You are on page 1of 32

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

TCN: trước công nguyên


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI 3
1.1 Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Trung Quốc cổ đại 3

1.1.1 Hoàn cảnh ra đời của triết học Trung Quốc cổ đại 3

1.1.2 Đặc điểm của triết học Trung Quốc cổ đại 4

1.2 Một số học thuyết tiêu biểu của triết học Trung Quốc cổ đại 5

1.2.1 Nho gia 5

1.2.2 Mặc gia 9

1.2.3 Đạo gia 10

1.2.4 Pháp gia 13

CHƯƠNG 2. ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG


TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI ĐẾN TƯ DUY CỦA NGƯỜI VIỆT
NAM 15
2.1 Ảnh hưởng của Nho giáo đến tư duy của người Việt Nam 15

2.1.1 Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam 15

2.1.2 Ảnh hưởng của nho giáo Trung Hoa đến nền văn hóa truyền thống của Việt
Nam 15

2.1.2.1 Ảnh hưởng của Nho giáo đến sự phát triển của xã hội cổ đại Việt Nam 15

2.1.2.2 Ảnh hưởng của Nho giáo trong thời kỳ cách mạng dân tộc Việt Nam 17

2.1.2.3 Vấn đề khai thác, vận dụng Nho giáo ở Việt Nam 18

2.2 Vận dụng tư tưởng pháp gia trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam 27

KẾT LUẬN 29
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 30
PHẦN MỞ ĐẦU
Trung Quốc là một quốc gia có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ III TCN
kéo dài tới tận thế kỷ 3 TCN với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc
mở đầu cho thời kỳ phong kiến. Trong hơn 2000 năm lịch sử ấy, lịch sử Trung
Quốc được phân chia làm 2 thời kỳ lớn: Thời kỳ từ thế kỷ 9 TCN trở về trước và
thời kỳ từ thế kỷ 8 TCN đến cuối thế kỷ 3 TCN.

Trung Quốc còn là trung tâm văn hoá và triết học rực rỡ, phong phú của
phương Đông. Sự hình thành và phát triển của các tư tưởng triết học Trung Quốc
cổ, trung đại gắn liền với quá trình biến đổi của điều kiện kinh tế - xã hội, văn hoá
và sự phát triển của những mầm mống khoa học tự nhiên trong xã hội Trung Quốc
qua từng thời kỳ.

Triết học Trung Quốc cổ đại là sự phản ánh xã hội Trung Quốc. Triết học
Trung Quốc có mầm mống từ lâu, nhưng thực sự nở rộ vào khoảng thế kỷ VI đến
thế kỷ III TCN [3]. Đây là thời kỳ biến đổi dữ dội, chuyển biển từ chế độ chiếm hữu
nô lệ sang chế độ phong kiến kiểu phương Đông - thời kỳ Đông Chu liệt quốc hay
Xuân Thu chiến quốc với chiến tranh liên miên, tàn khốc, trật tự xã hội cũng như
luân lý đạo đức sụp đổ, cái cũ đã qua, cái mới chưa đến, lòng người chao đảo không
biết đi về đâu.

Thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc là thời kỳ hai chế độ xã hội chuyển giao, đấu
tranh giai cấp gay gắt, chiến tranh liên miên. Đó là thời kỳ "Bá đạo lấn át vương
đạo", thời kỳ: Vua không phải đạo vua, tôi không phải đạo tôi, cha không phải đạo
cha, con không phải đạo con. Đạo đế vương mờ tối, người đời say đắm hưởng danh
lợi, không ai muốn làm điều nghĩa nữa. Để góp phần cứu vãn tình thế đó. “Bách gia
chư tử” ra đời. Nhiều nhà tư tưởng muốn trình bày quan điểm của mình, phê phán
trật tự xã hội cũ, đề ra mẫu hình xã hội tương lai.

Phải nói với lịch sử Trung Quốc, đây chính là thời kỳ có một không hai về tự
do học thuật, bởi vậy, các trường phái triết học mọc lên như nấm gặp mưa rào. Nền

1
văn minh Hoa Hạ rộng lớn, đặc sắc đã được đặt nền móng từ đấy với các tư tưởng
phong phú và đa dạng, phức tạp. Nó cũng chứa dựng những mâu thuẫn nhiều khi rất
gay gắt. Khái quát lại có 9 hệ thống triết học chính xuất hiện: Nho gia, Mặc gia,
Đạo gia, Pháp gia, Âm Dương gia, Danh gia, Nông gia, Tung hoành gia, Tạp gia
(có thuyết còn cho có thêm trường phái Tiểu thuyết gia).

Nếu như Phương Đông là chiếc nôi lớn của văn minh nhân loại thì Trung
Quốc là trung tâm văn hóa triết học cổ xưa rực rỡ, phong phú nhất của nền văn
minh ấy. Triết học Trung Quốc cổ đại có các học thuyết lớn và có giá trị kế thừa
đến tận ngày nay.

Trung Quốc là một quốc gia to lớn có chiều dài lịch sử rất lâu đời. Trải qua
bao nhiêu năm lịch sử đã cho thấy đất nước này đã từng đem quân chinh phạt rất
nhiều những quốc gia xung quanh và trong đó có đất nước Đại Việt. Chính vì
những cuộc xâm chiếm ấy đã tạo ra cho đất nước ta phải gánh chịu vô số những ảnh
hưởng to lớn nhất định về các mặt văn hóa chính trị và xã hội của họ. Nên để hiểu
rõ hơn về triết học Việt Nam, việc tìm hiểu về Triết học Trung Quốc cổ đại là
một việc hết sức cần thiết. Vì vậy nên em đã lựa chọn đề tài: “Triết học Trung
Quốc cổ đại và ảnh hưởng của tư tưởng biện chứng trong triết học trung hoa cổ
đại đến tư duy của người Việt Nam” làm đề tài tiểu luận 30% học phần Triết học
trong chương trình cao học ngành Hóa phân tích.

2
CHƯƠNG 1. TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1.1 Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Trung Quốc cổ đại
1.1.1 Hoàn cảnh ra đời của triết học Trung Quốc cổ đại
Nền triết học ở Trung Quốc cổ đại xuất hiện vào khoảng thế kỷ VII - VI TCN
trong bối cảnh lịch sử xã hội Trung Quốc đang chuyển từ chế độ công xã nguyên
thủy sang chế độ chiếm hữu nô lệ. Quá trình hình thành và phát triển của triết học
Trung Quốc cổ đại đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau trong lịch sử, trong đó mỗi
giai đoạn phát triển của triết học Trung Quốc đều phản ánh những nấc thang phát
triển khác nhau của một nền lịch sử đầy biến động của đất nước Trung Hoa. Trong
khoảng thời gian này, lịch sử Trung Quốc được phân chia làm 2 thời kỳ lớn là thời
kỳ Ân Thương - Tây Chu và thời kì Đông Chu (Xuân Thu - Chiến Quốc).
Thời kỳ Ân Thương và Tây Chu ở Trung Quốc kéo dài từ khoảng thế kỷ XVII
đến khoảng thế kỷ VIII TCN. Đây là thời kỳ gắn liền với việc hình thành và phát
triển của các quốc gia đại ở Trung Quốc. Các nhà nước cổ đại ở Trung Quốc thời kỳ
này chủ yếu được xây dựng dựa trên chế độ tông tộc là chủ yếu. Đứng đầu mỗi nhà
nước đều là những ông vua và họ tự coi mình là Thiên tử (con Trời), quần thần bên
dưới chủ yếu là con cháu trong dòng tộc được lựa chọn để thay mặt nhà vua cai trị
bách tính theo kiểu “phong hầu, kiến địa”. Mối quan hệ “tôn tử” (trên - dưới) dựa
trên các quan hệ dòng tộc và huyết thống trong cách thức tổ chức nhà nước ở Trung
Quốc thời kỳ này diễn ra khá bền chặt và ổn định. Dựa trên cơ sở tồn tại xã hội cổ
sơ, các hình thái ý thức xã hội ở Trung Quốc cổ đại cũng dần dần được hình thành.
Về mặt triết học, những tư tưởng triết học sơ khai đầu tiên đã xuất hiện như: tư
tưởng thần thoại xuất hiện gắn với tư tưởng về tục lệ thờ cúng tổ tiên; tư tưởng tôn
giáo xuất hiện dưới hình thức tôn giáo và tín ngưỡng vật linh; về đạo đức và chính
trị: tuy chưa có quan niệm rõ ràng nhưng thời Ân đã xuất hiện các tư tưởng đề cao,
tôn sùng người cầm đầu thị tộc. Ở thời kỳ Tây Chu, bên cạnh các tư tưởng duy tâm,
tôn giáo đã xuất hiện những nhà tư tưởng hoài nghi phê phán các tín điều tôn giáo
duy tâm, từ đó mở đường cho các tư tưởng duy vật chất phác và vô thần ra đời.

