Professional Documents
Culture Documents
PHÂN TÍCH MỘT VÀI TÁC PHẨM VĂN HỌC PHẬT THỜI LÝ TRẦN
(phần in nghiêng là tốc ký ạ).
- Chiến thắng của Ngô Quyền đã đưa đất nước ta vào kỷ nguyên độc lập tự chủ, phục hưng văn
hóa, dân tộc được tự do, cắm cái mốc cho văn học phát triển.
- Các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Trần nối tiếp xây dựng đất nước, bảo tồn và
phát triển văn hóa dân tộc.
- Giặc Minh xâm lược vào đầu thế kỷ thứ 15, với chính sách hủy diệt văn hóa nên các tư liệu
văn học thời Lý Trần bị chúng hủy hoại gần hết, chỉ còn lại vài phần trong trăm ngàn phần
mà thôi.
I.TÁC GIẢ:
Ở Việt Nam từ khởi thủy đến nhà Ngô, từ nhà Ngô đến đời Trần và về sau đến hết thời kì
phong kiến thì nước ta gồm có bốn dòng thiền gồm: Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường
và Trúc Lâm Yên Tử. Tuy nhiên thời kì Bắc thuộc một ngàn năm đã xuất hiện hai dòng thiền. Dòng
thiền đầu tiên là Tỳ-ni-đa-lưu-chi do một vị thiền sư người Ấn Độ ( Nam Ấn) sang Việt Nam hành
đạo sáng lập ra, thứ hai là dòng thiền Vô Ngôn Thông do Thiền sư Vô Ngôn Thông là người Trung
Hoa truyền đạo vào Việt Nam sáng lập. Đến đời Lý có dòng thiền Thảo Đường, và đời Trần có
dòng thiền Trú Lâm Yên Tử => tổng cộng có 4 dòng thiền.
Trong giai đoạn này, Thiền sư Pháp Thuận thuộc dòng thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi đời thứ 10. Là một
nhà bác học, một đại tri thức, một nhà tiên tri. Cho nên từ khi thành lập đại vua Lê Đại Hành đã
mời Thiền sư Pháp thuận vào triều để hoạch định sách lược phát triển quốc gia dân tộc, nên đây là
vị thiền sư rất quan trọng trong giai đoạn này. Những việc gì thuộc về quốc gia dân tộc đều có sự
tham sự của Ngài. Trong xã hội Đại Việt lúc bấy giờ có 3 vị thiền sư nổi lên là cây đa cây đề là bác
học, đại thiện tri thức, nhà tiên tri gồm: Ths. Pháp Thuận, Ths. Khuông Việt, Ths. Vạn Hạnh (người
quan trọng hình thành nhà Lý) => những việc trọng đại trong triều đình đều có mặt ba vị thiền sư
này.
Tại sao trong giai đoạn này các triều đại phong kiến Ngô, Đinh, Tiền Lê chọn tư tưởng Phật
giáo là hệ tư tưởng quan trọng của quốc gia dân tộc. ???
Vì: Suốt 1000 năm Bắc thuộc nhà Hán dùng mọi cách để đồng hóa văn hóa người Việt của
chúng ta trong lúc này, dùng mọi cách truyền bá tư tưởng Nho học vào Việt Nam của chúng
ta, từ chỗ đó tổ tiên ta đã ý thức rõ vấn đề này nên trong giai đoạn này chỉ mượn sử dụng chữ
Hán nhưng không phát âm theo người Hán, sử dụng chữ Hán ghi lại tiếng nói của tổ tiên dân
tộc mình, viết bằng ngữ pháp tiếng Việt. Trong giai đoạn này đã manh nha hình thành chữ
Nôm để đến nhà Lý, nhà Trần hoàn thiện về chữ Nôm và sáng tác văn học. Khi Ngô Quyền
dành lại quốc gia dân tộc và tiếp nối các triều đại khác, lúc này đã ý thức rất rõ nên đã chọn
hệ tư tưởng Phật giáo để khác đi với hệ thống tư tưởng Nho học của nhà Hán, nhà Tống.
