You are on page 1of 105

Tàu không số

Ảnh chụp năm 1964, một số chiến sĩ tàu 56 sau chuyến Bà Rịa về,
chụp kỷ niệm cùng các thủ trưởng đoàn TKS (đoàn 125): Hàng đứng, từ
phải sang, thứ nhất là CTV Đỗ Như Sạn, thứ 3 là Chỉnh uỷ Võ Huy Phúc,
thứ 5 Lữ đoàn trưởng Huỳnh Công Đạo, đứng cuối là Trưởng phòng tuyên
huấn Nguyễn Văn Phát; Hàng ngồi, từ phải qua, thứ 2 là thuỷ thủ Trần Hậu
Vệ, thứ 3 là thuỷ thủ Hồ Văn Kiêm (nay là đại tá Lữ trưởng 125 đã về hưu).
Các thuỷ thủ còn lại đều đi tàu 121…
Phía sau người anh hùng
Ở Trà Vinh có một thuyền trưởng từng chiến đấu trên biển Đông đã
được tuyên dương anh hùng quân đội, nay cũng đã nghỉ hưu: anh Ba Thắng,
tức Hồ Đức Thắng. Theo chỉ dẫn của các đồng chí ở đoàn 962, tức đơn vị
hải quân nay đóng ở Trà Nóc, Cần Thơ, chúng tôi tìm đến anh Ba Thắng.
Cuộc chiến đấu trên biển của người anh hùng
Anh Ba Thắng thuộc lớp người đầu tiên mở đường biển Đông.
Hồi 1960-1961, khi ở Bà Rịa bác Năm Đông và má Mười Rìu xuôi
ngược tổ chức bến bí mật trong lòng giặc, ở Cà Mau anh Hai Địa và anh Tư
Mau rong ruổi đi nghiên cứu hàng trăm hòn đảo từ Trường Sa qua Kiên Hải
đến Thổ Chu, từ Ninh Thuận Đặng Văn Thanh lội bộ vượt Trường Sơn ra
Hà Nội… thì Tỉnh uỷ Trà Vinh cũng gửi một thuyền vượt biển bí mật ra bắt
liên lạc với trung ương.
Thuyền Trà Vinh có sáu người, lấy tên theo một khẩu hiệu, một
quyết tâm lớn: Đoàn, Kết, Đấu, Tranh, Thắng, Lợi. Ba Thắng chính là người
thứ năm trong số này.
Thuyền Trà Vinh vượt biển ra Bắc, gặp bão, trôi dạt sang tận
Macau, rồi được trả về Hà Nội qua cửa khẩu Bằng Tường. Cũng như nhiều
anh em khác từ chiến trường ra, Ba Thắng được cho đi học, bắt đầu từ i tờ,
rồi học hàng hải, cuối cùng tập trung về đoàn tàu không số bắt đầu tham gia
cuộc chiến đấu lớn trên biển.
Ba Thắng đã đi trước sau trên 20 chuyến, hầu hết các bến bí mật ở
miền Nam thời ấy anh đều đặt chân đến: Rạch Gốc, Gành Hào, Bồ Đề, Hố
Bỏ Gùi, Vàm Lũng, Kinh Năm… Gay go, nguy hiểm nhất là các bến ở miền
Trung: Lộ Diêu, Phổ An, Phổ Quang, Sa Kỳ, Hòn Hèo, Hòn Khói, Vũng
Rô… Sử dụng đủ các loại tàu: tàu gỗ do xưởng đóng tàu 1 Hải Phòng cung
cấp, tàu sắt Quảng Châu, tàu cao tốc những năm về sau này.
Khi con đường vận chuyển trên biển bị lộ, bọn Mỹ đã triển khai một
bộ phận hải quân và máy bay thuộc hạm đội 7 phối hợp với hải quân nguỵ
ráo riết ngăn chặn, tàu ta không thể đi theo địa văn, tức là đi tương đối gần
bờ, lấy các rặng núi trong đất liền làm chuẩn để định hướng nữa, mà phải đi
vòng ra rất xa, sang tận sát quần đảo Philippines, vòng xuống đến vùng
Palawan sát hải phận Indonesia, từ đó men theo eo biển Malacca ngược lên
vịnh Thái Lan, và bất ngờ dùng tốc độ cao đâm thẳng vào vùng mũi Cà
Mau…
Đã có hàng chục trận phải đánh nhau với tàu địch trên biển, cho nổ
tàu phi tang, nhảy xuống biển mà bơi, hoặc cho tàu đâm thẳng luôn vào bờ,
vừa đánh địch vừa đốt tàu, rồi tìm đường về căn cứ…
Suốt đêm chúng tôi mới đến và sáng hôm sau anh Ba Thắng kể cho
chúng tôi nghe tất cả những chuyện ấy. Rồi anh dẫn chúng tôi ra bến, chính
cái bến ngày xưa tàu ta từng bí mật đổ vũ khí vào.
Buổi tối chúng tôi trở về nhà anh Ba Thắng. Chị Ba nấu cháo gà đãi
chúng tôi. Và trong khi chúng tôi ngồi uống rượu, chị lui cui dọn dẹp, cho
heo ăn, đập xơ dừa một lúc rồi chị đi nghỉ sớm.
Anh Ba Thắng rủ chúng tôi bắc ghế ra sân ngồi hóng mát. Đêm ở
đây yên tĩnh đến có cảm giác như ta đã tách hẳn ra khỏi thế giới tất tả chung
quanh. Sự yên tĩnh cho ta cái thanh thản trầm lắng và dễ khiến con người trở
nên suy tư.
Anh Ba Thắng đột ngột nói:
- Suốt ngày hôm nay tôi đã kể các anh nghe cuộc chiến đấu trên
biển của chúng tôi. Bây giờ tôi sẽ kể với các anh một cuộc chiến đấu khác,
chắc không ghi trong bất cứ sổ sách nào đâu…
Cuộc chiến đấu không có tiếng súng
… Hồi 1961, lệnh rút sáu anh em chúng tôi để vượt biển ra Bắc là
lệnh trực tiếp của tỉnh uỷ, hết sức bí mật, ngay trong tỉnh uỷ cũng chỉ có
một, hai đồng chí thường vụ trực tiếp lo công việc này biết, còn huyện uỷ, xã
uỷ, chi bộ địa phương đều hoàn toàn không hay biết. Chỉ nghe nói là mấy
anh em tôi được rút đi thoát ly, còn đi đâu, làm gì không ai rõ. Vợ tôi lúc đó
đã là đảng viên trong chi uỷ mà tôi cũng không dám hé răng tâm sự chút
gì…
Tôi ra Bắc, rồi đi tàu bí mật trở về khắp các bến, như tôi đã kể các
anh nghe. Đến chuyến thứ năm mới được trở về đúng bến Trà Vinh này. Tới
bến cất hàng, giấu tàu xong xuôi, chúng tôi rút vào rừng nghỉ một tuần.
Ngày tôi ra đi vợ chồng tôi mới có một mặt con. Vợ tôi là chi uỷ
viên, hoạt động bí mật trong ấp chiến lược, nhớ và lo lắm. Nhưng tuyệt đối
không hề dám nghĩ tới chuyện thư từ liên lạc, đừng nói gì đến về thăm, gặp
mặt…
Đến chuyến thứ chín, cuối năm 1964, tôi lại được trở về bến Trà
Vinh. Lần này đồng chí phụ trách bến gọi tôi lên, hỏi:
- Có muốn gặp vợ không?
Tôi chắc anh ấy thử mình nên trả lời:
- Không dám nghĩ tới chuyện đó đâu. Tuỳ tổ chức thôi.
Ai dè các anh thương, lần này quyết bố trí cho vợ chồng tôi gặp
nhau thật.
Công phu lắm. Phải phái một chị giao liên hợp pháp về tận làng tôi,
nói với vợ tôi là trên rút đi công tác đặc biệt, công tác gì không được biết.
Vợ tôi phải giả đi buôn ở Cần Thơ. Giao liên dẫn đi vòng vo mấy ngày,
chuyển từ giao liên này qua giao liên khác mấy lần, cuối cùng mới đến bến.
Anh em rất chu đáo. Điều kiện ở bến khó khăn vậy mà các anh vẫn
bố trí cho vợ chồng tôi một “căn lều hạnh phúc” trong một khu rừng kín. Ở
với nhau được hai ngày… Rồi vợ tôi lại vòng lên Cần Thơ, mua một ít hàng
linh tinh trước khi trở về nhà. Còn tôi vài ngày sau xuống tàu…
Từ đó cho đến hết chiến tranh tôi còn đi nhiều chuyến, nhưng toàn
đi Cà Mau và Khu 5, không còn chuyến nào được trở lại Trà Vinh. Cũng
không hề nhận được tin tức gì của vợ con nữa…
Tôi thiệt là cái thằng vô tâm các anh ạ. Nhớ thương vợ con thì luôn
canh cánh bên lòng, nhưng không hề đoán nghĩ được những gì sẽ xảy ra với
vợ tôi sau lần chúng tôi gặp nhau trong rừng đó…
Mãi đến sau 1975 giải phóng miền Nam rồi tôi về thăm nhà mới
biết: thì ra lần ấy gặp nhau trở về vợ tôi có thai. Cơ sự bỗng trở nên hết sức
phức tạp. Việc tôi ra Bắc, rồi đi tàu biển chở vũ khí về, địa phương, huyện,
xã, tỉnh, chi bộ, bà con làng xóm tuyệt đối không ai biết. Việc tôi có trở về
bến Trà Vinh càng không ai biết.
Đối với mọi người, kể cả các đồng chí trong đảng bộ địa phương, cả
với cha mẹ tôi, vợ tôi là vợ của một chiến sĩ quân giải phóng đang đánh Mỹ
ở đâu đó. Vậy mà bây giờ, đùng một cái, người đàn bà ấy lại có chửa! Với
ai? Chỉ có thể là chửa hoang!
Lúc đầu vợ tôi còn lúng túng che giấu, hi vọng một cách hão huyền
biết đâu bất ngờ tôi có thể công khai trở về. Nhưng rồi bụng càng ngày càng
to, không thể che giấu được nữa. Cha mẹ tôi khinh bỉ và đau khổ. Chi bộ gọi
lên kiểm điểm. Nói với chi bộ thế nào bây giờ? Cuối cùng cô ấy khai liều:
lâu nay đi buôn ở Cần Thơ, lỡ có dan díu với một người ra cơ sự này!
Cha mẹ la chửi, chi bộ lên án đành cắn răng chịu đựng. Chi bộ
quyết định kỷ luật: khai trừ, đuổi ra khỏi Đảng, đình chỉ công tác. Các anh
có hiểu được một người đảng viên sống trong lòng địch mà bỗng mất hết
đảng, mất hết cả gia đình, xóm giềng, lủi thủi một mình ôm cái bụng chửa,
rồi sinh con, nuôi con một mình chống lại với tất cả… là thế nào không? Vợ
tôi sinh được một đứa con gái, giọt máu của chúng tôi. Nhưng cha mẹ tôi
không cho nó lấy họ tôi.
Vậy đó, kéo dài hơn 10 năm trời. Cho đến ngày giải phóng miền
Nam. Và tôi trở về…
Anh Ba Thắng ngừng lời. Tất cả chúng tôi đều im lặng.
Chúng tôi tìm về bến Trà Vinh để gặp một người anh hùng và nghe
những sự tích anh hùng của anh trên biển Đông, những trận chiến đấu độc
đảm, dữ dội, ác liệt của anh giữa trùng khơi sóng gió. Nhưng hoá ra lại gặp
một con người khác, một sự tích khác. Một sự tích không hề có súng nổ, có
sóng to, gió lớn biển khơi, thậm chí một sự tích gần như không lời.
Một người đàn bà âm thầm chịu đựng tất cả, hoàn toàn cô đơn, dằng
dặc hơn 10 năm trời, để khư khư cắn răng giữ kín một điều ngày ấy vô cùng
thiêng liêng: bí mật của con đường biển Đông.
Đặng Văn Thanh và chú Năm Sao từng kiên gan chịu đựng trên con
tàu mắc cạn, sẵn sàng hi sinh nổ tung tan xác cùng con tàu, phi tang tất cả
cũng là để gìn giữ cho được điều bí mật sinh tử ấy. Họ đã trụ vững suốt một
ngày.
Đặng Văn Thanh trở thành anh hùng quân đội.
Còn chị Ba ở tận cuối Trà Vinh, chị đã trụ vững hơn 10 năm. Và
trong cô đơn tuyệt đối.
Sử sách nào sẽ ghi lại sự tích này?
Một vùng cát trắng, lơ thơ bông cỏ lông chông khô cháy. Người đàn
bà ấy đi trên cát, nắm tay một đứa bé. Chị Ba Thắng và đứa con gái bé bỏng
của chị. Lủi thủi, cam chịu hai mẹ con… Có ai ngờ chủ nghĩa anh hùng có
khi lại có diện mạo lầm lũi như thế đó…
Những con tàu không số tăng dần theo năm tháng. Năm 1964, 1965
mỗi tuần đều có những chuyến ra khơi. Từ biển Bắc, hàng ngàn tấn súng đạn
theo những chuyến đi mạo hiểm ấy đã đến với các bến đợi ở miền Trung,
miền Nam.
Con đường chiến lược có nguy cơ bị rò rỉ ngay từ điểm xuất phát.
Và nỗi lo rình rập mỗi ngày…
Bí mật một con đường
Việc lớp chiến sĩ nghĩa vụ quân sự này có mặt ở Lữ đoàn 125
khoảng năm 1964 là một dấu hiệu cho thấy đến lúc này tuyến vận chuyển bí
mật trên biển Bắc - Nam đã phát triển khá lớn: số anh em từ các tỉnh trong
Nam vượt biển ra và anh em miền Nam tập kết lấy từ các đơn vị trong và
ngoài quân đội về không còn đủ nữa.
Đơn vị đã phải tuyển thêm ngày càng đông những chiến sĩ hải quân
quê miền Bắc. Tất nhiên chọn lựa rất kỹ: những người gan dạ, vững chắc, tin
cậy nhất. Nguyễn Long An nói:
- Lúc tôi về đơn vị, con đường trên biển của ta có thể nói đã khá tấp
nập. Tôi xin nói vài con số: Năm 1962 tổng số tàu đi là năm chiếc, chở được
cho miền Nam 810 tấn vũ khí. Năm 1963 tổng số tàu đi 22 chiếc, chở được
1.318 tấn. Năm 1964 tổng số tàu đi 49 chiếc, chở được 2.971 tấn và 113
khách. Riêng hai tháng đầu năm 1965 tổng số tàu đi tám chiếc, chở 408 tấn
và 23 khách.
Tức là đến cuối năm 1964 đầu 1965, gần như tuần nào cũng có tàu
xuất phát từ Đồ Sơn, Hòn Gai, Hạ Long, Bái Tử Long, Móng Cái, Tiên Yên,
nhằm vào các bến Khu 5 và Nam bộ: Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên,
Khánh Hoà, Bà Rịa, Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch
Giá. Hệ thống bến đi và bến đến cũng đều mở rất rộng.
Ngoài súng đạn, tàu còn chở cả “khách”. Khách đây là những đồng
chí cán bộ thường ở cấp khá cao, cần đi công tác khẩn vào miền Nam hoặc
từ các chiến trường miền Nam ra trung ương báo cáo, họp hành. Đi đường
Trường Sơn phải mất hai, ba tháng trời. Đi tàu biển của chúng tôi nhiều nhất
chỉ mất một tuần…
Mật độ tàu đi lại dày đặc như vậy thì nguy cơ lộ bí mật con đường
chiến lược đặc biệt này cũng ngày càng lớn. Có thể nói là mối lo nơm nớp
từng ngày. Mà bí mật thì có thể rò rỉ từ những kẽ hở rất nhỏ, rất khó lường.
Một bí mật cao hơn tất cả
Có một chuyện thế này: tàu chúng tôi khi đi vào chở vũ khí rất nặng
nên tàu khẳm, đi tương đối đằm. Khi trở ra lại đi tàu không, tàu nhẹ quá, gặp
sóng to gió lớn rất chông chênh. Cho nên khi trở ra chúng tôi thường chất đủ
thứ linh tinh lên tàu cốt cho nặng: đất đá, than củi, bất cứ thứ gì…
Một lần vô tình anh em chở ra cả một tàu toàn cây dừa nước. Dừa
nước Nam bộ thiếu gì. Chở về đến căn cứ của đoàn ở phía trên bến Bính,
Hải Phòng rồi đổ bừa xuống đấy… Và quên bẵng đi…
Không ngờ dừa nước là thứ cây rất khỏe. Chỉ một thời gian sau cả
một vùng bờ sông phía sau căn cứ bến Bính đã thành một bãi dừa nước rậm
rạp, bạt ngàn. Vậy mà chúng tôi bận bịu bao nhiêu công việc chẳng ai để ý.
Cho đến một hôm, có một anh công nhân quê Nam bộ tập kết làm
việc ở một nhà máy gì đó bên Hải Phòng, một buổi chiều chắc là nhớ nhà,
nhớ quê hương, đi lang thang một mình dọc bờ sông, tình cờ thấy mấy trái
dừa nước trôi bập bềnh trên mặt sông.
Anh nhặt lấy, đêm về chợt nghĩ: ở miền Bắc rất hiếm dừa nước.
Mấy trái dừa nước này đúng là dừa Nam bộ rồi. Ai mang nó ra đây? Tại sao
lại trôi dạt tận bờ sông này?…
Mấy hôm sau anh tẩn mẩn mò đi ngược bờ sông và khám phá bãi
dừa nước của chúng tôi. Anh lân la tìm gặp anh em chúng tôi, hỏi: “Có phải
các anh đã vào tận Nam bộ mang giống dừa này ra đây không?”.
Thật là nguy to! Tin tức ấy được báo cáo ngay lên Bộ tư lệnh Hải
quân, rồi lên tận trung ương. Đoàn chúng tôi bị chỉnh một trận ra trò, được
lệnh phá sạch ngay hết bãi dừa nước nọ và phải tổ chức bí mật theo dõi ráo
riết anh công nhân nặng lòng nhớ quê hương kia…
Cũng may, theo dõi rất lâu không thấy có động tĩnh gì khác, chắc
anh công nhân ấy rồi cũng vô tình quên đi chuyện mấy trái dừa nước, hoặc
anh là người có ý tứ, đã biết giữ kín sự khám phá và mối nghi ngờ của mình,
không tiết lộ thêm với ai khác… Những ngày ấy khắc nghiệt như thế đó, một
tình cảm quê hương thật đẹp thế cũng lại rất có thể trở thành nguy hiểm cho
cả một sự nghiệp lớn ta từng biết bao công phu xây dựng, gìn giữ…
Còn một khía cạnh khác nữa cũng rất tế nhị, phức tạp. Ngày ấy tất
cả chúng tôi đều còn rất trẻ, hầu hết chưa có gia đình riêng, chuyện yêu
đương không thể tránh hết được. Không thể cấm đoán nhưng quả thật mọi
mối quen biết của chúng tôi đều bị giám sát rất khắt khe. Chúng tôi biết và
hiểu yêu cầu khắc nghiệt của công tác này đòi hỏi phải như vậy.
Một lần cơ quan bảo vệ báo cáo một thuỷ thủ trong một chuyến đi
phép đã gặp và yêu một chị y tá ở Bệnh viện Việt Trung trên Hà Nội tên là
Phúc. Và hình như chị Phúc có biết về công việc của lữ đoàn. Cán bộ bảo vệ
đi điều tra, không xác minh được điều gì rõ rệt. Nhưng cậu thuỷ thủ nọ biết
mối lo của đoàn liền lẳng lặng cắt đứt và trốn biệt người yêu.
Chị Phúc cuống quít bổ đi tìm khắp nơi, đau khổ vì đây là mối tình
đầu của chị… Về sau cậu thuỷ thủ ấy hi sinh, mất tích trên vịnh Thái Lan.
Chắc chị Phúc mãi mãi không bao giờ biết gì nữa về người lính thuỷ đẹp trai
đã đến một lần với chị rồi vĩnh viễn biệt tăm ấy…
Có trăm nghìn câu chuyện như vậy, trăm nghìn hi sinh thầm lặng,
vô danh như vậy, ngày ấy.Ngày ấy, đối với mỗi chúng tôi, bí mật của con
đường là thiêng liêng, là cao hơn tất cả.
Phương châm công tác trên biển của chúng tôi là: bí mật, bất ngờ,
tránh chạm địch đến cùng để hoàn thành nhiệm vụ, khi cuối cùng không
tránh được thì chiến đấu đến cùng, không để địch lấy tàu, lấy hàng, lấy tài
liệu, không để địch bắt sống.
Về sau có sửa lại: “Trong trường hợp bị địch bắt, giữ vững khí tiết
của người cộng sản, đấu tranh để tìm mọi cách tiếp tục nhiệm vụ”. Rồi sau
lại bổ sung: “Trong trường hợp lạc đến các nước Đông Nam Á, bị bắt thì
đấu tranh tìm mọi cách gặp sứ quán ta để trở về tiếp tục nhiệm vụ”.
Như vậy nghĩa là một mặt hết sức kiên trì giữ đến cùng bí mật của
con đường, song mặt khác chúng tôi cũng đã nghĩ đến khả năng một ngày
nào đó không thể tránh phải chạm địch, đối mặt với chúng. Mật độ hoạt
động ngày càng lớn, càng dày, cái ngày ấy càng đến gần.
Và cuối cùng ngày ấy đã đến thật: ngày 16-2-1965. Ngày hôm đó
bùng nổ vụ Vũng Rô.
Vũng Rô, vùng đất hiểm yếu ấy nằm gần bên thành phố Nha Trang,
cũng gần bên Cam Ranh - căn cứ hải quân của Mỹ nguỵ. Trước khi xảy ra
sự kiện ngày 16-2-1965, bất ngờ và táo bạo, những con tàu không số đã chọn
Vũng Rô làm nơi cập bến, chuyển lên bờ hàng trăm tấn súng đạn. Câu
chuyện bắt đầu từ giữa năm 1964…
Vũng Rô - bến đậu trong lòng địch
Câu chuyện của Nguyễn Long An đưa chúng tôi trở về với một
vùng đất hiểm yếu và ác liệt vào bậc nhất trong mấy cuộc chiến tranh đã
qua: vùng Vũng Rô.
Điều bất ngờ ở nơi nguy hiểm nhất
Con đường thiên lý số 1 và đường xe lửa xuyên Việt Bắc - Nam,
đến chặng cuối tỉnh Phú Yên đầu tỉnh Khánh Hoà thì gặp một rặng núi lớn,
một cánh tay vạm vỡ của dãy Trường Sơn vươn ra biển Đông, chắn ngang.
Đường xe lửa phải chui qua một hầm dài. Còn đường thiên lý trên
bộ thì quanh co leo lên một ngọn đèo cao ngất, hiểm trở: đèo Cả - một trong
những ngọn đèo cao nhất ở nước ta và là ngọn đèo cao cuối cùng trên quốc
lộ 1 Bắc - Nam. Bên này là núi lớn, tiếp liền với rừng già, nối lên tận
Trường Sơn. Bên kia là biển sâu hoắm.
Ngay giữa đỉnh đèo nhìn xuống theo hướng đông, thăm thẳm dưới
hàng trăm thước sâu là một vịnh biển tuyệt vời: gần như hình tròn, rộng và
sâu, ba mặt vách đá dựng đứng, mặt thứ tư nhìn ra biển lại có hai hòn đảo
nhỏ như hai tấm bình phong che chắn: một cảng biển tuyệt vời cho những
con tàu đại dương hàng vạn tấn… Đó chính là Vũng Rô.
Không biết ai là người đầu tiên đã táo bạo nghĩ đến việc dùng Vũng
Rô làm bến đón các con tàu không số của chúng ta. Thật hết sức mạo hiểm:
quá gần một thành phố lớn là Nha Trang, cũng quá gần Cam Ranh là căn cứ
hải quân lớn nhất miền Nam của Mỹ nguỵ.
Con đường chiến lược số 1 thì chạy ngay trên đỉnh đèo Cả, chỉ cách
vài trăm mét, xe quân sự của địch qua lại suốt ngày đêm như mắc cửi. Lại
cũng quá gần khu du kích Hoà Hiệp phía bắc và chiến khu Hòn Hèo, Hòn
Khói phía nam, là vùng địch rất chăm chú theo dõi và thường xuyên càn
quét đánh phá…
Nhưng trong chiến tranh thường vẫn vậy: nơi nguy hiểm nhất cũng
có thể là nơi bất ngờ. Nghệ thuật chiến tranh, đặc biệt trên con đường biển
Đông gian nan này, là biết và dám đi vào kẽ hở bất ngờ ấy, dám mạo hiểm
để giành thắng lợi…
Nguyễn Long An kể:
- … Vậy là đến giữa năm 1964, ta quyết định phương án táo bạo ấy:
lấy Vũng Rô làm một bến lớn cho Khu 5. Chuyến đầu tiên do anh Hồ Đắc
Thạnh, thuyền trưởng hải quân, quê ở Qui Nhơn, chỉ huy. Tàu đi xa ra ngoài
biển quốc tế. Đến đúng toạ độ, chờ sẩm tối, đột ngột chuyển hướng, dùng
tốc độ cao đâm thẳng vào đúng Vũng Rô, 11 giờ đêm phải đến bến.
Hoà Hiệp là vùng du kích mạnh của ta. Lực lượng du kích và bộ đội
địa phương ta do một đồng chí thường vụ tỉnh uỷ - anh Sáu Suyền - chỉ huy
nhanh chóng băng qua dãy núi dưới chân hòn Vọng Phu và mỏm Đá Bia,
đến chực sẵn ở bến.
Tàu vừa đến bến, toàn bộ lực lượng được tổ chức rất chặt chẽ, lập
tức ùa xuống, bốc dỡ, một bộ phận ngay trong đêm vượt đường số 1 chuyển
thẳng lên các dãy núi có rừng rậm ăn liền với căn cứ của ta ở phía tây trên
dãy Trường Sơn. Số hàng còn lại không chuyển kịp trong đêm thì cất giấu
trong các hang đá gần bến.
Rừng ở đây thưa, toàn cây gai lúp xúp nhưng lại nhiều hang đá…
Tàu dỡ xong hàng tức tốc quay ra ngay, vừa sáng lại đã ra đến vùng biển
quốc tế…
Chuyến đầu thắng lợi, phấn khởi lắm. Đi tiếp chuyến thứ hai, thứ
ba, thứ tư…
Một lần liều lĩnh…
… Tôi về lữ đoàn, được phân công làm chiến sĩ cơ điện, tháng 12-
1964 đi chuyến đầu tiên, tàu số 43 vào Cà Mau. Lần đầu còn rất lúng túng,
nhờ các anh đi trước dìu dắt. Đi về mất một tháng, an toàn.
Bấy giờ đã gần tết, lại có lệnh chuẩn bị đi tiếp. Từ Đồ Sơn vào Cà
Mau. Chuẩn bị sắp xong thì chiều 30 tết bỗng có lệnh điều sang tàu khác, số
401, tập kết ở Hòn Gai, do anh Lê Văn Thêm làm thuyền trưởng, anh Phan
Văn Bảng làm chính trị viên, chuẩn bị đổ bộ vào Khu 5, Vũng Rô.
Đúng đêm mồng 1 Tết Ất Tỵ, tức ngày 2-2-1965, chúng tôi rời bến.
Đi vào ngày tết là lúc địch sơ hở. Chuyến này, thấy tình hình địch có vẻ hơi
khác thường: ban ngày, cứ 5-6 tiếng một lần lại có một máy bay địch bay
dọc theo thân tàu, lúc cao lúc thấp. Đêm, lại thấy tàu thuỷ địch kèm, chiếc
phía trước, chiếc phía sau. Nhưng chúng tôi đi trên vùng biển quốc tế nên cứ
bình thản, treo cờ như tàu buôn. Sau này chúng tôi mới biết lúc đó địch đã
đánh hơi và nghi ngờ. Chúng đã bắt đầu theo dõi…
Tối 15-2, chúng tôi đến điểm chuyển hướng… Chạy ra một lúc, anh
Thêm khẳng định đã đúng nam Tuy Hoà, cách bờ 40 hải lý. Chúng tôi vào
sát bờ, cứ men theo những chấm đèn điện dọc bờ mà đi. Biển ở đây có cái
lợi là nước sâu, tàu ta cứ chạy men bờ, chen vào giữa các tàu đánh cá của
dân.
Qua khỏi Tuy Hoà, thấy rõ đỉnh núi Vọng Phu và hòn Đá Bia: đêm
ấy là 14 âm lịch, trăng rất sáng. Anh Thêm là thuyền trưởng lão luyện. Vòng
qua mỏm Vọng Phu chúng tôi vào sát bờ hơn và lọt vào đúng Vũng Rô.
Nhưng do phải chạy vòng vo lúc tối nên đến bến có chậm, đã gần 3g sáng.
Lập tức bốc dỡ, cất hàng. Nhưng tàu gần 100 tấn. Không tài nào
bốc kịp trước trời sáng.
Xử trí thế nào đây?
Thường khi gặp tình huống này, an toàn nhất là cất được một phần
hàng, còn lại cứ để đấy, đến trước 4g, chậm nhất là 5g sáng, quay tàu chạy ra
vùng biển quốc tế, tối sẩm lại quay vào cất nốt.
Nhưng đêm ấy chúng tôi lại không chọn cách đó: chúng tôi quyết
định cứ cất cho hết hàng đến sáng bạch, rồi nguỵ trang, giấu tàu ngay tại
bến, ở lại bến suốt ngày sau.
Vì sao lúc bấy giờ chúng tôi lại chọn phương án mạo hiểm ấy?
Có lẽ vì rất nhiều nguyên nhân. Từ năm 1962, mở đầu con đường
này đến nay, chưa chuyến nào bị lộ. Về căn bản, địch chưa hay biết gì.
Riêng cảng Vũng Rô, mấy chuyến liền đều trót lọt, an toàn.
Tình hình ấy rõ ràng khiến chúng tôi sinh chủ quan.
Lúc bấy giờ chúng tôi chưa thể biết được điều này: bọn địch tuy
chưa nắm được quả tang việc vận chuyển bí mật trên biển của ta, nhưng dần
dà chúng đã chú ý một hiện tượng có phần khác thường: du kích các vùng
ven biển Khu 5 ngày càng đánh mạnh, được trang bị một số vũ khí khá hiện
đại: súng AK, súng cối cá nhân, đại liên, có khi cả trọng liên 12 li 7, cả súng
bắn tăng B40. Đạn thì ê hề.
Số súng đạn này chính là anh chị em du kích ven biển của ta trong
khi vận chuyển lên trên cho bộ đội chủ lực đã ranh ma “chôm” bớt một
phần. Bọn địch đã có đặt câu hỏi: phải chăng có một con đường đưa vũ khí
bí mật từ miền Bắc vào, đổ bộ lên các bến ven biển khu vực này? Chúng
đang chăm chú theo dõi…
Chúng tôi quyết định ở lại bến hôm ấy có lẽ cũng có phần vì các
bến miền Nam đối với chúng tôi ngày đó bao giờ cũng có sức hấp dẫn rất
mạnh. Tình cảm của anh chị em du kích, cán bộ, đồng bào mà những lần
trước chúng tôi chỉ thoáng gặp vài giờ trong đêm, không kịp nhìn mặt,
không kịp cả nắm tay, tình cảm đó đối với chúng tôi thắm thiết vô cùng. Một
giọng nói miền Nam thì thào trong gió biển đêm. Một khuôn mặt thoáng mờ
dưới ánh trăng khuya… Và cả không khí chiến trường ngày ấy có gì đó thật
thiêng liêng… Ở lại được một ngày trên mảnh đất cháy bỏng và yêu thương
này, giữa những con người này, hạnh phúc biết bao.
Anh Thêm, anh Bảng và nhiều thuỷ thủ trong đoàn đều là người quê
Phú Yên, Bình Định, Khánh Hoà. Có người vợ con chỉ ở cách bến năm,
mười cây số. Không có chuyện lén về thăm nhà đâu, nhưng được ở lại một
ngày, hít thở một chút không khí quê hương đang chiến đấu, ước ao thầm
kín mà cháy bỏng đó dễ gì cầm lại được. Một chút liều lĩnh, đã sao…
Vậy đó. Ban chỉ huy tàu quyết định ở lại. Và chúng tôi đều đồng
tình. Tự mình cố dẹp đi mọi lo ngại…
Bùng nổ sự kiện Vũng Rô
Chúng tôi dỡ hết hàng thì trời đã sáng bạch. Nhanh chóng chuyển
hàng vào các hang đá. Và giấu tàu.
Mỏm đá lạ trên vách núi
Vũng Rô ba bề vách đá dựng đứng. Trên những vách sừng sững ấy,
thỉnh thoảng có những chòm cây mọc bám vào đá, lơ lửng giữa không trung
hay sát mặt nước.
Chúng tôi cho tàu áp sát vào một vách đá đen gồ ghề và chặt những
cành cây lớn phủ kín. Từ trên nhìn xuống chẳng khác gì một mỏm đá hơi
nhô ra, có một chòm cây lá mọc từ vách đá che phủ.
6g sáng…
Trên đỉnh đèo Cả, ngay từ mũi tàu ta nhìn lên, cách vài trăm mét là
một đồn địch lù lù. Nhìn ra phía biển, cách 500m là một đồn địch khác: đồn
Mũi Điệng.
Thật tình lúc này rất lo nhưng lại tự an ủi: càng ở ngay trước mũi
chúng càng bất ngờ. Chúng không thể nghĩ ta dám vào tận đây đâu.
7g sáng, có ba chiếc trực thăng từ phía nam bay ra…
Trong chiến tranh, những sự kiện vang dội nhất lắm khi lại bắt đầu
từ một ngẫu nhiên không đâu. Ngày hôm ấy một ngẫu nhiên như vậy đã xảy
đến, mãi về sau này, sau năm 1975 giải phóng miền Nam rồi, qua tài liệu của
địch chúng tôi mới biết.
Ngày 15-2-1965, tức là đúng cái ngày chúng tôi đến điểm chuyển
hàng trên vùng biển quốc tế ngang Phú Yên, Khánh Hoà, trên chiến trường
Khu 5 đã diễn ra một trận đánh lớn đặc sắc: trung đoàn 2, sư đoàn 3 quân
giải phóng Khu 5 chặn đánh tiêu diệt hoàn toàn hai tiểu đoàn địch tại đèo
Nhông thuộc huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định.
Gần chục xe tăng của địch bị bắn cháy tan tành. Đây là lần đầu tiên
trên chiến trường Khu 5 quân ta sử dụng súng chống tăng B41. Số súng này
do chính các tàu ta đưa vào Khu 5 trong những chuyến trước.
Thương binh địch ngổn ngang trên trận địa đèo Nhông. Chúng phải
dùng trực thăng chở về các bệnh viện ở Quảng Ngãi, Quy Nhơn. Bệnh viện
Quy Nhơn cũng chật cứng rồi, chúng lại phải chuyển về Nha Trang.
Chính trên một chiếc trực thăng UH1B tải thương đó, bay dọc
đường số 1 ven biển từ Quy Nhơn về Nha Trang, lúc qua đèo Cả khoảng 12g
trưa, viên phi công đã tình cờ nhận thấy “một mỏm đá lạ nhô ra trên vách
núi phía tây Vũng Rô” mà những ngày trước chưa hề thấy. Hắn liền báo về
bộ chỉ huy quân đoàn 2 nguỵ ở Nha Trang.
Phải nói công tác tham mưu của bọn này rất chặt chẽ, tỉ mỉ. Ngày
nào cũng có hai lượt máy bay trinh sát bay chụp ảnh suốt dọc vùng ven biển.
Đối chiếu các không ảnh chụp những ngày trước, chúng thấy quả là “mỏm
đá lạ trên vách núi phía tây Vũng Rô” mới xuất hiện từ sáng nay.
Bấy giờ là khoảng 1g chiều. Một máy bay trinh sát từ phía Nha
Trang ra, quần mấy vòng trên Vũng Rô rồi bắn một quả mù đúng vào chỗ ta
giấu tàu. Lập tức hai chiếc khu trục AD6 lao tới, bổ nhào, ném một loạt bom
xăng trúng tàu. Tất cả lớp lá nguỵ trang của ta bốc cháy rừng rực. Tan khói,
toàn bộ hình tàu lộ ra rõ mồn một.
Từ đó đến sẩm tối, hàng chục tốp khu trục liên tiếp đến ném bom.
Tới 5g chiều thì tàu chìm hoàn toàn.
Cuộc đụng độ không cân sức
Trước đó, khoảng 4g chiều, tôi được lệnh cùng đồng chí máy
trưởng tìm mọi cách xuống tàu để đánh bộc phá. Trong tàu đã đặt sẵn một
khối bộc phá 500kg, đảm bảo giật nổ tung tàu, phi tang. Khối bộc phá này
bố trí ở khoang máy.
