You are on page 1of 20

BẦU CỬ ỨNG CỬ

I. Một số vấn đề lý luận về quyền con người


 Theo phương diện quốc tế
-Khái niệm về quyền con người: Quyền con người (human rights) là một phạm
trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa khác nhau. Theo một tài liệu của Liên
hợp quốc, từ trước đến nay có đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã
được công bố,18 mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ
ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất
cả các thuộc tính của quyền con người. Tính phù hợp của các định nghĩa hiện
có về quyền con người phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân,
tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên
hợp quốc về quyền con người (Office of High Commissioner for Human
Rights – OHCHR) thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu. Theo định
nghĩa này, quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu (universal
legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những
hành động (actions) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn hại đến nhân
phẩm, những sự được phép (entitlements) và tự do cơ bản (fundamental
freedoms) của con người. Bên cạnh định nghĩa kể trên, một định nghĩa khác
cũng thường được trích dẫn, theo đó, quyền con người là những sự được phép
(entitlements) mà tất cả thành viên của cộng đồng nhân loại, không phân biệt
giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội...; đều có ngay từ khi sinh ra, đơn
giản chỉ vì họ là con người. Định nghĩa này mang dấu ấn của học thuyết về các
quyền tự nhiên.
Ở Việt Nam, đã có những định nghĩa về quyền con người do một số cơ quan
nghiên cứu và chuyên gia từng nêu ra. Những định nghĩa này cũng không hoàn
toàn giống nhau, nhưng xét chung, quyền con người thường được hiểu là
những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ
trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Như vậy, nhìn ở
góc độ nào và ở cấp độ nào thì quyền con người cũng được xác định như là
những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Những
chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, chỉ áp dụng
với con người, cho tất cả mọi người. Nhờ có những chuẩn mực này, mọi thành
viên trong gia đình nhân loại mới được bảo vệ nhân phẩm và mới có điều kiện
phát triển đầy đủ các năng lực của cá nhân với tư cách là một con người. Cho
dù cách nhìn nhận có những khác biệt nhất định, một điều rõ ràng là quyền con
người là những giá trị cao cả cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và
trong mọi giai đoạn lịch sử. Trong một cuộc khảo sát gần đây do CNN - một
trong các cơ quan truyền thông nổi tiếng nhất thế giới - tiến hành, quyền con
người được xem là một trong mười phát minh làm thay đổi thế giới (cùng với
nông nghiệp, phân tâm học, thuyết tương đối, vắc xin, thuyết tiến hóa, mạng
thông tin toàn cầu (world wide web), xà phòng, số không, và lực hấp dẫn).
Liên quan đến khái niệm trên, cũng cần lưu ý rằng thuật ngữ human rights
trong tiếng Anh có thể được dịch là quyền con người (theo tiếng thuần Việt)
hoặc nhân quyền (theo Hán – Việt). Theo Đại từ điển Tiếng Việt, “nhân
quyền’’ chính là “quyền con người”. Như vậy, xét về mặt ngôn ngữ học, đây là
hai từ đồng nghĩa, do đó, hoàn toàn có thể sử dụng cả hai từ này trong nghiên
cứu, giảng dạy và hoạt động thực tiễn về quyền con người.
- Các tính chất của quyền con người:
+ Tính phổ biến: Tính phổ biến của nhân quyền thể hiện ở chỗ quyền con
người là những gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng
cho tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt đối
xử vì bất cứ lý do gì, chẳng hạn như về chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn giáo,
độ tuổi, thành phần xuất thân... Liên quan đến tính chất này, cần lưu ý là bản
chất của sự bình đẳng về quyền con người không có nghĩa là cào bằng mức độ
hưởng thụ các quyền, mà là bình đẳng về tư cách chủ thể của quyền con người.
Ở đây, mọi thành viên của nhân loại đều có được công nhận có các quyền con
người, song mức độ hưởng thụ các quyền phụ thuộc vào năng lực của cá nhân
từng người, cũng như vào hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá… mà
người đó đang sống.
+ Tính không thể tước bỏ:
Tính không thể tước bỏ của nhân quyền thể hiện ở chỗ các quyền con người
không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện bởi bất cứ chủ thể nào, kể
cả các cơ quan và quan chức nhà nước. Ở đây, khía cạnh “tuỳ tiện” nói đến
giới hạn của vấn đề. Nó cho thấy không phải lúc nào nhân quyền cũng “không
thể bị tước bỏ”. Trong một số trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như khi một
người phạm một tội ác thì có thể bị tước tự do theo pháp luật, thậm chí bị tước
quyền sống.
+ Tính không thể bị phân chia:
Tính không thể phân chia của nhân quyền bắt nguồn từ nhận thức rằng các
quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau, nên về nguyên tắc không có
quyền nào được coi là có giá trị cao hơn quyền nào. Việc tước bỏ hay hạn chế
bất kỳ quyền con người nào đều tác động tiêu cực đến nhân phẩm, giá trị và sự
phát triển của con người. Tuy nhiên, tính chất không thể phân chia không hàm
ý rằng mọi quyền con người đều cần phải được chú ý quan tâm với mức độ
giống hệt nhau trong mọi hoàn cảnh. Trong từng bối cảnh cụ thể, cần và có thể
ưu tiên thực hiện một số quyền nhất định, miễn là phải dựa trên những yêu cầu
thực tế của việc bảo đảm các quyền đó chứ không phải dựa trên sự đánh giá về
giá trị của các quyền đó. Ví dụ, trong bối cảnh dịch bệnh đe dọa hoặc với
những người bị bệnh tật, quyền được ưu tiên thực hiện là quyền được chăm sóc
y tế; còn trong bối cảnh nạn đói, quyền được ưu tiên phải là quyền về lương
thực, thực phẩm. Ở góc độ rộng hơn, trong một số hoàn cảnh, cần ưu tiên thưc
hiện quyền của một số nhóm xã hội dễ bị tổn thương trong khi vẫn tôn trọng
quyền của tất cả các nhóm khác. Điều này không có nghĩa là bởi các quyền
được ưu tiên thực hiện có giá trị cao hơn các quyền khác, mà là bởi các quyền
đó trong th ực tế đang bị đe doạ hoặc bị vi phạm nhiều hơn so với các quyền
khác
+ Tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau:
Tính liên hệ và ph ụ thuộc lẫn nhau của nhân quyền thể hiện ở chỗ việc bảo
đảm các quyền con người, toàn bộ hoặc một phần, nằm trong mối liên hệ phụ
thuộc và tác động lẫn nhau. Sự vi phạm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp
gây ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo đảm các quyền khác. Ngược lại, tiến bộ
trong việc bảo đảm một quyền sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tích cực đến
việc bảo đảm các quyền khác. Thực tế cho thấy, để bảo đảm các quyền bầu cử,
ứng cử (các quyền chính trị cơ bản), cần đồng thời bảo đảm một loạt quyền
kinh tế, xã hội, văn hóa khác có liên quan như quyền được giáo dục, quyền
được chăm sóc y tế, quyền có mức sống thích đáng... vì nếu không, các quyền
bầu cử, ứng cử rất ít có ý nghĩa với những người đói khổ, bệnh tật hay mù chữ.
Tương tự, việc bảo đảm các quyền kinh tế, xã hội, văn hoá đều gắn liền với sự
phát triển của các quyền dân sự, chính trị, bởi kết quả của việc bảo đảm các
quyền dân sự, chính trị chính là sự ổn định, lành mạnh và hiệu quả trong quản
lý nhà nước, quản lý xã hội – yếu tố nền tảng để thúc đẩy các điều kiện sống về
kinh tế, xã hội, văn hoá của mọi người dân.
