Professional Documents
Culture Documents
CHƯƠNG 1
VĂN HỌC LÝ, TRẦN
(THẾ KỶ 10 – THẾ KỶ 14)
CHƯƠNG 1
VĂN HỌC LÝ, TRẦN
(THẾ KỶ 10 – THẾ KỶ 14)
截然分定在天書。
如何逆虜來侵犯,
汝等行看取敗虚。
Phiên âm Hán-Việt:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Bài thơ này xuất hiện từ thế kỷ 10, vào thời Tiền Lê, khi quân Tống xâm lược
lần thứ nhất, nhưng văn bản có khác một số chữ. Do không biết tác giả nên người ta
thường gọi là bài thơ Thần.
Năm 1076 quân Tống xâm lược lần thứ hai. Ban đêm tướng quân Lý Thường
Kiệt cho người vào đền thờ Trương Hống, Trương Hát ở bên sông Như Nguyệt (sông
Cầu hiện nay, thuộc tỉnh Bắc Ninh), giả làm thần nhân đọc bài thơ Thần (còn gọi là
bài Nam quốc sơn hà, có sửa đổi một chút) để khuyến khích tinh thần quân dân Đại
Việt, áp đảo tinh thần quân giặc Tống. Quân Tống thất bại phải rút quân về.
Bài thơ là lời khẳng định mạnh mẽ về chủ quyền, về ý chí, sức mạnh và quyết
bảo vệ độc lập của dân tộc Việt Nam. Bài thơ được coi là tuyên ngôn độc lập lần
thứ nhất của người Việt Nam.
Một trong những bài thơ vào loại sớm nhất còn giữ lại được nói về tinh thần yêu
nước là bài Quốc tộ của Đỗ Pháp Thuận(1):
Vận nước như mây quấn,
Trời nam mở thái bình.
Vô vi trên điện gác,
Chốn chốn tắt đao binh.
Nguyên văn chữ Hán:
國祚
國祚如藤絡,
南天裏太平。
無為居殿閣,
1 Đỗ Pháp Thuận (915 – 990) là người có công khuông phò nhà tiền Lê, được Lê Đại Hành kính
trọng, phong chức pháp sư, cùng Khuông Việt (Ngô Chân Lưu) làm cố vấn cho triều đình. Có lần
ông được cử đi đón sứ Tống là Lý Giác, khiến Lý Giác phải nể phục. Bài thơ này không có tên, có
người đặt là “Đáp quốc vương quốc tộ chi vấn”
處處息刀兵。
Phiên âm Hán-Việt:
Quốc tộ như đằng lạc,
Nam thiên lý thái bình.
Vô vi cư điện các,
Xứ xứ tức đao binh.
Bài thơ là sự khẳng định nền độc lập của nước Đại Cồ Việt, thể hiện tinh thần
yêu hòa bình và ước mơ về một đất nước thanh bình, hạnh phúc.
Văn học yêu nước đời Trần, tiêu biểu nhất là bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc
Tuấn (Trần Hưng Đạo)2.
Năm 1285 Quân Nguyên xâm lược Đại Việt. Đại Việt đã sống trong hoà bình
được 28 năm. Trần Quốc Tuấn được phong làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân
đội cả nước. Ông viết bài Hịch tướng sĩ (tên gọi đầy đủ là Dụ chư tì tướng hịch văn
諭諸裨將檄文, bằng chữ Hán) với mục đích: đả phá tư tưởng thờ ơ, cầu an, hưởng
lạc; kích thích tinh thần thượng võ, trọng danh dự của quân nhân; xây dựng tinh
thần quyết chiến quyết thắng. Bài hịch thể hiện rất rõ hình ảnh con người trung
nghĩa, có tinh thần yêu nước, hết lòng lo lắng vận mệnh quốc gia, dám hy sinh thân
mình để bảo vệ đất nước khi đất nước lâm nguy.
Hịch tướng sĩ
(trích)
(...) Huống chi ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi
gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường. Uốn lưỡi cú diều
mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất
Liệt(3) mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng; giả hiệu Vân Nam
2 Trần Quốc Tuấn (1226-1300) là nhà chính trị, nhà quân sự tài ba nhất của nhà Trần. Ông được
phong làm Quốc công tiết chế, thống lĩnh quân đội cả nước. Có công lãnh đạo quân đội đánh
thắng quân Nguyên lần thứ hai (1285) và thứ ba (1288). Ông được phong làm Hưng Đạo Đại
Vương, nên người Việt Nam thường gọi là Trần Hưng Đạo.
3
Hốt Tất Liệt: tên vua Thế Tổ nhà Nguyên.
Vương(4) mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt
mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi tai vạ về sau?
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm
đìa, chỉ căm tức rằng chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho
trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa( 5) ta cũng
vui lòng. Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, không có mặc
thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít
thì ta cấp bổng, đi thuỷ thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa; lúc trận mạc
xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cuời.
Cách đối đãi so với Vương Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang ngày trước cũng
chẳng kém gì!
Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không
biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức; nghe
nhạc Thái thường để đãi yến(6) nguỵ sứ mà không biết căm. Hoặc lấy việc chọi
gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển; hoặc vui thú ruộng
vườn, hoặc quyến luyến vợ con; hoặc lo làm giàu mà quên việc nước; hoặc
ham săn bắn mà quên việc binh; hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu
có giặc Mông Thát tràn sang, thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp
của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; dẫu rằng ruộng
lắm, vườn nhiều, tấm thân quý nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu,
việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều khôn mua được đầu giặc, chó
săn tuy khoẻ khôn đuổi được quân thù; chén rượu ngon không thể làm cho giặc
say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ, ta cùng
các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào! (…)
(Theo Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (tập II): thế kỷ X-thế kỷ XVII, NXB.Văn
học, 1976, tr.131-135)
4
Vân Nam Vương: tức là Thoát Hoan, con thứ chín của Hốt Tất Liệt, được phong ở đất Vân
Nam.
5
Gói trong da ngựa: Lấy ý câu nói của Mã Viện đời Hán: Làm trai phải đánh đông dẹp bắc, dầu
chết ở chiến trường lấy da ngựa bọc thây cũng đành lòng.
6
Yến: Đặt yến tiệc thết giặc. Nhạc Thái thường đời Trần chỉ dùng trong những dịp lễ tiết lớn của
quốc gia, lúc ấy phải dùng để tiếp sứ thần của giặc. Hưng Đạo Vương lấy điều ấy làm điều nhục
lớn.
PHẦN 1
VĂN HỌC CỔ ĐIỂN
CHƯƠNG 1
VĂN HỌC LÝ, TRẦN
(THẾ KỶ 10 – THẾ KỶ 14)
1 Sư Vạn Hạnh: họ Nguyễn (? – 1018) người Cổ Pháp (huyện Từ Sơn, Bắc Ninh), tinh thông tam
giáo. Ông giúp vua Lê Đại Hành chống giặc giữ nước, giúp Lý Công Uẩn lên ngôi. Ông được nhà
Tiền Lê và nhà Lý kính trọng, hậu đãi. Lý Thái Tổ tôn ông làm Quốc sư.
Thân như ánh chớp có rồi không,
Cây cối xuân tươi thu não nùng.
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.
(Ngô Tất Tố dịch)
Nguyên văn chữ Hán:
身如電影有還無,
萬木春榮秋又枯。
任運盛衰無怖畏,
盛衰如露草頭鋪。
Phiên âm Hán-Việt:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Bài thơ thể hiện suy nghĩ của vị Thiền sư về cái Vô thường, vạn vật đều tồn tại
ngắn ngủi, hết có lại không, như một ánh chớp lóe lên rồi tắt trong thời gian vô cùng.
Đời người ta sống chết giống như cây cối: mùa xuân thì tươi tốt, mùa đông thì tàn
héo, cứ như vậy mà trôi chảy không ngừng, bất tận. Đối với người hiểu biết được
quy luật vận động ấy (nhậm vận) thì không có gì phải buồn hay lo sợ, vì thịnh hay
suy, sống hay chết ngắn ngủi, vô thường như giọt sương trên đầu ngọn cỏ. Giọt
sương li ti lúc sớm mai, đến khi mặt trời lên thì tan biến hết cả.
Bài thơ đẹp, bình tĩnh nhưng vẫn thoảng một chút buồn.
Mãn Giác thiền sư(2) lâm bệnh nặng nói lại với mọi người bằng bài Cáo tật thị
chúng (Có bệnh bảo mọi người):
Xuân qua trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa tươi.
2 Mãn Giác tên thật Lý Trường (1052 – 1096) con Trung thư ngoại lang Lý Hoài Tố, ông được Lý
Nhân Tông và hoàng hậu trọng đãi, tin cậy, thường cùng bàn bạc việc nước. Được vua phong là
Nhập nội đạo tràng, khi mất vua đặt hiệu cho là Mãn Giác.
Trước mắt việc đi mãi,
Trên đầu già đến rồi,
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước nở cành mai.
(Bùi Văn Nguyên dịch)
Nguyên văn chữ Hán:
告疾示眾
春去百花落,
春到百花開。
事逐眼前過,
老從頭上來。
莫謂春殘花落盡,
庭前昨夜一枝梅。
Phiên âm:
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai,
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Hai câu thơ đầu của bài thơ nói lên sự vận đông, trôi chảy không ngừng của thế
giới hữu hình trong thời gian vô tận. Đối với con người, thời gian thấm thoát qua
mau, việc đời cứ trôi đi vùn vụt tuổi già đến lúc nào không hay. Nhưng đối với bậc
tu hành giác ngộ thì có thể vượt qua vòng luân hồi của thế giới hữu hình, giống như
nhành mai kia vẫn cứ nở khi muôn hoa rụng hết. Cành mai chính là biểu tượng cho
sự giác ngộ, cho sức sống vượt ra khỏi luân hồi, sinh tử.
Bài thơ thể hiện quan niệm lạc quan về cuộc sống. Cuộc sống không tàn lụi,
không mất đi. cuộc sống vẫn sinh sôi, nảy nở, đẹp đẽ, như bông hoa mai nở muộn
trong đêm cuối xuân kia.
(2) Thơ Thiền đời Trần thể hiện quan niệm sống vui với đạo ở trong cõi đời
này
Niềm vui đời sống với đạo trong thơ Thiền đời Trần: Cư trần lạc đạo (Ở cõi trần
mà vui với đạo) của Trần Nhân Tông:
Ở đời vui đạo cứ tùy duyên,
Đói hãy ăn, buồn ngủ ngủ liền.
Trong mình có của tìm đâu nữa,
Trước cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền.
(Đoàn Lê Giang dịch)
居塵樂道且隨緣,
饑則飧兮困則眠。
家中有宝休尋覓,
對境無心莫問禪。
Cư trần lạc đạo thả tùy duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.
Chủ trương của phái Trúc lâm là người Phật tử “Hộ pháp, hộ quốc, hộ vương”
(Giúp Phật pháp, giúp nước, giúp vua thống nhất với nhau) và “Cư trần lạc đạo” (ở
cõi trần mà vui với đạo).
Thơ Thiền có 3 loại:
- Thơ Thiền lý: Thơ nói nhiều về lý luận Thiền học như sắc không, vô thường,
giác ngộ, sinh lạo bệnh tử…
- Thơ Thiền ý : Thơ có ý Thiền, không bàn trực tiếp vào Thiền lý.
- Thơ Thiền vị: Thơ có ý vị Thiền, mà lý luận Thiền, ý tưởng Thiền không rõ.
Bài có chất thơ đậm đà, thuộc loại thơ Thiền vị tiêu biểu là bài: Thiên Trường
vãn vọng (Ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường) của ông vua thi sĩ Trần Nhân Tông là
ví dụ tiêu biểu:
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều dường có, lại dường không.
Mục đồng sáo vẳng, trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Ngô Tất Tố dịch)
天長晚望
村後村前淡似煙,
半無半有夕陽邊。
牧童笛裡歸牛盡,
白鷺雙雙飛下田。
Thiên Trường vãn vọng
Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lý quy ngưu tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.
Phong cảnh thật thanh bình, đẹp đẽ trong cách nhìn của một nhà sư về cái hư ảo
của thế giới, của cái đẹp. Đây là bài thơ đầu tiên miêu tả phong cảnh làng quê Việt
Nam.
Thơ Thiền Lý Trần là bộ phận đặc biệt của văn học dân tộc, có giá trị lâu dài, bất
hủ. Thơ Thiền thời Lý Trần gắn với thời kỳ Phục hưng dân tộc, thể hiện niềm lạc
quan, sức mạnh của con người thời thịnh trị. Thơ Thiền phát triển từ Lý sang Trần
theo hướng từ thơ Thiền lý sang Thiền ý và Thiền vị: đẹp hơn, nhẹ nhàng hơn, trữ
tình hơn.
PHẦN 1
VĂN HỌC CỔ ĐIỂN
CHƯƠNG 1
VĂN HỌC LÝ, TRẦN
(THẾ KỶ 10 – THẾ KỶ 14)
CHƯƠNG 2
VĂN HỌC THỜI LÊ SƠ, NAM BẮC PHÂN TRANH
(THẾ KỶ 15 – THẾ KỶ 17)
(*)
Thị Anh (mẹ Bang Cơ), Ngọc Dao (mẹ Tư Thành). Lúc ấy Huệ Phi (con Lê Ngân) cúng
cầu được vua yêu dấu. Thị Anh vu Ngọc Dao dính đến Huệ Phi, xúi vua xử tội voi dày.
Nguyễn Trãi nói với Thị Lộ khuyên vua tha cho. Ông đem bà Ngọc Dao đi trốn tại một ngôi
chùa ở quảng ninh. Thị Anh trả thù.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “(Nguyễn Trãi), một con người vĩ đại về nhiều
mặt trong lịch sử nước ta. (...) Nguyễn Trãi là khí phách, là tinh hoa của dân tộc,
sự nghiệp và tác phẩm của Nguyễn Trãi là một bài ca yêu nước và tự hào dân tộc.
Năm 1980, UNESCO quyết định kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi.
Tác phẩm :
- Văn chính luận: Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, một số tấu
biểu
- Lịch sử: Lam Sơn thực lục, Lam Sơn Vĩnh Lăng bi
- Địa lý: Dư địa chí
- Thơ văn: Ưc Trai thi tập (105 bài), Quốc âm thi tập (254 bài), Chí Linh
sơn phú, Băng Hồ di sự lục.
1.1. Nguyễn Trãi, nhà tư tưởng lớn
Nói Nguyễn Trãi là nhà tư tưởng lớn trước hết là do ông đã phát triển tư
tưởng yêu nước Việt Nam lên một tầm cao mới. Trước Nguyễn Trãi, Lý Thái Tổ
trong Chiếu dời đô, Lý Thường Kiệt trong bài Nam quốc sơn hà, Đỗ Pháp Thuận
trong bài Quốc tộ, Trần Quốc Tuấn trong bài Hịch tướng sĩ đã trình bày nhiều nội
dung quan trọng trong tư tưởng yêu nước Việt Nam như: khẳng định chủ quyền
lãnh thổ, nền độc lập dân tộc, tinh thần yêu nước gắn liền với yêu hòa bình, yêu
nước gắn liền với lòng trung quân, lòng trung thành với chủ tướng, trọng danh
dự, quyết tâm bảo vệ đất nước, bảo vệ đất nước là bảo vệ quyền sống, quyền hạnh
phúc của mọi người dân. Đến Nguyễn Trãi, kế thừa sự phát triển của tư tưởng
yêu nước thời Lý Trần trước đó, Nguyễn Trãi đã đưa tư tưởng yêu nước Việt Nam
lên tầm cao mới. Đó là một ý thức sâu sắc về nền độc lập dân tộc. Một dân tộc
độc lập là được hình thành 5 yếu tố sau đây:
- Có nền văn hóa riêng biệt. Coi văn hóa, phong tục là nền tảng của một
quốc gia, một dân tộc là một tư tưởng sâu sắc của Nguyễn Trãi. Bình Ngô đại cáo,
Nguyễn Trãi viết: “Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng văn hiến đã lâu”;
“phong tục bắc nam cũng khác”.
- Có lãnh thổ riêng: “Núi sông bờ cõi đã chia”
- Có lịch sử riêng: “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập.”. Đó
là lịch sử oai hùng xây dựng đất nước và bảo vệ độc lập dân tộc.
- Có chủ quyền riêng: “mỗi bên làm đế một phương” (các đế nhất phương).
- Một quốc gia độc lập là quốc gia phải có nhân tài, hào kiệt: “Tuy mạnh
yếu nhiều lúc khác nhau, Song hào kiệt đời nào cũng có”. Nhấn mạnh vào yếu tố
con người - con người là chủ thể của quốc gia độc lập, cũng là một tư tưởng quan
trọng của Nguyễn Trãi.
Tất cả các ý tưởng đó Nguyễn Trãi trình bày một cách trang trọng trong
đoạn mở đâu Bình Ngô đại cáo:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã riêng, phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên làm đế một phương
Tuy mạnh yếu nhiều lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Bài cáo cũng thể hiện niềm tin, niềm tự hào về sức mạnh của dân tộc: lịch
sử Việt Nam đã chứng minh rằng bất cứ kẻ thù nào xâm phạm chủ quyền nước ta
nhất định sẽ bị thất bại:
Vậy nên,
Lưu Cung tham công nên thất bại;
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô;
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Tự hào về sức mạnh dân tộc, từ thế thắng, thế chính nghĩa, Nguyễn Trãi đã
gọi hoàng đế nhà Minh đương tại vị: Minh Tuyên Tông là: “Thằng nhãi con
Tuyên Đức động binh không ngừng” (Tuyên Đức chi giảo đồng).
Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Trãi gắn liền với tư tưởng nhân đạo, yêu
hòa bình, coi trọng tình hữu nghị giữa các dân tộc. Cuộc kháng chiến chống quân
Minh kết thúc thắng lợi, nghĩa quân Lam Sơn không giết hại hàng binh, mà còn
cấp ngựa xe tàu bè cho tù binh về nước:
Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.
Mã Kỳ, Phương Chính cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà
vẫn hồn xiêu phách lạc ;
Vương Thông, Mã Anh phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà
vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng;
Ta lấy toàn quân là hơn để nhân dân nghỉ sức.
Bình Ngô đại cáo
Trong bài Chí Linh sơn phú, Nguyễn Trãi cũng nhắc lại tư tưởng ấy:
Đến như thần vũ không giết;
Đức lớn hiếu sinh.
Nghĩ vì kế lâu dài của nhà nước;
Tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh.
Sửa hòa hiếu cho hai nứơc;
Tắt muôn đời chiến tranh.
Chỉ cần vẹn đất, cốt sao an ninh;
Như thế thịnh đức của vua ta Hán Cao Tổ có thể nào sánh được.
Nội dung mới mẻ và quan trọng nữa của Nguyễn Trãi đó là yêu nước
gắn liền với tư tưởng thân dân. Hay nói ngược lại: tư tưởng thân dân là nội dung
đích thực của tư tưởng yêu nước của Nguyễn Trãi.
Yêu nước gắn liền với tư tưởng thân dân :
Nguyễn Trãi kế thừa những mặt tích cực nhất trong tư tưởng thân dân của
những nhà tư tưởng lớn của Nho giáo, trước hết là Mạnh Tử. Ông rút tỉa từ đó
những tư tưởng tích cực, tiến bộ nhất, đồng thời phát triển thêm, làm mới nó, phù
hợp với thực tiễn của dân tộc và thời đại.
Nguyễn Trãi khẳng định Dân là gốc của nước :
Cứu nước là để cứu dân :
Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân
Điếu phạt chi sư mạc tiên khử bạo
(Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo)
Bình Ngô đại cáo
Quân Minh xâm lược nước ta giương lá cờ “Phù Trần diệt Hồ”, trong quan
niệm Nho giáo, thế cũng là một việc làm nhân nghĩa. Nhưng nhân nghĩa ấy chú
trọng vào việc tôn phù chính thống mà kinh điển Nho gia gọi là “Hưng diệt kế
tuyệt” (Làm hưng thịnh một nước đã mất, nối lại dòng họ đã đứt). Trong khi đó,
với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa quan trọng nhất là phải yên dân.
Tố cáo tội ác của quân Minh là tội ác với nhân dân, không phải tội ác với
triều đình hay vương tôn quý tộc. Nước mất, nhân dân lầm than, nhân dân bị giết
không thương tiếc dưới lưỡi gươm, mồi lửa của quân thù. Nhân dân bị bóc lột
đến xương tủy, bị bắt đi làm sưu dịch, bị đẩy lên rừng xuống bể, bất chấp hiểm
nguy, để tìm vàng ngọc cho quân xâm lược. Bình Ngô đại cáo là bản cáo trạng
đanh thép, muôn đời bất hủ về tội ác của quân xâm lược:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn;
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế;
Gây binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời;
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống bể dòng lưng mò ngọc ngán thay cá mập thuồng
luồng;
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng ngán nỗi rừng sâu nước độc .
Vét sản vật bắt dò chim trả chốn chốn lưới chăng ;
Nhiễu nhân dân bắt bẫy hươu đen nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ;
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khôn cùng.
Thằng há miệng đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;
Nay xây nhà mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nỗi phu phen;
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội;
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi !
Lẽ nào trời đất dung tha;
Ai bảo thần dân ai chịu được?
Nhân dân khốn cùng, nhân dân đau khổ, nhưng khối nhân dân tưởng như
im lặng kia cũng chính là sức mạnh. Dân là sức mạnh của nước, Nguyễn Trãi
quan niệm như thế. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn lấy động lực là cứu dân, lấy sức
mạnh từ nhân dân: “Nhân dân bốn cõi một nhà dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới”.
Nguyên bản Hán văn viết là “Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập”, nghĩa là:
Giương sào lên làm cờ, những kẻ mất ruộng đất (manh), những người đi ở (lệ)
bốn phương tập hợp lại. Như vậy không chỉ là nhân dân chung chung mà là nhân
dân khốn cùng, nhân dân dưới đáy, họ đã tập hợp lại, chiến đấu dưới lá cờ của
mình, vì quyền lợi của mình, chính họ, chứ không phải ai khác, làm nên sức mạnh
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Sức mạnh của dân cũng được Nguyễn Trãi chiêm nghiệm trong bài Quan
hải: Phúc chu thủy tín dân do thủy”, nghĩa là lật thuyền rồi mới biết dân như
nước. Bình thường người cầm quyền không để ý đến dân, thậm chí coi thường
họ, vì chỉ thấy họ là đám đông nghèo khổ, hèn yếu, tham sống sợ chết. Nhưng
người cầm quyền bạo ngược đến khi bị dân lật đổ rồi mới biết dân như nước.
Ý tưởng này gợi cho người ta đến câu nói nổi tiếng của Tuân Tử: “Vua là
thuyền, dân là nước. Nước đưa thuyền mà nước cũng lật thuyền” (Quân giả, chu
dã; thứ nhân giả, thủy dã. Thủy tắc tái chu, thủy tắc phúc chu - Tuân Tử, Ai công/
君者,舟也;庶人者,水也。水則載舟, 水則覆舟- 荀子.哀公).
Tư tưởng Dân bản có truyền thống lâu đời trong kinh điển Nho gia, mà
Mạnh Tử được coi là nhà tư tưởng tiêu biểu nhất. Mạnh Tử nói: “Dân vi qúy, xã
tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân là quý nhất, xã tắc là thứ hai, vua thì bình thường
thôi - Mạnh Tử, Tận tâm chương cú hạ/ 民為貴,社稷次之,君為輕 - 盡心章
句下). Ông xác lập quan hệ hai chiều có đi có lại giữa nhà vua và dân: “Nếu nhà
vua coi bề tôi như tay chân, thì bề tôi coi nhà vua như tim óc; Nếu nhà vua coi bề
tôi như chó ngựa, thì bề tôi coi nhà vua như người dưng; Còn nếu nhà vua coi bề
tôi như cỏ rác, thì bề tôi coi nhà vua như kẻ thù.” (Quân chi thị thần như thủ túc,
tắc thần thị quân như phúc tâm; Quân chi thị thần như khuyển mã, tắc thần thị
quân như quốc nhân; Quân chi thị thần như thổ giới, tắc thần thị quân như khấu
thù - Mạnh Tử, Li lâu hạ/ 君之視臣如手足,則臣視君如腹心;君之視臣如犬
馬,則臣視君如國人;君之視臣如土芥,則臣視君如寇讎 - 孟子·離婁下).
Nguyễn Trãi kế thừa những điểm tích cực trong tư tưởng của những vị tiên
nho này và vượt qua những hạn chế thời đại của họ. Hạn chế lớn nhất là tư tưởng
của họ đề xuất nhằm bảo vệ lợi ích của người cầm quyền, còn người dân mà họ
đề cao là “thứ nhân” - những người bình dân trong tứ dân, mà không bao gồm tất
cả “dân đen/ lê dân”, “con đỏ/ xích tử”, nhất là dân “manh lệ” (những người mất
ruộng đất và những người đi ở) còn thấp hơn cả thứ nhân.
Lời tâu của Nguyễn Trãi với vua Lê Thái Tông về một nền chính trị lý
tưởng đem lại hạnh phúc cho muôn dân vẫn là ước mơ cao nhất, ước mơ vượt
thời đại, đưa Nguyễn Trãi trở thành nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong lịch sử thời
trung đại:
“Thời loạn dụng võ, thời bình dụng văn. Ngày nay định ra lễ nhạc, chính
phải thời lắm. Song cây không có gốc không thể đứng vững, không có văn không
thể lưu hành. Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc. Thần phụng
chiếu định ra âm nhạc, không dám không gắng hết tâm lực. (…) Dám mong bệ
hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân, khiến cho mỗi thôn cùng xóm
vắng, không còn có một tiếng hờn giận oán sầu, đó tức là giữ được cái gốc của
nhạc.” (Đại Việt Sử ký toàn thư, Ngô Sĩ Liên soạn, Cao Huy Giu dịch, Đào Duy
Anh hiệu đính, NXB Văn học, năm 2009, tr.563)
1.2. Nhà thơ của thiên nhiên, của niềm lạc quan yêu đời
1.2.1. Nhà thơ của thiên nhiên :
Nguyễn Trãi nói mình từ lâu đã có duyên với thiên nhiên: “Non nước cùng
ta đã có duyên” (Tự thán-4), thiên nhiên là nguồn cảm hứng vô tận của nhà thơ :
Trong khi hứng động vừa đêm tuyết,
Ngâm được câu thần dặng dặng ca.