Chúng tôi vượt qua bom đạn mù mịt, tiếp cận được tàu nhưng
không vào được khoang máy. Tàu bị trúng bom nghiêng hẳn về một bên,
cửa khoang máy chúi xuống phía đáy vịnh, bị sức ép mạnh của nước, chúng
tôi lặn xuống nhiều lần không cách nào mở ra được.
Tối, máy bay địch lại đến thả pháo sáng. Mặc pháo sáng, chúng tôi
trở lại tàu, lặn xuống, cố lấy hết số súng đạn còn lại trong tàu.
Mờ sáng hôm sau địch lại đến ném bom.
Tối 17-2, quân khu phái xuống một tiểu đội công binh, dùng 1 tấn
bộc phá quyết phá tan tàu, thủ tiêu tung tích. Nhưng giật nổ bộc phá xong,
chúng tôi trở lại xem thấy tàu chỉ vỡ đôi.
Chiều 17-2 có hiện tượng mới: một chiếc tàu LSM405 của địch có
hai tàu chiến PC04 và DCE2 yểm trợ từ phía biển tiến vào, đồng thời trực
thăng đổ hai tiểu đoàn bộ binh chiếm các đỉnh cao quanh vịnh. Chúng dùng
bộ binh từ các điểm cao đánh xuống, kết hợp tàu thuỷ đổ bộ, cả máy bay liên
tục ném bom yểm hộ. Về sau này chúng tôi mới biết thêm: một tên tướng
nguỵ từ Sài Gòn bay ra trực tiếp chỉ huy trận này.
Lực lượng ta lúc này chỉ có một trung đội du kích Hoà Hiệp, hai
tiểu đội bộ đội địa phương huyện và 18 thuỷ thủ, trong đó thuyền trưởng
Thêm đã bị thương. Chúng tôi chia nhau đánh chặn không cho địch đến gần
chỗ tàu và các hang đá còn giấu một số hàng từ các chuyến trước chở vào
chưa kịp chuyển đi hết.
Suốt các ngày 17, 18 và 19 địch cố đổ bộ lên bờ mấy lần đều bị ta
đánh bật lại. Đến chiều 19, một đại đội địch mới đặt chân được lên bờ. Ta
vẫn tiếp tục bám đánh, ngày từng tổ đánh chặn, đêm tập kích bọn địch trú
quân trên các đồi trọc. Cứ như vậy suốt các ngày 20, 21, 22 và 23.
Sáng 24, địch lại đổ thêm quân, triển khai từ đường số 1 và các
điểm cao phía nam, phía bắc đánh xuống, siết vòng vây chúng tôi lại.
Nhận định lực lượng đã quá chênh lệch, đêm 24 chúng tôi dùng mìn
phá nổ hết các hang đá chứa hàng và tổ chức thoát khỏi vòng vây.
Giai đoạn mới sau Vũng Rô
Anh Trần Phong, nguyên tham mưu trưởng Lữ đoàn 125, nói với
chúng tôi:
- Vụ Vũng Rô là sự kiện lớn trong lịch sử con đường biển Đông. Nó
chấm dứt một giai đoạn hoàn toàn bí mật của con đường này. Nhưng đương
nhiên nó không kết thúc con đường, không dập tắt được quyết tâm lớn của
chúng ta dùng biển Đông làm con đường quan trọng vận chuyển vũ khí cho
chiến trường miền Nam đang ngày càng đánh lớn hơn. Nó chỉ mở ra một
giai đoạn mới của quyết tâm đó. Gian nan hơn, ác liệt hơn, mặt đối mặt thi
gan với kẻ thù trên mặt biển mênh mông.
Chúng tôi ráo riết theo dõi động tĩnh của địch.
Tháng 4-1965, tức chỉ gần hai tháng sau vụ Vũng Rô, chúng đã bắt
đầu triển khai một chiến dịch mang tên Market time, phân công rõ ràng: hải
quân nguỵ tuần tiễu ven bờ, hải quân Mỹ, tức một bộ phận quan trọng hạm
đội 7, ngăn chặn ngoài khơi. Một lực lượng đặc nhiệm của quân đội nguỵ
được tổ chức lấy tên là lực lượng 115, gồm bảy tàu khu trục hộ vệ, hai tàu
quét mìn, hai tàu vận tải đổ bộ cỡ lớn, năm máy bay trinh sát.
Hải quân Mỹ thì đưa vào công việc này 54 tàu hiện đại. Đến tháng
9-1965, chúng lại tăng thêm năm tàu tuần tiễu ngoài khơi, 30 tàu tuần tiễu
trên sông, chín tàu tuần tiễu ven bờ. Toàn bộ vùng ven biển miền Nam được
tổ chức lại thành chín khu vực chiến đấu và năm trung tâm giám sát lớn…
Còn ta? Ta tạm dừng một thời gian để rút kinh nghiệm; ráo riết tổ
chức, huấn luyện lại lực lượng; tăng thêm 12 tàu cao tốc. Cần có tàu cao tốc
là vì chiến thuật thay đổi: tàu đi đến những vùng biển rất xa, đánh lạc hướng
địch, rồi bất ngờ dùng tốc độ rất cao lao thẳng vào bờ, thời gian tàu đi trên
vùng biển thuộc miền Nam do địch kiểm soát sẽ rất ngắn, vào bờ cất hàng
xong, lại dùng tốc độ cao vượt qua thật nhanh vùng biển địch kiểm soát, lao
ra vùng biển quốc tế an toàn.
Đó chính là để hạn chế khả năng chạm địch, buộc phải đánh địch
trên biển hết sức bất lợi. Hạn chế chứ không loại trừ hoàn toàn được. Bởi
Mỹ dùng máy bay trinh sát ngày đêm kiểm soát vùng trời rất rộng, tàu ta rời
bến miền Bắc là nó có thể phát hiện được rồi và sẽ theo dõi ta suốt hành
trình dài, chờ khi ta vào hải phận miền Nam là vây đánh…
Nghĩa là sau Vũng Rô, tiếp tục đi trên con đường biển Đông sẽ là
một trò chơi ú tim lớn, ta hết sức cố gắng lừa địch, tránh địch, nhưng đồng
thời cũng sẵn sàng chấp nhận đánh địch trên biển khi không còn khả năng
nào khác.
Tháng 10-1965, tiếp tục mở lại con đường.
Một thời kỳ mới của con đường biển Đông đã bắt đầu…
Trò chơi ú tim trên biển Đông ngày càng quyết liệt. Từ 1966-1972,
hầu như không chuyến đi nào của tàu không số là hoàn toàn yên ổn, trót
lọt…
Nhưng cuộc chiến đấu thì không dừng lại. Vũng Rô hiểm yếu bị
phát hiện thì những bãi cát dài trống trải ven biển miền Trung lại được tìm
làm bến đậu. Mấy mươi năm sau, nhà văn Nguyên Ngọc đã tìm về một bến
đậu như vậy ở tỉnh Quảng Ngãi. Cũng từ đây ông nghe thấy không chỉ tiếng
gầm của súng đạn…
Một câu chuyện tình
Ngày 8-3-1965, tức là chưa đầy một tháng sau vụ Vũng Rô, sư đoàn
thuỷ quân lục chiến đầu tiên của quân viễn chinh Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng
phía bắc tỉnh Quảng Nam, mở đầu cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam.
Ít lâu sau, một sư đoàn thứ hai đổ tiếp vào Chu Lai phía nam tỉnh
Quảng Nam. Rồi sư đoàn không vận số 1 nổi tiếng của Mỹ đổ vào Bình
Định. Rồi các sư đoàn, lữ đoàn Nam Triều Tiên khét tiếng gian ác tràn vào
suốt dọc các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh
Hoà…
Chiến trường Khu 5 trở thành một trong những chiến trường ác liệt
nhất của toàn bộ cuộc chiến tranh. Khu 5 khao khát đòi súng. Nhưng vận
chuyển đường biển bí mật cho Khu 5 cũng là khó khăn nhất, thậm chí có thể
nói là mối lo trăn trở nhất của những người chỉ huy, và là nỗi lo sợ ngay
ngáy của những cán bộ thuỷ thủ được giao nhiệm vụ đi làm công việc mạo
hiểm này.
Vậy tiếp tế cho Khu 5 bằng cách nào? Chỉ còn một cách: vào bãi
ngang.
Bãi ngang tức là những bãi cát dài ven biển dọc suốt miền Trung.
Vô cùng trống trải, nhưng vì rất dài, hàng mấy trăm cây số, chỗ nào cũng
phẳng lì tăm tắp, nên địch cũng chẳng biết tập trung vào chỗ nào mà đề
phòng, ngăn chặn. Chúng ta chơi trò ú tim với địch trên suốt mấy trăm cây
số bãi ngang này vậy!
Chúng tôi lần tìm về một bãi ngang như vậy: bãi ngang Phổ An,
huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.
Một bà cụ ở Phổ An bảo chúng tôi:
- Có, có một lần tàu mình vào đây, tại bãi ngang này. Anh em mình
phá tàu và đánh nhau với tụi nguỵ. Rồi bà con bọn tui nuôi giấu mấy ngày
liền, trước khi bắt được liên lạc đưa anh em lên núi… Tui còn nhớ một anh
chỉ huy người Nam bộ tên là Tư Thắng… Không biết bây giờ còn sống
không?…
Tư Thắng còn sống. Ở Lữ đoàn 125 chúng tôi đã tìm hỏi được địa
chỉ của anh: Tư Thắng, tức Nguyễn Đức Thắng, hiện ở Trà Nóc, Cần Thơ.
Cả chị Sáu Thuỳ nữa, vợ anh. Câu chuyện tình yêu của họ cũng từng nổi
tiếng một thời trong các đơn vị của con đường bí mật biển Đông.
Cú sét đánh
Tháng 9-1963 tôi (Tư Thắng) đi chuyến đầu tiên, làm thuyền phó,
thuyền trưởng là anh Châu người Khu 5, vào bến Kiến Vàng, Cà Mau.
Chuyến thứ hai đi tàu sắt, cũng vào Kiến Vàng. Chuyến thứ ba định đi bến
Khâu Băng, Bến Tre nhưng bị lệch hướng, cuối cùng vào bến Trà Vinh,
cũng trót lọt. Chuyến thứ tư đi tàu số 43, lại vào Kiến Vàng…
Anh Tư Thắng liếc nhìn chị Thuỳ, hơi cười, còn chị Sáu Thuỳ thì
lườm anh. Rồi chị ý tứ đứng dậy bỏ đi đâu đó.
- Chính chuyến này mới sinh sự đây các anh ạ. Không biết sao mà
lần này chúng tôi gặp bão nhiều thế. Trên đường vào sáu trận bão liên tiếp.
Nhưng rồi cũng vào tới nơi trót lọt. Ngày ấy đi trên biển gian nan, vất vả,
hiểm nguy, nhưng người thuỷ thủ đã vô đến bến thì sướng như tiên. Đến
bến, chúng tôi được coi như những anh hùng, như con cưng.
Bấy giờ ở bến có một số chị em cấp dưỡng, y tá, trong đó có Sáu
Thuỳ, tức là nhà tôi bây giờ đây. Tôi để ý thấy Sáu Thuỳ chăm sóc tôi có
phần nhiều hơn những anh em khác, cách thức chăm sóc, ánh mắt cũng
khác, lời ăn tiếng nói cũng khác.
Con gái miền Tây rất lạ các anh ạ, không biết các anh có nhận xét
thấy không, rất mộc mạc, thuỳ mị, nhưng cũng ráo riết, dữ dội. Hay là chiến
tranh khiến con người như vậy, tôi cũng không hiểu hết được. Sự bất trắc,
cái chết gần kề khiến mọi sự bỗng trở nên đau đớn hơn, mong manh hơn mà
cũng lại da diết, quyết liệt hơn chăng? Ngay từ lần gặp mặt thứ hai, tức là
bữa cơm thứ hai ở bến, tôi đã thấy cô ấy gần như muốn bộc lộ tất cả với tôi,
không cần che giấu gì nữa…
Còn tôi, tôi nghe nhà văn các anh bảo có cái gọi là “cú sét đánh”.
Tôi đã bị một cú sét đánh như vậy. Tôi yêu từ đầu nhưng cố kìm mình lại
bằng cách bông đùa. Tôi nghĩ tôi đã đi vào cuộc chiến đấu này là cuộc chiến
đấu cảm tử rồi, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào, đem cột cuộc đời người ta
vào mình làm gì, càng yêu thương người ta bao nhiêu thì càng phải cắn răng
lại mà rứt ra bấy nhiêu… Nói thế chứ không dễ đâu.
Năm ấy, 1964, tôi 30, Sáu Thuỳ 20, tính thật đúng ra là mới 19, con
gái miền Tây sông nước, 19, nói thật các anh, ngon lành hừng hực. Tôi cố tự
nén mình bằng cách nằm lì dưới tàu, đến giờ ăn cũng không lên. Nhưng như
thế càng nguy vì cô ấy cho là tôi ốm, lại mang cơm nước thuốc men xuống
tàu, và ở đấy chỉ có hai chúng tôi… Nhùng nhằng như vậy cho đến ngày tàu
quyết định rời bến ra Bắc.
Tôi nghĩ, vừa mừng vừa đau đớn: Thôi, như vậy là thoát, như vậy là
hết! Ngày hôm đó mọi công việc đã chuẩn bị xong, công việc cuối cùng là
nguỵ trang tàu cũng đã làm xong thì 6 giờ tối, mở đài Hà Nội bỗng nghe tin
bão khẩn cấp. Thế là đành ở lại. Một tuần. Rồi lại bão nữa. Rồi tiếp bão nữa.
Không biết sao năm đó bão nhiều thế. Hay là cái số chúng tôi nó vậy?… Tàu
phải nằm lại bến suốt một tháng. Và kéo dài một tháng trời thì sự chống chọi
trong tôi đuối dần, không còn sức nữa.
Sáu Thuỳ cũng vậy. Con gái miền Tây ghê gớm, đánh giặc dữ dằn
mà yêu thương cũng dữ dội. Chúng tôi đã đến với nhau không cưỡng lại nổi.
Thực tế đã nên vợ nên chồng. Tôi cũng không biết nếu không phải là trong
chiến tranh, trong hoàn cảnh khác yên ổn, hoà bình, thì chúng tôi có thế
không? Cũng có khi chính là cuộc chiến đấu sinh tử, đầy bất trắc mất còn đã
làm cho tình yêu càng mãnh liệt cũng nên…
Hết bão, tôi trở ra Bắc, mang theo lý lịch của Sáu Thuỳ để báo cáo
đơn vị xin cho chúng tôi chính thức xây dựng với nhau. Ngày ấy đối với
chúng tôi là phải như thế. Chúng tôi là một đơn vị đặc biệt, những người lính
đặc biệt, phải được quản lý đặc biệt. Mọi ngóc ngách trong đời sống riêng tư
đều phải được đoàn thể kiểm soát chặt chẽ. Tôi mang lý lịch Sáu Thuỳ ra
báo cáo, tổ chức đồng ý ngay.
Biển Đông cách biệt
Tưởng mọi việc êm xuôi, nhưng rồi hết trục trặc này đến trục trặc
khác, lần nào cũng gần đến phút cuối cùng mới nảy ra trục trặc, tôi lỡ hết
chuyến này tới chuyến khác, không còn có dịp nào trở lại Kiến Vàng, Cà
Mau nữa. Rồi vụ Vũng Rô, rồi bãi ngang ác nghiệt Khu 5… Thỉnh thoảng có
chuyến tàu khác vào Kiến Vàng hay có tàu từ Kiến Vàng ra Bắc, chúng tôi
vẫn thư từ cho nhau.
Thư từ thống thiết nhưng cách biệt cả một biển Đông sóng gió! Anh
em thuỷ thủ bọn tôi nhiều thằng nghịch như quỉ sứ, có lần tàu từ Kiến Vàng
ra, Sáu Thuỳ gửi cho tôi thư kèm một gói quà, dọc đường bọn quỷ sứ nắn
xem thử, thấy mềm mềm, chúng nó giở ra coi thử. Thì thấy… bà ấy gửi ra
cho tôi… mấy cái đồ lót phụ nữ kín đáo nhất của mình!… Phụ nữ miền Tây,
các anh coi, có ghê gớm không! Đã yêu thì như đám cháy lớn, muốn đốt
cháy hết cả biển Đông không chơi…
Khoảng cuối năm 1967 đầu 1968, bẵng đi một thời gian khá dài
địch đánh phá căng thẳng, tàu ta không vào được bến Kiến Vàng. Thư từ
giữa hai chúng tôi cũng đứt đoạn. Sáu Thuỳ nóng ruột như điên như dại. Cô
ấy nảy ra một ý định ghê gớm: đi tìm tôi.
Các anh nghĩ coi: đang giữa cuộc chiến tranh mênh mông, chiến
trường miền Nam đang lúc ác liệt nhất, miền Bắc lúc này cũng đang thời kỳ
chiến tranh phá hoại, bom đạn mịt mù, vậy mà một người đàn bà, một người
con gái ở tận cuối mũi Cà Mau, ở nơi chót vót tận cùng đất nước, một mình
lên đường, thân gái dặm trường, băng qua tất cả, khói lửa, đạn bom, cái chết,
dư luận, cả “kỷ luật” nữa, không cần gì hết, quyết đi tìm một người đàn ông,
một người con trai ở đâu đó tít tận đầu kia đất nước cũng đang cháy lửa
chiến tranh.
Một cuộc đi vô cùng liều lĩnh, vô cùng phiêu lưu, hầu như chẳng có
chút lôgic nào cả. Nếu có thì chỉ có một thứ lôgic: lôgic kỳ lạ của tình yêu…
Không biết các anh nghĩ thế nào, chứ riêng tôi thì tôi vẫn nghĩ có khi chính
vì có những cái lôgic kỳ lạ như vậy mà chúng ta đã đi qua được cuộc chiến
tranh chống Mỹ khủng khiếp đấy…
Chị Sáu Thuỳ lại đã lặng lẽ trở lại ngồi bên cạnh chúng tôi từ bao
giờ, im lặng, trầm tĩnh nghe câu chuyện huyền thoại về chính mình, về tình
yêu của mình, do chồng đang kể lại. Trầm tĩnh, bình lặng, như là đang nghe
kể về một ai đó khác, về một huyền thoại nào đó khác. Huyền thoại về tình
yêu của người con gái VN trong chiến tranh.
Chúng tôi trân trọng quay lại nhìn khuôn mặt chị: khuôn mặt một
người phụ nữ miền Tây Nam bộ, đã luống tuổi nhưng vẫn còn giữ nét duyên
dáng đậm đà của con gái miền Tây, một khuôn mặt hầu như chẳng có gì đặc
biệt, khác biệt, như trăm ngàn khuôn mặt các cô gái miền sông nước ta vẫn
gặp hằng ngày ở đây, phúc hậu, hiền lành, đằm thắm, thậm chí có cả một
chút cam chịu nữa, duy chỉ có ở đuôi mắt, nhìn kỹ lắm mới nhận ra, một nét
rắn rỏi và đắm đuối kín đáo và da diết…
Anh Tư Thắng:
- Các anh tính có ghê không: cuối 1967 bả quyết lên đường đi tìm
tôi. Đi tìm ở đâu?… Đi ra Bắc!…
Hàng năm ròng đi tìm anh, chị Sáu Thuỳ chuyển từ đơn vị này sang
đơn vị khác, cứ từng chặng một, để lần tìm ra Bắc. Cho đến tháng 2-1968,
một tin cơ mật lộ ra: một con tàu không số vào gần bến Cà Mau thì bị nổ
tung, tất cả đều hi sinh. Đinh ninh có anh trong chuyến đi ấy, chị Sáu Thuỳ
lên gặp cấp uỷ, đầu bịt khăn trắng xin được để tang chồng…
Nhưng lúc này tàu của anh Tư Thắng liên tục chạm địch khi đi vào
bãi ngang Khu 5. Năm 1967 phải đánh giáp lá cà trên biển, năm 1968 bị địch
chặn đánh bằng cả tàu chiến, trực thăng và xe tăng… Mãi đến đầu năm
1972, phương thức vận chuyển mới đã đưa đến một bất ngờ…
Cuộc chiến đấu đưa họ lại gần nhau
Vẫn ở cái hiên ấy của nhà anh Tư Thắng. Vẫn giọng nói hiền lành,
đều đều của anh:
- … Đúng là sau tám năm dài chúng tôi mới tìm được nhau. Nói là
“chúng tôi tìm lại nhau” thì cũng được. Nhưng có lẽ đúng hơn phải nói:
chính sự diễn biến kỳ lạ trên con đường biển Đông đã đưa chúng tôi lại đến
với nhau.
Số là thế này… Sau chuyến đi bãi ngang Đức Phổ, Quảng Ngãi thả
hàng đánh nhau phá tàu, lội ngược Trường Sơn trở ra Bắc, tôi còn tiếp tục đi
một số chuyến nữa, về Khu 5 và Nam bộ. Nhưng các anh biết đấy, ngày
càng khó khăn.
Cho đến nỗi chúng tôi thường lựa chính những lúc có sóng to bão
lớn trên biển Đông mà đi, những lúc đó địch mới sơ hở. Tàu ta do xưởng 3
Hải Phòng đóng là tàu cỡ chịu sóng cấp 5, vậy mà có lần chúng tôi đi cấp
12. Tàu vượt sóng, khắp thân tàu kêu răng rắc, có lần sập cả hầm hàng
xuống… Quyết tâm đến vậy đó, nhưng thực tế vẫn ngày càng bế tắc…
Tôi nhớ đâu đến khoảng đầu năm 1970 thì một số anh em chúng tôi
nghe phong thanh trong Nam, phía cuối Cà Mau, ngoài đơn vị 962 tức là hệ
thống bến do anh Bông Văn Dĩa phụ trách, đã có bộ phận tách ra thành lập
một đơn vị khác, lấy tên là 371 do anh Tư Mau phụ trách…
Tàu không số “ra công khai”
Đầu năm 1972, tôi bỗng bất ngờ nhận được lệnh điều về chỗ anh Tư
Mau. Bấy giờ là ở Đá Bạc, Quảng Ninh. Anh Tư Mau phổ biến nhiệm vụ:
đoàn 371 tiếp tục công cuộc vận chuyển vũ khí trên biển Đông nhưng bằng
một phương thức hoàn toàn khác, trước nay chưa bao giờ dùng: phương thức
hoạt động hợp pháp.
Tức là tất cả chúng tôi sẽ “ra công khai”, sống công khai giữa xã hội
miền Nam, trong vùng địch, với giấy tờ giả, tất nhiên, và sẽ chở vũ khí từ
Bắc vào Nam trên những chiếc tàu cũng chạy công khai, với sổ sách, hồ sơ
giả!
Những anh em chúng tôi được chọn về đây đều quê Nam bộ, phần
lớn rút từ miền Nam ra Bắc để tham gia công tác ở lữ 125 từ đầu những năm
1960, cũng có đôi người như tôi là dân tập kết. Nhưng dẫu là tập kết hay rút
ra hồi 60 thì chúng tôi đều đã có một thời gian khá dài sống ở miền Bắc, lại
ở bộ đội, quen một lối sống hoàn toàn xa và khác với lối sống trong vùng
địch chiếm, trong xã hội miền Nam.
Không ai trong chúng tôi từng có kinh nghiệm hoạt động hợp pháp
bí mật trong lòng địch. Từ tác phong, cách đi đứng, cư xử, xưng hô, ăn nói,
chào hỏi, cả đến chơi bời nữa…, tất cả đều sẽ phải thay đổi, phải học lại hết.
Chúng tôi sẽ dùng những tàu đánh cá hoàn toàn giống như tàu đánh
cá của đồng bào miền Nam lúc bấy giờ, loại nhỏ, tối đa là 50 tấn, trang bị
hoàn toàn như tàu đánh cá thật, chỉ có một chỗ khác: đáy tàu có hai lớp, giữa
hai lớp ấy chèn đầy súng đạn của hậu phương lớn miền Bắc gửi cho chiến
trường miền Nam.
Tháng 7-1972 anh Bảy Cứng đi thử chuyến đầu tiên. Trên hải phận
miền Bắc, đi ban đêm để tránh máy bay địch phát hiện nghi ngờ. Vào hải
phận miền Nam thì phải ra vẻ thật thong dong đúng y như tàu đánh cá bình
thường của dân. Đợi đến đêm, bất ngờ đâm vào bến Đầm Cùng. Thành
công!
Tôi đi tiếp chuyến thứ hai, có Tư Kỷ làm máy trưởng, Hai Hoàng,
Tám Ca và sáu anh em nữa. Chúng tôi xuất phát từ Đá Bạc, vòng qua cảng
Dinh Cơ thuộc đảo Hải Nam, Trung Quốc. Lúc này B52 đang đánh Hải
Phòng ráo riết nên ta phải xuống hàng ở Hải Nam. 1 giờ sáng thì gặp anh Tư
Mau. Chiếc anh Tư Mau đi trước, tôi theo sau, cách chỉ năm ba trăm mét.
Gần tới Vũng Tàu thì gặp một tàu lớn của địch bám theo. Anh Tư
Mau chủ động vòng tàu lại, gặp nó, trình giấy tờ đầy đủ. Nó không bắt,
nhưng cũng không cho đi, bảo cứ chờ đấy đã. Anh Tư bảo chúng tôi: phải
rất bình tĩnh. Nó chưa cho đi, ta cứ dừng lại thả lưới, coi như không có
chuyện gì. Đêm, chúng tôi cho tàu ngủ lại.
Sáng, thấy tàu địch đã hơi lảng ra xa, chúng tôi làm ra vẻ thả một
mẻ lưới. Tàu địch vẫn bám theo, mãi đến ngang Sài Gòn, nó mới chịu bỏ.
Chúng tôi tiếp tục chạy đến ngang Trà Vinh, lại gặp một chiếc FCM của
địch chặn lại xét hỏi. Anh Tư kẹp một xấp tiền vào cuốn sổ tàu đưa cho nó.
Nó gật gù, trả lại cuốn sổ tàu và cho đi. Chúng tôi về tới sông Ông Đốc. Đây
là một bến cá lớn, tàu thuyền của đồng bào và cả tàu địch rất nhiều. Chúng
tôi cứ tự nhiên vào thả neo.
6 giờ tối chúng tôi nhổ neo, chạy về Đầm Cùng (căn cứ của 371).
Chúng tôi cùng anh em bến bốc hàng, từ 8 giờ tối đến 3 giờ sáng, tất cả được
30 tấn. Cũng chính tại đây, Đầm Cùng, tôi đã gặp lại nhà tôi, Sáu Thuỳ.
Cũng là nhờ anh Tư Mau cả đấy. Con người ấy tình nghĩa vô cùng…
Hạnh phúc ở Đầm Cùng
…Phương thức hoạt động của đoàn 371 như vậy là một phương
thức rất đặc biệt, cho nên tổ chức phải rất chặt chẽ. Nguyên tắc là giữa 125,
962 và 371 phải cách biệt, không được biết đến nhau. Các bến cũng phải
chia ra, bến của 962 riêng, bến của 371 riêng, tuyệt đối không dính dáng đến
nhau về tổ chức, không được dùng chung bến.
Tôi về 371, mọi liên quan đến 962 cũng đều phải cắt hết. Còn Sáu
Thuỳ thì éo le vậy, lại ở 962.
Khi tôi về Đầm Cùng, tức là miệt rừng U Minh Thượng phía tây
mũi Cà Mau thì cô ấy lại đang ở bến Rạch Gốc chỗ anh Hai Dĩa, tức miệt
rừng U Minh Hạ bên phía đông mũi Cà Mau. Mà không hề biết tin nhau…
Nhưng có một người biết: đó là anh Tư Mau. Chỉ có anh Tư Mau
mới được quyền đôi khi qua lại quan hệ công tác với chỗ anh Hai Dĩa. Anh
Tư đã gặp Sáu Thuỳ ở đấy.
Một hôm, tôi vừa đi một chuyến chở hàng về thì anh Tư gọi lên.
Anh hỏi:
- Tao hỏi thật chuyện này nhé, mày với Sáu Thuỳ bây giờ thế nào?
Còn gắn bó với nó không? Hay mất liên lạc từ đó đến giờ, tám năm rồi, đã
gặp cô nào khác ngoài Hà Nội hay Hải Phòng?…
Tôi nói thật với anh Tư rằng quả thật tôi chẳng còn mấy hi vọng gặp
lại Sáu Thuỳ nữa. Thời gian xa cách, quả có lúc gặp người này người khác ở
ngoài Bắc, cũng toàn là những người tốt cả, có lúc tôi đã có ý định hay là
gửi gắm cuộc đời mình ở đâu đó… Nhưng rồi không được, không sao được.
Biết chuyện gặp lại Sáu Thuỳ gần như vô vọng, bây giờ làm nhiệm vụ đặc
biệt kiểu này càng vô vọng hơn, nhưng quên thì dẫu cố lắm vẫn không quên
nổi…
Anh Tư cười:
- Hay là tao điều nó về đây, muốn không?
- Nhưng cô ấy bây giờ ở đâu?
- Bên chỗ anh Hai Dĩa…
Anh Tư Mau đích thân sang bàn với anh Hai Dĩa. Sáu Thuỳ được
lệnh rời 962 đi nhận công tác khác. Lúc đầu Sáu Thuỳ không chịu đi. Vì cô
nghĩ chỉ có ở chỗ 962 may ra mới còn có ngày gặp lại tôi. Anh Hai Dĩa phải
làm dữ lắm, cuối cùng cô ấy mới chịu. Chịu mà buồn lắm.
Anh Tư Mau về báo lại với tôi. Tôi mừng quá. Và ngóng chờ.
Cho đến một bữa, tháng 9-1972, khoảng 4 giờ chiều, tôi đang ở
trong đồng thì có liên lạc chạy vô báo có cô Sáu Thuỳ đến tìm. Tôi vội chèo
xuồng ra. Thì thấy cô ấy đang đứng trong lùm chuối chỗ anh Tư Mau nhìn
ra. Anh Tư Mau không hề nói trước với cô ấy tôi ở đây, đến đây sẽ gặp tôi.
Tôi vứt mái chèo, nhảy phóc lên bờ, chạy lên. Nhưng tôi chợt dừng lại. Tám
năm. Tôi đã già đi nhiều. Đen cháy. Râu ria xồm xoàm. Liệu cô ấy có còn
nhận ra?
… Nhưng mà cô ấy nhận ra ngay.
Con gái miền Tây ghê gớm lắm nghe các anh, dám ôm hôn bừa vậy
giữa đồng trống, người ta đầy bốn chung quanh…
Đêm đó chúng tôi ở với nhau. Hai ngày sau anh Tư Mau và anh
Năm Rẫy bấy giờ là chỉ huy phó tổ chức đám cưới cho chúng tôi. Đoàn 962
gửi cho 1.000 đồng tiền nguỵ. Bên này các anh cho 1.500 đồng.
Các anh bố trí cho vợ chồng chúng tôi một căn nhà hạnh phúc. Đó
là căn lều của bộ phận cơ yếu, trong một lùm chuối. Chúng tôi sống với
nhau được 15 ngày. Rồi tôi đưa Thuỳ về cơ quan của cô ấy tức bộ phận y tế
ở hố Rạch Già. Còn tôi thì trở về bến của tôi ở hố Lồng Đèn.
Thỉnh thoảng một, hai tuần Thuỳ lại xin phép sang thăm tôi, một
mình chèo xuồng, gặp nước xuôi phải chèo từ sáng sớm, chiều mới đến nơi.
Gặp nước ngược thì nửa đêm mới đến. Mà có ở với nhau được nhiều đâu,
một đêm, nửa đêm. Rồi cô ấy lại một mình chèo về. Mà biệt kích lội rừng thì
nhan nhản. Mỗi lần tiễn cô ấy ra về, tôi lại thấp thỏm suốt ngày, chỉ sợ bất
thần nghe một loạt súng nổ ở đâu đó, trên các kênh rạch chằng chịt trong
rừng…
Ít lâu sau cô ấy có thai. Và chúng tôi có đứa con trai đầu lòng, đặt
tên là Nam. Hôm cô ấy sinh, tôi băng rừng đi thăm, rồi lại lội bộ băng rừng
suốt ba tiếng đồng hồ trở về để kịp đi một chuyến công tác khẩn.
Trong câu chuyện của mình, anh Tư Thắng nhắc đến nhiều người,
nhiều hi sinh thầm lặng mà không kể ra thì anh không thể yên lòng. Như câu
chuyện về cô bác sĩ trẻ ấy. Anh Thắng chỉ biết chị tên là Thuỳ Trâm người
Hà Nội, chị chỉ huy bệnh xá huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi, chị giấu đi một
nỗi đau riêng và trụ bám “gan lì đến kỳ lạ, kỳ quặc suốt chục năm trời trên
vùng đất hẹp bị đánh nát như băm ấy”, cho đến ngày chị hi sinh…
Có cố gắng đến mấy thì mãi mãi vẫn còn những người anh hùng vô
danh thôi! Người trong cuộc chiến đấu ngày ấy còn nói vậy thì người hôm
nay biết tìm họ ở đâu?
Cuộc sống đã quên và đang tiếp tục lãng quên… Bởi thế câu chuyện
về một hòn đảo mang tên một người anh hùng là một câu chuyện hiếm hoi lạ
lùng… Anh Tư Thắng bảo, bây giờ may ra chỉ còn một người sống sót để kể
lại.
Sự tích đảo Phan Vinh
Vẫn là mặt biển xanh mênh mông, phẳng lì ấy. Nhìn kỹ lắm, mãi
mới nhận ra, trên sợi chỉ tít tắp chân trời, một vệt nhỏ nhô lên khỏi mặt nước
mong manh như một vệt móng tay.
Chong mắt nhìn thật kỹ nữa, hoá ra cái vệt móng tay mong manh
trên đường chân trời ấy là một hòn đảo. Một hòn đảo san hô, nhỏ xíu giữa
đại dương mênh mông, một hòn đảo đang hình thành, chưa hình thành xong,
lúc triều lên thì biến mất dưới mặt nước, lúc triều thấp lại nhô lên… Một
chút Tổ quốc ở nơi xa xôi. Một đảo nhỏ, trong số những đảo nhỏ nhất của
quần đảo Trường Sa.
Hòn đảo bé tẹo ấy có tên là đảo Phan Vinh. Trên tấm hải đồ lưu giữ
ở phòng tham mưu lữ đoàn hải quân 125 có ghi tên đảo ấy.
Trong số hàng nghìn, hay bao nhiêu nghìn hòn đảo lớn nhỏ ở nước
ta, có lẽ đây là hòn đảo duy nhất mang tên họ một con người. Theo chỗ
chúng tôi dò tìm, hỏi han kỹ nhiều nơi, không có một quyết định nào của
một cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặt tên như vậy cho hòn đảo này cả.
Thì ra trong đời sống hiện đại của chúng ta, các truyền thuyết vẫn
tiếp tục ra đời và tồn tại. Và cũng như tự ngàn xưa, truyền thuyết là do nhân
dân vô danh sáng tạo ra. Các truyền thuyết bao giờ cũng khuyết danh. Tên
Phan Vinh được đặt cho hòn đảo nhỏ trong dải Trường Sa phảng phất một
không khí truyền thuyết.
Tác giả của nó là những người lính bí mật trên con đường biển
Đông. Một người nào đó, trên một chuyến đi biển xa nào đó, có thể là một
chuyến đi bến Rạch Gốc, Kiến Vàng, Sông Đốc, Gành Hào Cà Mau, nhưng
lại phải đi vòng vo đến tận sát Philippines, Sumatra, Singapore, Malaysia…
đã ghé qua hòn đảo nhỏ chơ vơ hoang vắng này. Và nhớ bạn, anh lấy tên
người bạn đã hi sinh mà gọi thành tên đảo…
Rồi người ta truyền nhau, người này truyền người kia, và cái cách
gọi tình cờ nhưng sâu lắng của người lính biển nọ cứ đi vào lòng người, in
sâu ở đấy, ngày càng sâu, không gì xoá đi được nữa.
Nhưng trong số những chiến sĩ biển Đông đã hi sinh trong cuộc
chiến đấu bí mật trên con đường mòn kỳ lạ này thời chống Mỹ, còn có hàng
trăm người khác mà có lẽ sự nghiệp và hành vi anh hùng chẳng hề thua kém,
sao chỉ có tên một người đã trở thành tên một hòn đảo của Tổ quốc? Hẳn
con người này phải có điều gì để được đọng lại sâu hơn cả, đậm hơn cả, sắc
hơn cả trong tâm trí mọi người…
Người hôm nay còn có thể nói với chúng ta về Phan Vinh - theo lời
chỉ dẫn của anh Tư Thắng - là Nguyễn Long An, chúng tôi đã tìm gặp được
anh ở Hải Phòng…
Nguyễn Long An kể:
