You are on page 1of 18

"Đường Hồ Chí Minh xuyên lòng đất"

Thứ Hai, 23/07/2007, 06:27 (GMT+7)


TUẤN PHÙNG
Nếu mọi người gọi đường Hồ Chí Minh vượt Trường Sơn là một
huyền thoại thì công trình đường ống dẫn xăng dầu vượt Trường Sơn là
huyền thoại trong huyền thoại đó”. Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên - nguyên tư
lệnh binh đoàn Trường Sơn - đánh giá như vậy về công trình đường ống vượt
Trường Sơn đưa xăng dầu vào chiến trường trong kháng chiến chống Mỹ.
Trong vòng sáu năm (6-1968 đến 2-1975), những người lính xăng
dầu đã làm nên một “đường Hồ Chí Minh xuyên lòng đất” dài gần 5.000km
từ biên giới Việt - Trung vào Bình Phước. Một huyền thoại lịch sử đã được
ghi. Huyền thoại về những người đã lập nên kỳ tích và về những người đã
ngã xuống để đường ống xăng dầu thông suốt vào Nam.
1. Đi qua “tam giác lửa”

Chiến sĩ đưa xăng qua suối: các đoạn ống cao su nối nhau bị thiếu
nên phải dùng ống lồ ô khoét rỗng để nối vào - Ảnh tư liệu
Sơ đồ toàn tuyến đường ống xăng dầu xây dựng giai đoạn 1968-
1975
TT - Cuối tháng 3-1968, Mỹ tăng cường ném bom nhằm chặt đứt
giao thông ở các tỉnh khu 4 để băm nát "khu vực cán xoong" từ vĩ tuyến 19
trở vào.
Đặc biệt, ba trọng điểm phà Bến Thủy - Nam Đàn - Linh Cảm bị
đánh bom triền miên tạo thành một “tam giác lửa” ngăn chặn vận chuyển từ
miền Bắc vào. Ngã ba Đồng Lộc cũng bị ném bom cày đi xới lại tạo thành
điểm tắc, xe vận tải, xe chở xăng khó lòng qua lọt.
Đổi xăng bằng máu
Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên vẫn nhớ như in những ngày đứng
ngồi không yên vì xe không vượt qua được tuyến lửa để vào Trường Sơn:
“Lúc này ở Trường Sơn, gần nửa tháng đoàn 559 không còn xăng cho cơ
giới hoạt động, kế hoạch vận tải cho mùa khô có nguy cơ bị trì hoãn. Có lúc
cả ngàn xe vận tải nằm chờ. Thiếu xăng nên đạn, lương thực, quân nhu
không vào được chiến trường. Thiếu gạo, thiếu muối, khẩu phần ăn của chiến
sĩ chỉ còn 4 lạng gạo/ngày, có khi chỉ còn 2 lạng”.
Lúc này, ở phía trong “tam giác lửa”, binh trạm 12 nhận lệnh phải
bằng mọi giá đưa nốt số xăng dầu còn lại vượt Trường Sơn giao cho đoàn
559. Tuy nhiên, tại cửa khẩu binh trạm 12 (Tuyên Hóa, Quảng Bình), đoạn
ngã ba Khe Ve đến đèo La Trọng bị bom dội làm đất đá trên núi trút xuống
tạo thành một đỉnh lầy hàng kilômet. Đã có tám chiến sĩ mất bàn chân do các
loại mìn lá, mìn gíp… lẫn trong bãi lầy khi cõng hàng qua đó.
Lực lượng công binh phải dùng mìn định hướng, bộc phá nhằm thổi
bay bùn đất nhưng tốn hàng tấn thuốc nổ mà bãi lầy vẫn không di chuyển, xe
không thể qua. Binh trạm phải bơm xăng vào phi 200 lít rồi cho bốn chiến sĩ
khiêng qua bãi lầy. Nhưng ba tốp chiến sĩ (12 người) suốt một ngày chỉ
khiêng được 15 phuy. Ròng rã hai ngày, binh trạm giao đủ hai xe xăng cho
đoàn 559 nhưng tổn thất nặng nề: một chiến sĩ trượt chân rớt xuống vực, hai
chiến sĩ trúng mìn hi sinh.
Không khuất phục, cả binh trạm tiến hành gùi xăng vượt bùn. Xăng
được bọc trong 4.000 túi nilông (20 lít/túi) rồi cho vào balô để từng người
cõng qua trọng điểm. Sau một ngày cõng xăng chân bì bõm lội bùn, đầu
hứng đạn chịu bom, 500 chiến sĩ cũng chỉ vận chuyển được 10m3 xăng (đủ
hai xe xitec) nhưng 40 chiến sĩ đã bị rộp lưng, bỏng da vì xăng làm giòn túi
nilông thấm qua balô ướt đẫm cả áo, ngấm vào da thịt. “Một số chiến sĩ gùi
xăng bị bỏng rộp da quá nặng, nhiễm độc chì nên hi sinh. Vì vậy binh trạm
trưởng Nguyễn Đàm đã bàn với chúng tôi làm đường ống dẫn xăng qua núi”
- đại tá Lưu Vĩnh Cường (nguyên kỹ sư xây dựng kho chứa xăng cho binh
trạm 12 lúc bấy giờ) cho biết về đường ống tự tạo “đặc biệt”.
Tôn cuốn, các đoạn ống cao su nối với nhau vẫn thiếu 100m nên
phải dùng ống lồ ô khoét rỗng nối vào. Máy bơm đẩy xăng từ sườn phía bắc
theo “đường ống” lên bể chứa (làm bằng phuy 200 lít đặt trên đỉnh đèo) rồi
cho xăng tự chảy xuống. Trong vòng hai tháng “đường ống” này đưa được
khá nhiều xăng vào phía trong nhưng luôn xảy ra trục trặc vì sau một tuần
những đoạn lồ ô bị xăng làm teo tóp lại làm trật điểm nối khiến xăng thất
thoát nhiều.
Cũng trong thời gian này, binh trạm 14 cũng không thể đưa hàng và
xăng vào chiến trường. Ngoài các đoạn đường hiểm yếu, cửa khẩu Trà Ang
(km 12 và km 16 đường 20) mỗi ngày hứng 30-40 trận bom khiến đường đứt
đoạn, xe không thể qua. Binh trạm đã kết các phuy xăng thành bè để thả xuôi
sông Nậy, chống ngược sông Son. Nhưng bè xăng trúng thủy lôi, xăng và
máu chiến sĩ loang lổ khắp sông, ba ngày sau vẫn chưa tìm vớt hết thi hài liệt
sĩ. Các tổ chuyển tải được lập để kéo từng phuy xăng ngược suối Trà Ang.
