Professional Documents
Culture Documents
BẦU CỬ ỨNG CỬ
BẦU CỬ ỨNG CỬ
Theo cơ chế "ủy quyền chịu lệnh", cử tri bầu ra đại biểu ở từng đơn vị bầu
cử, ủy quyền cho đại biểu thực hiện quyền đại diện và có quyền bãi nhiệm
đại biểu nếu không gắn bó chặt chẽ với cử tri, không hoàn thành nhiệm vụ,
không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Ngược lại, theo cơ chế
"ủy quyền tự do", cho dù đại biểu được bầu theo từng khu vực bầu cử,
nhưng đó là người đại diện cho cả dân tộc nên không thể bị cử tri ở đơn vị
bầu cử bãi nhiệm. Chế độ bầu cử ở nước ta áp dụng cơ chế “ủy quyền chịu
lệnh” là chủ yếu nhưng có kết hợp với cơ chế “ủy quyền tự do” thể hiện ở
những điểm sau:
(i) Quyền bầu cử theo nghĩa rộng bao hàm cả quyền bãi nhiệm.
(ii) Khẳng định tính chất đại diện và trách nhiệm của đại biểu. ĐBQH là
người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử
ra mình và của nhân dân cả nước, thay mặt nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước trong Quốc hội; chịu trách nhiệm trước cử tri và
trước Quốc hội
(iii) Bằng cơ chế ủy quyền chịu lệnh, nhân dân có điều kiện để trực tiếp
giám sát đại biểu, qua đó kiểm soát quyền lực nhà nước. Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng, “Nhân dân có quyền bãi miễn ĐBQH... Nguyên
tắc ấy bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu của
mình”
(iv) Thiết lập mối quan hệ gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm giữa
ĐBQH với cử tri, nhất là cử tri ở đơn vị bầu cử thông qua sự giám
sát của cử tri, tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, tiếp nhận, phản ánh, xử
lý ý kiến, kiến nghị cử tri, khiếu nại tố cáo của công dân...
- Chế độ bầu cử gắn với quan điểm đại biểu đại diện xuất thân theo cơ cấu, thành phần
xã hội, ngành nghề, lĩnh vực
ĐBQH đại diện theo cơ cấu, thành phần xã hội ở các nước XHCN xuất phát
từ quan điểm cho rằng trong nhà nước vô sản kiểu mới, Quốc hội là cơ
quan vừa "lập pháp" vừa "hành động", gồm các đại biểu vừa là người xây
dựng pháp luật, đồng thời cũng là người thực hiện pháp luật và kiểm tra tác
dụng của pháp luật. Các đại biểu làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, làm đại
biểu không phải là một nghề chuyên nghiệp, đặc quyền như trong chế độ
đại nghị của các nước tư sản. V.I.Lênin nhấn mạnh, những cơ quan của chế
độ đại nghị sẽ dần dần được thay thế bằng các Xô-viết đại biểu nhân dân do
các giai cấp và các nghề nghiệp, hoặc còn do các địa phương bầu lên .
Trong Quốc hội theo mô hình Xô-viết, các đại biểu phải sống và công tác
gắn bó với nhân dân, hiểu được một cách cặn kẽ tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân. ĐBQH phải xuất thân từ các giai tầng, ngành nghề và lĩnh vực
công tác để đại diện tiêu biểu cho cơ cấu, thành phần xã hội tương ứng. Đề
cao sự đại diện về thành phần xuất thân hoặc lĩnh vực công tác là yêu cầu
đặt ra trong bầu cử ở các nướcbiểu nhân dân do các giai cấp và các nghề
nghiệp, hoặc còn do các địa phương bầu lên XHCN trước đây và ở nước ta
hiện nay cho dù tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đã có sự đổi
mới. Chế độ bầu cử ĐBQH gắn với quan điểm đại biểu đại diện xuất thân
theo cơ cấu, thành phần xã hội cả về lý thuyết và thực tiễn đang đặt ra
những vấn đề rất khó giải quyết trong tiến trình đổi mới tổ chức, hoạt động
của Quốc hội, bầu cử ĐBQH.
