You are on page 1of 25

LỜI MỞ ĐẦU

Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của Việt
Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn từ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân
tộc. Khi tôn vinh Người là danh nhân văn hóa kiệt xuất và Anh hùng giải phóng dân tộc,
tổ chức UNESCO đã ghi nhận: Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh là kết tinh của truyền
thống văn hóa ngàn năm của dân tộc Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân
của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc của mình và tiêu biểu
cho việc thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau… Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã bôn ba khắp năm châu và được tiếp xúc với rất nhiều nền văn hoá khác nhau
trên thế giới. Có lẽ đây là một trong những cơ duyên để Người nhìn thấy tính tất yếu
khách quan và vai trò của việc giao lưu tiếp biến văn hoá. Người đã hết sức trân trọng và
nỗ lực không mệt mỏi để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc nhưng đồng thời cũng luôn đề
cao việc tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Bác coi đây là một nhiệm vụ trọng yếu trong
tiến trình phát triển văn hoá dân tộc.

CHƯƠNG I - CÁC BẬC TIỀN BỐI MÀ HỒ CHÍ MINH ĐÃ KẾ THỪA, PHÁT


TRIỂN TƯ TƯỞNG VÀ NHỮNG ƯU ĐIỂM MÀ BÁC ĐÃ NHÌN NHẬN Ở HỌC
THUYẾT CỦA HỌ.

1.1 Khổng Tử.


1.1.1 Sơ lược về Khổng Tử và học thuyết Nho giáo của ông.
1.1.1.1 Sơ lược về Khổng Tử.
Khổng Tử nghĩa là vị thầy họ Khổng; còn gọi là Khổng Phu Tử, tước hiệu mà nho sinh
dùng để tôn xưng vị thầy họ Khổng; ngoài ra, còn được hậu thế vinh danh là “Vạn thế sư
biểu: vị thầy dạy vô số thế hệ”. Trong thập niên 70 của thế kỷ trước, một học giả Mỹ đã
xếp Khổng Tử ở ngôi vị thứ 5, chỉ sau chúa Giê-xu, Thính-ca-mâu-ni... trong số 100 nhân
vật có ảnh hưởng trong lịch sử. Đối với người Trung Quốc mà nói sự ảnh hưởng của
Khổng Tử có thể phải xếp thứ nhất. Mỗi con người ít nhiều đều chịu sự ảnh hưởng của
học thuyết Khổng Tử.
Khổng Tử họ Khổng tên Khâu, tự Trọng Ni nguyên quán ở Làng Xương Bình, nước Lỗ
đời Chu. Nay là huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông. Cha tên Hột, là một lực sĩ trứ danh
đương thời. Có lần nước Tề tiến công nước Lỗ, quân Lỗ bị vây. Vào đêm, Khổng Hột chỉ
huy 300 dũng sĩ phá được vòng vây, cứu thoát quan Đại Phu là Tạng Hột. Sau đó, cưới
bà Nhan Thị, thân sinh Khổng Tử.
Cha là một chiến sĩ anh dũng, nhưng chẳng may mất sớm vào năm Khổng Tử mới lên
ba tuổi. Kế đó chẳng bao lâu, mẹ lại qua đời, Khổng Tử trở thành đứa con mồ côi, trong
một gia đình nghèo khổ, nhưng rất hiếu học, năm ba mươi tuổi đã là một nhà học vấn nổi
tiếng. Năm đó, ông bắt đầu nhận dạy học trò, là người đầu tiên mở trường tư thục vào
thời phong kiến, vốn chỉ con em vua quan, hàng quý tộc mới có dịp học hỏi từ chương
Thời đại của Khổng Tử là thời đại “vương đạo” suy vi, “bá đạo” nổi lên, chế độ tông
pháp nhà Chu đảo lộn, đạo lý suy đồi. Vì thế, Khổng Tử muốn đem tài sức của mình ra
giúp vua lập lại trật tự xã hội, nhưng không được vua nước Lỗ trọng dụng. Sau đó, ông
đem đạo của mình chu du qua 14 (16) nước, nhưng cũng không được ông vua nào nghe
theo. Về sau, ông trở về nước Lỗ mở trường dạy học và viết sách. Trải qua bốn mươi năm
“dạy người không mỏi”, Khổng Tử thu nhận trên dưới ba nghìn môn đệ. Trong đó, có
bảy mươi hai người được gọi là hiền, bao gồm cả những người được gọi là “triết”, hậu
thế gọi là “Thất thập nhị hiền”. Ông san định “Kinh Thi”, “Kinh Thư”, “Kinh Dịch”,
“Kinh Lễ” … soạn “Kinh Xuân Thu”. Môn đệ của ông chép lại lời thầy dạy thành bộ
“Luận ngữ”, “Trung dung”, “Đại học”

a, Sự nghiệp của Khổng Tử

- Làm quan
Năm 19 tuổi, ông lấy vợ và làm một chức quan nhỏ ở chuyên quản lý kho tàng, xuất
nạp tiền lương công bằng. Trước đó, ông cùng từng đảm nhiệm chức quan nhỏ chuyên
quản lý nông trường và đạt hiệu quả tốt. Vì vậy, Khổng Tử được thăng chức làm quan Tư
Không (quản lý các công trình).
Năm 21 tuổi, ông được cử làm chức Ủy Lại, sau đó qua làm chức Tư Chức Lại.
Năm 22 tuổi, Khổng Tử lập trường giảng học và được các môn đồ gọi là phu tử. 29 tuổi,
Khổng Tử học đàn với Sư Tương ở nước Lỗ
Vào năm 30 tuổi, Đức Khổng Tử muốn đến Lạc Dương để nghiên cứu về nghi lễ, chế
độ miếu đường nên được vua ban cho một cỗ xe đưa Khổng Tử và Nam Cung Quát đi.
Sau khi khảo sát xong thì ông về nước. Lúc này, sự học của ông rộng mở, học trò xin
theo học ngày càng đông. Qua mấy năm thì Quý Bình Tử khởi loạn trong nước Lỗ. Ông
đi theo Lỗ Chiêu Công tạm tránh qua nước Tề. Lúc này, Tề Cảnh Công rất khâm phục về
tài chính trị của Khổng Tử muốn đem đất Ni Khê phong cho ông nhưng bị Tướng quốc
nước Tề ngăn cản.
Lúc ông 36 tuổi, thì quay về nước Lỗ lo cho việc dạy học và nghiên cứu về Đạo học của
Thánh hiền.
- Ngao du
Trong suốt 20 năm, từ năm 34 tuổi, Khổng Tử dẫn học trò đi khắp nơi để truyền bá tư
tưởng và tìm người tài. Tuy nhiên, cuộc hành trình không quá thuận lợi. Năm thứ 9 của
vua Lỗ Định Công, ông được mời làm quan chức Trung Đô Tể ở Kinh Thành
Sau 1 năm, bốn phương lấy chính sự của ông làm khuôn mẫu. Đức Khổng Tử giữ chức
Tư Không rồi thăng lên Đại Tư Khấu coi việc hành án. Những luật lệ của ông đề ra giúp
kẻ nghèo khổ, lập ra phép tắc, định việc tống táng, lớn nhỏ có trật tự, trai gái không lẫn
lộn, trộm cắp không còn nữa, xã hội bình trị. Sau nhiều năm, nước Lỗ trở nên bình trị.
Sau khi nước Tề lập ra Bộ Nữ Nhạc, khiến vua Lỗ sinh ra lười biếng, chỉ chuyên hưởng
lạc. Khổng Tử không khuyên được, chán nản xin từ chức và bỏ nước Lỗ đi chu du các
nước chư hầu.
Năm 68 tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ, tiếp tục dạy học và bắt tay vào soạn sách. Đến
năm 69 tuổi, ông bắt tay vào việc hiệu đính các cổ thư bị tản nát.
Đến ngày Ký Sửu, tức ngày 18/2 năm Nhâm Tuất thì Khổng Tử tạ thế khi hưởng thọ 73
tuổi.

b, Nhân cách của Khổng Tử


- Khổng Tử là người thông minh, luôn ham học. Việc gì cũng xem xét kỹ
lưỡng để biết cho đến tận cùng thì thôi. Tính tình ôn hòa, khiêm tốn và làm
việc hết sức cẩn thận, luôn tin vào Thiên mệnh.
- Ông là người nhân hậu, khiêm nhường, giản dị, giàu tình cảm. Khi ở nhà,
Khổng Tử có dáng dấp thoải mái, trên mặt đều biểu lộ thần thái hoài vui. Ăn
uống ở nhà có tang thì ông không bao giờ ăn no.
- Ông luôn tuân theo nguyên tắc, lễ nghi một cách chuẩn mực nhất. Khi về quê,
ở mặt cha anh, bạn bè thì Khổng Tử cực kì khiêm tốn, hết sức nghe lời. Nhưng
khi đến nơi tông miếu triều đỉnh, giải quyết chính sự thì ông ăn nói lưu loát,
mạch lạc, lời lẽ cẩn thận.
- Khi vua đến Khổng Tử tỏ ra hết sức cung kính rụt rè, trong lòng như có điều
gì chưa yên tâm, không thể hiện cử chỉ nào thất lễ. Đối với khách quý, Khổng
Tử luôn làm tròn trách nhiệm từ hình thức đến biểu lộ khuôn mặt.

