uẩn sẽ khởi lên Khổ nên nói Năm Thủ uẩn là Khổ, Năm Thủ uẩn là gánh
nặng. Quán đoạn diệt tức là đoạn diệt Năm Thủ uẩn, đoạn diệt chấp thủ một
cái Ta (Bản Ngã) là chủ nhân, chủ sở hữu Năm Uẩn.

Về mục lục

Bài 155: CHẤP NGÃ TỪ ĐÂU SANH?

Các Pháp đều Vô Ngã, nghĩa là các Pháp vô hộ, vô chủ, vô sở hữu, nghĩa là
không có bất kỳ một cái gì bảo hộ, chủ nhân, chủ sở hữu pháp đó, cũng có nghĩa
là không có một cái Ta nào là chủ nhân, chủ sở hữu pháp đó nên gọi là Vô Ngã
(tiếng Việt gọi là Ta, tiếng Hán gọi là Ngã). Đây là sự thật không phải Đức Phật
sáng tạo ra mà là Đức Phật phát hiện ra. Sự thật vô ngã sẽ được mỗi người tự
biết khi quán sát Lý Duyên Khởi: Hai nhân tiếp xúc với nhau rồi cùng diệt mới
phát sinh quả. Quả ấy phát sinh do hai nhân tiếp xúc với nhau (duyên Xúc) mà
phát sinh nên gọi là Pháp duyên khởi. Ví như gói thuốc nhuộm đỏ tiếp xúc với
chậu nước trong rồi cả hai cùng diệt và phát sinh chậu thuốc nhuộm đỏ. Chậu
thuốc nhuộm đỏ lúc này không có quan hệ gì với hai nhân đã diệt, nó độc lập, vô
chủ, vô sở hữu. Tiếp đến chậu thuốc nhuộm đỏ tiếp xúc với cái áo trắng và cả hai
cùng diệt phát sinh cái áo đỏ và một chậu thuốc nhuộm đỏ mới khác. Đối với lúc
này, cái áo trắng và chậu thuốc nhuộm là hai nhân bình đẳng nhau, không nhân
nào là chính, không nhân nào là phụ và giữa chúng không có cái nào là chủ nhân
của cái nào, không cái nào sở hữu cái nào mà chỉ là chúng tương tác với nhau
(Xúc) rồi cùng diệt. Như vậy quán sát theo thời gian và không gian chậu thuốc
nhuộm đều vô chủ, vô sở hữu (vô ngã). Các Sắc pháp đều phát sinh theo Duyên
khởi như vậy và các Danh pháp cũng phát sinh tương tự. Ví như có viên đường
và lưỡi là hai nhân khi tiếp xúc với nhau thì cả hai cùng diệt và phát sinh cảm
giác vị ngọt (lưỡi cũ "diệt" lưỡi mới "sinh"). Cảm giác vị này là Danh pháp nó
hoàn toàn vô chủ, vô sở hữu, không có cái Ta nào chủ nhân của nó, sở hữu nó,
điều khiển nó, có thể kéo dài nó ra được nên nó Vô ngã. Tất cả các Sắc pháp và
Danh pháp được chia làm năm nhóm Sắc Thọ Tưởng Hành Thức hay Năm Uẩn
đều là Pháp duyên khởi và đều có tính chất Vô Ngã.

Đối với kẻ Phàm, hiểu biết của họ là có một cái Ta (Ngã) là chủ nhân, chủ sở
hữu của Năm Uẩn và họ sống với hiểu biết: Ta thấy, Ta nghe, Ta cảm nhận, Ta
nhận thức, Ta đói, Ta no, Ta nói năng, Ta hành động, Ta hạnh phúc, Ta khổ đau,
Ta tạo nghiệp, Ta gặt hái quả của nghiệp, nhà của Ta, xe của Ta, đất nước của
Ta, cuộc sống của Ta, quả đất của Ta... Hiểu biết đó gọi là Năm Thủ Uẩn. Khi
sống với hiểu biết có một cái Ta như vậy thì xung đột sẽ xảy ra. Mẹ nghĩ con là
của Ta thì mẹ sẽ thương yêu, săn sóc, lo lắng cho con nhưng Ta sẽ điều khiển
con, con phải nghe và làm theo Ta. Nhưng con cũng nghĩ mẹ là của Ta, Ta sẽ
chăm sóc, thương yêu, phục vụ mẹ nhưng mẹ phải nghe Ta, mẹ phải làm theo Ta,
Ta điều khiển mẹ. Và như vậy hai cái Ta đó điều khiển nhau và xung đột phải
xảy ra. Nguyên nhân của sự xung đột trong một gia đình, trong một gia tộc, trong
một đất nước, trong một tôn giáo, hay giữa các gia đình, giữa các gia tộc, giai
cấp, quốc gia, tôn giáo chính do chấp vào cái Ta, cái Bản Ngã này. Cuộc sống
của con người xoay quanh cái Ta đó, vinh danh cái Ta đó, phục vụ, bảo vệ cái Ta
đó, và đặc biệt là tìm cầu hạnh phúc cho cái Ta ấy. Chính sự khao khát tìm cầu
hạnh phúc (hỷ lạc) chỗ này chỗ kia như Dục Lạc (gọi là Dục hỷ Dục lạc), như ở
sự sống, sự Hiện Hữu (Gọi là Dục hỷ Hữu), như ở Niết bàn (gọi là Dục hỷ Niết
bàn) chính là Nguyên nhân phát sinh Khổ nên kinh nói: Năm Thủ Uẩn là khổ,
Năm Thủ Uẩn là gánh nặng.

1 - Năm Uẩn vốn vô ngã, vậy chấp ngã như vậy từ đâu sanh?

Đức Phật đã giảng điều này trong bài Kinh Pháp Môn Căn Bản, bản kinh số
một của Trung Bộ Kinh. Nội dung của Kinh đề cập đến cái biết của bốn hạng
người là: Phàm phu, Hữu học, A-la-hán và Như Lai. Đối với cái biết của Phàm
phu, Đức Phật đã giới thiệu cái biết với rất nhiều đối tượng nhưng xảy ra theo
cùng một kiểu: kẻ Phàm phu tưởng tri địa đại là địa đại, do tưởng tri địa đại là
địa đại, người ấy nghĩ đến địa đại, người ấy đối chiếu tự ngã với địa đại, người
ấy nghĩ địa đại là của ta, người ấy nghĩ ta là địa đại, dục hỷ địa đại. Vì sao vậy?
Ta nói rằng người ấy không liễu tri địa đại. Ý nghĩa của đoạn kinh này như sau:
Sau khi thấy, nghe, cảm nhận đối tượng (tức biết đối tượng với cái biết Trực
tiếp giác quan hay Nhận thức cảm tính) thì tư duy tìm hiểu đối tượng khởi lên
(nghĩ đến địa đại). Tư duy tìm hiểu sẽ phát sinh cái biết Ý thức có nội dung: Ta
biết đối tượng (đối chiếu tự ngã với địa đại) đây là Ngã kiến, đối tượng là của
Ta, là Ta (địa đại là ta, là của ta) đây là Ngã sở kiến và có một nội dung nữa là
Ta hơn, kém hay bằng đối tượng (đối chiếu tự ngã với địa đại) gọi là Ngã mạn
tuỳ miên. Đây là cái biết Ý thức nhị nguyên có chủ thể biết là một cái Ta có nội
dung mà Kinh thường đề cập là Ngã kiến, Ngã sỡ kiến, Ngã mạn tuỳ miên. Cái
Ta này xuất hiện khi Tư duy về các đối tượng được thấy, nghe, cảm nhận. Hãy
quán sát tỉ mỉ hơn về lộ trình này. Trước tiên hãy hiểu về Pháp trần. Mỗi một
người phải có một "kho chứa" lượng thông tin về những cái đã biết trong quá
khứ vì nếu lượng thông tin đó không được lưu lại thì không thể nhớ gì về quá
khứ được. Ví như một người chưa từng học đi xe đạp, chưa có kinh nghiệm đi
xe đạp thì nếu bây giờ đã 80 tuổi nhưng vẫn khoẻ mạnh ngồi lên xe đạp không
thể nào điều khiển đạp xe đi được. Nếu một người lúc nhỏ đã đi xe đạp thành
thạo bỏ đi 60 năm không đạp xe, bây giờ nếu còn khoẻ mạnh người đó vẫn đạp
xe đi như thường. Điều này chứng tỏ kinh nghiệm đi xe đạp phải được lưu giữ
trong kho chứa không hề mất. Một đứa trẻ lúc mới đẻ không biết to nhỏ xanh
vàng đỏ trắng mặn ngọt chua cay, chưa biết nói, chưa biết chữ... nó phải học hỏi
và những thông tin đó được lưu vào kho chứa. Những thông tin trong kho chứa
bao gồm những tri thức, kinh nghiệm, thói quen, tính cách, đam mê... đặc biệt là
những hiểu biết không đúng sự thật về vô thường, vô ngã, không đúng sự thật
về Khổ Tập Diệt Đạo gọi là Vô Minh, những tư tưởng ta, của ta như thân này,
tâm này, mắt tai mũi lưỡi thân ý này là của ta, là ta, nhà của ta, xe của ta, quê
hương ta, đất nước ta, quả đất ta... Lượng thông tin này gọi là Pháp trần là đối
tượng của Ý căn được lưu giữ trong một kho chứa tương tự như ổ cứng máy vi
tính. Những gì được thấy nghe, cảm nhận, nhận thức đều được lưu vào kho
chứa. Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần phát sinh sáu loại cảm giác (cảm thọ) và sáu
cái biết trực tiếp biết như thật sáu cảm thọ ấy. Đó là nhãn thức (thấy), nhĩ thức
(nghe), tỉ thức, thiệt thức, thân thức, tưởng thức (cảm nhận) là cái biết không tri
thức, khái niệm, không phân biệt đối đãi, không ngôn từ chế định. Cái biết này
giống như một đứa trẻ mới đẻ tức thì nó vẫn thấy, nghe, cảm nhận đối tượng
nhưng không biết đó là cái gì nên sau đó tư duy khởi lên để tìm hiểu đối tượng.
Tư duy là hành vi phân tích, so sánh, đối chiếu lượng thông tin do cái biết trực
tiếp cung cấp với lượng thông tin trong kho chứa và sẽ phát sinh kết luận cái đó
là cái gì, chính cái biết đó là Ý thức. Nhưng vì lượng thông tin trong kho chứa
quá lớn không thể nào đối chiếu với tất cả được nên sẽ có một hành vi dò tìm,
tìm kiếm lượng thông tin cần thiết cho tư duy. Hành vi đó theo từ Hán Việt là
Niệm tương tự như trên mạng, lượng thông tin khổng lồ được lưu giữ trong các
máy chủ khi một người cần tìm một thông tin ấn Tìm kiếm thì công cụ dò tìm
sẽ làm việc và máy sẽ cung cấp thông tin đó. Lộ trình được diễn tả bằng sơ đồ:
Xúc Thọ (Cảm giác) - Tưởng Niệm Tư Duy Ý Thức.

Trong sơ đồ này Thọ là sáu cảm giác và Tưởng là sáu cái biết trực tiếp biết như
thật các cảm thọ đó. Ví như mắt tiếp xúc với Sắc trần (ti vi) phát sinh cảm giác
hình ảnh và nhãn thức, nhãn thức thấy hình ảnh nhưng không biết đó là cái gì,
Niệm sẽ kích hoạt các loại hình ảnh được lưu trong kho chứa, nếu trước đây đã
từng thấy và biết hình ảnh tương tự, thì tư duy đối chiếu và kết luận, đây là cái ti
vi. Nếu trước đó chưa từng thấy ti vi thì niệm và tư duy sẽ kết luận không biết là
cái gì. Ý thức do Niệm và Tư duy mà phát sinh nên nội dung của nó phản ánh nội
dung các thông tin trong kho chứa, là những hiểu biết được thu thập trong quá
khứ. Nội dung của Ý thức có hai phần: phần chủ thể biết và phần đối tượng được
biết nên gọi là Ý thức nhị nguyên. Chủ thể biết là một cái Ta bao gồm: Ta biết,
của Ta, Ta hơn, kém hay bằng như ngôn ngữ Hán Việt là Ngã kiến, Ngã sở kiến,
Ngã mạn tuỳ miên. Đối tượng được biết là thế giới trần cảnh bên ngoài (Sắc
Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần) được xác định là dễ chịu, khó chịu hay trung
tính (không dễ chịu, không khó chịu). Cả hai phần Chủ Thể và Đối Tượng đều
sai sự thật vì các pháp là vô chủ, vô sở hữu nên không có cái Ta nào là chủ nhân,
chủ sở hữu cái biết và đối tượng được biết là cảm thọ, là Tâm chứ không phải là
Cảnh. Vậy cái biết Ý thức nhị nguyên sai sự thật, nó chính là Vô minh và trên lộ
trình tâm này Vô minh đã xuất hiện còn lượng thông tin Vô minh trong kho chứa
chỉ là nhân cho Vô minh hiện khởi ở đây. Cái Ta xuất hiện trong cái biết Ý thức
là do Niệm và Tư Duy nghĩa là Niệm kích hoạt các thông tin Vô minh, Ta, của
Ta như mắt thấy sắc trần, tai nghe thanh trần, mũi ngửi hương trần... mắt của Ta,
tai của Ta... và Tư duy đối chiếu với những thông tin đó làm phát sinh Ý thức nhị
nguyên có Ta biết, có của Ta, có Ta hơn kém bằng. Ý thức nhị nguyên này lại
được lưu vào kho chứa và nó lại làm nhân cho Niệm và Tư duy ở các lộ trình tâm
sau. Vì vậy Niệm này là Tà Niệm, Tư Duy này là Tà Tư Duy và Ý thức nhị
nguyên này là Tà Tri Kiến: Xúc Thọ ( Cảm giác ) - Tưởng Tà Niệm Tà Tư
Duy Tà Tri Kiến (Ý thức).

Khi cái biết Ý thức nhị nguyên đã khởi lên như vậy sẽ phát sinh Thái độ và
Phản ứng với đối tượng và sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên. Đây chính là lộ trình
tâm Bát Tà Đạo. Cái Ta không có thực, nó do Tà Niệm, Tà Tư Duy tạo ra, nó là
“lông rùa sừng thỏ”. Ví như có người chồng đang chửu mắng đánh đập vợ con
ngay trong ngôi nhà của mình thì tại thời điểm đó Niệm chỉ kích hoạt thông tin
Thân Tâm này là Ta còn vợ con, tài sản không phải là Ta nên Ý thức cũng biết
như vậy mới phát sinh hành vi đánh đập chửi rủa vợ con, anh ta sẽ không tự tay
tát vào mặt mình vì đó là Ta. Xong đó anh ta đi ra đường và nếu có ai đó xúc
phạm vợ con hoặc tài sản của anh ta thì anh ta sẽ phản ứng rất quyết liệt bởi lúc
đó Niệm sẽ kích hoạt thông tin vợ con tài sản là của Ta và Ý thức biết như vậy
nên phản ứng không phải như ở trong nhà. Tối hôm đó anh ta xem một trận đấu
chung kết bóng đá giữa Việt nam và Thái lan nếu Việt nam thắng, anh ta reo
mừng hớn hở, bia rượu tơi bời và giả sử có gặp người mà anh ta to tiếng lúc
chiều thì anh ta vẫn vui vẻ mời rượu bia bởi bây giờ Niệm kích hoạt thông tin là
từ mục Nam Quan tới mũi Cà Mau đều là của Ta. Cũng chính anh ta khi bay
vào tàu vũ trụ, khi nhìn về quả đất thì tất cả quả đất này là Ta không còn phân
biệt Việt Nam hay Thái Lan nữa. Một cái Ta thật sự vô lối như vậy chỉ là do Tà
Niệm, Tà Tư Duy tạo ra mà thôi.

Nhiều người cho rằng tu là sửa đổi tâm này, thay đổi tâm này, làm chủ tâm này
vì họ coi tâm như một thực thể mà không biết tâm là các lộ trình sinh diệt. Bản
chất các lộ trình ấy Vô ngã nghĩa là không có Thượng đế, Đại ngã, một cái Ta
nào hay bất cứ một ai có thể làm chủ, có thể thay đổi được nó, hễ lộ trình tâm
Bát Tà Đạo khởi lên thì lập tức xuất hiện Cái Bản Ngã ảo tưởng. Nếu tu hành
với tâm của Phàm phu với cái biết nhị nguyên này thì cho dù cố gắng gò ép,
dùng một kỷ luật sắt đá để đàn áp bắt buộc nó bố thí, trì giới, tham thiền, làm
việc từ thiện để trở thành người thánh thiện, một người hoàn hảo, một bậc thánh
trước mặt người khác thì cũng đang tu để trở thành, trở thành một Bản ngã cao
siêu, vĩ đại hơn, một Đại ngã. Bản chất tâm Bát Tà Đạo là chấp ngã nên càng
thông thái bao nhiêu, càng thành tựu bao nhiêu, càng nổi tiếng bao nhiêu thì
những thông tin ấy khi được lưu vào kho chứa là chất liệu cho Tà Niệm, Tà Tư
Duy vẽ ra một Bản ngã vĩ đại. Một người có Văn Tuệ và Tư Tuệ sâu sắc, đầy
đủ về Duyên khởi, về vô thường, vô ngã, về Khổ Tập Diệt Đạo nhưng không
thực hành, lộ trình tâm vẫn là Bát Tà Đạo thì cũng Ngã mạn hơn người.

2 - Con đường chấm dứt Chấp Ngã:

Không phải tu là sửa đổi Bát Tà Đạo mà là đoạn diệt Bát Tà Đạo, nghĩa là khi
Tà Niệm diệt thì Tà Tư Duy diệt, lúc đó Tà Tri Kiến diệt, lúc đó chấp ngã diệt
và cái Ta ảo tưởng diệt, Tham sân si diệt và toàn khối đau khổ diệt. Muốn Bát
Tà Đạo diệt (Diệt với ý nghĩa không khởi lên) thì Bát Chánh Đạo phải khởi lên.
Vậy Bát Chánh Đạo khởi lên như thế nào? Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần xảy ra
lộ trình: Xúc Thọ (Cảm giác) - Tưởng đến đây Niệm sẽ khởi lên, nếu Niệm
là Tà Niệm thì toàn bộ Bát Tà Đạo sẽ tự động khởi lên theo nguyên lý duyên
khởi, nếu Niệm là Chánh Niệm thì toàn bộ Bát Chánh Đạo sẽ tự động khởi lên
theo nguyên lý duyên khởi. Bát Chánh Đạo sẽ khởi lên như sau:

Xúc Thọ - Tưởng Chánh Niệm Chánh Tinh Tấn Chánh Định (Tỉnh
Giác) Chánh Tư Duy Chánh Kiến Như Lý Tác Ý Chánh ngữ Chánh
nghiệp Chánh mạng.

a - Khi một Hành giả toạ thiền với Niệm Thân hay Niệm Thọ:

Mỗi một cảm giác khởi lên với cái biết trực tiếp thì Chánh Niệm (nhớ đến chú tâm
quán sát các cảm giác nơi thân đối với Niệm Thân, nhớ đến chú tâm quán sát các
cảm giác đối với Niệm Thọ) khởi lên sẽ phát sinh Chánh Tinh Tấn. Chánh Tinh
Tấn sẽ phát sinh sự chú tâm quán sát các đối tượng (gọi là Chánh Định). Nhờ có
sự chú tâm như vậy nên lộ trình tâm kết thúc tại đó, nhưng sự chú tâm đó cũng là
duyên cho lộ trình tâm sau y như vậy trên cùng đối tượng phát sinh. Diễn tiến tiếp
tục như vậy cho đến khi có một Xúc khác phát sinh thì lộ trình tâm trên đối tượng
đó kết thúc và lộ trình tâm tương tự sẽ khởi lên nơi đối tượng mới. Lộ trình như
vậy được diễn tả như sau: Xúc Thọ (Cảm giác) - Tưởng Chánh Niệm Chánh
Tinh Tấn Chánh Định (Tỉnh Giác). Nhờ sự chú tâm nên nhiều lộ trình tâm
"nháy đi nháy lại" trên cùng đối tượng nên cảm thọ và cái biết trực tiếp được "kéo
dài" ra nên Hành giả kinh nghiệm được cái biết trực tiếp một cách minh bạch. Cái
biết trực tiếp giác quan hay là nhận thức cảm tính này bây giờ có một tên gọi khác
là Tỉnh Giác. Đa phần lộ trình tâm lúc toạ thiền với Niệm Thân và Niệm Thọ là
như vậy nên lúc này chỉ có cái biết duy nhất là Tỉnh Giác, cái biết không tri thức
khái niệm, không phân biệt đối đãi, không ngôn ngữ chế định nên Hành Giả kinh
nghiệm được lúc đó không tồn tại một cái Ta nào hết, không có Ngã kiến, không
có Ngã sở kiến, không có Ngã mạn tuỳ miên.

b - Khi Hành giả Niệm Tâm và Niệm Pháp:

Sau khi thấy, nghe, cảm nhận đối tượng, Chánh Niệm khởi lên (nhớ đến chú
tâm quán sát tâm nơi tâm hoặc nhớ đến quán sát pháp nơi pháp) thì sẽ phát sinh
Chánh Tinh Tấn và Chánh Tinh Tấn sẽ làm phát sinh Chánh Định, và do vậy sẽ
biết đối tượng với cái biết Tỉnh Giác sau đó Chánh Tư Duy khởi lên. Nhưng
bây giờ kho chứa của một Hành giả có Văn tuệ và Tư tuệ đã lưu thông tin Minh,
tức hiểu biết như thật về Duyên khởi, về Vô thường, Vô ngã, về Khổ Tập Diệt
Đạo nên Chánh Niệm sẽ kích hoạt Minh chứ không kích hoạt Vô Minh, nên
Chánh Tư Duy sẽ phân tích so sánh đối chiếu thông tin về đối tượng được Tỉnh
Giác cung cấp với Minh nên phát sinh cái biết Ý thức đúng như thật gọi là
Chánh Kiến không còn Ta, của Ta, Ta hơn, kém, bằng nữa. Phải quán sát thật
kỹ để thấy Niệm kích hoạt thông tin gì thì nội dung của Ý thức thể hiện nội
dung đó.

Ví dụ như một người Mỹ da trắng không ăn thịt chó thì trong kho chứa của họ
có thông tin: ăn thịt chó là hạ liệt, là đê tiện, là ghê tởm. Khi người đó đi du lịch
khám phá ẩm thực Việt Nam, có người chơi khăm nên dẫn anh ta vào một cửa
hàng thịt chó nguỵ trang rất kỹ lưỡng và mời anh ăn món ăn đặc sản. Vì háo hức
khám phá món ăn Việt nên anh ta ăn món thịt chó xong khen ngon đáo để. Lúc
đó mở hết nguỵ trang để cho anh biết là vừa ăn thịt chó thì anh ta ghê tởm và có
thể nôn oẹ ra tại chỗ. Điều này cho thấy như sau: lúc đầu cảm nhận cảm giác vị
xong, Niệm sẽ kích hoạt các thông tin ngon dở trong kho chứa và Tư duy so
sánh đối chiếu sẽ đưa đến Ý thức món ăn rất ngon, lúc sau khi tưởng lại và cảm
nhận cái cảm giác vị đó thì Tư duy sẽ đối chiếu với thông tin được Niệm kích
hoạt lần sau là ăn thịt chó là hạ liệt, là đê tiện... Cũng y như vậy nếu Tà Niệm
kích hoạt Vô Minh sẽ phát sinh Tà Tư Duy, sẽ phát sinh Tà Tri Kiến và sẽ có
Ngã kiến, Ngã sở kiến, Ngã mạn tuỳ miên. Nếu Chánh Niệm kích hoạt Minh sẽ
phát sinh Chánh Tư Duy, sẽ phát sinh Chánh Kiến không có Ngã kiến, không có
Ngã sở kiến, không có Ngã mạn tuỳ miên. Lộ trình khởi lên như sau: Xúc Thọ
- Tưởng Chánh Niệm Chánh Tinh Tấn Chánh Định (Tỉnh Giác)
Chánh Tư Duy Chánh Kiến. Như vậy trên Bát Chánh Đạo, nhận thức cảm
tính là cái biết Tỉnh Giác và nhận thức lý tính là Ý thức Chánh Kiến đều không
có Ngã kiến, Ngã sở kiến, Ngã mạn tuỳ miên, tức không có sự Chấp Ngã.

Vậy con đường chấm dứt Chấp Ngã là Bát Chánh Đạo cũng là con đường chấm
dứt Khổ. Để cho Bát Chánh Đạo khởi lên thì chỉ cần làm cho Chánh Niệm khởi
lên nên các bài Kinh nói đến sự thực hành như Tứ Niệm Xứ, Niệm hơi thở vô,
hơi thở ra và Thân Hành Niệm đều là sự thực hành Chánh Niệm. Nhưng Chánh
Niệm cũng vô ngã không ai điều khiển được, vậy phải làm cách nào? Khi lượng
thông tin do cái biết trực tiếp giác quan được truyền dẫn về các tế bào thần kinh
não bộ sẽ xảy ra sự tương tác (Xúc) giữa nó với lượng thông tin Pháp trần (được
lưu trong cấu trúc ADN của các tế bào trong đó có tế bào thần kinh não bộ) và
do tương tác đó mà phát sinh Niệm. Nếu Vô Minh nổi trội hơn Minh thì Niệm
đó là Tà Niệm, nếu Minh nổi trội hơn Vô Minh thì niệm đó là Chánh Niệm. Vậy
duyên cho Chánh Niệm khởi lên là làm cho thông tin Minh nổi trội hơn Vô
Minh bằng giữ giới, bằng trau dồi Văn Tuệ và Tư Tuệ.

Bát Chánh Đạo là con đường độc nhất chấm dứt chấp Ngã, chấm dứt Khổ,
không có một con đường thứ hai nào hết. Trong Kinh Kim Cương của Phật
Giáo phát triển cũng bàn luận về Vô Tướng và Hữu Tướng. Kinh đó khẳng
định: Bồ tát mà còn tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì
không phải là Bồ tát. Ly tất cả tướng (đó) là Chư Phật tức không có tướng ngã,
tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả. Với lời văn này rất khó hiểu trọn
vẹn ý nghĩa, nhưng có thể hiểu ý nghĩa đoạn văn trên như sau: Nếu thấy (biết)
mà còn có tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì cái thấy
(biết) đó là hư vọng, đó chính là thấy biết hữu tướng. Thấy biết của Chư Phật ly
tất cả tướng, tức không có tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả gọi là thấy biết
vô tướng. Thấy biết Hữu tướng là gì và tại sao nó là hư vọng? Đó chính là Ý
thức nhị nguyên trong lộ trình tâm Bát Tà Đạo, ví như: Ta thấy ngôi nhà của
Ta, ngôi nhà hình chóp rất to, màu vàng, rất đẹp. Cái thấy này là hữu tướng, tức
đối tượng được thấy có tướng: chóp, to, vàng, đẹp. Các tướng này là thuộc tính
của ngôi nhà và nó là vật chất, là tướng trạng của ngôi nhà. Các tướng này
thường trú nơi ngôi nhà, là của ngôi nhà (thấy như vậy gọi là Thường kiến và
Ngã kiến). Sự thực các tướng ấy không phải của đối tượng được thấy mà đó là
các Khái Niệm thuộc tâm thức áp đặt cho cái được thấy. Khi mới đẻ ra đứa trẻ
vẫn thấy hình ảnh đó nhưng trong cái thấy trực tiếp đó không có khái niệm:
chóp, to, vàng, đẹp và đó là cái thấy như thật về đối tượng được thấy. Các khái
niệm chóp, to, vàng, đẹp là các khái niệm được học hỏi, được lưu vào kho chứa,
nó là tâm nhưng bị áp đặt cho hình ảnh được thấy và được chấp thủ là Cảnh,
thường trú trong Cảnh, là của Cảnh. Với cái biết nhị nguyên như vậy thì sẽ chấp
thủ cái được thấy là Cảnh, là Sắc pháp nên chấp thủ Sắc pháp đó là Ta (Đó là
thấy tướng Ngã), chấp thủ Sắc pháp đó là Người khác (đó là thấy tướng Nhân),
chấp thủ các Sắc pháp đó là Chúng Sanh (đó là thấy tướng Chúng Sanh), chấp
thủ Sắc pháp và Danh pháp đó là Thọ Giả (Đó là thấy tướng Thọ Giả). Đây là
cái biết có Tướng (tướng Ngã, tướng Nhân, tướng Chúng Sanh, tướng Thọ Giả)
là Tà Tri Kiến trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo, là hư vọng. Trên lộ trình tâm Bát
Chánh Đạo, Chánh Kiến khởi lên là cái biết Ý thức đúng như thật không có Ta,
của Ta, Ta hơn, kém, bằng, biết các đối tượng đó là các cảm thọ, là Tâm, nó Vô
thường, Vô ngã, nó được ly tham. Cái biết Chánh Kiến này được gọi là Vô
Tướng bởi nội dung của cái biết này là các đối tượng được thấy, được nghe,
được cảm nhận, được nhận thức là Tâm nên không có tướng, không còn chấp
thủ các đối tượng đó là Cảnh, nên không còn tướng Ngã, tướng Nhân, tướng
Chúng sanh, tướng Thọ giả. An trú cái biết Vô Tướng là an trú Vô Tướng Giải
Thoát hay Tuệ Giải Thoát. Nếu rời sự thực hành Bát Chánh Đạo, rời lời dạy
"nguyên chất" của Phật, tìm kiếm một phương pháp khác để chấm dứt Chấp
Ngã thì cũng chỉ là Bát Tà Đạo và nó chỉ bành trướng Ngã chấp mà thôi.

Về mục lục
Bài 156: NĂNG KIẾN VÀ SỞ KIẾN

Năng kiến và sở kiến hay nói tắt là Năng và Sở là những thuật ngữ Phật học bằng
tiếng Hán nhưng nếu hiểu theo tiếng Việt thì Năng kiến là Cái biết và Sở kiến là
Cái bị biết hay Đối tượng của Cái biết.

A - Cái biết không phải chỉ có một loại mà nó có hai loại:

Cái biết trực tiếp giác quan và cái biết Ý thức mà trong Tâm lý học gọi là Nhận
thức cảm tính và Nhận thức lý tính. Trong Cái biết trực tiếp giác quan lại có sáu
cái tương ứng với các giác quan: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân
thức và Tưởng thức gọi là nhóm Tưởng hay Tưởng uẩn.
1 - Cái biết trực tiếp giác quan phát sinh do sáu căn tiếp xúc với sáu trần
(duyên). Mắt duyên Sắc trần phát sinh Nhãn thức, Tai duyên Thanh trần phát sinh
Nhĩ thức, Mũi duyên Hương trần phát sinh Tỉ thức, Lưỡi duyên Vị trần phát sinh
Thiệt thức, Thân duyên Xúc trần phát sinh Thân thức, Ý duyên Pháp trần phát
sinh Tưởng thức. Một cách khác gọi cái biết trực tiếp này là Thấy (nhãn thức),
Nghe (nhĩ thức), Cảm nhận (tỉ thức, thiệt thức, thân thức, tưởng thức). Một cách
nói khác là Tưởng tri đối tượng (cái biết Tưởng) như trong Một số Kinh định
nghĩa Tưởng là nhận biết đối tượng tức cũng đồng nghĩa với thấy nghe cảm nhận
đối tượng.
Đây là cái biết như thực đối tượng ở cấp độ cảm tính, một cái biết không tri thức
khái niệm, không phân biệt đối đãi, không ngôn từ chế định, không do học hỏi mà
có, mà người hay súc vật đều có. Trong cái biết trực tiếp giác quan này không có
khái niệm to nhỏ, vuông tròn, dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay,
cứng mềm thô mịn... không có khái niệm mắt tai mũi lưỡi thân ý, sắc thanh hương
vị xúc pháp, không có khái niệm nhãn giới cho đến ý thức giới, không có khái
niệm vô minh cũng như hết vô minh, không có khái niệm khổ tập diệt đạo... Có
thể hình dung ra nó là cái Thấy, Nghe, Cảm nhận của một đứa trẻ mới đẻ ra tức
thì, nó vẫn Thấy, Nghe, Cảm nhận các đối tượng nhưng không có biết đó là cái gì.
Đây chính là Nhận thức cảm tính hay Cái biết trực tiếp giác quan thuần tuý vì khi
đó chưa có cái biết Ý thức xen vào. Đối với Nhận thức cảm tính này Thánh hay
Phàm đều như nhau. Đối với người Phàm nó được gọi là Cái biết trực tiếp, Nhận
thức cảm tính hay Tưởng tri, còn đối với bậc Thánh thì gọi là Tỉnh Giác, là Thắng
tri hay Không tánh.
2 - Cái biết Ý thức hay Nhận thức lý tính phát sinh do Tư duy tìm hiểu, xác
định đối tượng được thấy, nghe, cảm nhận là gì, đối tượng đó dễ chịu, khó chịu
hay trung tính. Hành vi Tư duy là: phân tích, tổng hợp, so sánh, phán đoán, kết
luận, trừu tượng, khái quát, nhưng hiểu một cách cơ bản là phân tích so sánh
lượng thông tin của Cái biết trực tiếp với lượng thông tin về các đối tượng đã
được biết trong quá khứ được lưu giữ trong "kho chứa". Hành vi Tư duy xảy ra
được phải do một hành vi là Niệm, Niệm được hiểu như một công cụ dò tìm thông
tin cần thiết vì lượng thông tin trong kho chứa quá lớn không thể nào đối chiếu
với tất cả được. Ví như trên mạng, lượng thông tin khổng lồ được lưu trong các
máy chủ, khi cần tìm thông tin gì, người đó ấn Tìm kiếm thì lập tức "công cụ dò
tìm" sẽ tìm kiếm trong các máy chủ và cung cấp thông tin đó. Như vậy Niệm và
Tư duy sẽ làm phát sinh hiểu biết về đối tượng và đó là Cái biết Ý thức. Cái biết
trực tiếp xảy ra nơi các giác quan bên ngoài, còn Niệm, Tư duy, Ý thức phát sinh
do Ý tiếp xúc với Pháp trần (tức lượng thông tin trong kho chứa). Nội dung của Ý
thức phản ánh nội dung của các thông tin trong kho chứa, tức là những hiểu biết,
kinh nghiệm, thói quen, xu hướng của người đó trong quá khứ đã được lưu trong
kho chứa (còn được gọi là nghiệp) và như vậy Ý thức của người này khác với
người kia, Thánh khác với Phàm, loài người khác loài vật, giữa các loài vật cũng
hoàn toàn khác nhau. Sự khác nhau của Ý thức do hai nguyên nhân:
- Thứ nhất do lượng thông tin trong kho chứa phản ánh hiểu biết, kinh nghiệm, xu
hướng... của con người trong quá khứ khác nhau nên Ý thức trong hiện tại sẽ khác
nhau. Ví như một người ăn mắm tôm khen ngon, người khác thì xem là ghê tởm
bởi những thông tin này đã lưu trong kho chứa từ trước. Ba anh thanh niên cùng
thấy một cô gái nhưng một người cho là đẹp, người thứ hai cho là xấu còn người
thứ ba cho là không đẹp không xấu vì lượng thông tin về lĩnh vực đó trong kho
chứa của ba người khác nhau.
- Thứ hai do Niệm kích hoạt loại thông tin nào thì Tư duy sẽ đối chiếu với thông
tin đó mà phát sinh Ý thức sai khác. Ví như một người đang thân thiết với một
người khác thì lúc đó Niệm chỉ kích hoạt các thông tin tốt đẹp của người này (tuy
trong kho chứa vẫn đầy đủ cả thông tin tốt đẹp cũng như xấu xa của người đó)
nên Ý thức xem là người tốt, nhưng khi giận dữ người đó thì Niệm chỉ kích hoạt
những thông tin xấu xa nên Ý thức xem là người xấu.

a - Cái biết Ý thức hay Nhận thức lý tính của người Phàm: hiểu biết của con
người là hiểu biết không đúng như thật các sự vật, hiện tượng (các pháp) trong
đó có hiểu biết không đúng như thật về Khổ, Nguyên nhân Khổ, về Khổ Diệt và
Con đường đưa đến Khổ Diệt, gọi là Vô minh, chấp thủ một cái Ta là chủ nhân,
chủ sở hữu của Danh và Sắc nên có các tư tưởng: cái này là của Ta, là Ta.
Những thông tin Vô Minh, Ta của Ta này được cài đặt trong kho chứa và là
thông tin nổi trội nhất trong kho chứa nên khi Niệm khởi lên bao giờ cũng kích
hoạt thông tin Vô Minh, Ta, của Ta trước nhất và Tư Duy sẽ đối chiếu với các
thông tin đó nên nội dung của cái biết Ý thức xuất hiện một cái Ta chủ nhân,
chủ thể biết, xuất hiện nội dung của Ta, Ta hơn, Ta kém, Ta bằng. Nội dung này
Kinh thường đề cập là Ngã kiến, Ngã sở kiến, Ngã mạn tuỳ miên. Vậy Ý thức
hay Nhận thức lý tính của kẻ Phàm chấp Ngã, không đúng sự thật nên gọi là Vô
Minh, Vọng tưởng. Kẻ Phàm sống với: Ta thấy, Ta nghe, Ta cảm nhận, Ta nhận
thức, Ta nói, Ta làm, Ta ăn, Ta tạo nghiệp, Ta đi, Ta đứng... chính do Niệm và
Tư duy đưa đến Ý thức Vô Minh, Vọng tưởng này nên Niệm này là Tà Niệm,
Tư duy này là Tà Tư Duy và Ý thức này là Tà Tri Kiến. Lộ trình tâm đưa đến Ý
thức Vô Minh này là Bát Tà Đạo và nó là Vọng Tâm.

b - Cái biết Ý thức hay Nhận thức lý tính của vị Hữu học (đang học và tu Đạo):
Đối với vị Hữu học đã có Văn Tuệ nghĩa là nghe giảng hoặc nghiên cứu lời dạy
của Đức Phật mà có hiểu biết đúng như thật về Lý Duyên Khởi, hiểu biết đúng
như thật về Vô Thường, Vô Ngã, về Khổ Tập Diệt Đạo và các thông tin đó được
lưu vào kho chứa gọi là Minh. Như vậy trong kho chứa của vị Hữu học có cả
hai loại thông tin Vô minh và Minh. Nếu vị Hữu học tu tập Tứ Niệm Xứ thì
Niệm sẽ kích hoạt Minh và Niệm như vậy gọi là Chánh Niệm, do đó Tư Duy sẽ
đối chiếu với Minh chứ không đối chiếu với Vô Minh nên đưa đến Cái biết Ý
thức đúng như thật gọi là Chánh Tri Kiến không còn Ngã kiến, Ngã sở kiến,
Ngã mạn tuỳ miên. Như vậy khởi lên Chánh Tri Kiến của vị Hữu học là phải có
Chánh Niệm, Chánh Tư Duy. Nếu vị đó ngừng thực hành Tứ Niệm Xứ, lúc đó
Chánh Niệm không có mặt thì Tà Niệm khởi lên sẽ kích hoạt Vô Minh và Tà Tư
Duy sẽ so sánh, đối chiếu với Vô Minh đưa đến Ý Thức là Tà Tri Kiến.

c - Cái biết Ý thức hay Nhận thức lý tính của vị Vô học tức vị A-la-hán: Đối với
một vị A-la-hán, Minh hay Trí Tuệ đã được tu tập, đã được làm cho viên mãn
nên Minh đã xoá bỏ hoàn toàn Vô Minh trong kho chứa nên Niệm chỉ có một
nội dung duy nhất là Minh nên luôn luôn là Chánh Niệm, nên Ý Thức luôn luôn
là Chánh Tri Kiến. Đây chính là Chân Tâm.

Như vậy Năng Kiến của người Phàm và bậc Thánh có sự giống nhau: Cái biết
trực tiếp giác quan hay Tưởng (sự nhận biết đối tượng) Thánh Phàm đều như
nhau nhưng cái biết đó của bậc Thánh có tên gọi khác là Tỉnh Giác hay Thắng
tri hay Không tánh. Nhưng Năng Kiến của Phàm và Thánh có sự khác nhau ở
cái biết Ý thức: Ý thức của người Phàm thì chấp Ngã, nghĩa là có Ngã kiến,
Ngã sở kiến, Ngã mạn tuỳ miên. Ý thức của bậc Thánh không có chấp Ngã nên
không có Ngã kiến, Ngã sở kiến, Ngã mạn tuỳ miên.
B - Cái bị biết hay cái được biết hay đối tượng của cái biết đều đồng một
nghĩa và cũng là Sở Kiến:

Đối tượng của cái biết có ba loại gồm: đối tượng của Cái biết trực tiếp, đối
tượng của Ý thức Tà Tri Kiến và đối tượng của Ý thức Chánh Tri Kiến.

1 - Đối tượng của Nhận thức cảm tính: Cái biết và Cái được biết đều phát sinh
do sáu Căn tiếp xúc với sáu Trần, cụ thể:

- Nhãn xúc phát sinh: Cảm giác hình ảnh - Nhãn thức

- Nhĩ xúc phát sinh: Cảm giác âm thanh - Nhĩ thức

- Tỉ xúc phát sinh: Cảm giác mùi - Tỉ thức

- Thiệt xúc phát sinh: Cảm giác vị - Thiệt thức

- Thân xúc phát sinh: Cảm giác xúc chạm - Thân thức

- Ý xúc phát sinh: Cảm giác pháp trần - Tưởng thức

Nếu viết gộp thành một công thức tổng quát sẽ là: Xúc Thọ (Cảm giác) -
Tưởng. Ở đây Tưởng là sự nhận biết đối tượng và đối tượng được nhận biết
chính là Thọ (Cảm giác). Trong kinh Mật Hoàn thuộc Trung Bộ Kinh có khẳng
định: Những gì có Thọ thời có Tưởng tức Thọ và Tưởng là hai quả đồng thời khi
Căn Trần tiếp xúc. Cụ thể đối tượng của nhãn thức là Cảm giác hình ảnh tức
Nhãn thức thấy Cảm giác hình ảnh chứ không phải Nhãn thức thấy Sắc trần. Đối
tượng của nhĩ thức là Cảm giác âm thanh tức Nhĩ thức nghe Cảm giác âm thanh
chứ không phải Nhĩ thức nghe Thanh trần. Đối tượng của Tỉ thức là Cảm giác
mùi tức Tỉ thức cảm nhận Cảm giác mùi chứ không phải Tỉ thức nhận biết
Hương trần. Đối tượng của Thiệt thức là Cảm giác vị tức Thiệt thức nhận biết
Cảm giác vị chứ không phải Thiệt thức biết Vị trần. Đối tượng của Thân thức là
Cảm giác xúc chạm tức Thân thức nhận biết Cảm giác xúc chạm chứ không phải
Thân thức biết Xúc trần. Đối tượng của Tưởng thức là Cảm giác pháp trần nghĩa
là Tưởng thức nhận biết Cảm giác pháp trần chứ không phải biết Pháp trần. Quán
sát sự thật để biết rõ đối tượng của nhận thức cảm tính, của cái biết trực tiếp giác
quan hay Tưởng (sự nhận biết đối tượng) là các Cảm giác (hay Cảm thọ gọi tắt là
Thọ), là Tâm chứ không phải là Cảnh (Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần).
Quán sát sự thật này để thấy hiểu biết của nhân loại là Tâm biết Cảnh tức Nhãn
thức thấy Sắc trần, Nhĩ thức nghe Thanh trần, Tỉ thức nhận biết Hương trần,
Thiệt thức nhận biết Vị trần, Thân thức nhận biết Xúc trần, Tưởng thức nhận biết
Pháp trần... là không đúng sự thật, là Vô minh. Vô minh căn bản hay Vô Minh
gốc là không biết như thật về sáu xúc xứ nên trong Kinh Năm Ba thuộc Trung
Bộ Kinh đức Phật đã khẳng định: Vô thượng tịch tịnh, tối thắng đạo được Như
Lai chánh đẳng giác sau khi như thật Tuệ tri Sáu Xúc Xứ.

2- Đối tượng của Nhận thức lý tính hay Ý thức: là những hiểu biết (nhận
thức) về các đối tượng của Nhận thức cảm tính, xác định nó là cái gì, tính chất
như thế nào... Những hiểu biết này được gọi là Pháp trần. Ở đây có một sự vi tế
cần phải quán sát để thấy rõ. Năm Căn (Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân) tiếp xúc Năm
Trần phát sinh năm Cảm thọ và năm cái biết trực tiếp nhận biết năm Cảm thọ,
rồi lượng thông tin đó được truyền dẫn vào các tế bào thần kinh não bộ. Tại đấy
sẽ xảy ra sự tiếp xúc (Xúc) giữa các lượng thông tin mà phát sinh Niệm, Tư
Duy và sẽ phát sinh Ý thức. Ý thức là cái biết, biết các thông tin về đối tượng
do Tư duy phát sinh ra, tức hiểu biết về đối tượng gọi là Ý thức biết Pháp trần.
Đây là quá trình xử lý các thông tin từ năm giác quan từ bên ngoài vào, và quá
trình này phát sinh Ý thức và Pháp trần. Ngoài năm Căn tiếp xúc Năm Trần thì
bên trong, nội trong tế bào thần kinh não bộ xảy ra Ý tiếp xúc với Pháp trần,
thực chất là Ý tiếp xúc với lượng thông tin Pháp trần được lưu trong ADN của
tế bào thần kinh não bộ. Nội xúc này sẽ phát sinh Cảm giác pháp trần và Tưởng
thức (Cảm giác pháp trần là đối tượng nhận biết của Tưởng thức) và quá trình
xử lý các thông tin này tiếp tục tương tự như lượng thông tin từ các giác quan
bên ngoài đưa vào. Như vậy Ý tiếp xúc với Pháp phát sinh Cảm giác pháp trần
và Tưởng thức cũng phát sinh Pháp trần và Ý thức. Các lộ trình này được diễn
tả: Xúc Thọ (Cảm giác) - Tưởng Niệm Tư duy Ý thức.

Như vậy Niệm và Tư duy khởi lên là để tìm hiểu về Cảm giác hay Thọ nên nội
dung của hiểu biết đó là về Thọ chứ không phải là về Sắc Thanh Hương Vị Xúc
Pháp trần, không phải là một thế giới khách quan bên ngoài.

a - Sở kiến hay đối tượng nhận thức lý tính của người Phàm: Hiểu biết của
người Phàm là cái biết là của các Căn và cái được biết là Cảnh (cái biết Thiệt
thức là của Lưỡi biết vị ngon dở của Thức ăn) nghĩa là Mắt thấy Sắc trần, Tai
nghe Thanh trần, Mũi ngửi Hương trần, Lưỡi nếm Vị trần, Thân biết Xúc trần,
vì vậy Sở kiến hay đối tượng của Nhận thức Lý tính là Thế giới. Điều này có
nghĩa là con người chủ quan nhận thức về một Thế giới khách quan hay Thế
giới khách quan được phản ánh trong Ý thức chủ quan của con người. Với Sở
kiến này thì tất cả các sự vật hiện tượng mà thuật ngữ Phật học gọi là các Pháp
đều thuộc về Thế giới khách quan tách biệt, đối lập với Chủ thể nhận thức. Đây
gọi là Nhị Nguyên, Tâm và Cảnh hay Tâm và Vật. Tất cả các pháp như to nhỏ,
vuông tròn, dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, cứng mềm, thô mịn, mặn ngọt chua
cay, đất nước gió lửa, không gian thời gian... đều là Thế giới khách quan.

Từ Sở kiến này sẽ phát sinh hai quan điểm: Một là các Pháp là thường hằng,
thường có, không tự nhiên sinh ra cũng không tự nhiên mất đi mà chỉ biến đổi
từ vật này thành vật khác, từ trạng thái này sang trạng thái khác. Hai là các Pháp
là không có thật mà chỉ do một năng lực Tâm Linh tuyệt đối sáng tạo ra, các
Pháp do Tâm tạo. Ví dụ: khi mắt tiếp xúc với cây mía phát sinh cảm giác hình
ảnh và nhãn thức, sau khi nhãn thức thấy cảm giác hình ảnh Ý thức khởi lên
biết cây mía này ngọt. Với hiểu biết này ngọt là một pháp là Vật chất, ngọt
thường trú trong cây mía, ngọt là của cây mía (ngọt Hữu Chủ). Khi cây mía bị
ép ra nước mía thì ngọt lại thường trú trong nước mía, khi nước mía được nấu
thành đường thì ngọt thường trú trong đường, đưa đường làm ra kẹo bánh thì
ngọt thường trú trong kẹo bánh, khi nước mía lên men thành giấm thì ngọt
không mất đi mà nó biến đổi thành chua mà thôi... Như vậy ngọt không tự nhiên
sinh ra, không tự nhiên mất đi mà chỉ thay đổi từ vật này sang vật khác, từ trạng
thái này sang trạng thái khác, nó không sinh không diệt và luôn luôn có chủ sở
hữu nó. Đây gọi là Thường Kiến và Ngã Kiến (Hữu Chủ). Nhưng tại đây cũng
có một số người quan sát sự thật, họ thấy nếu một người khoẻ mạnh khi lưỡi
của họ tiếp xúc với cây mía thì cảm nhận vị ngọt nhưng khi người đó đau bệnh
nhiều ngày thì cũng cây mía đó họ cảm nhận vị đắng. Sự thật này chứng tỏ ngọt
không thường trú trong cây mía và những người đó phát sinh một quan điểm
khác: ngọt ở nơi Tâm, ngọt do Tâm sinh. Từ nhận xét này mà họ trừu tượng và
khái quát lên, trở thành một quan điểm Duy Tâm: các Pháp Duy Tâm tạo nghĩa
là tất cả các sự vật hiện tượng do một Thượng đế toàn năng, một Chân Tâm
Thường Trụ, một Đại Ngã sáng tạo ra. Đây là Đoạn Kiến và Ngã Kiến.

Với Sở kiến đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là
Cảnh thì Khổ Tập Diệt Đạo là Cảnh, thường hằng, thường trú nơi Cảnh và Hữu
Chủ (Hữu Ngã), nghĩa là Khổ và Nguyên nhân Khổ là những hoàn cảnh khó
chịu, tồi tệ. Sự chấm dứt Khổ là các hoàn cảnh dễ chịu, tốt đẹp. Con đường
chấm dứt Khổ là thay đổi hoàn cảnh sống. Có một cái Ta là chủ nhân, chủ sở
hữu của các pháp đó.

Thường Kiến và Ngã Kiến hoặc Đoạn Kiến và Ngã Kiến là các hiểu biết không
đúng sự thật về các Pháp, không liễu tri các Pháp gọi là Vô Minh. Lộ trình phát
sinh Vô Minh diễn ra như sau:

Xúc Thọ - Tưởng Tà Niệm Tà Tư Duy Tà Tri Kiến

b - Sở kiến hay đối tượng nhận thức lý tính bậc Thánh: Bậc Thánh Tuệ tri Lý
Duyên Khởi nên biết rằng đối tượng của nhận thức cảm tính là các cảm giác,
nghĩa là Nhãn thức thấy Cảm giác hình ảnh chứ không phải thấy Sắc trần, Nhĩ
thức nghe Cảm giác âm thanh chứ không phải nghe Thanh trần, Tỉ thức nhận
biết Cảm giác hương trần chứ không phải Hương trần, Thiệt thức nhận biết
Cảm giác vị chứ không phải Vị trần, Thân thức nhận biết Cảm giác xúc chạm
chứ không phải Xúc trần, Tưởng thức nhận biết Cảm giác pháp trần chứ không
phải Pháp trần. Chính vì vậy mà Ý thức là sự nhận thức, sự hiểu biết về các
Cảm giác hay các Cảm thọ chứ không phải là thế giới Sắc Thanh Hương Vị
Xúc Pháp. Với Sở kiến như vậy thì tất cả pháp như to nhỏ, vuông tròn, dài
ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, đất nước gió lửa, không gian thời
gian... đều là Các Cảm thọ hoặc tính chất của Cảm thọ. Các Danh pháp khác
như Niệm, Tư duy tìm hiểu đối tượng, Thái độ, Phản ứng với đối tượng cũng là
đối với Thọ. Khi tư duy tìm hiểu đối tượng (Thọ) đưa đến cái biết Ý thức, là
hiểu biết về Thọ sẽ có nhu cầu phân biệt Thọ này với Thọ kia, sẽ có nhu cầu
truyền thông về các hiểu biết đó nên các ngôn từ đặt tên các Thọ và đặt tên các
tính chất của Thọ phát sinh. Ví như để truyền thông và để phân biệt Cảm giác
hình ảnh này với Cảm giác hình ảnh kia mà xuất hiện các ngôn từ khái niệm to
nhỏ, vuông tròn, xanh vàng đỏ trắng... Các khái niệm không gian, thời gian phát
sinh trong quá trình tư duy để phân biệt cảm thọ này với cảm thọ kia theo chiều
không gian và thời gian. Tất cả những ngôn từ, khái niệm, tri thức, hiểu biết là
về Thọ và các Danh pháp khác là về Tâm, chính những cái đó là Tâm chứ
không phải là Thế giới sắc pháp hay thuộc tính của sắc pháp. Vì hiểu biết của
người Phàm là Vô minh không biết rõ sự thật nên áp đặt cho cái đó là Cảnh, là
Thế giới. Có con người chủ quan và Thế giới khách quan tiếp xúc (tương tác)
với nhau mà phát sinh ra Thế giới cảm giác và những gì được thấy, nghe, cảm
nhận, nhận thức là Thế giới cảm thọ chứ không phải là Thế giới khách quan.

Khoa học ngày nay với những phương tiện đo đếm rất tinh xảo nên cũng phát
hiện ra rằng: kết quả quan sát được không chỉ phụ thuộc đối tượng được quan
sát mà còn phụ thuộc cả vào người quan sát. Như vậy khoa học đã phần nào tiến
đến gần sự thật tức kết quả quan sát được là về Cảm thọ chứ không phải về Thế
giới. Với Sở kiến này thì các pháp là Tâm và nó Vô thường, Vô chủ (Vô ngã).
Ví như ngọt và cây mía: Có cây mía là một nhân và lưỡi là nhân thứ hai nhưng
chưa tiếp xúc với nhau thì chưa có cái ngọt nào cả. Khi Lưỡi tiếp xúc với Mía
(đã được chẻ ra) thì phát sinh Cảm giác vị ngọt mà Thánh hay Phàm đều cảm
nhận được. Đây mới là cái ngọt thực và nó là Cảm giác, là Tâm chứ không phải
Vật. Xúc sinh cảm giác vị ngọt sinh, Xúc diệt cảm giác vị ngọt diệt. Vậy cảm
giác vị ngọt Vô thường, cảm giác vị ngọt không thường trú, không thường hằng
trong cây mía. Cảm giác vị ngọt cũng Vô chủ nghĩa là Lưỡi không là chủ nhân,
chủ sở hữu, Mía cũng không là chủ nhân, chủ sở hữu của Cảm giác vị ngọt.
Như vậy ngọt là Tâm và nó Vô thường, Vô chủ (Vô ngã). Phải lưu ý rằng vị
ngọt là một từ ám chỉ một pháp là Cảm giác vị ngọt, là Tâm nhưng là do Căn
Trần tiếp xúc phát sinh ra chứ không phải là do Tâm tuyệt đối nào tạo ra cả.

Với Sở kiến như vậy thì Khổ, Tập, Đạo là Tâm chứ không phải Cảnh. Khổ,
Nguyên nhân Khổ là các Danh pháp trên lộ trình Tâm Bát Tà Đạo, Con đường
chấm dứt Khổ là lộ trình Tâm Bát Chánh Đạo và những pháp này đều Vô
thường, Vô ngã. Riêng Khổ Diệt hay Niết Bàn là sự vắng mặt của cả Danh và
Sắc, sự trống không cả Tâm và Cảnh chỉ có Chánh Kiến trên Bát Chánh Đạo tuệ
tri được, và điều này nói lên sự kiện chứng ngộ Niết bàn chỉ xảy ra trên lộ trình
Tâm Bát Chánh Đạo. Lộ trình này xảy ra như sau: Xúc Thọ - Tưởng Chánh
Niệm Chánh Tinh Tấn Chánh Định (Tỉnh Giác) Chánh Tư Duy
Chánh Tri Kiến.

C - Kết luận:

Năng kiến của người Phàm có Ngã kiến, Ngã sở kiến, Ngã mạn tuỳ miên và Sở
kiến là về Thế giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần nên người Phàm chấp
thủ về Bản ngã và Thế giới với 62 luận chấp mà Kinh Phạm Võng (Bản kinh
đầu tiên của Trường Bộ Kinh) đã liệt kê. Thế giới là thường hay vô thường, hay
một phần là thường, phần còn lại là vô thường, thế giới là hữu biên hay vô biên,
thế giới là có thật hay không có thật, thế giới chỉ là vật chất hay thế giới chỉ là
tinh thần, thế giới (vũ trụ) là trời tròn đất vuông, hay thế giới là cửu sơn bát hải
có một trục là núi Tu Di ở giữa, hay thế giới là tam thiên đại thiên, thế giới có
bao nhiêu tầng trời, bao nhiêu tầng địa ngục, hay thế giới phát sinh từ vụ nổ lớn
Big Bang... Tất cả những quan điểm ấy là sự duy diễn từ các luận chấp mà kinh
Phạm Võng đã liệt kê: Thường trú luận, một phần thường trú luận một phần vô
thường luận, hữu biên hoặc vô biên luận, nguỵ biện luận, vô nhân luận hoặc
đoạn diệt luận. Với Sở kiến đó họ cho rằng chúng sinh biết Thế giới với cái biết
hữu hạn còn Chư Phật thì biết Thế giới với cái biết vô hạn. Ngài biết Thế giới
theo không gian là toàn thể tam thiên đại thiên thế giới, theo thời gian là từ vô
thuỷ đến vô chung, Ngài thấu triệt mọi cảnh giới, mọi tầng trời, Thấy Biết của
Ngài luôn luôn hiện hữu khi đi đứng nằm ngồi cả khi thức cũng như khi ngủ.
Những hiểu biết như vậy không đúng sự thật, nó là Tà Kiến, là Thường Kiến
hoặc Đoạn Kiến và Ngã Kiến. Trong Kinh Phạm Võng Ngài đã khẳng định:
“Những chủ trương ấy là kinh nghiệm (hiểu biết) cá nhân, là sự không thấy
không biết các cảm thọ của các Sa môn, Bà-la-môn, là sự kích thích, dao động,
xuyên tạc sự thật của những vị bị tham ái chi phối.” Ngài khẳng định: “Những
sở kiến ấy, những chấp trước như vậy, sẽ đưa đến các cõi thú như vậy, sẽ tác
thành những định mạng như vậy. Như Lai Tuệ tri như vậy và Ngài Tuệ tri hơn
thế nữa và Ngài không chấp trước Sở tri ấy, nội tâm được tịch tịnh. Ngài Như
Thật Tuệ Tri sự tập khởi, sự đoạn diệt của các Thọ, vị ngọt, những nguy hiểm
và sự xuất ly của chúng. Nhờ Tuệ tri như vậy, này các Tỷ kheo, Như Lai được
giải thoát hoàn toàn, không có chấp thủ.” Như vậy Như Lai giác ngộ là giác ngộ
các Cảm Thọ chứ không phải là giác ngộ về Thế Giới, không phải là giác ngộ
Thế giới là thế này hay như thế kia. Và như vậy Sở kiến của Như Lai là về Thọ
chứ không phải là Thế Giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần.

Sở kiến như vậy đưa đến sự hiểu biết như thật về Khổ Tập Diệt Đạo, đưa đến sự
Giác Ngộ Tứ Thánh Đế. Cũng trong kinh Phạm Võng Ngài khẳng định rằng:
“Các Sa môn, Bà-la-môn luận bàn về quá khứ tối sơ, luận bàn về tương lai, chấp
kiến về quá khứ tối sơ và tương lai, y cứ vào quá khứ tối sơ và tương lai đề
xướng nhiều sở kiến sai khác với 62 luận chấp. Tất cả những vị có chủ trương
như trên là do sự xúc chạm (Xúc) của sáu xúc xứ. Do duyên Xúc mà Thọ phát
khởi, do duyên với các Cảm thọ mà Tham ái phát khởi, do duyên Tham ái mà
Thủ phát khởi, do duyên Thủ mà Hữu phát khởi, do duyên Hữu mà Sanh phát
khởi, do duyên Sanh mà Già chết sầu bi khổ ưu não phát khởi. Này các Tỷ
kheo, khi Tỷ kheo như thật biết sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, những nguy
hiểm và sự xuất ly của sáu chỗ xúc xứ, vị ấy sẽ có sự hiểu biết vượt ra ngoài
những điều trên.”

Về mục lục

Bài 157: THAY CHO LỜI TỰA

(Cuốn sách Đến để mà thấy)

Mở đầu Kinh Pháp Cú, trong phẩm Song Yếu có hai bài kệ Song Yếu:
1 - Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với Ý ô nhiễm
Nói lên hay hành động
Khổ não bước theo ngay
Như xe chân vật kéo
2 - Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ, ý tạo
Nếu với ý thanh tịnh
Nói lên hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng không rời hình

Mở đầu Kinh Pháp Cú là phẩm Song Yếu tức trình bày hai yếu tố song song,
một thuộc về phàm phu, một thuộc về bậc Thánh. Quan trọng nhất trong tất cả
các song yếu là Vô Minh thuộc về phàm phu và Minh thuộc về bậc Thánh. Hai
pháp cú mở đầu này đang nói đến Vô minh của phàm phu và Minh của bậc
Thánh.

Pháp cú 1 thuộc về phàm phu, pháp cú 2 thuộc bậc Thánh đều giống nhau hai
câu đầu: Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo. Ý ở đây được hiểu là cái biết Ý
thức. Cái biết Ý thức là hiểu biết về đối tượng mà Tâm lý học gọi là Nhận thức
lý tính đối tượng. Do có Ý thức về đối tượng mà sẽ phát sinh Thái độ với đối
tượng, do có Thái độ mà sẽ phát sinh Phản ứng tức lời nói hoặc hành động để
thể hiện Thái độ với đối tượng đó. Do có lời nói hay hành động mà phát sinh kết
quả là khổ não hay an lạc.

Cái biết có hai cấp độ: Cái biết trực tiếp giác quan và Cái biết Ý thức mà Tâm
lý học gọi là Nhận thức cảm tính và Nhận thức lý tính. Cái biết trực tiếp giác
quan hay Nhận thức cảm tính phát sinh khi sáu Căn tiếp xúc sáu Trần, là sự
nhận biết trực tiếp đối tượng mà thuật ngữ Phật học gọi là Tưởng, người hay
động vật đều có, Thánh hay Phàm đều giống nhau. Nó là cái biết trực tiếp giác
quan, không tri thức, khái niệm, không ngôn ngữ chế định, trong cái biết đó
không có khái niệm to nhỏ, vuông tròn, dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt
chua cay, cứng mềm, nặng nhẹ, không có khái niệm không gian, thời gian,
không có khái niệm sinh diệt, nhơ sạch, tăng giảm, không có khái niệm mắt tai
mũi lưỡi thân ý, không có khái niệm sắc thanh hương vị xúc pháp, không có
khái niệm nhãn giới cho đến ý thức giới, không có Khái niệm Minh cũng như
Vô Minh, không có khái niệm Khổ Tập Diệt Đạo... Nói tóm lại là cái biết Vô
ngôn, Vô niệm, Vô phân biệt. Cái biết này không làm phát sinh lời nói hay hành
động nên nó không tạo tác. Sau cái biết trực tiếp giác quan hay Nhận thức cảm
tính, Niệm và Tư duy sẽ khởi lên làm phát sinh Cái biết Ý thức hay Nhận thức
lý tính đối tượng. Đây là cái biết có tri thức khái niệm, có phân biệt đối đãi, có
ngôn ngữ chế định. Chính cái biết Ý thức này mới tạo tác, mới làm phát sinh
Khổ đau hay An lạc và chính cái biết Ý thức này mới phân định Phàm và
Thánh. Với Phàm phu cái biết Ý thức là ô nhiễm, với bậc Thánh cái biết Ý thức
là thanh tịnh. Các pháp cú này cũng khẳng định: Sự tu tập Phật giáo không phải
để thay đổi Nhận thức cảm tính mà là thay đổi Nhận thức lý tính từ Ý thức ô
nhiễm sang Ý thức thanh tịnh, điều này cũng nhất quán với Kinh Pháp Môn
Căn Bản là tu tập để chuyển đổi từ Ý thức Tà Tri kiến nghĩa là hiểu biết không
như thật các pháp, không liễu tri các pháp hay Vô Minh thành Ý thức Chánh Tri
kiến tức hiểu biết như thật các pháp, liễu tri các pháp hay Minh.

a - Ý hay Ý thức của Phàm phu là ô nhiễm:

Ý thức của phàm phu là không hiểu biết đúng như thật các pháp, không liễu tri
các pháp, nên gọi là Vô Minh, là ô nhiễm. Tuy kẻ phàm phu vẫn sống với các
pháp như mặn ngọt, nóng lạnh, cứng mềm... nhưng lại hiểu biết một cách sai
lạc, hiểu biết một cách điên đảo về các pháp đó, cụ thể là ngọt nằm trong đường,
mặn nằm trong muối, nóng nằm trong lửa, lạnh nằm trong nước đá... Với cái Ý
thức Thường kiến và Ngã kiến như vậy nên hiểu biết một cách sai lạc, điên đảo
về Khổ Tập Diệt Đạo. Lộ trình tâm Bát Tà Đạo của phàm phu khởi lên Ý thức
gọi là Tà Tri kiến như sau:

Xúc Thọ (cảm giác) - Tưởng Tà Niệm Tà Tư Duy Tà Tri Kiến


Ý thức Tà Tri Kiến có hai phần: phần Chủ thể nhận thức là một cái Ta, chủ
nhân của cái biết hay gọi là Bản Ngã mà Kinh thường đề cập là Ngã kiến, Ngã
sở kiến, Ngã mạn tuỳ miên (Ta biết, của Ta, Ta hơn, kém, bằng). Đối tượng
được biết là Thế giới (Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp) được xác định là: Dễ
chịu, Khó chịu hay Trung tính. Nội dung của Ý thức Tà Tri kiến là do Tà Niệm
kích hoạt các thông tin có nội dung Thường kiến, Ngã kiến gọi là Vô Minh, Ta
của Ta đã được tích tập trong kho chứa tri thức hiểu biết nên Tà Tư Duy sẽ
phân tích, so sánh đối chiếu với thông tin Vô Minh đó mà phát sinh Tà Tri
Kiến. Với Ý thức là Tà Tri kiến, là Vô Minh sẽ phát sinh Thái độ Tham hoặc
Sân hoặc Si với đối tượng và do Thái độ mà phát sinh phản ứng: Tà ngữ, Tà
nghiệp, Tà mạng và do Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng mà khổ não bước theo
ngay, như xe chân vật kéo.

b - Ý hay Ý thức của bậc Thánh là thanh tịnh:

Ý thức của bậc Thánh là hiểu biết đúng như thật các pháp, là liễu tri các pháp,
nên gọi là Minh, là Trí Tuệ, là thanh tịnh. Đó là hiểu biết đúng như thật về Lý
Duyên Khởi, hiểu biết đúng như thật các pháp Vô Thường, Vô ngã, hiểu biết
đúng như thật về Khổ Tập Diệt Đạo. Lộ trình khởi lên cái biết Ý thức đúng như
thật gọi là Chánh Tri Kiến như sau: Xúc Thọ (cảm giác) - Tưởng Chánh
Niệm Chánh Tinh Tấn Chánh Định (Tỉnh Giác) Chánh Tư Duy
Chánh Tri Kiến.

Trong kho tri thức hiểu biết của bậc Thánh (hữu học và vô học) đã lưu giữ Minh
do được học về Tứ Thánh Đế, nên Chánh Niệm sẽ kích hoạt Minh chứ không
kích hoạt Vô Minh nên Chánh Tư Duy sẽ phân tích, so sánh đối chiếu với Minh
nên sẽ phát sinh Ý thức hiểu biết đúng như thật gọi là Chánh Tri Kiến. Với
Chánh Tri Kiến này sẽ phát sinh Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng. Với
lộ trình tâm Bát Chánh Đạo có Chánh Định nên có hiện tại lạc trú, với Chánh
Tri Kiến sẽ có Khổ Diệt, có an ổn nên nói an lạc bước theo sau như bóng không
rời hình.

c - Lộ trình tu tập Chánh Tri Kiến, đoạn diệt Tà Tri Kiến:

Lộ trình tu tập Chánh Tri Kiến hay Trí Tuệ đưa đến chứng ngộ và an trú Tuệ
Giải Thoát đã được Đức Thế Tôn dày công thiết lập và giảng dạy theo ba bước
tuần tự là: Văn - Tư - Tu cụ thể là Văn Tuệ - Tư Tuệ và Tu Tuệ.

- Văn Tuệ là nhờ nghe giảng hoặc nghiên cứu lời dạy của bậc Chánh Đẳng Giác
mà có được hiểu biết đúng như thật về Lý Duyên Khởi, về Vô Thường, về Vô
Ngã, về Khổ Tập Diệt Đạo. Văn Tuệ này đối với bậc Thượng trí có thể đoạn trừ
ngay được Thân kiến, Nghi, Giới cấm thủ và trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.
Văn Tuệ này chưa có thể xoá bỏ được Vô Minh mà nó là thông tin được lưu vào
kho chứa với tên gọi là Minh, là nhân duyên cho Tư Tuệ và Tu Tuệ sinh khởi.

- Tư Tuệ có được do tư duy về những điều đã học, hiểu biết sâu rộng hơn về
điều đã học. Tư Tuệ góp phần xoá bỏ phần nào những hiểu biết Vô Minh sai
lạc, nhưng tác dụng chính là kích hoạt thông tin Minh trong kho chứa để Minh
nổi trội lên hơn hẳn Vô minh, là nhân duyên cho Chánh Niệm khởi lên trong
lộ trình tâm Bát Chánh Đạo, làm phát sinh Tu Tuệ.

- Tu Tuệ là Trí Tuệ do tu tập khởi lên, là Ý thức Chánh Tri Kiến khi thực hành
Bát Chánh Đạo. Hành giả thực sự sống với lộ trình tâm Bát Chánh Đạo, sống
với Ý thức Chánh Tri Kiến. Lộ trình tâm Bát Chánh Đạo có trục chính là:
Chánh Niệm - Chánh Định - Chánh Tri Kiến mà gọi tắt là Niệm - Định - Tuệ
và cũng có thể nói là Giới - Định - Tuệ (vì Giới là nhân duyên cho Chánh
Niệm sinh khởi) nên lộ trình khởi lên Tu Tuệ là lộ trình Niệm - Định - Tuệ hay
Giới - Định - Tuệ. Trí Tuệ do thực hành Bát Chánh Đạo mà khởi lên này mới
làm Hành Giả chứng ngộ và an trú Tuệ Giải Thoát, Trí Tuệ này được tu tập,
được làm cho sung mãn sẽ xoá bỏ hoàn toàn Vô Minh, đưa đến quả A-la-hán.
Sự tu tập Chánh Tri Kiến, tu tập Tuệ đã được Đức Thế Tôn dày công thiết lập
và giảng dạy, nếu rời lộ trình Văn - Tư - Tu mà tu tập Tuệ thì đó là đang đi tìm
“lông rùa sừng thỏ”. Ở thời đại ngày nay, cho dù thông minh bao nhiêu đi nữa
nhưng không thể nào tự mình hiểu biết đúng như thật về Lý Duyên Khởi, về Vô
thường, về Vô ngã, về Khổ Tập Diệt Đạo. Trong nhân loại này chỉ có một người
duy nhất, độc nhất vô nhị, có một không hai, không thầy chỉ dạy, tự mình khám
phá, tự mình chứng ngộ Tứ Thánh Đế. Trí Tuệ thấy biết đúng như thật về Lý
Duyên Khởi, về Vô thường, về Vô ngã, về Khổ Tập Diệt Đạo đã được Ngài
chứng ngộ và tuyên thuyết được những người có trí tiếp thu và thực hành mới
đạt thành đạo quả A-la-hán, chứ các vị đó không thể nào không nghe lời dạy về
Tứ Thánh Đế mà tự mình giác ngộ được. Chính vì vậy Văn Tuệ là bước khởi
đầu, bước quan trọng trong lộ trình tu tập Trí Tuệ, nếu không nghe giảng, không
nghiên cứu kinh điển để hiểu biết đúng như thật về Duyên Khởi, về Tứ Thánh
Đế, không tu tập Bát Chánh Đạo thì đã trượt ra khỏi con đường Giác Ngộ và
Giải Thoát. Có một số chủ trương không cần học tập Tứ Thánh Đế, không cần
phải có một phương pháp tu tập nào chỉ cần kiến tánh là thành Phật, hay nơi cái
Tâm của phàm phu này, nếu kiến tánh thì sẽ thành Phật, nơi đó đầy đủ, sẵn có
tất cả rồi. Tâm của phàm phu là tâm Bát Tà Đạo và cái Tánh của tâm đó là gì?
Trong tâm Bát Tà Đạo của phàm phu ấy bậc Thánh thấy như thật: nó chỉ có
Tánh Vô Minh, tánh Tham Sân Si, tánh Dính mắc, ràng buộc, tánh Sầu Bi Khổ
Ưu Não. Trong tâm Bát Tà Đạo không hề có Tánh Phật, mà Tánh Phật hay Phật
tánh chỉ có nơi Đức Phật và các vị A-la-hán. Phật tánh nơi Phật và các vị A-la-
hán là Trí Tuệ liễu tri tất cả pháp, là Trí Tuệ giác ngộ Tứ Thánh Đế, nó không tự
nhiên từ trên trời rơi xuống, nó không sẵn có nơi các Ngài khi còn phàm phu,
mà Phật tánh đó phải do Đức Phật tự mình học hỏi, tự mình tu tập không thầy
chỉ dạy, các vị A-la-hán phải theo lộ trình Văn - Tư - Tu của Phật chỉ dạy.
Chính cái Phật tánh ấy được tu tập, được làm cho viên mãn mới xoá bỏ được
Tánh Vô Minh, tánh ngu muội của phàm phu, mới giác ngộ Tứ Thánh Đế.