3
Thời kỳ Đông Chu (Xuân Thu - Chiến Quốc) ở Trung Quốc cổ đại kéo dài từ
thế kỷ VIII đến năm 221 TCN. Đây là thời kỳ có nhiều biến động về lịch sử, kinh tế
- xã hội và văn hóa của Trung Quốc cổ đại. Vào thời kỳ này, chế độ công xã nguyên
thủy ở Trung Quốc đã kết thúc, thay vào đó là sự ra đời và phát triển của chế độ
chiếm hữu nô lệ. Về tổ chức xã hội, các mô hình nhà nước được tổ chức theo kiểu
chế độ tông tộc như thời kỳ Ân - Thương và Tây Chu trước kia giờ đây không được
ưa chuộng mà thay vào đó là mô hình xã hội được tổ chức theo kiểu đa nguyên,
nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, có thể tham gia quản lý xã hội chứ không nhất thiết
dành cho giai cấp quý tộc như trước đây. Tuy nhiên, do không tìm thấy mô hình xã
hội mong muốn nên hầu hết các quốc gia đều rơi vào vòng xoáy của chiến tranh và
bạo lực. Chế độ tông tộc của nhà Chu trên danh nghĩa vẫn còn tồn tại, song quyền
lực của chính quyền trung ương gần như bị vô hiệu hóa, thay thế vào đó là sự nổ ra
các cuộc chiến tranh để tranh giành quyền lực của các lãnh chúa địa phương dẫn tới
đời sống xã hội vô cùng hỗn loạn. Các cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn” giữa
các quốc gia trong thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc chỉ kết thúc khi nhà Tần - một
trong bảy quốc gia nổi tiếng nhất thời Chiến Quốc đã thu phục được tất cả các quốc
gia còn lại để lập ra triều đại phong kiến nhà Tần vào năm 221 TCN. Về mặt văn
hóa tinh thần, thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc đã chứng kiến nền văn hóa cổ đại của
Trung Quốc phát triển đến đỉnh cao. Thời kỳ này, đời sống văn hóa tinh thần xã hội
Trung Quốc cổ đại có nhiều cởi mở, cùng với việc xuất hiện các phát minh khoa
học, các thành tựu văn hóa phát triển rực rỡ thì các trào lưu tư tưởng thời kỳ này liên
tiếp xuất hiện và cạnh tranh nhau khá quyết liệt. Chính vì vậy, đời sống văn hóa xã
hội Trung Quốc cổ đại thời kỳ này còn gọi là thời kỳ “Bách gia tranh minh, bách
hoa tề phóng” (Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng) [2, tr 37 - 39].
1.1.2 Đặc điểm của triết học Trung Quốc cổ đại
Về nội dung phát triển, nền triết học Trung Quốc cổ đại đã ra đời, phát triển,
phản ánh sâu sắc xã hội Trung Quốc đương thời với các đặc điểm như:
Thứ nhất, nhấn mạnh tinh thần nhân văn.
Thứ hai, đề cao các giá trị thực tiễn đạo đức.

4
Thứ ba, nhấn mạnh đến sự hài hòa, thống nhất.
Thứ tư, biểu hiện của phương thức tư duy trực giác. [2, tr 39 - 40].
1.2 Một số học thuyết tiêu biểu của triết học Trung Quốc cổ đại
1.2.1 Nho gia
Xã hội Trung Quốc cổ đại từ cuối thời Tây Chu đã rơi vào tình trạng rối loạn
do sự quấy nhiễu của các nước Nhung, Địch. Sau khi chuyển về Lạc Ấp để từ đó
nhà Chu có tên gọi Đông Chu hay là giai đoạn thứ hai của triều đại này, xã hội nhà
Chu vẫn không thay đổi được tình thể phức tạp trước đó bởi các nước chư hầu ngày
càng có xu hướng ly khai và cát cứ, diệt trừ nhau để giành ngôi vị bá chủ. Cuối
Xuân Thu đầu Chiến Quốc, từ phong trào "Bách gia tranh minh", "Bách gia chư tử"
xuất hiện xu hướng hữu vi với triết thuyết về đường lối trị nước dựa trên nền tảng
đạo đức, tức là dùng đạo đức để cảm hóa con người, nhằm thiết lập trật tự xã hội,
đưa xã hội từ chỗ "vô đạo" trở nên "hữu đạo" và đích cuối cùng của nó là xây dựng
xã hội lý tưởng vốn được người Trung Hoa cổ đại quan niệm cho rằng, xã hội đó
dường như từng tồn tại trong lịch sử cổ sơ của đất nước này.
Trường phái Nho gia do Khổng Tử (551 - 479 TCN) sáng lập. Ông là người
mở ra chế độ giáo dục tư thục đầu tiên của Trung Quốc cổ đại, học trò của ông rất
đông, có đến hàng nghìn người, trong đó có 72 học trò xuất sắc (thất thập nhị hiền).
Nho giáo có lịch sử lâu đời ở Trung Quốc, các giai đoạn của nó có thể chia thành:
Nho giáo tiên Tần, Hán Nho, Ngụy Tấn Nho, Tống Nho, Minh Nho và Thanh Nho.
Nho giáo có ảnh hưởng lớn đến lịch sử nhà nước phong kiến Trung Quốc, chỉ đến
năm 1911 vai trò của nó mới tạm chấm dứt trên lĩnh vực chính trị. Tuy nhiên, ảnh
hưởng của Nho giáo đối với đời sống tinh thần của Trung Quốc và các nước chịu
ảnh hưởng vẫn còn tiếp tục lâu dài.
Kinh điển của Nho gia gồm có Tứ thư và Ngũ kinh.
Tứ thư là bốn bộ sách: Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử, do các học
trò của Khổng Tử ghi chép lại những lời giáo huấn, những lời đối đáp của Khổng Tử
và Mạnh Tử với các vua chúa, vương hầu khi đi truyền bá học thuyết của mình.

5
Ngũ kinh là năm bộ kinh gồm: Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu. Năm bộ kinh này
tương truyền do Khổng Tử thuật lại kinh điển thời trước, trong đó chỉ có Kinh Xuân
Thu là bộ sách viết về lịch sử các nước trong thời Xuân Thu, chủ yếu của nước Lỗ từ
năm 722 - 481 TCN do Khổng Tử biên soạn. Nội dung của nó phản ánh quan niệm
về tổ chức quốc gia như là vũ trụ, trong đó "trị" và "hành" luôn đi đôi, bổ túc cho
nhau một cách nhất trí, tập trung vào một vị Thánh Vương.
- Những nội dung tư tưởng cơ bản của Nho giáo
+ Vấn đề con người
Việc giải quyết vấn đề con người trong Nho giáo cũng đồng thời là sự truy tìm
điều cốt lõi của tư tưởng trị nước. Tuy nhiên, do tâm thế của các nhà sáng lập Nho
giáo cũng như nhu cầu thời đại, học thuyết này chỉ chú trọng đến bản tính con
người, các mối quan hệ người và giáo dục con người mà không đề cập nhiều đến
vấn đề nguồn gốc con người như trong triết học Ấn Độ cổ đại.
Theo quan điểm của Khổng Tử, bản tính con người là giống nhau, bởi lẽ
"người ta ai cũng ham thích giàu sang và chán ghét sự nghèo hèn". Tuy nhiên, vì
nhu cầu đó và bị chi phối bởi tập tính và tập quán mà con người ngày càng trở nên
xa nhau (Tính tương cận dã, Tập tương viễn dã). Bản tính người theo Khổng Tử là
do trời phú. Không chỉ có thế, trời còn ban mệnh cho con người.
Trên cơ sở quan điểm đó của Khổng Tử, các thế hệ học trò của ông về sau cũng
đề cập đến bản tính con người, song ở họ không có sự thống nhất, thậm chí còn đối
lập nhau. Chẳng hạn Mạnh Tử (372 - 289 TCN) là người tiếp thu và phát triển học
thuyết của Khổng Tử theo hướng duy tâm, cho rằng, bản tính con người ta do trời
phú và đó là tính thiện (Nhân chi sơ, tính bản thiện, tính tương cận, tập tương viễn).
Sự khác xa nhau về tính cách con người trong cuộc sống hiện thực được Mạnh Tử lý
giải rõ hơn về hệ quả lưỡng phân của nó, một là khi con người tiếp tục phát huy tính
thiện trời phú, biết kết hợp nó với tứ đoan (bốn yếu tố tiên thiên là trắc ẩn, tu ố, từ
nhượng, thị phi) thì con người sẽ trở nên tốt tính, thành những bậc hiền nhân quân
tử, ngược lại, nếu không "tồn tâm dưỡng tính" thì tính thiện ngày một mất đi và con
người vì thế mà trở về với loài cầm thú.

