You are on page 1of 3

 Giao dịch xác lập do có lừa dối

1) Điều kiện để tuyên bố một giao dịch dân sự vô hiệu do có lừa dối theo bộ luật
dân sự 2005:
Căn cứ theo điều 132 của bộ luật dân sự 2005 về giao dịch dân sự bị vô hiệu do
bị lừa dối, đe dọa thì có thể rút ra được điều kiện là Lừa dối trong giao dịch là
hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai
lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên
đã xác lập giao dịch đó.
2) Đoạn cho thấy được việc thỏa thuận hoán nhượng đã bị tuyên bố vô hiệu do có
lừa dối ở trong Quyết định số 521 là “ Việc anh Vinh và người có liên quan
( ông Trần Bà Toàn, bà Trần Thị Phú Vân – họ hàng của anh Vinh) không
thông báo cho ông Đô, bà Thu biết tình hình về nhà, đất mà các bên thỏa thuận
hoán đổi đã có quyết định thu hồi, giải tỏa đền bù (căn nhà đã có quyết định
tháo dỡ do xấy dựng trái phép từ năm 1998 nên không dược bồi thường giá trị
căn nhà; còn thửa đất bị thu hồi thì không đủ điều kiện để mua nhà tái định cư
theo Quyết định số 135/QĐ-UB ngày 21/11/2002) là có sự gian dối. Mặt khác,
tại bản thỏa thuận hoán nhượng không có chữ ký của ông Đô (chồng bà Thu)
và là người cùng bà Thu bán căn nhà 115/7E Nguyễn Kiệm, quận Gò Vấp cho
bà Phố (mẹ của anh Vinh). Do vậy, giao dịch “Thỏa thuận hoán nhượng” giũa
anh Vinh và bà Thu vô hiệu nên phải áp dụng Điều 132 BLDS để giải quyết”.
3) Hướng giải quyết trên đã có tiền lệ chưa? Nếu có tiền lệ, nêu vắn tắt tiền lệ
mà anh chị biết?
- Hướng giải quyết trên của Tòa án là chưa có tiền lệ.
- Vì theo nguyên tắc áp dụng án lệ được quy định tại Nghị quyết 04/2019/NQ-
HĐTP do Hội đồng thẩm phán ban hành là khi áp dụng án lệ để giải quyết các
vụ việc tương tự, tên của án lệ, tính chất, tình tiết tương tự được nêu trong án lệ
và tính chất, tình tiết vụ việc đang được giải quyết, vấn đề pháp lý được án lệ
giải quyết, phải được viện dẫn, phân tích, làm rõ trong bản án, quyết định của
tòa án. Trường hợp Thẩm phán, Hội thẩm không áp dụng án lệ thì phải nêu rõ
lí do. Và trong bản án 521 thì không có bất cứ một tình tiết án lệ nào được viện
dẫn mà chỉ căn cứ vào luật và các quyết định riêng liên quan để giải quyết.
4) Hướng giải quyết trên có còn phù hợp với BLDS 2015 không? Vì sao?
Hướng giải quyết trên là phù hợp với BLDS 2015
Vì theo điều 127 BLDS 2015 có quy định:
Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì
có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba
nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của
giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Và theo điểm b khoản 1 điều 132 BLDS 2015 về Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao
dịch dân sự vô hiệu có quy định “Người bị nhầm lẫn, bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch
được xác lập do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối.”
Theo đó, anh Vinh đã giấu bà Thu và ông Đô quyết định cưỡng chế nhà và không
cho vợ chồng ông bà biết tình trạng bị giải tỏa như vậy nên vào ngày 20/5/2004, ông bà
đã kí “Thỏa thuận hoán nhượng”. Theo các điều khoản đã được dẫn của BLDS 2015 thì
hợp đồng này là vô hiệu.
Do đó quyết định hủy bỏ bản án phúc thẩm số 810/2008/DS-PT ngày 29/7/2008
của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và bản án dân sự sơ thẩm số 15/2008/DS-
ST ngày 10-14/01/2008 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh về
vụ án tranh chấp mua bán nhà” giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Thành Đô, bà Phạm Thị
Thu với bị đơn là bà Trần Thị Phố, anh Nguyễn Thế Vinh là hợp lý.
5)Trong quyết định số 210, theo Tòa án nhân dân tối cao, ai được yêu cầu và ái
không được yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu?
- Theo Tòa án, dựa trên quy định của BLDS 1995 và 2005 thì bà Nhất không được yêu
cầu tòa án tuyên bố hợp đồng có tranh chấp vô hiệu do bị lừa dối vì bà Nhất không phải
là một bên trong giao dịch, mà thay vào đó ông Tài mới là người có quyền được yêu cầu
Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu khi ông đã biết được ông Dưỡng giả mạo chữ kí của
bà Nhất để giao kết.
- Nếu trong trường hợp bà Nhất khởi kiện thì tòa phải căn cứ vào quy định tại điều 28,
Luật hôn nhân và gia đình về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung đê xác minh
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên vô hiệu theo điểm b khoản 1 điều
22 và điều 127 BLDS.
6)Trong quyết định số 210, theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp
đòng vô hiệu do lừa dối có còn không? Vì sao?
- Theo Tòa án, thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa dối là không
còn.
- Vì theo khoản 1 điều 142 BLDS 1995 thời hạn yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự
vô hiệu là một năm; điều 159 Bộ luật tố tụng dân sự quy định trong trường hợp không có
quy định về thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày người có
quyền khởi kiện biết được quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Như vậy, tháng
8/2007 bà Nhất biết ông Dưỡng giả mạo chữ kí để nhượng đất cho ông Tài, nhưng đến
10/12/2010 mới khởi kiện là đã vượt quá thời hạn 2 năm nên quyền khởi kiện của bà
Nhất đã hết quyền khởi kiện.
7) Trong trường hợp hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu do lừa
dối, Tòa án có công nhận hợp đồng không? Vì sao?
Theo điều 136 BLDS 2005 không quy định việc công nhận hết thời hiệu yêu cầu tòa án
tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối. Tuy nhiên, theo theo khoản 2 điều 132
BLDS 2015 thì hết thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa
dối mà không có yêu cầu thì giao dịch có hiệu lực. Như vậy, thì căn cứ theo bộ luật mới
nhất và đang có hiệu lực thi hành thì tòa án công nhận hợp đồng; đây cũng là điểm mới
của BLDS 2015 nhằm khắc phục những bất cập, lỗ hổng của BLDS 2005.
8) Câu trả lời cho các câu hỏi trên có khác không nếu áp dụng các quy định tương
ứng của BLDS năm 2015 vào tình tiết như trong quyết định số 210?
Nếu trong vụ án này áp dụng các quy định của BLDS năm 2015 sẽ có những hướng xử
lý khác như sau:
+ Về thời hiệu khởi kiện yêu cầu tòa án tuyên giao dịch vô hiệu do bị lừa dối cũng là 2
năm nhưng khác ở thời điểm bắt đầu tính thời hiệu: Theo điều 136 BLDS 2005 thì thời
hiệu yêu cầu là 2 năm kể từ ngày xác lập giao dịch; còn theo điều 132 BLDS 2015 thì
thời hiệu yêu cầu là 2 năm tính từ ngày người bị lừa dối biết hoặc phải biết giao dịch
được xác lập do bị lừa dối.
+ Theo khoản 2 điều 132 BLDS 2015 thì nếu hết thời hiệu yêu cầu tòa án tuyên bố giao
dịch vô hiệu do bị lừa dối thì giao dịch có hiệu lực.

You might also like