Tôi chưa bao giờ gọi ông là nhà thơ Bút Tre. Ông cũng chỉ dám nhận mình là một “vè sĩ”. Nhưng về lối sống, nhân cách của ông thì tôi thật sự kính phục. Có dạo cả tỉnh truyền miệng ông mang sắn nộp cho lãnh đạo tỉnh. Chuyện là thế này: Một hôm văn phòng Uỷ ban tỉnh báo ông đem đàn pianô đến phòng khách của tỉnh cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp mượn chơi trong thời gian thăm và làm việc ở Phú Thọ. Ông Đăng (Bút Tre) lúc ấy là Trưởng ty Văn hoá tỉnh bèn chọc chọc tay giục: - Đồng chí cử về đi, tôi sẽ đem đến ngay. Tức thì ông Đăng đến hỏi một vị lãnh đạo tỉnh: - Các đồng chí cần lấy mấy gánh sắn để tôi cho cân ngay... Ông lãnh đạo ngơ ngác hỏi: - Cái gì, ai bảo lấy sắn? - Thì tôi xin mua đàn pianô cho văn công, các đồng chí đều lắc bảo: Tỉnh ta đang tập trung cho chiến dịch trồng sắn. Tất cả cho sắn, không có nô niệc gì. Bây giờ các đồng chí hỏi tôi đàn pianô, tôi chỉ có sắn đem đến thôi. Tôi ngờ anh em do yêu mến ông Bút Tre mà phía ra chuyện trên. Một hôm, lựa lúc tôi hỏi ông Bút Tre: - Có chuyện bác đem sắn sang cho lãnh đạo tỉnh không? Ông Đăng vỗ đùi cười “hớ” một tiếng: - Tớ sợ chó gì mà không nói! Quãng năm bảy mốt, bảy hai, còn một vị uỷ viên Thường vụ Tỉnh uỷ chỉ thị cho chúng tôi không được viết “Lễ, hội đền Hùng” vì, theo giải thích của vị lãnh đạo ấy thì lễ và hội là của thời phong kiến đế quốc. Vì thế chỉ được “mít tinh kỷ niệm Hùng Vương”. Nếu tranh luận sẽ bị vị ấy bóp chết tươi nhưng trong lòng tôi thì không yên. Tôi mang nỗi băn khoăn giãi bày cùng ông Bút Tre. Ông xua tay nói: - Chớ dại ra mặt chống họ nhưng cứ đúng mình làm. Tôi biết ông là người có nguyên tắc làm theo cái đúng, không chịu hùa theo cái sai. Để câu nói của Bác Hồ “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” không bị nằm im trong tờ báo nội bộ của Đại đoàn quân Tiên Phong, ông Bút Tre đã phải tranh thủ mọi diễn đàn ở trung ương, địa phương, gặp từ Thủ tướng Phạm Văn Đồng đến đồng chí Trường- Chinh đề nghị cho đề từ câu nói đó trong những bộ sách lớn của đất nước để câu nói của Bác trở thành câu danh ngôn giáo dục lòng yêu nước cho toàn dân. Ở địa phương cũng có chủ trương viết câu trên trong một bức hoành phi sơn mài nhưng nghị quyết tập thể bắt thêm vào chữ “đất” để có câu “hoàn chỉnh”: “Các Vua Hùng đã có công dựng đất nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy đất nước”. Sở dĩ bắt thêm chữ “đất”, vì họ đọc được bài phát biểu của Bác ở Hội nghị thuỷ lợi năm 1957 có câu nói đại ý: “Nói đến đất phải nói đến nước vì ít nước thì hạn hán, nhiều nước thì úng ngập”. Mặc dù ông Bút Tre đã trình bày rõ “nước” ở trong câu nói của Bác ở Đền Hùng là đất nước - Tổ quốc, chứ không phải nước uống, nước tưới ruộng, nhưng ngày ấy thiểu số