 Quan điểm của Đảng ta về quyền con người
Giống như ở nhiều quốc gia khác, ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước đã xác
định những tư tưởng và đường lối chỉ đạo về quyền con người làm cơ sở
cho việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người trên thực tế. Nhìn chung,
có thể thấy rằng, các quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam
về quyền con người được hình thành, đúc rút từ các yếu tố: (i) Lịch sử đấu
tranh chống ngoại xâm của dân tộc, (ii) Truyền thống, bản sắc văn hoá Việt
Nam; (iii) Nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh; (iv) Những nguyên tắc và tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người
được hầu hết các dân tộc trên thế giới thừa nhận; (v) Thực tiễn và những
yêu cầu đặt ra trong công cuộc Đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế và xây
dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Các quan điểm này được thể hiện trong các văn kiện của Đảng (Cương lĩnh
chính trị, Nghị quyết, Chỉ thị…) và văn kiện của các cơ quan nhà nước
(Báo cáo của Chính phủ, Sách trắng của Bộ ngoại giao…). Một số quan
điểm và chính sách cơ bản của Đảng, Nhà nước Việt Nam trên lĩnh vực
này:
(1) Quyền con người là giá trị chung của toàn nhân loại
Theo Chỉ thị số 12/CT/TW ngày 12-7-1992 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng: “Quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu
dài qua các thời đại của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức
trên thế giới, và cũng là thành quả của cuộc đấu tranh của loài người
làm chủ thiên nhiên; qua đó, quyền con người trở thành giá trị chung
của nhân loại”. Về vấn đề này, trong bài phát biểu tại Hội nghị Thế
giới về Quyền con người lần thứ hai tổ chức tại Viên (Áo), tháng 6
năm 1993, phái đoàn Việt Nam cũng khẳng định: Quyền con người
là m ột phạm trù tổng hợp, vừa là “chuẩn mực tuyệt đối” mang tính
phổ biến, vừa là “sản phẩm tổng hợp của một quá trình lịch sử lâu
dài”.
Quan điểm coi quyền con người là giá trị chung của toàn nhân loại
về cơ bản cũng là quan điểm chung của c ộng đồng quốc tế. Cựu
Tổng thư ký Liên hợp quốc B. Gali đã từng khẳng định: quyền con
người là ngôn ngữ chung của nhân loại. Quan điểm này cũng được
gián tiếp phản ánh trong hệ thống văn kiện pháp lý về quyền con
người do Liên hợp quốc và các tổ chức liên chính phủ khác thông
qua từ trước tới nay, thể hiện ở việc xác định tính phổ biến
(universal) của quyền con người, theo đó, quyền con người là những
gì bẩm sinh, vốn có của con người và được áp dụng bình đẳng cho
tất cả mọi thành viên trong gia đình nhân loại, không có sự phân biệt
đối xử vì bất cứ lý do gì như về chủng tộc, dân tộc, giới tính, tôn
giáo, độ tuổi, thành phần xuất thân..
(2) Trong xã hội có phân chia giai cấp, khái niệm quyền con người
mang tính giai cấp
Theo Chỉ thị số 12/CT/TW ngày 12-7-1992 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng: "Trong xã hội có phân chia giai cấp đối kháng, khái
niệm quyền con người mang tính giai cấp sâu sắc". Cũng liên quan
đến vấn đề này, Chỉ thị số 41/2004/CT-TTg ngày 02-12-2004 của
Thủ tướng Chính phủ khẳng định: “…cuộc đấu tranh trên vấn đề
quyền con người là cuộc đấu tranh mang tính giai cấp sâu sắc, sẽ
diễn ra liên tục, lâu dài và quyết liệt”
Liên quan đến vấn đề trên, nhiều nhà nghiên cứu về quyền con
người trên thế giới cho rằng, mặc dù xét về bản chất, quyền con
người là những giá trị chung của toàn nhân loại, là sự kết tinh của
những giá trị văn hóa tốt đẹp nhất của tất cả các dân tộc sau một quá
trình phát triển lịch sử lâu dài, song vấn đề quyền con người đã luôn
mang tính chính trị và bị chính trị hóa. Do đó, việc giải thích và áp
dụng quyền con người thường thể hiện rất rõ sự khác biệt về ý thức
hệ. Cụ thể, các nước tư bản thường nhấn mạnh và đôi khi cực đoan
hóa các quyền dân sự, chính trị của cá nhân, trong khi khối các nước
xã hội chủ nghĩa trước đây thường đề cao các quyền tập thể và các
quyền kinh tế, xã hội, văn hóa, trong khi có lúc coi nhẹ các quyền cá
nhân và các quyền dân sự, chính trị.
(3) Quyền con người vừa có tính phổ biến, vừa có tính đặc thù, phụ
thuộc vào truyền thống, đặc điểm và trình độ phát triển kinh tế, văn
hoá, xã hội của mỗi quốc gia
Theo Chỉ thị số 12 của Ban Bí thư Trung ương Đảng: Quyền con
người luôn luôn gắn liền với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế, văn hoá của đất nước. Do vậy, không thể
áp đặt hoặc sao chép máy móc các tiêu chuẩn, mô thức của nước này
cho nước khác. Sách trắng về thành tựu quyền con người của Việt
Nam cũng khẳng định: “…quyền con người vừa mang tính phổ biến,
thể hiện khát vọng chung của nhân loại, được ghi trong Hiến chương
của Liên hợp quốc, vừa có tính đặc thù đối với từng xã hội và cộng
đồng”, do đó: “…khi tiếp cận và xử lý vấn đề quyền con người cần
kết hợp hài hòa các chuẩn mực, nguyên tắc chung của luật pháp
quốc tế với những điều kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế - xã
hội, các giá trị văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán của
mỗi quốc gia và khu vực. Không một nước nào có quyền áp đặt mô
hình chính trị, kinh tế, văn hoá của mình cho một quốc gia khác”
(4) Quyền con người và quyền dân tộc cơ bản là thống nhất
Sách trắng về thành tựu quyền con người của Việt Nam khẳng định:
“...quyền thiêng liêng, cơ bản nhất của con người là quyền được
sống trong độc lập, tự do, quyền được tự quyết định vận mệnh của
mình”. Quan điểm kể trên xuất phát từ thực tế là trong suốt chiều dài
lịch sử dựng nước, dân tộc Việt Nam đã nhiều lần bị các thế lực
nước ngoài đô hộ và phải gánh chịu những hy sinh to lớn trong
những cuộc đấu tranh bất khuất, kiên cường qua nhiều thế kỷ để
giành độc lập dân tộc và tự do của Tổ quốc. Chính vì vậy, người dân
Việt Nam tin rằng, nước mất độc lập thì không thể có cá nhân tự do,
hay những "vong quốc nô" thì không thể có quyền con người. Để
giành quyền con người cho mỗi cá nhân thì phải giải phóng dân tộc
khỏi áp bức ngoại bang và bảo vệ quyền tự quy ết của dân tộc. Thực
tế cho thấy, trước năm 1945, trong bối cảnh một nước thuộc địa, nửa
phong kiến, người dân Việt Nam không được hưởng các quyền con
người, quyền công dân. Chỉ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945,
Nhà nước Việt Nam ra đời, địa vị của người dân Việt Nam mới được
thay đổi từ người nô lệ trở thành chủ nhân của một quốc gia độc lập,
các quyền công dân của người Việt Nam lần đầu tiên được quy định
trong Hiến pháp và pháp luật. Như thế, quyền con người của người
dân Việt Nam gắn liền với các quyền dân tộc cơ bản của dân tộc
Việt Nam.