Đêm đầu, đối phương ném bom trúng hai phuy xăng khiến ngọn lửa
trùm lên cả đoạn suối chụp xuống đội quân chuyển tải, 20 phuy xăng được
kéo qua trọng điểm nhưng có chín chiến sĩ hi sinh. Đêm thứ hai kéo được 30
phuy lại thêm 29 người ngã xuống lòng khe. Nước suối Trà Ang thêm một
lần đượm máu và xăng.
Kéo ống vượt sông
Ở tuổi 84, đại tá Phan Tử Quang (nguyên cục trưởng Cục Xăng dầu
đầu tiên của quân đội, người nhận trách nhiệm xây dựng tuyến đường ống)
vẫn nhớ rõ nhiệm vụ mang tính lịch sử từ Quân ủy T.Ư giao phó cho Cục
Xăng dầu vừa mới thành lập: làm đường ống vượt Trường Sơn. Đại tá Quang
nhớ lại: "Theo nhận định của Quân ủy trung ương, đối phương sẽ đánh phá
ác liệt các cửa khẩu của hậu phương vận chuyển hàng vào cho đoàn 559.
Quân ủy trung ương đã đồng ý đưa đường ống vào làm tuyến từ Khe Ve vượt
đèo Mụ Giạ (Quảng Bình) xuyên qua tây Trường Sơn xuống Lùm Bùm
(Lào) để tiếp cận đường 9 tạo điều kiện thuận lợi cho đoàn 559 vận tải vào
Nam".
Ngày 12-4-1968, 12 cán bộ, chiến sĩ của đoàn khảo sát tuyến đường
từ Khe Ve theo đường 12 qua đèo Mụ Giạ sang Lùm Bùm do đại úy Trần
Xanh (đang là phó phòng xăng dầu) làm trưởng đoàn lên đường làm nhiệm
vụ. Đại tá Quang kể: "Nhưng lúc đó các xe chở xăng không thể vượt qua
được "tam giác lửa" để chuyển cho đoàn 559. Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần
Đinh Đức Thiện cử tôi sang báo cáo tình hình với đại tướng tổng tư lệnh Võ
Nguyên Giáp.
Sau khi nghe báo cáo, đại tướng chỉ thị: “Phải đảm bảo xăng dầu
cho đoàn 559 hoạt động. Đồng ý với phương án của các anh, trước mắt làm
đường ống vượt các trọng điểm đánh phá, nhưng sau đó phải làm ngay
đường ống vượt Trường Sơn vào càng sâu càng tốt”. Vì vậy, đội khảo sát thứ
hai do Hoàng Ngọc Minh dẫn đầu tiếp tục đi khảo sát từ Thiệu Dương
(Thanh Hóa) vào Nam Đàn, Linh Cảm qua Hương Khê (Hà Tĩnh) vào giáp
đoạn đoàn của Trần Xanh đang khảo sát. Công trường 18 được thành lập do
Mai Trọng Phước (đang là thiếu tá chủ nhiệm khoa xăng xe vận tải của
Trường Sĩ quan hậu cần, sau này là cục trưởng Cục Xăng dầu) làm đoàn
trưởng, thiếu tá Hoàng Sùng làm chính ủy chuẩn bị vào Nghệ An làm đường
ống vượt “tam giác lửa”.
Đêm 12-6-1968, hơn 400 người của công trường 18 (trong đó có
240 cán bộ, công nhân của Bộ Công nghiệp nhẹ, Bộ Thủy lợi, Công ty gang
thép Thái Nguyên, công nhân xây dựng khu nam Hà Nội) rời Hà Nội hành
quân vào Nam Đàn. Khúc sông Lam nằm giữa bến đò Vạn Rú (xã Nam
Đông, nay là Khánh Sơn, Nam Đàn) cách trọng điểm Rú Trét 500m (còn gọi
là Rú Chết do kẻ thù đánh phá quá ác liệt) được chọn làm điểm thi công
tuyến đường ống đầu tiên.
Đúng 21g, hiệu lệnh vượt sông bắt đầu.
Mai Trọng Phước chỉ huy lực lượng công trường 18 cùng dân quân
xã Nam Đông kéo ống phía bờ nam. Phía bờ bắc, lực lượng do Trần Xanh
chỉ huy nối ba ống vào nhau, đầu ống lắp cút chữ T để buộc dây. Đến 5g
sáng 23-6-1968, 500m đường ống đầu tiên đã vượt sông an toàn. Từ đây,
đường ống tiếp tục vượt sông La (Hà Tĩnh) vào Nga Lộc (Can Lộc, Hà
Tĩnh). Ngày 10-8-1968 tuyến đường ống 42 km vượt “tam giác lửa” hoàn
thành. Dòng xăng từ kho Đại kho N1 (Nam Thanh, Nam Đàn) bơm vào kho
N2 (Nga Lộc). Chai xăng đầu tiên của dòng xăng đi qua “tam giác lửa” được
chuyển ra Tổng cục Hậu cần để báo cáo.
Một kỷ niệm đáng nhớ của cán bộ, chiến sĩ làm tuyến đường ống
này là quá trình đào hào đặt ống đều phải làm đêm để che mắt máy bay đối
phương nên rất khó chôn ống, tiến độ thi công bị chậm. Đại tá Mai Trọng
Phước kể: "Chúng tôi thấy người dân vẫn làm đồng bình thường mà không bị
máy bay ném bom. Khi hỏi, bà con cho biết là đối phương rải truyền đơn bảo
dân cứ làm ruộng bình thường, đừng cho bộ đội vào thì nó không đánh. Vì
vậy, bộ đội cũng mặc áo tơi, đội nón làm nông dân đào rãnh qua đồng ruộng
ban ngày, tối chôn ống. Để bảo đảm bí mật, chúng tôi thông báo với bà con
là đặt ống làm thủy lợi dẫn nước sông vào chống hạn cho đồng ruộng phía
trong". Ngoài ra, ban ngày các chiến sĩ nhờ người dân dùng trâu kéo cày theo
tuyến để tạo rãnh sâu, đêm đến đào hào chôn ống.
Đường ống tiếp tục chui sông, vượt núi dẫn xăng qua các trọng
điểm đến với Trường Sơn. Bộ đội đường ống phải chống lại sự đánh phá
khốc liệt chưa từng thấy của kẻ thù.
2. Dòng xăng vượt Trường Sơn
Theo kế hoạch, đường ống từ Ka Vat (Lào) sẽ đi đến Lùm Bùm vào
đường 9 nhưng đây là con đường vòng cung có cự ly xa. Vì vậy, Tổng cục
Hậu cần yêu cầu làm đường ống từ Long Đại (Quảng Bình) theo đường 18
vòng sang Lào để xuống đường 9.
