Professional Documents
Culture Documents
Nhằm Hán hóa Việt Nam về văn hóa, tư tưởng, nhà Minh cho lập Văn
miếu thờ Khổng Tử ở các phủ, châu, huyện trên toàn quốc và bắt các địa
phương xây nhiều đền miếu thờ cúng, cầu đảo theo nghi lễ Trung Quốc. Đạo sĩ
thầy cúng được khuyến khích hành nghề khắp nơi. Để đào tạo ra những người
biết chữ phục vụ bộ máy thống trị của nhà Minh tại Việt Nam, nhà Minh cho
mở trường ở các phủ, châu, huyện. Mở trường dạy học nhưng không có thi cử.
Hàng năm, quan lại đô hộ Minh chỉ lựa chọn lấy một số học sinh đủ tiêu chuẩn
rồi sử dụng. Nội dung chương trình dạy và học hoàn toàn theo sách giáo khoa
của nhà Minh, gồm có Tứ thư (Luận ngữ, Mạnh tử, Trung dung, Đại học), Ngũ
kinh (Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu) và Tính lý đại
toàn, tức là bộ sách do nhóm Hồ Quảng theo lệnh vua Minh soạn, gồm 70
quyển, thâu thái thuyết Tống Nho bàn về hơn 100 nhà, chia thành môn loại như
lý khí, quỷ thần, tính lý, thánh hiền...Những sách vở này được chở từ Trung
Quốc sang Việt Nam cấp phát cho các thôn, huyện. Giảng dạy tại các trường
học ở phủ, châu, huyện, chủ yếu là thầy cúng, thầy bói, đạo sĩ được nhà Minh
tuyển dụng, phong làm Giáo quan.
Sau khi đánh đuổi hết quân Minh, giải phóng đất nước, vương triều Lê
chính thức được kiến lập (1428), thì chế độ phong kiến Việt Nam đi vào giai
đoạn phát triển cực thịnh. Từ thời kỳ này, Nho giáo giành được vị trí độc tôn
trong đời sống chính trị và tinh thần của nước Đại Việt. Lúc này, không chỉ việc
học tập, thi cử theo khuôn mẫu Nho học, mà cả lĩnh vực văn học, nghệ thuật
mang nội dung Nho học cũng phát triển mạnh.
Lê Thánh Tông là ông vua am hiểu Tống Nho rất sâu sắc và nâng Nho
giáo lên địa vị cao nhất. Lê Thánh Tông cho xây lại Văn Miếu và lập nhà Thái
học, quy định thể lệ thi cử để tuyển dụng đội ngũ quan lại. Việc học tập và thi
cử theo Nho học ngày càng đi vào quy củ.
Năm 1484,Lê Thánh Tông đã định lệ dựng bia đá ở Văn Miếu để lưu
danh các vị tiến sĩ từ khóa thi năm1442 trở đi. Việc khuyến khích học hành và
thi cử theo Nho học từ thời Lê Sơ về sau đã tạo ra một tầng lớp Nho sĩ đông
đảo, đa dạng, phức tạp ở triều đình và các địa phương trên cả nước. Hệ tư tưởng
Nho giáo được quán triệt trong nhiều chủ trương, chính sách của nhà nước
phong kiến, qua đó thấm vào mọi lĩnh vực văn hóa, đạo đức của xã hội đương
thời, làm thay đổi cách ứng xử, giao tiếp và đưa lại những hình thức nghi lễ chặt
chẽ, phức tạp cho các phong tục như ma chay, cưới hỏi, giỗ chạp, cúng tế trong
gia đình cũng như cộng đồng làng xã. Nho giáo từ thời Lý – Trần được coi
trọng và giành được vị trí độc tôn vào thời Lê Sơ là do đã đáp ứng được nhu cầu
xây dựng và củng cố nhà nước phong kiến tập quyền. Từ thời Lý –Trần, chế độ
phong kiến Việt Nam đã đi vào ổn định và các tập đoàn cầm quyền nhận thấy
rằng,trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ, chỉ có Nho giáo mới có thể giải đáp
được những vấn đề thiết thực trong tổ chức nhà nước và quản lý xã hội.