6
Đổng Trọng Thư (179 - 104 TCN) được mệnh danh là Khổng Tử thời Hán đã
phát triển tư tưởng của Khổng - Mạnh, cho rằng, bản tính con người lệ thuộc vào âm
dương, có thể xác định theo ba phương án sau: một là, tính thiện (thuộc dương), tính
ác (thuộc âm); hai là, tính thiện là đặc tính của con người và mang tính tương đối,
nói bản tính con người là thiện trong trường hợp so với cầm thú chứ không thể sánh
được với bậc thánh. Ở người bình thường tính đó có thể là thiện, cũng có thể là ác;
ba là, bản tính con người vốn thiện (tiên thiên) và hướng thiện.
Về các quan hệ người, Nho giáo lấy quan hệ gia đình làm xuất phát điểm, theo
đó mà Khổng Tử nêu nhân luân (quan hệ người có thứ bậc): quan hệ vua tôi là nhân
trung quan hệ cha con là từ hiếu; quan hệ chồng vợ là nghĩa tùy; quan hệ anh em là
nhượng đế; quan hệ bạn bè là tín. Mạnh Tử trên cơ sở nhân luân ấy để giáo huấn con
người, cho rằng quan hệ vua tôi phải có nghĩa; quan hệ cha con phải dựa trên tình
thân ruột thịt; quan hệ chồng vợ phải khác biệt; quan hệ anh em phải có thứ tự; quan
hệ bạn bè phải tín. Còn Đổng Trọng Thư đề ra tam cương (ba mối quan hệ có tính
chất ràng buộc nhau và ràng buộc con người. Đó là, vua - tôi, cha - con, chồng - vợ):
vua làm chỗ dựa cho bề tôi; cha làm chỗ dựa cho con; chồng làm chỗ dựa cho vợ.
Tam cương phản ánh đạo đức xã hội, đồng thời chịu sự chi phối của học thuyết Âm
dương, ở đó vua, cha và chồng thuộc dương; bề tôi, con và vợ thuộc âm. Âm phục
tùng dương vô điều kiện, tức là những mối quan hệ lệ thuộc một chiều.
Về giáo dục con người, Nho giáo coi trọng giáo huấn đạo đức và hình thành
nhân cách của mẫu người lý tưởng. Mặc dù các nhà nho không hoàn toàn thống nhất
với nhau trong quan niệm về bản tính con người, song họ đều thống nhất ở quan
điểm giáo dục, cho đó là biện pháp hữu hiệu nhất để thiết lập kỷ cương xã hội.
Chính Khổng Tử là người đầu tiên xây dựng nền giáo dục tư thục ở Trung
Quốc cổ đại với quan điểm "hữu giáo vô loại", nghĩa là không phân biệt giàu nghèo,
vị thế xã hội, ai muốn học đều được học. Theo ông, học cốt để nắm được đạo và
hành đạo, tức làm quan, trở thành người quân tử ăn không cầu no, mặc không cầu
ấm, chỉ cần vui với đạo; sáng nắm được đạo, chiều chết cũng vui lòng. Nội dung
giáo dục gồm tứ giáo (văn, hạnh, trung tín); nếu giải trí cần biết thêm lục nghệ (ngự,

7
xạ, thư, số, lễ, nhạc). Phương pháp dạy người trước hết cần phân loại để dạy cho phù
hợp. Đối với hạng trung trí trở lên, cần dạy cho những điều cao siêu thuộc hình nhi
thượng; còn hàng trung trí trở xuống thì được dạy những điều cần thiết để họ biết
mà ứng xử trong cuộc sống được tốt hơn. Học phải đi đôi với tập, với suy tư và phải
biết đem những điều học được áp dụng trong cuộc sống xã hội. Ngoài học tập,
Khổng Tử còn kêu gọi mọi người, từ thiên tử cho chí thường dân, ai cũng phải lấy tu
thân làm gốc, bởi lẽ có tu thân mới tề được gia, sau đó đến trị quốc và bình thiên hạ.
+ Tư tưởng đức trị
Nho giáo đề ra chủ trương trị nước bằng đạo đức, nghĩa là lấy đạo đức để cảm
hóa con người, cốt để con người biết tự trọng, xấu hổ mà không vi phạm pháp luật.
Trong tư tưởng đức trị, người cầm quyền không chỉ lấy đức để trị nước cho thiên hạ
theo về, mà còn phải nêu gương đạo đức cho thiên hạ học tập.
Đức của người cầm quyền được thể hiện qua ba phạm trù cơ bản, đó là Nhân,
Lễ và Chính danh.
Nhân là phạm trù đạo đức cao nhất và bao trùm nhất với nội dung của nó là yêu
thương con người (nhân giả ái nhân).
Lễ bao gồm lễ nghi tế tự và nghi thức ứng xử.
Chính danh là biện pháp chống lại sự tiếm quyền, vượt quyền.
Ba phạm trù đạo đức ấy là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Khổng Tử còn yêu
cầu người cầm quyền phải có trí và dũng. Trí để phân biệt phải trái, dũng là có đủ
can đảm để làm việc nghĩa. Ngoài ra ông còn yêu cầu người cảm quyền phải "cung,
khoan, tín, mẫn, huệ".
Trên cơ sở thuyết đức trị của Khổng Tử, Mạnh Tử nêu tư tưởng trị nước nhân
chính và thống nhất. Nhân chính cũng là đức trị, song ở đó tư tưởng nhân nghĩa
được nhấn mạnh bởi theo Mạnh Tử, "nhân là ngôi nhà ta ở, nghĩa là con đường ta
đi", thiếu hai thứ đó thì cuộc sống con người trở nên vô nghĩa.
Nội dung chủ yếu của thuyết Nhân chính là đạo đức nhân nghĩa trong đường
lối trị nước, theo đó nhà cầm quyền phải chú trọng đến đời sống của dân, lo cho dân
có của ăn của để (hằng sản), làm được điều đó mới mong đợi sự hằng tâm của dân.

8
Học thuyết này đề cao vị thế của dân: coi trọng dân, sau đó mới đến xã tắc, còn vua
thì xem thường (dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh). Không những thế, ông
còn có tư tưởng dân chủ khi cho rằng, những kẻ tàn ác mà cầm quyền thì sẽ bị trời
và dân lật đổ. Có thể nói, đây là điểm mới, tiến bộ hơn hẳn tư tưởng dân tín của
Khổng Tử. Mạnh Tử còn chủ trương thống nhất, chống chiến tranh và cát cứ. Quan
điểm này xuất phát từ thực trạng xã hội Trung Quốc cổ đại thời Chiến Quốc loạn
lạc, chiến tranh triền miên, "máu chảy thành sông xương chất thành núi" và đó cũng
là khát vọng mang đậm tính nhân vặn của bất kỳ dân tộc nào, thời nào cũng có.
Nếu Nho giáo Khổng - Mạnh đề cao đức trị, nhân chính, thì Tuân Tử lại chú
trọng đến vai trò của Lễ trong đường lối trị nước. Theo ông, Lễ điều hòa các mối
quan hệ xã hội, làm cho con người chấp nhận sự phân chia đẳng xã hội và kéo theo
đó là sự phân công lao động xã hội cũng như phân phối sản phẩm từ lao động. Tuy
nhiên, với quan điểm về bản tính ác của con người nên Tuân Tử đề xuất trong đường
lối trị nước cần có yếu tố pháp luật để kiềm chế sự tranh giành cái lợi trong cuộc
sống. Nghĩa là trong tư tưởng trị nước của Tuân Tử, hai yếu tố lễ trị và pháp trị phải
được kết hợp với nhau, thành tổ hợp "Lễ pháp kiêm trị". Tuy nhiên, yếu tố pháp trị
theo quan điểm của ông phải mang tính giáo dục, răn đe chứ không được nặng về
hình phạt.
Đến Đổng Trọng Thư, việc phục hồi vị thế Nho giáo Khổng - Mạnh được xem
là tâm điểm trong học thuyết của Hán Nho và nhà triết học này đóng vai trò quan
trọng trong việc đưa Nho giáo lên địa vị độc tôn, làm trụ đỡ cho hệ tư tưởng của nhà
nước phong kiến trung ương tập quyền. Thuyết thiên mệnh của Nho giáo Khổng -
Mạnh được luận giải, nhờ đó trời được nhân cách hóa và trở thành thủy tổ của loài
người. Giữa trời và người có sự liên thông, cảm ứng với nhau. Muốn biết trời như
thế nào thì cứ đem việc người ra mà xét. Như vậy, yếu tố thần quyền về thực chất là
thay thế pháp trị hà khắc mà nhà Tần đã sử dụng để trị nước. Nhờ sự kết hợp đức trị
với thần quyền như vậy mà chế độ phong kiến tập quyền ở Trung Hoa duy trì sự tồn
tại của nó hơn 1000 năm [1, tr 40 - 48].
1.2.2 Mặc gia

9
Trong thời kỳ Bách gia tranh minh (cuối Xuân Thu đầu Chiến Quốc), khi tư gia
giành được chính quyền, thiên tử bị mất quyền thì mệnh trời trở nên vô nghĩa. Kẻ sĩ
không mê mải trong nhu cầu học làm quan mà phải học theo cách mới để làm mưu
sĩ. Từ trong đám học trò của Khổng Tử xuất hiện một kẻ phản đồ, chống lại Nho gia
về mọi mặt - đó là Mặc Tử.
Mặc Tử (tức Mặc Địch, sinh vào khoảng năm 479 TCN và mất vào khoảng
năm 381 TCN), người nước Lỗ, xuất thân thuộc tầng lớp tiện nhân, làm nghề thủ
công và nổi tiếng trong nghề mộc. Ông được coi là người có học vấn rộng, hiểu biết
nhiều. Trọng tâm tư tưởng của Mặc Tử là thuyết Kiêm ái.
- Kiêm ái và biệt ái: Kiêm ái là khái niệm mới nhưng không phải là danh, mà là
thực. Kiêm cũng là nhân, là nghĩa, trong khi đó Khổng Tử chỉ chú trọng đến danh
mà ít đề cập đến thực, nói là ái nhân nhưng là biệt ái, thiên cái (chư hầu chỉ biết
nước mình mà không biết nước người, cho nên đi đánh nước khác; gia chủ chỉ yêu
gia tộc mình,...). Biệt ái, thiên ái là chỉ biết mình mà không biết người.
Vũ trụ quan của Mặc Tử
Mặc dù phủ nhận thuyết thiên mệnh của Khổng Tử, Mặc Tử vẫn đưa ra một thế
giới quan tôn giáo duy tâm là trọng Trời, thờ Quỷ thần, phục tùng sức mạnh siêu
nhiên thần bí. Theo Mặc Tử, Trời là một đấng anh minh, có chí, có nhân cách và
quyền lực tối cao, tạo ra vạn vật và nuôi dưỡng muôn loài. Trời còn biết thương
người hiền và trừng phạt kẻ ác. Đó là quan điểm duy tâm.
Tư tưởng của Mặc gia phản ánh nguyện vọng và tâm tư của tầng lớp mới trong
xã hội (quốc nhân), tư tưởng đó có nhiều điểm tiến bộ, song lại mang tính ảo tưởng
[1, tr 53 - 54].
1.2.3 Đạo gia
Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cổ đại, Đạo gia xuất hiện như một hiện
tượng đặc biệt so với các học thuyết triết học khác về nội dung tư tưởng của nó. Đây
là trường phái triết học tập trung suy ngẫm về nguồn gốc, quy luật của thế giới,
trong khi đó các học thuyết khác đều chú trọng nhiều đến các vấn đề chính trị - xã