c, Tư tưởng
- Không biết bao nhiêu bút mực đã đổ ra 25 thế kỷ qua để nghiên cứu về Khổng
giáo, về tư tưởng của Khổng Tử. Cũng có học giả như học giả Pháp Etiemble,
trong cuốn Confucius 1966 thì cho rằng nghiên cứu Khổng Tử chỉ nên dựa vào
sách Luận – ngữ là bộ sách ghi lại những lời đối đáp của Khổng Tử với học trò,
các sách khác không đáng tin cậy. Nhưng gì thì gì, loài người tiến bộ vẫn phải ghi
nhận Khổng Tử là nhà giáo dục lớn nhất của mọi thời đại ngày thời bấy giờ ông có
tới 3000 học trò và rất nhiều người trong số đó đã thành đạt. Về chính trị Khổng
Tử chủ trương Đức trị.
- Ông là người đầu tiên nói nhiều nhất đến tư cách của người cai trị (tức người
quân tử), ông chủ trương vua sáng tôi hiền, vua ra vua, tôi ra tôi. Nhưng Khổng Từ
là người không thích cách mạng, ông không tán thành bạo lực cách mạng để thay
đổi thời thế, cho dù thời thế của bọn hôn quân bạo chúa! Đó là tính chất bảo thủ
trong tư tưởng chính trị của Khổng Tử.
- Khổng Tử bỏ qua vấn đề pháp luật và thiết chế, từ chối mọi cải cách” (Nguyễn
Khắc Viện). Chính vì vậy mà từ đời Hán sau này trở đi Khổng Tử được các triều
vua tôn lên hàng Đại Thánh, là ông Thánh của các ông Thánh là “vạn thế sư biểu”
(ông thầy tiêu biểu của muôn đời) để lợi dụng học thuyết của ông, duy trì chế độ
phong kiến bảo thủ trì trệ ở Trung Hoa cho mãi đến đầu thế kỷ 20

c, Vinh danh Khổng Tử


- Ngay sau khi Khổng Tử mất, cố hương Khúc Phụ thành nơi hành hương cho
người đời bày tỏ tấm lòng ngưỡng mộ. Đến nay, đây vẫn là nơi nổi tiếng được
nhiều người thăm viếng. Có nhiều ngôi đền thờ riêng Khổng Tử và đây cũng là
nơi thường tổ chức những buổi lễ để tưởng nhớ ông.
- Các triều đại phong tặng Khổng Tử các danh hiệu sau:
- Năm 739, vua Đường Huyền Tông phong tặng Đức Khổng Tử là Văn Tuyên
Vương, tượng thờ ông được mặc phẩm phục Hoàng đế, tặng cho các đệ tử các
tước: Công, Hầu, Bá.
- Năm 1008, vua Tống Chân Tông phong là: Đại Thánh Văn Tuyên Vương, phong
cho cha Khổng Tử là Lỗ Công, mẹ là Lỗ Phu Nhân, vợ là Bà Thượng Quan Thị
làm Vân Phu Nhân, và ra lệnh cho các tỉnh lập miếu thờ ông.
- Vào năm 1560, vua Minh Thế Tông phong tặng ông là Chí Thánh Tiên Sư.
- Năm 1645, vua Thanh Thế Tổ phong ông là Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên
Vương Thánh Sư Khổng Phu Tử.

1.1.1.2 Học thuyết Nho giáo của Khổng Tử.


a, Khái niệm
“Nho” : theo Hán tự, do chữ Nhân và chữ Nhu ghép lại. Nhân là người, Nhu là cần
dùng. Nho là hạng người luôn luôn được cần dùng đến để giúp ích cho nhân quần xã hội
biết cách ăn ở sao cho hợp với lòng người và lẽ Trời. Chữ Nhu còn có nghĩa là chờ đợi,
tức là người trí thức chờ đợi người ta cần dùng gọi đến thì đem tài sức ra giúp đời.

Như vậy, Nho là những hạng người học thông đạo lý của Thánh Hiền, biết được lẽ Trời
Đất và Người, để hướng dẫn người phải ăn ở và cư xử thế nào cho hợp với Đạo Trời, hợp
với lòng người. Sách Pháp Ngôn có câu: “Thông Thiên định Địa viết Nho”. Nghĩa là:
Người biết rõ cả Thiên văn, Địa lý, thì mới gọi là Nho. Phàm những người Nho học thì
chuyên về mặt áp dụng thực tế, chớ không chú trọng nhiều về mặt lý tưởng. Bởi vậy, từ
xưa đến nay, họ là những người sẵn sàng nhập thế cuộc, gánh vác việc đời, làm ích nước
lợi dân, khác hẳn với những tu sĩ Phật giáo hay Lão giáo, chỉ biết xuất thế, lo tu độc thiện
kỳ thân.
“Giáo”: Dạy, tôn giáo, một mối đạo.
“Nho giáo”: là một tôn giáo hay một học thuyết có hệ thống và có phương pháp, dạy
về Nhân đạo, tức là dạy về đạo làm một con người trong gia đình và trong xã hội. Hệ
thống của Nho giáo thì theo chủ nghĩa: “Thiên Địa Vạn vật đồng nhất thể”, nghĩa là: Trời
Đất và muôn vật đều đồng một thể với nhau. Phương pháp của Nho giáo là phương pháp
chứng luận, lấy Thiên lý lưu hành làm căn bản. Như vậy, học thuyết của Nho giáo có 3
điều cốt yếu :
- Về Tín ngưỡng: Luôn luôn tin rằng Thiên Nhân tương dữ, nghĩa là: Trời và Người
tương quan với nhau.
- Về Thực hành: Lấy sự thực nghiệm chứng minh làm trọng.
- Về Trí thức: Lấy trực giác làm cái khiếu để soi rọi tìm hiểu sự vật.
Nếu ai đã hiểu tường tận tôn chỉ của Nho giáo thì đều công nhận Nho giáo là một tôn
giáo rất cao minh của nhân loại, đã phát huy ra từ xưa tới nay. Tuy rằng người ta đem ra
thi hành không được hoàn toàn, và có nhiều người hiểu lầm, song ai đã tâm đắc cái tinh
thần ấy thì cũng đạt được một nhân cách quí trọng đặc biệt.

b, Nguồn gốc của Nho giáo


Nho giáo bắt nguồn từ thời thái cổ ở nước Tàu. Thuở đó, vua Phục Hy, là một Thánh
Vương đắc đạo, trông thấy được các hiện tượng trong cõi Hư linh. Ngài nhìn thấy Long
Mã có bức đồ trên lưng gồm những chấm đen trắng, nổi lên giữa sông Hoàng Hà, mà biết
được lẽ Âm Dương, chế ra Tiên Thiên Bát Quái, cắt nghĩa sự biến hóa của Trời Đất để
làm nguyên tắc dạy người. Những vạch đơn giản của Bát Quái ấy được xem là đầu mối
của văn tự về sau này.
Vua Phục Hy lại còn dạy dân nuôi súc vật để sai khiến, làm lưới để đánh cá, nuôi tằm
lấy tơ làm quần áo, chế đàn cầm đàn sắt, dạy dân lễ nghĩa, phép cưới vợ gả chồng (dùng
một đôi da thú làm lễ, vì ở thời kỳ ngư lạp, da thú là quí), từ đó mới có danh từ gia tộc.
Sau, đến đời vua Hoàng Đế (Hiên Viên Huỳnh Đế), mới chế ra áo mão, và sai Ông
Thương Hiệt chế ra chữ viết.

Đó là khởi thủy của Nho giáo, thành hình do thực tế kết hợp với huyền lý của Trời Đất.
Nho giáo lấy đạo Trời làm khuôn mẫu, dạy người thuận theo lẽ Trời, còn nghịch với Trời
thì phải chết. Nho giáo đã giúp nước Tàu thời Thượng cổ được hòa bình, dân chúng trên
thuận dưới hòa, tạo ra một nền luân lý có căn bản vững chắc. Tiếp theo đến đời nhà
Châu, vua Văn Vương và con của Ngài là Châu Công Đán, tiếp tục khuếch trương Nho
giáo, diễn giải Kinh Dịch do Phục Hy truyền lại, hệ thống hóa lễ nghi và sự tế tự.
Vào cuối thời nhà Châu, đời vua Linh Vương, năm 551 trước Tây lịch, có Đức Khổng
Tử ra đời. Đức Khổng Tử chỉnh đốn và san định kinh sách, phục hưng Nho giáo, tạo
thành một giáo thuyết có hệ thống chặt chẽ, xứng đáng đứng ngang hàng với Lão giáo và
Phật giáo. Đức Khổng Tử được xem là Giáo Chủ Nho giáo.
Đạo Nho, kể từ khi Đức Khổng Tử phục hưng, nối tiếp về sau được các vị Thánh nhân
như Tử Tư, Mạnh Tử, phát huy đến độ rực rỡ, rồi sau đó dần dần suy tàn theo thời gian,
vì không có bậc tài giỏi nối tiếp xiển dương, cuối cùng trở thành một môn học từ chương
dành cho sĩ tử leo lên đường hoạn lộ. Cái tinh túy của Nho giáo đã bị vùi lấp và Nho giáo
được sử dụng một cách lệch lạc theo ý riêng của kẻ phàm trần.

c, Tôn chỉ của Nho giáo


Tôn chỉ của Nho giáo gồm: Thiên Địa Vạn vật đồng nhất thể và Trung Dung.

- Thiên Địa Vạn vật đồng nhất thể


Theo quan niệm của Nho giáo thì Con người sinh ra đã bẩm thụ cái Lý và cái Khí của
Trời Đất, tức là cùng với Trời Đất có thể tương liên tương cảm và tương ứng nhau được.
Sự tương cảm ấy lúc nào cũng có, nhưng khi ta để cho lòng tư dục dấy lên mạnh mẽ, chỉ
biết tính toán để làm lợi riêng cho mình thì cái tinh thần bị rối loạn đi, cái trực giác trở
nên ám muội, nên cái cảm ứng ta không biết được.
Nhưng nếu ta biết đè nén lòng tư dục, giữ cho lúc nào cũng có thái độ điều hòa, thì trực
giác trở nên mẫn huệ, biết được các điều sâu xa bí ẩn, tức là tương cảm được với Trời.
Trời sinh ra con người và vạn vật, nên Trời có gì thì con người có nấy, nên gọi Trời là
Đại Thiên Địa, và con người là Tiểu Thiên Địa. Trời và người đồng thể nên tương liên
tương cảm với nhau là điều dĩ nhiên.

- Trung Dung
Trung là không lệch về phía nào, Dung là không thay đổi. Trung là đường chính trong
thiên hạ, Dung là nhất định trong thiên hạ. Vậy, Trung Dung là không lệch về phía nào,
luôn luôn giữ thái độ dung hòa, không thái quá, cũng không bật cập, trong quan hệ đối
với người hay xử lý các việc.