Ngôn chí - 3
Thiên nhiên là láng giềng, khách khứa, bầu bạn với nhà thơ :
Láng giềng một áng mây bạc
Khách khứa hai ngàn núi xanh
Có thuở biếng thăm bạn cũ
Lòng thơ muôn dặm nguyệt canh ba
Bảo kính cảnh giới - 42
Thiên nhiên thân thiết ríu rít quanh nhà thơ :
Khách đến, chim mừng, hoa xảy động
Chè tiên, nước kín, nguyệt đeo về
Thuật hứng - 3
Cây rợp tán che am mát
Hồ thanh nguyệt hiện bóng tròn
Cò nằm hạc lặn nên bầu bạn
Ấp ủ cùng ta làm cái con
Ngôn chí - 20
Nhà thơ yêu chiều, cả nể, nâng niu vẻ đẹp của thiên nhiên: không dám
buông câu vì sợ tan mất vầng trăng đáy nước, không muốn chặt cành vì sợ mất
nơi chim về:
Trì tham nguyệt hiện chăng buông cá
Rừng tiếc chim về ngại phát cây
Mạn thuật - 6
Viện có hoa tàn chăng quét đất
Nước còn nguyệt hiện sá thôi chèo
Mạn thuật -10
Nhà thơ viết về thiên nhiên như viết về người tình: hé cửa đêm để đợi
hương quế lọt vào, không muốn quét hiên vì sợ bóng hoa tan mất:
Hé cửa, đêm chờ hương quế lọt
Quét hiên ngày lệ bóng hoa tan
Bảo kính cảnh giới - 33
Trăng như có linh hồn, như một người bạn, một người tình :
Chè tiên nước kín bầu in nguyệt
Mai rụng, hoa đeo cách bóng song
Thuật hứng- 6
Khách đến vườn còn hoa lác
Thơ nên cửa thấy nguyệt vào
Mạn thuật – 13
Chăng cài cửa tiếc non che khuất
Sá để thuyền cho nguyệt chở nhờ
Tự thán - 38
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vạy then
Thuật hứng - 24 (*)
Thiên nhiên vây quanh nhà thơ, hòa nhập vào nhà thơ:
Đêm thanh nguyệt hiện ngoài hiên trúc,
Ngày vắng chim kêu dưới khóm hoa
Ngôn chí - 17
Hái cúc, ương lan, hương bén áo
Tìm mai, đạp nguyệt, tuyết xâm khăn
Thuật hứng -15
Tình yêu thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi, việc thể hiện một cách độc
đáo thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi có nguồn gốc từ tư tưởng Lão Trang. Lão
Tử nói vạn vật đều được sinh ra từ Đạo, nên bản chất đều giống nhau - đó là tư
tưởng “Huyền đồng”.Trang Tử thì nói khác đi một chút bằng tư tưởng “Tề vật”-
mọi vật đều như nhau. Nhà nho Đại Việt ngay từ thế hệ đầu tiên đã có sự kết hợp
giữa Nho và Lão, tương ứng với hai con đường Xuất và Xử, Hành và Tàng trong
cuộc đời họ. Nhờ có tâm hồn và tài năng thơ ca, quan niệm đã thăng hoa thành
những vần thơ về thiên nhiên thật dẹp. Nguyễn Trãi là nhà thơ đầu tiên viết về
thiên nhiên bằng chữ Nôm trong lịch sử văn học nước ta.
1.2.2. Nhà thơ của tuổi trẻ và tình yêu:
(*)
Nguyễn Du: vầng trăng là một gương mặt với đôi mắt dõi theo nhân vật, chứng giám cho
hành động của nhân vật: “Gương nga chênh chếch dòm song/ Vàng in ngấn nước cây lồng
bòng sân” ; “Vầng trăng vằng vặc giữa trời, Đinh ninh hai mineg một lời song song” ; “Vầng
trăng ai xẻ làm đôi / Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường”. Hồ Chí Minh : “Trăng vào cửa sổ
đòi thơ / Việc quân đang bận xin chờ trăng ơi”. Hàn Mặc Tử hơn 500 năm sau : “Gió theo lối
gió mây đường mây / Dòng nước buồn hiu hoa bắp lay / Thuyền ai đậu bến sông trăng đó / Có
trở trăng về kịp tối nay” (Đây thôn Vĩ Dạ -1938)
Tiếc tuổi xuân là một cảm hứng mới trong văn học, một cảm hứng có tính
nhân văn chủ nghĩa. Cảm hứng ấy xuất phát từ một cách nhìn thời gian có tính cá
nhân: thời gian là tuyến tính, một đi không trở về. Thời gian vũ trụ theo quan
niệm Phật giáo mà Thiền sư Mãn Giác thời Lý nói đến là thời gian tuần hoàn:
“Xuân qua trăm hoa rụng/ Xuân tới trăm hoa tươi” và con người cũng vậy, sinh
lão bệnh tử nằm trong vòng quay bất tận của tạo hóa. Đấy là thời gian của vũ trụ,
nhưng khi ý thức về cá nhân nổi lên, thì với cá nhân, thời gian một đi không trở
lại, tuổi trẻ chỉ có một lần, hạnh phúc tuổi trẻ không trở lại lần thứ hai bao giờ:
Dắng dỏi bên tai tiếng quản huyền,
Lòng xuân nhẫn động ắt khôn gìn.
Xuân xanh chưa dễ hai phen lại,
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên.
Tích cảnh - 3
Tuổi trẻ qua đi, qua luôn bao hẹn ước tốt lành về tình yêu, hạnh phúc.
Đến bây giờ mái tóc đã điểm bạc thì tiếc một thời thuổi xanh:
Tiếc thiếu niên qua lật hẹn lành,
Hoa hoa nguyệt nguyệt luống vô tình.
Biên xanh nỡ phụ cười đầu bạc,
Đầu bạc xưa này có thuở xanh.
Tích cảnh - 4
Đời người trăm năm mệt nhoài đuổi theo công danh, mà quên rằng:
tuổi xuân của đời người mới đáng quý. Lý Bạch xưa có nói: “Cổ nhân bỉnh chúc
dạ du”( 1), người xưa đốt đuốc chơi đêm để tận hưởng mùa xuân, cũng là tận
hưởng mùa xuân của đời người:
Ba bảy mươi nào luống nhọc thân,
Được thua đã biết sự vân vân.
1
Lý Bạch: Cổ nhân bỉnh chúc dạ du 古人秉燭夜游(trong bài Xuân dạ yến chư tùng đệ
đào hoa viên tự 春夜宴諸從弟桃花園序). Cổ nhân ở đây chắc là muốn nhắc đến
ý trong thơ cổ: Trú đoản khổ dạ trường/ Hà bất bỉnh chúc du. 晝短苦夜長,何不秉
燭遊!Trong bài Sinh niên bất mãn bách 生年不滿百, một trong 19 bài cổ thi đời Hán (古詩
十九首).
Chớ cười hiền trước rằng dại,
Cầm đuốc chơi đêm bởi tiếc xuân.
Tích cảnh - 6
Thơ viết về tình yêu là mảng mới mẻ độc đáo trong thơ Nguyễn Trãi.
Trước Nguyễn Trãi có bài thơ của vua Trần Thánh Tông viết về cung phi, có thể
coi đó như bài thơ tình yêu sớm nhất trong văn học Việt Nam (bài Cung viên xuân
nhật ức cựu/ Vườn ngự ngày xuân nhớ người xưa). Nguyễn Trãi có 2 bài đều có
vẻ như thơ tình. Bài thứ nhất viết về cây chuối nhưng lời thơ duyên dáng, tình tứ
như một bài thơ tình:
Tự bén hơi xuân tốt lại thêm,
Đầy buồng lạ, mầu thâu đêm.
Tình thư một bức phong còn kín,
Gió nói đâu gượng mở xem.
Cây chuối
Bài thứ hai thì viết cho Nguyễn Thị Lộ. Có thể lúc ấy Nguyễn Thị
Lộ đang ở trong triều làm chức Lễ Nghi học sĩ dạy học cho các cung nữ. Nguyễn
Trãi yêu nàng bằng tình yêu với “hồng nhan tri kỷ”, nhưng ngang trái trong quan
hệ với ông vua trẻ Lê Thái Tông(1). Bài thơ gửi cho Lộ có lẽ viết trong tình cảnh
đó:
Loàn đan ướm hỏi khách lầu hồng,
Đầm ấm có thương kẻ lạnh lùng.
Ngoài ấy dầu còn áo lẻ,
Cả lòng mượn đắp lấy hơi cùng.
Tích cảnh -10
Với những bài thơ viết về tuổi trẻ, tình yêu, Nguyễn Trãi đã cho thấy
một nét khác trong chân dung của ông. Đó là một con người chân thành, một
giọng thơ tươi trẻ, một nét đẹp trong tâm hồn ông, thể hiện một cảm hứng nhân
văn chủ nghĩa mà ba trăm năm sau - giữa thế kỷ XVIII mới trở thành một trào
lưu mạnh mẽ. Có thể ông đã tiếp thu khuynh hướng nhân văn chủ nghĩa trong thơ
Đường. Với hồn thơ nhạy bén, tài năng và tầm nhìn đi trước thời đại đã khiến ông
trở thành người dạo những khúc mở đầu cho cuộc hòa nhạc đang sắp sửa.
1.3. Những cột mốc trên con đường phát triển của văn học Việt Nam
1
Nguyễn Trãi sinh năm 1380, Lê Thái Tông sinh 1423, Nguyễn Thị Lộ phỏng đoán sinh năm
1400. Cả ba đều mất năm 1442.
1.3.1. Thể loại :
Nguyễn Trãi tuy không phải là người khai sáng cho những thể loại mới, nhưng
lại là người đưa các thể loại văn học đến đỉnh cao. Ông là đã cắm những dấu mốc
quan trọng trên con đường phát triển của văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế
kỷ XV:
Về Văn xuôi chính luận: Quân trung từ mệnh tập, tập thư từ đấu tranh ngoại
giao, đến Nguyễn Trãi trở nên mềm mại mà sắc nhọn, nhẹ nhàng mà đanh thép,
lịch sự nhún nhường mà ở thế áp đảo quân thù. Nghệ thuật hùng biện, có sức
thuyết phục cao, với số lượng nhảy vọt, tập văn đã đưa Nguyễn Trãi trở thành
nhà văn chính luận hàng đầu trong văn học cở điển nước ta.
Bình Ngô đại cáo, áng “Thiên cổ hùng văn”, một mẫu mực về thể loại cáo,
vừa sắc sảo về lý luận, vừa đẹp đẽ, phong phú ở hình ảnh, vừa cô đúc, khái quát
trong tổng kết lịch sử, bài cao đạt đến tầm cao vòi vọi của thể loại văn hành chính
có tính nghệ thuật mà trước và sau Nguyễn Trãi không ai đạt được.
Thơ Nguyễn Trãi là tinh hoa của nhiều thế kỷ chung đúc nên. Thơ ông vừa
có cái hào hùng như Lý Thường Kiệt, Phạm Ngũ Lão, Trần Quang Khải; vừa có
triết lý cao siêu, giọng thơ thanh thoát của thơ Thiền; có cái bi phẫn trăn trở của
Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh; cái ưu nhiên, nhàn tản, tiêu sái của Trần
Tung, Lý Tử Cấu, Vũ Mộng Nguyên...
1.3.2. Ngôn ngữ :
Ngôn ngữ thơ Nguyễn Trãi rất gần với lời ăn tiếng nói của nhân dân, với
tục ngữ thành ngữ dân gian.
- Vốn từ : bên cạnh kho từ vựng từ chương cổ điển, thơ Ức Trai dùng nhiều
từ ngữ thuần Việt trong đời sống, đưa chúng vào thơ ca: chợ cá, mồng tơi, kê
khoai, rau muống, luống mùng, dưa muối... :
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương
Bảo kính cảnh giới - 43
Vun đất ải, luống mồng tơi
Ngôn chí - 9
Ngày tháng kê khoai những sản hằng
Mạn thuật - 1
Ao quan thả gửi hai bè muống
Đất Bụt ương nhờ một luống mùng
Thuật hứng - 23
Cơm ăn chẳng quản dưa muối
Ao mặc nài chi gấm thêu
Thuật hứng - 22
- Nhiều câu tục ngữ cũng được đưa một cách khéo léo vào thơ:
Ở bầu thì dáng ắt nên tròn
Xấu tốt thì đều rắp khuôn
Bảo kính cảnh giới -21
Chẳng ngừa nhỏ, âu nên lớn
Nếu có sâu thì bỏ canh
Bảo kính cảnh giới - 9
Tay ai thì lại làm nuôi mịêng
Làm biếng ngồi ăn lở núi non
Bảo kính cảnh giới - 22
- Thơ ông đã đưa tiếng Việt thành ngôn ngữ thơ ca đạt đến mức đẹp đẽ,
trong sáng:
Nước biếc non xanh thuyền gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu
Bảo kính cảnh giới - 26
- Hay những liên tưởng độc đáo, tinh tế:
Nguyệt xuyên há dễ thấu lòng trúc
Nước chảy âu khôn xiết bóng non
Thuật hứng - 4
Văn bản 1
Bình Ngô đại cáo
(Đại cáo đánh thắng quân Ngô1)
Nguyễn Trãi
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân;
1
Ngô: Vì Chu Nguyên Chương, tức Minh Thái Tổ, xuất thân từ đất Ngô, nên thay vì nói “bình
Minh” thì nói “bình Ngô”, tức đánh tổ tông vua Minh Tuyên Tông đương thời.
Quân điếu phạt(1) trước lo trừ bạo.
Như nước Đại Việt ta từ trước;
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đã chia;
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau;
Song hào kiệt đời nào cũng có.
(...)
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà;
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa;
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn;
Vùi con đỏ(2) xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân, đủ muôn nghìn kế;
Gây binh kết oán, trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời;
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng;
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim chả, chốn chốn lưới chăng;
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen(3), nơi nơi cạm đặt.
1
Điếu phạt: rút ý “Điếu dân phạt tội” trong Kinh Thư nói về việc Thang, Vũ vì dân mà đánh
kẻ có tội là Kiệt, Trụ (điếu: thương, phạt: trừng trị).
2
Con đỏ: nghĩa đen: con mới đẻ; ở đây chỉ nhân dân, theo nghĩa: nhà vua chân chính yêu dân
như con mới đẻ.
3
Chim chả, hươu đen: hai loài vật đều quý, lông chim chả màu tím làm áo và đệm, nhung hươu
làm vị thuốc bổ.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ;
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nỗi phu phen;
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc(1) Nam Sơn không ghi hết tội;
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha;
Ai bảo thần dân chịu được.
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa;
Chốn hoang dã nương mình.
Ngẫm thù lớn há đội trời chung;
Căm giặc nước thề không cùng sống.
(...)
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc(2) ngọn cờ phấp phới;
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông(3) chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh;
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn;
1
Trúc: thời xưa chép sử sách bằng cách dùng dao khắc chữ trên thẻ trúc, rồi quét sơn lên.
2
Dựng cần trúc: lấy điển trong Hán thư nói về Trần Thắng, Ngô Quảng do khởi nghĩa quá gấp
không kịp may cờ, giơ cần trúc làm cờ (yết can vi kì).
3
Hòa nước sông: lấy điển trong Văn tuyển chép lời Hoàng Thạch Công: “Xưa có viên tướng
giỏi, kheó dùng binh, nhân có người biếu chai rượu, viên tướng đó truyền tập hợp quân đội bên
dòng sông, rồi đổ chai rượu xuống dòng sông để mọi người đều nhắp, gọi là chia ngọt sẻ bùi,
cùng nhau chiến đấu một lòng”. Về điển này, theo truyền thuyết, ở huyện Lang Chánh, Thanh
Hóa có truyện Suối rượu, ở huyện Trường Xuân, Thanh Hóa có truyện Hòn đá khao đều nói
Lê Lợi xưa có làm động tác đổ rượu xuống sông khao quân.
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng(1) sấm vang chớp giật;
Miền Trà Lân(2) trúc chẻ tro bay(3).
(...)
Sĩ tốt kén tay hùng hổ;
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh.
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn;
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc;
Đánh hai trận(4), tan tác chim muông.
Nổi gió to quét sạch lá khô;
Thông tổ kiến phá toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ, lê gối dâng tờ tạ tội;
Thượng thư Hoàng Phúc, trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang(5), Lạng Sơn, thây chất đầy đường;
Xương Giang, Bình Than(6), máu trôi đỏ nước.
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi;
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ!
(...)
Thần Vũ chẳng giết hại(7), thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.
1
Bồ Đằng: tên một ngọn núi, gọi là Bồ Liệt, Bồ Cứ thuộc Quỳ Châu, Nghệ An.
2
Trà Lân: hiện còn di tích ở xã Bồng Khê, huyện Con Cuông, Nghệ An, cách thị trấn Con
Cuông khoảng 3 km.
3
Trúc chẻ, tro bay: quân giặc bị tan nhanh dễ như thể chẻ tre, hay như tro bay.
4
Đánh một trận, đánh hai trận: dịch thoát chữ nhất cổ (đánh hồi trốngthứ nhất), tái cổ (đánh
hồi trống thứ hai).
5
Lạng Giang: vùng này thuộc địa phận Bắc Giang.
6
Xương Giang: tức sông chảy qua phủ Lạng Thương. Thành Xương Giang còn di tích gần thị
xã Bắc Giang. Bình Than: ở vùng Phả Lại hiện nay.
7
Thần Vũ: vị thần coi việc vũ, bề ngoài nhìn đáng sợ, nhưng lại rất độ lượng khoan hồng, ở
đây chỉ Lê Lợi.
Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn
hồn bay phách lạc;
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn
tim đập chân run!
Họ đã tham sống sợ chết, mà hòa hiếu thực lòng;
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu;
Cũng là chưa thấy xưa nay.
Xã tắc(1) từ đây vững bền;
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn tắc rồi lại suốt(2);
Nhật nguyệt tối rồi lại quang.
Muôn thuở nền thái bình vững chắc;
Nghìn năm vết nhục nhã sạch làu.
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy.
Than ôi!
Một cỗ nhung y(3) chiến thắng, nên công oanh liệt nghìn năm;
Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân(4) khắp chốn.
Xa gần bá cáo;
Ai nấy đều hay.
(Theo Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 4, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội,
1995)
1
Xã tắc: xã: nơi tế thần Đất, và tắc: nơi tế thần Lúa, tức là nơi tế Hậu Thổ và Thần Nông, hai
vị thần tiêu biểu cho nền kinh tế nông nghiệp.
2
Kiền khôn: trời đất (kiền hay càn chỉ trời, khôn chỉ đất). Tắc, suốt: dịch hai quẻ bĩ và thái
trong Kinh Dịch (bĩ: khốn cùng, thái: thông suốt).
3
Nhung y: áo giáp sắt mặc để ra trận, đây chỉ việc đánh giặc, ý này cũng rút từ thiên Vũ Thành
đã nói ở trên, tức nói việc Vũ Vương đánh Trụ: “Chỉ một cỗ nhung y mà thiên hạ thu về được”
(Nhất nhung y, thiên hạ đại định). Ở đây, chỉ Lê Lợi.
4
Duy tân: đổi mới; ở đây muốn nói cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã mở ra một kỉ nguyên mới –
kỉ nguyên xây dựng một nhà nước Đại Việt tự chủ và thịnh vượng, dưới triều vua mới.
Văn bản 2
Bảo kính cảnh giới - bài 43
(Gương quý để răn dạy người ta)
Chú thích:
1. Dòng 1: (1) Rồi: Rỗi rãi (từ cổ); (2) Thuở: Lúc; (3) Ngày trường: Ngày
dài.
2. Dòng 2: (1) Hòe lục: Cây hòe màu xanh; (2) Đùn đùn: chỉ trạng thái nở
ra, sinh ra rất nhiều, như mây đùn ra. (3) Trương: Giương ra, xòe ra (từ cổ).
3. Dòng 3: (1) Hiên: Hiên nhà; (2) Thức: Màu sắc, dáng vẻ (từ cổ).
4. Dòng 4: (1) Trì: ao, hồ; (2) Tịn: Hết (từ cổ)
5. Dòng 5: Ngư phủ: Người đánh cá.
6. Dòng 6: (1) Dắng dỏi: Inh ỏi; (2) Cầm ve: Tiếng ve như tiếng đàn (cầm)
(từ cổ); (3) Lầu tịch dương: Nhà lầu trong chiều tà.
7. Dòng 7: (1) Lẽ có: Phải chi có, ước gì có; (2) Ngu cầm: Đàn vua Ngu
Thuấn (Trung Hoa cổ) gảy lên để cầu mong gió mát thổi, cho dân giàu có.
8. Dòng 8: (1) Giàu đủ: Giàu có, no đủ; (2) Đòi: Nhiều (từ cổ).
Văn bản 3
Tích cảnh - bài 3
(Tiếc cảnh mùa xuân)
Dắng dỏi bên tai tiếng quản huyền,
Lòng xuân nhẫn động ắt khôn gìn.
Xuân xanh chưa dễ hai phen lại,
Thấy cảnh càng thêm tiếc thiếu niên.
Chú thích:
1. Dòng 1: (1) Dắng dỏi: Inh ỏi; (2) Quản huyền: Đàn và sáo.
2. Dòng 2: (1) Lòng xuân: Lòng trẻ trung; (2) Nhẫn:
3. Dòng 3: (1) Chưa dễ: Không dễ dàng; (2) Phen: Lần.
4. Dòng 4: (1) Thấy cảnh: Thấy cảnh mùa xuân. (2) Thiếu niên: Tuổi trẻ.
1
Đàng Trong. Là người khởi thảo tuồng Sơn Hậu” (Theo Từ điển nhân vật
lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội – 2005). Ông là tác giả bộ sách
quân sự đặc biệt Hổ trướng khu cơ và hai bài vãn để lại là Ngoạ Long
cương vãn và Tư Dung vãn đều được viết bằng chữ Nôm cùng một bài thơ
vô đề ghi trong Nam triều công nghiệp diễn chí gồm cả hai bản Nôm và
Hán. Thơ ông mang nặng tâm tư, ý thức hệ của một người Nho sĩ, quyết
tâm phụng sự chế độ mình đã chọn; còn là tiếng lòng ca tụng những vị vua
hiền đức, đem lại thái bình, thịnh trị cho đất nước; phê phán, chê trách
những hạng người tu niệm, nương nhờ cửa chùa để làm những điều ô uế,
hư hỏng.
Ngoạ long cương vãn
[…]Lợi danh nào chút nhúng tay
Chẳng hiềm tạo vật, không say thế tình
Tựa song hé bức mành mành,
Gẫm chưng đời trước công danh mấy người.
Doãn chưa đặng lễ Thang vời,
Cày kia chưa dễ bỏ nơi nội Sằn,
Lã dù chưa gặp xe văn,
Câu kia chưa dễ gác cần Bàn Khê,
Ngẫm xem thánh nọ hiền kia,
Tài nầy nào có khác gì tài xưa? […]
(Trích theo Nguyễn Văn Sâm, Văn học Nam Hà, NXB
Lửa Thiêng, 1972)
Ngoạ Long cương vãn được viết theo thể lục bát, gồm 136 câu, có
nội dung tái hiện câu chuyện cuộc đời và sự nghiệp người anh hùng Khổng
Minh, thời Tam Quốc. Theo Đại Nam thực lục tiền biên, tác phẩm được
sáng tác khi ông còn đang ở nhà Khám lý Trần Đức Hoà, sau Đức Hoà
dâng lên chúa Sãi, chúa đọc thấy được ẩn ý của một bậc anh tài nên đã triệu
đến gặp. Đoạn thơ trên được trích từ tác phẩm Ngoạ Long cương vãn, phản
ánh tâm trạng của Đào Duy Từ khi ông ở ẩn, chờ đợi thời cơ để thi thể hiện
tài năng của mình. Ông cho rằng người có tài không cần phải thể hiện mình
bởi người đời tự nhiên sẽ biết. Ông kiên nhẫn chờ đợi, không nôn nao danh
lợi, không oán trách đời, không oán trách trời đất. Ông tự an ủi mình, ví
mình như những bậc hiền tài trong quá khứ, dù được nhà vua biết đến rất
muộn nhưng cuối cùng vẫn có cơ hội được thể hiện tài năng, giúp đất nước.
4.2. Nguyễn Cư Trinh
Tiểu sử
2
Nguyễn Cư Trinh (1716 – 1767), tự là Nghi, hiệu là Đạm An (có bản viết
là Đạm Trai) người làng An Hoà, huyện Hương Trà (nay thuộc Thừa Thiên
– Huế), trong một gia đình có truyền thống văn học. Ông là tác gia lớn thứ
hai, sau Đào Duy Từ, của văn học Đàng Trong ở các thế kỷ này. Nguyễn
Cư Trinh trải qua nhiều chức quan dưới thời các chúa Nguyễn. Ông đỗ
Hương Cống năm Canh Thân (1740) và được bổ làm Tri Phủ phủ Triệu
Phong (Quảng Ngãi). Khi Nguyễn Phúc Khoát xưng vương (1744),
Nguyễn Cư Trinh coi việc soạn thảo công văn. Năm 1750, ông được cử giữ
chức Tuần phủ Quảng Ngãi. Năm 1753, ông được phái đi đánh Thuỷ Chân
Lạp và góp công lớn vào cuộc mở mang đất đai ở miền Tây. Khi chúa
Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi (1765), ông được gọi về làm quan trong triều,
đến năm 1767 thì mất, được thờ ở quốc miếu.
Sự nghiệp sáng tác:
Nguyễn Cư Trinh tuy sống cuộc đời ngắn ngủi nhưng đã có nhiều
đóng góp cho các chúa Nguyễn. Ông là một nhà quân sự, nhà kinh tế và
cũng là nhà ngoại giao giỏi. Bên cạnh đó, ông còn biết đến với tư cách là
một nhà văn học lỗi lạc với những tác phẩm viết bằng chữ Nôm và chữ
Hán có giá trị như bài vè Sãi vãi (340 câu), Quảng Ngãi thập nhị
cảnh, Đạm Am thi tập (hiện chưa tìm thấy), thơ hoạ lại mười bài thơ vịnh
cảnh Hà Tiên của Mạc Thiên Tích, các thư từ gửi cho cha con họ Mạc và
điều trần gửi cho chúa Nguyễn. Toàn bộ sự nghiệp văn chương của ông
gắn với cuộc đời làm quan của mình. Tác phẩm của ông có nội dung phong
phú, một số tác phẩm thể hiện tinh thần hăng hái tiến lên phía trước, tấm
lòng bao dung, độ lượng của một nhà quân sự tài ba và tinh thần trách
nhiệm, nghiêm khắc để vươn lên của chính mình. Bên cạnh đó cũng có
những tác phẩm thể hiện thái độ bài xích đối với những kẻ tu hành giả dối,
chống lại tu hành, lánh đời, vô ích với thực tế.
Giới thiệu tác phẩm:
Sãi vãi là tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Cư Trinh, được viết
khi ông cùng quân sĩ đi đánh dẹp một nhóm người thiểu số, rất dữ, thường
tàn hại những người Việt ở Đàng Trong. Tác phẩm này được ông viết để
động viên tinh thần chống giặc cho quân sĩ với những đoạn trào phúng,
khôi hài, bỡn cợt nhằm tạo dịp mua vui cho quân sĩ, đồng thời cũng nhằm
giải thích lí do tại sao ông phải đem quân đi bình định. Trong tác phẩm
được thể hiện khá rõ tư tưởng bài xích giới tu hành giả tạo, phê phán những
kẻ tham lam, giả tạo, ăn những thứ cấm đoán, tham tiền, tham cờ bạc:
“Đương khi thời cơm thịt, có bổn đạo vừa lên. Nghe tiểu đồng tằng hắng
tiếng lên, mấy dĩa thịt sãi thâu vào đó”; “Sãi lại sắm tiền nghề bỏ đáy, sáp
tốt để đánh môi. Ngộ phải khi cờ bạc thua hoài, dễ khiến sãi khoanh tay
ngó lảng”. Chê trách những kẻ tu hành giả dối, ông đề cao tư tưởng tu hành
3
theo đường lối Tống Nho là cốt làm ích quốc lợi dân, trau dồi nhân đức để
cảm hoá dân chúng.
