You are on page 1of 3

I.

Di sản thừa kế
Câu 7: Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398 m2 đất, phần di sản của Phùng
Văn N là bao nhiêu? Vì sao? Trả lời: Theo nhận định của Tòa án thì diện tích 398m2
đất là tài sản chung của vợ chồng ông N và bà G. Năm 1991 bà G chuyền nhượng cho
ông K 131 m2 đất nhằm trả nợ và nuôi gia đình. Căn cứ vào khoản 2 Điều 33 Luật
hôn nhân gia đình 2014 về tài sản chung của vợ chổng thì phần đất chuyển nhượng
trên được xem như là tài sản chung: “2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu
chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ
chung của vợ chồng.” Như vậy, tài sản chung của vợ chồng ông N và bà G lúc này
còn 267 m2. Phần di sản của ông N là một nửa diện tích 267 m2 đất chung của vợ
chồng ông và bà G, tức là 133,5 m2. Các văn bản pháp luật hiện nay không quy định
rõ phần của vợ/ chồng trong khối tài sản chung. Theo khoản 2 Điều 59 Luật hôn nhân
gia đình 2014, tài sản chung của vợ chông được chia đôi, tức là mỗi người được 1/2
khối tài sản chung nhưng nếu có chứng cứ chứng minh có sự đóng góp khác nhau thì
phần mỗi người không nhất thiết là ngang nhau. “…2. Tài sản chung của vợ chồng
được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây: a) Hoàn cảnh của gia đình và của
vợ, chồng; b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển
khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có
thu nhập; c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và
nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; d) Lỗi của mỗi
bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.” Tuy nhiên, quy định này quy định
trong trường hợp vợ chồng ly hôn. Một điều luật khác cũng ghi nhận về vấn đề phân
chia tài sản chung của vợ chồng là: khoản 2 Điều 66 Luật hôn nhân và gia đình 2014
quy định về giải quyết tài sản vợ chồng khi một bên chết: “…2. Khi có yêu cầu về
chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có
thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố
là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế…” Như vậy, phần diện
tích đất của ông N sẽ là 133.5 m2 . Mặc dù ông N chết và phần diện tích 267 m2 được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà G (phần đất chỉ còn 267 m2 là vì
bà đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K vào năm 1991 một phần diện tích đất
trên là 131 m2 và năm 1999 bà mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất)
nhưng phần đất được hình thành trong thời kỳ hôn nhân, là tài sản chung của vợ
chồng. Cho nên phần di sản của ông N sẽ được tính là ½ tổng diện tích đất chung của
vợ chồng ông và bà G theo Điều 612 BLDS 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của
người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”. Câu 8:
Theo án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ông K có phải là di sản để
chia không? Vì sao? Trả lời: Theo án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng
cho ông K không phải là di sản để chia. Vì bà Phùng Thị G đã chuyển nhượng quyền
sử dụng đất cho ông Phùng Văn K và ông K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông
Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng không ai có ý kiến phản đối gì.
Vì vậy có cơ sở để xác định các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G
chuyển nhượng diện tích 131m2 nêu trên cho ông Phùng Văn K. Phần diện tích đất
này đã thuộc quyền sử dụng của ông K nên không phải là di sản đề chia thừa kế của
gia đình bà Phùng Thị G. Câu 9: Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết của Án lệ
trên. Trả lời: Hướng giải quyết của Án lệ khi quyết định không đưa 131 m2 đất đã
bán cho ông K vào phần di sản của ông N là hợp lý. Như đã phân tích ở trên, bà G
chuyển nhượng đất nhằm đảm bảo cuộc sống cho gia đình. Mặc khác, theo Điều 651
BLDS 2015 quy định về người thừa kế theo pháp luật thì cả bà G và 6 người con đều
thuộc hàng thừa kế thứ nhất, đồng thời những người thừa kế cùng hàng sẽ được
hưởng phần di sản bằng nhau. Trong trường hợp bà G chuyển nhượng 131 m2 đất cho
ông K phải được sự đồng ý của tất cả các đồng thừa kế. Trên thực tế, các đồng thừa
kế đã biết việc chuyển nhượng và không có ý kiến phản đối. Nên có thể xem hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng 131 m2 đất của bà G cho ông K là hoàn toàn hợp
pháp. Căn cứ theo Điều 223 BLDS 2015 về căn cứ xác lập quyền sở hữu theo hợp
đồng, ông K có quyền sở hữu tài sản trong hợp đồng là 131 m2 đất. Điều 651. Người
thừa kế theo pháp luật “1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo
thứ tự sau đây: a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết; … 2. Những người thừa kế cùng hàng được
hưởng phần di sản bằng nhau.” Điều 223. Xác lập quyền sở hữu theo hợp đồng
“Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay
hoặc hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật thì có quyền
sở hữu tài sản đó.”
II.
IV. Aa
9. Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng
cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là di sản để chia
không? Vì sao?
- Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng số
1 1
tiền đó cho cá nhân thì bà chỉ có thể định đoạt được giá trị của đất, còn số tiền
2 2
giá trị đất còn lại là tài sản của ông N để lại sau khi mất. Như vậy, số tiền còn lại
đó là tài sản để chia.
10. Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất
trên là bao nhiêu? Vì sao?
- Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trong diện tích đất
trên là 133.5m 2 (1/2 tài sản).
- Vì phần diện tích 267m 2 đất đứng tên bà Phùng Thị G nhưng được hình thành
trong thời kỳ hôn nhân nên phải được xác định là tài sản chung của vợ chồng ông
Phùng Văn N và bà Phùng Thị G chưa chi. Bà Phùng Thị G chỉ được quyền định
đoạt ½ diện tích đất trong tổng diện tích 267m 2 đất chung của vợ chồng bà, tức là
133.5m2.
11. Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m 2 có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?
- Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản bà Phùng Thị G là 43.5m 2 có thuyết
phục vì theo nhận định của tòa án “Bà Phùng Thị G chỉ có quyền định đoạt ½ diện
tích đất trong tổng diện tích 267m 2 đất chung của vợ chồng ông bà” còn 90m 2 được
chia theo di chúc bà cho con gái là Phùng Thị H1.
- Đây không phải là nội dung của án lệ 16/2017 vì án lệ này chỉ nói về việc di sản
thừa kế là bất động sản đã được một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng. Các
đồng thừa kế khác biết và không phản đối việc chuyển nhượng đó. Số tiền nhận
chuyển nhượng đã được dùng để lo cho cuộc sống của các đồng thừa kế. Bên nhận
chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp này,
Tòa án phải công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là hợp pháp và
diện tích đất đã chuyển nhượng không còn trong khối di sản để chia thừa kế mà
thuộc quyền chuyển nhượng.
12.Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m 2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” có
thuyết phục không? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 không? Vì sao?
- Tòa quyết định “còn lại 43.5m 2 được chia cho 5 kỷ phần còn lại” là hợp lý. Di
sản của bà G là ½ khối tài sản, bà có viết di chúc để lại cho chị H1 90m 2 như vậy
chị H1 sẽ được nhận 90m 2 theo như di chúc, phần còn lại chia theo quy định pháp
luật, 5 người con còn lại của bà G thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại
điểm a khoản 1 điều 651 BLDS 2015, phần di sản còn lại sẽ được chia đều.
- Phần này không là nội dung của án lệ vì đã có quy định của pháp luật

You might also like