Về mục lục

Bài 158: VÔ MINH VÀ MINH

Trong Đạo Phật có hai thuật ngữ cần đặc biệt lưu tâm, và cần phải nhận thức rốt
ráo, đó là Vô Minh và Minh. Vô minh là hiểu biết không đúng sự thật các sự vật
và hiện tượng mà theo thuật ngữ Phật học gọi là các pháp, còn được gọi là Vọng
tưởng, là Tà kiến, là Không Liễu tri các pháp. Vô Minh là hiểu biết của phàm phu.
Minh là hiểu biết đúng như thật các pháp còn được gọi là Trí tuệ, là Chánh kiến,
là Liễu tri hay Tuệ tri các pháp thuộc về bậc Thánh đã Giác ngộ. Toàn bộ sự tu tập
của người Phật tử bao gồm Pháp học, Pháp hành và Pháp thành là để chấm dứt Vô
minh, để khởi lên Minh, làm cho viên mãn và an trú Minh. Điều này đã được Đức
Thế tôn giảng giải trong Kinh Pháp Môn Căn Bản, một bản kinh quan trọng vào
bậc nhất trong toàn bộ kinh điển. Nội dung của bản kinh chỉ ra rằng: Kẻ phàm phu
Tưởng tri các pháp mà Không Liễu tri các pháp và vì Không Liễu tri các pháp nên
Dục hỷ các pháp. Chính Dục hỷ các pháp là Căn bản (nguyên nhân) của đau khổ.
Bậc Thánh A-la-hán và chư Phật Thắng tri các pháp và Liễu tri các pháp nên
không còn Dục hỷ, nên không còn Nguyên nhân của đau khổ. Người trí qua ví dụ
sau có thể hình dung ra những điều này. Ví như một đứa trẻ một tuổi khi nhìn
thấy một hòn than lửa đỏ, nó sẽ khởi lên hiểu biết về điều được thấy, do hiểu biết
đó nó đi đến cầm lấy hòn than lửa đỏ và kết quả là bỏng tay, rất đau khổ. Một
người lớn đã có kinh nghiệm, khi nhìn thấy hòn than lửa đỏ, hiểu biết về đối
tượng được thấy khởi lên, biết được sự nguy hiểm khi tay chân chạm vào hòn
than lửa đỏ và do hiểu biết như vậy người đó không đưa tay cầm lấy hòn than lửa
đỏ như đứa trẻ kia. Tóm lại là hiểu biết như thế nào thì sống như thế ấy. Nếu hiểu
biết của một người là Vô minh, không đúng với sự thật, thì cuộc sống của người
đó sẽ mâu thuẫn với sự thật, xung đột với sự thật, nên sẽ có sầu bi khổ ưu não.
Nếu hiểu biết của một người là Minh, đúng với sự thật thì sẽ không mâu thuẫn,
không xung đột, và sẽ thích nghi với mọi sự thật và sẽ không có sầu bi khổ ưu
não. Đời sống của mỗi một người cũng chính là Thực tại của người đó bao gồm:
Cái thấy, Cái nghe, Cái cảm nhận, Cái nhận thức và Cái được thấy, Cái được
nghe, Cái được cảm nhận, Cái được nhận thức. Hay nói gọn là Cái thấy biết và
đối tượng được thấy biết mà thuật ngữ Phật học tiếng Tàu gọi là Năng và Sở hay
Năng kiến và Sở kiến. Khảo sát Vô minh và Minh sẽ được trình bày theo hai
phần: Vô minh và Minh đối với Cái thấy biết cũng như Vô minh và Minh đối với
đối tượng của thấy biết
A - Phần thứ nhất:
Vô minh và Minh về đối tượng của thấy biết mà cụ thể là hiểu biết Vô minh và
Minh về những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức. Thấy,
nghe, cảm nhận đối tượng rồi nhận thức hay hiểu biết về đối tượng mới khởi lên.
Thấy, nghe, cảm nhận đối tượng là cái biết trực tiếp giác quan mà Tâm lý học gọi
là Nhận thức cảm tính, Thánh hay Phàm đều giống nhau, còn nhận thức hay hiểu
biết về đối tượng là cái biết Ý thức mà Tâm lý học gọi là Nhận thức lý tính. Bàn
đến Vô minh hay Minh là bàn đến cái biết Ý thức hay Nhận thức lý tính này.
- Nhận thức lý tính hay cái biết Ý thức của nhân loại (ngoại trừ các bậc Thánh) là
Tâm biết Cảnh nghĩa là Mắt thấy Sắc trần, Tai nghe Thanh trần, Mũi ngửi Hương
trần, Lưỡi nếm Vị trần, Thân biết Xúc trần, Ý biết Pháp trần. Cái Biết thuộc về
con người chủ quan với Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân Ý và đối tượng được biết là Thế
giới khách quan Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp. Nội dung của hiểu biết chính là
hiểu biết về thế giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp, và theo triết học là: Thế giới
khách quan được phản ánh trong Ý thức chủ quan của con người. Cái biết này vẫn
thường được gọi là nhị nguyên Tâm Cảnh hay Tâm Vật. Với cái hiểu biết này khi
thấy, nghe, cảm nhận một đối tượng thì tiếp liền theo đó Ý thức nhị nguyên sẽ
khởi lên. Ví như mắt tiếp xúc với quả táo, thì Ý thức khởi lên: Ta thấy quả táo này
to tròn, màu hồng, đẹp quá. Tai tiếp xúc với âm thanh khi quả táo rơi từ trên cây
xuống đất, Ý thức khởi lên, Ta nghe tiếng của quả táo trầm quá. Khi mũi tiếp xúc
với quả táo, Ý thức khởi lên, Ta biết quả táo thơm quá. Khi răng xúc chạm với
quả táo, Ý thức khởi lên, Ta biết quả táo này giòn. Lưỡi tiếp xúc với táo, Ý thức
khởi lên, Ta biết quả táo này ngọt ngon. Sau tiếp xúc xong nghĩ tưởng lại, Ý thức
khởi lên, Ta biết quả táo này đẹp, giòn, thơm, ngon quá. Trong cái biết Ý thức nhị
nguyên này có hai phần: Ta biết (có một cái Ta là chủ nhân của cái biết) và đối
tượng được biết là quả táo (Sắc pháp) với các đặc điểm to tròn, màu hồng, đẹp,
giòn, thơm, ngọt ngon... Đối tượng được biết là quả táo, là Sắc pháp nên các pháp
như: to, tròn, đẹp, giòn, ngọt, ngon, thơm sẵn có nơi quả táo, thường xuyên có nơi
quả táo, thường trú nơi quả táo. Quả táo này có mất đi thì các pháp to, tròn, đẹp,
giòn... vẫn thường còn, vẫn tồn tại nơi những quả táo khác, các pháp đó không từ
đâu sinh ra cũng không mất đi mà chỉ biến đổi từ vật này sang vật khác, từ dạng
này sang dạng khác, và như vậy nó không sinh không diệt. Các pháp này như to,
tròn, đẹp, giòn... có quan hệ với quả táo theo quan hệ chủ nhân, chủ sở hữu, nghĩa
là quả táo là chủ nhân, chủ sở hữu các pháp đó, nghĩa là to tròn giòn đẹp... là của
quả táo. Như vậy với hiểu biết này các pháp như to tròn hồng đẹp giòn thơm ngọt
ngon... là Vật Chất, Thường Hằng và Hữu Chủ. Tương tự như vậy, tất cả các pháp
khác như to nhỏ, vuông tròn, dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay,
cứng mềm thô mịn, nhơ sạch, tăng giảm, nóng lạnh, không gian thời gian, sống
chết, khổ đau, hạnh phúc, đàn ông, đàn bà, trâu bò, nhà cửa, xe cộ v.v.. là vật chất
hoặc thuộc về thế giới vật chất và đều Thường Hằng, Thường Trú trong Vật Chất,
trong Sắc pháp và đều Hữu Chủ. Với hiểu biết ý thức nhị nguyên như vậy của
nhân loại, nhân loại thấy biết một Thế giới Sắc pháp tồn tại khách quan trong
Không gian và Thời gian với muôn hồng ngàn tía, sum la vạn tượng. Với Ý thức
nhị nguyên Tâm biết Cảnh thì nhân loại cũng biết Khổ, Nguyên nhân Khổ, Sự
Chấm dứt Khổ và Con Đường Chấm dứt Khổ thường hằng thường trú nơi hoàn
cảnh và hữu chủ. Cụ thể: hoàn cảnh tuy đa dạng nhưng có thể phân thành ba loại:
Dễ chịu, Khó chịu và Trung tính (không dễ chịu không khó chịu).
- Khổ tồn tại, Khổ thường hằng, thường trú ở nơi những hoàn cảnh tồi tệ, khó
chịu như nghèo đói, lạc hậu, thiếu thốn tri thức, tiện nghi, bị áp bức bất công,
thiên tai lũ lụt... Khổ cũng tồn tại, thường hằng, thường trú nơi những hoàn cảnh
Trung tính, không dễ chịu không khó chịu.
- Nguyên nhân Khổ là từ những hoàn cảnh Khó chịu và Trung tính mà đến với
con người. Ví như khi đi trong mưa gió ướt lạnh, cảm nhận Khổ rồi khởi lên hiểu
biết, Khổ là do trời mưa mang đến cho Ta; hoặc khi bà vợ bị chồng chửi mắng,
cảm nhận Khổ rồi khởi lên hiểu biết khổ từ chồng mà đến, khổ này là do chồng.
- Sự chấm dứt Khổ chính là Hạnh phúc, mà Hạnh phúc cũng thường hằng,
thường trú trong những hoàn cảnh dễ chịu như giàu có, sắc đẹp, thành đạt, nổi
tiếng...
- Con đường Chấm dứt Khổ là thay đổi hoàn cảnh sống, tức phấn đấu nỗ lực để
chấm dứt những hoàn cảnh khó chịu, trung tính và đạt được những hoàn cảnh dễ
chịu.

Như vậy Khổ Tập Diệt Đạo là Thường Hằng, Thường Trú nơi ngoại cảnh, nơi
Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp. Khổ Tập Diệt Đạo cũng Hữu Chủ vì nhân loại
cho rằng có một cái Ta là chủ nhân, chủ sở hữu của Khổ Tập Diệt Đạo. Ta hạnh
phúc (chấm dứt Khổ), Ta khổ đau, Hoàn cảnh khổ đau này là của Ta, Ta đang
nỗ lực để chấm dứt khổ đau. Hiểu biết Thường Hằng, Thường Trú và Hữu Chủ
này theo thuật ngữ Phật học gọi là Thường Kiến và Ngã Kiến. Hiểu biết này là
Vô Minh, Vọng Tưởng, là Tà Kiến, là Không Liễu Tri các pháp.

Do Vô Minh về Khổ Tập Diệt Đạo nên khi thấy nghe, cảm nhận một đối tượng,
hiểu biết Vô Minh (Thường Kiến, Ngã Kiến) ấy khởi lên và nếu Vô minh xác
định đối tượng ấy là:
- Dễ chịu thì thích thú (thuật ngữ Phật học gọi là Tham) khởi lên, vì Vô minh cho
rằng nó là Hạnh phúc, là Chấm dứt Khổ.

- Khó chịu thì chán ghét (thuật ngữ Phật học gọi là Sân) khởi lên, vì Vô minh cho
rằng nó là Nguyên nhân Khổ.

- Trung tính thì không thích, không ghét và không chú tâm an trú đối tượng đó
mà phát sinh hành vi Tìm Kiếm một đối tượng Dễ chịu để thay thế đối tượng
trung tính này. (Thuật ngữ Phật học gọi hành vi này là Si) do vì Vô minh cho
rằng đối tượng này cũng mang đến khổ.

Đây chính là Vô minh duyên Hành, nghĩa là do Vô minh có mặt mà các Hành
(Tham Sân Si) có mặt.

1 - Hiểu biết đúng như thật các pháp hay Minh:

Đức Phật là bậc Chánh Đẳng Giác, Ngài đã tự mình giác ngộ chân lý, đã có hiểu
biết như thật, đã liễu tri tất cả pháp. Sự Giác ngộ của Ngài là như thế nào?

Trong Kinh Phạm Võng, bản kinh được xếp số một của Trường Bộ Kinh có
điểm mặt 62 tà kiến, là những hiểu biết sai lạc. Những Tà kiến ấy có nội dung
bàn về Bản Ngã và Thế giới, dựa trên cái biết nhị nguyên Tâm Vật, mà cụ thể là
Bản Ngã là chủ thể biết và đối tượng được biết là Thế Giới. Các trường phái
Phật giáo sau này cũng y theo cái biết nhị nguyên Bản Ngã và Thế giới như vậy
mà giải thích sự giác ngộ của Đức Phật là giác ngộ về Bản Tâm không sinh
không diệt và giác ngộ Thế giới bản thể tuyệt đối vô tướng. Đó cũng là những
Tà kiến phát sinh sau này chưa được liệt kê trong Kinh Phạm Võng. Vậy sự
Giác Ngộ của Đức Phật là giác ngộ về cái gì? Trong suốt bản kinh Phạm Võng,
cứ mỗi lần điểm mặt một Tà kiến, Ngài lại tuyên bố về điều Ngài giác ngộ,
Ngài đã tuyên bố: "Này các Tỷ kheo, Như Lai nhờ như thật tuệ tri sự sinh diệt
của Thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ, Như Lai được giải
thoát hoàn toàn không còn chấp thủ".

Và như thế nào là nhờ Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, những nguy hiểm và
sự xuất ly của Thọ mà Đức Phật đã được giải thoát hoàn toàn không còn chấp
thủ?

a - Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ:

Thọ là cách gọi tắt của Cảm thọ, một thuật ngữ Phật học Hán Việt, nếu hiểu theo
tiếng Việt thì gọi là Cảm giác. Khi Sáu Căn (Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân Ý) tiếp xúc
Sáu Trần (Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp) phát sinh sáu Cảm thọ hay sáu Cảm
giác đồng thời phát sinh sáu cái biết Trực Tiếp Giác Quan nhận biết sáu Cảm thọ
(sáu cái biết Trực tiếp giác quan này thuật ngữ Phật học gọi là Tưởng)

- Mắt tiếp xúc Sắc trần phát sinh: Cảm giác hình ảnh - Nhãn thức

- Tai tiếp xúc Thanh trần phát sinh: Cảm giác âm thanh - Nhĩ thức

- Mũi tiếp túc Hương trần phát sinh: Cảm giác mùi - Tỉ thức

- Lưỡi tiếp xúc Vị trần phát sinh: Cảm giác vị - Thiệt thức

- Thân tiếp xúc Xúc trần phát sinh: Cảm giác xúc chạm - Thân thức

- Ý tiếp xúc Pháp trần phát sinh: Cảm giác pháp trần - Tưởng thức
- Viết gộp lại là: Xúc Cảm giác (Thọ) - Tưởng
Ví như có một hòn đá cỡ 5 kg (Xúc trần) và bàn tay (Thân căn) được kể là hai
nhân (bình đẳng nhau, không nhân nào phụ thuộc nhân nào, không nhân nào sở
hữu nhân nào) nhưng chưa tiếp xúc với nhau thì chưa có "cái nặng" nào cả. Khi
bàn tay tiếp xúc hòn đá theo kiểu "nhấc" thì lập tức Cảm giác "nặng" phát sinh và
cho dù Phàm hay Thánh đều cảm nhận (nhận biết) được Cảm giác nặng này. Đây
mới là "nặng" thực, là Thực Tại cuộc sống hàng ngày của mỗi người cho dù là
Phàm hay Thánh. Nhận biết Cảm giác nặng là cái biết trực tiếp giác quan và được
gọi là Thân thức mà Thánh hay Phàm đều như nhau. Quán sát nơi sự thật ấy hiểu
biết ngay liền: Xúc sinh Cảm giác nặng sinh, Xúc diệt Cảm giác nặng diệt. Cảm
giác nặng sinh lên rồi diệt đi, trước khi sinh ra nó chưa có nên không thường
hằng, không thường trú, không sẵn có nơi hòn đá, khi diệt đi Cảm giác nặng
không còn nữa nên không có trong hòn đá, vì vậy Cảm giác nặng vô thường. Cảm
giác nặng cũng Vô chủ, nghĩa là hòn đá và bàn tay đều không phải chủ nhân, chủ
sở hữu Cảm giác nặng. Như vậy khi tay tiếp xúc hòn đá phát sinh Cảm giác nặng,
Thánh hay Phàm đều cảm nhận được, nhưng sau khi cảm nhận Cảm giác nặng,
hiểu biết hay nhận thức về đối tượng đó lại khác nhau. Phàm phu nhận thức: Tôi
biết hòn đá nặng, nghĩa là đối tượng được hiểu biết là hòn đá, là Sắc pháp thuộc
về Thế giới vật chất, và như vậy "nặng" là Vật chất, Thường Hằng và Hữu Chủ.
Bậc Thánh y theo Lý Duyên Khởi hiểu biết như thật "nặng" là Cảm giác, là Pháp
duyên khởi do duyên hai nhân tay và hòn đá tiếp xúc nhau mà phát sinh ra, nó
thuộc phạm trù Tâm, nó Vô thường, nó Vô chủ. Trở lại với thí dụ ban đầu: khi
Mắt Tai Mũi Lưỡi Thân tiếp xúc với quả táo:
- Mắt tiếp xúc quả táo phát sinh: Cảm giác hình ảnh và nhãn thức. Nhãn thức thấy
Cảm giác hình ảnh chứ không phải thấy quả táo sắc pháp. Đây là điều tế nhị, sâu
kín, khó thấy, khó chứng vì hiểu biết vô minh đã mặc định là mắt thấy quả táo vật
chất, nó như một dải băng đen bịt mắt nhân loại nên không có thể hiểu được đối
tượng được Nhãn thức thấy là Cảm giác hình ảnh do Mắt tiếp xúc quả táo phát
sinh ra. Nếu mắt thấy quả táo vật chất thì khi quả táo đó cách mắt 1 mét, cách mắt
10 mét, cách mắt 100 mét, cái được thấy đó là quả táo thì phải đồng nhất, phải
như nhau, nhưng sự thực cái được thấy đó là Cảm giác hình ảnh do quả táo sắc
pháp tiếp xúc với mắt ở các vị trí khác nhau phát sinh ra nên nó to nhỏ khác nhau.
Dĩ nhiên không phải không có quả táo vật chất đặt tại các địa điểm đó, nó có đấy
nhưng Nhãn thức không thấy được quả táo vật chất sắc pháp đó. Với hiểu biết
như thật này thì: to tròn đẹp... là các ngôn từ, là pháp chế định, là phương tiện
truyền thông nhằm ám chỉ các Cảm giác hình ảnh mà Nhãn thức thấy, (chứ không
phải là các đặc tính của quả táo), nó thuộc phạm trù Tâm chứ không phải Cảnh và
biết ngay liền các pháp đó Vô thường, Vô chủ.
- Tai tiếp xúc với âm thanh do quả táo va chạm với đất phát sinh ra: Cảm giác âm
thanh và Nhĩ thức. Quả táo tiếp xúc với đất phát sinh ra các dao động (rung động),
các dao động này được dẫn truyền theo môi trường không khí, đó chính là âm
thanh mà các dụng cụ khoa học đã ghi nhận được, đã xác định được biên độ và
tần số của nó. Âm thanh là một nhân và Tai là nhân thứ hai nhưng chưa tiếp xúc
với nhau (Âm thanh ở xa Tai quá hoặc nút kín tai lại) thì chưa có gì nhưng khi có
đủ điều kiện, Âm thanh đủ gần và Tai đang hoạt động tốt thì Xúc xảy ra và do
Xúc mà phát sinh Cảm giác âm thanh và Nhĩ thức. Nhĩ thức nghe Cảm giác âm
thanh chứ không phải Nhĩ thức nghe Thanh trần. Cảm giác âm thanh sinh lên rồi
diệt đi theo duyên Xúc, còn Âm thanh có thể nó vẫn tiếp tục truyền dẫn đi xa hơn
nữa. Với hiểu biết này thì trầm, bổng, du dương... là các ngôn từ, là pháp chế
định, là phương tiện truyền thông để ám chỉ các Cảm giác âm thanh và nó Vô
thường, Vô chủ chứ không phải là đặc tính của Thanh trần như hiểu biết sai lầm
của nhân loại.
- Mũi tiếp xúc với Mùi hương quả táo phát sinh Cảm giác mùi thơm và Tỉ thức. Tỉ
thức cảm nhận Cảm giác mùi, do Mũi tiếp xúc Hương trần phát sinh ra, chứ
không phải nhận biết mùi hương từ quả táo bay ra. Cảm giác mùi này như thế nào
không những tuỳ thuộc vào Hương trần mà còn tuỳ thuộc vào Mũi. Ví như cùng
một quả táo có Hương trần như vậy nhưng Mũi những người khác nhau khi tiếp
xúc sẽ phát sinh Cảm giác mùi khác nhau và vì vậy họ sẽ cảm nhận khác nhau,
Cùng quả táo ấy khi khoẻ mạnh hay ốm đau, đặc biệt khi mũi bị bệnh Cảm giác
mùi sẽ khác nhau. Vậy thì đối tượng của Tỉ thức là Cảm giác mùi và Cảm giác
mùi này là Tâm, nó Vô thường, Vô chủ và thơm là một ngôn từ, là pháp chế định,
là phương tiện truyền thông để ám chỉ một thực tại, một pháp là một loại Cảm
giác mùi chứ không phải là mùi hương của quả táo như hiểu biết mê lầm của nhân
loại.
- Lưỡi tiếp xúc với táo phát sinh Cảm giác vị và Thiệt thức. Thiệt thức nhận biết
Cảm giác vị chứ không phải Thiệt thức nhận biết vị của quả táo. Xúc sinh Cảm
giác vị sinh, Xúc diệt Cảm giác vị diệt, nó Vô thường, Vô chủ chứ không thường
hằng, không thường trú nơi quả táo, không phải là của quả táo vì rằng cùng quả
táo ấy tiếp xúc với lưỡi khi khoẻ mạnh thì phát sinh Cảm giác vị ngọt ngon nhưng
cùng quả táo ấy tiếp xúc với lưỡi khi người ấy ốm nặng thì sẽ phát sinh cảm giác
vị chát đắng. Như vậy ngọt ngon chát đắng là ngôn từ, là pháp chế định, là
phương tiện truyền thông để ám chỉ một thực tại, một pháp là Cảm giác vị chứ
không phải là vị trần thuộc về Vật chất như mê lầm của nhân loại.
- Răng (Thân căn) tiếp xúc Quả táo (Xúc trần) phát sinh Cảm giác giòn và Thân
thức. Răng và quả táo là hai nhân nhưng nếu chưa tiếp xúc thì chưa có cái giòn
nào cả, khi răng tiếp xúc quả táo thì lập tức phát sinh Cảm giác giòn. Đây mới là
cái giòn thực mà Thánh hay Phàm đều cảm nhận được và đang sống với cái giòn
thực này. Cái giòn thực này là Cảm giác do duyên Xúc mà khởi lên, nó Vô
thường, Vô chủ, nó là Tâm chứ không phải là Vật chất thường hằng, thường trú
nơi quả táo, của quả táo như nhận thức mê lầm của nhân loại.
- Ý tiếp xúc với Pháp trần: Năm Căn tiếp xúc Năm Trần và hiểu biết theo kiểu Vô
minh hay Minh về đối tượng được Thấy, Nghe, Cảm nhận sẽ được lưu giữ vào
trong "kho chứa thông tin" đã được mã hoá. Khi Ý Căn tiếp xúc với lượng thông
tin này (gọi là Pháp trần) thì các Cảm giác hình ảnh, Cảm giác âm thanh, Cảm
giác mùi, Cảm giác vị, Cảm giác xúc chạm và các hiểu biết đối tượng được "tái
hiện" lại và được gọi là Cảm giác pháp trần đồng thời cũng phát sinh cái biết trực
tiếp giác quan gọi là Tưởng thức nhận biết Cảm giác pháp trần. Như vậy khi năm
Căn tiếp xúc với quả táo phát sinh năm Cảm giác và năm cái biết trực tiếp giác
quan nhận biết năm cảm giác như là to, tròn, đẹp, hồng, giòn, thơm, ngọt, ngon...
Vậy thì cái được biết hay là đối tượng được biết là các Cảm giác chứ không phải
đối tượng được biết là quả táo, không phải biết về quả táo vật chất. Khi Ý tiếp xúc
với Pháp trần nó xảy ra nơi "kho chứa thông tin" với các thông tin về cảm giác
chứ không xảy ra nơi quả táo, không xảy ra với các thông tin về quả táo. Các hiểu
biết khởi lên ở đây cũng là hiểu biết về các Cảm giác chứ không phải là hiểu biết
về quả táo. Quả táo sắc pháp là có thật, không phải không có, nó là một nhân cho
Cảm giác sinh khởi, không có nhân đó năm Cảm giác không sinh khởi được
nhưng cái được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là Cảm giác chứ
không phải quả táo sắc pháp, Ý thức chỉ biết là có quả táo chứ không thấy, nghe,
cảm nhận, nhận thức được quả táo.
Với hiểu biết đúng sự thật này thì các pháp như: to nhỏ vuông tròn, dài ngắn,
xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng mềm thô mịn, nặng nhẹ, nhà cửa,
trâu bò, ruộng đồng, rừng núi, đàn ông, đàn bà, hữu tình, vô tình, không gian, thời
gian, Hạnh phúc, Khổ đau v.v.. là các ngôn từ, là pháp chế định, là phương tiện
truyền thông nhằm ám chỉ các Cảm giác hay Cảm thọ chứ không phải là Thế giới
vật chất Sắc Thanh Hương Vị Xúc. Những gì được THẤY, được NGHE, được
CẢM NHẬN, được NHẬN THỨC là các CẢM THỌ. Sau khi thấy nghe cảm
nhận Cảm thọ, Niệm và Tư Duy khởi lên và do Niệm, Tư Duy mà phát sinh Ý
thức, hiểu biết đối tượng. Niệm, Tư Duy, Ý thức cũng cùng đối tượng là Cảm thọ
đó. Do có hiểu biết về đối tượng mà sẽ phát sinh Thái độ và do có Thái độ mà
phát sinh lời nói hoặc hành động để thể hiện Thái độ cũng là đối với Cảm thọ đó.
Lộ trình từ Niệm đến lời nói, hành động hoàn toàn là nội tâm chứ không phải là
ngoại cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc.

Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ là hiểu biết đúng sự thật: Tất cả những gì được
thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là các Cảm thọ hay Cảm giác
do sáu Căn tiếp xúc với sáu Trần phát sinh ra, nó thuộc phàm trù Tâm, nó Vô
Thường, nó Vô Chủ hay Vô Ngã. Nếu hiểu biết như thật này được rèn luyện,
được tu tập, được làm cho viên mãn thì khi thấy, nghe, cảm nhận, hiểu biết
đúng như thật này lập tức khởi lên biết đối tượng đó là Cảm thọ, biết nó Vô
thường, sinh lên rồi diệt đi ngay, biết nó Vô ngã, nghĩa là không có cái gì là chủ
nhân điều khiển được nó, biết như thật không thể nắm giữ, không thể xua đuổi
nó nên tâm sẽ bất động đối với sự đến đi của nó.

b - Tuệ tri vị ngọt của Thọ:

Thọ theo tính chất được phân làm ba loại gồm: Lạc thọ hay Cảm giác dễ chịu,
Khổ thọ hay Cảm giác khó chịu, Bất khổ bất lạc thọ hay Cảm giác trung tính.

- Lạc thọ là vị ngọt của Thọ. Vị ngọt này nhân loại quan niệm là Hạnh phúc, nó
thường hằng, thường trú trong hoàn cảnh tốt đẹp, nó là của Ta. Hạnh phúc là có
thật, nó không phải là giả, không thật, nó không phải là ảo giác, ai ai cũng cảm
nhận được nó cho nên kẻ phàm phu mới Tham ái vị ngọt. Thực tại của nhân loại
không phải như một số chủ trương cực đoan là chỉ hoàn toàn đau khổ, mà Thực
tại có cả Khổ đau và Hạnh phúc nhưng Tuệ tri vị ngọt là biết như thật Hạnh phúc
là có thật, nhưng nó là Cảm giác dễ chịu và nó Vô thường, Vô chủ. Khi có một
Lạc thọ kẻ phàm phu thích thú Lạc thọ (Tham ái) và thích thú được phát sinh nơi
tế bào thần kinh não bộ. Những thông tin về Tham sẽ được dẫn truyền đến các tế
bào nội tạng như tim, gan, thận, dạ dày... và tại các tế bào này có sự tiếp xúc với
lượng thông tin ấy. Do có Nội Xúc như vậy mà phát sinh các Cảm giác dễ chịu
rất vi tế, nếu thích thú càng lớn thì "cơn bão" Cảm giác này càng trào dâng nên
người đó cảm nhận một Cảm giác lâng lâng hạnh phúc.

- Khổ đau cũng là Cảm giác và nó cũng Vô thường, Vô chủ. Khi một Khổ thọ
hoặc Bất khổ bất lạc thọ khởi lên nơi kẻ phàm phu thì Sân Si khởi lên, và lượng
thông tin Sân Si phát sinh nơi tế bào thần kinh não bộ sẽ được dẫn truyền tới các
tế bào nội tạng, vì thế tại các tế bào nội tạng sẽ có Nội Xúc và do Nội Xúc này
mà "cơn bão" Cảm giác khó chịu phát sinh và người đó sẽ cảm nhận Cảm giác
đau khổ.
c - Tuệ tri sự nguy hiểm:

Lạc thọ là vị ngọt, nó Vô thường, Vô chủ, nếu thích thú (Tham ái) thì sẽ nắm
giữ nó nên khi nó diệt đi, mất đi sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên. Nếu không thích
thú sẽ không nắm giữ nên khi nó mất đi, sầu bi khổ ưu não không thể khởi lên.
Vì vậy Tham ái lạc thọ là nguyên nhân của Khổ. Vì Tham ái lạc thọ mà "Khát
ái tìm cầu hỷ lạc (Hạnh phúc) chỗ này chỗ kia như Dục ái, Hữu ái và Phi hữu
ái" vì vậy mà cha tranh đoạt với con, vợ chồng tranh đoạt nhau, gia đình, họ
hàng, đất nước tranh đoạt nhau, vì thế mà có sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói
dối, uống rượu, vì thế mới có lừa đảo, phá sản, tàn sát tàn hại lẫn nhau, vì thế
mới huỷ hoại môi trường sống, vì thế mới có ma tuý và bom nguyên tử để đầu
độc và huỷ diệt nhau, vì thế mà có tất cả mọi tội ác cũng như khổ đau vô cùng
tận trên cõi đời này... Vậy Tham ái là nguy hiểm vì nó đưa đến khổ đau. Nếu
nói rộng ra thì Tham đối với Lạc thọ, Sân đối với Khổ thọ, Si đối với Bất khổ
bất lạc thọ là sự nguy hiểm vì nó là Nguyên nhân phát sinh Khổ. Có thể biết rõ
điều này theo sơ đồ sau:

- Lạc thọ - Tham - Ràng buộc - Hoại Khổ

- Khổ thọ - Sân - Ràng buộc - Khổ Khổ

- Bất khổ bất lạc thọ - Si - Ràng buộc - Hành Khổ


d - Tuệ tri sự xuất ly của Thọ:

Nếu thấy, nghe, cảm nhận một đối tượng rồi hiểu biết như thật: Tuệ tri sự sinh
diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm khởi lên thì sẽ kinh nghiệm được Không có
Tham đối với Lạc thọ, Không có Sân đối với Khổ thọ, Không có Si đối với Bất
khổ bất lạc thọ. Đây gọi là Tuệ tri sự xuất ly của Thọ. Ví như khi nhìn thấy một
cốc nước, nếu hiểu biết cốc nước ngon lành, uống vào sẽ hết khát thì sẽ uống
ngay, nhưng nếu thấy cốc nước rồi hiểu biết về sự nguy hiểm khởi lên, trong cốc
nước này có độc, uống vào là chết thì cho dù đang khát khô cổ vẫn không thể nào
uống được. Ví như khi thấy một cục than đang cháy đỏ rồi hiểu biết về sự nguy
hiểm khởi lên, cầm phải hòn than cháy đỏ này sẽ bị bỏng tay, rất đau khổ thì
không thể nào đưa tay cầm lấy hòn than đang cháy đỏ. Tuệ tri sự xuất ly của Thọ
là biết như thật không có Tham Sân Si đối với Thọ cũng có nghĩa là tuệ tri Khổ
Diệt hay Diệt đế hay Niết bàn. Khi không có Tham với Lạc thọ thì các thông tin
thích thú không phát sinh nơi các tế bào thần kinh não bộ, vì vậy không có lượng
thông tin đó truyền dẫn về các tế bào nội tạng và sẽ không có Nội Xúc nên không
có "cơn bão" Cảm giác lâng lâng hạnh phúc. Khi không có Sân với Khổ thọ,
không có Si với Bất khổ bất lạc thọ thì sẽ không có thông tin Sân Si phát sinh nơi
tế bào thần kinh não bộ, vì vậy không có thông tin Sân Si truyền dẫn đến các tế
bào nội tạng và sẽ không có Nội Xúc nên không có "cơn bão" Cảm giác khổ đau
xuất hiện. Như vậy khi không có Tham Sân Si đối với Thọ thì cũng sẽ biết rõ
được sự vắng lặng, sự vắng mặt của cả Khổ đau và Hạnh phúc. Đây chính là Tuệ
tri Khổ Diệt hay Niết Bàn. Tuy nhiên để Tuệ tri Khổ Diệt hay Tuệ tri Niết Bàn thì
hiểu biết như thật: Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất
ly của Thọ cần được tu tập, cần được làm cho viên mãn theo lộ trình Văn Tuệ, Tư
tuệ, Tu tuệ. Văn tuệ, Tư tuệ là sự chuẩn bị để khởi lên Tu tuệ trên lộ trình tâm Bát
Chánh Đạo mà trục chính là Chánh Niệm - Chánh Định - Chánh Kiến gọi tắt là
Niệm - Định - Tuệ. Vì vậy Bát Chánh Đạo là Con đường chấm dứt Khổ. Như vậy
Đức Phật giác ngộ về Cảm thọ chứ không phải giác ngộ về Thế giới là như thế
này hay Thế giới như thế kia, không phải là giác ngộ Thế giới hiện tượng tương
đối Tục Đế hay Thế giới bản thể tuyệt đối Chân Đế. Sự Giác ngộ đó là Tuệ tri sự
sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ, và nói theo cách
khác là về Tứ Thánh Đế. Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ cũng chính là Tuệ tri Khổ, là
hiểu biết như thật Khổ: Khổ khởi lên do duyên Xúc, Khổ là Cảm giác thuộc phạm
trù tâm, Khổ có tính chất Vô thường, Vô chủ chứ Khổ không phải là Cảnh, không
thường hằng, thường trú nơi Cảnh, không phải là của Cảnh như hiểu biết mê lầm
của phàm phu. Tuệ tri vị ngọt, sự nguy hiểm chính là Tuệ tri Nguyên nhân Khổ, là
hiểu biết như thật Tham Sân Si là Nguyên nhân Khổ, nó thuộc phạm trù tâm, nó
cũng Vô thường, Vô chủ chứ không phải Nguyên nhân của Khổ ở nơi Cảnh,
thường hằng, thường trú nơi những hoàn cảnh khó chịu và trung tính, không phải
là của những hoàn cảnh ấy như mê lầm của phàm phu. Sự chấm dứt Khổ hay Niết
bàn là sự đoạn tận hoàn toàn không còn phát sinh trở lại của Tham Sân Si chứ
không phải là Hạnh phúc, thường hằng, thường trú trong những hoàn cảnh dễ
chịu, là của hoàn cảnh dễ chịu như mê lầm của phàm phu. Con đường chấm dứt
Khổ là thay đổi lộ trình tâm từ Bát Tà Đạo của phàm phu sang Bát Chánh Đạo
của bậc Thánh chứ không phải thay đổi hoàn cảnh xấu xa tồi tệ và trung tính
thành một hoàn cảnh dễ chịu tốt đẹp như mê lầm của phàm phu.
2- Những hiểu biết Vô Minh, mê lầm do không tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị
ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ:
a - Do không biết như thật những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận, được
nhận thức là các Cảm thọ và do hiểu biết Vô minh Tâm biết Cảnh nên có rất nhiều
quan niệm về Thế giới hay rất nhiều Thế giới quan sai khác. Những thế giới quan
sai khác đó là do Tư duy, do lập luận mà hình thành. Tư duy, lập luận để hình
thành một thế giới quan xảy ra nơi "kho chứa thông tin" chứ không phải xảy ra
nơi Thế giới Vật chất. Sự tư duy là phân tích, so sánh, tổng hợp, phán đoán, kết
luận rồi trừu tượng và khái quát hoá nhưng những thông tin này là thông tin về
Cảm thọ chứ không phải là thông tin về Sắc Thanh Hương Vị Xúc trần nên cái thế
giới quan hình thành do tư duy lập luận như vậy là không đúng sự thật, là Vọng
tưởng, là tư duy lý luận suông. Trong kinh Phạm Võng có liệt kê 62 tà kiến trong
đó có các quan niệm sai khác nhau về Thế giới vật chất, tức các thế giới quan sai
khác và Kinh khẳng định đó là sự không thấy, không biết như thật Cảm thọ, là sự
Xuyên Tạc Sự Thật của các Sa môn, Bà-la-môn bị tham ái chi phối. Trong lịch sử
khoa học nhân loại có rất nhiều học thuyết được đưa ra dựa trên tư duy lập luận và
từ đó các thế giới quan và vũ trụ quan sai khác đã ra đời. Từ những quan niệm cổ
xưa vật chất là tứ đại đất nước gió lửa, trời tròn đất vuông, thế giới là Cửu sơn bát
hải, đến học thuyết của Vật lý cổ điển, học thuyết lượng tử, học thuyết về hạt cơ
bản, vụ nổ BigBang v.v.. Các học thuyết ấy, các thế giới quan, vũ trụ quan ấy cứ
phủ định lẫn nhau, xem ra không ai công nhận ai đến nỗi một số nhà bác học lỗi
lạc đã phát biểu: Cho đến ngày nay, một điều chắc chắn nhất là chúng ta không
biết vật chất là gì, không biết năng lượng thực chất là gì. Điều này là sự thực vì
con người tư duy lập luận nơi các thông tin nhưng đó là thông tin về Cảm thọ, chứ
không phải là thông tin về thế giới vật chất, nhưng vì Vô minh con người lại áp
đặt cho thế giới vật chất, nên mới có các thế giới quan, vũ trụ quan vọng tưởng sai
khác như vậy.
b - Do không như thật Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, không biết như thật những gì
được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là Cảm thọ nên nhân loại
phần lớn rơi vào hai Biên kiến, rơi vào hai cực đoan: chấp Có và chấp Không.
- Một cực đoạn chấp chặt vào những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận,
được nhận thức là thế giới vật chất, ví như đàn ông, đàn bà, ngựa xe, nhà cửa...
được thấy đó là đàn ông, đàn bà vật chất xương thịt. Đây gọi là chấp Có, còn gọi
là Thường Kiến hay Duy Vật.
- Một cực đoan khác chấp chặt những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận,
được nhận thức là không có thực, không có đàn ông, đàn bà, không có ai cả,
không có trâu bò ngựa xe... Tất cả đều do Thượng đế toàn năng hoá hiện ra, hoặc
là sự trình hiện của Bản Tâm tuyết đối. Đây là chấp Không, còn gọi là Đoạn Kiến
hay Duy Tâm.
c - Do không như thật Tuệ tri các Cảm thọ mà các trường phái Phật giáo đã đề ra
học thuyết về Nhị đế. Họ tư duy và lập luận rằng Thế giới thực tại bao gồm hai
phương diện: Thế giới thực tại tuyệt đối và Thế giới thực tại tương đối. Thế giới
thực tại tương đối là thế giới hiện tượng mà con người nhận biết hàng ngày, một
thế giới ước lệ hay chế định vận hành theo nguyên lý nhân quả. Đó là thế giới của
hình tướng, có vuông tròn to nhỏ, dài ngắn, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua
cay, cứng mềm thô mịn, có được mất, nhơ sạch, tăng giảm, có sinh có diệt, có đàn
ông đàn bà, có Phật có chúng sanh, có luân hồi sinh tử v.v.. Thế giới thực tại có
tướng như vậy được gọi là Tục đế. Cũng do tư duy và lập luận họ quan niệm rằng
Thế giới thực tại tương đối có tướng gọi là Tục đế như vậy là sự trình hiện từ một
Thế giới thực tại bản thể tuyệt đối vô tướng. Trong Thế giới thực tại bản thể vô
tướng gọi là Chân đế này (có trường phái gọi là Tánh Không) không có bất kỳ
một hình tướng ước lệ hay chế định nào, không có to nhỏ vuông tròn dài ngắn,
không có mặn ngọt chua cay, cứng mềm thô mịn, không có nhà cửa, rừng núi
sông ngòi người vật, không có đàn ông đàn bà, không có phật, chúng sinh, không
có nhơ sạch tăng giảm, không có sinh diệt, không có sắc thọ tưởng hành thức,
không có mắt tai mũi lưỡi thân ý, không có sắc thanh hương vị xúc pháp, không
có nhãn giới cho đến ý thức giới, không có minh cũng như vô minh, không khổ
tập diệt đạo v.v.. Hai thế giới thực tại bản thể tuyệt đối Chân Đế và hiện tượng
tương đối Tục Đế này không mâu thuẫn và tách rời nhau mà Thế giới thực tại bản
thể tuyệt đối Chân Đế là nền tảng cho Thế giới thực tại hiện tượng tương đối Tục
Đế và Thế giới thực tại Tục Đế là sự trình hiện của Thế giới thực tại Chân Đế.
Những lập luận cao siêu này được phát minh ra nhằm tránh hai cực đoan chấp thế
giới được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là Thế giới vật chất
Thật Có và cực đoan thứ hai cho rằng Thế giới đó là giả huyễn là Không Có. Với
lập luận như vậy họ cho rằng Thế giới Tục đế thuộc về chúng sanh còn Đức Phật
và các vị Giác ngộ tuy vẫn sống trong Thế giới Tục đế nhưng chư vị đã giác ngộ
và thể nhập Thế giới Chân đế. Những quan điểm này phát sinh do tư duy và lập
luận dựa trên những thông tin được lưu giữ trong "kho chứa thông tin" nhưng các
thông tin này là các thông tin và hiểu biết về Cảm thọ chứ không phải là thông tin
về Thế giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp vì thế các quan điểm này là sản phẩm
của suy diễn tưởng tượng, đưa đến hiểu biết sai lạc về Sự Giác ngộ của Đức Phật.
Đức Phật không giác ngộ Thế giới tương đối Tục Đế hay tuyệt đối Chân Đế mà
Đức Phật giác ngộ về Cảm thọ nên nếu có người nêu quan điểm thế giới là hữu
biên hay vô biên, thường hay vô thường... thì Ngài đều khẳng định đó là tà kiến,
kiến hoang vu, kiến triền phược... kiến ấy đưa đến phiền não, nhiệt não, ưu não.
Cũng có những trường phái quan niệm thế giới có hình, có tướng sum la vạn
tượng này là do Tâm tạo và Tâm ấy là Tâm Bản Thể tuyệt đối thường hằng không
sinh không diệt (nội dung tương tự như Thượng đế toàn năng) thì cũng là sản
phẩm của suy diễn tưởng tượng giống như trên. Tuy Thực tại những gì được thấy,
được nghe, được cảm nhận, được nhận thức đúng như thực là các Cảm thọ, nó
thuộc phạm trù Tâm nhưng nó không phải là Thức như học phái Duy thức, mà
Thực tại đó do Căn Trần tiếp xúc phát sinh ra chứ không phải do một cái Tâm bản
thể hoá hiện ra.
d - Tam tướng vô thường, khổ, vô ngã. Đây là quan điểm được trường phái Phật
giáo Nam tông chấp nhận, và điều này có mặt trong các bộ kinh Nikaya. Khảo sát
điều này không phải là bài bác kinh điển mà theo lời Đức Phật đã căn dặn: khoan
vội chấp nhận cho dù là kinh điển hay được nghe là chính Đức Phật nói ra nhưng
cũng khoan vội tin, cũng khoan vội bác bỏ mà phải đối chiếu với sự thật. Nếu điều
đó đúng với sự thật thì chấp nhận, nếu điều đó không đúng sự thật thì bác bỏ. Thí
dụ như phải thấy cho được tam tướng của hơi thở là vô thường, khổ, vô ngã. Thấy
hơi thở là thấy Xúc trần tức thấy Sắc pháp, là luồng không khí đi vào rồi đi ra.
Đối tượng được biết là hơi thở, là Sắc pháp, là Cảnh trần. Đây là cái biết nhị
nguyên Tâm Cảnh mà nội dung là Thường kiến và Ngã kiến. Với hiểu biết này
hơi thở là một luồng không khí xuất phát từ Khí quyển đi vào cơ thể rồi đi ra trở
về với Khí quyển, hơi thở như vậy không sinh ra cũng không mất đi mà nó chỉ di
chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, nó thường hằng, thường trú nơi khí quyển chứ
nó không sinh diệt, không vô thường. Hơi thở là luồng không khí của Khí quyển
nên nó Hữu chủ chứ không Vô chủ. Hơi thở là khổ thì có nghĩa khổ là Cảnh,
thường hằng, thường trú trong hơi thở, khổ cũng Hữu chủ vì khổ là của hơi thở
chứ không vô thường, vô chủ. Hiểu biết hơi thở như vậy thực chất là Vô minh,
Thường kiến, Ngã kiến nên không thể biết như thật Vô thường, Vô ngã, không
biết như thật Khổ. Quán sát nơi sự thật sẽ thấy ngay rằng: Hơi thở là Xúc trần xúc
chạm với Thân căn phát sinh ra Cảm giác hơi thở vô, ra và đồng thời phát sinh
Thân thức cảm nhận (nhận biết) Cảm giác hơi thở vô, ra đó. Đối tượng được nhận
biết là Cảm giác hơi thở vô, ra chứ không phải là hơi thở vô, ra (Sắc pháp). Với
hiểu biết như thật này thì biết ngay liền Cảm giác hơi thở vô, ra là Vô thường, Vô
chủ. Chừng nào còn y cứ vào cái biết nhị nguyên Tâm biết Cảnh, cái biết có nội
dung Thường kiến và Ngã kiến thì đối tượng được nhận biết là hơi thở thì hơi thở
là vật chất sẽ thường hằng và hữu chủ chứ không bao giờ biết được như thật Vô
thường, Vô chủ bởi bản chất của cái biết nhị nguyên Tâm biết Cảnh là như vậy.
Chừng nào biết như thật Lý Duyên Khởi: Căn Trần tiếp xúc nhau phát sinh ra
Cảm giác và cái biết trực tiếp giác quan nhận biết Cảm giác đó (Xúc - Thọ -
Tưởng) thì biết như thật ngay rằng, đối tượng được biết là Cảm giác hơi thở vô, ra
và cũng biết ngay nó Vô thường, Vô chủ. Đây chính là Tuệ tri sự sinh diệt của
Thọ. Với cái biết nhị nguyên Tâm biết Cảnh, cái biết Vô minh cho rằng khổ
thường hằng, thường trú trong hơi thở và khổ là của hơi thở. Tuệ tri Khổ là biết
như thật: khổ là Cảm giác, nó thuộc nội tâm, nó Vô thường, Vô chủ chứ nó không
phải là Cảnh, không thường hằng, thường trú nơi hơi thở vô ra (Cảnh), không phải
của hơi thở vô ra. Khổ phát sinh theo lộ trình tâm Bát Tà Tạo, nó sinh lên rồi diệt
đi không thường hằng và không thường trú ở bất kỳ một nơi nào, một pháp nào,
nó không phải của bất kỳ một pháp nào. Muốn biết được như thật các pháp được
thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là Vô thường, Vô chủ thì phải
Tuệ tri được sự sinh diệt của Thọ, còn cái biết Vô Minh (Tâm biết Cảnh) thì chỉ là
tư duy, suy diễn, tưởng tượng về Vô thường, Vô chủ mà thôi. Ví như khi Mắt tiếp
xúc ngôi nhà phát sinh Cảm giác hình ảnh và Nhãn thức. Sau khi nhãn thức thấy
Cảm giác hình ảnh, hiểu biết Vô minh khởi lên: tôi biết căn nhà (vật chất). Vô
minh sẽ lập luận rằng ngôi nhà này sẽ bị huỷ hoại, sẽ mất đi sau 100 năm nữa nên
ngôi nhà ấy vô thường. Đây chính là sự tưởng tượng cái điều sẽ xảy ra trong
tương lai, cái nhà "sẽ" vô thường chứ không trực tiếp chứng kiến đối tượng được
thấy vô thường. Đây cũng gọi là tư duy lý luận suông về vô thường, dựa trên
Thường kiến và Ngã kiến chứ không thấy biết như thật Vô thường. Nếu khi mắt
tiếp xúc ngôi nhà phát sinh Cảm giác hình ảnh và Nhãn thức. Sau khi nhãn thức
thấy Cảm giác hình ảnh, hiểu biết Minh khởi lên thì biết ngay liền: đây là Cảm
giác hình ảnh, mắt tiếp xúc ngôi nhà thì Cảm giác Hình ảnh sinh, mắt quay sang
hướng khác thì Cảm giác hình ảnh diệt, Cảm giác hình ảnh sinh lên rồi diệt ngay,
và biết nó Vô thường tức thì chứ không phải đợi chờ 100 năm sau nữa. Biết các
pháp là Vô thường, Vô ngã là biết đúng sự thật, điều này chỉ đạt được khi có được
Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ. Còn biết tất cả các pháp là khổ, chính là vô minh,
không đúng sự thật về Khổ. Hiểu biết vô minh các pháp là khổ này sẽ đưa đến
nghịch lý Thánh Phàm đều như nhau, đều khổ và bậc Thánh sẽ không có Khổ
Diệt và cũng không có Con đường đưa đến Khổ Diệt. Hiểu biết như vậy do không
tuệ tri hay không biết như thật Thực tại. Thực Tại do sáu Căn tiếp xúc sáu Trần
phát sinh, là đời sống của mỗi một người bao gồm những gì được thấy, được
nghe, được cảm nhận, và những hiểu biết về các đối tượng ấy, thái độ, phản ứng
(lời nói, hành động) và kết quả của thái độ và phản ứng ấy.
Mỗi một người sẽ có một Thực Tại riêng không ai giống ai, tuy sự khác nhau rất
vi tế nhưng có thể phân chia Thực Tại thành hai loại chính: Thực Tại của Phàm
phu và Thực tại của bậc Thánh. Thực Tại của Phàm Phu có Vô Thường, Vô Chủ
(Vô Ngã), có Khổ. Thực Tại bậc Thánh cũng Vô Thường, Vô Chủ nhưng Không
Có Khổ, mà có Khổ Diệt. Cụ thể Thực Tại của Phàm phu được gọi là Thế gian là
lộ trình tâm Bát Tà Đạo bao gồm: Xúc Thọ - Tưởng Tà Niệm Tà Tư Duy
Tà Tri Kiến Tham Sân Si Tà Định Dục Tà Tinh Tấn Phi Như Lý
Tác Ý Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng Sầu Bi Khổ Ưu Não. Trong Thực Tại này
các pháp là Vô Thường, Vô Chủ và có Sầu Bi Khổ Ưu Não, nghĩa là có Vô
thường, Vô ngã, Khổ. Phàm phu sống với các pháp này, thấy, nghe, cảm nhận các
pháp này nhưng do Vô minh không Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy
hiểm và sự xuất ly của Thọ nên không có hiểu biết như thật các pháp này Vô
thường, Vô chủ. Phàm phu tuy vẫn cảm nhận được Khổ nhưng không hiểu biết
như thật về Khổ cũng như nguyên nhân Khổ. Bậc Thánh do có Tuệ tri Thọ nên
biết như thật Duyên Khởi lộ trình tâm Bát Tà Đạo này, nên biết như thật các pháp
này Vô thường, Vô ngã, hiểu biết như thật Khổ và Nguyên nhân Khổ và được gọi
là Giác ngộ Khổ Đế và Tập Đế nơi lộ trình tâm Bát Tà Đạo. Thực Tại của bậc
Thánh được gọi là Siêu thế hay Xuất Thế gian chính là lộ trình tâm Bát Chánh
Đạo bao gồm: Xúc Thọ - Tưởng Chánh Niệm Chánh Tinh Tấn Chánh
Định (Tỉnh Giác) Chánh Tư Duy Chánh Tri Kiến Như Lý Tác Ý
Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng. Thực Tại này của bậc Thánh không thể
có nơi phàm phu và nơi Thực Tại này bậc Thánh biết như thật các pháp Vô
thường, Vô chủ nhưng hoàn toàn vắng mặt Khổ nghĩa là có Vô thường, Vô ngã,
Niết bàn (Khổ Diệt). Bậc Thánh giác ngộ Thực Tại này cũng có nghĩa là Giác ngộ
Diệt Đế và Đạo Đế. Thực tại của Phàm phu có Vô thường, Khổ, Vô ngã còn Thực
tại của bậc Thánh có Vô thường, Khổ diệt, Vô ngã.
Vậy người Phật tử tu tập Bát Chánh Đạo là tạo nhân duyên cho Thực Tại bậc
Thánh khởi lên và sẽ thấy biết như thật Vô thường, Vô ngã và Khổ Diệt chứ
không phải tu tập để thấy Vô thường, Khổ, Vô ngã, tu tập để Chấm dứt Thực tại
thế gian có Vô thường, Khổ, Vô ngã để thể nhập Thực Tại siêu thế gian có Vô
thường, Khổ Diệt, Vô ngã. Hai thực tại của Phàm và Thánh này phát sinh do Căn
Trần tiếp xúc, xin đừng hiểu nhầm nó với Thế giới tương đối Tục đế và Thế giới
tuyệt đối Chân đế đã đề cập trên.
B - Vô Minh và Minh đối với Cái Biết:

Cái biết hay Tâm biết có hai cấp độ: Cái biết trực tiếp giác quan mà Tâm lý học
gọi là Nhận thức cảm tính và Cái biết ý thức mà Tâm lý học gọi là Nhận thức lý
tính.
1 - Cái biết trực tiếp giác quan (mà thuật ngữ Phật học gọi là cái biết trực giác)
hay Nhận thức cảm tính phát sinh đồng thời với Cảm thọ khi sáu Căn tiếp xúc sáu
Trần, có phận sự nhận biết sáu Cảm thọ đó. Cụ thể là Nhãn thức nhận biết (thấy)
Cảm giác hình ảnh, Nhĩ thức nhận biết (nghe) Cảm giác âm thanh, Tỉ thức nhận
biết (cảm nhận) Cảm giác mùi, Thiệt thức nhận biết (cảm nhận) Cảm giác vị, Thân
thức nhận biết (cảm nhận) Cảm giác xúc chạm, Tưởng thức nhận biết (cảm nhận)
Cảm giác pháp trần. Viết gộp sáu Xúc như sau: Xúc Cảm giác (Thọ) - Tưởng.
Tưởng là nói gộp của sáu cái biết trực tiếp giác quan bao gồm sáu thức: Nhãn
thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thức, Tưởng thức. Tưởng này cũng là
Tưởng Uẩn trong Năm uẩn. Đa phần người học Phật Việt Nam và Trung Hoa đều
quan niệm Tưởng là tưởng lầm, là hiểu biết sai, là tưởng tượng, là tri giác sai lầm
do không quan sát ngữ cảnh chữ Tưởng được sử dụng trong kinh điển. Trong kinh
điển chữ Tưởng chưa bao giờ được dùng với những ngữ cảnh hiểu biết sai mà
được dùng với ngữ cảnh là NHẬN BIẾT đối tượng. Ví như tay tiếp xúc với hòn
đá phát sinh Cảm giác (cứng) thì cũng lập tức Thánh hay Phàm đều cảm nhận
Cảm giác (cứng), tay tiếp xúc miếng mút xốp phát sinh Cảm giác (mềm) thì
Thánh hay Phàm đều lập tức cảm nhận Cảm giác (mềm), lưỡi tiếp xúc quả chuối
phát sinh Cảm giác vị (ngọt) thì lập tức Thánh Phàm đều cảm nhận Cảm giác vị
(ngọt), lưỡi tiếp xúc múi chanh phát sinh Cảm giác vị (chua) thì lập tức Thánh
Phàm đều cảm nhận Cảm giác vị (chua). Cảm nhận các Cảm giác đó là Thân thức
và Thiệt thức. Cảm giác như thế nào thì cảm nhận như thế đó, không phụ thuộc
vào tri thức kinh nghiệm của mỗi người nên nó là cái biết như thật. Cái biết trực
tiếp giác quan này là cái biết như thật các cảm giác mà già trẻ, Thánh Phàm,
người súc vật đều giống nhau, đều do Căn Trần tiếp xúc mà có, không do học hỏi
mà có. Trong cái biết trực tiếp này không có tất cả mọi khái niệm như vuông tròn
to nhỏ, xanh vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, người vật, sinh diệt, không có
ngôn từ chế định, không có phân biệt cái này với cái kia. Nó là cái biết Vô niệm,
Vô ngôn, Vô phân biệt còn được gọi là Không tánh. Hãy hình dung ra nó chính là
Cái biết của một đứa bé mới đẻ ra, tức thì sáu Căn của nó tiếp xúc sáu Trần nó
vẫn thấy, nghe, cảm nhận các đối tượng, đó là cái biết trực tiếp giác quan thuần
tuý nhưng nó không biết cái đó là gì vì Cái biết ý thức của nó chưa khởi lên. Cái
biết trực tiếp giác quan gọi là Tưởng này phát sinh do duyên Xúc nên: Xúc sinh
thì Tưởng sinh, Xúc diệt thì Tưởng diệt nên nó Vô Thường, không thường hằng
cũng không thường trú nơi các Căn, không thường trú ở đâu cả. Tưởng cũng Vô
chủ, nó không phải là của các Căn, không phải của các Trần cảnh, không có một
cái Ta nào là chủ nhân của nó (Vô ngã).
- Đối với lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu, cái biết trực tiếp này gọi là
Tưởng tri, và khi Tưởng tri khởi lên thì Ý thức nhị nguyên (hiểu biết Vô minh)
khởi lên ngay nên phàm phu không an trú được Cái biết trực tiếp thuần tuý, không
kinh nghiệm được nó, không hiểu biết như thật về nó.
- Đối với lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của bậc Thánh nhờ có Chánh Niệm - Chánh
Tinh Tấn - Chánh Định nên an trú được cái biết trực tiếp giác quan thuần tuý nên
kinh nghiệm được nó, hiểu biết như thật về nó. Lúc này nó được gọi là Tỉnh Giác
hay Thắng tri hay Không tánh. Khi an trú cái biết Không tánh này bậc Thánh kinh
nghiệm được Khổ Diệt, kinh nghiệm được Giải Thoát. Giải Thoát có được nhờ an
trú cái biết Không tánh này gọi là Tâm Giải Thoát hay Không Giải Thoát.
2- Cái biết ý thức hay Nhận thức lý tính: Tiếp theo cái biết trực tiếp, cái biết Ý
thức khởi lên để biết về đối tượng được nhận biết. Hiểu biết Ý thức này sẽ được
phân chia thành hai loại: Vô Minh thuộc về Phàm phu và Minh thuộc về bậc
Thánh.
a - Hiểu biết Ý thức Vô minh của Phàm phu: Sau cái biết trực tiếp giác quan
Niệm và Tư Duy sẽ khởi lên để xác định đối tượng được nhận biết là cái gì, tính
chất ra sao, thuộc loại dễ chịu, khó chịu hay trung tính và sẽ phát sinh Ý thức hiểu
biết đối tượng. Lộ trình đó như sau:

Xúc Cảm giác (Thọ) - Tưởng Niệm Tư Duy Ý Thức

Khi Tưởng nhận biết đối tượng xảy ra nơi Căn Trần tiếp xúc, lượng thông tin đó
sẽ được dẫn truyền về tế bào thần kinh não bộ, nơi lưu giữ các thông tin Pháp
trần (bao gồm những tri thức, hiểu biết, kinh nghiệm đã học hỏi, đã kinh nghiệm
và được lưu giữ, đặc biệt là Vô minh và các tư tưởng cái này là của Ta, là Ta).
Sự tiếp xúc (tương tác) của hai lượng thông tin đó phát sinh Niệm, có tác dụng
kích hoạt các thông tin liên quan với thông tin vừa nhận biết. Tiếp theo hai
lượng thông tin này (vừa được kích hoạt và thông tin vừa nhận biết) được dẫn
truyền vào tương tác với nhau (Xúc) làm phát sinh Tư Duy. Hành vi Tư Duy là
phân tích, so sánh , đối chiếu hai lượng thông tin và làm phát sinh Kết luận. Kết
luận chính là cái biết Ý thức. Ví như khi mắt tiếp xúc quả chuối phát sinh Cảm
giác hình ảnh và Nhãn thức. Nhãn thức thấy Cảm giác hình ảnh và với đứa trẻ
vừa sinh, nó thấy nhưng nó không biết đó là cái gì. Đó là cái thấy thuần tuý nhãn
thức, chưa có Ý thức. Đối với người lớn, Niệm khởi lên tiếp theo, nó sẽ kích
hoạt các Cảm giác hình ảnh và các hiểu biết liên quan, đã được lưu vào trước
đây. Tiếp đến Tư Duy sẽ phân tích so sánh đối chiếu các Cảm giác hình ảnh đó
và phát sinh Kết luận: đây là quả chuối, chính Kết luận này là Ý thức. Hiểu biết
Ý thức do Niệm, Tư Duy mà phát sinh nên nội dung của nó phụ thuộc vào các
thông tin trong "kho chứa thông tin" được Niệm kích hoạt. Thông tin "Vô minh,
Ta, của Ta" nổi trội nhất trong kho chứa nên khi Niệm khởi lên ngoài các thông
tin khác, thông tin "Vô minh, Ta, của Ta" bao giờ cũng được kích hoạt nên Tư
Duy sẽ sử dụng thông tin đó và do vậy nội dung của Ý thức sẽ có hai phần. Phần
thứ nhất là Chủ thể biết chính là Ta Biết, có nghĩa là có một cái Ta là chủ nhân
của biết với nội dung: Ta biết, của Ta, Ta (hơn, kém, bằng) mà trong kinh gọi là
Ngã kiến, Ngã sở kiến, Ngã mạn tuỳ miên. Đây là điều không đúng sự thật bởi
các pháp do duyên khởi nên Vô chủ, không có một cái gì, một cái Ta nào là chủ
nhân, chủ sở hữu cái biết. Vô minh này do Niệm kích hoạt thông tin "Ta, của
Ta" trong kho chứa và Tư Duy đã sử dụng thông tin đó. Phần thứ hai của Ý thức
là đối tượng được biết là Thế giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần được xác
định là dễ chịu, khó chịu hay trung tính. Đây cũng không đúng sự thật vì đối
tượng cần được biết là các Cảm thọ và thông tin mà Tư Duy sử dụng là thông tin
của các Cảm thọ chứ không phải là thông tin về Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp.
Vô minh này xảy ra do Niệm kích hoạt các thông tin Vô minh (Tâm biết Cảnh)
và Tư Duy đã sử dụng các thông tin đó. Như vậy Ý thức là Vô minh mà lỗi là do
Niệm đã kích hoạt thông tin "Vô minh, Ta, của Ta" đã được lưu giữ trong "kho
chứa thông tin". Trong lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu, Niệm, Tư duy, Ý
thức như vậy gọi là Tà Niệm, Tà Tư Duy, Tà Tri Kiến: Xúc Thọ - Tưởng
Tà Niệm Tà Tư Duy Tà Tri Kiến Tham Sân Si... Do có Ý tức nhị nguyên
là Vô minh, là Tà Tri Kiến, là Không Liễu Tri như vậy nên Thâm Sân Si khởi
lên, Dục hỷ, Ràng buộc, Sầu bi khổ ưu não khởi lên. Trong Kinh Pháp Môn Căn
Bản nói: kẻ phàm phu Tưởng tri đối tượng và Không Liễu Tri đối tượng, và do
Không Liễu Tri đối tượng nên Dục hỷ đối tượng, và đó là Nguyên nhân Khổ.
Trên lộ trình này Tưởng là cái biết trực tiếp gọi là Tưởng tri và Tà Tri Kiến là
cái biết ý thức gọi là Không Liễu Tri.

b - Hiểu biết Minh của bậc Thánh: Bậc Hữu học có Văn tuệ, là hiểu biết đúng
như thật do nghe Pháp mà Đức Thế Tôn khéo léo thuyết giảng bao gồm: Lý
Duyên Khởi và Tứ Thánh Đế hay Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy
hiểm và sự xuất ly của Thọ. Văn Tuệ này sẽ được lưu vào "kho chứa thông tin"
với tên là Minh. Như vậy trong "kho chứa thông tin" một vị hữu học có hai loại
thông tin đối lập nhau: Vô minh và Minh. Lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của bậc
Thánh như sau: Xúc Thọ - Tưởng Chánh Niệm Chánh Tinh Tấn Chánh
Định (Tỉnh Giấc) Chánh Tư Duy Chánh Tri Kiến.

Khi Căn Trần tiếp xúc phát sinh Thọ - Tưởng tiếp đó Chánh Niệm khởi lên. Nội
dung của Chánh Niệm là: nhớ đến chú tâm quán sát thân nơi thân (Niệm Thân),
nhớ đến chú tâm quán sát thọ nơi thọ (Niệm Thọ), nhớ đến chú tâm quán sát
tâm nơi tâm (Niệm Tâm), nhớ đến chú tâm quán sát pháp nơi pháp (Niệm Pháp)
nên Chánh Niệm sẽ kích hoạt các thông tin thuộc Minh, chứ không kích hoạt
"Vô minh, Ta, của Ta" và sẽ xảy ra hai trường hợp:

- Một số đối tượng lộ trình tâm sẽ dừng lại sự chú tâm (Chánh Định) và " nháy
đi nháy lại" trên đối tượng đó nhiều lần (mỗi một lộ trình tâm như vậy chỉ
"nháy" lên trong khoảng phần trăm hoặc phần ngàn giây mà thôi) và vì vậy Cái
biết trực tiếp giác quan được kéo dài ra và Hành giả sẽ kinh nghiệm và an trú
được Cái biết trực tiếp này. Cái biết trực tiếp giờ đây được gọi là Tỉnh giác hay
Thắng tri hay Không tánh. Lộ trình đó là: Xúc Thọ - Tưởng Chánh Niệm
Chánh Tinh Tấn Chánh Định (Tỉnh Giác). Tuỳ theo mức độ Chánh Định là
sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền, Hành giả an trú Tỉnh Giác và sẽ kinh
nghiêm được Giải Thoát. Giải Thoát này có được do có Chánh Niệm - Chánh
Tinh Tấn - Chánh Định nên gọi là Tâm Giải Thoát hay Không Giải Thoát.

- Một số đối tượng lộ trình tâm sẽ diễn biến tiếp và sẽ phát sinh Chánh Tư Duy -
Chánh Tri Kiến: Xúc Thọ - Tưởng Chánh Niệm Chánh Tinh Tấn Chánh
Định (Tỉnh Giác) Chánh Tư Duy Chánh Tri Kiến. Sau khi nhận biết đối
tượng với cái biết Tỉnh giác, Chánh Tư Duy khởi lên sẽ phân tích, so sánh, đối
chiếu thông tin do Tỉnh Giác cung cấp với những thông tin như thực Minh do
Chánh Niệm kích hoạt (khác với Tà Tư Duy so sánh, đối chiếu với thông tin Vô
minh, Ta, của Ta do Tà Niệm kích hoạt). Chánh Tư Duy sẽ phát sinh Cái biết ý
thức đúng như thật gọi là Chánh Tri Kiến. Nội dung của Chánh Tri Kiến là Lý
Duyên Khởi và Tứ Thánh Đế hay Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy
hiểm và sự xuất ly của Thọ. Với hiểu biết đúng như thật này Hành giả sẽ kinh
nghiệm được Giải Thoát. Giải Thoát này do Trí Tuệ mà kinh nghiệm được nên
gọi là Tuệ Giải Thoát. Chánh Tri Kiến cũng có nội dung biết như thật những gì
được thấy, nghe, cảm nhận, được nhận thức là Cảm thọ, nó thuộc phạm trù Tâm
chứ không phải Cảnh nên nó Vô Tướng. Đây là biết như thật Thực Tướng các
pháp là Vô Tướng, vì vậy Chánh Tri Kiến còn có tên gọi là Cái biết Vô Tướng.
Tuệ Giải Thoát cũng chính là Vô Tướng Giải Thoát là vì vậy.

Một vị hữu học có Văn Tuệ và Tư Tuệ đầy đủ, chính xác được lưu vào "kho
chứa thông tin" chỉ có thể xoá bỏ được các thông tin về Thân kiến, Nghi, Giới
Cấm thủ, các thông tin Vô minh Tâm biết Cảnh, Ta của Ta vẫn tồn tại chưa có
thể xoá bỏ. Nếu vị đó không thực hành thì Bát Tà Đạo khởi lên, vẫn có Vô
minh, Tham Sân Si, Sầu bi khổ ưu não vì rằng nhân của Tà Niệm là thông tin
"Vô minh, Ta, của Ta" vẫn còn trong kho chứa. Khi vị đó thực hành khởi lên lộ
trình tâm Bát Chánh Đạo, Chánh Tư Duy - Chánh Tri Kiến khởi lên, vị đó sẽ
kinh nghiệm và an trú Tâm Giải Thoát, Tuệ Giải Thoát. Chính Chánh Tri Kiến
trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo được rèn luyện, được tu tập, được làm cho
Viên Mãn mới đưa đến "đột chuyển", mới xoá bỏ hoàn toàn thông tin "Vô
minh, Ta, của Ta" đã được lưu giữ trong kho chứa. Khi sự "đột chuyển" xảy ra
thì nhân của Tà Niệm, nhân của Bát Tà Đạo, nhân của Vô minh, của Dục ái,
Hữu ái, Phi Hữu ái, của Sầu bi khổ ưu não được xoá bỏ, được đoạn diệt không
có dư tàn, đó chính là quả A-la-hán, sự Giải Thoát tối hậu. Sự giải thoát tối hậu
chỉ xảy ra khi Trí Tuệ, Minh được tu tập, được làm cho viên mãn xoá bỏ được
Vô Minh, Vọng Tưởng điên đảo, lúc đó Hiểu biết Ý thức Minh, Vô tướng mới
thay thế hoàn toàn Hiểu biết Ý thức Vô Minh, Hữu tướng. Sự kiện này chỉ xảy
ra nơi cái biết Ý thức có khái niệm, có ngôn ngữ chế định, có phân biệt tức
Nhận thức lý tính chứ không thể xảy ra nơi cái biết trực tiếp giác quan, vô niệm,
vô ngôn, vô phân biệt gọi là Nhận thức cảm tính.

Đối với một vị hữu học có tu tập Chánh Niệm - Tỉnh Giác nên vị đó nhận biết
các đối tượng với cái biết Tỉnh Giác và còn được gọi với một tên khác mà kinh
Pháp Môn Căn Bản đã dùng là Thắng Tri đối tượng. Chánh Tri Kiến vẫn khởi
lên trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo nhưng vì nó chưa viên mãn, chưa xoá bỏ
đươc thông tin "Vô minh, Ta, của Ta" trong kho chứa nên kinh nói là có thể
Liễu Tri, vì vậy trong kinh Pháp Môn Căn Bản, cái biết của vị hữu học là Thắng
Tri và có thể Liễu Tri đối tượng.

Đối với các vị A-la-hán và Như Lai, cái biết của chư vị là Thắng Tri và Liễu Tri
đối tượng vì Vô Minh đã đoạn diệt hoàn toàn.

3 - Những hiểu biết Vô Minh, sai lạc về Cái biết: Những hiểu biết Vô minh,
sai lạc về Cái Biết cũng gồm hai phần: Hiểu biết Vô minh, sai lạc về Cái biết
trực tiếp giác quan hay Nhận thức cảm tính và hiểu biết Vô minh, sai lạc về Ý
thức hay Nhận thức lý tính.

a - Hiểu biết Vô minh, sai lạc về Cái biết trực tiếp giác quan:

- Vì không Tuê tri về Cái biết trực tiếp nên khoa Tâm lý học quan niệm Nhận thức
cảm tính này là cái biết hời hợt, bề ngoài, sai lầm về đối tượng và chỉ có Ý thức
hay Nhận thức lý tính mới là cái biết sâu sắc, biết như thật bản chất đối tượng. Họ
đưa ra một thí dụ điển hình để minh chứng cho quan điểm này, là khi tay trái cầm
một cục nước đá lạnh, tay phải cầm một vật nóng rồi cùng bỏ ra và đồng thời
nhúng cả hay bàn tay vào cùng một chậu nước lạnh. Lúc đó tuy cùng một chậu
nước nhưng cái biết trực tiếp giác quan (Thân thức) "của" tay phải cảm nhận nước
lạnh, còn cái biết trực tiếp giác quan "của" tay trái cảm nhận nước nóng. Như vậy
họ kết luận cái biết giác quan của tay trái và tay phải tuy biết cùng một chậu nước
nhưng lại biết sai khác nhau, vì vậy nó là cái biết hời hợt, bề ngoài, không đúng
bản chất sự vật. Quan điểm như vậy phát sinh từ hiểu biết nhị nguyên Tâm biết
Cảnh nghĩa là cái biết trực tiếp là của tay và đối tượng được biết là Cảnh tức nước
trong chậu mà không biết như thật: tay trái và tay phải tiếp xúc với cùng một chậu
nước nhưng do tình trạng hai tay khác nhau nên phát sinh ra hai Cảm giác (nóng,
lạnh) khác nhau và cái biết trực tiếp Thân thức nhận biết hai Cảm giác (nóng lạnh)
khác nhau đó chứ không phải biết về chậu nước.
- Vì không Tuệ tri cái biết trực tiếp mà các quan điểm Duy Tâm cho rằng nó chính
là Linh hồn, là (linh hồn) Chúa trong con người được Chúa thổi vào trong hai thân
thể Adam và Eva đầu tiên do Chúa làm ra, là Tiểu Ngã trong Đại Ngã của Bà-la-
môn giáo...
- Vì không Tuệ tri cái biết trực tiếp hay trực giác này do Duyên khởi, nghĩa là do
Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh nên nó Vô thường, Vô chủ hay Vô ngã nên một số
quan điểm cho rằng nó là Tánh Thấy, Tánh Nghe hay là Tánh Biết không sanh
không diệt sẵn có nơi mỗi người, sinh ra là có liền, không do học hỏi, tu tập mà
có. Trở về sống với Tánh Biết này là Giải thoát.
- Vì không Tuệ tri về cái biết trực tiếp giác quan mà nhiều trường phái cho rằng
giải thoát tối hậu xảy ra nơi cái biết trực tiếp giác quan Vô niệm, Vô ngôn, Vô
phân biệt này. Một số người khi tu tập Thiền định, họ cũng kinh nghiệm và an trú
được Cái biết trực tiếp này, họ cũng phần nào biết được đây là cái biết Vô Niệm,
Vô Ngôn, Vô Phân Biệt mà Thánh Phàm đều có như nhau, nhưng vì không Tuệ
tri duyên khởi, không biết như thật về Cái Biết Trực Tiếp nên họ cho rằng đây là
Trí Tuệ Bát Nhã, là Vô Phân Biệt Trí. Họ cho rằng với Trí Tuệ Bát Nhã hay Vô
Phân Biệt Trí này sẽ thấy biết và thể nhập Thế giới bản thể tuyệt đối không sinh
không diệt còn được gọi là Tánh Không hay Vô Dư Niết Bàn. Trong cái Thế giới
bản thể tuyệt đối hay là Chân Không vô tướng đó, không có sinh diệt, nhơ sạch,
tăng giảm, không có sắc thọ tưởng hành thức, không có mắt tai mũi lưỡi thân ý,
không có sắc thanh hương vị xúc pháp, không có nhãn giới cho đến ý thức giới,
không có khổ tập diệt đạo... Dựa vào hiểu biết Vô minh Tâm biết Cảnh họ cũng
lập luận rằng đây cũng chính là Tâm bản thể tuyệt đối không sinh không diệt sẵn
có nơi mỗi một chúng sanh và từ Tâm Bản Thể tuyệt đối này mà Tâm Phân Biệt
sanh diệt được hiển lộ, được trình hiện. Trong cái Tâm sinh diệt phân biệt đó có
sinh diệt, nhơ sạch, tăng giảm, trước sau, có sắc thọ tưởng hành thức, có mắt tai
mũi lưỡi thân ý... Tâm sinh diệt phân biệt như sóng, Tâm bản thể không sinh diệt
như biển, sóng từ biển sinh, khi diệt đi nó lại trở về với biển. Suy diễn như vậy
cũng phát sinh học thuyết Tam Thân tương tự. Nếu theo quan điểm này thì khi
một đứa trẻ vừa sinh ra, khi năm Căn tiếp xúc năm Trần phát sinh cái biết trực
tiếp Nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức nhưng Ý thức chưa khởi lên
được, thì nó vẫn thấy, nghe, cảm nhận các đối tượng với cái biết trực tiếp Vô
Ngôn, Vô Niệm, Vô Phân Biệt được cho là Vô Phân Biệt Trí này, thì như vậy nó
đã Giải thoát ngay lúc đó đâu còn luân hồi sinh tử.

b - Hiểu biết Vô minh, sai lạc về Ý thức:

- Vì không hiểu biết như thật về Ý thức hay Nhận thức lý tính, khoa Tâm lý
học cho rằng Ý thức nhị nguyên của nhân loại là hiểu biết đúng bản chất các
pháp, biết về bản chất của sắc thanh hương vị xúc. Phần lớn những người học
Phật tin vào sự hiểu biết này là đúng nên họ đã đưa ra các luận giải dựa vào Ý
thức nhị nguyên này nên xuyên tạc lời dạy của Đức Phật bằng vô số luận giải
sai khác.