4.3. Mạc Thiên Tích
Tiểu sử:
Mạc Thiên Tích (1718-1780), tên ban đầu là Mạc Thiên Tứ, tự Sĩ
Lân, hiệu Thụ Đức Hiên. Ông sinh ra trong gia đình dòng dõi, được hưởng
một nền giáo dục hoàn hảo. Cha ông, Mạc Cửu (1655-1735), giữ chức
Tổng binh dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu, là người có công khai phú
vùng đất trù phú Hà Tiên. Năm 1735, cha ông qua đời, ông nối nghiệp cha
giúp chúa Nguyễn tiếp tục thu phục và khai khẩn miền Tây Nam Bộ. Ông
là một danh tướng, một quan cai trị, một nhà đinh điền, một nhà kinh tế và
cũng là một danh sĩ có tiếng đã làm rạng rỡ đất Phương Thành (nay là Hà
Tiên) và cả khu vực Tây Nam Kỳ ở nửa thế kỷ XVIII. Tuy nhiên, năm
1775, khi quân Tây Sơn chiếm đất Gia Định, ông được Nguyễn Vương nhờ
hướng dẫn hoàng tử Xuân sang Xiêm cầu viện. Ông bị vua Xiêm bức bách
không giúp đỡ và cũng không cho ông về Gia Định. Chịu nhiều phẫn uất,
không tìm được lối thoát khiến ông tìm đến cái chết vào năm 1780.
Không chỉ là một nhà quân sự, nhà cai trị, kinh doanh tài ba, Mạc
Thiên Tích còn là một nhà hoạt động văn hoá, một người am hiểu Nho học,
một nhà văn hoá có tầm nhìn xa rộng. Ông học chữ Hán, kinh điển Nho gia
và tri thức phương Đông ở nhà Nghĩa học, trung tâm giáo dục cấp cao của
trấn Hà Tiên. Có lẽ ông cũng được học chữ Nôm và văn chương Nôm từ
những ông thầy chữ Nho người Việt.
Sinh thời ông rất ham mê văn chương, nên cùng với Trần Trí Khải
đã tổ chức thành công Tao đàn Chiêu Anh Các vào năm 1736 ở Hà Tiên.
Kể từ đó cho tới năm 1771, tao đàn đã đóng góp cho nền văn học Việt
Nam nhiều tập sách có giá trị.
Sự nghiệp sáng tác:
- Hà Tiên thập vịnh, tập thơ chữ Hán khắc in năm 1737
- Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh, tập thơ do Mạc Thiên Tích sáng tác,
dài 422 câu theo thể liên ngâm: sau một đoạn lục bát gián thất là một bài
Đường luật bát cú, liên hoàn vịnh mười cảnh đẹp của Hà Tiên.
- Minh bột di ngư gồm 32 bài thơ luật Đường bằng chữ Hán và bài
phú chữ Hán Lư Khê nhàn điếu hơn trăm câu do Mạc Thiên Tích sáng tác.
- Thụ Đức Hiên tứ cảnh: tập thơ chữ Hán xướng họa về cảnh bốn
mùa ở Hà Tiên, Mạc Thiên Tích xướng 4 bài thơ hồi văn, 32 thi nhân họa
lại, tổng cộng có 88 bài thơ của 32 tác giả, Phương Thu Bạch viết lời tựa.
- Lư Khê vãn: Bài thơ lục bát trường thiên ngâm vịnh về cảnh Hà
Tiên.
4
Văn bản:
Hà Tiên thập cảnh tổng vịnh
Mười cảnh Hà Tiên rất hữu tình,
Non non nước nước gẫm nên xinh.
Đông Hồ, Lộc Trĩ tuôn dòng chảy,
Nam Phố, Lư Khê một mạch xanh.
Tiêu Tự, Giang Thành chuông trống ỏi,
Châu Nham, Kim Dữ cá chim quanh.
Bình San Thạch Động là rường cột,
Sừng sững muôn năm cũng để dành.
Bài thơ cho người đọc thấy được bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên
Hà Tiên tươi đẹp. Đây là bài thơ nằm ở cuối tập thơ của Mạc Thiên Tích,
thể hiện niềm tự hào của ông về một vùng quê “hữu tình” với “non non
nước nước gẫm nên xinh”, nơi đây có “dòng chảy”, “mạch xanh” bao la,
trù phú, giàu “cá chim”. Mảnh đất tươi đẹp sẽ tồn tại muôn năm. Bài thơ
được viết theo thể thất ngôn bát cú, ngôn ngữ mạch lạc, dễ hiểu nhưng
không kém phần trau chuốt, thể hiện được lòng tự hào của ông đối với nơi
mình cai quản.
4.4. Võ Trường Toản
Tiểu sử:
Võ Trường Toản (1709-1792). Tổ tiên của ông có nguồn gốc từ miền
Trung, rồi di cư vào Nam theo làn sống chung, được khởi phát mạnh mẽ
kể từ năm 1623. Ông là người huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia
Định. Ông là một nhà nho lớn, một nhà giáo đức độ, lỗi lạc được nhân dân
Nam Kỳ tôn làm thầy chung với sự kính ngưỡng ít nhà Nho nào sánh kịp.
Khi Tây Sơn dấy lên thì ông đi ở ẩn, mở trường dạy học, thường học trò
đến mấy trăm người.
Tuy những trước tác của cụ gần như bị thất lạc toàn bộ nhưng những
tác phẩm cụ để lại, cũng như những ảnh hưởng của cụ đối với các thế hệ
học trò, chứng tỏ tài năng của cụ thật đáng nể trọng. Trong tác phẩm của
mình, ông dùng những điển tích, hình ảnh lấy từ Trung Hoa nhưng lại kí
thác vào đó tâm sự cùng quan niệm về đời, về người và về những gì ông
đã chứng kiến trong cuộc đời mình. Thơ ông còn là những bài học giáo
huấn người đời về “lòng nhân nghĩa”.
Sự nghiệp sáng tác:
Võ Trường Toản đã để lại một bài phú để giáo dục đạo đức, đó là
bài Hoài cổ phú hay gọi đầy đủ hơn là Hiếu trung hoài cổ phú. Như tên gọi
5
của nó, bài phú ngợi ca những tấm gương trong lịch sử đã nêu cao đạo
trung hiếu.
Văn bản
Hiếu trung hoài cổ phú
1) Lung khởi
Rỡ rỡ cúc ba thu, ba thu lụn cúc đà khô héo ;
Hây hây sen chín hạ, chín hạ qua sen cũng rã rời.(1)
2) Biện nguyên
Cho hay vực thẳm nên cồn;
Mới biết gò cao hoá bể.(2)
Quán âm dương rước khách, xưa nay đã mấy mươi năm;
Đò tạo hoá đưa người, qua lại biết bao nhiêu chuyến.(3)
3) Thích thực
Nhấp nháng ngọn đèn trong kiếng;
Linh đinh bóng nguyệt đáy sông.(4)
Đường Ngu ấp tốn rượu ba chung, dường say dường tỉnh;
Thang Võ chinh tru cờ một cuộc, thoạt đặng thoạt thua.(5)
1
Ba thu: Ba tháng của mùa thu; Chín hạ: Chín mươi ngày mùa hạ. Câu 1 ý nói: Hoa
cúc rực rỡ vào mùa thu như thế, nhưng mùa thu qua thì cúc cũng khô héo; Hoa sen mùa
hè tươi đẹp như thế, nhưng mùa hạ hết thì sen cũng tàn tạ. Ý chung là vạn vật đều thay
đổi.
2
Ý cả câu: thế gian biến đổi như bãi bể nương dâu.
3
Ý cả câu: Tháng ngày như quán trọ, tạo hóa như con đò đã là nơi trú ngụ của bao
người, bao thế hệ.
4
Ý cả câu: Việc đời mọi thứ đều mờ ảo, có có không không như ánh đèn trong gương,
như vầng trăng đáy nước.
5
Ấp tốn 揖遜: Ấp là vái lạy, Tốn: nhường, kính. Ấp tốn là vái nhường, chỉ nhà vua
nhường ngôi cho người hiền. Vua Nghiêu 堯 nhà Đường nhường ngôi cho vua Thuấn
舜, vua Thuấn nhà Ngu nhường ngôi cho vua Vũ 禹. Thuấn và Vũ đều là những người
hiền trong thiên hạ (Nghiêu Thuấn truyền hiền bất truyền tử: Nghiêu Thuấn truyền ngôi
cho người hiền chứ không truyền cho con).
Chinh tru 征誅: chinh phạt, tiêu diệt. Thành Thang đánh vua Kiệt nhà Hạ để lập ra nhà
Thương. Chu Vũ Vương đánh vua Trụ nhà Ân để lập ra nhà Chu.
Thiệu Khang Tiết đời Tống trong bài Tương tiến tửu có câu: Đường Ngu tiếp tốn tam
bôi tửu, Thang Vũ chinh tru nhất cuộc kỳ 唐虞揖遜三杯酒,湯武征誅一局棋. Ý nói
6
Của có không nào khác đám mây;
Người tan hiệp dường như bọt nước. (6)
Cho hay dời đổi ấy lẽ thường;
Mới biết thảo ngay là nghĩa cả.
Đoạn thơ trên được trích trong bài thơ Hiếu trung hoài cổ phú, là
một bài phú gồm 24 đôi câu. Nhà thơ ôn lại những chuyện xưa, để giáo
huấn người đời về sự biến đổi của xã hội, đề cao sự trường tồn của đạo
nhân nghĩa. Đoạn trích trên gồm có 6 câu đầu và câu thứ 18 của bài. Ông
nhìn cảnh vật tươi đẹp “rỡ rỡ cúc ba thu”, “hây hây sen chín hạ” là thế
nhưng rồi cũng “tàn hèo”, “rã rời” theo thời gian. Mọi vật đang hiện hữu
tươi đẹp là thế thoáng chốc đã trở thành “bóng câu qua cửa sổ”, tác giả
nhìn ra chân lý biến đổi của tự nhiên để nhắc nhở mình, nhắc nhở người
phải biết trân trọng những gì đang có và phải biết chấp nhận việc “dời đổi
ấy là lẽ thường”, chỉ có “thảo ngay là nghĩa cả”. Chính vì vậy, con người
cần phải gìn giữ đạo đức, nhân cách bởi chỉ những thứ đó không những
không phù phiếm mà còn trường tồn mãi với thời gian, xuyên suốt mọi sự
chuyển dịch của xã hội.
vua Đường Nghiêu, vua Ngu Thuấn nhường ngôi cho người hiền mà đơn giản như uống
ba chu
ng rượu; vua Thành Thang, Vũ Vương chinh phạt vua bạo ngược mà đơn giản như chơi
một cuộc cờ. Ý cả câu này dùng với nghĩa hơi khác: việc nhường ngôi của Nghiêu,
Thuần, việc chinh phạt của Thang Vũ cũng chỉ là những việc hư ảo.
6
Ý cả câu: Của cải có đó mất đó nào khác gì đám mây; Người đời hợp tan giống như
bọt nước.
7
CHƯƠNG 3
VĂN HỌC THỜI CUỐI LÊ, ĐẦU NGUYỄN
(THẾ KỶ 18 - THẾ KỶ 19: VĂN HỌC HẬU KỲ TRUNG ĐẠI)
1
- Trúc xinh trúc mọc đầu đình,
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
- Gió sao gió mát sau lưng,
Dạ sao dạ nhớ người dưng thế này.
Luật thơ:
BẰNG: Thanh ngang (không dấu), thanh huyền
TRẮC: Các thanh Sắc, Nặng, Hỏi, Ngã
Ví dụ: Truyện Kiều:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
Thể thơ song thất lục bát
Câu thất 1
Câu thất 2
Câu lục
Câu bát
Ví dụ: Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều, TK.18)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng
Oán chi những khách tiêu phòng
Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
2
CHƯƠNG 3
VĂN HỌC THỜI CUỐI LÊ, ĐẦU NGUYỄN
(THẾ KỶ 18 - THẾ KỶ 19: VĂN HỌC HẬU KỲ TRUNG ĐẠI)
1
Bộ khôn bằng ngựa thủy khôn bằng thuyền
Nước có chảy mà phiền chẳng rửa
Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây
Nhủ rồi nhủ lại cầm tay
Bước đi một bước day day lại dừng.
2
CHƯƠNG 3
VĂN HỌC THỜI CUỐI LÊ, ĐẦU NGUYỄN
(THẾ KỶ 18 - THẾ KỶ 19: VĂN HỌC HẬU KỲ TRUNG ĐẠI)
1
1796 nghe Nguyễn Anh hoạt động mạnh, tính vào Nam, nhưng bị
tướng Nguyễn Thận của Tây Sơn bắt được, lưu lại mấy tuần rồi thả ra.
Làm quan cho triều Nguyễn:
1802 tri huyện Phù Dung (Sơn Nam), được mấy tháng thì thăng làm tri
phủ Thường Tín (Hà Tây).
1805 Đông các điện học sĩ, tước Du Đức hầu.
1809 Cai bạ dinh Quảng Bình
1813 Cần chánh điện đại học sĩ, chánh sứ Trung Quốc, 1815 trở về
được phong Tham tri bộ Lễ.
1820 Minh Mạng chết, Nguyễn Du lại được cử làm chánh sứ sang cầu
phong, sứ bộ chưa kịp đi thì Nguyễn Du qua đời.
Tác phẩm:
Thơ chữ Hán:
- Thanh Hiên thi tập (1786 –1795): 10 năm gió bụi (1796 -1802),
Dưới chân núi Hồng (1876 – 1802), Làm quan ở Bắc Hà (1802 –
1804).
- Nam trung tạp ngâm (1805 – 1813)
- Bắc hành tạp lục (1813 – 1814).
Thơ chữ Nôm:
- Văn tế thập loại chúng sinh
- Truyện Kiều
Con người Nguyễn Du:
Đại Nam chính biên liệt truyện: “Nguyễn Du là người ngạo nghễ tự
phư, bề ngoài tỏ vẻ giữ gìn cung kính, mỗi lần vào chầu vua thì ra dáng sợ
sệt như không biết nói gì. Gia Long trách: “Ngươi với ta đã được ơn tri ngộ,
làm quan đến bậc Á khanh, biết việc gì phải nói cho hết chức trách của
mình, sao lại cứ rụt rè sợ hãi, chỉ vâng vâng dạ dạ cho qua chuyện”.
Khi chết: “Đến khi ốm nặng, ông không chiụ uống thuốc, bảo người
nhà sờ tay chân. Họ thưa là đã lạnh cả rồi. Ông nói “được” rồi mất, không
trối lại một điều gì.”
Phạm Quý Thích:
Đoạn trường mộng lý căn duyên liễu,
Bạc mệnh cầm chung oán hận trường
(Trong giấc mộng đoạn trường hiểu rõ căn nguyên cuộc đời người,
Tiếng đàn bạc mệnh tuy đã gẩy xong mà oán hận vẫn còn dai dẳng)
2
Mộng Liên Đường Chủ Nhân:
“Lời văn tả ra hình như có máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm
trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thiá ngậm ngùi, đớn đau như
đứt ruột. Nếu không phải có con mắt trông thấy cả sáu cõi, tấm lòng thấu
suốt nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy.”
3.3.2. Nguyễn Du và những giá trị vượt thời gian
Nói đến Nguyễn Du, trước hết chúng ta nói đến những sáng tác ghi
lại suy tư, cảm xúc cá nhân của ông, đó là thơ chữ Hán. Trong ba tập thơ
chữ Hán để lại: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp
lục, tập thơ nào cũng hay, cũng mang dấu ấn cá nhân rất rõ, nhưng trong
đó phong phú nhất, sâu sắc nhất, để lại nhiều dư vang trong lòng người đọc
nhất là Bắc hành tạp lục. Trong 14 tháng đi sứ Trung Hoa, về không gian
Nguyễn Du đã đi ngược lên phía Bắc đến kinh đô Bắc Kinh Trung Quốc,
thì về thời gian, Nguyễn Du đi ngược lên lịch sử hơn 4000 năm của Trung
Quốc để điểm duyệt lại lịch sử và văn hóa của đất nước này. Đồng thời
Nguyễn Du lần đầu tiên có những trải nghiệm cá nhân trực tiếp về đất nước
vẫn được ngợi ca như hình mẫu lý tưởng của đất nước mình.
Ông không bị quy mô rộng rãi về địa lý, kích thước lớn lao của các
công trình xây dựng, tầm vóc vĩ đại của nền văn hóa Trung Hoa che mất
tầm nhìn của mình. Từ “những điều trông thấy” ông đã có những suy nghĩ
sâu sắc, mới mẻ và rất riêng về đất nước láng giềng này.
Ông nhìn thấy sự phân đôi trong lịch sử và xã hội Trung Hoa: có đất
nước Trung Hoa của những kẻ thống trị sâu hiểm, trí trá, hám lợi, hám lập
đại công, nhưng cũng có đất nước Trung Hoa của những người lương thiện,
những trí thức tài năng bị phỉ báng, bị đọa đày; có Trung Hoa của những
kẻ giàu có, thừa mứa, nhưng cũng có Trung Hoa của những người tha
phương cầu thực, rách rưới, gầy gò, chết đói. Ông vỡ mộng về Trung Hoa:
Tưởng đây no ấm dồi dào,
Hay đâu đây cũng cheo neo khốn cùng.
(Chỉ đạo Trung Hoa tẫn ôn bão,
Trung Hoa diệc hữu phù như thị)
Thái Bình mại ca giả/ Người hát rong ở Thái Bình
Ông tỏ ra thất vọng về con đường Trung Hoa – con đường Trung Hoa
không bằng phẳng, không khoáng đạt như ông từng nghe ngợi ca. Phải
chăng điều ấy cũng thể hiện sự hoang mang về giới chính trị Trung Hoa,
về mô hình Trung Hoa:
Mọi người đều nói đường Trung Hoa bằng phẳng,
Đường Trung Hoa lại như thế này ư!
3
Sâu hiểm quanh co như lòng người.
(Cộng đạo Trung Hoa lộ thản bình,
Trung Hoa đạo trung phù như thị,
Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm)
Ninh Minh Giang chu hành/ Đi thuyền trên sông Ninh Minh
Giữa sự phân đôi của lịch sử và xã hội Trung Hoa, ông lựa chọn chỗ
đứng cho người nghệ sĩ như mình. Ông đứng về phía những Tỷ Can, Khuất
Nguyên, Đỗ Phủ, Văn Thiên Tường; những ông già hát rong ở thành Thái
Bình, những người chết đói bên vệ đường trong cuộc chạy loạn, bốn mẹ
con ăn xin mà ông thấy dọc đường, người đẩy xe trên đường nắng rát ở Hồ
Nam… Vượt lên trên những định kiến hẹp hòi phân chia biên giới quốc
gia, ông tìm thấy mối đồng cảm giữa mình với những người Trung Hoa
khốn khổ kia ở tính người, ở kiếp người vất vả, khổ đau:
Anh đẩy xe kia quê ở đâu,
Mình nhìn nhau, thấy đều vất vả như nhau.
(Hà xứ thôi xa Hán,
Tương khan lục lục đồng.)
Hà Nam đạo trung khốc thử/ Nắng rát trên đường đi Hà Nam
Bắc hành tạp lục có thể được coi như tác phẩm vĩ đại nhất trong kho
tàng thơ ca chữ Hán hàng nghìn năm của dân tộc, nó vĩ đại không phải vì
được sáng tác ra bởi tác giả Truyện Kiều mà từ giá trị tự thân của nó. Nhìn
rộng ra, khi đặt tập thơ ấy bên cạnh những thi tập của Khuất Nguyên, Lý
Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Văn Thiên Tường, Lục Du… hay các nhà thơ
chữ Hán Nhật Bản, Hàn Quốc, chúng ta cũng thấy nó không thua sút, dù
chỉ một chút nào.
Nói đến Nguyễn Du, người Việt chúng ta cũng như bạn bè của chúng
ta trên thế giới, đều nghĩ ngay đến Truyện Kiều – “khúc Nam âm tuyệt
xướng” (từ dùng của Đào Nguyên Phổ).
Khi Nguyễn Du đưa cho người bạn của mình là Phạm Quý Thích
cuốn Đoạn trường tân thanh để đi khắc in ở phố Hàng Gai (Thăng Long),
ông không nghĩ tập giấy dó mỏng manh của mình sẽ trở thành kiệt tác và
có số phận kỳ lạ vào bậc nhất trong các tác phẩm văn chương của xứ sở
này. Nhưng với Phạm Quý Thích, bằng con mắt xanh hiếm có, ông đã tiên
đoán ngay tác phẩm này sẽ có sức sống lâu dài: Bạc mệnh cầm chung oán
hận trường (Tiếng đàn Bạc mệnh của Thúy Kiều đã dứt nhưng oán hận thì
còn mãi). Và quả vậy, từ khi Truyện Kiều được khắc in và truyền bá, thì từ
vua quan cho tới thứ dân ai cũng đọc Kiều, mê Kiều. Các ông vua có tài
văn chương như Minh Mạng, Tự Đức tổ chức cuộc thi vịnh Kiều ở Kinh
4
đô, các quan nhân – thi sĩ lừng danh triều Nguyễn đều đọc Kiều, bình Kiều
và vịnh Kiều: Vũ Trinh, Nguyễn Lượng, Nguyễn Đăng Tuyển (Mộng Liên
Đường Chủ Nhân), Phong Tuyết Chủ Nhân Thập Thanh Thị, Nguyễn Công
Trứ, Hà Tông Quyền, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Đào Nguyên
Phổ… Người ta làm chèo về Kiều, tuồng Kiều, vẽ tranh Kiều, đố Kiều, tập
Kiều, lẩy Kiều… Người dân coi việc biết Truyện Kiều là tiêu chuẩn của
một người biết sống:
Làm trai biết đánh tổ tôm,
Uống trà mạn hảo, xem nôm Thuý Kiều.
Người nông dân cũng rất mê Kiều. Người ta ru Kiều, ngâm Kiều trên
võng, bên bờ tre, ở bờ ruộng, rất nhiều người thuộc lòng Truyện Kiều…
Truyện Kiều đi vào lời ăn tiếng nói, khúc ca điệu hát dân gian:
Sen xa hồ, sen khô hồ cạn,
Liễu xa đào, liễu ngả đào nghiêng.
Anh xa em như bến xa thuyền,
Như Thúy Kiều xa Kim Trọng biết mấy niên tái hồi.
Năm 1884-1885 Abel des Michels1, bác sĩ đồng thời là giáo sư tiếng
Việt ở Paris đã cho xuất bản Kim Vân Kiều tân truyện ở Nhà Ernest Leroux,
Paris và thuyết trình về Truyện Kiều ở Viện Hàn lâm Văn khắc và Mỹ văn
Paris (Académie des Inscription et Belles – Lettres)2 . Từ đây Truyện Kiều
đã bước ra khỏi không gian quốc gia để bắt đầu cuộc hành trình đi đến thế
giới. Từ Pháp, Truyện Kiều đi đến Nhật Bản, Trung Quốc, Tiệp Khắc, Ý,
Anh, Đức, Nga, Ba Lan, Tây Ban Nha, đến tận A-rập, Hungary, rồi lại vòng
về Hàn Quốc, Lào, Thái…Cho đến nay Truyện Kiều đã được dịch ra 23
thứ tiếng với gần 70 bản dịch khác nhau, và con số này chưa phải là con số
cuối cùng.
1
Abel des Michels (1833-1918), cử nhân luật, bác sĩ tại bệnh viện ở Paris vào năm
1857. Ông từng học tiếng Trung Hoa. Ông mở lớp dạy tiếng Việt miễn phí tại Trường
thực hành Sorbonne vào năm 1869, rồi trở thành giảng viên tiếng Việt đầu tiên tại Trung
tâm Ngôn ngữ Đông phương. Ông chưa bao giờ sang Việt Nam và có thể tiếng Việt của
ông không thật tốt. Người giúp ông dịch Truyện Kiều có lẽ là Trần Nguyên Hành, xuất
thân nho học, cử nhân luật tại Paris và là trợ giảng tiếng Việt tại Trung tâm ngôn ngữ
Đông phương từ năm 1879 đến năm 1882. Ngoài ra còn có Michel Duc Chaigneau, con
nuôi vua Gia Long, sinh ra và lớn lên ở Huế (Alain Guillemin: Các bản dịch Truyện
Kiều sang tiếng Pháp, Tạp chí Văn hóa Nghệ An tháng 5 năm 2010,
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhin-ra-the-
gioi/cac-ban-dich-truyen-kieu-sang-tieng-phap)
2
Lời giới thiệu bản dịch tiếng Pháp “Kim Vân Kiều tân truyện” của Abel des Michels,
1884, Nguyễn Thị Thanh Xuân dịch.
5
Điều gì tạo nên sức hút của Truyện Kiều như thế?
Phải chăng vì Truyện Kiều kể cho ta nghe câu chuyện khổ đau của
kiếp người qua bao nhiêu dâu bể? Con người bị săn đuổi, bị bao vây, dồn
ép, bị mua đi bán lại, bị đày đọa mà không ai dám bênh vực, cứu giúp cho
đến khi phải tự chọn lấy cái chết mới thôi.
Truyện Kiều chia sẻ với chúng ta, băn khoăn cùng chúng ta một câu
hỏi lớn về “phận đàn bà” và cũng là số phận con người. Truyện Kiều truyền
đến cho mọi người thông điệp lớn: thông điệp về tình yêu thương, một
thông điệp muôn đời của các tác phẩm lớn, nhưng không bao giờ xưa cũ,
vì các tác phẩm lớn đều nói rất mới, rất hay, rất xúc động về điều ấy.
Truyện Kiều trong khi thể hiện các số phận khác nhau đã đi sâu vào
phân tích tâm lý, từng ngõ ngách tế vi của tâm lý con người, làm cho các
nhân vật trở nên vô cùng sống động, như có thể nhìn thấy ngoài đời, như
có thể cầm tay, chào hỏi, trò chuyện. Đó là Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải,
là Thúc Sinh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú
Bà…Những nhân vật từng bước thẳng từ trang văn ra đến cuộc đời.
Điều kỳ diệu nhất khiến cho Truyện Kiều còn hiện diện giữa chúng
ta hôm nay chính là ngôn ngữ tác phẩm. Đó là một thứ ngôn ngữ nghệ thuật
vô cùng phong phú và tinh tế; nó vừa có cái trang nghiêm cao cả, lại vừa
có cái giản dị bình thường; vừa có cái hào hùng mạnh mẽ, lại cũng có cái
trầm thống bi thương; vừa có cái mượt mà chải chuốt, lại vừa có cái thô
ráp đời thường… Như suối nguồn, như vực sâu không bao giờ cạn. Truyện
Kiều đã đưa tiếng Việt trở thành một thứ ngôn ngữ văn hóa sánh ngang với
các ngôn ngữ lớn nhất trên thế giới. Truyện Kiều là bằng chứng hùng hồn
nhất cho sức sống tiềm tàng của ngôn ngữ dân tộc, của văn hóa dân tộc, và
cũng là của bản lĩnh dân tộc - một dân tộc dù gian khổ, tủi nhục bao nhiêu,
nhưng vẫn không bao giờ chịu bị đồng hóa, không chịu cúi đầu.