Một chân dung phác thảo
Đúng như các anh nói, ở đơn vị chúng tôi trong cuộc chiến đấu biển
Đông thời ấy không thiếu gì những người anh hùng. Nhưng nếu được phép
chỉ chọn một người mà tất cả chúng tôi cảm phục nhất, tôn trọng nhất, lại
yêu quí gần gũi nhất thì tôi chắc ai cũng sẽ chọn anh Phan Vinh.
Anh ấy dũng cảm vô song, tất nhiên rồi, tài năng nữa, tất nhiên rồi,
nhưng có lẽ điều này đối với tất cả chúng tôi còn ấn tượng đậm hơn: đó là
một con người vô cùng hào hiệp, một cách hết sức tự nhiên, như là trời sinh
ra vốn vậy, không hề cố tình, cố gắng, sắp đặt, suy tính. Tôi không biết diễn
đạt thế nào nữa. Thôi, chỉ xin nói thế này: gặp một người chỉ huy như vậy,
lập tức thấy mình có thể giao phó cả sinh mệnh của mình cho anh ấy không
chút phân vân. Gặp một người bạn như vậy có thể yên tâm suốt đời…
Cũng có thể nói anh Phan Vinh có một tính cách đặc biệt mạnh mẽ,
rõ rệt: bao giờ cũng hết mình. Chơi thì chơi hết mình, làm việc hết mình, đối
với bạn hết mình, chiến đấu hết mình, mà trong công tác lại hết sức nghiêm
khắc, lại đẹp trai, thông minh.
Anh ấy quê Điện Bàn, Quảng Nam. Tham gia công tác từ năm 16
tuổi, làm liên lạc cho huyện uỷ… Năm tôi được gặp anh, anh khoảng 30. Tôi
có một may mắn lớn: vào lính, được gặp ngay một người chỉ huy là anh. Tôi
thuộc lớp chiến sĩ quê miền Bắc, tức là lớp lính nghĩa vụ quân sự đầu tiên
được bổ sung về 125.
Lớp chúng tôi có học hành khá, nhưng kinh nghiệm từng trải thì
hoàn toàn chưa có chút gì. Chuyến đầu tiên tôi đi tàu 43, làm báo vụ, vào Cà
Mau. Máy bay, tàu chiến địch bám riết, hoang mang thì tôi không đến nỗi
hoang mang, nhưng rất lúng túng. Nhờ các anh đi trước chỉ vẽ ân cần.
Chuyến thứ hai của tôi chính là chuyến Vũng Rô.
Rồi đến chuyến tàu 235 do anh Phan Vinh chỉ huy đi bến Hòn Hèo,
Hòn Khói, Khánh Hoà, đúng dịp tổng tấn công Mậu Thân.
Bước vào trận đánh lớn
Anh Phan Vinh là người được giao điều khiển chiếc tàu cao tốc đầu
tiên do Trung Quốc viện trợ. Thuỷ thủ đoàn được thành lập gồm 21 người
tuyển chọn từ các đơn vị về. Kéo sang Trung Quốc học một thời gian, anh
Vinh học rất xuất sắc, cán bộ hải quân Trung Quốc cũng phải phục. Xong lại
kéo về VN, cải dạng tàu thành tàu đánh cá gần giống như tàu đánh cá của
Nhật, sơn trắng.
Đơn vị còn được bổ sung thêm ba đồng chí ở lữ 126 tức đặc công
nước, chúng tôi học cả kỹ thuật đặc công đánh nhau dưới nước, và cả kỹ
thuật bộ binh đánh nhau trên bờ. Đặc biệt, tôi chú ý trong suốt thời gian
chuẩn bị, anh Vinh có ý thức tạo cho thuỷ thủ đoàn 21 người chúng tôi gắn
bó với nhau như một gia đình, mà anh Vinh là người anh lớn.
Sau này tôi mới hiểu điều ấy cần thiết cho chúng tôi biết chừng nào;
khi lâm vào hoàn cảnh chiến đấu quyết liệt, mất còn, chúng tôi đã thành một
tập thể thật sự ruột thịt.
Đúng Tết Mậu Thân chúng tôi nhận nhiệm vụ, và cho cơ động tàu
sang một bến của Trung Quốc gần biên giới ta, cho tàu ta cập lẫn với một số
tàu cao tốc của Trung Quốc để đánh lạc hướng máy bay trinh sát Mỹ.
Ngày 10-2-1968 chúng tôi lên đường. Nhưng đến cách bờ biển
Khánh Hoà khoảng trên 10 hải lý, nhận được điện từ chỉ huy sở ở Thuỷ
Nguyên báo đã lộ, phải quay về bến Hải Khẩu, Trung Quốc.
Ngày 27-2 lại lên đường.
Theo dõi tình hình địch, chúng tôi nhận thấy lần này chúng hành
động có khác. Máy bay trinh sát chúng bay rất cao, ngày bốn hay năm lần, từ
phía Philippines hay Guam sang và quay trở lại. Tàu chiến Mỹ không bám
theo ta liên tục mà cứ độ tám tiếng đồng hồ mới đảo qua một lần trước mũi
tàu ta, nhưng không chạy gần.
22 giờ đêm 27-2 anh Vinh quyết định từ ngoài khơi xa cho tàu mở
tốc lực đâm thẳng vào hải phận miền Nam. 23 giờ thì bắt được đảo Hòn Tre.
Thấy rõ tám tàu địch giăng thành hai tuyến trong và ngoài. Nhìn thấy cả đèn
điện thành phố Nha Trang sáng trưng. Anh Vinh cho tàu lách qua hàng tàu
địch ngăn chặn, đâm vào bến. Rất đúng bến Hòn Hèo. Mười hai giờ khuya,
chúng tôi bắt đầu thả hàng. Thả được tất cả 30 tấn, phần lớn là súng và đạn
B40, B41. Tất cả anh em trên tàu đều lao vào thả hàng, cố gắng thả cho được
thật nhiều.
Lúc này anh Vinh nói:
- Ta len vào đến đây, tàu địch đã giăng hai lớp sau lưng rồi, phải nói
thật điều này: khả năng tàu ta thoát ra khơi được rất ít. Chắc đến 90% là phải
chiến đấu. Có thể hi sinh lớn, nhưng lúc này chiến trường đang tổng tấn
công, cần súng đạn hơn bao giờ hết. Ta thả được càng nhiều hàng cho anh
em trong này càng quí…
Đến 1g sáng thả hàng xong. Chúng tôi điện báo kết quả về sở chỉ
huy lữ đoàn và nhận ngay được điện của anh Phúc chính uỷ:
“Lữ đoàn biểu dương các đồng chí đã hoàn thành nhiệm vụ xuất
sắc. Chờ các đồng chí trở ra an toàn thắng lợi”.
Một lát sau lại nhận được điện lữ đoàn thông báo tàu anh Tư Thắng
ở Quảng Ngãi và tàu anh Ba Râu ở Trà Vinh đang bị địch đánh.
Anh Phan Vinh bảo:
- Ta cũng sẵn sàng đi thôi.
Chúng tôi bắt đầu quay tàu ra. Biển ở đây luồng lạch rất ác, có một
rạch sâu bề ngang đúng 40m, chỉ cần lệch một chút là tàu cưỡi lên bãi san hô
ngay. Hai chiếc tàu địch đã án ngữ ngay giữa luồng.
Anh Vinh hét lệnh chiến đấu. Vừa nổ súng vừa tiến. Chuyến này tôi
đứng máy số một. Nghe lệnh anh Vinh, tôi vừa đẩy cần ly hợp tiến thì nghe
toàn tàu rung lên dữ dội. Địch tập trung bắn ngay vào khoang máy quyết liệt.
Trên boong, ta cũng nổ tất cả các cỡ súng… Mười phút, máy tàu ta tê liệt.
Anh Trương Văn Mùi, máy trưởng, đứng cạnh tôi, bị trúng một viên đạn vào
ngực, hi sinh ngay, ngã vào cần gạt, khiến tàu dạt luôn vào bờ.
Các tàu địch áp lại, lúc này có đến hàng chục chiếc. Đánh nhau suốt
một tiếng đồng hồ.
Lúc luyện tập ở nhà, anh Vinh đã dự kiến mấy phương án: thả hàng
xong là cơ bản hoàn thành nhiệm vụ rồi, nếu sau đó lộ, bắt buộc phải chiến
đấu, không ra khơi được thì cho tàu lao vào quân cảng của địch ở Nha
Trang, cho nổ tàu phá tung cảng. Hoặc không vào được cảng thì đâm thẳng
tàu ta vào một tàu địch to nhất, nổ tàu, phá tan tàu địch và hi sinh…
Nhưng bây giờ những phương án ấy không còn thực hiện được nữa:
máy tàu đã bị tê liệt, tàu không còn cơ động được. Chỉ còn một phương án
cuối cùng: phá tàu, rút lên bờ chiến đấu.
Cuộc chiến đấu cuối cùng của người anh hùng
Lúc này ở dưới khoang máy chỉ còn tôi (Nguyễn Long An) và anh
Thứ, người Hải Dương, cũng là thợ máy. Sau một tiếng đồng hồ chiến đấu,
bây giờ nghe súng đã lặng đi.
Thứ đã bị thương ở tay, tôi băng cho Thứ, nghe xương cánh tay anh
lạo xạo. Tôi cũng bị thương ở chân, cũng chưa kịp sờ kỹ xem vết thương cụ
thể thế nào, nhìn xuống chỉ thấy máu bê bết, cứ tạm buộc túm ở đùi.
Phá tàu
Tôi bảo Thứ:
- Nếu anh em đã hi sinh hết, thì nhiệm vụ phá tàu chỉ còn anh với
tôi. Chúng ta đã thề trên tàu còn một người còn hơi thở thì quyết không để
tàu sa vào tay địch.
Bộc phá đặt ở khoang mũi và khoang lái. Thứ giữ tay cho tôi đu
người xuống khoang mũi, ở đấy có một khối bộc phá 800 kilô. Tôi quyết
định bấm kíp hẹn giờ 1 tiếng. Tính như vậy lúc lên boong tìm thấy anh em
nào bị thương, sống sót, có thể đưa anh em ra khỏi tàu trước khi tàu nổ.
Kíp hẹn giờ, chiếc đồng hồ nhỏ xíu, tôi bấm rồi, rất lạ, bốn bề ầm ĩ -
lúc này không nghe súng ta bắn nữa nhưng địch vẫn bắn - vậy mà tôi nghe
rõ tiếng tích tắc… Vừa xong thì thấy anh Vinh từ trên đài chỉ huy xuống.
Anh Vinh bị thương, băng trắng toát cả đầu.
Anh bảo anh em ta chưa có nhiều kinh nghiệm chiến đấu nên tổn
thất nhiều. Tôi báo cáo đã bấm kíp nổ khối bộc phá 800 kilô. Anh bảo:
“Được”. Rồi tự tay anh đi đặt tiếp 12 kíp nổ nữa. Anh bảo: “Cho chắc chắn”.
Anh Vinh rất lạ, tình hình đến nước này mà tôi thấy anh vẫn bình tĩnh như
không. Anh đi thu dọn gọn gàng mọi thứ, đốt hết giấy tờ, tài liệu.
Rồi tất cả chúng tôi lên boong và lần lượt rời tàu. Lúc này bọn địch
đã hơi dãn ra xa. Chắc chúng sợ ta cho nổ tàu thì chúng cũng tiêu. Chúng tôi
lợi dụng tình hình đó dìu nhau bơi vào bờ. Vừa chạm chân đến chỗ cạn thì
khối bộc phá đầu tiên nổ. Tan khói, quay lại nhìn kỹ, thấy đuôi tàu vẫn nổi.
Tôi nằm chờ đến 30 phút nữa, thật ra lúc này rất lo, nếu khối bộc
phá còn lại bị tịt ngòi thì tôi phải làm cách sao đây bơi trở ra tàu, dùng ngòi
nổ khác quyết phá cho nổ kỳ hết. Ba mươi phút sau thì khối bộc phá cuối
cùng nổ. Toàn bộ tàu hoàn toàn biến mất. Anh em chúng tôi lên bờ.
Giữa vòng vây của địch
Đến 6 giờ sáng thì nghe ầm ầm, rồi chỉ một lúc đầy trời trực thăng.
Chúng bắt đầu đổ quân. Bây giờ đang mùa khô, cả đảo chỉ độc một loại cây
gai lúp xúp, lá rụng hết, còn trơ gai cằn cỗi. Mới tảng sáng trời đã nắng chói
chang. Chúng tôi phải bứt cỏ che bớt lưỡi lê súng cho đỡ sáng và bố trí
phòng ngự vòng tròn. Ước lượng địch khoảng hơn 2 tiểu đoàn, toàn bọn
Nam Triều Tiên.
Lúc đầu tôi nghĩ thế trận của anh em chúng tôi như thế này là chỉ
còn một nước tử chiến và tất sẽ hi sinh hết: chúng tôi chỉ một nhúm người ở
giữa, địch vây kín bốn bề. Chúng tôi chiếm được đỉnh đồi, có ưu thế hơn,
nên có thể kéo dài cầm cự, nhưng cũng chỉ là kéo dài thôi chứ không hi vọng
gì thoát được vòng vây.
Nhưng một lát sau thì bỗng phát hiện một tình huống bất ngờ: bên
trái chúng tôi, cách không xa, chợt nghe tiếng AK nổ. Đúng là anh Phan
Vinh rồi. Tiếng súng sắc gọn, dứt khoát, từng loạt rất ngắn, có khi chỉ điểm
xạ từng viên một, đanh, ác, quyết liệt. Anh Phan Vinh đánh giặc từ năm 13
tuổi, trưởng thành từ vùng địch hậu nổi tiếng Điện Bàn, Quảng Nam.
Nhạy cảm quân sự của anh rất tinh, sắc. Nghe tiếng súng từ sáng
đến giờ, tuy không nhìn thấy nhưng anh đã nhận định bộ phận anh em chúng
tôi do anh Nhi (thuyền phó) chỉ huy đang trụ trên đỉnh đồi. Vậy anh và anh
Thứ, cả hai đều đã bị thương nhưng vẫn còn sức chiến đấu, sẽ tạo thành một
mũi bên sườn phối hợp cùng chúng tôi và thế trận sẽ trở nên khác hẳn.
Nhờ có hai mũi hỗ trợ nhau như vậy chúng tôi trụ suốt được một
ngày. Đêm, lợi dụng pháo sáng, chúng tôi tìm cách luồn qua vòng vây địch.
Bọn địch đóng rất dày, hầm hố đào chằng chịt, chỉ cách nhau 5-7m một hố…
Đến khoảng 10 giờ đêm thì chúng tôi chuyển sang được một đồi khác, cách
chừng 100m.
Chúng tôi cứ lần về hướng tây mà đi, di chuyển hết sức chậm vì tất
cả đều bị thương, địch thì lùng sục ráo riết. Tuyệt không còn gì ăn. Mấy
ngày đầu đói ghê gớm nhưng rồi cũng lạ, cái ăn tự nó dần dần không đòi hỏi
nữa, chỉ có cái khát hành hạ. Phải tự uống nước giải của chính mình… Đến
ngày thứ bảy, thật ra chúng tôi mới di chuyển được 600 hay 700m, lại chạm
địch, đánh nhau một trận. Rồi lui được lên một ngọn đồi có đá.
Bấy giờ cậu Khung, Mai Văn Khung, người quê Thái Bình, chiến sĩ
hàng hải, khát quá không chịu nổi nữa, tự đái ra mà uống, nhưng rặn mãi
cũng không còn giọt nào. Khung xin mò xuống suối tìm nước. Nghe có tiếng
nước róc rách thật, càng kích thích cái khát dữ dội. Khung vừa đi được
khoảng 30m thì nghe súng nổ. Chạm địch rồi! Tôi ôm súng lao xuống cố
cứu Khung. Tôi bắn liền mấy loạt, ném cả lựu đạn nữa, nhưng khi bò xuống
đến nơi thì không còn thấy dấu vết gì nữa. Khung đã bị địch bắt!
Bọn địch bắt được Khung, đoán được hướng đi của ta nên lại ráo
riết tổ chức tấn công truy đuổi. Anh Nhi bảo:
- Tình thế này ta ở lại đây là sẽ bị huỷ diệt hết. Bây giờ giao đồng
chí An làm đoàn trưởng dẫn anh em tiếp tục đi tìm liên lạc với địa phương.
Còn tôi ở lại đây, bám tình hình và nếu địch đuổi theo thì sẽ cố đánh chặn.
Chúng tôi đành chia tay anh Nhi ra đi. Tôi lục lọi khắp các túi, tất
cả “gia tài” chỉ còn mấy viên vitamin B1 đưa lại cho anh Nhi…
Chúng tôi lại lần mò đi, quanh quẩn suốt ba ngày đêm. Hòn Hèo là
bán đảo, nên loay hoay thế nào một đêm lại ra sát mép biển và lần qua một
hòn đảo nhỏ khác.
Ngày thứ 10 chúng tôi nằm giữa một bãi cát chơi vơi, thế nào lại
đúng một ổ kiến đỏ. May quá, tôi đã nghe các anh lớn phổ biến kinh nghiệm
cứ bắt luôn kiến mà ăn, nhai rau ráu, không ngờ tỉnh ra. Đêm lại mò xuống
mép biển bắt được mấy con ốc, đập ra ăn sống…
Ngày thứ 11 vẫn không thấy tăm hơi anh em địa phương. Thỉnh
thoảng nghe súng nổ đâu đó, không xa. Tôi bảo:
- Chỗ nào địch nổ súng, tức là ở đó có lực lượng ta. Ta cứ hướng
súng nổ mà đi, nhất định sẽ tìm ra.
Anh em đồng ý. Chúng tôi đi, đến khoảng 3 hay 4 giờ chiều thì thấy
một bóng người ngoài mép biển, ở khu vực về sau này mới biết là xã Ninh
Diêm.
Tôi cho anh em dừng lại, bố trí sẵn sàng yểm trợ, còn tôi một mình
mò xuống. Tôi bảo Tuyến, chiến sĩ hàng hải, và Mai, chiến sĩ điện công: nếu
là địch, chúng bắt tôi thì cứ bắn bừa vào. Diệt được địch cho anh em thoát,
tôi có hi sinh còn hơn bị bắt.
Xuống đến gần, thấy rõ một người đàn ông mặc quần áo bà ba. Anh
ta hoảng hốt bỏ chạy. Tôi phải ra oai, kéo cò, doạ. Rồi hô ám hiệu. Anh ta
trả lời đúng. Hỏi ra, anh ta thuộc lực lượng an ninh huyện.
Tôi gọi tất cả anh em xuống. Anh ta cho chúng tôi mỗi người mấy
quả ổi. Anh em các bộ phận của huyện đóng bí mật rải rác ở vùng núi Hòn
Hèo, Hòn Khói này cũng rất đói, toàn phải ăn rau rừng. Anh này đang đi tìm
hái ổi rừng ăn trừ bữa thì gặp chúng tôi. Anh em chúng tôi nhịn đói cả chục
ngày rồi, bây giờ ăn ổi vào té re gần chết…
Chúng tôi về chỗ cơ quan an ninh huyện, rồi từ đó bắt được liên lạc
với bộ phận bến do anh Kiến phụ trách. Mới biết 12 ngày nay các đồng chí ở
bến cũng toả đi tìm chúng tôi mà không gặp.
Tôi cùng các đồng chí ở bến trở lại những ngọn đồi mấy hôm trước
để tìm các đồng chí còn thiếu. Trở lại chỗ anh Nhi thấy súng ống bị đập phá
tan tành nhưng không tìm được anh Nhi. Đi một đoạn xa nữa thì tìm thấy
xác anh Phan Vinh và anh Thứ.
Quanh chỗ anh Vinh nằm rất nhiều dấu vết bông băng đỏ thấm máu
khô và súng đạn của bọn Nam Triều Tiêu vỡ nát. Còn anh Vinh, nhìn tư thế,
có thể đoán ra anh đã đánh đến viên đạn cuối cùng, và anh đã rút chốt quả
lựu đạn cuối cùng để bọn giặc xô lại định bắt sống thì thả cần nổ lựu đạn,
diệt địch và hi sinh…
Chúng tôi chôn cất các anh ngay tại chỗ. Núi đá, nhưng chúng tôi
cố đào thật sâu. Và trên mỗi nấm mộ cắm một tấm bia nhỏ ghi tên tuổi quê
quán từng người. Những anh em miền Nam thì ghi quê hương thật. Còn anh
em miền Bắc thì ghi quê hương kết nghĩa…
Chỗ anh Vinh nằm, trên đồi cao, nhìn thẳng ra biển Đông…
***
Nguyễn Long An nói: “Trận ấy chúng tôi hi sinh 12 đồng chí, mất
tích một và bị địch bắt một”.
Có một câu hỏi: “Có đắt quá không? Một sự hi sinh quá lớn như
vậy, để thả được chừng 30 tấn súng đạn xuống biển, rồi về sau anh em ở bến
mò vớt lên chừng được một nửa, mươi, mươi lăm tấn?”.
Các anh ạ, những câu hỏi như vậy chỉ đặt ra sau chiến tranh khi mọi
sự đã yên bình, và chúng ta có thể ngồi với nhau bình tĩnh, thong thả, bên
mâm rượu thế này… Còn ngày ấy đối với chúng ta, đối với chúng tôi, tôi
nhớ không có câu hỏi ấy. Đối với anh Phan Vinh không có câu hỏi ấy…
Sau cơn mưa trời lại sáng
Vậy là đã hết phần trích đăng bút ký “Có một con đường mòn trên
biển Đông” của nhà văn Nguyên Ngọc trên báo tuổi trẻ, báo đăng 13 kỳ. Bác
nào có đầy đủ số hoá lên www.quansuvn.net đi.
Hồi trước nghe đọc truyện đêm khuya của Đài TNVN, họ đọc
truyện “Biển gọi” của (tự nhiên quên mất tên tác giả, bác nào nhớ bổ sung
cho em phát, hình như là Hồ Phương), viết về đoàn tàu không số, hay phết.
Bác nào còn sách cũ số hoá luôn đê. Đã để ý đi lùng tìm cuốn này
trong các quán sách cũ mà không thấy.
Tàu 198 do thuyền trưởng Vũ Tấn Ích và chính trị viên Huỳnh
Ngọc Trạch chỉ huy. Tàu xuất phát ngày 6 tháng 7 năm 1967. Đêm 14 tháng
7, tàu 198 gặp máy bay và tàu chiến địch bao vây. Tàu 198 đánh trả và cơ
động vào bến Ba Làng An (Quảng Ngãi).
Song do không tổ chức huỷ tàu được nên bị địch lấy nguyên tàu.
Anh em lên bờ, đi bộ ra miền Bắc. Trong trận này, chính trị viên Huỳnh
Ngọc Trạch và phó thuyền trưởng Phạm Chuyên Nghiệp hy sinh. Đây là nỗi
đau nhức nhối của Đoàn 125 trên con đường vận chuyển vũ khí vào Nam.
Sau này, Đảng uỷ đoàn và cán bộ tàu 198 đã kiểm điểm sâu sắc sự việc này.
Hành trình của tàu 198 (theo tài liệu Mỹ)
Một số hình ảnh (nguồn: pcf45.com)
Tàu 198 sau khi bị bắt giữ
Vũ khí bị tịch thu:
- 3 đại liên 12,7mm (.50 cal).
- 975 súng trường AK-44 (chắc là K-44).
- 189 súng trường tự động AK-56 (chắc AK Tàu).
- 25 súng chống tăng B-40.
- 9 trung liên K-53.
- Hơn 700.000 viên đạn bộ binh.
- Hơn 5.000 viên đạn 12,7mm.
- 996 viên đạn cối 82mm.
- 6 viên đạn ĐKZ 57mm.
- 213 viên đạn B-40.
- 1.960 mìn chống bộ binh.
- 1.250 lựu đạn.
- 484 thủ pháo.
- Hơn 4,5 tấn thuốc nổ C4 và TNT.
- Nhiều kíp nổ, ngòi nổ, pin…
Trước hết tôi xin kính cẩn nghiêng mình trước anh linh các Anh
hùng, liệt sĩ.
Xin kính chào các anh, các chị, đồng đội và các bạn
Trong những năm kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, chúng ta
thường nghe thấy hai câu nói: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” và “Rạch
Biển Đông cứu lấy sơn hà”. Câu đầu chủ yếu nói về Đoàn 559 - Đường Hồ
Chí Minh trên Trường Sơn, Đơn vị Anh hùng LLVTND. Còn câu sau chủ
yếu nói về Đoàn 125 - Đường Hồ Chí Minh trên biển, Đơn vị hai lần Anh
hùng LLVTND. Những năm gần đây, câu “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu
nước” vẫn thường được nhắc nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng,
nhưng câu thứ hai thì rất ít khi được nhắc đến nữa.
Tối qua (25/6/2009) Ban Liên lạc Hội truyền thống đường Hồ Chí
Minh trên biển thành phố Hà Nội chúng tôi có cuộc gặp gỡ rất vui vẻ và đầy
cảm động với người anh, người đồng đội Hồ Đắc Thạnh mà tên tuổi của anh
gắn liền với địa danh Vũng Rô lịch sử. Chúng tôi có nói đến việc chuẩn bị
các hoạt động kỉ niêm 50 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển vào
dịp tháng 10/2011, chúng tôi thấy cần phải mở topic này để các CCB đoàn
tàu không số cả nước, cùng các bác trong QSVN và những ai quan tâm hoặc
có kỉ niệm gì về con đường huyền thoại này có điều kiện trao đổi thông tin
với nhau.
Rất mong nhận được sự tham gia nhiệt tình của các bác, các anh,
các chị và toàn thể các bạn
“Tàu không số” là một câu chuyện đặc biệt xếp vào hàng trở thành
huyền thoại. Diễn đàn ta giờ có một nhân vật từ huyền thoại bước ra.
Phúc lắm, phúc lắm thay!
Hai năm trong HQ chắc là bác tau khong so sẽ có rất nhiều chuyện
về các trận chiến của HQ. Em chỉ biết về đoàn tàu không số qua các tác
phẩm văn học và sách báo, giờ có bác trong diễn đàn bọn em sẽ biết được
nhiều hơn qua câu chuyện kể của bác. Em mong bác khỏe và thường xuyên
vào diễn đàn
Tôi với anh sẽ đưa các câu chuyện huyền thoại của các bác cựu
TKS lên QSVN để mọi người biết đến những chiến công thầm lặng, sự hy
sinh cao cả, cả sự mất mát thiệt thòi đáng buồn của những thuỷ thủ tàu
không số mà trước kia do lý do phải giữ bí mật không được phép nói ra lên
chương mục này. Tạm biêt - Tàu không số
Trích lịch sử đoàn 125 HQ - TKS
Theo chỉ thị của Bộ Chính trị, tháng 5 năm 1959, Tổng Quân uỷ
quyết định lập một cơ quan nghiên cứu mở đường vận tải trên bộ để đưa lực
lượng, vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Tháng 7 năm 1959,
Tổng Quân uỷ quyết định tổ chức đường vận tải trên biển. Đây là một trong
những nhiệm vụ lớn đầu tiên, có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp đấu
tranh giải phóng miền Nam
Bắt đầu từ đây, xuất hiện những con tàu không số (Tàu không số:
Thực ra tàu nào cũng có số, nhưng khi vào chiến trường, để giữ bí mật, đã
xoá hết dấu vết, không mang số. Mọi thứ mang theo như đường, đồ hộp,
sữa, thuốc lá, xà phòng… đều không có nhãn, đều không có số và vì vậy mọi
người quen gọi là “tàu không số”) lúc ẩn, lúc hiện như thần thoại, tiếp tế
được nhiều vũ khí cho chiến trường. Và bắt đầu tử đây, lịch sử dân tộc lại
ghi thêm một nét độc đáo, sáng tạo trong cuộc chiến tranh nhân dân thần
thánh chống đế quốc Mỹ, giải phóng đất nước: đường Hồ Chí Minh trên
biển. Cùng với con đường bộ xuyên Trường Sơn, con đường thuỷ xuyên
Biển Đông đã góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc. “
Trước khi nhổ neo lên đường đều phải đề ra các phương án (đây là
một ví dụ)
- Thứ nhất, nếu đưa được hàng vào bến an toàn, sẽ tìm cách huỷ tàu
và đi theo đường bộ để trở lại đơn vị.
- Thứ hai, nếu lạc đường, lạc hướng thì thả hàng xuống biển để giữ
bí mật con đường vận tải biển. Trường hợp bị địch bắt, cho nổ mìn phá
thuyền.
Đêm đầu, thuyền chạy thẳng ra vùng biển quốc tế với ý định tứ đó
sẽ đi dần vào chân đèo Hải Vân. Ngày hôm sau gió to, sóng lớn, thuyền có
nguy cơ bị lật. Sáu người cố chèo chống nhưng thuyền cứ dạt mãi về phía
Nam. Đã vậy lại gẫy mất một lái. Với đà này, chưa rõ thuyền sẽ trôi về đâu.
Hồi kháng chiến 9 năm, đã có thuyền vận chuyển theo phương thức này trôi
dạt sang Philippin. Đến ngày thứ 3, thuyền lạc vào Cù Lao Ré, tức đảo Lý
Sơn (Quảng Ngãi). Mọi người định cho thuyên ngược lên thì tay lái còn lại
gẫy nốt. Gió bắt đầu lặng. Tàu tuần tiễu và tàu đánh cá của dân ra biển đông.
Loay hoay ở đây sẽ lộ Thuyền trưởng Nguyễn Bất quyết định, để giữ ý đồ
chiến lược con đường vận chuyển trên biển, phải phi tang hàng theo phương
án đã định. Năm tấn súng đạn và thuốc men được anh em lần lượt thả xuống
biển. Mọi người tiếc đến chảy nước mắt, nhưng không còn sự lựa chọn nào
khác. Chiều hôm đó, 6 thuỷ thủ trên thuyền bị bắt. Tuy có giấy tờ làm ăn
hợp pháp do tổ chức lo và khai rất khớp rằng đi đánh cá bị lạc, song địch vẫn
tách ra, giam mỗi người một nơi. Đầu tiên họ bị giam ở Đà Nẵng, rồi bị chia
ra, có người bị giải về Sài Gòn, có người bị giam ở Phú Lợi, có người bị đầy
đi Côn Đảo. Sáu người đi trên chuyến thuyền, 5 người lần lượt hy sinh hoặc
mất do bệnh tật, chỉ có anh Huỳnh Ba, năm 1974 còn sống trở về (Hiện nay
đồng chí Huỳnh Bá đang sinh sống tại quê hương ở Nam Ô - Đà Nẵng).
Chào cả nhà. Tôi xin mượn lời nhà văn Nguyên Ngọc qua đoạn
trích dưới đây từ cuốn sách của ông viết về Đoàn tàu không số, về Đường
Hồ Chí Minh trên biển để nói lên suy nghĩ và mong muốn của các CCB Tàu
không số chúng tôi:
“Mặt biển xanh, bao la, phẳng lì. Đường chân trời tít tắp như một
sợi chỉ. Nhìn kĩ lắm, mãi mới nhận ra, trên sợi chỉ tít tắp chân trời ấy, một
hòn đảo nhỏ xíu, gợn lên trên mặt nước như một thoáng vệt móng tay mờ…
Đây là câu chuyện về một con đường.
Chúng ta đang đi tìm một con đường.
Con đường ư? Trên trái đất này, ai đếm hết được những con đường.
Hàng ức, hàng triệu, hàng tỉ.
Một nhà văn lớn, cũng là nhà tư tưởng lớn có nói: “Người đi trên
mặt đất thì thành đường”. Rất đúng!…Nhưng còn người đi trên biển, trên
mặt nước xanh phẳng lì đang trải ra trước mắt kia? Biển không để lại dấu
vết, không để lại đường mòn. Biển xoá tất cả. Chỉ còn lại mặt nước mênh
mông, phẳng lì, bí mật, câm lặng. Mãi mãi câm lặng.
Câu chuyện của chúng ta hôm nay là câu chuyện về một con đường
như thế, ngày xưa hoàn toàn câm lặng, hôm nay vẫn còn câm lặng, và rồi
chắc sẽ mãi mãi ngày càng chìm sâu vào câm lặng, đến vĩnh hằng, ngày
càng chìm sâu vào phẳng lì của biển và phẳng lì của thời gian.
Nếu chúng ta không đánh thức nó dậy, không cố cùng nhau lần tìm
ra nó, trong thăm thẳm của biển, của thời gian và của kí ức biết ơn.
Con đường ấy là như vậy đó, con đường bí mật xuyên Biển Đông
vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam thời chiến tranh chống Mĩ…
Cũng có thể ngày ấy, cũng như chúng tôi những người lính ở chiến
trường, bạn ít nhiều cũng đã nghe đến con đường này rồi, một cách mơ hồ,
phong thanh, như một truyền thuyết, nửa thực nửa hư, nửa tin nửa ngờ.
Cuộc đi này cũng có thể coi như là cuộc đi tìm xác minh một truyền
thuyết.
Bạn có muốn đi cùng với chúng tôi không?
Nào, xin mời, ta lên đường”
Cái này em đã post tại Topic Kỷ vật các chiến sỹ trong KCCM
http://www.quansuvn.net/index.php?topic=5149.0
Tiếp về 1 chuyến tàu của Đoàn tàu không số (Lữ đoàn 125 Hải
Quân) vận chuyển vũ khí cho miền Nam, không may bị địch phát hiện và
đánh chìm.
Diễn biến như sau:
Vào ngày 16/2/1965, phi công trực thăng Mỹ bay dọc theo bờ biển
Nam Việt Nam đã phát hiện ra 1 con tàu lạ, là tàu vận tải, tải trọng cỡ 100
tấn, được che phủ rất cẩn thận ngoài khơi tỉnh Phú Yên. Máy bay chiến đấu
đã tiếp cận con tàu và đã bị súng máy bắn lên từ bong tàu và từ trên bờ. Lực
lượng không quân VNCH đã tấn công con tàu, đồng thời binh lính VNCH
cũng được điều đến khu vực. Họ đã tiêu diệt con tàu sau khi có sự chống trả
nhỏ từ phía con tàu.
Con tàu đã bị chìm ở vùng nước nông. Tài liệu tìm thấy trên tàu và
trên thân thể của 1 vài lính Bắc Việt trên tàu đã xác định con tàu đến từ Bắc
Việt Nam. Tờ báo tìm thấy trên cabin nguồn gốc từ Hải Phòng và đề ngày
23/1/1965. Khoảng 100 tấn vũ khí đã được tìm thấy gần tàu, gồm:
- Khoảng 1 triệu viên đạn súng bộ binh
- Hơn 1000 lựu đạn
- Khoảng 250 kg thuốc nổ TNT
- 2000 viên đạn súng cối 82mm
- 500 lựu đạn chống tăng (đạn B40?)
- 500 viên đạn DKZ 57
- Hơn 1000 viên đạn DKZ 75
- 1 DKZ 57
- 2 trọng liên
- 2000 súng Mauser 7.95 mm
- Hơn 100 carbin 7.62 mm
- 1000 súng tiểu liên
- 15 súng trung liên
- 500 súng trường
- Khoảng 250 kg dụng cụ y tế (Mang nhãn hiệu từ Bắc Việt, Trung
Cộng, Tiệp Khắc, Đông Đức, Liên Xô và các nước khác).
Đây là ảnh tàu, vị trí bị đắm:
Sổ Sức khỏe của 1 chiến sỹ đã hy sinh trên tàu:
(Trong 1 tài liệu khác mang cùng tên, thể hiện Quân đội Nhân dân
VN cho phép thượng sỹ (Segt?) Nguyen Hoang Long được rời Hải Phòng
vào tháng 11/1964)
Hải đồ tìm thấy trên con tàu:
Các giấy tờ tìm thấy trên thân thể quân nhân Nguyễn Hoàng Long:
Giấy nghỉ phép của quân nhân Nguyễn Hoàng Long. Phần đầu tài
liệu cho thấy quân nhân này thuộc đơn vị 1270 Quân đội nhân dân Việt
Nam. Nguyễn Hoàng Long đã rời Hải Phòng từ khoảng 19/9 đến 25/9/1965.
Phía dưới là 1 trang từ giấy tờ ghi chép của Đảng Cộng sản của
trung sỹ Nguyễn Hoàng Long, chứng tỏ là quân nhân của Sư đoàn 338. Một
chú thích khác “làm nhiệm vụ tại phương xa - on mission in distant areas”,
cách diễn đạt sử dụng tại Hà Nội nghĩa là Nam Việt Nam.