10
hội. Người sáng lập ra Đạo gia là Lão Tử (khoảng thế kỷ VI - V TCN, cũng có tài
liệu nói thế kỷ IV TCN).
Nội dung chủ yếu trong học thuyết của ông là Đạo (bản nguyên, quy luật của tự
nhiên) và Đức (sự biểu hiện của Đạo với công dụng sinh thành và nuôi dưỡng vạn
vật). Người tiếp tục phát triển tư tưởng của Lão Tử là Trang Tử (sinh vào khoảng
năm 369 TCN và mất vào khoảng năm 286 TCN).
Kinh điển của Đạo gia gồm các tác phẩm Đạo Đức Kinh (học thuyết về Đạo và
Đức) và Nam Hoa Kinh của Trang Tử.
Nội dung tư tưởng cơ bản của Đạo gia
- Tư tưởng của Lão Tử
Vấn đề trung tâm trong hệ thống tư tưởng triết học của Lão Tử là Đạo và Đức,
trong đó phần nhiều ông đề cập đến Đạo. Vì vậy, sách của ông có tên là Đạo Đức
Kinh. Lão Tử quan niệm Đạo là nguồn gốc của thế giới, còn Đức là sự thể hiện của
Đạo: "Đạo khả đạo, phi thường đạo; Danh khả danh, phi thường danh. "Vô" vạn vật
chi thủy; "Hữu" vạn vật chi mẫu" (Đạo mà dùng tên để gọi [nó, tức đạo] thì không
phải là đạo thường hằng bất biến; Danh mà dùng tên để gọi [nó - tên của sự vật] thì
không còn là danh thường hằng bất biến. Không là bản thể của vạn vật, có là mẹ của
vạn vật).
- Bản chất của Đạo: Đạo là bản nguyên của thế giới, có trước cả trời đất, vạn
vật. Đạo là con đường, là quy luật chung về sự sinh thành, biến hóa của mọi sự vật,
hiện tượng trong vũ trụ.
- Tính chất của Đạo: Đạo bao gồm âm và dương.
- Tư tưởng về Đạo được phản ánh khá nhiều trong Kinh Dịch, ở đó Đạo là sự
vận động theo vòng tuần hoàn, có đi có lại (vãng phục, hưng suy, hết rồi lại bắt đầu).
Toàn bộ vũ trụ bị chi phối bởi hai quy luật chung, đó là quy luật bình quân và phản
phục.
- Giá trị tư tưởng của Đạo ở những yếu tố biện chứng - hai mặt đối lập (chính -
phản); Âm dương ỷ phục trong nhau; mâu thuẫn và chuyển hóa lẫn nhau. "Vật cùng

11
tắc phản, vật cùng tắc biến" (Vật biến đổi đến tận cùng sẽ biến thành cái đối lập với
nó. Vật biến đổi đến tận cùng sẽ biển hóa thành cái khác).
- Đạo mang nhiều nét huyền bí như "Đạo nhìn mà không thấy được; nghe mà
không nghe được; muốn bắt mà không nắm được". Đây là mặt hạn chế của Lão Tử,
đồng thời làm cơ sở cho sự hình thành và phát triển của Đạo giáo như một tôn giáo.
- Lão Tử phủ nhận cảm giác của con người trong nhận thức, đồng thời phủ
nhận cả kinh nghiệm. Ông cho rằng tri túc là đóng cửa ngồi trong nhà, không làm gì
cả mà lại hiểu biết được đạo.
Lão Tử chủ trương sống theo Đạo, theo lẽ của tự nhiên. Trong cuộc sống con
người cần tôn trọng nhu, mềm, bất tranh. Ông quan niệm cái cứng dễ bị chết, cái
mềm sẽ sống lấu, ví như nước tuy mềm nhưng lại mạnh và nguy hiểm. Con người
phải biết làm cho tri thức của mình ngày càng nhiều hơn, biết vô dục hay ít ra là quả
dục.
Hạn chế trong nhân sinh quan của Lão Tử là không công nhận tính năng động
của con người trong hoạt động với tư cách là động lực của sự phát triển và cải tạo
thế giới.
Mong muốn của Lão Tử là làm thế nào để có một xã hội yên bình, không có
chiến tranh. Để làm được điều đó ông kêu gọi con người phải tri túc, vô dục.
- Tư tưởng của Trang Tử
Trọng tâm học thuyết của Trang Tử là quan niệm về Đạo như là về bản nguyên
của toàn bộ cái thực tại và nguyên lý tồn tại của nó. Khái niệm Đạo gắn bó chặt chẽ
với "vô" hơn trong Đạo Đức Kinh mà hình thức cao nhất của nó là "sự vắng mặt của
Đạo là sự vắng mặt của chính cái vô" (vô vô). Từ đó tư tưởng nổi tiếng của Trang
Tử là quan điểm cho rằng, Đạo "vật hóa các sự vật, nhưng không phải là vật (vô vô
nhi phi vô), trong khi đó ở Đạo Đức Kinh, chương 25, Đạo được xem như là "sự vật
hỗn độn" (vật hỗn). Đạo trong tư tưởng của Trang Tử là vô hạn, có ở khắp mọi nơi,
nằm trong mọi thực tại và tạo thành vũ trụ, làm cho quỷ và đế có hồn. Đạo không
thể chia. Không thể nhận thức được nó bằng một hệ thống giản đơn các khái niệm,
quan điểm. Từ đó làm xuất hiện quan điểm "Tề vật" (Mọi vật ngang nhau). Không

12
có cái đẹp cũng không có cái xấu, chẳng có cái gì gọi là dài, mà cũng không có cái
gì gọi là ngắn. Cũng tương tự, to nhỏ, thọ yểu đều là tương đối (thuyết tương đối)
Theo quan điểm "Tề vật", thế giới kinh nghiệm cũng giống như giấc mơ, đều là
ảo ảnh. Tuy nhiên tính ảo ảnh đó không phải mang tính bản thể luận, mà là nhận
thức luận. Hiện thực chân lý không đối lập cái này với cái kia (bỉ - thực). Không
phải vật mang tên khác nhau mà dẫn đến việc cho rằng, chúng khác nhau về danh thì
kéo theo sự khác nhau về bản chất. Ông chứng minh trong mơ ông hóa thành bướm
và ngược lại, bướm cũng mơ thấy nó hóa thành ông, từ đó ông cho rằng, đối với
người ngủ thì giấc mơ là thật, khi đó đối với người có tâm trạng thoải mái và khoái
cảm thì trạng thái của anh ta là thật. Quan niệm này kéo theo sự đồng nhất giữa
"sống và chết". Ông cho rằng chết là sự chuyển trạng thái, không có gì phải lo.
Trang Tử cũng đặt vấn đề trường sinh bất tử bằng nghệ thuật ăn uống và luyện
đan, kể cả những phương pháp siêu nhiên. Chính vì vậy mà tác phẩm của ông đã trở
thành cơ sở cho sự hình thành Đạo giáo với tư cách một tôn giáo của dân tộc Trung
Hoa [1, tr 48 - 53].
1.2.4 Pháp gia
Tư tưởng Pháp gia là sản phẩm của sự biến đổi xã hội thời kỳ Chiến Quốc. Các
đại biểu của nó gồm Quản Trọng, Tử Sản, tiếp đến là Lý Khôi, Ngô Khởi, Thương
Ưởng, Thân Bất Hại, Lý Tư, Hàn Phi.
Pháp gia chủ trương chống "Pháp tiên vương" (bắt chước các đời vua trước)
cũng như thuyết tính thiện của Nho gia. Những người theo Pháp gia cho rằng, nhân
tính tiến hóa cùng với lịch sử. Hàn Phi cho rằng, "thời nào cũng có thánh nhân, do
đó không nhất thiết cứ phải răm rắp noi theo các "Tiên vương", "Tiên thánh". Trên
quan điểm về thuyết tiến hóa và tính ác của Tuân Tử, Pháp gia đã đề xuất một hệ
thống chính trị lấy pháp, thuật, thế làm nội dung cơ bản ghi trong bộ sách kinh điển
là Hàn Phi Tử, tác giả là Hàn Phi, người được mệnh danh là tập đại thành của tư
tưởng Pháp gia.
Pháp:. Pháp là khuôn mẫu của thiên hạ. Pháp chỉ pháp lệnh thành văn của quốc
gia. Pháp phải được công bố cho dân chúng biết để thực hiện.

