You are on page 1of 19

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 2
1. MỞ ĐẦU VỀ PHỨC CHẤT 3
1.1. Những khái niệm cơ bản: 3
1.2. Phân loại các phức chất 4
2. ỨNG DỤNG CỦA PHỨC CHẤT 7
2.1. Ứng dụng trong việc trị bệnh lao 8
2.2. Ứng dụng trong việc điều trị ung thư 9
2.2.1. Cis-Diamminedichloroplatinum(II) (cis-[Pt(Cl)2(NH3)2],
cisplatin, hay cis-DDP) 9
2.2.2. Carboplatin 10
2.2.3. Oxaliplatin 11
2.2.4. Nedaplatin 12
2.2.5. Chlorophyll 13
2.3. Điều trị bệnh viêm khớp 13
2.4. Giải độc kim loại nặng 14
2.4.1. Tủa xanh Berlin 14
2.4.2. Dimercaprol 14
2.4.3. Natri calci edetat 15
2.4.4. Penicilamin hydrochlorid 16
2.5. Ứng dụng trong việc điều trị bệnh thiếu máu 16
KẾT LUẬN 18
TÀI LIỆU THAM KHẢO 19

1
LỜI MỞ ĐẦU
Từ ngày xưa, con người đã trải qua các trận dịch bệnh nhưng khi đó ngành
y học còn lạc hậu nên dịch bệnh lúc bấy giờ đối với con người là một nỗi kinh
hoàng. Thuốc là một sản phẩm cần thiết, có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của
con người. Hiện nay, theo xu hướng chung của thế giới hiện đại, việc sử dụng
thuốc và thực phẩm chức năng có nguồn gốc tự nhiên đã và đang rất được mọi
người trên thế giới quan tâm, đặc biệt là người Việt Nam. Hóa dược ra đời là
ngành khoa học dựa trên nền tảng là hóa học để từ đó nghiên cứu các vấn đề của
các ngành khoa học sinh học, y học và dược học. Đây là một ngành khoa học thể
hiện sự kết hợp giữa hóa hữu cơ và sinh hóa, hóa tin học, dược lý, sinh học phân
tử, các phức chất… Thành tựu nghiên cứu khoa học thường được áp dụng trong y
học, trước tiên để điều chế dược phẩm, chế tạo các phụ tùng thay thế các cơ quan
nội tạng, chữa bệnh ung thư, làm đẹp… Lợi ích của dược học mang lại khá cao
nên được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm chú trọng, tạo điều kiện phát triển
về thiết bị kĩ thuật và nguồn nhân lực. Điều này chẳng có gì lạ vì nhiệm vụ của
nó là chăm sóc cho sự sống của chính con người. Ngoài ra, việc nghiên cứu các
ứng dụng của hóa dược giúp ta tiếp cận với khoa học - kĩ thuật của thời hiện đại
mà còn nâng cao trình độ hiểu biết của chúng ta về nó. Với các lý do trên, chúng
em chọn đề tài tiểu luận là ứng dụng phức chất trong hóa dược. Việc chọn đề tài
này nhằm bổ sung thêm kiến thức khoa học và những ứng dụng thực tiễn của
phức chất trong hóa dược. Đồng thời, giúp ích cho việc học tập và công việc của
chúng em sau này.