- Vì không tuệ tri cái biết nhị nguyên Tâm Cảnh, không biết như thật đó là cái
biết sai lạc, mê lầm, không biết như thật chủ thể biết là Bản ngã (Ta biết) và đối
tượng được biết là Thế giới là vô minh, vọng tưởng, không có thật mà chỉ là tư
duy lý luận suông, có một số chủ trương y theo ý thức nhị nguyên đó mà có
thay đổi quan điểm một chút: một là hoà nhập Chủ thể với Đối tượng để không
còn nhị nguyên bằng cách quán Ta chính là tất cả mọi đối tượng, tất cả mọi đối
tuợng đều là Ta. Hai là trở về với Chủ thể, trở về với Tánh Biết của mình để
không còn trôi lăn theo đối tượng.

- Vì không Tuệ tri Chánh Tri Kiến nhiều người cho rằng giải thoát là không
còn Tư duy vì còn Tư duy là còn phân biệt, giải thoát là Vô phân biệt. Chánh
Tri Kiến là cái biết Ý thức của Phật và các vị A-la-hán, được khởi lên do Chánh
Tư Duy, nên giải thoát vẫn Tư duy nhưng là Chánh tư duy chứ không còn Tà tư
duy như phàm phu. Chánh Tri Kiến vẫn là cái biết có khái niệm, ngôn ngữ chế
định, có phân biệt đúng sai, chánh tà, thiện ác, có không... nhưng không còn
chấp thủ nên không còn yêu ghét, hơn thua, vui buồn, ta người... không còn
Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái. Ví như có những người mù sờ voi. Người sờ được
cái vòi thì cả quyết voi như con đỉa, người sờ được đuôi thì cả quyết voi như
cái chỗi xể, người sờ được chân thì cả quyết voi như cái cột nhà, người sờ được
tai thì cả quyết voi như cái quạt mo. Và mỗi một người mù đều cả quyết chỉ cái
thấy của mình mới đúng, còn những người kia đều sai cả. Họ có thể tranh cãi
quyết liệt và hơn thua đủ với nhau. Một người có mắt sẽ thấy rõ voi có các bộ
phận đó, và họ biết rằng người mù nào cũng đúng theo kinh nghiệm cá nhân
của họ, nhưng đó là cái thấy một chiều, không phải là sự thật. Biết vậy người
có mắt sẽ không còn tranh cãi đúng sai, hơn thua với những người mù kia.

TÓM LẠI, nhờ có Minh mới tuệ tri được Vô minh, mới từ bỏ, đoạn tận được
Vô minh. Công thức để đoạn tận Vô minh cũng là công thức Tứ Thánh Đế.

- Tuệ tri Vô minh đó là Thường kiến, Ngã kiến, là Tâm biết Cảnh, là Khổ Tập
Diệt Đạo ở nơi ngoại cảnh, thường hằng, thường trú nơi ngoại cảnh.

- Tuệ tri sự tập khởi của Vô minh là do Tà niệm - Tà tư duy trên lộ trình tâm
Bát Tà Đạo khởi lên Tà tri kiến. Tà tri kiến này là Vô minh.

- Tuệ tri sự đoạn diệt Vô minh là khi có Chánh niệm - Chánh tư duy trên lộ
trình tâm Bát Chánh Đạo khởi lên Chánh tri kiến. Chánh tri kiến này là Minh
nên đoạn diệt Vô minh.
- Tuệ tri con đường chấm dứt Vô minh là Bát Chánh Đạo bao gồm: Chánh
niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định - Chánh tư duy - Chánh tri kiến Chánh ngữ,
Chánh nghiệp, Chánh mạng.

Về mục lục

Bài 159: CẢM THỌ

Trong kinh Năm Ba thuộc Trung Bộ Kinh Đức Phật đã từng khẳng định: "Vô
thượng tịch tịnh, Tối thắng đạo đã được Như Lai Chánh Đẳng Giác sau khi như
thật tuệ tri sáu xúc xứ". Vậy Tuệ tri sáu xúc xứ là cái gốc mà từ đó Đức Phật đạt
được Chánh Đẳng Giác. Tuệ tri sáu Xúc xứ có nội dung là Tuệ tri sáu Cảm thọ,
Tuệ tri Lý Duyên Khởi, Tuệ tri sự sinh diệt, vị ngọt, sư nguy hiểm và sự xuất ly
của Thọ.

a - Tuệ tri sáu xúc xứ là thấy biết như thật sáu Căn tiếp xúc sáu Trần phát sinh
sáu Cảm giác đồng thời phát sinh sáu Cái biết trực tiếp giác quan nhận biết sáu
Cảm giác đó.

- Mắt tiếp xúc Sắc trần (gọi là Nhãn xúc) phát sinh: Cảm giác hình ảnh - Nhãn
thức

- Tai tiếp xúc Thanh trần (gọi là Nhĩ xúc) phát sinh Cảm giác âm thanh - Nhĩ
thức

- Mũi tiếp xúc Hương trần (gọi là Tỉ xúc) phát sinh Cảm giác mùi - Tỉ thức

- Lưỡi tiếp xúc Vị trần (gọi là Thiệt xúc) phát sinh Cảm giác vị - Thiệt thức

- Thân tiếp xúc Xúc trần (gọi là Thân xúc) phát sinh Cảm giác xúc trần - Thân
thức

- Ý tiếp xúc Pháp trần (gọi là Ý xúc) phát sinh Cảm giác pháp trần - Tưởng thức.

Sáu cảm giác này thuật ngữ Phật học gọi là Cảm thọ, sáu Cái biết trực tiếp giác
quan có phận sự nhận biết sáu Cảm thọ gọi chung là Tưởng. Cần phải quán sát
nơi sự thật khi sáu Căn tiếp xúc sáu Trần để thấy biết đúng sự thật là Nhãn thức
thấy Cảm giác hình ảnh chứ không phải Nhãn thức thấy Sắc trần. Nhĩ thức nghe
Cảm giác âm thanh chứ không phải Nhĩ thức nghe Thanh trần. Tỉ thức nhận biết
Cảm giác mùi chứ không phải Tỉ thức cảm nhận Hương trần. Thiệt thức nhận
biết Cảm giác vị chứ không phải Thiệt thức nhận biết Vị trần. Thân thức nhận
biết Cảm giác xúc trần chứ không phải nhận biết Xúc trần. Tưởng thức nhận biết
Cảm giác pháp trần chứ không phải nhận biết Pháp trần. Ví như quán sát: khi tay
nhấc một hòn đá, có nghĩa tay là Thân tiếp xúc hòn đá là Xúc trần, thì ngay lập
tức phát sinh Cảm giác nặng và cũng đồng thời cảm nhận được Cảm giác nặng
đó. Cảm nhận (nhận biết) Cảm giác nặng là Thân thức phát sinh đồng thời với
Cảm giác nặng. Thân thức nhận biết Cảm giác nặng chứ không phải Thân thức
nhận biết hòn đá nặng. Phải quán sát cả sáu xúc xứ để thấy biết đúng sự thật:
những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận là sáu Cảm thọ chứ không phải
là Thế giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần. Sáu xúc viết gộp lại là:

Xúc Cảm giác (Thọ) - Tưởng.

b – Tuệ tri sáu xúc xứ cũng là tuệ tri Lý Duyên Khởi: Quán sát sự thật sẽ thấy
ngay rằng có Tay là một nhân, có hòn đá là nhân thứ hai và hai nhân này bình
đẳng không nhân nào chủ nhân, chủ sở hữu của nhân nào. Có đủ hai nhân
nhưng chưa có tiếp xúc cũng chưa có một cái nặng nào cả. Khi có Xúc thì lập
tức phát sinh Cảm giác nặng và có cái biết nhận biết Cảm giác nặng đó (Thân
thức). Cảm giác nặng và Thân thức được gọi là Pháp duyên khởi hay pháp do
duyên căn trần tiếp xúc mà khởi lên. Xúc sinh Cảm giác nặng và Thân thức
sinh, Xúc diệt thì Cảm giác nặng và Thân thức diệt. Cảm giác nặng và Thân
thức sinh lên rồi diệt đi, nó không thường hằng, không thường trú đâu cả nên
nó Vô Thường. Tay và hòn đá đều không phải là chủ nhân, chủ sở hữu của Cảm
giác nặng và Thân thức nên nó Vô chủ. Cảm giác nặng và Thân thức Vô chủ
cũng có thể thấy biết như thật như sau: Tay và hòn đá tiếp xúc với nhau là
Nhân, Cảm giác nặng và Thân thức là Quả. Nhân và Quả tồn tại ở hai thì thời
gian khác nhau, không đồng thời tồn tại nên giữa Nhân và Quả không có mối
quan hệ chủ nhân, chủ sở hữu. Quán sát Lý Duyên Khởi cụ thể là Căn là một
nhân, Trần là một nhân, hai nhân bình đẳng không có nhân chính nhân phụ, tiếp
xúc phát sinh Các Cảm thọ và cái biết trực tiếp Tưởng. Sáu Thọ và Sáu Tưởng
này đều vô thường, vô chủ. Vô chủ cũng đồng nghĩa với không có một cái Ta,
chủ nhân, chủ sở hữu các pháp đó, cũng được gọi là Vô ngã.

Các pháp khác như Niệm, Tư duy, Ý thức, Tham Sân Si, Dục, Định, Tác ý đều
do Ý tiếp xúc với (lượng thông tin) Pháp trần mà phát sinh. Hạnh phúc, Khổ
đau là các Cảm giác do lượng thông tin pháp trần tiếp xúc với các tế bào nội
tạng mà phát sinh. Lời nói, hành động là các Cảm giác rung động, chuyển động
do lượng thông tin pháp trần tiếp xúc với các tế bào chức năng tương ứng mà
phát sinh ra. Các pháp này đều là pháp duyên khởi và nó vô thường, vô ngã.

Tuệ tri Lý Duyên Khởi cũng là thấy biết như thật: Thực Tại của Phàm phu là lộ
trình tâm Bát Tà Đạo bao gồm:

Xúc Thọ - Tưởng Tà Niệm Tà Tư Duy Tà Tri Kiến Tham Sân Si


Tà Định Dục Tà Tinh Tấn Phi như lý tác ý Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà mạng
Sầu Bi Khổ Ưu Não (sinh già bệnh chết)

Lộ trình này được giảng giải tóm tắt trong Thập nhị nhân duyên: Xúc Thọ
Ái Thủ Hữu Sinh Già Bệnh Chết Sầu Bi Khổ Ưu Não. Trong Thực Tại
của Phàm phu này (gọi là Thế gian) các pháp đều Vô Thường, Vô Ngã, có Vô
Minh, có Tham Sân Si, có Sầu Bi Khổ Ưu Não (Vô Thường, Khổ, Vô Ngã).

Tuệ tri Lý Duyên Khởi cũng là thấy biết như thật: Thực Tại của bậc Thánh là lộ
trình tâm Bát Chánh Đạo bao gồm:
Xúc Thọ - Tưởng Chánh Niệm Chánh Tinh Tấn Chánh Định (Tỉnh
Giác) Chánh Tư Duy Chánh Tri Kiến Như lý tác ý Chánh ngữ, Chánh
nghiệp, Chánh mạng.

Lộ trình này có thể diễn tả một cách khác: Xúc Thọ Không Vô Tướng
Vô Tác. Trong Thực Tại của bậc Thánh này (gọi Siêu thế hay Xuất thế gian)
các pháp đều Vô Thường, Vô Ngã và không có Khổ hay Khổ Diệt (Vô Thường,
Khổ Diệt, Vô Ngã).

Đức Phật đã khẳng định: Ai thấy Duyên khởi là thấy Pháp, ai thấy Pháp, người
đó thấy Như Lai.

c - Tuệ tri sáu xúc xứ cũng có nghĩa là: Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự
nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ, cũng đồng nghĩa với Tuệ tri Tứ Thánh Đế.

Nội dung này đã được trình bày trong bài: Vô Minh và Minh hay bài Kinh
Phạm Võng và sự giác ngộ của Đức Phật.

TÓM LẠI: Đức Phật đã khởi đầu sự quán sát của mình bằng quán sát sáu Xúc
xứ đưa đến sự thấy biết như thật hay tuệ tri sáu Xúc xứ và do tuệ tri sáu Xúc xứ
mà Ngài đã tuệ tri tất cả pháp. Khi tuệ tri sáu Xúc xứ, một pháp cực kỳ quan
trọng được tuệ tri, đó là sáu Cảm thọ. Với sự tuệ tri sự sinh diệt của Thọ sẽ có
được thấy biết như thật: Thực tại của Phàm hay Thánh chính là sáu Cảm thọ
chứ không phải là Thế giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần. Nghĩa là cho
dù Phàm hay Thánh thì những đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận,
được nhận thức là các Cảm thọ. Hiểu biết hay nhận thức về các đối tượng cũng
là hiểu biết, nhận thức về các Cảm thọ. Thái độ của con người như thích (Tham)
hay ghét (Sân) cũng là thái độ đối với Cảm thọ và lời nói hay hành động phát
sinh để thể hiện Thái độ cũng là với các Cảm thọ. Do không tuệ tri sáu Xúc xứ,
không tuệ tri các Cảm thọ nên nhân loại chấp thủ một hiểu biết sai lạc: những
đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là Thế giới
Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần. Hiểu biết, nhận thức, Thái độ, lời nói,
hành động để thể hiện Thái độ đều là đối với Thế giới. Hiểu biết sai lạc đó là
Vô Minh, Vọng Tưởng, bản chất là Tâm biết Cảnh, là Thường kiến và Ngã
kiến.

Chính vì tuệ tri sáu Xúc xứ, tuệ tri Thọ nên Đức Phật dạy sự thực hành để đoạn
tận Khổ chỉ là sự thực hành đối với Cảm thọ, là sự đoạn tận Tham, đoạn tận
Sân, đoạn tân Si đối với các Cảm thọ.

- Trong Kinh Tiểu Kinh Đoạn Tận Ái thuộc Trung Bộ kinh, Đức Phật đã tóm
tắt Giáo Pháp mà Ngài đã giảng dạy trong bốn mươi lăm năm trong năm câu:
“Thật không xứng đáng nếu thiên vị tất cả pháp (1). Sau khi nghe thật không
xứng đáng nếu thiên vị tất cả pháp, vị ấy (học hỏi) để biết tất cả pháp (2). Sau
khi biết tất cả pháp vị ấy (học hỏi) để biết rốt ráo tất cả pháp (3). Do biết rốt
ráo tất cả pháp nên bất kỳ một Cảm thọ nào khởi lên, lạc thọ, khổ thọ, bất khổ
bất lạc thọ vị ấy sống quán tánh Vô thường, sống quán tánh Ly tham, sống
quán tánh Đoạn diệt, sống quán tánh Xả ly nơi Cảm thọ ấy (4). Do vị ấy sống
quán tánh Vô thường, quán tánh Ly tham, quán tánh Đoạn diệt, quán tánh Xả
ly nơi các Cảm thọ nên không chấp trước bất kỳ một cái gì ở đời, nên không
phiền não, vị ấy chứng đạt Niết bàn, vị ấy biết sanh đã tận, phạm hạnh đã
thành, những việc cần làm đã làm, không còn trở lui đời này nữa (5)”. Trong
lời dạy tóm tắt về Giáo Pháp có đầy đủ: Pháp học, Pháp hành và Pháp thành.
Pháp học gồm ba câu đầu, Pháp hành tóm tắt trong câu thứ tư và Pháp thành
trong câu thứ năm. Rõ ràng Pháp hành là thực hành với tất cả các Cảm thọ với
nội dung, quán các Cảm thọ đó Vô thường, Ly tham, Đoạn diệt (chấp thủ ngã),
Xả ly. Thực hành bốn nội dung này thực chất là Quán Pháp trong kinh Niệm
Xứ hay Quán Pháp trong kinh Niệm hơi thở vô hơi thở ra.

- Trong bài kinh Niệm Xứ Đức Phật dạy Quán Thân Thọ Tâm Pháp nhưng
thực chất nội dung là Quán Thọ. Đối với Quán Thân là quán sát các Cảm giác
trên thân với cái biết Tỉnh Giác, thực chất cũng là Quán Thọ. Đối với Quán
Thọ là quán sát tất cả mọi Cảm giác khi nó xuất hiện với cái biết Tỉnh Giác,
đây là Quán Thọ. Quán Tâm và Quán Pháp cũng là quán sát các Cảm thọ với
Trí tuệ để biết như thật các Cảm thọ đó thuộc phạm trù Tâm (chứ không phải
Cảnh), các Cảm thọ đó Vô thường, Vô ngã, Ly tham, Xả ly.

TUỆ TRI sáu Xúc xứ cũng là TUỆ TRI THỌ, tuệ tri sự sinh diệt, vị ngọt, sự
nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng,
tịch tịnh, mỹ diệu vượt qua mọi tư duy lý luận suông, tế nhị chỉ có người trí mới
có khả năng nhận hiểu. Chính vì vậy mà lời dạy của bậc Chánh Đẳng Giác về
Cảm thọ đã không được truyền khẩu lại một cách đầy đủ và chính xác mà đã bị
cắt gọt, kiến giải cho vừa với cái "khuôn" hiểu biết của nhân loại, cho phù hợp
với Tâm biết Cảnh.

- Trong kinh Đức Phật có đề cập sáu Căn tiếp xúc sáu Trần phát sinh sáu Thọ,
chắc chắn Ngài đã nói rõ sáu Thọ là gì nhưng trong kinh điển không truyền thụ
được cụ thể sáu Thọ là cái gì và những người nghiên cứu kinh điển không hề
biết sáu Thọ bao gồm những Thọ nào. Đa phần người học Phật chỉ hiểu sơ lược
Cảm thọ là Cảm giác trên thân. Có thể có bàn đến hai thọ, ba thọ, ba mươi sáu
thọ, một trăm lẻ tám thọ nhưng sáu loại Thọ do sáu Căn tiếp xúc sáu Trần phát
sinh, cái mà khi Tuệ tri sáu Xúc xứ sẽ tuệ tri được, cái mà chắc chắn Đức Phật
đã giảng giải thì không hề được thuyết minh.

- Trong kinh điển có nói đến sáu Căn tiếp xúc sáu Trần phát sinh sáu Thức,
cộng ba lĩnh vực này lại: Sáu Căn + Sáu Trần + Sáu Thức = 18 Giới và đương
nhiên quan niệm chỉ có 18 giới như vậy và trong hiểu biết này hàm chứa nội
dung Sáu Thức biết Sáu Trần. Điều này không đúng sự thật và đã bỏ qua một
lĩnh vực rất quan trọng là Sáu Thọ, vì Thực tại là các Cảm thọ và sự Giác Ngộ
của Đức Phật lại là giác ngộ về Sáu Thọ, cho nên lời dạy của Đức Phật đã
không được truyền đạt lại một cách đầy đủ.

- Định nghĩa Xúc được truyền đạt hoàn toàn không đúng. Xúc được định nghĩa
là Căn và Trần tiếp xúc nhau thì phát sinh Thức. Ba pháp này (Căn Trần Thức)
gặp nhau thì gọi là Xúc. Do có Xúc mà phát sinh Thọ. Định nghĩa Xúc như vậy
không hợp lý là bởi Căn Trần tiếp xúc nhau là Nhân và Thức phát sinh là Quả.
Nhân và Quả không bao giờ đồng thời tồn tại mà lộ trình Nhân Quả phải diễn
tiến theo thời gian, nghĩa là Nhân trước Quả sau. Nếu hiện tại đang có Nhân thì
Quả phải thuộc thời tương lai và như vậy Quả chưa sanh. Nếu hiện tại có Quả
thì Nhân đã thuộc thời quá khứ và Nhân đó đã diệt. Vì vậy Nhân và Quả không
bao giờ có thể gặp nhau để mà tiếp xúc nhau nên Căn Trần tiếp xúc phát sinh ra
Thức và ba pháp này lại gặp gỡ nhau là một điều vô lý. Do định nghĩa Xúc sinh
Thọ như vậy nên người học phật không thể hình dung ra sáu Thọ là như thế
nào. Ví như Mắt tiếp xúc với Sắc phát sinh Nhãn thức. Ba pháp này gặp gỡ
nhau gọi là Xúc, do Xúc đó mà có Thọ. Với định nghĩa như vậy không ai có thể
hình dung ra Thọ do nhãn xúc sinh là cái gì.

- Đa phần người học Phật quan niệm đối tượng của Tham ái là Sắc Thanh
Hương Vị Xúc Pháp, nghĩa là Tham ái sáu Cảnh trần, nghĩa là Sắc ái, Thanh ái,
Hương ái, Vị ái, Xúc ái, Pháp ái. Hiểu biết như vậy là Vô Minh, là xuyên tạc lời
dạy của Phật, do không tuệ tri sáu Xúc xứ, không tuệ tri sáu Thọ. Đức Phật tuệ
tri sáu Xúc xứ, tuệ tri sáu Thọ nên Ngài đã thuyết minh rõ ràng: Do có Xúc mà
có Thọ, do có Thọ mà có Ái, do có Ái mà có Thủ, do có Thủ mà có Hữu, do có
Hữu mà có Sinh, do có Sinh mà có Già Bệnh Chết Sầu Bi Khổ Ưu Não không
thể kể xiết. Theo lời dạy này thì đối tượng của Tham ái là Thọ chứ không phải
là sáu Cảnh trần. Đức Phật không thể nào tự mình mâu thuẫn với chính mình để
lúc thì nói đối tượng Tham ái là Sáu Thọ, lúc khác lại nói đối tượng Tham ái là
Sáu Cảnh Trần.
Về mục lục

Bài 160: BA TRỤ CỘT CỦA PHÁP HÀNH

Pháp hành phải được hiểu là pháp hành Bát Chánh Đạo, là thực hành để khởi
lên tám chi phần của Bát Chánh Đạo bao gồm: Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn -
Chánh Định - Chánh Tư Duy - Chánh Tri Kiến - Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng. Khi đã có Văn Tuệ và Tư Tuệ đầy đủ và chính xác (đó là chuẩn bị
cho sự tu tập) thì khi tu tập lộ trình tâm Bát Chánh Đạo sẽ khởi lên và đây là lộ
trình tâm của bậc Thánh hay Bát Chánh Đạo Siêu thế (gian). Lộ trình đó khởi
lên theo thứ tự sau:

Xúc Thọ - Tưởng Chánh Niệm Chánh Tinh Tấn Chánh Định (Tỉnh
Giác) Chánh Tư Duy Chánh Tri Kiến Như Lý Tác Ý Chánh ngữ,
Chánh nghiệp, Chánh mạng.

Lộ trình Bát Chánh Đạo siêu thế có ba pháp căn bản, tạo thành cái trục chính, là
ba trụ cột của lộ trình. Đó là: CHÁNH NIỆM - CHÁNH ĐỊNH - CHÁNH TRI
KIẾN, gọi tắt là Niệm - Định - Tuệ. Thực hành Bát Chánh Đạo siêu thế là để
Tuệ tri (hiểu biết như thật hay hiểu biết với trí tuệ) tất cả các pháp trên lộ trình
này, cũng có nghĩa là Tuệ tri Khổ Diệt (Niết Bàn) và Con đường đưa đến Khổ
Diệt. Muốn đạt được mục đích đó, trước tiên phải Tuệ tri được ba trụ cột này.
Đương nhiên để Tuệ tri ba trụ cột này phải đi theo lộ trình Văn - Tư - Tu mà
Đức Phật đã thuyết giảng. Văn - Tư là nghe giảng và tư duy về điều được nghe
giảng về ba trụ cột và Tu là thực hành để đạt được Chánh Tri Kiến, là hiểu biết
như thật về ba trụ cột. Ba trụ cột đều gồm bốn pháp, cụ thể Chánh Niệm gồm
bốn, đó là Tứ Niệm Xứ. Chánh Định gồm bốn pháp, đó là Tứ Thiền. Chánh Tri
Kiến gồm bốn pháp, đó là Tứ Thánh Đế.

1 - CHÁNH NIỆM chính là Tứ Niệm Xứ bao gồm:


- Niệm Thân là nhớ đến chú tâm quán sát thân nơi thân

- Niệm Thọ là nhớ đến chú tâm quán sát thọ nơi thọ

- Niệm Tâm là nhớ đến chú tâm quán sát tâm nơi tâm

- Niệm Pháp là nhớ đến chú tâm quán sát pháp nơi pháp

Chánh Niệm là "nhớ đến" chú tâm quán sát Thân Thọ Tâm Pháp chứ không phải
là Ghi nhận hay Hay biết. "Ghi nhận" hay "Hay biết" là phận sự của Thức chứ
không phải của Niệm, hành vi Niệm chỉ là "nhớ đến". Cái Biết có phận sự "Hay
biết" trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo bao gồm: Tỉnh Giác (cụ thể là nhãn thức,
nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, tưởng thức) và Chánh Tri Kiến (ý thức).

2 - CHÁNH ĐỊNH là Tứ Thiền bao gồm:

- Sơ Thiền là ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc
do ly dục sanh với tầm, với tứ.
- Nhị thiền là diệt tầm diệt tứ chứng và trú nhị thiền một trạng thái hỷ lạc do định
sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.
- Tam thiền là ly hỷ trú xả, thân cảm lạc thọ mà bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú,
chứng và trú tam thiền
- Tứ thiền là xả lạc xả khổ, diệt trừ hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú tứ thiền,
không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.

3 - CHÁNH TRI KIẾN là Tứ Thánh Đế bao gồm:

- Tuệ tri Khổ tức hiểu biết đúng sự thật về Khổ: Khổ phát sinh do duyên Căn Trần
tiếp xúc theo lộ trình tâm Bát Tà Đạo hay nói tóm tắt là theo lộ trình: Xúc Thọ
Ái Thủ Hữu Sinh Già Bệnh Chết Sầu Bi Khổ Ưu Não. Khổ thuộc phàm
trù Tâm và nó Vô thường, Vô chủ (Vô ngã) chứ không phải là Cảnh, không
thường hằng, thường trú nơi Hoàn Cảnh tồi tệ, không phải khổ của Ta.
- Tuệ tri Nguyên nhân Khổ tức hiểu biết đúng như thật: Nguyên nhân Khổ là
Tham Sân Si, nó là Tâm, thuộc lộ trình tâm Bát Tà Đạo, nó Vô thường, Vô ngã
chứ không thường hằng, thường trú nơi hoàn cảnh khó chịu hay trung tính, cũng
không có một cái Ta nào gây nên. Nguyên nhân khổ cũng không phải do thiếu
phước.
- Tuệ tri Khổ Diệt hay Niết bàn: là sự đoạn tận, đoạn trừ, đoạn ly, đoạn diệt
không có dư tàn Tham Sân Si, cũng là sự vắng lặng, vắng mặt cả Khổ đau và
Hạnh phúc, chứ không phải là đạt được Hạnh phúc tuyệt đối (Hạnh phúc Niết
bàn) hay thay đổi Hoàn Cảnh thế gian đau khổ bằng một Cảnh giới có phúc lạc
toàn vẹn, pháp hỷ sung mãn.
- Tuệ tri con đường chấm dứt Khổ: đó là Bát Chánh Đạo, nghĩa là thay đổi từ lộ
trình tâm Bát Tà Đạo sang lộ trình tâm Bát Chánh Đạo.

Nội dung Tứ Thánh Đế cũng có nghĩa là: Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt,
sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ.

Ba trụ cột này quan hệ với nhau như thế nào? Trong duyên khởi lên lộ trình
tâm Bát Chánh Đạo siêu thế đã khảo sát thấy rõ: Bất kỳ một Cảm thọ nào khởi
lên, nếu có Chánh Niệm thì toàn bộ lộ trình tâm Bát Chánh Đạo sẽ tự động tuần
tự khởi lên theo định luật Duyên Khởi. Chính vì điều này mà sự thực hành chỉ
gói gọn trong một câu là: “Ngồi kiết già lưng thẳng an trú Chánh Niệm trước
mặt”. Khi thực hành Tứ Niệm Xứ sẽ kinh nghiệm, sẽ biết rõ rằng tuỳ theo nội
dung của Chánh Niệm mà có thể kinh nghiệm được các nội dung của Chánh
Định và Chánh Kiến. Ví như nếu Hành giả Niệm Thân tức nhớ đến chú tâm
quán sát các cảm giác nơi thân (lưu ý là mọi cảm giác nơi thân trong đó có cảm
giác hơi thở vô, ra chứ không phải chỉ chú tâm một mình cảm giác hơi thở vô
ra), Hành giả sẽ kinh nghiệm được Sơ thiền, Nhị thiền. Khi đã an trú Nhị thiền
vững chắc thì chuyển sang niệm "ly hỷ trú xả" là đặc trưng của Tam thiền thì
Hành giả kinh nghiệm và an trú được Tam thiền. An trú Tam thiền vững chắc,
chuyển sang niệm "xả niệm thanh tịnh" thì Hành giả kinh nghiệm và an trú
được Tứ thiền. Với các Niệm này, Chánh Tri Kiến cũng tuệ tri được Cái biết
Tỉnh Giác, tuệ tri được Tâm giải thoát hay Không Giải Thoát.

Với Niệm Tâm là nhớ đến chú tâm quán sát đối tượng đó vô thường hay vô chủ
hay ly tham thì không những Chánh Tri Kiến biết rõ đang ở mức Định nào mà
còn tuệ tri đối tượng đó vô thường hay vô chủ hay ly tham.

Với Niệm Pháp là nhớ đến Tuệ tri sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm
và sự xuất ly của Thọ hay Tuệ tri Khổ Tập Diệt Đạo, Chánh Tri Kiến sẽ tuệ tri
được Chánh Niệm, tuệ tri được Chánh Định, tuệ tri được Chánh Tư duy, tuệ tri
được cả bản thân Chánh Tri Kiến.

Vì mối quan hệ của ba trụ cột theo lộ trình Duyên Khởi như vậy nên pháp hành
Bát Chánh Đạo chỉ là tạo nhân duyên cho Chánh Niệm khởi lên rồi an trú chứ
không phải làm gì thêm nữa. Chính vì vậy có thể nói pháp hành là Tứ Niệm Xứ
và Đức Phật đã tuyên bố trong kinh Niệm Xứ thuộc Trung Bộ Kinh: “Đây là
con đường độc nhất giúp cho chúng sanh chấm dứt phiền não, diệt trừ khổ ưu,
thành tựu Chánh Trí, chứng ngộ Niết Bàn.”

Ba trụ cột của Bát Chánh Đạo siêu thế Niệm - Định - Tuệ có khác với Giới -
Định - Tuệ không? Hai mươi năm đầu trong lịch sử Tăng đoàn, Đức Phật chưa
chế định một giới điều nào nên chưa có quan niệm lộ trình Giới - Định - Tuệ.
Trong ba mươi bảy đạo phẩm không có lộ trình Giới - Định - Tuệ mà có Ngũ
Căn, Ngũ Lực nói đến Tín - Tấn - Niệm - Định - Tuệ. Tín - Tấn do Văn Tuệ và
Tư Tuệ mà có, nó thuộc về công việc chuẩn bị để tu tập và Niệm - Định - Tuệ là
ba trụ cột của Bát Chánh Đạo siêu thế. Trên Bát Chánh Đạo siêu thế có Chánh
ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng nhưng nó không phải là Giới theo nghĩa "thọ
trì và thực hành các học giới" mà đây là lời nói và hành động của bậc Thánh
không có Tham Sân Si, không còn tạo tác, còn được gọi là Vô Tác Giải Thoát.

Giới trong quan niệm Giới - Định - Tuệ được Thế Tôn chế định theo nghĩa để
thọ trì và thực hành với mục đích tạo nhân duyên cho Chánh Niệm khởi lên.
Cách hiểu Giới sinh Định là không đúng sự thật vì Chánh Định chỉ phát sinh do
có Chánh Niệm - Chánh Tinh Tấn. Nhân duyên cho Chánh Niệm khởi lên là
Văn Tuệ và Tư Tuệ và ở thời kỳ hai mươi năm đầu, đệ tử của Đức Thế Tôn đa
phần là người có Trí, nên Văn Tuệ, Tư Tuệ của họ đầy đủ, chính xác, Tín - Tấn
khởi lên mãnh liệt, tâm họ trong sạch nên Chánh Niệm khởi lên một cách dễ
dàng. Đối với những người này Giới là những điều nhỏ nhặt, không quan trọng
nên chưa có chế giới. Đối với những người chậm lụt về Trí tuệ, Văn Tuệ, Tư
Tuệ không đầy đủ, không chính xác, Tín - Tấn của họ sẽ không cao, những
người đó sẽ nhớ đến chuyện thế gian, nhớ đến Dục lạc, nhớ đến trăm ngàn thứ
chuyện trên đời và trong "kho chứa thông tin" của họ, những loại thông tin này
được kích hoạt liên tục và nó là nhân cho Tà Niệm khởi lên liên tục, vì vậy
Chánh Niệm không khởi lên được. Chính vì vậy thọ trì và thực hành các học
giới nghiêm túc, làm cho các thông tin là nhân cho Tà Niệm không được kích
hoạt lên, do đó thông tin Minh đã được Văn Tuệ, Tư Tuệ lưu vào được kích
hoạt lên và đó là nhân duyên cho Chánh Niệm khởi lên. Giới cùng với Văn Tuệ
và Tư Tuệ là sự chuẩn bị nhân duyên cho Chánh Niệm sinh khởi và khi Chánh
Niệm khởi lên, ba trụ cột Niệm - Định - Tuệ sẽ tự động khởi lên. Vì vậy Văn
Tuệ - Tư Tuệ - Giới cũng là ba trụ cột của Bát Chánh Đạo hiệp thế. Dĩ nhiên
nếu không có Bát Chánh Đạo hiệp thế thì cũng không có Bát Chánh Đạo siêu
thế khởi lên khi thực hành được.

Về mục lục

Bài 161: TUỆ TRI THAM SÂN SI

Tham Sân Si là ba tâm hành rất quan trọng, nhưng sự hiểu biết về ba tâm hành
này được phân chia làm hai loại. Một loại hiểu biết không đúng sự thật về Tham
Sân Si được gọi là Vô Minh, là Vọng tưởng, là Không liễu tri thuộc về Phàm
phu. Một hiểu biết đúng sự thật về Tham Sân Si được gọi là Minh, là Trí tuệ, là
Liễu tri hay Tuệ tri thuộc về bậc Thánh.

1 - Hiểu biết Vô Minh về Tham Sân Si của Phàm phu:

Hiểu biết Vô minh là Ý thức nhị nguyên Tâm Cảnh, nghĩa là cái biết là Tâm và
đối tượng được biết là Cảnh, là Thế giới Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp. Với
Vô minh như vậy thì Khổ Tập Diệt Đạo đều ở nơi ngoại cảnh Sắc Thanh
Hương Vị Xúc Pháp chứ không phải là Tâm. Kẻ phàm phu hiểu Khổ, Nguyên
nhân Khổ là những hoàn cảnh Khó Chịu và Trung Tính. Sự chấm dứt Khổ là
Hạnh phúc, là những hoàn cảnh Dễ Chịu. Và như vậy đương nhiên Con đường
chấm dứt Khổ là thay đổi hoàn cảnh sống, thay hoàn cảnh Khó Chịu và Trung
Tính bằng hoàn cảnh Dễ Chịu. Khi Căn Trần tiếp xúc nhận biết đối tượng bằng
cái biết trực tiếp giác quan xong thì Ý thức Vô Minh sẽ khởi lên xác định đối
tượng đó là Dễ chịu, Khó chịu hay Trung tính và Vô Minh về Khổ Tập Diệt
Đạo cũng đồng thời khởi lên:

- Đối tượng Dễ chịu thì Thích thú hay Tham khởi lên vì Vô minh cho rằng đối
tượng này mang đến Hạnh phúc, mang đến Chấm dứt Khổ.

- Đối tượng Khó chịu thì Chán ghét hay Sân khởi lên vì Vô Minh cho rằng đối
tượng này sẽ mang đến Khổ.

- Đối tượng Trung tính thì không Thích, không Ghét nhưng nó không an trú
trên đối tượng đó mà Tìm kiếm một đối tượng Dễ chịu để thay thế đối tượng
Trung tính này bởi Vô Minh cho rằng đối tượng Trung tính cũng mang đến
Khổ, chỉ có đối tượng Dễ chịu mới là Hạnh phúc, mới chấm dứt Khổ. Hành vi
Tìm kiếm này gọi là Si.

Hành vi Tham đối với đối tượng Dễ chịu, Sân đối với đối tượng Khó chịu rất dễ
nhận biết nhưng Si đối với đối tượng Trung tính là rất vi tế, rất khó nhận biết. Si
khởi lên sẽ đưa đến tác ý hướng đến một đối tượng khác, tác ý khởi lên một lộ
trình tâm tư duy, tìm cầu một đối tượng khác. Trong đời sống của Phàm phu,
thời gian khởi lên Tham và Sân chiếm chỉ khoảng 30% còn Si chiếm đến 70%
còn lại. Nhận biết Tham Sân Si thì Thánh hay Phàm đều nhận biết được nhưng
hiểu biết về Tham Sân Si thì Thánh Phàm lại khác nhau. Phàm phu hiểu biết về
Tham Sân Si như sau:

a - Tham ái gồm ba lĩnh vực là: Dục ái, Hữu ái và Phi Hữu ái.

- Dục ái: Phàm phu hiểu Thích thú một đối tượng Dễ chịu, Thích thú Hạnh phúc
là bản chất tốt đẹp của con người. Ai không thích thú Hạnh phúc, không thích thú
Sắc đẹp, Tiếng hay, Vị ngon, Hương thơm, Xúc chạm êm ái là kẻ điên. Nếu
không có Tham ái Hạnh phúc thì không có động lực, không có nỗ lực phấn đấu
để đạt được giàu có, tiện nghi, sắc đẹp, danh tiếng, tình yêu... không thể nào có
được những giá trị cuộc đời mà nhân loại tôn xưng. Chính Dục ái, sự Tham ái
Hạnh phúc vật chất và tinh thần được cuộc đời ca ngợi, tôn vinh. Mọi phương
tiện truyền thông, mọi lĩnh vực như âm nhạc, thi ca, văn học nghệ thuật, triết
học, chính trị... đều nhằm khích lệ, cổ vũ, kích động con người Tham ái Dục lạc.
Nếu không có Tham ái Dục lạc, thì làm sao có tình yêu và nếu không có tình yêu
thì cuộc đời trở nên vô nghĩa, không có tình yêu thì làm sao mà thi ca, âm nhạc,
nghệ thuật, những thứ không thể thiếu trong đời sống nhân loại ra đời được?
nhân loại làm sao sống nổi? Nếu không có Tham ái thì làm sao mà có tình yêu
mẹ con, anh em, chồng vợ, tình yêu quê hương, đất nước tổ quốc, đồng bào?

- Hữu ái: là tham ái sự hiện hữu, sự sống. Nhân loại cho rằng sự sống là cao cả,
sự sống là mầu nhiệm, sự sống mang đến Hạnh phúc cho nhân loại, còn chết là
đau khổ, là rơi vào một cái gì bí hiểm, không biết được, vô định, đầy bất trắc, sợ
hãi và đau khổ. Chính vì vậy mà nhân loại tham ái sự sống, khao khát sống,
mong cho được trường tồn mãi mãi. Đây là bản năng của con người và nhờ bản
năng đó mà con người mới tồn tại. Nếu không có tham ái sự sống loài người sẽ
không còn tồn tại, sẽ không vượt qua được mọi nỗi truân chuyên cay đắng của
cuộc đời. Hữu ái tuy rằng vi tế khó thấy, khó biết hơn Dục ái nhưng mãnh liệt
hơn rất nhiều so với Dục ái. Một người giàu có một ngàn tỉ đồng, nếu bị phá sản
sẽ vô cùng đau khổ, nhưng nếu bị bệnh nan y không thể nào chữa khỏi, sẽ phải
chết thì anh ta sẵn sàng đánh đổi một ngàn tỉ đó để có được mạng sống.

- Phi Hữu ái là tham ái Hạnh phúc tuyệt đối của Niết bàn hay phúc lạc toàn vẹn,
pháp hỷ sung mãn của các cảnh giới giải thoát khi không còn thân xác, không
còn hiện hữu của thân xác. Các cảnh giới giải thoát của các tôn giáo khác nhau
thì khác nhau dựa vào chủ trương và đức tin của từng tôn giáo nhưng nếu như
không có Phi Hữu ái, nếu không có tham ái Hạnh phúc giải thoát tuyệt đối, thì
tôn giáo không thể tồn tại và nếu tôn giáo không tồn tại thì đời sống của đa số
nhân loại sẽ bế tắc bởi tôn giáo là cái phần quan trọng không thể thiếu của đời
sống nhân loại. Nếu không có Phi Hữu ái thì những người tu hành của các tôn
giáo sẽ không có động lực vượt qua gian khổ để tu hành.

b - Sân là chán ghét, tức tối, giận dữ một đối tượng khó chịu.

Nhân loại hiểu Sân là thái độ thích hợp đối với đối tượng khó chịu, do có nó mà
phát sinh hành động thích hợp để bảo vệ những lợi ích bị xâm hại, bị xúc phạm,
để giành được những lợi ích cho mình. Sân là cách thể hiện thái độ tốt nhất đối
với bạo lực, với những điều xấu ác, những bất công, những xúc phạm nhân
phẩm. Nếu không có Sân thì không thể có lòng căm thù để đấu tranh lật đổ
những bất công, không có lòng căm thù để bảo vệ quê hương, đất nước, không
báo thù, không chiến thắng được kẻ đã hãm hại mình. Không có Sân thì không
thể có sức mạnh để chiến thắng những áp bức, bất công, bạo tàn, không bảo vệ
được những giá trị cao cả của nhân loại đã tốn bao công sức tạo dựng.

c - Si là hành vi tìm kiếm một đối tượng Dễ chịu để thay thế một đối tượng trung
tính hay nói cách khác là tìm kiếm Hạnh phúc (hỷ lạc) chỗ này chỗ kia như Dục
ái, Hữu ái, Phi Hữu ái.

Nhờ có Si mà loài người mới phát minh được từ cái này đến cái khác, từ ô tô,
tàu hoả, máy bay, máy vi tính, các phương tiện nghe nhìn, các loại thuốc chữa
bệnh v.v.. Nếu không có Si thì thế gian này không thể ra khỏi bóng tối, đói
nghèo, lạc hậu, ngu dốt của thời kỳ nguyên thuỷ, không thể có khoa học, không
thể có tiện nghi hiện đại, không thể có cuộc sống vật chất và tinh thần như hiện
nay, không thể có phát triển... Si không phải là Ngu si mà là động lực phát sinh
trí thông minh của con người, là hành vi tìm kiếm hạnh phúc chỗ này chỗ kia, là
động lực phát triển của cuộc sống, là động lực của phát minh và sáng tạo.

Nhân loại hiểu Tham Sân Si mang đến tốt đẹp cho đời sống là như vậy. Hiểu
biết này đã được tích luỹ, đã được lưu giữ nơi "kho chứa tri thức, hiểu biết, kinh
nghiệm" của mỗi người nên khi lộ trình tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu khởi lên,
Tà Niệm sẽ kích hoạt các thông tin đó và Tà Tư Duy sẽ phân tích đối chiếu với
các thông tin đó và sẽ khởi lên cái biết Ý thức nhị nguyên mang nội dung hiểu
biết về Tham Sân Si như vậy. Nhân loại đang sống với hiểu biết về Tham Sân Si
như vậy và Thế gian này, cuộc đời này sẽ vận hành bởi Tham Sân Si là như
vậy. Đối với Phàm phu, khi tâm có Tham vẫn biết là Tâm có Tham, khi tâm có
Sân vẫn biết là tâm có Sân, khi tâm có Si vẫn biết là Tâm có Si chứ không phải
là không biết, nhưng là biết không đúng sự thật, biết sai lạc rằng Tham Sân Si là
tốt đẹp, là hợp lý đưa đến Hạnh phúc, đưa đến hết Khổ. Khi biết Tham, biết
Sân, biết Si như vậy thì Tham Sân Si tăng trưởng chứ không chấm dứt.

2 - Hiểu biết đúng như thật hay Minh về Tham Sân Si của bậc Thánh:

Nhân loại hiểu biết Tham Sân Si là tốt đẹp, Tham Sân Si sẽ mang đến hạnh
phúc, sẽ mang đến chấm dứt khổ nhưng sự thật không phải như vậy. Tham Sân
Si có thể mang đến hạnh phúc và hạnh phúc đó có thể chấm dứt được cái khổ
này nhưng nó lại làm phát sinh một cái khổ khác thậm chí còn nghiêm trọng
hơn rất nhiều cái khổ cũ. Tham Sân Si chỉ đổi cái khổ này lấy cái khổ khác chứ
không chấm dứt được khổ, không đưa đến Mục Đích Tối Hậu là Chấm Dứt
Khổ. Ví như một cô gái khổ vì cô đơn, vì chưa có người yêu tâm đồng ý hợp,
nhưng khi cô có người yêu tâm đồng ý hợp và cưới làm chồng thì cô chấm dứt
được khổ vì cô đơn nhưng chính cái đời sống hạnh phúc gia đình đó lại phát
sinh ra muôn vàn nỗi khổ khác còn nghiêm trọng hơn nỗi khổ cô đơn. Một tác
giả trong một đoản văn với tựa đề “Tôi muốn được trở về làm sáu tuổi” đã lặp
đi lặp lại trong suốt bài văn: “Tôi muốn được trở về làm sáu tuổi. Muốn được
trở về với thơ ngây, với hồn nhiên với niềm vui giản đơn, với cái biết chưa chất
đầy tri thức kinh nghiệm của cuộc đời. Nay đã là người luống tuổi, đã trưởng
thành, đã thành đạt, đã trải nghiệm biết bao hạnh phúc vật chất, tinh thần, đã có
gia đình chồng vợ, con cái, đã nắm giữ tài sản và đặc biệt đã hiểu biết rất nhiều,
hiểu biết về khoa học, về thế giới, về con người, về cuộc sống, về tình yêu, về
thù hận, cả về Chân Thiện Mỹ... nhưng nay đem so sánh cuộc đời trong hiện tại
với khi còn sáu tuổi thì phải thốt lên: Tôi muốn được trở về làm sáu tuổi.” Qua
ví dụ này người trí sẽ hình dung ra sự phát triển tân tiến, hiện đại sẽ đưa con
người về đâu, có phải nó sẽ đưa con người đi xa khỏi cái mục đích tối hậu của
con người là Chấm Dứt Khổ.

Nhân loại cho rằng nếu không có Tham Sân Si thì Thế giới sẽ ở trong tăm tối,
trong lạc hậu, đói nghèo, sẽ không phát triển. Nhưng phát triển để làm gì, tối
tân, giàu có để làm gì nếu nó không đưa con người đến mục đích tối hậu là
Chấm Dứt Khổ. Hàng ngàn thậm chí là hàng chục ngàn năm trước Thế giới ở
trong đói nghèo, tối tăm, lạc hậu và con người lúc đó ở trong Khổ, nhưng ngày
nay Thế giới đã phát triển ở đỉnh cao, đã sang trọng, đã tân tiến nhưng con
người đâu đã thoát khổ, mà những vấn nạn, những nỗi khổ của loài người còn
trầm trọng hơn. Cho dù Thế giới này có phát triển đến đâu đi nữa thì con người
vẫn phải gánh chịu nỗi khổ của Sinh Già Bệnh Chết, nỗi khổ của Cầu mong mà
không được, nỗi khổ của thương yêu nhau mà phải chia lìa, nỗi khổ của oán
ghét mà phải gặp nhau, nỗi khổ của Sầu Bi Ưu Não. Nghĩa là còn chấp thủ
Năm Uẩn, còn Năm Thủ Uẩn thì con người còn Khổ, chứ không phải Thế giới
phát triển, hiện đại, giàu có là con người hết khổ.

Con người nhờ Tham Sân Si mà đạt đến Hạnh phúc vật chất và tinh thần đến
bao nhiêu đi nữa cũng không bao giờ chấm dứt được khổ. Điển hình như ông
vua nhạc rốc Elvis Pretly, cho dù đã đạt đến đỉnh cao của giàu có và thành đạt
và dưới cái nhìn của nhân loại ông ta ở trên đỉnh cao của Hạnh phúc nhưng
Pretly đã nói gì trước khi chết? Đó là: “Sao thất vọng cứ đến khi ta mãi đi tìm.”
Đó là cái điệp khúc mà ông cứ láy đi láy lại mãi trong bài hát cuối cùng, cái
điệp khúc đã làm cho rất nhiều người rơi nước mắt và cũng là lời thú nhận của
ông: suốt đời mãi đi tìm Hạnh phúc nhưng đau khổ vẫn cứ tồn tại.

Không như hiểu biết Vô Minh của nhân loại cho rằng Khổ và Nguyên nhân Khổ
nằm nơi ngoại cảnh, ở nơi Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp trần, bậc Thánh hiểu
biết như thật: Khổ phát sinh nơi nội tâm, Nguyên nhân Khổ phát sinh nơi nội
tâm và nó chính là Tham Sân Si.

a - Tham là Nguyên nhân Khổ:

Khi có một đối tượng Dễ chịu mà thực chất là một Cảm giác dễ chịu hay Lạc
thọ, kẻ Phàm phu bị Vô Minh chi phối nên Tham ái Lạc thọ. Do Tham ái Lạc
thọ nên nắm giữ và ràng buộc với Lạc thọ. Do Lạc thọ vô thường nên khi nó
biến hoại, biến diệt, mất đi, Sầu Bi Khổ Ưu Não sẽ khởi lên nơi kẻ phàm phu
đó. Sầu Bi Khổ Ưu Não khởi lên khi mất Lạc thọ, thuật ngữ Phật học đặt tên là
Hoại Khổ: Đối tượng dễ chịu (Lạc thọ) Tham Ràng buộc Hoại Khổ. Nếu
có một Lạc thọ mà không Tham ái nó, thì sẽ không nắm giữ, không ràng buộc
với nó nên khi nó biến hoại, biến diệt, mất đi thì Sầu Bi Khổ Ưu Não không thể
khởi lên. Vì vậy Tham ái Lạc thọ là Nguyên nhân Khổ. Khi Tham ái một đối
tượng dễ chịu sẽ muốn có nó, để có được nó phải lao tâm khổ trí nên Khổ sẽ
khởi lên, lao tâm khổ trí nhưng không có được nó Khổ sẽ khởi lên, có được nó
nhưng lại sợ mất nó nên Khổ khởi lên, có được nó nhưng khi mất nó Khổ sẽ
khởi lên. Phải quán sát nơi cuộc sống hàng ngày để biết như thật Tham ái lạc
thọ (hạnh phúc) là Nguyên nhân Khổ. Vì Tham ái lạc thọ mà có sát sanh, trộm
cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu. Vì Tham ái lạc thọ mà cha con tranh đoạt
nhau, vợ chồng tranh đoạt nhau, dòng họ, giai cấp, đất nước tranh đoạt nhau.
Vì Tham ái lạc thọ mà có biết bao lừa đảo, phá sản, giết chóc, tàn sát, tàn hại
lẫn nhau. Vì Tham ái lạc thọ mà người ta sản xuất, buôn bán ma tuý để tàn hại
nhau, người ta chế tạo vũ khí hiện địi, chế tạo bom hạt nhân, chế tạo vũ khí hoá
học để tàn sát nhau. Vì Tham ái lạc thọ mà rất nhiều hoa hậu bán dâm, có cả
con trai giao cấu với mẹ đẻ, có ông bố hiếp dâm con gái mới sáu tuổi. Vì Tham
ái lạc thọ mà phát sinh biết bao tội ác, biết bao nỗi khổ đau cùng tận trên thế
gian này... Đó là Dục ái, tham ái Dục lạc. Hữu ái là tham ái sự sống, sự hiện
hữu là nhân đưa đến phát sinh Thức tái sinh chịu cái khổ Sinh Già Bệnh Chết
trong sinh tử luân hồi. Phi Hữu ái là tham ái cảnh giới giải thoát, thiên đường
cực lạc đưa đến nỗi khổ của biết bao nhiêu cách tu hành khổ hạnh kỳ quái của
các tôn giáo trên thế giới. Đánh bom liều chết của kẻ cực đoan để sau khi chết
được lên thiên đường với bảy mươi hai bà vợ là tiên nữ trinh nguyên cũng là
biểu hiện của Phi Hữu ái.

b - Sân là Nguyên nhân Khổ:

Khi có một đối tượng khó chịu mà thực chất là một cảm giác khó chịu hay Khổ
thọ, kẻ Phàm phu bị Vô Minh chi phối nên Chán ghét Khổ thọ, gọi là Sân. Do Sân
đối với Khổ thọ nên cũng sẽ ràng buộc với đối tượng đó. Do sự ràng buộc mà Sầu
Bi Khổ Ưu Não khởi lên. Khổ này thuật ngữ Phật học gọi là Khổ Khổ: Đối tượng
khó chịu (Khổ thọ) Sân Ràng buộc Khổ Khổ. Hãy quán sát điều này trong
cuộc sống để tuệ tri nó.

c - Si là Nguyên nhân Khổ:

Khi có một đối tượng trung tính mà thực chất là một cảm giác trung tính hay bất
khổ bất lạc thọ, kẻ phàm phu bị Vô minh chi phối nên Si khởi lên, đi tìm một đối
tượng Dễ chịu để thay thế đối tượng trung tính. Do có Si mà sẽ ràng buộc với đối
tượng tìm kiếm và do có sự ràng buộc mà Sầu Bi Khổ Ưu Não khởi lên. Khổ này
thuật ngữ Phật học gọi là Hành Khổ: Đối tượng trung tính (Bất khổ bất lạc thọ)
Si Ràng buộc Hành Khổ. Sự tìm kiếm một đối tượng dễ chịu để thay thế
đối tượng trung tính (Si) sẽ bắt gặp đối tượng dễ chịu thì phát sinh Hoại Khổ, bắt
gặp đối tượng Khó chịu sẽ phát sinh Khổ Khổ, bắt gặp đối tượng trung tính lại
phát sinh Hành Khổ như trên. Tâm Si này sẽ truy tìm hạnh phúc trong quá khứ,
ước vọng những hạnh phúc trong tương lai, sẽ vui buồn với quá khứ và tương lai,
loanh quanh trong những suy nghĩ về quá khứ và tương lai nên phát sinh Hành
Khổ. Một người nếu phải ở một mình nơi vắng vẻ, không có bất kỳ một việc gì
để làm, không ti vi, không có bất kỳ một phương tiện nghe nhìn nào, sẽ suy nghĩ
liên tục để thoát ra khỏi hoàn cảnh trung tính đó, và sẽ rất khổ sở khi phải đối
diện với trung tính đó dù chỉ 10 phút. Trong giờ phút hấp hối tâm Si tìm kiếm
một sự hiện hữu nên làm phát sinh Thức tái sinh, tiếp tục vòng luân hồi sinh tử,
chịu khổ đau của Sinh Già Bệnh Chết.

Trong thế gian này bất kỳ một ai, già trẻ, gái trai, giàu nghèo, ngu trí, dân tộc, tôn
giáo nào, chỉ ngoại trừ các bậc Thánh đã Giác ngộ hễ:

- Đối diện một đối tượng dễ chịu thì Tham khởi lên và cảm nhận Hoại Khổ
- Đối diện một đối tượng khó chịu thì Sân khởi lên và cảm nhận Khổ Khổ
- Đối diện một đối tượng trung tính thì Si khởi lên và cảm nhận Hành Khổ
Đây là sự thật phổ quát, là Chân Lý, là Sự Thật về Khổ. Hoại Khổ, Khổ Khổ,
Hành Khổ phát sinh nơi nội tâm chứ không tồn tại nơi ngoại cảnh Sắc Thanh
Hương Vị Xúc Pháp. Nguyên nhân Khổ là Tham Sân Si phát sinh nơi nội tâm chứ
không từ ngoại cảnh mà đến với con người. Cho dù hoàn cảnh là toại nguyện hay
bất toại nguyện, nếu có Tham Sân Si thì đều phát sinh Khổ. Đây cũng là Sự Thật
phổ quát, là Chân Lý, là Sự Thật Nguyên nhân Khổ.

3 - Tuệ tri Tham Sân Si:

Không những phải có được hiểu biết như thật về Tham Sân Si là nguy hiểm, là
nguyên nhân Khổ mà phải có hiểu biết toàn diện theo công thức Tứ Thánh Đế.
Nghĩa là:
a - Tuệ tri Tham Sân Si là Nguyên nhân Khổ, là nguy hiểm chứ không phải tốt
đẹp như mê lầm của Phàm phu.
b - Tuệ Tri sự tập khởi của Tham Sân Si: Tham Sân Si khởi lên trên lộ trình tâm
Bát Tà Đạo của Phàm phu: Xúc Thọ - Tưởng Tà Niệm Tà Tư Duy Tà Tri
Kiến Tham hoặc Sân hoặc Si ... Khi Căn Trần tiếp xúc phát sinh Cảm Thọ và
cái biết trực tiếp giác quan (Tưởng), tiếp theo Tà Niệm khởi lên sẽ kích hoạt các
thông tin Vô minh (có cả thông tin vô minh về Tham Sân Si) được lưu giữ trong
"kho chứa tri thức, kinh nghiệm, hiểu biết" và Tà Tư Duy khởi lên sẽ phân tích, so
sánh, đối chiếu thông tin về Cảm thọ vừa xuất hiện với các thông tin được Tà
Niệm kích hoạt. Do Tà Tư Duy như vậy mà phát sinh cái biết Ý thức Tà Tri Kiến
mang nội dung Vô minh về Khổ Tập Diệt Đạo, về Tham Sân Si. Ý thức Tà Tri
Kiến như vậy là nhân, là duyên cho Tham Sân Si phát sinh.
c - Tuệ Tri sự đoạn diệt Tham Sân Si đó là khi lộ trình tâm Bát Chánh Đạo khởi
lên theo lộ trình: Xúc Thọ - Tưởng Chánh Niệm Chánh Tinh Tấn Chánh
Định (Tỉnh Giác) Chánh Tư Duy Chánh Tri Kiến ... Trong lộ trình Bát
Chánh Đạo, Chánh Niệm sẽ kích hoạt các thông tin thuộc về Minh đã được nghe
giảng (Văn Tuệ), đã được lưu vào kho chứa trong đó có tuệ tri sự nguy hiểm, tuệ
tri Tham Sân Si là Nguyên nhân khổ và Chánh Tư Duy sẽ phân tích, so sánh, đối
chiếu thông tin về Cảm thọ mới xuất hiện với thông tin đã được Chánh Niệm kích
hoạt. Chánh Tư Duy như vậy sẽ phát sinh Chánh Tri Kiến có nội dung Minh, có
nội dung tuệ tri sự nguy hiểm, tuệ tri Tham Sân Si là Nguyên nhân Khổ. Chánh
Tri Kiến như vậy sẽ không còn nhân duyên cho Tham Sân Si khởi lên. Đây là sự
đoạn diệt Tham Sân Si.
d - Con đường đoạn diệt Tham Sân Si chính là Bát Chánh Đạo. Khi nào Bát
Chánh Đạo được tu tập, được làm cho viên mãn thì khi ấy Chánh Tri Kiến cũng
được tu tập, cũng được làm cho viên mãn thì tuệ tri Tham Sân Si cũng được tu
tập, được làm cho viên mãn, chỉ khi đó thông tin Minh mới xoá bỏ được thông tin
Vô Minh về Tham Sân Si trong kho chứa và lúc đó Tham Sân Si mới bị đoạn diệt
không có dư tàn. Đức Phật đã dạy trong kinh Niệm Xứ mà cố Hoà thượng Minh
Châu đã phiên dịch rất rõ ràng: Khi tâm có Tham "Tuệ tri" tâm có Tham, khi tâm
có Sân "Tuệ tri" tâm có Sân, khi tâm có Si "Tuệ tri" tâm có Si. Với sự Tuệ tri như
vậy Tham Sân Si không còn nhân duyên sinh khởi. Một số người chưa tuệ tri
Tham Sân Si họ hiểu câu kinh sai lạc theo hiểu biết vô minh nên trích dẫn kinh
một cách sai lạc: khi tâm có tham biết tâm có tham, khi tâm có sân biết tâm có
sân, khi tâm có si biết tâm có si. Kẻ phàm phu khi tâm có tham vẫn biết tâm có
tham, khi tâm có sân vẫn biết tâm có sân, khi tâm có si vẫn biết tâm có si nhưng
biết tham sân si theo kiểu phàm phu như vậy thì tham sân si tăng trưởng chứ
không chấm dứt. Nghe giảng rồi tuệ tri được Tham Sân Si, tuệ tri sự tập khởi, sự
đoạn diệt và con đường đoạn diệt Tham Sân Si không phải là quá khó, nhưng đây
mới chỉ là Văn Tuệ, nó chỉ lưu thông tin Minh vào kho chứa thông tin "tri thức,
hiểu biết, kinh nghiệm" chứ chưa xoá bỏ được thông tin Vô Minh trong kho chứa.
Chính lượng thông tin Vô Minh về Tham Sân Si đã được tích luỹ, lưu giữ từ vô
thuỷ và mỗi một lộ trình tâm Bát Tà Đạo đều được kích hoạt và sử dụng nên nó là
thông tin nổi trội nhất, vững chắc nhất trong kho chứa và vì vậy mỗi khi được
nghe giảng thì tuệ tri Tham Sân Si rất rõ ràng, minh bạch, Minh được khởi lên,
nhưng nghe xong chỉ cần 5 phút, Minh sẽ bị chìm xuống và Vô Minh sẽ trồi lên
trên và Tham Sân Si lại có đủ nhân duyên để phát sinh. Chính vì điều khó khăn
này mà Đức Phật đã giảng dạy lộ trình Văn - Tư - Tu. Sau khi nghe giảng phải Tư
duy để sự hiểu biết về Minh và Vô Minh về Tham Sân Si được sâu sắc hơn. Tư
duy như vậy rất nhiều lần thì có thể xoá đi một phần nào đó về Vô Minh nhưng
cái chính là kích hoạt thông tin Minh về Tham Sân Si để thông tin này nổi trội nhất
trong kho chứa và đó là nhân duyên cho Chánh Niệm khởi lên khi tu tập. Tu Tuệ
sẽ khởi lên khi tu tập, đó là Chánh Tri Kiến trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo. Khi
có Chánh Niệm tức nhớ đến Tuệ tri sự nguy hiểm hay Tuệ tri Tham Sân Si thì các
thông tin Minh về Tham Sân Si được kích hoạt và Chánh Tư Duy sẽ so sánh, đối
chiếu với Minh đó làm phát sinh Chánh Tri Kiến có nội dung tuệ tri sự nguy
hiểm, tuệ tri Tham Sân Si là nguyên nhân của Khổ. Với Chánh Tri Kiến như vậy
thì Tuệ tri được sự xuất ly của Thọ, nghĩa là không có Tham đối với Lạc thọ,
không có Sân đối với Khổ thọ, không có Si đối với bất khổ bất lạc thọ. Đây cũng
là tuệ tri Tuệ Giải Thoát. Với Niệm Tâm và Niệm Pháp lộ trình tâm Bát Chánh
Đạo mới khởi lên Chánh Tri Kiến với Tuệ Giải Thoát mới có thể khởi lên và an
trú Minh, mới xoá bỏ được Vô Minh, mới thay đổi được nhận thức về Tham Sân
Si. Khi thực hành Niệm Thân, Niệm Thọ lộ trình tâm Bát Chánh Đạo dừng lại cái
biết trực tiếp giác quan gọi là Tỉnh Giác cũng kinh nghiêm được không có Tham
Sân Si, kinh nghiệm được Tâm Giải Thoát (Giải Thoát do Định) cũng là điều rất
tốt lành, nhưng nó chưa đụng đến Vô Minh, chưa làm thay đổi được nhận thức về
Tham Sân Si, nó như đá đè cỏ, hết đè, cỏ lại đứng lên. Nếu không thực hành theo
lộ trình Văn - Tư - Tu thì cho dù một người có chứng đắc bốn bậc thiền, một ngày
có an trú trong định gần suốt thời gian thì khi ra khỏi định Tham Sân Si vẫn còn y
nguyên, thậm chí còn kinh khủng hơn khi chưa đắc thiền vì Ngã mạn tuỳ miên
(Ta hơn, Ta kém, Ta bằng) có nhân duyên để tăng trưởng.

Về mục lục

Bài 162: THẤT THÁNH TÀI HAY BẢY TÀI SẢN CỦA BẬC THÁNH
Thất Thánh tài là bảy tài sản của bậc Thánh. Trong Phật giáo có bậc Thánh vô học
đạo tức bậc Thánh A-la-hán và bậc Thánh hữu học đạo bao gồm: Bậc Thánh
Nhập Lưu, Nhất Lai và Bất Lai. Thất Thánh tài là bảy tài sản thuộc về bậc Thánh
hữu học. Đối với bậc Thánh hữu học tại gia gồm: Tín - Giới - Tàm - Quý - Văn -
Thí - Tuệ. Đối với bậc Thánh hữu học xuất gia gồm: Tín - Giới - Tàm - Quý - Văn
- Tinh Tấn - Trí Tuệ. Tuy nhiên kẻ phàm phu cũng có Tín Giới Tàm Quý Văn Thí
và hiểu biết nhưng đó không phải là tài sản của bậc Thánh, không phải là những
thứ quý báu, vì nó không phải là hành trang của Hành Giả trên con đường Giác
Ngộ. Vậy thì Tín Giới Tàm Quý Văn Thí Tuệ của bậc Thánh khác nhau với Tín
Giới Tàm Quý Văn Thí Hiểu biết của phàm phu như thế nào?
1 - Tín tài sản của bậc Thánh:
Đó là đức tin do có hiểu biết đúng như thật về Đức Phật, về Giáo Pháp, về chư
Tăng mà khởi lên. Đức tin đó gọi là Chánh Tín bao gồm:
- Chánh tín về Phật: Đức Phật là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc,
Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư,
Phật, Thế Tôn.
- Chánh tín về Pháp: Pháp mà Đức Thế Tôn khéo thuyết giảng là Thiết thực hiện
tại, Đến để mà thấy, Không có thời gian, Có tính hướng thượng, Cho người trí tự
mình giác hiểu.
- Chánh tín về Tăng: Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, Trực hạnh là chúng đệ tử
Thế Tôn, Ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn, Chân chánh hạnh là chúng đệ tử
Thế Tôn nghĩa là có bốn đôi và tám bậc. Chúng Tăng đệ tử của Đức Thế Tôn
đáng được lễ bái, đáng được chắp tay, đáng được cúng dường, là phước điền vô
thượng ở đời.
Một người nếu có đầy đủ ba loại chánh tín như vậy, thì người đó là một bậc
Thánh nhập lưu. Trong Tương ưng bộ kinh thuộc văn hệ Pali có khẳng định: Một
người có Chánh tín về Phật, về Pháp, về Tăng như vậy, nếu muốn người ấy có thể
tự tuyên bố về mình: Ta đã là bậc Thánh nhập lưu, không còn đoạ lạc vào cõi dữ,
ác thú, đoạ xứ, địa ngục, ta chỉ còn tái sinh trong cõi trời và cõi người tối đa là bảy
lần nữa thì sẽ giác ngộ. Tín, tài sản của bậc Thánh là như vậy, nó khác hẳn với
Tín của người Phật tử còn phàm phu. Người Phật tử còn phàm phu cũng có Đức
tin về Phật, về Pháp, về Tăng nhưng là đức tin phát sanh do hiểu biết sai lạc về
Phật, về Pháp, về Tăng, xem Phật như là một đấng thần linh có quyền ban vui
giáng hoạ, xem Tam bảo như một đối tượng để cầu xin, van vái, mặc cả, tụng
kinh, sám hối với mục đích để hết bệnh tật, để có tài lộc dồi dào, để công việc làm
ăn được hanh thông v.v.. Đức tin như vậy gọi là Mê tín.

2 - Tài sản thứ hai của bậc Thánh là giới:

Bậc Thánh hay người Phật tử còn phàm phu cũng thọ trì và thực hành các học giới
(có thể là Năm giới, Tám giới, Mười giới hay giới của Tỷ kheo) nhưng bậc Thánh
thọ trì và thực hành các học giới với Trí tuệ tức với hiểu biết: sự thực hành giới là
tạo duyên cho Chánh Niệm khởi lên và khi Chánh Niệm khởi lên thì lộ trình tâm
Bát Chánh Đạo sẽ khởi lên theo định luật Duyên Khởi. Và chỉ lộ trình tâm Bát
Chánh Đạo mới đoạn trừ tham, đoạn trừ sân, đoạn trừ si. Bậc Thánh thực hành
các học giới với mục đích đoạn trừ Tham Sân Si. Kẻ phàm phu tuy cũng thực
hành các học giới nhưng với mục đích để có được mạnh khoẻ, sống lâu, vô bệnh,
để được giàu có, thành đạt, danh tiếng, để sau khi chết được sinh cõi trời, để
không bị đoạ địa ngục... hoặc thực hành với sự chấp thủ giới và biến giới luật vốn
là phương tiện để đoạn tận Tham, đoạn tận Sân, đoạn tân Si thành giới cấm thủ.

3 - Tài sản thứ ba của bậc Thánh là Tàm:

Tàm là thuật ngữ Phật học tiếng Hán và nếu hiểu theo nghĩa tiếng Việt thì Tàm là
xấu hổ hay hổ thẹn.

4 - Tài sản thứ tư của bậc Thánh là Quý:


Quý theo nghĩa tiếng Việt là sợ hãi. Tàm và Quý là hổ thẹn và sợ hãi sẽ được
thuyết minh chung vì ý nghĩa hai phẩm tánh này cũng gần giống nhau. Kẻ phàm
phu cũng có Tàm và Quý và nó khởi lên liên tục nhưng tàm quý của kẻ phàm phu
không phải là thứ tài sản đáng quý bởi cái hổ thẹn và sợ hãi đó khởi lên do Tham
Sân Si. Khi mặc một cái áo rách ra đường cũng hổ thẹn, gia cảnh nghèo hèn cũng
hổ thẹn, cha mẹ xuất thân nghèo nàn cũng hổ thẹn, thua kém người khác cũng hổ
thẹn, ăn cắp bị bắt quả tang cũng hổ thẹn, ngoại tình bị bắt quả tang cũng hổ
thẹn, mất chức cũng hổ thẹn... Sợ hãi thì vô biên không kể xiết: sợ gió mưa bão
lụt, sợ bệnh tật, sợ chết, sợ mất tài sản, sợ mất danh tiếng, sợ chiến tranh, sợ cãi
cọ gây gỗ v.v.. Hổ thẹn và sợ hãi của kẻ phàm phu chất chồng đau khổ, nó từ
Tham Sân Si mà khởi lên và nó lại làm cho Tham Sân Si tăng trưởng.

Bậc Thánh hữu học đang tu tập Bát Chánh Đạo để đoạn trừ Tham Sân Si nhưng
chưa đạt được mục đích như các bậc A-la-hán, nên khi không có Chánh Niệm thì
Tà Niệm khởi lên, lúc đó lộ trình tâm Bát Tà Đạo sẽ khởi lên theo định luật
duyên khởi và lúc đó Tham Sân Si sẽ khởi lên. Lúc có Chánh Niệm trở lại bậc
Thánh sẽ hổ thẹn và sợ hãi vì đã dễ duôi nên bị Tham Sân Si chi phối. Một vị
xuất gia là bậc Thánh hữu học khi bị Tham Sân Si chi phối, lúc có Chánh Niệm
trở lại, vị ấy sẽ thốt lên: Thật đáng hổ thẹn cho ta, thật đáng ghê sợ cho ta, thật
khốn nạn cho ta, ta xuất gia từ bỏ gia đình, tài sản, sống không gia đình, không
tài sản để đoạn trừ Tham, để đoạn trừ Sân, để đoạn trừ Si, để có thể chấm dứt
khổ đau nhưng tham vẫn xâm chiếm tâm ta, sân vẫn xâm chiếm tâm ta, si vẫn
xâm chiếm tâm ta, Dục tầm, Sân tầm, Hại tầm vẫn xâm chiếm tâm ta, thật là
khốn nạn cho ta, thật là đau đớn cho ta. Tàm Quý khi bị Tham Sân Si chi phối
mới là Tàm Quý của bậc Thánh, nó là tài sản đáng quý, là hành trang trên con
đường giác ngộ.

Bậc Thánh có tàm quý khi bị Tham Sân Si chi phối vì các vị đã có hiểu biết đúng
như thật về Tham Sân Si (Tuệ tri Tham Sân Si), biết như thật Tham Sân Si là
nguyên nhân phát sinh đau khổ. Kẻ phàm phu không tuệ tri Tham sân si, không
biết Tham sân si là nhân phát sinh đau khổ mà hiểu biết sai lạc rằng tham sân si
đưa đến thành công, đưa đến lợi lộc, đưa đến giàu sang, đưa đến hạnh phúc v.v..
nên khi bị tham sân si chi phối đã không có Tàm Quý mà còn tán thưởng nên bị
Tham Sân Si cuốn trôi trong khổ đau và luân hồi sinh tử. Kẻ phàm phu hiểu biết
rằng nếu không có yêu thích Sắc đẹp, Tiếng hay, Hương thơm, Vị ngon, Xúc
chạm êm ái, tức không có Dục ái thì lấy đâu ra lý tưởng, lấy đâu ra động lực để
mà làm giàu, để mà phát minh ra thứ này, thứ kia, để mà tích luỹ thứ này, thứ kia,
để mà tận hưởng được niềm vui, hạnh phúc lạc thú. Nếu không có Dục ái tức
Tham ái dục lạc thì xã hội sẽ ngừng lại, sẽ không còn phát triển. Nếu không có
Tham ái sự sống, sự hiện hữu gọi là Hữu ái thì không còn khao khát sống, không
có nỗ lực cố gắng để vượt qua mọi cay đắng gian truân của cuộc mưu sinh, không
có động lực để nghiên cứu phát minh ra các loại thuốc chữa trị các căn bệnh của
loài người. Nếu không có Sân thì sẽ không có được những nỗ lực cố gắng, không
có được những hành động quyết liệt để giành giật lấy những niềm vui, hạnh phúc,
lạc thú, để bảo vệ được những niềm vui hạnh phúc lạc thú đã có... Có những ông
bố, bà mẹ khi đứa con vừa khóc vừa mếu máo: “tụi kia nó đánh con, nó chửi con”
thì quát lên: “sao mày ngu thế, nó chửi mày mà mày không có miệng chửi lại nó à,
nó đánh mày mà mày không có tay để đánh lại nó à?” Chính những hiểu biết này
về Tham Sân Si được lưu giữ trong kho chứa tri thức hiểu biết của nhân loại và
khi lộ trình tâm Bát tà đạo của phàm phu khởi lên, hiểu biết Vô minh đó được
khởi lên và chi phối đời sống của kẻ phàm phu. Hiểu biết không đúng sự thật về
Tham Sân Si như vậy gọi là Vô Minh và nó là tấm màn che, che không cho kẻ
phàm phu thấy được sự thật Tham Sân Si là nhân phát sinh đau khổ. Quả thật cái
sự thật này (tham sân si là nhân phát sinh đau khổ) là pháp sâu kín, khó thấy, khó
chứng, tịch tịnh, mỹ diệu, vượt qua mọi tư duy lý luận suông, tế nhị chỉ người trí
mới có khả năng giác hiểu. Chính vì vậy mà Tàm và Quý của bậc Thánh và phàm
phu khác nhau là vậy.