Ngoài những khó khăn do thiên nhiên gây ra, bộ đội đường ống phải
chống lại sự đánh phá khốc liệt chưa từng thấy của đối phương. Để bảo vệ
đường ống, mồ hôi, máu của các chiến sĩ phải đổ nhiều hơn.
Vượt “tam giác lửa” thành công, một bộ phận của công trường 18
tiếp tục dẫn ống vào Hương Khê (Hà Tĩnh) hướng tới Khe Ve (Quảng Bình).
Tuy nhiên, lúc này không lực Mỹ lại tăng cường đánh phá các cửa khẩu từ
Quảng Bình sang Lào, đặc biệt là các trọng điểm cua chữ A, Ta Lê, Phu-la-
nhic... “Tổng cục Hậu cần yêu cầu thi công nhanh đoạn đường ống vượt đèo
Mụ Giạ sang Na Tông (Khăm Muộn, Lào) để đảm bảo xăng cho chiến dịch
vận tải nước rút của đoàn 559. Chúng tôi bàn giao phần việc đang làm cho bộ
phận khác, khẩn trương vào Quảng Bình để làm đoạn đường ống từ Cổng
Trời vượt qua đèo Mụ Giạ xuống Na Tông” - đại tá Mai Trọng Phước (chủ
nhiệm khoa xăng xe vận tải của Trường Sĩ quan hậu cần, sau này là cục
trưởng Cục Xăng dầu) cho biết.
Vượt núi
Giữa tháng 12-1968 tuyến ống hoàn thành, kho Na Tông (500m3)
được xây dựng xong nhưng lúc vận hành thử rửa đường ống bằng nước lại
không bơm lên được đỉnh đèo Mụ Giạ cao 700m. Lúc đó các chiến sĩ không
có kinh nghiệm nên đặt hai máy bơm cùng một chỗ, đến lúc tách hai máy để
bơm nối tiếp thì bơm được lên đỉnh đèo. Cuối tháng 12-1969, đường ống
đang bơm vào kho Na Tông thì bất ngờ từng loạt bom từ B52 trút xuống
đoạn đường vận tải và kho hàng của đoàn 559 tại trọng điểm.
Vệt bom cắt ngang đường ôtô đã làm vỡ đường ống bám dọc bên
đường. Những ngày sau B52 tiếp tục đánh phá đêm ngày không dứt. Đơn vị
công binh bạt hàng trăm khối đá tạo thành đường hào 10km để chôn ống
nhưng bom đạn vẫn bóc từng lớp núi đá nghiền thành lớp bột dày. Đại tá Mai
Trọng Phước kể: “Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện gọi tôi ra
Hà Nội báo cáo tình hình. Cuối cùng một tuyến đường tránh được làm cách
điểm bị đánh chừng 1km. Nhưng chúng tôi vẫn phải khắc phục như thật trên
tuyến bị địch đánh phá để đánh lừa địch.
Lúc nào bị đánh thì đốt các phuy xăng dầu cho chúng tập trung lại
thả bom để tuyến tránh vận hành. Vì vậy, xăng đã kịp vào kho Na Tông phục
vụ đợt vận tải đột kích của đoàn 559. Đến đêm giao thừa năm Kỷ Dậu xăng
vẫn còn đầy kho để chuẩn bị cho nhiệm vụ tiếp theo. Đợt bom này giúp
chúng tôi rút bài học là không được làm đường ống cạnh đường ôtô để khỏi
bị đánh lây”.
Ngày 3-3-1969 tuyến đường ống đầu tiên vượt Trường Sơn dài
350km đã nối thông từ Vinh - Cổng Trời - Na Tông tới kho Ka Vat (Lào).
Sáu ngày sau, bốn tiểu đoàn đường ống lần đầu tiên đã vận hành thông suốt
dòng xăng từ miền Bắc đến Ka Vat đảm bảo xăng dầu kịp thời cho 5.000 xe
của đoàn 559 tiếp tục đợt vận tải đột kích mùa khô 1968-1969. Từ đây, xe
chở xăng dầu của các binh trạm không phải qua trọng điểm để lấy xăng nữa.
“Ở tuyến đường ống đầu tiên, chúng ta có được kinh nghiệm vượt sông, vượt
núi. Đây là những kinh nghiệm quí báu để thi công những tuyến sau này
thuận lợi hơn”, đại tá Phan Tử Quang (nguyên cục trưởng Cục Xăng dầu đầu
tiên của quân đội, người nhận trách nhiệm xây dựng tuyến đường ống) nói.
Để ngụy trang, đường ống, trạm bơm và các kho được chôn ngầm
hoặc làm trong hang đá. Khi vượt sông, đường ống đi ngầm nhưng có những
đoạn sông, suối nhiều đá ngầm, dòng chảy mạnh phải làm cầu treo ống (sông
Sêrêpôc).
Ngoài những hiểm nguy rình rập từ các loại mìn lá, mìn dây, bom bi,
khi đi kiểm tra sự cố nhiều chiến sĩ đã bị ngộ độc xăng. "Có lần đi kiểm tra
tuyến ống, thấy một nữ chiến sĩ cứ ngồi cười sằng sặc, chỉ huy hỏi gì cũng
cười. Thì ra, đường ống bị bom bi đánh thủng, xăng phun thành sương khiến
nữ chiến sĩ đó bị ngộ độc xăng. Mãi đến khi các kỹ sư tìm ra phương pháp
phát hiện điểm bị sự cố từ xa mới giảm được thương vong, ngộ độc xăng cho
bộ đội. Phương pháp này đã hạn chế việc huy động bộ đội chạy theo hàng
trăm kilômét trên tuyến tìm chỗ hỏng. Nhiều lúc chạy băng rừng ban đêm mà
không được dùng đèn pin, thương lắm!”, đại tá Mai Trọng Phước ngậm ngùi.
Còn với thiếu tướng Hồ Sĩ Hậu, đến nay vẫn không nguôi ngoai trước cái
chết bi thương của đồng đội: “Khi phát hiện bom đánh đứt tuyến, anh Quy
trạm trưởng trạm bơm ở Ka Tần đã lao ra nối ống. Trong lúc thao tác bất ngờ
xăng trong ống phun ra tưới khắp người, ngập đầy vũng bom dưới chân.
Cùng lúc ấy một loạt bom dội tiếp, nơi anh đứng trở thành biển lửa. Đồng
đội nhìn thấy nhưng không sao cứu được”.