Vũ trụ và vạn vật luôn luôn biến hóa theo lẽ điều hòa và tương đối, lưu hành mãi mãi
không lúc nào ngừng nghỉ. Thiên đạo đã không cố định thì việc đời có gì là cố định? Vậy
ta cứ tùy thời mà hành động, miễn sao giữ được sự điều hòa và trung chính. Làm việc gì
cũng phải lấy Trung Dung làm căn bản, tức là không thái quá, cũng không bất cập, luôn
luôn thích hợp với Đạo Trung hòa của Trời Đất.
Đức Khổng Tử đem cái tôn chỉ ấy lập thành một Nhân sinh triết học, tức là một nền
luân lý rất hòa nhã, êm ái, làm cho người ta sống thư thái vui vẻ, không buồn bã lo sợ.
Những điều: Hiếu, Nghĩa, Trung, Tín, cũng đều do đó mà ra cả.

d, Học thuyết của Nho giáo


Học thuyết của Nho giáo tóm gọn trong 3 điều sau đây:
- Sự biến hóa của vũ trụ quan hệ đến vận mạng của nhân loại.
- Luân thường đạo lý trong đời sống xã hội.
- Lễ Nhạc trong việc tế Trời Đất, Quỉ Thần và Tổ Tiên.
Đó là những điều căn bản xác định Nhân sinh quan và Vũ trụ quan của một nền tôn
giáo. Do đó, ta có thể nói rằng, trước thời Đức Khổng Tử, chỉ là Nho học, nhưng sau thời
Đức Khổng Tử, Nho học được Ngài hoàn chỉnh, trở thành một tôn giáo hẳn hoi, gọi là
Nho giáo, giống như Phật giáo, Lão giáo, hay Thiên Chúa Giáo.
Đứng về phương diện tôn giáo, học thuyết của Nho giáo được chia làm 2 phần rõ rệt:
Hạ học và Thượng học.

- Hạ học

Hạ học là cái học thuộc về Hạ thừa, làm căn bản cho Thượng thừa, là cái học cụ thể về
những điều quan hệ đến cuộc sống của con người một cách thiết thực. Chủ yếu Hạ học là
dạy về Nhân đạo. Không có một nền tôn giáo nào dạy về Nhân đạo một cách kỹ lưỡng và
sâu sắc bằng Nho giáo. Sau đây là một số điểm chính: Quân tử, tiểu nhân; Tu thân; Công
bình, bác ái; Tam cương, Ngũ thường, Tam tòng, Tứ đức; Lễ nhạc; Chính danh định
phận.

+ Quân tử - Tiểu nhân: Nho giáo chia những người trong xã hội làm 2 hạng: Quân tử và
Tiểu nhân. Quân tử là người có đức hạnh hoàn toàn, nhân phẩm cao quí, chăm lo Đạo
Thánh Hiền để sửa mình, dẫu nghèo khó cũng không làm điều trái đạo. Tiểu nhân thì
hoàn toàn trái ngược, kẻ tiểu nhân có chí khí hèn hạ, tham danh cầu lợi, miệng nói nhân
nghĩa mà trong lòng tính chuyện bất nhân, dù giàu có nhưng tinh thần vẫn đê tiện.

Người Quân tử bao giờ cũng tòng Thiên lý, cho nên tâm tính quang minh, thích làm việc
nghĩa, càng ngày càng cao thượng; kẻ Tiểu nhân bao giờ cũng theo nhân dục, chí khí thấp
thỏi, nên luôn luôn bị vật dục khiến sai, chỉ biết cái lợi riêng cho mình, càng ngày càng
thêm hèn hạ.
Quân tử thì trung dung vì hiểu được cái thấp cái cao, Tiểu nhân thì phản trung dung vì chỉ
biết tư lợi. Quân tử chỉ cầu ở mình, nên cái đức càng ngày càng sáng thêm; Tiểu nhân thì
mong cầu ở người, nên cái lòng dục càng lúc càng buông xổng thêm ra. Học làm Quân tử
thì phải thành thật, không bao giờ tự dối mình mà làm hại cái biết của mình.
Muốn học cho đạt cái đạo của người Quân tử thì phải theo đúng như lời Đức Khổng Tử
dạy: “Dốc lòng tin, ham sự học, giữ cho vững, dẫu chết cũng không thay đổi, làm cho cái
Đạo hay hơn lên. Không vào nước đã nguy, không ở nước có loạn. Đời có Đạo thì ra làm
mọi việc, đời không Đạo thì ẩn mà sửa mình. Nước có Đạo mà mình nghèo và hèn là xấu
hổ; nước không Đạo mà mình giàu và sang là xấu hổ.”

+ Tu thân: Người Quân tử cần phải học hỏi luôn luôn để biết mà sửa mình. Muốn sửa
mình (Tu thân), trước hết phải giữ cái Tâm cho chính, cái Ý cho thành, rồi mới Cách Vật,
Trí Tri được. Do đó, Nho giáo đưa ra Bát Điều Mục, tức là 8 bước thực hành theo thứ tự
sau đây:
Cách vật: Cách ly sự vật để quan sát cho rõ ràng.
Trí tri: Nghiên cứu để biết tận gốc rễ của sự vật.
Thành ý: Rèn luyện ý chí thành thật dũng mãnh.
Chính tâm: Thanh lọc tâm hồn thoát khỏi sự ô nhiễm của vật dục.
Tu thân: Sửa đổi những điều sai lầm của mình.
Tề gia: Sắp đặt các việc gia đình cho đúng phép.
Trị quốc: Cai trị dân theo đường lối chân chính.
Bình Thiên hạ: Đem lại thanh bình và hạnh phúc cho toàn dân.

+ Tam Cương - Ngũ Thường - Tam Tòng - Tứ Đức: Đức Khổng Tử dạy về Nhân đạo:
Nam thì giữ Tam Cương và Ngũ Thường; Nữ thì giữ Tam Tòng và Tứ Đức.

 Tam Cương: Ba Giềng mối gồm: Quân thần cương, Phụ tử cương, Phu thê cương.
Quân thần cương: Quan hệ vua tôi, tức là Trung: Trung với nước, trung với dân.
Không nên quan niệm hẹp hòi là trung với một cá nhân ông vua hay một dòng họ vua, vì
đó là ngu trung. Chỉ trung với vua khi nào gặp được vị vua sáng suốt (Quân minh thần
trung), chúa Thánh tôi hiền.

Phụ tử cương: Quan hệ cha con, cha mẹ phải hiền, hết dạ thương con và con phải
hiếu thảo với cha mẹ.
Phu thê cương: Quan hệ vợ chồng. Nghĩa là: xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử.
Người phụ nữ khi đi lấy chồng thì phụng sự chồng, khi chồng chết thì ở vậy nuôi con mới
là người tiết hạnh.

 Ngũ Thường: Năm điều thường có: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Nhân: Lòng thương người mến vật.
Nghĩa: Việc đối xử theo lẽ phải, biết đền ơn đáp nghĩa đối với người và vật.
Lễ: Thể hiện sự tôn kính và trật tự trong ý nghĩ, lời nói và việc làm.
Trí: Sự hiểu biết sáng suốt, phân biệt phải quấy.
Tín: Không gian dối, gạt gẫm.

 Tam Tòng: Ba điều phải theo của người phụ nữ: Tại gia tòng phụ, Xuất giá tòng
phu, Phu tử tòng tử.
Tại gia tòng phụ: Ở nhà thì nghe theo lời của cha mẹ.
Xuất giá tòng phu: Có chồng thì phải tòng theo chồng.
Phu tử tòng tử: Chồng chết thì ở vậy nuôi con cho nên người, không nên tái giá.

 Tứ Đức: Bốn Đức của người phụ nữ: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.
Công: Chăm lo làm công việc gia đình.
Dung: Chăm sóc thân thể cho tốt đẹp, sạch sẽ.
Ngôn: Lời nói dịu dàng, đoan chính.
Hạnh: Ngay thẳng, nhân ái trong mọi việc.

+ Công bằng - Bác ái: Người ta sinh ra ở đời, ai cũng bẩm thụ cái Lý và Khí của Trời
Đất như nhau, nên đều chịu mệnh Trời như nhau. Như vậy, mọi người đều bình đẳng và
là anh em với nhau. Một hôm, Tử Cống hỏi Đức Khổng Tử: Có lời nào khả dĩ thi hành
được chung thân không? Đức Khổng Tử đáp: Kỳ thứ hồ! Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân.
(Chữ Thứ chăng! Điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người.) Đó là Công bình
và Bác ái. Nó nằm trong cái Đạo Nhất Quán của Đức Khổng Tử: Đạo Nhân.

+ Lễ Nhạc:
 Lễ: Nho giáo dùng Lễ cốt để tạo thành một tập quán Lễ Nghĩa, khiến cho người ta
làm điều lành điều phải một cách tự nhiên, không cần suy nghĩ. Dùng Lễ có cái
hay là ngăn cản những việc xấu không cho xảy ra, còn dùng pháp luật là để trị
những cái xấu đã xảy ra. Do đó, Thánh nhân trọng Lễ chớ không trọng Hình phạt.
Chữ Lễ, trước tiên dùng với ý nghĩa là các hình thức cúng tế cầu Thần linh ban phước và
cúng tế Tổ tiên. Sau đó, chữ Lễ được dùng rộng ra bao gồm những phép tắc phù hợp với
phong tục và tập quán của dân chúng trong việc Quan, Hôn, Tang, Tế. Sau nữa, chữ Lễ
còn có nghĩa thật rộng, gồm cả cái quyền bính của vua và cách tiết chế các hành vi của
dân chúng cho thích hợp với cái lẽ tự nhiên của Trời Đất. Cho nên Kinh Lễ của Nho giáo
nói rằng: “Lễ giả, Thiên chi tự.” Nghĩa là: Lễ là cái trật tự của Trời. Do đó, Nho giáo rất
chú trọng về Lễ, và dùng Lễ vào 4 mục đích:
1. Dùng Lễ để hàm dưỡng tính tình của con người: Dùng Lễ để tạo thành một
không khí đạo đức trang nghiêm, dần dần biến thành một tập quán tốt,
khiến người ta làm điều phải điều lành một cách tự nhiên mà không biết.
Vậy nhờ Lễ mà con người được khơi dậy những tình cảm tốt đẹp cao
thượng.
2. Dùng Lễ để giữ thích hợp với đạo Trung Dung: Không cho thái quá, mà
cũng không cho bất cập. Nhờ vậy, thể xác và tinh thần của con người được
quân bình, hành động lúc nào cũng được sáng suốt và chừng mực. Đức
Khổng Tử bảo thầy Nhan Uyên (Nhan Hồi) là người đã hiểu rõ đạo Nhân
hơn người là vì do Lễ. “Phi Lễ vật thị, phi Lễ vật thính, phi Lễ vật ngôn,
phi Lễ vật động.” Nghĩa là : Không phải Lễ thì chớ nhìn, không phải Lễ thì
chớ nghe, không phải Lễ thì đừng nói, không phải Lễ thì chớ làm.
3. Dùng Lễ để định lẽ phải trái, tình thân sơ, và trật tự trên dưới phân minh:
Nhờ Lễ mà phân biệt được kẻ thân người sơ, kẻ nhỏ người lớn, vì Lễ qui
định sự đối xử khác nhau một cách rõ rệt. Do đó không còn chỗ hiềm nghi,
định rõ lẽ phải trái. Nhờ Lễ mà định được cái Chính danh. Có Chính danh
mới định cái phận cho thích hợp. Do đó mà có tôn ti trật tự, phép tắc luân
lý, từ gia đình đến xã hội, tạo nên một xã hội trật tự thái bình.
4. Dùng Lễ để tiết chế lòng dục: Dục vọng của con người thì không cùng và
lúc nào cũng đòi hỏi để được thỏa mãn. Nếu không dùng Lễ để chế giảm,
tất dục vọng sẽ làm con người hư hỏng. Dùng Lễ để chế giảm mà còn
hướng dẫn dục vọng vào con đường cao thượng nữa. Lễ và Pháp luật đều
có mục đích ngăn chặn sự hư hỏng và tội lỗi của con người. Nhưng Lễ có
ưu điểm là nó có thể ngăn cản được những việc chưa xảy ra; còn dùng pháp
luật là để trừng trị những việc tội lỗi đã xảy ra rồi. Pháp luật, tuy phải đặt
ra, nhưng dùng sự giáo hóa về lễ mà ngăn ngừa sự phạm tội thì mới ưu việt.