Tại sao trong giai đoạn này chọn các nhà sư là những người phò trì cho quốc gia dân
tộc????
Vì: - trong giai đoạn này các nhà sư Phật giáo là đại tri thức của xã hội, để hiểu được kinh
Phật, triết lý sâu xa của Đức Phật chỉ dạy ứng dụng vào trong cuộc sống tu tập thì người ấy
phải nỗ lực, kiên trì, cố gắng, không bỏ cuộc giữa đường để học tập. Từ chỗ đó hình thành
nên một lớp tu sĩ Phật giáo trong giai đoạn này và vì các nhà sư gần gũi với quần chúng
nhân dân => từ chỗ đó thời đại phong kiến này chọn các nhà sư phò trì để thống nhất tòa
dân để nắm toàn bộ lực lượng quần chúng này.
Lúc bấy giờ nhà Tống sai sứ thần Lý Giác đi sứ sang nước Đại Cồ Việt nước ta thì vua Lê
Đại Hành nói rằng: Ta xem khắp tỏng triều ngoài triều không có ai đủ khả năng tiếp đãi sư
thần, chỉ có hai vị Thiền sư là Ths.Pháp Thuận và Ths. Khuông Việt mới đủ khả năng tiếp đãi
sư thần.” Từ đó vua mời hai vị thiền sư vào triều, một vị sẽ giả dạng thường dân làm người
chèo đò để đưa sứ thần Lý Giác sang sông và một vị ở trong triều đại diện cho vua, cho
nước Đại Cồ Việt tiếp đãi sư thần Lý Giác => nên thấy được tầm quan trọng của các vị thiền
sư trong giai đoạn này.
Khi đưa sứ thần Lý Giác đi trên dòng sông Lăng Lãng êm đềm, xanh đẹp, có nhiều con
ngỗng bơi thì Lý Giác tức cảnh sinh tình đọc hai câu thơ: “ Nga nga lưỡng nga nga, Ngưỡng
diện hướng thiên nha” ( Sông sông ngỗng một đôi, Ngưỡng mặt chầu trời quoe) thì lão chèo
đò đưa khách sang sông đọc tiếp hai câu:” Bạch mao phô lục thủy, Hồng trạo bãi thanh ba”
( Lông trắng phơi dòng biếc, Sóng xanh chân hồng bơi), đã làm cho sứ thần giật mình, hoảng
hốt vì tri thức vĩ đại, nhạy bén của lão chèo đò, thì huống chi các bậc tri thức trong triều còn
vĩ đại như thế nào nữa. Quả đúng như vậy, khi vào triều gặp Thiền sư Khuông Việt ( Thái sư
Ngô Chân Lưu), chính sự lịch thiệp, tri thức của thiền sư đã làm cho Lý Giác càng thêm kính
phục, quý mến hơn. Nên ông đã làm một bài thơ bày tỏ tấm lòng của mình, trong đó có câu
thơ rất quan trọng là: “ Thiên ngoại hữu thiên ưng diễn chiếu” ( Ngoài trời lại có trời soi
sáng) ý bài thơ là sứ thần đã sánh vua Lê Đại Hành ngang hàng với vua nhà Tống. Tuy rằng
tức cảnh sinh tình, đọc bâng quơ nhưng thâm ý thật sự của sứ thần là nước Tống là một nước
lớn mang tầm quốc tế, còn nước ta chỉ là một nước nhỏ bé, mà con ngỗng vô tri vô giác bơi
trên dòng sông xanh biếc kia còn ngưỡng mặt chầu về thiên triều, huống hồ chi nước Đại Cồ
Việt nhỏ bé kia. Tuy nhiên lão chèo thuyền cũng không thua kém gì nói “ Lông trắng phơi
dòng biếc, sóng xanh chân hồng bơi” chẳng có ý gì chầu thiên triều cả, màn đối đáp rất nhạy
bén, rất nhanh nhảu, rất hay của thiền sư. Kết hợp cả bốn câu tạo thành một bài thơ rất hay:
“ Nga nga lưỡng nga nga, ngưỡng diện hướng thiên nha, bạch mao phô lục thủy, hồng trạo
bãi thanh ba”. Thấy được tài ngoại giao tiếp đãi sư thần của các bậc tri thức là thiền sư lúc
bấy giờ. Đây là bài thơ đánh dấu móc quan trọng trong nền văn học chữ Hán nước ta khi
dành lại độc lập chủ quyền thì bài thơ Ngọc Lang Quy ( Th.s Khuông Việt) chính là bài thơ
mở đầu cho nền văn học ngoại giao, văn học chính trị rất quan trọng của nước ta. Th.s Pháp
Thuận là tu sĩ đầu tiên của nước ta giả dạng thường dân vi hành vì việc lớn, vì quốc gia dân
tộc.