(5) Quyền con người có nguồn gốc tự nhiên song phải được pháp luật
quy định
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa
xã hội năm 1991 của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "Nhà
nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và
quyền con người…". Điều này có nghĩa là để được hiện thực hóa
trên thực tế, quyền con người, quyền công dân phải được quy định
trong pháp luật. Ở đây, pháp luật vừa là phương tiện để ghi nhận,
vừa là công cụ để hiện thực hóa và bảo vệ các quyền tự nhiên của
con người. Thông qua pháp luật, không chỉ các quyền con người,
quyền công dân mà cả những nghĩa vụ của những chủ thể có liên
quan được xác lập, tạo thành khuôn khổ pháp lý cho việc tôn trọng,
thực hiện và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân trên thực
tế. Trên thế giới, việc pháp điển hóa các quyền tự nhiên thành các
tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về quyền con người diễn ra một cách có
hệ thống kể từ khi Liên hợp quốc ra đời. Cho đến ngày nay, hệ thống
các văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người đã bao gồm hàng
trăm văn kiện, kể cả các văn kiện có hiệu lực toàn cầu và các văn
kiện có hiệu lực ở các khu vực. Quá trình pháp điển hóa như vậy
cũng diễn ra ở hầu hết các quốc gia. Ở góc độ nhất định, việc pháp
điển hóa các quyền con người vào pháp luật quốc tế và quốc gia cho
thấy sự thống nhất về nhận thức của cộng đồng quốc tế về vai trò và
tầm quan trọng của pháp luật với việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền
con người
(6) Quyền không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm
Theo Chỉ thị số 12/CT/TW ngày 12-7-1992 c ủa Ban Bí thư Trung
ương Đảng: “Quyền dân chủ, tự do của mỗi cá nhân không tách rời
nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Dân chủ phải đi đôi với kỷ
cương, pháp luật. Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, đồng thời thực hiện chuyên chính với mọi
hành động xâm phạm lợi ích Tổ quốc, của nhân dân”. Sách trắng về
thành tựu về quyền con người của Việt Nam cũng khẳng định: “…
các quyền và tự do của mỗi cá nhân chỉ có thể được bảo đảm và phát
huy trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích chung của dân tộc và cộng
đồng; quyền lợi phải đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội”. Về vấn đề
trên, trong “Điều lệ tạm thời của Hội liên hiệp công nhân quốc tế
năm 1864”, C.Mác đã chỉ rõ sự thống nhất biện chứng giữa quyền và
nghĩa vụ của con người: “Không có quyền lợi nào mà không có
nghĩa vụ, không có nghĩa vụ nào mà không có quyền lợi”. Trong
luật nhân quyền quốc tế, khoản 1 Điều 29 UDHR (Universal
Declaration of Human Rights – Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền )
nêu rõ rằng: “Tất cả mọi người đều có những nghĩa vụ với cộng
đồng mà ở đó nhân cách của bản thân họ có thể phát triển một cách
tự do và đầy đủ”. Theo khoản 2 Điều này: “Khi hưởng thụ các quyền
và tự do của mình, mọi người chỉ phải tuân thủ những hạn chế do
luật định, nhằm mục đích bảo đảm sự công nhận và tôn tọng thích
đáng đối với các quyền và tự do của người khác cũng như nhằm đáp
ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc
lợi chung trong một xã hội dân chủ”. Tuyên ngôn về quyền và trách
nhiệm của các cá nhân, các nhóm và các tổ chức xã hội được Đại hội
đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1998 ( Điều 17) cũng nêu rằng:
“Trong khi thực hiện các quyền và tự do trong Tuyên ngôn này, mọi
người phải chịu những giới hạn nhất định theo nghĩa vụ quốc tế và
do pháp luật quy định vì mục đích bảo đảm việc công nhận và tôn
trọng các quyền và tự do của người khác và đáp ứng những đòi hỏi
của đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội
dân chủ”.
II. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo Hiến pháp
2013 quy định về quyền bầu cử và ứng cử
1. Lịch sử đấu tranh và ra đời của quyền bầu cử ở trên thế giới
Quyền lực - cụ thể là quyền lực nhà nước - là chủ đề trung tâm của các học
thuyết chính trị - pháp lý. Ở từng giai đoạn lịch sử, các nhà tư tưởng đưa ra
các cách lý giải khác nhau về nguồn gốc của quyền lực nhà nước. Những
nhà tư tưởng theo thuyết thần quyền cho rằng quyền lực nhà nước thuộc về
các đấng siêu nhiên (thượng đế, chúa trời, các vị thần). Hoàng đế hay nhà
vua do thượng đế, chúa trời tạo ra và trao quyền cai trị dân chúng, đó là sự
hóa thân của thánh thần trên trần thế. Người dân mang thân phận tôi tớ,
không có quyền, chỉ có nghĩa vụ thuần phục và chấp nhận sự cai trị mang
tính thiên định. Các học thuyết thần quyền là nền tảng tư tưởng để thiết lập
và duy trì địa vị thống trị xã hội của giới tăng lữ, giai cấp chủ nô, phong
kiến. Chống lại tư tưởng thần quyền, những quan niệm chủ quyền tối cao
thuộc về nhân dân và nguồn gốc của chính quyền đã sớm xuất hiện. Nhưng
phải đến thế kỷ XVII và XVIII, tư tưởng chủ quyền nhân dân mới được
luận giải một cách sâu sắc bởi John Locker (1632-1704) và nhất là Jean-
Jacques Rousseau (1712 – 1778). J.J. Rousseau dựa trên thuyết quyền tự
nhiên và khế ước xã hội để lý giải về xã hội, chủ quyền nhân dân và sự ra
đời của nhà nước. Ông cho rằng, cộng đồng xã hội ra đời trên cơ sở sự liên
kết tự nguyện của các cá nhân thông qua "Khế ước xã hội" là một tập thể
chính trị có quyền hành tối cao được điều khiển bằng ý chí chung và vì lợi
ích chung. Trong xã hội dân sự, con người mất đi các quyền tự do bản năng
hạn hẹp nhưng được hưởng các quyền tự do dân sự rộng rãi.
Rousseau quan niệm chủ quyền tối cao hay quyền lực tối cao là tổng thể
chủ quyền của từng cá nhân trong xã hội kết hợp lại. Chủ quyền tối cao
được thiết lập từ những cá thể thành viên hợp lại để tạo ra, ai ai cũng như
vậy cả, không ngoại trừ một người nào nên mỗi công dân sở hữu một phần
ngang bằng nhau về chủ quyền. Quyền lực tối cao chỉ có thể là của toàn thể
dân chúng chứ không phải là của một bộ phận, nhóm người nào trong xã
hội. Do vậy, chủ quyền tối cao thuộc về nhân dân. Nhà nước ra đời là kết
quả thỏa thuận tự nguyện giữa các thành viên bình đẳng với nhau thông qua
khế ước xã hội mà không phải là sự thỏa thuận giữa các thành viên với nhà
nước.
Nguyên tắc chủ quyền nhân dân đến nay đã được khẳng định mạnh mẽ
trong lời nói đầu hoặc trong những điều đầu tiên của hiến pháp các nước
trên thế giới, được ghi nhận trong các điều ước quốc tế như là sự thừa nhận
chung của nhân loại về nền tảng cho quyền chính trị cơ bản của con người.