5 - Tài sản thứ năm của bậc Thánh là Văn:

Được gọi là Thanh Văn theo nghĩa tiếng Việt là nghe âm thanh của Phật, hoặc
nghe giảng, hoặc đọc lời giảng dạy của Phật còn lưu truyền qua kinh điển. Bậc
Thánh nghe nhiều, hiểu rộng nhưng sự nghe nhiều, hiểu rộng chỉ dừng lại trong
phạm vi Giáo Pháp. Bốn mươi lăm năm thuyết pháp Đức Phật chỉ nói về Lý
Duyên Khởi và Tứ Thánh Đế theo các cách thức và các khía cạnh khác nhau mà
thôi, mà tóm tắt lại là: Đức Phật chỉ nói về Sự thật Khổ và Sự thật chấm dứt Khổ.
Nghe nhiều hiểu rộng về Giáo Pháp là tài sản, là hành trang của bậc Thánh đưa
đến sự thực hành, đưa đến lối sống của bậc Thánh. Ví như nếu không nghe nhiều,
hiểu rộng thì sẽ không biết đến những câu này trong Tăng Chi bộ kinh: Đây là
than khóc trong giới luật bậc Thánh, tức là ca hát ngâm vịnh, đây là điên loạn
trong giới luật bậc Thánh tức là nhảy múa, đây là trẻ con trong giới luật bậc
Thánh tức là cười hô hố, cười ha hả, cười để lộ cả hai hàm răng và sẽ không có
Tàm Quý khi mắc phải các lỗi lầm này. Bậc Thánh nhờ nghe nhiều hiểu rộng nên
khi lỡ phạm những điều này thì Tàm Quý sẽ khởi lên và chắc chắn lỗi lầm ấy sẽ
được đoạn tận trong tương lai. Nghe nhiều hiểu rộng của bậc Thánh là tài sản quý
báu vì nó sẽ đưa đến đoạn tận Tham Sân Si. Kẻ phàm phu cũng nghe nhiều hiểu
rộng, kiến thức họ cũng rất uyên thâm và uyên bác nhưng cái kiến thức uyên thâm
và uyên bác ấy lại là nhân cho sự chấp thủ Bản ngã và chỉ làm tăng trưởng Tham
Sân Si mà thôi.
6 - Tài sản thứ sáu của bậc Thánh là Bố thí đối với tại gia và Tinh Tấn đối
với xuất gia:
Người Phật tử tại gia còn phàm phu họ cũng thực hành bố thí nhưng hành vi bố
thí của họ có thể với tài sản rất lớn nhưng đó không phải là tài sản đáng quý của
bậc Thánh vì kẻ phàm phu bố thí với tâm trói buộc, với tâm mong cầu về phước
báo, bố thí với ý nghĩ ta và thân nhân của ta sẽ hưởng thọ kết quả trong đời này
hoặc đời sau. Bố thí như vậy không phải không có kết quả, nhưng kết quả bố thí
với tâm như vậy thuộc về hữu lậu, thuộc phước báo đưa đến quả sanh y. Người
đó có thể được mạnh khoẻ, sống lâu, giàu sang, phú quý... nhưng cũng chỉ ở
trong luân hồi sinh tử, chỉ đổi cái khổ này lấy cái khổ khác, chỉ quanh quẩn nơi
khổ mà thôi. Bậc Thánh tại gia bố thí với tâm không trói buộc, với tâm không
mong cầu về phước báo, bố thí không với ý nghĩ ta và thân nhân ta sẽ hưởng thọ
kết quả trong đời này hoặc đời sau mà bố thí với tâm buông xả, bố thí để đoạn
trừ Tham Sân Si. Bố thí như vậy không phải không có kết quả nhưng kết quả này
thuộc vô lậu, thuộc siêu thế, thuộc đạo chi (thuộc chi phần của Bát Chánh Đạo).
Bố thí như vậy mới là tài sản đáng quý thuộc bậc Thánh.

Bậc Thánh hữu học xuất gia có sự tinh tấn tu tập Bát Chánh Đạo. Sự tinh tấn này
làm cho Bát Chánh Đạo khởi lên và nhiếp phục không cho Bát Tà Đạo khởi lên.
Điều này đồng nghĩa với tinh tấn để ngăn điều ác không cho khởi lên, điều ác đã
khởi lên được diệt trừ khi bát Tà Đạo được nhiếp phục và tinh tấn khởi lên điều
thiện chưa khởi, tăng trưởng điều thiện đã khởi lên khi Bát Chánh Đạo được tu
tập, cũng đồng nghĩa với tinh tấn đoạn trừ Tham Sân Si. Kẻ phàm phu cũng có
tinh tấn nhưng tinh tấn đó do Tham Sân Si mà khởi lên. Ví như có rất nhiều
người có được tinh tấn cao, hành thiền liên tục với mục đích có được thần thông,
hoặc mục đích chữa được bệnh tật để sống lâu...

7- Tài sản thứ bảy của bậc Thánh là Trí Tuệ:

Trí tuệ là hiểu biết đúng như thật các sự vật, hiện tượng (gọi là các pháp), liễu
tri các pháp, còn được gọi là Minh hay Chánh Tri Kiến, trái ngược với hiểu biết
của nhân loại là hiểu biết không đúng như thật các pháp, gọi là không liễu tri
các pháp còn được gọi là Vô Minh hay Tà Tri Kiến. Ví như thấy quả ớt thì kẻ
phàm phu khởi lên hiểu biết: quả ớt này cay. Với hiểu biết này, "cay" là một
pháp, cay là vật chất, cay sẵn có, thường xuyên có nơi quả ớt, cay thường hằng,
thường trú nơi quả ớt, cay là của quả ớt. Như vậy đối tượng được biết, được
nhận thức cay là vật chất, thường hằng thường trú và hữu chủ (quả ớt là chủ
nhân của cay). Bậc Thánh có Trí Tuệ, liễu tri Lý Duyên Khởi có hiểu biết đúng
sự thật về cay như sau: Quả ớt là một nhân và lưỡi là nhân thứ hai. Có đủ hai
nhân đó nhưng chưa có sự tiếp xúc thì chưa có "cay" nào phát sinh cả. Khi hai
nhân Căn và Trần tức Lưỡi và Quả ớt tiếp xúc với nhau thì lập tức phát sinh
"cay". Đây là cay thật mà Thánh hay Phàm đều cảm nhận được, và "cay" này là
Cảm giác hay theo thuật ngữ Phật học là Cảm thọ, nó thuộc phạm trù Tâm chứ
không phải Vật. Xúc sanh Cảm giác cay sanh, Xúc diệt Cảm giác cay diệt. Cảm
giác cay sinh lên rồi diệt đi theo duyên Xúc, nó Vô thường, không sẵn có,
không luôn luôn có, không thường hằng, không thường trú nơi quả ớt. Cảm
giác cay do lưỡi và quả ớt tiếp xúc mà sinh ra nên lưỡi và quả ớt không phải là
chủ nhân, chủ sở hữu của Cảm giác cay. Cảm giác cay là Vô chủ cũng có nghĩa
là Vô ngã (không có cái Ta chủ nhân, chủ sở hữu cảm giác cay). Hiểu biết về
cay của nhân loại là không đúng với sự thật, là Vô minh, điên đảo, tà kiến và
cũng hiểu biết tương tự như vậy với tất cả các sự vật hiện tượng trong đời sống
hàng ngày đặc biệt là hiểu biết vô minh, điên đảo, tà kiến về Khổ Tập Diệt
Đạo. Hiểu biết vô minh, điên đảo, tà kiến này phát sinh trên vô minh gốc là
Tâm biết Cảnh (cái biết là Tâm và đối tượng được biết Cảnh: Sắc Thanh
Hương Vị Xúc Pháp trần) với nội dung Thường kiến và Ngã kiến. Tri thức
nhân loại cho dù sâu rộng bao nhiêu thì cũng chỉ là vô minh, điên đảo, chấp
Thường, chấp Ngã mà thôi.

Những sự việc hàng ngày cuộc sống như "cay" mà còn không biết đúng sự thật,
mà còn biết một cách điên đảo huống chi những thứ không tiếp xúc trực tiếp
được thì còn điên đảo ở mức độ nào?

Trí tuệ của bậc Thánh gồm ba cấp độ: trí tuệ do nghe giảng hay đọc kinh điển
mà có được gọi là Văn Tuệ, bao gồm hiểu biết như thật về Lý Duyên khởi, về
Vô thường, về Vô ngã, hiểu biết như thật về Khổ Tập Diệt Đạo. Trí tuệ do tư
duy về những điều đã học gọi là Tư Tuệ. Trí Tuệ khởi lên (tức những hiểu biết
như thật đã được học, đã tư duy) khi thực hành Bát Chánh Đạo gọi là Tu Tuệ và
chính Tu Tuệ đưa đến chứng ngộ và an trú Tuệ Giải Thoát. Trí Tuệ này được tu
tập, được làm cho viên mãn mới xoá bỏ hoàn toàn Vô Minh đưa đến quả vị A-
la-hán.

Một người Phật tử tại gia hoặc xuất gia có thể suy xét một cách thận trọng và tự
thấy tự biết mình có đầy đủ hay chưa có Thất Thánh tài và có thể tự biết mình
đã là bậc Thánh hay chưa. Nếu đã có Thất Thánh tài hãy hoan hỷ trong sự tu
tập để có được giải thoát tối hậu, nếu chưa hãy nỗ lực trong Pháp học và Pháp
hành để có được Thất Thánh tài.

Về mục lục

Bài 163: BẬC THÁNH A-LA-HÁN CÓ THẤT THÁNH TÀI KHÔNG?

Khi Trí Tuệ được tu tập được làm cho viên mãn, lúc đó các thông tin "Vô Minh,
Ta, của Ta" trong kho chứa "tri thức hiểu biết" được lưu giữ từ vô thuỷ bị xoá bỏ
hoàn toàn. Đây là sự đoạn diệt không còn dư tàn cái nhân của hiểu biết vô minh,
điên đảo, của Thường Kiến, Ngã Kiến, đoạn tận không có dư tàn cái nhân của Tà
Niệm, cái nhân của lộ trình tâm Bát Tà Đạo, cái nhân của Tham Sân Si, của sầu bi
khổ ưu não, của luân hồi sinh tử. Đây là sự đột chuyển trong "thẳm sâu tâm thức",
đây cũng là sự thành đạt đạo quả A-la-hán. Khi đột chuyển xảy ra ai cũng tự thấy,
tự biết "Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong, không
còn trở lui cuộc đời này nữa". Đây là Chánh Trí khởi lên nơi vị ấy. Đối với vị A-
la-hán lộ trình tâm duy nhất là Bát Chánh Đạo: Xúc Thọ (Cảm giác) - Tưởng
Chánh Niệm Chánh Tinh Tấn Chánh Định (Tỉnh Giác) Chánh Tư Duy
Chánh Tri Kiến Như lý tác ý Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng. Đối với
vị A-la-hán như vậy bảy tài sản của bậc Thánh hữu học cũng được bỏ lại bờ bên
này, thuộc về Thế gian.

1 - Tín:

Đối với vị A-la-hán không còn Đức tin, không còn Chánh tín về Phật, về Pháp,
về Tăng nữa vì vị ấy đã đến đích, đã tự mình thấy Phật, thấy Pháp, thấy Tăng.
Khi đang tin nghĩa là chưa thấy, khi thấy rồi thì không còn tin nữa. Ví như một
người ở Hà nội chưa đến TP Hồ Chí Minh được người bạn giới thiệu về chùa
Bửu Quang ở phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức và người đó tin có ngôi chùa
Bửu Quang. Nay người đó đi vào TP Hồ Chí Minh và đến chùa Bửu Quang, nếu
lúc này tại chùa Bửu Quang hỏi người đó: Anh tin có chùa Bửu Quang hay anh
thấy chùa Bửu Quang? Chắc chắn người đó sẽ trả lời: Tôi thấy chùa Bửu Quang
chứ không trả lời tôi tin có chùa Bửu Quang. Lúc còn ở Hà nội anh ta chưa thấy
nên tin có chùa Bửu Quang, nay anh thấy chùa Bửu Quang thì niềm tin có chùa
Bửu Quang không còn nữa.

2 - Giới:

Đối với bậc Thánh hữu học, thực hành giới để đoạn tận Tham, đoạn tận Sân,
đoạn tận Si, nhưng vị A-la-hán đã đoạn tận Tham, đã đoạn tận Sân, đã đoạn tận
Si nên vị ấy không còn phải thực hành các học giới và vì vậy giới không còn là
tài sản của vị ấy. Nhưng trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của vị ấy có Chánh
ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng do Chánh Tri Kiến là Trí Tuệ khởi lên nên
người ngoài thấy giới luật của vị ấy hoàn hảo.

3 - Tàm:

Đối với bậc Thánh A-la-hán không có bất kỳ một sự xấu hổ nào về lời nói, hành
động hay ăn uống, không có xấu hổ khi đến gặp bất kỳ người nào, hội chúng
nào bởi các vị không còn Ngã mạn (Ta hơn, Ta kém hay Ta bằng).

4 - Quý:
Bậc Thánh A-la-hán không còn sợ hãi bất kỳ một điều gì, Tham Sân Si đã đoạn
tận không còn sợ bị nó chi phối nữa, không còn sợ hãi khổ đau, không còn sợ
hãi luân hồi sinh tử, không còn sợ hãi sống chết...

5 - Văn:

A-la-hán là bậc Thánh vô học, nghĩa là không còn phải nghe giảng hay nghiên
cứu bất kỳ một điều gì nữa. Vị ấy không cần biết thế giới là như thế này hay là
như thế kia, hữu biên hay vô biên... Vị ấy đã đến đích, đã giải thoát nhờ "Tuệ tri
sự sinh diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ".

6 - Tinh Tấn:

Tinh tấn của bậc Thánh hữu học với mục đích đoạn diệt điều ác đã sinh khởi,
ngăn chặn điều ác chưa sinh khởi, làm cho điều thiện chưa sinh khởi được khởi
lên, điều thiện khởi lên được viên mãn. Đối với vị A-la-hán, điều ác phát sinh
trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo đã được đoạn tận, điều thiện phát sinh trên lộ trình
tâm Bát Chánh Đạo khởi lên một cách tự nhiên không cần đến tinh tấn nữa. Tuy
nhiên trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo vẫn có Chánh Tinh Tấn nhưng nó không
phải là tài sản, nó thuộc vô lậu, siêu thế, thuộc đạo chi.

7 - Trí Tuệ:

Bậc Thánh A-la-hán không còn phải tu tập Văn Tuệ, không còn phải tu tập Tư
Tuệ, không còn phải tu tập Tu Tuệ nhưng trên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo của vị
ấy vẫn có Chánh Tri Kiến là Trí Tuệ nhưng giờ đây được gọi là Chánh Trí nó
không còn là đích đến như một vị hữu học. Đây cũng là ý nghĩa của câu: Đã đến
bờ bên kia thì Chánh Pháp còn buông bỏ huống hồ là Phi Pháp. Tuy vị A-la-hán
có Chánh Giải Thoát gồm: Không Giải Thoát, Vô Tướng Giải Thoát, Vô Tác Giải
Thoát nhưng đây là pháp vô vi, là Niết Bàn không phải là pháp hữu vi nên không
phải là tài sản của bậc A-la-hán. Thành đạt đạo quả A-la-hán cũng đồng nghĩa với
buông xả tất cả tài sản vật chất cũng như tài sản tinh thần.

Về mục lục

Bài 164: HAI LOẠI XÚC CỦA PHÀM VÀ THÁNH

Đó là sự tiếp xúc (hay tương tác) giữa Sáu Căn và Sáu Trần thuộc về Phàm phu
và Thánh nhân.

1 - XÚC của Phàm phu là: XÚC - THỌ - ÁI - THỦ - HỮU.

XÚC của Phàm phu phát sinh sáu Thọ nhưng vì VÔ MINH mà phát sinh Ái đối
với Thọ. Do Ái mà phát sinh Thủ (Ràng Buộc). Do Thủ mà phát sinh Hữu (sự
sinh ra, sự hiện hữu trong luân hồi sinh tử với sầu bi khổ ưu não). XÚC này là: ÁI
XÚC - THỦ XÚC - HỮU XÚC.

2 - XÚC của bậc Thánh là: XÚC - THỌ - KHÔNG - VÔ TƯỚNG - VÔ TÁC

XÚC của bậc Thánh cũng phát sinh sáu Thọ nhưng vì có MINH, nên không phát
sinh Ái - Thủ - Hữu, mà phát sinh Không Giải Thoát - Vô Tướng Giải Thoát - Vô
Tác Giải Thoát. XÚC này là KHÔNG XÚC - VÔ TƯỚNG XÚC - VÔ TÁC
XÚC.

Bài 165: TUỆ TRI VÔ NGÃ

Một trong các mục đích căn bản của tu chỉ và tu quán là Tuệ tri vô ngã hay thân
chứng Vô ngã. Đó là thân chứng không có Bản ngã, không có Tôi, Ta nào, không
có một ai, một ông A, bà B nào là chủ nhân sở hữu của các sự vật hiện tượng,
điều khiển các sự vật hiện tượng (thuật ngữ Phật học gọi là các pháp). Đặc biệt là
các loại Tâm biết, không có Ta thấy, Ta nghe, Ta cảm nhận, Ta nhận thức. Khi tu
chỉ, nhờ Chánh niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định mà lộ trình tâm dừng lại Tâm
biết trực giác, không có Tâm biết Ý thức nên không có tư tưởng Chấp Ngã. Khi
an trú Tỉnh giác như vậy (chỉ Ghi nhận đối tượng) hãy tác ý để thấy biết như thật,
Tuệ tri không hề có một cái Ta (Bản ngã) nào có mặt lúc này. Đó là Tuệ tri Vô
ngã. Hãy Tuệ tri thật nhiều lần như vậy và thông tin đó sẽ được cài đặt vững chắc
trong bộ nhớ tâm thức. Khi các lộ trình tâm sau khởi lên sẽ sử dụng thông tin vô
ngã đó và nhận thức sẽ thay đổi từ chấp ngã sang vô ngã. Khi tu quán dù là quán
thọ, quán tâm, quán pháp nhờ có Chánh niệm – Chánh tư duy - Chánh tri kiến mà
an trú Tâm biết Chánh tri kiến, an trú Tuệ giải thoát. Lúc đó tác ý để thấy biết như
thật, Tuệ tri không có Ta (Bản ngã) nào có mặt lúc này. Đó là Tuệ tri Vô ngã. Hãy
Tuệ tri thật nhiều lần như vậy và thông tin vô ngã sẽ được cài đặt vững chắc trong
bộ nhớ tâm thức. Khi Tuệ tri Vô ngã như vậy sẽ kinh nghiệm được không có thích
ghét, hơn thua, không có sợ người ta đánh giá mình, không sợ người ta coi thường
mình, cũng không muốn người ta kính trọng mình, không kính trọng cũng không
khinh ghét ai, không can thiệp, không điều khiển người khác, không khổ vui với
người khác... Vì sao vậy? Vì lúc đó không có Ta (Mình) để mà so sánh với người
khác, nên không khởi lên Ta (Mình) hơn, Ta (Mình) kém hay Ta (Mình) bằng đối
tượng. Thực hành Bát Chánh Đạo để chứng đạt Vô ngã chứ không phải để trở về
sống với Chính Ta (Chính Mình). Đó chỉ là tư tưởng Chấp ngã, tư tưởng Vô minh,
tà kiến.

Về mục lục

Bài 166: PHÂN BIỆT HAI LOẠI HẠNH PHÚC

Con người quan tâm đến rất nhiều thứ, nghiên cứu tìm hiểu khám phá nhiều lĩnh
vực khác nhau của thế giới thực tại, tìm cầu nhiều thứ khác nhau nhưng xét cho
cùng thì đời sống nhân loại chỉ xoay quanh hai chữ SƯỚNG KHỔ hay nói văn vẻ
là đời sống nhân loại chỉ xoay quanh Hạnh phúc và Khổ đau. Mục đích cuối cùng,
tối hậu mà một người bình thường, một nhà khoa học hay các tôn giáo đang phấn
đấu nỗ lực để đạt được là Hết Khổ Được Vui, hết khổ đau được hạnh phúc. Cảm
nhận Hạnh phúc và Khổ đau thì ai ai cũng cảm nhận được dù ngu hay trí, hễ các
giác quan còn lành lặn thì sẽ cảm nhận được hạnh phúc và khổ đau, không cần
phải học hỏi nghiên cứu, không cần ai chỉ dạy. Nhưng HIỂU BIẾT về hạnh phúc
và khổ đau thì lại khác, có hai loại HIỂU BIẾT. Một là HIỂU BIẾT SAI SỰ
THẬT của phàm phu, của nhân loại, hai là HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT của
Phật, của những người giác ngộ hoặc đang trên đường đi đến giác ngộ.
- Một là Hiểu Biết Sai Sự Thật về Khổ Vui: Phàm phu cho rằng Hạnh phúc sẵn
có, luôn luôn có trong thế giới vật chất, thường hằng thường trú trong thế giới vật
chất. Cụ thể là Hạnh phúc sẵn có, luôn luôn có trong Sắc đẹp, Tiếng hay, Hương
thơm, Vị ngon, Xúc chạm êm ái, sẵn có luôn luôn có trong những hoàn cảnh sống
tốt đẹp như khoẻ mạnh, xinh đẹp, giàu có, thành đạt, nổi tiếng. Hễ ai làm chủ, sở
hữu được những hoàn cảnh sống tốt đẹp đó là người đó vĩnh viễn hạnh phúc, lúc
đó đau khổ sẽ chấm dứt, sẽ biến mất vĩnh viễn. Vì hiểu biết như vậy mà con người
suốt đời đi tìm kiếm hạnh phúc trong sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon,
xúc chạm êm ái... để chấm dứt khổ, để hết khổ được vui. Con người suốt đời phấn
đấu nỗ lực tìm cầu hạnh phúc để hết khổ được vui, tuy tìm cầu cũng đạt được rất
nhiều niềm vui hạnh phúc, nhưng kết quả cuối cùng chỉ đổi cái khổ này lấy cái
khổ khác mà thôi chứ không đạt được mục đích hết khổ được vui như mong
muốn. Vì sao vậy? Vì hiểu biết hạnh phúc và khổ sau như vậy là sai sự thật,
không đúng với sự thật thực tại đang xảy ra.
- Hai là Hiểu Biết Đúng Như Thật về Khổ Vui: Đối với phàm phu khi thấy,
nghe, cảm nhận các đối tượng thực tại bằng tâm biết trực tiếp giác quan, xảy ra
nơi các giác quan. Đó là sự ghi nhận hay nhận biết đối tượng mà nói theo ngôn
ngữ khoa học thông tin là ghi nhận hoặc tiếp nhận thông tin về đối tượng. Tâm
biết ý thức xảy ra nơi tế bào thần kinh não bộ có nhiệm vụ xử lý các thông tin đó
nên hiểu biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao. Do tâm biết ý thức biết đối
tượng đó là cái gì tính chất ra sao mà sẽ phát sinh thích hoặc ghét đối tượng. Do
thích hoặc ghét đối tượng mà sẽ có Vui hoặc Khổ với đối tượng. Quá trình xảy ra,
phát sinh thích ghét, khổ vui với đối tượng xảy ra nơi tế bào thần kinh não bộ và
cụ thể là do tương tác giữa các loại thông tin trong bộ nhớ tâm thức, không phải
xảy ra nơi các đối tượng thực tại. Các loại thông tin THÍCH GHÉT phát sinh nơi
não bộ được truyền dẫn xuống các tế bào nội tạng như tim phổi gan thận, ruột
non, ruột già... và tại đấy xảy ra sự tương tác các loại thông tin Thích Ghét với
thông tin di truyền của các tế bào làm phát sinh CẢM GIÁC khổ vui xảy ra nơi
thân, chủ yếu ở vùng nội tạng. Con người cảm nhận Hạnh phúc hay Khổ đau là
cảm nhận các CẢM GIÁC khổ vui này mà thuật ngữ Phật học gọi là CẢM THỌ.
Vì vậy, Hạnh phúc, Khổ đau là các Cảm giác hay Cảm thọ, phát sinh do tương tác
thông tin, nó thuộc Tâm (tinh thần) chứ không phải Cảnh vật, không phải thế giới
(vật chất), nó vô thường (sinh lên rồi diệt), nó vô chủ sở hữu (nghĩa là không thể
làm chủ, không thể sở hữu, không thể điều khiển được nó). Vì không hiểu biết
đúng như thật về Hạnh phúc, Khổ đau, vì bị hiểu biết sai sự thật về hạnh phúc khổ
đau chi phối, phàm phu tham ái, tìm cầu hạnh phúc chỗ này chỗ kia (Dục ái, Hữu
ái, Phi Hữu ái) mà thực chất là đi đuổi bắt các CẢM GIÁC DỄ CHỊU hay LẠC
THỌ đang sinh lên rồi diệt đi liên tục. Suốt đời từ khi sinh ra cho đến khi chết liên
tục lao tâm khổ trí, cố sức chạy theo, đuổi bắt các Cảm giác do 6 giác quan tương
tác với 6 cảnh trần mà phát sinh, đuổi bắt cái không thể đuổi bắt, nắm giữ cái
không thể nắm giữ, làm chủ cái không thể làm chủ, sở hữu cái không thể sở hữu.
Và kết quả là chỉ đổi cái khổ này lấy cái khổ khác, không bao giờ có được trạng
thái hết khổ còn vui như mong muốn. Vì sao? Tại vì con người tuy vẫn cảm nhận
được hạnh phúc nhưng vì hiểu biết sai, cho rằng nó là sắc đẹp, tiếng hay, hương
thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái thuộc về thế giới vật chất, có thể nắm giữ, sở hữu,
điều khiển được, nên tranh chấp, tranh đoạt, tranh cướp, giành giật nhau gây cho
nhau biết bao đau khổ, thống khổ trong cuộc đời này. Thuật ngữ Phật học gọi loại
hạnh phúc này là Dục Lạc, là Phàm phu lạc, Ô uế lạc, Bất tịnh lạc, bản chất nó là
vui ít, khổ nhiều, não nhiều mà nguy hiểm càng nhiều hơn.
- Nếu một người do nghe giảng hoặc nghiên cứu kinh điển mà có được hiểu biết
đúng như thật các sự vật hiện tượng trong đó có hạnh phúc và khổ đau, thì hiểu
biết đó gọi là Văn Tuệ, vị đó sẽ tư duy về điều đã học để có Tư Tuệ. Văn Tuệ, Tư
Tuệ đó là công cụ để tu tập Bát Chánh Đạo. Khi vị đó tu tập Bát Chánh Đạo có
nghĩa là: Bất kỳ một Cảm thọ nào khởi lên, cho dù Lạc thọ, Khổ thọ hay Bất khổ
bất lạc thọ, vị ấy quán sát tính chất Vô thường, tính chất Ly tham, tính chất Đoạn
diệt, tính chất Xả ly nơi Cảm thọ đó. Do quán sát tính chất Vô thường, tính chất
Ly tham, tính chất Đoạn diệt, tính chất Xả ly đối với các đối tượng thực tại là
Cảm thọ nên không Thích Ghét bất kỳ một cái gì ở trên đời. Do không thích Ghét
nên không có Khổ Vui với bất kỳ đối tượng nào, không có Khổ Vui với bất kỳ
hoàn cảnh nào. Vị ấy thấy biết như thật, thân chứng KHÔNG CÓ CẢ KHỔ LẪN
VUI với bất kỳ đối tượng nào. Đó gọi là Tuệ tri Khổ Diệt hay Tuệ tri Niết bàn.
Tuy lộ trình tâm của một vị hữu học hay vô học Tuệ tri Niết bàn theo hai kiểu
Niết bàn theo nghĩa nhiếp phục hay Niết bàn theo nghĩa đoạn tận nhưng lộ trình
tâm đều là Bát Chánh Đạo siêu thế có tám chi phần tuỳ tình huống cụ thể nhưng
bao giờ cũng có 3 chi phần thuộc nhóm Định gồm: Chánh niệm - Chánh tinh tấn -
Chánh định mà tiếng Việt là: Trí nhớ chánh - Tích cực chánh – Chú tâm chánh.
Chánh định với sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền sẽ có hỷ lạc của sơ thiền,
nhị thiền, tam thiền, có hiện tại lạc trú của tứ thiền và Tích cực chánh là tâm hành
phấn khởi. Nhóm Định trong Bát Chánh Đạo siêu thế có tích cực, hỷ, lạc mà tiếng
Việt là TÍCH CỰC, VUI, THOẢI MÁI cũng là Hạnh phúc nhưng là hạnh phúc
phát sinh từ nội tâm, không phải từ thế giới ngoại cảnh. Thuật ngữ Phật học gọi
đây là Lạc nhưng không phải là Dục lạc vui ít khổ nhiều não nhiều mà nguy hiểm
lại càng nhiều hơn. Lạc này không tốn kém, không lao tâm khổ trí, không tranh
đấu, không tranh giành, không nguy hiểm, vô hại chỉ cần Chánh niệm liên tục thì
nội tâm sẽ phát sinh, nên được gọi là Thánh lạc, Chánh giác lạc, An tịnh lạc.
Chính vì thế mà Bát Chánh Đạo siêu thế khởi lên sẽ thân chứng được HẾT KHỔ
ĐƯỢC VUI như mong muốn của nhân loại. Nhưng loại vui này, loại Hạnh phúc
này khởi lên từ nội tâm khác hẳn với Hạnh phúc của kẻ phàm phu là Dục lạc, là
thứ Hạnh phúc khởi lên từ thế giới ngoại cảnh.

Về mục lục

Bài 167: GOSINGA - TỔ CHỨC GIÁO DỤC PHI LỢI NHUẬN

A - Gosinga Việt nam, một tổ chức giáo dục phi lợi nhuận được thành lập với
mục đích giới thiệu Đức Phật Thích Ca không mang màu sắc, tính chất tôn giáo
với hai khía cạnh: Một là nhà khoa học vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại, Hai
là nhà giáo dục, nhà sư phạm lỗi lạc nhất trong lịch sử nhân loại.

1 - Một là Đức Phật là nhà khoa học vĩ đại nhất:

- Các nhà khoa học đều đi khám phá thực tại để hiểu biết đúng sự thật thực tại,
nhưng họ chỉ có thể khám phá được một số tương tác giữa vật chất với vật chất,
đạt được một số hiểu biết về thế giới vật chất nhưng đều dựa trên nền tảng nhị
nguyên Tâm Vật, cho rằng thực tại này là Thế giới vật chất nên không thể đạt
được hiểu biết đúng sự thật về Thực tại. Các kiến thức mà khoa học khám phá
được với mục đích thay đổi thế giới, thay đổi hoàn cảnh sống giúp cho loài
người hết khổ nhưng sự thật những kiến thức ấy đã phần nào cải thiện cuộc
sống của nhân loại nhưng nó chỉ giảm thiểu được tối đa là 10% nỗi khổ (khổ
thân) của nhân loại còn 90% nỗi khổ (khổ tâm) vẫn y nguyên, thậm chí còn
trầm trọng hơn trước. Biểu hiện là cuộc sống càng giàu sang, càng hiện đại thì
càng áp lực, càng căng thẳng và kết quả là hội chứng trầm cảm, tự sát ngày càng
tăng nhanh.

- Đức Phật cũng khám phá sự thật thực tại nhưng là người duy nhất, có một
không hai, khám phá ra sự thật thực tại, hiểu biết đúng sự thật thực tại mà con
người thấy, nghe, cảm nhận, nhận thức là Cảm thọ, tiếng Việt là Cảm giác do
sáu giác quan tương tác với Thế giới vật chất mà phát sinh ra. Những kiến thức
mà Ngài khám phá, phát hiện ra là những kiến thức chủ yếu về Tâm chứ không
phải kiến thức về Thế giới và những kiến thức đó có thể giúp cho nhân loại
giảm thiểu, chấm dứt được từ 90% đến 99% những nỗi khổ của con người.

2- Hai là Đức Phật là nhà giáo dục vĩ đại:

- Các nhà giáo dục thế gian giảng dạy các kiến thức mà khoa học và nhân loại
khám phá nhằm thay đổi thế giới, thay đổi hoàn cảnh sống để hết khổ. Các kiến
thức truyền dạy đó đều nhuốm màu vô minh và chấp ngã nên nó chỉ có thể giảm
thiểu được khổ thân, không giảm thiểu được khổ tâm nên chỉ giảm thiểu được
tối đa 10% nỗi khổ của nhân loại. Các kiến thức đó không giải quyết được bạo
lực, không giải quyết được xung đột, tranh chấp, tranh giành, cạnh tranh khốc
liệt giữa con người với nhau nên hoàn cảnh có thay đổi nhưng nỗi khổ của con
người vẫn y nguyên, không thay đổi mà chỉ đổi cái khổ này lấy khổ khác mà
thôi. Các kiến thức đó đa phần là đúng cho nhóm người này nhưng không đúng
cho nhóm người kia, đúng cho chỗ này nhưng không đúng cho chỗ kia, đúng
cho thời gian này nhưng không đúng cho thời gian kia nên không có tính phổ
quát, không phải là hiểu biết đúng sự thật, không phải chân lý. Vì chân lý là sự
thật là hiểu biết đúng sự thật thì mang tính phổ quát, nghĩa là phải đúng cho tất
cả mọi người, cho tất cả nhân loại.

- Đức Phật giáo dục, giảng dạy các kiến thức mà Ngài đã tự mình khám phá.
Các kiến thức đó là hiểu biết đúng sự thật, là chân lý nên đúng cho toàn thể
nhân loại. Các kiến thức đó chủ yếu là hiểu biết đúng sự thật về Tâm, không
còn vô minh và chấp ngã, làm thay đổi lộ trình Tâm nên chấm dứt được từ 90%
đến 99% nỗi khổ. Các kiến thức đó làm chấm dứt được nguyên nhân phát sinh
khổ tâm, chấm dứt được nguyên nhân của bạo lực, xung đột, tranh chấp, tranh
giành, cạnh tranh khốc liệt giữa con người với nhau. Ngài giảng dạy kỹ năng
sống thích nghi với mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng, Ngài giảng dạy kỹ năng
chấm dứt khổ ngay bây giờ và tại đây trong đó có kỹ năng chú tâm liên tục mà
thuật ngữ Phật học gọi là Thiền định.

B - Gosinga giới thiệu, giảng dạy các kiến thức mà Đức Phật đã khám phá
và truyền dạy không qua con đường tôn giáo:

- Tôn giáo đã làm sai lạc các tri thức mà Đức Phật đã khám phá và truyền dạy
trong suốt hơn 2600 năm qua làm cho rất nhiều người học và tu Phật không thể
hiểu và thực hành đúng những tri thức mà Đức Phật đã khám phá và truyền dạy.
Từ những sự thật trần trụi không bị che đậy bởi các tri thức khái niệm của vô
minh chấp ngã mà Đức Phật đã khám phá và truyền dạy lúc Ngài còn tại thế
các tông phái, các luận sư Phật giáo sau này đã biến nó thành một rừng thông
tin bao la, rộng lớn gần như vô tận các giáo nghĩa khác nhau. Có những giáo
nghĩa na ná, giông giống, từa tựa nhưng cũng có những giáo nghĩa ngược hẳn
với chân nghĩa của Đức Phật. Và rất nhiều, rất nhiều những kiến thức của thế
gian, của các tôn giáo khác đặc biệt là của Bà-la-môn giáo đã được người sau
đưa vào, được kết tập trong kinh điển và gắn cho của Phật. Và rất nhiều những
lễ nghi, thờ tự, các cách hành trì của các tôn giáo khác, các tín ngưỡng dân gian
cũng được đưa vào trong tôn giáo là đạo Phật hiện nay. Phật giáo là tôn giáo đó
dựa trên đức tin là chính, tin vào sự phù hộ độ trì, sự linh thiêng kỳ diệu của
Đức Phật đáp ứng được số đông tín đồ nhưng nó chỉ là liều thuốc giảm đau,
không chữa lành được bệnh khổ. Nhưng Phật giáo mang tính chất tôn giáo đó
đã làm cho không ít số người có khả năng tiếp thu và thực hành các kiến thức
do Đức Phật phát hiện không có cơ hội tiếp cận nó. Vì đa phần người có khả
năng khám phá sự thật, người có kiến thức khoa học có khả năng hiểu và thực
hành kiến thức mà Đức Phật đã khám phá và truyền dạy thì dị ứng với tôn giáo
trong đó có Phật giáo vì những lễ nghi, những cấm kỵ, những niềm tin thậm chí
là ngây thơ và ấu trĩ của tôn giáo.
- Gosinga là một tổ chức giáo dục phi lợi nhuận sẽ truyền thụ những kiến thức
mà Đức Phật Thích Ca đã khám phá và truyền dạy không mang hình thức và nội
dung có tính chất tôn giáo, ra khỏi các cơ sở thờ tự tôn giáo để cho mọi người
hiểu rằng Đức Phật không phải để thờ tự, để cầu nguyện, để được sự phù hộ độ
trì mà là để học hỏi, thực hành các kiến thức mà Ngài đã phát hiện và truyền dạy.
Những kiến thức mà khoa học khám phá nếu giúp con người cải thiện cuộc sống,
giúp cho con người giảm thiểu được nỗi khổ cho dù là ít ỏi đều được nhân loại
trân trọng, gìn giữ và truyền thụ cho các thế hệ sau không có sai khác. Thì cũng y
như vậy, kiến thức mà Đức Phật đã khám phá và truyền dạy nếu được nhiều
người học hỏi, thực hành và nhờ vậy kinh nghiệm được hết khổ từ 90 đến 99%
nỗi khổ thì nhân loại sẽ trân trọng, gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau không
hề sai khác.

C - Các đối tượng mà Gosinga hướng đến:

- Đội ngũ trí thức, doanh nhân là đối tượng có thể học hỏi và thực hành các kiến
thức này vì họ có các kiến thức khoa học, có ý muốn khám phá sự thật thực tại và
có sự từng trải, có nhiều kinh nghiệm về hạnh phúc và khổ đau. Vả lại họ có ảnh
hưởng lớn tới nhiều người trong xã hội và nếu họ học, thực hành, kinh nghiệm
được kết quả giác ngộ và giải thoát thì sẽ có nhiều người học được từ họ.
- Học sinh từ độ tuổi từ 10 đến 18 tuổi có thể rèn luyện kỹ năng chú tâm liên tục,
là kỹ năng của mọi kỹ năng giúp cho các em học hành tốt gấp bội, giúp các em
có được một lối sống tự lập, hình thành một lối sống tích cực, vui và thoải mái
giảm thiểu dần đi đến chấm dứt lười biếng, nhác nhớn, uể oải chỉ trông cậy vào
cha mẹ. Kỹ năng chú tâm liên tục được rèn luyện sẽ thay đổi tận gốc rễ con trẻ
và nếu trở thành một nội dung giáo dục, thì sẽ làm thay đổi tận gốc rễ của nền
giáo dục trên toàn thế giới.
- Sinh viên sẽ được học và rèn luyện về kỹ năng chú tâm liên tục để thích nghi
với mọi hoàn cảnh sống, mọi việc làm. Họ sẽ được học về Hạnh phúc, phân biệt
được Hạnh phúc do giàu có, tiện nghi, sức khoẻ, thành đạt, nổi tiếng mà có là thứ
hạnh phúc mà nhân loại đang mê đắm tìm kiếm suốt trong cuộc đời từ khi sinh ra
cho đến khi chết đi và mặc định rằng có được nó là hết khổ. Nhưng sự thực Hạnh
phúc đó vui ít khổ nhiều mà nguy hiểm lại càng nhiều hơn bởi thứ Hạnh phúc đó
chỉ đổi cái khổ này lấy cái khổ khác chứ không làm cho con người hết khổ. Họ sẽ
được học và hành để đạt được một thứ Hạnh phúc khác không do Sắc đẹp, Tiếng
hay, Hương thơm, Vị ngon, Xúc chạm êm ái từ Thế giới ngoại cảm mà từ nội
tâm phát sinh ra. Khi có thứ Hạnh phúc nội tâm này thì Khổ sẽ chấm dứt.
- Đối tượng lao động chân tay thì rất dễ dàng đạt được lao động có tích cực, vui
và thoải mái, không còn khổ sở vì chán ghét công việc mình phải làm, không còn
làm cho hết giờ, không còn làm đối phó, không còn làm với uể oải, lười nhác.
- Các đối tượng bệnh tật như trầm cảm sẽ giải quyết được tận gốc rễ, các bệnh
nan y như ung thư... sẽ giúp cho họ đối diện với bệnh tật và cả cái chết với tâm
bình an không lo sợ hoảng loạn, hiểu ra đây cũng là một cơ hội có thể giải thoát.
- Người ở tuổi nghỉ hưu, già cả sẽ giúp họ giảm thiểu cố chấp do tuổi già và kinh
nghiệm sống cá nhân, giúp họ có cuộc sống tự lập, không phụ thuộc, không
nương tựa cho dù sống với con cháu hay một mình, giúp cho họ sống hoà hợp
với con cái hay tự tin, tự tại khi sống một mình.
- Tù nhân trong các nhà tù: là cách thức để họ đối diện với hoàn cảnh một cách
bình an bởi kỹ năng sống thích nghi và có thể đạt tự do, giải thoát khổ ngay khi
đang ở trong tù.

Tuy nhiên để có thể có kết quả giảm thiểu tối đa những nỗi khổ trong cuộc đời
thì phải học kiến thức mà Đức Phật đã khám phá và truyền dạy nhưng phải hiểu
đúng và thực hành đúng mới có kết quả như mong đợi. Gosinga sẽ đến với
những ai tha thiết muốn học hỏi để chấm dứt khổ.

Tỳ Kheo Nguyên Tuệ


Để biết thêm chi tiết, quý vị vui lòng truy cập: https://gosinga.vn/gosinga-to-
chuc-giao-duc-phi-loi-nhuan/

Hoặc https://batchanhdao.vn

Về mục lục

Bài 168: SỨ MỆNH CỦA GOSINGA

Hãy đọc bài “Thực Tại Đớn Đau” * (FB Tịnh Trí) để thấy rõ sứ mệnh của
Gosinga đang truyền bá những kiến thức mà Đức Phật đã khám phá và truyền
dạy nhằm làm thay đổi nhận thức của nhân loại về thế giới thực tại, về mục đích
cuộc sống, về Khổ Tập Diệt Đạo và đặc biệt là thay đổi nhận thức về Giáo Dục.

Nền giáo dục của nhân loại mà dân tộc hay tôn giáo nào cho dù là tân tiến hay
lạc hậu trong thẳm sâu đều hướng đến mục đích tối hậu là “Hết Khổ Được Vui”
nhưng vì hiểu biết sai về thực tại, hiểu biết sai về Khổ Tập Diệt Đạo (hiểu biết
sai về Khổ, Nguyên nhân Khổ, Sự Chấm dứt Khổ, Con đường chấm dứt Khổ)
nên những kiến thức mà nền giáo dục cung cấp (bao gồm nhà trường, xã hội, tự
học) nhắm đến thay đổi thế giới, thay đổi hoàn cảnh sống để hết khổ. Kết quả của
các kiến thức khoa học mà nền Giáo dục đó cung cấp đưa đến sự chịu đựng khổ
trong hiện tại và mơ tưởng sẽ hết khổ trong tương lai và đó chỉ là liều thuốc giảm
đau, chỉ đổi nỗi khổ này lấy cái khổ khác mà thôi. Khoa học ngày nay đã có thể
làm được đa phần các mơ ước của nhân loại như trong các truyện viễn tưởng
nhưng cái mục đích chính của khoa học là làm cho nhân loại hết khổ thì khoa
học lại bất lực. Nhờ các kiến thức khoa học do Giáo dục đào tạo, con người có
thể thay đổi hoàn cảnh sống, con người có thể khoẻ mạnh, xinh đẹp, giàu có, đầy
đủ tiện nghi, danh tiếng nhưng điều đó chỉ giúp họ giảm thiểu được tối đa 10%
nỗi khổ thân còn 90% nỗi khổ tâm thì vẫn còn y nguyên, thậm chí còn trầm trọng
hơn trước. Có trường phái đưa ra khái niệm “Chữa lành đứa trẻ bên trong” nhưng
họ không biết rằng nền giáo dục hiện tại đang “giết chết đứa trẻ bên trong” từ
trong trứng nước. Nghĩa là những kiến thức được giáo dục truyền thụ đang bóp
nghẹt cái biết trực tiếp giác quan gọi tắt là trực giác bản chất là không tri thức
khái niệm ngôn từ, cái biết đưa đến một lối sống hồn nhiên, vô tư lự, không yêu
ghét giận hờn, không tính toán thiệt hơn, không căng thẳng áp lực mà mỗi đứa
trẻ khi sinh ra đều có không cần phải giáo dục học hỏi.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một nhà khoa học vĩ đại một nhà giáo dục lỗi lạc
nhất trong lịch sử nhân loại. Ngài giáo dục con người những kiến thức mà Ngài
đã tự mình khám phá, không có ai là thầy chỉ dạy cho Ngài. Những kiến thức đó
là HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT về thế giới thực tại, về Quy luật nhân quả, về
vô thường, vô ngã, về Khổ Tập Diệt Đạo. Những kiến thức đó nếu hiểu và thực
hành đúng sẽ chấm dứt được từ 90 đến 99% nỗi khổ của cuộc đời và đặc biệt là
Không còn chịu đựng khổ mà chấm dứt Khổ ngay bây giờ và tại đây, đạt đến
mục đích “Hết Khổ Được Vui” ngay bây giờ và tại đây. Các kiến thức đó chủ
yếu khám phá về tâm đưa đến thay đổi tâm, thay đổi lộ trình tâm Bát tà đạo
thành lộ trình tâm Bát chánh đạo và chấm dứt khổ nơi tâm chứ không phải nơi
thế giới ngoại cảnh.

Các bậc phụ huynh nếu có cơ hội học hiểu và thực hành đúng sẽ kinh nghiệm
được kết quả Hết khổ được vui ngay bây giờ và tại đây chứ không còn chịu đựng
khổ để Hết khổ được vui trong tương lai nữa. Họ biết rằng có một con đường
khác, một cách thức khác để Hết khổ được vui ngay trong hiện tại khác hẳn con
đường hay cách thức chịu đựng khổ trong hiện tại để Hết khổ được vui trong
tương lai. Khi đã thay đổi được nhận thức về giáo dục như vậy họ mới có thể
khuyến khích, hướng dẫn chỉ dạy, phân tích chỉ dẫn cho con em mình thay đổi
nhận thức về giáo dục về học hành giúp cho con em mình Hết khổ được vui ngay
trong việc học hàng ngày, không còn căng thẳng, áp lực khổ sở vì việc học nữa.
Muốn vậy hãy tham dự các khoá học trực tuyến qua zoom hoặc khoá học trực
tiếp 2 ngày, 4 ngày và 9 ngày do tổ chức giáo dục phi lợi nhuận Gosinga tổ chức.
* THỰC TẠI ĐỚN ĐAU (bài viết từ FB của sư cô Tịnh Trí)

Chứng kiến tuổi thơ của trẻ bây giờ, thấy xót thương, xót thương đến xương tủy.
Thương vì mê lầm, vì ảo tưởng, vì hi vọng trở thành ước vọng, vọng ước. Bao
thế hệ nối tiếp, truyền tai nhau, truyền dạy nhau một lối sống, lối sống dần dần
vội vã, vội vã hơn.

LỐI SỐNG CHỊU ĐỰNG KHỔ BÂY GIỜ ĐỂ HI VỌNG TƯƠNG LAI.

Vì sao vậy???.

.............

Cùng nhau quan sát:

Những đứa trẻ mở mắt, vội vàng đánh răng, vội vàng rửa mặt, vội vàng thay đồ,
vội vàng lên xe, ăn sáng ngoài đường vội vàng hấp tấp rồi vô trường. Tan trường,
chúng vội vàng trở về ăn trưa, ngủ chút xíu với giấc ngủ, không còn vô lo vô
nghĩ nữa, bởi trước giấc ngủ là tinh thần chuẩn bị cho sự thức dậy lại tiếp tục lên
đường. Để làm gì bạn biết không ???

➡️Lên đường để đi tới lớp học thêm.

Quan sát sự việc có thật của những đứa trẻ học THCS và PTTH dưới đây.

Bọn trẻ _Chúng học thêm ca toán, rồi di chuyển qua chỗ khác học ca văn, rồi đi
chuyển qua chỗ khác học ca hoá, vv...

Có đứa học thêm xong các ca tới 21h mới hết học ngoài đường.Về tới nhà, tắm
giặt, ăn, làm bài tập, tới 23h hơn, đi ngủ, ngủ li bì, ngủ vì mệt.

Ước tính một ngày 24h, trừ 6h-8h để ngủ. Tức bọn trẻ dạy từ 5h30 sáng, đi học,
học, ăn, vệ sinh cá nhân, vv.... rồi 23h tối đi ngủ, có nghĩa chúng có khoảng
16h_18h cho hoạt động từ lúc mở mắt.

Chia thời gian trong 16h _18h đó như sau:


5h30-6h: Vệ sinh cá nhân, thay đồ đồng phục.

6h-6h30: chuẩn bị sách vở, đọc lướt qua ôn bài.

6h30: lên đường.

7h: Có mặt tại trường.

11h: Tan trường.

11h30: có mặt ở nhà (đối với trẻ không bán trú tại trường, học 1 buổi tại trường).

12h: ăn trưa

12h30-13h: ngủ trưa.

13h-13h30: thay đồ, chuẩn bị sách vở cho các môn học thêm tại nhà thày cô.

13h30: ra khỏi nhà, lên đường, tới học ca Toán. Rồi chạy qua địa điểm khác học
ca văn.

17h30: ăn lót dạ 15p, chạy qua nhà thày cô học ca Hoá. Rồi đi chuyền học ca Lý.

20h30: kết thúc các ca học, lên đường về nhà.

21h: có mặt tại nhà.

21h-22h: ăn uống vệ sinh cá nhân.

22h-23h: làm bài tập, chuẩn bị bài trên lớp, đi ngủ.

Đây là thời khoá biểu có thật, tại một tỉnh không phải cấp trung ương. Tất nhiên,
lịch cũng không cứng nhắc, có biến đổi các ngày trong tuần, có thể ca học ít hơn
1-2 ca, vv...

Nếu quan sát, sẽ chẳng ai thấy khoảng không gian, khoảng thời gian nào cho thể
thao, cho thiên nhiên, cho tư duy sáng tạo độc lập tự do. Tất cả chỉ có sự dập
khuôn, học, học, học nữa, học mãi, học kiến thức cho tương lai.
Nếu quan sát, sẽ thấy chúng sống với 15-20% không khí khói bụi trên đường,
60% không khí ngột ngạt trong các căn phòng lớp học.

Nếu quan sát, chúng dành thời gian cho ăn chiếm khoảng 5-7% (% của 16h).
(tính cả ăn vặt, ăn lót dạ, ăn chính).

Nếu quan sát chúng dành 5% thời gian cho vận động (vận động ở đây chỉ tính sự
đi lại, đi bộ vô lớp, vô nhà, còn tất cả đi chuyển bằng xe máy, vv..).

Chúng sống tới 65% trong ngày với tinh thần lo âu, lo lắng, bài vở, thi cử, áp lực
ganh đua, hơn thua thành tích học tập, với bạn bè, với trường lớp, áp lực tâm lý
từ thày cô, cha mẹ, ông bà.

10% Thư giãn, là lướt các trang mạng xã hội, xem clip, đọc tin tức, chat chít giải
tỏa.

Nếu tính thời gian relax đúng nghĩa: tức là không học gì, thích chơi, ăn ngủ nghỉ
làm gì tuỳ thích, thì chỉ có ngày Tết cổ truyền là 89% đúng nghĩa (còn 11% vẫn
phải làm bài tập về nhà ngày Tết).

Trẻ con không có hè. Sự thật là chúng có mùa hè nhưng không có nghĩa là không
học hè.

Như vậy chúng ta quan sát xem: Sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần của bọn
trẻ, chúng có hay không????.

Nếu quan sát trên thống kê ước lượng như trên, thử hỏi những đứa trẻ sống với
ƯỚC VỌNG ĐẠT ĐƯỢC VÀ TRỞ THÀNH TRONG TƯƠNG LAI kia, chúng
đang sống với thực tại như thế nào???.

Thực tại của chúng là thiên đàng hay địa ngục???

Thực tại của chúng là những đứa trẻ khỏe mạnh, hồn nhiên hay những đứa trẻ
bệnh hoạn về thể chất và tinh thần???.
Có đầy rẫy những minh chứng mắt thấy tai nghe về những đứa trẻ với sức khỏe
thể chất bệnh hoạn như: cận thị, vẹo cột sống, rối loạn tiêu hoá, thừa cân, suy
dinh dưỡng do chế độ ăn lệch lạc, vô lối, vv... Đó là minh chứng của thể chất,
thấy được bằng mắt, bằng tai, còn những thứ phải xét nghiệm, đo đạc thiết bị y tế
thời chưa kể đến.

Có đầy rẫy những minh chứng mắt thấy tai nghe những đứa trẻ chán học, tự ti,
trầm cảm, rơi vào trầm cảm ngày một nặng nề.

Chúng chẳng hề sống với trái tim, chúng lạnh lùng, chúng vô cảm, ngoài học
hành, là cái điện thoại thông minh.

Khả năng tự thích nghi, khả năng kỹ năng sống quá tối thiểu, không biết tự nấu
cơm ăn, không biết dọn dẹp nhà cửa, không biết tự băng bó vết thương nhẹ,
không biết tự chữa bệnh nhẹ, bệnh vặt thông thường, vv...

Chúng chẳng khác gì những cỗ máy, được cài đặt, lập trình, vận hành theo khuôn
mẫu tư tưởng của người lớn áp đặt, chúng chẳng có khả năng chống đối tối thiểu,
rằng:

Con muốn chơi, con muốn nghỉ, con muốn học môn này, không học môn kia,
vv....chúng không còn có khả năng mở miệng nói muốn hay không muốn nữa....

Như vậy sức khỏe tinh thần của chúng là gì??? Có phải là sức khỏe tinh thần
bệnh hoạn không???

Vậy câu hỏi đặt ra, tất cả chúng ta muốn những đứa trẻ có một tương lai tươi
sáng, với sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần thực tại bệnh hoạn như vậy
sao???

Liệu những đứa trẻ mà sức khỏe thể chất và sức khỏe tinh thần như vậy, chúng
có thể đến được đích là Tương Lai tươi sáng, tốt đẹp, mà người lớn đã bánh vẽ,
áp đặt cho chúng không???
Nếu nói rằng những người cha mẹ, ông bà, thày cô, đang vun trồng, đang gây
dựng tương lai cho chúng, liệu có phải thật như thế???

Hay nói thẳng là vun trồng, gây dựng, danh dự tương lai cho họ. Những danh
hão, về sự tự hào của bậc bề trên, khi vỗ ngực “ Ta là người nuôi chúng, chính ta
dạy chúng, ta vất vả vì chúng, nên chúng mới có được thành công”.

Hoặc đúng chăng, đó là tình thương yêu mù quáng, họ đang bảo những đứa trẻ
lao tới ánh sáng như con thiêu thân.Và kết cục của con thiêu thân thì ai cũng biết
rồi.

Thành công nó quá xa và quá bếp bênh, nó có thể, hoặc không thể. Hoặc thành
công đến rồi lại mất. Ta cứ ảo tưởng về Hạnh Phúc, về thành công, mà biết quá
rõ, nó mong manh lắm, nó phù du lắm, nó cũng như bọt bóng xà phòng, mau
xuất hiện rồi mau tan vỡ. Chẳng bền vững, nó là điều chắc chắn, nó là sự thật
khẳng định 100% ai cũng tự ngẫm, tự thấy được. (2 năm sống với đại dịch
COVID-19, hẳn nhiều ngành nghề, nhiều người thấm, sự thất bại, sự phá sản, sự
bế tắc, sự tan vỡ của thành công rõ ràng tới mức nào...)

Vậy mà, thực tại chịu khổ, chịu đắng cay, chịu bao lao tâm khổ tứ, chỉ để cho sự
hi vọng tương lai không có gì là bền vững, là chắc chắn cả. Thật phi lý quá!.

Quan sát thực tại những đứa trẻ đang sống từng ngày, từng giờ, mà thấy đớn đau.

Chúng và tất cả những người lớn đang lập trình cho chúng, tất cả, tất cả, chẳng ai
hiểu, chẳng ai có khái niệm về thực tại.

Sống với một thực tại đang hiện hữu ngay bây giờ và tại đây. Một thực tại không
KHỔ ngay tại phút giây này. Có một thực tại như thế không được người ta biết
đến.

Họ cứ sống chịu đựng khổ bây giờ để hi vọng cho tương lai, và ngày nào cũng là
thực tại khổ cho tương lai, cứ như vậy, cứ như vậy với cuộc sống thực tại mãi là
KHỔ vì nỗ lực cố gắng chịu đựng.

...........

Hệ lụy.

Tôi đã và đang chứng kiến những đứa trẻ cười với nụ cười chéo ngẹo, nụ cười
khó tả.

Những đứa trẻ tự cầm dao lam, rạch đầy tay mình. Những đứa trẻ với khuôn mặt
lo âu, sợ hãi, chúng sợ quá nhiều nỗi sợ, sợ điểm kém, sợ cha mẹ ông bà so bì, sợ
bị chê cười học kém, sợ bị la hét “ Sao mày ngu thế?”, sao không bằng đứa này,
đứa kia?, vv....

Tôi đã nhận được nhiều tin nhắn tâm sự của các bạn trẻ hỏi: Làm thế nào để hết
chán?...

Tôi đã đọc những dòng tâm sự những đứa trẻ với rối loạn tâm trạng như: ghét,
thậm chí tức giận, kích động, bất lực, sợ hãi, những ám ảnh tâm trí chúng, dần
biến chứng bệnh trầm cảm thành bệnh hoang tưởng...

Có những đứa trẻ bị hoang tưởng nói: Lúc nào trong đầu con cũng có tiếng nói
của người thân la lối, theo đuổi con... con rất hoảng sợ.

Một số đứa trẻ dần ít nói, ít giao tiếp, sống lủi thủi, không dám tiếp cận người lạ,
không dám nhìn mặt người đối diện, vv...

Nặng nề hơn, trẻ chán học, bỏ học, trốn học, chuyển sang tiêu cực, sân hận, thù
hận, chơi bời, bất cần, chẳng sợ trời đất, kể cả liều mạng làm việc vô bổ.

Thậm chí tự sát vì chán, vì vô vọng, vì chẳng thấy ý nghĩa cuộc sống.

Đây thực sự là một thực tại đớn đau. Đáng báo động.

................
Thay đổi khái niệm “THÀNH CÔNG”, thay đổi khái niệm “ HẠNH PHÚC”

Hãy trả lại cho những đứa trẻ sự phát triển tự nhiên.

Chúng ta có thể định hướng phát triển cho trẻ. Nhưng không có nghĩa áp đặt, tạo
ra các cỗ máy chưa đi vào sử dụng đã tàn tật.

Chúng ta không thể thay đổi nền giáo dục của một tổ chức, nhưng chúng ta có
thể thay đổi sự lựa chọn riêng cho chính mình.

Thành công, hạnh phúc là an nhiên, bình yên, hồn nhiên, sáng trong, tự tại ngay
giây phút hiện tại.

Những tiếng cười ròn rã, trong trẻo, những sáng tạo hồn nhiên đáng yêu, những
câu chuyện tình người, những sự quan tâm ân cần với con người, động vật, thiên
nhiên, vv... Nó đơn giản, nhưng thực sự đưa đến khát vọng tìm kiếm ánh sáng
chân lý....

🔴 Sự bùng nổ thành công chỉ có ở trí tuệ của con người có trái tim biết bi mẫn.
ĐÓ LÀ SỰ THÀNH CÔNG CỦA “ TUỆ GIÁC”, đó là TÂM.

By_ Tịnh Trí 13/3/2021.

(Viết với từng nhịp gõ, như từng nhát dao cứa sâu bên trong)

Về mục lục

Bài 169: HAI LỐI SỐNG

Lối sống thứ nhất mà toàn thể nhân loại đã kinh nghiệm được nhưng không hiểu
biết như thật về nó. Đó là lối sống CÓ VÔ THƯỜNG, CÓ KHỔ, CÓ VÔ NGÃ,
CÓ BẤT TỊNH nói tắt là lối sống có “VÔ THƯỜNG, KHỔ, VÔ NGÃ, BẤT
TỊNH”. Bất tịnh ở đây không phải là thân thể bất tịnh mà lối sống này CÓ KHỔ,
CÓ VUI nhưng VUI này là niềm vui hạnh phúc do thế giới bên ngoài khởi lên,
như sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái khởi lên. Để có
được cái vui này con người phải lao tâm khổ trí, phải cam chịu khổ đau cay đắng
mới có được cái vui này. Vì cái vui này mà sát sanh, trộm cắp, tà dâm nói dối và
vô số các ác bất thiện pháp phát sinh. Vì cái vui này mà con người phải gánh
chịu bao nỗi đau khổ, thống khổ nên cái vui này bản chất của nó là “vui ít khổ
nhiều, não nhiều mà nguy hiểm lại càng nhiều hơn”. Vì vậy, VUI này là BẤT
TỊNH.

Lối sống thứ hai do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khám phá ra và truyền dạy
lại. Đó là lối sống CÓ VÔ THƯỜNG, CÓ KHỔ DIỆT, CÓ VÔ NGÃ, CÓ
THANH TỊNH và nói tắt là “VÔ THƯỜNG, KHỔ DIỆT, VÔ NGÃ, THANH
TỊNH”. Thanh tịnh ở đây không phải là thân thanh tịnh hay thế giới thanh tịnh
mà lối sống này có VUI nhưng không phải do sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị
ngon, xúc chạm êm ái từ thế giới bên ngoài khởi lên mà VUI này từ Chánh tinh
tấn - Chánh định khởi lên, thuật ngữ Phật học gọi là hỷ lạc của sơ thiền, nhị
thiền, tam thiền và hiện tại lạc trú của tứ thiền. VUI này là vui phát sinh từ nội
tâm, vui của bậc Thánh, không tốn kém, không nguy hiểm, không còn làm phát
sinh khổ nên là THANH TỊNH.

Lối sống thứ nhất gọi là Bát Tà Đạo đã được lập trình và lưu giữ, cài đặt trong
bộ nhớ tâm thức và cứ hễ thức dậy cho đến khi đi ngủ kể cả khi ngủ không sâu
có mộng mơ thì lập trình tự động vận hành, không ai có thể làm chủ điều khiển
được nó. Đa phần nhân loại chỉ kinh nghiệm, nhận thức, hiểu biết và giải thích
mọi sự trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo duy nhất này, không thể kinh nghiệm một lối
sống nào khác, một thực tại nào khác. Họ không có sự lựa chọn nào khác ngoài
lối sống Bát Tà Đạo với “Vô Thường, Khổ, Vô Ngã, Bất Tịnh” và dựa vào hiểu
biết sai sự thật gọi là Vô minh, Tà kiến của lộ trình tâm Bát Tà Đạo, họ cho rằng
tính chất các pháp của thực tại là “Vô thường, Khổ, Vô Ngã”, họ không biết rằng
còn có một thực tại khác do Đức Phật khám phá và truyền dạy mà tính chất của
nó là “Vô Thường, Khổ Diệt, Vô Ngã, Thanh Tịnh”.
Những ai có Văn tuệ, Tư tuệ, Tu tuệ, có hiểu biết đúng sự thật thực tại là
Cảm thọ, hiểu biết đúng sự thật về Lý duyên khởi, về Tứ Thánh đế sẽ có hiểu
biết về thực tại của bậc Thánh, thực tại Bát Chánh Đạo, đó là lối sống Bát Chánh
Đạo sẽ kinh nghiệm được thực tại đó có “Vô Thường, Khổ Diệt (Hết khổ, Niết
bàn), Vô ngã, Thanh tịnh” thì sẽ có cơ hội lựa chọn giữa hai con đường, hai lối
sống, hai thực tại là Bát Tà Đạo và Bát Chánh Đạo.

Hãy tham dự một khoá tu học 9 ngày do GOSINGA tổ chức để Tuệ tri, để
hiểu biết đúng sự thật hai thực tai, hai con đường, hai lối sống để mà lựa chọn
một lối sống chấm dứt khổ ngay bây giờ và tại đây, lối sống hết khổ có vui ngay
trong kiếp hiện tại này.

Về mục lục

Bài 170: NHỮNG KHÁM PHÁ ĐẶC BIỆT CỦA ĐỨC PHẬT

1- Khám phá ra SỰ THẬT về quy luật nhân quả: Hai nhân tương tác với nhau
cùng diệt phát sinh ra một hoặc nhiều quả. Các sự vật hiện tượng (các pháp) do
tương tác mà sinh cũng do tương tác mà diệt. Tương tác giữa hai nhân thuật ngữ
Phật học gọi là Duyên nên các pháp do Duyên mà sinh, cũng do Duyên mà diệt
nên gọi là Pháp Duyên Khởi.

2- Do khám phá ra SỰ THẬT Duyên Khởi nên khám phá ra tính chất các pháp là
Vô thường, sinh lên rồi diệt đi, không thường hằng không thường trú, sinh không
từ đâu đến, diệt không đi về đâu, xuất hiện một lần duy nhất.

3- Do khám phá ra SỰ THẬT Duyên Khởi nên khám phá ra tính chất của các
pháp là Vô chủ vô sở hữu. Nghĩa là các pháp độc lập với nhau, không ràng buộc,
không nương tựa nhau mà tồn tại. Xét theo thời gian và không gian, không có
pháp nào là chủ nhân chủ sở hữu của pháp nào đồng nghĩa không tồn tại một cái
Ta tự có hay Bản ngã là chủ nhân chủ sở hữu các pháp, theo thuật ngữ Phật học
là Vô ngã.

4- Ngài khám phá ra SỰ THẬT các đối tượng thực tại gồm những gì được thấy,
được nghe, được cảm nhận là Cảm giác mà thuật ngữ Phật học gọi là Cảm thọ,
nó là thế giới tâm chứ không phải thế giới vật chất do Căn Trần (hai nhân) tương
tác (tiếp xúc) mà phát sinh. Nó vô thường, vô chủ vô sở hữu (vô ngã) có vị ngọt,
sự nguy hiểm và sự xuất ly.

5- Ngài khám phá ra THAM ÁI VỊ NGỌT (Dục lạc) là nguy hiểm, vì nó là


Nguyên nhân phát sinh Khổ, đi ngược lại quan điểm thời đó của các tôn giáo Ấn
độ VỊ NGỌT LÀ NGUY HIỂM, là Nguyên nhân khổ nên chạy trốn Vị ngọt bằng
các phương pháp hành trì khổ hạnh khốc liệt.

6 - Ngài khám phá ra loại chú tâm không tầm không tứ làm phát sinh Định
Không Tầm Không Tứ, khác với mọi loại định thời bấy giờ và cả hiện nay, mục
đích để kinh nghiệm, thân chứng tâm biết trực tiếp giác quan thuần tuý không có
tâm biết ý thức xen vào mà thuật ngữ Phật học gọi là Tỉnh Giác.

7- Nhờ những khám phá trên Ngài đã KHÁM PHÁ RA SỰ THẬT hay GIÁC
NGỘ KHỔ TẬP DIỆT ĐẠO (Giác Ngộ: Khổ, Nguyên nhân Khổ, Khổ diệt, Con
đường Khổ diệt).

8 - Nhờ những khám phá ra các SỰ THẬT này mà Ngài khám phá ra Vô Minh là
những hiểu biết SAI SỰ THẬT về những điều trên của nhân loại và nhờ vậy, xoá
bỏ được những hiểu biết sai sự thật gọi là Vô minh đó trong bộ nhớ tâm thức
(kinh gọi là các lậu hoặc được đoạn tận) mà Ngài đạt được Chánh Đẳng Chánh
Giác, một người tự mình giác ngộ không thầy chỉ dạy và sau khi giác ngộ còn
giảng dạy điều mình đã giác ngộ cho nhiều người khác giác ngộ.

Về mục lục

Bài 171: THAM NHŨNG


Hầu như mọi người đều nhận thức Tham nhũng là một vấn nạn của xã hội loài
người từ xa xưa cho đến ngày nay, một vấn nạn làm nhức nhối tâm can bao
người. Và cũng từ xa xưa con người cũng đã đề ra rất nhiều phương cách để
chấm dứt nạn tham nhũng nhưng cho đến ngày nay không những nó không chấm
dứt mà nó còn có chiều hướng ngày càng gia tăng.

Vậy tham nhũng là gì? Tham Nhũng là 2 từ ghép giữa Tham và Nhũng, nội
dung diễn tả một quá trình nhân quả trong nội tâm con người. Đó là Tham hay
Thích một cái gì thì sẽ Muốn có cái đó và do Muốn có cái mình thích thì sẽ
Nhũng Nhiễu, sẽ gây khó dễ cho người khác để có được cái mình thích.

Đa phần thì cho rằng chỉ có người có chức, có quyền mới Tham và Nhũng.
Vì thế tham nhũng gây khó dễ cho đời sống nhân loại, cản trở sự phát triển, phân
tán các nguồn lực đầu tư, gây ra các hậu quả nghiêm trọng... Có người nhìn rộng
hơn thấy rằng Tham và Nhũng xảy ra trong mọi lĩnh vực đời sống và không
những người quyền cao chức trọng tham nhũng mà nó phát triển ở mọi tầng lớp,
mọi vị trí. Ví dụ như có người nhận xét là nền giáo dục ngày càng tồi tệ, đạo đức
xuống cấp trầm trọng nguyên nhân sâu xa là do tham nhũng.

Để giải quyết vấn nạn tham nhũng nhân loại nhận thức rằng phải hoàn thiện
thể chế, hoàn thiện luật pháp, phải minh bạch, phải có sự chế tài nghiêm minh.
Và như vậy hệ thống nhà nước, các bộ luật hình sự, dân sự, các bộ máy lập pháp,
hành pháp như quốc hội, toà án, cảnh sát, nhà tù... ra đời và ngày càng hoàn thiện
để diệt trừ tham nhũng. Nhưng xem ra lịch sử chống tham nhũng của nhân loại
cho dù nhà nước quân chủ hay dân chủ có thể chế tài được một số tham nhũng ở
dạng thô nhưng lại làm phát sinh tham nhũng tinh vi, vi tế chứ không chấm dứt
được tham nhũng. Vì sao vậy? Vì nhận thức tham nhũng còn thuyết sót còn
phiến diện, còn mâu thuẫn còn sai lạc.

- Một là:Tham và Nhũng không chỉ tham nhũng về Vật chất mà còn có tham
nhũng Tinh thần. Tham nhũng vật chất là Tham muốn hạnh phúc vật chất do tiền
bạc, nhà cửa, xe cộ, tiện nghi gọi là Tham Lợi nên nhũng nhiễu gây khó dễ, cản
trở công việc, làm người khác đau khổ, làm cho mình đau khổ. Tham nhũng Tinh
thần là tham muốn hạnh phúc tinh thần do danh tiếng, quyền lực, hơn thua... gọi
là Tham Danh nên nhũng nhiễu, tranh chấp, làm hại người khác làm người khác
đau khổ, làm cho mình đau khổ. Ví như trên mạng xã hội, tuy không quen biết
nhau nhưng vì tham danh, vì hơn thua nên nhảy vào bình luận, trang cãi, tranh
đấu, cạnh tranh nhau, mạt sát nhau, tàn sát nhau bằng binh khí ngôn từ, binh khí
miệng lưỡi. Đó chính là tham nhũng, là do tham danh mà nhũng nhiễu người
khác và kết quả khổ mình, khổ người. Trong hai loại Tham nhũng này, Tham Lợi
chi phối con người rất ghê gớm nhưng thô, dễ thấy dễ biết còn Tham Danh rất vi
tế nên khó thấy khó biết, nhưng nó lại chi phối con người nhiều hơn và thảm hoạ
nó gây cho con người kinh khủng hơn.

- Hai là:Tham nhũng là tham muốn vật chất và tinh thần đưa đến nhũng nhiễu,
cản trở, làm hại, gây khổ sở cho người khác nhưng cũng gây hậu quả đau khổ
cho chính mình không chỉ riêng người có chức có quyền mà nó xảy ra với mọi
con người (chỉ ngoại trừ các bậc thánh đã giác ngộ)với các hình thức, mức độ và
hậu quả khác nhau mà thôi. Ví như một người do thích (tham) và muốn có tiền
bạc nên (nhũng) móc túi lấy cắp tiền bạc của người khác. Đó cũng là tham nhũng
đúng theo nghĩa đen của từ này.

- Ba là : Con người mâu thuẫn ngay trong nhận thức: Đó là vừa muốn chấm
dứt tham nhũng vừa ca ngợi để tăng trưởng tham nhũng. Điều này thể hiện ở chỗ,
tất cả nhân loại, từ truyện cổ tích dân gian đến văn học điện ảnh, thi ca âm nhạc,
triết học đến chuyện tán gẫu hàng ngày đều ca ngợi, vinh danh Hạnh phúc vật
chất, Hạnh phúc tinh thần do sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc chạm
êm ái... từ thế giới ngoại cảnh mà có, mặc định rằng chỉ có Hạnh phúc đó mới
chấm dứt được đau khổ. Sự việc đó biểu hiện nhân loại đang trực tiếp kích thích
tham muốn có được hạnh phúc đó. Và để có được các thứ Hạnh phúc vật chất,
tinh thần đó thì phải lao tâm khổ trí, phải sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối... vì
thế mà cha tranh đoạt với con, con tranh đoạt với cha, vợ chồng tranh đoạt nhau,
hàng xóm láng giềng tranh đoạt nhau, quốc gia này tranh đoạt với quốc gia kia,
người ta đâm chém, gài bẫy, lừa lọc nhau... Vì tham muốn hạnh phúc đó mà con
người đang nhũng nhiễu nhau, tàn hại nhau, gây đau khổ cho nhau. Đó chính
tham nhũng. Đây là mâu thuẫn trong đời sống nhân loại vừa muốn chấm dứt
tham nhũng vừa khuyến khích tham nhũng.