Sức sống, sức lan tỏa tác phẩm của Nguyễn Du cho chúng ta những
bài học sâu sắc về thái độ sống của người trí thức và quan niệm sáng tạo
nghệ thuật của người cầm bút. Cuộc sống, đối với Nguyễn Du đó là sự lựa
chọn và giải quyết mâu thuẫn giữa thái độ dấn thân làm người có ích nhưng
đồng thời không bị vong thân trước quyền lực và danh lợi. Sáng tạo nghệ
thuật, đối với Nguyễn Du, đó là con đường gian truân trong sự hoàn thiện
tài năng, học vấn và nhân cách, đó là sự lựa chọn chỗ đứng của người nghệ
sĩ: đứng về phía những người khốn khổ, những góc tối, góc khuất của cuộc
đời để từ đó sáng tạo ra những tác phẩm chân thực, sâu sắc có sức rung
động lòng người, giúp cho con người trở nên trong sáng, cao cả và đẹp đẽ
hơn.
Nguyễn Du đã để lại sự nghiệp tuy không thật đồ sộ về mặt số lượng,
chỉ có 3 tập thơ chữ Hán, một bài văn tế Nôm 184 câu thơ song thất lục bát
6
và một cuốn truyện thơ Nôm 3254 câu lục bát, nhưng sức sống của nó lại
vô cùng mạnh mẽ với những giá trị hết sức phong phú.
Tưởng nhớ đến Nguyễn Du, chúng ta tưởng nhớ một trong những
người Việt Nam vĩ đại nhất của dân tộc chúng ta, một con người được sinh
ra như là sự chung đúc của non sông đất nước, của nền văn hóa sâu sắc và
phong phú của chúng ta, đồng thời cũng là một con người góp phần làm
sâu sắc hơn, phong phú hơn văn hóa chúng ta, làm vẻ vang non sông đất
nước chúng ta, góp phần làm cho dân tộc ta trường tồn và phát triển mãi
mãi.
200 năm trước Nguyễn Du lo không có ai hiểu nỗi lòng mình - Thiên
hạ hà nhân khấp Tố Như ?, chúng ta không dám mạo muội làm người tri
âm của ông, nhưng chúng ta là những người trân trọng tấm lòng của ông,
trân trọng những đóng góp của ông đối với dân tộc. “Những đấng tài hoa”
như ông “Thác là thể phách còn là tinh anh”. Chúng ta đến đây thắp nén
hương lòng tưởng nhớ đến ông, cầm ngọn đuốc soi tỏ những trang văn
“tinh anh” của ông và truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, từ thế hệ chúng
ta cho đến những thế hệ mai sau.
7
CHƯƠNG 3
VĂN HỌC THỜI CUỐI LÊ, ĐẦU NGUYỄN
(THẾ KỶ 18 - THẾ KỶ 19: VĂN HỌC HẬU KỲ TRUNG ĐẠI)
1
Trước kia người ta thường nói Lê Tăng Quýnh là học trò của Nguyễn Đình Chiểu.
Nhưng theo những tài liệu mới phát hiện thì ông chỉ là bạn của Nguyễn Đình Chiểu.
Điều này nghe cũng hợp lý vì như thế có vẻ hợp với lễ nghĩa của các nhà nho hơn.
1
Nhà thơ của sĩ dân Nam Kỳ kháng Pháp
Năm 1859, thực dân Pháp đánh đánh đồn Cần Giờ và chiếm thành Gia
Định, Nguyễn Đình Chiểu chạy về quê vợ ở làng Thanh Ba, huyện Cần
Giuộc.
Năm 1861, quân Pháp liên tiếp hạ các đồn Chí Hòa, Cây Mai, Thuận
Kiều rồi tiến đến Mỹ Tho, Biên Hòa, Gò Công, Cần Giuộc.
Ngày 16-12-1861, dưới sự lãnh đạo của Đỗ Trình Thoại, nghĩa quân
tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc. Nguyễn Đình Chiểu viết bài Văn tế nghĩa
dân chết trận Cần Giuộc để ca ngợi tinh thần dũng cảm của những người
nông dân yêu nước.
Năm 1862, triều đình Huế ký hòa ước Nhâm tuất cắt ba tỉnh miền Đông
Nam bộ cho Pháp, Nguyễn Đình Chiểu lại rời Cần Giuộc về làng An Đức,
tổng Bảo An, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre). Khi
đi ông viết bài thơ Từ biệt cố nhân.
Năm 1864, Trương Định hy sinh. Nguyễn Đình Chiểu viết Văn điếu
Trương Định va Mười hai bài thơ liên hoàn điếu Trương Định.
Năm 1867, Nguyễn Đình Chiểu cùng học trò đi dự lễ cải táng Võ
Trường Toản, vị phu tử của kẻ sĩ Nam bộ từ Gia Định về làng Bảo Thạnh,
huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Ba tỉnh miền Tây Nam kỳ rơi vào tay giặc,
Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử, Nguyễn Đình Chiểu viết 2 bài thơ
điếu Phan Thanh Giản (Điếu Đông các đại học sĩ Phan công nhị thủ).
Năm 1868 trong trận Giồng Gạch (Ba Tri), đốc binh Phan Tòng hy sinh,
Nguyễn Đình Chiểu viết 10 bài liên hoàn điếu ông (Điếu Ba Tri đốc binh
Phan công trận vong thập thủ).
Những năm cuối đời Nguyễn Đình Chiểu sống trong tình yêu thương
của nhân dân vùng Ba Tri Bến Tre, ông vẫn dạy học, làm thuốc và sáng tác
thơ văn. Ông viết một bài văn tế bi hùng tế chung cho sĩ dân Lục tỉnh đã
bỏ mình vì nạn nước: Văn tế sĩ dân trận vong Lục tỉnh. Tác phẩm phẩm
cuối cùng là Ngư Tiều y thuật vấn đáp, một tác phẩm nói về y học, y đức
và đạo làm người.
Ngày 3-7-1888, Nguyễn Đình Chiểu trút hơi thở cuối cùng tại xã An
Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, thọ 66 tuổi. Ngày nhân dân Ba Tri và
nhân dân quanh vùng đưa ông đến nơi an nghỉ cuối cùng, cả cánh đồng An
Bình Đông rợp trắng khăn tang.
Tác phẩm
a) Truyện thơ Nôm: Lục Vân Tiên, Dương Từ Hà Mậu
(Xem Nguyễn Đình Chiểu trong cuộc đời, Văn Đình Hy, Huỳnh Ngọc Trảng và nhiều
người khác, Ty Văn hóa và Thông tin Bến Tre xuất bản, 1982, tr.248)
2
b) Thơ văn yêu nước chống Pháp:
Thơ: Chạy giặc, Ngựa Tiêu Sương, Con dê, Trời bão, Nước lụt, Thơ
điếu Trương Định, 12 bài (Điếu Trương Tướng quân liên hoàn thập nhị
thủ), Thơ điếu Phan Tòng, 10 bài (Điếu Ba Tri đốc binh Phan công trận
vong liên hoàn thập thủ)…
Hịch, cáo thị , sách thuốc - truyện thơ: Cáo thị, Thảo thử hịch, Ngư
Tiều y thuật vấn đáp
Văn tế, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (còn gọi Văn tế nghĩa dân chết trận
Cần Giuộc), Văn điếu Trương Định (Điếu Trương tướng quân văn), Văn tế
sĩ dân Lục tỉnh trận vong (Tế Lục tỉnh sĩ dân trận vong văn).
3
giải tại sao tác phẩm này lại có sức mạnh như thế trong lòng độc giả, đặc
biệt là độc giả Nam Bộ.
1.1. Nho giáo đô thị hóa, nhân dân hóa
Mục đích của Nguyễn Đình Chiểu khi sáng tác Lục Vân Tiên là nhằm
“khuyến thiện trừng ác”, và đưa ra những bài học làm người theo quan
niệm nho gia: làm trai thì trước hết phải trung hiếu, còn làm con gái thì
phải tiết hạnh.
Tại sao một bài học đạo đức nho gia lại có thể được dân chúng đón
nhận nồng nhiệt như vậy ?
Trước hết có thể thấy về phương diện tư tưởng, nho giáo không phải ở
đâu, lúc nào cũng chỉ là bảo thủ, lạc hậu. Đọc kỹ Lục Vân Tiên và một số
tác phẩm khác nữa, chúng ta thấy Nho giáo của Nguyễn Đình Chiểu đang
có những chuyển động mới, khác trước.
Trong Lục Vân Tiên chúng ta thấy có một nhân vật khá đặc biệt đó là
ông Quán. Ông Quán là một người làu thông kinh sử, ngao ngán con
đường công danh, nhưng ông lại không lui về ẩn dật theo con đường quen
thuộc của các nhà nho - ẩn sĩ ngày xưa: làm ngư làm tiều, mà ông lại mở
quán bán hàng, tức là làm thương mại. Nhà nho truyền thống thường coi
khinh buôn bán, trong tứ dân thì thương nhân đứng ở nấc thang cuối cùng
(sĩ, nông, công, thương), triều đình cũng thi hành chính sách “trọng nông
ức thương”. Thế mà nhà nho của Nguyễn Đình Chiểu, nho thì rất nho, đạo
đức thì rất mực đạo đức, nhưng cũng biết đến cả kinh doanh. Nếu xu hướng
ông Quán này được tiếp tục phát triển thì ông có khác gì các nhà nho duy
tân đầu thế kỷ 20: Phan Chu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Trọng
Lội, Hồ Tá Bang.., và xa hơn nữa là các nhà nho thành thị của Trung Quốc
và Nhật Bản.
Lẽ ghét thương của ông Quán là rạch ròi, những người mà ông yêu mến
là các nhà nho, thế nhưng yêu mến một danh sách dài nhiều nhà nho từ
Khổng Tử, Nhan Uyên, Đổng Trọng Thư, Khổng Minh, Đào Tiềm, Hàn
Dũ, Chu Đôn Di, Trình Hạo, Trình Di, thì tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu
dường như đã vượt qua tư tưởng Tống Nho chính thống. Điều này tương
hợp với việc ông rất đề cao Trương Tái, trịnh trọng đưa Tây Minh của
Trương Tái lên ngay trong câu mở đầu truyện Lục Vân Tiên. Như chúng ta
đã biết, Trương Tái là người chủ trương tư tưởng “Khí nhất nguyên luận”,
có tính cách duy vật và cách mạng, vì vậy người ta thường đánh giá ông
tiến bộ hơn nhóm Lý học đời Tống: Chu Đôn Di, Chu Hy, Trình Hạo, Trình
Di.
Nho giáo của Nguyễn Đình Chiểu đang trên quá trình Việt hóa một
cách sâu sắc. Dưới đây là một số ví dụ:
4
Chữ trung, đức mục hàng đầu của nhà nho, được Việt hóa thành khái
niệm “ngay” (ngay ngắn, ngay thẳng):
Nghĩa tình nặng cả hai bên
Nếu ngay cùng chúa lại quên ơn chàng
Câu 1415, 1416
Lòng chung thủy, trung thành của người phụ nữ với chồng cũng
được gọi là “ngay”:
Vân Tiên anh hỡi có hay
Thiếp nguyền một tấm lòng ngay với chàng
Câu 1497, 1498
Chữ hiếu, đức mục đứng sau chữ trung được Việt hóa thành khái niệm
“thảo” (2):
Làm trai ơn nước nợ nhà
Thảo cha ngay chúa mới là tài danh
Câu 1765, 1766
Quan Âm thương đấng thảo ngay
Bèn đem nàng lại bỏ rày vườn hoa
Câu 1523, 1524
Tìm hiểu chi tiết hơn chúng ta có thể thấy nhiều khái niệm khác nữa,
như: “ngũ thường” thành “năm hằng”, “chính khí” thành “hơi chính”...
Thực ra quá trình Việt hóa nho giáo đã diễn ra ngay từ những ngày đầu
Nho giáo du nhập vào nước ta, nhưng đến thế kỷ 19, khi Nho giáo đã hết
sức sống ở miền Bắc thì quá trình ấy ngưng lại. Những khái niệm hàng đầu
của Nho giáo như trung hiếu, người ta không Việt hóa thêm nữa. Thế
nhưng với các nhà nho Nam Bộ, trong đó có Nguyễn Đình Chiểu, quá trình
ấy vẫn đang tiếp tục, điều ấy cho thấy Nho giáo ở Nam bộ, vì nhiều lý do,
vẫn còn sức sống. Khi trung thành ngay, hiếu thành thảo, thì những thói
ngu trung, hiếu một cách mù quáng không còn nữa. Sự thay đổi khái niệm
này thành khái niệm khác, không phải chỉ là vấn đề thay đổi ngôn từ, mà
nội hàm của những khái niệm đó cũng thay đổi.
(2) Thảo là một từ thuần Việt, dùng trong các trường hợp như: thảo ăn, lòng
thơm thảo, dâu hiền rể thảo.., với ý nghĩa đối xử rộng rãi, hay nhường nhịn, chia xẻ
cùng người khác.
5
Những vấn đề tư tưởng nói ở trên cho thấy Nho giáo của Nguyễn Đình
Chiểu không hề già cỗi, khô khan, chết cứng. Điều ấy cũng thể hiện một
cách sinh động qua hệ thống hình tượng các nhân vật trong truyện.
1.2. Bài ca về lòng trượng nghĩa, tình nghĩa và đạo nghĩa ở đời
Lục Vân Tiên là nhân vật lý tưởng của nhân dân ta thời xưa. Chàng là
hiện thân của người con trai trung hiếu, nhưng không phải chỉ có trung hiếu.
Chàng giỏi võ, có lòng trượng nghĩa:
Thấy câu kiến nghĩa bất vi
Làm người như thế cũng phi anh hùng
Chàng giỏi cả văn chương chữ nghĩa, thơ cũng hay, mà học cũng giỏi.
Chàng có cái dễ thương của một chàng trai mới lớn, gặp cướp Phong Lai
thì không sợ mà xông ngay vào cho một gậy, nhưng khi có một cô gái tặng
trâm cho mình lại mắc cỡ đến mức không dám quay mặt lại:
Thưa rằng: Nay gặp tri âm
Xin đưa một vật để cầm làm tin.
Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
Nguyệt Nga liếc thấy càng thìn nết na.
Chàng giấu nhịp đập con tim của mình bằng một cách nói vụng về, cộc
lốc:
Đưa trâm chàng đã làm ngơ
Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ.
Vân Tiên ngó lại rằng: “Ừ
Làm thơ cho kịp bây chừ chớ lâu !”
Lục Vân Tiên phải trải qua nhiều cay đắng: mẹ mất, bị từ hôn, bị mù
mắt, bị đẩy vào hang sâu... và chàng đã may mắn được những người tốt và
Trời Phật giúp đỡ. Lục Vân Tiên không phải là nhân vật tài tử, vì vậy truyện
Lục Vân Tiên cũng không phải là truyện tài tử giai nhân. Lục Vân Tiên
có cả cái tài hoa đa tình của Kim Trọng, cái nghĩa hiệp của Từ Hải, cái
truân chuyên, thật thà của Thạch Sanh...
Truyện Lục Vân Tiên không hẳn là một câu chuyện về trung hiếu tiết
nghĩa mà là câu chuyện về tình nghĩa sống ở đời, hay đúng hơn trong Lục
Vân Tiên, đạo đức và tình nghĩa thống nhất với nhau. Quan hệ cha con,
chồng vợ, anh em, thầy tớ là quan hệ hai chiều, có tính chất tình cảm chứ
không phải là quan hệ nghĩa vụ một chiều từ dưới lên, có tính chất lí tính
như quan niệm cực đoan của Nho giáo. Ví dụ như quan hệ giữa Lục Vân
Tiên và Tiểu Đồng. Tiểu Đồng hết lòng trung thành với chủ, nghe tin chủ
chết thì “nằm lăn bên mả khóc than một hồi”. Ngược lại, nghe tin Tiểu
6
Đồng bị cọp ăn thì thầy cũng “than khóc nằm lăn” y như tớ. Kiều Nguyệt
Nga chung thủy với Lục Vân Tiên, thì ngược lại Lục Vân Tiên cũng một
lòng một dạ với nàng...Thế giới tình cảm trong Lục Vân Tiên tràn đầy tình
nghĩa, và điều ấy làm cho tác phẩm có tính dân tộc và nhân dân sâu sắc.
Lục Vân Tiên là tác phẩm thấm nhuần tinh thần đạo nghĩa. Giống như
ca dao, ca dao không chỉ là nỗi lòng của người lao động, mà cùng với tục
ngữ, nó còn là bộ bách khoa về phép ứng xử của người lao động ngày xưa.
Tác phẩm đã đưa ra rất nhiều những tấm gương sinh động để khuyên răn
người ta sống một cuộc sống đạo đức, có tình nghĩa trước sau. Sống chung
thủy thì phải chung thủy như Nguyệt Nga – đã nguyền gắn bó thì dù có
phải chết cũng không sai lời. Làm bạn thì phải như Tử Trực, kết nghĩa anh
em rồi thì vợ bạn (chưa cưới) là chị dâu mình, dù có đẹp đến mấy, dù có
mời gọi mình đến mấy cũng không làm càn. Làm cha thì phải như Lục ông,
Kiều công. Làm tớ thì phải như Tiểu Đồng, Kim Liên. Còn làm trai thì phải
như Vân Tiên, Hớn Minh, Tử Trực v.v... Ngược lại, đừng sống như Võ Thể
Loan, Võ công, Bùi Kiệm, Trịnh Hâm ...
Lục Vân Tiên là bài ca về sức chiến đấu của con người chống lại cái
xấu, cái ác. Dù trải qua bao nhiêu gian truân cay đắng thì người tốt vẫn
chiến thắng. Kẻ xấu dẫu có lúc đắc thế nhưng cũng chỉ là tạm thời, cuối
cùng vẫn bị trừng trị. Lục Vân Tiên vừa giống với tiểu thuyết, vừa giống
với anh hùng ca, lại vừa giống với truyện cổ tích. Sức hấp dẫn của Lục Vân
Tiên là ở chỗ ấy, nó được nhân dân yêu mến và truyền tụng cũng vì thế.
2. Thơ văn yêu nước chống Pháp của Nguyễn Đình Chiểu
2.1. Hình tượng người nông dân kháng Pháp
Thực dân Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. Tiếng đại bác vọng
vào tai và nhói vào tim người nghệ sĩ mù bên sông Bến Nghé. Ông nghe
rất rõ, nghe bằng đôi tai rất thính của người mù và ông cũng nhìn thấy rất
rõ, không phải nhìn bằng đôi mắt mù, mà bằng khối óc của người trí thức
và bằng trái tim của người nghệ sĩ:
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bầy chim dáo dác bay.
Ông hiểu rằng một thời kỳ đau khổ và tủi nhục đối với nhân dân Nam
Bộ và cả nước đã bắt đầu.
Bài thơ trở thành tác phẩm mở đầu cho dòng văn học yêu nước chống
Pháp nửa cuối thế kỷ XIX, và tác giả của nó trở thành ngọn cờ đầu của trào
lưu văn học này.
7
Không trực tiếp đánh giặc bằng súng gươm được, Đồ Chiểu chọn lấy
cây bút. Nhà thơ đã ghi lại cả một thời kỳ đau thương và vĩ đại của dân tộc
với một thái độ yêu ghét rõ ràng, đúng đắn để cổ vũ cho cuộc kháng chiến
và giữ lấy ngọn lửa yêu nước trong nhân dân.
Cuộc kháng chiến ở Nam Bộ là một hiện thực rất mới mẻ. Đó là cuộc
chiến tranh nhân dân: cuộc chiến tranh của những người nông dân tự mình
đứng lên chống giặc, dưới sự chỉ huy của những lãnh tụ nghĩa binh từ nhân
dân mà ra.
Thực dân Pháp xâm lược nước ta, triều đình rối mù trong những cuộc
bàn cãi chiến, thủ, hòa. Triều đình vừa chống giặc lại vừa sợ giặc. Người
nông dân chẳng có gì phải suy nghĩ đắn đo nhiều, đạo lý ông bà truyền lại
mách bảo họ một sự lựa chọn giản đơn: “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”.
Thế là họ cầm vũ khí đứng lên, họ làm ra lịch sử theo ý muốn của mình:
lịch sử của những người nông dân chống Pháp. Thời đại đã đưa người nông
dân lên sân khấu chính trị trở thành nhân vật chính, người nghệ sĩ chỉ có
nhiệm vụ nhìn nhận ra hiện thực mới này và phản ánh nó. Trong khi đại đa
số các nhà thơ khác vẫn còn say sưa với loại nghệ thuật cao quý trong tháp
ngà với những người quân tử kiểu cũ, thì người nghệ sĩ mù Nguyễn Đình
Chiểu là người đầu tiên đã sáng suốt phát hiện ra hiện thực mới này và đưa
nó vào thơ văn.
Nếu như trong cuộc cách mạng Pháp, hoạ sĩ Delacroix đã tạo ra hình
tượng tuyệt đẹp về con người đấu tranh cho tự do trong bức họa nổi tiếng
Thần Tự Do trên chiến lũy, tượng trưng cho tinh thần của cuộc cách mạng
ấy, thì nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng tạo ra hình tượng bất hủ về người
nông dân Việt Nam đứng lên chống lăng vì nền độc lập trong bài văn bi
hùng Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Chưa bao giờ trong văn học nước nhà,
người nông dân lại được thể hiện với sức mạnh và vẻ đẹp như thế. Họ
không còn là một đám đông đói rách “yết can trảm mộc” - giơ sào làm cờ,
chặt cây làm giáo trong các cuộc nổi dậy vì áo cơm của bản thân mình nữa,
mà lần này họ xuất hiện với vẻ đẹp tinh thần của những con người vì nghĩa
lớn: vì nền độc lập của dân tộc. Họ không chỉ đơn giản là nhân vật hành
động, mà là nhân vật tư tưởng. Năm thế kỷ trước, Nguyễn Trãi đã khắc họa
nên hình tượng Lê Lợi, người anh hùng cứu nước trong áng “thiên cổ hùng
văn” Cáo bình Ngô. Đến bây giờ là Nguyễn Đình Chiểu. Tấm lòng đau đáu
yêu nước lo đời là một, chỉ có một điều khác: ngày xưa là một vị thiên tử,
còn bây giờ là những người nông dân:
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan
như trời hạn trông mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mạt như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
8
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
Khi ra trận, người nghĩa sĩ tự trang bị cho mình bằng những vật dụng
quen thuộc hàng ngày: cái nùi rơm để hút thuốc, con dao phay để làm bếp...
Những vật dụng như thế bỗng chốc trở thành vũ khí để chống chọi với “đạn
nhỏ đạn to”, “tàu thiếc tàu đồng”. Cái gì đã tạo nên những phép thần kì ấy?
Đó chính là sức mạnh của ý chí con người, của lòng yêu thiết tha quyền tự
chủ của dân tộc mình.
Chấp nhận đối đầu với vũ khí tối tân, đó là sự lựa chọn tự giác của
những người nông dân, một sự lựa chọn quả cảm. Chính tinh thần ấy đã
tạo nên sức mạnh phi thường của họ. Nguyễn Đình Chiểu đã vẽ nên bức
tranh công đồn sinh động và hào hùng:
Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi
giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to xô của xông vào, liều mình như
chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho Mã tà, Ma ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Trong bức tranh ấy, tung hoành giữa chiến trường chỉ có người nông
dân mộ nghĩa. Hình ảnh của họ in lồng lồng trên nền trời của Tổ Quốc.
2.2. Hình tượng người lãnh tụ nghĩa binh
Về những lãnh tụ nghĩa binh, Nguyễn Đình Chiểu viết về Trương Định
và Phan Tòng, trong đó nổi bật lên hơn hết là bài Văn điếu Trương Định
chùm 12 bài Thơ điếu Trương Định.
Trong Văn điếu Trương Định (tên gọi đầy đủ là Điếu Trương tướng
quân văn), Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện rõ vai trò của đám đông thầm
lặng như là nhân tố quyết định của cuộc kháng chiến. Chính họ chứ không
phải ai khác, đã tạo ra Trương Định như là Trương Định mà lịch sử đã biết.
Họ đã ngăn cản không cho ông trở thành Lãnh binh, một võ quan phong
kiến mà đưa ông lên làm Bình Tây đại nguyên soái, một anh hùng kháng
chiến. Cái mới của hiện thực là như vậy, và cái tầm vóc lớn lao của phong
trào du kích này là như vậy. Nguyễn Đình Chiểu phát hiện ra hiện thực ấy,
ông viết:
Bởi lòng chúng chẳng nghe Thiên tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã
tiền;
9
Theo bụng dân phải chịu tướng quân phù, gánh vác một vai khổn
ngoại.
Đôi mắt Đồ Chiểu bi mù lòa mà tầm nhìn của người lại rất sáng tỏ !
Nguyễn Đình Chiểu cũng như Trương Định không phải là không biết
đến sức mạnh của quân Pháp, không phải là không biết tương quan lực
lượng hết sức chênh lệch, nhất là lại bị triều đình lại cầm giáo đâm từ phía
sau lưng. Đại đồn khi trước do danh tướng Nguyễn Tri Phương chỉ huy còn
thất bại, nữa là... Nhưng không lý giặc mạnh quá thì đầu hàng, không lý
triều đình đầu hàng rồi thì mình cũng cam tâm cúi đầu. Nhân dân Nam Bộ
vẫn đứng lên dưới lá cờ Trương Định chống lại thực dân Pháp. Đó là cuộc
chiến tranh “vì nghĩa” và cái nghĩa lớn nhất là nghĩa vì Tổ quốc:
Vì nước tấm thân đã gửi còn mất cũng cam:
Giúp đời cái nghĩa đáng làm nên hư nào nại.
Khi so sánh tính chất đặc biệt của Nho giáo các nước Đông Á, nhiều
học giả cho rằng người Trung Quốc nhấn mạnh ở chữ Hiếu, người Nhật
Bản ở chữ Trung, người Triều Tiên ở chữ Thuần, còn người Việt thì ở chữ
Nghĩa (3). Vì thế nói đến phong trào chống Pháp của nhân dân Nam Bộ,
trong đó có phong trào Trương Định, Nguyễn Đình Chiểu nói là “vì nghĩa”,
vì nước, tức là nói được đúng vấn đề bản chất nhất. Một lần nữa ta phải
phục con mắt của cụ Đồ là sáng suốt.
Nguyễn Đình Chiểu đã dùng những lời văn trang trọng và hào hùng
nhất để ngợi ca người anh hùng Trương Định. Đây là bài mở đầu trong một
vòng chuỗi liên hoàn 12 bài Thơ điếu Trương Định:
Trong Nam tên họ nổi như cồn,
Mấy trận Gò Công nức tiếng đồn.
Dấu đạn hãy rêm tàu bạch quỷ,
Hơi gươm thêm rạng thể hoàng môn.
Ngọn cờ phấn nghĩa trời chưa bẻ,
Cái ấn bình Tây đất vội chôn.
Nỡ khiến anh hùng rơi hạt lệ,
Lâm râm ba chữ điếu linh hồn.
Cuộc kháng chiến của nhân dân Nam bộ lần lượt bị nhấn chìm vào
trong biển máu. Tiếng khóc của người nghệ sĩ mù Đồ Chiểu là tiếng khóc
Xem Nho giáo ở Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam của Tsuboi
3
Yoshiharu, Đoàn Lê Giang dịch, in trong Đại cương văn hóa phương Đông, Gs.Lương
Duy Thứ (chủ biên), NXB.Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, 2000.