Nhân dân thực hiện chủ quyền của mình một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ nguyên thủy và sơ khai nhất và lý
tưởng. Về lý thuyết, đây là hình thức dân chủ lý tưởng và tuyệt vời nhất
nhưng không mang tính khả thi trong thực tế do các quốc gia đã trở nên
rộng lớn và có đông dân cư. Dân chủ đại diện là hình thức nhân dân thực
hiện chủ quyền thông qua những người được bầu trở nên phù hợp hơn. Dân
chủ đại diện được chấp nhận rộng rãi từ thế kỷ XVIII-XIX với các tư tưởng
của Montesquieu (1689-1755), John Stuart Mill (1806 –1873) và James
Madison Jr. (1751-1836). John Stuart Mill khẳng định "loại hình chính thể
hoàn hảo lý tưởng phải là chính thể mang tính đại diện"
Bầu cử là phương thức để hình thành nên nền dân chủ đại diện. Lý luận về
bầu cử hiện đại được hình thành trên cơ sở thừa nhận các học thuyết về chủ
quyền nhân dân, cơ chế dân chủ đại diện và quyền con người: - Bầu cử phải
mang tính phổ thông vì chủ quyền tối cao thuộc về nhân dân, là sở hữu
chung của tất cả các cá nhân trong xã hội. Bầu cử để chọn người đại diện,
ủy thác quyền lực tối cao phải do tất cả các cá nhân thực hiện. Tính chính
đáng của quyền lực nhà nước phụ thuộc vào mức độ tham gia bầu cử của
người dân. Nguyên lý "đa số" là nguyên lý nền tảng của bầu cử. - Bầu cử
mang tính phổ thông thì quyền bầu cử phải có tính phổ quát. John Stuart
Mill đưa ra quan điểm "không người nào bị truất quyền trừ phi do tự ý bỏ
cuộc" và "bầu cử sẽ không thể trở nên tốt đẹp và lâu bền nếu bất cứ con
người hay giai cấp nào bị loại trừ một cách cưỡng bức, quyền bầu cử phải
mở rộng cho tất cả mọi người đủ độ tuổi nhất định và mong muốn có quyền
đó"
- Bầu cử phải mang tính bình đẳng vì theo Rousseau mỗi cá nhân sở hữu
một phần bằng nhau dù rất nhỏ bé trong chủ quyền tối cao. Sự bình đẳng
này là tuyệt đối và do khế ước quy định. Nguyên tắc bình đẳng được áp
dụng triệt để trong mọi quy trình của quá trình bầu cử. - Quyền bầu cử
thuộc nhóm quyền chính trị của quyền con người. Quyền bầu cử được pháp
luật quốc tế và quốc gia ghi nhận là quyền chính trị cơ bản nhất. Các quốc
gia có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền bầu cử. Việc hạn
chế các quyền bầu cử phải dựa trên nguyên tắc bảo vệ quyền con người
- Bầu cử là phương thức để hình thành nên nền dân chủ đại diện nhưng bản
chất của bầu cử là hình thức dân chủ trực tiếp. Nhà nước có trách nhiệm tổ
chức và bảo đảm các điều kiện để nhân dân thực hiện quyền bầu cử một
cách thực chất. Kết quả bầu cử thể hiện trực tiếp, trung thực ý chí của nhân
dân phải được tôn trọng. Các cuộc bầu cử đã trở thành cơ chế vận hành
thường xuyên của các nền dân chủ đại diện. Bầu cử là con đường cơ bản
nhất để nhân dân ủy thác quyền lực, thành lập nên bộ máy nhà nước. Chính
vì vậy, pháp luật về bầu cử có vai trò rất quan trọng, như Montesquieu
khẳng định: luật về cách bầu cử là một luật cơ bản trong nền dân chủ.
2. Lịch sử đấu tranh và ra đời của quyền bầu cử ở nước ta
Kể từ ngày Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, để có một cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên vào ngày
06/01/1946 được tổ chức thành công - một cuộc bầu cử thật sự tự do, thật
sự dân chủ, là mốc son lịch sử của thể chế dân chủ ở Việt Nam, Đảng ta đã
lãnh đạo nhân dân ta vượt lên muôn vàn khó khăn của “thù trong, giặc
ngoài” với những âm mưu đen tối của các thế lực phản động định tiêu diệt
cách mạng Việt Nam, cũng như giặc đói, giặc dốt...là di chứng của chế độ
thực dân đế quốc để lại... Trong thời điểm đấy, đại đa số cử tri lần đầu tiên
mới được thực hiện quyền bầu cử của mình, đại đa số là những nông dân
chưa đọc thông viết thạo, tuyệt đại đa số phụ nữ lần đầu được cầm trên tay
lá phiếu… tất cả đều xúc động, tự hào đến rơi nước mắt vì đi bầu cử đối với
họ chính là khẳng định quyền công dân của một đất nước tự do, quyền được
bình đẳng trong xã hội.
Năm 1954, sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, hai miền Nam Bắc nước ta tạm thời
chia cắt. Những người con miền Nam ra Bắc tập kết mang trong mình niềm
hy vọng lớn lao sẽ được trở về quê hương, đoàn tụ gia đình sau ngày Tổng
tuyển cử tự do dự kiến vào ngày 20/7/1956. Nhưng Mỹ và chính quyền
Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam đã không những đã cự tuyệt thi
hành những điều khoản của hiệp định Giơ-ne-vơ mà còn trắng trợn đàn áp,
trả thù những người kháng chiến, yêu nước ở miền Nam, đẩy mạnh tiến
hành các chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” gây chia rẽ, hận thù, chống lại
lợi ích và khát vọng độc lập, thống nhất của dân tộc Việt Nam. Ngày tổng
tuyển cử đã bị chế độ Ngô Đình Diệm cố tình vi phạm, kéo dài cuộc đấu
tranh gian khổ hy sinh để 20 năm sau, đến năm 1976 mới lại có cuộc bầu cử
thống nhất đất nước. Đồng bào cử tri ngày ấy cũng hân hoan biết bao khi
cầm trên tay lá phiếu bầu tự do khi đất nước đã hoàn toàn hòa bình, thống
nhất. Công dân đủ điều kiện trở thành cử tri, thông qua bầu cử để trực tiếp
lựa chọn những người xứng đáng có đủ phẩm chất đạo đức và năng lực đại
diện cho ý chí, nguyện vọng của mình vào cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất (Quốc hội) và cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương (HĐND các
cấp) hoặc tự mình ứng cử để được lựa chọn (thông qua bầu cử) là người đại
diện cho nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Trải qua hơn 75 năm kể từ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên đến nay, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
không ngừng phát triển, tự hoàn thiện, đồng hành cùng dân tộc, thực sự là
nơi xây nên nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm cho quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân, đưa dân tộc Việt Nam từ thân phận nô lệ lầm than lên
địa vị chủ nhân của đất nước đang vững bước trên con đường xây dựng
theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Thông
qua thực hiện chức năng của Quốc hội, quyền làm chủ của người dân luôn
được bảo đảm và phát huy theo tinh thần quyền lực nhà nước phải thuộc về
nhân dân, địa vị chủ thể của dân với tư cách là chủ thể gốc của mọi quyền
lực; những biểu hiện vi phạm quyền làm chủ của người dân đều được phát
hiện và xử lý nghiêm. Hiến pháp 2013 đã tiếp tục khẳng định: “Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân,… Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc
về Nhân dân”.
Khoản 1, Điều 4, Hiến pháp năm 2013 nêu rõ “Đảng Cộng sản Việt Nam -
đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh
đạo Nhà nước và xã hội”. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo
Nhà nước và xã hội thì đương nhiên đối với cuộc bầu cử Quốc hội và
HĐND các cấp, sự kiện chính trị quan trọng hàng đầu để xây dựng chính
quyền nhân dân thì sự lãnh đạo của Đảng là tất yếu. Chính sự lãnh đạo đó
sẽ giúp cho quá trình bầu cử tốt hơn, đúng Hiến pháp và pháp luật, phát huy
được vai trò của toàn Đảng, toàn dân và của cả hệ thống chính trị.