13
Thuật: Thuật là thủ đoạn chế ngự thần dân của bậc quân chủ, để tâm sức vào
việc quản chế bề tôi.
Thế: Kẻ làm chúa phải biết phát huy hết quyền lực.
Hàn Phi đã kết hợp cả ba hình thức Pháp - Thuật - Thế cũng như những nguyên
tắc thực hiện chúng, tạo thành một học thuyết pháp trị khá hoàn chỉnh trong chế độ
phong kiến Trung Hoa và được Tần Doanh Chính áp dụng một cách triệt để, nhờ đó
mà tiêu diệt được sáu nước trong Chiến Quốc thất hùng để thống nhất Trung Quốc.
Do sự áp dụng một cách thất nhân tâm, quá tả nên sau khi Tần Thủy Hoàng chết,
nhà Tần sụp đổ một cách nhanh chóng.
Hàn Phi là người kịch liệt phê phán các nhà triết học trước mình về đường lối
trị nước, đặc biệt là Nho gia. Tuy nhiên, ông lại dựa vào học thuyết của Đạo gia để
hình thành tư tưởng triết học của mình, đặc biệt là học thuyết của Lão Tử về Đạo
như là quy luật mà đến cả trời cũng phải tuân theo. Đạo là quy luật của sự vật: trời,
người và vật đều phải theo Đạo. Chỉ có bản thân Đạo và quốc vương mới không lệ
thuộc vào Đạo, bởi vì quốc vương là sự thể hiện đầy đủ của Đạo.
Đạo là duy nhất và không bị chia, từ đó quốc vương cũng phải là duy nhất và
có mọi quyền hành. Đạo là hư vô, là tĩnh và cân bằng, vì thế quốc vương phải giấu
kín mọi ý định của mình, không cho thuộc hạ biết. Quốc vương phải biết thực hành
vô vi, một khi nắm được nghĩ trong đầu các thuộc hạ, chế ngự ngay từ đầu mọi ý
định xấu trong đầu họ. Mặt khác, thực hiện đạo vô vi khi và chỉ khi trong tay quốc
vương có bộ máy chính quyền hoạt động tốt. Khi ông vua phải làm những công việc
của thuộc hạ thì đó là tai họa. Luật lệ ban hành là để cho dân chúng, còn nghệ thuật
quản lý là của nhà vua. Luật phải được phổ biến, còn nghệ thuật quản lý là bí mật.
Tư tưởng pháp trị của Hàn Phi được áp dụng một cách cực đoan và do đó,
không có chỗ cho sự phản biện từ các khuynh hướng tư tưởng khác, thậm chí còn
tiêu diệt các quan điểm khác biệt. Chính vì vậy mà sử gia Tư Mã Thiên đã đánh giá
về Hàn Phi là con người mà "tính ác của ông ta lên đến cực điểm, còn tính thiện đi
tới chỗ triệt tiêu" [1, tr 53 - 58].

14
CHƯƠNG 2. ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG
TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI ĐẾN TƯ DUY CỦA NGƯỜI VIỆT
NAM
2.1 Ảnh hưởng của Nho giáo đến tư duy của người Việt Nam

2.1.1 Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam


Nho giáo truyền nhập vào Việt Nam khoảng 2000 năm nhưng nó có vị trí chi
phối cao nhất là từ thế kỷ 15 về sau. Trước đó, vào thời Trần, ảnh hưởng của Nho
giáo chưa sâu đậm. Có thể có một bộ phận quan chức cao cấp còn áp dụng ít nhiều
lễ giáo, còn trong dân gian và kể cả quan chức cấp thấp thì ảnh hưởng của Nho giáo
chưa đáng kể.

Sự hình thành và phát triển Nho giáo ở Trung Quốc gắn liền với sự hưng thịnh
của các triều đại, là hệ tư tưởng gắn liên với giai cấp thống trị, nhưng xét về khía
cạnh văn hóa, Nho giáo góp phần làm phong phú nền văn hóa Trung Hoa. Do vậy,
sự phát triển và mở rộng của Nho giáo cũng tuân thủ những quy luật của sự mở
rộng và phát triển của văn hóa. Sự du nhập Nho giáo vào xã hội Việt Nam gắn liền
với sự xâm lược của các thế lực phong kiến phương Bắc [4, tr 34 – 35].
2.1.2 Ảnh hưởng của nho giáo Trung Hoa đến nền văn hóa truyền thống của
Việt Nam
Nho giáo thống lĩnh tư tưởng văn hóa Việt Nam từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 19,
suốt hai triều đại Lê Nguyễn. Nho giáo Việt Nam về cơ bản là sự tiếp thu Nho giáo
Trung Quốc, nhưng không còn giữ nguyên trạng thái nguyên sơ của nó nữa mà có
những biến đổi nhất định. Quá trình du nhập và tiến tới xác lập vị trí Nho giáo trong
đời sống xã hội Việt Nam cũng là quá trình tiếp biến văn hóa hết sức sáng tạo của
người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, góp phần tạo
nên tính đa dạng, nhưng thống nhất và độc đáo của văn hóa Việt Nam [4, tr 35].

2.1.2.1 Ảnh hưởng của Nho giáo đến sự phát triển của xã hội cổ đại Việt Nam
a, Tích cực

15
Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng các
nhà nước phong kiến trung ương, tập quyền vững mạnh, góp phần xây dựng một hệ
thống quản lý thống trị xã hội chặt chẽ, nâng cao sức mạnh quân sự và kinh tế quốc
gia.
Nho giáo rất coi trọng trí thức, coi trọng học hành. Hàng nghìn năm qua, nhà
nước Việt Nam đều lấy Nho học - Nho giáo làm nền tảng lý luận để tổ chức nhà
nước, pháp luật và đặc biệt là giáo dục. Nội dung giáo dục của Nho giáo là dạy đức
và dạy tài vẫn còn có ý nghĩa. Nho giáo coi trọng đức là coi trọng cách làm người,
coi trọng con người là yếu tố quyết định. Giáo dục Nho giáo góp phần nâng cao văn
hóa con người đặc biệt về văn hóa, sử học, triết học.

Nho giáo hướng quản đạo quần chúng nhân dân vào việc học hành, tu dưỡng
đạo đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội ngày càng
phát triển văn minh hơn.

Nho giáo góp phần xây dựng mối quan hệ xã hội rộng rãi hơn, bền chặt hơn,
có tôn tri trật tư… vượt quá phạm vi cục bộ là các làng xã, thô, ấp hướng tới tầm
mức quốc gia, ngoài ra nó góp phần xây dựng mối quan hệ gia đình bền chặt hơn,
có tôn ty hơn… nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua-tôi, cha-con, chồng-vợ, anh-em,
bạn-bè” [4, tr 35 – 36].

b, Tiêu cực

Không như Nho giáo Trung Hoa, tuy không coi trọng thương nghiệp nhưng
cũng không phản đối. Nho giáo Việt Nam quá coi trọng nông nghiệp mà bài xích
thương nghiệp, quá chú trọng đến tự sản, tự tiêu mà quên đi sự trao đổi mua bán,
kềm hãm tính năng động, sáng tạo dẫn đến quan liêu, bảo thủ trong cả kinh tế lẫn
chính trị. Trong những giai đoạn đầu của chế độ phong kiến, nó tạo sự ổn định, phát
triển nhưng sau đó chính nó lại tạo ra sức ỳ quá lớn khiến đất nước không thể phát
triển.

16
Nho giáo quá bảo thủ không tiếp thu những cái mới ưu việt hơn dẫn đến bị cái
mới ưu việt hơn tiêu diệt.

Nho giáo đưa con người quá hướng nội, chuyên chú suy xét trong tâm mà
không hướng dẫn con người hướng ra bên ngoài, thực hành những điều tìm được,
chinh phục thiên nhiên, vạn vật xung quanh. Điều này làm cho nền văn minh, khoa
học tư nhiên, kỷ thuật sau một thời gian phát triển đã bị chựng lại so với nền văn
minh phương Tây vốn xuất hiện sau [4, tr 37].

2.1.2.2 Ảnh hưởng của Nho giáo trong thời kỳ cách mạng dân tộc Việt Nam
Bước sang thế kỷ thứ 19, Việt Nam và các nước phương Đông phải đối đầu
với sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc có trình độ kỷ thuật, tiềm năng kinh tế, tổ
chức quân đội và chất lượng vũ khí. Nho giáo lúc bấy giờ tỏ ra bất lực cả về tư
tưởng và hành động.

Trên con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sáng suốt
không thể không gạt đi cái cốt lõi lạc hậu của Nho giáo và giữ gìn, phát huy những
nhân tố hợp lý của nó nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.

Nhà Nho tôn thờ nhất chính là cái mà cách mạng lên án và đánh đổ. Hồ Chí
Minh không thể chấp nhận cái chữ Trung của Nho giáo, không thể chấp nhận lòng
trung thành tuyệt đối của nhân dân bị áp bức đối với chính kẻ áp bức mình. Chữ
Trung ở Nho giáo là trung thành tuyệt đối với nhà vua và chế độ phong kiến, còn ở
Hồ Chí Minh, Trung là trung thành với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, lên án
chế độ phong kiến và lật đổ nhà vua.

Nho giáo vốn coi nhân dân là những người nghèo hèn cần được bề trên chăn
dắt và sai khiến, Hồ Chí Minh đòi hỏi người cán bộ phải là “đày tớ của dân”, phải
học hỏi nhân dân, và yêu quý nhân dân. Với tinh thần ấy, cách mạng đã xây dựng
được khối đại đoàn kết toàn dân, biến nhân dân thành sức mạnh vô địch để giành
độc lập và xây dựng tổ quốc.