2
1. MỞ ĐẦU VỀ PHỨC CHẤT
1.1. Những khái niệm cơ bản:
Từ giáo trình hoá học vô cơ chúng ta đã biết rằng khi các nguyên tố hoá học
riêng biệt kết hợp với nhau thì tạo thành các hợp chất đơn giản, hay các hợp chất
bậc nhất, ví dụ các oxit (Na2O, CuO,...), các halogenua (NaCl, CuCl2,...). Những
hợp chất đơn giản lại có thể kết hợp với nhau tạo thành hợp chất bậc cao, hay
hợp chất phân tử, ví dụ K2HgI4 (HgI2.2KI); Ag(NH3)2Cl (AgCl.2NH3);
K4Fe(CN)6 [Fe(CN)2. 4KCN]... Gọi chúng là các hợp chất phân tử để nhấn mạnh
rằng ở đây không phải là các nguyên tử hay các gốc, mà là các phân tử kết hợp
với nhau. Cấu tạo của chúng không được giải thích thoả đáng trong khuôn khổ
của thuyết hóa trị cổ điển. Có một vấn đề đặt ra là trong số các hợp chất phân tử
thì hợp chất nào được gọi là hợp chất phức (phức chất).
Theo A. Werner, tác giả của thuyết phối trí thì phức chất là hợp chất phân tử
nào bền trong dung dịch nước, không phân huỷ hoặc chỉ phân huỷ rất ít ra các
hợp phần tạo thành hợp chất đó. Trong lịch sử phát triển của hoá học phức chất
đã có nhiều định nghĩa về phức chất của các tác giả khác nhau. Tác giả của các
định nghĩa này thường thiên về việc nhấn mạnh tính chất này hay tính chất khác
của phức chất, đôi khi dựa trên dấu hiệu về thành phần hoặc về bản chất của lực
tạo phức.
Sở dĩ chưa có được định nghĩa thật thoả đáng về khái niệm phức chất vì
trong nhiều trường hợp không có ranh giới rõ rệt giữa hợp chất đơn giản và phức
chất. Một hợp chất, tuỳ thuộc vào điều kiện nhiệt động, khi thì được coi là hợp
chất đơn giản, khi thì lại được coi là phức chất. Chẳng hạn, ở trạng thái hơi natri
clorua gồm các đơn phân tử NaCl (hợp chất nhị tố đơn giản), nhưng ở trạng thái
tinh thể, thì như phép phân tích cấu trúc bằng tia X đã chỉ rõ, nó là phức chất cao
phân tử (NaCl)n, trong đó mỗi ion Na+ được phối trí một cách đối xứng kiểu bát
diện bởi 6 ion Cl–, và mỗi ion Cl– được phối trí tương tự bởi 6 ion Na+.
Để ít nhiều có thể phân rõ ranh giới tồn tại của phức chất có thể đưa ra định
nghĩa sau đây của A. Grinbe:
Phức chất là những hợp chất phân tử xác định, khi kết hợp các hợp phần
của chúng lại thì tạo thành các ion phức tạp tích điện dương hay âm, có khả
năng tồn tại ở dạng tinh thể cũng như ở trong dung dịch. Trong trường hợp
riêng, điện tích của ion phức tạp đó có thể bằng không.
Lấy ví dụ hợp chất tetrapyriđincupro (II) nitrat [CuPy4](NO3)2. Có thể coi
hợp chất này là sản phẩm kết hợp giữa Cu(NO3)2 và pyriđin (Py). Tính chất của
phức chất tạo thành khác biệt với tính chất của các chất đầu. Phức chất trên có
khả năng tồn tại ở dạng tinh thể và trong dung dịch.
3
Định nghĩa này tất nhiên cũng chưa thật hoàn hảo vì bao gồm cả các oxit
acid kiểu H2SO4 và các muối sunfat. Điều này không phải là nhược điểm, vì về
một số mặt có thể coi các hợp chất này là phức chất.
Cho đến gần đây người ta vẫn còn bàn luận về khái niệm phức chất. Theo
K. B. Iaximirxki thì “phức chất là những hợp chất tạo được các nhóm riêng biệt
từ các nguyên tử, ion hoặc phân tử với những đặc trưng: a) có mặt sự phối trí, b)
không phân ly hoàn toàn trong dung dịch (hoặc trong chân không), c) có thành
phần phức tạp (số phối trí và số hoá trị không trùng nhau)”. Trong ba dấu hiệu
này tác giả nhấn mạnh sự phối trí, nghĩa là sự phân bố hình học các nguyên tử
hoặc các nhóm nguyên tử quanh nguyên tử của một nguyên tố khác.
Do có mặt sự phối trí trong phân tử nên hiện nay người ta còn gọi phức chất
là hợp chất phối trí. Tuy nhiên, khái niệm “phức chất” rộng hơn khái niệm “hợp
chất phối trí”. Phức chất còn bao gồm cả những hợp chất phân tử trong đó không
thể chỉ rõ được tâm phối trí và cả những hợp chất xâm nhập.
Khi tạo thành phức chất các hợp chất đơn giản không thể kết hợp với nhau
một cách tuỳ tiện mà phải tuân theo những quy luật nhất định. Các quy luật dùng
làm cơ sở cho việc điều chế phức chất, cũng như các quy luật điều khiển quá
trình hình thành chúng sẽ được nghiên cứu trong môn hoá học phức chất.
1.2. Phân loại các phức chất
Có nhiều cách khác nhau để phân loại các phức chất.
+ Dựa vào loại hợp chất người ta phân biệt:
Acid phức: H2[SiF6], H[AuCl4], H2[PtCl6].
Bazơ phức: [Ag(NH3)2]OH, [Co En3](OH)3.
Muối phức: K2[HgI4], [Cr(H2O)6]Cl3.
+ Dựa vào dấu điện tích của ion phức:
Phức chất cation: [Co(NH3)6]Cl3, [Zn(NH3)4]Cl2
Phức chất anion: Li[AlH4]
Phức chất trung hoà: [Pt(NH3)2Cl2], [Co(NH3)3Cl3], [Fe(CO)5]
Các phức chất trung hoà không có cầu ngoại. Phức tạp hơn là các trường
hợp phức chất gồm cation phức và anion phức, ví dụ [Co(NH3)6][Fe(CN)6].
Thuộc loại cation phức còn có các phức chất oni, trong đó đóng vai trò của chất
tạo phức là các nguyên tử phân cực âm của các nguyên tố âm điện mạnh (N, O,
F, Cl,...), còn các nguyên tử hiđro phân cực dương là các phối tử. Ví dụ NH4+
(amoni), OH3+ (oxoni), FH2+ (floroni), ClH2+ (cloroni).
4
+ Dựa theo bản chất của phối tử người ta phân biệt:
Phức chất aquơ, phối tử là nước H2O: [Co(H2O)6]SO4, [Cu(H2O)4](NO3)2.
Phức chất amoniacat hay amminat, phối tử là NH3: [Ag(NH3)2]Cl,
[Co(NH3)6]Cl3, [Cu(NH3)4]SO4.
Phức chất acid, phối tử là gốc của các acid khác nhau: K 4[Fe(CN)6],
K2[HgI4], K2[PtCl6].
Phức chất hiđroxo, phối tử là các nhóm OH–: K3[Al(OH)6].
Phức chất hiđrua, phối tử là ion hiđrua: Li[AlH4].
Phức chất cơ kim, phối tử là các gốc hữu cơ: Na[Zn(C2H5)3], Li3[Zn(C6H5)3].
Phức chất π, phối tử là các phân tử chưa bão hoà như etilen, propilen,
butilen, stiren, axetilen, allylamin, rượu allylic, xyclohexen, xyclopentadienyl,
cacbon oxit, nitơ oxit v.v... Ví dụ K[PtCl3(C2H4)].H2O, [Fe(C5H5)2] (ferroxen),
[Cr(C6H6)2], [Ni(CO)4], K2[Fe(CN)5NO],... Trong các phức chất nêu trên các phối
tử liên kết với nguyên tử kim loại nhờ các eletron π của các phân tử chưa bão
hoà.
Dựa vào cấu trúc vỏ electron, đôi khi người ta chia các phối tử ra làm hai
loại như sau khi tham gia tạo phức với kim loại:

 Phối tử có một hoặc nhiều hơn cặp electron tự do. Loại này lại
được chia ra:
– Phối tử không có obitan trống để nhận các electron từ kim loại, ví
dụ H2O, NH3, F–, H–, CH3–.
– Phối tử có các obitan trống hoặc các obitan có thể sử dụng để tạo
các liên kết p và nhận các electron từ kim loại, ví dụ PR3, I–, CN–, NO2–.
– Phối tử có các electron p có thể điền vào các obitan trống của kim
loại, ví dụ OH–, NH2–, Cl–, I–.

 Phối tử không có cặp electron tự do, nhưng có những electron có


khả năng tạo các liên kết p, ví dụ etilen, ion xiclopentađienyl, benzen. Chúng có
khả năng tạo thành các phức chất p như được trình bày ở trên.
+ Dựa theo cấu trúc của cầu nội phức
Theo số nhân tạo thành phức chất người ta phân biệt phức chất đơn nhân và
phức chất nhiều nhân. Ví dụ phức chất hai nhân [(NH3)5Cr–OH–Cr(NH3)5]Cl5,
trong đó hai ion crom (chất tạo phức) liên kết với nhau qua cầu nối OH. Đóng vai

5
trò nhóm cầu nối là những tiểu phân có cặp electron tự do: F–, Cl–, O2–, S2–, SO42–,
NH2–, NH2– v.v... Phức chất nhiều nhân chứa nhóm cầu nối OH được gọi là phức
chất ol. Về mặt cấu trúc, nhóm cầu nối OH khác với nhóm hiđroxyl trong phức
chất một nhân. Số phối trí của oxi trong cầu nối ol bằng ba, còn trong nhóm OH
của phức chất một nhân bằng hai.
Dựa theo sự không có hay có các vòng trong thành phần của phức chất
người ta phân biệt phức chất đơn giản (phối tử chiếm một chỗ phối trí) và phức
chất vòng (đã nói ở phần trên). Hợp chất nội phức là một dạng của phức chất
vòng, trong đó cùng một phối tử liên kết với chất tạo phức bằng liên kết cặp
electron và bằng liên kết cho - nhận, ví dụ natri trioxalatoferrat (III), bis-
(etilenđiamin) đồng (II) đã nêu ở trên.

Hợp chất quá phức (siêu phức): trong các hợp chất này số các phối tử vượt
quá s.p.t. của chất tạo phức. Ví dụ hợp chất CuSO4.5H2O (I). Đối với Cu(II) s.p.t.
bằng 4 nên trong cầu nội chỉ có 4 phân tử nước được phối trí. Phân tử nước thứ
năm đóng vai trò cầu nối, kết hợp với phức chất nhờ liên kết hiđro (liên kết ở cầu
ngoại phức): [Cu(H2O)4]SO4.H2O. Đóng vai trò các phối tử dư không chỉ có các
phân tử nước, mà còn có các phân tử amoniac, amin, acid, muối, v.v… Ví dụ, các
phức chất [SnPy2I4].3Py, [CrPy3Cl3].2C2H5CN, trans-[CoEn2Cl2]Cl.HCl.2H2O,
[Pt(NH3)2(C6H5NH2)2]SO4.C6H5NH2, Cu[PtCl6].18NH3 v.v…
Poliacid đồng thể và dị thể: Poliacid là những phức chất oxo nhiều nhân
chứa cầu nối oxi. Nếu acid chứa nhân của cùng một nguyên tố thì đó là poliacid
đồng thể, ví dụ: H2[–O– SiO2…SiO2–O–]H2 (acid polimetasilixic).

