Professional Documents
Culture Documents
- Chiến thắng của Ngô Quyền đã đưa đất nước ta vào kỷ nguyên độc lập tự chủ, phục
hưng văn hóa, dân tộc được tự do, cắm cái mốc cho văn học phát triển.
- Các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Hậu Trần nối tiếp xây dựng đất nước, bảo
tồn và phát triển văn hóa dân tộc.
- Giặc Minh xâm lược vào đầu thế kỷ thứ 15, với chính sách hủy diệt văn hóa nên các tư
liệu văn học thời Lý Trần bị chúng hủy hoại gần hết, chỉ còn lại vài phần trong trăm
ngàn phần mà thôi.
I. TÁC GIẢ:
- Thiền sư Pháp Thuận ( 914-990), Sư tên thật là Đỗ Pháp Thuận, Là thiền sư đời thứ 10
của dòng thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Trụ trì chùa Cổ Sơn, làng Thừ, kinh đô Thanh Ải.
Không biết Sư quê quán ở đâu, xuất gia từ nhỏ và thờ thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ
làm thầy. Sau khi đắc pháp, Sư nói ra lời nói nào cũng phù hợp với Sấm ngữ. Đang lúc
nhà Tiền Lê mới dựng nước, Sư được mời vào trù kế hoạch định sắc lược. Đến khi
thiên hạ thái bình, Sư không nhận phong thưởng vì thế vua Lê Đại Hành càng thêm
kính trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi Đỗ Pháp sư và đem việc soạn thảo văn thư
giao phó cho Sư.
- Niên hiệu Hưng Thống thứ 2 ( năm 990), Sư không bệnh mà thị tịch, thọ 76 tuổi.
- Tác phẩm còn để lại cho đời: Bồ Tát Hiệu Sám Hối Văn, Hai câu thơ tiếp đãi sứ thần
Lý Giác và Quốc Tộ.
- Đằng lạc: dây mây quấn, nó không phải là dạng cây thân gỗ mà là dây leo, và khi ra
nhánh thì nương gá, bện chặt, chằng chéo vào nhau, đan xen với nhau để không bị gãy,
bền vững lâu dài, để phát triển. Đây là đặc tính quan trọng của nó. Một dây thì dễ gãy
dễ đứt, không sống được, không phát triển được, mà nhiều dây đan xen, nương tựa lẫn
nhau ,chắc chắc, bền vững, lâu dài và phát triển.
- Nam thiên: nước Nam, trời Nam, là nước Đại Cồ Việt .Vì Nam thiên (Đại Cồ Việt)
khác với Bắc thiên (nhà Tống) là nơi nước Đại Cồ Việt, dân tộc Việt ở chứ không phải
dân tộc nước Tống ở => liên quan đến vấn đề khẳng định chủ quyền quốc gia dân tộc.
- Lý: bên trong, chỗ, nơi.
- Vô vi: không làm.( Chữ này xuất hiện trong hệ thống tư tưởng của Lão giáo, có câu là:
“ Vô vi nhi vô bất vi”
-> không là mà không việc gì mà không là, nghĩa là việc gì cũng làm nhưng không bị
dính mắc, dính kẹt vào trong đó
-> đây là nội hàm vô vi theo học thuyết Lão Tử). Trong tác phẩm này vô vi được
hiểu theo nhà Phật vì Ngài Pháp Thuận là một tu sĩ Phật giáo, là bậc đại thiện tri thức
lớn, là một vị thiền sư đắc đạo, chứ không phải là một nhà Nho, bài thơ này là tác phẩm
mở đầu cho nền văn học viết của văn học Việt Nam từ lúc dành lại được nền độc lập
dân tộc nên có tầm quan trọng rất lớn trong lịch sử văn học. Nội hàm Vô vi ở đây chính
là những giá trị đạo đức Phật là tư tưởng từ bi, tri tuệ vô ngã vị tha trong nhà Phật chứ
không phải là tư tưởng Lão học.
- Điện các: là cung điện, nơi vua ngự, nơi các quan quan trọng của triều đình cùng vua
hoạch định sách lược, chính sách cai trị dân tộc phát triển đất nước.
*Dịch nghĩa:
“Vận nước như mây dây leo quấn quýt
Ở cõi trời Nam [ mở ra] cảnh thái bình
[ Ứng dụng tư tưởng] Vô vi nơi cung điện vào việc cai trị đất nước
[ Thì] Khắp mọi nơi đều dứt hết đao binh.”
*Dịch thơ:
“Vận nước như mây quấn
Trời Nam mở thái bình
Vô vi trên điện các
Chốn chốn dứt đao binh”.
Tóm lại:
- Lời khuyên , lời tư vấn của thiền sư Pháp Thuận khi vua Lê Đại Hành hỏi về vận
nước dài ngắn như thế nào.Vua phải làm được hai điều:
+ Một là đoàn kết toàn dân.
+ Hai là ứng dụng những giá trị đạo đức tư tưởng Phật giáo vào trong việc cai trị quốc
gia dân tộc.
- Được như vậy đất nước sẽ thái bình lâu dài phát triển vững bền; khắp nơi nơi dứt
trừ đao binh khói lửa chiến tranh.
CÁO TẬT THỊ CHÚNG
(Ts. Mãn Giác)
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
I.TÁC GIẢ:
Thiền sư Mãn Giác, tên tục là Nguyễn Tường, đời thứ 8 dòng thiền Vô Ngôn Thông.
Thân phụ là Hoài Tổ làm đến chức Trung Thơ Viên Ngoại Lang.
Thiếu thời, vua Lý Nhân Tông thường mời con em các danh gia vào hầu hai bên, Nguyễn
Tường nhờ nghe nhiều nhớ kỹ nên thông cả Nho Thích.
Sau những lúc làm việc quan, Nguyễn Tường thường chú tâm vào thiền học. Sau đó ông
dâng biểu xin xuất gia học với Thiền sư Quảng Tín. Khi được ấn chứng, sư vân du khắp
nơi, học chúng theo học rất đông. Sau xem Đại tạng kinh, được Vô sư trí, là bậc lãnh hội
được pháp môn. Vua Lý Nhân Tông và hoàng hậu hết sức kính nể, cho dựng chùa Giáo
Nguyên thỉnh sư về trụ trì.
Cuối tháng 11/1096, sư cáo bệnh dạy chúng:
Xuân khứ bách hoa lạc,
...
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Nói kệ xong, sư ngồi kiết già thị tịch, thọ 45 tuổi, được 19 tuổi hạ.