17
Nho giáo đã nuôi dưỡng hàng ngàn năm tinh thần “trọng nam khinh nữ”, từ
chổ khinh rẽ phụ nữ đến chổ áp bức họ, trói buộc họ trong bếp núc gia đình. Cách
mạng Việt Nam đã sớm xóa bỏ những tử tưởng lạc hậu ấy để cho phụ nữ cùng bình
đẳng với nam giới trên mọi lĩnh vực chiến đấu, sản xuất và quản lý đất đai.

Nho giáo luôn quay về với quá khứ, đời này không bằng đời xưa, người ít tuổi
không bằng người nhiều tuổi. Cách mạng luôn nhìn về phía trước, đặt niền tin vào
thanh niên và tiền đồ dân tộc.

Đảo ngược lại học thuyết của Nho giáo, nhằm mục tiêu trái hẳn với mục tiêu
của Nho giáo, Hồ Chí Minh không xóa bỏ toàn bộ nội dung của Nho giáo mà giữ
lại những nhân tố hợp lý vốn phục vụ cho chế độ cũ thành những công cụ chống lại
chế độ cũ và xây dựng chế độ mới. Với tinh thần nói trên mà trong quá trình lãnh
đạo Cách mạng tháng tám, Hồ Chí Minh đã sử dụng rất nhiều câu chữ của Nho
giáo, nhiều kinh nghiệm giáo dục và tu dưỡng của Nho giáo, nhiều biện pháp động
viên tinh thần và ý chí của Nho giáo để cổ vũ nhân dân đứng lên chiến đấu giành lại
độc lập tự do với một khí phách kiên cường, tinh thần mưu trí và sáng tạo [4, tr37 –
39].

2.1.2.3 Vấn đề khai thác, vận dụng Nho giáo ở Việt Nam
Nhiều học giả ở những nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore
và Trung Quốc đã nói rất nhiều về vai trò tích cực của Nho giáo đối với sự phát
triển cực kỳ nhanh chóng của đất nước họ trong những thập kỷ vừa qua.

Việt Nam cũng như những nước nói trên từ lâu nay chịu ảnh hưởng của Nho
giáo. Nếu những nước ấy khai thác được những nhân tố tích cực của Nho giáo, thì ở
Việt Nam chẳng lẽ lại không làm được những điều mà họ đã làm hay sao?

Tuy nhiên, chúng ta không thể chỉ bắt chước những nước ấy mà phải khai thác
Nho giáo với tinh thần chủ động và sáng tạo, thích hợp với tình hình Việt Nam.
Việt Nam cần học những kinh nghiệm của những nước ấy nhưng cần phải có sự
độc lập suy nghĩ để trên những vấn đề của mình, vừa tiếp thu những bài học quý

18
báu, vừa nhất thiết gạt bỏ những kinh nghiệm không thể chấp nhận được ở Việt
Nam.

Những nước nói trên đã biết khai thác học thuyết Nho giáo nhằm củng cố trật
tự gia đình và xã hội. Họ đã đạo đức hóa những quan hệ cố hữu giữa chủ đất và
nông dân, giữa chủ xí nghiệp và công nhân, giữa Nhà nước và nhân dân.

Vì những lẽ trên, chúng ta nên căn cứ vào nhu cầu hiện đại hóa đất nước, xuất
phát lợi ích của giai cấp công nhân lao động Việt Nam, mà đặt ra vấn đề cụ thể :
Khai thác những gì và gạt bỏ những gì từ di sản Nho giáo ở Việt Nam?

Về mối quan hệ giữa Nho giáo và kinh tế

Nền kinh tế Xã Hội Chủ Nghĩa mà ta xây dựng hoàn toàn khác nền kinh tế
theo Nho giáo. Đó là nền sản xuất công nông nghiệp hiện đại, nền sản xụất lớn, dựa
vào lao động có kỹ thuật và theo kế hoạch. Để phát triển nền sản xuất như vậy
chúng ta đã chuẩn bị về quan hệ sản xuất, về cơ sở vật chất, đào tạo đội ngũ khoa
học kỹ thuật, công nhân lành nghề, chủ trương nền giáo dục hướng nghiệp… Rõ
ràng tất cả đều theo đúng các nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, các quy luật
xây dựng chủ nghĩa xã hội, các kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Nho giáo không len vào đường lối, chủ trương như vậy. Công việc xây dựng kinh
tế xã hội chủ nghĩa của ta gặp nhiều khó khăn, khó khăn do hoàn cảnh chiến tranh,
do thực tế nghèo nàn, lạc hậu, do thiếu hiểu biết thực tế, thiếu kinh nghiệm tổ chức,
quản lý… Mà điều cũng đáng chú ý là khi thực hiện nhiều chủ trương có nội dung
cách mạng, xã hội chủ nghĩa thực sự mà kết quả thì lại giống như trở lại thời xưa.
Tình hình như vậy ở nông thôn nhiều khi khá rõ.

Trong nông nghiệp, chúng ta đã thực hiện sở hữu nhà nước và tập thể xây
dựng hợp tác xã nông nghiệp, từ quy mô thôn nâng lên quy mô xã. Gặp khó khăn
trong sản xuất và để thực hiện quyền làm chủ tập thể của quần chúng, nâng cao tính
chủ động sáng tạo, kích thích hứng thú sản xuất, tạo điều kiện sử dụng hợp lý sức

19
lao động trong gia đình, chúng ta để hợp tác xã khoán sản phẩm cho các hộ nông
nghiệp. Ở làng xã mà nhìn việc đó giống như việc chia cày công điền ngày xưa.

Ta theo chế độ xã hội chủ nghĩa. Trả lương theo lao động nhưng với chính
sách bao cấp thì cũng giống phân phối theo phận vị. Và người có vị, có chức vụ có
nhiều quyền lợi được Nhà nước đảm bảo chắc chắn làm nảy nở tâm lý kiếm bằng
cấp, vào biên chế, giành chức vị.

Vài hiện tượng vừa kể là giống xưa chứ không phải đồng nhất với xưa. Ta
không định làm như thế có khi vì khó khăn khách quan mà thành ra như thế có khi
vì khó khăn khách quan mà thành ra như thế nhưng điều quan trọng là nhiều cái
giống nhau như vậy gây ra quang cảnh chung giống xưa, cái này gọi cái kia. Con
đường cũ tái hiện, tâm lý cũ tái sinh, những kinh nghiệm sống trước đây lại được
vận dụng, có khi là vận dụng để đối phó với nhà nước xã hội chủ nghĩa (dựa vào
tình họ hàng, quê hương, nâng đỡ, bao che, coi tài sản nhà nước là của cha
chung…) Thanh niên và các bậc phụ huynh lại toan tính con đường chắc chân: Học
cho có bằng cấp, vào biên chế, sống dựa vào nhà nước kiếm lộc, kiếm bổng. Chuẩn
bị vào đời bằng trau dồi “tư cách (đánh giá về đạo đức, vốn hoạt động chính trị) và
bằng bằng cấp chứ không phải bằng nghề nghiệp tự lập.

Ngoài cách đó cũng lại có chuyện làm giàu trái pháp luật, cũng hưởng thụ lén
lút, cũng tìm chỗ dựa dẫm để che giấu.

Nên giải thích bằng nền sản xuất nhỏ hay nền sản xuất nhỏ chịu ảnh hưởng
Nho giáo, tổ chức theo cách Nho giáo? Nói cách khác là nên chú ý đến cơ sở kinh
tế hay cùng với cơ sở kinh tế là tổ chức xã hội, ý thức tâm lý xã hội, gắn bó chặt
chẽ với nhau một cách tất yếu lịch sử? Nên nhìn cái phổ biến hay cái đặc thù ở đây?

Ta thường hiểu Nho giáo đơn giản, phiến diện, sách vở, coi nó chỉ là ngoại lai,
theo quân xâm lược phương Bắc vào, phục vụ cho chế độ phong kiến… dường như
nó là công cụ xâm lược, là chỉ có sức hấp dẫn – những giai cấp thống trị cũ mà
không thấy Nho giáo rất thích hợp với cuộc sống hẹp, tự nhiên, đóng kín gia đình,

20
họ hàng, làng xã rất thích họp với nông thôn với nền sản xuất của hộ tiểu nông. Một
cuộc sống có trên, có dưới, có tình anh em bà con, láng giềng, cô bác kiểu gia đình
êm ấm, từ trong nhà ra đến làng, đến nước. Không phải quân xâm lược phương Bắc
đã áp đặt được Nho giáo cho ta, mà chính các triều đại Lý, Trần, Lê sau khi đánh
đuổi quân xâm lược đã lựa chọn Nho giáo để làm công cụ bảo vệ nhà nước thống
nhất và cơ chế làng xã họ hàng bên dưới là những tổ chức cần thiết và thích hợp với
nhu cầu sản xuất, sống và bảo vệ độc lập lúc đó. Yêu nước, thương dân không phải
là xa lạ đối với nhà nho. Xã hội chủ nghĩa cũng được các nhà nho thích thú, hoan
nghênh vì rất giống lý tưởng Đại đồng của thánh hiền. Chỉ có những điểm đặc
trưng cho đời sống công nghiệp hiện đại tức là thành phố chứ không phải nông
thôn, công nghiệp chứ không phải nông nghiệp, khoa học kĩ thuật chứ không phải
đạo lý, cá nhân – công dân trong xã hội chứ không phải con em trong làng nước,
luật pháp chứ không phải tình nghĩa mới không dung hòa được với Nho giáo.