3. Quyền bầu cử được ghi nhận trong Hiến pháp 2013
Thực tiễn của Việt Nam cũng như hầu hết các nước trên thế giới đều cho
thấy, dù bằng hình thức bầu cử nào, trực tiếp hay thông qua đại biểu của
mình thì quyền bầu cử, nhất là quyền bầu ra bộ máy nhà nước vẫn là một
trong những quyền quan trọng nhất của mỗi công dân và cũng là yếu tố
quan trọng nhất góp phần quyết định có hay không quyền lực nhà nước của
nhân dân.
- Về nguyên tắc bầu cử
Khoản 1 Điều 7 Hiến pháp 2013 quy định: “Việc bầu cử đại biểu Quốc hội
và đại biểu HĐND được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng,
trực tiếp và bỏ phiếu kín”.
+ Nguyên tắc phổ thông thể hiện tính toàn dân, toàn diện, công khai và
dân chủ rộng rãi của bầu cử. Bầu cử là công việc của mọi công dân,
là sự kiện chính trị trọng đại của xã hội, đòi hỏi sự bảo đảm để công
dân thực hiện quyền bầu cử, ứng cử. Pháp luật bầu cử của các nước
đều khẳng định, nguyên tắc phổ thông đầu phiếu là một trong những
nguyên tắc cơ bản của chế độ bầu cử. Nguyên tắc phổ thông đầu
phiếu trong bầu cử bảo đảm để mọi công dân không phân biệt dân
tộc, nam, nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn
hoá, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, (trừ những người mất trí hay
những người bị tước quyền bầu cử trên cơ sở của pháp luật), đến tuổi
trưởng thành đều được trao quyền bầu cử. Yêu cầu của nguyên tắc
này là Nhà nước phải bảo đảm để cuộc bầu cử thực sự trở thành một
cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn, tạo điều kiện thuận lợi để công dân
thực hiện quyền bầu cử của mình, bảo đảm tính dân chủ, công khai
và sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân trong bầu cử. Đối
với Việt Nam, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND
quy định đối với việc bầu cử đại biểu Quốc hội:
(1) Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật, được Quốc hội ấn định và công
bố chậm nhất là 115 ngày trước ngày diễn ra bầu cử;
(2) Các tổ chức phụ trách bầu cử được thành lập công khai, có sự tham
gia của đại diện các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và đoàn thể
nhân dân;
(3) Thời gian bỏ phiếu được quy định thống nhất trong cả nước từ 7 giờ
sáng đến 7 giờ tối (trừ những trường hợp đặc biệt theo quy định của
Luật);
(4) Mọi công dân cư trú thường xuyên hoặc tạm trú đều được ghi tên
vào danh sách cử tri;
(5) Danh sách cử tri được niêm yết công khai chậm nhất là 40 ngày
trước ngày diễn ra bầu cử;
(6) Danh sách ứng cử viên cũng được lập và niêm yết công khai chậm
nhất là 20 ngày trước ngày diễn ra bầu cử để cử tri tìm hiểu và lựa
chọn.
+ Nguyên tắc bình đẳng bảo đảm để mọi công dân có khả năng như
nhau tham gia bầu cử, nghiêm cấm mọi sự phân biệt, nhằm bảo đảm
sự khách quan trong bầu cử, không thiên vị. Mỗi cử tri có một phiếu
bầu đối với một cuộc bầu cử và giá trị phiếu bầu như nhau không
phụ thuộc vào giới tính, địa vị xã hội, sắc tộc, tôn giáo,... Nguyên tắc
này được thể hiện trong các quy định của pháp luật về quyền bầu cử
và ứng cử của công dân. Mỗi cử tri chỉ được ghi tên vào danh sách
cử tri ở một nơi cư trú; mỗi ứng cử viên chỉ được ghi tên ứng cử ở
một đơn vị bầu cử; mỗi cử tri chỉ được bỏ một phiếu bầu. Nguyên
tắc bình đẳng còn đòi hỏi phải có sự phân bổ hợp lý cơ cấu, thành
phần, số lượng đại biểu để bảo đảm tiếng nói đại diện của các vùng,
miền, địa phương, các tầng lớp xã hội, các dân tộc thiểu số và phụ
nữ phải có tỷ lệ đại biểu phù hợp.
+ Nguyên tắc bầu cử trực tiếp có nghĩa là cử tri trực tiếp thể hiện ý chí
của mình qua lá phiếu, cử tri trực tiếp bầu ra đại biểu của mình chứ
không qua một cấp đại diện cử tri nào. Nguyên tắc bầu cử trực tiếp
đòi hỏi cử tri không được nhờ người bầu hộ, bầu thay hoặc bầu bằng
cách gửi thư. Cử tri tự bỏ lá phiếu bầu vào hòm phiếu. Trường hợp
cử tri không thể tự viết phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng
phải tự mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu
của cử tri; nếu cử tri vì tàn tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người
khác bỏ phiếu vào hòm phiếu.Trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, tàn
tật không thể đến phòng bỏ phiếu được thì tổ bầu cử mang hòm
phiếu phụ và phiếu bầu đến nơi ở của cử tri để cử tri nhận phiếu bầu
và thực hiện các thủ tục bỏ phiếu. Cùng với các nguyên tắc khác,
nguyên tắc này là điều kiện cần thiết bảo đảm tính khách quan của
bầu cử.
+ Nguyên tắc bỏ phiếu kín bảo đảm cho cử tri tự do lựa chọn, để sự lựa
chọn đó không bị ảnh hưởng bởi những điều kiện và yếu tố bên
ngoài. thể hiện ở việc loại trừ sự theo dõi và kiểm soát từ bên ngoài
đối với việc thể hiện ý chí (sự bỏ phiếu) của cử tri. Để bảo đảm
khách quan trong việc lựa chọn của cử tri, các nước thường quy định
việc bỏ phiếu kín và Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND
nước ta quy định việc bầu cử đại biểu Quốc hội được tiến hành bằng
cách bỏ phiếu kín. Theo nguyên tắc này, cử tri bầu ai, không bầu ai
đều được bảo đảm bí mật. Khi cử tri viết phiếu bầu không ai được
đến gần, kể cả cán bộ, nhân viên các tổ chức phụ trách bầu cử;
không ai được biết và can thiệp vào việc viết phiếu bầu của cử tri.
Cử tri viết phiếu bầu trong buồng kín và bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Các nguyên tắc bầu cử nêu trên thống nhất với nhau, bảo đảm cho cuộc
bầu cử khách quan, dân chủ, thể hiện đúng nguyện vọng của cử tri khi lựa
chọn. Các nguyên tắc bầu cử còn quy định quyền và trách nhiệm của cử tri
trong bầu cử, trách nhiệm của Nhà nước phải bảo đảm những quy định về
bầu cử.
- Về quyền bầu cử của công dân
Quyền bầu cử là quy định của pháp luật về khả năng của công dân thực
hiện quyền lựa chọn người đại biểu của mình ở cơ quan quyền lực nhà
nước. Quyền bầu cử bao gồm việc đề cử, giới thiệu người ứng cử, bỏ phiếu,
tức là khả năng chủ động trong lựa chọn của công dân.