Tóm lại, chữ Lễ trong nghĩa rộng có bao hàm tính chất pháp luật. Nhưng Lễ chú trọng về
mặt giáo hóa và ngăn ngừa sự hư hỏng; còn luật pháp thì chú trọng sự trừng phạt những
điều hư hỏng và phạm tội. Lễ thì dạy người ta nên làm điều gì, không nên làm điều gì, và
tại sao như thế. Còn pháp luật thì cấm không cho làm việc này việc nọ, mà hễ vi phạm thì
bị trừng phạt. Người làm trái Lễ thì bị chê cười, có tính cách trừng phạt về phương diện
tinh thần; người làm trái pháp luật thì bị trừng phạt về thể xác.

 Nhạc: Nhạc là sự hòa hợp các thứ âm thanh mà tạo thành, thể hiện sự rung cảm
của lòng người đứng trước ngoại vật. Hay nói khác đi, chính sự rung động trong
lòng người mới tạo thành tiếng nhạc. Nhạc có thế lực quan trọng nên bậc Đế
vương thời xưa như vua Thuấn dùng Nhạc để cảm hóa dân chúng, khiến dân trở
nên lương thiện. Sách Nhạc có viết rằng: “Nhạc là cái vui của Thánh nhân, mà có
thể khiến cho lòng dân trở nên tốt lành, có thể cảm lòng người rất sâu và làm
phong tục dời đổi được. Cho nên Tiên vương mới đặt ra việc dạy Nhạc.”
Nhạc cũng phải giữ cái đạo Trung Dung, dẫu vui cách mấy cũng không làm mất
cái chính, mà buồn cách mấy cũng không làm mất cái hòa. Như thế, Nhạc mới có
thể điều hòa được cái tính tình của con người.
 Sự phối hợp của Nhạc và Lễ: Nhạc và Lễ đều có cái chủ đích chung là sửa đổi tâm
tính con người cho ngay chính, bồi dưỡng tình cảm cho thuần hậu, nhưng mỗi bên
có cách thức riêng biệt. Lễ cốt ở sự cung kính để giữ cho trật tự phân minh, Nhạc
cốt ở sự điều hòa khiến cho tâm tính được tao nhã. Vậy nên có Lễ phải có Nhạc,
có Nhạc phải có Lễ, để cho cái này bổ khuyết cho cái kia thì mới tạo được sự điều
hòa tốt đẹp và một trật tự ổn định trong xã hội. Nhưng Đức Khổng Tử lại nói:
“Nhân nhi bất nhân như Lễ hà? Nhân nhi bất nhân như Nhạc hà? “Nghĩa là: Người
mà không nhân đức thì làm sao dùng Lễ được? Người mà không nhân đức thì làm
sao dùng Nhạc được?
Đức Khổng Tử còn chủ trương không nghiêng về bên Lễ, cũng không nghiêng
về bên Nhạc: “Nhạc thắng hóa bừa bãi, Lễ thắng hóa chia lìa. Khiến thích hợp tính
tình, phục sức và dung mạo là công việc của Lễ Nhạc”. Lễ Nhạc có địa vị rất trọng
yếu trong đạo trị nước và đặt ngang hàng với Hành chính và Hình pháp. “ Lễ để
chỉ đạo ý chí, Nhạc để điều hòa thanh âm, Hành chính để thống nhất hành động,
Hình pháp để ngăn ngừa tội ác. Lễ, Nhạc, Hành chính, Hình pháp, có mục đích
cuối cùng là một, tức là thống nhất lòng dân để thực hiện một nền thạnh trị.”
Ý của Đức Khổng Tử và các bậc Thánh xưa dùng Lễ Nhạc cao siêu như thế, nhưng lần
lần, từ đời nọ truyền qua đời kia, Nhạc và Lễ biến đổi theo tình đời và trở nên sai hết. Lễ
thì biến ra thêm phiền toái mà không giữ được sự Kính làm gốc, Nhạc thì biến ra đủ thứ
đủ loại mà không giữ được sự Hòa làm gốc. Con người không được Nhạc và Lễ hướng
dẫn và kềm chế nên đã bị dục vọng vật chất lôi cuốn đến chỗ thấp hèn, đang tiến vào hố
sâu vực thẳm.
+ Chính danh Định phận
“Danh bất chính tắc ngôn bất thuận, ngôn bất thuận tắc sự bất thành.” Nghĩa là: Danh
không chính đáng thì lời nói không xuôi, lời nói không xuôi thì việc không thành. Danh
đã chính thì việc gì cũng có nghĩa lý rõ ràng của việc ấy, những điều tà thuyết không che
khuất được chân lý. Danh và Phận đã được định rõ thì mỗi người đều có địa vị và bổn
phận chính đáng của mình, trật tự phân minh.

- Thượng học
Thượng học thuộc về Đại thừa hay Thượng thừa, Là quan niệm về thế giới quan của Nho
giáo, rất uyên áo cao viễn mà Đức Khổng Tử có nhiều điều nói rõ trong Kinh Dịch (sách
căn bản về triết Lý của Nho giáo) và trong sách Trung Dung (sách Triết học bàn về Thiên
đạo và Nhân đạo rất sâu xa).
Sau đây là một số điểm tiêu biểu: Thái cực và sự biến hóa của Thiên lý; Thiên mệnh; Quỉ
Thần; Hồn phách; Đạo của Đức Khổng Tử.

+ Thái cực và sự biến hóa của Thiên lý: Quan điểm của Nho giáo về thế giới quan (sự
hình thành vũ trụ và vạn vật) được diễn tả như sau: Khởi đầu của Vũ trụ là một khối mờ
mịt hỗn độn. Trong cái Hỗn độn ấy có một cái Lý rất linh diệu cương kiện gọi là Thái
Cực. Song Thái Cực huyền bí vô cùng, ta không thể biết rõ được, nhưng khi xem xét sự
biến hóa của vạn vật thì ta có thể đoán biết được cái động và tịnh của Thái Cực. Động là
Dương, tịnh là Âm. Dương lên đến cực độ lại biến ra Âm; Âm lên đến cực độ lại biến ra
Dương. Hai cái Âm Dương ấy cứ xoay chuyển tương đối, điều hòa nhau mà biến hóa sinh
ra Trời Đất và vạn vật.
Đó là điểm cốt yếu của Kinh Dịch, bởi vì Dịch là biến đổi. Trong Trời Đất, không có
cái gì là không biến đổi, không có cái gì là nhất định. Tất cả đều biến đổi, xoay chuyển,
lưu hành khắp nơi, nhưng đều phát sinh từ một Lý duy nhất là Thái Cực. Chỉ có Thái Cực
là tuyệt đối, còn tất cả đều là tương đối. Do đó, Đức Khổng Tử lấy chủ nghĩa “Thiên Địa
vạn vật đồng nhất thể “ làm căn bản cho học thuyết của Nho giáo.

+ Thiên mệnh: Trời là Chủ thể của cả Càn khôn Vũ trụ và vạn vật nên có cái sức mạnh bí
mật điều khiển tất cả sự biến hóa và xoay chuyển trong Vũ trụ cho được điều hòa. Đó là
Thiên mệnh, tức là Mệnh Trời.
Làm người phải biết mệnh Trời để nương theo đó mà sinh hoạt cho phải đạo. Nhưng
con người cũng có cái tự chủ riêng để tự cường kiện lấy mình, khiến cho cái tâm linh của
ta luôn luôn mẫn huệ, để hành động của ta lúc nào cũng phù hợp mệnh Trời, chớ không,
chúng ta cứ hèn yếu nhu nhược đợi chờ số mạng. Sách Trung Dung viết: “Trời sinh ra
muôn vật, nhân cái tài lực của từng vật mà đôn đốc thêm vào. Cho nên, vật nào có thể
vun đắp được thì vun đắp vào cho tốt lên, vật nào nghiêng lệch thì làm cho đổ nát đi”.

+ Quỉ Thần: Nho giáo dạy người ta tin ở Trời, tin ở Thiên mệnh, tất nhiên tin có Quỉ
Thần. Sự cúng tế Quỉ Thần là để mình tỏ lòng thành kính, chớ không phải để cầu phúc
riêng cho mình. Quỉ Thần đều sáng suốt và chính trực, nên chẳng hề tư vị ai. Người đời
cứ theo điều công chính mà làm thì ắt có Quỉ Thần chứng giám hộ trì cho. Nếu ai bất
nhân bất nghĩa, làm điều trái đạo, phải tội với Trời, thì dẫu có cầu nguyện cúng tế quanh
năm cũng không ích gì. “Hoạch tội ư Thiên, vô sở đảo đao” (Phải tội với Trời thì còn cầu
nguyện vào đâu được).
Chúng ta là người đang sống, chúng ta tin và biết có Quỉ Thần, nhưng chúng ta không
thể biết các việc của Quỉ Thần, cho nên chúng ta không nên nói điều huyễn hoặc mà gây
thành mối mê tín dị đoan. “Vụ dân chi nghĩa, kính nhi viễn chi.” Nghĩa là: Vụ lấy làm
việc nghĩa của người, còn Quỉ Thần thì nên kính trọng mà xa ra.