Ảnh trên là nhãn tìm thấy trên 1 trong số nhiều hộp hàng quân sự
tìm thấy tại vị trí tàu chìm, chứng tỏ nguồn cung cấp là Hà Nội.
Ảnh dưới là 1 phần tài liệu thu được trên tàu, cho thấy nó thuộc về
Cơ quan chỉ huy Hải quân Bắc Việt, đoàn 125. Nó chú thích K35, có thể là
số hiệu của con tàu hoặc đơn vị này.
Tàu không số ngày ấy được trang bị hoả lực cũng đủ mạnh: Tàu cao
tốc (tốc độ cao 20- 25 mil/giờ), giả dạng tàu chở hàng, có 2 cabine thì được
trang bị 3 khẩu súng máy 14li 2 nòng, ngoài ra còn có hoả tiễn vác vai, súng
DKZ và súng AK cá nhân. Đặc biệt lượng chất nỗ TNT thì khá nhiều, để khi
cần lao thẳng tàu ta vào tàu giặc, rồi chập giây điện cho cả khối thuốc nổ,
tiêu diệt luôn cả tàu đối phương. Thế đấy các bạn trẻ. Hẹn dịp sau tôi sẽ kể
nhiều hơn. Chào các bạn!

Năm chiến sĩ còn lại trong trận chiến đấu năm 1968 của tàu 235 tại
vùng biển Hòn Hèo (Nha Trang): Lê Duy Mai, Hà Minh Thật, Nguyễn Long
An, Nguyễn Văn Phong, Lâm Quang Tuyến - Ảnh tư liệu
Điều không lý giải được
Cho đến bây giờ tôi vẫn chưa lý giải được về sự sống của 17 cán bộ,
thuỷ thủ trên con tàu không số (TKS) mang mật danh 56 trong đêm Tết Mậu
Thân 1968, cách đây 41 năm?
Đó là điều hết sức ngạc nhiên, bởi đêm đó có rất nhiềuc tàu chiến
Mỹ, nguỵ đồng loạt bật đèn pha cực mạnh, đồng loạt nổ súng và đồng loạt
triển khai đội hình vòng vây TKS 56!. Và, hình như đêm giao thừa ấy chúng
đói khát lắm, nên tàu nào cũng muốn chạy hết tốc lực để được đến nuốt “con
mồi” sớm nhất…
Nhưng để thoát được những phút giây căng thẳng đó; để không chết
trong đêm Tết ấy, trước hết chúng tôi rất biết ơn người chính trị viên (CTV)
có cái tên cứng như hòn sỏi: Đỗ Như Sạn, anh là lính hai thời kỳ chống Pháp
và chống Mỹ, hiện về hưu hưởng lương thiếu tá ở quê: Thiệu Sơn, Thiệu
Hoá, (Thanh Hoá).
Đêm chết chóc
Tàu không số “56” là một trong 4 con tàu nhận nhiệm vụ chở vũ khí
vào tiếp tế cho quân và dân miền Nam trong dịp tết Mậu Thân 1968. Bến
vào của tàu 56 là cửa biển Lộ Giao (Bình Định). Đêm ấy gió mùa nỗi lên rất
to, sóng bạc đầu phủ trắng xoá mặt biển. Con tàu 56 chẳng khác nào chiếc
võ tre bấp bênh trong dòng nước xoáy. Nhưng đã quá quen với điều kiện tác
chiến nên các thuỷ thủ ai nấy đều kiên định vững vàng, sẵn sàng chiến đấu
nếu địch phát hiện ra vị trí thả hàng của ta (phương châm vào các bến Khu
5: hàng được thả xuống toạ độ, sau đó du kích đưa thuyền đánh cá ra vớt chở
vào bờ)). Tàu 56 vẫn thẳng hướng bến Lộ Giao, và theo như lời thuyền
trưởng Nguyễn Văn Ba, còn có biệt danh Ba Râu (anh nhiều râu nên anh em
thường gọi Ba Râu, nay đã mất vì bệnh hiểm nghèo) nếu không có gì cản trở
thì tàu 56 sẽ vào bến trả hàng đúng giờ “G”. Nhưng thật bất ngờ, tàu đang
ngon trớn và chỉ cách điểm thả hàng chừng 25 hải lý, thì trước hướng tiến
của tàu xuất hiện những ánh đèn pha cực mạnh quét tới. Ban chỉ huy hội ý
chớp nhoáng và quyết định cho tàu quay sang hướng khác; nhưng hướng
khác cũng bị chúng nó chặn; lại một hướng khác nữa…cũng không tránh
khỏi những con mắt cú võ…
- Tàu ta đã lọt vào vòng vây của chúng- thuyền trưởng nói.
- Ta phải hết sức bình tỉnh- CTV nhắc nhở.
- Hành động đối phó? thuyền truởng hỏi ban chỉ huy:
- Nếu chúng nó cố tình bắn tiêu diệt? ta đánh trả quyết liệt!
Những con tàu chiến Mĩ, nguỵ ngày một đến gần, nhiều ánh đèn
pha cực mạnh như muốn khoét sâu vào các khoang hàng xem “tàu đánh cá”
chở những gì?
Trước tình huống bất ngờ ấy, Thuyền trưởng Nguyễn Văn Ba nói
như hét với các cán bộ, thuỷ thủ: “Chuẩn bị chiến đấu!” Thực thi lệnh của
chỉ huy, các vị trí khẩn trương tra kíp nổ vào các khối thuốc TNT, các quả
bom chìm, khói mù và triển khai các khẩu súng: ĐKZ, B40, hoả tiển vác vai,
lựu đạn chống tăng…sẵn sàng chờ lệnh! Tôi và hàng hải số 2 Hồ Văn Kiêm
(nay là Đại tá, Lữ Đoàn trưởng TKS-đã nghỉ hưu) dưới sự chỉ huy của thuỷ
thủ trưởng Nguyễn Văn Hoa, nhanh chóng hoàn tất mọi công việc và chỉ chờ
lệnh điểm hoả!
Những khẩu pháo 14 ly 5, pháo 37 ly của địch không ngừng khạc ra
những hòn đạn đỏ quạch tuôn tới tấp đến tàu 56. Nhưng phần nhiều chúng
bắn vòng cầu chứ không bắn thẳng vào mục tiêu nên tàu 56 vẫn “sống”
khoẻ. Ngoài tiếng súng, những ánh đèn pha cực mạnh mỏng, sắc như lưỡi
gươm; cũng có thể ví như những tia chớp thè cái lưởi dài thật dẽ sợ. Tất cả,
tất cả những thứ vũ khí đó, nó đều tập trung đến tàu 56.
Mặc! Tàu 56 vẫn kiên định lập trường thi gan với chúng. Đạn từ
những con tàu Tuần dương lại tuôn xối xã đến tàu ta, nhiều thuỷ đã bị
thương, y tá Trần Văn Việt không quản nguy hiểm chạy đến các vị trí băng
bó, cầm máu cho từng người. Thuyền trưởng Ba nhìn xuống mặt boong thấy
một số thuỷ thủ áo quần đã thấm máu, anh bặm môi, tay dơ cao định chém
xuống và hô…bắn! Nhưng CTV Đỗ Như Sạn đã kịp giữ tay thuyền trưởng
lại, nói như thét:
- Khoan! Anh Ba!
- Hãy chờ thêm ít phút!
- Đợi đến bao giờ nữa?
- Nó chưa chủ trương bắn tiêu diệt ta!
- Sao đồng chí biết?
- Nếu nó bắn tiêu diệt, thì chúng đã bắn ngay loạt đạn đầu!
- Thế CTV để anh em bị thương bao nhiêu người nữa? CTV Sạn
chùng giọng: “Tôi biết anh rất thương đồng đội. Nhưng nhiệm vụ của ta
không lấy chiến đấu làm chính, mà là mưu mẹo đánh lừa địch, giữ bí mật
đến cùng con đường vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam”! Lại
những quả đạn pháo 57 ly bắn đến tàu 56. Do cự li quá gần nên tiếng nổ đã
kích nổi tàu 56 lên khỏi mặt nước, khiến cho cả khối thép uốn mình run bần
bật theo vòng xoáy của chân vịt. Nguy cơ các khối bộc phá có thể tự kích nổ
như một số tàu đã gặp! CTV Đỗ Như Sạn đề nghị với ban chỉ huy, là cho các
vị trí rút kíp nổ ra khỏi các khối thuốc.Tàu địch lại bắn rát hơn.CTV Đỗ Như
Sạn lại trấn an: “Các đồng chí cứ bình tỉnh, nó bắn chưa chắc đã trúng, trúng
chưa chắc đã chết!” Chúng tôi ai nấy như được tiếp thêm sức mạnh nên
vững tin hơn. Đêm càng về khuya trời càng lạnh, sóng gió càng lớn khiến ai
nấy run cầm cập, một số anh em yếu sóng nôn thốc nôn tháo.Tôi nhìn qua
CTV Sạn thấy anh ói ra nước vàng, tự dưng nước mắt tôi chảy ra… Lại một
chiếc Tuần dương nữa đến gần. Đêm tối chúng tôi nhìn nó như hòn đảo trôi,
chạy cắt ngang hướng tiến tàu 56. Thuyền trưởng Ba thấy “ngon ăn” bèn nói
với chiến sỹ hàng hải Phạm Phong Đê (anh đã hy sinh 1972), là cho máy
tăng hết tốc độ lao thẳng vào nó! Nhưng CTV Đỗ Như Sạn đã kịp ngăn
lại…Chúng lại tiếp tục bắn uy hiếp và đánh tín hiệu hỏi tàu ta mang quốc
tịch nước nào? Chạy từ đâu tới? Chở hàng gì? Bắt ta phải dừng máy để
chúng sang kiểm tra?…CTV Đỗ Như Sạn nói dứt khoát với báo vụ số 1:
Nghuyễn Văn Nghiệp, là không được trả lời! Nếu trả lời thì nó sẽ truy tận
gốc, trốc tận rễ, rồi vô tình ta tự bạch với nó là “con ở bụi này”…
Nhưng các thuỷ thủ đều nghĩ, sớm muộn gì thì cũng đánh nhau!
Cũng hy sinh thôi, bởi chúng đã bắt quả tang tàu “đánh cá” của ta đã vào sâu
trong bến Lộ Giao- vùng quản lý của quân giải phóng. Thế nhưng CTV Sạn,
với phương châm còn đánh lừa được địch thì còn thi gan, đấu trí với nó. Một
số thuỷ thủ lại trúng đạn thù nhưng chưa nặng, còn chiến đấu tốt. Tâm lý lúc
này ai cũng muốn được nổ súng, ai cũng muốn được làm nên một phút huy
hoàng trước khi chết. Nhưng đối với CTV Đỗ Như Sạn, thì anh cho cái chết
lúc này chưa cần thiết; bởi nhiệm vụ chi viện vũ khí cho miền Nam đang cần
đến những con người và những con tàu… Mặt khác nói đến cái chết sợ anh
em hoang mang ảnh hưởng đến sức chiến đấu, nên anh giữ bí mật cả những
cái túi nilon (quan tài lính TKS) mang theo chuyến này; đến cả những bức
điện từ căn cứ gữi đến thông báo về chiến sự của các tàu: T235 vào bến
Vũng Rô, T165 vào bến Vàm Lũng (Cà Mau) và T43 vào bến Đức Phổ
(Quảng Ngãi) đã bị định bắn chìm, có tàu đã hy sinh không còn một ai…
Dẫu biết ngàn cân treo sợi tóc, sự sống của con tàu và 17 thuyền
viên rất mong manh, nhưng CTV Sạn vẫn đặt nềm tin vào thắng lợi! Nếu
thắng được trận này- anh nghĩ, ta sẽ rút ra được bài học “ứng xử trên biển
đông” cho các con tàu trong đơn vị, lấy đó làm phương châm hành động.cho
những chuyến đi sau “Sự kiện Vũng Rô-1968”, mà anh em hay nói đùa:
“một đi không trở lại”…
Trời càng sáng dần, tàu địch đã bớt hung hăng, thuyền trưởng Ba
cho tàu ta quay ra biển đông, đi hướng 90 độ. Theo sự chỉ đạo của Căn cứ và
đối sách của cấp uỷ tàu: Khẩn trương kéo những tấm lưới đánh cá phủ lên
các khẩu pháo, phủ kín các hầm hàng; đồng thời cho thuỷ thủ lấy những con
cá gỗ ra móc lên các mảng lưới để đánh lừa địch.Các thuỷ thủ còn kéo lá cờ
“mặt trời” của Nhật lên trên cột cao nhất..Làm xong mọi công việc nghi
trang thì trời sáng bảnh. Lúc này bầy tàu chiến đã tản bớt, chỉ con 3 tàu Tuần
dương, sơn màu ghi xán, to như những hòn đảo nổi, và ba chiếc máy bay
đen sì của Hạm đội 7 Mĩ vẫn bám theo “con mồi”; nếu bây giờ trí óc tôi
không lẫn, thì các con tàu đó có số hiệu: 2882, 2884 và 2886: (qua bài viết
này, những người lính Mĩ nếu có điều kiện và còn sống, thì xin liên hệ gặp
lại nhau cho vui- N.V).
Theo chỉ đảo của căn cứ, tàu 56 vẫn tiếp tục chạy ra biển đông mà
hướng đến là đảo Ô-Ki-Na-Oa Nhật Bản. Tuy thế 3 tàu Tuần dương và mấy
chiếc máy bay Mĩ vẫn đeo bám dai như đỉa đói, làm cho những chiến binh
trên những chiến hạm đó chừng như đã quá mệt mỏi, nên các pháo thủ đều
nằm gục lên bệ pháo, chẳng thèm nhìn ngó đến tàu chúng tôi. Dẫu thế, các
thuỷ thủ của ta vẫn đề cao cảnh giác: vừa thả câu, vừa vá lưới và luôn
thường trực bên các khẩu pháo để khi cần là nổ súng…
Hết một đêm căng thẳng, đến một ngày sóng gió phủ phàng, tàu 56
vẫn vững vàng hành tiến. Lại một ngày đêm nữa trôi qua. Rồi một ngày đêm
nữa…Đến sáng ngày thứ tư, khi tàu 56 sắp vào vùng biển Nhật Bản, thì 3
con tàu Tuần dương và mấy chiếc phi cơ chiến đấu Mĩ mới từ bỏ hẳn con
mồi.
Từ ngày thứ tư trở đi, chúng tôi ai nấy thở phào nhẹ nhỏm, bởi đã
thoát được cái chết. Tàu 56 lại quay hướng về căn cứ mang theo 17 thuỷ thủ,
tuy có bị thương nhưng sức khoẻ vẫn còn có khả năng nhận nhiệm vụ đi
tiếp…
Khúc hồi tưởng
Thấm thoát từ cái đêm không chết ấy đến hôm nay đã 41 năm, 17
cán bộ chiến sĩ trên con TKS 56 ngày đó, và các năm sau này… nhiều người
đã hy sinh; nhiều người đã mất vì tuổi già, và nhiều người cũng đã qua đời
vì bệnh hiểm nghèo… Số sống đến giờ chỉ đếm được trên đầu ngón tay,
nhưng mà cuộc sống của “lính không số” thì quá ư gian nan và thiệt thòi.
CTV Đỗ Như Sạn của tôi cũng không ngoài sự truân chuyên vất vã đó: Anh
lên bờ (1975) với quân hàm đại uý, trên điều động về làm chính uỷ trường kĩ
thuật Cát Lái, trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân. Đến đầu thập niên những
năm 1980: khi “phong trào bằng cấp nước ngoài” thịnh hành, thì anh được
trên cho về nghỉ chế độ hưu ở quê nhà, quân hàm hưởng lương tương đương
thiếu tá. Sau bao nhiêu năm biền biệt xa quê, xa gia đình vợ con nay mới
được về đoàn tụ. Nhưng nỗi mừng vui vừa chớm khoé miệng thì đã vội tắt:
Người vợ thân yêu của anh lâm bệnh nặng và đã qua đời ngay trong năm đó.
Thế là cảnh “gà trống nuôi con” trong những năm kinh tế ngặt nghèo, khiến
cho thể xác anh teo tóp, đôi mắt anh mờ đục, hai tai anh nghểnh
ngãng…Tuy vậy nhưng với cái khí chất của người CTV có bản lĩnh vững
vàng, anh đã giữ vững tay lái cho con “ thuyền gia đình” vượt lên tất cả…
Với tôi: nỗi thương nhớ, sự kính phục và cả sự biết ơn người CTV
Đỗ Như Sạn thì không bao giờ quên được! Nhờ có anh “giữ vựng ngọn cờ “
mà anh em chúng tôi thoát được cái chết trong đêm Tết ấy. Thế nhưng nhớ
anh để mà nhớ, thương anh để mà thương chứ giúp anh về kinh tế thì chúng
tôi cũng không hơn gì đại uý Đỗ Như Sạn:
“Chín năm kháng chiến gian lao,
Hai mốt năm đánh Mĩ bốn sao gạch dài,
Về quê cày cuốc miệt mài,
Vẫn nghe tiếng sóng bên tai thì thầm”…
Sông Hồng: một chiều giông 7. 2009
(Trần Hậu Vệ CCB tàu KS)
Sau mười năm báo tử
(VOV) - Đã có một buổi lễ truy điệu dành cho anh và đồng đội, khi
đơn vị được tin con tàu đã anh dũng đối đầu với Hạm đội 7 của Mỹ và hy
sinh trên vùng biển Cà Mau cuối trời Tổ quốc.
Bằn bặt tin tức, giữa những mất mát khốc liệt của cuộc chiến tranh,
đơn vị, gia đình, người thân đều chẳng còn chút hy vọng nào nữa. Nhưng
một chiều mùa thu của hơn mười năm sau trận đánh ấy, anh đột ngột trở
về…
Thầy giáo trẻ và lá đơn viết bằng máu
Năm 1964, trong không khí sục sôi đánh Mỹ, xếp lại những trang
giáo án chứa chan bầu nhiệt huyết, tạm biệt giảng đường, mái trường Đại
học Hàng hải mến thương, cất sâu vào trong tim mối tình đầu vừa chớm
nở…, thầy giáo trẻ Lê Xuân Khảm tình nguyện vào chiến trường. Với lá đơn
ghi bằng máu của mình, anh được về với những con tàu không số huyền
thoại, tham gia vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam,
bằng đường Hồ Chí Minh bí mật trên biển Đông.
Trong chuyến đi thứ 3 của mình, cũng là chuyến đi “định mệnh” lần
ấy, từ tàu 121, Lê Xuân Khảm được bổ sung về tàu số 69, làm nhiệm vụ đưa
vũ khí vào Khu 9 (Cà Mau) trong vai trò thợ máy. Tàu 69 được cải dạng là
tàu nghiên cứu khoa học biển của nước ngoài, trên tàu được “trang bị các
loại máy móc, thiết bị rất hiện đại” nhưng thực tế trên tàu chỉ có một máy
chính và một số dụng cụ hàng hải thô sơ như thước đo độ góc (xích-tăng), la
bàn… Vượt qua mấy ngàn hải lý trong sóng gió của thời tiết xấu và tránh
địch, tàu 69 đã vào bến an toàn. Khi giao hàng xong, tàu quay ra gần đến
Côn Đảo thì bất ngờ bị địch phát hiện và tấn công.
Trận đánh không cân sức giữa một bên là Hạm đội 7 của Mỹ được
trang bị lực lượng hùng hậu và vũ khí tối tân với một bên là tàu Không số
quân số ít, vũ khí thô sơ. Dù vậy cán bộ, chiến sĩ trên tàu vẫn bám trụ, chiến
đấu kiên cường, sẵn sàng hy sinh cùng con tàu chứ nhất quyết không để tàu
rơi vào tay địch, không thể để lộ bí mật con đường trên biển…
Sau mấy ngày đêm cầm cự quần nhau với địch, người bị thương
thay thế vị trí người hy sinh, đến đêm ngày 1/1/1967, tàu 69 chạy vào được
cửa sông Vàm Lũng (Cà Mau) thì thoát khỏi vòng vây của địch. Anh em
trên tàu hy sinh và mất tích gần hết, con tàu bị hư hỏng nặng, không đủ sức
quay về Bắc được nữa.
Lê Xuân Khảm cùng số chiến sĩ còn lại của tàu 69 gia nhập vào đơn
vị quân giải phóng, tham gia chiến đấu trên chiến trường U Minh. Chiến
tranh, điều kiện thông tin liên lạc khó khăn, chiến trường lại nằm giữa rừng
tràm mênh mông, cho nên anh Khảm “bặt vô âm tín” với đơn vị cũ và gia
đình từ đó.
Ai cũng buộc phải tin rằng anh và đồng đội đã hy sinh cùng con tàu.
Đơn vị cũ làm lễ truy điệu và gửi tư trang còn lại của anh về cho gia đình.
Người cha già run run lần giở chiếc ba lô của con trai, nước mắt ông
lặng lẽ rơi xuống chiếc áo bộ đội bạc màu, sờn rách. Ông cảm nhận được từ
chiếc áo hơi ấm quen thuộc của đứa con trai thân yêu, nó đang thật gần mà
cũng thật xa vời. Ông nghĩ, đơn vị đã gửi tư trang về cho gia đình, thế cũng
có nghĩa là con trai của mình không bao giờ còn trở lại nữa. Ông lặng lẽ thắp
nén hương lên bàn thờ và lầm rầm cầu khấn, mong tổ tiên phù hộ cho đứa
con trai ông được thanh thản ở nơi chiến trường xa.
Người con gái anh yêu trước khi ra chiến trường đã trở thành cô
giáo, sau nhiều năm khắc khoải chờ đợi mà vẫn bặt tin người yêu, cũng đành
chôn chặt vào tim những kỉ niệm của mối tình đầu để đi tìm bến bờ hạnh
phúc mới.
Nước mắt ngày trở về
Ngày 30/4/1975 lịch sử, dõi nhìn theo bóng những người con của
xóm làng may mắn trở về từ chiến trường mà không thấy đứa con trai yêu
quý của mình, lòng cha mẹ Lê Xuân Khảm thêm héo hắt.
Thế rồi, có ai ngờ, một buổi chiều cuối thu năm ấy, anh đã trở về.
Anh trở về sau mười năm mất tích, trong nỗi mừng vui, sung sướng khôn
xiết của người thân. Người mẹ già cứ sờ nắn những vết thương chằng chịt
trên khuôn mặt, trên cơ thể con trai mà khóc như chưa bao giờ được khóc,
bởi lâu nay bà chỉ dám khóc và gọi tên anh trong những đêm mơ. Bà khóc
rồi bà lại cười, bởi con trai bà đây, bằng xương bằng thịt, chững chạc trong
bộ quân phục màu xanh. Người mẹ còn tự hào hơn nữa khi giờ đây con trai
mình đã là thiếu tá, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn Sông Hồng anh hùng.
Rồi, hạnh phúc đã mỉm cười với anh khi anh bén duyên với một cô
giáo trường làng, là bạn thân của cô em gái. Một đám cưới đơn sơ mà ngập
tràn hạnh phúc được tổ chức nơi quê nhà, năm ấy chú rể 39 tuổi. Sau ngày
vui hạnh phúc, để lại người vợ trẻ nơi quê nhà, anh lên đường trở về đơn vị
rồi tiếp tục sang chiến trường Campuchia làm nhiệm vụ quốc tế, với những
trận đánh mới mà sự khốc liệt cũng không kém.
Từ Mekong đến Phnompenh
Đó là trận đánh quyết định, tấn công vào thành phố Phnompenh
đêm mùng 7 tháng Giêng năm 1979. Sau nhiều ngày tấn công tại hướng chủ
yếu Tây Ninh, Quân đoàn 4 của ta với sự yểm trợ của không quân, hải quân,
thiết giáp, trong đó đặc biệt có sự góp sức của Tiểu đoàn Sông Hồng, do
Tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Khảm chỉ huy đã đánh bật quân Khmer Đỏ khỏi
các vị trí trọng yếu dọc theo tỉnh lộ 13. Sau khi đã làm chủ được sông
Mekong, thừa thắng, quân ta đánh thẳng vào giải phóng thủ đô Phnompenh,
giúp giải thoát nhân dân Campuchia khỏi sự đàn áp của quân Khmer Đỏ.
Trong hồi ký của mình, Thượng tướng Hoàng Cầm nhận định: “Nếu không
có sự hỗ trợ của Hải quân thì Quân đoàn 4 không thể tiến nhanh vào giải
phóng Phnompenh như thế…” Nhận định của Thượng tướng Hoàng Cầm đã
khẳng định vai trò to lớn của lực lượng hải quân, trong đó có sự góp công
của Tiểu đoàn Sông Hồng với người chỉ huy tài ba Lê Xuân Khảm. Hoàn
thành nghĩa vụ quốc tế, Tiểu đoàn Sông Hồng hành quân từ miền Tây Nam
bộ ra miền Bắc để nhận nhiệm vụ mới tại Thủ đô Hà Nội.
Trải qua gần 20 năm lăn lộn khắp các chiến trường vào Nam ra Bắc,
nhiều lần đối mặt với cái chết trong gang tấc, đã từng “được làm lễ truy điệu
sống”, Tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Khảm lại trở về với mái trường ĐH Hàng
hải thân yêu. Với nhiệm vụ là trợ lý hiệu trưởng, dù sức khoẻ không cho
phép ông trực tiếp đứng trên bục giảng nữa nhưng tấm lòng, tình thương yêu
của người thầy, người chiến sỹ trong ông vẫn luôn hướng về học sinh.
Tôi gặp thầy giáo - Tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Khảm trong dịp ông
cùng đồng đội trở lại thăm chiến trường xưa tại đất mũi Cà Mau. Ông xúc
động chỉ cho chúng tôi biết nơi con tàu 69 của ông nằm lại ngày ấy, cửa
sông Vàm Lũng như một chứng tích vẫn còn đây mà đồng đội của ông giờ
đang ở nơi nào…! Chúng tôi cùng thầy Khảm thắp nén hương thơm, thả
cánh hoa tươi xuống dòng sông cửa biển để tưởng nhớ những người đã hy
sinh, những người đã hiến dâng máu xương của mình cho ngày độc lập. Tình
yêu biển của ông mãi còn được thắp sáng bởi hai người con trai của ông -
hai người thuyền trưởng của những con tàu lớn, hiện đại hôm nay đang giữ
gìn và nối tiếp truyền thống anh dũng của cha ông./.
Việt Anh (Theo TNVN)
(Báo “Đất Mũi online”)
______________________
Cái chết của một người anh hùng Đoàn tàu không số
8:30, 29/07/2009