- Bốn là: Giải quyết tham nhũng của nhân loại đang giải quyết cành ngọn chứ
không giải quyết gốc rễ. Các bộ máy lập pháp hành pháp, các bộ luật dân sự hình
sự, toà án, cảnh sát, nhà tù... của mỗi quốc gia có nhiệm vụ chế tài tham nhũng,
bảo đảm cho người dân sống yên lành, không bị nhũng nhiễu bởi hành vi tham
nhũng của mọi đối tượng. Tuy các quốc gia đã làm cho nhiều người dân tự giác,
không tham nhũng, nhũng nhiễu và cũng chế tài được rất nhiều hành vi do tham
mà nhũng nhiễu người khác bằng các bản án hình sự và dân sự nhưng hành vi
tham nhũng, nhũng nhiễu không chấm dứt mà nó ngày càng tinh vi hơn. Cho dù
các bộ luật có hoàn chỉnh đến mức độ nào, ngăn chặn và chế tài tội phạm đến
mức độ nào thì quốc hội các nước vẫn liên tục ra thêm các bộ luật, bổ sung các
điều luật để đối phó với các loại tội phạm mới xuất hiện tinh vi hơn do trí óc con
người tìm cách lách qua các điều luật cũ ngày càng thông minh hơn. Vì sao vậy?
Vì chống tham nhũng như vậy mới chỉ nơi cành ngọn chưa phải nơi gốc rễ. Chặt
cành ngọn tham nhũng này cây đó sẽ tiếp tục mọc ra cành ngọn tham nhũng khác
vì gốc rễ vẫn còn nguyên vẹn, còn được nuôi dưỡng. Chỉ khi nào gốc rễ của cái
cây tham nhũng được đào bới lên, được chặt bỏ đi thì mọi cành ngọn tham nhũng
mới bị đoạn tận.

- Năm là Gốc rễ của tham nhũng là ở Nội tâm chứ không phải nơi Ngoại
cảnh. Chính Tham ái Hạnh phúc vật chất và Hạnh phúc tinh thần do sắc đẹp,
tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái ... của thế giới ngoại cảnh khởi
lên mới làm phát sinh Hành vi nhũng nhiễu gây hại người khác. Vậy NGUYÊN
NH N THAM NHŨNG THUỘC VỀ NỘI T M chứ không thuộc về THẾ GIỚI
NGOẠI CẢNH. Vậy để chấm dứt tham nhũng bằng cách thức hiện nay của nhân
loại chỉ nhiếp phục, đè nén tham nhũng chứ không thể giải quyết tận gốc tham
nhũng vì cái gốc của tham nhũng là Tham ái đã được lập trình và cài đặt trong bộ
nhớ tâm thức nhân loại. Hễ Căn Trần tiếp xúc phát sinh lộ trình tâm thì cái lập
trình tham ái, tham nhũng được kích hoạt và tự động khởi lên không ai có thể
làm chủ, điều khiển được nó (vô chủ vô sở hữu).

- Sáu là: Trong lịch sử nhân loại chỉ có một con người duy nhất, độc nhất vô
nhị đã khám phá và truyền dạy phương pháp chấm dứt GỐC RỄ THAM
NHŨNG, đó là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài đã khám phá và truyền dạy Tứ
Thánh Đế và Bát Chánh Đạo. Những ai học, hiểu và thực hành đúng Tứ Thánh
Đế và Bát Chánh Đạo đã đạt được Chánh định với mức độ sơ thiền, nhị thiền,
tam thiền và tứ thiền sẽ kinh nghiệm được trạng thái Vui và Thoải mái mà thuật
ngữ Phật học gọi là Hỷ Lạc. Đó là một thứ Hạnh phúc kỳ diệu khác hẳn Hạnh
phúc vật chất và tinh thần khởi lên từ thế giới ngoại cảnh mà nhân loại tham
muốn. Hạnh phúc kỳ diệu này do Chánh niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định -
Tỉnh giác mà khởi lên, là thứ Hạnh phúc phát sinh từ Nội Tâm chứ không phải
do lao tâm khổ trí, không phải do giành giật cạnh tranh, không phải do nhũng
nhiễu với thế giới bên ngoài mà có. Hễ có sự chú tâm liên tục với hai loại chú
tâm có tầm có tứ và chú tâm không tầm không tứ là nó khởi lên liền. Người nào
kinh nghiệm và an trú được thứ Hạnh phúc do Chánh định khởi lên này sẽ không
còn tham muốn, không còn tìm cầu Hạnh phúc vật chất và tinh thần mà thế gian
tham muốn và người đó sẽ KHÔNG CÒN THAM NHŨNG bất kỳ cái gì ở trên
đời.

Trạng thái Chánh định mà Đức Phật khám phá ra và truyền dạy 2600 năm
trước được Ngài khẳng định trong kinh điển là chứng được sơ thiền, nhị thiền,
tam thiền, tứ thiền một cách không khó khăn, một cách không mệt nhọc, một cách
không phí sức. Lời dạy đó đã bị tam sao thất bản nên người học Phật ngày nay
cho rằng chứng được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền là điều không thể,
giống như mò kim đáy biển vậy. Những ai có duyên có thể tham dự khoá tu học
online 6 buổi, 13 buổi hay khoá tu học trực tiếp 2 ngày, 4 ngày, 9 ngày của tổ
chức giáo dục phi lợi nhuận Gosinga thì sau một thời gian tích cực thực hành đa
phần sẽ kinh nghiệm được chỉ cần một hơi thở vô ra là đã vào được sơ thiền, chỉ
cần một hơi thở vô ra là có thể vào thẳng nhị thiền hoặc tam thiền.

Về mục lục

Bài 172: TUỆ TRI HẠNH PHÚC- PHÂN BIỆT HAI LOẠI HẠNH
PHÚC

Tuệ tri là một thuật ngữ Phật học Hán Việt nghĩa là Biết với Trí tuệ mà nói thuần
tuý tiếng Việt là Hiểu biết đúng sự thật. Vậy tuệ tri hạnh phúc là hiểu biết đúng
sự thật về Hạnh phúc.

Trong các bộ kinh Nikaya, đặc biệt là Trung bộ kinh, bộ kinh bàn về Chánh tri
kiến chủ yếu bàn về Hiểu biết đúng sự thật Khổ, Nguyên nhân khổ, Chấm dứt
Khổ và Con đường chấm dứt khổ tức là Bốn sự thật mà bậc thánh đã giác ngộ mà
Phật học gọi là Tứ Thánh Đế. Trong các bộ kinh đó rất ít bàn về Hạnh phúc nên
nhiều người cho rằng Phật Giáo bi quan, vì Phật giáo cho rằng cuộc đời là bể
khổ, cuộc đời không có một chút vui thú nào. Đây là một sự hiểu lầm rất lớn.
Tuy Đức Phật giác ngộ và truyền dạy về bốn khía cạnh của Khổ gồm: Sự thật
khổ, Sự thật nguyên nhân khổ, Sự thật chấm dứt khổ, Sự thật Con đường chấm
dứt khổ nhưng để giác ngộ được về khổ như vậy, trước tiên Ngài phải giác ngộ
về Hạnh phúc mà thuật ngữ Phật học gọi là Vị ngọt. Điều này thể hiện trong lời
tuyên bố về giác ngộ của Ngài được nhắc đi nhắc lại cả đến gần trăm lần trong
bản kinh Phạm Võng thuộc Trường bộ kinh: “ Này các Tỷ kheo, Như Lai nhờ tuệ
tri sự tập khởi, sự đoạn diệt của Thọ, VỊ NGỌT, sự nguy hiểm và sự xuất ly của
Thọ mà Như Lai được giải thoát hoàn toàn không có chấp thủ”.

Để Liễu tri Hạnh phúc, hiểu biết đầy đủ, đúng sự thật về Vị ngọt, về Hạnh
phúc phải Tuệ tri bốn khía cạnh của Hạnh phúc.

1- Một là Tuệ tri Hạnh phúc, là hiểu biết đúng sự thật hạnh phúc.

2- Hai là Tuệ tri tập khởi hạnh phúc, là hiểu biết đúng sự thật về Nguyên nhân
phát sinh hạnh phúc.

3- Ba là Tuệ tri hạnh phúc đoạn diệt, là hiểu biết đúng sự thật về hạnh phúc
đoạn diệt.

4- Bốn là Tuệ tri Con đường hạnh phúc đoạn diệt là hiểu biết đúng sự thật về
con đường hạnh phúc đoạn diệt.

A- Tuệ tri Hạnh phúc:

Khi có hạnh phúc thì bất kể già trẻ gái trai ngu trí, ai ai cũng cảm nhận được
hạnh phúc, cảm nhận được trạng thái Vui và Thoải mái mà thuật ngữ Phật học
Hán Việt gọi là Hỷ và Lạc. Nhưng hiểu biết về Hạnh phúc thì có hai loại hiểu
biết: Hiểu biết sai, hiểu biết không đúng sự thật gọi là vô minh, tà kiến, vọng
tưởng về hạnh phúc. Hai là hiểu biết đúng sự thật về hạnh phúc gọi là minh, trí
tuệ, chánh kiến. Tuệ tri hạnh phúc là hiểu biết đúng sự thật cả hai loại hiểu biết
này, phân biệt rõ ràng hai loại hiểu biết vô minh và minh này.

a - Hiểu biết không đúng sự thật về hạnh phúc: đó là hiểu biết của nhân loại,
hạnh phúc sẵn có, luôn luôn có, thường hằng thường trú trong các đối tượng thực
tại là thế giới vật chất. Như vậy hạnh phúc sẵn có trong sắc đẹp, tiếng hay, hương
thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái... Người nào nắm giữ, làm chủ, sở hữu được
những thứ vật chất đó, người đó có hạnh phúc. Và như vậy hạnh phúc không
những là thường hằng thường trú trong thế giới vật chất mà có thể nắm giữ, làm
chủ, sở hữu được hạnh phúc. Nhân loại mặc định rằng chỉ có thứ hạnh phúc duy
nhất từ thế giới ngoại cảnh này, không có một thứ hạnh phúc nào khác và chỉ khi
nào nắm giữ được, làm chủ, sở hữu được hạnh phúc này, lúc đó mới chấm dứt
được khổ. Chính vì nhận thức về hạnh phúc là cái duy nhất chấm dứt được khổ
nên nhân loại từng giây phút một, từng tháng năm, suốt cả cuộc đời từ khi sinh ra
đến khi chết, luôn khao khát, mong mỏi tìm cầu niềm vui, hạnh phúc để chấm
dứt khổ bằng cách thay đổi hoàn cảnh sống, thay đổi thế giới vật chất ngoại cảnh.
Hiểu biết về hạnh phúc như thế này trong Phật học gọi là vô minh, tà kiến, vọng
tưởng còn gọi là thường kiến và ngã kiến.

b- Hiểu biết đúng sự thật về hạnh phúc: Hạnh phúc và cả Khổ đau là các Cảm
giác, nó là tâm chứ không phải là vật chất, nó vô thường, vô chủ vô sở hữu. Hãy
quan sát điều này ngay thực tại cuộc sống hàng ngày. Ví như có anh chồng cưới
được cô vợ xinh như hoa hậu hoàn vũ. Trong một năm đầu anh ta thích thú khi
nhìn thấy hay nghĩ tới hình ảnh xinh đẹp đó và lúc đó anh ta cảm nhận cảm giác
vui, cảm giác hạnh phúc. Nhưng đến năm thứ 2 người vợ xinh như hoa hậu hoàn
vũ đó ngoại tình công khai nên khi nhìn thấy hay nghĩ tới hình ảnh xinh đẹp đó
anh ta tức giận điên người và lúc đó anh ta cảm nhận cảm giác đau khổ. Vậy thì
hạnh phúc và khổ đau không có trong đối tượng thực tại là hình ảnh xinh đẹp mà
anh ta nhìn thấy, không có trong người đàn bà xinh đẹp, mà hạnh phúc và khổ
đau phát sinh nơi tâm anh ta, cụ thể là thích đối tượng đó thì cảm nhận hạnh
phúc, ghét đối tượng đó thì cảm nhận đau khổ. Nói một cách nôm na dễ hiểu là
hạnh phúc và khổ đau không có trong các đối tượng thực tại mà nó phát sinh nơi
tâm của người đang thấy, nghe, cảm nhận đối tượng thực tại. Nếu thích đối tượng
thì hạnh phúc, hễ ghét đối tượng thì đau khổ. Cùng một đối tượng hình ảnh người
đàn bà xinh đẹp như cô hoa hậu hoàn vũ người chồng nhìn thấy rồi ghét thì sẽ
đau khổ với đối tượng còn tình nhân thấy rồi thích thì sẽ hạnh phúc với đối
tượng. Mọi đối tượng khác cũng đều y như vậy, thích đối tượng thì hạnh phúc,
ghét đối tượng thì đau khổ. Hạnh phúc và Khổ đau phát sinh nơi nội tâm người
thấy chứ không có nơi đối tượng được thấy, không có trong thế giới ngoại cảnh.
Vì vậy, hạnh phúc là cảm giác mà thuật ngữ Phật học gọi là Cảm thọ, nó phát
sinh nơi nội tâm, nó là tâm chứ không phải vật chất, nó sinh diệt, vô thường,
không thường hằng, không thường trú đâu cả, nó vô chủ vô sở hữu, nghĩa là
không thể nắm giữ, không thể làm chủ, không thể sở hữu, không thể điều khiển
được nó.

c- Phân biệt hai loại hạnh phúc:

* Loại hạnh phúc thứ nhất do tham ái hay thích thú đối tượng như sắc đẹp, tiếng
hay, hương thơm vị ngon, xúc chạm êm ái từ thế giới ngoại cảnh khởi lên mà
nhân loại ai ai cũng kinh nghiệm được. Loại hạnh phúc này phát sinh trên lộ trình
tâm Bát tà đạo do vô minh và tham ái khởi lên. Bản chất của loại hạnh phúc này
là vui ít khổ nhiều não nhiều mà nguy hiểm càng nhiều hơn. Vì sao vậy? Vì để có
được hạnh phúc này phải lao tâm khổ trí nên khổ khởi lên, vì để có hạnh phúc
này phải đánh đổi bằng đau khổ. Hạnh phúc này bản chất là nắm giữ, ràng buộc
nghĩa là muốn nó tồn tại vĩnh viễn, muốn nó là của mình vĩnh viễn (thường kiến,
ngã kiến) nên khi nó vô thường, biến hoại, biến diệt, mất đi đau khổ sẽ khởi lên.
Vì vậy, đi đôi với hạnh phúc này là đau khổ. Loại hạnh phúc này và đau khổ là
hai mặt của thực tại như hai mặt của đồng tiền không thể tách rời nhau, không
thể chỉ có mặt này mà không có mặt kia. Có hạnh phúc loại này thì sẽ có đau
khổ, tuy nó không cùng tồn tại mà chúng sinh diệt đắp đổi nhau rất nhanh chóng.
Nếu một người trong đời này hưởng thụ rất nhiều hạnh phúc loại này thì họ cũng
thọ hưởng rất nhiều đau khổ và đặc biệt khi chết, hết kiếp sống này tiếp nối kiếp
sống hoá sanh thì đau khổ mới kinh khiếp. Loại hạnh phúc này trong Phật học
gọi là Dục lạc và Đức Phật gọi nó là Phàm phu lạc, ô uế lạc, bất tịnh lạc.
* Loại hạnh phúc thứ hai cũng là Cảm giác, cũng vô thường, vô chủ vô sở hữu
phát sinh nơi nội tâm trên lộ trình tâm Bát chánh đạo. Trên lộ trình tâm Bát
chánh đạo không có tham sân, không có thương ghét với bất kỳ đối tượng thực
tại nào nên không có Hạnh phúc cũng không có Khổ đau với bất kỳ đối tượng
thực tại nào. Bát chánh đạo vắng mặt cả đau khổ lẫn hạnh phúc, loại hạnh phúc
mà ai ai cũng đã kinh nghiệm trên lộ trình tâm Bát tà đạo. Trạng thái vắng mặt cả
khổ đau, vắng mặt cả hạnh phúc với mọi đối tượng thực tại Phật học gọi là Khổ
diệt hay Diệt đế hay Niết bàn. Tuy rằng Bát chánh đạo không còn tồn tại loại
hạnh phúc thứ nhất, loại hạnh phúc gắn liền với đau khổ, loại hạnh phúc vui ít
khổ nhiều não nhiều mà nguy hiểm càng nhiều hơn nhưng lại có mặt một loại
hạnh phúc khác. Đó là Bát chánh đạo gồm : XÚC - [Thọ - Tưởng] - Chánh niệm
- Chánh tinh tấn - Chánh định - (Tỉnh giác) - Chánh tư duy - Chánh tri kiến - Như
lý tác ý - {Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng}.

Nhờ Chánh niệm - Chánh tinh tấn mà phát sinh Chánh định với mức độ sơ
thiền, nhị thiền, tam thiền hay tứ thiền. Các trạng thái định này có trạng thái Vui
và Thoải mái mà thuật ngữ Phật học gọi là Hỷ và Lạc cũng là một thứ hạnh phúc
được cảm nhận gồm hỷ lạc của sơ thiền, hỷ lạc của nhị thiền, lạc của tam thiền,
thanh tịnh của tứ thiền. Đây là một thứ Hạnh phúc không đưa đến ràng buộc nắm
giữ, không còn vui ít khổ nhiều, không phải do lao tâm khổ trí, không phải do
cạnh tranh, đấu tranh mà có, không do sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon,
xúc chạm êm ái, không do yêu thương mà có mà nó do Chánh niệm - Chánh tinh
tấn - Chánh định thuộc về nội tâm phát sinh ra. Loại hạnh phúc thứ hai này
không đi kèm với đau khổ mà nó đi kèm với Khổ diệt, Niết bàn nên nó là thứ
hạnh phúc kỳ diệu, thanh tịnh nên Đức Phật gọi nó là Thánh lạc, Chánh giác lạc,
an tịnh lạc. Ai đã kinh nghiệm an trú được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền hoặc tứ
thiền thì sẽ kinh nghiệm được loại Hạnh phúc này. Lúc đó sẽ không còn tham ái,
không còn tìm kiếm loại hạnh phúc thứ nhất gọi là Dục lạc, Phàm phu lạc, ô uế
lạc, bất tịnh lạc nữa.

B - Tuệ tri tập khởi hay Nguyên nhân hạnh phúc:

1 - Tập khởi hay Nguyên nhân phát sinh loại Hạnh phúc thứ nhất, loại hạnh
phúc gắn liền với đau khổ là DO THAM VÀ S N HAY THƯƠNG VÀ GHÉT
trên lộ trình tâm Bát tà đạo.

XÚC (Căn Trần) - [Thọ - Tưởng] - Tà niệm - Tà tư duy - Tà tri kiến - {THAM S
N SI} - Tà định - Dục - Tà tinh tấn - Phi như lý tác ý - {Tà ngữ, Tà nghiệp, Tà
mạng } - VUI KHỔ.

2 - Tập khởi hay Nguyên nhân phát sinh loại Hạnh phúc thứ hai, loại hạnh
phúc gắn liền với Khổ diệt, Niết bàn là do CHÁNH NIỆM - CHÁNH TINH
TẤN - CHÁNH ĐỊNH trên lộ trình tâm Bát chánh đạo.

XÚC (Căn Trần) - [Thọ - Tưởng] - CHÁNH NIỆM - CHÁNH TINH TẤN -
CHÁNH ĐỊNH - (Tỉnh giác) - Chánh tư duy - Chánh tri kiến - Như lý tác ý -
{Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng}.

C- Tuệ tri Hạnh phúc đoạn diệt:

1- Loại hạnh phúc thứ nhất gắn liền với đau khổ đoạn diệt là khi lộ trình tâm
Bát chánh đạo khởi lên, lộ trình tâm Bát tà đạo đoạn diệt thì Tham Sân, Thương
ghét đoạn diệt nên cả Hạnh phúc và Khổ đau loại này đoạn diệt.

2- Loại hạnh phúc thứ hai gắn liền với khổ diệt hữu dư hay Niết bàn hữu dư
đoạn diệt là thời điểm nhập diệt của một vị giác ngộ, một vị A la hán. Lúc đó lộ
trình tâm Bát chánh đạo đoạn tận, Hạnh phúc này cũng đoạn tận, Phật học gọi là
Khổ diệt vô dư hay Niết bàn vô dư nghĩa là Khổ được đoạn tận không còn dư
sót, không còn dư tàn.

D- Con đường Hạnh phúc đoạn diệt cả hai loại hạnh phúc đều là Bát Chánh đạo.
Bát chánh đạo đoạn diệt Hạnh phúc loại thứ nhất nhưng Bát Chánh đạo là con
đường CHẤM DỨT LU N HỒI SINH TỬ, CHẤM DỨT SỰ HIỆN HỮU, không
còn hiện hữu bất kỳ ở đâu, bất kỳ hình thức nào nên loại hạnh phúc thứ hai cũng
đoạn tận khi nhập diệt hay gọi là Vô dư Niết bàn.

Để kinh nghiệm được loại hạnh phúc thứ hai, hạnh phúc không gắn liền với
đau khổ mà gắn liền với Khổ diệt, Niết bàn hãy tham dự các khoá học online 6
buổi hoặc 13 buổi bắt đầu từ buổi tối ngày 1 và 15 hàng tháng hay các khoá học
trực tiếp 2 ngày, 4 ngày, 9 ngày của Gosinga với nội dung học và ràn luyện Kỹ
năng chú tâm liên tục, Kỹ năng sống thích nghi, Kỹ năng chấm dứt khổ ngay bây
giờ và tại đây. Nếu học và hành tích cực thì kết quả đó sẽ mở rộng ra toàn bộ cuộc
sống, trở thành một LỐI SỐNG từ khi thức dậy cho đến khi lên giường đi ngủ với
mọi tư thế đi đứng nằm ngồi, với mọi công việc lau nhà rửa bát, cuốc vườn hay
giao dịch buôn bán. Lúc đó sẽ sống với thứ hạnh phúc nội tâm, không có có khổ
đau do Chánh niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định (chú tâm liên tục) khởi lên, lúc
đó sẽ không cần đến, không tham đắm, không tìm cầu thứ hạnh phúc do tài sản,
của cải, danh tiếng, yêu thương, cái thứ hạnh phúc do sắc đẹp tiếng hay, vị ngon,
xúc chạm êm ái từ thế giới ngoại cảnh khởi lên. Nhiều người sẽ băn khoăn, thắc
mắc, phản biện là như vậy sẽ bỏ bê công việc làm ăn, lấy gì mà sống, mà nuôi
con... Hãy trải nghiệm lối sống Tứ niệm xứ thì tự mình giải toả được các thắc mắc
đó. Với lối sống Chánh niệm về thân thọ tâm pháp tức là luôn luôn NHỚ ĐẾN
TÍCH CỰC CHÚ TÂM QUÁN SÁT THÂN THỌ TÂM PHÁP lúc đó sẽ có
Chánh tinh tấn - Chánh định thì sẽ kinh nghiệm được trạng thái Tích cực - Vui -
Thoải mái, là thứ hạnh phúc nội tâm gắn liền với Khổ diệt thì làm bất cứ việc gì
cho dù nặng nhọc, vất vả hay nhẹ nhàng, dù là trí óc hay chân tay thì hiệu quả
công việc sẽ cao hơn nhiều, sẽ không còn nhác nhớn, lười biếng, lẩn tránh công
việc, không còn gắt gỏng, cáu bẳn khi đối xử với nhân viên, đối tác, không còn bị
thích ghét làm hiểu biết sai lệch sự việc khi quyết định đầu tư. Với trạng thái Tích
cực - Vui - Thoải mái thì làm việc gì, kinh doanh gì cũng đưa đến hiệu quả cao
hơn nhiều, thu nhận được tài sản nhiều hơn nhưng không còn ràng buộc với kết
quả, với tài sản thu hoạch được, không còn bị được mất chi phối. Hãy đến để mà
thấy thứ hạnh phúc vi diệu này.

Về mục lục

Bài 173: ẨN DỤ VỀ BA CHỮ NGỘ TRONG TÂY DU KÝ

MC: Thưa quý vị, trong tác phẩm Tây du ký ba đồ đệ chính của Đường Tăng là
Tôn ngộ không, Trư bát giới và Sa tăng thì Trư bát giới và Sa tăng còn có tên là
Trư Ngộ năng và Sa Ngộ tĩnh. Như vậy ba vị độ đệ đã đồng hành cùng Đường
Tăng đi Tây trúc thỉnh kinh đều có chữ Ngộ. Vậy ba chữ ngộ này ẩn dụ cho cái
gì trong Phật Giáo. Tôi sẽ cùng quý vị thỉnh thiền sư Nguyên Tuệ giải mã ẩn dụ
này.

* Hỏi: Thưa sư, trong Tây du ký nhân vật nổi bật nhất là Tôn ngộ không còn
được gọi là Tôn hành giả, nhân vật thứ hai là Trư bát giới còn được gọi là Trư
ngộ năng và nhân vật thứ ba là Sa tăng còn được gọi là Sa ngộ tĩnh.

Cả ba nhân vật đi thỉnh kinh này đều có chữ ngộ nhằm nói đến cái gì trong
Phật Giáo ạ?

* Đáp: Ba nhân vật này đều có chữ NGỘ là ám chỉ đến chữ Ngộ trong thiền tông
Trung hoa. Đó là thiền đốn ngộ, đó là lý tuy đốn ngộ, sự phải tiệm tu hay tu vạn
kiếp ngộ nhất thời vv...

- Nhưng chữ ngộ mà tác giả dùng làm tên gọi cho ba vị độ đệ này còn có ý
nghĩa sâu xa hơn nữa. Đó là ám chỉ mục đích của việc tu hành Phật Giáo là để
giác ngộ. Vậy tu hành trong Phật Giáo là để giác ngộ cái gì?

- Một là giác ngộ tánh không thông qua tên gọi Tôn ngộ không.

- Hai là giác ngộ về Năng kiến tức là giác ngộ về Tâm biết tiếng Hán là Năng
kiến chứ không phải là giác ngộ về Thế giới mà tiếng Hán gọi là Sở kiến thông
qua tên gọi Trư Ngộ năng.

- Ba là giác ngộ Diệt đế là Khổ diệt hay Niết bàn, trạng thái tâm tịch tịnh không
có vô minh, không tham sân si, không khổ vui thông qua tên gọi Sa ngộ tĩnh.

* Hỏi: Thưa sư, TÁNH KHÔNG là một từ rất thời thượng của Phật Giáo, hấp
dẫn rất nhiều người, một cái gì đó rất cao siêu, huyền nhiệm lôi cuốn mọi người
nhưng cũng hết sức mơ hồ, trừu tượng khó mà hình dung ra được. Vậy mục đích
tu hành là để giác ngộ ra tánh không là giác ngộ về cái gì ạ?

* Đáp: Trước tiên phải hiểu từ GIÁC NGỘ là gì đã. Hiểu biết đối tượng thực tại
tức những đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận đó là cái gì, tính chất
ra sao là nội dung của tâm biết ý thức. Và có hai loại hiểu biết. Một là hiểu biết
sai sự thật về đối tượng đó, hiểu biết đó gọi là vô minh, tà kiến, vọng tưởng, mê
lầm. Hai là hiểu biết đúng sự thật đối tượng đó gọi là minh, chánh kiến, trí tuệ và
còn được gọi là Giác Ngộ.

* Hỏi: Vậy thưa sư, theo chúng con hiểu, trong Phật giáo Giác ngộ là giác ngộ về
Tứ thánh đế, giác ngộ về Bốn sự thật mà Đức Phật đã giác ngộ sao lại còn giác
ngộ về Tánh Không nữa ạ?

* Đáp: Đúng là Đức Phật giác ngộ là giác ngộ về Tứ Thánh đế và Ngài cũng chỉ
truyền dạy điều mà ngài giác ngộ là Tứ Thánh đế.

Nhưng trong Tứ Thánh Đế gồm có Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Tánh
Không thuộc về Đạo đế nên giác ngộ Đạo đế là giác ngộ về Tánh không.

* Hỏi: Xin sư giảng giải cho chúng con hiểu giác ngộ Đạo đế là giác ngộ về Tánh
không là như thế nào ạ ?

* Đáp: Khi tu tập Bát chánh đạo không những phải kinh nghiệm, phải thân chứng
mà còn phải hiểu biết đúng sự thật hay Tuệ tri lộ trình tâm Bát chánh đạo. Đó là:
khi căn trần tiếp xúc phát sinh đồng thời thọ tưởng tiếp đến chánh niệm - chánh
tinh tấn - chánh định khởi lên, lúc đó tâm biết trực tiếp giác quan sẽ ghi nhận đối
tượng rõ ràng minh bạch, không thêm bớt nên gọi là Tỉnh giác. Tiếp đến chánh
tư duy - chánh tri kiến khởi lên. Có những trường hợp sẽ có như lý tác ý làm phát
sinh chánh ngữ, chánh nghiệp chánh mạng. Đó chính là lộ trình tâm bát chánh
đạo. XÚC- [Thọ - Tưởng] - Chánh niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định - (Tỉnh
giác) - Chánh tư duy - Chánh tri kiến - Như lý tác ý - {Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng}

- Khi có Chánh niệm về thân cụ thể là NHỚ ĐẾN tích cực chú tâm quán sát
thân nơi thân lộ trình tâm dừng lại tâm biết Tỉnh giác chỉ ghi nhận đối tượng mà
triết học và tâm lý học gọi là nhận thức cảm tính đối tượng. Lúc đó thân chứng
và tuệ tri được tính chất của tâm biết Tỉnh giác không có khái niệm, không có
ngôn từ, không có phân biệt mà nói theo tiếng Hán Việt là vô niệm, vô ngôn, vô
phân biệt. Đó gọi là thân chứng Không tánh hay Tánh không. An trú Không tánh
là an trú Không giải thoát. XÚC - [Thọ - Tưởng] - Chánh niệm - Chánh tinh tấn -
Chánh định - (Tỉnh giác).

- Khi có Chánh niệm về thọ, về tâm, về pháp thì lộ trình tâm bát chánh đạo
sẽ có thêm chánh tư duy, chánh tri kiến. An trú chánh tri kiến là an trú trí tuệ, an
trú giải thoát. Giải thoát này gọi là Tuệ giải thoát. XÚC - [Thọ -Tưởng] - Chánh
niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định - (Tỉnh giác) - Chánh tư duy - Chánh tri kiến.

Tâm biết ý thức Chánh tri kiến còn có tên gọi khác là tâm vô tướng. Nghĩa là
như thế nào? Nghĩa là tâm biết ý thức tà tri kiến trên Bát tà đạo cho rằng các đối
tượng của thực tại là thế giới vật chất nên có tướng trạng to nhỏ, dài ngắn vuông
tròn, đàn ông đàn bà... nên đó gọi là tâm hữu tướng. Còn tâm biết ý thức chánh
tri kiến trên Bát chánh đạo, biết như thật các đối tượng đó là Cảm thọ, nó là tâm
chứ không phải vật chất. Và đã là tâm thì không có tướng vuông tròn to nhỏ vv...
nên đó gọi là tâm vô tướng. Đây gọi là thân chứng Không tướng hay Vô tướng.
An trú tâm vô tướng là an trú vô tướng giải thoát.

- Khi lộ trình tâm Bát chánh đạo, có Chánh tri kiến thì có thể phát sinh như
lý tác ý và do như lý tác ý sẽ phát sinh chánh ngữ chánh nghiệp chánh mạng.
Chánh ngữ, chánh nghiệp chánh mạng trên Bát chánh đạo không còn tham sân si
nên không phải là nhân tạo tác ra khổ vui, vì vậy được gọi là Không tác hay vô
tác. An trú không tác hay vô tác là an trú vô tác giải thoát. XÚC - [Thọ - Tưởng]
- Chánh niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định - (Tỉnh giác) - Chánh tư duy - Chánh
tri kiến - Như lý tác ý - {Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng}

- Như vậy, thân chứng và tuệ tri Tánh không bao gồm ba cái khôn : KHÔNG
TÁNH, KHÔNG TƯỚNG, KHÔNG TÁC nói tắt là KHÔNG, VÔ TƯỚNG, VÔ
TÁC và cũng là thân chứng và tuệ tri Không giải thoát, Vô tướng giải thoát, Vô
tác giải thoát.

* Hỏi: Thật là vi diệu, thưa sư. Tánh Không gồm Không, Vô tướng, Vô tác là
tánh không của tâm Bát Chánh Đạo. Đây là điều đặc biệt phải ghi nhớ về tánh
không. Nhưng đáng tiếc hiện nay, rất nhiều bộ phái Phật Giáo và đa số người học
lại cho rằng tánh không là tánh không của vạn vật, của thế giới, của vũ trụ vạn
hữu. Tại sao lại như vậy, thưa sư?

* Đáp: Tại vì, mọi người cho rằng thực tại là thế giới vật chất Sắc Thanh Hương
Vị Xúc Pháp nên họ gán cho tánh không là tánh không của thế giới vật chất đó.
Vì để giải quyết vấn đề nguồn gốc thế giới vật chất, nên y theo học thuyết duy
tâm họ chủ trương có thế giới bản thể và thế giới hiện tượng gọi là Chân đế và
Tục đế. Thế giới bản thể hay Chân đế còn gọi là Chân Không, là Tánh không, là
Chân tâm, là Bản tâm là Niết bàn, vô tướng không sanh không diệt. Và như vậy
Tánh không là cái chân không diệu hữu của thế giới bản thể chân đế đó. Từ nền
tảng chân đế đó phát sinh Thế giới hiện tượng vô thường sinh diệt (Tinh thần có
trước vật chất có sau, Tinh thần là thượng đế toàn năng sáng tạo ra thế giới vật
chất). Chân đế, thế giới bản thể không sinh không diệt và Tục đế thế giới hiện
tượng vô thường sinh diệt là hai mặt của thế giới thực tại. Tục đế phát sinh từ
Chân đế, khi diệt đi lại trở về Chân đế, Tục đế là biểu hiện của Chân đế trên mặt
hiện tượng, Chân đế là nền tảng của Tục đế trên mặt bản thể. Tánh không họ hiểu
là của thế giới bản thể chân đế là như vậy.

* Hỏi: Thì ra là vậy, vì hiểu biết sai lạc thực tại này vốn là T M LÀ CẢM THỌ
lại cho rằng thực tại này là THẾ GIỚI VẬT CHẤT nên mới suy diễn lời dạy về
Tánh không của Phật là Tánh không của vũ trụ. Thưa sư về Tôn ngộ không, con
còn có một câu hỏi mong sư giải thích. Đó là tại sao không ai khác mà chính tổ
sư Tu bồ đề đặt cái tên Tôn ngộ không cho con khỉ sinh ra từ tảng đá đó?

* Đáp: Việc này ám chỉ trong kinh điển có lưu truyền Tu bồ đề một vị đại đệ tử
của Đức Phật là vị đệ nhất thuyết pháp về Tánh Không.

* Hỏi: Còn chữ ngộ thứ hai là Trư ngộ năng thuộc về Trư bát giới là giác ngộ về
Năng kiến trong cái cặp Năng kiến - Sở kiến nội dung là như thế nào ạ?

* Đáp: Trong cái tâm biết ý thức của nhân loại thường được gọi là nhị nguyên
Tâm Vật nghĩa là cái biết là Tâm, đối tượng được biết là Vật, là thế giới vật chất.
Ngoài từ nhị nguyên Tâm Vật còn có một cách nói khác. Đó là Tâm biết gọi là
Năng kiến và đối tượng biết gọi là Sở kiến gọi tắt là Năng Sở. Đây là các thuật
ngữ Phật học tiếng Hán.

- Đa phần nhân loại theo hiểu biết nhị nguyên Tâm Vật nên đã mặc định thực
tại là thế giới, là Sở kiến nên họ gắn cho Đức Phật giác ngộ về thế giới, giác ngộ
tánh không của thế giới vạn vật, tức giác ngộ về Sở kiến.

- Sự thật Đức Phật không giác ngộ về thế giới, về Sở kiến như các tư tưởng
đương thời mà Ngài giác ngộ thực tại là Cảm thọ, là tâm chứ không phải vật
chất. Trong bản kinh Phạm võng thuộc Trường bộ kinh lời tuyên bố về sự giác
ngộ của Ngài được lặp đi lặp lại cả trăm lần. Này các Tỷ kheo, Như Lai biết rằng
“Những SỞ KIẾN ấy, những chấp trước như vậy, chấp thủ như vậy, sẽ đưa đến
những cõi thú như vậy, sẽ tác thành những định mạng như vậy”. Như Lai tuệ tri
như vậy, Ngài lại tuệ tri hơn thế nữa và Ngài không CHẤP SỞ TRI ấy. Nhờ
không chấp sở tri ấy, nội tâm được tịch tịnh. Ngài như thật tuệ tri sự tập khởi, sự
đoạn diệt của Thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của Thọ mà Như Lai được
giải thoát hoàn toàn không còn chấp thủ.

- Giác ngộ Năng kiến chứ không phải giác ngộ về Sở kiến là giác ngộ Khổ
Tập Diệt Đạo thuộc về Tâm biết của người thấy, tức Năng kiến chứ Khổ Tập
Diệt Đạo không có trong đối tượng được thấy tức Sở kiến là thế giới bên ngoài.
Ví như người chồng cưới được người vợ xinh như hoa hậu lúc đó thấy vợ xinh
anh ta thích thú yêu quý nên anh ta hạnh phúc. Một thời gian sau biết vợ đang
ngoại tình nên thấy vợ liền giận ghét nên anh ta khổ. Cùng thấy một người đàn
bà xinh đẹp nhưng lúc Hạnh phúc, lúc lại khổ đau. Cùng thấy một người đàn bà
xinh đẹp, anh chồng thì khổ nhưng anh tình nhân lại hạnh phúc. Vì vậy Hạnh
phúc khổ đau thuộc về tâm của người thấy tức thuộc Năng kiến chứ không có
trong đối tượng được thấy tức Sở kiến.

- Tất cả các đối tượng thực tại, tức là các đối tượng ĐƯỢC THẤY, thuật ngữ
Phật học tiếng Hán gọi là SỞ KIẾN không có chân hay vọng, thật hay giả, đẹp
hay xấu, có hay không vv.. mà chân vọng, thật giả đẹp xấu, có không vv... phát
sinh nơi tâm của NGƯỜI THẤY mà thuật ngữ Phật học gọi là NĂNG KIẾN.
Đức Phật giác ngộ về Năng kiến là giác ngộ về Thấy và Biết, giác ngộ hai loại
Thấy và Biết Minh của bậc Thánh và Vô minh của Phàm phu. Trí tuệ phân biệt
rốt ráo Minh và Vô minh mà thuật ngữ Phật học gọi là Trạch pháp sẽ xoá bỏ Vô
minh trong bộ nhớ và thời điểm đó là đột chuyển, là giác ngộ.
- Vậy Người học Phật là để giác ngộ về Năng kiến, giác ngộ về Tâm chứ
không phải giác ngộ về Sở kiến, về Thế giới cho nên có chữ Ngộ Năng ám chỉ
điều này.

* Hỏi: Vậy thưa sư, chữ ngộ thứ ba là Ngộ tĩnh là giác ngộ về Khổ diệt hay Niết
bàn là giác ngộ như thế nào ạ?

* Đáp: Khi tu tập Bát chánh đạo lộ trình tâm Bát chánh đạo khởi lên, không
những thân chứng, tuệ tri được Đạo đế là Bát chánh đạo với Tánh Không là
Không , Vô tướng, Vô tác mà còn thân chứng, còn tuệ tri được Diệt đế hay tiếng
Việt là Khổ diệt mà thuật ngữ Phật học gọi là Niết bàn hay thân chứng, tuệ tri
được giải thoát gồm Không giải thoát, Vô tướng giải thoát, Vô tác giải thoát.

- Khổ diệt hay Niết bàn là trạng thái tâm Bát chánh đạo không có vô minh,
không có tham sân si, không có khổ vui với bất kỳ đối tượng nào. Trạng thái vắng
lặng vô minh, vắng lặng tham sân si, vắng lặng khổ vui với mọi đối tượng được
gọi là tịch tịnh hay là Niết bàn. Vì vậy tu học để giác ngộ tịch tịnh, giác ngộ khổ
diệt hay Niết bàn là như vậy. Đó là ẩn dụ về Sa ngộ tĩnh.

Về mục lục

Bài 174: NGƯỜI NGU VÀ NGƯỜI TRÍ

Nhân loại này được chia làm hai loại người là ngu và trí nhưng khái niệm ngu và
trí cũng có hai loại khác nhau, khái niệm ngu trí của thế gian và khái niệm ngu trí
trong Phật học. Khái niệm ngu trí của thế gian cho rằng người trí là người thông
minh, nhanh nhẹn, tháo vát trong cách nghĩ cách làm, là người hiểu nhiều biết
rộng, là người uyên thâm, uyên bác, người ngu là người chậm lụt, người không
có kiến thức, người ít học thậm chí là vô học. Còn ngu trí theo quan điểm Phật
Giáo là như thế nào? Trong Pháp cú 63 có bốn câu kệ:

Người ngu nghĩ mình ngu


Nhờ vậy thành có trí

Người ngu tưởng có trí

Thật xứng gọi chí ngu

Đọc bài kệ này nhiều người nghĩ rằng để chuyển ngu thành trí thì quá dễ dàng,
cứ nghĩ rằng mình ngu là lập tức thành trí hay có người còn thành tâm hơn, tích
cực hơn là suốt ngày nghĩ mình ngu, luôn quỳ gối trước người khác nói rằng thưa
quý vị, tôi không dám coi thường quý vị bởi tôi là người ngu thì lâu ngày chầy
tháng sẽ trở thành người trí. Nhưng sự việc không dễ dàng như vậy đâu, không
thể làm như vậy mà thành người trí được. Vậy để trở thành người trí phải làm
như thế nào?

Trước tiên phải phân biệt thế nào là ngu và trí. Con người có HAI LOẠI T M
BIẾT. Một là tâm biết trực tiếp giác quan (trực giác) gồm nhãn thức, nhĩ thức, tỷ
thức, thiệt thức, thân thức, tưởng thức có phận sự nhận biết hay ghi nhận đối
tượng, chỉ thấy, nghe, cảm nhận đối tượng (gọi chung là THẤY) không biết đối
tượng đó là cái gì, tính chất ra sao nên triết học gọi là NHẬN THỨC CẢM
TÍNH đối tượng. Hai là tâm biết ý thức do suy nghĩ (tư duy) khởi lên có phận sự
BIẾT đối tượng đó là gì, tính chất ra sao mà triết học gọi là NHẬN THỨC LÝ
TÍNH đối tượng. Tâm biết trực giác, nhận thức cảm tính đối tượng thì ngu trí
giống nhau, đều là vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt còn khác nhau giữa người ngu
và người trí là tâm biết ý thức, nhận thức lý tính đối tượng, có khái niệm, có
ngôn từ, có phân biệt. Đó chính là sự khác nhau về nhận thức, về hiểu biết.

Người ngu hiểu biết không đúng sự thật đối tượng, còn người trí hiểu biết
đúng sự thật đối tượng. Ví dụ như người ngu biết hai nhân hai bằng sáu còn
người trí biết hai nhân hai bằng bốn; thấy đối tượng vốn là con trâu người ngu
biết đó là con chó, người trí biết đó là con trâu vv… Mức độ cao hơn, ví như
trong một cuộc triển lãm tranh có một bức tranh vẽ một quả táo rất đẹp, gợi cảm
đến mức mà người xem còn cảm nhận được không những màu sắc, hình dáng mà
cả mùi vị nhưng lại có dòng chữ phía dưới: Đây không phải là quả táo. Đa phần
thắc mắc và chê trách hoạ sĩ, họ cật vấn hoạ sĩ, đây không phải là quả táo thì đây
là cái gì. Đa phần những người đó là người ngu vì họ đã hiểu biết sai sự thật đối
tượng mà họ thấy. Vì sự thật đối tượng mà họ thấy là bức tranh vẽ quả táo chứ
không phải là quả táo.

Người ngu nghĩ (biết) mình ngu nghĩa là họ biết được hiểu biết của mình từ
trước đến nay là sai sự thật (là quả táo) nhờ họ được nghe giảng và biết đúng sự
thật đối tượng (là bức tranh quả táo). Khi họ phân biệt được hai loại hiểu biết,
hiểu biết sai sự thật và hiểu biết đúng sự thật đối tượng thì lúc đó họ trở thành
người trí là như vậy.

Người ngu tưởng có trí; thật xứng gọi chí ngu, nghĩa là họ đã mặc định hiểu
biết của mình là chân lý, là đúng sự thật, họ không hề do dự, nghi ngờ, phân vân
lưỡng lự, về hiểu biết đó nên họ sẽ không tìm kiếm, không nghe giảng, không
khám phá nơi sự thật thực tại và sẽ chẳng bao giờ có hiểu biết đúng sự thật đối
tượng nên mãi mãi là người ngu. Cũng y như vậy, nhân loại đã mặc định hiểu
biết của mình là chân lý, là đúng sự thật rằng thực tại là thế giới vật chất, rằng
ngọt nằm trong đường, mặn nằm trọng muối, ngon dở trong thức ăn, nóng nằm
trong lửa, lạnh nằm trong nước đá vv… nên không bao giờ đi tìm kiếm, khám
phá những hiểu biết khác về thực tại và vì vậy không bao giờ họ biết được sự
thật các đối tượng thực tại là Cảm thọ (Cảm giác), là tâm chứ không phải vật
chất, họ không thể biết được mình ngu, không thể biết được rằng những hiểu biết
đó là sai sự thật, là tà kiến.

Để biết là mình ngu, tức phải biết những hiểu biết của mình từ trước đến giờ
là sai sự thật, là tiền hậu bất nhất, là tự mâu thuẫn, tự đối lập cho nên lời nói hành
động cũng tiền hậu bất nhất, mâu thuẫn, đối lập đưa đến sầu bi khổ não thì phải
quan sát nơi sự thật thực tại, ngay nơi suy nghĩ, lời nói hành động hàng ngày.
Lúc đó sẽ biết rằng: Trong nhận thức hay hiểu biết của nhân loại luôn luôn tồn
tại song hành hai luồng tư tưởng trái ngược, mâu thuẫn chống đối nhau.

Ví như, tư tưởng TỰ DO và RÀNG BUỘC tồn tại song hành. Tư tưởng yêu
thích tự do, yêu thích giải thoát suốt đời phấn đấu nỗ lực để được tự do giải thoát
khỏi nô lệ, nộ lệ giai cấp, nô lệ vật chất, nô lệ tinh thần, nô lệ thiên nhiên, giải
thoát khỏi ràng buộc vợ chồng, con cái, khỏi ràng buộc lợi danh vv… Nhưng
trong thẳm sâu tâm thức tư tưởng nương tựa, tư tưởng ràng buộc cũng vận động
song hành. Muốn nương tựa, muốn nắm giữ, muốn sở hữu của cải, tiện nghi,
danh tiếng, giai cấp, quyền lực… tức muốn ràng buộc với nó. Nghĩa là muốn giải
thoát khỏi cái này nhưng lại muốn ràng buộc với cái kia. Ví như bà vợ muốn ly
dị với ông chồng này, tự do giải thoát khỏi ông chồng này nhưng lại muốn cưới
ông chồng kia, muốn ràng buộc với ông chồng kia vv…

Ví như, con người muốn hết khổ được vui và mặc định rằng chỉ có hạnh phúc
mới hết khổ được vui cho nên suốt đời khao khát tìm cầu nắm giữ hạnh phúc có
trong thế giới vật chất, trong sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm vị ngon xúc chạm
êm ái. Và để có được hạnh phúc đó, để hết khổ được vui thì phải lao tâm khổ trí
nên khổ lại khởi lên, có hạnh phúc lại nắm giữ, ràng buộc với nó nên khi nó vô
thường, biến hoại biến diệt, mất đi sầu bi khổ não lại khởi lên. Kết quả của mâu
thuẫn này là chỉ đổi cái khổ này lấy cái khổ khác không bao giờ hết khổ còn vui.
Nhân loại vừa cổ vũ, ca ngợi cho tham sân (tham giàu, ghét nghèo…) vừa chống
lại, chế tài tham sân bằng luật pháp toà án, cảnh sát. Chính tham và sân là hai
tâm hành trái ngược, chống đối nhau đang tồn tại trong cùng thế giới tâm thức, tư
tưởng chịu đựng khổ trong hiện tại (để hết khổ trong tương lai) và tư tưởng muốn
chấm dứt khổ ngay hiện tại mâu thuẫn nhau nhưng song hành tồn tại …

Ví như con người muốn giúp đỡ, muốn làm từ thiện giúp cho người khác hết
khổ do nghèo đói, bệnh tật, thiên tai. Họ có thể làm từ thiện cả mấy ngàn tỷ
đồng, thậm chí hy sinh cả toàn bộ tài sản của mình để làm từ thiện, giúp cho
người khác hết khổ. Nhưng mặt khác họ cũng muốn đẩy người khác vào hoàn
cảnh khốn cùng, đày đoạ người khác, làm cho người khác đau khổ. Họ cạnh
tranh một cách khốc liệt để đối phương phải phá sản, phải kiệt quệ, để cho hạng
ngàn vạn người phải mất tài sản, mất việc, không công ăn việc làm và họ ăn
mừng, hỷ hả vì điều đó. Họ có thể không từ thủ đoạn nào kể cả ăn cắp thông tin,
bịa đặt để có thể thoá mạ, bôi nhọ, đặt điều nhằm hạ gục, tiêu diệt người khác với
vũ khí ngôn từ, với binh khí miệng lưỡi. Chừng nào mà người khác thân bại danh
liệt, đau khổ, gục ngã, căng thẳng, áp lực, stres, tự tử thì họ mới thoả mãn. Họ lôi
kéo cả một đám đông khổng lồ bằng phương tiện thông tin hiện đại là mạng
internet để tiêu diệt, làm nhục, làm khổ mọi đối phương một cách nhanh nhất và
mạnh nhất. Tuy làm cái việc làm khổ người khác, làm cho người khác đau khổ
nhưng chính cái việc làm cho người khác khổ cũng làm họ đau khổ không kém,
thậm chí còn dữ dội hơn. Vậy đó, tư tưởng giúp người khác hết khổ và tư tưởng
làm cho người khác khổ đang song hành trong hiểu biết của MỌI NGƯỜI ngoại
trừ những người giác ngộ hoặc đang trên đường đến giác ngộ. Khi phóng sinh 10
tấn cá xuống sông họ nghĩ rằng họ bảo về sự sống của hàng ngàn vạn con cá, từ
bi cứu khổ hàng vạn chúng sinh nhưng hành động phóng sinh đó của họ cũng
đang tiêu diệt, làm đau khổ hàng chục tấn côn trùng, ếch nhái… để nuôi sống 10
tấn cá kia. Với niềm tin có linh hồn hay thần thức không sinh không diệt sau khi
thân hoại mạng chung thì đầu thai vào một thân khác để thọ lãnh nghiệp báo của
kiếp này. Ví như người con biết linh hồn mẹ mình đầu thai vào thân một con gà
chịu đau khổ của kiếp súc sinh thì việc giết con gà là để giúp mẹ giải thoát khỏi
nỗi khổ của kiếp súc sinh, đầu thai vào một thân khác tốt đẹp hơn (đâu có thể giết
được linh hồn mẹ bởi linh hồn vốn bất sinh bất diệt) là việc nên làm nhưng việc
giết nhầm con gà mà mẹ anh ta đầu thai vào lại làm anh ta khổ sở. Có phải anh ta
đang sống với hai hiểu biết mâu thuẫn đối kháng nhau không? vv…

Ví như, hiểu biết các sự vật hiện tượng là vô thường, là biến đổi không ngừng
trên nền tảng hiểu biết một nhân sinh một quả hay là nhân biến đổi thành quả hay
có bổ sung là nhân chính biến đổi thành quả có nhân phụ hay duyên trợ giúp. Và
theo hiểu biết đó thì nhân trong quả, quả trong nhân, tương tức, tương nhập, một
trong tất cả, tất cả trong một cho nên các pháp chỉ biến đổi từ vật này sang vật
khác, từ dạng này sang dạng khác, không có pháp nào được sinh ra, không có
pháp nào bị diệt đi mà nó biến mất ở chỗ này lại trình hiện chỗ kia nên nó không
sinh không diệt thường hằng thường trú. VÔ THƯỜNG như vậy đã là THƯỜNG
rồi, nó mâu thuẫn ngay trong nhận thức và vì vậy nhân loại vừa muốn thay đổi
(vô thường) vừa muốn ổn định (thường). Hiểu biết về Vô ngã thì cho rằng phải
quán: Cái này không phải là của TA, không phải là TA, không phải là tự ngã của
TA. Hiểu biết như vậy là đặt nền tảng trên một cái TA đang tồn tại là đã mâu
thuẫn với Vô ngã, KHÔNG CÓ CÁI TA. Hiểu biết các pháp Sắc Thọ Tưởng
Hành Thức là khổ, nghĩa là khổ sẵn có, thường hằng thường trú trong Năm Uẩn,
trong Sắc pháp, Danh pháp, là mâu thuẫn với khổ phải có tính chất vô thường.
Nếu tu là để hết khổ, vậy tu để cho Sắc Thọ Tưởng Hành Thức hết khổ, để cho
Sắc pháp Danh pháp hết khổ, cụ thể tu để cho các Sắc pháp như mặt trời mặt
trăng vv … hết khổ chăng?

Vân vân và vân vân đủ các mâu thuẫn và đối kháng trong hiểu biết, lời nói và
hành động của nhân loại. Nhưng nhân loại không hiểu biết đúng sự thật đó là
mâu thuẫn đối kháng xung đột giữa hai loại tư tưởng trong nội tâm mình (điều
này được ví như là con người đang sống với cái đầu bị chẻ đôi), mà con người lại
gán cho mâu thuẫn, đối kháng xung đột đó xảy ra nơi thế giới vật chất ngoại
cảnh, nơi vạn vật, là quy luật đấu tranh, quy luật thống nhất và mâu thuẫn giữa
hai mặt đối lập của thực tại, của thế giới.
Nhưng biết được hiểu biết hay nhận thức của nhân loại là tự mâu thuẫn, tự
xung đột như vậy tuy đã biết là mình ngu, nhưng đã trở thành người trí chưa?
Rằng như vậy cũng phần nào biết mình ngu nhưng chưa trở thành người trí. Vì
sao? Vì cũng có rất nhiều nhà văn, nhà thơ, nhà triết học, nhà tư tưởng đã thấy
được các mâu thuẫn đối kháng này nhưng họ không tìm ra sự thật, họ chỉ vùng
vẫy trong cái mớ bòng bong đó nhưng không tìm ra lối thoát và vì thế nhiều
người trong số họ đã tự sát, đã kết thúc cuộc đời.

Một người duy nhất trong lịch sử nhân loại đã tự mình khám phá sự thật thực
tại, tự mình đạt được hiểu biết đúng sự thật thực tại, tự mình chứng đạt sự thật,
chứng đạt chân lý và truyền dạy lại các kiến thức đó. Đó là Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni. Và hiểu biết do Đức Phật khám phá KHÔNG CÓ TIỀN HẬU BẤT
NHẤT, KHÔNG TỰ M U THUẪN, KHÔNG XUNG ĐỘT ĐỐI KHÁNG NÊN T
M THỨC BÌNH YÊN. Những ai muốn trở thành người trí, người bình an, hết khổ
thì chỉ có cách duy nhất là Văn - Tư - Tu theo lời dạy của Đức Phật tuy nó không
phải dễ dàng. Nếu học và hành đúng sẽ hiểu biết đúng như thật các đối tượng thực
tại là Cảm thọ, nó là tâm chứ không phải vật chất, hiểu biết đúng sự thật về duyên
khởi, về vô thường, vô chủ vô sở hữu (vô ngã), về hạnh phúc khổ đau, về Khổ
Tập Diệt Đạo vv… Đến lúc đó thật sự mới biết rằng trước đây mình là kẻ ngu vì
hàng ngày mình yêu ghét chính cái cảm giác của mình mà lại cho rằng mình yêu
ghét thế giới vật chất sắc thanh hương vị xúc pháp, cứ nghĩ mình cưới một người
vợ bằng xương bằng thịt ai dè đang cưới cái cảm giác của mình, ngu đến nỗi đang
từng giây từng phút tìm kiếm đuổi bắt các Cảm giác thuộc về tâm, để làm chủ, để
sở hữu, để điều khiển cái không thể làm chủ, không thể sở hữu, không thể điều
khiển được vv… Biết được mình là kẻ ngu ở mức độ đó mới trở thành người trí.
Điều này cũng lý giải tại sao Pháp mà Đức Phật đã chứng ngộ và thuyết giảng chỉ
dành cho người trí chứ không phải cho mọi hạng người trong nhân loại.

Về mục lục
Bài 175: SỐNG VỚI TỨ NIỆM XỨ LÀ LÀM TỐT VIỆC CỦA
MÌNH, KHÔNG XEN VÀO VIỆC CỦA NGƯỜI, KHÔNG LO
CHUYỆN THIÊN HẠ

Tu tập Tứ Niệm Xứ để khởi lên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo siêu thế không chỉ là
một phương pháp tu tập mà hơn thế nữa, nó là một lối sống. Lối sống với Trí nhớ
chánh hay thuật ngữ Phật học là Chánh niệm, đó là: Sống trú quán thân nơi thân
với Chánh niệm Nhiệt tâm Tỉnh giác để nhiếp phục tham ưu trong đời, Sống
quán thọ nơi thọ…, Sống trú quán tâm nơi tâm…, Sống trú quán pháp nơi pháp
với Chánh niệm Nhiệt tâm Tỉnh giác để nhiếp phục tham ưu trong đời. Lối sống
này là lối sống thích nghi, lối sống chấm dứt khổ ngay bây giờ và tại đây, lối
sống này phát sinh kết quả:

* Một là làm tốt việc của mình

* Hai là không xen vào việc của người khác

* Ba là không lo chuyện trời đất, chuyện thiên hạ

1- Một: Thế nào là làm tốt việc của mình: Khi tu tập Tứ niệm xứ là Nhớ đến tích
cực chú tâm quán sát Thân, quán sát Thọ, quán sát Tâm, quán sát Pháp (Pháp mà
Đức Phật thuyết giảng) lộ trình tâm Bát Chánh Đạo khởi lên nơi vị đó:

XÚC - [Thọ - Tưởng] - Chánh niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định - (Tỉnh
giác) - Chánh tư duy - Chánh tri kiến - Như lý tác ý - {Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng}.

Lúc đó vị đó thấy, nghe, cảm nhận đối tượng gọi chung là THẤY, với tâm
biết trực tiếp giác quan thuần tuý, không có tri thức khái niệm, không có ngôn từ,
không có phân biệt (vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt) chỉ ghi nhận hay nhận biết
đối tượng và gọi cái thấy đó là TỈNH GIÁC. Và vị ấy BIẾT đối tượng với tâm
biết ý thức CHÁNH TRI KIẾN, biết đúng sự thật về đối tượng. Do THẤY NHƯ
VẬY, BIẾT NHƯ VẬY vị đó kinh nghiệm được không yêu thích, không chán
ghét, độc lập không ràng buộc, giải thoát không hệ luỵ, không có khổ, không có
vui với bất kỳ đối tượng nào. Tuy với bất kỳ tư thế nào, khi đi đứng ngồi nằm,
với bất kỳ công việc gì vị đó đều kinh nghiệm không thích ghét, không khổ vui
với bất kỳ đối tượng nào, bất kỳ công việc nào nhưng nhờ Chánh tinh tấn -
Chánh định vị đó tích cực chú tâm liên tục vào các cảm giác trên thân, chú tâm
liên tục vào công việc nên 80% những suy nghĩ linh tinh, vô bổ, vô ích làm cho
phân tâm đưa đến phiền não, đưa đến lơ là công việc được chấm dứt nên công
việc được hoàn thành nhanh hơn, tốt hơn gấp bội. Làm việc với sự chú tâm liên
tục trong trạng thái Chánh định tuy nội tâm vắng lặng thích ghét, vắng lặng khổ
vui với các đối tượng bên ngoài nhưng sẽ có Tích cực, Vui và Thoải mái mà
thuật ngữ Phật học gọi là Tinh tấn, Hỷ và Lạc của Chánh định do sơ thiền, nhị
thiên, tam thiền, tứ thiền từ nội tâm phát sinh. Làm mọi việc với tâm thế Tích
cực, Vui, Thoả mái từ nội tâm phát sinh thì sẽ không nhác nhớn, không uể oải,
không chán nản, chắc chắn là sẽ hoàn thành tốt công việc. Làm tốt việc của mình
là làm việc với Tích cực, Vui, Thoải mái phát sinh từ nội tâm chứ không phải
làm với thành công, với kết quả xuất sắc. Làm việc với tâm thái Tích cực, Vui,
Thoải mái nhưng kết quả cũng có thể thành công, cũng có thể thất bại chứ không
phải bao giờ cũng thành công nhưng thành công hay thất bại không còn chi phối
vị đó, không còn làm vị ấy buồn vui. Không những làm tốt việc của mình là làm
với tâm thái Tích cực, Vui và Thoải mái từ nội tâm phát sinh (không phải là Tích
cực, Vui và Thoải mái do Thích thú công việc, từ đối tượng bên ngoài phát sinh)
mà làm tốt việc của mình còn làm tốt với lời nói, hành động cư xử với các đối
tượng bên ngoài đúng với sự thật không còn bị thích ghét hay tham sân si chi
phối. Đó là lời nói, hành động đúng mực, tử tế, bi mẫn với đối tượng mà thuật
ngữ Phật học gọi là Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng.

Đó là làm tốt việc của mình. Và phải hiểu rằng, việc cần làm của một đời
người chỉ có một việc duy nhất là LÀM CHO MÌNH HẾT KHỔ và có thêm chút
nữa là LÀM CHO MÌNH HẾT KHỔ ĐƯỢC VUI nhưng lưu ý một chút, Vui ở
đây là Vui từ nội tâm do Chánh định khởi lên không phải cái Vui mà phàm phu
mê đắm, cái Vui do sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái,
cái Vui do Danh Lợi phát sinh.

2- Hai : Thế nào là không xen vào việc người khác: Khi thực hành Tứ niệm xứ
khởi lên lộ trình tâm Bát chánh đạo, Thấy là Tỉnh giác và Biết là Chánh tri kiến
thì sẽ không nhận xét, không đánh giá đối tượng, không thích ghét, không khổ
vui với đối tượng nên không xen vào, không an thiệp vào việc của người khác.
Có thể có lúc, có nơi có lời nói, hành động cư xử với đối tượng nhưng với Chánh
ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng phát sinh từ Chánh tri kiến, từ tư tưởng vô chủ,
vô sở hữu hay vô ngã thì không còn tư tưởng áp đặt, tư tưởng làm chủ, tư tưởng
điều khiển đối tượng nên không xen vào việc của người khác. Lúc đó có nói
năng hành động gì với đối tượng thì vẫn là không yêu thích, không chán ghét,
độc lập không ràng buộc, giải thoát không hệ luỵ với đối tượng đó. Đó chính là
không xen vào việc người khác.

3- Ba : Thế nào là không lo chuyện trời đất, không lo chuyện thiên hạ: Sống với
Tứ niệm xứ không phải là bịt mắt lại để không thấy, bịt tai lại để không nghe, bịt
miệng lại để không nói mà là Thay Đổi THẤY VÀ BIẾT, từ Thấy là Tưởng tri
và Biết là Tà tri kiến của Phàm phu thành Thấy là Tỉnh giác và Biết là Chánh tri
kiến của bậc Thánh. Người sống với Tứ niệm xứ Thấy đối tượng là Tỉnh giác, là
Không Tánh (Tánh không), Biết đối tượng là Chánh tri kiến, là Không tướng (Vô
tướng) nên không phiền não, khổ vui với bất kỳ cái gì trên đời, không lo lắng, sợ
hãi, không liên quan đến bất kỳ chuyện gì trên đời. Đó là không lo nghĩ chuyện
trời đất, chuyện thiên hạ. Sống với Tứ niệm xứ là sống với Tâm giải thoát, Tuệ
giải thoát là giải thoát khỏi khổ đau, là đạt đến mục đích sống, mục đích cuộc
đời. Và khi đã đạt đến mục đích cuộc đời, đang trú ngụ nơi mục đích cần đến thì
đâu còn đi tìm kiếm cái gì nữa nên không còn lo chuyện trời đất, chuyện thiên hạ
là vậy.

Phàm phu không sống với Tứ niệm xứ, không sống với Bát chánh đạo mà
sống với Tà niệm, với Bát tà đạo với cái THẤY là Tưởng tri và cái BIẾT là Tà tri
kiến là vô minh, chấp ngã, là hiểu biết sai sự thật, là tư tưởng làm chủ, tư tưởng
sở hữu, tư tưởng điều khiển nên không bao giờ làm tốt việc của mình là HẾT
KHỔ ĐƯỢC VUI. Tuy rằng có Vui nhưng Vui đó bản chất là vui ít, khổ nhiều,
não nhiều mà nguy hiểm lại càng nhiều hơn, Vui đó chỉ đổi khổ này lấy khổ khác
mà thôi. Lối sống đó chỉ xoay quanh thích ghét, xoay quanh hai cực đoan yêu
thương và thù hận (yêu thương đối tượng này, chán ghét thù hận đối tượng kia)
và lời nói hành động với đối tượng hoàn toàn thiên vị bởi thích ghét, bởi tham
sân. Đó chính là xen vào việc của người khác và rộng hơn là lo lắng, buồn vui vì
chuyện của trời đất, chuyện của thiên hạ.

Ví như, hàng ngày vào mạng internet rồi với lộ trình tâm Bát tà Đạo, yêu
thương bênh vực người này bằng đủ thứ suy diễn, tưởng tượng, chán ghét thù
hận rồi đả kích, miệt thị, đặt điều để hạ gục người kia… rồi buồn vui vì chuyện
đó. Đó chính là lo lắng chuyện của trời đất, chuyện của thiên hạ. Người sống với
Tứ niệm xứ, với Bát chánh đạo cũng có thể tiếp nhận các thông tin đó trên mạng,
thấy cái cuộc chiến tranh với vũ khí ngôn từ, với binh khí miệng lưỡi xảy ra bởi
yêu ghét (tham sân) tàn phá tàn hại thế gian không ngừng nghỉ… nhưng vị đó xử
lý các thông tin đó với Chánh tri kiến, với Tứ thánh đế, với hiểu biết đúng sự thật
Khổ Tập Diệt Đạo, vị đó Tuệ tri sự thật khổ, Tuệ tri sự thật nguyên nhân khổ của
nhân loại qua các sự kiện trên mạng internet. Do tuệ tri Khổ đế và Tập đế như
vậy mà “lông tóc dựng ngược” và quyết tâm thoát ra khỏi cái chiến trường đau
khổ và chết chóc của thế gian bằng Diệt đế và Đạo đế.

Những ai đã học, hiểu và thực hành đúng Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo thì đều
thân chứng lối sống: Làm tốt việc của mình, không xen vào việc của người, không
lo chuyện thiên hạ. Còn ai muốn khám phá sự thật để khẳng định: Có hay không
có lối sống này thì hãy tham dự các khoá thiền Tứ niệm xứ của Gosinga như sau:
Các khoá online 6 buổi, 13 buổi, 23 buổi thường xuyên trên zoom mỗi tháng hoặc
khoá thiền Tứ niệm xứ trực tiếp 2 ngày, 4 ngày, 9 ngày đăng ký trên www.
batchanhdao.vn hoặc gosinga.vn.

Về mục lục

Bài 176: CHỮA LÀNH ĐỨA TRẺ BÊN TRONG

Đây là một khái niệm rất mới mẻ xuất hiện trên các trang mạng nói về các khoá
học “Chữa lành đứa trẻ bên trong”. Đương nhiên là khoá học dành cho người lớn
chứ không phải trẻ con và các từ này cũng bao hàm một ý nghĩa là trong mỗi
người lớn đều có một đứa trẻ bị tổn thương nên cần phải được chữa lành. Vậy tại
sao mỗi một người lớn lại có một đứa trẻ bên trong, tại sao nó lại bị tổn thương,
chữa lành nó để làm gì và phải chữa lành nó bằng cách nào?

Đa phần mọi người đều kinh nghiệm được cuộc sống lúc còn trẻ thơ từ nhỏ
cho đến sáu bảy tuổi sao mà vui vẻ hồn nhiên, vô tư, thoải mái đến vậy, kể cả
giận dỗi cũng chỉ xảy ra trong chốc lát rồi biến mất ngay không như bây giờ
trưởng thành rồi, biết rất nhiều, có đủ thứ rồi mà không hề được vui vẻ, thoả mãn
như thuở ấu thơ. Vì vậy, nhiều người mơ ước một cái vé về lại tuổi thơ, trở về
lúc sáu tuổi… Tuy vậy, ít ai định nghĩa được một cách rõ ràng, chính xác, đứa trẻ
bên trong là cái gì, vì vậy không lý giải được vì sao nó bị tổn thương và phải
chữa lành nó bằng cách nào.

Hãy khảo sát sự thật. Con người sống bởi hai loại tâm biết:

- Một là loại tâm biết trực tiếp giác quan gồm nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức,
thiệt thức, thân thức, tưởng thức có phận sự nhận biết, hay ghi nhận đối tượng
nghĩa là chỉ thấy nghe, cảm nhận đối tượng nhưng không biết đối tượng đó là cái
gì, tính chất ra sao. Loại tâm biết trực tiếp này sinh ra nơi 6 giác quan khi các
giác quan này tiếp xúc hay tương tác với các sự vật bên ngoài. Loại tâm biết này
sinh ra là có liền và trẻ con người lớn đều giống nhau, đều không khái niệm,
không ngôn từ, không phân biệt. Hãy hình dung ra cái tâm biết trực tiếp giác
quan này khi quan sát hành vi thấy nghe, cảm nhận của một đứa bé vừa được
sinh ra. Loại tâm biết trực tiếp giác quan gọi tắt là trực giác này không làm phát
sinh tham sân si, không làm phát sinh phiền não.

- Hai là tâm biết ý thức, biết đối tượng mà tâm biết trực giác thấy nghe hay
cảm nhận đó là cái gì, tính chất ra sao. Tâm biết ý thức phải do học hỏi, phải do
tư duy (suy nghĩ) mới có được, nên đứa bé khi lớn lên phải học hỏi các tri thức,
khái niệm lúc đó ý thức mới khởi lên. Khi lớn lên con người sống bởi hai loại
tâm biết gồm tâm biết trực tiếp giác quan (nhận thức cảm tính đối tượng) và tâm
biết ý thức (nhận thức lý tính đối tượng). Tâm biết ý thức còn được chia làm hai
loại Chánh kiến của bậc Thánh và Tà kiến của Phàm phu. Tâm biết ý thức tà kiến
của Phàm phu hiểu biết không đúng sự thật, là vô minh, chấp ngã, nó là nguyên
nhân làm phát sinh tham sân si, phát sinh phiền não.

Con người sống bởi hai loại tâm biết với hai phận sự, hai tính chất khác nhau
và theo nghĩa bóng tâm biết ý thức là người lớn và tâm biết trực giác là đứa trẻ
bên trong. Vậy tại sao đứa trẻ bên trong bị tổn thương? Đó là, vốn tâm biết trực
giác (đứa trẻ bên trong) ghi nhận trung thực đối tượng, đối tượng như thế nào thì
nó ghi nhận như thế đó nhưng tâm biết ý thức tà kiến của Phàm phu là vô minh
chấp ngã nên đã xuyên tạc, làm méo mó, sai lạc đối tượng mà tâm biết trực giác
đã ghi nhận. Đây gọi là đứa trẻ bên trong bị tổn thương.

Lúc còn bé con người sống chủ yếu với tâm biết trực tiếp giác quan, sống với
đứa trẻ bên trong, tâm biết ý thức do học hỏi, do tư duy chưa nhiều nên tham sân
si ít, phiền não ít, vì vậy sống với tâm hồn nhiên trong sáng, vui vẻ vô tư. Con
người càng lớn lên thì những tri thức kinh nghiệm học hỏi được càng nhiều nên
hiểu biết càng nhiều, làm được nhiều việc, có được nhiều thứ nhưng vì đó là tâm
biết ý thức tà kiến, hiểu biết đó là vô minh chấp ngã nên càng nhiều tham sân si,
càng nhiều phiền não. Nhiều người đã thấy ra một phần sự thật này và vì mệt
mỏi, căng thẳng, phiền não trong cuộc sống hiện tại nên họ mơ một vé về tuổi
thơ, như cách nhiều người hiểu là chữa lành đứa trẻ bên trong. Nhưng cho dù họ
có luyến tiếc, họ có mơ ước trở về cuộc sống hồn nhiên của tuổi ấu thơ nhưng
không ai làm được điều đó. Vì sao vậy? Vì đó là vận hành của lộ trình tâm Bát tà
đạo, lộ trình tâm có tâm biết ý thức vô minh, tà kiến, tính chất của nó là vô chủ
vô sở hữu, không ai có thể điều khiển được, không ai làm chủ được nó.

Vậy để “chữa lành đứa trẻ bên trong” để trở về với cuộc sống tuổi thơ tuy
ngây thơ khờ dại nhưng lại hồn nhiên trong sáng vô tư phải làm thế nào?

Đó là thực hành Tứ niệm xứ để thay đổi lộ trình tâm từ Bát tà đạo sang Bát
chánh đạo.

Khi thực hành Chánh niệm về thân là Nhớ đến tích cực chú tâm quán sát thân
nơi thân, có khoảng 80 đến 85% lộ trình tâm dừng lại tâm biết trực tiếp giác
quan, không có tâm biết ý thức khởi lên, lúc đó tâm biết trực tiếp giác quan có
tên gọi theo Phật học là Tỉnh giác sẽ ghi nhận đối tượng đúng như thực, không
còn bị tri thức khái niệm vô minh của tâm biết ý thức xuyên tạc bóp méo nữa.
Tâm biết ý thức chỉ còn tối đa là 15 đến 20% đủ để tác ý làm những việc cần
thiết phải làm, nên 80 đến 85% tư duy, suy nghĩ linh tinh, vô bổ vô ích đưa đến
căng thẳng, giận hờn phiền não được chấm dứt. Lúc đó chính là đứa trẻ bên trong
được chữa lành, lúc đó là quay về sống với đứa trẻ bên trong là tâm biết Tỉnh
giác, sống với tâm trong sáng hồn nhiên, vui vẻ vô tư còn hơn cả hồi còn trẻ thơ.

Khi thực hành Chánh niệm về thọ, về tâm, về pháp là Nhớ đến tích cực chú
tâm quán sát thọ nơi thọ, quán sát tâm nơi tâm, quán sát pháp nơi pháp, tâm biết
ý thức Chánh tri kiến khởi lên, biết đúng sự thật về đối tượng, chấm dứt tâm biết
ý thức tà kiến vô minh chấp ngã. Với tâm biết ý thức Chánh tri kiến sẽ không có
tham sân si, không có dính mắc ràng buộc, không có phiền não. Đây gọi là sự
chữa lành bệnh khổ của người lớn.

Vậy thì sự thực hành Tứ niệm xứ không những làm cho chứng ngộ, chứng đạt
và an trú tâm biết trực tiếp giác quan gọi là Tỉnh giác là sự chữa lành “đứa trẻ bên
trong” mà còn làm chứng ngộ, chứng đạt, an trú tâm biết ý thức Chánh tri kiến,
tức là chữa lành bệnh khổ của người lớn, chữa lành “đứa lớn bên ngoài”.