Phát sinh vấn đề là từ chỗ khi ta bắt đầu xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa,
chúng ta phải tiếp nhận một tổ chức kinh tế – xã hội của những hộ tiểu nông, những
làng xã với số ít đô thị chưa có công nghiệp phát triển với cả tâm lý xã hội tương
ứng với tình hình phổ biến là nông thôn như vậy. Ở nông thôn có sẵn cơ chế gia
đình – họ hàng – làng xã nên Nho giáo dễ có ảnh hưởng sâu. Thực dân Pháp tuy có
gạt bỏ Nho giáo nhưng cũng chỉ là ở thành phố, trường học, công sở xí nghiệp, lề
lối hành chính, ít đụng chạm đến nông thôn. Từ Cách mạng tháng Tám tuy bản thân
cuộc cách mạng và cả nhiều công cuộc cải tạo và xây đựng mà tiến hành sau đó,
nhưng ta không chú ý cái nguồn gốc Nho giáo. Khi tiến hành tổ chức lại ta không
có ý thức tránh hội tụ những điều kiện làm cái cũ tái sinh.

Nhân dân ta thích chủ nghĩa cộng sản, yêu mến và biết ơn Đảng, tin tưởng ở
Đảng, thích nói “khoa học”, “hiện đại” nhưng không vì thế mà thấy cần phải có
nghề nghiệp, tinh thông nghề nghiệp. Rất nhiều người vẫn mong được nhàn nhã,
quý sự thanh bần, tự hào về đạo đức, sống bị động, chờ đợi ở Nhà nước. Những chủ
trương cải tạo tư sản được hưởng ứng rộng rãi nhiều trường hợp là do tâm lý ghét

21
giầu, ghét buôn bán, để chống tư bản mà cũng khó nhập cuộc với nền sản xuất công
nghiệp xã hội chủ nghĩa. Ta mở rất nhiều trường học, rất quan tâm xây dựng con
người mới nhưng nhà trường và Đoàn thanh nhìn chung chưa chú ý rèn luyện thanh
niên khắc phục đúng những cách suy nghĩ, thói quen, tâm lý của xã hội cũ để chuẩn
bị cho việc xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa, sống trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Ở đây có vấn đề nhận diện ảnh hưởng Nho giáo. Nếu như trước đây, trong cuộc
sống phổ biến có tính nông thôn, Nho giáo ảnh hưởng không chỉ đến các tầng lớp
thống trị mà cả đến trí thức, nông dân thì ngày nay, cuộc sồng căn bản vẫn còn là
nông thôn, cũng không chỉ nông dân mà cả trí thức, cán hộ, đảng viên, nếu không ý
thức đầy đủ rằng ta đi từ Nho giáo mà đến chủ nghĩa Mác, rằng nền kinh tế của ta
không chỉ là sản xuất nhỏ mà còn là trải qua nhiều thế kỷ nhào nặn theo mô hình
Nho giáo làm nên nét đặc thù của ta, và có thể là của một số nước Đông Á - thì
cũng không dễ nhận diện ra. Trong bước phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa, những
quan điểm coi nghĩa trọng hơn lợi, đức trọng hơn tài, giáo hóa hơn Hình Chín, Tình
nghĩa hơn lẽ phải mới dẫn đến chủ nghĩa tình cảm, chủ nghĩa gia đình; không đặt
vấn đề kinh tế theo góc độ kinh tế, giải quyết theo cách kinh tế, gây ra tình trạng
lùng nhùng. Đó là chỗ tai hại khó khắc phục nhất của ảnh hưởng Nho giáo đối với
sự nghiệp phát triển kinh tế.

Nho giáo không phải là học thuyết kinh tế, không ra mặt đối lập với chủ nghĩa
xã hội, không tác động trực tiếp vào công việc xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa
bằng những chủ trương kinh tế. Nhưng bằng những quan điểm về cách sống, bằng
cách suy nghĩ, tính toán, bằng động cơ, tâm lý do nó để lại công việc đó bị sa lầy, bị
làm mục rỗng, bị phá hoại. Tuy vậy nếu không giải quyết những vấn đề liên quan
đến xã hội, đến con người như vậy thì xây dựng cũng dễ bị làm lạc hướng, lạc
hướng về nẻo xưa. Sự định hướng củ những cái cũ, vô ý mà để trỗi dậy như vậy,
đều chắc chán không thể làm hỏng con đường theo quy luật tất yếu la xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội, nhưng cũng gây ra nhiều bước quanh co, mất nhiều
thời gia và sức lực.

22
Trong vùng Đông Á, Nhật Bản cũng chịu ảnh hưởng Nho giáo. Nếu không
phải là đã có cách khắc phục nó thì Nhật Bản đã không duy tân thành công và có sư
phát triển như ngày nay. Sát với thực tế ta hơn thực dân Pháp khi tiến hành khai
thác thuộc địa cũng gặp trở ngại là Nho giáo. Để xây dựng đô thị, phát triển công
thương nghiệp truyền bá văn hóa châu Âu, thực dân Pháp cũng đã tìm ra cách gạt
sang một bên, cô lập, vô hiệu hóa ảnh hưởng của Nho giáo ở những điểm, những
khu vực nhất định để xây dựng kinh tế hiện đại. Và cuối cùng thì cái hiện đại được
tạo ra (đường giao thông, đô thị, công thương nghiệp), làm Nho giáo tiêu vong, tiêu
vong ở phạm vi lớn toàn xã hội. Thực dân Pháp và Nhật Bản chỉ xây dựng kinh tế
tư bản chủ nghĩa. Kinh tế tư bản chủ nghĩa và kinh tế xã hội chủ nghĩa tất nhiên
khác nhau về bản chất nhưng lại giống nhau ở một chỗ đều là kinh tế hiện đại. Kinh
nghiệm khai thác thuộc địa của Pháp và duy tân của Nhật Bản tất nhiên là không
thích hợp để xây dựng kinh tế của chủ nghĩa xã hội, nhưng ở một điểm chắc chắn là
có ích cho ta ngày nay.

Về mối quan hệ giữa Nho giáo và xã hội


Nho giáo là một học thuyết xây dựng và đạo đức, vấn đề tu thân được đặt lên
hàng đầu: “Từ thiên tử ở địa vị cao nhất cho đến người dân bình thường đều phải
lấy việc tu thân làm gốc”. Nhiều nước châu Á đã có những kinh nghiệm rất đáng
quý trong việc khai thác Nho giáo nhằm bảo đảm ổn định chính trị và xã hội, nhất
là trong thời kỳ chuyển biến mạnh mẽ của đất nước. Các nước nói trên đã không
chỉ đòi hỏi sự nỗ lực của bản thân mỗi người trong việc tu thân mà còn quy định
trách nhiệm của gia đình, của trường học, của xã hội, của Nhà nước đối với việc
này.

Chính vì thế mà ở những nước nói trên, nhất là trong mấy thập kỷ vừa qua,
công nghiệp hóa và hiện đại hóa đã nhanh chóng đưa xã hội từ lạc hậu thành tiên
tiến trong một hoàn cảnh tương đối ổn định về chính trị và xã hội.

23
Nho giáo đòi hỏi con người trước hết phải có quan hệ đúng đắn trong các quan
hệ xã hội. Trước hết, là 5 mối quan hệ gọi là Ngũ luân: Vua tôi, cha con, chồng vợ,
anh em, bạn bè.
Những nước châu Á theo Nho giáo đã khai thác những quan điểm trong Ngũ
luân để nâng cao tình cảm và trách nhiệm của mỗi con người đối với gia đình, đối
với xí nghiệp, đối với nơi công tác, đối với tổ quốc và xã hội. Sự khai thác Nho
giáo như thế đã có tác dụng lớn là nâng cao tình cảm và ý chí của mọi người trên
cương vị và trách nhiệm cụ thể của mình.

Ở những nước châu Á theo Nho giáo, chúng ta thấy những đóng góp lớn đối
với quá trình phát triển của đất nước. Gia đình đào tạo ra những người mà xã hội
đòi hỏi. Gia đình nuôi dưỡng một cuộc sống tình cảm giữa các thành viên và giữa
gia đình với xã hội. Các nước nói trên đã giữ lại mối quan hệ cổ truyền trong gia
đình để ràng buộc con người vào trật tự xã hội. Nó đã củng cố thêm mối quan hệ
tính chất giữa Nhà nước và công dân, giữa chủ và thợ. Người chủ vì lợi ích của bản
thân đã nhân danh gia đình chăm lo đến lợi ích của công nhân, người công nhân
cũng với tình cảm của gia đình, coi xí nghiệp như gia đình của mình, coi chủ xí
nghiệp như chủ gia đình. Họ chăm lo đến lợi ích của xí nghiệp và lợi ích của họ phụ
thuộc vào mức độ họ đóng góp với xí nghiệp. Truyền thống Nho giáo trong gia
đình ở các nước nói trên có tác dụng tích cực trong việc ổn định và phát triển xã hội
như thế.

Ở Việt Nam, cũng khai thác vai trò của gia đình trong sự nghiệp phát triển của
đất nước và cũng có những quan điểm riêng về di sản Nho giáo trong gia đình.

Hiện nay, nhiều sinh hoạt kiểu gia đình cũ đang được khôi phục lại. Mọi
người quan tâm đến việc thờ cúng tổ tiên, chăm lo mồ mả, sửa sang nhà thờ họ, tìm
lại gia phả, nhận lại anh em họ hàng gần xa. Tình hình này có xu hướng củng cố
thêm quan hệ gia đình, tạo điều kiện khuyến khích mọi người phát huy nhân tố tích
cực của gia đình trong lao động, học tập và trong sự nghiệp dân giàu nước mạnh.
Mặt khác, cũng cần ngăn chặn tư tưởng gia đình chủ nghĩa, thái độ họ hàng bao che

24
cho nhau, tạo nên tính chất bè phái giữa các dòng họ trong một xã hội, giữa lợi ích
xã hội và lợi ích gia đình trong phạm vi cả nước.