6
Trong poliacid dị thể nguyên tử oxi cầu nối kết hợp các nguyên tử của các
nguyên tố khác nhau, ví dụ: H3[O3P–O–MoO3]: acid photphomolipđic. Trong
poliacid dị thể có sự kết hợp các gốc acid của các nguyên tố kim loại và phi kim.
Về hình thức, có thể coi các poliacid đồng thể và dị thể là sản phẩm kết hợp
các phân tử acid với anhiđrit của nó hoặc với anhiđrit của một acid khác. Hai ví
dụ nêu trên được coi là H4SiO4.SiO2 và H3PO4.MoO3. Các acid đicromic
H2CrO4.CrO3 (H2Cr2O7) và acid tricromic H2CrO4.Cr2O3 (H2Cr3O7) thuộc loại các
poliacid đồng thể. Các poliacid đồng và dị thể và các muối của chúng được sử
dụng nhiều trong hoá học phân tích.
2. ỨNG DỤNG CỦA PHỨC CHẤT
Y học hiện đại người ta dùng các loại thuốc chữa chứa những hoạt chất có
khả năng tạo phức với kim loại. Những kim loại cần bổ sung thường được đưa
vào cơ thể dưới dạng phức chất với các phối tử không gây độc cho cơ thể mà còn
có tác dụng bổ ích như các amino acid, protein, vitamin, đường, … Không những
bổ sung những chất cần thiết cho cơ thể mà nhiều phức chất còn có tác dụng
chữa bệnh nữa như phức cis-diclorodiammin Platin (II) (hay platinol) có khả
năng ức chế các tế bào ung thư như tinh hoàn, buồng trứng, bàng quang và các
khối u ở đầu và cổ, phức chất thiosemicacbazonat kim loại có hoạt tính sinh học
cao, có khả năng ức chế sự phát triển của các tế bào ung thư, … Phức chất có ý
nghĩa hết sức to lớn đối với hoạt động sống của sinh vật. Trong thành phần
máu của con người và động vật có hemoglobin, trong đó hemo là một phức chất
rất phức tạp của sắt, clorophin là chất màu xanh (diệp lục của thực vật) có cấu tạo
tương tự hemo, nguyên tử trung tâm là Mg, vitamin B12 là một phức chất của
coban, insulin là phức chất của kẽm dùng để chữa bệnh tiểu đường, …
Các phức hợp kim loại tự nhiên bao gồm một nguyên tử kim loại trung tâm
hoặc ion (đặc biệt là các kim loại chuyển tiếp 3D) có liên quan đến rất nhiều cơ
chế sinh học trong đó quang hợp, vận chuyển oxy trong máu, phối hợp một số
quá trình trao đổi chất, trạng thái bệnh lý, phản ứng enzyme, v.v., mặc dù các ion
kim loại chỉ chiếm 3% thành phần cơ thể. Nhiều phân tử sinh học (acid amin,
peptide, acid cacboxylic, v.v.) có thể tạo thành các phức hợp kim loại với các độ
ổn định khác nhau có tầm quan trọng y sinh. Một số loại thuốc có tác dụng điều
trị nhất định (ví dụ: kháng khuẩn, lợi tiểu, thuốc chống trầm cảm) do sự phức tạp
của ion kim loại (Cu2+, Zn2+, Fe2+, Mg2+, v.v.) cần thiết cho một quá trình sinh hóa
nhất định. Phức hợp kim loại và các sản phẩm có chứa oligoelements được sử
dụng rộng rãi trong điều trị do tính chất dược động học, tăng cường khả dụng
sinh học và giảm độc tính của một số ion kim loại .
7
Các khía cạnh chính liên quan đến sự hình thành các phức hợp giữa các
dược chất và các phối tử khác nhau được hỗ trợ bởi một số quan sát. Theo vai trò
sinh học, sinh lý và sinh lý bệnh lý của các ion kim loại và phối tử có tác dụng
dược lý, các ion kim loại có tầm quan trọng lớn trong việc thực hiện các chức
năng quan trọng của các sinh vật sống hoạt động như phức hợp hoặc chelates và
cũng trong các phương pháp phân tích và kiểm soát các chất thuốc bằng cách
hình thành các phức hợp có thể được phát hiện bằng kỹ thuật quang phổ. Việc sử
dụng phối tử, tác nhân chelating hoặc phức hợp trong y học và sinh học liên quan
đến một số mục đích như thuốc giải độc trong ngộ độc với các ion kim loại hoặc
acid hydrocyanic hoặc xyanua; giới thiệu trong các sinh vật sống của một số ion
kim loại thiết yếu được phát hiện là thiếu; tước đi vi khuẩn, virus hoặc hệ thống
enzyme vi khuẩn của các vi chất dinh dưỡng cần thiết cho công việc của họ; hoặc
cung cấp kim loại độc hại cho các tác nhân gây bệnh.
Nhiều phức hợp phối hợp đã được sử dụng trong y học có chứa kim loại
như bạch kim (cisplatin là thuốc hóa trị liệu chống ung thư), vàng (như auranofin
được sử dụng cho viêm khớp dạng thấp), neti và rheni (như dược phẩm phóng xạ
được sử dụng trong hình ảnh và xạ trị), rutheni (như thuốc chống ung thư),
gadolinium, coban, lithium, bismuth, sắt, canxi, lantan, gallium, thiếc, asen,
rhodi, đồng, kẽm, nhôm, luteti, vanadi, mangan, v.v... Chỉ có một số lượng giảm
phức hợp Co(III) có thể được đề cập là có đặc tính sinh hóa: vitamin B12, một
phức hợp organometallic tự nhiên của Co(III) với glyoxime. Các ví dụ quan
trọng khác là một loạt các phức hợp Co(III) có chứa phối tử N và O-donor dựa
trên cơ sở Schiff chelating (imidazole, methylimidazole) với hiệu quả trong điều
trị viêm giác mạc herpetic biểu mô (mục tiêu phân tử được cho là protease virus
có chứa histidine), viêm giác mạc adenovirus keratoconjunctivtiv và loại virus
suy giảm miễn dịch ở người loại 1. [Co(NH3)6] Cl3 có tác dụng kháng vi-rút
mạnh (chống lại vi-rút Sindbis). Một số nghiên cứu cũng báo cáo hoạt động
kháng khuẩn của phức hợp Co(II) và Co(III) chống lại Bacillus subtilis,
Enterobacter aeruginosa, Escherichia coli, Staphylococcus aureus, v.v...
2.1. Ứng dụng trong việc trị bệnh lao
Phức hợp kim loại của pyrazinamide là một chất tương tự nicotinamide
được sử dụng như một loại thuốc đầu tiên để điều trị bệnh lao. Các phức hợp của
PZA với Cu(II) được đánh giá bằng các kỹ thuật khác nhau như phân tích nguyên
tố, phương pháp quang phổ [Quang phổ hồng ngoại biến đổi Fourier (FTIR),
quang phổ FT-Raman, quang phổ khối], và kính hiển vi điện tử quét (SEM) kết
hợp với quang phổ tia X [quang phổ phân tán năng lượng (EDS)].