Cuối thời Lê Sơ, chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào khủng hoảng trầm
trọng, do những cuộc chiến tranh giành quyền lực kéo dài giữa Lê và Mạc,
Trịnh và Nguyễn, kéo theo sự sa sút của Nho giáo. Tuy nhiên, việc học tập, thi
cử Nho học vẫn được duy trì, nội dung đã có sự xa rời đạo lý thánh hiền Khổng
– Mạnh. Việc mua bán đề thi, văn bằng, học vị diễn ra công khai và có chủ
trương của nhà nước. Phan Huy Chú nhận xét: “ Từ khi kẻ nịnh thần đề nghị đổi
phép thi, hạng sinh đồ ba quan đầy cả thiên hạ.Người trên do đó lấy tiền mà
không ngại, kẻ dưới nộp tiền để được đỗ mà không thẹn, làm chotrường thi
thành ra chỗ buôn bán”.
4. NHO GIÁO THỜI NGUYỄN
Triều Nguyễn được dựng lên nhờ sự bành trướng, giúp sức của nước
ngoài sau cuộc nội chiến tranh giành quyền lực kéo dài. Để củng cố địa vị, vua
quan nhà Nguyễn ra sức phục hồi và phát triểnNho giáo. Các vua nhà Nguyễn
như Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức, Thiệu Trị đều là những người trực tiếp
truyền bá Nho giáo và đào tạo Nho sĩ. “Mệnh trời, tam cương, ngũ thường,
trung hiếu, tiết nghĩa…” của Nho giáo được đề cao theo hướng duy tâm và khắc
nghiệt hơn.
Gia Long ban hành bộ Hoàng triều luật lệ làm công cụ để bảo vệ tam
cương, ngũ thường,trong đó phạt tội bất trung, bất hiếu còn tàn khốc hơn bộ luật
Hồng Đức dưới triều Lê. Minh Mạng ban hành mười huấn dụ, gọi là Thập điều
nhằm khuyên răn người dân theo về với chính đạo là Nho giáo và triều đình.
Trong đó, điều mục đầu tiên và bao trùm lên tất cả là Đôn nhân luân tức phải
luôn ghi nhớ và thực hiện tam cương, ngũ thường.Năm 1858, quân Pháp nổ
súng tấn công Đà Nẵng, mở đầu cho cuộc xâm lược Việt Nam.Sau hàng ước
1884, giai cấp phong kiến triều Nguyễn trở thành tay sai cho Pháp và tiếp tục
cấukết với bọn đế quốc để nô dịch nhân dân ta. Trong thời kỳ lịch sử này, Nho
giáo vẫn tiếp tụcđược tồn tại và các kỳ thi Nho giáo vẫn được duy trì cho đến
đầu thế kỷ XX mới chấm dứt.Như vậy, triều Nguyễn là triều đại cuối cùng trên
đất nước ta khẳng định địa vị quốc giáocủa Nho giáo. Nếu như Nho giáo Việt
Nam ở những triều đại trước còn mang tính tích cực, hợplý thì Nho giáo triều
Nguyễn (trừ một số nhà nho yêu nước, có tư tưởng tiến bộ, cách tân) đã trở nên
tiêu cực, bảo thủ và lỗi thời, nên sự suy tàn của nó là một tất yếu trước những
thách thức mới của lịch sử.
Trên cơ sở quá trình Nho giáo du nhập và truyền bá ở Việt Nam, chúng ta
có thể rút ra một vài nhận xét sau:
Một là, du nhập vào Việt Nam từ đầu công nguyên, song phải trải qua
một thời gian khá dài, Nho giáo mới bén rễ được vào đời sống chính trị và tinh
thần của xã hội.
Hai là, Nho giáo du nhập vào Việt Nam không còn là Nho nguyên thủy,
mà là Hán Nho và Tống Nho, song cũng đã được cải biến cho phù hợp với
truyền thống của dân tộc và nhu cầu của đất nước để trở thành nhân tố của
chính nền văn hóa và hệ tư tưởng thống trị ở Việt Nam.
Ba là, Nho giáo du nhập vào Việt Nam trong sự phát triển đồng hành, tác
động qua lại vớiPhật giáo và Đạo giáo.