+ Hồn phách: Đức Khổng Tử nói: “Nhân sinh hữu khí, hữu hồn, hữu phách. Khí, Hồn,
Phách hội chi vị sinh.” Nghĩa là: Người sinh ra có Khí, có Hồn, có Phách. Khí, Hồn,
Phách hội lại gọi là sống.
Con người có sinh ắt phải có tử. Chết rồi thì hài cốt dần dần tan rã vào đất, còn cái Khí
tinh anh thì lên khoảng không gian sáng rõ rực rỡ. Vậy, chết không phải là hết, chỉ hết cái
hình hài, còn cái Khí tinh anh vẫn còn và đi lên chỗ sáng rõ trong vũ trụ. Cái Khí tinh anh
ấy ở trong con người thì gọi là Tâm. Tâm là cái thần minh, là cái tia sáng mà Trời phú
cho con người để hiểu biết các sự vật. Khi ta chết, cái tia sáng ấy trở về Trời, còn cái thể
xác vật chất thì bị hủy hoại đi. Bởi cái tư tưởng ấy nên mới nói: Sinh ký tử qui (Sống gởi
thác về).

+ Đạo của Đức Khổng Tử: Đức Khổng Tử căn cứ trên lẽ biến hóa mà điều hòa của Trời
Đất và đem những tư tưởng và hành vi của bậc Thánh nhân đời trước mà lập thành Đạo
để dạy thiên hạ. Ở trong cái Đạo ấy, muôn vật đều hóa dục mà không hại lẫn nhau, các
Đạo đều được thi hành mà không trái nhau. Đức nhỏ thì phân minh như nước sông chảy,
đức lớn thì đôn hậu mà sinh hóa vô cùng. Đức Khổng Tử nói: “Công kích Đạo khác chỉ
hại mà thôi”.
Đạo của Đức Khổng Tử là theo lẽ thường, việc phải thì làm, việc trái thì bỏ, cốt giữ cái
Tâm cho sáng suốt, đừng để tư dục làm cho ám muội. Đạo của Đức Khổng Tử không lấy
việc Quỉ Thần mà đặt ra điều mê tín, không lấy sự sống chết mà huyễn hoặc lòng người.
Ngài chỉ cốt lấy Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, Trung, Hiếu, Kính làm đạo thường. Đạo của
Ngài tòng theo Thiên lý, làm cho sáng cái đức sáng, khiến người ta càng lúc càng mẫn
huệ đến chí thiện mới thôi (Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí
thiện). Đạo không xa cái bổn tính con người, nếu người theo Đạo để cho xa cái bổn tính
con người thì đó không phải là Đạo. (Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi Đạo nhi viễn nhân,
bất khả dĩ vi Đạo).
Tóm lại, Đạo của Đức Khổng Tử dạy rất kỹ về Nhân đạo. Nhân đạo xong thì mới có thể
đến gần được Thiên đạo.

1.1.2 Ưu điểm mà Bác nhìn nhận trong học thuyết Nho giáo của Khổng Tử

Năm 1949, trong cuốn sách Hồ Chí Minh truyện, xuất bản bằng tiếng Trung Quốc (Bát
Nguyệt thư xã xuất bản, người dịch Trương Niệm Thức), Hồ Chí Minh đã có nhận xét về
học thuyết Nho giáo của Khổng Tử như sau: “Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm là sự tu
dưỡng đạo đức cá nhân”
Có thể thấy, về mặt lý luận, Khổng Tử không chỉ cống hiến cho nền học thuật Trung
Hoa nói riêng và nhân loại nói chung một hệ thống các phạm trù đạo đức khá phong phú
và sâu sắc, mà ông còn đưa ra phương pháp giáo dục đạo đức cho con người hết sức tích
cực, tiến bộ. Đây chính là một đóng góp to lớn và quý báu vào sự hình thành, phát triển
lý luận về tâm lý và lý luận về giáo dục trong lịch sử tư tưởng của nhân loại.
Về mặt thực tiễn, tư tưởng đạo đức của Khổng Tử có ý nghĩa trong việc xác định rõ yêu
cầu và trách nhiệm của mỗi người trong các mối quan hệ xã hội; góp phần điều chỉnh
hành vi đạo đức của con người; đồng thời có ý nghĩa trong việc cai trị, quản lý xã hội,
ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống đạo đức xã hội ở một số nước phương Đông, trong đó có
Việt Nam.

1.2 Jesus.
1.2.1 Sơ lược về Jesus và Thiên chúa giáo.
1.2.1.1 Sơ lược về Jesus.
Tên Jesus tức là Đấng cứu nhân loại. (Ở đây nên hiểu là người truyền tin để
nhân loại tự cứu mình).
a, Sự ra đời của Ngài.
Hầu hết các học giả đồng ý rằng Giêsu là một người Do Thái vùng Galilea, sinh
vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất và qua đời trong khoảng từ năm 30 đến 36 SCN tại
xứ Judea, ông chỉ sống và hoạt động tại Galilea và Judea chứ không ở nơi khác.
Chúa Jesus sinh vào rạng sáng ngày hai mươi lăm tháng mười hai ở Bê Lem, miền
Giu Đê, thời vua Hê-rô đê, cha là Joseph thuộc con cháu dòng dõi Đa-vít, làm nghề
thợ mộc, mẹ là Ma-ri-a lo việc nhà.

b, Bối cảnh lịch sử của thời Chúa Jesus


Ngài đã sống trong một thời kỳ rối loạn : đất nước Palestine bị cai trị bởi người
Roma ; những chính đảng và tôn giáo do thái chống đối lẫn nhau : những địa chủ
giàu có tìm kiếm những giáo sĩ để chọn lựa những người cộng tác với người chiếm
giữ, một sổ khác nghi ngờ quyền lực của họ và sống một cuộc sống khổ hạnh, một
số khác nữa, những người Pharisien, nhấn mạnh ở đời sống tinh thần hơn là nghi
lễ, một số khác nữa, nhóm đã chịu phép rửa của Gioan, nhấn mạnh vào việc trở lại,
một số còn lại thì chống đối bởi quân đội Roma.

c, Tóm lược cuộc đời của Chúa Jesus.


Chúa Jesus sống quy ẩn ở Na za rét, nước Do Thái, Ngài trưởng thành trong cuộc
sống khó khăn, được giáo dục như những đứa trẻ đồng tuổi, đặc biệt là học hỏi
Thánh Kinh
Lên mười hai tuổi, đã xuất hiện 1 biến cố lúc Chúa Jesus theo gia đình tới đền
thờ mừng lễ vượt qua, khi kết thúc kỳ lễ, Ngài đã không về với gia đình mà ở lại
Giê ru sa lem ngồi nói chuyện với những thầy luật sĩ vừa nghe vừa thắc mắc làm
nhiều người kinh ngạc về trí tuệ và các lời đối đáp của Ngài. Tiếp theo Ngài trở về
với gia đình và hằng vâng phục Đức Mẹ và Thánh Jesus.
Tới năm ba mươi tuổi Chúa Jesus rời khỏi nhà, khởi sự đi rao giảng tin mừng và
tiến hành ơn cứu độ. Lúc tất cả mọi người chịu phép rửa, Đức Chúa Jesus cùng
chịu phép rửa ở sông Gio đan, sau khi vừa ở dưới nước lên thì trời mở ra và Thánh
Thần ngự xuống trên Người dưới hình dạng như chim bồ câu. Lúc Đức Chúa Jesus
được đầy ơn Đức Chúa Thánh Thần từ sông Gio đan trở về thì được Thánh Thần
dẫn đi trong sa mạc, không ăn mặn, cầu nguyện bốn mươi ngày đêm, chịu quỷ ma
dụ dỗ ,quỷ ma đã sử dụng mọi phương để cám dỗ Người nhưng vẫn không được ,
quỷ bỏ đi, đợi chờ cơ hội. Được quyền năng Chúa Thánh Thần thúc đẩy , Đức Giê
Su trở về miền Ga-li-lê, và tiếng tăm Người được lan truyền khắp, Ngài giảng dạy
ở những hội đường của họ , sử dụng các ngụ ngôn giảng dạy và được những người
ở đó yêu thích
Người đã sử dụng công năng của mình đi giảng dạy nhiều nơi và trị lành cho
nhiều người bị quỷ ám, bệnh tật ,bị phong hủi ,tật nguyền được trị hết , người điếc
được nghe ,người mù được thấy ,người câm nói được ,người què được đi và người
chết sống lại…Chúa Jesus thành lập Hội Thánh để ban phước cho con người: bắt
đầu, Đức Chúa Jesus tụ hợp 12 người lại làm Tông Đồ, giảng dạy và ban cho họ
năng lục và phép thuật để chống lại quỹ ma và trị những bênh tật. Chúa đã để Phê
Rô làm đầu và chình công Đoàn này là hạt nhân làm lớn mạnh Hội Thánh Người
sai họ đi rao giảng nước Thiên Chúa và trị hết bệnh cho chúng sinh.
Chúa Jesus đã làm nhiều phép màu để minh chứng cho sứ mạng của Ngài, Ngài
phải chịu nhiều khổ đau bởi những kỳ mục, những thượng tế mà kinh sự tạo nên.
Chúa Jesus là Đấng Cứu Thế , Ngài mang tới sự sống cho con người tuy nhiên
Chúa lại bị người đời sát hại, giáo lý chúa có nhiều điều ngược ý nghĩa và thói tục
dân gian, Chúa vạch trần lối sống giả tự mãn của biệt phái… Do vậy rất nhiều
người ghét.
Những Luật sĩ và biệt phái canh chừng để bắt bẻ Ngài trong từng câu nói và cư
xử. Có rất nhiều người bất mãn do lời Chúa giảng dạy đến độ có lần họ đẩy Chúa
khỏi Hội đường , kéo Ngài lên trên núi ,có ý đẩy Người xuống vực thẳm. Gần cuối
cuộc đời ,chúa Jesus lên Giê ru sa lem mừng lễ vượt qua , lúc Chúa vào thành được
người dân chào đón như vị vua khải hoàn. Tuy nhiên, cũng chính vinh dự đó thúc
bách những kẻ thù dứt khoát ra tay tàn sát Ngài. Biết vậy, Chúa tạo thời gian sống
thân thiết sau cùng với những môn đệ. Trong buổi ăn tối Vượt Qua với họ ,Chúa
Jesus hoá bánh và rượu trở thành Mình và Máu Người cách nhiệm mầu để ở lại với
họ và những ai Chúa yêu trong tất cả thời đại. Chúa còn rửa tay cho những môn đệ
để dạy họ bài học thương yêu phục vụ. Lúc đêm khuya, Chúa vào vườn Cây Dầu
nguyện cầu.Giu đa ,1 trong mười hai môn đệ ,đã phản bội do ham tiền ,ông sử
dụng cái hôn tình nghĩa để chỉ điểm cho lính bắt Chúa. Chúa bị Philato lên án tử
hình. Chúa bị đưa cho những luật hình, chúng đánh đập ,nhạo báng ,ấn vòng gai
lên đầu Ngài như mũ triều thiên,bắt Ngài vác thập giá lên Núi Sọ. Vào giữa trưa
chúng đóng đinh Ngài vào thập giá cùng với 2 kẻ trộm cướp. Ngài đã mất vì cực
hình tàn ác đó lúc ba giờ. Lúc tối, Ni- cô- đê- mô tới xin Philato cho tháo xác
Người , xác Nài được chôn cất trong mồ ,còn linh hồn thì xuống ngục tổ tông để
loan báo Tin Mừng giải cứu cho các công chính đã mất trước lúc Ngài đến.Theo kế
hoạch Thiên Chúa đã định ngày thứ 3 Ngài đã sống lại như Người đã nói trước.
Sau khi sống lại ,Chúa Jesus còn hiện ra giáo huấn ,an ủi những môn đệ trong bốn
mươi ngày ,sai họ đi rao giảng Tin Mừng rồi Ngài lên trời , ngự bên hữu Chúa Cha