8
Công thức cấu tạo dạng 3D của PZA
2.2. Ứng dụng trong việc điều trị ung thư
2.2.1. Cis-Diamminedichloroplatinum(II) (cis-[Pt(Cl)2(NH3)2], cisplatin,
hay cis-DDP)
Là một loại thuốc chống ung thư được sử dụng rộng rãi và đặc biệt hiệu quả
trong điều trị ung thư phổi, tinh hoàn và buồng trứng cũng như các khối u ở đầu
và cổ.
Thuốc chữa ung thư này có tác dụng mạnh mẽ trong việc ức chế sự phát
triển của các tế bào ung thư và làm chậm sự lan rộng của chúng trong cơ thể
người bệnh. Hoạt chất này ức chế tổng hợp DNA của tế bào ung thư bằng cách
hình thành các liên kết ngang DNA, làm biến dạng chuỗi xoắn kép; cắt đứt liên
kết cộng hóa trị với các bazơ DNA và phá vỡ chức năng DNA. Không những
vậy, Cisplatin cũng có thể liên kết hai guanine liền kề trên cùng một chuỗi DNA
tạo ra liên kết ngang và làm đứt gãy tế bào ung thư. Chính nhờ 2 cơ chế như vậy
mà hoạt chất này giúp tiêu diệt tế bào ung thư hiệu quả.
9
Công thức cấu tạo của Cisplatin
2.2.2. Carboplatin
Carboplatin là một hợp chất bạch kim "thế hệ thứ hai" được ủng hộ để sử
dụng trong điều trị bệnh nhân ung thư buồng trứng và nó cũng đã cho thấy nhiều
hứa hẹn trong ung thư phổi tế bào nhỏ, ung thư biểu mô tế bào vảy ở đầu và cổ,
và các biểu hiện ký sinh trùng. Nhìn chung, nó dường như có phổ hoạt tính định
tính tương tự như cisplatin. Đã có một số thử nghiệm so sánh với carboplatin,
đơn lẻ hoặc kết hợp với các chất hóa trị liệu khác, nhưng dữ liệu hạn chế cho
thấy hiệu quả tương đương với cisplatin trong ung thư buồng trứng.
Điều quan trọng là độc tính của carboplatin khác hẳn so với cisplatin, với
độc tính trên thận, độc tính thần kinh và độc tính trên tai chỉ xảy ra với
carboplatin không thường xuyên. Như với cisplatin, buồn nôn và nôn xảy ra ở
nhiều bệnh nhân sau khi dùng carboplatin, nhưng các triệu chứng thường chậm
lại trong vài giờ và ở mức độ nhẹ đến trung bình - buồn nôn và nôn do giới hạn
liều là không thường xuyên khi dùng carboplatin. Độc tính giới hạn liều của
carboplatin là ức chế tủy, giảm tiểu cầu nặng và giảm bạch cầu ít thường xuyên
hơn, có thể nặng hơn ở bệnh nhân lớn tuổi hoặc ở những người bị suy thận hoặc
những người đã từng hóa trị liệu trước đó.
Do đó, dữ liệu sơ bộ cho thấy carboplatin là một chất thay thế tương
đương về mặt điều trị cho cisplatin, nhưng với một hồ sơ độc tính khác nhau nên
mang lại những lợi thế hơn cisplatin ở nhiều bệnh nhân.
Công thức cấu tạo của Carboplatin