Anh hùng - Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu.


Người dẫn dắt chúng tôi vào "câu chuyện cổ tích" ấy chính là con
trai cả của Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu. Trong căn phòng nhỏ nằm sâu trong
một ngõ vắng trên đường Cát Bi, đã khuya lắm rồi, anh thong thả kể cho
chúng tôi nghe những kỷ niệm về người cha. Nguyễn Đình Phương - tên anh
- đêm nay dường như không thể ngủ. Niềm xúc động vừa tìm được hài cốt
người cha sau 37 năm hy sinh ngập tràn trong ánh mắt, trong giọng kể của
Phương.
Thật lạ. Mãi tới những ngày đi viết phóng sự này, tôi mới tìm được
câu trả lời cho một băn khoăn của chính mình sau rất nhiều năm tháng, rằng
vì sao cuộc Chiến tranh Vệ quốc của dân tộc ta lại được gọi là một cuộc
CHIẾN TRANH THẦN THÁNH. Hóa ra rất giản dị, bởi chỉ có những con
người với "trái tim như ngọc sáng ngời", chỉ có những VỊ THÁNH "quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh" - chỉ có họ mới có thể viết nên trang sử vàng chói
lọi và làm nên chiến thắng lẫy lừng của cuộc chiến tranh giải phóng 30 năm
ròng rã ấy.
Một trong những con người đó, một trong những VỊ THÁNH đó là
nhân vật chính của câu chuyện mà tôi sẽ kể dưới đây. Ông là Anh hùng -
Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu, Chính trị viên của Đoàn tàu không số.
Đêm nghe chuyện kể của con trai người liệt sĩ
Bạn tôi, vốn là lính thông tin Sư đoàn 324 thời đánh Mỹ, cứ réo rắt
"phôn" suốt cả tuần, cứ nằng nặc gọi tôi xuống ngay Hải Phòng, để cùng
chia sẻ với gia đình người bạn ông dưới đó một niềm vui, một nỗi xúc động
vô bờ bến. Số là gia đình người bạn đó hôm cuối tháng 3/2009 vừa tìm được
hài cốt của người chồng, người cha mình là Anh hùng LLVTND-Liệt sĩ
Nguyễn Văn Hiệu. "Đây là người liệt sĩ duy nhất cho tới nay tìm được hài
cốt trong tổng số 97 liệt sĩ của Đoàn tàu không số hy sinh thời chống Mỹ" -
ông bạn tôi nhấn mạnh qua điện thoại.
Nắng nóng là thế suốt cả tháng 6, suốt cả tuần qua, thế mà buổi
chiều hôm đi Hải Phòng ấy, bỗng mưa rào ào ạt. Đường 5 có những lúc nhòe
đi trong mưa. Cái gạt nước làm việc không ngưng nghỉ một phút nào suốt cả
trăm cây số từ Hà Nội xuống. Bù lại là mát mẻ. Bù lại là bụi bặm rác rưởi
được giũ sạch.