Mồ hôi và máu

Hình nhỏ: Bắc Việt đưa xăng qua suối. Các đoạn ống cao su nối
nhau bị thiếu nên phải dùng ống lồ-ô khoét rỗng để nối tiếp vào. (VNCTLS
sưu tầm). Hình lớn: Hai giàn đại liên 20 ly sáu nòng ghép bên hông vận tải
cơ võ trang AC-130 Spectre (vận tải cơ, nhưng được biến cải trở thành máy
bay võ trang). Trong bài viết, trung tướng Đồng Sĩ Nguyên có nói đến bị phi
cơ Hoa Kỳ dội bom phá huỷ nhiều đoạn đường chuyển vận. Nhưng thật ra
không phải chỉ máy bay dội bom, Hoa Kỳ còn sử dụng loại vận tải cơ võ
trang như AC-130 (hình lớn) và AC-119 để "săn mồi" ban đêm. Loại phi cơ
này có ống nhắm hồng ngoại tuyến, được trang bị hoả lực mạnh mẽ với đại
liên 20 ly, súng phóng lựu 40 ly, và một đại bác 105 ly, thường được sử dụng
ban đêm để tấn công các đoàn xe vận tải trên các tuyến đường Trường Sơn
trong lãnh thổ Việt Nam và ngay cả trên đất Lào. Đa số các phi cơ AC-130
này thường đóng tại phi trường Udorn, Thái Lan. Từ đó, các phi vụ sẽ được
thực hiện trên vùng trời Lào, rồi bay vào không phận Việt Nam để tấn công
các đoàn xe vận chuyển Bắc Việt. (VNCTLS sưu tầm)
Theo đại tá Mai Trọng Phước, phương án làm đường ống xuyên từ
phía đông sang tây Trường Sơn theo trục đường ngang thứ năm (đường 18)
được tiến hành theo hướng từ Long Đại vào Cẩm Ly (Lệ Thủy, Quảng Bình)
rồi vượt các đèo cao 400m, 700m, 900m đến bản Ra Mai gần sông Sê Băng
Hiêng (Lào) đi tiếp vào bản Cò (Xanavakhet, Lào) xuống đường 9. Tuy
nhiên, sau một thời gian vận hành được 200 tấn xăng vào kho Ra Mai cấp
phát cho xe vận chuyển và thả phuy theo sông cho binh trạm 9, ngày 6-9-
1969 không lực Mỹ dùng B52 rải thảm cắt ngang tuyến ống trên suối Ra Vơ
làm lửa bùng cháy cả hai bên suối, rồi đánh ngược theo tuyến ống 3km dọc
suối vào kho Ra Mai.
Cả khu rừng nguyên sinh rộng hàng trăm hecta bị san thành bình
địa. Kho bị cháy, phần lớn bể chứa và tuyến đường ống bị tàn phá nặng nề.
Một số chiến sĩ của tiểu đoàn 668 hi sinh, lực lượng của tiểu đoàn 337 đang
nối nhau vác ống cũng bị B52 đánh vào đội hình làm hơn 70 chiến sĩ hi sinh
và bị thương. “Tuyến đi Ra Mai không khắc phục được, tôi bàn với anh Phan
Tử Quang là chỉ còn cách làm theo phương án 2 đi từ đỉnh 900m vượt qua
1.001m để vào bản Cò. Sẽ gặp nhiều khó khăn khi thi công nhưng có rừng
rậm, núi cao để gây bất ngờ cho địch” - trung tướng Đồng Sĩ Nguyên nhớ lại.
Thế nhưng, thách thức lớn nhất là địa hình quá hiểm trở nên không
thể đưa máy bơm (nặng 2,8 tấn) vào chân đỉnh 1.001m để bơm xăng vượt
qua. Để khảo sát được tuyến này, một số chiến sĩ của đội khảo sát đã hi sinh
vì bom dội, vì trượt chân xuống vực. Thiếu tướng Hồ Sĩ Hậu, cục trưởng Cục
Kinh tế Bộ Quốc phòng (nguyên kỹ sư xây dựng đường ống), kể: “Để vượt
từ đỉnh 900m qua đỉnh 1.001m khi không đưa được máy bơm vào chân đèo
1.001m, chúng tôi phải bỏ van điều chỉnh áp suất ở đoạn ống đổ xuống chân
đèo 900m. Vì vậy, điểm sâu nhất của đường ống giữa đỉnh 900m và 1.001m
đạt áp suất rất cao (khoảng 30-35 kg/cm2) gần với giới hạn cho phép của
đường ống. Với áp suất đó, dòng xăng từ đỉnh 900m đổ xuống đã vượt qua
được đỉnh 1.001m vị trí có bình độ khoảng 850m”.
Đúng ngày 22-12-1969, lễ khánh thành tuyến đường ống xăng dầu
từ kho K200 (km 21, đường 18) vào kho K5 (nam bản Cò) được tiến hành
sau gần 10 tháng thi công. Trong thời khắc thiêng liêng này, tư lệnh Đồng Sĩ
Nguyên xúc động nói: “Hôm nay, chúng ta đang chứng kiến một sự kiện có ý
nghĩa vô cùng lớn lao. Đoàn 559 đưa vào vận hành đoạn đầu tuyến đường
ống dẫn xăng dầu chiến lược nối hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn
miền Nam”. Sau buổi lễ, mọi người tận mắt chứng kiến một công trình đặc
biệt: bốn vòi cùng lúc tiếp xăng cho một tiểu đoàn xe chỉ mất một giờ rưỡi,
nếu cấp phát qua phuy hoặc xi-téc như trước đây phải mất hơn ba giờ.
Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên nhớ lại thời khắc đó: “Tôi như thấy
qua dòng xăng tuôn chảy bóng dáng hàng trăm chiến sĩ đang vượt núi, băng
sông gùi cõng những balô xăng, can xăng năm nào! Chỉ những người trong
cuộc, hoặc chứng kiến những tháng ngày đắng cay, cơ cực, khi mà một giọt
xăng vào tới chiến trường được đổi bằng cả bát mồ hôi, thậm chí bằng máu,
mới ý thức được tầm thế lớn lao của sự kiện đưa đường ống xăng dầu
Trường Sơn vào vận hành”.
3. Đi trước, đón đầu

Đại tướng Võ Nguyên Giáp (áo trắng, giữa) kiểm tra tuyến đường
ống năm 1968.
TT -Từ 200km đường ống dã chiến và 20 máy bơm do Liên Xô viện
trợ ban đầu, các chiến sĩ đường ống đã tái tạo được máy bơm theo mô hình
của Liên Xô, sản xuất roăng, ngàm, ống, sử dụng ống của Trung Quốc cung
cấp để hoàn thiện mạng đường ống 5.000km từ biên giới Việt - Trung vào
Bù Gia Mập (Bình Phước).