10
Công thức cấu tạo dạng 3D của Carboplatin
2.2.3. Oxaliplatin
Oxaliplatin là một hợp chất bạch kim ức chế tổng hợp DNA, chủ yếu bằng
cách gây ra các liên kết chéo nội mạch trong DNA. Oxaliplatin có hoạt tính
chống ung thư phổ rộng và đã chứng minh là không có tính kháng chéo với các
hợp chất platin khác.
Ở những bệnh nhân bị ung thư đại trực tràng di căn, oxaliplatin tiêm tĩnh
mạch đã được thử nghiệm như một liệu pháp đơn trị liệu và kết hợp với các thuốc
khác. Tỷ lệ đáp ứng cao nhất đạt được khi sử dụng oxaliplatin kết hợp với
fluorouracil / acid folinic (leucovorin; canxi folinate), thường ≥ 50% ở chế độ
đầu tiên và từ 13 đến 45% ở chế độ điều trị thứ hai.
Liệu pháp bộ ba đầu tay với oxaliplatin và fluorouracil/acid folinic đạt
được tỷ lệ đáp ứng cao hơn đáng kể và thời gian sống thêm không có tiến triển
trung bình lâu hơn so với chỉ điều trị bằng fluorouracil/acid folinic. Tuy nhiên,
không có sự khác biệt đáng kể về thời gian sống sót trung bình nói chung.
Liệu pháp bổ trợ tân sinh với oxaliplatin/fluorouracil/acid folinic đã được
chứng minh là có lợi trong việc cho phép phẫu thuật loại bỏ các di căn gan không
thể cắt bỏ trước đó. Trong 2 nghiên cứu, phẫu thuật với mục đích chữa bệnh
được thực hiện ở 16 và 51% bệnh nhân có di căn gan ban đầu không thể cắt bỏ
sau liệu pháp oxaliplatin/fluorouracil/folinic acid; tỷ lệ sống sót sau 5 năm tương
ứng là 40% và 50%.
Ở những bệnh nhân bị ung thư buồng trứng tiến triển, liệu pháp đầu tay
với oxaliplatin/cyclophosphamide đạt được tỷ lệ đáp ứng khách quan không khác
biệt đáng kể so với cisplatin/cyclophosphamide (33% so với 42%). Ngoài ra,
oxaliplatin đã cho thấy hiệu quả ở những bệnh nhân bị ung thư buồng trứng được
điều trị trước bằng bạch kim và đạt được tỷ lệ đáp ứng khách quan tương tự như
paclitaxel trong bối cảnh này (16% so với 17%).
Kết quả đầy hứa hẹn cũng đã được tìm thấy với oxaliplatin ở bệnh nhân
ung thư hạch non-Hodgkin, ung thư vú, u trung biểu mô và ung thư phổi không
phải tế bào nhỏ.

11
Công thức cấu tạo của Oxaliplatin
2.2.4. Nedaplatin
Nedaplatin (INN, được bán dưới tên thương mại Aqupla) là một loại
thuốc chống ung thư dựa trên bạch kim được sử dụng cho hóa trị ung thư. Phức
hợp bao gồm hai phối tử amine và dianion có nguồn gốc từ acid glycolic.
Thuốc dựa trên bạch kim được sử dụng rộng rãi như các chất chống ung
thư, đặc biệt là cisplatin và carboplatin. Do các vấn đề về độc tính và số lượng tế
bào ung thư kháng cisplatin, các dẫn xuất bạch kim khác đã được phát triển.
Nedaplatin là một ví dụ về các loại thuốc mới như vậy.

 
Công thức cấu tạo của Nedaplatin
2.2.5. Chlorophyll

Có tiềm năng cho điều trị ung thư: Mặc dù không có bằng chứng cụ thể
của chất diệp lục là một chữa bệnh hiệu quả cho bệnh ung thư, một số nghiên cứu
đã chỉ ra kết quả đầy hứa hẹn và các nhà nghiên cứu đang vui mừng về tiềm năng
12
của nó. Một nghiên cứu đã kết luận rằng những người đàn ông mất một chế độ ăn
ít chất diệp lục thì có nguy cơ cao phát triển bệnh ung thư ruột kết. Một nghiên
cứu khác chỉ ra rằng nó kích thích các enzym gan dẫn đến giải độc hiệu quả và
loại bỏ các chất gây ung thư.
2.3. Điều trị bệnh viêm khớp
Auranofin là phức của vàng với các phosphin được sử dụng như thuốc
chống thấp khớp, dùng điều trị bệnh viêm khớp dạng thấp.

Công thức cấu tạo của Auranofin


2.4. Giải độc kim loại nặng
2.4.1. Tủa xanh Berlin
Trong y học, tủa xanh Berlin được sử dụng để làm chất giải độc cho một
số trường hợp nhiễm độc kim loại nặng, ví dụ Cesium và Thallium. Đặc biệt chất
này đã được sử dụng để hấp thụ ion 137Cs+ ra khỏi các nạn nhân trong tai nạn
Goiânia. Các nạn nhận bị nhiễm độc sẽ uống chất Xanh Phổ. Liệu pháp chữa trị
dựa trên các ion Xanh Phổ có đặc tính trao đổi và ái lực cao đối với một số
cation kim loại “mềm”.