d, Sự sống lại của Chúa Jesus có các ý nghĩa sau:


- Một là mở đường cho nhân loại đi vào đời sống mới.
- Hai là khổi nguồn và đảm bảo sự sống lại sau này của con người.

1.2.1.2 Thiên chúa giáo.


Khái quát chung về Thiên Chúa giáo
Thiên Chúa giáo là một trong bốn nhánh của đạo Kito (gốc của đạo Kitô), là một
trong năm tôn giáo lớn nhất trên thế giới (sau Hồi giáo).
Ở Việt Nam: Thiên Chúa giáo đứng thứ hai (khoảng 6,2 triệu tín đồ, sau Phật
giáo)
Về tên gọi: Thiên Chúa giáo là tên gọi xuất hiện vào ngày 15/03/1874 Trong Hòa
Ước ký kết giữa nước Pháp và Triều đình vua Tự Đức. Một số tên gọi khác: Kitô
giáo, Công giáo, Hoa Lang đạo, đạo Giato, Đạo Bí Tích, Đạo Chúa Trời.

a, Tiền đề ra đời
Gồm 2 tiền đề:
- Tiền đề chính trị xã hội: Kitô giáo ra đời vào khoảng thế kỷ I đầu CN ở các
tỉnh phía đông đế quốc La Mã cổ đại. Nhà nước La Mã cổ đại là nhà nước
chiếm hữu nô lệ, một nhà nước đế chế được thiết lập bằng chiến tranh xâm
lược. Vì vậy trong lòng nó chứa chất nhiều mâu thuẫn, đặc biệt là mâu
thuẫn giữa nô lệ với chủ nô và mâu thuẫn giữa các dân tộc bị xâm lược với
đế quốc La Mã là kẻ đi xâm lược. Khởi nghĩa nô lệ nổ ra ở khắp mọi nơi.
Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa của Spactaquyt. Nhưng do đế quốc La Mã vẫn
còn rất hùng mạnh nên các cuộc khởi nghĩa đều nhanh chóng bị dập tắt một
cách dã man, tàn bạo. Tâm trạng bi quan tuyệt vọng bao trùm đời sống của
quần chúng lao khổ.

- Tiền đề tư tưởng: Thiên Chúa giáo ra đời dựa trên cơ sở:


+ Thần học của đạo Do Thái
+ Triết học Hy Lạp, La Mã cổ đại (tiêu biểu là triết học Khắc kỷ với hai đại
diện tiêu biểu là Senech và Phu long)
+ Tín ngưỡng, phong tục, tập quán của các dâu tộc vùng Trung Cận Đông

Người sáng lập Kitô giáo là Jesus quê ở Palestin, là người Do Thái, sống ở
thế kỷ 1 đầu CN. Xuất thân trong một gia đình bình dân. Theo truyền thuyết, cha
nuôi của Chúa Giêsu tên là Josheps, mẹ là bà Ma-ri-a. Bà Maria đồng trinh mang
thai Ngài một cách màu nhiệm. Từ nhỏ Ngài là người thông minh và theo đạo Do
Thái, năm 12 tuổi theo cha đến đất thánh Gierusalem. Chính Đức Chúa Jesus là
người đã tạo ra Thiên Chúa giáo và năm 30 tuổi Ngài đã đi giảng đạo và thu nạp
được 12 môn đệ (sau được Ngài đào tạo thành các thánh tông đồ - thiên sứ). Trong
quá trình truyền đạo Ngài luôn bị những người Do Thái đả kích, phê phán và ghen
ghét. Ngài bị nhà cầm quyền đương thờị (vua Hê - rô - đê) ngăn cản, cấm cách và
kết tội mưu phản La Mã. Vì vậy đã bắt chúa Jesus và năm 33 tuổi Ngài bị kết án tử
hình bằng cách đóng đinh trên cây thánh giá. Sau khi chết các môn đệ mai táng xác
chúa Jesus trong hang đá, nhưng 3 ngày sau chúa Jesus sống lại như đúng những gì
Ngài đã nói, rồi sau đó ở trần thế với các môn đệ thêm 40 ngày nữa, sau đó về trời.
Có thể nói, hình ảnh về đấng cứu thế, về chúa Jesus chịu nạn, về hệ thống chúa 3
ngôi đã trở thành một biểu tượng đẹp trong lòng các tín đồ.

b, Giáo lý của Thiên Chúa giáo


- Giáo lý của Thiên Chúa giáo chứa đựng trong Kinh Thánh. Kinh Thánh
gồm hai bộ: Cựu ước và Tân ước:
+ Cựu ước (gồm 46 cuốn): là bộ Kinh thánh của đạo Do Thái, do các nhà trí
thức Do Thái viết ra trong một thời gian dài. Kinh Cựu ước nói về sự tạo dựng vũ
trụ và con người của Chúa trời; về sự tích của dân Do Thái, luật pháp, phong tục
tập quán và truyền thống văn hoá của đạo Do Thái; về các vua và dân Do Thái từ
khi lập quốc đến tan rã. Vì vậy nhiều ý kiến cho rằng đây là cuốn lịch sử văn hóa
của người Do Thái thời kỳ cổ đại.
+ Tân ước có 27 cuốn, viết bằng tiếng Hy Lạp. Nội dung nói về cuộc đời, sự
nghiệp, những lợi răn dạy, chỉ bảo về đạo lý của chúa Giesu và các thánh tông đồ
đối với con người.
- Hệ thống tín điều cơ bản: Trong giáo lý của Thiên Chúa giáo có 5 tín điều
cơ bản:
+Thiên chúa và sự sáng tạo thế giới của Thiên chúa
+ Con người và sự sa ngã của con người
+ Chúa Jesus và công cuộc cứu chuộc
+ Chúa Jesus trở lại và sự phán xét cuối cùng
+ Thiên đường và địa ngục, thiên thần và ma quỷ.
 Nội dung cơ bản:
 Tin vào Thiên chúa và sự màu nhiệm của Thiên chúa là điều căn bản
đầu tiên của Thiên Chúa giáo
 Tín điều về con người là vấn đề trọng tâm quan trọng được đặc biệt chú
ý. Con người ở vị trí thứ hai sau Thiên chúa. Con người do Thiên Chúa tạo
nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, có nhiệm vụ thờ phụng Thiên Chúa và
tiếp tục công cuộc kiến tạo trái đất của Thiên Chúa
 Thiên đường và địa ngục , thiên thần và ma quỷ
+ Thiên đường: là nơi trị vì của Thiên chúa, trên đó có ngai vàng, các
thánh thần các thiên sứ và thiên binh. Thiên đường là vĩnh cửu, nơi có cuộc sống
thánh thiện và an nhàn. Thiên đường là nơi trú ngụ của các linh hồn của những ai
sống lương thiện, có niềm tin vào Chúa.
+ Địa ngục: nơi vực sâu tối tăm với sự ô uế, diêm sinh cháy bỏng và dòi bọ
không hề chết. Địa ngục có cực hình, chó ngao cắn xé...