Tóm lại, chúng ta thấy rằng, nếu tính từ thời Bắc thuộc thì Nho giáo đã có
mặt trên đất nước ta hơn hai ngàn năm, trong đó trên năm trăm năm được coi là
hệ tư tưởng thống trị trong kiến trúc thượng tầng của xã hội phong kiến. Vì lẽ
đó, Nho giáo đã có đủ thời gian và điều kiện để thấm sâu, bám rễ và ảnh hưởng
sâu sắc đến đời sống tinh thần của dân tộc ta. Năm tháng qua đi, chế độ phong
kiến Việt Nam không còn nữa,nhưng tư tưởng Nho giáo vẫn còn lưu lại trong
con người và lối sống ngày nay. Thái độ củachúng ta là cần khắc phục những
ảnh hưởng tiêu cực, lạc hậu của Nho giáo, đồng thời chọn lọc,kế thừa, cải tạo
những yếu tố tích cực, hợp lý của nó để bổ sung, phát triển, làm phong phú
thêm bản sắc văn hóa Việt Nam
V. ẢNH HƯỞNG CỦA NHO GIÁO VỚI GIA ĐÌNH NGƯỜI VIỆT NAM
TRUYỀN THỐNG
1. Ảnh hưởng tích cực
Nho giáo góp phần xây dựng các triều đại phong kiến vững mạnh và bảo
vệ chủ quyền dân tộc.
Nho giáo hướng con người vào con đường ham tu dưỡng đạo đức theo
Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín, ham học tập để phò Vua giúp nước. Nhiều ý
nghĩa giá trị của những chuẩn mực đạo đức Nho giáo đã được quần chúng nhân
dân sử dụng trong nền đạo đức của mình. Ví dụ như: (Tiểu Luận: Nho giáo và
ảnh hưởng của nho giáo ở Việt Nam)
Thiết lập được kỷ cương và trật tự xã hội. Nho giáo với các tư tưởng
chính trị – đạo đức như “Chính danh”, “Nhân trị”, “Nhân chính” luôn luôn là
bài học quý giá và được vận dụng trong suốt lịch sử Việt Nam.
VD: Lịch sử Việt Nam có rất nhiều nhà nho có phẩm hạnh, khí tiết cao
như: Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn
Công Trứ, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Phan Bội Châu, Đặng Nguyên
Cẩn,..
--> Những nhà nho này, dù lúc bình thời hay khi vận nước gian nan, vẫn
tỏ rõ khí tiết và phẩm hạnh, đồng thời có thái độ và hành động vì nước, vì dân.
1.1. Về tín ngưỡng:
-Nhà nho Việt Nam coi Nho giáo như là tôn giáo; gạt bỏ, bài xích các tôn
giáo khác ngoại trừ những nội dung được Nho giáo chấp nhận và khuyến khích,
như lòng tin vào thiên mệnh, việc tế lễ, việc thờ cúng tổ tiên... Vì vậy, trong
Nho giáo là tôn giáo của đàn ông người Việt, bên cạnh các tôn giáo dành cho
các bà các cô như đạo Phật, đạo Mẫu...
1.1.2. Về phong tục:
-Sự tác động của Nho giáo và văn hóa Hán đã làm Hán hóa một phần các
phong tục vòng đời, đặc biệt là phong tục hôn nhân, phong tục tang ma. Trong
thời trung đại, các phong tục này đều lấy hình mẫu của Nho giáo và văn hóa
Hán làm chuẩn mực. Chính vì vậy mà cho đến ngày nay, vẫn còn nhiều người
viết sách mô tả các phong tục và nghi thức ấy trong văn hóa Việt Nam hiện đại
như thể chúng là bản sao của phong tục Trung Hoa trung đại! Thật ra, bên cạnh
các phong tục hôn nhân, phong tục tang ma theo hình mẫu của Nho giáo và văn
hóa Hán trước đây, người Việt ở các vùng miền khác nhau và các tôn giáo ở
Việt Nam đều có cách thức riêng để thực hiện các phong tục ấy.
1.1.3. Về văn học và nghệ thuật:
- Góp phần làm hình thành các thể văn khoa cử (kinh nghĩa, chiếu, biểu,
luận, văn sách, thơ, phú...), các thể loại văn học mô phỏng Trung Hoa (thơ
Đường luật, phú, từ, đối...), các điển tích văn học, các sách giáo khoa truyền thụ
Nho giáo, các tác phẩm văn học và nghệ thuật chịu ảnh hưởng của Nho giáo.