- Thiền sư Pháp Thuận ( 914-990), Sư tên thật là Đỗ Pháp Thuận, Là thiền sư đời thứ 10 của
dòng thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Trụ trì chùa Cổ Sơn, làng Thừ, kinh đô Thanh Ải. Không biết
Sư quê quán ở đâu, xuất gia từ nhỏ và thờ thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ làm thầy. Sau khi
đắc pháp, Sư nói ra lời nói nào cũng phù hợp với Sấm ngữ. Đang lúc nhà Tiền Lê mới dựng
nước, Sư được mời vào trù kế hoạch định sắc lược. Đến khi thiên hạ thái bình, Sư không
nhận phong thưởng vì thế vua Lê Đại Hành càng thêm kính trọng, thường không gọi tên, chỉ
gọi Đỗ Pháp sư và đem việc soạn thảo văn thư giao phó cho Sư.
- Niên hiệu Hưng Thống thứ 2 ( năm 990), Sư không bệnh mà thị tịch, thọ 76 tuổi.
- Tác phẩm còn để lại cho đời: Bồ Tát Hiệu Sám Hối Văn, Hai câu thơ tiếp đãi sứ thần Lý Giác
và Quốc Tộ.
*Dịch nghĩa:
“Vận nước như mây dây leo quấn quýt
Ở cõi trời Nam [ mở ra] cảnh thái bình
[ Ứng dụng tư tưởng] Vô vi nơi cung điện vào việc cai trị đất nước
[ Thì] Khắp mọi nơi đều dứt hết đao binh.”
*Dịch thơ:
“Vận nước như mây quấn
Trời Nam mở thái bình
Vô vi trên điện các
Chốn chốn dứt đao binh”.
Dịch:
“ Trời trong gió đẹp gấm buồm giương
Thần tiên về đế hương
Muôn trùng non nước biển mênh mông
Trời xa bao dặm đường.
Tình quyến luyến
Chén đau lòng
Tiễn người bao vấn vương.
Nguyện cùng thâm ý giữ biên cương
Tấu trình lên Thượng hoàng.”’
3. Tựa đề:
- Vì là một khúc điệu được ca sướng, một bài từ tiêu chuẩn thì dựa trên một từ khúc đã có sẵn
nhưng không phải nhất thiết phải có đề từ.
- Khúc điệu của bài từ là niêm luật bắt buộc, theo đó tác giả tạo ra các ca từ thích hợp với bối
cảnh, thể hiện trữ tình qua cách tả tình
- Thiền uyển tập anh có hai khắc bản: Thiền uyển tập anh thời nhà Lê có tựa đề là Ngọc Lang
Quy, khắc bản thời nhà Nguyễn có tựa đề là Vương Lang Quy.
- Đại Việt sử ký toàn thư có tựa đề là Vương Lang .