1.2.2 Ưu điểm của Thiên chúa giáo. ( lòng nhân ái cao cả )


 Trong quá trình tồn tại và phát triển, Thiên Chúa giáo ảnh hưởng sâu sắc đến
đạo đức, lối sống, phong tục tập quán của giáo dân. Thiên Chúa giáo chứa
đựng những nội dung phong phú về lịch sử, tư tưởng, đạo đức, văn hóa.
Trong đó, đạo đức Thiên Chúa giáo là một trong những nét đặc trưng nhất.
Có thể nói, đạo đức của một người Thiên Chúa giáo là một thành tố cơ bản
tạo nên diện mạo văn hóa đạo đức của Thiên Chúa giáo. Chuẩn mực đạo đức
Công giáo thường dễ hiểu, quy định rõ ràng việc nào được làm, việc nào
không được làm. Hành vi đạo đức thường có nguồn gốc từ đời sống sinh
hoạt hằng ngày của người dân, phần nhiều biểu hiện tính hướng thiện, hướng
tới chân, thiện, mỹ của con người.
 Những điều răn dạy của Chúa Giê-su như “Không giết người; không tà dâm;
không trộm cắp; không làm chứng dối, che dấu sự giả dối; không ham muốn
vợ người; không ham của trái lẽ” là những điều hướng thiện, là những quy
tắc không chỉ dành cho người theo đạo mà nó còn có ý nghĩa với tất cả mọi
người. Đó là những giá trị chung nhất mà con người ở thời đại nào, không
phân biệt màu da, sắc tộc, không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo đều phải
hướng tới. Những giá trị ấy đã làm cho cuộc sống của người dân tốt đẹp hơn,
đời sống xã hội ngày càng văn minh hơn.
 Một trong những ảnh hưởng mang tính đặc sắc củaThiên Chúa giáo đến lối
sống người dân không chỉ là sự cởi mở, phản ánh những ham muốn, khát
vọng về tự do, hướng thiện về hạnh phúc nơi thiên đàng mà còn thể hiện tình
yêu thương đồng loại, gắn kết cộng đồng. Đức Chúa Giê-su dạy tín đồ phải
yêu thương đồng loại. Do vậy, người Thiên Chúa giáo phải là người có giàu
tình yêu thương. Nó thực sự là giá trị đạo đức truyền thống hết sức quý báu
hình thành nên nhân cách và lối sống của một công dân tốt, làm giàu thêm
nền văn hóa truyền thống tốt đẹp của mỗi vùng miền, mỗi quốc gia.
 Tình yêu thương mà Chúa Giê-su dạy tín đồ phù hợp với truyền thống nhân
nghĩa của mọi người dân trên khắp thế giới. Đó là một đạo lý rất cao thượng,
nó thể hiện đạo đức, lối sống của các tầng lớp thế hệ ở nhiều dân tộc khác
nhau, trong đó đặc biệt đó là người Việt. Từ ngàn xưa cho đến ngày nay và
nó luôn được duy trì, phát triển. Nhân nghĩa thể hiện trước hết ở lòng nhân
ái cao cả, sự thương yêu giúp đỡ lẫn nhau trong lao động sản xuất, trong lúc
khó khăn, hoạn nạn, tình thương giữa người với người. Đây là tình cảm của
con người trong tình làng, nghĩa xóm, nó trở thành hành vi đạo đức ứng xử
hằng ngày của họ qua các thế hệ với phương châm “lá lành đùm lá rách”,
“thương người như thể thương thân”,… Vì vậy, tình thương, lòng vị tha, bác
ái mà Thiên Chúa giáo kêu gọi tín đồ của mình thực hiện cũng chính là
những hạt nhân trong giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc.

1.4 Tôn Dật Tiên (Tôn Trung Sơn).


1.4.1 Sơ lược về Tôn Trung Sơn và học thuyết Tam dân.
1.4.1.1 Sơ lược về Tôn Trung Sơn.
Tôn Trung Sơn là nhà cách mạng vĩ đại, người đóng vai trò quan trọng trong cuộc Cách
mạng Tân Hợi (1911), lật đổ triều đại Mãn Thanh và khai sinh ra Trung Hoa Dân Quốc.
Ông được người dân yêu mến, tôn kính và xưng ông là quốc phụ.
Tôn Trung Sơn (1866 –1925), nguyên danh là Tôn Văn, tự Tải Chi, hiệu Nhật Tân, Dật
Tiên. Thời niên thiếu, ông sang Honolulu (quần đảo Ha-oai) ở với người Anh buôn bán
kinh doanh, ở bên đó ông theo học các trường tiểu học và trung học của người Âu Châu.
 Cuộc đời và sự nghiệp của
Năm 1883, Tôn Trung Sơn trở về nước, theo học trường Đại học y khoa ở Hương Cảng
và trở thành bác sĩ. Trong hoàn cảnh đất nước đang bị đế quốc xâu xé, ông thấy việc cứu
nguy cho toàn xã hội quan trọng hơn là trị bệnh cho một vài người, nên ông bỏ nghề y
tham gia hoạt động chính trị.
hời trung học, ông học tại trường ʻIolani, được dạy dỗ bởi những người Anh theo Anh
giáo. Tại đây, ông lần đầu tiếp xúc với Kitô giáo và bị ấn tượng sâu đậm. Ông tham dự
Nhà thờ Đạo Tế (được sáng lập bởi Hội Truyền giáo London vào năm 1888) trong khi
học Y khoa ở Hồng Kông. Việc ông theo đạo Ki-tô liên hệ tới những lý tưởng cách mạng
và nỗ lực cải tiến đất nước.

Năm 1894, ông thành lập Hưng Trung Hội ở Honolulu (Ha-oai) là Hội cách mạng đầu
tiên của giai cấp tư sản Trung Quốc đề ra Cương lĩnh: “Đánh đuổi giặc Thát, khôi phục
Trung Hoa, sáng lập chính phủ hợp quần”. Hội đã thu hút nhiều nhân sĩ và thanh niên
Trung Quốc yêu nước tham gia, quyên góp kinh phí, mua sắm vũ khí chuẩn bị các cuộc
khởi nghĩa Quảng Châu (1895), Huệ Châu (1898) dự định kết hợp với phong trào phản đế
của Nghĩa Hòa Đoàn ở miền Bắc, nhưng đã không thành công, ông lại phải lưu vong ra
nước ngoài.
Năm 1905, Tôn Trung Sơn hợp nhất Hưng Trung hội với một số tổ chức cách mạng ở
trong nước, lập thành Trung Quốc Đồng minh hội do ông làm Tổng lý. Trên tờ Dân báo,
cơ quan ngôn luận của Hội, ông đã đề xướng Chủ nghĩa Tam dân: “Dân tộc độc lập, dân
quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”. Từ đó, phong trào cách mạng tiến mạnh hơn trước.
Từ 1905, Trung Quốc Đồng Minh Hội tổ chức nhiều cuộc binh biến ở các tỉnh miền
Nam, nhưng không thành công. Sau này, Hội vận động được binh sĩ ở thành phố Vũ
Xương (Hồ Bắc) nổi dậy khởi nghĩa và giành được thắng lợi (mở đầu cách mạng Tân
Hợi). Tôn Trung Sơn về nước, được đại hội đại biểu các tỉnh họp tại Nam Kinh đề cử làm
Tổng thống của Chính phủ trung ương lâm thời.

Năm 1912, Tôn Trung Sơn nhậm chức tại Nam Kinh và tuyên bố thành lập nước Trung
Hoa dân quốc. Ông đã ban bố bản Lâm thời ước pháp (Hiến pháp lâm thời) để làm cơ sở
cho việc xây dựng nước Trung Hoa dân quốc. Nhưng chẳng bao lâu sau, mọi thành quả
cách mạng lại bị rơi vào tay bọn quân phiệt phản động Viên Thế Khải. Tôn Trung Sơn lại
phải trải qua một chặng đường đấu tranh mới đầy gian lao khổ ải. Để lôi kéo bọn quân
phiệt Bắc Dương theo cách mạng, ông đã từ chức Tổng thống lâm thời để cho Viên Thế
Khải. Viên lên làm Tổng thống chính thức nước Trung Hoa dân quốc, tuy đã buộc vua
Thanh là Phổ Nghi thoái vị, nhưng cũng có nhiều hành động phản bội lại phong trào cách
mạng, tước bỏ dần những thành quả của cách mạng Tân Hợi. Đồng thời, ông cũng tập
hợp các lực lượng cách mạng ở các tỉnh phía Nam chống lại Viên, nhưng bị đàn áp nhanh
chóng (lịch sử gọi là Cuộc cách mạng lần thứ hai).
Sau thất bại, Tôn Trung Sơn và nhiều đồng chí của mình đã phải sống lưu vong tại Nhật
Bản. Người bạn thân thiết của Tôn Trung Sơn là Tống Diệu Như, một thương gia giàu có
nhưng rất có cảm tình với Đảng cách mạng, đã hỗ trợ ông rất nhiều trong thời gian hoạt
động tại Nhật Bản.
Lúc đó, người con gái lớn của Tống Diệu Như là Tống Ái Linh làm thư ký tiếng Anh cho
Tôn Trung Sơn và người con gái thứ hai là Tống Khánh Linh vẫn đang lưu học tại Mỹ.
Tống Khánh Linh nhiều lần gặp mặt và rất sùng bái Tôn Trung Sơn, cô mang hy vọng
cháy bỏng được theo ông tham gia cách mạng. Khi Tống Ái Linh kết hôn với Tôn Tường
Hi và không thể đảm nhận vai trò thư ký tiếng Anh cho Tôn Trung Sơn, Tống Khánh
Linh liền chủ động đề xuất đảm nhận công việc này. Kể từ đây tình yêu bền chặt keo sơn
giữa hai người đồng chí cùng chung chí hướng đã nảy sinh. Trải qua nhiều khó khăn, cả
hai kết hôn vào năm 1915 sau khi Tôn Trung Sơn ly dị người vợ đầu tiên là Lư Mộ Trinh.
Năm 1916, Viên Thế Khải xưng đế bất thành. Tôn Trung Sơn và Tống Khánh Linh từ
Nhật Bản trở về Thượng Hải, tiếp tục lãnh đạo cách mạng. Một năm sau đó, ông xuống
Quảng Châu đảm nhận chức đại nguyên soái và triển khai “Phong trào hộ pháp”, tuy
nhiên đã bị tập đoàn quân phiệt và giới chính khách phản bội, Tôn Trung Sơn phẫn nộ từ
chức trở về Thượng Hải.

Năm 1921, ông lại một lần nữa tới Quảng Châu đảm nhận chức đại tổng thống và triển
khai “Phong trào hộ pháp” lần thứ hai. Tuy nhiên, do có chính kiến khác biệt với lãnh tụ
quân chính Quảng Châu lúc đó là Trần Quýnh Minh, vì thế Trần Quýnh Minh đã khởi
binh và gây ra sự kiện pháo kích vào phủ tổng thống. Sau sự kiện đó, Tôn Trung Sơn bắt
đầu xem xét khả năng hợp tác với Đảng Cộng sản.

Trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ nhất (1924) của Quốc Dân Đảng Trung Quốc,
Tôn Trung Sơn đã tuyên bố thực hiện 3 chính sách lớn “liên Nga, liên Cộng và giúp đỡ
nông dân”, tiếp nhận sự trợ giúp của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên
Xô, cải tổ Quốc Dân Đảng. Thế nhưng, trong khi phong trào cách mạng đang sôi nổi thì
Tôn Trung Sơn lâm bệnh và từ trần (12/3/1925). Cái chết của ông là một tổn thất lớn cho
phong trào cách mạng Trung Quốc lúc đó.
Tôn Trung Sơn được xem là Cách mạng tiên hành giả (người tiên phong của cách mạng)
và tên của ông thậm chí còn được đề cập tới trong lời tựa Hiến pháp Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa. Có thể nói, ông là một nhà cách mạng vĩ đại, người cả đời theo đuổi lý tưởng
cách mạng, trải qua bao thăng trầm khai sinh ra Trung Hoa Dân Quốc .
https://vyctravel.com/tin-tuc/tin-tuc/ton-trung-son-nha-cach-mang-vi-dai.html
1.4.1.2 Học thuyết Tam dân.
Chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên (hay Tôn Trung Sơn) là một triết lý chính trị
hướng tới việc biến Trung Hoa thành một quốc gia tự do, thịnh vượng và hùng cường.
Trong đó, ba yếu tố cơ bản nhất của nó là: dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh
hạnh phúc.
Chủ nghĩa Tam Dân được Trung Hoa Dân Quốc nhấn mạnh là cốt lõi của chính sách
nước này, từng được Quốc Dân Đảng theo đuổi trong thời kỳ đầu. Nó cũng xuất hiện
ngay ở dòng đầu tiên trong Quốc ca của Trung Hoa Dân Quốc: “Tam Dân chủ nghĩa,
Ngô đảng sở tông…” có nghĩa là chủ nghĩa Tam Dân là điều căn bản nhất của Quốc Dân
Đảng.
 Nguồn gốc: + Năm 1894, khi Hưng Trung Hội (Hội chấn hưng Trung Hoa) được
thành lập, Tôn Dật Tiên mới theo đuổi hai mục tiêu: dân tộc và dân quyền. Ông
chưa có được yếu tố thứ ba, là yếu tố về phúc lợi. Năm 1896, ông bắt đầu chuyến
viếng thăm châu Âu 3 năm của mình. Về nước, năm 1900, ông phát động cuộc
khởi nghĩa Huệ Châu nhưng thất bại.
 Tôn Dật Tiên phải ra nước ngoài, tới Nhật Bản, châu Âu, Mỹ và Canada. Mãi năm
1905, khi ông viếng thăm châu Âu một lần nữa, ông mới đưa ra triết lý chính trị
của mình trong một bài phát biểu tại Brussels. Tại rất nhiều thành phố ở nước
ngoài, Tôn Dật Tiên đã thành lập các nhánh của Hưng Trung Hội. Sau đó, khi
Đồng Minh Hội được thành lập, Tôn Dật Tiên đã công bố triết lý của mình trên tờ
Dân báo.
 Triết lý của Tôn Dật Tiên chịu ảnh hưởng lớn từ trải nghiệm của ông tại Mỹ quốc
và hàm chứa nhiều yếu tố được rút ra từ các cuộc cải cách ở nước này. Ông cũng
chịu ảnh hưởng rất lớn từ tổng thống Mỹ Abraham Lincoln. Ông đã trích dẫn một
đoạn trong diễn văn Gettysburg nổi tiếng của Abraham Lincoln: “một chính quyền
của dân, do dân và vì dân”, và cho rằng đó là nguồn cảm hứng cho chủ nghĩa Tam
Dân của mình.
 Nội dung:
Chủ nghĩa tam dân bao gồm ba yếu tố cơ bản nhất là: dân tộc độc lập, dân quyền tự do và
dân sinh hạnh phúc.

Trong đó, dân tộc độc lập có ý nghĩa rằng các dân tộc trên đất nước Trung Hoa không bị
thế lực ngoại lai xâm chiếm. Tôn Dật Tiên cho rằng, để thực hiện được điều này, người
Trung Hoa phải hình thành một tinh thần Trung Hoa, không phân biệt dân tộc riêng lẻ.
Năm tộc lớn là người Hán, người Mông Cổ, người Tây Tạng, người Mãn Châu, và người
Duy Ngô Nhĩ phải đồng lòng, và sử dụng một lá cờ gồm có 5 màu (lá cờ cộng hòa của
Trung Quốc sử dụng trong giai đoạn 1911-1928).

Dân quyền tự do chính là một “chính quyền của dân”. Người dân có bốn quyền lợi chính
trị căn bản: tuyển cử, bãi miễn, sáng chế, và phức quyết. Nó tương ứng với quyền công
dân ở phương Tây. Đối với Tôn Dật Tiên, điều này có thể hiện thực hóa bằng một chính
phủ có hiến pháp, giống như chính phủ Mỹ quốc. Chính phủ “ngũ quyền phân lập” so với
“tam quyền phân lập” ở phương Tây. Nó được thể hiện ở 5 viện chịu trách nhiệm: lập
pháp, hành pháp, tư pháp, kiểm sát và thẩm tra.

Dân sinh hạnh phúc có hàm ý về phúc lợi xã hội. Ý tưởng này của Tôn Dật Tiên được
ảnh hưởng bởi nhà tư tưởng Henry George, chủ yếu tập trung vào phương pháp cải cách
thuế. Tôn Dật Tiên cũng phân chia dân sinh hạnh phúc thành 4 lĩnh vực: quần áo, thức
ăn, nhà cửa và y tế. Điều đáng tiếc là Tôn Dật Tiên qua đời trước khi ông kịp giải thích
cặn kẽ cái nhìn của mình về 4 lĩnh vực này. Về chính sách dân sinh hạnh phúc, cuộc cải
cách ruộng đất đạt được kết quả tốt đẹp ở Đài Loan chính là một ví dụ trực tiếp. Bắt đầu
từ năm 1946, các ruộng của chính phủ được cho người nông dân thuê lại với giá rẻ, từ đó
góp phần cải thiện cuộc sống của họ. Do giá thuê rẻ, người nông dân được lợi nên chăm
chỉ làm việc, khiến sản lượng thu hoạch tăng cao (tăng 46% trong 4 năm). Trong khi đó,
nguồn lợi từ việc sở hữu ruộng đất của các chủ đất giảm xuống (do các ruộng của chính
phủ), khiến những chủ đất mong muốn bán đất đai của mình để đầu tư sang khu vực kinh
tế khác. Lượng đất này được chính phủ hoặc những người nông dân có điều kiện mua lại.
Cuối cùng, chính phủ tiếp tục bán ra số đất mà mình sở hữu. Tới năm 1953, số lượng
ruộng đất được người nông dân Đài Loan sở hữu cuối cùng đã tăng lên tới 90%.

1.4.2 Ưu điểm của học thuyết Tam dân


Ngày 11/11/1924 Hồ Chí Minh đến Quảng Châu – khi chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung
Sơn đã chuyển sang chủ nghĩa tam dân mới với nội dung dân tộc, dân quyền, dân sinh đã
được mở rộng theo chiều hướng có lợi cho cách mạng vô sản, nên mặc dù đã lựa chọn
con đường cách mạng Lênin nhưng Người vẫn quan tâm tìm hiểu tư tưởng của Tôn
Trung Sơn. Nguyễn Ái Quốc hiểu biết sâu hơn về chủ nghĩa tam dân mới của Tôn Trung
Sơn và nhận thấy nó thích hợp với thực tế Việt Nam: “…Trong tất cả các lý luận cách
mạng thì chủ nghĩa Tôn Dật Tiên là phù hợp nhất với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Chủ nghĩa tam dân của bác sĩ Tôn Dật Tiên có thể tổng kết là: Chủ nghĩa dân tộc: độc lập
cho mọi dân tộc; Chủ nghĩa dân quyền: tự do của nhân dân;Chủ nghĩa dân sinh: hạnh
phúc và hưởng thụ của nhân dân. Đây là cái mà Việt Nam cần. Đây là cái mà dân tộc Việt
Nam đòi hỏi và là cái mà Nguyễn Ái Quốc tìm kiếm…

Kết luận:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp biến nhiều dòng tư tưởng trong di sản tinh thần của nhân
loại xong tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống tư tưởng được hình thành trong ba
phong chào lớn của thế kỷ 20 nhầm đồ dân tộc Việt Nam tới độc lập đất nước, thống nhất
tiến lên chủ nghĩa xã hội nhân dân được sống tự do, ấm no, hạnh phúc, góp phần ổn định
tình hình thế giới phát triển tình hữu nghị giữa các dân tộc, vì sự tiến bộ xã hội và phát
triển tốt đẹp các giá trị cá nhân và cộng đồng con người và tự nhiên. Cách tiếp thu các di
sản tư tưởng nhân loại của Hồ Chí Minh đã xác lập hệ tư tưởng Hồ Chí Minh sáng tạo
thống nhất bởi bốn tiểu hệ thống:
tiểu hệ thống thứ nhất là về chủ nghĩa yêu nước và tình yêu con người đó là tình yêu
những con người bị áp bức bị bóc lột là chủ nghĩa yêu nước quốc tế kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại sức mạnh cá nhân với sức mạnh cộng đồng trên cơ sở tư
tưởng nên tảng không có gì quý hơn độc lập tự do.
Tiểu hệ thống thứ hai là hệ thống tư tưởng xây dựng nhà nước kiểu mới đó là nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cơ sở một nền dân chủ của dân do dân vì dân và sức
mạnh thuộc về nhân dân.
Tiểu hệ thống thứ ba là những tư tưởng về tương lai của con người của xã hội loài người
của đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một chủ nghĩa xã hội Việt Nam dân giầu
nước mạnh xã hội dân chủ công bằng văn minh. Đó là xã hội văn hóa cao.
tiểu hệ thống thứ tư là hệ thống các tư tưởng về mối quan hệ giữa dân tộc với quốc tế;
con người với tự nhiên. Đó là những tư tưởng lớn về một thế giới hòa bình đầy tình hữu
nghị về mặt môi trường tự nhiên thân thiện tôi đẹp và trong lành.
Yêu con người yêu đồng loại yêu người cùng khổ tin tưởng và yêu thương nhân dân yêu
thương thiên nhiên từ mầm là đến nhanh hoa, rộng lượng với kẻ thù chấp nhận sự đối
thoại giữa các chính kiến… là nhân cách khoan dung của Hồ Chí Minh khi tiếp bien các
di sản tư tưởng trong văn hóa nhân loại. Nhờ cách tiếp biến sáng tạo vì hạnh phúc của
dân tộc của loài người và nhiều công trình khác trong lĩnh vực giáo dục, nghệ thuật, giao
lưu quốc tế và gin giữ bản sắc dân tộc mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã được UNESCO tôn
vinh là một anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của nhân loại

You might also like