Professional Documents
Culture Documents
Điện Biên Phủ Từ Góc Nhìn Của Người Lính Pháp Roger Bruge
Điện Biên Phủ Từ Góc Nhìn Của Người Lính Pháp Roger Bruge
1
Chỉ màu da quân lính (BT)
2
Sinh năm 1909 tại Pontivy, Piere Langlais tốt nghiệp trường võ bị
Saint Cyr năm 1930. Ở Đông Dương lần đầu với Sư đoàn 9 Bộ binh thuộc
địa năm 1945. Sang Đông Dương lần thứ 2, chỉ huy phân khu Móng Cái rồi
phân khu Đồng Hới. Trở về Pháp với quân hàm trung tá, đã tốt nghiệp nhảy
dù cuối 1950. Lần thứ 3 sang Việt Nam nhảy dù xuống Điện Biên Phủ trong
cuộc hành quân Hải ly
3
Sinh năm 1903, Paul Pégot được gọi vào trung đoàn bộ binh 144
năm 1923. Xuất phát đi Đông Dương trên tàu Bulônhơ tháng 2-1948. Tiểu
đoàn trưởng tháng 1-1952. Trở về Pháp trên tàu Ănghê Lebông năm 1952
sau bốn lần kéo dài nhiệm kỳ. Trở lại bằng máy bay tháng 10-1953, chỉ huy
tiểu đoàn 3, bán lữ đoàn lê dương ngoại quốc 13 ở Béatrice
4
máy bay Dakota - đom đóm bay trên chiến trường. Trong bốn giờ
những người thả dù tung qua cửa máy bay những quả bom chiếu sáng rồi khi
dự trữ đã hết, nhường chỗ cho máy bay khác
5
Jules Gaucher, 48 tuổi là trung tá thứ 3 của bán lữ đoàn lê dương
ngoại quốc thứ 13 bị chết trong chiến đấu. Trung tá Amilakvari của lực
lượng Pháp tự do, bị giết năm 1943 ở Li bi và trung tá Xêrinhê đã chết trong
cuộc tấn công đoàn xe đi Đà Lạt ngày 1-3-1948
6
Tiếp theo sau cuộc tấn công là tình hình khí tượng rất không thuận
lợi, đặc biệt lại có một cơn giông dữ dội trong đêm, liên lạc vô tuyến điện bị
gián đoạn (ăngten định vị thay thế hơn mười lần), và máy bay - đom đóm
không thể bảo đảm một cuộc chiếu sáng tử tế nào
7
Sinh ở Paris tháng 7-1930, Giăng Phốc chuẩn bị học trường võ bị
Saint Cyr. Thiếu uý, được bổ nhiệm về trung đoàn 7 bộ binh Algerie ở
Côblăngxơ (lực lượng Pháp ở Đức) tháng 10-1952. Được cử đi Đông Dương,
xuống tàu Cáp Xanh Giắc, nhổ neo ngày 20-5-1953. Bổ nhiệm về tiểu đoàn
5, trung đoàn 7 bộ binh Algerie, không vận lên Điện Biên Phủ cùng tiểu đoàn
mình
8
Sinh năm 1916, Henri Giăngđrơ nhập ngũ năm 1934. Tình nguyện
đi Đông Dương. lên tàu Pastơ ngày 1-5-1953. Về lại tiểu đoàn 5, trung đoàn
7 bộ binh Algerie ngày 24-5. Tù binh ở Điện Biên Phủ ngày 7-5
9
Sinh năm 1923 ở Ốtđơ, Paul Turcy phục vụ ở Công trường thanh
niên năm 1943, được gọi nhập ngũ 1945, trung sĩ năm 1947, tốt nghiệp Saint
Cyr năm 1948. Cưới An ni Bôvanhê 6-1-1952, 2 tháng sau đi Đông Dương
bổ dụng về tiểu đoàn 1 dù ngoại quốc. Chỉ huy một đại đội súng cối 120 ở
Điện Biên Phủ
10
Xuất thân từ một gia đình ở miền Pirênê thượng, Réne Cônxi tốt
nghiệp Saint Cyr năm 1949. 23 tuổi, được cử sang Đông Dương, anh được
gửi đến Xiđi Ben Abe sau khi cưới Ađrien Beruýt. Năm 1951 trung uý bị sỏi
thận; được công nhận không đủ sức đi chiến trường nước ngoài lâm thời.