13
Công thức cấu tạo của tủa xanh Berlin
2.4.2. Dimercaprol
Dimercaprol, hay còn được gọi là thuốc chống Lewisite của người
Anh (BAL), là một loại thuốc được sử dụng để điều trị ngộ độc cấp tính do
nhiễm asen, thủy ngân, vàng và chì. Chúng cũng có thể được sử dụng khi bị ngộ
độc antimon, thallium, hoặc bismuth, nhưng bằng chứng chỉ ra rằng hiệu quả là
không cao. Chúng được dùng bằng cách tiêm vào cơ bắp.
Một số kim loại nặng (đặc biệt là arsen, vàng, chì và thủy ngân) khi vào cơ
thể liên kết với các nhóm sulfhydryl (-SH) của hệ thống enzym pyruvat-oxydase,
ức chế sự hoạt động bình thường của những enzym này. Các nhóm sulfhydryl
của dimercaprol có ái lực mạnh hơn đối với kim loại nên tạo phức với những kim
loại này và giải phóng trở lại các nhóm -SH tự do cho các enzym nói trên. Tuy
vậy, dimercaprol không bảo vệ được các enzym phụ thuộc sulfhydryl chống lại
một số kim loại như selen khi kim loại này đã ức chế các enzym bằng một quá
trình oxy hóa. Nếu ái lực của kim loại đối với dimercaprol mạnh hơn đối với các
enzym, một phức hợp kim loại – dimercaprol (mercaptid) hình thành và được đào
thải ra ngoài cơ thể.
Phức tạo thành tan trong nước và thải trừ qua thận.
Được dùng giải độc các kim loại nặng (As, Hg, Pb, Cu, Cr, ...) và bệnh
Wilson’s (rối loạn di truyền gây tich tụ đồng ở các mô).
Chỉ được dùng điều trị các trường hợp ngộ độc nặng vì tác dụng phụ lên hệ
thần kinh và cao huyết áp.
Dimercaprol không hiệu quả đối với nhiễm độc bạc hoặc ngộ độc cấp thali,
telur hoặc vanadi. Dimercaprol không được dùng để điều trị nhiễm độc sắt,
14
cadmi, selen, hoặc uran vì phức hợp dimercaprol – kim loại tạo thành độc hơn
bản thân kim loại. Dimercaprol không hiệu quả đối với nhiễm độc thủy ngân
monoalkyl và ít tác dụng đối với nhiễm độc mạn thủy ngân.
Tuy dimercaprol ít có ái lực đối với các kim loại vi lượng thiết yếu trong cơ
thể (trừ đồng) và thường không gây hội chứng thiếu hụt kim loại vi lượng, thuốc
có thể ngăn cản tích lũy bình thường iod của tuyến giáp.
OH
H
H SH S
Mn+
M
HS OH

S
Dimercaprol

2.4.3. Natri calci edetat


Natri canxi edetate (Natri canxi EDTA), hay còn được gọi là edetate canxi
disodium cùng với một số các tên gọi khác, là một loại thuốc chủ yếu được sử
dụng để điều trị ngộ độc chì. Chúng có thể chữa cho cả ngộ độc chì ngắn hạn và
dài hạn. Đối với bệnh độc não, thuốc thường được sử dụng phối hợp cùng
với dimercaprol. Chúng có vẻ không hữu ích đối với độc tính tetraethyllead.
Thuốc này được tiêm chậm vào tĩnh mạch hoặc vào cơ bắp.
Natri calci edetat làm giảm nồng độ chì trong máu và trong các nơi tích lũy
chì ở cơ thể. Calci trong calci EDTA được thay thế bằng những kim loại hóa trị 2
và 3, đặc biệt là chì để tạo một phức hòa tan bền vững có thể bài tiết qua nước
tiểu.
Điều trị ngộ độc cấp và mạn các kim loại nặng như Pb, Cu, Cd, Cr, Mn ...

15
2.4.4.

Mn+

Natri calci edetat

Penicilamin hydrochlorid
Penicillamine, được bán dưới tên thương mại là Cuprimine trong số những
loại khác, là một loại thuốc chủ yếu được sử dụng để điều trị bệnh Wilson, chứng
cystin niệu và viêm khớp dạng thấp hoạt động. Penicillamine là một chất chelat
được khuyến cáo để loại bỏ đồng dư thừa ở bệnh nhân mắc bệnh Wilson. Từ các
nghiên cứu trong ống nghiệm chỉ ra rằng một nguyên tử đồng kết hợp với hai
phân tử penicillamine. Penicillamine cũng làm giảm bài tiết cystine dư thừa trong
cystin niệu. Điều này được thực hiện, ít nhất một phần, bởi sự trao đổi disulfide
giữa penicillamine và cystine, dẫn đến sự hình thành penicillamine-cysteine
disulfide, một chất dễ hòa tan hơn cystine và được bài tiết dễ dàng.