Về mục lục

Bài 177: CHÂN THIỆN MỸ

Lý tưởng Chân Thiện Mỹ xuất hiện trong xã hội loài người đã lâu lắm rồi, có thể
là từ khi con người biết suy nghĩ, biết tư duy. Triết học, văn học nghệ thuật, điện
ảnh cho đến toán học, kỹ nghệ đều đang nỗ lực, phấn đấu cho lý tưởng Chân
Thiện Mỹ, đều đang nỗ lực phấn đấu để tiêu diệt cái Giả, cái Ác, cái Xấu để xây
dựng, để hoàn thiện một thế giới với Chân, với Thiện, với Mỹ. Nhưng từ cổ chí
kim, tuy cái lý tưởng đó nung đốt nhân loại nhưng chưa bao giờ nhân loại đạt
đến lý tưởng thế giới chỉ còn Chân Thiện Mỹ không còn Giả Xấu Ác mà thế giới
vẫn tồn tại song hành cả Chân Thiện Mỹ và Giả Xấu Ác. Vì sao vậy ? Vì đây là
bản chất của Thực Tại Thế gian, có hai mặt như hai mặt của một đồng tiền
không thể tách rời, không thể chỉ có mặt này mà không có mặt kia. Và cũng vì
bản chất hai mặt này của thế gian có tính chất vô chủ vô sở hữu nên không ai có
thể làm chủ nó, không ai có thể điều khiển nó, không ai có thể sửa chữa, thay đổi
được đó.

Trong thực tại thế gian, thực tại của nhân loại không những tồn tại hai cặp đối
lập, mâu thuẫn chống đối nhau, nương nhau mà tồn tại như Chân Giả, Thiện Ác,
Đẹp Xấu mà đang tồn tại vô số cặp đối lập, mâu thuẫn chống đối nhau đang cùng
nhau tồn tại như m Dương, Sống Chết, Thích Ghét, Hạnh phúc Khổ đau, Yêu
thương Thù hận, Duy vật Duy tâm vv… từ tổng thể cho đến từng chi tiết.

Trong nhận thức nhị nguyên Tâm Vật của nhân loại có Chủ thể nhận thức là
Con người chủ quan và Đối tượng nhận thức là Thế giới khách quan thì hai mặt
đối lập, mâu thuẫn chống đối nhau nhưng đồng thời tồn tại thuộc về ĐỐI
TƯỢNG NHẬN THỨC, thuộc về THẾ GIỚI KHÁCH QUAN, là tính chất, bản
chất của thế giới, của vũ trụ vạn hữu. Điều này có nghĩa là con người có tồn tại
hay không tồn tại, có nhận thức được hay không nhận thức được, có muốn thay
đổi hay không muốn thay đổi thì hai mặt đối lập của thực tại vẫn TỒN TẠI
KHÁCH QUAN không phụ thuộc vào chủ thể nhận thức là con người. Lý tưởng
Chân Thiện Mỹ của con người muốn phấn đấu nỗ lực để diệt trừ, để chấm dứt
một mặt Giả Xấu Ác để chỉ còn tồn tại một mặt duy nhất Chân Thiện Mỹ đã mâu
thuẫn ngay từ đầu với sự TỒN TẠI KHÁCH QUAN của hai mặt đối lập của thế
giới thực tại. Đây chính là mâu thuẫn, đối kháng ngay trong nhận thức, trong
hiểu biết nhị nguyên Tâm Vật của nhân loại, là biểu hiện của vô minh, của hiểu
biết không đúng sự thật. Vì thế, LÝ TƯỞNG Chân Thiện Mỹ là “Sự thật (Lý)
được tưởng tượng ra” theo nguyên nghĩa của từ “lý tưởng” chứ không phải là sự
thật có thể đạt được trong thực tế. Và các lý tưởng khác như xây dựng một thế
giới hoà bình, chúng sinh an lạc, một thế giới chỉ có hạnh phúc không còn khổ
đau, chỉ có yêu thương không có thù hận… đều là ảo tưởng tương tự.

Điều phát hiện đặc biệt của Đức Phật thì đi ngược lại nhận thức, ngược lại
hiểu biết của nhân loại là: Hai mặt đối lập, mâu thuẫn chống đối nhau nhưng
đồng thời tồn tại KHÔNG CÓ TRONG ĐỐI TƯỢNG NHẬN THỨC mà nó CÓ
TRONG CHỦ THỂ NHẬN THỨC. Cụ thể và chính xác là hai mặt mâu thuẫn,
đối lập của thực tại THUỘC VỀ T M CỦA NGƯỜI NHẬN THỨC, KHÔNG
THUỘC VỀ ĐỐI TƯỢNG NHẬN THỨC. Một cách thô có thể thấy biết được sự
thật này như: Cùng thấy một người đàn bà hai người đàn ông thấy khác nhau,
một người thì cho là đẹp, một người thì cho là xấu, cùng một người đàn bà người
chồng đau khổ vì vợ ngoại tình nhưng người đàn ông ngoại tình lại hạnh phúc vì
người đàn bà đó. Vậy thì đẹp hay xấu, hạnh phúc hay khổ đau không có trong
người đàn bà, không có trong đối tượng được thấy mà xấu đẹp, hạnh phúc khổ
đau phát sinh trong tâm người thấy. Mọi cái khác cũng tương tự như vậy.

Sâu xa hơn là Đức Phật phát hiện sự thật thực tại là Tâm chứ không phải Thế
giới vật chất Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp. Cụ thể là Đối tượng thực tại là
những gì được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức là Cảm thọ,
tiếng Việt gọi là Cảm giác do sáu Căn (Con người) tương tác hay tiếp xúc sáu
Trần (Thế giới) mà phát sinh, nó là Tâm chứ không phải Vật chất, nó vô thường,
vô chủ vô sở hữu. Và thấy, biết đối tượng đó, thái độ, phản ứng, khổ vui với đối
tượng đó đều là tâm chứ không phải thế giới vật chất. Đối với hiểu biết nhị
nguyên Tâm Vật của nhân loại chỉ có hai nhân tố: CON NGƯỜI (sáu Căn) và
THẾ GIỚI (sáu Trần), Con người nhận thức Thế giới nên Thực tại là Thế giới
Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp nhưng sự thực đang xảy ra là Con người và Thế
giới là hai nhân tố tương tác với nhau mới phát sinh nhân tố thứ ba là Thực tại
(xem sơ đồ cuối bài). Đây là điều rất vi tế, sâu kín, khó thấy khó chứng, tịch tịnh,
mỹ diệu vượt qua mọi tư duy lý luận suông chỉ có Đức Phật khám phá ra mà
thôi.

Hiểu biết nhị nguyên Tâm Vật của nhân loại thì mặc định Thực tại là Thế giới
nên bảy tỷ người trên quả đất này cùng chung một thực tại là Thế giới, nhưng sự
thật mỗi một người đều có một thực tại riêng vì sáu Căn của mỗi mỗi người là
khác nhau nên khi tiếp xúc với sáu Trần sẽ phát sinh các thực tại khác nhau. Tuy
có vô số thực tại khác nhau nhưng có thể chia thành hai loại thực tại dựa vào các
đặc điểm chung giữa chúng. Đó là Thực tại thế gian diễn tiến trên lộ trình tâm
Bát tà đạo của Phàm phu và Thực tại Xuất thế gian hay Siêu thế diễn tiến trên lộ
trình tâm Bát chánh đạo của bậc Thánh.

Thực tại thế gian của Phàm với tâm biết ý thức tà kiến, vô minh chấp ngã có
hai mặt đối lập, mâu thuẫn chống đối nhau là Tâm (của mỗi người) nên thực tại
đó, Tâm đó không yên tĩnh, không vắng lặng vì có hai mặt đối lập nên xung đột,
ồn ào, điên đảo, vì thế mà có sầu bi khổ não. Mọi khái niệm trong đời sống hàng
ngày, nơi thực tại như to nhỏ vuông tròn dài ngắn, mặn ngọt chua cay, cứng mềm
thô mịn, đàn ông đàn bà, sông núi, biển cả đến hạnh phúc khổ đau, xấu đẹp, giả
chân, thiện ác, không gian, thời gian vv… vốn là khái niệm về Tâm, về Cảm thọ
nhưng vì vô minh con người lại áp đặt, mặc định, cho rằng đó là khái niệm của
Thế giới sắc thanh hương vị xúc pháp. Ngoại trừ bậc giác ngộ, tất cả nhân loại
chỉ kinh nghiệm được duy nhất một loại thực tại này, mặc định chỉ có một loại
thực tại này với hai mặt đối lập nên mọi tư duy lý luận, mọi trường phái triết học,
tôn giáo đều chỉ vùng vẩy trong cái thực tại có hai mặt đối lập mà Đức Phật gọi
là HAI CỰC ĐOAN này, không thể thoát ra khỏi sự xung đột, đấu tranh giữa hai
mặt đối lập. Để thoát ra khỏi thực tại có hai mặt đối lập này có một lý luận được
nhiều trường phái (đặc biệt là trong Phật Giáo) đồng ý chấp nhận nhưng không
một ai làm được là: Vì con người chia chẻ thực tại này thành hai phần đối lập
Chủ thể và Đối tượng nên phải tu hành để HOÀ NHẬP CHỦ THỂ VÀ ĐỐI
TƯỢNG để trở thành Nhất thể, tức là để chấm dứt Nhị nguyên, và cái Nhất thể
đó là Bản thể của vũ trụ vạn hữu.

Sự vĩ đại của Đức Phật là không những khám phá ra sự thật Thực tại thế gian
của Phàm mà Ngài còn khám phá ra một thực tại khác, Thực tại Xuất thế gian hay
Thực tại Siêu thế gian của bậc Thánh diễn tiến theo Bát chánh đạo. Thực tại đó
cũng là Tâm do sáu Căn tiếp xúc sáu Trần mà phát sinh (tâm của bậc thánh)
nhưng trong tâm Bát chánh đạo đó không tồn tại hai mặt đối lập, mâu thuẫn chống
đối nhau như Thực tại thế gian của Phàm. Vì Thực tại xuất thế gian không tồn tại
hai mặt đối lập, mâu thuẫn chống đối nhau nên không xung đột, không ồn ào,
không điên đảo mà tâm ấy TỊCH TỊNH, vắng lặng cả Hạnh phúc lẫn Khổ đau.
Đương nhiên không thể mô tả được cái TỊCH TỊNH ấy bằng một bài viết ngắn
gọn chứ không phải là không mô tả được. Để thấy biết đúng như thật sự TỊCH
TỊNH ấy phải từng bước Văn - Tư - Tu để thân chứng được Bát Chánh Đạo cũng
gọi là TRUNG ĐẠO, là con đường từ bỏ, xả ly HAI CỰC ĐOAN chính là từ bỏ,
xả ly HAI MẶT ĐỐI LẬP, M U THUẪN, CHỐNG ĐỐI NHAU trong thực tại
Bát tà đạo. Vì vậy, thân chứng Thực tại xuất thế gian thì sẽ thấy biết như thật
người giác ngộ không dính mắc, không ràng buộc vào khái niệm Chân Thiện Mỹ
cũng không dính mắc ràng buộc vào khái niệm Giả Xấu Ác, nghĩa là ly hai cực
đoan đó bằng con đường Trung đạo.

Về mục lục

Bài 178: SỰ THẬT VỀ YÊU THƯƠNG

Yêu thương là từ khoá hot nhất mọi thời đại vì trong nhận thức của con người
yêu thương là Hạnh phúc. Nghĩa là khi yêu thương và cả khi được yêu thương
đều có Hạnh phúc. Và điều này cũng giải thích tại sao từ yêu thương lại là từ hot
nhất mọi thời đại, là tại vì nó gắn liền với Hạnh phúc, là tại vì con người suốt
trong cuộc đời từ khi sinh ra cho đến khi chết đi, trong từng giây phút đều khao
khát mong mỏi tìm cầu Hạnh phúc, và tại vì nhân loại đã mặc định rằng chỉ có
Hạnh phúc, là thứ duy nhất chấm dứt được Khổ đau, và cũng tại vì cuộc đời tuy
đa dạng, phức tạp nhưng cũng chỉ xoay quanh Hạnh phúc và Khổ đau mà thôi.

Yêu thương một ai đó, một cái gì đó thì cảm nhận được Hạnh phúc, được một
ai đó yêu thương cũng cảm nhận được Hạnh phúc. Vì vậy, yêu thương là hạnh
phúc, yêu thương là vị ngọt cuộc đời. Yêu thương giữa nam nữ, vợ chồng con
cái, gia đình, quê hương đất nước, yêu thương cỏ cây, muông thú, yêu thương
đồng loại, yêu thương môi trường sống vv... Đây là vị ngọt, là hạnh phúc, là sự
thật không ai phủ nhận được. Nếu cuộc đời không yêu thương, không được yêu
thương thì cuộc đời sẽ héo mòn, sẽ tàn tạ sẽ đi đến huỷ diệt. Nhiều người bằng
văn học nghệ thuật, bằng ca nhạc, điện ảnh đã cảnh tỉnh rằng cuộc sống ngày
càng tân tiến, càng hiện đại thì con người càng lãnh đạm, càng lãnh cảm với nhau
và chính cái đó sẽ giết chết con người nhanh hơn, mạnh hơn cả ô nhiễm môi
trường. Trong sự thật cuộc sống, sự thật thực tại của nhân loại yêu thương đang
có mặt không chỉ ở trong gia đình, trong bạn bè, đôi lứa mà có trong mọi lĩnh
vực. Hãy quan sát trong mùa dịch Covid hàng trăm ATM gạo đã xuất hiện,
những quán ăn o đồng cho người thiếu thốn, bao người đã bỏ công sức, tiền của
giải cứu nông sản của nông dân vùng dịch, người giàu, người nghèo đều gắng
sức đóng góp quỹ mua vacxin để giúp mọi người được tiêm vacxin miễn phí …
Trong mùa bão lũ bao người đã đóng góp tiền của, thức ăn, vật dụng, lội bùn,
chịu đựng gian khổ để giúp người vùng lũ … Đó chính là yêu thương, yêu
thương đó là vị ngọt, là hạnh phúc cho người yêu thương và cả cho người được
yêu thương.

Sự thật này đang xảy ra trong cuộc sống hàng ngày không ai phủ nhận được
nhưng đó chỉ là MỘT PHẦN SỰ THẬT mà chưa phải TOÀN BỘ SỰ THẬT
thực tại. Sự thật thực tại đang xảy ra là đồng thời tồn tại Yêu thương với Thù
hận, ghét bỏ. Đây là một định luật, một quy luật mà triết học duy vật biện chứng
đã khám phá ra, đó là sự tồn tại đồng thời hai mặt đối lập, mâu thuẫn đối kháng
của thực tại. Vì vậy, hãy quan sát sự thật, nơi nào có Yêu thương thì nơi đó cũng
có Thù hận, ghét bỏ. Trong không gian tràn đầy yêu thương như đã nói ở trên
cũng đang xảy ra sự thù hận, ghét bỏ không những là trong gia đình, bạn bè, đôi
lứa mà trong mọi lĩnh vực của đời sống. Nhờ các phương tiện truyền thông mà
có thể thấy được sự thật là xã hội đang chia thành hai nhóm người với thù hận,
đang lao vào nhau trong cuộc chiến một mất một còn với vũ khí là ngôn từ, với
binh khí miệng lưỡi ( và cả các loại vũ khí từ thô sơ đến hiện đại ) đang đánh
nhau, đang đuổi nhau , đang truy sát đối phương đến tận cùng, không trừ một con
đường thoát, sao cho đối phương thân bại danh liệt, sao cho đối phương phải đau
khổ như rơi vào địa ngục nhưng vẫn không tha. Không những trong toàn cảnh
mà ngay nơi mỗi người Yêu thương, vị ngọt và Thù hận, đau khổ cũng đang
song hành. Ví như những người đi làm từ thiện họ yêu thương những người khó
khăn, tuyệt vọng trong bão lũ nhưng đồng thời họ căm hận, tức tối giận giữ một
lượng người không nhỏ đang tìm đủ cách để bới móc những lỗi nhỏ, những sơ
suất mà gần như ai cũng mắc phải, thậm chí còn suy diễn, tưởng tượng, bịa đặt
để tấn công, nhằm hạ gục họ. Không những trong một con người mà trong mỗi
một công việc, mỗi một hành động đều tồn tại hai mặt đối lập, mău thuẫn chống
đối nhau là Yêu thương ( hạnh phúc ) và Thù hận, ghét bỏ ( khổ đau ). Nhiều
người với tâm yêu thương lớn vừa bỏ tài sản hàng ngàn tỷ đồng cứu giúp những
người bệnh tật nghèo khổ, những đứa trẻ bị bệnh bẩm sinh nhưng cũng đồng thời
thù hận, ghét bỏ dùng đủ mọi phương tiện, kể cả bỏ ra rất nhiều tiền, kể cả bịa
đặt vu khống để tấn công, hạ gục, giết chết những người hơn họ hay bằng họ
không bằng dao búa. Ví như trong các kinh điển mô tả một vị “thánh” thương
một con chó đói đang bị những con giòi đục khoét, rúc rỉa một nửa thân sau
trông rất ghê tởm, rất đau đớn đến nỗi con chó chỉ bò lết bằng hai chân trước còn
lành lặn. Vì thương con chó đói khát, vị đó cắt thịt từ cánh tay mình cho con chó
ăn. Con chó đã ăn no nê không còn khổ vì đói nhưng nó lại rất khổ vì những con
giòi rúc rỉa nơi thân sau. Thương quá, nhưng vị này nghĩ rằng nếu lấy cái que hay
cành cây gạt những con giòi đó ra thì sẽ làm đau con chó nên vị đó quyết định
dùng lưỡi của mình liếm vào đám bầy nhầy ghê tởm đó, để đẩy những con giòi
đó ra khỏi thân con chó để nó rơi xuống đất, để con giòi không thể làm khổ con
chó nữa. Với cách nhìn một chiều, phiến diện, vị “thánh” này rất “từ bi” nhưng
sự thật là vị này yêu thương con chó nhưng đang thù ghét con giòi, xua đuổi, giết
chết con giòi. Đây là sự thật yêu thương và thù ghét tồn tại cùng một nơi, cùng
một người, cùng một sự việc. Yêu thương càng nhiều bao nhiêu thì thù hận chán
ghét cũng tương ứng bấy nhiêu. Ví như đối xử với người ngoài rất lịch sự, rất tôn
trọng, nhu hoà ít khi nổi nóng nhưng đối với gia đình con cái thương yêu hết
mực nhưng lại thường xuyên nổi nóng, bực tức cau có. Phim ảnh, tiểu thuyết
càng hay bao nhiêu thì thích thú yêu thương nhân vật này bao nhiêu thì tức tối
giận giữ nhân vật kia cũng cân bằng như vậy. Nhiều video trên mạng làm ra cốt
để đề cao yêu thương giữa cha mẹ, con cái, vợ chồng đồng nghiệp, yêu thương
những người tàn tật, khó khăn cơ nhở nhưng để gây nên cảm ứng yêu thương
nhân vật đó , tác giả phải xây dựng một tuyến nhân vật đối lập chà đạp lên những
nhân vật đáng thương kia. Và như vậy tác giả đã kích hoạt làm phát sinh yêu
thương đối với người này và cũng kích hoạt làm phát sinh thù ghét người kia
chính trong một nơi chỗ. Và tác phẩm có đạt chuẩn, có thu hút được khán giả hay
không là tuỳ vào mức độ yêu thương và thù hận đồng thời phát sinh nơi khán giả
cao hay thấp.

Đây là thực tại cuộc sống thế gian luôn luôn tồn tại hai mặt đối lập, mâu
thuẫn đối kháng nhau và hiểu biết nhị nguyên Tâm Vật của nhân loại mặc định,
cho rằng thực tại này là Thế giới sắc thanh hương vị xúc pháp bên ngoài. Nhưng
thực tại được thấy, được nghe, được cảm nhận, được nhận thức này là Tâm ( của
con người ) chứ không phải là Thế giới vật chất bên ngoài. Đối tượng của thực
tại là Cảm giác ( Cảm thọ ) do Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh, nó là tâm chứ
không phải vật chất. Khi xuất hiện đối tượng thì cũng xuất hiện tâm Thấy nhận
biết đối tượng, rồi xuất hiện tâm Biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao. Tâm
Biết xác định tính chất đối tượng là dễ chịu hay khó chịu thì phát sinh tâm thích
hoặc tâm ghét ( Tham hoặc Sân ). Do tâm thích tâm ghét mà phát sinh tâm phản
ứng với đối tượng ( lời nói hành động ) và do tâm phản ứng với đối tượng mà
phát sinh tâm khổ vui với đối tượng. Vậy thực tại mà mỗi người đang thấy, đang
nghe, đang cảm nhận, đang nhận thức là Tâm ( của chính mình ) chứ không phải
thế giới ngoại cảnh. Tâm ấy do Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh Phật học gọi là
Bát tà đạo với hai mặt đối lập, mâu thuẫn, đối kháng nhau trong đó có Tham và
Sân, có Hạnh phúc và Khổ đau vv…. Tham và Sân biểu hiện bởi rất nhiều hình
thái và tên gọi khác nhau trong đó có Yêu thương chính là Tham và Thù hận,
chán ghét chính là Sân.

Vì vậy, nếu không tu tập thay đổi tâm thành tâm Bát Chánh đạo thì dù có tự
nguyện hay bắt ép mình yêu thương muôn vật muôn loài, yêu thương toàn bộ thế
gian này thì bản chất lộ trình tâm Bát tà đạo đó vẫn tồn tại song hành, nghĩa là
yêu thương đối tượng này thì sẽ thù hận đối tượng kia và thù hận đối tượng này
thì sẽ yêu thương đối tượng kia không thể nào chỉ có yêu thương mà không thù
hận. Những người chủ trương tu để yêu thương tất cả không bỏ sót một ai, để
chuyển hoá thù hận thành yêu thương là do không hiểu đúng sự thật về bản chất
hai mặt của thực tại thế gian, thực tại Bát tà đạo nên tu như vậy là tu cái ảo tưởng
do vô minh chấp ngã tưởng tượng ra.

Một sự hiểu lầm nghiêm trọng là cho rằng Đức Phật yêu thương cứu khổ
muôn vật muôn loài, không còn ghét bỏ bất kỳ một ai. Sự thật không phải như
vậy, Đức Phật đã thay đổi Thực tại thế gian là tâm Bát tà đạo thành Thực tại
Xuất thế gian là tâm Bát chánh đạo tức thay đổi Tâm chứ không thay đổi Thế
giới bên ngoài. Và tâm Bát chánh đạo ấy không tồn tại hai mặt đối lập mâu thuẫn
chống đối nhau như Bát tà đạo. Trong tâm ấy không còn Tham Sân, nghĩa là
không có Yêu thương lẫn Thù hận, không có Hạnh phúc lẫn Khổ đau … nên tâm
ấy vắng lặng, tịch tịnh. Nhưng tâm Bát chánh đạo ấy của bậc Thánh cũng có
Hạnh phúc, nhưng Hạnh phúc ấy của Chánh định, của sơ thiền, nhị thiền, tam
thiền, tứ thiền phát sinh, một loại Hạnh phúc kỳ diệu khác hẳn Hạnh phúc phát
sinh từ yêu thương, từ thế giới ngoại cảnh. Hạnh phúc đó không song hành với
Khổ đau mà song hành với Khổ diệt, Niết bàn. Và tâm Bát chánh đạo ấy còn có
Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng để cư xử với mọi đối tượng do Trí tuệ
khởi lên, là lời nói, hành động không có tham sân si, cư xử đúng mực, tử tế, bi
mẫn với mọi người.

Có người chưa tu tập, chưa thân chứng Bát chánh đạo, chưa thân chứng
Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng họ thắc mắc : Như vậy, khi sống với tâm
Bát chánh đạo không còn yêu thương vợ chồng con cái bố mẹ, anh em thì cuộc
sống sẽ vô bổ, sẽ héo hon tàn tạ. Không phải vậy, mà khi tâm là Bát chánh đạo
người đó sẽ cư xử với mọi người bởi chánh ngữ, chánh nghiệp chánh mạng phát
sinh từ trí tuệ không có tham sân, thích ghét. Đó là lời nói hành động đúng sự
thật, tử tế, bi mẫn và nhờ vậy cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn rất nhiều. Những ai đã
thân chứng điều đó thì khẳng định quan hệ đó khác hẳn, không còn là quan hệ
yêu thương, ràng buộc, không còn tư tưởng làm chủ tư tưởng điều khiển, như
trước đây nữa.

Có người thắc mắc, vậy thì pháp tu Từ bi hỷ xả trong Phật Giáo không phải là
tình yêu thương cứu khổ muôn vật muôn loài chăng. Phải hiểu rằng: Từ bi hỷ xả
là pháp môn tu của Ba la môn không phải là của Đức Phật thuyết giảng. Trong
kinh thứ 99 của Trung bộ kinh tên là Kinh Subha và kinh 83 tên là Kinh
Makhadeva, Đức Phật đã giảng về nội dung và mục đích của pháp tu Bốn Phạm
trú Từ bi hỷ xả là con đường đi đến cộng trú với Phạm thiên, mục đích là sau khi
thân hoại mạng chung được sinh cộng trú với Phạm thiên, là những chúng sanh ưu
tú nhất, tốt đẹp nhất theo thế giới quan và nhân sinh quan của Bà la môn giáo thời
bấy giờ. Điều này khẳng định tu Bốn Phạm trú Từ bi hỷ xả là pháp môn tu của Bà
la môn, không phải của Đức Phật, vì mục đích pháp môn tu của Đức Phật là Niết
bàn vô dư, là chấm dứt tái sinh, chấm dứt luân hồi, không phải là luân hồi tái sanh
như Bà la môn giáo. Trong kinh Tâm hoang vu, có nói đến tâm hoang vu, tâm
triền phược là nghĩ rằng tu để khi thân hoại mạng chung được sinh cộng trú với
Phạm thiên và Kinh nhấn mạnh nếu không đoạn trừ tâm ấy thì không thể chói
sáng trong Pháp và Luật này, không xứng đáng là đệ tử của Đức Thế tôn. Vì vậy,
pháp hành của Phật dạy có : Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn,
Ngũ lực, Thất giác chi và Bát chánh đạo, không hề có pháp môn tu Từ bi hỷ xả.
Những người sau đã đưa pháp môn Từ bi hỷ xả của Bà la môn giáo vào và dần dà
đồng hoá nó thành pháp môn tu của Đạo Phật.

Về mục lục

Bài 179: BA CÁCH HIỂU VỀ TỤC ĐẾ VÀ CHÂN ĐẾ

1- Cách hiểu thứ nhất của Bắc tông: Phái này cho rằng thế giới bao gồm hai mặt:
Thế giới bản thể là Chân đế và Thế giới hiện tượng là Tục đế.

-Thế giới hiện tượng bao gồm sắc thọ tưởng hành thức là vô thường, có sinh
có diệt, là thế giới của Phàm phu đang sống.

-Thế giới bản thể là một thể chân không tuyệt đối nhưng hàm chứa một năng
lực bất khả tư nghì còn có tên gọi là Tánh không, Chân tâm, Pháp thân, Niết
bàn…

Thế giới Bản thể Chân đế và Thế giới hiện Hiện tượng Tục đế là hai mặt của
một thực tại. Chân đế là nền tảng làm phát sinh Tục đế, Tục đế là biểu hiện năng
lực của Chân đế. Tục đế sinh ra từ Chân đế, khi diệt đi lại trở về Chân đế được ví
như sóng sinh ra từ nước là biểu hiện của nước khi diệt đi sóng lại trở về với
nước. Vì thế, thế giới và các pháp là bất sanh bất diệt.

2- Cách hiểu thứ hai của Nam tông: Phái này cho rằng có hai loại pháp: Pháp chế
định và Pháp tuyệt đối

- Pháp chế định là Tục đế là sự thật tương đối của Phàm phu.

- Pháp tuyệt đối là Chân đế là sự thật tuyệt đối của bậc Thánh.

Như vậy có hai sự thật tương đối Tục đế của Phàm phu và sự thật tuyệt đối Chân
đế của bậc Thánh.

3- Cách hiểu thứ ba: Đế là sự thật, là chân lý gồm Bốn sự thật hay Bốn chân lý
mà bậc Thánh đã giác ngộ, đó là Tứ thánh đế. Tứ thánh đế có thế chia làm hai:
Tục đế và Chân đế.

- Tục đế bao gồm Khổ đế và Tập đế là sự thật thực tại Phàm phu, đó chính là
sự thật về Bát tà đạo.

- Chân đế gồm Diệt đế và Đạo đế là sự thật thực tại bậc Thánh, đó chính là sự
thật về Bát chánh đạo.

Về mục lục

Bài 180: BỐN LOẠI THỨC ĂN

Có một đoạn kinh như sau: “Chư Hiền, thế nào là thức ăn, thế nào là tập khởi
thức ăn, thế nào là đoạn diệt thức ăn, thế nào là con đường đoạn diệt thức ăn?
Chư Hiền, có bốn loại thức ăn này, khiến các loài chúng sanh được an trú, hay
các loài hữu tình sẽ sanh được hỗ trợ cho sanh. Thế nào là bốn? Đoàn thực loại
thô hay tế, xúc thực là thứ hai, tư niệm thực là thứ ba, thức thực là thứ tư. Từ tập
khởi của ái có tập khởi của thức ăn, từ đoạn diệt của ái có đoạn diệt của thức ăn.
Thánh đạo tám chi là con đường đoạn diệt thức ăn”.

Để Liễu tri bốn loại thức ăn này tức hiểu biết đúng sự thật rốt ráo đầy đủ bốn
phương diện của thức ăn gồm: sự thật về thức ăn, sự thật tập khởi thức ăn, sự thật
đoạn diệt thức ăn, sự thật con đường đoạn diệt thức ăn theo công thức mà Đức
Phật đã khám phá và truyền dạy về bốn khía cạnh của khổ gồm sự thật khổ, sự
thật tập khởi khổ, sự thật đoạn diệt khổ, sự thật con đường đoạn diệt khổ.

1 - Sự thật về bốn loại thức ăn: Đây là bốn loại thức ăn làm cho con người tồn tại
dù là Phàm hay thánh. Không có bốn loại thức ăn này con người không thể tồn
tại.

- Một là đoàn thực thô hay tế là các loại vật chất như thức ăn, nước uống,
không khí để thở… là yếu tố cần thiết để tồn tại.

- Hai là Xúc thực là sự tiếp xúc giữa sáu căn và sáu trần. Đây là thức ăn, đây là
yếu tố để một con người tồn tại nó xảy ra liên tục, chỉ trừ lúc ngủ say không
mộng mị, lúc ngất đi, lúc gây mê sâu khi mổ. Ba trường hợp này và khi chết nơi
cái xác đó không có xúc thì chỉ tồn tại một thứ vật chất chứ lúc đó không tồn tại
một chúng sanh.

- Ba là Tư Niệm thực là Trí nhớ (Niệm) và Tư duy (Tư). Niệm và Tư duy là hai
hành vi quan trọng bậc nhất của đầu óc, của các tế bào thần kinh não bộ làm phát
sinh hiểu biết, lời nói hành động. Nếu có Xúc thực nhưng không có Niệm và Tư
duy (trí óc không hoạt động) thì vẫn thấy, nghe, cảm nhận thực tại nhưng không
biết đó là cái gì. Hãy tưởng tượng một người mất trí nhớ (Niệm) hoàn toàn sẽ
vẫn thấy nghe cảm nhận đối tượng nhưng hoàn toàn không biết những cái đó là
cái gì thì lúc đó sẽ không thể sống như vậy được, không thể tồn tại được.

- Bốn là Thức thực là tâm biết ý thức để phân biệt cái này với cái kia, để biết
cái này ăn được, cái kia không ăn được, đây là lửa nóng để không thò tay vào
lửa… Không có tâm biết ý thức con người không thể tồn tại được nên thức thực
là một yếu tố cần thiết để tồn tại một chúng sanh.

Bốn loại thức ăn này là bốn yếu tố cần thiết để một chúng sanh được sinh ra,
được tồn tại.

2 - Sự thật tập khởi thức ăn hay Nguyên nhân phát sinh bốn loại thức ăn: Chúng
sinh được sinh ra với bốn loại thức ăn, tồn tại với bốn loại thức ăn và luân hồi
cùng bốn loại thức ăn. Mà mỗi chúng sanh được sinh ra, tồn tại, luân hồi là do
Tham Ái gồm Dục Ái, Hữu Ái, Phi Hữu Ái. Vì vậy, sự thật tập khởi thức ăn là
do Ái.

3 - Sự thật đoạn diệt thức ăn là khi Ái đoạn diệt thì thức ăn đoạn diệt. Đối với
đoạn diệt thức ăn rốt ráo là nói đến Niết bàn vô dư của vị A la hán, nói đến thời
điểm nhập diệt. Đó là lúc đoạn diệt, chấm dứt luân hồi, đoạn tận sự hiện hữu của
chúng sanh đó cũng là thời điểm đoạn diệt, đoạn tận bốn loại thức ăn.

4 - Sự thật Con đường đoạn diệt thức ăn (cho đến Vô dư Niết bàn) là Bát chánh
đạo.

Có thể diễn tả bốn loại thức ăn này theo khái niệm Năm uẩn Sắc Thọ Tưởng
Hành Thức. Đoàn thực nuôi sống thân thể là nói đến Sắc uẩn. Xúc thực là nói đến
Thọ uẩn và Tưởng uẩn vì Căn Trần tiếp xúc phát sinh đồng thời Thọ - Tưởng. Tư
Niệm thực nói đến các tâm hành thuộc Hành uẩn. Thức thực là ý thức thuộc Thức
uẩn. Bốn loại thức ăn ám chỉ lộ trình Sắc - Thọ - Tưởng - Hành - Thức, ám chỉ
một chúng sanh. Do Ái mà bốn loại thức ăn (sắc - thọ- tưởng - hành - thức) được
hiểu là một chúng sanh được sinh ra tồn tại và luân hồi là do Dục ái, Hữu ái Phi
Hữu ái. Do Ái đoạn diệt mà thức ăn đoạn diệt, chúng sanh đó đoạn diệt (nhập
diệt, niết bàn vô dư). Con đường đoạn diệt thức ăn, đoạn diệt năm uẩn là Bát
chánh đạo.
Về mục lục

Bài 181: Đăng ngày 19.7.2021

Lúc nào xuất hiện sự tự tin: Ta có thể thích nghi với mọi hoàn cảnh sống, mọi đối
tượng. Ta có thể bình thản với mọi thăng trầm của cuộc đời? Câu trả lời là khi nào
tự mình thân chứng Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát do thực hành Bát chánh đạo.

Về mục lục

Bài 182: Đăng ngày 20.7.2021

Lúc nào thì xuất hiện sự Tự Tin: Đây là kiếp sống cuối cùng, sau kiếp sống này
không còn một kiếp sống nào khác nữa? Đó là lúc Hữu Ái được đoạn tận. Nghĩa
là lúc tham ái sự sống, tham ái sự hiện hữu, tham sống sợ chết được đoạn tận.

Về mục lục

Bài 183: MINH XÓA BỎ VÔ MINH

Vô minh không phải là không hiểu biết mà là hiểu biết sai, hiểu biết không đúng
các sự vật hiện tượng (các pháp). Vốn đối tượng thực tại là Cảm thọ, là tâm lại
cho là thế giới vạt chất, rồi chấp thường, chấp ngã. Minh là hiểu biết đúng sự thật
các pháp, biết đúng đối tượng thực tại là Cảm thọ, nó vô thường vô chủ vô sở
hữu (vô ngã).

Sau khi có Văn tuệ luôn Chánh tư duy để phân biệt giữa Vô minh và Minh với các
đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận đang xảy ra. Lúc đó Minh sẽ xóa
bỏ Vô minh như câu chuyện sau đây (xem video chuyện Ông già và cô Nụ).

Link video:
https://www.facebook.com/thiensunguyentue/videos/240545441048304

Về mục lục
Bài 184: HIỆN TẠI HAY VỊ LAI

Caesar một vị tướng, một nhà chính trị lỗi lạc đã đặt nền móng cho đế chế La mã
cổ đại đã thăm viếng một nhà hiền triết nổi tiếng thời bấy giờ. Caesar đã kể cho
nhà hiền triết về các chiến công vang dội của mình như đã chinh phục châu u,
Địa trung hải, Ai cập và đang bình định châu Phi.

Nhà hiền triết hỏi: Sau khi chinh phục châu Phi ông sẽ làm gì?

Caesar trả lời rằng, sau khi chinh phục châu phi ông sẽ tiến đánh Ấn độ.

Vậy sau khi chinh phục Ấn độ, ông sẽ làm gì?

Caesar trả lời rằng: Sau khi chinh phục xong Ấn độ, ông ta sẽ ngủ một giấc
ngon lành.

Nhà hiền triết hỏi: Vậy tại sao ông không ngủ một giấc ngon lành vào ngay đêm
nay. (Chinh phục xong Ấn độ nghĩa là chinh phục được toàn thế giới, bởi thời
bấy giờ hiểu biết thế giới chỉ có vậy thôi)

Caesar đã nói thay cho toàn thể nhân loại, hãy cố gắng chịu đựng gian khổ
trong hiện tại để chinh phục, cai quản, điều khiển thế giới trong tương lai. Khi
nào làm chủ, điều khiển, cai quản được thế giới theo ý thích của mình thì lúc đó
không còn lệ thuộc, không còn bị rình rập đe doạ, không còn bị lo lắng, sợ hãi
chi phối. Lúc đó có thể an tâm mà ngủ một giấc ngon lành.

Vậy ra cả một đời chịu đựng gian khổ trong hiện tại để cuối cùng được hết lo
lắng, hết suy nghĩ, hết sợ hãi, để được ngủ một giấc ngon lành trong tương lai?

Các nhà hiền triết, những đầu óc xuất sắc của nhân loại đã thấy ra cái mâu
thuẫn, cái phi lý trong lối sống này của nhân loại mới buông ra một câu: Thế sao
không ngủ một giấc ngon lành ngay trong đêm nay?

Tuy thấy được cái phi lý, cái mâu thuẫn trong đời sống nhân loại là chịu đựng
khổ trong hiện tại để hết khổ trong tương lai nhưng không ai trong những nhà
hiền triết ấy chỉ ra được cách thức làm sao để cho Caesar ngủ được một giấc
ngon lành ngay trong đêm nay.

Chỉ có một người độc nhất, có một không hai trên thế gian này đã khám phá, đã
chứng đạt và thuyết giảng cách thức để chấm dứt khổ ngay trong hiện tại, ngay
bây giờ và tại đây. Đó chính là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

Về mục lục

Bài 185: NHÀ HIỀN TRIẾT

Thời văn minh Hy lạp-La mã cổ đại có một nhà hiền triết rất nổi tiếng (xin lỗi
độc giả, tôi không nhớ tên, ai nhớ xin cung cấp) đã có một việc làm kỳ quặc. Đó
là ông ta đi giữa phố vào ban ngày không mặc quần áo với một cây đèn cháy
sáng trên tay. Nhiều người đã chất vấn cái hành vi kỳ quặc của ông ta và được
ông ta giải thích. Ông ta đốt đèn lên để đi tìm con người thực của chính mình chứ
không phải cái con người hàng ngày đang sống với vô số mặt nạ khác nhau, thậm
chí có lúc mâu thuẫn, trái ngược nhau.

Con người ấy lúc là cha, lúc là con, lúc là chồng, lúc là cháu, lúc hiền, lúc dữ,
lúc thiện lúc ác, sáng khác, chiều khác, đêm khác, hôm qua khác, hôm nay khác,
thay đổi trong từng giây lát… nghĩa là con người với vô số mặt nạ khác nhau.
Vậy thì con người thật, chính ta là ai, là cái gì ẩn sau các mặt nạ đổi thay kia.

Đây là câu hỏi đã vặn vẹo, đã làm điên đầu vỡ óc, đã làm cho các nhà hiền
triết, những đầu óc xuất sắc của nhân loại phải ngày đêm lao tâm khổ trí. Các
trường phái triết học, tôn giáo đều tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi ta là ai, ta từ
đâu đến, khi chết ta sẽ đi về đâu… Câu trả lời tuy có khác nhau về ngôn từ
nhưng đều giống nhau ở điểm xuất phát là dựa trên một cái ta đồng nhất, một con
người đồng nhất từ quá khứ đến hiện tại, vị lai, một con người không sinh không
diệt ẩn sau con người thay đổi, con người mang vô số các mặt nạ kia. Và các
trường phái triết học, tôn giáo đưa ra các câu trả lời nhưng chỉ gây tranh cãi,
không ai thuyết phục được ai. Câu trả lời có thể đó là bản lai diện mục, là con
người trước khi được cha mẹ sinh ra, là phần linh hồn chúa trong mỗi người, là
tiểu ngã trong đại ngã, là linh hồn, là tánh biết, là cái bản thể trong khái niệm thế
giới bản thể và thế giới hiện tượng vv…

Sở dĩ nhà hiền triết kia cũng như các trường phái triết học, tôn giáo đốt đuốc đi
tìm con người thật, con người đồng nhất, không đổi thay, ẩn sau con người mang
vô số mặt nạ vì đã mặc định về một cái ta, một bản ngã đồng nhất không đổi
thay, không sinh diệt nên không thể chấp nhận một con người sinh diệt, đổi thay
trong từng giây lát. Vì tư tưởng Thường kiến, tư tưởng chấp thường là phải có
con người đồng nhất, không sinh diệt, không đổi thay, không mang mặt nạ của
đổi thay nên họ KHÔNG CHẤP NHẬN CON NGƯỜI THẬT ĐANG SINH
DIỆT, ĐỔI THAY, VÔ THƯỜNG mang các mặt nạ khác nhau đó. Họ gán cho
con người thật vô thường, sinh diệt, đổi thay đó là giả, là không thật, là ảo ảnh
như hoa đốm giữa hư không, nên họ đi tìm con người thật, đồng nhất từ quá khứ
đến vị lai, không đổi thay, không sinh diệt, không mặt nạ.

Vì vậy, thấy đúng sự thật các pháp là vô thường, con người là vô thường không
phải là chuyện dễ bởi tư tưởng thường kiến, chấp thường là tà kiến đã ăn sâu bám
rễ trong tâm thức nhân loại. Bởi vậy, nỗi khổ của nhân loại không phải là do vô
thường, không phải vì các pháp vô thường nên các pháp là khổ mà nguyên nhân
khổ là do chấp thường, do thường kiến, DO KHÔNG THẤY BIẾT NHƯ THẬT
VÔ THƯỜNG, KHÔNG CHẤP NHẬN VÔ THƯỜNG.

Về mục lục

Bài 186: KHỔ VÌ MÂU THUẪN

Triết học duy vật biện chứng phát hiện ra bản chất của thế giới luôn luôn tồn tại
hai mặt đối lập, mâu thuẫn chống đối nhau, phủ định lẫn nhau. Nhưng sự thật
không phải vậy, vì Thực tại không phải là thế giới vật chất trong cặp nhị nguyên
Con người (là chủ thể nhận thức) và Thế giới vật chất (là đối tượng được nhận
thức) như hiểu biết đã mặc định của nhân loại, mà Thực tại là T M do Con người
và Thế giới vật chất tương tác với nhau mà phát sinh.

Vì vậy, HAI MẶT ĐỐI LẬP chống đối, mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau thuộc về
nội tâm, thuộc về tâm biết ý thức nhị nguyên chứ không thuộc về Thế giới bên
ngoài. Trong các cặp mâu thuẫn, đối lập đó, có một cặp mâu thuẫn đối lập là: lúc
thì MUỐN THƯỜNG, lúc thì MUỐN VÔ THƯỜNG.

Khi nào MUỐN THƯỜNG? Đó là khi có đối tượng dễ chịu thì nghĩ rằng, trong
đối tượng này có hạnh phúc, nó sẽ làm cho ta hạnh phúc, sẽ chấm dứt khổ cho ta
nên sẽ thích thú nó (tham), do tham nên nắm giữ ràng buộc với nó, muốn nó tồn
tại mãi mãi, muốn nó là của mình mãi mãi. Đây là MUỐN THƯỜNG, do muốn
nó thường còn nên khi nó biến hoại, biến diệt, mất đi sầu bi khổ não sẽ khởi lên.
Ví như vì yêu thương, luyến ái những người thân yêu, luyến ái tài sản danh tiếng
nên nắm giữ, ràng buộc, muốn những cái đó tồn tại mãi mãi, của mình mãi mãi
nên khi người thân chết, tài sản bị mất mát, danh tiếng bị xúc phạm thì sầu bi khổ
não khởi lên.

Khi nào MUỐN VÔ THƯỜNG? Đó là khi có đối tượng khó chịu thì nghĩ rằng
trong đối tượng này có đau khổ, nó sẽ làm ta đau khổ nên chán ghét nó (sân). Do
sân nên muốn chấm dứt nó, muốn nó kết thúc, muốn đánh đuổi nó. Đây chính là
MUỐN VÔ THƯỜNG, nhưng do đối tượng đó là VÔ CHỦ VÔ SỞ HỮU, nghĩa
là không thể làm chủ, không thể sở hữu, không thể điều khiển được nó theo ý
muốn nên sầu bi khổ não khởi lên. Ví như khi có cơn đau kéo dài, một hoàn cảnh
thời tiết khắc nghiệt, một món nợ phải trả, chán chồng hoặc chán vợ vv… muốn
nó chấm dứt ngay nhưng nó không chấm dứt ngay, không vô thường ngay cho,
nên sầu bi khổ não khởi lên. Không những đối tượng khó chịu mà một số đối
tượng dễ chịu kéo dài quá lâu như ăn một món ngon quá lâu, ở một nơi sang
trọng quá lâu … thì tâm sẽ diễn tiến từ thích chán đến ghét. Lúc đó sẽ mong cho
đối tượng đó vô thường để có đối tượng mới thích hơn.

Vậy thì MUỐN đối tượng THƯỜNG hay MUỐN đối tượng VÔ THƯỜNG
đều phát sinh khổ. Khổ là vì không thể đạt được ý muốn, không thể nào điều
khiển được các sự vật hiện tượng theo ý muốn bởi tính chất của nó là Vô chủ Vô
sở hữu hay Vô ngã. Muốn nó thường hay vô thường mà không làm được là khổ
nên Phật học nói CẦU BẤT ĐẮC KHỔ là vậy.

Nếu không thích thì sẽ không cầu mong nó thường, không ghét thì sẽ không cầu
mong nó vô thường, lúc đó sẽ không có khổ. Vậy thì không thích, không ghét thì
sẽ không cầu mong, không cầu mong sẽ không có khổ.

Về mục lục

Bài 187: HAI NỖI SỢ KHỔ VÀ CHẾT

Có hai nỗi sợ căn bản chi phối con người. Đó là SỢ KHỔ và SỢ CHẾT. Từ hai
nỗi sợ căn bản này mà phát sinh các sợ hãi khác. Vì vậy, chấm dứt được hai nỗi
sợ căn bản, sợ khổ và sợ chết thì chấm dứt được mọi sợ hãi. Lúc đó sẽ đối diện
với mọi hoàn cảnh, mọi đối tượng với tâm thích nghi, tự do, tự tại, không lo lắng,
không sợ hãi, không thích, không ghét, không khổ đau.

Khi nào thì chấm dứt được SỢ KHỔ? Đó là khi có Minh, có Trí tuệ hiểu biết
đúng sự thật các sự vật hiện tượng, đặc biệt là hiểu biết đúng sự thật Khổ,
Nguyên nhân Khổ, Chấm dứt Khổ và Con đường chấm dứt Khổ (Khổ Tập Diệt
Đạo) thuộc về nội tâm chứ không phải thuộc về Thế giới ngoại cảnh, thân chứng
được Khổ diệt khi thay đổi tâm từ Bát tà đạo sang Bát chánh đạo. Lúc đó Minh
sẽ xoá bỏ Vô Minh, xoá bỏ hiểu biết sai sự thật về các sự vật hiện tượng, đặc biệt
là hiểu biết sai sự thật Khổ, Nguyên nhân Khổ, Chấm dứt Khổ và Con đường
chấm dứt Khổ (Khổ Tập Diệt Đạo) thuộc về Thế giới ngoại cảnh. Đó cũng là lúc
DỤC ÁI được đoạn tận.

Khi nào thì chấm dứt được SỢ CHẾT? Đó là lúc đoạn trừ được HỮU ÁI VÀ
PHI HỮU ÁI, nghĩa là đoạn trừ được THAM SỐNG SỢ CHẾT do thực hành Tứ
Niệm xứ, Tuệ tri được Khổ sinh tử luân hồi và Tuệ tri được Khổ diệt hữu dư và
vô dư mà thuật ngữ Phật học gọi là Niết bàn hữu dư và Niết bàn vô dư.

Vì vậy, mục đích tu tập Tứ Niệm Xứ là để đoạn trừ, đoạn tận cả ba ái là DỤC
ÁI, HỮU ÁI, PHI HỮU ÁI mới có thể đoạn tận khổ trong hiện tại và đoạn tận
khổ của sinh tử luân hồi.

Về mục lục

Bài 188: TÀM QUÝ CỦA PHÀM VÀ THÁNH

Kinh điển Phật Giáo có nói rằng Tàm và Quý là hai đặc điểm của bậc Thánh
nhập lưu. Tàm và Quý (có người dịch là Uý) là tiếng Hán, nghĩa tiếng Việt Tàm
là Xấu hổ và Quý là Sợ hãi.

Nếu nói hễ có Tàm Quý tức hễ có Xấu hổ, Sợ hãi thì đó là bậc thánh nhập lưu.
Thế thì phải chăng tất cả nhân loại ai ai cũng có xấu hổ, cũng có sợ hãi thì đều là
bậc thành nhập lưu cả rồi sao? Điều đó là không đúng, vì vậy phải phân biệt rõ
ràng Tàm Quý của bậc Thánh nhập lưu khác biệt với tàm quý của kẻ Phàm phu.

Tàm Quý phát sinh trên lộ trình tâm Bát tà đạo của Phàm phu thì liên tục và
nhiều vô số không thể kể hết. Phàm phu sợ hãi đủ thứ, sợ khổ, sợ chết, sợ mất
mát, sợ đói rét, sợ cô đơn, sợ bị bỏ rơi, sợ không nơi nương tựa vv… Phàm phu
xấu hổ khi bị phanh phui, biêu riếu những ý nghĩ, lời nói, hành động xấu xa, tồi
tệ, độc ác của mình trước người khác vv… Những Tàm Quý đó đều đưa đến đau
khổ.
Bậc Thánh nhập lưu là bậc đã nghe giảng hoặc nghiên cứu kinh điển và đã có
hiểu biết đúng sự thật nên đã đoạn trừ được Thân kiến, Nghi, Giới cấm thủ, đặc
biệt là đã Tuệ tri được Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Đã thấy biết đúng sự
thật Khổ trong hiện tại và thấy biết đúng sự thật khổ của tái sanh luân hồi, đã
thấy biết đúng sự thật Nguyên nhân Khổ là vô minh, là tham sân si, đã thấy biết
như thật nguy hiểm là vô minh, là tham sân si. Do vậy mà sợ hãi đến mức lông
tóc dựng ngược về thực tại thế gian chỉ quanh quẩn khổ, chỉ đổi cái khổ này lấy
cái khổ khác, chỉ triền miên trong sinh tử luân hồi không có ngày ra khỏi. Và do
Tuệ tri Khổ Tập Diệt Đạo đến mức như vậy nên khi vô minh, tham sân si khởi
lên chi phối thì sau khi nhận ra sẽ hết sức sợ hãi, xấu hổ vì đã không thực hành
lời dạy của bậc Thánh, của Đức Phật. Lúc đó do tàm quý mà thốt lên: Thật là đau
đớn cho ta, thật là khốn nạn cho ta, ta đã học theo Phật dạy là thực hành để đoạn
tận vô minh, đoạn tận tham sân si nhưng sao vô minh, tham sân si vẫn xâm
chiếm tâm ta, vẫn dẫn dắt, vẫn chi phối ta.

Sự giống nhau về tàm quý của Phàm phu và bậc thánh nhập lưu là đều phát
sinh trên lộ trình tâm Bát tà đạo, nhưng khác nhau là:

* Phàm phu :

- Tàm quý với đủ thứ khác nhau nhưng vì không có trí tuệ nên không tàm quý
với luân hồi sinh tử, không tàm quý với vô minh, với tham sân si.

- Tàm quý của Phàm phu là xấu hổ, sợ hãi với người khác không phải xấu hổ sợ
hãi với bản thân mình.

- Tàm quý của Phàm phu chỉ đưa đến khổ.

* Bậc Thánh nhập lưu :

- Tàm quý với vô minh, với tham sân si do Tuệ tri Tứ Thánh Đế.

- Tàm quý này xảy ra với bản thân mình chứ không phải với các đối tượng bên
ngoài.

- Tàm quý này sẽ phát sinh tinh tấn tu tập Bát chánh đạo đưa đến đoạn tận vô
minh, đoạn tận tham sân si, đoạn tận khổ.

- Tàm quý này tuy phát sinh trên lộ trình tâm Bát tà đạo nhưng đưa đến tu tập
Bát chánh đạo nên thuộc Dục như ý túc trong Tứ như ý túc. Khi tu tập lộ trình tâm
Bát chánh đạo khởi lên thì Dục như ý túc đó diệt, Tàm Quý đó cũng diệt đi.

Về mục lục

Bài 189: HIỂU SAI KHỔ ĐẾ

Thực trạng hiện nay là gần như đa phần người tu học Phật giáo kể cả những nhân
vật lừng lẩy, nổi tiếng nhất của Phật giáo từ trước tới nay đều hiểu sai khái niệm
Khổ Đế mà Đức Phật đã chứng ngộ và thuyết giảng. Họ cho rằng Khổ đế là thấy
cho được cuộc đời này là khổ, đời là biển khổ, bây giờ đang sống khổ sau khi
chết lại tiếp tục khổ, khổ từ trong nhà ra ngoài ngõ, khổ muôn năm, khổ muôn
đời muôn kiếp vv…

Vậy phải hiểu khái niệm Khổ Đế mà Đức Phật đã chứng ngộ và thuyết giảng
là như thế nào, để hiểu đúng với chân nghĩa mà Đức Phật nói đến ?

Để hiểu được điều này phải hiểu được quá trình nhận thức các sự vật hiện
tượng của con người bao gồm hai giai đoạn : Nhận thức cảm tính đối tượng và
Nhận thức lý tính đối tượng.

Nhận thức cảm tính là nhận biết đối tượng hay là ghi nhận đối tượng mà
không biết đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao. Cụ thể đó là 6 loại tâm biết
trực tiếp giác quan ghi nhận 6 loại đối tượng thực tại gồm : 1- Nhẫn thức thấy đối
tượng hình ảnh; 2- Nhĩ thức nghe đối tượng âm thanh; 3- Tỷ thức cảm nhận đối
tượng mùi; 4- Thiệt thức cảm nhận đối tượng vị; 5- Thân thức cảm nhận đối
tượng xúc chạm; 6- Tưởng thức ghi nhận đối tượng pháp trần. Sáu tâm biết trực
tiếp giác quan này chỉ nhận biết hay ghi nhận đối tượng mà không biết đối tượng
đó là cái gì, tính chất ra sao nên gọi là NHẬN THỨC CẢM TÍNH đối tượng.
Hình dung như một đứa trẻ vừa đẻ ra nó vẫn thấy, nghe, cảm nhận các đối tượng
thực tại nhưng nó hoàn toàn không biết các đối tượng đó là cái gì, tính chất ra
sao nên nó chỉ nhận thức cảm tính đối tượng.

Nhận thức lý tính đối tượng là sau khi thấy, nghe, cảm nhận đối tượng, thì tâm
biết Ý thức khởi lên, có phận sự BIẾT đối tượng đó là cái gì, tính chất ra sao, nên
giai đoạn này gọi là NHẬN THỨC LÝ TÍNH đối tượng. Đương nhiên giai đoạn
này phải do học hỏi để lưu các tri thức kinh nghiệm vào bộ nhớ và Ý thức khởi
lên theo lộ trình : Niệm - Tư duy - Ý thức. Nhưng tâm biết Ý thức lại được chia
làm 2 loại : Tâm biết Ý thức BIẾT không đúng sự thật đối tượng thì gọi là Vô
minh, Tà kiến và Tâm biết Ý thức BIẾT đúng sự thật đối tượng thì gọi là Minh,
Chánh kiến.

Có một điều rất đáng tiếc là bộ môn Tâm lý học Phật giáo đã phát triển rất sớm
và các tông phái Phật giáo mấy ngàn năm nay với hàng ngàn, hàng vạn bộ luận
cũng chỉ xoay quanh bộ môn Tâm lý học ( bàn luận về tâm ) nhưng chưa ai đề
cập, chưa ai phân biệt được, chưa ai hiểu được có hai loại nhận thức cảm tính và
nhận thức lý tính này, đặc biệt là hai loại nhận thức lý tính Vô minh, Tà kiến với
nhận thức lý tính Minh, Chánh kiến. Điều này không phải là Đức Phật không nói
đến mà phải khẳng định rằng những thế hệ nối tiếp sau này đã không lĩnh hội
được nên không gìn giữ và truyền thụ được những kiến thức này.

Chính vì có hai giai đoạn nhận thức là Nhận thức cảm tính và Nhận thức lý tính
cho nên : Khi thấy, nghe, cảm nhận các đối tượng thực tại thì Thánh Phàm đều
như nhau, không sai khác đều ghi nhận hay nhận biết đối tượng với tâm biết trực
tiếp giác quan vô niệm, vô ngôn, vô phân biệt. Tiếp đến là Tâm biết Ý thức khởi
lên và chia làm hai trường hợp :
*Tâm biết ý thức vô minh, tà kiến ( của Phàm ) thì cho rằng, mặc định rằng các
đối tượng thực tại này là Thế giới vật chất ngoại cảnh. Và thế giới vật chất ngoại
cảnh đó sẵn có, luôn luôn có, thường xuyên có và có thể nắm giữ, làm chủ, sở
hữu, điều khiển được nó. Đặc biệt Hạnh phúc, Khổ đau sẵn có, luôn luôn có,
thường hằng, thường trú trong thế giới vật chất ngoại cảnh đó. Đây là VÔ MINH
CĂN BẢN mà từ đó những vô minh, tà kiến khác khởi lên.

*Tâm biết ý thức minh, chánh kiến ( của Thánh ) thì biết rằng đối tượng thực tại
đó là Cảm giác mà thuật ngữ Phật học gọi là Cảm thọ do Căn Trần tiếp xúc mà
phát sinh, nó là T M chứ không phải thế giới vạt chất, nó vô thường, vô chủ vô
sở hữu, Phật học gọi là vô ngã. Đây là MINH CĂN BẢN mà từ đây mọi Minh,
Chánh kiến khác khởi lên.

Chính vì vậy, khi thấy nghe, cảm nhận đối tượng thực tại KHỔ thì Thánh
Phàm đều thấy nghe, cảm nhận khổ như nhau, đều ghi nhận nó chỗ này chỗ kia
như nhau, đều là Nhận thức cảm tính đối tượng. Nhưng BIẾT đối tượng Khổ đó
thì có 2 loại hiểu biết khác nhau. Đó là hiểu biết sai, Vô minh, tà kiến của Phàm
về Khổ và hiểu biết đúng sự thật, Minh, chánh kiến của Thánh về Khổ.

*Hiểu biết sai sự thật, vô minh, tà kiến về Khổ : Do VÔ MINH CĂN BẢN cho
rằng thực tại là thế giới vật chất nên Khổ thuộc về thế giới vật chất bên ngoài, từ
thế giới bên ngoài, từ hoàn cảnh sống mà đến với con người. Vì vậy, khỗ sẵn có,
luôn luôn có, thường xuyên có, thường hằng, thường trú trong thế giới vật chất
( chấp thường ), khổ chi phối Ta, Ta khổ, khổ đó là của Ta ( chấp ngã ). Và như
vậy, Nguyên nhân Khổ cũng từ thế giới vật chất bên ngoài mà đến Ta, làm cho
Ta khổ hoặc Nguyên nhân khổ là do thế giới vô thường làm mất đi Hạnh phúc
mà Ta đang có.

*Hiểu biết đúng sự thật, minh, chánh kiến về Khổ : Do MINH CĂN BẢN hiểu
biết thực tại là Cảm thọ, là Tâm chứ không phải thế giới vật chất, nên hiểu biết
đúng như thật Khổ và Nguyên nhân Khổ thuộc về Tâm chứ không thuộc thế giới
vật chất bên ngoài. Khổ là Cảm thọ phát sinh trên lộ trình tâm Bát tà đạo do Vô
minh, do Tham sân si mà phát sinh, nó vô thường sinh lên rồi diệt đi liền, không
thường hằng thường trú đâu cả, nó vô chủ vô sở hữu nghĩa là không làm chủ,
không sở hữu , không điều khiển được nó, đồng nghĩa không có Ta hay Bản ngã
là chủ nhân, chủ sở hữu, chịu đựng Khổ ( vô ngã ).

Sự thật khổ này có thể thấy rõ qua thí dụ, ví như có 2 người đàn ông cùng thấy
một người đàn bà đẹp, người chồng căm ghét vì người đàn bà đó là vợ anh ta
nhưng đang ngoại tình nên anh ta khổ, còn người đàn ông kia đang ngoại tình với
người đàn bà đó thì vui vì yêu thích người đàn bà đó.

- Hiểu biết vô minh, tà kiến của 2 người đàn ông kia thì đều cho rằng, mặc định
rằng KHỔ VUI CỦA TA là do người đàn bà kia mang đến tức Khổ Vui từ thế
giới vật chất bên ngoài mang đến cho Ta.

- Nhưng hiểu biết đúng sự thật, minh, chánh kiến thì biết rằng Khổ Vui phát
sinh nơi NỘI T M ( của )hai người đàn ông, do tâm Thích, do tâm Ghét mà phát
sinh, chứ Khổ Vui không sẵn có, không luôn có, không thường hằng, không
thường trú nơi người đàn bà vật chất bên ngoài.

KHỔ ĐẾ là hai từ ghép, trong đó Đế là tiếng Hán nghĩa tiếng Việt là chân lý,
là sự thật nên KHỔ ĐẾ là sự thật về khổ hay chân lý về khổ. KHỔ ĐẾ trong Phật
học còn đồng nghĩa với GIÁC NGỘ SỰ THẬT KHỔ hay HIỂU BIẾT ĐÚNG
SỰ THẬT KHỔ bới Tâm biết Ý thức Chánh kiến.

Đức Phật chứng ngộ và thuyết giảng Khổ đế là thuyết giảng về Hiểu biết đúng
sự thật, Hiểu biết Minh, Chánh kiến về Khổ, mục đích là để chấm dứt Hiểu biết
sai sự thật, Hiểu biết Vô minh, Tà kiến về Khổ. Nếu như không có hiểu biết đúng
sự thật, không phân biệt được nội dung của hai loại hiểu biết Minh, chánh kiến
và Vô minh, tà kiến về khổ thì chỉ loanh quanh nơi vô minh, tà kiến và chỉ loay
hoay tìm cách chấm dứt khổ theo vô minh, tà kiến, loay hoay với Bát tà đạo mà
thôi, không ra khỏi Bát tà đạo được.

Đa phần người học Phật xưa nay mới chỉ thấy nghe, cảm nhận khổ bởi tâm biết
trực giác, mới chỉ nhận thức cảm tính khổ và tiếp đó là Ý thức hiểu biết sai sự
thật, hiểu biết vô minh, tà kiến về khổ bởi Bát tà đạo nhưng lại mặc định là ta đã
hiểu biết đúng về khổ đế nên bàn luận, giải nói, thuyết giảng khổ đế theo vô minh,
tà kiến đó. Kể cả kinh điển được người sau kết tập cũng lặp đi lặp lại : “Rõ biết
đây là Khổ; Rõ biết đây là khổ tập; Rõ biết đây là khổ diệt; Rõ biết đây là con
đường khổ diệt ”. Từ rõ biết là biết rõ nhưng biết rõ theo kiểu nào vô minh , tà
kiến hay minh, chánh kiến. Phàm phu cũng rõ biết đây là khổ chứ đâu không rõ
biết đây là khổ mà Đức Phật phải dạy cho họ, nhưng rõ biết đó là rõ biết theo kiểu
vô minh, tà kiến về khổ. Vì vậy, Đức Phật dạy rõ biết sự thật khổ, rõ biết theo
kiểu minh, chánh kiến. Đối với hiểu biết minh, chánh kiến sẽ không nói “Rõ biết
đây là khổ; Rõ biết đây khổ tập; Rõ biết đây là khổ diệt; Rõ biết đây là con đường
khổ diệt” mà sẽ diễn đạt bằng : “Đây là sự thật khổ; Đây là sự thật khổ tập; Đây là
sự thật khổ diệt; Đây là sự thật con đường khổ diệt”.
Về mục lục

Bài 190: THẤY CÁC PHÁP ĐANG LÀ - LÀ CÁI GÌ?

Thấy các pháp đang là hay thấy các pháp như chúng đang là, là một câu nói rất
thời thượng trong giới tu tập Phật giáo hiện nay và được xem là cách tu tập đúng
đắn, hiệu quả nhất của Phật giáo. Và để giải thích cho mệnh đề chính này có
mệnh đề phụ ngay sau đó là: Thấy các pháp đang là chứ không phải thấy các
pháp đã là, sẽ là hay phải là.

Câu này đã giải thích rõ là tu tập là để thấy các pháp trong hiện tại, ngay bây
giờ và tại đây chứ không phải là thấy pháp đó trong quá khứ đã từng như thế nào
hay thấy pháp đó trong tương lai sẽ như thế nào hay muốn nó bây giờ phải biến
đổi ra như thế này hay như thế kia.

Cách hiểu này trái với sự thật là: Mọi đối tượng mà Phàm hay Thánh thấy biết
đều là pháp hiện tại đang là, ngay bây giờ và tại đây chứ không phải Thánh thì
thấy biết đối tượng đang là, ngay bây giờ và tại đây. Còn Phàm thì thấy biết đối
tượng trong quá khứ hay trong tương lai nên Phàm phải tu tập để thấy biết pháp
đang là, ngay bây giờ và tại đây. Vì sao vậy? Vì quá khứ thì đã qua nên không
thể thấy pháp quá khứ, tương lai thì chưa tới nên không thể có pháp tương lai để
mà thấy. Chỉ có thể thấy pháp hiện tại thôi, kể cả những sự kiện thuộc quá khứ
hoặc tương lai được nghĩ đến cũng là những pháp đang xảy ra trong hiện tại ngay
bây giờ và tại đây. Đó chính là Cảm giác pháp trần do Ý căn tương tác với thông
tin Pháp trần trong bộ nhớ tâm thức phát sinh, nó là pháp hiện tại, phát sinh ngay
bây giờ và tại đây, nó không phải là pháp trong quá khứ, tuy nó có vẻ na ná, từa
tựa, giông giống pháp đã từng xảy ra trong quá khứ.

Tu để thấy pháp đang là có vẻ rất thời thượng nhưng lại hết sức mơ hồ và cái
gì càng mơ hồ thì lại càng hấp dẫn vô minh bấy nhiêu. Mơ hồ chỗ nào? Mơ hồ ở
chỗ pháp đang là đó là cái gì? Không có câu trả lời nào cả.

Đối với người hiểu đúng sự thật Tứ thánh đế và tu tập đúng sự thật Bát chánh
đạo thì có hai cách để thấy biết ĐÚNG SỰ THẬT các pháp đang là :

* Một là: Khi thực hành Chánh niệm về thân (Nhớ đến tích cực chú tâm ghi
nhận cảm giác toàn thân hay Nhớ đến tích cực chú tâm quán sát thân nơi thân)
gọi là tu Chỉ thì chỉ có tâm biết trực tiếp giác quan Ghi Nhận hay Nhận Biết đối
tượng đang là, không có tâm biết ý thức khởi lên. Lúc đó gọi là Tỉnh giác, tức chỉ
có Nhãn thức ghi nhận đối tượng Hình ảnh; Nhĩ thức ghi nhận đối tượng m
thanh; Tỷ thức ghi nhận đối tượng Mùi; Thiệt thức ghi nhận đối tượng Vị; Thân
thức ghi nhận đối tượng Xúc chạm; Tưởng thức ghi nhận đối tượng Pháp trần.

* Hai là : Khi thực hành Chánh niệm về Thọ, về Tâm, về Pháp gọi là tu Quán
(Nhớ đến tích cực chú tâm quán sát Thọ nơi Thọ, Tâm nơi Tâm, Pháp nơi Pháp)
thì sau khi tâm biết trực giác ghi nhận hay nhận biết đối tượng thì tâm biết Ý
thức Chánh kiến khởi lên BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT đối tượng đó là Cảm thọ, do
Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh, nó là Tâm chứ không phải thế giới vật chất, nó
vô thường, vô chủ vô sở hữu (vô ngã), nó có vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly.

Sự thực hành Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo là để kinh nghiệm, thân chứng, an trú
Tỉnh giác và Chánh kiến để THẤY BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT các pháp đang là.
Mục đích để làm gì? Để chấm dứt THẤY BIẾT KHÔNG ĐÚNG SỰ THẬT của
Phàm phu về các pháp đang là. Đó là Thấy bởi tâm biết trực tiếp giác quan nhưng
lại Biết đối tượng đang là, là thế giới vật chất (Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp) nó
sẵn có, luôn luôn có, thường hằng, thường trú, có thể làm chủ, sở hữu, điều khiển
nó (chấp thường, chấp ngã). Thấy biết này là vô minh, là nguyên nhân phát sinh
tham sân si, phát sinh ràng buộc, phát sinh phiền não.

Về mục lục

Bài 191: CHÂN LÝ LÀ SỰ THẬT MANG TÍNH PHỔ QUÁT

Có hai loại hiểu biết hay nhận thức về các sự vật hiện tượng (thuật ngữ Phật học
gọi là các pháp).

*Loại hiểu biết thứ nhất: là hiểu biết hay nhận thức đúng cho người này không
đúng cho người kia, đúng chỗ này không đúng cho chỗ kia, đúng cho thời gian
này không đúng cho thời gian kia. Loại hiểu biết này không có tính phổ quát nên
gọi là kinh nghiệm cá nhân.

*Loại hiểu biết thứ hai: là hiểu biết hay nhận thức đúng cho tất cả mọi người,
đúng cho mọi lúc, đúng cho mọi nơi. Hiểu biết này có tính phổ quát, vượt ra khỏi
kinh nghiệm cá nhân nên gọi là Chân Lý, gọi là Giác Ngộ.

Ví như Hạnh phúc và Khổ đau hay nôm na là Sướng và Khổ, mỗi một người
sẽ có nhận thức, quan điểm khác nhau tuỳ lúc, tuỳ nơi. Lúc đại dịch cho rằng sức
khoẻ tính mạng mới hạnh phúc, người mạnh khoẻ mà nghèo khó thì cho rằng
giàu có mới hạnh phúc. Người thì cho rằng nổi tiếng mới hạnh phúc, người thì
cho rằng chỉ yêu thương mới hạnh phúc, người thì cho rằng quyền lực mới hạnh
phúc, người thì cho rằng phải phấn đấu cho lý tưởng cao cả mới hạnh phúc…
Cùng một sự việc người này cho là sướng, người kia cho là khổ như là cùng một
mân cơm đạm bạc thì người nông dân nghèo khổ thiếu đói quanh năm rất sung
sướng nhưng một vị tỷ phú lại rất khổ sở vì phải ăn mâm cơm đó… Cùng một
người, cùng một việc nhưng lúc cho là sướng, lúc lại cho là khổ như ngày đầu bị
đói chỉ bắt gặp một củ khoai lang sống và phải nhai nuốt củ khoai lang sống đó
thì cho là khổ nhưng sau hai ngày đói lả không có gì ăn thì khi bắt gặp được củ
khoai lang sống sẽ nhai rất ngon lành sung sướng… Đây chính là kinh nghiệm cá
nhân, là hiểu biết không mang tính phổ quát, đúng cho người này, không đúng
cho người kia, đúng lúc này không đúng lúc kia, đúng chỗ này không đúng chỗ
kia. Đó không phải là Chân lý, không phải là sự thật mang tính phổ quát.

Tuy vậy trong hiểu biết về Sướng Khổ của nhân loại (ngoại trừ bậc Thánh) có
điểm chung, đúng cho tất cả mọi người, mọi lúc, mọi nơi, có tính phổ quát. Đó là
nhân loại nhận thức rằng: Hạnh phúc và Khổ đau thuộc về thế giới vật chất bên
ngoài (Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp), nó sẵn có, luôn luôn có, thường hằng,
thường trú trong thế giới vật chất ngoại cảnh, có thể làm chủ nó, sở hữu nó, điều
khiển được nó. Đây là Vô minh, Tà kiến là một sự thật thuộc về thế gian, thuộc
về Phàm phu, nó có tính phổ quát, nên nó cũng là Chân lý, và gọi là Tục đế,
Chân lý của đời sống thế tục.

Hiểu biết rằng Hạnh phúc và Khổ đau là các Cảm giác hay thuật ngữ Phật học
là Cảm thọ do Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh, thuộc phạm trù Tâm chứ không
phải thế giới vật chất, nó vô thường, vô chủ vô sở hữu (vô ngã) là sự thật mang
tính phổ quát, đúng cho tất cả mọi người (cho dù có người không nhận thức được
nó), đúng cho mọi lúc, mọi nơi nên đó là Chân Lý.

Tứ thánh đế là BỐN SỰ THẬT mà Đức Phật đã khám phá và truyền dạy mang
tính phổ quát, đúng cho tất cả con người, đúng cho mọi lúc mọi nơi nên đó là
BỐN CH N LÝ bao gồm: SỰ THẬT KHỔ, SỰ THẬT NGUYÊN NH N KHỔ,
SỰ THẬT KHỔ DIỆT, SỰ THẬT CON ĐƯỜNG KHỔ DIỆT mà Phật học gọi
là Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế, Đạo Đế.

Vì vậy, Đức Phật truyền dạy Chân Lý, là hiểu biết đúng sự thật mang tính phổ
quát, ĐÚNG CHO NGÀI VÀ ĐÚNG CHO TẤT CẢ MỌI NGƯỜI chứ không
phải Ngài truyền dạy các kinh nghiệm cá nhân đúng cho người này, không đúng
cho người kia, đúng lúc này không đúng lúc kia, đúng nơi này không đúng nơi
kia.

Có những kiến giải sai lạc về điều này đang thịnh hành trong giới tu học Phật là
Đức Phật tuỳ theo đối tượng căn cơ chúng sinh khác nhau mà Đức Phật thuyết
giảng Giáo pháp khác nhau nghĩa là TUỲ BỆNH CHO THUỐC, hay tuỳ theo căn
tánh của mỗi người mà có cách tu khác nhau, người nặng về tham tu khác, người
nặng về sân tu khác…
Về mục lục

Bài 192: SỐNG THÍCH NGHI, AN NHIÊN TỰ TẠI VỚI DỊCH


BỆNH

Dịch bệnh Covid đang gia tăng, kéo dài chưa biết bao giờ kết thúc. Nhiều người
nổi tiếng trong giới khoa học dự đoán dịch bệnh này còn kéo dài mươi năm hoặc
lâu hơn nữa và con người buộc lòng phải chung sống với dịch bệnh. Vậy thì nỗi
khổ con người như hiện nay phải chịu đựng bao giờ mới chấm dứt? Nhưng phải
hiểu rằng, nỗi khổ trong thời kỳ dịch bệnh cũng như khi không có dịch bệnh chỉ
có 10% là khổ trên thân còn 90% là nỗi khổ tâm phát sinh từ nội tâm do SỢ
KHỔ, SỢ BỆNH, SỢ CHẾT mà ra.