Đảm bảo cho thắng lợi
Đại tá Phan Tử Quang (nguyên cục trưởng Cục Xăng dầu đầu tiên
của quân đội, người nhận trách nhiệm xây dựng tuyến đường ống) kể rằng
trong lúc ở Trường Sơn đường ống đã vượt nam đường 9, thì ở miền Bắc chủ
nhiệm Tổng cục Hậu cần Đinh Đức Thiện nhận định: “Nếu đối phương đánh
trở lại miền Bắc, ta không thể dùng phương tiện vận tải theo đường bộ,
đường sắt hay đường biển để đưa xăng dầu vào Bến Thủy, cảng Gianh để
cung cấp cho đường ống được. Vì vậy, để đảm bảo xăng dầu cho quân đội
cần khẩn trương xây dựng tuyến đường ống Hà Nội - Vinh nối liền tuyến
đường ống của tiền tuyến, tạo thế vận chuyển liên hoàn”. Ý kiến này được
Đại tướng Võ Nguyên Giáp ủng hộ và Phó thủ tướng Đỗ Mười thay mặt
Chính phủ nhất trí tạo mọi điều kiện để Cục Xăng dầu thi công đường ống
hàn dài 338km. Sau 13 tháng, đến 13g ngày 13-12-1971, mối hàn cuối cùng
của tuyến đường ống Hà Nội - Vinh hoàn tất, vượt thời hạn Chính phủ qui
định.
Tháng 4-1972, Mỹ dùng không quân, hải quân đánh phá trở lại miền
Bắc. Các cảng biển, cửa sông bị thủy lôi phong tỏa nhằm bịt chặt vận chuyển
đường biển quốc tế vào miền Bắc. Việc tiếp nhận xăng dầu của Liên Xô từ
đường biển hoàn toàn bế tắc, nguy cơ thiếu xăng dầu cho chiến trường miền
Nam hiện rõ. Chính phủ triệu tập phiên họp bất thường bàn biện pháp tháo
gỡ khó khăn về xăng dầu. Theo đề xuất của Cục Xăng dầu, phương thức tiếp
nhận xăng dầu bằng đường biển sẽ chuyển sang đường bộ: yêu cầu Chính
phủ Trung Quốc giúp đỡ nhận xăng của Liên Xô qua biên giới Việt - Trung.
Trong vòng 15 ngày (đến 16-6-1972), các lực lượng với sự hỗ trợ
của máy bay trực thăng chở ống đã hoàn thành đường ống từ biên giới về
Đồng Đăng (Lạng Sơn) cùng hai kho đã hoàn thành tiếp nhận xăng từ Bằng
Tường (Quảng Tây, Trung Quốc) bơm qua để dẫn về Hà Nội. Để mở rộng
cho việc nhận xăng từ Trung Quốc, tuyến đường ống từ Pò Hèn (Móng Cái,
Quảng Ninh) qua Hải Dương nối về Hà Nội cũng hoàn thành. Cuối năm
1972, tuyến đường ống xăng dầu chiến lược đã thành một hệ thống từ biên
giới Việt - Trung vào đến Cam Lộ (Quảng Trị) và sang nam đường 9 (tây
Trường Sơn) có tổng chiều dài 3.278km với hơn 81.000 tấn nhiên liệu dự trữ.
Ngày 15-2-1973, Thường vụ Quân ủy T.Ư họp nhấn mạnh: phải xây
dựng được hệ thống đường phía đông Trường Sơn. Đảng ủy 559 cũng đề ra
nhiệm vụ kéo dài tuyến ống cho đến hết Tây nguyên và các đường ngang ra
một số chiến trường, tiến tới xây dựng tuyến phía đông song song với tuyến
phía tây. Trong ba năm, phải đưa đường ống vào tới hậu cứ chiến trường
Nam bộ và cực Nam Trung bộ. “Tháng 4-1973, chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần
Đinh Đức Thiện có lệnh gọi tôi về Hà Nội giao nhiệm vụ vào khảo sát xây
dựng kho xăng dầu lớn cho chiến trường B2 ở Lộc Ninh dù đường ống mới
làm tới Tây nguyên”, đại tá Mai Trọng Phước (chủ nhiệm khoa xăng xe vận
tải của Trường Sĩ quan hậu cần, sau này là cục trưởng Cục Xăng dầu) nhớ
lại. Đến ngày 20-11-1974, hai tuyến đường ống Đông và Tây Trường Sơn đã
hội tụ về ngã ba biên giới (Plây Khốc, Kontum) để tiếp tục kéo dài về Bù Gia
Mập (2-1975). Từ đây xăng được tiểu đoàn xe xitec 103 chở về đổ vào cụm
kho Lộc Ninh chuẩn bị cho các chiến dịch lớn. Thời gian này, các kho của
Quân đoàn 2, Quân khu 5, Quân khu Trị Thiên... cũng được nối thông với
đường ống.
Nguồn xăng dầu chính phục vụ chiến dịch Hồ Chí Minh vẫn là
nguồn xăng dầu từ đường ống bơm 24/24 giờ từ Hà Nội vào. Bên cạnh đó
còn có nguồn xăng dầu từ miền Bắc chở vào theo đường biển, đường bộ,
xăng dầu thu được của địch được bố trí theo các kho ở các tỉnh duyên hải
cùng một số tuyến đường ống dẫn từ Trường Sơn xuống cấp cho Quân đoàn
2, Quân khu 5. Quân đoàn 4 được đảm bảo xăng dầu từ các kho Bù Gia Mập,
Lộc Ninh (tích trữ từ năm 1974). Quân đoàn 1, Quân đoàn 3 hành quân từ
Tây nguyên về vị trí tập kết ở Đồng Xoài, Chơn Thành đều được nguồn xăng
từ đường ống cung cấp. Đại tá Lục Văn Châu - nguyên trưởng phòng xăng
dầu 559 - đánh giá: “Thực tế từ khi có đường ống xăng dầu, các chiến dịch
của ta luôn giành được thắng lợi, nhưng trong chiến dịch Hồ Chí Minh chúng
tôi mới thấm thía hơn chủ trương xăng dầu phải đi trước một bước để đảm
bảo cho thắng lợi là thế nào”.
Sum họp nghĩa tình
Chiến tranh lùi xa, những người lính xăng dầu trở về với cuộc sống
đời thường. Trong số nhiều người làm nên kỳ tích vẫn đang chịu đựng nỗi
đau, mất mát do di chứng của chất độc da cam, nhiễm độc chì từ xăng. Để
xoa dịu nỗi đau của đồng đội, ban liên lạc truyền thống ngành xăng dầu quân
đội đã cùng chung tay chia sẻ với đồng đội của mình.