- Về thể loại Tống từ, không có từ điệu nào tên là Ngọc Lang Quy hay Vương Lang Quy. Mà
từ điệu phổ biến nhất của Tống từ là Nguyễn Lang Quy.
- Thiền sư Khuông Việt là một nhà thơ lỗi lạc, nên Ngọc Lang Quy hay Vương Lang Quy đều
không phải tựa đề của Thiền sư Khuông Việt đặt. Nó là một từ khúc mà Thiền sư đã cố tình
không đặt tựa đề.
- Ngọc Lang là tình nhân, là chồng. Thiền sư viết từ khúc này để đưa tiễn sứ thần Lý Giác với
mục đích ngoại giao chứ không phải đưa tiễn người yêu của mình.
- Vương Lang: nếu Vương là họ của chàng trai thì Vương Lang nghĩa là chàng trai họ Vương,
thì cung không phù hợp với ngữ cảnh đưa tiễn Lý Giác [ Nó phải là Lý Lang].
4. ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG:
a. Ý nghĩa ngoại giao: (Bài từ khúc này là do Thiền sư Khuông Việt phụng lệnh vua Lê Đại
Hành làm để tiễn sứ thần Lý Giác làm công tác ngoại giao).
- Giá trị trọng tâm của bài từ này là ý nghĩa ngoại giao, góp phần tăng cường vào tình hữu nghị
giữa hai nước VN và TQ lúc bấy giờ.
Đoạn 1: “ Tường quang....quy lộ trường” -> miêu tả phong cảnh hữu tình với núi non trùng
điệp, biển nước mênh mông, phương trời đãng.
- Ba mỹ từ trong câu thơ đầu đã rất khéo léo: “ quang” là sáng sủa, quang đãng, trong xanh,
“hảo” là tốt lành, thuận lợi, ở đây là thuận buồm xuôi gió, “ cẩm” là gấm vóc, quý giá, sang
trọng.
Ngầm ám chỉ cho một tương lai bang giao hòa bình và tình hữu nghị tốt đẹp giữa hai
nước. Thay thế cho một bên là cố tình xâm lăng và một bên là nỗ lực vệ quốc.
- Đế hương: là đế đô, là quê hương của bậc đế vương, rất thích hợp với vị thế quốc tế thực tiễn
của nhà Tống thời ấy. Vừa thể hiện sự tôn trọng, vừa thích ứng với đất nước cường thịnh.
- Thần tiên: việc Khuông Việt đề cao Lý Giác như thần tiên, không phải là dua nịnh quá đáng
để lấy lòng khách mà trong mạch văn ngầm ám chỉ người Trung Quốc trở về sống ở Trung
Quốc đế đô của mình, thì còn gì hạnh phúc bằng, như thần tiên vậy. -> Lời khen đẹp ở đây
đóng vai trò nhắc nhở về tinh thần tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam.
- Bài từ thể hiện tinh thần nhập thế dung thông vô ngại của Thiền sư Khuông Việt qua
khuynh hướng “ tòng Nho- mộ Thích”. Nhưng chưa rõ nét như mô típ “ Thiền sư- nhà vua”, “
Thiền sư- Tăng quan”
- Hình ảnh Thiền sư Khuông Việt là nhân vật nhập thế về chính trị xã hội, có nhiều đóng góp
to lớn cho nền chính trị văn hóa Việt Nam trong giai đoạn Đại Cồ Việt.
- Hành xử của thiền sư Khuông Việt rất phương tiện và linh động. Có khi đóng vai là Thiền
sư cốt cách phi phàm, có lúc đóng vai Tăng thống hướng dẫn tâm linh trong Phật giáo toàn
quốc. Và cũng đôi khi tham gia triều chính quân sự và các việc quan trọng khác cuả quốc gia.