10
đưa linh của cả một thời đại. Dân tộc đã gửi nỗi đau, nỗi uất hận của mình
vào những bài văn tế bi hùng ấy - bi hùng hơn hết cổ kim. Chúng ta hãy
nghe:
Khóc là khóc nước nhà cơn bấn loạn, hôm mai vắng chúa thua buồn
nhiều nỗi khúc nhôi;
Thương là thương bờ cõi lúc qua phân, ngày tháng trông vua, ngơ
ngẩn một phương trẻ dại.
Trời Bến Nghé mưa dầm sùi sụt thương đấng anh hùng gặp thuở
gian truân;
Đất Gò Công cây cỏ ủ ê, cám niềm thần tử mắc nơi họa hại.
Điếu Trương tướng quân văn
Và đây là tiếng khóc sĩ dân Lục tỉnh bỏ mình vì nạn nước. Còn ai xứng
đáng hơn Đồ Chiểu để tế những vong hồn này. Lục tỉnh bị cắt lìa ra khỏi
thân thể dân tộc, Đồ Chiểu đã tiên cảm thấy rằng còn lâu lắm mới có ngày
trở lại về với Tổ Quốc (quả là đến 80 hay hơn 100 năm sau mới thống nhất).
Ngày xưa Thái tử Đan nước Triệu làm con tin cho Tần, người Tần hẹn
chừng nào ngựa mọc sừng mới được trở về cố quốc. Dân Lục tỉnh đang bị
người Pháp bắt làm con tin biết bao giờ mới được về lại mảnh đất ông cha:
Sống thời chịu nắng sương trời một góc, khó đem sừng ngựa hẹn quy
kỳ;
Thác rồi theo mưa ngút biển muôn trùng, khôn mượn thư nhàn đưa
tin tức.
Thấp thoáng hồn hoa phách quế, lòng cố hương gửi lại bóng trăng
thu;
Bơ vơ nước quỷ non ma, hơi âm sát về theo luồng gió bấc.
Tế Lục tỉnh sĩ dân trận vong
Thơ điếu và văn tế của Nguyễn Đình Chiểu đã kết thành một vòng hoa
bằng nước mắt khóc cho sĩ dân Lục tỉnh, khóc cho nước nhà vào những
năm tháng đau thương, bi tráng nhất của lịch sử. Giáo sư Trần văn Giàu
đã nói rất chí lý rằng: “Ví như chỉ còn lưu lại mấy bài văn tế và hịch thôi,
thì Đồ Chiểu cũng xứng đáng được suy tôn như một nhà văn cổ điển lớn.”
(Vì sao tôi thích đọc Nguyễn Đình Chiểu).
2.3. Lòng đạo xin tròn một tấm gương
Cuối cùng thì đất nước rơi vào tay giặc. Ngày xưa Đồ Chiểu đã một
lần tỵ địa từ Gia Định về Ba Tri (*): “Vì câu danh nghĩa phải đi ra / Day
mũi thuyền nam dạ xót xa / Người dễ muốn chi nương đất khách / Trời đà
(*)
Lúc bấy giờ thuộc Vĩnh Long , là đất của triều đình
11
khiến vậy mến vua ta” (Từ biệt cố nhân). Ba tỉnh miền Tây lại rơi vào tay
Pháp. Không thể tiếp tục tỵ địa mãi được – mình đi thì bỏ dân cho ai ?
Nguyễn Đình Chiểu ở lại, sống và chia xẻ đau khổ với nhân dân. Đây cũng
là một thái độ trí thức rất đáng kính trọng. Ông làm thuốc, sống trong sạch
và bất hợp tác với giặc. Nguyễn Đình Chiểu viết tác phẩm cuối cùng: Ngư
Tiều y thuật vấn đáp, để truyền lại những điều tâm huyết của đời mình -
cuộc đời của một thầy giáo, người thầy thuốc và người nghệ sĩ – tác phẩm
viết ra để truyền lại kinh nghiệm chữa lành những nỗi đau về thân xác và
về tâm hồn con người. Về phương diện văn học, đây là tác phẩm già dặn
nhất của ông. Đến tác phẩm này, Nguyễn Đình Chiểu đã đi đến tận cùng
của sự phản kháng triều đình phong kiến. Nếu hiểu văn chương nhà nho
thì người ta phải giật mình khi đọc Ngư Tiều y thuật vấn đáp, thấy cụ Đồ
dám gọi thẳng thời này là thời Ngũ quý, đất Nam bộ bị cắt là đất U, Yên
mà triều đình Hậu Tấn dâng cho Khiết Đan, và theo lô gich ấy thì vị “vua
thánh” đương thời: Tự Đức chỉ là Thạch Kính Đường, vua bán nước nhà
Hậu Tấn:
Kể từ Thạch Tấn ở ngôi,
U, Yên mấy quận cắt bồi Khiết Đan
Sinh dân nào xiết bùn than
U, Yên trọn cũng giao bàn về Liêu.
Không thể làm một Lục Vân Tiên, mà cũng không thể làm người nghĩa
sĩ được, Nguyễn Đình Chiểu đành phải làm một Kỳ Nhân Sư. Kỳ Nhân Sư
trong Ngư Tiều y thuật vấn đáp, tác phẩm cuối cùng của Đồ Chiểu đã tự
xông mù đôi mắt của mình để bất hợp tác với giặc và để khỏi nhìn thấy
cảnh nước mất dân khổ:
Thà cho trước mắt mù mù
Chằng thà ngồi thấy kẻ thù quân thân
Thà cho trước mắt vô nhân
Chẳng thà ngồi ngó sinh dân nghiêng nghèo
Thà cho trước mắt vắng hiu
Chẳng thà thấy cảnh trời chiều phân xâm
Đối với chúng ta ngày nay, hành động ấy có vẻ tiêu cực. Nhưng nói gì
thì nói hành động của Kỳ Nhân Sư cũng thể hiện sức mạnh tinh thần và vẻ
đẹp đạo đức của người trí thức: dù có phải chịu đui mù cũng không chịu
làm những điều vô đạo. Ngày xưa nhà nho quan niệm trong vũ trụ có một
loại khí gọi là “chính khí”. Chính khí làm nên cái lớn lao của vũ trụ: núi
cao, sông dài, trăng sao... Ở con người chính khí ấy là khí “hạo nhiên”. Khí
hạo nhiên hiện lên thành cái thẻ tre viết sử của bốn anh em sử quan nước
12
Tề, ba người anh chịu chết chứ nhất định không chịu viết sai sự thật; thành
ngòi bút của Đổng Hồ làm gian thần tặc tử phải kinh hồn; thành quả chùy
Bác Lãng Sa mà Trương Lương phục kích mưu giết Tần Thủy Hoàng;
thành cờ tiết của Tô Vũ, dẫu bị bắt đi chăn dê 19 năm trời vẫn trung thành
với vua Hán; thành cái đầu của Nghiêm Nhan chịu chém chứ không hàng
đối phương; thành cái lưỡi của Cảo Khanh, cái miệng Trương Tuần, bài
biểu Khổng Minh, mái chèo Tổ Địch .v.v...Và bây giờ chính khí đang ngụ
ở đôi mắt mù của thầy Kỳ Nhân Sư:
Chớ khinh mang tật đui mù
Trời còn hơi chính gởi đôi mắt thầy
Trong bóng đêm của tật nguyền và của những tháng ngày mất nước,
Nguyễn Đình Chiểu vẫn không nguôi hy vọng một ngày kia đất nước sẽ
quang phục:
Chừng nào thánh đế ân soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sông.
Kết luận
Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương sáng về đạo làm người và đạo cầm
bút. Thời bình, văn chương phải góp phần bồi đắp cho một cuộc sống đạo
đức, có tình nghĩa trước sau. Khi đất nước lâm nguy thì thơ văn phải góp
phần “tải đạo” yêu nước thương nòi. Trong những năm tháng đau thương
và hào hùng chống thực dân Pháp xâm lăng, Nguyễn Đình Chiểu là biểu
tượng của người trí thức Nam Bộ và cũng là biểu tượng chung cho người
trí thức nước ta cuối thế kỷ XIX, thơ văn của ông là những bài ca bi tráng
bất hủ về lòng yêu nước của nhân dân ta. Ngày nay đọc lại Nguyễn Đình
Chiểu ta vẫn thấy rất nhiều điều mới mẻ, giống như nhìn một ngôi sao trên
bầu trời – “càng nhìn càng thấy sáng” (Phạm Văn Đồng).
13
PHẦN 2: VĂN HỌC HIỆN ĐẠI
CHƯƠNG 1: VĂN HỌC THỜI KỲ CẬN ĐẠI (1900-1945)
1.2. Văn học Duy tân: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh
Văn học Duy tân: được xem như trung tâm của sự hiện đại hoá văn học
mười năm đầu thế kỷ XX, bao gồm thơ văn của các chí sĩ yêu nước Đông
Kinh nghĩa thục, thơ văn Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh.
***
Tiểu sử:
Từ năm 1908-1925, ông sống lưu vong tại Trung Quốc và Thái Lan. Năm
1912, Phan Bội Châu thành lập Việt Nam quang phục hội. Năm 1922, Phan
Bội Châu cải tổ Việt Nam quang phục hội thành Đảng Việt Nam quốc dân.
Năm 1925, Phan Bội Châu bị giặc Pháp bắt cóc giải về nước, kết án tử hình.
Nhưng trước sự đấu tranh quyết liệt của người dân Việt Nam, thực dân Pháp
Ngoài ra, Phan Bội Châu còn để lại nhiều sáng tác khác, được tập hợp và
in trong các tuyển tập như: Phan Sào Nam văn tập, Phan Sào Nam tiên sinh
quốc văn thi tập, Phan Bội Châu toàn tập.
ÁI QUỐC
*Chú giải: Đoạn thơ trên trích trong bài “Ái quốc” của Phan Bội Châu,
được viết năm 1910. Lời thơ trầm hùng, khi sôi nổi, khi tha thiết sâu lắng…
tất cả nhằm khơi dậy trong lòng người Việt một niềm yêu thương và tự hào
dân tộc, tự hào về bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha. Niềm
yêu thương và tự hào ấy rồi sẽ trở thành động lực để mỗi người dân Việt Nam
đứng lên giành độc lập cho dân tộc, làm chủ vận mệnh của mình.
Tiểu sử:
Phan Châu Trinh chủ trương đường lối đấu tranh ôn hoà. Ông đẩy mạnh
phong trào duy tân “chấn dân khí, khai dân trí, hậu dân sinh”, chủ trương duy
tân để tự cường rồi giành độc lập.
Năm 1908, Phan Châu Trinh bị thực dân Pháp bắt đày đi Côn Đảo. Năm
1911, nhờ sự can thiệp của hội Nhân quyền Pháp, ông được tha. Sau đó ông
sang Pháp hoạt động, đến năm 1925 thì về nước. Ngày 24/3/1926 Phan Châu
Trinh mất tại Sài Gòn.
Chương 1_Văn học cận đại 3
Tác phẩm chính:
Dịch nghĩa:
Núi sông không còn nước mắt để khóc các bậc anh hùng.
Nhiều người đang say mê trong giấc mộng văn chương bát cổ.
Dịch thơ:
(Nguyễn Văn Dương dịch thơ - Trích từ Tuyển tập Phan Châu
Trinh, tr.96, NXB. Văn hóa - Thông tin, 2006)
*Chú giải: Năm 1905, Phan Châu Trinh cùng hai người bạn là Huỳnh
Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đi vào Nam để tìm hiểu dân tình, đồng thời vận
động cho phong trào duy tân. Khi đi ngang qua Bình Định, nhân có kỳ thi
khảo hạch toàn tỉnh, ba ông đã giả danh thí sinh, lấy tên Đào Mộng Giác vào
thi. Phan Châu Trinh đã làm bài thơ trên, còn Huỳnh Thúc Kháng và Trần
Quý Cáp thì làm bài phú Lương Ngọc Danh Sơn. Mục đích của các ông là
thức tỉnh đám sĩ tử chỉ biết miệt mài lo chuyện đèn sách mà quên thế sự, quên
nỗi nhục mất nước. Các bài này gây chấn động giới nho sinh. Chẳng bao lâu
1.3. Phong trào Thơ Mới: Thế Lữ, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính
Từ năm 1932-1945 Văn học Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn,
với đỉnh cao là Phong trào Thơ Mới. Nguyên nhân chính:
(1) Việc tiếp xúc sâu rộng với văn hoá phương Tây qua các hoạt động
thương mại, sản xuất và đặc biệt là giáo dục, báo chí, đã mang lại những thay
đổi vượt bậc đối cho nền văn học Việt Nam. Một đội ngũ sáng tác mới ra đời.
Họ chủ yếu là những nhà văn, nhà thơ được đào tạo từ hệ thống giáo dục
Pháp Việt, chịu ảnh hưởng trực tiếp từ nền văn hoá Pháp, văn học Pháp. Việc
tiếp xúc với những cái mới từ nền văn hoá phương Tây đã thôi thúc họ không
ngừng tìm kiếm, thể nghiệm những giá trị mới. Môi trường sáng tác văn học
chuyên nghiệp, do đó, được hình thành.
(2) Chữ quốc ngữ sau khi được đưa vào giảng dạy (ở bậc tiểu học, từ năm
1925), đã nhanh chóng phát triển, được sử dụng rộng rãi trên báo chí, và dần
hoàn thiện. Đến những năm 1930, chữ quốc ngữ đã trở nên uyển chuyển và
tinh tế hơn, có khả năng biểu đạt các ý niệm trừu tượng và mọi cung bậc cảm
xúc của con người. Đó chính là những yếu tố quan trọng đưa đến sự phát triển
của văn học Việt Nam giai đoạn này.
Hiểu một cách đơn giản thì Thơ Mới là thơ xuất hiện sau năm 1932 và
được làm bởi các “nhà tân học”, tức những người chịu ảnh hưởng sâu sắc từ
những câu thơ, câu văn Pháp.
Phan Khôi được xem là người khởi xướng cho Phong trào Thơ Mới với
bài thơ Tình già được đăng trên báo Đông Tây (1932) và sau đó đăng lại trên
tờ Phụ nữ tân văn (1932). Tuy nhiên, theo Hoài Thanh, phải đến năm 1933
khi Phong Hoá số 31 (24/01/1933) đăng lại bài thơ của Phan Khôi và một số
bài thơ của Lưu Trọng Lư thì Thơ Mới mới chính thức trở thành một phong
trào rộng khắp.
Có thể hình dung các giai đoạn phát triển của Thơ Mới như sau:
Giai đoạn đầu (1932-1935): Các nhà thơ tìm kiếm và thể nghiệm những
cách viết mới, hướng đến một cấu trúc thơ tự do, phóng khoáng, mang hơi thở
của ngôn ngữ đời thường. Các tác giả tiêu biểu của thời kỳ này: Thế Lữ, Lưu
Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp.
Giai đoạn thứ hai (1936-1939): Xuất hiện nhiều tên tuổi mới. Thơ của họ
có những cách tân táo bạo hơn. Mỗi nhà thơ mang đến một phong cách sáng
tạo riêng. Những tên tuổi tiểu biểu: Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế
Lan Viên, Bích Khê, Tế Hanh, Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ.
Giai đoạn thứ ba (1940-1945): Các nhà thơ có xu hướng đi vào khai thác
đời sống tâm linh, tôn giáo. Có thể kể đến như Huy Cận (Kinh cầu tự, 1942),
Chế Lan Viên (Vàng sao, 1942), Đinh Hùng (Mê hồn ca, viết thời kỳ này
nhưng được in năm 1954). Ngoài ra, đáng chú ý ở giai đoạn này đó là sự xuất
hiện của Xuân Thu nhã tập (1942). Đây là tập thơ có sự góp mặt của nhiều
nghệ sĩ như Đoàn Phú Thứ, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Xuân Sanh. Bước đi
mới của các nhà thơ này đó là phá bỏ ý nghĩa của câu chữ và tập trung vào
việc tìm kiếm tính nhạc cho thơ. Đây được xem là một cách tân lớn trong
hành trình thơ ca Việt Nam giai đoạn này.
Tiểu sử:
Thế Lữ (1907-1989) là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà phê
bình nghệ thuật và nhà hoạt động sân khấu Việt Nam. Thế Lữ
sinh ra tại Hà Nội. Tên khai sinh của ông là Nguyễn Đình Lễ,
sau được đổi thành Nguyễn Thứ Lễ vì ông là con thứ. Lớn
lên, ông lấy bút hiệu là Thế Lữ có nghĩa là “người khách đi
qua trần thế”. Tên tuổi của ông được nhiều người biết đến
vào những năm 1930. Ông được xem là người tiên phong cho
phong trào Thơ Mới.
Từ năm 1934, Thế Lữ tham gia vào nhóm Tự Lực văn đoàn và dành nhiều
thời gian cho việc sáng tác văn chương. Cũng trong thời gian này, ông còn
đảm nhận các vai trò khác như: nhà báo, nhà phê bình, biên tập viên của hai
tờ Phong hoá và Ngày nay. Kể từ năm 1937, Thế Lữ tập trung chủ yếu vào
lĩnh vực sân khấu. Ông trở thành diễn viên, đạo diễn, nhà viết kịch, và cũng là
chủ tịch đầu tiên của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam (1957-1977).
Gió trăng ngàn (1941) Trại Bồ Tùng Linh Gói thuốc lá (1940)
(1941)
TAN VỠ
Thôi nhé đường đời đã biết nhau,
XUÂN DIỆU
Tiểu sử
Xuân Diệu (1916-1985) tên đầy đủ là Ngô Xuân Diệu, quê ở Hà Tĩnh.
Xuân Diệu lớn lên ở Quy Nhơn. Sau khi học hết bậc
thành chung (tương đương phổ thông cơ sở), ông ra Hà
Nội, rồi vào Huế học tiếp. Sau khi tốt nghiệp tú tài, ông
có thời gian dạy học và làm tham tá ở Sở đoan ở Mỹ
Tho, nhưng chủ yếu ông vẫn dạy hoạt động văn học.
Xuân Diệu tham gia cách mạng từ trước tháng Tám 1945. Từ đó cuộc đời
và sự nghiệp văn học của ông gắn bó với sự nghiệp cách mạng. Xuân Diệu đã
để lại gần 50 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau (văn, thơ, nghiên cứu
phê bình, dịch thuật). Ông xứng đáng được xem là một nghệ sĩ lớn của Việt
Nam.
Thơ gồm các tập như: Thơ Thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Ngọn
quốc kỳ (1945), Hội nghị non sông (1946), Dưới sao vàng (1949), Ngôi sao
(1955), Riêng chung (1960), Mũi Cà Mau (1962), Cầm tay (1962), Mội khối
Bút ký: Trường ca (1945), Miền Nam nước Việt (1945), Việt Nam nghìn
dặm (1946), Việt Nam trở dạ (1948), Triều lên (1958)
Tiểu luận phê bình: Thanh niên với quốc văn (1945), Tiếng thơ (1951),
Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); Phê bình giới thiệu thơ (1960),
Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Đi
trên đường lớn (1961), Và cây đời mãi mãi xanh tươi (1971), Mài sắt nên kim
(1977), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (1981-1982), Tìm hiểu Tản Đà (1982).
Dịch thơ: Thi hào Nadim Hickmét (1962), Vây giữa tình yêu (1968), Việt
Nam hồn tôi (1974), Nhà thơ Nicola Ghiden (1981).
GIỤC GIÃ
(Nguồn: Xuân Diệu, Gửi gương cho gió, NXB Hội nhà
văn, 1992)
NGUYỄN BÍNH
Tiểu sử
Mười ba tuổi, Nguyễn Bính bắt đầu làm thơ. Năm 1932 Nguyễn Bính ra
Hà Nội và bắt đầu nổi tiếng với bài thơ Cô hái mơ. Năm 1940 Nguyễn Bính
được Giải khuyến khích của Tự lực văn đoàn với tâp thơ Tâm hồn tôi. Năm
1943 Nguyễn Bính vào Nam, 1944 được giải nhất văn học Nam Xuyên ở Sài
Gòn với truyện thơ Cây đàn tỳ bà. Trong thời gian kháng chiến chống Pháp,
Nguyễn Bính hoạt động ở Nam Bộ. Nguyễn Bính mất vào sáng 30 Tết năm
Ất Tỵ (tức ngày 20/1/1966).
Thơ gồm các tập như: Lỡ bước sang ngang (1940), Tâm hồn tôi (1940),
Hương cố nhân (1941), Mười hai bến nước (1942), Người con gái ở lầu hoa
(1942), Trả ta về thơ (1955), Đồng Tháp Mười (1955), Đêm sao sáng (1962).
TƯƠNG TƯ
*Chú giải: Bài thơ mang giọng điệu nhớ nhung, trách móc của chàng trai/cô
gái đang yêu. Lời thơ dung dị, gần gũi với ca dao, dân ca. Thể thơ lục bát
khiến các câu thơ đọc lên nghe nhịp nhàng, đầy nhạc tính. Thơ Nguyễn Bính
làm rung động lòng người bởi chính sự bình dị mà sâu lắng. Các yếu tố văn
hoá dân gian được ông đưa vào bài thơ khiến câu thơ vừa mang âm hưởng
dân gian vừa mang sắc màu hiện đại. Đây cũng là điều làm nên nét đặc trưng
của thơ ca của Nguyễn Bính.
1.4. Tiểu thuyết mới: Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách, Tự Lực văn đoàn,
Nam Cao, Vụ Trọng Phụng
Để có sự ra đời của tiểu thuyết mới, trước hết cần phải kể đến vai trò của
văn học dịch những năm đầu thế kỷ XX. Ở miền Nam, phong trào này diễn ra
hết sức sôi nổi với những tên tuổi như Nguyễn Chánh Sắt, Trần Phong Sắc,
Nguyễn An Khương, Nguyễn An Cư, Đinh Văn Đẩu, … Họ là những người
tinh thông Hán học và biết chữ quốc ngữ. Thông qua họ, nhiều tiểu thuyết
Trung Quốc đã đến được với độc giả trong nước. Loại tiểu thuyết được chọn
dịch nhiều trong giai đoạn này là tiểu thuyết anh hùng, tiểu thuyết lịch sử, tiểu
thuyết nghĩa hiệp… vì nó phù hợp với thị hiếu của độc giả lúc bấy giờ.
Ở miền Bắc, phong trào dịch tiểu thuyết Trung Quốc sang chữ quốc ngữ
cũng được nhiều dịch giả chú ý. Hai tên tuổi được nhắc đến nhiều hơn cả là
Phan Kế Bính và Nguyễn Đỗ Mục. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của đội ngũ trí
thức Tây học giai đoạn này đã giúp văn học phương Tây, đặc biệt là tiểu
thuyết Pháp đến được gần hơn với bạn đọc. Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm
Quỳnh được xem là hai dịch giả có nhiều đóng góp ở mảng này với nhiều tác
phẩm dịch được đăng trên Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí.
Phong trào dịch thuật đã có tác động trực tiếp đến đời sống văn học Việt
Nam và góp phần quan trọng trong việc thay đổi diện mạo văn học Việt Nam
những năm đầu thế kỷ XX. Đối với độc giả, việc dịch tiểu thuyết nước ngoài
giúp người đọc quen dần và sau đó bị cuốn hút bởi những điều mới lạ tiểu
thuyết mang lại. Điều này giúp cho việc hình thành một khuynh hướng mới
1
Chương 1_Văn học cận đại
trong việc tiếp nhận của độc giả. Đối với người sáng tác, dịch thuật không chỉ
giúp họ rèn luyện câu văn quốc ngữ mà nó còn giúp họ học tập lối viết của
phương Tây (từ cốt truyện đến nhân vật, cách viết…). Do đó, có thể nói, dịch
thuật chính là bước chuẩn bị cần thiết cho sự ra đời của Tiểu thuyết mới ở
Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX.
HỒ BIỂU CHÁNH
Tiểu sử
Hồ Biểu Chánh được cho là nhà văn đầu tiên đã “đưa yếu tố hư cấu
(fiction) vào văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, một cách toàn diện và thành
công” (Thuỵ Khuê). Điều này giúp ông thành công trong việc tạo dựng một
thế giới nhân vật tưởng tượng y như thật. Bên cạnh đó, việc sử dụng thứ văn
nói giản dị, gần gũi với cuộc sống hàng ngày đã giúp Hồ Biểu Chánh tái hiện
1
Nguồn hình: “Về hai lựa chọn quan trọng của Hồ Biểu Chánh”, Phan Mạnh Hùng, Đại học KHXH & NV
Tp. HCM, Tuần Báo Văn Nghệ Tp. HCM số 503, http://tuanbaovannghetphcm.vn/ve-hai-lua-chon-quan-
trong-cua-ho-bieu-chanh-so-503/
2
Chương 1_Văn học cận đại
một cách sinh động đời sống, con người Nam Bộ qua văn chương. Đây là
điều làm nên sự khác biệt giữa văn chương của Hồ Biểu Chánh và văn
chương của các tác giả miền Bắc, những người thường có xu hướng chọn lối
viết cầu kỳ, gọt giũa.
Nhơn tình ấm lạnh (1925), Cha con nghĩa nặng (1926), Khóc thầm
(1929), Con nhà nghèo (1930), Con nhà giầu (1931)
“Cha con nghĩa nặng” là cuốn tiểu thuyết đạo lý khá thành công của Hồ
Biểu Chánh, được đăng trên tờ Phụ Nữ Tân Văn (1929). Chuyện xoay quanh
bi kịch của gia đình Trần Văn Sửu, một nông dân cần cù, chất phác. Sửu có
vợ là Thị Lựu, gian xảo dâm đãng. Một lần khi bắt được vợ thông dâm với
Hương Hội, Sửu lỡ tay đánh vợ chết. Sửu bỏ đi biệt xứ. Hai đứa con của Sửu
(một trai, một gái), sống dựa vào ông ngoại, sau được một người phụ nữ giàu
có, tốt bụng là bà Hương quản Tồn chăm lo, đùm bọc. Khi chúng lớn lên,
người phụ nữ này lại tìm người tử tế để dựng vợ, gả chồng cho chúng. Dân
làng cũng dần quên đi câu chuyện của gia đình Sửu. Nhưng hơn 10 năm sau,
Trần Văn Sửu vì nhớ con, mong được nhìn thấy mặt các con nên lén lút trở
về. Cha vợ xua đuổi Sửu vì sợ Sửu làm ảnh hưởng đến hạnh phúc của các
con. Sửu đành ra đi, nhưng con trai khi biết tin thì chạy theo giữ cha lại, chấp
nhận hy sinh tương lai để được phụng dưỡng cha già. Cuối cùng, nhờ người
con rể tìm mọi cách minh oan, Trần Văn Sửu được tha tội và cả nhà sum họp.
Đoạn trích dưới đây nằm ở gần cuối tác phẩm, khi Trần Văn Sửu trở về,
gặp Hương thị Tào (cha vợ) và bị cha vợ đuổi đi vì sợ ảnh hưởng đến cuộc
sống của các con.
3
Chương 1_Văn học cận đại
CHA CON NGHĨA NẶNG
(trích)
- Mười mấy năm nay cực khổ hết sức, song ráng mà sống, là vì trông
mong có ngày thấy được mặt con. Nay về đến đây, chưa gặp được con mà
phải đi thì làm sao cho được, trời đất ơi!