Đến Sài gòn ngày 6-2-1953. Bổ dụng vào tiểu đoàn 2, trung đoàn 1 bộ binh
lê dương ngoại quốc, chỉ huy 1 đại đội cối 120 ở Điện Biên Phủ
11
Sinh năm 1906 ở Săngplít (Hốt-Xaon). Charles Piroth nhập ngũ
1924, 1926 cưới Ôđét Mayô, có hai con trai. Thiếu uý pháo binh 1929. Đại
uý ở Marocco năm 1939. Thiếu tá và đổ bộ vào Italia năm 1943. Bị thương ở
Benvêđe. Chiến dịch Pháp, rời trung đoàn pháo 16 ở Itxoa 1945. Chỉ huy tiểu
đoàn 3, trung đoàn 69 pháo phòng không. Đi Đông Dương tháng 3- 1946. Bị
đạn ở cánh tay gần Thủ Dầu Một, bị cụt tay và hồi hương tháng 3-1947.
Trung tá 1948. Đi nhiệm kỳ 2 tháng 8-1949. Bổ nhiệm về cơ quan tham
mưu. Về nước cuối 1951. Đại tá tháng 7-1952. Đi nhiệm kỳ 3 tháng 11 1953.
Chỉ huy trung đoàn 41 pháo thuộc địa rồi Phó tư lệnh GONO 10- 12-1953.
Theo lý lịch công tác, đại tá Piroth mất ngày 20-3-1954
Một buổi phát thanh của hãng thông tin Việt Minh ngày 2-5-1954
lúc 19 giờ, công bố “thư cảm ơn ngày 17-3 của đại uý Pháp Thimonniê gửi
Bộ chỉ huy Quân đội nhân dân Việt Nam”, theo đó Pháp được phép nhận 78
lính bị thương trên Gabrielle. Tin này không chính xác về số lượng cũng như
địa điểm12
13
Sinh năm 1928, thiếu sinh quân, Rêmy Râynô nhập ngũ 1945. Tốt
nghiệp Saint Cyr, thiếu uý 1951 có bằng nhảy dù, được điều về tiểu đoàn bộ
binh 126, và phục vụ tại tiểu đoàn 3 dù lê dương ngoại quốc ở Xêtíp, Đến Sài
Gôn tháng 6-1953, tháng 10-1953, nhảy dù cùng tiểu đoàn xuống Điện Biên
Phủ (Hành quân Hải ly
14
Sinh năm 1923, thiếu sinh quân. André Lơcốc sau khi tốt nghiệp
Saint Cyr, đến Sài gòn ngày 22-10-1947. Được cử về tiểu đoàn 2 bộ binh
Ngoại quốc, hồi hương tháng 12-49. Đậu bằng dù, được cử về tiểu đoàn 3 dù
ngoại quốc ở Xêtíp. Nhảy xuống Điện Biên Phủ với tiểu đoàn 1 dù ngoại
quốc (Hành quân Hải ly)
15
Chú thích: Sinh năm 1909, Gaston Ducruix sang Đông Dương
tháng 1-1954. Được cử về GONO ngày 25-3. Mất trong thời gian bị bắt làm
tù binh
16
Sinh năm 1927, Misen Garutai được gọi nhập ngũ tháng 5-1947.
Được cử sang Đông Dương, đã đậu bằng nhảy dù, xuống tàu ngày 8-9-1953.
Được cử về tiểu đoàn 8 xung kích, cùng tiểu đoàn mình nhảy dù xuống Điện
Biên Phủ
17
Sinh năm 1926. Pécđuy được gọi nhập ngũ năm 1946. Tình
nguyện phục vụ theo chế độ sĩ quan dự bị phục vụ thường trực, đến Sài gòn
1-1953. Về trung đoàn 23 bộ binh thuộc địa ở Điện Biên Phủ
18
Sinh tháng 1-1927, Phécđinăng Panh được gọi nhập ngũ trung
đoàn 3 Spahis Algerie. Đến Hà Nội ngày 31-1-1954, bổ nhiệm về tiểu đoàn
3, trung đoàn bộ binh Algerie ở Điện Biên Phủ, bị thương ở lồng ngực 11-2,
được thưởng huy hiệu cành cọ, tuyên dương trong toàn quân
19
Sinh năm 1931, Jean Gasparini được gọi nhập ngũ 1951. Tình
nguyện sang Đông Dương theo chế độ sĩ quan dự bị phục vụ thường trực.