“Năm 1996, qua báo chí chúng tôi phát hiện gia đình chị Nguyễn
Thị Bích Liên, chiến sĩ đường ống binh trạm 169 (ở Sơn Thủy, Hương Sơn,
Hà Tĩnh) có ba con gái bị mù bẩm sinh do nhiễm chất độc da cam có hoàn
cảnh khó khăn. Chồng chị là anh Đoàn Quang Soàn, thanh niên xung phong
ở ngã ba Đồng Lộc, hai vợ chồng ra quân mất hết giấy tờ. Ban liên lạc đã
liên lạc với các cơ quan và địa phương hỗ trợ gia đình làm chế độ, quyên góp
giúp đỡ, sau đó liên hệ để các cháu được chữa sáng mắt. Từ đó, ban liên lạc
luôn thông qua các chi hội, báo đài tìm kiếm, phát hiện đồng đội bị nhiễm
chất độc để giúp đỡ, làm chế độ chính sách cho họ”, đại tá Mai Trọng Phước
kể.
Ban liên lạc cũng tìm kiếm và giúp đỡ làm chế độ thương bệnh binh
cho vợ chồng anh Dương Ngọc Hồi, chị Phùng Thị Hoa (ở Hiệp Hòa, Bắc
Giang), nguyên là chiến sĩ của trung đoàn đường ống 592, có hai con và một
cháu ngoại dị tật bẩm sinh do bố mẹ bị nhiễm chất độc da cam. Chị Nguyễn
Thị Hẹ (Thuận Thành, Bắc Ninh) có hai con bị nhiễm chất độc da cam, hoàn
cảnh khó khăn phải ở nhờ trạm bơm thủy lợi của xã 20 năm cũng được ban
liên lạc hỗ trợ, liên hệ các ban ngành xây dựng nhà tình nghĩa. Các thành
viên của ban liên lạc cũng tìm lại được thương binh Nguyễn Lương Định
(người vác ống phá bom từ trường) sau 20 năm mất liên lạc, đề nghị xét tặng
Huân chương Chiến công hạng 2 cho người chiến sĩ dũng cảm này.
Đại tá Lưu Vĩnh Cường (trưởng Ban liên lạc) nói rằng phần lớn bộ
đội đường ống đều ở những vị trí rừng rậm, những vùng bị rải chất độc da
cam, thường xuyên tiếp xúc với xăng chì, cọ rửa phuy bể nên tỉ lệ nhiễm độc
rất nhiều. Hiện nay ngoài việc thăm hỏi, động viên gia đình đồng đội lúc khó
khăn, ban liên lạc vẫn tiếp tục tìm kiếm, liên hệ với chính quyền, các ban
ngành để làm chế độ cho những đồng đội và con cái bị nhiễm chất độc da
cam. Đến nay đã có 60 trường hợp bị nhiễm chất độc da cam được ghi nhận,
chứng nhận làm chế độ thương bệnh binh. Riêng đại tá Mai Trọng Phước sau
những lần thăm đồng đội đã về sưu tầm những bài thuốc chữa bệnh dễ kiếm,
rẻ tiền trên sách báo in thành sách phát tặng mọi người. Ông nói: “Thấy
nhiều anh em sức khỏe yếu nên mình làm thế này để giúp họ. Mình có điều
kiện giúp đỡ được anh em thì cố giúp từ những cái nhỏ nhất”.
Họ vẫn nghĩa tình với nhau như những ngày cùng kề vai sát cánh
xây dựng nên kỳ tích “đường Hồ Chí Minh xuyên lòng đất”.
TUẤN PHÙNG
Khi đường ống dẫn xăng dầu vào tới Lộc Ninh, Bộ Chính trị, Chính
phủ… mới cầm chắc phần thắng. Và chỉ có đường ống mới phục vụ kịp xăng
dầu cho hành quân thần tốc trong chiến dịch tổng tiến công và nổi dậy mùa
xuân năm 1975
Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên
______________________
Xăng dầu cho miền Nam
Nguồn: Báo An ninh thế giới, số 443, ngày 16-4-2005
Đại tá Phan Tử Quang nhớ lại mùa khô 1967, để quốc Mỹ điên
cuồng leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc. Trong những mục tiêu đánh
phá, các kho xăng dầu luôn là trọng điểm. Bộ Chính trị đã nhận định: cùng
với việc ngăn chặn quân ta tiến vào Nam thì việc Mỹ ngăn chặn việc vận
chuyển xăng dầu và lương thực chính là đánh vào vấn đê sống còn của ta.
Đoàn 559 có 2.000 xe tô nhưng chỉ 20-50% xe có xăng hoạt động. Phải làm
gì để tiếp viện xăng dầu vào miền Nam, bảo đảm nhanh chóng và an toàn?
Phương pháp lợi dụng sông suối để vận chuyển các phuy xăng nhỏ
được các đơn vị triển khai thực hiện. Nhưng, chiến trường vẫn “đói xăng”!
500 chiến sĩ xung kích của Binh trạm 12 với 4.000 túi nilon bọc xăng cho
vào ba lô gùi qua trọng điểm. Nhưng ròng rã cả ngày, mỗi người tải được
lượng xăng chẳng đáng là bao. Đã thế, hầu hết anh em đầu bị bỏng, lưng
phồng rộp, có người trúng bom đạn địch, trở thành “cây đuốc sống” mà đồng
đội không sao cứu được.
Cuối năm 1967, Cục Xăng dầu, Tổng cụ hậu cần, tiếp quản rất nhiều
ống kim loại do Liên xô viện trợ. Đại tá Phan Tử Quang nhìn đống ống kim
loại, một ý tưởng chợt lóe lên… Đầu năm 1968, tại Hà Nội, Phó thủ tướng
Đỗ Mười chủ trì một cuộc họp chỉ tập trung bàn giải quyết vấn đề: “Làm sao
đưa xăng vào chiến trường?”. Một cán bộ quân đội đứng lên, nhẹ nhàng trình
bày một phương án “độc đáo”: Nên đặt các kho tiếp xăng dầu ở biên giới
Việt-Trung, đề nghị Trung quốc cho tàu chở dầu của ta cập cảng và xây dựng
hệ thống đường ống tử cảng về các kho. Rồi từ các kho sẽ xây dựng các
đường ống đưa xăng dầu đi các nơi… Đó là cách duy nhất để thoát khỏi cơn
“đói” xăng lúc bấy giờ. Tháng 8-1968, lần đầu tiên ngành xăng dầu quân đội
đã làm một việc táo bạo là lắp đặt đường ống dẫn xăng ngầm vượt sông Lam,
vừa đỡ công vận chuyển tránh được bom đạn Mỹ, phục vụ kịp thời cho các
đơn vị ôtô vận tải. Bác Hồ gửi thư khen Bộ đội Xăng dầu về thành tích thật
đáng tự hào này.