Hương thị Tào nghe mấy lời thảm thiết ấy thì cảm động quá, chịu không
nổi, nên ông cũng khóc. Tuy ông khóc mà ông nói rằng:
- Tao cũng biết, tao đuổi mầy đi thì tội nghiệp cho mầy lắm. Ngặt vì mầy
gặp mặt con mầy thì lộn xộn, chắc là hư việc lớn, nên tao không muốn cho
mầy thấy mặt thằng Tí với con Quyên.
- Con hứa với Tía rằng hễ con thấy mặt chúng nó một chút rồi con đi liền.
Con không nói con là ai cho chúng nó biết đâu mà tía sợ. Cách biệt nhau
mười một năm rồi, đã vậy mà chúng nó lại tưởng con chết rồi, nên thấy mặt
con chắc là chúng không nhìn được. Con giả làm người đi đường ghé nghỉ
chân thì chúng nó sẽ không biết đâu.
- Không có được. Để tao nói cho mầy nghe. Bà Hương quản Tồn tưởng
mầy chết rồi, nên bà thương con Quyên với thằng Tí lắm. Mới hồi xế này bà
cho kêu tao với thằng Tí xuống dưới nhà, bà tính sửa soạn cưới con Quyên
cho con bà. Còn phần thằng Tí, thì bà tính đứng làm mai mà cưới con gái của
hương giáo Cần cho nó.
Trần Văn Sửu vùng đứng dậy, nói rằng: “Trời nhiều phước cho con tôi
được như vậy lận sao?”.
- Thiệt như vậy, bởi vậy mầy dần dà ở đây, rủi làng tổng họ bắt được, rồi
tùm lum, hư việc của con mầy hết.
4
Chương 1_Văn học cận đại
- Nếu vậy tôi đi. Tía nói phải lắm. Tôi chẳng nên gặp chúng nó. Tôi phải
chịu đau đớn cực khổ buồn rầu, con tôi mới nên được. Tôi vui lòng mà lãnh
các sự đau đớn, cực khổ, buồn rầu đó, miễn là con tôi được giàu có, sung
sướng thì thôi. Thưa, tía ở lại mạnh giỏi, con đi. Chuyến này đi biệt không về
nữa đâu!”
(Nguồn: Nguyễn Đăng Mạnh, Tinh tuyển văn học Việt Nam, tập 7, quyển
1, Văn học giai đoạn 19900-1945, NXB Khoa học Xã hội, 2004)
Tiểu sử
Hoàng Ngọc Phách (1896-1973), hiệu là Song An quê ở làng Đông Thái,
xã Yên Đồng, tổng Việt Yên (nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà
Tĩnh). Từ nhỏ Hoàng Ngọc Phách đã được học chữ Nho. Năm 15 tuổi, ông
theo học tiếng Pháp. Hoàng Ngọc Phách tốt nghiệp ban văn học trường Cao
đẳng Sư phạm năm 1922, sau đó ông trở thành một nhà giáo dục, nhà văn, và
là người nghiên cứu văn học có uy tín cho đến cuối đời.
Khi còn là sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm, Hoàng Ngọc Phách đã có
nhiều tác phẩm đăng trên Nam Phong tạp chí. Ông viết truyện ngắn, thơ,..
nhưng tên tuổi của ông chỉ được nhiều người biết đến sau tiểu thuyết Tố Tâm
(viết năm 1922, in năm 1925).
Tố Tâm được xem là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho nền tiểu thuyết hiện đại
Việt Nam. Với tác phẩm này, Hoàng Ngọc Phách đã tạo ra một cuộc cách tân
trong văn học. Ông trở thành người tiên phong, mở đường cho cả một phong
trào viết tiểu thuyết sau đó, tiểu thuyết tâm lý tình cảm. Và điều quan trọng
hơn hết, sự xuất hiện của Tố Tâm đã tạo ra được những hiệu ứng bất ngờ. Lần
5
Chương 1_Văn học cận đại
đầu tiên, người ta thấy một cuốn tiểu thuyết hiện đại đặt ra vấn đề bức xúc
vốn được nhiều người quan tâm lúc bấy giờ: cuộc đấu tranh cho tự do lựa
chọn trong tình yêu và hôn nhân, chống lại những ràng buộc của lễ giáo
phong kiến.
Tóm tắt: Tiểu thuyết “Tố Tâm” kể về chuyện tình lãng mạn nhưng bi
thảm của đôi trai tài, gái sắc: Đạm Thuỷ - Tố Tâm. Đạm Thuỷ là sinh viên
cao đẳng sư phạm có tài văn chương. Tố Tâm là cô gái
hay ưu tư, sầu muộn. Họ cảm mến và nảy sinh tình cảm
với nhau ngay từ lần gặp đầu tiên. Tuy nhiên, vì những
trói buộc của lễ giáo phong kiến, cả hai không đến được
với nhau. Tố Tâm buồn đau, sinh bệnh mà qua đời. Sau
cái chết của người yêu, Đạm Thuỷ trong lòng buồn
thương, hối hận mà bệnh. Thời gian trôi qua, chàng
quyết tâm tập trung cho việc học, mong lập công danh
sự nghiệp, đáp lại lời động viên, khuyến khích của Tố
Tâm khi còn sống. Tuy vậy, vết thương lòng trong chàng thì vẫn còn mãi…
Đoạn trích dưới đây nằm ở chương 3 của tiểu thuyết. Câu chuyện được
Đạm Thuỷ kể lại. Trong lúc tình cảm giữa chàng và Tố Tâm thắm thiết, sâu
đậm nhất, chàng đã từng muốn đưa Tố Tâm đến một nơi “thâm sơn cùng
cốc”, chỉ có hai người với nhau, nhưng rồi đạo lý gia phong, lễ giáo phong
kiến lại ràng buộc, giữ họ lại.
TỐ TÂM
(trích)
[…] Nhiều khi tôi hỏi nàng tại sao không tính cuộc trăm năm với ai cả, thì
nàng nhất định không nói; nàng không nói thì tôi cũng hiểu rồi, nhưng tôi
muốn biết câu giả nhời của nàng để tôi xoay phương diện. Tôi hỏi nàng
không nói thi tôi làm ra bộ giận giỗi, buồn rầu, nàng hỏi gì tôi cũng không
6
Chương 1_Văn học cận đại
thưa, mà cũng không nói gì với nàng cả. Tôi làm như vậy thì nàng khổ lắm,
lúc tôi đứng dậy đi về, nàng đưa cho tôi một mảnh giấy có mấy chữ rằng:
"Em đã yêu anh thì không thể yêu ai được nữa, mà cũng không muốn yêu
ai. Đã không yêu thì không lấy, vì sợ làm phiền cho một người nam nhi nữa."
Tôi xem mấy chữ lấy làm buồn lắm, nhưng bên cái buồn lại có cái thoả vì
đã chiếm được lòng nàng.
Về độ ấy thì tôi bối rối lắm. Tôi yêu nàng quá, nên không thể rời nàng
được nữa, mà chính tại tôi yêu nàng nên không muốn để cho nàng phải thiệt
thòi vì tôi. Tôi nghĩ rằng giá nàng không biết tôi thì có phải nàng vui vẻ mà
chồng chất bao nhiêu là hy vọng bên mình vì con người yểu điệu ấy, tính nết
ấy thì làm gì mà chả gặp được một chỗ gửi thân êm ái, trăm năm mai trúc đuề
huề. Trong cuộc đời người con gái, hy vọng to nhất, êm ái nhất là hy vọng lấy
chồng mà được hưởng cuộc ái ân đằm thắm. Hy vọng đó Tố Tâm đã đem tấm
lòng quá yêu tôi mà đánh đổ đi. Thật là lỗi tại tôi, nhưng nghĩ kỹ ra thì tại
Hoá công đặt trong lòng người một mối ái tình cay nghiệt buộc chết người
vào những việc không muốn làm.
Trong khi lòng tôi bối rối như vậy, nhiều lần tôi đã dám nghĩ đến chuyện
đem nàng đi trốn một chỗ thâm sơn cùng cốc, hay góc bể chân giới nào,
không ai biết đến, để cùng nhau hưởng cuộc ái ân trăm năm, tôi sẽ đem hết
sức mà bấm đủ cho nàng được no ấm, đem hết tình mà âu yếm cho nàng được
thoả lòng không tưởng gì đến đời nữa, bỏ cả sách vở, công danh, mà mặc cho
đời bình phầm, bao nhiêu hy vọng định lập chút sự nghiệp cỏn con gọi là góp
mặt với non sông đều đồ ụp như mấy lớp lâu đài nguy nga bi động đất.
Lúc tôi đương nghĩ như vậy, thì trong lòng bừng bừng lên như muốn thi
hành ngay, nhưng tôi lại nghĩ đến nhà, nghĩ tình âu yếm của song thân tôi
tuổi tác, nghĩ đến tình huynh đệ rất đậm đà thì tự nhiên có một thứ tính tình gì
rất mạnh nó cản tôi lại. Thế mới biết hồn gia quyến là mạnh.
7
Chương 1_Văn học cận đại
Tôi xin thú thực cùng anh rằng những cách tôi tưởng tượng đem nàng đi
như vậy mà không ngại đến ly hương biệt tộc là bởi tôi chịu ảnh hưởng ở các
ái tình tiểu thuyết Âu-Tây. Nhưng tôi xem tình gia quyến của tôi còn mạnh
lắm, đánh đổ được những ảnh hưởng mới kia mà giữ tôi lại. Có khi tôi đem
chuyện tôi định làm liều đó mà hở ý với Tố Tâm, thì tôi xét ra trong những lúc
nàng mơ màng thổn thức nàng cũng nghĩ đến thế, nhưng nàng chợt tỉnh thì
vội gạt đi, vi nàng cũng thương mẹ, yêu mẹ lắm và bao giờ nàng cũng sợ làm
phiền đến người sắp kết duyên với tôi và sợ làm phí mất một đời thiếu niên
của tôi nữa.” […]
(Trích theo Tuyển tập Hoàng Ngọc Phách, NXB Văn học, 1989)
Tự Lực văn đoàn là nhóm nhà văn được thành lập vào năm 1933, tại Hà
Nội. Nhóm do Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) sáng lập. Nhóm gồm có 7
thành viên: Nhất Linh (1905-1963), Khái Hưng (1896- 1947), Hoàng Đạo
(1906-1948), Thạch Lam (1910- 1942), Tú Mỡ (1900- 1976), Thế Lữ (1907-
1989), Xuân Diệu (1917-1985). Trong 7 thành viên này thì có đến 3 thành
viên là anh em ruột: Nhất Linh, Hoàng Đạo, và Thạch Lam. Trong quá trình
hoạt động, Tự Lực văn đoàn còn tập hợp được bên mình một số nghệ sĩ khác
như: hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân; nhà văn nhà thơ Trọng Lang,
Đoàn Phú Tứ, Trần Tiêu, Thanh Tịnh…
Lĩnh vực hoạt động chính của Tự Lực văn đoàn là viết văn, làm báo và in
sách. Ngoài ra, họ còn tham gia vào một số hoạt động xã hội khác như: cứu
tế, phát chẩn trong nạn lụt ở Lang Tài (Bắc Ninh), tổ chức chợ phiên Ánh
Sáng, Dancing... ở đô thị.
8
Chương 1_Văn học cận đại
Xuân Diệu, Thế Lữ, Nhất Linh, Khái Hưng (thời Tự Lực Văn Đoàn)
Ảnh: Wikipedia
Cơ quan ngôn luận của nhóm là tuần báo Phong hoá (1932-1936), Ngày
nay (1936-1946); và Nhà xuất bản Đời nay (1933-1945). Chủ trương chính
của nhóm là đấu tranh giải phóng cá nhân, cải cách xã hội, đồng thời hướng
đến việc hiện đại hoá các thể loại văn học.
Với tư cách là một nhóm văn học, mặc dù chỉ tồn tại trong khoảng mười
năm nhưng Tự Lực văn đoàn đã để lại dấu ấn sâu đậm trong đời sống văn học
Việt Nam đầu thế kỷ XX. Từ những năm 1940, anh em Nhất Linh, Hoàng
Đạo bỏ văn chương đi làm chính trị; Thạch Lam thì bị bệnh và qua đời… Các
thành viên dần xa rời nhóm. Dấu ấn của Tự Lực văn đoàn trong đời sống văn
học Việt Nam, do đó, cũng bắt đầu suy giảm.
Các sáng tác của Tự Lực văn đoàn gồm nhiều sắc thái, khuynh hướng
khác nhau. Thời kỳ đầu, chủ yếu là các tiểu thuyết lãng mạn như: Hồn bướm
mơ tiên (1933), Gánh hàng hoa (1934), Nửa chừng xuân (1934), Đoạn Tuyệt
(1935). Thời kỳ thứ hai là những tác phẩm thiên về việc phê phán lễ giáo
phong kiến như: Lạnh lùng (1936), Thoát ly (1937), Thừa tự (1938). Thời kỳ
thứ ba vào khoảng cuối năm 1939 - đây là thời kỳ Tự Lực văn đoàn bắt đầu
9
Chương 1_Văn học cận đại
xuống dốc, những tác phẩm thời kỳ này ít nhiều mang màu sắc hiện đại chủ
nghĩa như: Bướm trắng (1939), Đẹp (1939-1940), Thanh Đức (1943).
Vấn đề chính được các nhà văn Tự Lực văn đoàn quan tâm đó là việc cách
tân văn học, đấu tranh cho “phong trào Âu hoá”, đấu tranh giải phóng cá
nhân, chống lại những ràng buộc của lễ giáo phong kiến và quan trường
phong kiến.
Thạch Lam (1910-1942), thành viên của nhóm Tự Lực văn đoàn, người có
sở trường đặc biệt về truyện ngắn. Ngoài ra, ông còn viết ký và tiểu luận phê
bình. Thạch Lam bắt đầu làm báo, viết bài cho báo Phong Hoá, Ngày Nay và
Tiểu thuyết Chủ nhật từ năm 1931. Các tác phẩm chính của ông gồm: Gió đầu
mùa (tập truyện ngắn, 1937), Theo giòng (tiểu luận, 1941), Sợi tóc (tập truyện
ngắn, 1942), Hà Nội băm sáu phố phường (bút ký, 1943).
“Hà Nội băm sáu phố phường” là tập bút ký bao gồm những bài viết
ngắn được Thạch Lam viết nhanh để đăng báo. Sau khi ông mất, Tự Lực văn
đoàn đã thu thập và cho xuất bản, năm 1943. Sự xuất hiện của tác phẩm đã
mở ra cả một trào lưu sau đó: trào lưu viết về Hà Nội, đặc biệt là về các món
ăn Hà Nội.
10
Chương 1_Văn học cận đại
Hình: Thạch Lam và những tác phẩm của ông2
“Hà Nội băm sáu phố phường” viết về ẩm thực Hà Nội, về đời sống, con
người nơi đây. Sự tinh tế của ngòi bút Thạch Lam làm say mê lòng người, nó
khiến người ta có cảm giác rằng, mọi vật dù nhỏ bé đến đâu cũng được nâng
niu, trân trọng và được yêu thương. Tìm về cái đẹp trong cuộc sống đời
thường, trong mỗi đồ ăn, thức uống, cũng là cách tìm về mạch nguồn văn hoá
Việt, đời sống tâm hồn Việt.
Đoạn văn dưới đây nằm trong bài “Hàng quà rong” trích trong tập bút ký
trên.
(trích)
“Người Hà Nội, ăn thì ngày nào cũng ăn, nhưng thường không để ý. Nếu
chúng ta về ở tỉnh nhỏ ít lâu, hay ở ngay Hải Phòng, Nam Định nữa, chúng ta
mới biết quà ở Hà Nội ngon là chừng nào. Cũng là thứ bún chả chẳng hạn,
cũng rau ấy, thế mà sao bún chả của Hà Nội ngon và đậm thế, ngon từ cái
mùi thơm, từ cái nước chấm ngon đi.
[…] Rồi mùa nực thì hàng xôi cháo: cháo hoa quánh mùi gạo thơm, xôi
nồng mùi gạo nếp. Xôi đậu, xôi lạc, xôi vừng mỡ và dừa. Ồ, cái xôi vừng mỡ,
nắm từng nắm con, ăn vừa ngậy vừa bùi mà có đắt gì đâu! Ăn một, hai xu là
đủ rồi. Mùa rét thì xôi nóng, hãy còn hơi bốc lên như sương mù, ăn vừa nóng
người vừa chắc dạ.
[…] Cơm nắm từng nắm dài, to nhỏ có, nằm trên chiếc mẹt phủ tấm vải
màu trắng tinh để che ruồi, muỗi. Con dao cắt, sáng như nước và lưỡi đưa
ngọt như đường phèn. Cơm cắt ra từng khoanh, cô hàng lại cẩn thận gọt bỏ
lớp ngoài, rồi lại cắt ra từng miếng nhỏ, vuông cạnh và dài, để bày trên đĩa.
2
Nguồn hình: https://nhipsonghanoi.hanoimoi.com.vn/
11
Chương 1_Văn học cận đại
[…] Phở là một thứ quà đặc biệt của Hà Nội, không phải chỉ riêng Hà
Nội mới có, nhưng chính là vì ở Hà Nội mới ngon. Đó là thứ quà suốt ngày
của tất cả các hạng người, nhất là công chức và thợ thuyền. Người ta ăn phở
sáng, ăn phở trưa, và ăn phở tối. Phở bán gánh có một vị riêng, không giống
như phở bán ở hiệu. Các gánh phở có tiếng ở Hà Nội đều được người ta đặt
tên và tưởng nhớ: phố Ga, phố Hàng Cót, phố ô Quan Chưởng, phố Cửa Bắc
v.v”.
NAM CAO
Tiểu sử
Năm 1943, Nam Cao tham gia nhóm Văn hóa cứu quốc ở Hà Nội. Bị
Pháp khủng bố, ông phải trốn về quê, sau đó tham gia khởi nghĩa tháng
8/1945. Năm 1946, Nam Cao cùng đoàn quân Nam tiến vào Nam Trung Bộ.
Mùa thu 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác báo chí tuyên truyền phục vụ
cách mạng. Năm 1950 ông tham gia chiến dịch Biên Giới. Tháng 11/1951
Nam Cao bị giặc Pháp phục kích và sát hại.
12
Chương 1_Văn học cận đại
Tác phẩm chính
Nam Cao bắt đầu sáng tác từ năm 1936, nhưng ông thực sự được người
đọc biết đến kể từ khi tác phẩm Chí Phèo ra đời, năm 1941. Trước Cách
mạng, Nam Cao tập trung vào hai chủ đề chính là người trí thức nghèo và
người nông dân nghèo.
Ở đề tài trí thức nghèo, Nam Cao có các truyện ngắn tiêu biểu như: Giăng
sáng, Đời thừa, Những chuyện không muốn viết, Mua nhà, Truyện tình, Nước
mắt,… và tiểu thuyết Sống mòn.
Với đề tài người nông dân nghèo, Nam Cao để lại khoảng hai mươi truyện
ngắn, tiêu biểu như: Chí Phèo, Lão Hạc, Dì Hảo, Lang Rận, Một bữa no, Một
đám cưới, Trẻ con không được ăn thịt chó, Tư cách mõ.
Sau cách mạng Tháng Tám (1945), Nam Cao dùng ngòi bút phục vụ
kháng chiến chống Pháp. Các tác phẩm tiêu biểu trong giai đoạn này là: nhật
kí Ở rừng (1948), truyện ngắn Đôi mắt (1948).
Truyện ngắn “Chí Phèo” lúc đầu có tên là “Cái lò gạch cũ”. Năm 1941,
NXB Đời mới in lần đầu tiên và tự ý đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi”. Năm
1946, tác phẩm được in lại trong tập Luống cày (Hội văn hóa cứu quốc xuất
bản, Hà Nội, 1946), và được Nam Cao đặt tên lại là “Chí Phèo”.
CHÍ PHÈO
(trích)
13
Chương 1_Văn học cận đại
[…] Tỉnh dậy hắn thấy già mà vẫn còn cô độc. Buồn thay cho đời! Có lý
nào như thế được? Hắn đã già rồi hay sao? Ngoài bốn mươi tuổi đầu... Dẫu
sao, đó không phải tuổi mà người ta mới bắt đầu sửa soạn. Hắn đã tới cái
dốc bên kia của đời. Ở những người như hắn, chịu đựng biết bao nhiêu là
chất độc, đầy đọa cực nhọc mà chưa bao giờ ốm, một trận ốm có thể gọi là
dấu hiệu báo rằng cơ thể đã hư hỏng nhiều. Nó là một cơn mưa gió cuối thu
cho biết trời gió rét, nay mùa đông đã đến. Chí Phèo hình như đã trông thấy
trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn
đói rét và ốm đau.
Cũng may Thị Nở vào. Nếu thị không vào, cứ để hắn vẩn vơ mãi, thì đến
khóc được mất. Thị vào cắp một cái rổ, trong có một nồi gì đậy vung. Đó là
một nồi cháo hành còn nóng nguyên. Là vì lúc còn đêm, thị trằn trọc một lát,
thị bỗng nhiên nghĩ rằng: cái thằng liều lĩnh ấy kể ra thì đáng thương, còn gì
đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình. Giá thử đêm qua
không có thị thì hắn chết. Thị kiêu ngạo vì đã cứu sống một người. Thị thấy
như yêu hắn: đó là một cái lòng yêu của một người làm ơn. Nhưng cũng có cả
lòng yêu của một người chịu ơn. Một người như thị Nở càng không thể quên
được. Cho nên thị nghĩ: mình bỏ hắn lúc này thì cũng bạc. Dẫu sao cũng đã
ăn nằm với nhau! Ăn nằm với nhau như “vợ chồng”. Tiếng “vợ chồng”, thấy
ngường ngượng mà thinh thích. Đó vẫn là điều mong muốn âm thầm của con
người khốn nạn ấy chăng. Hay sự khoái lạc của xác thịt đã làm nổi dậy
những tính tình mà thị chưa bao giờ biết?”
14
Chương 1_Văn học cận đại
VŨ TRỌNG PHỤNG
Tiểu sử
Năm 15 tuổi, Vũ Trọng Phụng học xong bậc tiểu học. Vì nhà nghèo nên
ông phải nghỉ học đi làm kiếm sống. Làm thư kí cho nhà
Godart được hai tháng thì bị đuổi, sau đó Vũ Trọng Phụng xin
làm công việc đánh máy cho nhà in Viễn Đông nhưng cũng chỉ
được 2 năm thì lại bị đuổi. Từ đó Vũ Trọng Phụng chuyển hẳn
sang nghề viết báo, viết văn và sống một cuộc đời nghèo khó.
Năm 1938 Vũ Trọng Phụng kết hôn nhưng đến năm 1939
thì ông qua đời vì bệnh lao, để lại người vợ trẻ và con gái chưa đầy một tuổi.
Vũ Trọng Phụng viết đủ các thể loại văn xuôi, từ phóng sự, tiểu thuyết,
đến truyện ngắn, kịch, xã luận, bút chiến, thời đàm, phê bình văn học. Ở thể
loại nào ngòi bút của ông cũng tỏ ra vô cùng sắc sảo. Sau 9 năm cầm bút, ông
đã để lại 14 phóng sự và tiểu thuyết, 20 truyện ngắn, 5 vở kịch, 2 bản dịch
tiếng Pháp và rất nhiều bài báo. Trong số các thể loại trên, Vũ Trọng Phụng
đặc biệt được đánh giá cao ở thể loại phóng sự và tiểu thuyết. Hai tập phóng
sự nổi tiếng của Vũ Trọng Phụng: Kỹ nghệ lấy Tây (1934), Cơm thầy cơm cô
(1936). Hai tiểu thuyết nổi tiếng của Vũ Trọng Phụng: Giông tố (1936), Số đỏ
(1936).
15
Chương 1_Văn học cận đại
Giới thiệu tác phẩm: “Số đỏ”
Một trong những tác phẩm làm nên tên tuổi của Vũ Trọng Phụng là “Số
đỏ”, cuốn tiểu thuyết trào phúng được viết năm 1936 và in năm 1938. Tác
phẩm xoay quanh cuộc đời nhân vật Xuân Tóc Đỏ, một tên hạ lưu, đầu đường
xó chợ, vì may mắn mà được bước chân vào giới thượng lưu. Cũng từ câu
chuyện của Xuân mà mọi thói hư tật xấu, mọi trò lố lăng, kệch cỡm của giới
thượng lưu được bày lên trang giấy.
Tóm tắt: Chuyện bắt đầu từ khi Xuân - một kẻ vốn lang thang đầu đường
xó chợ, vào làm công việc nhặt banh ở một sân quần vợt. Vì bản tính vô giáo
dục, Xuân bị bắt vào tù do nhìn trộm một cô đầm thay váy. Nhưng nhờ hành
động đó mà Xuân lọt vào mắt xanh của một me Tây dâm đãng – bà Phó Đoan.
Xuân được bà Phó Đoan bảo lãnh ra tù, giới thiệu đến làm cho một tiệm may
Âu hoá. Cũng từ đây, Xuân chính thức bước chân vào giới thượng lưu. Cuộc
đời hắn bỗng chốc lên như diều gặp gió. Đỉnh điểm là một lần, trong dịp vua
Xiêm đến Bắc kỳ, Xuân đăng kí tham gia thi quần vợt với các cao thủ. Để lọt
vào chung kết, hắn đã dùng những thủ đoạn bỉ ổi để hại đối thủ. Cuối cùng
hắn là người duy nhất đấu với quán quân Xiêm và được lệnh “phải thua”. Sau
sự kiện này, Xuân được tung hô như “anh hùng cứu quốc”, là vĩ nhân của dân
tộc. Hắn được nhận huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh, được tham gia Hội Khai
Trí tiến đức, được trở thành con rể cụ cố Hồng. Cả một tương lai rộng mở cho
một kẻ từng lang bạt, hạ đẳng như Xuân.
Đoạn trích dưới đây nằm ở chương 1,“Số đào hoa của Xuân Tóc Đỏ,
Minh + Văn = Văn Minh, Lòng thương người của bà Phó Đoan”, giới thiệu
xuất thân của Xuân, và “vận đỏ” mà Xuân có được khi làm công việc nhặt
bóng tại sân quần vợt.
16
Chương 1_Văn học cận đại
SỐ ĐỎ
Chương 1 (trích)
[…] “Lúc mới 9 tuổi, nó đã phải đi ở nhờ nhà một người bác họ, họ thúc
bá. Bác nó nuôi nó thay đầy tớ và được cả họ khen là nuôi cháu bồ côi.
Nhưng một hôm nó bị đánh một trận và bị đuổi đi. Bác gái nó tắm, nó đã
khoét một chỗ phên nứa để nhìn! Từ đấy, thằng Xuân lấy đầu hè xó cửa làm
nhà, lấy sấu ở các phố, cá hồ Hoàn Kiếm làm cơm. Nó đã bán phá xa, bán
nhật trình, làm chạy hiệu rạp hát, bán cao đan hoàn tán trên xe lửa, và vài ba
nghề tiểu xảo khác nữa. Ánh nắng mặt trời làm cho tóc nó đỏ như tóc Tây.