Một trong những chiếc tàu không số trên đường vận chuyển vũ khí
vào chiến trường miền Nam. (Ảnh do hải quân Mỹ chụp).
Xuống tới đất Cảng đã là xẩm tối. Phố xá Hải Phòng sạch tinh khôi.
Dưới ánh đèn cao áp trắng xanh, dưới sắc phượng vĩ sau mưa thắm đỏ như
hồng ngọc, lối xóm Hải An chợt như chìm trong huyền ảo. Và trong cái
không khí đầy thanh tịnh tinh khiết ấy, tôi được đắm chìm vào câu chuyện
về người Anh hùng - Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu - một "câu chuyện cổ tích"
của thời chống Mỹ, mới đây thôi mà sao có lúc như là xa xôi lắm?
Người dẫn dắt chúng tôi vào "câu chuyện cổ tích" ấy chính là con
trai cả của Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu. Trong căn phòng nhỏ nằm sâu trong
một ngõ vắng trên đường Cát Bi, đã khuya lắm rồi, anh thong thả kể cho
chúng tôi nghe những kỷ niệm về người cha. Nguyễn Đình Phương - tên anh
- đêm nay dường như không thể ngủ. Niềm xúc động vừa tìm được hài cốt
người cha sau 37 năm hy sinh ngập tràn trong ánh mắt, trong giọng kể của
Phương.
Kỷ niệm những ngày ấu thơ bên cha ùa về, như ngọn gió lành từ
biển ngoài kia đêm đêm lại mơn man thổi vào đất liền, khiến cho người đàn
ông 51 tuổi đời này dường như trở lại những ngày tuổi 14 - ngày cha anh ra
khơi và mãi mãi không về.
Phương sinh năm 1958, học hết phổ thông là đi học Công an, rồi
làm lính trinh sát, rồi cán bộ điều tra, và bây giờ là Thượng tá, Phó trưởng
Công an quận Hải An, thành phố Hải Phòng. Suốt gần 40 năm qua, dù bận
rộn học hành, dù vất vả công tác, dù hiểm nguy đấu tranh phòng chống tội
phạm, nhưng trong sâu thẳm trái tim Phương vẫn khôn nguôi một ước
nguyện thiêng liêng: làm sao tìm được hài cốt của người cha đã hy sinh trên
biển năm 1972, tháng 4 ngày 24. Đấy cũng là một khát vọng có lúc đã lạnh
ngắt vô vọng trong đáy lòng người mẹ già và 3 đứa em Phương sau bao
kiếm tìm non nửa thế kỷ.
"Cha tôi sinh năm 1932, quê xã Thăng Phương, huyện Thăng Bình,
tỉnh Quảng Nam - Phương kể. Năm 16 tuổi, ông đã tham gia du kích đánh
Pháp ở quê nhà. 18 tuổi, ông vào bộ đội. Năm 1954, khi 22 tuổi, ông tập kết
ra Bắc, rồi xuất ngũ về công tác tại Xí nghiệp đánh cá Hạ Long - Hải Phòng
và kết hôn với mẹ tôi - một cô gái đất Cảng. Năm 1961, ông tái ngũ và trở
thành một trong những người lính đầu tiên của đường Hồ Chí Minh trên
biển, trở thành Chính trị viên của một con tàu của Đoàn tàu không số chuyên
vận tải vũ khí, đạn dược vào Nam...". Phương bắt đầu câu chuyện về người
cha thân yêu như đọc những dòng trích ngang lý lịch ("Bệnh nghề nghiệp"
chăng?).
Nhưng rồi, chợt ấm áp, chợt nồng hậu, chợt thăm thẳm suy tư,
Phương bồi hồi kể về những ngày cuối bên cha. "Tôi nhớ rất rõ ngày hôm ấy
là ngày 16/3/1972, vì nó liên quan đến một cái mốc lịch sử của chiến tranh.
Đúng một tháng sau ngày ấy - ngày 16/4/1972 - là hôm Không quân Mỹ bắt
đầu rải thảm B-52 xuống Hải Phòng, mở đầu chiến dịch sử dụng không quân
hủy diệt các thành phố lớn ở miền Bắc trước khi phải ngồi vào bàn Hội nghị
Paris 1973 - Phương bắt đầu dòng hồi tưởng.
Là chính trị viên, nói như từ mà thế hệ chúng tôi hay dùng, cha tôi
"Bôn-sê-vích" lắm. Ông rất nghiêm khắc với bản thân và cả với mẹ con
chúng tôi. Suốt 13 chuyến tàu vận chuyển vũ khí vào Nam trước đó, ông
không hề nghỉ lấy một ngày ở nhà trước lúc ra khơi. Tất cả thời gian và tâm
trí ông dành cho những chuyến vượt biển của tàu không số. Đối với ông,
không có ngày nghỉ, không có gì quan trọng hơn là những tấn vũ khí chuyển
vào Nam đánh giặc.
Gia đình liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu chụp năm 1964. (Ảnh do gia đình
cung cấp).
Nhưng cái lần ấy, cái lần trước chuyến tàu thứ 14 đầy định mệnh
ấy, có những "điềm" rất lạ. Cha tôi bỗng dưng xin đơn vị cho nghỉ ở nhà hẳn
2 ngày. Ông mua giấy dầu lợp lại góc mái nhà bị dột đã lâu, ông cùng mẹ tôi
đi chợ, rồi tự tay nấu cơm cho cả nhà cùng ăn. Buổi chiều, ông còn lôi 4 anh
em tôi ra tắm rửa kỳ cọ (tôi lớn nhất lúc ấy 14, cậu út mới hơn 3 tuổi). Ông
còn "hào phóng" (thậm chí đối với ông là hơi "xa xỉ") dẹp bỏ cái bếp dầu mẹ
tôi dùng đã dăm bảy năm, rỉ hoen và nấu món gì cũng oi khói, ra mậu dịch
mua hẳn cái bếp dầu mới toanh, loại sắt có tráng men xanh "xịn" nhất thời
ấy. Có hôm trong bữa cơm, ông còn dặn chúng tôi: "Mấy hôm nữa, anh em
chúng mày đến đơn vị bố gặp các chú hậu cần, mang cái can dầu ma-dút 20
lít bố đã xin các chú ấy mang về cho mẹ, tha hồ mà đun nấu...".
Rạng sáng ngày 16/3/1972, buổi sáng cuối cùng sau 2 ngày nghỉ
trọn vẹn ở nhà cùng vợ con, mới 5h sáng, ông Hiệu đã đánh thức cậu con cả
dậy. Tuổi ăn tuổi ngủ, Phương uể oải mãi không rời khỏi giường. "Cha tôi
ôm tôi rất chặt vào lòng, xoa tóc tôi âu yếm (con cái ông yêu thương hết
mực, nhưng cái kiểu ôm ấp vỗ về "tiểu tư sản" ấy thì chưa bao giờ tôi được
thấy ở cha tôi). Giọng thầm thì như gió thoảng, chắc sợ mẹ tôi và các em
nhỏ thức giấc, ông dặn: "Phương à...! Con là con trai lớn, ở nhà gắng chăm
học, chăm làm. Nhớ cố gắng giúp đỡ mẹ, chăm lo dạy bảo các em khi bố đi
xa...".
Tôi chợt thấy ươn ướt trên mái tóc mình. Trời ơi, thì ra cha tôi đang
khóc, nước mắt thấm xuống đầu tôi. Đấy là lần đầu tiên tôi thấy cha mình
khóc, và cũng là lần duy nhất. Tôi đâu ngờ rằng đó là những giọt nước mắt
của cuộc chia ly vĩnh viễn mà cha tôi dường như có linh cảm. Chỉ 40 ngày
sau, cũng vào một buổi sáng, cha tôi đã hy sinh trên Vịnh Thái Lan...".
Mấy ngày sau buổi sáng chia tay ấy, nhớ lời cha dặn, Phương cùng
cậu em trai mang đòn gánh dây thừng đi bộ từ Hải Phòng sang đơn vị bố bên
Thủy Nguyên để khiêng can dầu ma-dút về. “Quái lạ - Phương kể tiếp - suốt
bao năm công tác, cả khi ở cơ quan dân sự lẫn lúc trong hải quân, chưa bao
giờ cha tôi cho phép mẹ con tôi tơ hào dù là một thanh củi, một hòn gạch,
một giọt xăng dầu của công mang về nhà. Công đoàn hay hậu cần phân phối
cho thứ gì, như gói trà, bao thuốc, cái xăm xe đạp, viên đá lửa, ông cũng đều
nhường cho anh em trong đơn vị cả. Vậy mà lần này, sao cha lại xin hẳn
một can dầu 20 lít cho mẹ con tôi. Tôi giật mình tự hỏi, và có cảm giác gai
người không hiểu nổi...".
Hai anh em Phương, khẳng khiu như hai cây sậy, đen đúa như hai
cục than, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, bước thấp bước cao khiêng can dầu về nhà
trong cảm giác nghi hoặc bất thường ấy, trong linh cảm bất an ấy. Can dầu
ma-dút, để làm ấm thêm ngọn lửa của cái bếp dầu cha mới sắm trước hôm
đi, để làm sáng thêm ngọn đèn dầu anh em Phương chụm đầu học bài đêm
chiến tranh mất điện; can dầu ấy đâu ngờ là món quà cuối cùng của tuổi thơ
Phương và các em được nhận từ người cha yêu dấu, là sự quan tâm cuối
cùng người chồng dành cho người vợ từ nay mãi mãi lẻ loi bên 4 đứa con
thơ dại.
Bình minh ấm áp ký ức đồng đội
Hà Nội cuối năm 1978. Một hôm, khi Nguyễn Đình Phương đang là
sinh viên năm thứ 2 Đại học Cảnh sát, đang giờ lên lớp, anh được gọi lên
gặp Ban Giám hiệu ngay. Phương sững người khi bước vào Phòng Giám
hiệu, nhận thấy bên những bộ cảnh phục quen thuộc của các thầy cô còn có
những bộ quân phục hải quân thân thương - dấu ấn về người cha thủy thủ.
Đó là các bác, các chú đến từ Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân, tới
trường để xin phép cho Phương được nghỉ 2 ngày về Hải Phòng dự Lễ truy
tặng danh hiệu Anh hùng LLVT cho cha Phương - Liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu,
Trung úy hải quân, Chính trị viên Tàu không số.
Và mãi đến buổi lễ truy tặng danh hiệu Anh hùng, Phương mới biết
cụ thể về chiến công, về sự hy sinh của cha mình và đồng đội trong chuyến
tàu vào Nam tháng 4/1972 ấy. Còn trên tấm Bằng danh hiệu Anh hùng do
Chủ tịch Nước Tôn Đức Thắng ký tặng ngày 6/11/1978 mà mẹ anh - bà
Phạm Thị Vi - thay mặt cha và gia đình đón nhận có ghi những dòng chữ
vàng: "Tặng Danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân cho Liệt sĩ Nguyễn Văn
Hiệu đã lập nhiều thành tích đặc biệt xuất sắc về chiến đấu và phục vụ chiến
đấu, góp phần cùng toàn dân đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước
đến thắng lợi hoàn toàn".
Tôi đến Văn phòng Hội truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển
nằm ở phố Nguyễn Bỉnh Khiêm (quận Ngô Quyền) sớm hơn hẹn 15 phút, đã
thấy các bác cựu chiến binh (CCB) tề tựu đông đủ cả rồi. Họ đều là lính của
Đoàn tàu không số, có những người là đồng đội cùng một chiếc tàu với ông
Hiệu, có cả người lính đã chứng kiến giây phút cuối cùng của ông trước lúc
hy sinh.
Bác Trần Văn Hữu, Chủ tịch Hội, cho tôi biết một điều thật thú vị.
Bao nhiêu người đã nói, đã nghe về Đoàn tàu không số, nhưng không biết
đấy là một đoàn tàu có số hẳn hoi. Đó là Lữ đoàn 125 Hải quân, trong đó có
các tàu như tàu số 235 của Anh hùng Nguyễn Phan Vinh, tàu số 187 của
Anh hùng Hồ Đức Thắng, còn tàu của Anh hùng Nguyễn Văn Hiệu có số
645.
Nói về lịch sử Lữ đoàn 125, bác Lưu Lanh, Phó chủ tịch hội kể chi
tiết: Để chi viện trực tiếp vũ khí cho chiến trường miền Nam trong kháng
chiến chống Mỹ, cùng với con đường Hồ Chí Minh vượt Trường Sơn trên
bộ, ta đã quyết định mở con đường vận chuyển chiến lược trên biển Đông.
Ngày 23/10/1961, Bộ Quốc phòng đã thành lập Đoàn 759 - tiền thân của Lữ
đoàn 125 Hải quân.
Trong 10 năm (từ tháng 4/1962 đến tháng 4/1972) Đoàn 125 đã
vượt biển 168 chuyến, vận chuyển vào 19 bến của 9 tỉnh phía Nam, chuyên
chở được 6.105 tấn vũ khí và hàng ngàn lượt cán bộ, chiến sĩ chi viện cho
chiến trường, đã làm nên một "Đường Hồ Chí Minh trên biển" đầy độc đáo
của chiến tranh nhân dân. Đoàn 125 đã hai lần được tuyên dương danh hiệu
Anh hùng LLVT nhân dân. Có 6 đồng chí được tuyên dương Anh hùng,
trong đó có Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu...
"Do công tác bí mật, các tàu của Đoàn 125 khi hoạt động ở vùng
biển nước nào thì đeo biển hiệu của tàu nước đó - bác Hữu bổ sung. Thậm
chí có lúc nguy hiểm, ta đành phải treo cả cờ, dùng cả màu sơn của tàu nước
đó để đánh lạc hướng sự tuần tra kiểm soát của Mỹ - ngụy. Rồi khi vào vùng
biển phía Nam, để giữ bí mật tuyệt đối, tất cả các tàu đều xóa số tàu của
mình đi. Mọi thứ vật dụng trên tàu như đồ hộp, đường sữa, thuốc lá, xà
phòng v.v... cũng đều phải bóc hết nhãn mác đi. Mọi người quen gọi đoàn
tàu chúng tôi là "tàu không số" là vì vậy...".
Góp vào chuyện kể của bác Hữu, bác Lanh, các bác CCB khác như
bác Phong, bác Hiếu, bác Lịch v.v.... đã cho tôi biết thêm rất nhiều những
điều mà sách vở chưa từng nói tới về Đoàn tàu không số của họ. Đối với
những người lính tàu không số, ra khơi là xác định cảm tử, ngày rời bến là
ngày xác định hy sinh. Có những hy sinh vẻ vang ghi danh sử vàng dân tộc,
có những hy sinh thầm lặng giấu vào ký ức cá nhân.
Chỉ riêng việc đảm bảo bí mật cho những chuyến tàu đã có bao điều
đáng nói. Có những đồng chí tập kết ra Bắc hơn 10 năm xa nhà xa quê
hương, mòn mỏi chờ mong thương nhớ, vậy mà khi tàu cập bến ngay tại bãi
biển làng mình, vượt qua ngàn dặm trùng dương về tới cách nhà chỉ vài trăm
mét, vẫn không được lên bờ. Có đồng chí chồng Bắc vợ Nam, xa vợ đằng
đẵng cả chục năm ròng, khi cập bến, trông thấy vợ trong đoàn dân công ra
nhận vũ khí, vậy mà phải lánh mặt xuống khoang tàu để đảm bảo bí mật,
phải rưng rưng ngậm ngùi nhìn vợ từ xa, từ khe cửa sổ dưới tàu trông lên mà
trái tim nghẹn ngào xa xót...
Trận chiến cuối cùng của tàu 645 trên biển Đông
Trong suốt cả buổi sáng trò chuyện cùng các CCB đồng đội của
Nguyễn Văn Hiệu, tôi để ý có một người đàn ông trạc hơn 60 tuổi, tầm
thước và nhỏ nhẹ, đôi mắt đượm buồn, cứ ngồi lặng lẽ lắng nghe, tay run run
nắm chặt tay người con trai của ông Hiệu. Thì ra ông là Thẩm Hồng Lăng,
người cuối cùng rời khỏi tàu 645, người lính cuối cùng mà ông Hiệu vĩnh
biệt trước khi hy sinh.
Ông Lăng người quê Nam Định, sinh năm 1947, là lái tàu chính của
tàu 645. Cuộc "sinh tử biệt ly" của ông Lăng với người Chính trị viên của
mình, nghe ông kể lại, thật kỳ vĩ và cảm động.
Tàu 645 do Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu và Thuyền trưởng Lê
Hà (quê Bà Rịa - Vũng Tàu) chỉ huy, trên tàu có tất cả 21 cán bộ, chiến sĩ.
Tàu đã 2 lần nhổ neo ra đi, song bị tàu địch kèm chặt, nên đành quay lại. Tối
ngày 12/4/1972, tàu ra khơi lần thứ 3. Sau nhiều ngày đêm vượt qua sóng to
gió lớn, vòng lên vùng biển phía trên đảo Hải Nam, rồi vòng xa ra thuộc hải
phận quốc tế ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ, từ đó xuôi vào phía Nam Việt Nam.
Ngày 22 và 23/4/1972, tàu 645 tới vùng biển Phú Quốc, sau đó lại
chuyển hướng về bến phía đảo Cô Công (Campuchia), cách Phú Quốc chừng
60 hải lý với ý định chờ tối sẽ vào. 14h ngày 23/4, tàu nhận được điện của
Sở chỉ huy báo cho biết, đêm nay sẽ có thuyền đón ở mũi Cà Mau. Nhưng
17h lại điện: "Bến động". Tàu quay ra hải phận quốc tế. 19h ngày 23/4, xuất
hiện một tàu khu trục địch từ Vịnh Thái Lan đi tới. Nó rọi đèn pha sáng rực,
đánh tín hiệu hỏi tàu từ đâu đến và đi đâu.
Tàu 645 trả lời: "Tàu từ Trung Quốc xuống, bị lạc". Địch phát tín
hiệu dừng tàu. Tàu 645 lập tức tăng tốc nhằm chạy ra hướng biển Đông
thoát khỏi tầm truy đuổi của địch. Lập tức địch gọi máy bay bắn pháo sáng.
Trong ánh pháo sáng chói lòa, tàu 645 đã nhìn rõ phía trước có 3 tàu địch.

Các đồng đội tàu không số của liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu.
Tàu 645 vẫn giữ tốc độ đi ra vùng biển quốc tế. Chiếc khu trục 04
của Mỹ - ngụy bám rất sát tàu ta. Ý đồ của địch là bắt sống tàu 645. Đôi bên
vờn nhau đến 5 giờ sáng ngày 24/4. 7h45, trời biển sáng rõ, quan sát bằng
mắt, địch đã xác định được rằng đây là tàu "Bắc Việt giả dạng", chúng lập
tức dùng loa dụ hàng. Anh em ta trên tàu lờ đi, như thể không rõ chúng nói
gì. Thấy gọi hàng không kết quả, địch nổ súng bắn uy hiếp, đạn các cỡ chi
chít rơi trước mũi tàu 645. Vẫn không ép được tàu 645 dừng lại, địch bắt đầu
bắn nhiều loạt đạn liên thanh 14 ly 5 thẳng vào tàu ta, gây thương vong cho
một số thủy thủ. Rồi một số quả đạn pháo lớn của địch bắn làm tàu ta thủng
lỗ chỗ.
Trước tình thế đó, Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu quyết định nổ
súng chống trả quyết liệt. Các loại súng B40, B41, 12 ly 8 của ta hướng
nòng về phía tàu địch đồng loạt nhả đạn... Lúc này địch tập trung hỏa lực
đánh trả rất ác liệt. Các thủy thủ San, Lân, Giang, Thẻ lần lượt trúng đạn và
hy sinh. Một số anh em khác bị thương. 9h sáng ngày 24/4, tàu ta vừa cơ
động ra xa, vừa đánh trả quyết liệt.
Khoảng 11h, một quả đạn lớn trúng vào xích lái, tàu ta không còn
điều khiển được, bắt đầu chạy vòng tròn. Khi biết tàu hỏng lái không thể cơ
động được nữa, Nguyễn Văn Hiệu đề nghị Thuyền trưởng Lê Hà và ra lệnh
cho anh em khoác áo phao nhảy xuống biển bơi vào bờ nhằm bảo toàn lực
lượng, còn anh xin ở lại điểm hỏa bộc phá hủy tàu phi tang vũ khí hàng hóa
(chuyến ấy tàu 645 chở 70 tấn đạn cối cá nhân và 1 tấn thuốc nổ TNT cùng
hàng hóa khác).
Lái tàu Thẩm Hồng Lăng và Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu có ý
sẽ rời tàu cuối cùng. Khi anh em đã xuống nước, hai anh còn nán lại thu tập
tài liệu để hủy. Khi 2 anh đã khoác áo phao định xuống nước, thì phát hiện
một tình huống vô cùng nguy hiểm: phía dưới biển gần tàu, anh em thủy thủ
phần lớn đều bị thương, nên phải cụm lại một khối dìu nhau mà bơi, tất cả là
15 người, trừ 4 người đã hy sinh nằm lại trên tàu.
Chiếc tàu thì mất lái, cứ chạy vòng tròn, do vậy có lúc gần anh em
thủy thủ, lúc lại ở xa. Chính vì vậy Nguyễn Văn Hiệu quyết định không rời
tàu. Anh sợ khi tàu gần anh em rồi nổ, tính mạng 16 người sẽ hết sức nguy
hiểm. Phải cho tàu nổ lúc ở vị trí xa đồng đội của mình nhất! Dưới biển, anh
em đang cố nán lại đợi Hiệu.
Trên tàu, Thẩm Hồng Lăng cũng nấn ná, đòi cùng ở lại điểm hỏa
với Hiệu. Ánh mắt người chính trị viên vốn bình thường đầy nghiêm khắc,
sao lúc này bỗng dịu dàng thân thương đến lạ kỳ. Anh nói với Lăng, nửa như
ra lệnh, nửa như khẩn khoản: "Em còn trẻ, còn cống hiến được lâu, được
nhiều hơn anh... Với lại, anh đã có vợ con, em thì chưa kịp có người yêu,
thôi Lăng nhảy xuống biển bơi cùng anh em đi...".
Ứa nước mắt thương người anh, người chính trị viên của mình,
nhưng Lăng vẫn quyết không rời tàu, không muốn để anh Hiệu một mình ra
đi, vẫn vờ như không nghe thấy, cứ lúi húi ngồi đốt hủy tài liệu trên boong
tàu. Nói nhỏ không được, anh Hiệu quát to: "Đồng chí về báo cáo với Đoàn
là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ và cho tôi gửi tới anh em lời chào chiến
thắng", rồi bất ngờ anh lao tới đẩy Lăng xuống biển. Chới với giây lát, từ
dưới biển nhìn lên, Lăng vẫn thấy rõ anh Hiệu đang quay lưng lại, chậm rãi
bước về phía cột cờ, nơi cao nhất của con tàu, nơi để đoạn dây điện nối với
kíp điểm hỏa bộc phá. Khi Lăng đã nhập được vào gần tốp anh em bơi trên
biển, khi vị trí con tàu ở xa đồng đội nhất, Nguyễn Văn Hiệu cho nổ tàu.
Một ánh chớp lóe lên, kế đó là một tiếng nổ cực mạnh, một cột lửa
đỏ cùng với cột sóng cao hàng chục mét dựng lên giữa biển xanh. Những
mảnh vỡ của con tàu văng tung tóe sang cả chiếc khu trục của địch đang
hằm hè gần đó làm bọn địch trên tàu kinh hồn bạt vía. Tàu 645 và người
Trung úy Chính trị viên Nguyễn Văn Hiệu đã ra đi như thế.
Lúc đó là 11h30 ngày 24/4/1972. Thẩm Hồng Lăng cùng 15 thủy
thủ còn lại của tàu 645 sau đó đều bị địch dùng trực thăng và tàu quây bắt
trên biển, rồi người thì bị đưa về Sài Gòn giam ở Chí Hòa, người thì bị giam
ngay tại nhà tù Phú Quốc. Năm 1973, sau Hiệp định Paris, 16 anh được trao
trả.
Khúc tưởng niệm bên biển Đồ Sơn
Chia tay những người đồng đội của Nguyễn Văn Hiệu, tôi bỗng
dưng không muốn trở lại phố phường ồn ã náo nhiệt mà muốn ra với biển.
Người chở tôi ra biển chiều nay là Tuấn, cháu gọi liệt sĩ Nguyễn Văn Hiệu là
ông ngoại. Tuấn mới gần 30 tuổi, cao ráo đẹp trai, ăn nói lễ phép, một vợ
một con, tốt nghiệp Đại học Ngoại thương Hà Nội, giờ về Hải Phòng làm
doanh nghiệp cùng bố mẹ vợ. Nói chung Tuấn là một thanh niên thành đạt.
Vừa lái xe, Tuấn vừa kể cho tôi nghe về cuộc tìm kiếm hài cốt ông
ngoại hồi tháng 3 vừa rồi. Tuấn bảo có lẽ ông cháu phù hộ cho cháu lắm,
nên chính cháu đã gặp được các cô chú ở Liên hiệp Khoa học công nghệ tin
học ứng dụng UIA ở Hà Nội, rồi được các nhà ngoại cảm ở đấy chỉ dẫn, tìm
đến tận nơi xác ông cháu theo gió mùa Tây Nam năm ấy trôi dạt vào bờ đảo
Phú Quốc, tấp vào một gốc cây dương ngay bãi cát ven bờ biển.
Xác ông cháu nằm lại dưới gốc dương đó suốt 37 năm, cát vùi lấp
năm này qua năm khác sâu tới gần 6 mét. "Tàu nổ tung, sao còn xác hả
Tuấn?" - tôi lục vấn. Tuấn bảo: "Không, không phải xác, cháu dùng sai từ,
mà là hài cốt chú ạ. Mà cũng chỉ có một số phần xương thôi, gồm xương sọ
một ít, xương vai một ít, nhiều nhất là đoạn xương hông...".
“Làm sao biết đó là hài cốt của ông cháu?". "Cháu đã nhờ giám
định xương cẩn thận rồi, cả theo cách khoa học và theo mẹo tâm linh, lại
được các chú bên Vùng 5 Hải quân giúp đỡ gia đình cháu vô cùng chu đáo
trong việc đào bới tìm hài cốt, trong việc chuyển hài cốt đưa về nghĩa trang
liệt sĩ ngoài Hải Phòng này. Có ngày cả một đại đội hải quân Vùng 5 cùng
máy xúc làm việc cật lực bên bãi cát chú ạ. Công phu lắm, tận tình lắm,
"nghĩa tử nghĩa tận" là thế chú nhỉ?".
Tôi khẽ khàng với Tuấn: "Tình đồng đội nữa cháu ạ...". Tôi không
nỡ tranh luận nhiều với Tuấn. Cháu còn quá trẻ. Khi ông cháu ra trận và hy
sinh, cháu còn chưa ra đời. Trọn vẹn một thế hệ đã qua rồi. Nhanh như cánh
hải âu vụt liệng qua bến cảng...

Cựu chiến binh Thẩm Hồng Lăng (bên trái).


Ngược chiều với xe chúng tôi, thỉnh thoảng lướt qua dăm ba chiếc
xe "siêu hạng" bóng lộn chở những "tay chơi" từ Casino Đồ Sơn trở về sau
một cuộc đỏ đen sát phạt. Tiếng chát xình rốc ráp mê tan từ xe ngược chiều
mở hết cỡ át cả tiếng CD "Có một bài ca không bao giờ quên" trên xe Tuấn.
Họ vừa thắng hay thua trên casino, nào ai hay?!
Chỉ biết rằng phóng vun vút thế kia, nhạc nhẽo ầm ĩ thế kia, đỏ đen
không biết bao cuộc thế kia, chắc chắn họ chưa bao giờ nhìn thấy, chắc chắn
họ không bao giờ biết đến, ngay ven đường lên casino kia, ngay dưới chân
ngọn núi có sòng bạc ấy, ngay nơi bãi biển Đồ Sơn đó, 40 năm trước, là bến
xuất quân của Đoàn tàu không số, là nơi ra đi và mãi mãi không về của
Nguyễn Văn Hiệu và hàng trăm đồng đội của anh.
Mà sao Hải Phòng không đặt tên họ cho những con đường ven biển
Đồ Sơn này nhỉ? Và cả trong Quảng Nam quê anh nữa chứ? Nếu có, chắc
chắn sẽ có con đường mang tên Nguyễn Văn Hiệu, Nguyễn Phan Vinh và
những anh hùng liệt sĩ khác đã từ bãi biển này ra khơi để đi vào bất
tử?
Chiều nay mưa vẫn nặng hạt, biển vì thế vắng tanh vắng ngắt. Bến
Nghiêng ngoài bãi 2 Đồ Sơn không một bóng người, như là để thâm nghiêm
hơn, hùng vĩ hơn, như là để sừng sững hơn bên doi cát đằng kia, tấm bia
tưởng niệm, bức tượng đài ghi công những người thủy thủ anh hùng của
đoàn tàu không số.
Chợt nhớ lời chiến sĩ lái tàu 645 Thẩm Hồng Lăng lúc chia tay tôi:
"Làm sao quên được phút vĩnh biệt người đồng đội, người chỉ huy của mình.
Tôi nhớ lắm bóng hình anh Hiệu, dáng cao gầy mảnh dẻ, vời vợi trên boong
tàu giữa trùng khơi, hai tay nắm chặt 2 đầu đoạn dây điện kết nối với khối
thuốc nổ hơn 70 tấn chở trên tàu và cho chập nổ con tàu để khỏi rơi vào tay
giặc...".
Lại nhớ lời người thủy thủ thương binh Lưu Công Hào nói với tôi
lúc ở Hải Phòng: "Tôi bị thương khi tàu số 43 của chúng tôi đụng tàu địch ở
vùng biển Quảng Ngãi tháng 2/1968. Cuộc chiến không cân sức với tàu Hạm
đội 7, chúng tôi đành cho tàu nổ. Tôi bơi 5km vào bờ, rồi được du kích vớt
lên, đưa về điều trị tại chính Trạm xá của chị Đặng Thùy Trâm tại Đức Phổ
suốt trọn một tháng. Cả tháng ấy, bác sĩ Trâm trực tiếp điều trị cho tôi. Khi
ấy tôi 21 tuổi, kém chị Trâm 4 tuổi.
Có những buổi trưa, chị ôm tôi vỗ về như với thằng em trai, tôi gục
đầu vào vai chị, nghe chị hát những bản tình ca của các cô gái thời ấy
thường ưa thích, cho dịu đi nỗi đau vết thương chiến tranh. Chị Trâm còn
muốn "làm mối" tôi cho em gái chị nữa. Giữa bom rơi đạn réo, giữa gian
khổ hiểm nguy, người con gái Hà Nội ấy, người bác sĩ trẻ ấy vẫn hát tình ca,
vẫn ghi nhật ký, vẫn học ngoại ngữ, vẫn mong kết nối những mối tình ngoài
việc chữa lành những vết thương...
Giống như Nguyễn Văn Hiệu, chị Trâm và bao người lính khác
trong cuộc chiến tranh giữ nước đã đối diện với cái chết sao mà bình thản,
đã dám hy sinh sao mà nhẹ nhàng đến thế. Họ không chỉ là những anh hùng,
họ là những VỊ THÁNH anh ạ...".
Đã hoàng hôn của một ngày. Biển lại dâng thủy triều. Dưới ngọn
thủy triều kia là những con sóng ngầm, dưới những con sóng ngầm là đáy
biển, là cát, dưới lớp cát trắng phau kia có những trái tim thắm đỏ đã hóa
ngọc của bao liệt sĩ còn nằm dưới đó mãi không về. Họ đã hóa trầm tích
giữa biển khơi, hay đã hóa rong rêu huyền thoại? Không, họ vẫn mãi là
NGỌN HẢI ĐĂNG, sừng sững rọi soi mọi cuộc bể dâu...