phải phục tùng đa số, nên bức hoành phi vẫn phải làm theo ý kiến lãnh đạo tập thể. Tuy nhiên, ông Bút Tre đã ngấm ngầm nhét bức hoành phi ấy vào kho, không cho treo ở đâu. Trong khi ấy, ông thông qua báo chí ở trung ương in đúng như câu Bác nói (không có chữ đất) và cho viết đúng như vậy trên tấm vải lớn căng ngang đường lên cổng Đền Hùng vào dịp lễ hội. Vì có sách báo trung ương làm căn cứ nên không ai còn khiển trách ông “chống lại tập thể”. Vì không hùa theo cái sai, cứ đúng mà làm nên ông đã có công gìn giữ được nhiều di tích lịch sử, di tích văn hoá ở tỉnh mình. Ngày ấy, do ấu trĩ người ta đua nhau đập phá các di tích để chống mê tín dị đoan. Riêng ông Bút Tre vẫn chỉ thị cho cán bộ của mình phải có ý thức bảo tồn các di tích lịch sử, di tích văn hoá. Ngay từ năm 1957, ông đã cử cán bộ đi học đại học chính quy khoa Lịch sử để về phụ trách Ban quản lý Đền Hùng. Nhờ vậy sau này Khu di tích mới có một ban quản lý có chuyên môn cao. Họ không phải là các ông từ giữ đền mà là những cử nhân, tiến sĩ, những người làm khoa học; đã có công phát hiện hàng trăm di chỉ văn hoá Đông Sơn Gò Mun, Đồng Đậu, Phùng Nguyên, Sơn Vi ở quanh Phú Thọ. Họ góp phần tìm ra số trống đồng ở Phú Thọ nhiều nhất cả nước và 1 chiếc trống đồng ở gần chân núi Đền Hùng cũng có kích cỡ lớn nhất nước. Một lần, vô tình tôi đọc được trong hồi ký của ông chuyện ông tò mò bạo gan đi vào phòng họp của Bộ Chính trị. Ngày ấy Thủ tướng Phạm Văn Đồng còn kiêm Bộ trưởng Bộ ngoại giao. Ông Ung Văn Khiêm là Thứ trưởng thường trực. Ông Bút Tre là Thư ký đặc biệt của Bộ. Trong một phiên họp Bộ Chính trị bàn về công tác ngoại giao, ông Khiêm điện cho ông Đăng (Bút Tre) đem ngay đến hội nghị một tài liệu tối mật để Bộ ngoại giao báo cáo Bộ Chính trị. Theo nguyên tắc, ông Bút Tre phải đem giao văn bản ấy các Chánh Văn phòng T.Ư đem vào phòng họp nhưng nảy ra ý định tò mò muốn được vào xem phòng họp của Bộ Chính trị, nên ông làm ra vẻ quan trọng hoá bảo ông Khiêm chỉ thị phải đưa tận tay tài liệu tối quan trọng này nên bộ phận thường trực đồng ý cho ông vào. Những năm đầu kháng chiến chống Pháp, ông công tác ở cơ quan T.Ư vốn đã rất gần gũi với Bác Hồ và các đồng chí uỷ viên Bộ Chính trị nên cũng chẳng ai nghi ngờ ông. Do vậy, người ta cử nhân viên bảo vệ đưa ông đến phòng họp. Sắp đến cửa ông thật sự run sợ nhưng đã trót nói dối nên phải liều làm ra vẻ thản nhiên tiến thẳng đến cửa phòng họp. Lúc ấy Thủ tướng Phạm Văn Đồng đang phát biểu. Thấy có bóng người, Thủ tướng ngừng lời. Mọi người nhìn ông. Phòng họp ngồi theo hình vuông. Ông Khiêm ngồi cạnh Thủ tướng Phạm Văn Đồng ở dãy trong. Ông phải hai tay bưng tập tài liệu giơ lên rồi đi vòng sau lưng Bác Hồ vào đưa cho ông Khiêm. Sau đó đi tiếp vòng