Tháng 11-1968, tuyến đường ống nhiều nơi bị máy bay giặc Mỹ
đánh phá, tưởng như tê liệt. Nhưng địch phá đường ống này, ta làm đường
ống tránh khác. Dòng xăng vượt đỉnh núi, qua Cổng Trời vào tới Na Tông.
Đêm giao thừa năm ấy, ông Phan Lang, Tham mưu trưởng Đoàn 559 xúc
động nói: “Từ nay, việc cấp phát xăng dầu cho Đoàn 559 đơn giản như mở
vòi nước máy ngoài Hà Nội…”. Từ Na Tông, ta lại tiếp tục mở tiếp tuyến
đường ống sang Ka Vát (Lào). Tháng 12-1969, xăng dầu trèo lên đỉnh núi
cao 1.001 mét. Năm 1970, hàng trăm lần phi pháo địch đánh trúng tuyến
đường ống, nhưng “con đường xăng dầu” vẫn không bị chặn lại.
Năm 1971, tuyến đường ống Hà Nội - Vinh hoàn tất. Tháng 4-1972,
Mỹ ném bom trở lại miền Bắc với cường độ ác liệt chưa từng có. Vận
chuyển xăng dầu trên các tuyến đường bộ, đường thuỷ, đường sắt đều hết sức
khó khăn nguy hiểm. Chỉ có tuyến đường ống vẫn ngày đêm hoạt động.
Năm 1973, đường ống Trường Sơn vươn khắp Tây Nguyên.
Năm 1975, đường ống xăng dầu tới Lộc Ninh. Số xăng ta thu được
tử các kho của địch khoảng hơn 2.000 tấn, lập tức được chuyển ngay cho các
đơn vị.
7 năm, từ 200km ống và 20 máy bơm đầu tiên do Liên xô viện trợ,
đường ống Trường Sơn 5.000 km đã chạy dài từ Đồng Đăng (Lạng Sơn),
Móng Cái (Quảng Ninh), vượt Trường Sơn vào tới Bù Gia Mập (Đông Nam
Bộ) chuyển tải gần 300.000 tấn xăng, phục vụ hơn 10.000 xe vận tải và
1.500 xe máy, góp phần cùng toàn quân, toàn dân ta giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Không chỉ nổi tiếng với đường ống, Đại tá Phan Tử Quang còn nổi
tiếng về lòng nhân ái, bao dung, làm nhiều việc thiện hiếm có. Một bữa, giữa
lúc chiến trường đang dầu sôi lửa bỏng thì ông nhận được một cú điện thoại
“đau đầu”. Chị H, một nữ chiến sĩ ở trạm bơm xăng K có thai mà không rõ
bố đứa bé là ai. Ngày ấy, chuyện này quả là “tày đình”. Lãnh đạo trạm yêu
cầu cô gái phải khai ra ai là bố đứa bé. Nhưng cô một mực không khai: “Tôi
có tội tôi chịu, tôi xin các anh cho tôi… sinh con. Nó không có tội tình gì
cả”. Lãnh đạo đơn vị đành phải xin ý kiến Thủ trưởng Quang. Ông Quang đã
lặn lội xuống tận trạm xăng gặp cô gái. Đối diện với ông, mặt cô tái xanh,
không nói nên lời. Ông bảo tất cả cấp dưới ra ngoài rồi nhẹ nhàng động viên:
- Cháu cứ cho biết bố đứa trẻ, chú hứa danh dự là sẽ không tiết lộ
cho ai. Giữ lại đứa con là cái tâm của cháu, là nguyện vọng thiêng liêng của
người phụ nữ, chú tôn trọng và cũng không cản trở nếu cháu đã quyết.
Nhưng đơn vị đang chiến đấu, sẽ phải chuyển mẹ con cháu về quê. Về rồi,
dân làng hỏi chồng đâu, rồi cháu sẽ khổ suốt đời con cháu cũng khổ suốt đời.
Cho cháu về quê thì quá dễ, nhưng chú mong tìm một cách có hậu hơn cho
cả cháu và con cháu…
Nghe ông nói, cô gái oà khóc rồi thổ lộ hết hoàn cảnh của mình.
Thật đáng thương, cha đứa bé cũng là một chiến sĩ xăng dầu; nhưng anh ấy
vừa mới hy sinh. Cô gái không dám nói, vì nói ra, ai sẽ tin điều đó? Trong
lúc bối rối, ông chợt nhớ tới hoàn cảnh gia đình một đại uý xăng dầu đã lấy
vợ 7 năm mà chưa có con… Thời gian sau, ông Quang điều cô gái sang một
đơn vị khác để cô tránh sức ép dư luận và nhắc đơn vị ấy quan tâm đến cô…
Hơn 20 năm sau, vợ chồng anh đại uý năm xưa và đứa con nuôi, nay
là một nữ bác sĩ trẻ đẹp tìm đến ông với ý nguyện cho cô gái được gặp mẹ đẻ
của mình. Biết rằng người mẹ của cô gái giờ đã có gia đình riêng, nên ông
tìm cách bổ trí cho hai mẹ con gặp nhau mà không để ảnh hưởng đến gia
đình của bà. Một buổi trưa, ông đưa cô bác sĩ tới một quán ăn, ngồi đợi. Một
thiếu phụ bước vào, ông bảo: “Mẹ cháu đấy". Hai mẹ con ôm chầm lấy nhau
khóc nức nở. Họ quên cả ân nhân đang ngồi bên cạnh cũng rưng rưng.
Lại một lần khác, trên đường công tác, ông gặp bà cụ vừa đi vừa
khóc trước cổng Trường đại học Bách Khoa. Biết chuyện bà cụ tha thiết
muốn biết rõ con trai mình tử ngày vào Nam chiến đấu giờ không biết còn
hay mất, ông Quang cẩn thận ghi họ tên cụ và anh con trai vào sổ tay, rồi ông
lên tận Cục Chính sách (Tổng cục Chính trị) hỏi giúp bà cụ. Cục Chính sách
đã xác minh và cụ già được công nhận là mẹ liệt sĩ…
Ra chợ Hàng Da, gặp chị K bán rau vừa bán vừa khóc khi nghe đài
nói về kỷ niệm ngày 27-7, ông Quang động lòng thương, hỏi thăm. Chồng
chị là bác sĩ Phong, quân y Trường Sơn, đã hy sinh. Nhưng chỉ vì ai đó tung
tin chồng “theo địch” nên chị đã bị cơ quan đuổi việc, bị chính quyền vào thu
bằng “Tổ quốc ghi công”. Linh cảm nỗi oan của người phụ nữ là có thật, ông
quyết lòng tìm gặp được một bác sĩ quân y cũng tham gia tuyến Trường Sơn.