V.H

______________________

Chuyện kể của người thuyền phó tàu không số


Cập nhật lúc 16h28" , ngày 29/07/2009
Sự kiện con tàu không số chở 36 tấn vũ khí, đạn dược cùng chất nổ
từ hậu phương lớn miền Bắc vượt qua hàng ngàn cây số với bao lớp phòng
thủ của địch, cập bến Lộ Diêu (Hoài Nhơn) an toàn vào năm 1964 là một sự
kiện bất ngờ, trở thành nỗi kinh hoàng cho bọn ngụy quyền Sài Gòn ở Bình
Định lúc bấy giờ... Một chiều đông mưa tầm tã, tại ngôi nhà số 433 đường
Nguyễn Huệ - thành phố Quy Nhơn, ông Trần Phi Khanh- thuyền phó con
tàu không số ấy - hồi tưởng lại chuyến đi "cảm tử" của mình ...

Ông Trần Phi Khanh


Ông Khanh kể: Nhằm tăng cường chi viện cho cuộc kháng chiến
của quân và dân miền Nam, tháng 5-1959 Tổng Quân ủy Trung ương quyết
định mở tuyến đường Hồ Chí Minh dọc dãy Trường Sơn từ Bắc vào Nam
(đường 559 - đường mòn Hồ Chí Minh) và đường vận tải trên biển tháng 7-
1959 (đường Hồ Chí Minh trên biển). Đầu năm 1960, tôi - Trần Phi Khanh
(tức Trần Ngọc Mỹ quê ở Ân Hữu - Hoài Ân) - thiếu tá thuyền trưởng Hải
quân Việt Nam - được Bộ Tư lệnh Hải quân, Cục Quân báo và Bộ Tổng tư
lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam biệt phái về Bình Định làm cán bộ tham
mưu Ban Quân sự tỉnh, chuyên trách công tác nghiên cứu tình hình, chuẩn bị
bến bãi cho tàu không số chở vũ khí vào vùng biển Bình Định. Sau một thời
gian nghiên cứu, phân tích tình hình, tôi nhận thấy chỉ có Lộ Diêu là nơi có
thể đảm bảo các yếu tố bí mật, bất ngờ, thuận tiện cho tàu cập bến.
Tháng 7-1963, trước yêu cầu bức xúc của tình hình, Thường vụ
Tỉnh ủy Bình Định quyết định thành lập Đoàn công tác đặc biệt gồm 4 đảng
viên: Lê Văn Nốt (Lộ Diêu), Phạm Văn Khương và Phạm Văn Kiệm (Phú
Thứ - Mỹ Đức) thông thạo đường biển do tôi phụ trách ra Bắc trực tiếp báo
cáo với Bộ Tư lệnh Hải quân, Cục Quân báo, Cục Bảo vệ và Ban Chỉ huy
Lữ đoàn 125 Tàu không số thuộc Cục Hải quân về tình hình chuẩn bị bến
bãi và xin cho tàu chở vũ khí vào. Kể đến đây, giọng ông nghẹn ngào xúc
động: Nói thật, lúc được giao nhiệm vụ đặc biệt này, tôi rất vinh dự và tự
hào dù biết cuộc hành trình vượt Trường Sơn sẽ rất gian khổ. Nhưng sự tin
tưởng của cấp trên và sự khát khao của nhân dân được vũ trang khởi nghĩa
giành lấy quyền sống và giải phóng quê hương đã thôi thúc chúng tôi bằng
mọi giá phải lên đường.
Sau gần 4 tháng vượt suối đèo qua bao rừng thiêng nước độc, ngày
thì đói cơm, thiếu muối, có đêm gió rét, mưa dầm dai dẳng mà bọn vắt rừng
cứ như đỉa đói đeo bám bất cứ chỗ nào trên da thịt để hút từng giọt máu còn
sót lại của chúng tôi. Thế rồi tất cả cũng qua. Tháng 11-1963, đoàn chúng tôi
đã có mặt tại Hà Nội trong niềm vui khôn cùng.

Đ/c Võ Nhân Huân (bên phải hàng thứ 2) thuyền trưởng chuyến tàu
không số đầu tiên chụp ảnh lưu niệm với Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Tại Hà Nội, chúng tôi trình bày với đồng chí Hàm - Cục trưởng Cục
Bảo vệ thuộc Bộ Tổng tham mưu - và sau đó tiếp tục làm việc với đồng chí
Phước (Lữ đoàn 125 Hải quân) phụ trách đoàn tàu không số chuyên lo phục
vụ chiến trường miền Nam. Và, một điều đáng mừng khi hay tin có Đoàn
cán bộ từ Bình Định ra xin chi viện vũ khí, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
cho gặp. Tôi lại vinh dự được trực tiếp báo cáo với Thủ tướng ba nội dung
mà trước khi lên đường, đồng chí Trần Quang Khanh - Bí thư Tỉnh ủy Bình
Định - giao phó: lòng khát khao được vũ trang khởi nghĩa của nhân dân Bình
Định; quyết tâm của Tỉnh ủy Bình Định trong việc thực hiện Nghị quyết 15
của T.Ư Đảng; khó khăn về vũ khí đạn dược, đang ngày đêm chờ T.Ư chi
viện. Nghe xong, Thủ tướng nói: Đồng chí hãy yên tâm về báo lại với đồng
bào miền Nam rằng Đảng, Bác Hồ, Chính phủ luôn vì miền Nam ruột thịt, sẽ
lo chi viện không chỉ vũ khí, đạn dược mà còn cả những gì các đồng chí cần,
đồng bào miền Nam cần cho cuộc chiến đấu và chiến thắng đế quốc Mỹ xâm
lược. Vậy là phương án, kế hoạch do tôi đề xuất đã được chấp nhận.
Ngày 9-10-1964, Tàu không số thuộc Lữ đoàn 125 Hải quân đã
được biên chế tổ chức, gồm 4 cán bộ chỉ huy và 8 thủy thủ, trong đó có
Đoàn công tác đặc biệt do Thường vụ Tỉnh ủy cử ra Bắc tháng 7-1963, chở
36 tấn vũ khí đã được lệnh rời căn cứ. Lúc này, thuyền trưởng tàu là đồng
chí Phạm Vạn (quê Quảng Ngãi), tôi là thuyền phó 1, đồng chí Trần Phấn là
thuyền phó 2. Đồng thời, chúng tôi cũng thành lập Chi bộ gồm 8 đảng viên:
Đồng chí Thanh (Khánh Hòa) làm bí thư, tôi và đồng chí Vạn là chi ủy viên
- đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng trong việc quyết định sứ mệnh lịch
sử của con tàu khi gặp tình huống đột biến, không để lọt vào tay địch.
Buổi tiễn đưa tại bến Hải Phòng có đồng chí Phạm Hàm - đại diện
Bộ Tổng tham mưu. Đồng chí Trà - Chính ủy Tư lệnh Hải quân đã nói rõ ý
nghĩa và tầm quan trọng của chuyến đi, phân tích thuận lợi, khó khăn, ven
biển khu V bãi ngang không có sông rạch và rất trống trải, do đó Tàu không
số sẽ có thể gặp địch và phải chiến đấu. Như muốn truyền đạt tình cảm của
T.Ư, của Quân chủng Hải quân đến quê hương người anh hùng áo vải Quang
Trung - Nguyễn Huệ và truyền thêm ý chí quyết tâm cho từng thủy thủ của
tàu, đồng chí đã xúc động nói: "Có thể chuyến đi này các đồng chí không trở
về nữa, nhưng hi vọng điều ấy không xảy ra. Quân chủng rất tin tưởng các
đồng chí hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ và trở về mạnh khỏe". Thú thật, khi
nghe đồng chí ấy nói, chúng tôi cũng xúc động lắm nhưng một khi đã dám
nhận nhiệm vụ thì phải quyết tâm làm và chấp nhận hi sinh.
Đúng như dự đoán, sau 2 tuần ra khơi, gặp phải gió mùa cấp 7,
chiếc tàu vỏ gỗ nhỏ chở 36 tấn vũ khi không chịu đựng nổi phải quay trở về.
Đến ngày 26-10-1964, biển bớt động, tàu không số được ngụy trang thành
tàu đánh cá xuất phát. Ra đến hải phận quốc tế, tàu chiến hạm đội 7 của Mỹ
phát hiện, cho 2 máy bay khu trục quần đảo bám sát boong tàu ta suốt 8 giờ
liền, muốn thả bom. Chúng tôi trên tàu ngụy trang trên lưới đánh cá, dưới
súng đạn, thuyền viên mặc đồ công nhân, trên tàu treo cờ quốc tế. Cán bộ
chiến sĩ trên tàu vẫn bình tĩnh, điều khiển tàu, sẵn sàng chiến đấu. Mỗi đồng
chí đều chuẩn bị sẵn 12 quả thủ pháo nặng 20 kg, nếu địch phát hiện thì giựt
cho nổ tàu. Chúng tôi lúc này căng lắm, địch giãn ra nhưng vẫn theo dõi.
Ngày thứ 2, 3 chúng tôi chuyển hướng vào Bình Định.
Nhờ ngụy trang tàu tốt nên địch vẫn chưa hành động, nhưng chúng
vẫn nghi, gọi hải quân ngụy ở Đà Nẵng cho 2 tàu chiến lớn ở Đà Nẵng theo
vào. Cái đi trước, cái đi sau... Cứ thế bám theo tàu ta. Đêm 30-10 gần hải
phận Bình Định, tàu ta chuẩn bị chuyển hướng thì tàu địch đến gần sát.
Chúng tôi tính toán khoảng 12 giờ đêm, 1 giờ sáng là vào bến nhưng địch
như vậy nên không dám vào thẳng mà đi vòng nên kéo dài thời gian. May
sao lúc ấy trời mù, gió lớn, mưa dầm, sóng lên...
Tàu địch sợ quá không dám theo nữa và bỏ hẳn. Thấy thế mình
mừng lắm. Tàu mình bị sóng đánh dạt hẳn vào gần bờ. Đồng chí Phấn nghe
sóng vỗ trên gành đá thì biết gần bến Tân Phụng (Mỹ Thọ - Phù Mỹ), lúc
này đã hơn 3 giờ sáng, tàu theo hướng bắc ngược gió quay ra vùng biển Lộ
Diêu lúc 4 giờ sáng ngày 31-10-1964. Trời vẫn mưa to, gió mạnh, sóng lớn
không thể vào sát bờ, Ban chỉ huy tàu quyết định mở hết tốc lực lượn theo
đà sóng lao thẳng vào vũng Lộ Diêu...
Biết là không kịp đưa tàu ra hải phận quốc tế nữa, nên khi lấy vũ
khí xong, Ban chỉ huy tàu cho tháo máy và các thiết bị trên tàu, đổ dầu, đặt
kíp nổ đốt cháy tàu suốt 3 ngày đêm. Bọn hải thuyền ở Tam Quan và Đề Gi
tuần tiễu trên biển và máy bay quần đảo trinh sát nhưng chúng cho là tàu
đánh cá của dân bị sóng dập và bốc cháy nên không để ý, ta cũng phao tin
như vậy để đánh lạc hướng địch. Cũng trong đêm ấy, ta huy động thêm lực
lượng từ Hà Ra, Phú Thứ cùng lực lượng có sẵn ở Lộ Diêu hoạt động liên
tục trong 10 ngày đêm, bí mật vận chuyển toàn bộ vũ khí về căn cứ an toàn.
Đây là chuyến tàu đầu tiên của lực lượng hải quân miền Bắc mở đường Hồ
Chí Minh trên biển chuyển chở vũ khí bí mật, an toàn chi viện cho chiến
trường miền Trung. Số vũ khí này tăng cường trang bị cho bộ đội chủ lực
Quân khu V và lực lượng vũ trang trong tỉnh, góp phần vào chiến thắng
chiến dịch Đông Xuân 1964 - 1965 với những trận An Lão, Đèo Nhông,
Dương Liễu, Gò Bồi… mở ra vùng giải phóng cắt đường số 1 từ Bồng Sơn
đi Quảng Ngãi, tạo thế và lực mới trong giai đoạn chiến tranh cục bộ.
Nhìn nét mặt hân hoan của ông lúc này, tôi chợt hỏi đến tâm trạng
của ông như thế nào khi bị địch theo dõi suốt mấy ngày đêm trên biển. Đang
vui, đôi mắt ông chợt đăm chiêu: "Nói thật, lúc đó về đến quê mình rồi, tôi
căng như sợi dây đồng giữa sự sống và cái chết, giữa cái còn - cái mất, thất
bại và thành công, bởi về đến quê mà không hoàn thành nhiệm vụ. Mà điều
quan trọng nhất đối với đồng bào mình, mất đi số lượng vũ khí này quả thật
là một tổn thất lớn. Cho nên lúc đó chúng tôi chỉ biết nguyện cầu - nói hơi
mê tín một chút nhưng sự nguyện cầu lúc đó đối với chúng tôi là một niềm
tin lớn... Và sự thật là vũ khí đã được vận chuyển đến nơi an toàn...".
Chiến công lịch sử của Tàu không số đã trở thành nỗi lo sợ của bọn
ngụy quyền lúc này. "35 năm sau, chiến công này mới được công bố rộng
rãi. Một số cán bộ, chiến sĩ trên tàu đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân...". Ông Khanh xúc động đến nghẹn
ngào.
(theo Báo Bình Định)
______________________

Người trở về từ “đội tàu không số” năm xưa


Cập nhật lúc 17h04" , ngày 29/07/2009 -
Xếp lại những ước mơ trên bục giảng và một tình yêu đẹp như thơ,
thầy giáo trẻ Lê Xuân Khảm lấy máu của mình viết đơn tình nguyện lên
đường vào chiến trường miền Nam. Trong một trận đánh không cân sức trên
vùng biển phía Tây nam Côn Đảo với hạm đội 7 của Mỹ, anh chiến sĩ trẻ 22
tuổi mất tích. Đơn vị, gia đình, người thân đều cho rằng anh đã hy sinh. Vậy
mà sau hơn 10 năm, bỗng nhiên, anh trở về...
Cuộc chiến trên đầu nguồn sông Lũng
Năm 1962, Khi khoa điện-điện tử tàu biển (Trường Đại học Hàng
hải) thành lập, Lê Xuân Khảm được mời làm giảng viên (khi đó anh đang là
giảng viên khoa máy tàu biển). Cuối năm 1963, không khí thanh niên lên
đường nhập ngũ sục sôi khắp nơi. Trường Đại học Hàng hải được phân bổ
chỉ tiêu 30 sinh viên. Nhà trường lấy tinh thần xung phong. Thầy Khảm (lúc
đó 22 tuổi) lấy máu viết đơn tình nguyện vào chiến trường miền Nam. Cùng
với thầy giáo Trần Hạnh và 28 sinh viên, thầy giáo trẻ Lê Xuân Khảm khoác
ba lô lên đường. Ngày ấy, thanh niên luôn đặt lý tưởng lên hàng đầu, tiếp đó
là sự nghiệp và cuối cùng mới là tình yêu. Vì thế mà tháng 3-1964 khi ra đi,
anh không dám hẹn ước gì với người bạn gái, lặng lẽ ra đi, lặng lẽ cất sâu
trong trái tim mình mối tình đầu trong sáng với cô bạn gái Trường Sư phạm
Hải Phòng.
Lê Xuân Khảm được tuyển vào “Đội tàu không số” với nhiệm vụ
cùng đồng đội vận chuyển vũ khí qua đường biển chi viện miền Nam. Tàu
không số (mang mật số 69) được ngụy trang thành tàu nghiên cứu khoa học
biển của nước ngoài. Trên tàu trang bị máy móc, thiết bị hiện đại nhưng chỉ
là đồ giả, thực chất tàu chỉ có một máy chính và thước đo góc (gọi là xích-
tăng) dùng đo góc độ chòm sao, mặt trời để xác định vị trí. Khi tàu vào đến
gần Côn Đảo bị địch bất ngờ tấn công. Trận đánh không cân sức giữa một
bên là Hạm đội 7 của Mỹ trang bị “vũ khí tận răng” với một bên là “tàu
không số”, vũ khí thô sơ. Mặc dù vậy, các chiến sĩ trên tàu vẫn chiến đấu rất
kiên cường với tâm thế nếu không thoát sẽ đánh chìm tàu, chấp nhận hy sinh
để không bị lộ bí mật con đường vận tải trên biển. Giữa hai trận đánh là
những giây phút tĩnh lặng đến ghê người. Giữa mênh mông sóng nước, trời
và biển không có ranh giới, trên máy bay, dưới tàu chiến và bầu không khí
đặc quánh mùi khói súng, khói bom, Lê Xuân Khảm nhớ da diết Hải Phòng,
quê hương thứ hai của anh (Lê Xuân Khảm quê ở Thái Bình), nhớ cha mẹ,
người thân, bạn bè, mái Trường Đại học Hàng hải và cô bạn gái chưa kịp
hẹn ước...
Sau mấy ngày đêm quần nhau với địch, đến ngày 1-1-1967 tàu chạy
đến đầu nguồn sông Lũng (tỉnh Cà Mau) thì thoát khỏi vòng vây của địch.
Anh em trong đoàn người hy sinh, người mất tích, người bị thương, con tàu
bị hư hỏng nặng. Lê Xuân Khảm cùng một số chiến sĩ còn lại gia nhập quân
giải phóng, chiến đấu ở chiến trường U Minh, giành nhau với địch từng tấc
đất giữa khu rừng đước ngập mặn bạt ngàn muỗi, dĩn nhiều như trấu. Gia
đình, đơn vị cũ mất liên lạc với Khảm từ ngày đó. Ai cũng cho rằng anh đã
hy sinh. Cho đến một ngày...
Sự trở về bất ngờ

Vợ chồngthầy giáo Lê Xuân Khảm cùng xem lại những tấm ảnh
chụp khi thầy còn ở chiến trường.
Người cha run run lần giở ba lô tư trang của con trai, giọt nước mắt
lặng lẽ rơi xuống chiếc áo bộ đội bạc màu, nhiều chỗ đã sờn rách. Ông cảm
nhận được hơi ấm quen thuộc của đứa con trai thân yêu, rất gần mà thật xa
vời. Đơn vị đã gửi tư trang về cho gia đình, thế nghĩa là con trai của ông
vĩnh viễn không bao giờ trở lại... Ông lặng lẽ thắp hương trên ban thờ lầm
rầm cầu khấn cho con được thanh thản chốn chiến trường xa, nơi ông chưa
từng đến nhưng rất đỗi thiêng liêng bởi ở đó, có một phần máu thịt của con
trai ông gửi lại...
Người mẹ lặng lẽ giấu nước mắt vào tim và không nguôi hy vọng
một ngày nào đó con trai sẽ trở về.
Còn cô sinh viên Trường Sư phạm Hải Phòng, bạn gái của Khảm,
sau nhiều năm bặt tin anh cạn khô nước mắt, đã chôn chặt những kỷ niệm
về anh trong trái tim mình để đi tìm bến đậu lứa đôi.
Tháng 10-1975, sau hơn 10 năm bặt tin, đột nhiên Khảm trở về
trong nỗi mừng vui, sung sướng khôn xiết của người thân... Người mẹ già cứ
sờ nắn những vết thương chằng chịt trên cơ thể cường tráng, trên gương mặt
của Khảm mà khóc như chưa bao giờ được khóc, bà khóc rồi bà lại cười.
Con trai bà đã trở về bằng xương bằng thịt, chững chạc trong bộ quân phục
màu xanh...Dù có gầy đi đôi chút, dù nét cười không đẹp như xưa vì những
vết thương, nhưng trông con trai rắn rỏi hơn nhiều... Người mẹ tự hào về
đứa con trai nay là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Sông Hồng anh hùng.
Mãi đến năm 39 tuổi, anh mới lập gia đình, với một cô giáo mầm
non, bạn của em gái. Anh để lại quê nhà người vợ trẻ đang mang thai đứa
con đầu lòng lên đường sang chiến trường Cam-pu-chia với những trận
đánh mới không kém phần khốc liệt...
Trận đánh lịch sử mùa xuân năm 1979
Đó là trận đánh quyết định tấn công vào thành phố PhnomPênh
mùng 7 tháng Giêng năm 1979. Sau ba ngày tấn công tại hướng chủ yếu Tây
Ninh, Quân đoàn 4 với sự yểm trợ của không quân, hải quân, thiết giáp,
trong đó có sự hỗ trợ của tiểu đoàn Sông Hồng do Lê Xuân Khảm chỉ huy,
đã đánh bật quân Khmer Đỏ khỏi các vị trí dọc theo tỉnh lộ 13. Sau khi làm
chủ sông Mê Kông, thừa thắng, quân ta đánh thẳng vào giải phóng thủ đô
PhnômPênh. Thượng tướng Hoàng Cầm đánh giá: “Nếu không có sự hỗ trợ
của Hải quân thì Quân đoàn 4 không thể tiến nhanh vào giải phóng
PhnômPênh như thế”. Nhận định của tướng Hoàng Cầm khẳng định vai trò
to lớn trong trận đánh lịch sử giải phóng Cam-pu-chia của hải quân ta trong
đó có tiểu đoàn Sông Hồng. Sau khi góp phần làm tròn nghĩa vụ quốc tế,
tiểu đoàn Sông Hồng được lệnh hành quân ra Bắc nhận nhiệm vụ mới tại
Thủ đô Hà Nội.
Sau hơn 19 năm lăn lộn khắp các chiến trường, vào Nam ra Bắc,
tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Khảm trở về đoàn tụ cùng gia đình ở Hải Phòng
và tiếp tục công việc dưới mái Trường Đại học Hàng hải với nhiệm vụ trợ lý
hiệu trưởng. Dù không đứng trên bục giảng, nhưng tấm lòng của người thầy,
người chiến sĩ vẫn luôn hướng về học trò thân yêu.
Tôi gặp thầy giáo-chiến sĩ Lê Xuân Khảm đúng dịp kỷ niệm 45 năm
Ngày thành lập Khoa Điện-điện tử tàu biển. Tôi bắt gặp nụ cười trên đôi môi
còn hằn vết sẹo chiến trường, nụ cười không nguyên vẹn nhưng niềm vui,
hạnh phúc thì trọn vẹn trên gương mặt có nhiều nếp nhăn của thầy giáo Lê
Xuân Khảm. Bao ước mơ thời trai trẻ thầy xếp lại vì độc lập, tự do của Tổ
quốc, giờ được hai người con trai của thầy tiếp tục thực hiện với niềm đam
mê yêu biển vô bờ...
______________________

Tết của đoàn tàu không số


(Dân trí)- Trong ký ức những đoàn viên cảm tử của đoàn tàu không
số, bữa cơm Tết trên biển là những bát cơm canh đỏ au như xôi gấc vì phôi
từ thùng đựng gỉ sét, "đặc sản" là tiếng gào thét của lớp lớp sóng biển, của
đạn bom và những phút giao thừa "quyết tử".
Từ những bữa cơm canh trộn gỉ sét
Trung tá Trần Hậu Vệ chỉ tay lên bức ảnh phóng to đặt trang trọng
ở giữa phòng trầm ngâm nói: "Đó là ảnh máy bay trinh sát của Mỹ chụp lại
một con tàu Không số của đoàn 125 (đoàn tàu không số). Kia là 2 khẩu súng
12 ly 7 đã giăng lưới trắng nguỵ trang, chỗ kia đặt thuốc nổ, khẩu DKZ đặt ở
góc này... Có lẽ đây là hình chụp tàu bí số 56 của chúng tôi, giống lắm".
Tác giả bài viết và Trung tá Trần Hậu Vệ
Câu chuyện người cựu binh nói với chúng tôi là về hai chữ "đồng
đội" mà rất nhiều người trong số đó đã mãi mãi nằm lại với biển sâu. Người
lính đoàn tàu không số khi ra đi đã nguyện mang theo lời thề "Quyết tử vì
Tổ quốc quyết sinh". Khi hy sinh, thân xác bọc vào "quan tài" nilon, gửi vào
lòng biển mong rằng sóng gió, thuỷ triều đưa về với đất liền, đồng đội. Đó
đã là chặng đường vượt biển cuối cùng của hàng trăm cán bộ, chiến sĩ đoàn
125.
***
Đầu những năm 1960, con đường mòn trên biển Đông chi viện
người, vũ khí từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam vẫn giữ được bí mật
tuyệt đối. Năm 1961, chàng tân binh quê Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh Trần Hậu Vệ
được phân công vào đội tàu "không số" khi vừa 19 tuổi. Trung tá Vệ nhớ lại:
"Tàu 56 của chúng tôi là một trong những con tàu sắt đầu tiên của đoàn tàu
không số thay cho những chiếc tàu gỗ làm nhiệm vụ trước đó từ năm 1961.
Tết năm 1964, tàu được dành riêng cho chiến dịch Bình Giã (1964)".
Tàu 56 đi lần này chở hơn 60 tấn vũ khí xuất phát từ quân cảng bí
mật tại Hải Phòng đi Bà Rịa ngay khi ông Vệ vừa hoàn thành nhiệm vụ với
chuyến tàu bí số 41. Mãi đến lúc đó, ông cùng hơn 10 thuỷ thủ đoàn trên tàu
56 vẫn không hề hay biết nguyên nhân của chuyến hành trình gấp gáp, chỉ
nghe cấp trên căn dặn: đây là chuyến đi đặc biệt, đi phải chắc thắng!
Vì là chuyến đi vào những ngày áp Tết nên khẩu phần ngoài đồ
dùng vật dụng, quần áo trang bị, vỏ bao, thuốc lá Trường Sơn, Tam Đảo đã
bóc hết nhãn mác, tàu 56 còn được chu cấp thêm bia, sữa và một lồng gà
sống. "Mọi dấu tích miền Bắc phải xoá sạch, nhưng anh em vẫn được "bí
mật" cấp thêm bánh chưng, để trên tàu có không khí đất mẹ, cho nguôi ngoai
nỗi nhớ miền Bắc trong những ngày lênh đênh".
Chuyến tàu đó có nhiều chiến sĩ trẻ người miền Bắc, lần đầu tiên ăn
Tết trên biển. Vì mới đi, còn "lạ miệng" với loại cơm đặc trưng của đoàn tàu
không số nên sức đề kháng cũng vì thế mà sút giảm.
Giải thích cho loại cơm đặc trưng đó, người cựu binh già vẽ vài nét
trên tấm giấy, chỉ ra loại từng thùng sắt thường để đựng cơm, rau, nước ngọt
trên tàu. Vì điều kiện đi biển khắc nghiệt, những thùng sắt này đều bị hoen
gỉ. Bữa ăn dọn ra, cơm luôn đỏ ngàu một màu như xôi gấc, nước canh cũng
đục ngầu như nước sông Hồng mùa lũ.
Nhưng chuyện nấu cơm xét ra mới thực là khổ. Gió mạnh, tàu
nghiêng ngả hết bên này đến bên kia, nhiều khi tới hơn 45 độ. Phải nấu bằng
1 cái nồi thật to, mức nước trong nồi cũng để thấp bởi đầy quá sẽ văng lung
tung hết. "Anh nuôi" thường do cán bộ miền Nam vốn là những ngư phủ lâu
năm đảm nhận. Hai tay cầm hai tay xách của nồi, người này đứng trong tư
thế nghiêm vững chãi, chỉ điều khiển hai tay lên xuống "khớp" với từng cơn
lên xuống của con tàu, để sao cho ngọn lửa "liếm" đều. Nhưng dù "anh nuôi"
trình độ có vững đến đâu, bữa nào cả tàu cũng phải ăn cơm khê.
Những người lính đoàn tàu không số năm xưa.
Rồi cái ngày cập bến đã đến. Đêm giao thừa, tàu vào đến cửa biển
thì địch ở căn cứ Vũng Tàu bắn pháo sáng rực góc trời. Căng mắt nhìn về
phía trước, mãi không thấy gì khác, cho đến khi tất cả gần như một lúc bật
reo khe khẽ: "có tín hiệu!". Thế rồi những điểm sáng ấy cứ lớn dần, đã thành
hình những bóng người đứng đợi, đã thành bóng các má, bóng đồng đội
dang tay vẫy... Chúng tôi nhìn nhau nước mắt vòng quanh mà không thể thốt
lên lời.
Chuyến đi này, tàu 56 có 2/3 cán bộ chiến sĩ là người Bà Rịa, gia
đình còn ở lại quê nhà, nhưng vì nhiệm vụ tuyệt mật nên khi đó không ai
được phép rời tàu. Có nhiều người như anh Lê Hà, gia đình chỉ cách nơi con
tàu đứng chân chừng non cây số mà đành nuốt nước mắt đợi ngày Tết đoàn
tụ khi hai miền Nam Bắc sum họp. Anh Tống Thành Lập, một cán bộ của
tàu được lãnh đạo "mật báo" là có người yêu đang tham gia vận chuyển hàng
nhưng cũng chỉ được lấp ló từ trong tàu nhìn ra.
Nối tiếp những huyền thoại
Tết Mậu Thân 1968, khi chiến trường miền Nam bước vào giai
đoạn quyết liệt nhất cũng là lúc những con tàu của đoàn 125 bước vào chiến
dịch. Những chuyến đi biển phục vụ đợt Mậu Thân trở thành trang sử huyền
thoại bi hùng nhất, chói lọi nhất của đoàn tàu không số.
Chiến dịch này đoàn 125 chuẩn bị 4 tàu, xuất phát ở 4 địa điểm
khác nhau và hẹn cùng cập bến, "xuống hàng" trong đêm đón giao thừa, vào
lúc địch lơ là nhất. Trước đó, "vụ án Vũng Rô" nổ ra, đường vận chuyển vũ
khí trên biển Bắc - Nam bị lộ, tuyến đường vận chuyển vũ khí trên biển càng
trở nên nguy hiểm hơn bao giờ hết.
Trước khi 4 chuyến tàu mang bí số 165, 56, 43 và 235 lần lượt xuất
phát, đại tướng Võ Nguyên Giáp căn dặn: "trong thời điểm khó khăn, gian
khổ và ác liệt này, 4 con tàu ra đi vào bến được một nửa cũng đã là thắng
lợi. Thậm chí thấp hơn, chỉ một con tàu trở về căn cứ an toàn chúng ta cũng
tự hào". Chuyến đi ấy, chỉ mình tàu 56 trở về.
Tàu 165 do thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm chỉ huy cùng 17 cán
bộ, thuỷ thủ khác vượt biển vào bến Vàm Lũng (Cà Mau). Nhưng khi vào
khu vực biển miền Nam Việt Nam, tàu bị tàu chiến, máy bay Mỹ bám riết.
Khi đến cận bờ vùng biển phía tây nam thì địch nổ súng. Sau nhiều giờ
chiến đấu, đạn hết, nhiều cán bộ chiến sĩ bị thương, hy sinh, trưởng tàu
quyết định lao thẳng tàu vào đội hình địch rồi chập kíp nổ. Đêm ấy, 18 cán
bộ thuỷ thủ đều hy sinh. Bức điện cuối cùng Sở chỉ huy nhận được từ 165 có
nội dung: "chuyển vào. Gặp máy bay trinh sát đi về phía hướng tàu vào -
Lương".
Tàu 43 do thuyền trưởng Nguyễn Đắc Thắng chỉ huy đi theo đường
dích dắc nhằm đánh lạc hướng trinh sát địch. Khi tàu cách Sa Kỳ (Quảng
Ngãi) vài chục hải lý thì xuất hiện nhiều tàu địch áp sát, bao vây, chạy vòng
quay và liên tục đánh điện hỏi. Thuyền trưởng Thắng quyết định cơ động tàu
để phá vòng vây tiến vào bờ "thả hàng toạ độ" nhưng tàu Mỹ xuất hiện ngày
càng đông. Cuộc chiến đẫm máu diễn ra. Sau khoảng 3 giờ, kế hoạch huỷ
tàu được thực hiện. Chỉ một số ít thuỷ thủ đoàn còn sống sót bơi vào bờ an
toàn.
Tàu 235 do thuyền trưởng Phan Vinh chỉ huy gặp địch tại vùng biển
Nha Trang, sau nhiều giờ chiến đấu đã buộc phải nổ tàu. Anh em cán bộ,
chiến sĩ hy sinh gần hết.
15 năm vượt biển mở đường về miền Nam Việt Nam, đoàn tàu
không số đã huy động gần 1900 lượt, vận chuyển trên 15 nghìn tấn hàng
hoá, vũ khí, hơn 80 nghìn lượt người với hàng vạn hải lý xuyên biển đông,
chống chọi và vượt qua hơn 20 cơn bão lớn; chiến đấu với hơn 30 lần tàu
chiến, 1200 lần với máy bay. Những con tàu không số dọc ngang trên biển
Đông đã làm nên chiến tích kỳ diệu.
Phúc Hưng
______________________