Cảnh ngộ đó tạo nó nên một đứa hoàn toàn vô giáo dục, tuy nó tinh quái lắm,
thạo đời lắm. Nó mới xin được chân nhặt bóng trong sân quần độ trong vòng
một năm nay thôi. Nhưng nó đánh quần chóng hay lắm nên được hội viên
Pháp và Nam có lòng yêu, được trọng đãi một chút. Mộng tưởng của nó là sẽ
có ngày được oai như Chim, Giao 3 nếu hạnh phúc dắt đến cho nó một ông
bầu. Bây giờ thì nó cam tâm yên phận là một thằng nhặt bóng. Tuy nhiên nó
cũng mừng đã tìm được nghề ấy, cái nghề tuy hèn nhưng còn có thể hy vọng
được chút danh thơm. Bán lạc, trèo sấu, câu cá, làm lính chạy cờ hiệu, những
nghiệp ấy chỉ dắt đến một chỗ tắc tị. Phong trào thể thao, phong trào bình
dân khiến nó lắm lúc tự kiêu tự đắc lạ lùng.
Ông thầy ngắm nghía cái đầu tóc đỏ, cái trán lép, cái quai hàm to, cái
nhân trung dài, hai cái tai đầy đặn ấy, rồi gật gù:
- Khá lắm! Hậu vận khá lắm! Chỉ tiếc cái tóc không được đen.
- Mẹ kiếp! Chứ xưa nay có mũ bao giờ đâu mà tóc chả đỏ!
Chợt từ sân quần có một đứa bé chạy ra gọi rầm nó lên mà rằng:
17
Chương 1_Văn học cận đại
- Kìa anh Xuân! Không vào đi? Tiểu thư đã đến đấy! Không có người,
anh không vào đi à?
- Tiểu thư à?
- Phải! Con Văn Minh có cái thằng chồng ta đặt tên là Cà Kếu ấy mà. Cả
con mẹ Phó Đoan cũng đến xem, lại đòi chơi nữa!
- Cứ viết đi, rồi chiều hay mai tôi lấy, cụ nhé! Nhớ hộ là tiền rồi. Nào!
Vào ken cờ ban3 với mỹ nhân cho nó hoa đào một thể!
Đi qua chị hàng mía, thằng Xuân cười tình, nháy một cái.
(Trích: “Số đỏ”, Nguyễn Đăng Mạnh, Tinh tuyển văn học Việt Nam, Tập 7,
Quyển 1, Văn học giai đoạn 1900-1945, NXB Khoa học Xã hội, 2004; tr.
709-711)
3
Quelques: Đánh một vài quả
4
Aurevoir: tạm biệt
18
Chương 1_Văn học cận đại
PHẦN 2: VĂN HỌC HIỆN ĐẠI
CHƯƠNG 1: VĂN HỌC THỜI KỲ CẬN ĐẠI (1900-1945)
Giữa thế kỷ XIX, khi Pháp chính thức xâm lược Việt Nam, văn chương
yêu nước một lần nữa lại phát triển mạnh mẽ. Đến đầu thế kỷ XX, cùng với
sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, văn học cách mạng ra đời. Giai đoạn
đầu, thơ ca cách mạng gắn liền với những cuộc đấu tranh của Xô viết Nghệ
tĩnh. Các sáng tác giai đoạn này chủ yếu tồn tại dưới dạng truyền miệng nhằm
phục vụ hai mục tiêu chính: (1) Đề cao lòng yêu nước, kêu gọi tinh thần đoàn
kết, đấu tranh, chống kẻ thù. (2) Tố cáo tội ác của thực dân và phong kiến,
cho thấy cuộc sống khốn khổ của người dân.
Từ năm 1936-1939, sự ra đời của nhiều tờ báo Đảng như: Lao động, Hồn
trẻ, Người mới, Nhành lúa, Dân chúng, … đã tạo điều kiện thuận lợi cho
dòng văn học cách mạng phát triển. Mặc dù giá trị nghệ thuật của những tác
phẩm giai đoạn này chưa thực sự cao nhưng nó đã góp phần thổi bùng lên
ngọn lửa yêu nước, đấu tranh giải phóng dân tộc trên khắp đất nước. Các tác
giả được đánh giá cao trong giai đoạn này là: Sóng Hồng, Xuân Thuỷ, và đặc
biệt là Tố Hữu.
Từ năm 1940-1945: Đây là giai đoạn cả dân tộc chuyển mình, hướng đến
Cách mạng tháng Tám, biến cố thay đổi toàn bộ đời sống, xã hội Việt Nam.
Các tác giả tiêu biểu giai đoạn này có: Hoáng Văn Thụ, Xuân Thuỷ, Lê Đức
Thọ, và tiêu biểu là Hồ Chí Minh.
Nói chung, văn học cách mạng thời kỳ này đã có tác động sâu sắc đến tinh
thần yêu nước, đấu tranh, giải phóng dân tộc. Cùng với các dòng văn học
HỒ CHÍ MINH
Tiểu sử
Hồ Chí Minh (1890-1969) thời niên thiếu có tên là Nguyễn Sinh Cung và
Nguyễn Tất Thành; trong thời gian hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái
Quốc và nhiều tên khác. Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho
nghèo, quê ở huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông được họ chữ Hán từ nhỏ,
sau đó được học chữ quốc ngữ. Đầu năm 1911 ông bỏ học, vào dạy ở trường
Dục thanh (Phan Thiết). Sau đó ít lâu ông vào Sài Gòn rồi từ Sài Gòn xuất
dương, tìm đường cứu nước. Ông sang Pháp và đi nhiều nước khác nhau ở
Châu Âu, châu Phi và châu Mỹ. Năm 1918, ông tham gia Đảng Xã hội Pháp,
Năm 1921 ông tham gia thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa. Giữa năm 1923
Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản. Cuối năm
1924 ông đến Quảng Châu (Trung Quốc) xúc tiến việc thành lập Đảng kiểu
mới của giai cấp vô sản Việt Nam. Con đường hoạt động cách mạng của
Nguyễn Ái Quốc diễn ra sôi nổi với nhiều thăng trầm khác nhau, bị bắt bớ tù
đày, nhưng vẫn không hề nhụt chí. Tháng 9 năm 1943 Nguyễn Ái Quốc về
nước hoạt động cách mạng. Tháng 8/1945 Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh
lãnh đạo thành công Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày
2/9/2945 Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà.
Trong phiên họp đầu tiên của Quốc hội, Hồ Chí Minh được chính thức
bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Cùng với Trung ương
Đảng, Hồ Chí Minh đã trực tiếp lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp cho
đến khi giành được độc lập hoàn toàn vào năm 1954. Năm 1969 Hồ Chí Minh
qua đời.
Văn chính luận: Bản án chế độ thực dân Pháp (viết bằng tiếng Pháp,
xuất bản lần thứ nhất tại Paris, 1925), Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến (1946), Không có gì quý hơn độc lập tự do (1966), Bản di
chúc (1965-1969)
Truyện và kí: Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Vi hành, Những trò lố hay
Varen và Phan Bội Châu; Nhật kí chìm tàu, Vừa đi đường vừa kể chuyện,
Giấc ngủ mười năm.
Giới thiệu tác phẩm: Nhật kí trong tù (Ngục trung nhật kí)
Dưới đây là một trong số các bài thơ nằm trong tập nhật kí. Bài thơ miêu
tả cảnh người tù bị giải đi sớm trong cảnh hiu quạnh, giá rét. Nhưng nghịch
cảnh không làm lung lay ý chí của người tù, thay vào đó, người tù lòng vẫn
tràn đầy cảm hứng lãng mạn cách mạng và tin tưởng vào tương lai phía trước.
TẢO GIẢI
Dịch nghĩa
(Nguồn: Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu. 2013. Văn học Việt Nam (1900-
1945). NXB Giáo dục Việt Nam, in lần thứ 14. tr.635)
TỐ HỮU
Tiểu sử
Tố Hữu (1920-2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ở làng Phù Lai,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Cha mẹ ông đều có truyền thống nho
học, thích sưu tầm và thuộc nhiều câu ca dao, tục ngữ. Điều này đã giúp nuôi
dưỡng hồn thơ Tố Hữu ngay từ khi còn nhỏ. Tố Hữu lớn lên khi phong trào
cách mạng của Đảng Cộng sản Đông Dương đang trong giai đoạn phát triển
mạnh mẽ. Năm 1938, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 4-
1939, ông bị thực dân Pháp bắt giam. Tháng 3-1942 ông vượt ngục, tiếp tục
con đường cách mạng. Giai đoạn sau đó ông giữ nhiều chức vụ khác nhau
trong Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca cách mạng
Việt Nam. Sự nghiệp thơ ca của ông gần như cùng lúc với sự nghiệp cách
mạng. Từ Năm 1937, ông đã có những sáng tác đầu tiên, những sáng tác này
sau được tập hợp và in trong tập “Thơ” (1946), đến năm 1959 tập thơ này
được in lại, lấy tên “Từ ấy”. Điều làm nên nét riêng của thơ Tố Hữu đó là ông
đã sử dụng thành tựu thơ ca phương Tây và thơ Mới để biểu đạt tư tưởng yêu
nước, lý tưởng cách mạng. Ông mang đến cho thơ ca yêu nước một giọng
điệu trẻ trung, sôi nổi. Đó cũng là điều khiến thơ Tố Hữu làm say mê cả môt
một thế hệ thanh niên lúc bấy giờ.
Một số tập thơ chính của Tố Hữu: Thơ (1946); Việt Bắc (1954); Gió lộng
(1961); Ra trận (1972); Máu và hoa (1977); Một tiếng đờn (1992).
Mà em chưa chồng
(8-1938)
1. Lại Nguyên Ân. Vài nét về Tự Lực văn đoàn, Lời thuyết minh phim tư
liệu truyền hình về Tự Lực văn đoàn do Ban Văn nghệ Đại truyền hình
Việt Nam sản xuất. Hà Nội, 1997.
2. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu. 2013. Văn học Việt Nam (1900-1945).
NXB. Giáo dục Việt Nam, in lần thứ 14.
3. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên). 2004. Từ điển văn học (bộ mới). NXB. Thế
giới.
4. Hoài Thanh, Hoài Chân. 2003. Thi Nhân Việt Nam, NXB. Văn học.
5. Nguyễn Đăng Mạnh. 2004. Tinh tuyển văn học Việt Nam. Tập 7. Quyển
1. Văn học giai đoạn 1900-1945. NXB. Khoa học Xã hội.
6. Trần Đình Sử (chủ biên). 2021. Lược sử văn học Việt Nam, NXB. Đại
học Sư phạm.
Ngày 19 tháng 8 năm 1945: Cách mạng tháng Tám thành công, mở ra
một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt Nam – kỷ nguyên độc lập, tự chủ.
Ngày 02 tháng 9 năm 1945: Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại Hà
Nội, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 06 tháng 01 năm 1946, Quốc hội đầu tiên được bầu qua tổng tuyển
cử. Hiếp pháp được công bố. Những thế lực thù địch lần lượt bị khuất phục
bằng chính sách ngoại giao kiên quyết về nguyên tắc nhưng uyển chuyển về
sách lược của Việt Nam.
Hiệp định Sơ bộ (06/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946) giúp nhân dân Việt
Nam tranh thủ được thời gian hòa hoãn để chuẩn bị lực lượng đương đầu lâu dài
với thực dân Pháp.
Ngày 19/12/ 1946, đáp lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, cả đất nước đã đứng lên, vừa đánh giặc vừa củng cố lực lượng.
Từ năm 1947, liên tiếp những chiến thắng quan trọng đã làm thay đổi cục
diện.
Ngày 07/5/1954: Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, kết thúc cuộc kháng
chiến chống Pháp của dân tộc Việt Nam, một nửa đất nước được giải phóng.
Năm 1951, Ðại hội Ðảng lần 2 được tổ chức, xác định đúng đắn đường
lối kháng chiến.
Trong hoàn cảnh chiến tranh vô cùng khó khăn, văn hóa giáo dục vẫn
không ngừng được nâng cao. Tiếng Việt trở thành ngôn ngữ chính thức giảng
dạy trong tất cả các cấp học.
Từ 1955-1964, miền Bắc được giải phóng, tiến lên xây dựng hòa bình,
hàn gắn vết thương chiến tranh; miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh chống đế
quốc Mỹ và chính quyền tay sai. Cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, giành độc
lập dân tộc, thống nhất đất nước kéo dài gần 20 năm.
Năm 1968, Cuộc tổng tấn công năm Mậu Thân của nhân dân và lực
lượng cách mạng miền Nam thắng lợi.
Ngày 27/01/1973, hiệp định Paris được ký kết, chính thức công nhận Việt
Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và yêu cầu quân đội
Mỹ rút khỏi Việt Nam.
Ngày 30/4/1975: Chiến dịch Hồ Chí Minh đã thắng lợi vẻ vang, giải
phóng Sài Gòn, thống nhất đất nước. Hà Nội trở thành thủ đô của nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
1
CHƯƠNG 2
Văn học sau 1945 đã tồn tại và phát triển trong một hoàn cảnh lịch sử đặc
biệt: chiến tranh kéo dài, sự tiếp xúc giao lưu với văn hóa nước ngoài có phần
hạn chế. Tuy vậy, chính những sự kiện nổi bật và hoàn cảnh đặc biệt ấy của đất
nước đã tác động sâu sắc, toàn diện đến đời sống văn nghệ, tạo nên những đặc
điểm riêng biệt của văn học giai đoạn này. Văn học vẫn có những thành tựu
riêng, góp phần vào thành tựu chung của văn học dân tộc.
Về cơ bản, văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 có 3 đặc điểm chính:
a. Văn học gắn bó mật thiết với vận mệnh của đất nước, cổ vũ chiến đấu
Trong đời sống xã hội Việt Nam từ sau 1945, chính trị gần như đã xâm
nhập vào hầu hết các sinh hoạt tinh thần của con người. Lúc này, vấn đề chủ
quyền của dân tộc được đặt lên trên hết, mọi cái riêng tư, lợi ích cá nhân tạm
thời hy sinh cho quyền lợi dân tộc.
Do điều kiện đặc biệt của lịch sử, văn học phát huy vai trò cổ vũ tinh thần
chiến đấu của nhân dân trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh, “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận” và người nghệ sĩ cũng
là chiến sĩ trên mặt trận ấy nên trong văn học giai đoạn này xuất hiện kiểu nhà
văn mới: nhà văn – chiến sĩ. Nhà văn gắn bó với dân tộc, với đất nước, nhân
dân, dùng ngòi bút để phục vụ kháng chiến, cổ vũ chiến đấu.
Văn học phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu không chỉ là yêu cầu của cách
mạng và kháng chiến mà còn là cảm hứng của nhà văn. Bao nhà văn, nhà thơ
thuộc thế hệ trước đều muốn “lột xác” để trở thành nhà văn cách mạng. Những
bài văn, bài thơ hay nhất trong 30 năm văn học này đều mang màu sắc chính trị,
thể hiện những tình cảm công dân, những nguồn tình cảm lớn: yêu nước và căm
thù giặc, tình đồng chí, tình quân dân. Đó là những bài thơ đầy cảm xúc trong
1
2
văn học thời kỳ kháng chiến chống Pháp: Đồng chí của Chính Hữu; Nhớ của
Hồng Nguyên, Đất nước của Nguyễn Đình Thi,… hay hàng loạt bài thơ sôi nổi,
đầy tự hào trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ: Theo chân Bác của Tố Hữu,
Quê hương của Giang Nam, Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân, Tre Việt
Nam của Nguyễn Duy, v.v…
Về đề tài, văn học giai đoạn này tập trung vào hai đề tài lớn:
- Đề tài bảo vệ đất nước, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước (đề cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ca ngợi những người lính giàu
lòng yêu nước, dung cảm hy sinh vì độc lập dân tộc,…)
- Đề tài xây dựng hòa bình và chủ nghĩa xã hội (đề cao lao động, ngợi ca
những phẩm chất tốt đẹp của người lao động trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc).
Về nhân vật, thế giới nhân vật trong văn học giai đoạn này bao gồm tất cả
mọi tầng lớp nhân dân, thuộc mọi thế hệ, ở mọi nơi – trong đó nhân vật trung
tâm là người chiến sĩ (anh vệ quốc quân, chị dân công, anh du kích, người mẹ
Việt Nam anh hùng,…).
Đây là đường lối văn nghệ của Đảng đồng thời cũng là ý thức của người
cầm bút trong giai đoạn này. Vì vậy, trong thơ ca, chúng ta mới bắt gặp những
tiếng reo vui của nhà thơ khi được trở về với Nhân dân:
2
3
Hay bắt gặp lời thề thiêng liêng gắn bó với nhân dân, quyết
hy sinh để bảo vệ đất nước của các nhà thơ:
Trong văn học giai đoạn này, Nhân dân trở thành nhân vật chính. Nhà
văn lấy cảm hứng từ Nhân dân và viết để phục vụ Nhân dân - một công chúng
vĩ đại. Điều này tạo nên sự thay đổi lớn lao của văn học, từ nội dung đến hình
thức. Về nội dung, văn học phản ánh đời sống nhân dân, tâm tư, khát vọng của
họ ; phát hiện khả năng và phẩm chất của người lao động, tập trung xây dựng
hình tượng quần chúng cách mạng. Về hình thức, nhà văn phải sử dụng ngôn
ngữ giản dị, dễ hiểu ; tìm đến những hình thức nghệ thuật quen thuộc với nhân
dân, phát huy thể thơ dân tộc (thơ lục bát).
Vì vậy, nhiều nhà văn đã xây dựng thành công những nhân vật anh hùng,
kết tinh những phẩm chất tốt đẹp của quần chúng nhân dân như: Anh Núp trong
Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, anh Nguyễn Văn Trỗi trong Sống như
Anh của Trần Đình Văn, Mẹ Suốt của Tố Hữu,… Nhiều tác phẩm xây dựng
thành công những tập thể anh hùng như làng Kông Hoa trong Đất nước đứng
lên của Nguyên Ngọc, nhân dân làng Xô Man (Tây Nguyên) trong Rừng xà nu
của Nguyễn Trung Thành, tập thể người dân Hang Hòn trong Hòn Đất của Anh
Đức,…
3
4
c. Văn học được sáng tác theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng
lãng mạn
Khuynh hướng sử thi là khuynh hướng miêu tả, cảm nhận thế giới và
con người trên quan điểm dân tộc, cộng đồng ; vươn tới những cái lớn lao, phi
thường qua những hình ảnh tráng lệ.
Văn học sử thi là văn học của những sự kiện lịch sử, của số phận toàn
dân, của chủ nghĩa anh hùng. Nhân vật trung tâm của khuynh hướng sử thi
không phải là những con người cá thể mà là những con người gắn bó số phận
mình với vận mệnh của đất nước, là nhân vật đại diện cho giai cấp, cho dân tộc
và thời đại.
Khuynh hướng sử thi đã chi phối phần lớn văn học giai đoạn 1945-1975.
Tính chất sử thi thể hiện ở nhiều bình diện:
- Về đề tài: Văn học sử thi lấy những vấn đề lớn lao, tiêu biểu cho cộng
đồng như Đảng, lãnh tụ, đất nước làm đối tượng ngợi ca. Đề tài phản ánh của
văn học là những vấn đề lớn. Về cơ bản, văn học giai đoạn này tập trung vào hai
đề tài chính: chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong đó, đề
tài chiến tranh cách mạng đã để lại những thành tựu lớn với những tác phẩm có
giá trị : Sống mãi với Thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng), Đất nước (Nguyễn Đình
Thi), Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh
Châu),…
- Về nhân vật: Nhân vật trong văn học giai đoạn 1945-1975 là nhân vật
sử thi, là những con người đại diện cho tinh hoa, khí phách, phẩm chất, ý chí
của toàn dân tộc; tiêu biểu cho lí tưởng chung của dân tộc, gắn bó số phận mình
với số phận đất nước. Họ hiện lên với những phẩm chất rất tốt đẹp: yêu nước ;
dũng cảm, không khuất phục trước kẻ thù; sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc.
Đó là anh giải phóng quân trong Dáng đứng Việt Nam (Lê Anh Xuân), chị Lý
4
5
trong Người con gái Việt Nam (Tố Hữu), là cô thanh niên xung phong trong
Khoảng trời – Hố bom (Lâm Thị Mỹ Dạ), là người mẹ Việt Nam anh hùng trong
Mẹ Tơm (Tố Hữu),… Trong đó, Bác Hồ đã trở thành nhân vật sử thi đẹp nhất
trong văn học giai đoạn này. Bác là nhân vật kết tinh những phẩm chất tốt đẹp
của cộng đồng, dân tộc. Nhiều nhà thơ đã viết về Bác với lòng kính phục, tự hào:
Trong không – thời gian sử thi, tất cả những gì riêng tư đều quay theo quĩ
đạo cách mạng. Cái đẹp ở mỗi cá nhân là sự hài hòa ở ý thức công dân, lẽ sống
lớn và tình cảm lớn. Ở đó, cái riêng luôn hòa vào cái chung. Quan niệm về tình
yêu cũng nằm trong quĩ đạo chung, tình yêu cũng gắn liền với ý thức cộng
đồng:
Nói chung, trong văn học viết theo khuynh hướng sử thi, con người cá nhân,
số phận cá nhân với những nỗi buồn, nỗi cô đơn ít được văn học quan tâm.
5
6
Cảm hứng lãng mạn trong văn học là cảm hứng khẳng định cái tôi dạt
dào tình cảm, cảm xúc và vượt lên trên thực tại khách quan, thể hiện những khát
vọng mạnh mẽ hướng về lý tưởng với niềm tin sắt đá, mang tính tích cực.
Trong văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975, cảm hứng lãng mạn đã trở
thành cảm hứng chủ đạo, nâng đỡ con người, giúp họ vượt lên mọi thử thách,
mất mát, hy sinh để hướng về tương lai tươi sáng của cách mạng, của dân tộc.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện trong nhiều thể loại văn học (thơ, truyện
ngắn, tiểu thuyết,,..) với những biểu hiện khác nhau :
- Ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tin tưởng vào chiến thắng, vào
tương lai đất nước.
- Ca ngợi vẻ đẹp của con người mới, cuộc sống mới. Đó là những con
người hăng say lao động, làm chủ cuộc đời mình.
- Quan niệm về chiến tranh rất lạc quan: “Đường ra trận mùa này đẹp
lắm”, đi đánh giặc như đi trảy hội “những buổi vui sao cả nước lên đường, xao
xuyến bờ tre từng hồi trống giục”, “súng nhỏ súng to chiến trường chật chội,
tiếng cười hăm hở đầy sông đầy cầu” (Chính Hữu); mới có những cuộc chia ly
phơi phới niềm vui “chói ngời sắc đỏ” (Thăm lúa – Trần Hữu Thung, Cuộc chia
ly màu đỏ- Nguyễn Mỹ). Cảm hứng lãng mạn bao trùm, chi phối và trở thành
giọng thơ chung:
- Xây dựng hình tượng Tổ quốc, quê hương tươi đẹp, lộng lẫy: “Tổ quốc
bao giờ đẹp thế này chăng”,“đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi!”, “Việt Nam đất nước
ta ơi, mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn”. Sức mạnh Việt Nam cũng được
nhân lên gấp bội:
6
7
Hoặc:
Việt Nam!
- Kết thúc tác phẩm bao giờ cũng lạc quan, thắng lợi, đầy ánh sáng (Mùa
lạc – Nguyễn Khải, Mảnh trăng cuối rừng - Nguyễn Minh Châu, Rừng xà nu –
Nguyễn Trung Thành,…). Con người trong tác phẩm luôn phấn khởi, dạt dào
niềm tin vào tương lai tươi sáng :
Hay :
Khuynh hướng sử thi kết hợp với cảm hứng lãng mạn đã tạo nên nét thẩm
mĩ đặc trưng cho văn học giai đoạn 1945-1975.
7
CHƯƠNG 2
Năm 1946, Pháp tái xâm lược Việt Nam. Nhân dân Việt Nam lại bước vào
cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước trong hoàn cảnh đất nước
còn nhiều khó khăn. Cuộc kháng chiến chống Pháp kéo dài 9 năm và kết thúc
bằng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (07/5/1954). Như vậy, văn học Việt Nam
giai đoạn 1945-1954 gắn liền với hai sự kiện có ảnh hưởng căn bản và sâu rộng
đến mọi mặt của đời sống chính trị, xã hội Việt Nam là Cách mạng tháng
Tám và cuộc kháng chiến chống Pháp 9 năm gian khổ mà hào hùng.
Năm đầu tiên sau khi giành độc lập (1945-1946), văn học tập trung phản
ánh không khí hồ hởi, mê say và niềm vui trước “cuộc tái sinh màu nhiệm” của
dân tộc. Những tác phẩm tiêu biểu: Vui bất tuyệt (Tố Hữu), Tình sông núi (Mai
Ninh), Ngọn quốc kì, Hội nghị non sông (Xuân Diệu),…Trong đó, có những lời
thơ thể hiện tâm trạng rạo rực, tự hào của người dân đất Việt khi được tận
hưởng không khí tự do :
Từ cuối năm 1946 đến năm 1954, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, đông
đảo văn nghệ sĩ tự nguyện tham gia kháng chiến. Vì vậy, trong văn học giai
đoạn này xuất hiện kiểu nhà văn - chiến sĩ, họ vừa trực tiếp chiến đấu vừa dùng
ngòi bút như một thứ vũ khí chống kẻ thù và động viên, cổ vũ quần chúng (Tố
Hữu, Chính Hữu, Hoàng Trung Thông, Quang Dũng, Hồ Phương,...).
1
Văn học giai đoạn này gắn bó sâu sắc với đời sống cách mạng và kháng
chiến. Đối tượng mà văn học hướng đến là cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng
tháng Tám 1945 và cuộc kháng chiến gian khổ mà hào hùng chống thực dân
Pháp xâm lược. Trong giai đoạn này, các nhà văn đã xây dựng được hình
tượng người lính cao cả và tập thể quần chúng anh hùng. Đó cũng là tiêu
chuẩn để đánh giá giá trị của một tác phẩm văn học lúc bấy giờ. Nhiều tác phẩm
khám phá sức mạnh và phẩm chất tốt đẹp của quần chúng công – nông – binh
(công nhân - nông dân - binh lính) trong cuộc kháng chiến; thể hiện niềm tự hào
dân tộc và niềm tin vào tương lai tất thắng của cách mạng.
Vì vậy, vấn đề hy sinh mất mát trong chiến tranh cũng như việc khắc họa
tâm lý, tính cách hay những tình cảm riêng tư của nhân vật chưa được các nhà
văn chú ý. Nhân vật người lính thường tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với
đồng đội, cùng bổ sung cho nhau để cùng tiến bộ. Đối mặt với hiểm nguy, họ
không nghĩ đến cái chết mà vẫn bình tĩnh. Dù có mất mát hy sinh nhưng âm
hưởng chiến thắng và niềm tin vào tương lai đã trở thành âm hưởng chủ đạo
khiến cho những nỗi đau mất mát hay những kỷ niệm cá nhân cũng hóa nhạt
nhòa. Nếu nhà văn có chú ý đến những khoảnh khắc riêng tư của người lính
cũng là khoảnh khắc họ hướng về cái chung.