Vì vậy, để chấm dứt được 90% nỗi khổ của con người thì phải chấm dứt được
nỗi SỢ KHỔ, SỢ BỆNH, SỢ CHẾT nơi nội tâm. Hãy tham dự các khoá tu học
Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo online của Gosinga để giảm thiểu và chấm dứt nỗi sợ
khổ, sợ bệnh, sợ chết, để kinh nghiệm được lối sống thích nghi với mọi hoàn
cảnh, mọi đối tượng đặc biệt thích nghi, an nhiên tự tại với hoàn cảnh sống có
dịch bệnh covid hiện nay, kinh nghiệm được lối sống chấm dứt khổ ngay bây giờ
và tại đây bằng kỹ năng chú tâm liên tục mà Phật học gọi là Chánh định. Khoá
học sẽ cung cấp những hiểu biết đúng sự thật về tâm, về sự phát sinh nỗi sợ khổ,
bệnh, chết nơi tiến trình tâm, nguyên nhân nào làm phát sinh nó và cả cách thức
giải quyết, chấm dứt các nỗi sợ đó nơi nội tâm để bình an, tự tại, thích nghi với
mọi đối tượng, để chấm dứt khổ ngay bây giờ và tại đây. Đăng ký khoá học tại
gosinga.vn hoặc batchanhdao.vn

Về mục lục

Bài 193: KHỔ TẬP DIỆT ĐẠO

Đa phần người người học Phật, đặc biệt là tầng lớp trí thức đều muốn tìm hiểu
những kiến thức trong kinh Phật để xoá tan những nghi vấn của mình mà kiến
thức thời đại không giải quyết nổi. Đặc biệt là các câu hỏi con người từ đâu mà
đến, khi chết đi về đâu, thế giới sau khi chết như thế nào, con người liên quan
như thế nào với thế giới, với vũ trụ vạn hữu. Thế giới vũ trụ vạn hữu này là như
thế nào, từ đâu mà có, hữu biên hay vô biên, ngoài trái đất này có chỗ nào có sự
sống không... Khi tiếp xúc với kinh điển họ thấy giáo lý Phật giáo lại đề cao Khổ
Tập Diệt Đạo, nhưng khi được nghe về Khổ Tập Diệt Đạo, thì họ cảm thấy quá
đơn giản và ai cũng thấy mình đã thấu suốt. Khổ là sinh già bệnh chết, là cầu
mong mà không được, là yêu nhau mà phải biệt ly, là oán giận nhau mà phải
sống chung, là sầu bi khổ ưu não. Nguyên nhân Khổ là do Tham ái tìm cầu hỷ lạc
chỗ này chỗ kia như Dục ái, Hữu ái, Phi Hữu ái. Sự chấm dứt Khổ là đoạn tận
Tham Ái. Con đường Chấm dứt khổ là Bát Chánh Đạo gồm Chánh kiến, Chánh
tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm,
Chánh định.

Hầu như ai cũng thấy rất đơn giản, gần như ai cũng cảm nhận mình đã hiểu
biết đầy đủ về Khổ Tập Diệt Đạo. Những hiểu biết "giản đơn" như vậy không
giải quyết được những câu hỏi, những tò mò, những nghi vấn đang chi phối họ.
Vì vậy một số người sau khi biết như vậy họ dừng lại và hướng đến tìm kiếm câu
trả lời ở các lĩnh vực hoặc tôn giáo khác.

Một số do Đức tin tôn giáo, họ không chú tâm nơi Khổ Tập Diệt Đạo, mà họ
chú tâm tìm kiếm những điều kỳ diệu, mầu nhiệm do "nghe đồn" nên họ cố gắng
đọc, tìm hiểu để giải quyết nghi vấn của mình. Bỏ qua Khổ Tập Diệt Đạo, họ
được kinh sách của các tông phái Phật Giáo đưa họ đến những cảnh giới hoành
tráng, khoáng đạt với trí tưởng tượng vô giới hạn, đặc trưng của tư tưởng Ấn độ
truyền thống theo kiểu trường ca Mabrahata. Họ được giới thiệu một thế giới
quan được copy từ những kiến thức của kinh điển Vệ đà với Cửu sơn, Bát hải,
núi Tu di, với tam thiên đại thiên thế giới, với các cõi trời kỳ diệu và các cõi địa
ngục khủng khiếp, thoã mãn được trí tò mò. Họ được chiêu đãi và thưởng thức
những bữa tiệc ngôn từ khoái khẩu, mãn nhãn với những tiết mục trình diễn xiếc
ngôn từ. Nhiều người say mê những khái niệm rất hấp dẫn như Chân đế, Tục đế,
Chân không diệu hữu, Phật tánh, Tánh biết, Bản tâm không sinh không diệt,
trùng trùng duyên khởi, Phật là tâm, Tâm là Phật, Thường lạc ngã tịnh... những
thứ rất mơ hồ trừu tượng, không thể nào kiểm chứng, cũng không giới thiệu cách
nào đạt được nó để kiểm chứng. Góp thêm vào những thứ mơ hồ trừu tượng, Văn
học Thiền tông Trung hoa đã góp thêm các món ngon vào bữa tiệc. Người đọc
mê mẩn vì những điều bí mật, những cách thức cư xử kỳ dị của các thiền sư,
những công án bí ẩn, những thách đố vĩ đại, kiểu như đệ tử hỏi Phật là gì thì
thiền sư trả lời, Phật là cái que cứt khô...

Nhưng tất cả những bí ẩn, mơ hồ trừu tượng, xuất phát từ những suy diễn,
tưởng tượng vô tiền khoáng hậu đó lại ẩn chứa một HỨA HẸN KỲ DIỆU VỀ
MỘT HẠNH PHÚC TUYỆT ĐỐI CỦA GIÁC NGỘ làm hấp dẫn người đọc.
Chính điều này chắp cánh cho độc giả bay cao, và tất cả những thứ đó hấp dẫn
tâm thức họ, rồi kể từ đó, kể cả ngôn từ Khổ Tập Diệt Đạo cũng không được họ
nhắc tới nữa. Trong số đó chỉ có một số rất ít người, sau nhiều năm tháng nghiền
ngẫm những tư tưởng kỳ diệu đó nhưng dần dà nhận ra nó xa rời thực tiễn, nó
không liên quan đến cuộc sống thường ngày, nó là cái BÁNH VẼ dẫn dụ con
người vào thế giới tâm linh siêu hình huyền bí, CÒN CUỘC SỐNG THỰC, với
những đối tượng mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm thì vẫn
Tham, vẫn Sân, vẫn Si, vẫn đầy Phiền não. Những người ấy, nếu có duyên thì họ
sẽ quay về điểm xuất phát ban đầu để nghiên cứu sâu hơn về Khổ Tập Diệt Đạo.

Để hiểu biết thấu đáo về Khổ Tập Diệt Đạo, để giác ngộ Khổ Tập Diệt Đạo là
điều không phải dễ dàng, không dành cho mọi hạng người, chỉ dành cho người
có trí. Bốn mươi lăm năm thuyết giảng, Đức Phật không nói gì ngoài Khổ Tập
Diệt Đạo, nhưng những điều giảng dạy, phân tích tỉ mỉ đã không được lưu truyền
đầy đủ mà chỉ tồn tại rất ngắn gọn theo kiểu các đề mục, các mệnh đề tóm tắt
như đã nêu trên. Muốn thấu đáo Khổ Tập Diệt Đạo phải NƯƠNG THEO LỜI
DẠY ĐÓ MÀ QUAN SÁT SỰ THẬT, QUAN SÁT LỘ TRÌNH T M.

Phải hiểu rằng có hai loại hiểu biết về Khổ Tập Diệt Đạo: một loại hiểu biết
không đúng sự thật về Khổ Tập Diệt Đạo, gọi là Vô Minh, thuộc về Phàm phu,
đã được Phàm phu học hỏi, tiếp nhận, vun bồi từ vô thuỷ, đang chi phối cuộc
sống của Phàm phu nhưng Phàm phu lại không biết nó. Loại thứ hai là hiểu biết
đúng như thật về Khổ Tập Diệt Đạo, gọi là Minh, được Đức Phật giác ngộ và
thuyết giảng.

Cũng cần phải hiểu rõ là Đức Phật thuyết giảng với mục đích làm cho đệ tử
HIỂU BIẾT ĐÚNG NHƯ THẬT VỀ KHỔ (gồm bốn khía cạnh KHỔ, nguyên
nhân KHỔ, chấm dứt KHỔ, con đường chấm dứt KHỔ) chứ không phải để
THẤY KHỔ, CẢM NHẬN KHỔ. Thấy Khổ hay cảm nhận Khổ thì Thánh hay
Phàm đều cảm nhận như nhau, không cần ai dạy, không cần phải học hỏi, chỉ có
HIỂU BIẾT VỀ KHỔ thì khác nhau, đối lập nhau, cần phải học hỏi nơi Đức
Phật.

Không phải chỉ có Khổ, mà tất cả mọi sự vật, mọi hiện tượng, kể cả Pháp mà
Đức Thế tôn khéo giảng trong kinh điển, đều tồn tại hai loại HIỂU BIẾT khác
nhau là VÔ MINH của Phàm phu và MINH của bậc Thánh. Ví như CỨNG
chẳng hạn. Nhân loại hiểu biết CỨNG là tính chất vật chất thuộc về hòn đá,
CỨNG thường hằng, thường trú trong hòn đá, CỨNG của hòn đá. Từ người
không biết chữ, đến nhà bác học cho đây là ĐÚNG SỰ THẬT và hiểu biết đó
đang chi phối đời sống nhân loại. Nhưng nếu quan sát sự thật sẽ thấy: Hòn đá là
một nhân tố, Bàn tay là một nhân tố. Có HAI NH N tố đó nhưng không có TIẾP
XÚC nhau thì không có cái CỨNG nào cả. Khi Hai Nhân, Bàn tay và Hòn đá
tiếp xúc nhau thì lập tức phát sinh CẢM GIÁC CỨNG. Đây mới là CỨNG thực
của Thực tại, của đời sống hàng ngày mà Thánh hay Phàm đều cảm nhận được.
Xúc sinh Cảm giác cứng sinh, Xúc diệt Cảm giác cứng diệt. Cảm giác cứng sinh
lên rồi diệt đi nên nó Vô thường, không thường hằng, không thường trú trong
hòn đá. Cảm giác cứng do duyên Bàn tay và Hòn đá mà phát sinh nên Cảm giác
cứng không phải của Bàn tay, không phải của Hòn đá nên nó Vô chủ, Vô sở hữu.
Khi quan sát và tư duy trên sự thật như vậy mới có hiểu biết ĐÚNG NHƯ
THẬT: CỨNG là Cảm giác thuộc phạm trù tâm, và nó Vô thường, Vô chủ, Vô
sở hữu. Khi có được hiểu biết ĐÚNG NHƯ THẬT gọi là MINH như vậy, mới
khẳng định được hiểu biết của nhân loại CỨNG là thuộc tính vật chất, thường
hằng, thường trú trong Hòn đá, của Hòn đá là SAI SỰ THẬT gọi là VÔ MINH.
Cũng y như vậy có hai loại hiểu biết về Khổ:

A - HIỂU BIẾT VÔ MINH, KHÔNG ĐÚNG NHƯ THẬT VỀ KHỔ: phàm


phu hiểu biết Khổ ở nơi thế giới ngoại cảnh. Khổ thường hằng, thường trú trong
những hoàn cảnh khó khăn tồi tệ như nghèo đói, lạc hậu, thất học, thiếu tiện
nghi... và trong những hoàn cảnh trung tính. Nguyên Nhân Khổ là từ những hoàn
cảnh tồi tệ và trung tính mà đến với con người. Sự chấm dứt Khổ xảy ra khi có
Hạnh phúc, mà Hạnh phúc thường hằng, thường trú trong những hoàn cảnh tốt
đẹp như giàu có, xinh đẹp, thành đạt... Con đường chấm dứt Khổ là thay đổi
hoàn cảnh sống, chấm dứt hoàn cảnh khó chịu và trung tính và thay thế bằng
hoàn cảnh tốt đẹp. Như vậy Khổ Tập Diệt Đạo thường hằng, thường trú nơi Thế
Giới ngoại cảnh Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp. Khổ Tập Diệt Đạo là của hoàn
cảnh và đồng thời có một cái TA là chủ nhân, chủ sở hữu của Khổ Tập Diệt
Đạo. Hiểu biết này là VÔ MINH, có nội dung THƯỜNG KIẾN và NGÃ KIẾN.

B - HIỂU BIẾT MINH, ĐÚNG NHƯ THẬT VỀ KHỔ: Bậc Thánh quán sát
tiếp xúc giữa sáu CĂN và sáu TRẦN nên biết như thật Duyên khởi lên lộ trình
tâm Bát Tà Đạo, Duyên khởi lên lộ trình tâm Bát Chánh Đạo và có hiểu biết
đúng như thật:

1 - KHỔ do duyên Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh trên lộ trình tâm Bát Tà
Đạo, KHỔ là Cảm thọ, thuộc nội tâm chứ không có nơi Thế giới ngoại cảnh,
KHỔ có tánh chất Vô thường, Vô chủ vô sở hữu. Nghĩa là nó sinh lên rồi diệt đi
liền, không có Ta, Tôi nào là chủ nhân thọ lãnh khổ cả.
2 - NGUYÊN NH N KHỔ là Vô minh và Tham ái phát sinh trên lộ trình tâm
Bát Tà Đạo thuộc nội tâm chứ không phải Thế giới ngoại cảnh. Vô minh và
Tham ái cũng có tánh chất Vô thường, Vô chủ (Vô ngã), nghĩa là nó sinh lên rồi
diệt, không có ai là chủ nhân, là tác giả gây ra khổ cả.

3 - SỰ CHẤM DỨT KHỔ là sự đoạn tận Vô minh và Tham ái, xảy ra trên lộ
trình tâm Bát Chánh Đạo được gọi là Diệt Đế hay Niết Bàn, xảy ra nơi nội tâm
chứ không phải xảy ra nơi Thế giới ngoại cảnh.

4 - CON ĐƯỜNG CHẤM DỨT KHỔ là Bát Chánh Đạo gồm: Chánh niệm -
Chánh Tinh tấn - Chánh định - Chánh Tư duy - Chánh kiến - Chánh ngữ, Chánh
nghiệp, Chánh mạng là thay đổi nội tâm chứ không phải thay đổi Thế giới ngoại
cảnh. Bát Chánh Đạo cũng Vô thường, Vô chủ vô sở hữu (Vô ngã).

C - Người tu học Phật cần thấu suốt hai loại hiểu biết về Khổ Tập Diệt Đạo là
VÔ MINH và MINH bằng Văn, bằng Tư và bằng Tu. Nếu không có hiểu biết cả
hai mà chỉ trau dồi Minh thì sẽ không Nhận Mặt được Vô Minh, không từ bỏ nó,
không đoạn diệt nó và khi nó xuất hiện, vẫn sử dụng nó để hiểu biết lời dạy của
Phật. Nếu trau dồi Minh đến đâu, Nhận Rõ Vô Minh đến đấy thì Minh mới xoá bỏ
Vô Minh từng chút, từng chút một. Giờ phút Giác Ngộ của Phật không những do
BIẾT NHƯ THẬT: Đây là Khổ, Đây là Nguyên nhân Khổ, Đây là Chấm dứt
Khổ, Đây là Con đường chấm dứt Khổ. Do THẤY NHƯ VẬY, BIẾT NHƯ VẬY
mà mọi LẬU HOẶC ĐƯỢC ĐOẠN TẬN mà còn BIẾT NHƯ THẬT VÔ MINH:
Vô Minh, Ta đã biết rõ ngươi rồi. Ngươi sẽ không làm nhà cho Như Lai được
nữa, tất cả sườn nhà đã gãy đổ, cây đòn dông ngươi dựng cũng đã bị phá tan. Sự
Giác Ngộ xảy ra do hiểu, tu tập để vun bồi, củng cố, an trú MINH và đoạn diệt
VÔ MINH bằng cách thay đổi lộ trình tâm sinh diệt Bát Tà Đạo, sang lộ trình tâm
sinh diệt Bát Chánh Đạo, phát sinh do sự tiếp xúc giữa Sau Căn và Sáu Trần nơi
mỗi người chứ không cần đến một Tánh biết, Bản tâm, Phật tánh, Chân như
không sinh không diệt nào hết. Nếu có dùng đến khái niệm Vọng Tâm, Chân Tâm
thì phải hiểu rằng tâm Bát Tà Đạo của Phàm phu là Tâm biết không đúng sự thật
là vọng tưởng nên gọi là Vọng Tâm, tâm Bát Chánh Đạo của bậc Thánh là Tâm
biết đúng sự thật nên gọi là Chân Tâm. Đức Phật giác ngộ là Giác ngộ TỨ
THÁNH ĐẾ, là bậc A LA HÁN CHÁNH ĐẲNG GIÁC, nghĩa là tự mình trở
thành vị A LA HÁN không thầy chỉ dạy còn các vị A LA HÁN Thanh văn Giác
Ngộ là nhờ bậc A la hán Chánh Đẳng Giác chỉ dạy. Vì vậy đừng có hiểu nhầm là
tu thành A la hán rồi còn phải tu thành Phật.

Về mục lục

Bài 194: TUỆ TRI KHỔ ĐẾ VÀ TẬP ĐẾ RỐT RÁO

Tuệ tri Khổ đế và Tập đế là nhìn những nỗi khổ cuộc đời bằng con mắt khác, con
mắt trí tuệ, con mắt chánh kiến chứ không nhìn những nỗi khổ cuộc đời bằng con
mắt vô minh, con mắt tà kiến như xưa.

Nhìn những nỗi khổ cuộc đời bằng con mắt tuệ, con mắt chánh kiến với ba cấp
độ theo lộ trình Văn - Tư - Tu:

* Cấp độ thứ nhất là Văn tuệ :

Là do nghe giảng hoặc tự mình nghiên cứu kinh điển do Đức Phật thuyết giảng
mà có được hiểu biết đúng sự thật Khổ, Nguyên nhân Khổ, là Tâm chứ không
phải Cảnh vật (thế giới vật chất), phát sinh trên lộ trình tâm Bát tà đạo. Khổ và
Nguyên nhân Khổ là pháp DUYÊN KHỞI nên nó Vô thường, Vô chủ vô sở hữu
(vô ngã).

Và cũng do nghe giảng hay nghiên cứu kinh điển mà có hiểu biết đúng sự thật
về Hiểu biết sai, vô minh, tà kiến cho rằng Khổ và Nguyên nhân Khổ sẵn có,
luôn luôn có, thường hằng, thường trú nơi Thế giới ngoại cảnh, nơi hoàn cảnh
sống mà đến với con người.
Do Văn tuệ mà khởi lên trí tuệ trạch pháp, nghĩa là phân biệt rạch ròi hai loại
hiểu biết Minh (trí tuệ) và Vô minh (tà kiến) về Khổ, Nguyên nhân Khổ.

* Cấp độ thứ hai là Tư tuệ :

Do đã có Văn tuệ được lưu vào bộ nhớ nên sẽ tư duy, tức là phân tích, so sánh,
đối chiếu [những kinh nghiệm về các nỗi khổ mình đã trải qua cũng như đã
chứng kiến nỗi khổ của người khác trong quá khứ] với [các tri thức đúng sự thật
đã học hỏi và được lưu vào bộ nhớ] nên phát sinh hiểu biết đúng sự thật Khổ và
Nguyên nhân Khổ sâu sắc và rộng lớn hơn Văn tuệ.

* Cấp độ thứ ba là Tu tuệ: Đó là khi thực hành Tứ niệm xứ khởi lên lộ trình tâm
Bát chánh đạo sẽ thấy Khổ, Nguyên nhân Khổ bằng Tuệ, bằng Chánh kiến.

Ví như thời gian dịch bệnh đang gia tăng, đang giãn cách cấm di chuyển thì ai
ai cũng thấy khổ trong thời gian đại dịch. Khổ vì tù túng trong nhà không được ra
ngoài, khổ vì không công việc, không thu nhập, không mua được vật dụng, khổ
vì không bán được hàng, vì không sản xuất ra hàng hoá, vì công nhân mất việc,
vì mọi cung ứng kinh doanh ngưng trệ, mọi kế hoạch đổ vỡ, khổ vì phá sản.
Người nghèo thì khổ vì không công ăn việc làm, không tiền bạc để trả tiền trọ,
tiền điện nước, thức ăn… người giàu khổ vì lo phá sản, lo đứt gãy chuỗi cung
ứng, lo mất công nhân, lo trả nợ ngân hàng… Khổ vì lo bị nhiễm bệnh nên có
một cuộc di dân hỗn loạn về quê tránh dịch với biết bao gian khổ trên đường và
nỗi lo về việc mưu sinh sắp tới. Đi cũng khổ mà ở lại cũng khổ, tiến thoái lưỡng
nan như cá mắc câu, nuốt vào không được mà nhả ra cũng không được. Khi
nhiễm bệnh thì khổ phải cách ly, phải điều trị trong điều kiện hệ thống y tế quá
tải, thiếu máy thở… trong nỗi hoảng loạn do sợ chết. Khổ của những xác chết
xếp hàng chờ vì lò thiêu quá tải, khổ vì chết không có thân nhân, không lễ nghi
mai táng cầu nguyện, khổ vì nghèo không có tiền mai táng. Rồi bác sĩ y tá khổ vì
quá tải, căng thẳng, kiệt sức với những bộ quần áo bảo hộ quá nóng bức trong
thời tiết nóng bức mùa hè…

1 - Phải Tuệ tri hay hiểu biết đúng sự thật nhân loại (ngoại trừ những người
học hỏi Tứ thánh đế và tu tập Bát chánh đạo đúng như lời dạy của Phật) đang
hiểu về Khổ và Nguyên nhân Khổ đó là như thế nào? Với hiểu biết nhị nguyên
Tâm Vật, mặc định thực tại là thế giới vật chất Sắc Thanh Hương Vị Xúc Pháp
nên Khổ Tập Diệt Đạo (Khổ, Nguyên nhân Khổ, Chấm dứt Khổ, Con đường
chấm dứt Khổ) thuộc về thếi giới ngoại cảnh nên nhân loại nhận thức rằng:

- Mọi nỗi khổ đó là từ thế giới ngoại cảnh, từ hoàn cảnh sống dịch bệnh mà đến
với con người.

- Nguyên nhân của mọi nỗi khổ đó là do vi rút corona gây ra, tức cũng là do thế
giới ngoại cảnh, do hoàn cảnh sống gây ra.

- Mọi cái khổ này sẽ chấm dứt khi dịch bệnh chấm dứt, khi covid bị tiêu diệt, khi
cuộc sống trở lại bình thường như trước khi covid xuất hiện.

- Con đường hay Cách thức chấm dứt khổ là thay đổi hoàn cảnh sống hiện tại có
dịch bằng hoàn cảnh sống không có dịch như trước đây bằng việc sáng chế phát
minh các loại thuốc điều trị, các loại vacxin phòng ngừa covid…

Đây là cách hiểu về Khổ Tập Diệt Đạo chung của nhân loại từ người mù chữ
đến các nhà bác học và ai cũng mặc định là đúng sự thật là duy nhất đúng.

2 - Phải Tuệ tri hay HIỂU BIẾT ĐÚNG SỰ THẬT Khổ và Nguyên nhân Khổ
thời gian dịch bệnh:

- Tuệ tri Khổ do duyên khởi: nghĩa là phải có HAI NH N gồm Con người và
Thế giới (hoàn cảnh sống có dịch bệnh) tương tác hay tiếp xúc với nhau Phật học
gọi là DUYÊN mới phát sinh Thực tại có khổ này. Con người (Sáu Căn) và Thế
giới (Sáu Trần) có tương tác với nhau thì khổ mới phát sinh, không tương tác,
không duyên nhau thì khổ không phát sinh. Ví như một đêm 8 tiếng ngủ say
không mộng mị thì cho dù thân đang mắc bệnh, đang nằm trong bệnh viện, thì
trong thời gian ngủ say đó không có cái khổ nào có mặt, không có cái khổ nào
được người đó cảm nhận.

Vì khổ do Duyên khởi lên, không phải do Nhân biến đổi mà thành nên Khổ là
Tâm chứ không phải Vật chất, nó có tính chất Vô thường, Vô chủ vô sở hữu (vô
ngã) nghĩa là không có một thực thể, không có Tôi, Ta (Bản ngã) nào lãnh chịu
Khổ đó.

Tuệ tri trong những nỗi khổ được thấy ở trên có thể chia làm hai loại: Khổ thân
và Khổ tâm. Trong đó Khổ thân là do Thân tiếp xúc với Xúc trần tức hoàn cảnh
sống như virut corona, không khí nóng bức, thiếu cơm ăn, mưa gió, lũ lụt, ngủ bờ
bụi, đi bộ rất xa… phát sinh các Cảm giác khó chịu nơi thân chỉ chiếm tối đa từ 5
đến 10% toàn bộ nỗi khổ. Khổ còn lại là khổ tâm do Tham ái gồm Dục ái, Hữu
ái, hay do tham sân si, do suy nghĩ, do tư tưởng sợ khổ, sợ bệnh, sợ chết nơi tâm
chiếm từ 90 đến 95% nỗi khổ.

- Phải kinh nghiệm, phải thân chứng Diệt đế và Đạo đế nhờ thực hành Tứ niệm
xứ, Bát chánh đạo mới có thể hiểu biết rốt ráo, toàn diện Khổ đế và Tập đế.

Đối với người không hiểu về Tứ thánh đế khi phải ăn uống đạm bạc họ sẽ rất
khổ sở, họ khổ vì mất đi những món ăn ngon lành khi xưa, khổ vì phải ăn món ăn
khó ăn, tâm họ nghĩ đến các món ăn ngon lành nên thèm nhỏ dãi. Hiện tại trên
thân họ không có khổ thọ nào khi ăn, khổ của họ là khổ tâm do tham, do sân, do
si mà khởi lên. Người đã kinh nghiệm Diệt đế và Đạo đế khi ăn họ sẽ biết cách
ăn với những thức ăn đạm bạc, tối thiểu để chấm dứt cái đói, ăn với quán thân,
quán thọ, quán tâm hay quán pháp không có tham sân si, thích nghi mọi loại thức
ăn, không dính mắc, ràng buộc với thức ăn nào. Với thời đại ngày nay với tình
trạng hiện tại có thể kiếm được không khó khăn thức ăn tối thiểu để không bị cơn
đói chi phối nên người đó tự tri sâu sắc rằng khổ đó là khổ tâm do tham sân si
chứ không phải khổ thân do hoàn cảnh và cũng tự tri là khổ đó có thể chấm dứt
ngay bây giờ và tại đây bằng tu tập Tứ niệm xứ không cần phải chờ hết dịch có
thức ăn ngon lành mới hết khổ.

Nếu thân chứng thiền hành với sơ thiền có tích cực, vui, thoải mái thì khi đi bộ
cả ngày tuy thân có mệt mỏi, đau nhức, có một chút khổ thọ nhưng tâm không có
tham sân si nên không có khổ tâm. Và cái khổ thân đó nhỏ xíu không đáng kể gì
với những nỗi khổ của người bị bắt buộc phải đi bộ với tâm bực tức, oán hận,
mệt mỏi, uể oải, chán nản…

Nỗi khổ phải ở trong nhà nhiều ngày không có khổ thân bởi không có nắng
mưa khốc liệt mà thậm chí còn mát mẻ êm ái hơn bên ngoài và nỗi khổ lúc đó
hoàn toàn là khổ tâm do tâm si muốn đổi cảnh, muốn tìm kiếm cảnh dễ chịu để
thay thế cảnh trung tính hiện tại nhưng không thực hiện được. Người thân chứng
Diệt đế và Đạo đế sẽ an trú Tứ niệm xứ không có tâm si nên đâu còn nỗi khổ tâm
này vì phải ở trong nhà một thời gian dài.

Khổ vì lo mất việc bây giờ và đến khi hết dịch không được làm việc đó nữa,
khổ vì lo công việc bị ngưng trệ, lo nguồn cung ứng đứt gãy, lo phá sản, lo nợ
ngân hàng, lo không đảm bảo đời sống nhân viên, khổ vì các dự định, các kế
hoạch phá sản… là do những suy nghĩ liên tục, láy đi láy lại, ám ảnh nhưng bất
lực không giải quyết được vấn đề nên căng thẳng, stress, trầm cảm… Người thân
chứng Diệt đế và Đạo đế an trú Tứ niệm xứ thì đầu óc trống rỗng, trống không
mọi tư tưởng không còn bị ám ảnh bởi các suy nghĩ đó nên không còn khổ tâm
này. Lúc cần suy nghĩ để giải quyết một vấn đề thì đầu óc sáng suốt, hiểu biết
đúng sự thật tình huống xử lý được hay không đều rất nhanh chóng và nó kết
thúc tại đó, không láy đi láy lại, không bị vấn đề ám ảnh từ ngày này sang ngày
khác. Khổ đó là khổ tâm do tham sân si có thể chấm dứt ngay bây giờ và tại đây
chứ không phải chờ khi hết dịch mới chấm dứt.
Kể cả người có thân chứng Diệt đế, Đạo đế mà nhiễm bệnh phải vào bệnh viện
điều trị thì khi an trú Tứ niệm xứ người đó không có sợ khổ, sợ bệnh, sợ chết nên
có thể cảm nhận những cảm giác đau mệt khốc liệt trên thân thì đó chỉ là khổ
thân mà họ không có khổ tâm, không có hoại khổ, khổ khổ, hành khổ do tâm sợ
khổ, sợ bệnh, sợ chết khởi lên. Họ đã sẵn sàng để đi đến cái tối hậu là chấm dứt
sự hiện hữu, chấm dứt luân hồi tái sanh. Và vị ấy khẳng định được khổ tâm do sợ
khổ, sợ bệnh sợ chết nó lớn gấp cả trăm ngàn lần khổ thân do nhiễm bệnh nặng.

Cả khi đối diện với xác chết của người thân mà không có cách mai táng giải
quyết người đó vẫn bình tĩnh không than khóc, không đau thương bởi Chánh
kiến biết chấp nhận sự thật quy luật thế gian là thế và có cách giải quyết phù hợp
với thực tiễn đó.

3 - Tuỳ theo mức độ thân chứng Diệt đế và Đạo đế mà mức độ Tuệ tri rốt ráo
về Khổ đế và Tập đế sẽ tương ứng.

Tuy với các mức độ khác nhau nhưng người có học hỏi Tứ thánh đế, tu tập
Bát chánh đạo đều tự tri, tự chứng rằng 90 đến 95% nỗi khổ là khổ tâm do vô
minh, do tham sân si khởi lên và có thể chấm dứt được nó ngay bây giờ và tại
đây nếu tu tập thuần thục Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo. Và nếu thuần thục mức độ
cao nỗi khổ tâm được chấm dứt này lên đến 98 đến 99% toàn bộ nỗi khổ, khổ
thân còn lại chỉ 1 - 2% nữa thôi không còn đáng kể. Và khi thân chứng điều này
thì từ thẳm sâu tâm thức có một nỗi buồn man mác thương cho những người
không có duyên học hỏi Tứ thánh đế và Bát chánh đạo nên vẫn trôi lăn trong
cuộc sống thế gian với nỗi khổ sinh già bệnh chết không có cách nào thoát ra.

Nhưng Chánh kiến cũng không phủ nhận 5 đến 10% nỗi khổ thân do hoàn
cảnh sống tương tác với thân mà phát sinh. Nỗi khổ này là khổ thọ trên thân do
duyên Xúc nên phải thay đổi nhân xúc, phải cải thiện môi trường sống (hết dịch)
nhờ các phát minh khoa học, nhờ vắc xin, nhờ cách ly. Nỗi khổ này phải hết dịch
mới chấm dứt.

Để Tuệ tri một cách rốt ráo Khổ đế và Tập đế không thể chỉ với Văn tuệ và Tư
tuệ mà phải thân chứng Diệt đế và Đạo đế và nó xảy ra theo tiến trình xoắn trôn
ốc. Tuệ tri rốt ráo Khổ đế và Tập đế cũng hình thành và phát triển trí tuệ trạch
pháp, là trí tuệ phân biệt rạch ròi giữa Vô minh, Tà kiến và Minh, Chánh kiến về
Khổ, Nguyên nhân Khổ. Chính trí tuệ trạch pháp này mới xoá bỏ thông tin Vô
minh trong bộ nhớ, mới đưa đến đột chuyển, giác ngộ.

Về mục lục

Bài 195: KINH NGHIỆM VÀ TUỆ TRI

Khi thực hành Tứ niệm xứ có thể kinh nghiệm được kết quả tu tập nhưng phải
tuệ tri tức hiểu biết đúng như thật kết quả đó, tiến trình xảy ra kết quả đó. Khi tuệ
tri được kết quả và tuệ tri tiến trình phát sinh kết quả đó thì sẽ diễn đạt được nó
một cách chính xác dễ hiểu, trực quan không mơ hồ trừu tượng.

Ví dụ như có người nói: Chỉ cần Chánh niệm vào hơi thở vô ra là thấy được
điều kỳ diệu. Câu nói này cũng có thể được nói ra trong hai trường hợp:

- Trường hợp thứ nhất là do nghe hoặc đọc chỗ nào đó rồi thích thú điều được
người khác mô tả hoặc tình cờ một vài lần rơi vào trạng thái thoải mái nhưng
không lặp lại được. Đó chính là không do kinh nghiệm mà nói, nói theo hiểu biết
của người khác.

- Trường hợp thứ hai là người tu tập Chánh niệm về thân đúng, kinh nghiệm
được các tầng định sơ thiền, nhị thiền, tam thiền… kinh nghiệm được trạng thái
tâm trống rỗng, không khổ không vui… nhưng vì không tuệ tri các kinh nghiệm
đó nên họ cũng nói: Chỉ cần Chánh niệm vào hơi thở vô ra là thấy được điều kỳ
diệu.

Vậy thì kinh nghiệm rồi tuệ tri thì sẽ thấy biết và diễn đạt nó như thế nào?

Khi một người thực hành đúng và tuệ tri người đó sẽ không nói là Chánh niệm
vào hơi thở. Vì sao? Người có tuệ tri sẽ hiểu đúng sự thật Chánh niệm là Nhớ
Đến tích cực chú tâm ghi nhận (hay theo dõi, quan sát) Cảm giác toàn thân. Do
tuệ tri về Chánh niệm như vậy người đó sẽ không diễn đạt một cách sai lạc là
Chánh niệm vào hơi thở hay Chánh niệm là sự Ghi nhận hơi thở vô ra. Người đó
phân biệt rạch ròi Chánh niệm khác với Chú tâm, khác với Ghi nhận, phân biệt
rạch ròi hơi thở vô ra với Cảm giác thở vô ra, tuệ tri đối tượng được ghi nhận là
Cảm giác thở vô, ra chứ không phải hơi thở vô, ra vật chất là luồng gió.

Nhờ có Chánh niệm: Nhớ đến tích cực chú tâm Cảm giác toàn thân người đó
kinh nghiệm và tuệ tri: Sự chú tâm liên tục khít khao từ Cảm giác thở vô, cảm
giác thở ra, cảm giác răng lưỡi, cảm giác nơi ngực bụng tay chân … TỰ ĐỘNG
xảy ra liên tiếp từ cảm giác này sang cảm giác khác cả toàn thân. Không những
tích cực chú tâm ghi nhận cảm giác toàn thân mà còn tích cực chú tâm ghi nhận
đan xen các cảm giác âm thanh, cảm giác pháp trần... Do tuệ tri như vậy nên vị
đó sẽ không nói đưa đến người nghe hiểu là chỉ chú tâm vào hơi thở vô ra.
Người ấy tuệ tri tiếp: Nhờ sự chú tâm liên tục khít khao từ cảm giác này đến
cảm giác khác trên thân có lúc đan xen với cảm giác âm thanh hoặc cảm giác
pháp trần mà phát sinh một trạng thái tâm Chánh định có thể là sơ thiền, nhị
thiền, tam thiền hoặc tứ thiền. Người ấy tuệ tri phân biệt được sơ thiền nhị thiền,
tam thiền tứ thiền, tuệ tri được hỷ lạc (vui và thoải mái) do Chánh định phát sinh
là thứ hạnh phúc nội tâm kỳ diệu không một thứ hạnh phúc nào của thế gian có
thể so sánh. Hạnh phúc đó không phải tìm cầu, không phụ thuộc vào hoàn cảnh
sống, không nguy hiểm, không vui ít khổ nhiều. Hạnh phúc đó đồng thời tồn tại
với Khổ diệt, Niết bàn (Hết khổ). Hạnh phúc đó là thanh tịnh, là Thánh lạc,
Chánh giác lạc, An tịnh lạc. Nhờ kinh nghiệm và tuệ tri Hạnh phúc nội tâm do
Chánh định khởi lên, nên cũng thấy biết như thật, nên cũng tuệ tri Hạnh phục thế
gian do sắc đẹp tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái, từ thế giới
ngoại cảnh khởi lên, bản chất là vui ít khổ nhiều não nhiều mà nguy hiểm càng
nhiều hơn. Hạnh phúc đó đưa đến bám víu, ràng buộc đưa đến khổ đau nên gọi là
Phàm phu lạc, Ô uế lạc, Bất tịnh lạc.

Người ấy kinh nghiệm và tuệ tri: Nhờ Chánh niệm - Chánh tinh tấn - Chánh
định lộ trình tâm lúc đó dừng lại tâm biết trực tiếp giác quan ghi nhận hay nhận
biết đối tượng (tâm lý học gọi là nhận thức cảm tính) mà tâm biết Ý thức không
khởi lên. Trạng thái chỉ có tâm biết trực giác thuần tuý không có tâm biết ý thức
xen vào được gọi là Tỉnh giác. Lúc đó sẽ tuệ tri Thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là
nghe, cảm nhận chỉ là cảm nhận không có ý thức khởi lên nên không tìm hiểu,
không nhận xét, không đánh giá đối tượng. Người ấy còn tuệ tri tâm biết Tỉnh
giác đó không khái niệm, không ngôn từ, không phân biệt (vô niệm, vô ngôn, vô
phân biệt) còn được gọi là Không tánh hay là Tánh không.

Người ấy còn kinh nghiệm và tuệ tri: Lúc này vẫn thấy, nghe, cảm nhận mọi
đối tượng thực tại đang xảy ra nhưng với tâm biết Tỉnh giác vô niệm, vô ngôn,
vô phân biệt và kinh nghiệm được trạng thái tâm đó vắng mặt tham sân si, vắng
mặt khổ vui với các đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận. Đó chính
là tuệ tri Khổ diệt (Diệt đế) hay tuệ tri Niết bàn.

Cuối cùng người ấy tuệ tri Khổ diệt hay Niết bàn thuộc về lộ trình tâm Bát
chánh đạo đang tu tập, đang khởi lên lúc này gồm :

XÚC (Căn Trần) - [Thọ - Tưởng] - Chánh niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định -
(Tỉnh giác)

Đây mới chỉ là kinh nghiệm và tuệ tri Chánh niệm về thân, còn phải kinh
nghiệm và tuệ tri Chánh niệm về thọ, về tâm, về Pháp.

Về mục lục

Bài 196: TRỌN VẸN VỚI THỰC TẠI

Có nhiều ngôn từ được nói ra rất thời thượng, hấp dẫn làm bao người mê say.
Nào là sống trọn vẹn với thực tại, sống tỉnh thức với thực tại, thấy các pháp như
chúng đang là… Những lời tuyên bố đó có thể xảy ra theo hai trường hợp:

Trường hợp thứ nhất là tuyên bố đó hoặc là lặp lại của người khác hoặc là do
tư duy suy diễn tưởng tượng ra. Nếu gặng hỏi sống trọn vẹn với thực tại là như
thế nào thì họ sẽ ậm ừ cho qua chuyện hoặc giải thích rất mơ hồ trừu tượng cách
xa đời sống thực tiễn đang diễn ra hàng ngày.

Trường hợp thứ hai là nếu người đó đã kinh nghiệm, thân chứng được điều đó
trong cuộc sống hàng ngày thì người đó sẽ giảng nói, phân tích chỉ dẫn, hiển thị
một cách rành mạch 4 điều sau:

* Một là: Như thế nào là sống trọn vẹn với thực tại đang là.

* Hai là: Tại sao lại phải sống trọn vẹn với thực tại đang là.

* Ba là: Kết quả của lối sống trọn vẹn với thực tại đang là như vậy là gì.

* Bốn là: Cách thức thực hành để có thể sống trọn vẹn với thực tại đang là.

Nếu không trình bày, phân tích chỉ dẫn, hiển thị một cách rành mạch bốn điều
này và không thể kiểm chứng được bốn điều này nơi sự thật cuộc sống thì lời
tuyên bố như vậy là TƯ DUY LÝ LU N SUÔNG không phải sự thật.

Về mục lục

Bài 197: KINH NGHIỆM VÀ TUỆ TRI

Khi thực hành Tứ niệm xứ có thể kinh nghiệm được kết quả tu tập nhưng phải
tuệ tri tức hiểu biết đúng như thật kết quả đó, tiến trình xảy ra kết quả đó. Khi tuệ
tri được kết quả và tuệ tri tiến trình phát sinh kết quả đó thì sẽ diễn đạt được nó
một cách chính xác dễ hiểu, trực quan không mơ hồ trừu tượng.

Ví dụ như có người nói: Chỉ cần Chánh niệm vào hơi thở vô ra là thấy được
điều kỳ diệu. Câu nói này cũng có thể được nói ra trong hai trường hợp:

- Trường hợp thứ nhất là do nghe hoặc đọc chỗ nào đó rồi thích thú điều được
người khác mô tả hoặc tình cờ một vài lần rơi vào trạng thái thoải mái nhưng
không lặp lại được. Đó chính là không do kinh nghiệm mà nói, nói theo hiểu biết
của người khác.

- Trường hợp thứ hai là người tu tập Chánh niệm về thân đúng, kinh nghiệm
được các tầng định sơ thiền, nhị thiền, tam thiền… kinh nghiệm được trạng thái
tâm trống rỗng, không khổ không vui… nhưng vì không tuệ tri các kinh nghiệm
đó nên họ cũng nói: Chỉ cần Chánh niệm vào hơi thở vô ra là thấy được điều kỳ
diệu.

Vậy thì kinh nghiệm rồi tuệ tri thì sẽ thấy biết và diễn đạt nó như thế nào?

Khi một người thực hành đúng và tuệ tri người đó sẽ không nói là Chánh niệm
vào hơi thở. Vì sao? Người có tuệ tri sẽ hiểu đúng sự thật Chánh niệm là Nhớ
Đến tích cực chú tâm ghi nhận (hay theo dõi, quan sát) Cảm giác toàn thân. Do
tuệ tri về Chánh niệm như vậy người đó sẽ không diễn đạt một cách sai lạc là
Chánh niệm vào hơi thở hay Chánh niệm là sự Ghi nhận hơi thở vô ra. Người đó
phân biệt rạch ròi Chánh niệm khác với Chú tâm, khác với Ghi nhận, phân biệt
rạch ròi hơi thở vô ra với Cảm giác thở vô ra, tuệ tri đối tượng được ghi nhận là
Cảm giác thở vô, ra chứ không phải hơi thở vô, ra vật chất là luồng gió.

Nhờ có Chánh niệm: Nhớ đến tích cực chú tâm Cảm giác toàn thân người đó
kinh nghiệm và tuệ tri: Sự chú tâm liên tục khít khao từ Cảm giác thở vô, cảm
giác thở ra, cảm giác răng lưỡi, cảm giác nơi ngực bụng tay chân … TỰ ĐỘNG
xảy ra liên tiếp từ cảm giác này sang cảm giác khác cả toàn thân. Không những
tích cực chú tâm ghi nhận cảm giác toàn thân mà còn tích cực chú tâm ghi nhận
đan xen các cảm giác âm thanh, cảm giác pháp trần... Do tuệ tri như vậy nên vị
đó sẽ không nói đưa đến người nghe hiểu là chỉ chú tâm vào hơi thở vô ra.

Người ấy tuệ tri tiếp: Nhờ sự chú tâm liên tục khít khao từ cảm giác này đến
cảm giác khác trên thân có lúc đan xen với cảm giác âm thanh hoặc cảm giác
pháp trần mà phát sinh một trạng thái tâm Chánh định có thể là sơ thiền, nhị
thiền, tam thiền hoặc tứ thiền. Người ấy tuệ tri phân biệt được sơ thiền nhị thiền,
tam thiền tứ thiền, tuệ tri được hỷ lạc (vui và thoải mái) do Chánh định phát sinh
là thứ hạnh phúc nội tâm kỳ diệu không một thứ hạnh phúc nào của thế gian có
thể so sánh. Hạnh phúc đó không phải tìm cầu, không phụ thuộc vào hoàn cảnh
sống, không nguy hiểm, không vui ít khổ nhiều. Hạnh phúc đó đồng thời tồn tại
với Khổ diệt, Niết bàn (Hết khổ). Hạnh phúc đó là thanh tịnh, là Thánh lạc,
Chánh giác lạc, An tịnh lạc. Nhờ kinh nghiệm và tuệ tri Hạnh phúc nội tâm do
Chánh định khởi lên, nên cũng thấy biết như thật, nên cũng tuệ tri Hạnh phục thế
gian do sắc đẹp tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái, từ thế giới
ngoại cảnh khởi lên, bản chất là vui ít khổ nhiều não nhiều mà nguy hiểm càng
nhiều hơn. Hạnh phúc đó đưa đến bám víu, ràng buộc đưa đến khổ đau nên gọi là
Phàm phu lạc, Ô uế lạc, Bất tịnh lạc.

Người ấy kinh nghiệm và tuệ tri: Nhờ Chánh niệm - Chánh tinh tấn - Chánh
định lộ trình tâm lúc đó dừng lại tâm biết trực tiếp giác quan ghi nhận hay nhận
biết đối tượng (tâm lý học gọi là nhận thức cảm tính) mà tâm biết Ý thức không
khởi lên. Trạng thái chỉ có tâm biết trực giác thuần tuý không có tâm biết ý thức
xen vào được gọi là Tỉnh giác. Lúc đó sẽ tuệ tri Thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là
nghe, cảm nhận chỉ là cảm nhận không có ý thức khởi lên nên không tìm hiểu,
không nhận xét, không đánh giá đối tượng. Người ấy còn tuệ tri tâm biết Tỉnh
giác đó không khái niệm, không ngôn từ, không phân biệt (vô niệm, vô ngôn, vô
phân biệt) còn được gọi là Không tánh hay là Tánh không.

Người ấy còn kinh nghiệm và tuệ tri: Lúc này vẫn thấy, nghe, cảm nhận mọi
đối tượng thực tại đang xảy ra nhưng với tâm biết Tỉnh giác vô niệm, vô ngôn,
vô phân biệt và kinh nghiệm được trạng thái tâm đó vắng mặt tham sân si, vắng
mặt khổ vui với các đối tượng được thấy, được nghe, được cảm nhận. Đó chính
là tuệ tri Khổ diệt (Diệt đế) hay tuệ tri Niết bàn.

Cuối cùng người ấy tuệ tri Khổ diệt hay Niết bàn thuộc về lộ trình tâm Bát
chánh đạo đang tu tập, đang khởi lên lúc này gồm :

XÚC (Căn Trần) - [Thọ - Tưởng] - Chánh niệm - Chánh tinh tấn - Chánh định -
(Tỉnh giác)

Đây mới chỉ là kinh nghiệm và tuệ tri Chánh niệm về thân, còn phải kinh
nghiệm và tuệ tri Chánh niệm về thọ, về tâm, về Pháp.

Về mục lục

Bài 198: CẢNH GIÁC VỚI YÊU THƯƠNG

Khi người tu hành nói đến yêu thương, chủ trương yêu thương, khuyến khích yêu
thương, ca tụng yêu thương thì được đa số tín đồ ca ngợi tán thán. Vì sao vậy? Vì
cái kiến thức đó, hiểu biết đó phù hợp với nhận thức của họ. Rằng yêu thương là
hạnh phúc, yêu thương là vị ngọt và họ gán cho Phật yêu thương đến tột đỉnh,
yêu thương tất cả muôn vật muôn loài không trừ một ai thì được gọi là từ bi. Và
họ cho rằng, khi đạt đến yêu thương tất cả muôn vật muôn loài gọi là từ bi như
vậy thì lúc đó cuộc đời chỉ toàn là hạnh phúc, toàn là vị ngọt, khổ đau không còn
nữa.

Chính do hiểu biết về vị ngọt của yêu thương như vậy chi phối, ngăn che nên
họ dù có nghe nhưng sẽ không hề để ý, không hề suy tư, không hề ghi nhớ lời
dạy của Phật được in đậm trong kinh điển là phải: “TUỆ TRI VỊ NGỌT, SỰ
NGUY HIỂM, SỰ XUẤT LY”.

Họ chỉ tuệ tri được vị ngọt khi yêu thương nhưng không hề TUỆ TRI NGUY
HIỂM. Đó là tham ái vị ngọt (yêu thương) là nguy hiểm vì nó sẽ phát sinh khổ.
Bản chất của Yêu thương chính là tham ái, là luyến ái cho dù với bất kỳ đối
tượng nào. Tham ái thì sẽ đưa đến nắm giữ ràng buộc, muốn làm chủ, muốn sở
hữu, muốn điều khiển đối tượng, muốn đối tượng là của mình mãi mãi. Vì hiểu
biết sai đối tượng yêu thương là thế giới vật chất, có thể làm chủ, sở hữu, điều
khiển được nó để nó tồn tại mãi mãi, của mình mãi nên không thể tuệ tri được sự
nguy hiểm. Do không tuệ tri các đối tượng được con người yêu thương là Cảm
giác do Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh, nó là Tâm chứ không phải Vật, nó vô
thường, vô chủ vô sở hữu, nghĩa là không thể làm chủ, không thể sở hữu, không
thể điều khiển để nó là của mình mãi mãi hay trong giây lát nên không thể tuệ tri:
nếu tham ái, nắm giữ, ràng buộc, muốn nó là của mình mãi mãi thì khi nó vô
thường, mất đi sầu bi khổ não sẽ khởi lên.

Tuệ tri sự nguy hiểm cũng chính là tuệ tri Nguyên nhân Khổ. Vì vậy, tuệ tri sự
nguy hiểm là Pháp sâu kín, khó thấy khó chứng, tịch tịnh mỹ diệu vượt qua mọi
tư duy lý luận suông, tế nhị chỉ người trí mới có khả năng lĩnh hội. Còn quần
chúng này đam mê ái dục, yêu thích ái dục, bị ái dục chi phối nên rất khó lãnh
hội Pháp này.

Vì chỉ tuệ tri vị ngọt theo kiểu hiểu biết một chiều như vậy mà không tuệ tri sự
nguy hiểm nên họ không thể tuệ tri sự xuất ly, không tuệ tri được trạng thái tâm
KHÔNG YÊU THƯƠNG KHÔNG GHÉT BỎ bất kỳ đối tượng nào. Họ không
thể thân chứng, không thể tuệ tri SỰ XUẤT LY là trạng thái Không yêu thương,
Không ghét bỏ nghĩa tiếng Việt là Khổ diệt mà thuật ngữ Phật học tiếng Hán là
Diệt đế hay Niết bàn.

Những ai đang thuyết giảng tán thán ca ngợi côt vũ cho yêu thương thì như
kinh điển đã nói, là đang tán thán, ca ngợi, cổ vũ cho việc liếm mật trên một lưỡi
dao sắc bén như lưỡi dao cạo. Tuy nếm được vị ngọt nhưng sẽ bị lưỡi dao bén cắt
đứt lưỡi chảy máu đau đớn vô cùng. Càng ham hố yêu thương, càng ham hố vị
ngọt thì vết cắt sâu hoắm do dao cắt nơi lưỡi càng nhiều, càng sâu, càng đau đớn.
Hãy cảnh giác lời dạy yêu thương, hãy suy ngẫm kỹ càng, hãy so sánh đối chiếu
yêu thương với lời dạy của Phật, yêu thương chính là tham ái, nó là nguy hiểm vì
nó là nguyên nhân phát sinh khổ.

Khi đọc những điều này nhiều người sẽ phản đối, sẽ cho rằng cuộc sống mà
không có yêu thương sẽ nhạt nhẽo, vô vị, con người sẽ lạnh nhạt, lãnh cảm như gỗ
đá. Tại sao lại như vậy? Tại vì họ đã mặc định rằng chỉ có yêu thương mới có
hạnh phúc, mới chấm dứt được khổ cho ta cho người. Và cũng tại vì họ chỉ kinh
nghiệm được duy nhất một thực tại thế gian với yêu thương ghét bỏ, họ chưa từng
bao giờ kinh nghiệm được một thực tại khác, thực tại xuất thế gian của bậc thánh,
không có yêu thương cũng không có ghét bỏ. Cuộc sống đó như thế nào, có nhạt
nhẽo, vô vị, có lạnh nhạt, lãnh cảm với con người hay không thì chỉ những ngưởi
hiểu đúng Tứ thánh đế, tu tập đúng Bát chánh đạo, an trú Tâm giải thoát, Tuệ giải
thoát mới đủ thẩm quyền trả lời những điều này.

Về mục lục

Bài 199: THẾ GIỚI QUAN VÀ HỆ TỌA ĐỘ

Thế giới quan theo nguyên nghĩa của các từ này là: Quan niệm về thế giới hay
quan điểm về thế giới tức là nhận thức về thế giới. Chính vì thế mà có rất nhiều
quan điểm về thế giới, quan điểm duy vật, duy tâm, quan điểm thế giới gồm trời
tròn đất vuông, Cửu sơn bát hải, núi tu di, quan điểm có 31 cõi trời, quan điểm
tam thiên đại thiên thế giới, quan điểm các thiên hà, thế giới quan cơ giới của
Niu tơn, thế giới quan theo cơ học lượng tử, vụ nổ lớn bigbang… Đó là các tư
tưởng, các quan niệm về thế giới vật chất do tư duy suy luận của con người phát
sinh ra. Các quan niệm đó, các tư tưởng về thế giới đó có đúng với thế giới vật
chất thực đang hiện hữu hay không thì lại là chuyện khác, cần phải xác minh.

Thế giới quan của nhân loại là tư tưởng nhận thức cho rằng các sự vật hiện
tượng (các pháp) hiện hữu trong không gian và thời gian với một đồ hình 4
chiều. Ba chiều không gian gồm chiều dọc, chiều ngang, chiều đứng và Chiều
thứ tư là thời gian. Đồ hình này là hệ toạ độ bốn chiều và đương nhiên hệ toạ độ
đó phải có GỐC là điểm KHÔNG. Và khi khảo sát các sự vật hiện tượng thì phải
so sánh với điểm KHÔNG là cái GỐC toạ độ. Do sự so sánh (tư duy) này sẽ làm
xuất hiện các khái niệm xa gần, dài ngắn, trước sau, cao thấp, trên dưới, hiện tại,
quá khứ, tương lai... Đây là các khái niệm Không Gian, Thời Gian xuất hiện khi
tư duy, nghĩa là khi phân tích so sánh đối chiếu đối tượng với điểm KHÔNG, với
GỐC toạ độ. Đối với GỐC toạ độ, tại điểm KHÔNG không có khái niệm không
gian, thời gian vì tư duy so sánh nó với chính nó nên tại đó không có khoảng
cách, không có chuyển động.

Điều này khẳng định rằng khái niệm Không gian và Thời gian phát sinh trong
quá trình tư duy và sau đó, nó là công cụ của tư duy (tư duy khái niệm) thuộc về
Tâm chứ không thuộc về thế giới vật chất như nhân loại vẫn mặc định sai lầm,
Không gian và Thời gian là hai thuộc tính vốn có của thế giới vật chất.

Tuỳ theo GỐC toạ độ, tuỳ thuộc vào điểm KHÔNG chọn ở chỗ nào thì thế
giới sẽ “HIỆN RA” theo kiểu đó. Ví dụ: nếu chọn Gốc toạ độ, chọn điểm Không
là quả đất (quả đất đứng yên) thì thế giới sẽ “HIỆN RA” khác hẳn với thế giới
khi chọn Gốc, chọn điểm Không là mặt trời (mặt trời đứng yên).
* Chọn GỐC toạ độ, chọn điểm KHÔNG ở đâu, là GIẢ THIẾT được công
nhận, được mặc định, tương tự các tiên đề toán học, nên không phải là SỰ THẬT
thực tại. Vì vậy, mọi thế giới quan, mọi quan điểm về thế giới chỉ là các GIẢ
THIẾT chứ không phải là sự thật về thế giới. Chính vì nó là các GIẢ THIẾT nên
lịch sử nhân loại đã chứng kiến biết bao nhiêu thế giới quan ra đời, được chấp
nhận rồi lại bị loại bỏ.

* Những khái niệm, ngôn từ được dùng để tư duy, dùng để diễn tả, ám chỉ
các sự vật hiện tượng đang diễn tiến trong không gian và thời gian như xanh
vàng đỏ trắng, mặn ngọt chua cay, cứng mềm thô mịn, nặng nhẹ, đàn ông đàn bà,
xe cộ, rừng núi, sông ngòi… phải dựa vào các đối tượng được thấy, được nghe,
được cảm nhận hàng ngày để đặt tên. Các đối tượng đó vốn là 6 loại Cảm giác
(Cảm thọ) do sáu căn và sáu trần tiếp xúc mà phát sinh, nó thuộc phàm trù tâm
(tinh thần) chứ không phải Vật chất nhưng vì hiểu biết sai nên nhân loại áp đặt
cho nó là thế giới vật chất.

* Vì vậy, các đối tượng thực tại được thấy, được nghe, được cảm nhận, được
nhận thức mà con người quan niệm là thế giới, là vật chất thực chất là T M chứ
không phải Vật Chất. Thực tại ấy do Con người (Sáu Căn) và Thế giới (Sáu
Trần) tương tác với nhau mà phát sinh. Các ngôn từ, khái niệm kể cả không gian
thời gian mà nhân loại cho rằng để diễn tả, để ám chỉ thế giới vật chất nhưng
thực chất đó là ngôn từ khái niệm diễn tả, mô tả thực tại cảm giác, thực tại tâm.

Nhưng cái GỐC, cái điểm KHÔNG trong hệ toạ độ bốn chiều mà qua đó con
người hàng ngày thấy biết “Thế Giới” là cái gì, ở đâu? Cái GỐC đó, điểm
KHÔNG đó là TỰ NGÃ, là cái TA tự có, không sinh không diệt còn gọi là BẢN
NGÃ. Cái Tự ngã, Bản ngã đó không phải là một thực thể không sinh không diệt
mà nó là TƯ TƯỞNG CHẤP NGÃ, cho rằng Sắc Thọ Tưởng Hành Thức là Ta,
là của Ta. Và vì Tự ngã hay Bản ngã là cái GỐC toạ độ, là điểm KHÔNG nên nó
là TRUNG T M VŨ TRỤ.

Với GỐC toạ độ, với điểm KHÔNG là TƯ TƯỞNG CHẤP NGÃ, là TRUNG
T M VŨ TRỤ nên khi thấy, nghe hay cảm nhận đối tượng thì tư tưởng khởi lên,
khái niệm xa hay gần Ta, trước hay sau Ta, trên hay dưới Ta… xuất hiện do tư
duy so sánh đối chiếu đối tượng với GỐC toạ độ, với điểm KHÔNG. Do chấp
thủ thân này là Ta nên lúc đó GỐC toạ độ, điểm KHÔNG là thân này, sẽ là đứng
yên không chuyển động, và là TRUNG T M VŨ TRỤ. Khi thấy nghe, cảm nhận
đối tượng là người thì tư duy sẽ so sánh đối chiếu đối tượng đó với GỐC toạ độ
là TA làm phát sinh Ta hơn, Ta kém hay Ta bằng người đó. GỐC toạ độ là cái Ta
lúc đó có thể là sắc, có thể là thọ, hoặc tưởng, hoặc hành, hoặc thức.

Vậy thì thế giới quan của loài người được mô tả theo một hệ toạ độ bốn chiều
gồm ba chiều không gian và một chiều thời gian và các sự vật hiện tượng tồn tại,
hiện hữu trong đồ hình bốn chiều với GỐC toạ độ là TƯ TƯỞNG CHẤP NGÃ
nên sự thật thế giới quan đó là thế giới Tâm chứ không phải là thế giới Vật chất
như mặc định, hiểu lầm của nhân loại.

Thế giới thực tại mà con người thấy nghe, cảm nhận là Tâm do Con người và
Thế giới vật chất tương tác mà phát sinh. Thực tại đó là Tâm chứ không phải là
Vật, tuy nó vô thường, vô chủ vô sở hữu nhưng nó thực có, không phải là giả,
không phải không thật như một số tông phái Phật giáo chủ trương. Tuy con
người không thấy nghe, cảm nhận được bằng cái biết trực tiếp giác quan nhưng
Thế giới vật chất cũng thực có tuy nó vô thường, vô chủ vô sở hữu. Biết thế giới
vật chất là thực có, thực hiện hữu là cái biết ý thức do suy luận hợp lý mà khẳng
định.

* Khi thực hành Tứ niệm xứ nếu là Tu Chỉ, Chánh niệm nhớ đến tích cực chú
tâm quán sát thân nơi thân, lúc đó an trú Tỉnh giác sẽ kinh nghiệm, sẽ tuệ tri
được không có thế giới quan, không có tư tưởng về thế giới, không tồn tại một hệ
toạ độ 4 chiều nào cả, không có GỐC toạ độ, không có điểm KHÔNG nào cả.
Nghĩa là không có TƯ TƯỞNG CHẤP NGÃ là Gốc, là điểm Không. Tuệ tri như
vậy, biết đúng sự thật như vậy là chứng đạt Vô ngã.

* Khi thực hành Tứ niệm xứ với Chánh niệm nhớ đến tích cực chú tâm quán
sát thọ nơi thọ, tâm nơi tâm, pháp nơi pháp gọi là Tu Quán thì vẫn khởi lên tư
tưởng về hệ toạ độ 4 chiều nhưng tư tưởng đó là Chánh kiến biết rõ, biết đúng sự
thật thế giới đó là thế giới cảm thọ, thế giới tâm. Biết rõ, biết đúng sự thật cái
GỐC toạ độ, cái điểm KHÔNG đó không còn TƯ TƯỞNG CHẤP NGÃ mà chỉ là
Cảm thọ. Đó cũng chính là tuệ tri Vô ngã, chứng đạt Vô ngã.

Về mục lục

Bài 200: HÀNH THIỀN ĐỂ THẤY GÌ?

Quan điểm cho rằng hành thiền minh sát để thấy tất cả các pháp là khổ, cái gì
cũng khổ, đâu đâu cũng khổ, Năm uẩn sắc thọ tưởng hành thức, tức tất cả các
pháp là khổ và các pháp là khổ do các pháp vô thường. Đấy có phải là chân nghĩa
lời Phật dạy hay không?

Giáo Pháp mà Đức Phật chứng ngộ và thuyết giảng là Tứ thánh đế không
những giúp cho người nghe thấy biết như thật Khổ, Nguyên nhân Khổ mà còn
giúp họ thấy biết như thật Khổ diệt và Con đường Khổ diệt. Vậy thì khi thực
hành Con đường Khổ diệt là Bát chánh đạo hay nói theo cách thông thường là
hành thiền, là để kinh nghiệm, để thân chứng Khổ diệt nói nôm na là để thấy Hết
khổ, để thấy Không còn khổ nữa.

Vậy nói hành thiền minh sát để thấy các pháp là khổ, cái gì cũng khổ, đâu đâu
cũng khổ, năm uẩn là khổ, phải sống trọn vẹn với khổ, thì chắc chắn rằng người
đó còn khổ hơn Phàm phu không hành thiền. Vì sao vậy? Vì người không hành
thiền họ sống với cái thấy pháp này khổ nhưng vẫn có pháp kia sướng, họ đâu
thấy tất cả các pháp đều khổ. Nếu trong số họ mà có người thấy tất cả đều là khổ,
đâu đâu cũng khổ, khổ bủa vây không có một chút sướng nào để thoát khỏi khổ
thì người đó sẽ tự sát liền.

Hành thiền là cách nói về tu tập Bát chánh đạo là để thấy Khổ diệt, để thấy Hết
khổ nhưng là HẾT KHỔ NGAY B Y GIỜ VÀ TẠI Đ Y chứ không phải Hết khổ
ở tương lai, ở ngày mai, ở kiếp sau hay hết khổ khi đắc đạo trong tương lai.
Người hành thiền đúng cách, đúng nghĩa thân chứng được Sự Thật Khổ Diệt,
Khổ chấm dứt mà thuật ngữ Phật học gọi là Niết bàn. Họ sẽ thấy mọi nỗi khổ thế
gian với cái thấy không sợ khó, không sợ khổ, không sợ bệnh, không sợ chết,
ngược lại với thế gian thấy mọi nỗi khổ với cái thấy bất an, cái thấy có nỗi sợ
khổ, sợ khó, sợ bệnh, sợ chết. Vì sao vậy? Vì họ TỰ TIN rằng có cách thức, có
phương pháp sống trong những tình cảnh đó mà không có khổ. Do đã kinh
nghiệm, đã thân chứng nên cho dù tình cảnh nào, cho dù đối tượng nào họ TỰ
TIN vẫn có thể sống bình an, an nhiên tự tại, sống với tâm không có khổ.

Vậy Pháp hành Bát chánh đạo nói nôm na là hành thiền để thấy Sự thật Khổ
diệt, để thấy Sự thật Con đường Khổ diệt, chứ không phải để thấy các pháp là
khổ, không phải để thấy các pháp khổ do vô thường.
Về mục lục

Bài 201: THẤY BIẾT NHƯ THẬT KHỔ

Ai cũng có thể quan sát để thấy được Khổ và Vui (Đau khổ và Hạnh phúc) không
có nơi thế giới bên ngoài, không có nơi các pháp mà nó phát sinh nơi lộ trình tâm
của mỗi người một cách dễ dàng.

Đó là khi lộ trình tâm khởi lên thì lúc đó mới phát sinh ĐỐI TƯỢNG và lần
lượt phát sinh THẤY rồi BIẾT đối tượng đó. THẤY là nói tắt của Thấy, Nghe,
Cảm Nhận đối tượng có phận sự Ghi Nhận hay Nhận Biết đối tượng mà Tâm Lý
học và Triết học dùng từ Nhận Thức Cảm Tính đối tượng (từ này gần gũi và dễ
hiểu hơn thuật ngữ Phật học). BIẾT có phận sự xác định đối tượng đó là cái gì,
tính chất ra sao mà Tâm Lý học và Triết học gọi là Nhận Thức Lý Tính đối
tượng. Do THẤY và BIẾT đối tượng mà sẽ phát sinh THÁI ĐỘ thích ghét đối
tượng và do THÁI ĐỘ thích hay ghét mà sẽ phát sinh PHẢN ỨNG với đối
tượng, tức Lời nói, Hành động. Do PHẢN ỨNG mà sẽ phát sinh KẾT QUẢ là
KHỔ hay VUI với đối tượng đó.
Đối với KHỔ là một đối tượng cũng như bao đối tượng khác của Thực Tại,
phải quan sát và thấu triệt được có hai loại Thấy Biết về Khổ.

Phàm phu Thấy Biết Khổ là Vô minh, Tà kiến mà như ngôn từ của Kinh Pháp
Môn Căn Bản, Thấy Khổ là Tưởng Tri và Biết Khổ là Không Liễu tri (Tà kiến).

Bậc Thánh Thấy Biết Khổ bởi Minh, Chánh kiến mà kinh Pháp môn căn bản
gọi Thấy là Thắng tri (Tỉnh giác) và Biết Khổ là Liễu tri (Chánh kiến).

Nói một cách dễ hiễu thì Phàm phu Thấy Biết Vô minh, Không Đúng Như
Thật, còn Bậc Thánh Thấy Biết Minh, Đúng Như Thật.

Bài viết này chỉ trình bày Thấy Biết Đúng Như Thật Khổ đã được trình bày
trong Thánh Đế về Khổ mà Đức Phật đã Giác Ngộ và tuyên thuyết trong kinh
Chuyển Pháp Luân với một câu ngắn gọn:

* Sinh là Khổ, Già là Khổ, Bệnh là Khổ, Chết là Khổ, Cầu Mong mà không
được là Khổ, Thù Ghét mà gặp nhau là Khổ, Yêu Thương mà phải biệt ly là Khổ,
Tóm Lại Năm Thủ Uẩn là Khổ.

* Đa phần hiểu về Khổ Đế là BÁT KHỔ, gồm cả 8 cái trên, nhưng không phải
vậy, nội dung của đoạn kinh này chỉ ra BẢY KHỔ trong đoạn đầu là để THẤY
NHƯ THẬT KHỔ, đó là sự có mặt Khổ trong bảy trường hợp trên, còn phần
cuối TÓM LẠI NĂM THỦ UẨN LÀ KHỔ là BIẾT NHƯ THẬT KHỔ.

A - THẤY NHƯ THẬT KHỔ :

Trên thế gian này chỉ ngoại trừ người đã Giác Ngộ Pháp mà Đức Thế Tôn khéo
thuyết giảng còn bất kỳ một người nào, già trẻ, gái trai, giàu nghèo, thông minh
hay ngu dốt, sắc tộc, tôn giáo nào đều có 7 loại khổ:

1- Đã bị sinh ra trên đời thì ai ai cũng đều có khổ, cho dù sống vài ba năm, ba
bốn chục năm, tám chín chục năm thì cuộc đời đều "vui ít, khổ nhiều, não nhiều
mà nguy hiểm lại càng nhiều hơn"
2- Đã bị sinh ra thì ai ai cũng bị già và khi già đến đau nhức thường xuyên,
chân chậm, mắt mờ, tai nghễnh ngãng, trí nhớ suy giảm, thậm chí lú lẫn và
không ai không cảm nhận cái khổ đó. Thậm chí một số người già sống trên trăm
tuổi luôn mồn than vãn sao sống quá lâu, quá khổ.

3- Đã bị sinh ra thì sẽ có thân và Đức Phật đã nói cái sự thật, "ai có ý nghĩ
thân này sẽ không có bệnh thì đó là kẻ ngu" và khi bệnh thì ai ai cũng cảm nhận
được Khổ có mặt.

4- Đã bị sinh ra là có chết và khi cái chết đến là nỗi hoảng sợ kinh hoàng. Đó
chính là, chết là khổ vậy.

5- Nhân loại ai ai cũng mong cầu cho có được hạnh phúc vật chất, hạnh phúc
tinh thần có trong sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc chạm êm ái nên
tìm cầu chỗ này chỗ kia. Khi không đạt được mong cầu, không có được thứ đang
mong cầu thì khổ khởi lên, khi đạt được thì nắm giữ, mong cầu nó tồn tại mãi
mãi nhưng nó vô thường nên khi nó biến hoại, biến diệt, mất đi, khổ sẽ khởi lên.
Đây là cầu bất đắc khổ, không ai là không có.

6- Thù ghét nhau, hay chán ghét một đối tượng nào đó, khổ sẽ khởi lên cũng
là sự thật phổ quát của đời sống nhân loại, đó là oán tắng hội khổ.

7- Yêu thương mà phải chia lìa thì ai ai cũng cảm nhận được khổ, đó là ái biệt
ly khổ.

Đây là, THẤY NHƯ THẬT KHỔ, cái thấy đa chiều, toàn diện về Khổ, là SỰ
THẬT PHỔ QUÁT CHO TOÀN THỂ NH N LOẠI KHÔNG TRỪ MỘT AI cho
dù là tổng thống đầy quyền lực, tỷ phú giàu nhất thế giới, một người đang ở
trong tù, một người lê lết xin ăn, một người tật nguyền thiểu năng trí tuệ hay
thông minh xuất chúng... Mọi chúng sanh đều BÌNH ĐẲNG VỀ KHỔ (ngoại trừ
các bậc Thánh).
Còn Phàm phu cũng THẤY KHỔ nhưng là cái thấy phiến diện chỉ thấy hạng
người nghèo đói bệnh tật, thiếu học, thất bại mới khổ còn những người giàu có,
thành đạt, quyền lực, nổi tiếng thì sung sướng không có khổ.

B- BIẾT NHƯ THẬT KHỔ :

Đó là NĂM THỦ UẨN LÀ KHỔ. Nghĩa là chấp thủ (cho rằng) Năm uẩn là
của Ta, là Ta, là Tự ngã của Ta sẽ khởi lên Khổ. Cụ thể là tư tưởng Tà Kiến,
Chấp Thủ hoặc là Sắc, hoặc là Thọ, hoặc là Tưởng, hoặc là Hành, hoặc là Thức
là Của Ta, Là Ta, Là Bản Ngã của Ta sẽ làm Khổ khởi lên chứ không phải Năm
Uẩn Là Khổ. Vì vậy:

1- KHỔ là pháp duyên khởi và LỘ TRÌNH DUYÊN KHỞI LÊN KHỔ được
mô tả tóm tắt trong thập nhị nhân duyên:

Do có Xúc mà có Thọ, do có Thọ mà có Ái, do có Ái mà có Thủ, do có Thủ mà


có Hữu, do có Hữu mà có Sinh, do có Sinh mà có Già Bệnh Chết Sầu Bi Khổ Ưu
Não không thể kể xiết. XÚC - THỌ - ÁI - THỦ - HỮU - KHỔ.

Nếu mô tả đầy đủ, tỉ mỉ hơn thì lộ trình duyên khởi lên khổ là lộ trình tâm Bát
Tà Đạo của Phàm phu:

XÚC - < Thọ - Tưởng > - Tà Niệm - Tà Tư Duy - Ý thức Tà Tri Kiến - Tham
Sân Si - Tà Định - Dục - Tà Tinh Tấn - Phi Như Lý Tác Ý - (Tà ngữ, Tà nghiệp,
Tà mạng) - Sinh Già Bệnh Chết Sầu Bi Khổ Ưu Não.

Trong lộ trình Bát Tà Đạo này Ý Thức Tà Tri Kiến là tư tưởng tà kiến, là
NĂM THỦ UẨN.

2- KHỔ khởi lên trên lộ trình tâm Bát Tà Đạo nên KHỔ thuộc phạm trù T M
chứ không phải Thế giới ngoại cảnh như hiểu biết của Phàm phu.

3- KHỔ là Pháp duyên khởi nên khổ có tự tánh VÔ THƯỜNG, VÔ CHỦ


VÔ SỞ HỮU hay VÔ NGÃ, nghĩa là không có BẢN NGÃ (TỰ NGÃ) là chủ
nhân, chủ sở hữu khổ, đó là nghĩa VÔ NGÃ.

Trong Tương Ưng Bộ Kinh đã nêu rõ vấn đề Khổ có tính chất Vô thường, Vô
Chủ, Vô sở hữu hay Vô ngã qua vấn đáp giữa một Bà la môn và Đức Phật:

* Bà la môn hỏi : Khổ do mình làm và mình lãnh thọ có phải không? (Nghĩa là
có ông A là chủ nhân, chủ sở hữu tạo tác ra cái nhân tạo ra khổ và chính ông A
đó là chủ nhân, chủ sở hữu của cái khổ do ông ta tạo ra từ quá khứ)

* Đức Phật trả lời: Không phải vậy, đó là Thường Kiến. (Nghĩa là vì không
biết như thật khổ có tự tánh vô thường, vô chủ vô sở hữu, phàm phu không biết
như thật ngôn từ ông A là chỉ cho các lộ trình sinh diệt của Năm Uẩn, có tác
dụng là để phân biệt Năm Uẩn này gọi là A, Năm Uẩn kia gọi là B chứ không
phải có một thực thể ông A không sinh không diệt, hiện hữu từ quá khứ đến hiện
tại, vị lai là chủ nhân, là tác giả tạo tác nhân của khổ và lãnh thọ quả Khổ. Hiểu
biết như vậy của Phàm phu gọi là Thường kiến.)