5. Việc đổi mới chế độ bầu cử ở nước ta
- Đặc điểm và nguyên nhân nên dẫn đến việc đổi mới chế độ bầu cử hiện
nay ở nước ta:
Đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH là sự thay đổi của chế độ bầu cử nhưng khác
với cải cách, hoàn thiện chế độ bầu cử
Một là, đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH được thực hiện khi điều kiện chính
trị - xã hội có sự thay đổi căn bản. Đổi mới chế độ bầu cử dễ nhận thấy qua
những cuộc cải cách bầu cử có tính bước ngoặt diễn ra khi thay đổi chế độ
chính trị, chuyển đổi nền dân chủ. Đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH ở nước ta
diễn ra trong bối cảnh tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ XHCN;
Hai là, đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH là quá trình mang tính tất yếu khách
quan khi đời sống chính trị - xã hội đã có sự thay đổi. Đổi mới được đề xuất
và thực hiện thông qua những hành động chủ quan nhưng trên cơ sở nhận
thức nhu cầu khách quan và tuân theo quy luật khách quan. Những cản trở
có chủ ý chỉ có thể làm chậm quá trình đổi mới mà không thể thay đổi xu
thế tất yếu của đổi mới
Ba là, đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH là một quá trình, diễn ra trong thời
gian dài khi bối cảnh chính trị - xã hội thay đổi. Mặc dù có thể được bắt đầu
bằng những cuộc cải cách lớn như thay đổi hệ thống bỏ phiếu, mô hình
quản lý bầu cử nhưng đổi mới chế độ bầu cử vẫn tiếp tục được thực hiện
qua các bước cải cách, hoàn thiện tổng thể để chế độ bầu cử thích nghi hoàn
toàn với điều kiện chính trị - xã hội.
Bốn là, đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH là sự thay đổi có tính tổng thể, toàn
diện và căn bản. Kết quả của quá trình đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH là
hình thành một chế độ bầu cử mới, dân chủ và tiến bộ hơn so với chế độ
bầu cử trước đó
Năm là, đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH có mối liên hệ chặt chẽ, tác động sâu
sắc tới sự vận hành của HTCT và nền dân chủ. Đổi mới chế độ bầu cử
ĐBQH đúng hướng sẽ thúc đẩy quá trình mở rộng dân chủ và ổn định chính
trị. Ngược lại, có thể gây ra những hậu quả tiêu cực ngoài tầm dự báo,
không thể lường trước.
Đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH ở nước ta và cải cách bầu cử theo quan điểm
của các học giả nước ngoài có những điểm tương đồng, dùng để chỉ sự thay
đổi của chế độ bầu cử. Tuy nhiên, đổi mới là một quá trình thay đổi theo
hướng tích cực, có tính toàn diện, khác với cải cách, hoàn thiện chế độ bầu
cử ĐBQH. Đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH khác với cải cách bầu cử ĐBQH
ở quy mô và cách thức thay đổi. Theo quan niệm chung, mặc dù đều tạo ra
sự thay đổi nhưng cải cách chỉ là những sự biến đổi riêng lẻ, bộ phận. Đổi
mới rộng hơn, hàm chứa những nội dung của cải cách. Cải cách được thực
hiện theo một chương trình, kế hoạch định sẵn với thời gian, phương thức
và mục tiêu cụ thể. Đổi mới thường thể hiện sự thay đổi mang tính tất yếu
khách quan, toàn diện, thực hiện trong thời gian dài. Cải cách chế độ bầu cử
được thực hiện riêng lẻ với từng yếu tố cấu thành, còn đổi mới được thực
hiện lâu dài, bao gồm nhiều bước cải cách, kết quả đổi mới có tính tổng thể.
Đổi mới khác với hoàn thiện chế độ bầu cử ĐBQH ở mức độ và tính chất
của sự thay đổi. Đổi mới là quá trình tạo ra cái mới, thay đổi khác biệt về
chất. Trong khi hoàn thiện chỉ tạo ra sự thay đổi về lượng, không tạo ra sự
thay đổi về chất. Hoàn thiện chế độ bầu cử ĐBQH mang tính bổ khuyết làm
cho các yếu tố cấu thành của chế độ bầu cử được hoàn thiện, tiệm cận với
trạng thái vốn có, không tạo ra cái mới thực sự khác biệt.