Ở nước ta, quyền bầu cử được coi là quyền chính trị rất quan trọng, là vinh
dự của công dân. Công dân thực hiện quyền đó tự nguyện. Vì tính chất
quan trọng của quyền bầu cử nên quyền bầu cử chỉ được quy định cho
những người bình thường về mặt thần kinh, đạt đến độ chín của sự phát
triển tâm, sinh lý nhằm bảo đảm cho họ có sự lựa chọn chính xác và độc
lập. Tại Khoản 1 Điều 17 của Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”. Điều 27 của
Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền
bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử vào Quốc hội,
HĐND”. Ngoài các quy định về độ tuổi là cần thiết bảo đảm độ chín chắn
trong sự lựa chọn của cử tri, pháp luật nước ta không quy định điều kiện
nào khác.
- Về bầu HĐND và UBND
Điều 6 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà
nước thông qua Quốc hội và HĐND là những cơ quan đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước
trước nhân dân”. Những quy định trên đây là đúng đắn nhưng còn chung
chung, chưa cho ta thấy được phương thức thực hiện quyền lực nhà nước
của nhân dân trong bầu cử.
Khắc phục hạn chế này, Hiến pháp 2013 đã quy định rõ hơn, cụ thể hơn các
phương thức để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực
tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, HĐND và thông qua các
cơ quan khác của Nhà nước (Điều 6). Về mặt bầu cử, cho dù được tiến
hành dưới hình thức dân chủ trực tiếp hay dân chủ đại diện thông qua đại
biểu của mình thì quyền bầu cử, nhất là quyền bầu ra bộ máy nhà nước là
một trong những quyền quan trọng nhất của mỗi công dân có tuổi từ mười
tám trở lên, vì nó là yếu tố góp phần quyết định có hay không quyền lực
nhà nước của nhân dân. Tại Khoản 1, Điều 123 Hiến pháp 2013 quy định:
“HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân địa phương, do Nhân dân địa
phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan
nhà nước cấp trên”. Như vậy, theo quy định này, HĐND ở địa phương nào
thì do nhân dân địa phương ấy trực tiếp bầu. Nhưng trong điều kiện nhân
dân không thể trực tiếp thì ít nhất cũng phải thông qua các đại biểu và cơ
quan đại biểu của mình để bầu ra UBND ở các cấp theo đơn vị hành chính
lãnh thổ, điều đó là khoa học và cần thiết cho một bộ máy chính quyền của
nhân dân. Về điểm này, Khoản 1 Điều 114 của Hiến pháp 2013 quy định
rõ: “UBND ở cấp chính quyền địa phương do HĐND cùng cấp bầu là cơ
quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,
chịu trách nhiệm trước HĐND và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên”.
Hiến định quyền của nhân dân trong việc trực tiếp hoặc thông qua cơ quan
đại biểu của mình để bầu ra bộ máy chính quyền ở địa phương là vấn đề có
ý nghĩa rất quan trọng, vì nó phản ánh tính nhân dân của Nhà nước ta.
Tuy nhiên, nếu dừng lại ở đây thì nội hàm của dân chủ trực tiếp và cách
thức để nhân dân thực hiện dân chủ trực tiếp, cũng như các quy định cụ thể
để tăng cường hơn tính hiệu quả của dân chủ đại diện, hiệu quả hoạt động
của các cơ quan dân cử và bộ máy nhà nước chưa được làm rõ. Do đó, Điều
29 Hiến pháp 2013 quy định “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền
biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”. Với quy định này, công
dân thực hiện dân chủ thông qua trưng cầu dân ý cùng với bầu cử và các
hình thức dân chủ trực tiếp khác.
4. Đặc điểm chế độ bầu cử ở nước ta.
- Chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội gắn với hệ thống chính trị nhất nguyên do Đảng
Cộng sản Việt Nam cầm quyền và lãnh đạo
+ Bầu cử và đảng chính trị gắn bó chặt chẽ với nhau. Các đảng
chính trị chỉ có thể trở thành đảng cầm quyền khi giành được thắng
lợi trong các cuộc bầu cử. Do vậy, các đảng chính trị đã chuyển hóa
thành công cụ để tranh cử và thắng cử, đóng vai trò then chốt trong
bầu cử. “Hoạt động tranh cử… về hình thức là cuộc ganh đua giữa
các cá nhân, song thực chất là cuộc chạy đua giữa các đảng phái”
Chế độ bầu cử ĐBQH gắn với sự lãnh đạo của Đảng thể hiện qua
những nội dung chủ yếu: (i) Đề ra chủ trương và lãnh đạo Nhà nước
xây dựng, đổi mới, hoàn thiện chế độ bầu cử; (ii) Định ra những chủ
trương lớn, có tính định hướng để tổ chức các cuộc bầu cử; (iii)
Lãnh đạo Nhà nước và các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị
tham gia tổ chức bầu cử; và (iv) Lãnh đạo, khuyến khích các tầng
lớp nhân dân tham gia bầu cử, xây dựng chính quyền. Đảng tham gia
cuộc bầu cử qua việc bồi dưỡng, giới thiệu đảng viên ứng cử; tham
gia công tác hiệp thương; tuyên truyền, vận động bầu cử… Giới
thiệu đảng viên ứng cử là con đường duy nhất của đảng chính trị
nắm giữ quyền lực một cách chính đáng và hợp pháp, hiện thực hóa
sự lãnh đạo qua Nhà nước, duy trì, củng cố vị thế lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là yếu tố quyết định đến thành công
của cuộc bầu cử ĐBQH. Nhưng là lực lượng chính trị duy nhất lãnh
đạo Nhà nước và xã hội nên Đảng dễ áp đặt ý chí, bao biện, làm thay
Nhà nước. Đảng lãnh đạo bầu cử và tham gia bầu cử trên cơ sở pháp
luật là yêu cầu đặt ra trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp
quyền. Các hoạt động của tổ chức Đảng và đảng viên trong bầu cử
phải bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, công khai, minh bạch theo các
trình tự, thủ tục do luật định về bầu cử ĐBQH
- Chế độ bầu cử áp dụng kết hợp cơ chế “ủy quyền chịu lệnh” với cơ chế “ủy quyền tự
do” để ủy thác quyền lực thông qua bầu cử

Theo cơ chế "ủy quyền chịu lệnh", cử tri bầu ra đại biểu ở từng đơn vị bầu
cử, ủy quyền cho đại biểu thực hiện quyền đại diện và có quyền bãi nhiệm
đại biểu nếu không gắn bó chặt chẽ với cử tri, không hoàn thành nhiệm vụ,
không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Ngược lại, theo cơ chế
"ủy quyền tự do", cho dù đại biểu được bầu theo từng khu vực bầu cử,
nhưng đó là người đại diện cho cả dân tộc nên không thể bị cử tri ở đơn vị
bầu cử bãi nhiệm. Chế độ bầu cử ở nước ta áp dụng cơ chế “ủy quyền chịu
lệnh” là chủ yếu nhưng có kết hợp với cơ chế “ủy quyền tự do” thể hiện ở
những điểm sau:
(i) Quyền bầu cử theo nghĩa rộng bao hàm cả quyền bãi nhiệm.
(ii) Khẳng định tính chất đại diện và trách nhiệm của đại biểu. ĐBQH là
người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử
ra mình và của nhân dân cả nước, thay mặt nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước trong Quốc hội; chịu trách nhiệm trước cử tri và
trước Quốc hội
(iii) Bằng cơ chế ủy quyền chịu lệnh, nhân dân có điều kiện để trực tiếp
giám sát đại biểu, qua đó kiểm soát quyền lực nhà nước. Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng, “Nhân dân có quyền bãi miễn ĐBQH... Nguyên
tắc ấy bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu của
mình”
(iv) Thiết lập mối quan hệ gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm giữa
ĐBQH với cử tri, nhất là cử tri ở đơn vị bầu cử thông qua sự giám
sát của cử tri, tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, tiếp nhận, phản ánh, xử
lý ý kiến, kiến nghị cử tri, khiếu nại tố cáo của công dân...