Những tư tưởng trên của Nho giáo, ở một mặt nào đó có thể nói rằng, phù hợp
với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của
chúng ta. Chúng ta cũng coi “Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng cả
đời người, là môi trường quan trọng trong giáo dục nếp sống và hình thành nhân
cách”. Vì thế, Đảng ta đòi hỏi “Các chính sách của nhà nước phải chú ý tới xây
dựng gia đình no ấm, hoà thuận, tiến bộ. Nâng cao ý thức về nghĩa vụ gia đình đối
với mọi lớp người”(1).

Có thể thấy rằng, gia đình mới hiện nay, trước hết, cần phải là một gia đình vợ
chồng sống chung thuỷ, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng với nhau về quyền lợi và
trách nhiệm. Thứ hai, là một gia đình con cái biết hiếu kính với cha mẹ, ông bà bởi
đức hiếu kính của người làm con để thờ cha mẹ cũng là cái gốc của đức nhân. Thứ
ba, anh em trong gia đình phải biết bảo ban nhau, yêu thương nhau trên tinh thần
em ngã chị nâng.

Như vậy, gia đình mới là một gia đình mà mỗi người đều có trách nhiệm và
nghĩa vụ đối với danh phận của mình. Do đó, việc xây dựng gia đình mới cần dược
gắn liền với việc giáo dục trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người theo đúng danh
phận của họ.

Nhưng những nhu cầu về quyền tự do của cá nhân và đời sống riêng tư, về ý
thức dân chủ của con người đang trở thành những vấn đề mà chúng ta nên nghĩ
rằng các nước theo Nho giáo cần vượt qua quan hệ Ngũ luân để giải quyết. Ở Việt
Nam, sự nghiệp cách mạng đưa con người vượt ra khỏi phạm vi của gia đình để
cùng lo lắng chung đến công việc của tổ quốc, với nhiều tình cảm rộng lớn đối với
cả nhân loại bị áp bức. Qua hai cuộc kháng chiến, nhân dân Việt Nam đã đặt lợi ích
của tổ quốc lên trên hết, sẵn sàng hy sinh cả tính mạng và hạnh phúc. Nhưng con
người vẫn là mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động xã hội, của mỗi tập thể cũng

25
như của mỗi cá nhân. Quan hệ giữa người và người ở Việt Nam không thể chỉ giới
hạn trong Ngũ luân. Vấn đề của chúng ta là xây dựng mối quan hệ biện chứng giữa
cá nhân và xã hội, cùng nhau vì sự phát triển chung của đất nước.

Việt Nam đã trải qua cuộc Cách mạng tháng Tám, cuộc cách mạng từ dưới
lên, cuộc cách mạng lật đổ chính quyền thực dân và phong kiến. Nó trả lại cho nhân
dân địa vị làm chủ đất nước, lên án sự áp bức bốc lột, khẳng định sự bình đẳng nam
nữ, bước đầu thực hiện sự công bằng xã hội. Trong tình hình nói trên, Nho giáo
cũng có nhiều điểm không phù hợp với xã hội mới.

Ngày nay, lý tưởng đạo đức của nhân dân Việt Nam là: Độc lập, tự do và chủ
nghĩa xã hội.Thay cho Ngũ thường của Nho giáo là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Hồ
Chí Minh cũng nêu lên “Ngũ thường” ở Việt Nam là: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng,
Liêm.
Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Trí là vì
không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sáng suốt. Dũng
là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa
chữa. Liêm là không tham địa vị.

Vấn đề đặt ra hôm nay cho chúng ta là có thể khai thác những gì từ Nho giáo
trong quá trình kết hợp giữa đạo đức và pháp luật nhằm xây dựng một Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa và một nền đạo đức mới? Sự kết hợp đạo đức và pháp
luật một cách hợp lý sẽ thúc đẩy sự nghiệp đổi mới hôm nay, vừa xây dựng những
con người kiểu mới cho xã hội ngày mai.

Do đó, chúng ta cũng nên đặt ra nhiệm vụ tu thân lên hàng đầu, huy động mọi
lực lượng gia đình, xã hội và cá nhân để đẩy mạnh việc tu thân, nhưng không phải
tu theo kiểu đạo đức cũ mà tu thân với tinh thần đạo đức mới hôm nay. Chính vì thế
mà nội dung tu thân trong xã hội Việt Nam không hoàn toàn sao chép nội dung tu
thân trong kinh điển Nho giáo [4, tr 39 – 51].

26
2.2 Vận dụng tư tưởng pháp gia trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam

Những tư tưởng về pháp trị của pháp gia đã có những đóng góp to lớn cho sự
phát triển của tư tưởng Trung Hoa cổ đại và nhất là cho sự nghiệp thống nhất đất
nước Trung Hoa lúc bấy giờ. Tư tưởng Pháp gia vẫn còn nhiều yếu tố có giá trị có
thể vận dụng trong xây dựng Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay.

Ở nước ta, tư tưởng về nhà nước pháp quyền cũng đã xuất hiện từ lâu, thể hiện
đậm nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa dùng khái niệm
“Nhà nước pháp quyền”, nhưng tư tưởng của Người về nhà nước pháp quyền đã rất
rõ. Trong “Việt Nam yêu cầu ca”, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trăm điều phải có thần
linh pháp quyền”. Khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên
được Đảng ta sử dụng tại Hội nghị Trung ương 2 khóa VII. Từ đó khái niệm này
được sử dụng chính thức trong các văn kiện Đảng và Nhà nước. Những nội dung
đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng định
hình và thực hiện trong thực tế.

- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011), gọi tắt là Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) đã
xác định rõ những nội dung sau:

Một là, một trong tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
xây dựng là có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Hai là, một trong tám phương hướng cơ bản cần nắm vững thực tiễn là “xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.”

Đại hội X của Đảng, qua tổng kết 20 năm đổi mới, trong đó có 15 năm thực
hiện Cương lĩnh năm 1991 xác định: Để đi lên chủ nghĩa xã hội chúng ta phải xây

27
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.

Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Ba là, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định rõ hơn những định
hướng lớn về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân. Tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo.

Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát
giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không
ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ
quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự
giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa, trừng trị tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân
chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội; nghiêm trị mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.

Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung
ương [4, tr 51 – 52].

28
KẾT LUẬN
Nền triết học Trung Quốc cổ đại ra đời vào thời kỳ quá độ từ chế độ chiếm
hữu nô lệ lên chế độ phong kiến. Trong bối cảnh lịch sử ấy, mối quan tâm hàng đầu
của các nhà tư tưởng Trung hoa cổ đại là những vấn đề thuộc đời sống thực tiễn
chính trị - đạo đức của xã hội. Tuy họ vẫn đứng trên quan điểm duy tâm để giải
thích và đưa ra những biện pháp giải quyết các vấn đề xã hội, nhưng những tư
tưởng của họ đã có tác dụng rất lớn trong việc xác lập một trật tự xã hội theo mô
hình chế độ quân chủ phong kiến trung ương tập quyền theo những giá trị chuẩn
mực chính trị - đạo đức phong kiến phương Đông.

Bên cạnh những suy tư sâu sắc về các vấn đề xã hội, nền triết học Trung Quốc
thời cổ còn cống hiến cho lịch sử triết học thế giới những tư tưởng sâu sắc về sự
biến dịch của vũ trụ. Những tư tưởng tuy còn có những hạn chế nhất định, nhưng
đó là những triết lý đặc sắc mang tính chất duy vật và biện chứng của người Trung
Quốc thời cổ, có ảnh hưởng lớn đến thế giới quan triết học sau này ở Trung Quốc
và một số nước khác trong khu vực, đặc biệt là Việt Nam.

29
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt

1. Hồ Sĩ Quý, Phạm Văn Đức, Lương Đình Hải, Đoàn Đức Hiếu, Nguyễn Tiến
Dũng (2018), Giáo trình triết học (Dùng cho khối không chuyên ngành triết
học trình độ đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ các ngành khoa học tự nhiên, công
nghệ), Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.
2. Phạm Công Nhất, Đoàn Thị Minh Oanh, Vũ Văn Viên, Nguyễn Chí Mỳ,
Trương Quốc Chính, Trần Văn Thụy (2017), Giáo trình triết học (Dùng học
viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc nhóm ngành khoa học xã hội
và nhân văn), Nxb. Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.
Tài liệu Internet
3. Bùi Đức Dũng (2019), Một số giá trị và hạn chế của tư tưởng biện chứng
trong triết học trung quốc thời kỳ cổ đại,
https://www.facebook.com/suyngamchanly/posts/1045708495626886/.
4. Lê Thùy Dương, Đinh Thị Sính, Bùi Minh Thắng, Phan Thị Hằng Nga, Đỗ
Kim Thư, Vũ Thị Thu Hà, Mạc Như Thế, Sukhavong (2012), Tư tưởng biện
chứng trong triết học Trung Hoa cổ đại. Ảnh hưởng của nó đến tư duy của
người Việt Nam, https://tailieuxanh.com/vn/tlID1676431_tieu-luan-tu-tuong-
bien-chung-trong-triet-hoc-trung-hoa-co-dai-anh-huong-cua-no-den-tu-duy-
cua-nguoi-viet-nam.html.

30

You might also like