Tháng 7-1953 lên tàu đi Đông Dương. Được bổ nhiệm về tiểu đoàn 4, trung
đoàn 4 pháo binh thuộc địa ngày 26-8-1953. Được cử lên Điện Biên Phủ làm
sĩ quan liên lạc và quan sát ở tiểu đoàn 3, trung đoàn 3 Algerie
20
Champs Eliseés là tên một đại lộ nổi tiếng ở Pari
21
Sinh năm 1923, Jean Gaven đến Sài gòn cuối năm 1949, trung uý
tháng 1-1950. Bị thương năm 1950. Về nước năm 1951. Huấn luyện viên
trường biệt kích, trở lại Việt Nam 11-1952… Bổ nhiệm về tiểu đoàn 2, trung
đoàn 1 dù, rồi tiểu đoàn 5 dù Việt Nam ngày 15-1-1954. Cùng tiểu đoàn
nhảy xuống Điện viên Phủ ngày 14-3
22
Sau khi bị bắt trở về, đại uý Nicod viết thư cho bà Clos Bruvđiơ
nói rõ cho bà biết là chồng bà đã bị giết ngày 30-3 khoảng 20 giờ do bị nhiều
mảnh đạn pháo. Anh đã được mai táng ngày 31-3 trên cứ điểm Éliane 3, ở
nghĩa trang của tiểu đoàn 1, trung đoàn 4 Marocco. Số tiền 1500 đồng Đông
Dương, nhẫn mặt đá khắc và nhẫn cưới mà Việt Minh đã tịch thu ở Nicod
sau khi Điện Biên Phủ thất thủ, đã được trả lại cho Nicod, trừ nhẫn cưới, sau
khi Nicod được trả tự do
23
Bom nguyên tử ở Hiroshima không nổ ở mặt đất mà ở độ cao
khoảng 600 mét. Những ngọn đối cao nhất ở Điện Biên Phủ là 505 mét
(Dominique 2), 490m (Dominique 1), 468m (Éliane 1) và 464m (Éliane 2).
24
Thư của trung uý Giắccơ Mê ri Đờ Benlơtông cùng khoá tốt
nghiệp với Béctơrăng Đờ la Metơri, gửi cho vợ anh. Con gái của tướng
Ruhiê, Suyzan đờ la Metơri đã mất người anh cả: thiếu uý Gustavơ Ruhiê, bị
giết ngày 4-6-1947 tại Sơn La
25
Sinh năm 1929, Bertrand De la Su De la Metơri là thiếu uý tháng
10-1950. Sau một kỳ thực tập về phòng không, anh được bổ nhiệm về trung
đoàn pháo binh 32 ở Đức. Phi công loại máy bay hạng nhẹ, anh phục vụ ở
không đoàn quan trắc pháo binh số 2. Lấy Suyzan Ruhiê ngày 19-10-1953
hai tháng trước khi sang Đông Dương. Được bổ nhiệm về tiểu đoàn 2, trung
đoàn 41 pháo thuộc địa rồi không đoàn 23 quan trắc pháo, được phái lên
Điện Biên phủ, rồi Mường Sài
26
Sinh tháng 12-1921, Marcel Buốcgia nhập ngũ 1945. Chuẩn uý
tháng 3-1947, chọn đơn vị dù và ngày 2-8-1948 cưới Môníc Cốtskê, có 2
con. Sang Đông Dương tháng 11. Bị thương tháng 4-1949. Trung uý 1-1950.