- Chế độ bầu cử gắn với quan điểm đại biểu đại diện xuất thân theo cơ cấu, thành phần
xã hội, ngành nghề, lĩnh vực
ĐBQH đại diện theo cơ cấu, thành phần xã hội ở các nước XHCN xuất phát
từ quan điểm cho rằng trong nhà nước vô sản kiểu mới, Quốc hội là cơ
quan vừa "lập pháp" vừa "hành động", gồm các đại biểu vừa là người xây
dựng pháp luật, đồng thời cũng là người thực hiện pháp luật và kiểm tra tác
dụng của pháp luật. Các đại biểu làm việc theo chế độ kiêm nhiệm, làm đại
biểu không phải là một nghề chuyên nghiệp, đặc quyền như trong chế độ
đại nghị của các nước tư sản. V.I.Lênin nhấn mạnh, những cơ quan của chế
độ đại nghị sẽ dần dần được thay thế bằng các Xô-viết đại biểu nhân dân do
các giai cấp và các nghề nghiệp, hoặc còn do các địa phương bầu lên .
Trong Quốc hội theo mô hình Xô-viết, các đại biểu phải sống và công tác
gắn bó với nhân dân, hiểu được một cách cặn kẽ tâm tư, nguyện vọng của
nhân dân. ĐBQH phải xuất thân từ các giai tầng, ngành nghề và lĩnh vực
công tác để đại diện tiêu biểu cho cơ cấu, thành phần xã hội tương ứng. Đề
cao sự đại diện về thành phần xuất thân hoặc lĩnh vực công tác là yêu cầu
đặt ra trong bầu cử ở các nướcbiểu nhân dân do các giai cấp và các nghề
nghiệp, hoặc còn do các địa phương bầu lên XHCN trước đây và ở nước ta
hiện nay cho dù tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đã có sự đổi
mới. Chế độ bầu cử ĐBQH gắn với quan điểm đại biểu đại diện xuất thân
theo cơ cấu, thành phần xã hội cả về lý thuyết và thực tiễn đang đặt ra
những vấn đề rất khó giải quyết trong tiến trình đổi mới tổ chức, hoạt động
của Quốc hội, bầu cử ĐBQH.
5. Việc đổi mới chế độ bầu cử ở nước ta
- Đặc điểm và nguyên nhân nên dẫn đến việc đổi mới chế độ bầu cử hiện
nay ở nước ta:
Đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH là sự thay đổi của chế độ bầu cử nhưng khác
với cải cách, hoàn thiện chế độ bầu cử
Một là, đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH được thực hiện khi điều kiện chính
trị - xã hội có sự thay đổi căn bản. Đổi mới chế độ bầu cử dễ nhận thấy qua
những cuộc cải cách bầu cử có tính bước ngoặt diễn ra khi thay đổi chế độ
chính trị, chuyển đổi nền dân chủ. Đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH ở nước ta
diễn ra trong bối cảnh tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ XHCN;
Hai là, đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH là quá trình mang tính tất yếu khách
quan khi đời sống chính trị - xã hội đã có sự thay đổi. Đổi mới được đề xuất
và thực hiện thông qua những hành động chủ quan nhưng trên cơ sở nhận
thức nhu cầu khách quan và tuân theo quy luật khách quan. Những cản trở
có chủ ý chỉ có thể làm chậm quá trình đổi mới mà không thể thay đổi xu
thế tất yếu của đổi mới
Ba là, đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH là một quá trình, diễn ra trong thời
gian dài khi bối cảnh chính trị - xã hội thay đổi. Mặc dù có thể được bắt đầu
bằng những cuộc cải cách lớn như thay đổi hệ thống bỏ phiếu, mô hình
quản lý bầu cử nhưng đổi mới chế độ bầu cử vẫn tiếp tục được thực hiện
qua các bước cải cách, hoàn thiện tổng thể để chế độ bầu cử thích nghi hoàn
toàn với điều kiện chính trị - xã hội.
Bốn là, đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH là sự thay đổi có tính tổng thể, toàn
diện và căn bản. Kết quả của quá trình đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH là
hình thành một chế độ bầu cử mới, dân chủ và tiến bộ hơn so với chế độ
bầu cử trước đó
Năm là, đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH có mối liên hệ chặt chẽ, tác động sâu
sắc tới sự vận hành của HTCT và nền dân chủ. Đổi mới chế độ bầu cử
ĐBQH đúng hướng sẽ thúc đẩy quá trình mở rộng dân chủ và ổn định chính
trị. Ngược lại, có thể gây ra những hậu quả tiêu cực ngoài tầm dự báo,
không thể lường trước.
Đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH ở nước ta và cải cách bầu cử theo quan điểm
của các học giả nước ngoài có những điểm tương đồng, dùng để chỉ sự thay
đổi của chế độ bầu cử. Tuy nhiên, đổi mới là một quá trình thay đổi theo
hướng tích cực, có tính toàn diện, khác với cải cách, hoàn thiện chế độ bầu
cử ĐBQH. Đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH khác với cải cách bầu cử ĐBQH
ở quy mô và cách thức thay đổi. Theo quan niệm chung, mặc dù đều tạo ra
sự thay đổi nhưng cải cách chỉ là những sự biến đổi riêng lẻ, bộ phận. Đổi
mới rộng hơn, hàm chứa những nội dung của cải cách. Cải cách được thực
hiện theo một chương trình, kế hoạch định sẵn với thời gian, phương thức
và mục tiêu cụ thể. Đổi mới thường thể hiện sự thay đổi mang tính tất yếu
khách quan, toàn diện, thực hiện trong thời gian dài. Cải cách chế độ bầu cử
được thực hiện riêng lẻ với từng yếu tố cấu thành, còn đổi mới được thực
hiện lâu dài, bao gồm nhiều bước cải cách, kết quả đổi mới có tính tổng thể.
Đổi mới khác với hoàn thiện chế độ bầu cử ĐBQH ở mức độ và tính chất
của sự thay đổi. Đổi mới là quá trình tạo ra cái mới, thay đổi khác biệt về
chất. Trong khi hoàn thiện chỉ tạo ra sự thay đổi về lượng, không tạo ra sự
thay đổi về chất. Hoàn thiện chế độ bầu cử ĐBQH mang tính bổ khuyết làm
cho các yếu tố cấu thành của chế độ bầu cử được hoàn thiện, tiệm cận với
trạng thái vốn có, không tạo ra cái mới thực sự khác biệt.
6. Một số đề xuất về phương thức đổi mới bầu cử nước ta
Phương thức đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH là cách thức thực hiện các bước
thay đổi những nội dung của chế độ bầu cử theo hướng dân chủ và tiến bộ,
phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội ở mỗi giai đoạn.
(i) Ghi nhận và bảo đảm thực thi toàn diện, đầy đủ các nguyên tắc bầu
cử tiến bộ. Lịch sử hình thành và phát triển lâu dài của chế độ bầu cử
đã thừa nhận các nguyên tắc bầu cử phổ thông, tự do, bình đẳng, trực
tiếp và bỏ phiếu kín. Hiến định các nguyên tắc bầu cử trong Hiến
pháp tạo cơ sở pháp lý cao nhất, có tính nền tảng cho việc định hình
và vận hành chế độ nói chung và bầu cử ĐBQH nói riêng. Xét trên
phương diện tổng quát, đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH là quá trình
ghi nhận, cụ thể hóa các nguyên tắc bầu cử thành các quy định pháp
luật và bảo đảm cho các nguyên tắc này được tuân thủ, áp dụng đầy
đủ trong thực tiễn bầu cử ĐBQH.