sau lưng đồng chí Trường Chinh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp để đi ra cửa. Chiều ấy về ông Ung Văn Khiêm nói: - Duy nhất có đồng chí dám đi vào hội nghị ấy. Đó là lần cuối cùng, đồng chí nhé! - Vâng vâng, lần sau bố bảo tôi cũng không dám đâu, anh ạ! Ít lâu sau ông được cử về phụ trách báo chí tuyên truyền của tỉnh Phú Thọ. Khi hợp nhất Phú Thọ và Vĩnh Phúc thành tỉnh Vĩnh Phú, về lý thuyết thì nội bộ các cơ quan của ta không có bè phái cục bộ địa phương nhưng thực tế thì không hoàn toàn như vậy. Ông Bút Tre không khỏi bị cuốn hút vào cái vòng xoáy của cơ chế ấy. Dạo đó người miền Tây (Phú Thọ) và người miền Đông (Vĩnh phúc) trong cùng cơ quan khó đoàn kết tin cậy nhau thật lòng. Tuy vậy, tôi vẫn thấy ông là cán bộ miền Tây đặc biệt tin cậy yêu mến ông Ngô Quang Nam, Trưởng ty Văn hoá là người miền Đông. Ông quý ông Nam không chỉ vì đạo đức, tác phong công tác của ông Nam mà còn vì ông Nam là cháu chắt cụ tiến sĩ Nguyễn Quang Bích, là Hiệp thống Quân vụ đại thần Bắc Kỳ, người lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp ở vùng Tây Bắc lấy làng ông làm một căn cứ địa, sau này khi ông qua đời vợ chồng cậu Phiến, con ông đưa cho tôi tập bản thảo thơ dày cộp chưa in, hầu hết là thơ Đường làm đúng niêm luật ca ngợi bạn bè đồng chí, đặc biệt có rất nhiều bài tặng ông Ngô Quang Nam. Rõ ràng ông Bút Tre, đối với ông Nam không mảy may bị tư tưởng chia rẽ, mất đoàn kết miền vùng chi phối. Lại nói tại một cuộc phê bình lãnh đạo ở Ty Văn hoá trước đây, nhờ ông Đăng mà một vị phó ty thoát tội. Ngày ấy phê bình kiểm điểm cũng gần đồng nghĩa với kỷ luật. Vị phó ty nọ bị cán bộ cơ quan phê bình mổ xẻ tưởng không thoát khỏi tội lỗi. Không khí cuộc kiểm điểm căng thẳng tưởng không thể nào tháo gỡ. Trong hoàn cảnh khó khăn cho vị phó ty ấy ông Bút Tre liền đứng dậy nói: - Những sai lầm của đồng chí phó ty đều do tôi gây nên. Tôi là trưởng ty ra chủ trương và quản lý chung cho nên tôi mới là thủ phạm chính. Tôi sẵn sàng xin chịu kỷ luật thay đồng chí phó ty. Nhờ tinh thần dám chịu trách nhiệm của ông Bút Tre mà ông phó ty nọ mới thoát hiểm. Cả Ty Văn hoá đều trầm trồ ca ngợi đạo đức và lối sống giản dị của ông. Khi ông làm thơ Hoan hô Đại tướng Võ Nguyên Giáp ta thắng trận Điện Biên trở về ông bị “dọn vườn” trên báo. Cấp dưới nhắc nhở nhưng ông bảo: “Tớ cứ làm. Tớ làm ca vè chứ có làm thơ đâu mà sợ. Tớ viết buồn cười như vậy người ta mới nhớ lâu vị Đại tướng kính yêu của mình”. Do cố ý làm ra lối thơ buồn cười mà dân gian mới thả sức phóng tác theo lối thơ ông để giải trí mua vui: Ông có công tạo ra dòng thơ dân gian Bút Tre. Nhờ có bản lĩnh, dám làm theo cái đúng mà ông mới được dân gian tôn vinh là ông Bút Tre. ______________________