Những sản phẩm ấy làm thành dòng văn học nghệ thuật quan phương chính
thống, tồn tại song hành với dòng văn học dân gian, nghệ thuật dân gian.
2. Ảnh hưởng tiêu cực
-Nho giáo suy đến cùng là bảo thủ về mặt xã hội và duy tâm về mặt triết
học. Nó thường được sử dụng để bảo vệ, củng cố các xã hội phong kiến trong
lịch sử. Nho giáo góp phần không nhỏ trong việc duy trì quá lâu chế độ phong
kiến ở á Đông nói chung và ở Việt nam nói riêng.
-Nho giáo cũng là một trong những nguyên nhân kìm hãm sản xuất phát
triển ở Việt nam. Dưới ảnh hưởng của Nho giáo, truyền thống tập thể đã biến
thành chủ nghĩa gia trưởng, chuyên quyền, độc đoán, bất bình đẳng. Nho giáo
không thúc đẩy sự phát triển của các ngành khoa học tự nhiên bởi phương pháp
giáo dục thiên lệch của Nho giáo chỉ quan tâm tới đạo đức, học và dạy làm
người mà không đề cập đến kiến thức khoa học kỹ thuật. Những mặt tiêu cực đó
phản ánh tính chất bảo thủ lạc hậu của Nho giáo ở nước ta. (Tiểu Luận: Nho
giáo và ảnh hưởng của nho giáo ở Việt Nam)
Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt nam thì tư tưởng chính
trị – đạo đức của Nho giáo có ảnh hưởng trên các mặt sau:
Trên lĩnh vực xã hội: Nó có tác dụng ổn định kinh tế – chính trị để phát
triển kinh tế. Đó là điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt
nam.
( Về xã hội, quan điểm bất bình đẳng của Nho giáo đã chà đạp phụ nữ
Việt Nam xuống đất đen. “Đạo” mà Nho giáo dành cho người phụ nữ là đạo
tam tòng: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. “Đức” mà Nho
giáo dạy cho phụ nữ là tứ đức: “Công, dung, ngôn, hạnh”. Tất cả là để cho
người phụ nữ làm tròn chức trách phục vụ đàn ông. Đã thế, nền giáo dục và
khoa cử theo Nho giáo cũng chỉ dành cho nam giới; gần 100% phụ nữ Việt Nam
bị gạt ra ngoài, chỉ được thụ hưởng giáo dục gia đình, giáo dục dân gian, rất
hiếm người được học chữ, học hỏi kiến thức qua Nho giáo. Vì vậy mà trong
suốt thời trung đại, toàn bộ việc làng, việc nước là việc của đàn ông. Việc của
phụ nữ chỉ là “tề gia, nội trợ”, có thể kiêm thêm việc chạy chợ, chạy đồng, đầu
tắt mặt tối, nhưng không vì thế mà địa vị trong gia đình, xã hội của họ được
nâng lên. )
Trên lĩnh vực chính trị – đạo đức: Ngày nay áp dụng những tư tưởng của
Nho giáo, kế thừa những mặt tích cực của nó để đạt mục tiêu ổn định kinh tế, xã
hội; đặc biệt chú trọng Nho giáo cổ đại (Khổng Tử) chứ không phải Nho giáo
sau này (chỉ nhấn mạnh quan hệ một chiều). Đảm bảo nhìn nhận vấn đề một
cách hợp lý, duy trì vấn đề phê phán đúng lúc, đặt vấn đề dân chủ trong việc áp
dụng những tinh hoa tích cực. Trong kinh doanh phải biết trọng chữ tín, lấy chữ
tín làm đầu, trong đó có một vấn đề rất quan trọng là phải quan tâm đúng mức
đến chất lượng sản phẩm.