Về nước 11-1950. Trở lại Đông Dương 7-1952, trước khi được cử về tiều
đoàn 6 dù thuộc địa; Nhảy xuống Điện Biên Phủ trong chiến dịch Hải ly và
trở lại Điện Biên Phủ ngày 16-3 với tiểu đoàn 6
27
Sinh năm 1929, Pierre Le Roy nhập ngũ 1947. Được điều sang
Đông Dương tháng 3-1954. Được bổ nhiệm vào đại đội 342, rồi chuyển sang
tiểu đoàn 6 dù thuộc địa. Nhảy dù xuống Điện Biên Phủ ngày 8-4, bị thương
ngày 10. Bị bắt làm tù binh ngày 7-5-1954. Chết ngày 24-6 trên đường băng
28
Sinh tháng 3-1924, Gilles đờ Phơrơmông đờ Boayơ tốt nghiệp
Saint Cyr 1950. Trung uý 10-1952. Đi Đông Dương tháng 11. Nhảy dù
xuống Điện Biên Phủ trong hành quân Hải ly. Theo tiểu đoàn sang Lào; nhảy
dù lần 2 xuống Điện Biên Phủ cùng Bigeard ngày 16-3-1954
29
Sinh tháng 7-1926, Lanh Ghi nhông tốt nghiệp Saint Cyr. Đến Sài
gòn tháng 6-1953. được bổ nhiệm về tiểu đoàn 2, trung đoàn 1 dù, nhảy
xuống Điện Biên Phủ ngày 3- 4-1954
30
Sinh năm 1913, Jean đờ la He Xanh Hile tình nguyện sang Đông
Dương, 1 năm sau đến Đông Dương. Được bổ nhiệm về tiểu đoàn 1, trung
đoàn 4 Marocco, bị thương vì mìn
31
Sinh tháng 7-1929, D.Phơragôna đi Đông Dương, được bổ nhiệm
về tiểu đoàn 2 dù ngoại quốc. Cùng tiểu đoàn nhảy dù xuống Điện Biên Phủ
ngày 9-4
32
Sinh tháng 7-1930, Misen Pulanh được gọi nhập ngũ năm 1950 ở
Trung đoàn 5 công binh. Học trường sĩ quan dự bị ở Ăng giê. Tình nguyện
với tư cách sĩ quan dự bị, xuống tàu đi Đông Dương tháng 7. Bổ nhiệm về
đại đội 31 công binh, trung uý (dự bị) tháng 10-1953, được không vận lên
Điện Biên Phủ).
33
Sinh năm 1923. Jean François là lực lượng Pháp ở trong nước
năm 1944. Vào học trường Cao đẳng quân sự binh chủng hợp thành. Thiếu
uý tháng 12-1946. Được chỉ định đi Đông Dương tháng 6-1948. Trung uý
François trở về Pháp tháng 2-1951. Trở lại Đông Dương nhiệm kì hai. Bổ
nhiệm về tiểu đoàn 1, trung đoàn 2 bộ binh ngoại quốc, tháng 10-1953 được
không vận cùng tiểu đoàn lên Điện Biên Phủ
34
Sinh năm 1927, Đêboóc nhập ngũ tháng 9-1944 ở Tơroay; xuất
ngũ là trung sĩ tháng 8-1945. Sau 15 tháng dân sự, tái ngũ với thời hạn 4
năm, đậu bằng nhảy dù và ra trường Saint Cyr với cấp thiếu uý năm 1951.
Trung uý ở trung đoàn pháo 32, sang Đông Dương rồi được điều về tiểu
đoàn 3, trung đoàn 10 pháo thuộc địa ở Điện Biên Phủ
35
: Sinh năm 1927, Clos Jacquelin nhập ngũ tháng 11-1946. Được
cử sang Đông Dương ngày 2-12-1953. Đầu tháng 1-1954, bổ nhiệm về tiểu
đoàn 3, trung đoàn 3 Algerie ở Điện Biên Phủ
36
Sinh năm 1927, Emê Balnc được gọi nhập ngũ 1947. Tình nguyện
sang Đông Dương, lên đường ngày 14-12-1953. Trung uý tháng 5 ở tiểu
đoàn 1 dù thuộc địa, chuyển sang tiểu đoàn 6 dù thuộc địa ngày 11-4-1954.
Ngày hôm sau nhảy dù xuống Điện Biên Phủ
37
Sinh năm 1921, Giắc Sơvaliê tốt nghiệp Saint Cyr năm 1942.