* Bà la môn lại hỏi: Vậy khổ do người khác làm mà mình chịu có phải
không ? (ví như Khổ do Thượng đế trừng phạt loài người vì tội do tổ tông Adam
và Eve đã phạm phải, Khổ do tổ tiên ông bà đã quá vãng trong thế giới tâm linh
trừng phạt con cháu, ví như dân gian có câu cha ăn mặn con khát nước, quýt làm
cam chịu ...)

* Đức Phật trả lời: Không phải vậy, đó là Đoạn kiến.

* Bà la môn lại cật vấn: Vậy thì, không có Khổ sao?

* Đức Phật trả lời: Có khổ, Ta đã thấy khổ, biết khổ.

* Bà là môn lại hỏi: Vậy Khổ ở đâu ?

* Đức Phật trả lời: KHỔ DO DUYÊN XÚC (khổ không có sẵn nơi các pháp
như cách hiểu các pháp là khổ)
(Nghĩa là, Khổ là Pháp duyên khởi do duyên Căn Trần tiếp xúc mà phát sinh
theo lộ trình tâm Bát Tà Đạo, nên nó Vô thường, không thường hằng, không
thường trú trong Thế giới vật chất ngoại cảnh như quan niệm Duy vật (Thường
kiến) cũng không phải là sự thưởng phạt của Thượng đế, của Thế giới tâm linh
như Quan niệm Duy tâm (Đoạn kiến), nó Vô chủ, vô sở hữu nên không có một
ai, một tác giả, một cái Ta, một Bản ngã nào tạo tác hay lãnh thọ, sở hữu Khổ, đó
là nghĩa vô ngã).

Ví như, Biết đúng như thật Bệnh là Khổ phải được hiểu như sau:

Vì không hiểu biết đúng như thật trạng thái khoẻ mạnh là một Lạc thọ, nó là
tâm, nó vô thường, vô ngã nên thích thú rồi chấp thủ trạng thái khoẻ mạnh là của
Ta, là Ta nên nắm giữ và muốn nó tồn tại mãi mãi. Vì vậy khi ốm bệnh, trạng
thái khoẻ mạnh (Lạc thọ) đó mất đi, nên sầu bi khổ ưu não khởi lên. Khổ này gọi
là Hoại khổ do Tham, thuộc về tâm và chính là cầu bất đắc khổ.

Khi mất Lạc thọ, mất cái được chấp thủ là của Ta, là Ta (Thọ thủ uẩn) và
thay thế bằng Khổ thọ (đau) thì bực bội với Khổ thọ đó nên khởi lên Khổ, đó là
chán ghét mà gặp nhau là khổ. Khổ này do Sân gọi là Khổ khổ, nó là tâm chứ
không phải là thế giới ngoại cảnh.

Khi đau bệnh như vậy thì sợ cái chết, nên suy nghĩ tìm cầu, hy vọng chữa
lành bệnh tật do vậy sầu bi khổ ưu não khởi lên. Khổ này gọi là Hành khổ do Si,
cũng là tâm chứ không phải thế giới bên ngoài.

Như vậy, do Chấp Thủ khoẻ mạnh, ốm đau, chết chóc là Của Ta, Là Ta (Thọ
thủ uẩn) nên trên thân có Khổ thọ, tâm sẽ có Hoại khổ, Khổ khổ, Hành khổ khởi
lên.

Một người bà vì Chấp Thủ Sắc Thọ Tưởng Hành Thức của đứa cháu là Của
Ta, Là Ta nên khi đứa cháu bị tai nạn chết đi, sầu bi khổ ưu não sẽ khởi lên.
Nhưng người bà đó Không Chấp Thủ Sắc Thọ Tưởng Hành Thức đứa cháu nhà
hàng xóm là Của Ta, là Ta nên dù đứa cháu nhà hàng xóm có chết vì tai nạn, sầu
bi khổ ưu não không khởi lên nơi bà. Một anh thanh niên tuy có quen biết nhưng
chưa yêu cô gái nên Không có tư tưởng Chấp Thủ, cô gái này, cha mẹ, anh em cô
gái là Của Ta, là Ta nên anh ta không vui khi họ vui, không khổ khi họ khổ.
Nhưng khi anh ta yêu và cưới cô gái thì lập tức có tư tưởng Chấp Thủ, cô gái
cùng cha mẹ, anh em cô gái là Của Ta, Là Ta nên anh ta sẽ vui cái vui của họ và
khổ cái khổ của họ.... Tóm lại Năm Thủ Uẩn Là Khổ là như vậy.

Thấy biết NHƯ THẬT KHỔ do nghe giảng, do nghiên cứu kinh điển và tư
duy gọi là Văn tuệ và Tư tuệ. Khi thực hành Tứ niệm xứ khởi lên Bát chánh đạo
nói nôm na là Hành thiền để Thấy biết NHƯ THẬT KHỔ DIỆT(mà thuật ngữ
Phật học gọi là Niết bàn) gọi là Tu tuệ.

Về mục lục

Bài 202: KHOAN VỘI TIN, KHOAN VỘI BÁC BỎ

Trong Kinh điển Phật giáo có bài kinh Kalama nhấn mạnh đến khoan vội tin
cũng khoan vội bác bỏ, kể cả điều đó do một người tuyên bố là chính tai tôi nghe
Đức Phật nói, hay chính kinh điển ghi lại rằng Phật nói như vậy. Chấp nhận hay
bác bỏ điều đó là Phật nói hay không phải Phật nói phải thận trọng, nghĩa là sau
khi tư duy, phân tích so sánh đối chiếu để xem đó có phải là sự thật không đã.
Bởi vì Phật là Bậc Giác ngộ chân lý, đã tự mình khám phá ra sự thật thực tại, đã
thuyết giảng sự thật thực tại mà Ngài đã khám phá ra.

Phật được các đệ tử tôn xưng là bậc Thiện thệ, có nghĩa là Ngài chỉ nói những
điều như chân như thật, những điều không như chân, không như thật Ngài không
bao giờ nói. Những điều không như chân, không như thật được quần chúng yêu
thích, ái mộ, tán thán, muốn nghe, Ngài cũng không bao giờ nói. Những điều như
chân, như thật nhưng khó nghe, khó hiểu, khó chấp nhận, không được quần
chúng ưa thích, ái mộ tán thán, Ngài biết cách để nói.

Tam tạng kinh điển gồm Kinh - Luật - Luận được người đời sau kết tập khi
Phật đã nhập diệt nên không tránh khỏi tam sao thất bản. Trong đó có những lời
Phật dạy nhưng cũng có rất nhiều kiến giải của người sau làm sai lạc chân nghĩa
của Phật. Các bộ kinh Nikaya được cố hoà thượng Minh Châu dịch nhưng Ngài
cũng nhận xét là nội dung GẦN VỚI NGUYÊN THUỶ nhất chứ đó không phải
là LỜI DẠY NGUYÊN THUỶ của Phật.

Vì vậy phải nghiên cứu kỹ càng, thận trọng, phải đọc các bài kinh và nghiền
ngẫm kỹ các bài kinh khác nhau nhưng cùng một chủ đề để thấy có gì thống
nhất, có gì mâu thuẫn. Phải xâu chuỗi các chủ đề, phải tìm được cái nội dung
nhất quán trong tất cả các bài kinh, nhưng cũng phải phát hiện ra có vô số mâu
thuẫn trong các nội dung các bài kinh. Đặc biệt phải lấy tiêu chuẩn : ĐẾN ĐỂ
MÀ THẤY làm hệ quy chiếu để khẳng định nội dung bài kinh đó có phải là chân
nghĩa Phật hay không. Nội dung nào không thể ĐẾN ĐỂ MÀ THẤY tức không
thể kiểm tra, kiểm chứng đó có phải là sự thật ngay bây giờ và tại đây hay không
thì đó không phải lời của Phật. Nội dung đó chỉ ĐẾN ĐỂ MÀ TIN là của người
sau chưa chứng ngộ chân lý, chưa chứng đạt sự thật.

Có một câu chuyện về A Chan Cha, một thiền sư người Thái khi ông đang
tham quan một trại gà ở Vương quốc Anh, có một phụ nữ là giáo sư nghiên cứu
Vi diệu pháp rất say mê rất thành thạo, lẽo đẽo đi theo và thuyết trình về cách
thức truyền bá Vi diệu pháp cho mọi người. A Chan Cha dừng lại và nói với bà:
Bà đang làm một việc giống như người nuôi gà đi vào chuồng gà nhưng thay vì
nhặt trứng gà, bà lại đi nhặt phân gà.

Cũng vậy, trong tam tạng kinh điển hiện giờ vẫn có cả “trứng gà và phân gà”.
Ai thông minh, cẩn trọng suy xét kỹ càng, thấu đáo người đó sẽ nhặt được trứng
gà, ai khờ khạo dễ tin, dễ bị nhồi sọ thì chỉ nhặt được phân gà mà thôi.

Về mục lục

Bài 203: CHÁNH TƯ DUY VÀ TÀ TƯ DUY

Muốn phân biệt được Chánh tư duy và Tà tư duy phải hiểu Tư duy là như thế
nào? Trong kinh điển Phật giáo có nói đến : Xúc - Thọ - Tưởng - Tư - Tác ý, là
cái sườn chính của lộ trình tâm. Chi phần Tư trong tiến trình này đa phần hiểu Tư
là tâm sở tạo nghiệp nhưng trong các bộ kinh Nikaya, Tư được nhắc đi nhắc lại,
Tư là Tư lương, Tư lường, Thầm ý. Và hành vi tư lương, tư lường, thầm ý là chỉ
cho hành vi suy nghĩ, hành vi tư duy. Nhưng kể cả Kinh cũng như Luận đều
không phân tích chỉ rõ tư duy xảy ra như thế nào.

Ngày nay ngành Tâm lý học hiện đại đã nghiên cứu dựa trên quan sát thực
tiễn, dựa trên thực nghiệm đã chỉ rõ được hành vi tư duy là: Phân tích, so sánh,
tổng hợp, phán đoán, kết luận rồi trừu tượng, khái quát hoá kết luận đó lên. Và
cái máy tính mà con người sáng chế ra, một phát minh đặc biệt đã làm thay đổi
thế giới, thay đổi cuộc sống con người là dựa trên hiểu biết về hành vi tư duy để
máy tính bắt chước hành vi tư duy xảy ra trong các tế bào thần kinh não bộ của
con người.

Vậy thì hành vi tư duy gồm rất nhiều hành vi hợp thành nhưng có một hành vi
quan trọng là so sánh đối chiếu. Đã là so sánh đối chiếu thì đương nhiên là phải
có 2 đối tượng và so sánh đối chiếu là so sánh đối chiếu hai đối tượng đó với
nhau. Hai đối tượng đó là cái gì?

* Đối tượng thứ nhất là đối tượng được thấy hoặc được nghe, hoặc được cảm
nhận, là đối tượng thực tại đang có mặt được các tâm biết trực tiếp giác quan
(nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, tưởng thức) ghi nhận hay
nhận biết.

* Đối tượng thứ hai là các hiểu biết, tư tưởng, các tri thức kinh nghiệm đã học
hỏi trong quá khứ, được lưu giữ trong bộ nhớ tâm thức được Niệm (trí nhớ) kích
hoạt.

Hành vi tư duy như vậy đưa đến kết luận, đưa đến hiểu biết đối tượng thực tại
đang có mặt đó là cái gì, tính chất ra sao. Đó chính là nội dung của tâm biết ý
thức.

Hành vi tư duy là so sánh đối chiếu đối tượng đang thấy, đang nghe, đang cảm
nhận với các hiểu biết, các tư tưởng, các tri thức kinh nghiệm trong quá khứ CÓ
THỂ đưa đến các kết quả khác nhau. Có thể thấy điều này qua một thí dụ: nếu so
sánh đối tượng được thấy là người đang ngồi trên ghế với HỆ QUY CHIẾU là
quả đất đang đứng yên thì sẽ đưa đến kết luận, đưa đến hiểu biết, người đó đang
ngồi yên, không chuyển động. Nhưng nếu đối chiếu đối tượng được thấy là một
người đang ngồi trên ghế đó, với HỆ QUY CHIẾU là mặt trời đứng yên thì đưa
đến kết luận, đưa đến hiểu biết người đó đang chuyển động.

Vậy thì hiểu biết là kết luận của tư duy do tư duy mà phát sinh nhưng kết luận
đó, hiểu biết đó lại phụ thuộc vào HỆ QUY CHIẾU LÀ CÁC HIỂU BIẾT, CÁC
TƯ TƯỞNG được chọn, được Niệm kích hoạt. Chính vì điều này nên khẳng định
sự thật đang xảy ra: Ai cũng đúng theo hiểu biết của họ tức là đúng theo HỆ
QUY CHIẾU của họ. Điều này thể hiện là cũng một đối tượng thực tại nhưng
hiểu biết của người này người kia là khác nhau, thậm chí trái ngược nhau, tranh
cãi nhau kịch liệt và thậm chí phải giải quyết bằng bạo lực, bằng súng ống. Vì
sao? Vì cái HỆ QUY CHIẾU để tư duy là hiểu biết, kiến thức, tư tưởng của mỗi
người khác nhau nên kết luận sẽ khác nhau do tuỳ thuộc vào HỆ QUY CHIẾU.

Hiểu được bản chất của tư tưởng, của hiểu biết do tư duy mà phát sinh nhưng
nó phụ thuộc vào HỆ QUY CHIẾU riêng của mỗi người, là đã có thể thoát ra
ngoài tranh cãi, tranh chấp, hơn thua của thế gian. Ai cũng đúng theo quan điểm,
theo hiểu biết của họ, còn hiểu biết đó có đúng với sự thật không lại là chuyện
khác.

Tuy mỗi người có HỆ QUY CHIẾU khác nhau khi tư duy nhưng cũng có
điểm chung. Đó chính là HỆ QUY CHIẾU mang tính phổ quát cho tất cả mọi
người. Nhưng Hệ quy chiếu chung đó cũng được chia thành 2 HỆ QUY CHIẾU
sử dụng cho hai loại tư duy là Tà tư duy và Chánh tư duy.

1- Tà tư duy : HỆ QUY CHIẾU của Tà tư duy là hiểu biết Vô minh, chấp ngã đã
được lưu vào bộ nhớ dưới cái tên là Vô minh, Ta của Ta. Đó là những hiểu biết
sai sự thật về thực tại, sai sự thật về duyên khởi, sai sự thật về vô thường, vô ngã,
sai sự thật về Khổ Tập Diệt Đạo đã được lưu giữ trong bộ nhớ tâm thức.

Khi Niệm kích hoạt thông tin Vô minh, chấp ngã trong bộ nhớ để Tư duy lấy
làm Hệ quy chiếu thì Niệm này gọi là Tà niệm, Tư duy này là Tà tư duy làm phát
ý thức Tà tri kiến theo tiến trình: Tà niệm - Tà tư duy - Tà tri kiến trên Bát tà
đạo. Kết quả của tiến trình này phát sinh hiểu biết Tà kiến, tuy cũng có ĐÚNG
SAI nhưng đúng sai với tiêu chuẩn Vô minh, chấp ngã.
Đặc biệt Tà tư duy lấy Bản ngã tức tư tưởng chấp ngã làm HỆ QUY CHIẾU,
làm điểm Gốc, làm trung tâm thế giới nên mọi đối tượng đều được so sánh với
Bản ngã. Vì thế nên mọi hiểu biết, mọi tư tưởng, mọi tri thức kinh nghiệm đều
nhuốm màu, đều công khai hay lấp ló cái Bản ngã đó. Do vậy, mọi tri thức, hiểu
biết của nhân loại đều nhằm vinh danh, ca ngợi, bảo vệ, tăng trưởng Bản ngã ảo
tưởng. Đời sống nhân loại đang phấn đấu nỗ lực cố gắng phấn đấu hoàn thiện,
nâng cao Bản ngã, khẳng định, bảo vệ, tăng trưởng quyền làm chủ, quyền sở hữu
của cái Bản ngã ảo tưởng. Vì thế mà khổ khởi lên. Đây là sự thật mang tính phổ
quát, nó xảy ra với tất cả nhân loại ngoại trừ các bậc giác ngộ.

2- Chánh tư duy : HỆ QUY CHIẾU của Chánh tư duy là những hiểu biết đúng sự
thật được lưu vào bộ nhớ gọi là Minh. Những hiểu biết này có được là do được
nghe giảng từ các bậc đã giác ngộ. Đó là hiểu biết đúng sự thật về các pháp, đúng
sự thật về thực tại, đúng sự thật về duyên khởi, về vô thường, vô ngã, đúng sự
thật về Khổ Tập Diệt Đạo.

Khi Niệm kích hoạt Minh trong bộ nhớ để Tư duy lấy làm Hệ quy chiếu thì
Niệm là Chánh niệm, Tư duy là Chánh tư duy làm phát sinh Chánh tri kiến theo
tiến trình: Chánh niệm - Chánh tư duy - Chánh tri kiến trên Bát chánh đạo. Trong
Chánh tri kiến cũng phân biệt ĐÚNG SAI nhưng Đúng Sai với sự thật thực tại.

Trong Chánh Tư duy lấy tư tưởng vô chủ vô sở hữu, chính là vô ngã làm HỆ
QUY CHIẾU, làm điểm Gốc nên không còn cái Bản ngã ảo tưởng. Vì vậy, mọi
nỗ lực cố gắng phấn đấu để vinh danh ca ngợi khẳng định Bản ngã, khẳng định,
bảo vệ, tăng trưởng quyền làm chủ, quyền sở hữu của Bản ngã chấm dứt. Vì vậy
khổ chấm dứt. Đây là sự thật mang tính phổ quát, nó xảy ra cho những ai đang
thực hành lộ trình Văn - Tư -Tu đúng theo Chánh kiến.

* Để nhận biết, để phân biệt được Tà tư duy và Chánh tư duy phải học hỏi,
phải tư duy để hiểu biết đúng sự thật, hiểu biết rốt ráo nội dung của cả VÔ MINH
và MNH.

Về mục lục

Bài 204: BẢN NGÃ VÀ CHẤM DỨT BẢN NGÃ

Lộ trình tâm Bát tà đạo với Tà niệm kích hoạt thông tin Vô minh, chấp ngã (Ta
của Ta) trong bộ nhớ tâm thức, tức nó cung cấp thông tin đó làm HỆ QUY
CHIẾU cho Tà tư duy, làm phát sinh ý thức Tà tri kiến (theo lộ trình Tà niệm -
Tà tư duy - Tà tri kiến). Vì vậy, nội dung của Tà tri kiến xuất hiện một cái Ta tự
có, gọi là Tự ngã hay tiếng Hán là Bản ngã, là trung tâm, là kẻ điều khiển, là chủ
nhân chủ sở hữu của thấy biết, của lời nói hành động, của cái này cái kia. Với
hiểu biết Tà kiến như vậy thì 90 đến 95% cuộc sống sẽ xoay quanh cái Bản ngã
ảo tưởng đó, ca ngợi vinh danh, tăng trưởng hoàn thiện, bảo vệ cái Bản ngã ảo
tưởng đó, khẳng định, tăng trưởng, bảo vệ quyền làm chủ, quyền sở hữu của cái
Bản ngã ảo tưởng đó. Cho nên 90 đến 95% nỗi khổ là khổ tâm do lao tâm khổ trí
cho cái Bản ngã ảo tưởng đó. Còn lại 5 đến tối đa là 10% cuộc sống là làm việc
để có được cơm ăn áo mặc, phương tiện sống để giảm thiểu cái khổ thân (5 đến
10%) do điều kiện sống, do môi trường sống “gây nên”.

Lộ trình tâm Bát chánh đạo với Chánh niệm kích hoạt thông tin Minh trong bộ
nhớ tâm thức (không kích hoạt Vô minh chấp ngã), tức nó cung cấp thông tin
Minh làm HỆ QUY CHIẾU cho Chánh tư duy, làm phát sinh ý thức Chánh tri
kiến (theo lộ trình Chánh niệm - Chánh tư duy - Chánh tri kiến). Vì vậy, nội
dung Chánh tri kiến không còn tồn tại một cái Ta tự có, không còn tồn tại cái
Bản ngã ảo tưởng. Đó gọi là chấm dứt Bản ngã hay Vô ngã. Với hiểu biết như
vậy thì 90 đến 95% công việc để vinh danh ca ngợi, hoàn thiện, bảo vệ Bản ngã,
để tăng trưởng bảo về quyền làm chủ, quyền sở hữu của Bản ngã ảo tưởng chấm
dứt. Do vậy, 90 đến 95% khổ tâm biến mất. Lúc đó chỉ còn có 5 đến 10% công
việc là làm việc để giảm thiểu 5 đến 10% khổ thân do hoàn cảnh sống “gây nên”.

Vì vậy, hãy Chánh tư duy để buông bỏ, từ bỏ, xoá bỏ, đoạn tận cái TƯ
TƯỞNG Vô minh, chấp ngã, tà kiến (tư tưởng làm chủ, tư tưởng sở hữu, tư tưởng
điều khiển) chứ không phải từ bỏ tài sản, tiền bạc, nhà cửa xe cộ, thức ăn… để
sống cuộc đời nghèo khổ thanh cao, để trở thành bần sư, bần tăng như nhiều
người nhận thức. Những người đã học, đã hành, đã kinh nghiệm kết quả học hành
theo phương pháp này, hãy Chánh tư duy kỹ càng, quan sát cuộc sống thế gian để
thấy rằng 90 đến 95% cuộc sống nhân loại là làm việc, phấn đấu cho cái Bản ngã
ảo tưởng, cho dù tu hành hay phấn đấu để giàu có, nổi tiếng, để hiểu biết cao siêu,
làm từ thiện để giúp người hay để đánh bóng tên tuổi… thì vẫn là làm cho cái Bản
ngã ảo tưởng đó một cách công khai hoặc lấp ló. Chấm dứt TƯ TƯỞNG chấp ngã
là phải xoá bỏ thông tin Ta của Ta, thông tin chấp ngã trong bộ nhớ tâm thức,
cũng là Chấm dứt Năm thủ uẩn, cũng là Chấm dứt Bản ngã ảo tưởng, thì sẽ chấm
dứt được 90 đến 95% nỗi khổ. Chính vì vậy mà Đức Phật nói Năm thủ uẩn là khổ,
Năm thủ uẩn là gánh nặng. Người giác ngộ là người đã đặt gánh nặng xuống, là
người đã đoạn trừ, đoạn ly, đoạn tận Năm thủ uẩn.
Về mục lục

Bài 204: ĐỌC KINH VỚI CHÁNH TƯ DUY, TÀ TƯ DUY

Nghiên cứu kinh điển cũng như rộng hơn là nghiên cứu tam tạng kinh điển gồm
Kinh Luật Luận có thể xảy ra theo hai cách: Tà tư duy và Chánh tư duy.

Khi đọc sách, để hiểu được nội dung cuốn sách thì Tư duy khởi lên theo lộ
trình : Niệm - Tư duy - Ý thức phát sinh tâm biết Ý thức, hiểu biết nội dung sách
nói chuyện gì. Tư duy là so sánh đối chiếu thông tin đọc được với những thông
tin tri thức kinh nghiệm đã có từ trước, lưu giữ trong bộ nhớ tâm thức được Niệm
kích hoạt. Vậy thì khi đọc Kinh Luật Luận quá trình cũng xảy ra theo tiến trình
Niệm - Tư duy - Ý thức nhưng được phân chia thành hai loại. Loại thứ nhất là Tà
niệm - Tà tư duy - Tà tri kiến gọi tắt là Tà tư duy. Loại thứ hai là Chánh niệm -
Chánh tư duy - Chánh tri kiến gọi tắt là Chánh tư duy.

1- Tà tư duy khi đọc Kinh Luật Luận:

Người chưa được nghe giảng hoặc chưa đọc các bản kinh từ bậc giác ngộ sẽ
không có Văn tuệ, không có Minh được lưu vào bộ nhớ. Trong bộ nhớ của họ có
các tri thức kinh nghiệm đã học hỏi từ trước và đặc biệt chỉ có các thông tin Vô
minh, Chấp ngã, không có thông tin Minh. Đó là hiểu biết sai sự thật về thực tại
theo kiểu Tâm biết Cảnh vật, hiểu biết sai sự thật về duyên khởi theo kiểu một
nhân sinh một quả, nhân biến đổi thành quả, hiểu biết sai về vô thường vô ngã,
hiểu biết sai sự thật về Khổ Tập Diệt Đạo theo kiểu thường kiến, đoạn kiến, theo
kiểu Khổ Tập Diệt Đạo thuộc về thế giới vật chất ngoại cảnh…. Cũng có người
được nghe giảng Kinh điển rất nhiều, thậm chí cũng có người là những người tu
hành nổi tiếng thuyết giảng, nhưng họ chưa hề biết đến sự thật nên bộ nhớ của họ
chỉ có Vô minh chấp ngã mà thôi, không có Minh trong đó. Vì vậy, khi đọc Kinh
Luật Luận với lộ trình tâm Bát tà đạo, Tà tư duy khởi lên, đối chiếu thông tin đọc
được với những thông tin Vô minh chấp ngã được Niệm kích hoạt. Do vậy :

* Một là những gì đọc được phù hợp với Vô minh chấp ngã do người sau kết
tập vào kinh điển thì mặc định đây là sự thật, đây là chân ý của Phật.

* Hai là những gì không phù hợp với Vô minh chấp ngã thì không hiểu được
nên băn khoăn, do dự, nghi ngờ. Điều này xảy ra ba trường hợp :

a- Do băn khoăn, do dự nghi ngờ nên bỏ qua một bên một số vấn đề, do nghĩ
rằng những gì Phật nói là “bất khả tư nghì”.

b- Còn một số vấn đề thì đào sâu, tìm cách giải quyết nhưng vẫn trên Tà tư
duy, dựa vào Hệ quy chiếu Vô minh chấp ngã nên không biết được mình đang
xuyên tạc Phật, đang bẻ cong sự thật cho phù hợp với Vô minh chấp ngã của
mình. Các ngôn từ mà Phật đã dày công chế định nhằm ám chỉ các sự vật hiện
tượng, các trạng thái chứng ngộ thì Tà nệm - Tà tư duy - Tà tri kiến sẽ hiểu nó,
giải thích nó theo cách suy diễn, tưởng tượng của vô minh chấp ngã, không thể
hiểu nó giải thích nó trên sự thật, trên sự thân chứng do tu tập. Chính vì vậy mà
cùng một ngôn từ, cùng một khái niệm Phật nói ra trong kinh điển thì có vô số
cách giải thích khác nhau, có vô số Luận giải của các Luận sư, có khi nó na ná
từa tựa nhau nhưng cũng có khi nó trái ngược chống đối nhau. Vì sao vậy? Vì
các Luận giải đó không phải là sự thật. Sự thật chỉ có một thôi và đó là điều Phật
nói nhưng Luận giải là do các Luận sư suy diễn tưởng tượng ra theo cách mỗi
người một kiểu khác nhau nên có vô số luận giải, chú giải.

c- Cũng có một số vấn đề Phật nói trong kinh điển được chấp nhận nhưng là
chấp nhận theo kiểu nhồi sọ, chấp nhận theo kiểu áp đặt mà không dựa vào suy
luận hợp lý, tư duy lôgic, không khảo sát sự thật.

2- Chánh tư duy khi đọc Kinh Luật Luận: Để có Chánh tư duy khi đọc Kinh Luật
Luận thì điều kiện tiên quyết là phải có Trí tuệ, có Minh lưu giữ vào bộ nhớ tâm
thức. Minh hay Trí tuệ có ba cấp độ Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ. Văn tuệ do nghe
giảng hoặc nghiên cứu kinh điển của bậc giác ngộ; Tư tuệ do tư duy về Văn tuệ;
Tu tuệ do tu tập Bát chánh đạo.

Trí tuệ hay Minh là HIỂU BIẾT ĐÚNG NHƯ THẬT các sự vật hiện tượng
(các pháp) bao gồm hiểu biết đúng như thật về duyên khởi, về vô thường, vô ngã,
về sự thật thực tại, về Khổ đế, Tập đế, Đạo đế, Diệt đế. Hiểu biết đúng như thật
hay còn gọi là Tuệ tri sáu xúc xứ; Tuệ tri từng chi phần của Bát tà đạo, từng chi
phần Bát chánh đạo; Tuệ tri Đạo đế gồm 37 chi phần gồm Tứ niệm xứ, Tứ chánh
cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo; Tuệ tri sơ
thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền; Tuệ tri Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát; Tuệ tri
5 tính chất của Giáo pháp là thiết thực hiện tại; đến để mà thấy; không bị chi phối
bởi thời gian; có tính hướng thượng; cho người trí tự mình giác ngộ…..

Khi đọc Kinh Luật Luận với lộ trình tâm Bát chánh đạo thì Chánh niệm sẽ
kích hoạt Minh và Chánh tư duy sẽ so sánh đối chiếu thông tin đang đọc với
thông tin Minh do Chánh niệm kích hoạt làm phát sinh Chánh tri kiến, hiểu biết
đúng sự thật về điều đang đọc. Kết quả là :
* Nếu điều đang đọc phù hợp với Vô minh chấp ngã, là thường kiến hay đoạn
kiến, là vô minh về lý duyên khởi, là đến để mà tin không phải đến để mà thấy,
cổ vũ cho tham ái, cho yêu thương…. không phù hợp với Minh, Trí tuệ thì đây là
những điều của người sau kết tập, chú giải, không phải là Giáo pháp của Phật nói
ra.

* Nếu điều đang đọc là đến để mà thấy, có tính phổ quát, đúng cho mọi không
gian, thời gian (không bị chi phối bởi không thời gian), đúng với sự thật duyên
khởi, đúng với sự thật vô thường, vô chủ vô sở hữu (vô ngã), đúng với Tứ thánh
đế, đưa đến chấm dứt tham ái, đưa đến chấm dứt khổ ngay bây giờ và tại đây,
đưa đến chấm dứt luân hồi tái sanh… thì đây là những điều Đức Phật đã chứng
ngộ và thuyết giảng.

Ví dụ như trong Kinh tạng có nhiều bài kinh nói đến Từ tâm giải thoát, nói
rằng tịnh tướng (đối tượng dễ chịu) là nguyên nhân làm phát sinh tham ái,
chướng ngại tướng (đối tượng khó chịu) là nguyên nhân phát sinh sân. Tu tập Từ
tâm giải thoát là để diệt trừ sân hận. Điều này sai sự thật, sai lời Phật dạy hay
đúng sự thật, đúng lời Phật dạy?

Quan điểm trên là đã tự mình mâu thuẫn, do tư duy không logic gọi là tư duy
theo kiểu trườn uốn như lươn. Vì sao? Vì tư duy logic, tư duy hợp lý là dựa vào
hiểu biết về Nhân Quả theo định thức: Cái này có do Cái kia có; Cái này sinh do
Cái kia sinh. Cái này không có do Cái kia không có; Cái này diệt do Cái kia diệt.
Vậy theo quan điểm này, thì Cái này có (Sân) do Cái kia có (Chướng ngại tướng)
; Cái này sinh (Sân) do Cái kia sinh (Chướng ngại tướng). Cái này không có
(Sân) do Cái kia không có (Chướng ngại tướng); Cái này diệt (Sân diệt) do Cái
kia diệt (Chướng ngại tướng diệt). Theo quy luật nhân quả, theo logic này thì Sân
diệt khi Chướng ngại tướng diệt. Vì vậy, để Sân diệt thì không thể tu tập từ tâm
để diệt trừ sân hận mà phải diệt Chướng ngại tướng, nên lý luận như trên gọi là
trườn uốn như lươn.

Quan điểm trên là sai sự thật, là vô minh, nghĩa là không phải đối tượng tịnh
tướng là nguyên nhân phát sinh tham, đối tượng chướng ngại tướng là nguyên
nhân phát sinh sân, mà HIỂU BIẾT KHÔNG ĐÚNG SỰ THẬT về đối tượng
tịnh tướng cũng như chướng ngại tướng, gọi là vô minh, là ý thức tà tri kiến trên
lộ trình tâm bát tà đạo mới là nguyên nhân phát sinh tham sân. Và logic của nó
là, khi chấm dứt được vô minh, chấm dứt Tà tri kiến, lúc đó sẽ chấm dứt Tham
Sân, không liên quan gì đến Từ bi hỷ xả. Điều này có thể kiểm chứng được khi
thực hành Tứ niệm xứ, khởi lên Bát chánh đạo, an trú Tỉnh giác hoặc Chánh tri
kiến thì kinh nghiệm, thân chứng lúc đó Tà tri kiến diệt, Tham sân si diệt liền.
Người đó Tuệ tri TÀ TRI KIẾN DIỆT THÌ THAM S N SI diệt, không liên quan
gì đến Từ bi hỷ xả.

Nếu đọc Trung bộ kinh thì có nhiều bản kinh đã chỉ rõ tu tập Từ bi hỷ xả để
sau khi thân hoại mạng chung được sinh cộng trú với Phạm thiên, nghĩa là pháp
tu của Bà la môn hướng đến tái sinh làm Phạm thiên, là pháp tu để luân hồi tái
sanh, không phải là của Phật. Pháp tu của Phật là để chấm dứt luân hồi tái sanh.
Pháp hành của Phật chính là Đạo đế là con đường tám chánh gồm: Chánh niệm -
Chánh tinh tấn - Chánh định - Chánh tư duy - Chánh tri kiến - Chánh ngữ -
Chánh nghiệp - Chánh mạng. Trong tám chánh này không có chỗ nào nói đến tu
tập Từ bi hỷ xả. Rộng hơn về Đạo đế có 37 chi phần gồm: Tứ niệm xứ, Tứ chánh
cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo cũng không
có chỗ nào nói đến tu tập Từ bi hỷ xả. Vậy Từ bi hỷ xả là của Bà la môn, tu để
luân hồi, để cộng trú với Phạm thiên trong thế giới quan của Bà la môn giáo
nhưng người đời sau kết tập vào kinh điển và mặc định do Phật nói ra.

Khi đọc Kinh Luật Luận với Chánh tư duy sẽ có Chánh tri kiến phân biệt đâu
là lời Phật dạy (Minh), đâu không phải Phật dạy (Vô minh). Trí tuệ này là Tu tuệ,
là Trí tuệ trạch pháp phân biệt Đúng Sai nội dung kinh điển, nó cũng có tác dụng
xoá bỏ Vô minh trong bộ nhớ tâm thức như câu chuyện Ông già và cô Nụ.

Link video:
https://www.facebook.com/thiensunguyentue/videos/398364951723542

Về mục lục

Bài 205: CHÂN NGHĨA PHẬT DẠY

Bốn mươi lăm năm thuyết giảng Đức Phật chỉ xoay quanh hai vấn đề: Khổ và
Chấm dứt Khổ. Mọi lời thuyết giảng của Phật, chỉ để làm sáng tỏ hai vấn đề này,
ngoài hai vấn đề này Ngài không đề cập đến vấn đề nào khác.

* Một là: Ngài xác nhận thế gian là khổ, cụ thể là vui ít khổ nhiều, não nhiều
mà nguy hiểm lại càng nhiều hơn. Và Ngài thuyết giảng cái HIỂU BIẾT ĐÚNG
SỰ THẬT Khổ đó và cả sự thật Nguyên nhân Khổ đó. Nhưng Ngài thuyết giảng
Sự thật Khổ và Nguyên nhân Khổ (Khổ đế và Tập đế) không phải với mục đích
làm cho người nghe bi quan, chán nản, chán ghét khổ, chán ghét thế gian đến nỗi
phải tự sát, cũng không phải với mục đích để người nghe chấp nhận khổ, cam
chịu khổ, sống tỉnh thức trọn vẹn với hiện tại khổ, an nhiên tự tại với khổ.

* Hai là: Không chỉ thuyết giảng Khổ của thực tại thế gian, Ngài còn thuyết
giảng có một thực tại khác, là thực tại xuất thế gian, không có khổ hay Khổ diệt.
Nhưng thực tại không có khổ đó, không phải thuộc về một miền đất hứa xa xôi
nào nó, vào một tương lai xa xôi nào đó, mà thực tại Khổ diệt đó, Khổ chấm dứt
đó, là ngay bây giờ và tại đây. Không những Ngài chỉ rõ có một thực tại xuất thế
gian khác với thực tại thế gian, không có khổ ngay bây giờ và tại đây mà Ngài
còn thuyết giảng chỉ rõ cách thức hay Con đường đạt được thực tại không có khổ
đó ngay bây giờ và tại đây (Diệt đế và Đạo đế).

Vì vậy, Giáo pháp mà Ngài thuyết giảng đưa đến mục đích tối hậu là Diệt đế,
là sự đoạn tận khổ đau, chấm dứt luân hồi sinh tử (thuật ngữ Phật học gọi là Niết
bàn) ngay bây giờ và tại đây, chứ không phải để cam chịu khổ, sống tỉnh thức
trọn ven với khổ, an nhiên tự tại với khổ. Giáo pháp đó cũng không phải để tìm
kiếm, để đạt đến hạnh phúc tối thượng, yêu thương tối thượng hay thần thông tối
thượng. Tu hành để tìm kiếm hạnh phúc, để có được yêu thương, gán cho Đức
Phật yêu thương tất thảy muôn vật muôn loài không có trong Giáo pháp, không
phải mục đích của tu học Phật giáo vì những cái đó là Nguyên nhân phát sinh
khổ.

Vậy những gì không liên quan đến Khổ và Chấm dứt Khổ hay rộng ra là
không liên quan đến Sự thật Khổ, Sự thật Nguyên nhân Khổ, Sự thật Chấm dứt
Khổ, Sự thật Con đường chấm dứt Khổ thì do người đời sau kết tập vào kinh
điển chứ không phải chân nghĩa lời dạy của Phật.

P/s: Có một số thiền sinh thắc mắc: Con đang thực hành Bát chánh đạo, an trú
được các tầng thiền, an trú Tỉnh giác, Chánh kiến, thân chứng được Tâm giải
thoát, Tuệ giải thoát con hạnh phúc vô cùng, sao sư nói tu không phải để được
hạnh phúc?

Phải phân biệt kỹ Cảm nhận được hạnh phúc như vậy khi thực hành xong, khi
ra khỏi Bát chánh đạo, lúc đó Bát tà đạo khởi lên, sẽ thích thú Bát chánh đạo đã
qua mà phát sinh Hạnh phúc tuyệt vời đó. Nhưng hạnh phúc này do tham (thích
thú) trạng thái tâm Bát chánh đạo mà phát sinh vẫn thuộc về Bát tà đạo, nhưng do
Tham ái Bát chánh đạo này, mà sẽ phát sinh tinh tấn tu tập Bát chánh đạo. Tham
này, hạnh phúc này khác biệt với mọi tham ái, mọi hạnh phúc khác. Tham ái này,
hạnh phúc này không đưa đến các công việc thế gian, không đưa đến ràng buộc,
không đưa đến khổ mà đưa đến tu tập Bát chánh đạo, đưa đến chấm dứt khổ. Vì
vậy, Đức Phật khuyến khích tham muốn duy nhất thuộc về Dục này và gọi nó là
Dục như ý túc (là một trong Tứ như ý túc), phải phát triển nó đầy đủ, viên mãn.
Nếu Dục như ý túc đầy đủ viên mãn không những đưa đến tinh tấn tu tập Bát
chánh đạo mà nó còn trực tiếp làm giảm thiểu các Dục, các tham muốn khác. Khi
tu tập, Bát chánh đạo khởi lên thì Dục như ý túc này cũng không còn nữa.

Về mục lục

Bài 206: CÁC PHÁP ĐỘC LẬP HAY PHỤ THUỘC

Bàn đến các pháp độc lập hay phụ thuộc là bàn đến mối quan hệ giữa các pháp
với nhau hay quan hệ giữa các sự vật hiện tượng với nhau. Quan hệ giữa các
pháp là quan hệ giữa pháp này (khi pháp đó đang tồn tại, đang hiện hữu) với các
pháp khác theo chiều thời gian và theo chiều không gian. Ví dụ, quan sát quan hệ
giữa một cây bưởi đang hiện hữu với các cái khác. Đó là quan hệ cây bưởi với
hạt bưởi và các cái khác đã sinh ra nó thuộc quá khứ và quan hệ của nó với
những cái khác sẽ xảy ra trong tương lai. Quan hệ của nó với các cái khác theo
chiều không gian như con người, mặt trăng, xe cộ… đang đồng thời hiện hữu với
nó.
Nhận thức hay hiểu biết về mối quan hệ giữa một sự vật, hiện tượng với thế
giới xung quanh theo chiều thời gian và không gian sẽ có hai loại nhận thức, hai
loại hiểu biết:

1- Loại hiểu biết thứ nhất: Các pháp phụ thuộc lẫn nhau, nương nhau mà hiện
hữu, tương tức tương nhập (cái này có trong cái kia, cái kia có trong cái này), cái
này là chủ nhân chủ sở hữu của cái kia. Đây chính là hiểu biết nhị nguyên Tâm
Vật của nhân loại.

Ví như nhận thức về mối quan hệ phụ thuộc của cái xe ô tô với các cái khác thì
con người cho rằng theo chiều thời gian nhà máy là nhân, sinh ra ô tô là quả, ô tô
là của nhà máy sản xuất ra nên quan hệ giữa nhà máy và ô tô là quan hệ chủ nhân
chủ sở hữu, là quan hệ phụ thuộc (ô tô là của nhà máy). Xe chạy lốp mòn tương
lai vứt ra làm phế liệu thì lốp phế liệu đó là của xe thải ra. Quan hệ giữa xe và
lốp phế liệu trong tương lai là quan hệ có chữ Của là quan hệ phụ thuộc. Đó là
quan hệ phụ thuộc theo thời gian. Theo chiều không gian xe đó của ông A cũng
là quan hệ phụ thuộc. Xe đó phụ thuộc mặt đất mới đỗ được mới hiện hữu được
nên phụ thuộc đất, phụ thuộc lái xe, đường sá, xăng dầu… Quan hệ của xe với
các đối tượng khác theo chiều không gian và thời gian là quan hệ phụ thuộc,
quan hệ chủ nhân chủ sở hữu, luôn tồn tại chữ CỦA.

Người đàn ông và đàn bà ràng buộc nhau, nương tựa nhau mà phát sinh một
gia đình rồi sinh con đẻ cái. Mối quan hệ đó là quan hệ phụ thuộc, quan hệ chủ
nhân chủ sở hữu biểu hiện bằng chữ CỦA, vợ của chồng, con của mẹ; con người
sống phụ thuộc lẫn nhau, phụ thuộc môi trường sống, phụ thuộc tổ chức, văn
hoá, chế độ chính trị…Nắng gắt của mùa hạ, gió rét của mùa đông, ngọt của
đường, mặn của muối, nóng của lửa, lạnh của nước đá, quả đất muốn tồn tại phải
có sức hút của mặt trời vv…

Không những người bình dân nhận thức là vậy mà các nhà bác học cũng nhận
thức như vậy nên mới có định luật về Hiệu ứng cánh bướm với nội dung là: Hễ
một con bướm ở bắc cực vỗ cánh thì sẽ phát sinh một trận bão ở nam cực. Lý do
là vì, tất cả các sự vật hiện tượng đều liên kết với nhau, phụ thuộc nhau, nối kết
với nhau thành một mạng lưới trải dài khắp vũ trụ. Hiệu ứng cánh bướm này
cũng tương tự như lý thuyết của Kinh Hoa Nghiêm nói về trùng trùng duyên
khởi, một trong tất cả, tất cả trong một.

Không riêng trong khoa học mà các tông phái Phật giáo đều mặc định là các
pháp không độc lập mà phụ thuộc lẫn nhau, nương nhau mà tồn tại. Họ đều nhận
thức Năm uẩn gồm Sắc Thọ Tưởng Hành Thức đồng thời tồn tại, Duyên hợp với
nhau (liên kết với nhau) mà tạo thành một chúng sanh. Tâm thì có Tâm vương và
Tâm sở và Tâm sở là loại tâm phụ thuộc vào Tâm vương, Tâm vương là chủ
nhân sở hữu Tâm sở. Có tông phái thuyết minh các sự vật hiện tượng liên kết với
nhau giống như Lưới Đế châu, một cái lưới châu ngọc của vua trời Đế thích được
đan dệt tinh vi mà mỗi mắt lưới có một viên ngọc minh châu sáng chói (ẩn dụ
cho một pháp, liên kết phụ thuộc các pháp khác). Có tông phái chủ trương các
pháp không độc lập mà phụ thuộc lẫn nhau, nương nhau mà hiện hữu nên các
pháp là vô tự tánh và vô ngã chính là tính chất vô tự tánh của các pháp.

Không những các pháp phụ thuộc vào nhau, liên kết với nhau biểu hiện bằng
chữ CỦA, thể hiện quan hệ giữa các pháp là quan hệ chủ nhân, chủ sở hữu, mà
trong hiểu biết nhị nguyên Tâm Vật của nhân loại tồn tại một cái Ta đồng nhất từ
quá khứ, hiện tại, vị lai, tiếng Hán gọi là Ngã, là chủ nhân chủ sở hữu của thân
tâm, lời nói việc làm, tài sản… Đó cũng chính là mối quan hệ phụ thuộc, quan hệ
chủ nhân chủ sở hữu.

*Hiểu biết các pháp không độc lập mà phụ thuộc vào nhau phát sinh do đâu?
Đó là do hiểu biết quy luật Nhân Quả hay Lý duyên khởi theo định thức: Một
Nhân phát sinh Một Quả, Nhân biến đổi thành Quả hoặc có bổ sung thêm là
Nhân chính biến đổi thành Quả có các Nhân phụ hoặc Duyên trợ giúp. Do hiểu
biết Nhân Quả theo kiểu Một Nhân biến đổi thành Một Quả cho nên Hệ quả là
Nhân trong Quả, Quả trong nhân, tương tức tương nhập, đồng thời tồn tại, các
pháp phụ thuộc vào nhau, nương nhau mà hiện hữu. Quan hệ giữa các pháp theo
chiều thời gian và không gian là quan hệ chủ nhân chủ sở hữu, biểu hiện bằng
chữ CỦA. Có hai Hệ quả quan trọng của hiểu biết này:

- Các pháp không sinh ra cũng không diệt đi mà chỉ biến đổi từ vật này sang vật
khác, từ chỗ này sang chỗ khác. Đây là một Tà kiến gọi là Thường kiến hay
Chấp thường. Khi hiểu các pháp vô thường là biến đổi thì lúc đó đã chấp thường
rồi.

- Có cái Ta hay Tự Ngã là chủ nhân chủ sở hữu của thân tâm, lời nói, hành động,
tài sản… chủ nhân chủ sở hữu các pháp là một Tà kiến gọi là Chấp Ngã.

2 - Loại hiểu biết thứ hai: Các pháp độc lập không phụ thuộc, không có pháp
nào là chủ nhân chủ sở hữu pháp nào, nghĩa là các pháp Vô chủ vô sở hữu đồng
nghĩa không có Ta (hay Tự Ngã) là chủ nhân chủ sở hữu của thân tâm, lời nói,
hành động, tài sả … thuật ngữ Phật học gọi là Vô Ngã.

* Hiểu biết các pháp độc lập, không phụ thuộc phát sinh do đâu? Đó là do hiểu
biết đúng sự thật quy luật Nhân Quả hay Lý duyên khởi theo định thức: Hai
Nhân tương tác với nhau (Duyên nhau) cùng diệt, phát sinh Một hay Nhiều Quả.

Ví như hai loại khí Hydro và Ôxy tương tác với nhau (tiếp xúc, duyên, phản
ứng) cùng diệt phát sinh Nước; Đá lửa và Bánh xe tương tác rồi cùng diệt (mòn
đi) phát sinh Tia lửa cùng Đá mới, Bánh xe mớ …Hệ quả của hiểu biết đúng sự
thật quy luật Nhân Quả gồm hai vấn đề:

- Các pháp do Duyên (tương tác) mà sinh cũng do Duyên mà diệt nên gọi là
PHÁP DUYÊN KHỞI, KHÔNG DO NH N BIẾN ĐỔI mà thành. Vì vậy, các
pháp sinh lên rồi diệt đi, không có pháp nào BIẾN ĐỔI thành pháp nào, nên nó
Vô thường, chỉ xuất hiện và biến mất một lần duy nhất không lặp lại. Hệ quả này
chấm dứt Chấp Thường.

- Quan hệ giữa các pháp theo chiều thời gian là nhân diệt quả sanh nên các pháp
độc lập không phụ thuộc, không tồn tại quan hệ chủ nhân chủ sở hữu. Quan hệ
giữa các pháp theo không gian là quan hệ tương tác, hai nhân tương tác rồi cùng
diệt phát sinh quả nên chúng độc lập, không có quan hệ chủ nhân chủ sở hữu. Vì
vậy, quan hệ giữa các pháp theo không gian và thời gian là QUAN HỆ TƯƠNG
TÁC nên chúng độc lập không phụ thuộc, không tồn tại quan hệ chủ nhân chủ sở
hữu. Cũng đồng nghĩa không tồn tại một cái Ta (Tự Ngã) có nghĩa là Vô Ngã.
Đây là nghĩa Vô Ngã mà Đức Phật đã khám phá và truyền dạy, chấm dứt Chấp
Ngã.

* Để Tuệ tri các pháp độc lập không ràng buộc phải quan sát và Chánh tư duy
theo đúng sự thật về quy luật Nhân Quả hay Lý duyên khởi. Quan sát có thể cấp
độ thô hoặc tế. Quan sát thô là quan sát theo tổng thể pháp đó gồm nhiều pháp
khác duyên khởi lên hay quan sát tế là quan sát từng chi tiết từng bộ phận ví như
quan sát cái ô tô là một pháp tổng thể là thô và quan sát từng bộ phận như cái xi
lanh hay piston… là tế thì vẫn phải tìm cho ra sự tương tác giữa hai nhân tố mới
phát sinh một hay nhiều quả. Quan sát và tư duy thật nhiều, thật nhiều các sự vật
hiện tượng đang xảy ra mà hàng ngày mắt thấy tai nghe thì sẽ tự mình khẳng
định MỌI QUAN HỆ CHỈ LÀ QUAN HỆ TƯƠNG TÁC. Vì vậy, các pháp là do
duyên khởi, các pháp vô thường, vô chủ vô sở hữu hay vô ngã, các pháp độc lập
không phụ thuộc. Trí tuệ này là trí tuệ tự mình đạt được không duyên một ai
khác.

* Máy tính lượng tử đã chứng minh được Hiệu ứng cánh bướm là sai, không
đúng sự thật. Cái hiện tượng một con bướm vỗ cánh ở bán cầu bắc sẽ gây ra một
trận bão ở bán cầu nam là điều tưởng tượng không xảy ra trong cuộc sống, nó chỉ
là tư duy lý luận suông nhưng khoa học dựa vào hiểu biết sai về quy luật nhân
quả mặc định nó là sự thật. Sở dĩ máy tính lượng tử đã chứng minh điều đó là sai
vì Vật lý lượng tử dựa vào một quan sát: Bắn hai photon vào nhau thì cả hai
photon cùng diệt và phát sinh hai photon mới. Vật lý lượng tử đã sử dụng kết quả
quan sát này phù hợp với quy luật nhân quả là: Hai nhân tương tác và cùng diệt
thì phát sinh một hay nhiều quả nên chứng minh được hiệu ứng cánh bướm là
sai.

* Tuệ tri các pháp độc lập, không phụ thuộc theo sự thật Lý duyên khởi cũng
sẽ Tuệ tri được: Tư tưởng phụ thuộc, ràng buộc phát sinh từ đâu. Điều này Đức
Phật đã thuyết giảng rõ như ban ngày với Mười hai nhân duyên: Duyên Vô minh
mà có Hành, duyên Hành mà có Thức, duyên Thức mà có Danh Sắc, duyên Danh
Sắc mà có Lục nhập, duyên Lục nhập mà có Xúc, duyên Xúc mà có Thọ, duyên
Thọ mà có Ái, duyên Ái mà có Thủ (Ràng buộc, phụ thuộc), duyên Thủ mà có
Hữu, duyên Hữu mà có Sinh, duyên Sinh có Già chết sầu bi khổ ưu não không
thể kể xiết. Tóm tắt: duyên Vô minh là hiểu biết sai Lý duyên khởi (Một Nhân
sinh Một Quả, Nhân biến đổi thành Quả) mà có Ái, duyên Ái mà có Thủ là ràng
buộc, phụ thuộc. Hãy quan sát điều này trong cuộc sống hàng ngày. Ví như anh
thanh niên không yêu (Ái) cô gái nọ sẽ không cưới cô ta làm vợ, sẽ không có tư
tưởng làm chủ, sở hữu rằng cô này là vợ của Ta, không có tư tưởng cha mẹ, anh
em cô ta là của Ta, không có tư tưởng phụ thuộc, ràng buộc mà độc lập với các
đối tượng đó. Nhưng nếu anh ta yêu cô ta, cưới cô ta làm vợ thì anh ta sẽ sống
với nhận thức, với tư tưởng làm chủ, sở hữu rằng cô này là vợ của Ta, cha mẹ
anh em cô này là của Ta và đương nhiên sẽ phụ thuộc, sẽ ràng buộc, không còn
độc lập với các đối tượng đó.

* Bị Vô minh che đậy, bị Tham ái sai khiến con người sống bởi tư tưởng làm
chủ, tư tưởng sở hữu, ràng buộc nhưng lại áp đặt cái tư tưởng tà kiến đó cho các
pháp, cho thế giới là phụ thuộc lẫn nhau, nương nhau mà hiện hữu. Chừng nào mà
Văn Tư Tu chấm dứt được Vô minh, chấm dứt hiểu biết sai về Lý duyên khởi,
chấm dứt được Chấp Thường, Chấp Ngã thì sẽ sống với Minh, với nhận thức Vô
thường, Vô chủ vô sở hữu thì sẽ sống đúng với tính chất các pháp là độc lập
không ràng buộc, giải thoát không hệ luỵ. Lúc đó là Giải thoát mọi ràng buộc
không còn chấp thủ.

(Đăng ngày 20.9.2021)

Về mục lục

Bài 207: PHÂN BIỆT GIỚI VÀ LUẬT

Các tín đồ Phật giáo cả Bắc tông và Nam tông hiện nay đa phần đều không phân
biệt được Giới và Luật mà đồng hoá hai khái niệm này làm một. Thậm chí một số
bài kinh cũng đồng hoá Giới và Luật làm một. Vì vậy do hiểu biết sai, cho Giới là
Luật, Luật là Giới dẫn đến chấp thủ, ràng buộc không thể giải thoát.

Trong kinh điển không nói đến Giới như một lĩnh vực riêng biệt mà chỉ đề cập
đến hai vấn đề: Pháp và Luật. Trong Tam Tạng kinh điển cũng chỉ có Kinh Luật
Luận mà không có danh mục Giới riêng biệt. Vậy thì Giới thuộc lĩnh vực nào,
được nói đến ở đâu ?

1- GIỚI: Trong hai vấn đề Pháp và Luật mà Đức Phật thuyết giảng thì Pháp
là lĩnh vực mà Ngài tự mình khám phá ra, không thầy chỉ dạy. Pháp là Tứ thánh
đế hay Bốn sự thật, Bốn chân lý mà bậc Thánh đã giác ngộ. Tứ thánh đế là sự
thật, là chân lý nên có tính phổ quát, nghĩa là đúng cho mọi người, mọi lúc, mọi
nơi, nghĩa là không thay đổi, không bị chi phối bởi thời gian, không gian, không
ai can thiệp sửa đổi được nó. Tứ Thánh Đế gồm Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo
đế. Đạo đế là Bát chánh đạo bao gồm tám chi phần: Chánh niệm - Chánh tinh tấn
- Chánh định - Chánh tư duy - Chánh tri kiến - Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh
mạng.

Tám chi phần của Bát chánh đạo lại được chia làm ba nhóm (ba uẩn) gồm : Định -
Tuệ - Giới. Trong đó Nhóm Định (Định uẩn) có: Chánh niệm - Chánh tinh tấn -
Chánh định; Nhóm Tuệ (Tuệ uẩn) có : Chánh tư duy - Chánh tri kiến; Nhóm Giới
(Giới uẩn) có : Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng.

Vì vậy Giới thuộc về Pháp chứ không thuộc Luật và Giới là chân lý, là sự thật
có tính phổ quát không bị chi phối bởi không gian thời gian, không ai can thiệp
sửa đổi được Giới. Hễ bất kỳ ai, thời gian không gian nào mà khởi lên lộ trình tâm
Bát chánh đạo với trục chính là Chánh niệm - Chánh định - Chánh tri kiến (Niệm
- Định - Tuệ) thì Giới (Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng) sẽ có mặt.

Giới sẽ tự động khởi lên trên lộ trình tâm Bát chánh đạo có Niệm - Định - Tuệ
hay nói gọn là khi có Định và Tuệ thì sẽ có Giới. Vì vậy, Giới là sản phẩm của
Định Tuệ, hễ có Định Tuệ là có Giới, không phải Định Tuệ là sản phẩm của Giới.
Vậy nên, chỉ cần tu tập để có Định Tuệ thì tự khắc có Giới, không thể tu tập Giới
mà có Định Tuệ được. Chính vì thế mà Pháp hành Đức Phật truyền dạy gồm 37
chi phần: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác
chi, Bát chánh đạo thì chỉ đề cập tu tập Niệm, Tinh tấn, Định, Tuệ không có pháp
nào tu tập Giới cả. Vì sao? Vì tu tập Niệm, Tinh tấn, Định, Tuệ thì Giới sẽ phát
sinh. Chính vì điều này mà trong kinh điển không thấy Đức Phật chế ra một Giới
nào cả, Đức Phật cũng không làm được điều đó, vì Giới thuộc chân lý, thuộc sự
thật phổ quát, không có ai chế ra Giới cả.

2- LUẬT: Luật là những điều mà Đức Phật chế định ra với mục đích ngăn chặn
những tệ nạn xấu xa đã, đang và sẽ xuất hiện trong đời sống Tăng đoàn, để người
chưa có đức tin thì có được đức tin nơi Tăng đoàn, người đã có đức tin sẽ không
thối chuyển, được tăng trưởng, để cho các vị tỷ kheo hiền thiện được yên ổn tu
học, để cho Chánh pháp được tồn tại lâu dài.
Các điều luật mà Đức Phật chế định gồm có 227 điều luật của Tỷ kheo, trên 300
điều luật của Tỷ kheo ni, hằng trăm điều học khác để có được lời nói, hành động,
oai nghi của đời sống Phạm hạnh. Các điều học của Phật tử tại gia như 5 điều
cấm, 8 điều cấm… không do Phật chế mà tiếp thu từ đời sống tôn giáo Ấn độ thời
bấy giờ. Các điều luật được chế định là những điều cấm kỵ không được làm
nhưng còn kèm theo các chế tài, xử phạt nếu vi phạm, mục đích là tránh tái phạm
trong tương lai.

Đọc, nghiên cứu Tạng Luật sẽ thấy có một số chư Phật quá khứ không chế định
Luật, chỉ có Pháp thôi, còn Đức Phật Thích ca gần 20 năm đầu lịch sử Tăng đoàn
chưa chế định một điều luật nào. Cho đến khi trong Tăng đoàn xuất hiện nhiều tệ
nạn, lúc đó Đức Phật mới bắt đầu chế định các điều luật. Tạng Luật trình bày rõ
ràng cụ thể điều luật đó được Đức Phật chế định trong trường hợp nào, do Tỷ
kheo nào làm bậy và hình phạt là như thế nào. Ví như điều luật cấm uống rượu
được Phật quy định là do một vị Tỷ kheo giúp dân làng diệt được rồng dữ (loài
rắn lớn dữ) dân làng dâng rượu và vị đó uống nhiều đến say bí tỉ nên có những
hành động phản cảm. Điều luật tỷ kheo 15 ngày mới được tắm một lần, ai chưa đủ
15 ngày mà tắm sẽ phạm tội tác ác do mùa khô ở Ma kiệt đà nước sông cạn kiệt
và các Tỷ kheo suốt ngày xuống sông tắm làm cản trở việc lấy nước, sinh hoạt,
tắm rửa của dân chúng cũng như vua chúa quý tộc bấy giờ. Cấm sát sinh được
Đức Phật chế là do dân chúng và các tỷ kheo phàn nàn về một vị tỷ kheo thuở xưa
làm nghề săn bắn nên khi xuất gia vẫn hàng ngày tiêu khiển bằng trò bắn quạ rồi
cắm xác các con quạ bắn được lên thành hàng dài trên bờ rào. Điều luật cấm hành
dâm khi hai mẹ con xuất gia thành tỷ kheo và tỷ kheo ni mà lại đi giao cấu với
nhau vv….

Các điều luật đó không cố định về số lượng mà tuỳ thuộc vào tệ nạn xảy ra.
Khi Đức Phật nhập diệt tuy tệ nạn vẫn tiếp tục xảy ra nhưng không còn chế định
luật, một số điều luật tủn mủn khi nhập diệt, Đức Phật căn dặn chư Tăng có thể bỏ
đi. Không những số điều luật không cố định mà nội dung các điều luật cũng linh
động, không cứng nhắc, có thể áp dụng chỗ này mà không áp dụng chỗ kia, có thể
áp dụng thời kỳ này mà không áp dụng thời kỳ kia. Ví dụ như 15 ngày mới được
tắm một lần ở Ma kiệt đà nhưng ở những nơi quanh năm đầy nước thì Đức Phật
không cấm tắm mỗi ngày, ở xứ lạnh bắc cực thì không thể chỉ có ba y như xứ Ấn
Độ…

Luật là pháp được chế định không phải là chân lý, không phải là sự thật phổ
quát nên bị chi phối bởi thời gian và không gian. Nghĩa là áp dụng cho chỗ này,
cho thời kỳ này mà không áp dụng cho chỗ kia, thời gian kia, cho Phật giáo nhưng
không áp dụng được với Thiên Chúa giáo, áp dụng cho Phật tử nhưng không áp
dụng cho người không Phật tử. Luật là quy ước, là quy định của một tổ chức, một
đoàn thể, một tôn giáo tương tự như luật pháp của một nước. Mỗi tôn giáo đều có
Luật khác nhau. Luật đóng vai trò làm nhiệm vụ quản lý, chế tài các thành viên
của tổ chức (tôn giáo đó), ai vi phạm các điều cấm đó sẽ bị chế tài, bị trừng phạt,
bị khiển trách hay bị đuổi ra khỏi tổ chức nên Luật có tính chất trói buộc.

Vì vậy, Luật mà Phật chế ra là công cụ để quản lý một tổ chức gọi là Phật giáo, để
tổ chức đó tồn tại, để quản lý các thành viên của tổ chức Phật giáo gọi là Phật tử,
để răn đe, chế tài, trừng phạt, khiển trách hoặc đuổi thành viên đó ra khỏi tổ chức
Phật giáo. Và Luật đó chỉ áp dụng đối với người Phật tử, vùng đất mà người Phật
tử sinh sống, không áp dụng với các đối tượng và vùng đất khác. Bản chất của
Luật là chế tài, là trói buộc. Tạng Luật còn thuyết minh một số vị Phật thời quá
khứ không chế định Luật mà chỉ có Pháp thôi.

Ngược lại Giới thì không như vậy, Giới là giải thoát (Vô tác giải thoát), Giới
thuộc Pháp, là chân lý, là sự thật phổ quát áp dụng cho mọi đối tượng mọi không
gian thời gian. Dù là người Cơ đốc giáo, Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo hay không
thuộc tôn giáo nào, dù nước Mỹ hay Trung hoa nhưng Tứ thánh đế áp dụng cho
mỗi người đều không sai khác. Và hễ ai tu tập đúng, Bát chánh đạo khởi lên thì
Giới gồm Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng đều khởi lên đầy đủ, không sai
khác.

* Trường hợp Luật đồng nhất với Giới: Khi lộ trình tâm Bát chánh đạo của
vị hữu học hay vô học khởi lên với trục chính là Chánh niệm - Chánh định -
Chánh kiến thì Giới gồm Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng là lời nói, hành
động, ăn uống nuôi mạng không có Tham Sân Si sẽ khởi lên tròn đủ. Lúc đó
không có một điều luật nào Phật chế định bị vi phạm, bị chế tài. Vì sao? Vì Luật
bị vi phạm, bị chế tài khi tâm có tham sân si, còn khi Bát chánh đạo khởi lên,
không có tham sân si thì không thể phạm luật, luật không còn ràng buộc, chế tài
vị đó. Lúc đó các điều luật như không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm….
đồng nhất với Giới. Một vị hữu học khi tâm là Bát chánh đạo thì cả Giới và Luật
đều tròn đủ.

* Trường hợp Luật khác với Giới: Khi một người không tu tập Bát chánh
đạo có thể họ thực hành không vi phạm các điều luật thì họ đủ tư cách tồn tại
trong đoàn thể Phật giáo, không ai chê trách, phê phán họ, tự họ không áy náy về
tư cách pháp nhân Phật tử của mình. Họ đầy đủ về Luật nhưng chưa có Giới, họ
mới chỉ là thành viên GIA NHẬP PHẬT GIÁO chứ chưa tu học Phật giáo. Tuy
họ giữ gìn không phạm Luật như không sát sanh, không trộm cắp, không tà
dâm… nhưng với tâm Bát tà đạo, với tà kiến, với tham sân si. Ví như thực hiện
không sát sinh do (Tham) muốn tương lai được khoẻ mạnh, sống lâu, tái sinh
thành người xinh đẹp, vì (Sân) sợ hãi khi chết bị đoạ địa ngục, bị sanh làm súc
sanh đền tội, vì (Tham) muốn được sống trong Tăng đoàn kiếm sống dễ dàng,
được cung kính trọng vọng, lợi dưỡng, khi chết được nhập vào Niết bàn an hưởng
hạnh phúc tuyệt đối của Niết bàn vv… nên giữ gìn các điều luật không vi phạm.
Đối với những người này thì Giới và Luật là khác nhau, họ có Luật nhưng không
có Giới. Nếu người nào nói cái họ có đó chính là Giới thì Giới đó là Giới cấm thủ
chứ không phải là Giới trong Bát chánh đạo, không phải là Giới trong Giới Luật
bậc thánh.

(Đăng ngày 22.09.2021)

Về mục lục

Bài 208: NHÌN ĐỜI BẰNG CON MẮT TUỆ

Có hai cách nhìn đời: Nhìn đời bằng con mắt Vô minh, thích ghét và Nhìn đời
bằng con mắt Tuệ, giải thoát.
- Cách nhìn đời thứ nhất của đa số nhân loại là nhìn đời bằng con mắt Vô minh
nên như có những người đã dùng từ là “đui mù” trước thực tại cuộc đời và vì thế
mà thích ghét, ràng buộc, nô lệ, khổ vui hệ luỵ với các sự việc của cuộc đời.
- Cách nhìn đời thứ hai là nhìn đời bằng con mắt Tuệ do Đức Phật Thích ca khám
phá ra. Đó là nhìn đời bởi “TUỆ TRI VỊ NGỌT, SỰ NGUY HIỂM VÀ SỰ
XUẤT LY”. Nghĩa là khi thấy, nghe, cảm nhận sự việc thì sẽ phân tích, so sánh,
đối chiếu sự việc đó với “Tuệ tri vị ngọt, sự nguy hiểm, sự xuất ly”. Phân tích so
sánh đối chiếu như vậy sẽ làm phát sinh ngay liền hiểu biết đúng sự thật mà Phật
học gọi là Tuệ tri: Sự việc đó là Cảm thọ, tiếng Việt gọi là Cảm giác do Căn Trần
tiếp xúc (hay tương tác) mà phát sinh, nó là Tâm chứ không phải Vật, nó vô
thường, vô chủ sở hữu. Sự việc đó có vị ngọt, có niềm vui hạnh phúc, khả lạc khả
hỷ, khả ý, hấp dẫn, kích thích lòng dục nhưng nó chỉ là Lạc thọ, một Cảm giác dễ
chịu. Nếu thích nó, tham ái nó thì sẽ rất nguy hiểm vì khi đã tham ái thì sẽ ràng
buộc với nó, muốn nó là của mình mãi mãi. Và vì Cảm giác dễ chịu đó vô thường
nên khi nó biến hoại, biến diệt, mất đi sầu bi khổ não sẽ khởi lên. Do Tuệ tri Vị
ngọt và Sự nguy hiểm mà sẽ Tuệ tri được sự xuất ly là không thích ghét, không
ràng buộc, không nô lệ, không khổ vui, không hệ luỵ với sự việc đó, giải thoát
khỏi sự việc đó.
Hãy thường xuyên nhiều lần và nhiều lần hàng ngày phải luyện tập cách nhìn đời
bằng con mắt Tuệ cho thuần thục để nó trở thành một thói quen cốt lõi của cuộc
đời. Đây chính là Trí tuệ giác ngộ mà Đức Phật đã khám phá và tuyên bố trong
bản kinh Phạm Võng thuộc Trường bộ kinh : “Này các Tỷ kheo, Như Lai nhờ tuệ
tri sự sinh diệt của thọ, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của thọ mà Như Lai
được giải thoát hoàn toàn không còn chấp thủ”.
(Đăng ngày 24.09.2021)

Về mục lục

Bài 209: BỜ NÀY VÀ BỜ KIA

Trong kinh điển Phật giáo thường nói đến bờ này và bờ kia. Theo nghĩa đen thì bờ
này và bờ kia chỉ cho hai bờ của một dòng sông, hai bờ bị chia cắt, bị tách biệt bởi
dòng sông. Nghĩa bóng của bờ này bờ kia là để chỉ cho hai đời sống, hai thực tại
của Phàm và Thánh. Bờ này là đời sống, là thực tại của Phàm phu, gọi là thực tại
Thế gian mà Phàm phu đã kinh nghiệm và đang sống trong nó. Bờ kia là đời sống,
là thực tại của những người giác ngộ, đã chấm dứt khổ, gọi là thực tại Xuất thế
gian. Dòng sông rộng dài, dữ dội, nguy hiểm chia cắt bờ này, bờ kia chính là dòng
sông tham sân si.
Đối với Phàm phu sống ở bờ này thì bờ kia là thế giới xa xôi vì chưa từng đặt
chân đến, bởi dòng sông quá rộng lớn, quá dữ dội, quá nguy hiểm, không có
phương tiện gì để vượt qua. Tuy nghe đồn rằng bên kia sông là một miền đất hứa
kỳ diệu, nơi không còn phải lao tâm khổ trí, nơi không còn khổ đau như bên này,
nhưng không có cách nào sang bờ kia để mắt thấy tai nghe miền đất hứa đó như
thế nào, nên họ đành phải ngồi bờ bên này mà suy đoán vậy.
Sự suy đoán ấy tất nhiên phải dựa vào cuộc sống của bờ này và những ước mơ
của bờ này. Và con người sống ở bờ này, sống với thực tại Thế gian là sống với
Yêu và Ghét, vì vậy có Vui và Khổ mà thuật ngữ Phật học gọi là sống với Tham
và Sân, nên có Hạnh phúc và Khổ đau. Họ mặc định rằng Yêu thương là Hạnh
phúc, Chán ghét, thù hận là Khổ đau và vì vậy mà mơ ước của họ là chuyển hoá
Chán ghét thành Yêu thương thì Khổ đau sẽ chuyển hoá thành Hạnh phúc. Và vì
hiểu biết như vậy, mà bờ kia, thực tại Xuất thế gian sẽ hiện ra với họ, lung linh
huyền diệu, tràn đầy Yêu thương và Hạnh phúc, không còn mảy may Thù hận và
Khổ đau.
Chính vì chưa một lần bước qua bờ kia để tận mắt nhìn thấy nó, nên Phàm phu
suy diễn, tưởng tượng ra bờ kia theo hiểu biết Vô minh, tà kiến của mình nhưng
lại mặc định rằng, bờ kia là như vậy, tràn đầy Yêu thương và Hạnh phúc.
Phải đến để mà thấy, phải đi đến bờ kia để mà tận mắt chứng kiến đó là nơi “VÔ
THƯỢNG AN ỔN THOÁT KHỎI MỌI KHỔ ÁCH”. Ở đó không có Khổ đau
nhưng cũng không có Hạnh phúc, không có Tham và Sân nên cũng không có cả
Yêu thương lẫn Thù hận. Vậy phải đến đó, đến bờ kia bằng cách nào?
Đến đó bằng Văn tuệ, là nghe giảng, hoặc tự mình nghiên cứu kinh điển để
hiểu biết đúng như thật Khổ diệt hay Diệt đế (Niết bàn) và Con đường Khổ diệt
hay Đạo đế (Bát chánh đạo). Đó là trạm bè qua sông thứ nhất, tiếp đến trạm bè
thứ hai là Tư tuệ, là tư duy về điều đã nghe, đã học để hiểu biết đúng như thật về
Diệt đế và Đạo đế một cách sâu sắc, lớn rộng, toàn diện hơn. Tiếp đến trạm bè thứ
ba là Tu tuệ, là tu tập Tứ niệm xứ để thân chứng Tâm giải thoát, Tuệ giải thoát.
Đó chính là đến bờ kia. Chỉ khi nào đến bờ kia bằng cái bè Văn tuệ, Tư tuệ, Tu
tuệ thì mới thoát ra khỏi hiểu biết thế gian, hiểu biết vô minh tà kiến, hiểu biết sai
sự thật về bờ kia, về Khổ diệt Niết bàn. Lúc đó sẽ không còn loay hoay, quanh
quẩn với tư duy lý luận suông về Khổ diệt, Niết bàn, không còn lầm nhận Niết
bàn là tràn ngập yêu thương và hạnh phúc. Tại đó sẽ tuệ tri toàn triệt Yêu thương
chính là Tham ái, là luyến ái phát sinh từ vô minh chấp ngã, là nguyên nhân phát
sinh Khổ chứ không bao giờ đưa đến Khổ diệt, Niết bàn.
Mấy ai đến được bờ kia mà đa phần quanh quẩn nơi bờ này là sự thật được in đậm
nét trong kinh điển. Đa phần người học Phật cũng đóng một cái bè nhưng thay vì
đem cái bè đó để vượt sông, để đến bờ bên kia thì họ lại để bè trên bờ rồi nằm lên
bè, nhắm tịt mắt lại và ra sức chống chèo. Kết quả là bè vẫn ở nguyên tại chỗ, ở
bờ bên này cho dù có ra sức chèo chống suốt cả nhiều a tăng kỳ kiếp đi nữa thì
vẫn không đến được bờ kia, trái ngược với lời dạy của Phật tối thiểu là bảy ngày,
tối đa là bảy năm sẽ đến bờ kia. Vì sao vậy? Vì ngay từ đầu họ đã được giáo dục
tu là để thấy khổ, thấy các pháp là khổ, năm uẩn là khổ, để sống trọn vẹn với khổ,
ung dung với khổ chứ không đề cập đến tu là để thấy Khổ diệt, Niết bàn. Vì vậy,
ở lại bờ này mới có khổ, mới thấy khổ, mới sống trọn vẹn tỉnh thức với khổ được.
Bờ kia đâu còn khổ để mà thấy khổ, để sống trọn vẹn tỉnh thức, ung dung với khổ
được.
(Đăng ngày 29.9.2021)

Nguồn tham khảo:

https://www.facebook.com/thiensunguyentue

https://www.facebook.com/batchanhdao08032019
Sư Nguyên Tuệ

Về mục lục

You might also like