Ông thử hỏi về bác sĩ Phong thì không ngờ anh này nói ngay: “Khi Phong bị
thương, tôi đã mổ cho cậu ấy, cậu ấy đã hy sinh trên tay tôi thì làm sao mà
“theo địch” được”. Sau này, Cục Chính sách đã giải oan cho người vợ liệt sĩ.
Ngay sau khi giải phóng miền Nam, tháng 11-1975, ở tuổi 50, Đại tá
Phan Tử Quang được cấp trên tin cậy điều động sang làm Tổng cục phó
Tổng cục Dầu khí, phụ trách tài chính và xây dựng cơ bản của ngành. Ông
cùng tập thể chỉ đạo làm cụm cảng dịch vụ dầu khí mà khòng thuê nước
ngoài nên đã tiết kiệm cho Nhà nước hàng chục tỉ đồng.
Sau cụm cảng đến giàn khoan. Làm giàn thứ nhất, Liên xô thi công
toàn bộ. Những giàn sau, ông chỉ đạo cán bộ công nhân Việt nam làm, mỗi
giàn khoan này tiết kiệm được nhiều tỉ đồng. Tiếp đó tới nhà máy ga, hội
đồng quản trị đã đồng ý liên doanh với Hãng Enzon của Mỹ, nhưng ông
nghiên cứu và quyết định: ta tự làm được thì cố gắng. Năm 67 tuổi ông Phan
Tử Quang về nghỉ hưu, nhưng nhiều công ty, tập đoàn trong và ngoài nước
vẫn mời ông làm cồ vấn hoặc chủ tịch HĐQT. Ở tuổi xưa nay hiếm, có lần
được UBND quận Hoàn Kiếm tặng bằng khen vì thành tích nuôi 5 em nhỏ
nhà nghèo 6 năm liền, ông cảm động nói: “Tôi vào Đảng, đánh giặc hay làm
kinh tế đều vì mục đích để con em ta được học hành, no ấm. Đó là mực tiêu,
và lẽ sống, nhưng tôi chưa làm được nhiều”. Ông không muốn nói nhiều về
mình, về ánh hào quang một thời đã đi qua. Với ông, điều quan trọng hơn
vẫn là niềm hăng say lao động, sáng tạo làm giàu cho đất nước trên con
đường phát triển hôm nay. Tuyến đường ống là một kỳ tích, nhưng ông
không bao giờ muốn “tái diễn” dù chỉ một lần…
Nguyễn Văn Linh - Nhâm Hồng Bắc
______________________
Chú thích
* Tổng chiều dài mạng đường ống từ biên giới Việt - Trung vào Bù
Gia Mập là 5.000km. Riêng đường ống xăng dầu trên đường Trường Sơn là
1.399km (từ Long Đại, Quảng Bình đi theo 2 nhánh đông và tây Trườg Sơn,
hội tụ ở Plây Khốc- Kon Tum rồi kéo về rừng Bù Gia Mập (Bình Phước).
Trong đó, hướng đông là 830km tuyến bơm xăng và 74km tuyến bơm diezen
từ Đông Hà lên A Lưới. Hướng tây có 495km tuyến bơm xăng. Toàn tuyến
Trường Sơn có 46 kho, tổng sức chứa hơn 27.000m3. Có 114 trạm bơm đẩy
bơm từ 600- 800m3/ngày đêm, đảm bảo cung cấp cho 10.000 xe trong một
ngày đêm. Đến đầu năm 1975 bộ đội đường ống trên tuyến Trường Sơn là
7.602 người (gồm 4 trung đoàn). Năm 1974-1975 nhập được 99.560 tấn, cấp
cho các chiến trường 21.025 tấn (đầu năm 1975 lượng dự trữ đủ cho chiến
đấu trong 6 tháng)
- Trước ngày mở màn chiến dịch Tây Nguyên toàn miền Nam đã có
13.000 tấn xăng dầu ( lượng xăng dầu của 559 chiếm 60%, trong vòng 7
tháng đã bơm vận hành hơn 80.000 tấn xăng dầu qua đường ống).
- Chuẩn bị cho chiến dịch Huế- Đà Nẵng, quân khu Trị Thiên bố trí
4 kho (mỗi kho 100m3), 10 tấn phuy. Quân khu 5 bố trí 7 kho với 450 tấn
chứa bể, 300 tấn chứa phuy. Quân đoàn 2 có 3 kho với 1.200 tấn bể và 700
tấn phuy
- Cuối năm 1974 kho Quân đoàn 2 đã nối thông với kho đường ống
tại Cam Lộ. Quân khu Trị Thiên nối thông kho với kho đường ống ở A Lưới,
Quân khu 5 nối với kho đường ống ở Trao và Bến Giàng
Trong 55 ngày đêm chiến dịch Hồ Chí Minh đã đảm bảo 77.000 tấn
xăng, 18.000 tấn diezen. Các bãi tra nạp dọc đường tiến quân có 2 đến 3
điểm tra nạp trong vòng 5 phút giải phóng được 12 xe.
* Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên - Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn:
- “Do có đường ống dẫn xăng dầu vào Trường Sơn, tổ chức được
trạm tra nạp xăng dầu lớn nên cuối năm 1973, Binh đoàn Trường Sơn mới
dám tổ chức sư đoàn xe vận tải (2 sư đoàn, mỗi sư đoàn 4.000 xe, tính cả các
tiểu đoàn xe độc lập là 10.000 xe). Đường ống làm xong đã kịp thời phục vụ
Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Và chỉ có đường ống mới phục
vụ kịp bước tiến thần tốc của các đơn vị. Bởi vì, không có đường ống thì
1.000 xe chở một quân đoàn tham gia chiến dịch phải bố trí các xe chở theo
1.000 tấn xăng.
Một xe chở xăng từ Hà Nội (5m3) vào tới Lộc Ninh phải mất 2 tháng
nhưng với đường ống thì sau 12 tiếng, xăng từ Móng Cái đã bơm vào đến
Lộc Ninh. Vì vậy có thể nói đường ống là loại hình vận tải bán tự động thoả
mãn được cả số lượng, chất lượng và thời gian, phục vụ được cơ động binh
chủng quy mô lớn”

You might also like