Tháng 1-1948 đi Đông Dương. Qua nhiều đơn vị, cuối nhiệm kỳ, công tác ở
Phòng 3 phân khu Biên Hoà. Hồi hương tháng 6-1950. Tháng 7 đại uý ở
trung đoàn- bộ binh 151. Tháng 1-1954 trở lại Đông Dương. Bổ nhiệm vào
tiểu đoàn 1, bán lữ đoàn lê dương ngoại quốc ở Điện Biên Phủ
38
Được tiểu đoàn 6 dù thuộc địa chiếm lại một phần vào ngày 10-4,
Éliane 1 chỉ sụp đổ vào ngày 1-5, nghĩa là 20 ngày (chứ không phải tám
ngày) sau khi quân của Bigeard chiếm lại nó
39
Sinh năm 1923, Guy Canton là người kháng chiến. Tháng 3-1943
bị đày vào trại tập trung Buchenvan. Được tự do tháng 4-1945. Tham gia
không quân Bắc Phi thuộc Pháp 1946. Lần lượt qua các trung đoàn dù. Bị
chết tại Điện Biên Phủ tháng 4-1954, được truy phong cấp thiếu uý ngày 2-4-
1954
Chú thích: Camerone (tiếng Mehico là Camaron) là một địa
40
phương ở Mehico, ở đó lính lê dương Pháp đã chiến đấu tự bao vệ, chống lại
người Mehico ngày 30-4-1863. Ngày nay đã trở thành ngày hội của đội lê
dương ngoại quốc - (ND).
41
Sau khi đi 600km, Robert Perê đến trại số 1, chân phải bị áp xe
đến đầu gối. “Tôi được nạo những áp xe này mà không được gây tê tại chỗ,
anh viết, và chưa bao giờ trong đời mình tôi lại gào to đến thế” (Thư trao đổi
với tác giả)
42
Sinh năm 1924, Yvơ Pêriu, thiếu uý của lực lượng nội địa Pháp.
Được cử đi Đông Dương 9-1948 với tiểu đoàn 2, trung đoàn 1 dù. Bị thương
vì mìn, trung uý (thường trực) 3-1950. Trở về Pháp - Bổ dụng về Pô rồi về
bán lữ đoàn dù ở Van, trở lại Đông Dương cuối 1952 và gặp lại tiểu đoàn
Bréchignac, cùng tiểu đoàn nhảy dù xuống Điện Biên Phủ
43
Ở phi đoàn 3F, trung uý Ăngđriơ bị cao xạ bắn rơi ngày 31-3,
trung uý Lô giê nhảy khỏi máy bay bị cháy ngày 9-4, nhưng dù không mở.
Phi đoàn 11F mất trung uý Rôbanh ngày 5-12-1953, rồi trung uý De
Măngđrơvin đụng phải một lèn đá ở Vịnh Hạ Long khi làm nhiệm vụ về.
Trung uý Lêpinát bị cao xạ bắn rơi ngày 15-3, thượng sĩ nhất Robert kịp
nhảy dù nhưng không còn sống trong thời gian bị bắt. Ở phi đoàn 28E chiếc
Privateer của trung uý Manphanôpslu bị bắn rơi ngày 12-4 và chiếc của trung
uý Môngghiông ngày 8-5. Ba người nhảy dù, nhưng chỉ hai trở về,
Cácpăngchiê và Kerômmơ
44
piê = hơn 30cm
45
Sinh năm 1925, André Samalăng nhập ngũ lúc 17 tuổi ở trung
đoàn pháo 65. Lên tàu đi Đông Dương ngày 29-8-1953. Về tiểu đoàn 6 dù
thuộc địa ngày 20-9, nhảy xuống Điện Biên Phủ với tiểu đoàn Bigeard
46
Pierre Oensơ đã được thăng cấp trung sĩ nhất ngày 1-4 cùng với 6
trung sĩ khác của tiểu đoàn 6 dù thuộc địa
47
Trung tá Langlais không bỏ rơi Pouget, ông đã chỉ định đại uý
Bizard để leo lên Éliane 2. Để lại trung đội Viên ở Ôpêra bis, Bizard đã vận
động ngày 7-5 lúc 6 giờ sáng. Theo ông, đại đội của ông “phải phản kích
theo hướng Éliane 2 nhưng lệnh đã được huỷ bỏ và tôi được bố trí để phòng
ngự bên cạnh cầu Mường Thanh” (Thư trao đổi với tác giả)
48
Sinh năm 1931, Tadius Orlovsky là người gốc Nga, bố mẹ anh