(ii) Mở rộng và bảo đảm thực chất quyền bầu cử và ứng cử. Đổi mới
chế độ bầu cử ĐBQH nhằm xác lập căn cứ pháp lý và các điều kiện
thực tiễn để thực thi đầy đủ quyền bầu cử và ứng cử với tính chất là
các quyền con người. Sửa đổi những quy định pháp luật quốc gia và
thực tiễn triển khai quy trình, thủ tục tổ chức bầu cử trực tiếp hoặc
gián tiếp làm thu hẹp, hạn chế hoặc làm ảnh hưởng đến việc thực
hiện quyền bầu cử và ứng cử một cách bất hợp lý. Tuân thủ nguyên
tắc dân chủ và pháp quyền trong việc hạn chế quyền bầu cử, ứng cử.
Xác lập trách nhiệm của nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi,
khả thi để người dân thực hiện các quyền bầu cử và ứng cử một cách
thực chất từ đăng ký cử tri, nộp hồ sơ ứng cử, bỏ phiếu, tiếp cận khu
vực bầu cử, tiếp nhận thông tin, tranh cử tự do; trách nhiệm bảo vệ
các quyền bầu cử và ứng cử trước mọi vi phạm, bảo vệ an ninh cá
nhân trong bầu cử…
(iii) Áp dụng mô hình đơn vị bầu cử và hệ thống bỏ phiếu phù hợp với
đặc điểm chính trị - xã hội của đất nước. Cải cách về đơn vị bầu cử
và hệ thống bỏ phiếu là vấn đề trung tâm và là nội dung cơ bản nhất
tạo ra sự thay đổi lớn của chế độ bầu cử. Những cải cách, đổi mới
này có tác động sâu sắc đến khả năng thắng cử của các đảng chính
trị, cơ hội được đại diện của các nhóm dân cư, giá trị và mức độ ảnh
hưởng của lá phiếu cử tri, quyết định mối quan hệ giữa cử tri và
ĐBQH… Trong quá trình đổi mới chế độ bầu cử ở các quốc gia,
việc thay đổi, cải tiến hệ thống bỏ phiếu, đơn vị bầu cử hướng tới
mục đích bảo đảm sự bình đẳng của các đảng chính trị, phản ánh
đúng ý nguyện của cử tri; tăng cường tính cạnh tranh; và bảo đảm cơ
hội được đại diện bình đẳng, thiết lập mối quan hệ gắn bó giữa đại
biểu với cử tri
(iv) Cải tiến, đổi mới quy trình, thủ tục bầu cử ĐBQH theo hướng cạnh
tranh, công bằng và minh bạch. Cạnh tranh là bản chất của bầu cử.
Thiết lập quy trình, thủ tục bầu cử để tăng cường tính cạnh tranh là
yêu cầu của mọi quá trình cải cách. Qua đó bảo đảm cho các cá nhân
đủ điều kiện đều có khả năng trở thành ứng cử viên; các lực lượng
chính trị có cơ hội tham gia tranh cử; người ứng cử có chất lượng
tương đương nhau và phải nhiều hơn số đại biểu được bầu; vận động
tranh cử bằng nhiều hình thức hợp pháp; ứng cử viên và lực lượng
chính trị có quyền và có cơ hội thể hiện quan điểm và cương lĩnh
tranh cử. Các quy trình, thủ tục bầu cử bảo đảm tính công khai, minh
bạch, được thiết lập trên cơ sở các quy định pháp luật rõ ràng, thực
hiện công khai, dễ dàng tiếp cận, có sự giám sát từ công chúng cũng
như các bên có liên quan để ngăn ngừa, hạn chế sự tùy tiện, sai sót,
gian lận bầu cử.
(v) Đổi mới công tác tổ chức, nâng cao hiệu quả công tác quản lý bầu
cử ĐBQH là nội dung trọng tâm của quá trình đổi mới chế độ bầu
cử. Xuất phát từ đặc điểm của hệ thống chính trị, đổi mới công tác tổ
chức, quản lý bầu cử ở nước ta đòi hỏi phải đổi mới mối quan hệ
giữa Đảng, Nhà nước, MTTQ và các thiết chế quản lý bầu cử, phân
định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức. Trên
cơ sở đó, xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan quản
lý bầu cử, nhất là Hội đồng bầu cử quốc gia theo hướng độc lập, tuân
thủ các tiêu chí được công nhận chung. Đó là độc lập, công bằng,
liêm chính, minh bạch, hiệu quả, chuyên nghiệp và khả năng cung
cấp dịch vụ bầu cử
(vi) Thiết lập cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử hiệu quả. Giải
quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử có vai trò ngăn ngừa, xử lý những
sai sót, vi phạm trong tổ chức các cuộc bầu cử, bảo đảm quyền bầu
cử, ứng cử. Qua đó, tạo dựng niềm tin của công chúng về bầu cử,
đồng thời ngăn ngừa việc giải quyết các xung đột chính trị bằng bạo
lực. Ngoài khả năng giải quyết kịp thời, hiệu quả các khiếu nại, tố
cáo kịp thời, hiệu quả về sai sót trong danh sách cử tri, người ứng
cử, quy trình, tổ chức bầu cử, cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo còn
phải có khả năng xử lý, giải quyết các gian lận bầu cử và tranh chấp
về kết quả bầu cử trong cuộc bầu cử có tính cạnh tranh cao, phán
quyết về các văn bản pháp luật vi hiến.
III. Phần kết
Trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đang nỗ lực đoàn kết thực
hiện tốt nhiệm vụ được giao trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng,
vững bước tiến đến bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV, đại biểu HĐND các
cấp nhiệm kỳ 2021-2026 sắp tới như ngày hội của toàn dân với tinh thần phấn
khởi, tự hào để thông qua lá phiếu có trách nhiệm của mình lựa chọn những đại
biểu thực sự có đức, có tài đại diện cho lợi ích, ý chí, nguyện vọng của nhân
dân xứng đáng là nơi gửi gắm niềm tin của cử tri cả nước vì một nước Việt
Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Thực hiện thành
công cuộc bầu cử sẽ thiết thực góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đồng
thời củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Vì vậy, việc lựa chọn, bầu ra những người tiêu biểu về
đức, tài, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của
nhân dân trong Quốc hội và HĐND các cấp nhiệm kỳ mới là nhiệm vụ hết sức
quan trọng đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Do vậy, những luận điệu
của các thế lực thù địch, phản động cho rằng: “Việc bầu cử Quốc hội và
HĐND chỉ là nghĩa vụ chứ không phải là quyền lợi, dân chủ, đều là sự sắp đặt
nhân sự có chủ ý, nhân dân không có quyền thực sự”... là hoàn toàn xuyên tạc
sai sự thật, nhằm tuyên truyền chống phá chế độ, chống phá Đảng, Nhà nước
Việt Nam. Những trường hợp, thành phần nào cố ý gây nên sự chia rẽ, xuyên
tạc này cần phải bị loại bỏ, khởi tố, xử lý bởi pháp luật. Toàn thể nhân dân ta
phải chung sức, đồng lòng, vững ý chí để không bị sa lầy vào những luận điệu
sai trái này; hơn nữa, phải quyết tâm đấu tranh đến cùng, bảo vệ sự trường tồn
của chế độ mà Đảng và Nhà nước ta đã dày công xây dựng.

You might also like