Nghe người 3 lần “cưỡi” tàu Không Số kể chuyện chiến đấu


(Dân trí) - Đó là Thượng úy Đồng Xuân Chế - nguyên thuyền
trưởng của đoàn tàu Không Số, người đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chở vũ khí
chi viện cho chiến trường miền Nam những năm kháng chiến.
Chúng tôi tìm về thôn Nam Sơn, xã Nghi Sơn, huyện Tĩnh Gia, tỉnh
Thanh Hóa gặp Thượng uý Đồng Xuân Chế - nguyên Thuyền trưởng đoàn
tàu Không Số. Sinh ra và lớn lên ở vùng quê miền biển đầy nắng gió nên dù
đã 75 tuổi nhưng trông ông vẫn còn khỏe mạnh với nước da sạm đen.
Ông Chế hồi tưởng lại những ngày còn tham gia chiến đấu
Ông vừa pha trà mời khách vừa như được sống lại cái cảm xúc của
những ngày “xẻ dọc trường sơn đi cứu nước”, rồi cảm xúc cứ thế tuôn trào
ra, ông kể dõng dạc, vanh vánh từng chuyến đi, từng trận đánh, những lần
giáp mặt với kẻ thù… khiến người nghe có cảm giác như mọi chuyện vừa
mới diễn ra hôm qua.
Đó là cuối những năm 60, địch phát hiện ra tuyến đường Hồ Chí
Minh trên biển của ta nên công tác vận chuyển vũ khí bằng đường biển trở
nên khó khăn gian khổ. Mỹ tăng cường đánh phá, phong toả, ngăn chặn việc
vận chuyển bằng đường Hồ Chí Minh trên biển của quân và dân ta.
Trong khi đó thời gian này, phong trào cách mạng miền Nam phát
triển mạnh mẽ, yêu cầu chi viện vũ khí ở chiến trường miền Đông Nam Bộ
trở nên vô cùng cấp bách và khẩn trương. Tháng 9/1970, ông được điều
động về làm thuyền phó 1, Tàu 54, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 125, nhận lệnh
chở 70 tấn vũ khí đi Rạch Gốc, Cà Mau.
Thuyền trưởng của con tàu 54 là anh Hai Đặng, anh Hai Hiệu là
chính trị viên. Con tàu xuất phát tại Cảng K35 Hải Phòng. Để tạo yếu tố bí
mật bất ngờ tàu đã thẳng hướng sang đảo Hải Nam Trung Quốc, đi dọc
tuyến phía Đông quần đảo Trường Sa của Việt Nam tiếp giáp Philippin.
Sinh ra và lớn lên ở vùng quê miền biển nên sóng nước với ông
không có gì là xa lạ, ông không thể quên cái thời “cưỡi sóng, đạp gió”: “Khi
đang ở vùng biển Philippin thì cơn bão số 8 xuất hiện. Con tàu nhỏ nhoi của
chúng tôi oằn mình giữa cơn cuồng phong của biển cả. Hòm đạn súng B41,
đạn ĐKZ cố định trên mặt boong đều bị sổ tung, 2 vây giảm lắc của tàu bị
sóng bẻ gãy hết nên con tàu cứ chòng chành như muốn chìm xuống đáy đại
dương vậy”.
Rồi giọng ông lại trầm xuống: “Thời điểm đó, phần đông cán bộ
chiến sĩ đã nhịn ăn, nhịn uống làm việc, qua nhiều giờ liền vật vã với con
thuyền trong bão khiến mọi người gần như kiệt sức. Trước tình thế gay go
tàu gần như không thể đi nổi, việc xác định vị trí tàu bằng thiên văn không
thể tiến hành được, buộc phải dùng phương pháp tính nhích dần để xác định
vị trí tàu. Chi uỷ hội ý và điện về Bộ Quốc phòng xin chỉ thị, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp trả lời: “Đây là thời cơ tốt các đồng chí cố gắng vượt qua với
tinh thần chỉ có tiến công”.
Ông Chế không bao giờ quên về những ngày tháng lịch sử trên
những chuyến tàu không số
Mệnh lệnh đã nhận, và tiếng gọi của đồng bào miền Nam đang vẫy
gọi nên mọi người lại động viên nhau quyết không rời tay lái và vị trí chiến
đấu của mình, quyết tâm đưa con tàu vượt qua bão táp tiếp tục hành trình.
Theo dự kiến 3h sáng là tàu cập bến, nhưng do ảnh hưởng bão nên
mãi 7h tàu mới vào bến. Quá muộn so với thời gian đã hẹn nên người dẫn
đường đã rút lui. Đang loay hoay không biết xử lý thế nào thì bỗng dưng
máy bay tuần tra của địch ập đến, tất cả anh em đã sẵn sàng chiến đấu nhưng
rất may chúng đã không phát hiện ra tàu của ta. Khi máy bay rút, các chiến
sỹ đã nhanh chóng nguỵ trang tàu thành công.
Sau gần một tuần giao hàng xong, con tàu nhận được lệnh cấp trên
rút về Bắc. Tuy nhiên, tính huống xấu lại ập đến, khi đang chờ nhận ít hàng
chi viện, bất ngờ chiếc thuyền B10 bốc cháy, đạn phát nổ đã tạo ra một
quầng lửa sáng rực. Nghe tiếng đạn nổ và vùng lửa sáng, máy bay địch gần
đó đã xuất hiện và lùng sục.
Tình thế cấp bách, Ban chỉ huy tàu hội ý và quyết định cho tàu khẩn
trương rời khỏi khu vực nguy hiểm. Khi tàu vừa ra khỏi rạch thì máy bay
địch ở sân bay Bạc Liêu bám theo sát, ngoài biển thấy đèn tàu địch thấp
thoáng hình như địch đã phát hiện được tàu của ta và đang đón lõng.
Ban chỉ huy tàu báo động toàn tàu sẵn sàng chiến đấu và cho tàu
bám bờ đi theo hướng Gành Hào để tránh ra đa của địch phát hiện. Khoảng
một giờ sau địch bị mất mục tiêu, máy bay và tàu địch đã rút.
Sau chuyến đi này, tàu 54 đã được cấp trên khen ngợi, do mất sức
nhiều nên ông Chế được ở lại bệnh viện điều trị một thời gian. Sau khi xuất
viện ông được điều động về tàu 56, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 125 để nhận
nhiệm vụ mới.
Đấy là vào một ngày cuối tháng 8/1971, tàu 649 (phiên hiệu mới
của tàu 56) nhận lệnh vận chuyển 70 tấn vũ khí vào chiến trường miền Nam.
Đầu tháng 11/1971, tàu xuất phát tại Bái Tử Long, để tránh sự do thám của
địch, tàu tiến ra đảo Hải Nam (Trung Quốc) rồi đi thẳng xuống những bãi
cạn của quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa (Việt Nam). Rút kinh nghiệm lần
trước, chuyến này vũ khí được bọc vải màn tẩm mỡ chống ẩm và buộc dây
ni lông phi 10 chữ thập. Trên tàu ngoài 18 cán bộ chiến sĩ còn có 2 người
nhái đặc công của Đoàn 126. Do phải đi lách trên các bãi đá ngầm Hoàng
Sa, Trường Sa nên yêu cầu việc xác định vị trí tàu bằng thiên văn và lái tàu
phải thật chuẩn xác. Chỉ cần sơ xuất một chút là tàu có thể cưỡi lên đá ngầm.
Chuyến đi này có hai phương án: Phương án một là đi Cà Mau -
Rạch Giá. Phương án hai thả vũ khí ở chân Đảo Cô Công nếu bến Cà Mau.
Bộ Tổng tham mưu quyết định chọn phương án hai.

Ông Chế chỉ chuyến tàu không số mà năm xưa ông đã cùng đồng
đội vận chuyển chi viện vũ khí cho chiến trường miền Nam
Ông Chế chỉ còn nhớ, đấy là cuối tháng 11/1971 sau khi nhận được
điện, Chi uỷ cùng Ban chỉ huy tàu họp bàn nhận định đây là thời cơ tốt cần
nhanh chóng cơ động vào bến ngay trong đêm thứ 7, vì lúc đó địch thường
hay mất cảnh giác. Nếu đi theo kế hoạch cũ thì sang tối chủ nhật mới vào
bến và thả hàng được, tàu đã nhanh chóng cắt hướng và báo cáo về Bộ Tổng
tham mưu, Bộ nhất trí theo phương án của Chi uỷ và Ban chỉ huy tàu.
Đến 23h, tàu đến vùng biển Thái Lan và chuyển hướng về Đảo Cô
Công - Campuchia, khi gần đến bến bất ngờ có tàu lạ bám sát. Các chiến sỹ
đã sẵn sàng tinh thần chiến đấu, nhưng khoảng 15 phút tàu lạ lại rời xa.
Tuy nhiên, khi vào đến bến, một tình huống ngoài dự kiến đã xảy
ra, khi bấm tín hiệu nhận nhau với bến thì bến lại trả lời sai tín hiệu. Theo
quy định để đảm bảo an toàn chậm nhất 3 giờ sáng tàu phải rời khỏi bến.
Thời gian thả hàng đã quá gấp không thể chờ đợi thêm được nữa,
nếu không sẽ nguy hiểm đến tính mạng chung của cả con tàu. Ban chỉ huy
tàu hội ý và quyết định cử đồng chí Văn Đình Nhu cán bộ, đồng chí Nhật
ngành trưởng hoả lực, cùng 2 đồng chí đặc công người nhái mang vũ khí tập
kích bắt sống người đánh tín hiệu trả lời của bến và đưa được về tàu. Hoá ra
đó là chiến sĩ liên lạc Quân giải phóng của ta.
Ban chỉ huy tàu yêu cầu đồng chí dẫn đường về bến thả hàng, lúc đó
là 00h10 phút tàu phân công 9 đồng chí trực chiến đấu, còn lại 9 đồng chí
bốc vũ khí từ dưới hầm tàu có độ cao 4m và thả xuống biển. Tàu không thả
neo, chúng tôi thả hàng thành 2 đống. Với sức mạnh thần kỳ chỉ với 9 người
và trong hơn 3h đồng hồ, 70 tấn vũ khí đã được cập bến an toàn. Đồng chí
Lê Duẩn đã đánh giá “Đây là sức mạnh diệu kỳ” mà các chiến sỹ trên tàu 56
đã làm được.
Sau hai chuyến đi thành công, Thượng úy Đồng Xuân Chế được
Nhà nước tặng thưởng Huân chương Quân công hạng 3. Đến tháng 5/1972,
ông được giao nhiệm vụ làm Thuyền trưởng con tàu 649 vận chuyển 70 tấn
vũ khí tiếp ứng cho chiến trường Quảng Trị. Và lần này ông đã hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Rời quân ngũ trở về quê, ông được địa phương tín nhiệm bầu làm
chủ nhiệm HTX Nghi Sơn. Trong chiến đấu chống kẻ thù, ông là một người
lính tài ba, khi trở về với đời thường ông lại là người hùng trong lao động
sản xuất.
Hàng ngày, hai vợ chồng ông vẫn vui vẻ sống tuổi già
Ông tâm sự: “Ngày trước cuộc sống của bà con nơi đây còn gặp
nhiều khó khăn lắm, cơ sở vật chất thì nghèo nàn, lạc hậu, tư liệu sản xuất
thì chủ yếu là sức người”.
Chỉ trong một thời gian ngắn ông cùng các đồng chí lãnh đạo HTX
Nghi Sơn đã biến một vùng đất được ví là túi bom của đế quốc Mỹ thành
một HTX kiểu mẫu của tỉnh, từ chỗ cơ giới hoá chỉ có 10% nay đã tăng lên
đến 85%, một trong những điểm phát triển nghề cá giỏi nhất nhì Thanh Hoá
lúc bấy giờ.
Với những cống hiến đó, ông vinh dự được đi dự điển hình làm
kinh tế giỏi toàn miền Bắc, được UBND tỉnh Thanh Hoá cấp bằng đánh cá
giỏi, Hội Nông dân Việt Nam tặng Huân chương vì sự nghiệp giải phóng sức
lao động…
Ông và bà Trần Thị Y (75 tuổi) có 5 người con và tất cả đã trưởng
thành, lập gia đình ra ở riêng. Cả cuộc đời ông như gắn bó với biển cả, dù đã
ở cái tuổi xưa nay hiếm, nhưng người chiến sỹ trên những chuyến tàu vào
Nam ra Bắc năm xưa giờ đây hàng ngày vẫn đi biển đánh cá...
Duy Tuyên - Tuấn Thanh
______________________

Nghe người 3 lần “cưỡi” tàu Không Số kể chuyện chiến đấu


(Dân trí) - Đó là Thượng úy Đồng Xuân Chế - nguyên thuyền
trưởng của đoàn tàu Không Số, người đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chở vũ khí
chi viện cho chiến trường miền Nam những năm kháng chiến.
Chúng tôi tìm về thôn Nam Sơn, xã Nghi Sơn, huyện Tĩnh Gia, tỉnh
Thanh Hóa gặp Thượng uý Đồng Xuân Chế - nguyên Thuyền trưởng đoàn
tàu Không Số. Sinh ra và lớn lên ở vùng quê miền biển đầy nắng gió nên dù
đã 75 tuổi nhưng trông ông vẫn còn khỏe mạnh với nước da sạm đen.
Ông Chế hồi tưởng lại những ngày còn tham gia chiến đấu
Ông vừa pha trà mời khách vừa như được sống lại cái cảm xúc của
những ngày “xẻ dọc trường sơn đi cứu nước”, rồi cảm xúc cứ thế tuôn trào
ra, ông kể dõng dạc, vanh vánh từng chuyến đi, từng trận đánh, những lần
giáp mặt với kẻ thù… khiến người nghe có cảm giác như mọi chuyện vừa
mới diễn ra hôm qua.
Đó là cuối những năm 60, địch phát hiện ra tuyến đường Hồ Chí
Minh trên biển của ta nên công tác vận chuyển vũ khí bằng đường biển trở
nên khó khăn gian khổ. Mỹ tăng cường đánh phá, phong toả, ngăn chặn việc
vận chuyển bằng đường Hồ Chí Minh trên biển của quân và dân ta.
Trong khi đó thời gian này, phong trào cách mạng miền Nam phát
triển mạnh mẽ, yêu cầu chi viện vũ khí ở chiến trường miền Đông Nam Bộ
trở nên vô cùng cấp bách và khẩn trương. Tháng 9/1970, ông được điều
động về làm thuyền phó 1, Tàu 54, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 125, nhận lệnh
chở 70 tấn vũ khí đi Rạch Gốc, Cà Mau.
Thuyền trưởng của con tàu 54 là anh Hai Đặng, anh Hai Hiệu là
chính trị viên. Con tàu xuất phát tại Cảng K35 Hải Phòng. Để tạo yếu tố bí
mật bất ngờ tàu đã thẳng hướng sang đảo Hải Nam Trung Quốc, đi dọc
tuyến phía Đông quần đảo Trường Sa của Việt Nam tiếp giáp Philippin.
Sinh ra và lớn lên ở vùng quê miền biển nên sóng nước với ông
không có gì là xa lạ, ông không thể quên cái thời “cưỡi sóng, đạp gió”: “Khi
đang ở vùng biển Philippin thì cơn bão số 8 xuất hiện. Con tàu nhỏ nhoi của
chúng tôi oằn mình giữa cơn cuồng phong của biển cả. Hòm đạn súng B41,
đạn ĐKZ cố định trên mặt boong đều bị sổ tung, 2 vây giảm lắc của tàu bị
sóng bẻ gãy hết nên con tàu cứ chòng chành như muốn chìm xuống đáy đại
dương vậy”.
Rồi giọng ông lại trầm xuống: “Thời điểm đó, phần đông cán bộ
chiến sĩ đã nhịn ăn, nhịn uống làm việc, qua nhiều giờ liền vật vã với con
thuyền trong bão khiến mọi người gần như kiệt sức. Trước tình thế gay go
tàu gần như không thể đi nổi, việc xác định vị trí tàu bằng thiên văn không
thể tiến hành được, buộc phải dùng phương pháp tính nhích dần để xác định
vị trí tàu. Chi uỷ hội ý và điện về Bộ Quốc phòng xin chỉ thị, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp trả lời: “Đây là thời cơ tốt các đồng chí cố gắng vượt qua với
tinh thần chỉ có tiến công”.
Ông Chế không bao giờ quên về những ngày tháng lịch sử trên
những chuyến tàu không số
Mệnh lệnh đã nhận, và tiếng gọi của đồng bào miền Nam đang vẫy
gọi nên mọi người lại động viên nhau quyết không rời tay lái và vị trí chiến
đấu của mình, quyết tâm đưa con tàu vượt qua bão táp tiếp tục hành trình.
Theo dự kiến 3h sáng là tàu cập bến, nhưng do ảnh hưởng bão nên
mãi 7h tàu mới vào bến. Quá muộn so với thời gian đã hẹn nên người dẫn
đường đã rút lui. Đang loay hoay không biết xử lý thế nào thì bỗng dưng
máy bay tuần tra của địch ập đến, tất cả anh em đã sẵn sàng chiến đấu nhưng
rất may chúng đã không phát hiện ra tàu của ta. Khi máy bay rút, các chiến
sỹ đã nhanh chóng nguỵ trang tàu thành công.
Sau gần một tuần giao hàng xong, con tàu nhận được lệnh cấp trên
rút về Bắc. Tuy nhiên, tính huống xấu lại ập đến, khi đang chờ nhận ít hàng
chi viện, bất ngờ chiếc thuyền B10 bốc cháy, đạn phát nổ đã tạo ra một
quầng lửa sáng rực. Nghe tiếng đạn nổ và vùng lửa sáng, máy bay địch gần
đó đã xuất hiện và lùng sục.
Tình thế cấp bách, Ban chỉ huy tàu hội ý và quyết định cho tàu khẩn
trương rời khỏi khu vực nguy hiểm. Khi tàu vừa ra khỏi rạch thì máy bay
địch ở sân bay Bạc Liêu bám theo sát, ngoài biển thấy đèn tàu địch thấp
thoáng hình như địch đã phát hiện được tàu của ta và đang đón lõng.
Ban chỉ huy tàu báo động toàn tàu sẵn sàng chiến đấu và cho tàu
bám bờ đi theo hướng Gành Hào để tránh ra đa của địch phát hiện. Khoảng
một giờ sau địch bị mất mục tiêu, máy bay và tàu địch đã rút.
Sau chuyến đi này, tàu 54 đã được cấp trên khen ngợi, do mất sức
nhiều nên ông Chế được ở lại bệnh viện điều trị một thời gian. Sau khi xuất
viện ông được điều động về tàu 56, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 125 để nhận
nhiệm vụ mới.
Đấy là vào một ngày cuối tháng 8/1971, tàu 649 (phiên hiệu mới
của tàu 56) nhận lệnh vận chuyển 70 tấn vũ khí vào chiến trường miền Nam.
Đầu tháng 11/1971, tàu xuất phát tại Bái Tử Long, để tránh sự do thám của
địch, tàu tiến ra đảo Hải Nam (Trung Quốc) rồi đi thẳng xuống những bãi
cạn của quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa (Việt Nam). Rút kinh nghiệm lần
trước, chuyến này vũ khí được bọc vải màn tẩm mỡ chống ẩm và buộc dây
ni lông phi 10 chữ thập. Trên tàu ngoài 18 cán bộ chiến sĩ còn có 2 người
nhái đặc công của Đoàn 126. Do phải đi lách trên các bãi đá ngầm Hoàng
Sa, Trường Sa nên yêu cầu việc xác định vị trí tàu bằng thiên văn và lái tàu
phải thật chuẩn xác. Chỉ cần sơ xuất một chút là tàu có thể cưỡi lên đá ngầm.
Chuyến đi này có hai phương án: Phương án một là đi Cà Mau -
Rạch Giá. Phương án hai thả vũ khí ở chân Đảo Cô Công nếu bến Cà Mau.
Bộ Tổng tham mưu quyết định chọn phương án hai.
Ông Chế chỉ chuyến tàu không số mà năm xưa ông đã cùng đồng
đội
vận chuyển chi viện vũ khí cho chiến trường miền Nam
Ông Chế chỉ còn nhớ, đấy là cuối tháng 11/1971 sau khi nhận được
điện, Chi uỷ cùng Ban chỉ huy tàu họp bàn nhận định đây là thời cơ tốt cần
nhanh chóng cơ động vào bến ngay trong đêm thứ 7, vì lúc đó địch thường
hay mất cảnh giác. Nếu đi theo kế hoạch cũ thì sang tối chủ nhật mới vào
bến và thả hàng được, tàu đã nhanh chóng cắt hướng và báo cáo về Bộ Tổng
tham mưu, Bộ nhất trí theo phương án của Chi uỷ và Ban chỉ huy tàu.
Đến 23h, tàu đến vùng biển Thái Lan và chuyển hướng về Đảo Cô
Công - Campuchia, khi gần đến bến bất ngờ có tàu lạ bám sát. Các chiến sỹ
đã sẵn sàng tinh thần chiến đấu, nhưng khoảng 15 phút tàu lạ lại rời xa.
Tuy nhiên, khi vào đến bến, một tình huống ngoài dự kiến đã xảy
ra, khi bấm tín hiệu nhận nhau với bến thì bến lại trả lời sai tín hiệu. Theo
quy định để đảm bảo an toàn chậm nhất 3 giờ sáng tàu phải rời khỏi bến.
Thời gian thả hàng đã quá gấp không thể chờ đợi thêm được nữa,
nếu không sẽ nguy hiểm đến tính mạng chung của cả con tàu. Ban chỉ huy
tàu hội ý và quyết định cử đồng chí Văn Đình Nhu cán bộ, đồng chí Nhật
ngành trưởng hoả lực, cùng 2 đồng chí đặc công người nhái mang vũ khí tập
kích bắt sống người đánh tín hiệu trả lời của bến và đưa được về tàu. Hoá ra
đó là chiến sĩ liên lạc Quân giải phóng của ta.
Ban chỉ huy tàu yêu cầu đồng chí dẫn đường về bến thả hàng, lúc đó
là 00h10 phút tàu phân công 9 đồng chí trực chiến đấu, còn lại 9 đồng chí
bốc vũ khí từ dưới hầm tàu có độ cao 4m và thả xuống biển. Tàu không thả
neo, chúng tôi thả hàng thành 2 đống. Với sức mạnh thần kỳ chỉ với 9 người
và trong hơn 3h đồng hồ, 70 tấn vũ khí đã được cập bến an toàn. Đồng chí
Lê Duẩn đã đánh giá “Đây là sức mạnh diệu kỳ” mà các chiến sỹ trên tàu 56
đã làm được.
Sau hai chuyến đi thành công, Thượng úy Đồng Xuân Chế được
Nhà nước tặng thưởng Huân chương Quân công hạng 3. Đến tháng 5/1972,
ông được giao nhiệm vụ làm Thuyền trưởng con tàu 649 vận chuyển 70 tấn
vũ khí tiếp ứng cho chiến trường Quảng Trị. Và lần này ông đã hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Rời quân ngũ trở về quê, ông được địa phương tín nhiệm bầu làm
chủ nhiệm HTX Nghi Sơn. Trong chiến đấu chống kẻ thù, ông là một người
lính tài ba, khi trở về với đời thường ông lại là người hùng trong lao động
sản xuất.
Hàng ngày, hai vợ chồng ông vẫn vui vẻ sống tuổi già
Ông tâm sự: “Ngày trước cuộc sống của bà con nơi đây còn gặp
nhiều khó khăn lắm, cơ sở vật chất thì nghèo nàn, lạc hậu, tư liệu sản xuất
thì chủ yếu là sức người”.
Chỉ trong một thời gian ngắn ông cùng các đồng chí lãnh đạo HTX
Nghi Sơn đã biến một vùng đất được ví là túi bom của đế quốc Mỹ thành
một HTX kiểu mẫu của tỉnh, từ chỗ cơ giới hoá chỉ có 10% nay đã tăng lên
đến 85%, một trong những điểm phát triển nghề cá giỏi nhất nhì Thanh Hoá
lúc bấy giờ.
Với những cống hiến đó, ông vinh dự được đi dự điển hình làm
kinh tế giỏi toàn miền Bắc, được UBND tỉnh Thanh Hoá cấp bằng đánh cá
giỏi, Hội Nông dân Việt Nam tặng Huân chương vì sự nghiệp giải phóng sức
lao động…
Ông và bà Trần Thị Y (75 tuổi) có 5 người con và tất cả đã trưởng
thành, lập gia đình ra ở riêng. Cả cuộc đời ông như gắn bó với biển cả, dù đã
ở cái tuổi xưa nay hiếm, nhưng người chiến sỹ trên những chuyến tàu vào
Nam ra Bắc năm xưa giờ đây hàng ngày vẫn đi biển đánh cá...
Duy Tuyên - Tuấn Thanh

You might also like