nhập quốc tịch Pháp tháng 7-1939. Tình nguyện sang Đông Dương. Đến Sài
gòn ngày 5-3-1954. Bổ dụng về tiểu đoàn 1 dù thuộc địa ngày 20-3. Trung
uý (dự bị) ngày 16-4, nhảy xuống Điện Biên Phủ ngày 4-5-1954. Orlovsky
chết trong thời gian bị bắt ngày 21-6-1954
49
Quả lựu đạn, có lẽ là một lựu đạn tấn công, đã nổ trên mũ của tôi,
làm cháy lưới nguỵ trang và làm móp mũ sắt!”, Pouget viết và thêm “Tôi đã
cất giữ nó suốt cả thời gian bị bắt và dùng nó làm nồi” (Thư trao đổi với tác
giả)
50
Đại uý Phạm Văn Phú được thăng cấp ở Điện Biên Phủ. Ngày 7-5
chạy thoát nguỵ quân Sài gòn đến một đồn Pháp ở Lào. Là trung tướng trong
chiến tranh của Mỹ, chỉ huy sư đoàn 1 bộ binh. Được thăng cấp thượng
tướng, chấm dứt cuộc đời của mình khi các xe tăng cộng sản tiến vào Sài gòn
51
sinh năm 1924 ở Muy, nhập ngũ lúc 18 tuổi. Clos Giắccơmê đi
Triều Tiên năm 1951. Bị thương, được tuyên dương, phong thiếu uý, cùng
đơn vị sang Đông Dương. Bổ nhiệm về tiểu đoàn 8 dù xung kích, Giắccơmê
nhảy xuống Điện Biên Phủ ngày 28-3. Mất trong thời gian làm tù binh ngày
2-7-1954
52
Ám chỉ cuộc rút khỏi Cao Bằng do tướng Cácpăngchiê quyết định
và những cuộc chiến đấu dữ dội diễn ra dọc đường số 4 tháng 10-1950, kết
thúc bằng việc tiêu diệt các binh đoàn Lepage và Charton
53
Trong báo cáo của mình, tướng de Castries đòi phải xác định tác
giả của Albatros - kế hoạch rút quân do chính ông đề nghị với tướng Navarre
ngày 1-5. Tuy nhiên ông xác nhận sự khởi động của ông là theo lệnh của
tướng Cogny
54
Thứ năm ngày 6-5, 62.700 tấn đạn dược bộ binh và 46.260 tấn
đạn pháo (kể cả đạn cối 120) đã được thả dù. Thứ 6, ngày 7-5 các máy bay
Dakota thả thêm 5.330 tấn đạn bộ binh
55
Trong cuốn sách của ông “Chiến dịch Điện Biên Phủ” (Pari
Julliard, năm 1963) Julesroy khẳng định đã nghe bản ghi âm cuộc đối thoại
giữa Cogny và de Castries và cuốn băng đã bị cắt xén ở chỗ nói về việc đừng
kéo cờ trắng
56
Sinh năm 1930, Roget Alessandri được gọi nhập ngũ năm 1951.
Hạ sĩ nhất ở Tunis, học trường sĩ quan dự bị. Thiếu uý năm 1952, xin sang
Đông Dương phục vụ theo chế độ sĩ quan dự bị trong quân đội thường trực.
Lên tầu ngày 17-9-1952. Bổ nhiệm về đơn vị thông tin, hồi hương ngày 5-8-
1953 tình nguyện sang trở lại. Tháng 1-1954 thiếu uý thường trực, ngày 21-4
ở sở chỉ huy thông tin của GONO. Từ ngày 10-5-1954 mất trong thời gian
làm tù binh, tháng 6-1954
57
Địa phương này của Mehico mà theo tiếng địa phương thì gọi là
Camarôn, ngày nay gọi Villa Tejeda, ngày 30-4-1963 quân lê dương Pháp đã
chiến đấu tự vệ chống lại người Mehico
58
Theo báo cáo của đại tá Lalande, 166 người chết đã an táng tại
nghĩa trang Isabelle vào ngày 7-5-1954
59
Trung sĩ nhất Jean Bêganh, phó của Trung uý Uyem, leo lên đỉnh
vách đá ở Pomlot và đi một mình trong 11 ngày trước khi bị bắt. Được đưa
về một trại tù binh của Việt Minh sau một “cuộc đi dài nữa”, anh ta chỉ còn
nặng 37kg khi được trả tự do vào tháng 8-1954. Nhưng anh vẫn sống sót