- Đọc Thiền sư Khuông Việt để thấy tinh thần nhập thế của PGVN thời xưa nói riêng và đặc
biệt để tiếp nối tinh thần đạo pháp dân tộc trong bối cảnh đất nước hiện nay nói chung.
Lát sau sư viên tịch thọ 95 tuổi. Vua Lý Thái Tông cùng các vua quan dân làm hỏa táng, thỉnh xá
lợi xây tháp ở chùa Tiêu Sơn, Bắc Ninh. Sau này vua Lý Nhân Tông có kệ tán thán rằng:
“Vạn Hạnh dung tam tế
Chân phù cổ sấm cơ
Hương quang danh Cổ Pháp
Trụ tích chấn vương kỳ”.
3. Tựa đề:
- Bài kệ là bài thơ Thị tịch của Thiền sư vốn không có tựa đề, tựa đề ấy do người đời sau đặt
mà thôi.
- Tựa đề bài thơ Thị tịch hay còn có tên là Thị đệ tử. Nếu là Thị đệ tử thì nghĩa là lời dạy đệ tử;
còn Thị tịch thì là lời dạy trước lúc viên tịch. Dù tựa đề Thị tịch hay Thị đệ tử đều bao hàm ý
nghĩa lời dạy bảo lời di ngôn cuối cùng của một tu sĩ, một thiền sư đối với đệ tử của mình
trước lúc viên tịch.
- Kệ Thị tịch được xem là chân lý tối hậu đúc kết từ kinh nghiệm một đời tu hành của một
thiền sư trao truyền lại cho thế hệ sau.
- Kệ Thị tịch của mỗi Thiền sư có khác nhau nói lên chỗ liễu ngộ sâu xa nhất của mỗi người và
cũng là điều cốt tủy nhất mà người thầy muốn nhắc nhở lưu tâm học trò.
a. Câu thơ đầu: “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô”
( Thân như bóng chớp có rồi không)
Chữ điện ảnh nghĩa là tia chớp, bóng chớp là hiện tượng vật lý, khi có điện âm, điện
dương được tích tụ ở các dạng đám mây gặp nhau tạo ra hiện tượng lửa xẹt sáng lên và tắt. Sự
chớp nháy đó rất nhanh.
Chữ thân trong bài thơ này, kaya có nhiều nghĩa: thân tâm sở, thân sắc, danh thân...Tuy
nhiên chúng ta hiểu theo nghĩa đơn giản là cái thân tập hợp theo đất, nước, gió, lửa, cái thân mặc
áo ăn cơm, thân Phật dạy có 32 thể trược, là kiếp người, đời người, kiếp nhân sinh.
+ Thân là nơi tập hợp của bốn đại, thân ấy trải qua vòng tuần hoàn sanh, lão, bệnh tử trong
vòng mấy chục năm, 100 năm mà thôi.
- Vậy chẳng phải thân như điện ảnh là gì?
+ Sâu thêm chút nữa, ngữ nghĩa trầm tích của thân. Thân là sắc thân theo sự phân chia ngũ
uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) hay sự phân chia theo danh và sắc
- Tuổi thọ của sắc pháp hữu vi thời gian tồn tại trong vòng 7 sát na. Sanh khởi kéo dài 1 sát
na, an trụ, lụi tàn kéo dài 15 sát na; hủy hoại kéo dài 1 sát na. Một nháy mắt = 90 sn; 1s = 75
sn, 1sn=0,01333s
+ Sự sanh diệt sắc pháp như vậy là đã khủng khiếp nhưng vẫn chưa nhanh khủng khiếp
bằng loại sắc pháp tượng hình đầu tiên khi thức tái sinh tìm gặp tinh cha huyết mẹ tính = tiểu
sn. 1 sn=3 tiểu sn. Tiểu sn đầu tiên do nghiệp sinh, tiểu sn thứ 2 do thời tiết sinh (sự nóng
lạnh trong bụng mẹ)
+ Sự sanh diệt tương tục của sắc tạo nên dòng sông sự sống. Sự vận động ấy là nội tại do
điện âm, điện dương chứ không do một tác nhân nào khác bên ngoài [ đến đây thượng đế, trời
Phạm thiên đã chết]
+ Bằng tuệ quán thâm sâu Phật dạy sự vận động nên tại ấy là không tính, là duyên khởi
nên không. Vì không tính nên vạn vật vận động, vận hành. Có rồi không, không rồi có tương
tục, miên viễn, nhưng ở sát na này không giống ở sát na kia. Tự thân biến đổi nhanh vô cùng,
nhanh đến độ sợ hãi kinh hoàng.