6. Một số đề xuất về phương thức đổi mới bầu cử nước ta
Phương thức đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH là cách thức thực hiện các bước
thay đổi những nội dung của chế độ bầu cử theo hướng dân chủ và tiến bộ,
phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội ở mỗi giai đoạn.
(i) Ghi nhận và bảo đảm thực thi toàn diện, đầy đủ các nguyên tắc bầu
cử tiến bộ. Lịch sử hình thành và phát triển lâu dài của chế độ bầu cử
đã thừa nhận các nguyên tắc bầu cử phổ thông, tự do, bình đẳng, trực
tiếp và bỏ phiếu kín. Hiến định các nguyên tắc bầu cử trong Hiến
pháp tạo cơ sở pháp lý cao nhất, có tính nền tảng cho việc định hình
và vận hành chế độ nói chung và bầu cử ĐBQH nói riêng. Xét trên
phương diện tổng quát, đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH là quá trình
ghi nhận, cụ thể hóa các nguyên tắc bầu cử thành các quy định pháp
luật và bảo đảm cho các nguyên tắc này được tuân thủ, áp dụng đầy
đủ trong thực tiễn bầu cử ĐBQH.
(ii) Mở rộng và bảo đảm thực chất quyền bầu cử và ứng cử. Đổi mới
chế độ bầu cử ĐBQH nhằm xác lập căn cứ pháp lý và các điều kiện
thực tiễn để thực thi đầy đủ quyền bầu cử và ứng cử với tính chất là
các quyền con người. Sửa đổi những quy định pháp luật quốc gia và
thực tiễn triển khai quy trình, thủ tục tổ chức bầu cử trực tiếp hoặc
gián tiếp làm thu hẹp, hạn chế hoặc làm ảnh hưởng đến việc thực
hiện quyền bầu cử và ứng cử một cách bất hợp lý. Tuân thủ nguyên
tắc dân chủ và pháp quyền trong việc hạn chế quyền bầu cử, ứng cử.
Xác lập trách nhiệm của nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi,
khả thi để người dân thực hiện các quyền bầu cử và ứng cử một cách
thực chất từ đăng ký cử tri, nộp hồ sơ ứng cử, bỏ phiếu, tiếp cận khu
vực bầu cử, tiếp nhận thông tin, tranh cử tự do; trách nhiệm bảo vệ
các quyền bầu cử và ứng cử trước mọi vi phạm, bảo vệ an ninh cá
nhân trong bầu cử…
(iii) Áp dụng mô hình đơn vị bầu cử và hệ thống bỏ phiếu phù hợp với
đặc điểm chính trị - xã hội của đất nước. Cải cách về đơn vị bầu cử
và hệ thống bỏ phiếu là vấn đề trung tâm và là nội dung cơ bản nhất
tạo ra sự thay đổi lớn của chế độ bầu cử. Những cải cách, đổi mới
này có tác động sâu sắc đến khả năng thắng cử của các đảng chính
trị, cơ hội được đại diện của các nhóm dân cư, giá trị và mức độ ảnh
hưởng của lá phiếu cử tri, quyết định mối quan hệ giữa cử tri và
ĐBQH… Trong quá trình đổi mới chế độ bầu cử ở các quốc gia,
việc thay đổi, cải tiến hệ thống bỏ phiếu, đơn vị bầu cử hướng tới
mục đích bảo đảm sự bình đẳng của các đảng chính trị, phản ánh
đúng ý nguyện của cử tri; tăng cường tính cạnh tranh; và bảo đảm cơ
hội được đại diện bình đẳng, thiết lập mối quan hệ gắn bó giữa đại
biểu với cử tri
(iv) Cải tiến, đổi mới quy trình, thủ tục bầu cử ĐBQH theo hướng cạnh
tranh, công bằng và minh bạch. Cạnh tranh là bản chất của bầu cử.