2.5. Ứng dụng trong việc điều trị bệnh thiếu máu

Penicilamin hydrochlorid

Cyanocobalamin (thường được gọi là Vitamin B12) là phức hợp hóa học.
Cấu trúc hóa học của nó dựa trên vòng _corrin_, mặc dù khá giống với vòng
porphyrin có trong heme, diệp lục và cytochrom, có hai vòng pyrrole liên kết trực
tiếp. Ion kim loại trung tâm trong cyanocobalamin là Co (coban).
Cyanocobalamin (Vitamin B12) là một hợp chất organometallic tan trong
nước với ion coban hóa trị ba liên kết bên trong một vòng Corrin. Nó là cần thiết
16
cho các tế bào thần kinh và tế bào hồng cầu, và để tạo thành DNA. Thiếu vitamin
B12 là nguyên nhân gây ra các dạng thiếu máu khác nhau. Thiếu vitamin B12
dẫn đến thiếu máu megaloblastic, tổn thương đường tiêu hóa và tổn thương thần
kinh (do thiếu myelin). Vitamin B12 đòi hỏi một vận chuyển tích cực qua trung
gian yếu tố nội tại để hấp thụ. Thiếu hoặc ức chế yếu tố nội tại có thể dẫn đến
thiếu máu ác tính. Thiếu máu có hại là một bệnh tự miễn gây tổn thương niêm
mạc dạ dày, dẫn đến teo dạ dày. Điều này dẫn đến sự phá hủy các tế bào thành dạ
dày, achlorhydria (thiếu bài tiết acid dạ dày) và không tạo ra được yếu tố nội tại,
dẫn đến kém hấp thu vitamin B12. Nếu thiếu máu ác tính không được điều trị, nó
sẽ dẫn đến thiếu vitamin B12, cuối cùng dẫn đến thiếu máu megaloblastic và rối
loạn thần kinh, mặc dù đã bổ sung đầy đủ vitamin B12.

Công thức cấu tạo của B12

17
KẾT LUẬN
Những tiến bộ đáng kể đã được thực hiện trong hóa học vô cơ và hữu cơ
cho đến hiện tại liên quan đến việc tổng hợp, đặc tính và ứng dụng các phức hợp
kim loại của các dược chất. Từ một loạt các lĩnh vực trong đó các hợp chất phối
hợp này tìm thấy ứng dụng của chúng, nhiều nỗ lực đã tập trung vào nghiên cứu
tầm quan trọng của chúng trong các quá trình sinh học. Các phức hợp phối hợp
của nhiều dược chất có tác dụng dược lý khác nhau như pyrazinamide (PZA),
nicotinamide (NAM), axit nicotinic (NIC), theophylline (TEO), captopril (CPL),
tolbutamide (TBA), clonidine (CLN), guanfacine (GUAF),... với các kim loại
chuyển tiếp được tổng hợp và sử dụng để cải thiện tính chất dược lý và dược lý
của chúng. Một mối quan tâm đáng kể trong sự phát triển của các loại thuốc dựa
trên phức tạp kim loại với các cơ hội nghiên cứu và điều trị và chẩn đoán độc đáo
hiện đang được quan sát thấy trong lĩnh vực hóa học vô cơ dược liệu.
Ngày nay, khi nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống con người ngày
càng được nâng cao ngoài phải lo những chi phí trang trải trong cuộc sống thì
việc chăm sóc sức khỏe cũng như sắc đẹp càng được mọi người đề cao hơn.
Chính vì vậy mà nhu cầu về các sản phẩm từ thành quả của ngành hóa dược cho
nhiều lĩnh vực khác nhau được quan tâm và chú ý hơn.
Và trong bài tiểu luận, chúng em đã trình bày được những đóng góp của
phức chất trong ngành hóa dược để đem lại những tác động tích cực trong lĩnh
vực trị bệnh. Tuy nhiên, do vốn kiến thức còn hạn hẹp nên bài tiểu luận không
thể tránh khỏi những sai sót. Chúng em hi vọng có thể nhận được những lời nhận
xét và góp ý cho bài tiểu luận được hoàn chỉnh hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Hỗn hợp phức chất” – Lê Chí Kiên (NXB Đại học quốc gia Hà Nội
2006).
2. “Metal Complexes of Pharmaceutical Substances” - Tünde Jurca,
Eleonora Marian, Laura Graţiela Vicaş, Mariana Eugenia Mureşan and
Luminiţa Fritea (Published: December 6th, 2017).
3. Antona J. Wagstaff, Alan Ward, Paul Benfield & Rennie C. Heel -
Drugs volume 37, pages162–190(1989)
4. Christine R. Culy, Delyth Clemett & Lynda R. Wiseman -
Drugs volume 60, pages 895–924(2000)
5. Apps, Michael G.; Choi, Eugene H. Y.; Wheate, Nial J. (2015). “The
state-of-play and future of platinum drugs”. Endocrine-Related
Cancer. 22 (4): R219–R233.
6. Johnstone, Timothy C.; Park, Ga Young; Lippard, Stephen J.
(2014). “Understanding and Improving Platinum Anticancer Drugs –
Phenanthriplatin”. Anticancer Research. 34 (1): 471–476.
7. Dunbar, K. R. and Heintz, R. A. (1997). “Chemistry of Transition Metal
Cyanide Compounds: Modern Perspectives”. Progress in Inorganic
Chemistry. 45: 283–391.
8. “Annals of Emergency Medicine” - Joel A., Vilensky PhD, Kent Redman
PhD - March 2003, Science Direct, Volume 41, Issue 3, Pages 378-383.
9. Organización Panamericana de la Salud 525 23rd. St., N.W., Washington,
D.C., 20037-2895
10. Peisach, J.; Blumberg, W. E. (1969). "A mechanism for the action of
penicillamine in the treatment of Wilson's disease". Molecular
Pharmacology. 5 (2): 200–209.

19

You might also like