VI. NHO GIÁO TRONG GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY
Quan hệ trong gia đình có sự biến đổi khá phức tạp. Đặc biệt gần đây lại
xuất hiện khuynh hướng trở lại với nhiều nề nếp cũ của gia đình theo chiều
hướng tích cực. Đó là quan tâm hơn đến việc xây dựng gia đình và giáo dục con
cái, điều mà trước đây Nho giáo đặc biệt quan tâm; xây dựng lại nhà thờ, sửa
sang lại mồ mả, tổ tiên, lập lại gia phả, đi lại thăm hỏi tìm người trong họ, bày
tỏ tình cảm sẵn sàng cưu mang lẫn nhau…
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đáng khích lệ lại nảy sinh rất nhiều
hiện tượng tiêu cực trong quan hệ giữa người với người, ở ngoài xã hội cũng
như trong mỗi gia đình
Gia đình Việt Nam, trong thời kỳ đất nước đổi mới có những yếu tố cũ,
yếu tố mới đan xen lẫn nhau không còn chữ hiếu mù quáng như xưa, nhưng lại
không ít hiện tượng con cái hỗn láo với cha mẹ. Bệnh gia trưởng độc tôn, độc
đoán giảm nhiều nhưng có nhiều biểu hiện gia tăng sự vô trách nhiệm của các
bậc cha mẹ, không những không quan tâm chăm sóc mà còn làm hư hỏng con
cái bởi sự hư hỏng của chính mình. Trong việc xây dựng gia đình hòa thuận,
dân chủ, bình đẳng có nhiều tiến bộ. Vẫn còn giữ được tình nghĩa vợ chồng
chung thủy truyền thống Việt Nam, song cũng đã xảy ra những cảnh gia đình
lục đục vợ chồng đánh chửi nhau, sống buông thả và bất chính, yêu thương giả
dối và lăng nhăng bồ bịch..
Nảy sinh những hiện tượng tham nhũng trong bộ máy nhà nước, những
hành vi trộm cắp và tàn bạo trong xã hội. Đã dần dần xấu đi những quan hệ
truyền thống giữa cha con, chồng vợ, anh em trong phạm vi gia đình.Nếu gia
đình cũ đã thu hẹp chữ hiếu vào quan hệ với bố mẹ trong gia đình thì gia đình
Việt Nam ngày nay lại mở rộng chữ hiếu thành tình cảm mãnh liệt đối với tổ
quốc và nhân dân. Chữ trung của gia đình Việt Nam ngày nay không còn là chữ
trung đối với vua chúa và đối với ông chủ bóc lột nữa mà đã trở thành chữ trung
đối với tổ quốc. Chính vì lẽ trên mà cuộc cách mạng xã hội ở Việt Nam lại gắn
liền với cuộc cách mạng trong gia đình, gắn liền với việc giải phóng mọi
thànhviên trong gia đình nhất là phụ nữ và thanh niên ra khỏi lễ giáo khắc
nghiệt và sự độc đoán của người gia trưởng theo tinh thần của Nho giáo. Tình
cảm của gia đình có thể coi như tình cảm sâu sắc đầu tiên của con người, nhưng
tình cảm ấy lại phải được xây dựng trên cơ sở bình đẳng và tự nguyện, không
phải do sự áp đặt quyền lực chính trị trong gia đình. Tình cảm sâu sắc trong gia
đình tất yếu dẫn tới những tình cảm đối với bà con thân tộc, với dòng họ lớn và
nhỏ. Nhưng những tình cảm ấy không thể dẫn tinh thần ích kỷ, cục bộ, bản vị,
chỉ biết chăm lo cho lợi ích riêng tư, thiên vị và che đậy cho lợi ích riêng của
gia đình, thiên vị và che đậy cho bà con anh em, kéo bè cánh trong dòng họ để
đối lập lại với lợi ích công cộng của địa phương, của xã hội. Gia đình Việt Nam
xây dựng những quy tắc mới, bảo đảm những quan hệ lành mạnh và có kỷ
cương giữa các thành viên trong gia đình. Ở đây những tình cảm lành mạnh và
sâu sắc thể hiện qua những quan hệ chung thủy thân yêu, chăm lo cho sự tiến bộ
của nhau về đạo đức và tài năng, phục vụ cho lý tưởng cao cả của dân tộc. Tình
cảm ấy không giống như ngày xưa thể hiện ra bên ngoài qua thái độ khúm núm
của người dưới và hống hách của người trên. Đó là sự khúm núm và hống hách
mà chế độ phong kiến đã đòi hỏi trong quan hệ giữa tầng lớp vua quan thống trị
và các tầng lớp nhân dân bị thống trị.