- Chữ hữu hoàn vô:
+ nghĩa là có rồi không, nói trở lại không cũng có thể hiểu là trước cái có ấy (hữu) là cái
không (vô). Sự vận động của Sắc là từ không tính sanh ra có, rồi có trở về không.
+ Chúng ta có thể diễn tả bằng sơ đồ vận động của sắc:
........không-> có -> không
[ Chúng ta có thể diễn dịch bằng lời là từ cái không (của không tính), khi nhân duyên hội tụ
đầy đủ sẽ xuất hiện (biểu hiện) sinh ra cái thân này cái có. Rồi lần lần đi đến già bệnh, và đi
đến cái chết (không) trở về với cái không].
b. Câu thứ hai: “ Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô (Cây cỏ xuân tươi thu héo vàng).
- Sau khi hiện quán thấy được sắc thân này sanh diệt điện ảnh chớp nháy, rồi tác giả muốn bổ
túc thêm, muốn nói rộng ra cho mọi người hiểu.
- Không phải chỉ nơi xác thân sanh diệt mà thiên nhiên mọi vật cũng vậy. Bản chất cảu pháp
vận hành theo quy luật tự nhiên, thiên nhiên của pháp, mùa xuân thì cây cối sinh trưởng, tươi
tốt nhưng đến mùa thu thì khô héo úa tàn. Xuân vinh thu hựu khô là quy luật của đất trời.
- Nếu hiện quán sắc thân thấy được sự vận hành của nó theo qquy luật sanh lão bệnh tử thì hiện
quán về vạn vật đất trời theo quy luật sanh, trụ hoại không. Đây là quy luật vận hành của nội
sắc và ngoại sắc. Thấy đúng như vậy không giữ cũng không xả.
- Hãy để pháp vận hành tự nhiên khách quan theo quy luật của chúng. Quy luật khách quan ấy
không tuân thủ theo ý chí chủ quan ấy đến mức lạnh lùng, rợn người “ Thiên địa bất nhân
như xô cẩu ( chó rơm)
- Tóm lại hai câu thơ đầu tác giả hiện quán về thân và vạn vật như nó đương là sự hình thành
và đổi thay theo quy luật tự nhiên của nó.
c. Câu thứ 3: “ Nhậm vận thịnh suy vô bố úy” (Theo vận thịnh suy không sợ hãi).
- Chữ “nhậm” và chữ “ vận”
+ Chữ nhậm. Nhiệm đều giống nhau về ngữ nghĩa; nghĩa là gánh vác, chịu đựng, đảm đương,
mặc kệ.
+ Chữ vận là chuyên chở, dời đi, xoay vần.
- Khi đã hiện quán các pháp vận hành như vậy rồi. Sự vô thường sanh diệt là một thực tại, thì
cuộc thịnh suy trên cuộc đời này cũng là một thực tại. Chúng ta cũng ngắm nhìn hiện quán nó
mà thôi, đừng sợ hãi.
- Đừng vì thịnh suy mà vui mừng hay buồn phiền sợ hãi. Bởi sự thịnh suy của cuộc đời nó vận
hành theo duyên nghiệp, cộng nghiệp của từng cá nhân của từng tập thể quyết định.