Thiết lập quy trình, thủ tục bầu cử để tăng cường tính cạnh tranh là
yêu cầu của mọi quá trình cải cách. Qua đó bảo đảm cho các cá nhân
đủ điều kiện đều có khả năng trở thành ứng cử viên; các lực lượng
chính trị có cơ hội tham gia tranh cử; người ứng cử có chất lượng
tương đương nhau và phải nhiều hơn số đại biểu được bầu; vận động
tranh cử bằng nhiều hình thức hợp pháp; ứng cử viên và lực lượng
chính trị có quyền và có cơ hội thể hiện quan điểm và cương lĩnh
tranh cử. Các quy trình, thủ tục bầu cử bảo đảm tính công khai, minh
bạch, được thiết lập trên cơ sở các quy định pháp luật rõ ràng, thực
hiện công khai, dễ dàng tiếp cận, có sự giám sát từ công chúng cũng
như các bên có liên quan để ngăn ngừa, hạn chế sự tùy tiện, sai sót,
gian lận bầu cử.
(v) Đổi mới công tác tổ chức, nâng cao hiệu quả công tác quản lý bầu
cử ĐBQH là nội dung trọng tâm của quá trình đổi mới chế độ bầu
cử. Xuất phát từ đặc điểm của hệ thống chính trị, đổi mới công tác tổ
chức, quản lý bầu cử ở nước ta đòi hỏi phải đổi mới mối quan hệ
giữa Đảng, Nhà nước, MTTQ và các thiết chế quản lý bầu cử, phân
định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức. Trên
cơ sở đó, xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan quản
lý bầu cử, nhất là Hội đồng bầu cử quốc gia theo hướng độc lập, tuân
thủ các tiêu chí được công nhận chung. Đó là độc lập, công bằng,
liêm chính, minh bạch, hiệu quả, chuyên nghiệp và khả năng cung
cấp dịch vụ bầu cử
(vi) Thiết lập cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử hiệu quả. Giải
quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử có vai trò ngăn ngừa, xử lý những
sai sót, vi phạm trong tổ chức các cuộc bầu cử, bảo đảm quyền bầu
cử, ứng cử. Qua đó, tạo dựng niềm tin của công chúng về bầu cử,
đồng thời ngăn ngừa việc giải quyết các xung đột chính trị bằng bạo
lực. Ngoài khả năng giải quyết kịp thời, hiệu quả các khiếu nại, tố
cáo kịp thời, hiệu quả về sai sót trong danh sách cử tri, người ứng
cử, quy trình, tổ chức bầu cử, cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo còn
phải có khả năng xử lý, giải quyết các gian lận bầu cử và tranh chấp
về kết quả bầu cử trong cuộc bầu cử có tính cạnh tranh cao, phán
quyết về các văn bản pháp luật vi hiến.
III. Phần kết
Trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang nỗ lực đoàn kết thực
hiện tốt nhiệm vụ được giao trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng,
vững bước tiến đến bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu HĐND các
cấp nhiệm kỳ 2021-2026 sắp tới như ngày hội của toàn dân với tinh thần phấn
khởi, tự hào để thông qua lá phiếu có trách nhiệm của mình lựa chọn những đại
biểu thực sự có đức, có tài đại diện cho lợi ích, ý chí, nguyện vọng của nhân
dân xứng đáng là nơi gửi gắm niềm tin của cử tri cả nước vì một nước Việt
Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Thực hiện thành
công cuộc bầu cử sẽ thiết thực góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đồng
thời củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy, việc lựa chọn, bầu ra những người tiêu biểu về
đức, tài, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của
nhân dân trong Quốc hội và HĐND các cấp nhiệm kỳ mới là nhiệm vụ hết sức
quan trọng đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Do vậy, những luận điệu
của các thế lực thù địch, phản động cho rằng: “Việc bầu cử Quốc hội và
HĐND chỉ là nghĩa vụ chứ không phải là quyền lợi, dân chủ, đều là sự sắp đặt
nhân sự có chủ ý, nhân dân không có quyền thực sự”... là hoàn toàn xuyên tạc
sai sự thật, nhằm tuyên truyền chống phá chế độ, chống phá Đảng, Nhà nước
Việt Nam. Những trường hợp, thành phần nào cố ý gây nên sự chia rẽ, xuyên
tạc này cần phải bị loại bỏ, khởi tố, xử lý bởi pháp luật. Toàn thể nhân dân ta
phải chung sức, đồng lòng, vững ý chí để không bị sa lầy vào những luận điệu
sai trái này; hơn nữa, phải quyết tâm đấu tranh đến cùng, bảo vệ sự trường tồn
của chế độ mà Đảng và Nhà nước ta đã dày công xây dựng.