- Hiểu được quy luật phải chủ động có trách nhiệm gánh vác lấy trong tay mình mà hoạt dụng,
mà quyền biến, làm việc tùy theo thời tùy theo duyên.
- Đây là triết lý hành động tinh thần nhập thế tích cực của Th.s Vạn Hạnh, cốt lõi của tư tưởng
hòa quang đồng Trần tích cực của Thiền tông Lý-Trần.
- Mặc dầu thân vô thường sanh diệt, cảnh vô thường sanh diệt và thế cuộc thịnh suy biến đổi
nhưng Vạn Hạnh vẫn phò vua giúp nước, vẫn dạy dỗ đồ chúng mà không dính mắc sợ
hãi.Tâm của Thiền gia vô bố úy trạm nhiên bất động, một trạng thái quân bình tuyệt hảo.
d. Câu thứ 4: “ Thịnh suy như lộ thảo đầu phô” ( Thịnh suy ngọn cỏ hạt sương phơi).
- Chữ lộ là hạt móc, nhưng hạt hơi nước rơi xuống lúc ban là đêm trời mát, hơi nước gần mặt
đất đem bám vào cây cỏ, gặp khí lành tụ lại từng giọt là mốc. Như vậy móc khác với sương,
móc thì tụ lại còn sương thì bay đi.
- Nói thịnh suy giống như hạt mốc phô trên đầu ngọn cỏ là cái nhìn trạm nhiên thanh tịnh như
hiện thực đương là. Chúng sao nói vậy [chứ không đẹp ( sương hồng)cũng chưa có ý định nói
nó rơi (sương rơi đầu cành)].
- Nhìn hạt móc trên đầu ngọn cỏ, chúng có đấy nhưng mỏng manh làm sao. Nó có đấy nhưng
không biết rơi rụng lúc nào. Thịnh có đó, suy có đó nhưng cũng thoáng chốc, cũng mong
manh vô thường như hạt móc kia.
- Tóm lại hai câu thơ cuối với tâm trạm nhiên bất động không sợ hãi là hành động nhập thế phò
vua giúp đời của Ths. Vạn Hạnh.
Kết lại: Ôi tầng ngữ nghĩa ẩn giấu trong 4 câu thơ gồm 28 con chữ mà dạy cho hậu thế
nhiều điều đến thế. Chỉ với cái thân chớp nhoáng mà thiền sư nói được toàn bộ pháp bảo,
đồng thời đưa ra một triết lý hành động nhập thế tích cực của mình.
Tri và hành, ngôn giáo và thân hành suốt đời của Ths. Vạn Hạnh, từ chỗ thấy thân chớp
nháy theo quy luật vận hành của vạn pháp để thoát khỏi khổ đau rồi tùy thời tùy duyên
giáo hóa chúng sanh, làm kiến trúc sư vĩ đại xây dựng triều Lý, phụng sự ba đời vua, đưa
xã hội thành một xã hội thuần từ, hiền thiện nhất giai đoạn phát triển Việt Nam chúng ta .
Bốn câu kệ của Ths Vạn Hạnh không những có giá trị văn học, thiền học, mỹ học mà còn
hơn thế nữa, là cả một nền tảng tâm linh cho người học Phật và thế gian nương nhờ.
Tóm lại:
Bài kệ Cư Trần Lạc Đạo của Giác Hoàng Trần Nhân Tông, là tiến trình nhập thế tích cực nhẹ
nhàng và hiệu quả cao. Sự thực tập đó là tư tưởng cốt lõi của sự thực tập dòng Thiền Trúc
Lâm Yên Tử:
1/Hãy sống hòa mình với đời, không câu chấp;
2/ Hành động tùy duyên, tức làm việc cần làm;
3/ Tự tin vào chính mình, trở về khởi động tiềm lực của chính mình, không tìm cầu tha lực;
4/ Không nô lệ vào bất cứ cái gì, dầu đó là thiền hay Phật.