Văn học giai đoạn 1945-1954 đã đạt được những thành tựu đáng kể ở
nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, kịch, lí luận, nghiên cứu và phê
bình văn học,... Mỗi thể loại đều có những tác phẩm xuất sắc, ghi dấu ấn của
lịch sử một thời: Truyện ngắn có Đôi mắt (Nam Cao), Làng (Kim Lân), Truyện
Tây Bắc (Tô Hoài); tiểu thuyết có Vùng mỏ (Võ Huy Tâm), Xung kích (Nguyễn
Đình Thi), Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc),…
Truyện và kí: mở đầu cho văn xuôi kháng chiến và đạt được nhiều thành
tựu. Lần đầu tiên trong văn học, những con người bình thường, chân chất xuất
thân từ nhiều tầng lớp khác nhau (trí thức, nông dân, công nhân) được xây dựng
2
thành nhân vật trung tâm. Họ tượng trưng cho sự quật khởi của giai cấp và tiêu
biểu cho sức mạnh, vẻ đẹp của dân tộc. Nhiều tác phẩm tiêu biểu cho văn xuôi
giai đoạn này như: Một lần tới thủ đô, Trận phố Ràng của Trần Đăng,
Ðường vui, Tình chiến dịch (Nguyễn Tuân) ; Đôi mắt và Nhật kí ở rừng của
Nam Cao, Làng của Kim Lân,… Trong đó có nhiều tác phẩm đạt đến trình độ
nghệ thuật cao (Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Đất nước đứng lên của Nguyên
Ngọc, Truyện Tây Bắc của Tô Hoài, Xung kích (Nguyễn Đình Thi; Con trâu
(Nguyễn Văn Bổng);....
Thơ: dù chưa có nhiều thành tựu nhưng đã có những thành quả nhất định;
thể hiện sâu sắc tình yêu đối với đất nước, tình cảm đối với những con người
vừa bình thường, chân chất vừa phi thường trong kháng chiến. Tiêu biểu là tập
thơ Việt Bắc (Tố Hữu), thơ kháng chiến của Hồ Chí Minh (Cảnh khuya, Nguyên
tiêu, Báo tiệp...), Tây tiến (Quang Dũng), Đồng chí (Chính Hữu); Bên kia sông
Đuống của Hoàng Cầm,... Ðặc biệt, trong văn học giai đoạn này có nhiều bài
thơ hay và xúc động viết về Bác Hồ: Sáng tháng Năm (Tố Hữu), Thơ dâng Bác
(Xuân Diệu); Ðêm nay Bác không ngủ (Minh Huệ),... Tất cả góp phần tạo nên
hình tượng cao đẹp về lãnh tụ - một con người tài năng, có tấm lòng nhân ái và
lối sống giản dị, khiêm tốn.
Kịch: cũng đạt thành tựu bước đầu. Một số vở kịch gây sự chú ý như :
Bắc Sơn, Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng,…
Văn học Việt Nam gia đoạn 1945-1954 đã phát triển mạnh mẽ và độc đáo
với những đặc điểm mới về nội dung và hình thức thể hiện. Trong quá trình phát
triển của văn học cách mạng (1945-1975), giai đoạn 1945-1954 có ý nghĩa rất
quan trọng. Ðây vừa là thời kỳ mở đầu, đặt nền móng cho nền văn học mới vừa
là bước chuyển tiếp cho sự đổi mới triệt để và sâu sắc của văn học cách mạng ở
giai đoạn sau.
3
CHƯƠNG 2
2.4. VĂN HỌC VỀ HOÀ BÌNH LẬP LẠI TRÊN MIỀN BẮC (1955-1964)
Đây là chặng đường văn học phát triển trong những năm xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước ở miền Nam.
Về nội dung, văn học tập trung thể hiện hình ảnh người lao động, ngợi ca
những đổi thay của đất nước và con người trong bước đầu xây dựng chủ nghĩa
xã hội với cảm hứng lãng mạn, tràn đầy niềm vui và niềm lạc quan tin tưởng.
Nhiều tác phẩm văn học đã thể hiện tình cảm sâu nặng với miền Nam ruột thịt,
nói lên nỗi đau chia cắt và thể hiện ý chí thống nhất đất nước. Viết về miền
Nam, có những tác phẩm hay viết về quê hương, con người, cảnh vật Miền Nam
trong kháng chiến (Một chuyện chép ở bệnh viện của Bùi Đức Ái),…
Về thể loại, văn xuôi có sự mở rộng đề tài, bao quát được nhiều vấn đề
và phạm vi của hiện thực đời sống. Nhiều tác phẩm tái hiện mảng đời sống
trước cách mạng: Tranh tối tranh sáng (Nguyễn Công Hoan), Mười năm (Tô
Hoài), Cửa biển (Nguyên Hồng), Vỡ bờ (Nguyễn Đình Thi),... Những tác phẩm
viết về sự đổi đời của con người trong môi trường xã hội mới, thể hiện khát
vọng hạnh phúc của con người: Đi bước nữa (Nguyễn Thế Phương), Mùa
lạc (Nguyễn Khải), Anh Keng (Nguyễn Kiên),... Một số tác phẩm tập trung khai
thác đề tài kháng chiến chống Pháp, không chỉ ngợi ca chủ nghĩa anh hùng, tinh
thần bất khuất mà còn phản ánh được phần nào những hi sinh gian khổ, những
tổn thất và số phận của con người trong chiến tranh như tiểu thuyết Sống mãi
với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai, Trước
giờ nổ súng của Lê Khâm,...
Điểm khác biệt so với văn học giai đoạn trước là văn học giai đoạn 1955-
1964 có sự dung hợp nhiều màu sắc thẩm mĩ. Người đọc nhận ra ở đó không chỉ
chất sử thi hùng tráng hay hình ảnh những tập thể anh hùng bằng cảm hứng
ngợi ca mà còn bắt gặp những nhân vật lý tưởng với những suy tư trăn trở về
1
chiến tranh, về số phận con người hay những nhân vật cơ hội, bàng quan với
thời cuộc, có sự tính toán giữa cái riêng và cái chung; giữa được và mất,… Điều
này thể hiện rất rõ trong Sống mãi với Thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng,…
Thơ là thể loại đạt được nhiều thành tựu, mở ra nhiều hướng khai thác và
sáng tạo mới mẻ. Sự hồi sinh của đất nước sau những năm tháng chìm trong
khói lửa chiến tranh; sự hòa hợp giữa cái riêng và cái chung,… đã trở thành
nguồn cảm hứng mạnh mẽ của thơ ca giai đoạn này.
Nhiều tác phẩm thể hiện niềm phấn khởi, chan hoà với cuộc sống mới, ca
ngợi đất nước giàu đẹp sau những năm tháng chiến tranh vất vả, gian nan: Trời
mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời (Huy Cận); Gió lộng (Tố Hữu);
Ánh sáng và phù sa (Chế Lan Viên); Riêng chung (Xuân Diệu); Bài thơ Hắc
Hải (Nguyễn Đình Thi); Những cánh buồm (Hoàng Trung Thông),… Hay thể
hiện nỗi đau khi miền Nam đang trong máu lửa chiến tranh: Tiếng sóng, Hai
nửa yêu thương (Tế Hanh); Mồ anh hoa nở (Thanh hải); Quê hương (Giang
Nam),…
Kịch ở giai đoạn này cũng có những bước phát triển mới. Những vở kịch
Một Đảng viên (Học Phi); Nổi gió ( Đào Hồng Cẩm), Ngọn lửa (Nguyễn Vũ)…
là những vở kịch quen thuộc, được nhiều khán giả yêu thích.
2
CHƯƠNG 2
2.5. VĂN HỌC ĐẤU TRANH CHO HOÀ BÌNH VÀ THỐNG NHẤT
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đặt nhân dân Việt Nam trước
những thử thách khốc liệt. Cả dân tộc phải tập trung sức mạnh tinh thần và vật
chất để có thể đương đầu với kẻ thù hùng mạnh, quyết đấu tranh cho hòa bình
và thống nhất đất nước: “31 triệu nhân dân. Tất cả hành quân. Tất cả thành
chiến sĩ” (thơ Tố Hữu). Người Việt Nam gọi đó là thời đại “ra ngõ gặp anh
hùng”. Chính không khí sử thi hùng tráng ngút trời ấy đã tạo nên nguồn cảm
hứng vô tận, là “cú hích” để văn học giai đoạn này phát triển mạnh mẽ.
Vẫn tiếp tục khuynh hướng sử thi và mạch cảm hứng lãng mạn anh hùng,
văn học giai đoạn 1965-1975 đã dựng lại bức tranh hoành tráng của cuộc kháng
chiến chống Mỹ với những hình tượng đẹp, tiêu biểu cho tinh thần yêu nước và
chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Xét một cách toàn diện, đây là giai đoạn mà văn
học viết về chiến tranh phát triển rực rỡ nhất. Mỗi tác phẩm là một mảng hiện
thực nóng bỏng về cuộc kháng chiến chống Mĩ oanh liệt của dân tộc Việt Nam.
Các nhà văn không né tránh những hiện thực khốc liệt của cuộc chiến, mạnh
dạn đề cập đến những mất mát hy sinh.
Vì vậy, trên nền của bức tranh hiện thực nóng bỏng về cuộc kháng chiến,
nhân vật người lính hiện lên rất lý tưởng. Dẫu lem luốc lửa bụi chiến tranh và
mùi thuốc súng, họ vẫn thấy “cuộc đời vẫn đẹp sao, tình yêu vẫn đẹp sao” (thơ
Bùi Minh Quốc). Hay có ngã xuống trong khi đang chiến đấu, họ cũng đẹp rạng
ngời, bởi “tên anh đã thành tên đất nước” và dáng đứng hiên ngang của anh đã
trở thành “dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ” (thơ Lê Anh Xuân). Cao cả hơn,
sự hy sinh của họ đã hóa thành khoảng trời xanh trong vắt để mỗi người dân
Việt đều có thể soi mình vào đó mà sống cao cả hơn, phi thường hơn (Khoảng
trời – hố bom, Lâm Thị Mỹ Dạ). Bởi vậy, trong văn học giai đoạn này, nhân vật
1
người chiến sĩ đã được khắc họa đậm chất lý tưởng, là những điển hình anh
hùng, tỏa chiếu ánh sáng của thời đại, hướng con người về phía ánh sáng và
tương lai. Còn chiến tranh dẫu có khắc nghiệt, tàn bạo cũng không thể hủy diệt
sự sống của con người, không thể ngăn chặn được ý chí tiến công mạnh mẽ và
lòng yêu nước sâu sắc của con người. Chiến tranh chỉ là đối tượng thử thách ý
chí của con người, thậm chí, chiến tranh đã được “thi vị hóa” để người người
lớp lớp náo nức ra chiến trường trong khúc ca lãng mạn: “Đường ra trận mùa
này đẹp lắm” (thơ Phạm Tiến Duật).
Văn học giai đoạn này đạt thành tựu trên nhiều thể loại: tiểu thuyết,
truyện ngắn, ký, thơ, kịch,…
Văn xuôi: Phản ánh cuộc sống chiến đấu và lao động của nhân dân, khắc
hoạ khá thành công hình ảnh con người Việt Nam anh dũng, kiên cường, bất
khuất. Trong đó, những tác phẩm truyện, kí viết trong máu lửa chiến tranh đã
phản ánh nhanh nhạy cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam anh dũng: Người
mẹ cầm súng của Nguyễn Thi; Giấc mơ ông lão vườn chim, Hòn Đất của Anh
Đức; Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng, Mẫn và tôi của Phan Tứ; Rừng
xà nu của Nguyễn Trung Thành,…Truyện, ký viết về cuộc kháng chiến chống
Mĩ ở miền Bắc cũng đạt nhiều thành tựu: Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi của Nguyễn
Tuân; Vùng trời của Hữu Mai, Cửa sông và Dấu chân người lính của Nguyễn
Minh Châu, Chiến sĩ của Nguyễn Khai, Bão biển của Chu Văn,...
Thơ: Là thể loại đạt được nhiều thành tựu xuất sắc, đánh dấu một bước
tiến mới của nền thơ Việt Nam hiện đại. Phần lớn, đó là những sáng tác của thế
thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Họ là những
nhà thơ- chiến sĩ, vừa đánh giặc vừa làm thơ (Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa
Điềm, Lê Anh Xuân, Lưu Quang Vũ,…). Về nội dung, thơ ca giai đoạn này tập
trung khám phá sức mạnh của con người Việt Nam, nhận thức và đề cao sứ
mệnh lịch sử của cuộc kháng chiến chống Mĩ, ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn và tính
2
cách của các thế hệ người dân Việt Nam, đặc biệt là dựng nên bức chân dung
tinh thần của cả một thế hệ trẻ cầm sung: “Cả thế hệ dàn hàng gánh đất nước
trên vai” (Bằng Việt). Nhiều tác phẩm tạo được tiếng vang và gây ấn tượng sâu
sắc cho người đọc như: Ra trận, Máu và hoa của Tố Hữu; Hoa ngày thường -
Chim báo bão và Những bài thơ đánh giặc của Chế Lan Viên; Hai đợt sóng, Tôi
giàu đôi mắt của Xuân Diệu; Dòng sông trong xanh của Nguyễn Đình Thi, Cửa
mở của Việt Phương, Vầng trăng quầng lửa của Phạm Tiến Duật; Mặt đường
khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm; Gió Lào cát trắng của Xuân Quỳnh; Hương
cây - Bếp lửa của Lưu Quang Vũ và Bằng Việt; Cát trắng của Nguyễn Duy;
Góc sân và khoảng trời của Trần Đăng Khoa,...
Kịch: Là thể loại cũng có những thành tựu đáng ghi nhận. Một số vở kịch
tạo được tiếng vang lúc bấy giờ như: Quê hương Việt Nam và Thời tiết ngày
mai của Xuân Trình, Đại đội trưởng của tôi của Đào Hồng Cẩm, Đôi mắt của
Vũ Dũng Minh,...
3
NHÀ THƠ NGUYỄN ĐÌNH THI
(1924-2003)
***
Tiểu sử
Sau Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Đình Thi làm Tổng thư kí Hội Văn
hoá cứu quốc. Sau năm 1954, ông tham gia công tác quản lý văn học nghệ thuật.
Từ năm 1958 đến 1989, ông làm Tổng Thư kí Hội nhà văn Việt Nam. Từ
năm 1995, ông là Chủ tịch Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ
thuật Việt Nam.
Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ đa tài, ở lĩnh vực nào ông cũng có những
đóng góp đang kể. Nguyễn Đình Thi khá thành công với những bài thơ viết về
tình yêu quê hương, đất nước, con người, thể hiện niềm tự hào về truyền thống
vẻ vang của dân tộc. Ông có một số bài thơ tiêu biểu như: Đất nước (1948-
1
1955); Người chiến sỹ (1958), Bài thơ Hắc Hải (1958), Dòng sông trong xanh
(1974), Tia nắng (1985), …
Về tiểu thuyết, với những tác phẩm phản ánh cuộc chiến đấu dũng cảm của
nhân dân ta trong cuộc kháng chiến, Nguyễn Đình Thi đã khẳng định được vị trí
quan trọng trong nền văn học Việt Nam. Một số tiểu thuyết tiêu biểu của ông :
Xung kích, Vỡ bờ, Thu đông năm nay (1954), Bên bờ sông Lô (1957), Vào lửa
(1966), Mặt trận trên cao (1967). Tiểu thuyết Xung kích là tác phẩm văn đầu
tiên của Nguyễn Đình Thi, tái hiện sinh động về cuộc chiến đấu của một đại đội
xung kích trong chiến thắng Trung Du năm 1951. Tác phẩm này được giải
thưởng Văn nghệ 1951-1952.
Ngoài làm thơ, viết tiểu thuyết, ông còn là một nhà lí luận phê bình sắc sảo
với tiểu luận Nhận đường. Tác phẩm đã giúp các thế hệ văn nghệ sĩ lúc bấy giờ
tìm ra con đường đi đúng đắn.
Về kịch, những vở kịch của ông đều để lại ấn tượng cho người xem, tiêu
biểu là : Con nai đen (1961), Hoa và Ngần (1975), Rừng trúc (1978), Nguyễn
Trãi ở Đông Quan (1979), Người đàn bà hoá đá (1980), Cái bóng trên tường
(1982), Trương Chi (1983), Hòn Cuội (1983-1986). Trong đó, Rừng trúc là vở
kịch tiêu biểu nhất, được khán giả trong nước và ngoài nước đón nhận và được
nhận Huy chương Vàng tại Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp năm 1999.
Về sáng tác nhạc, ông để lại hai nhạc phẩm bất hủ là Người Hà Nội và Diệt
phát xít.
Nguyễn Đình Thi góp mặt trong nhiều lĩnh vực từ thơ ca đến tiểu thuyết,
kịch, âm nhạc nhưng ở lĩnh vực nào, những sáng tác của ông cũng đón nhận
được sự yêu thích của đông đảo người đọc, người xem. Thơ của Nguyễn Đình
Thi giản dị, giàu tính triết lí nhưng cũng không kém phần lắng đọng, mang nặng
tình yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc.
2
Vị trí trên tiến trình văn học
Nguyễn Đình Thi đã dành cả cuộc đời để tìm tòi, khám phá, đổi mới hướng
đi và sáng tạo. Nhờ vậy, ông đã để lại cho đời những áng văn thơ mang đậm
phong cách cá nhân, độc đáo và hiện đại. Cuộc đời sáng tác của ông gắn bó chặt
chẽ với sự nghiệp hoạt động cách mạng. Ông đã góp công rất lớn trong việc cổ
vũ, động viên tinh thần chiến đấu của quân dân ta qua các cuộc kháng chiến
chống Mỹ và chống Pháp.
Với kiến thức uyên thâm, tài năng đa diện và lòng nhiệt huyết cùng với
những gì để lại cho đời, ông xứng đáng được tôn vinh là một nhà văn hoá, một
nghệ sĩ đa tài và xứng đáng được nhận những danh hiệu cao quý như: Huân
chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhất; Huân chương Kháng chiến chống
Mỹ hạng Nhất; Huân chương Độc lập hạng Nhất; Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng;
Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật.
3
NHÀ VĂN NGUYÊN NGỌC
***
Tiểu sử
Năm 1950, ông nhập ngũ. Sau khi tốt nghiệp trường lục quân Liên khu V,
ông ở đơn vị chiến đấu một thời gian rồi chuyển về làm phóng viên báo Quân
đội nhân dân Liên khu V, hoạt động ở chiến trường Tây Nguyên.
Năm 1954, ông tập kết ra Bắc trong đội hình của sư đoàn 324, được điều
về trại viết gương anh hùng của Tổng cục chính trị.
Đầu năm 1957, ông là thành viên ban biên tập đầu tiên, sau này có thời
gian ông làm thư ký toà soạn.
Năm 1962, ông trở lại chiến trường Liên khu V, làm nhiều vị trí khác nhau,
trong thời gian này ông lấy bí danh là Nguyễn Trung Thành.
Sau năm 1975, ông quay lại làm ở Tạp chí Văn nghệ quân đội. Từ năm
1979, ông được bầu bổ sung vào Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá II,
III, IV, được cử làm Phó Tổng thư kí Bí thư Đảng đoàn, sau đó làm Tổng biên
tập báo Văn nghệ, đại biểu Quốc hội khoá VII.
1
Sau khi nghỉ hưu, ông vẫn tiếp tục hăng say lao động, sáng tạo nghệ thuật.
Hiện ông đang sống tại Hội An, Quảng Nam.
Nguyên Ngọc đã để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị như: Đất nước
đứng lên (tiểu thuyết, 1955); Mạch nước ngầm (truyện vừa, 1959); Rẻo cao (tập
truyện ngắn, 1962); Rừng xà nu (truyện ngắn, 1965); Trên quê hương những
anh hùng Điện Ngọc (tập truyện và kí, 1969); Đất Quảng (tiểu thuyết 2 tập,
1971-1974); Tháng Ninh Nông (tập truyện và ký, 1999); Tản mạn nhớ và quên
(tập ký, 2004); Nghĩ dọc đường (2005); Lắng nghe cuộc sống (2006); Bằng đôi
chân trần (2008); Các bạn tôi ở trên ấy (tập bút kí, 2013); Đường chúng ta đi;
Có một đường mòn trên biển Đông; Cát cháy,…
Nguyên Ngọc thành công trên nhiều lĩnh vực và luôn hoàn thành xuất sắc
các nhiệm vụ nhưng nổi bật, hoàn chỉnh và đậm màu nhất chính là chân dung
một nhà văn và nhà hoạt động văn hoá. Những trải nghiệm, lắng đọng trong tâm
hồn ông cùng với cuộc gặp gỡ người anh hùng Núp đã khai sinh ra tiểu thuyết
Đất nước đứng lên, một tiểu thuyết có những nét riêng bằng thủ pháp huyền
thoại hoá xen lẫn yếu tố phi huyền thoại hoá. Tác phẩm Đất Quảng tập trung
miêu tả về tính chất ác liệt trong cuộc chiến đấu của nhân dân Quảng Nam, khai
thác về những mối xung đột dân tộc, giai cấp, dựng được bầu không khí quyết
liệt, căng thẳng nhưng ẩn chứa sau đó là ý chí bất khuất của nhân dân miền
Nam trong cuộc chiến đấu bảo vệ nền độc lập của Tổ quốc. Với truyện vừa
Mạch nước ngầm (1960), tác giả đã chỉ ra những tư tưởng, hoang mang, dao
động, mất đoàn kết nội bộ, thái độ mất tin cậy lẫn nhau diễn ra trong một đơn bị
bộ đội miền Nam đang xây dựng trên công trường xây dựng thuỷ nông, thể hiện
bước đột phá, đổi mới trong tâm thức sáng tạo của tác giả.
2
Bên cạnh đó, Nguyên Ngọc cũng dùng những phác thảo đơn sơ về những
con người có thật trong đời sống, được thể hiện bằng một nghệ thuật điêu luyện,
tài hoa. Đất nước đứng lên là cuốn tiểu thuyết về đề tài chiến tranh nổi tiếng của
nhà văn Nguyên Ngọc. Tác phẩm được viết năm 1955, đạt giải nhất về tiểu
thuyết của Hội Văn nghệ Việt Nam (1954-1955). Năm 2005, tác phẩm đã được
chuyển thể thành vở nhạc kịch cùng tên do nhạc sĩ An Thuyên sáng tác.
3
Tác giả-tác phẩm tiêu biểu
Tiểu sử
Ông bắt đầu làm thơ từ rất sớm và cho xuất bản tập
thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn từ năm 17 tuổi.
Chân dung Chế Lan Viên
Năm 1939, ông ra học tại Hà Nội, sau đó vào làm
báo rồi dạy học ở nhiều nơi. Sau cách mạng tháng Tám, ông gia nhập vào hàng
ngũ của Đảng, viết bài và làm biên tập cho nhiều tờ báo của Đảng.
Sau năm 1954, ông ra Bắc, làm biên tập báo Văn học. Từ năm 1956 đến
1958, ông công tác ở phòng văn nghệ, Ban Tuyên huấn trung ương, sau đó trở
lại làm biên tập tuần báo Văn học (sau đổi là báo Văn nghệ).
Từ năm 1963, ông là uỷ viên thường vụ Hội Nhà văn Việt Nam, uỷ viên
Ban Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà các khoá IV, V và VI, uỷ viên Ban Văn hoá- Giáo dục của Quốc hội.
Sau 1975, ông vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh và mất tại đây.
Chế Lan Viên đã để lại cho nền văn học nhiều tác phẩm có giá trị với
nhiều thể loại. Đặc biệt về thơ, ông có nhiều tập thơ nổi tiếng như Điêu tàn
(1937, 37 bài thơ), Gửi các anh (1954, 13 bài thơ), Ánh sáng và phù sa (1960,
70 bài thơ), Hoa ngày thường – Chim báo bão (1967, 49 bài thơ), Những bài
thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973, 64 bài thơ), Ngày vĩ đại (1976), Hoa
trước lăng Người (1976, 12 bài), Dải đất vùng trời (1976), Hái theo mùa (1977,
75 bài thơ), Hoa trên đá I, II (1984-1988, 15 và 16 bài thơ), Tuyển tập thơ Chế
Lan Viên (tập I, 1985 và tập II năm 1990), Ta gửi cho mình (1986), Di cảo thơ
I, II, III (1992, 1993, 1995), Tuyển tập thơ chọn lọc. Ngoài ra ông còn có nhiều
truyện, bút kí như: Vàng sao (1942), Thăm Trung Quốc (bút ký, 1963), Những
ngày nổi giận (bút ký, 1966), Bác về quê ta (1972), Giờ của đô thành (bút ký,
1977), Nàng tiên trên mặt đất (1985). Chế Lan Viên còn gặt hái được nhiều
thành công trong mảng tiểu luận phê bình với nhiều công trình có giá trị như:
Kinh nghiệm tổ chức sáng tác (1952), Nói chuyện thơ văn (1960), Vào nghề
(1962), Phê bình văn học (1962), Suy nghĩ và bình luận (1971), Bay theo đường
bay dân tộc đang bay (1976), Nghĩ cạnh dòng thơ (1981), Từ gác Khuê Văn đến
quán Trung Tân (1981), Ngoại vi thơ (1987), Nàng và tôi (1992)
Trước cách mạng Tháng Tám, thơ Chế Lan Viên chứa đựng nhiều điều
“kinh dị, thần bí, bế tắc của thời Điêu tàn với xương, máu, sọ người, với những
cảnh đổ nát, với tháp Chàm”, là nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ về hình bóng của
một vương quốc hùng mạnh thời vàng son.
Sau cách mạng tháng Tám, thơ ông đã có những đổi thay rõ rệt. Tiếng nói
của nhân dân, đời sống thế sự đã được đưa vào thơ. Thơ ông có phong cách độc
đáo thể hiện khuynh hướng suy tưởng – triết lý mang vẻ đẹp trí tuệ về sự đa
dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một nghị lực phi thường.
Ông là nhà thơ luôn có sự tìm tòi, khám phá và sáng tạo, biết kế thừa, phát huy
những tinh hoa của nền văn chương và nhân loại để mang lại cho tác phẩm của
mình một vẻ đẹp riêng.
Vị trí trên tiến trình
Chế Lan Viên là một nhà thơ luôn biết kế thừa, phát huy những tinh hoa
của nền văn chương và nhân loại cùng với sự tìm tòi, khám phá và sáng tạo đã
mang lại cho tác phẩm của mình một phong thái riêng. Những thành tựu nghệ
thuật Chế Lan Viên đạt được trong quá trình lao động sáng tạo chính là những
đóng góp to lớn của ông đối với nền văn học nước nhà.
Ông xứng đáng được thế hệ hôm nay và mai sau tưởng nhớ và ông đã được
nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật
(1996).
NHÀ VĂN NGUYỄN KHẢI
(1930-2008)
***
Tiểu sử
Năm 1950 ông bắt đầu viết văn nhưng được chú
ý nhiều từ khi viết tiểu thuyết Xung đột (phần I năm
1959, phần II năm 1962). Chân dung Nguyễn Khải
Sau năm 1975, Nguyễn Khải chuyển vào sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1988 ông chuyển sang làm việc tại Hội Nhà văn Việt Nam, với quân hàm
đại tá. Nguyễn Khải từng là Uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khoá
II, III và là Phó tổng thư ký khoá III. Ông còn là đại biểu Quốc hội khoá VII.
Năm 2008, ông mất do bệnh tim tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Khải để lại cho nền văn học Việt Nam một sự nghiệp văn chương đồ sộ,
đa dạng với nhiều thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, bút kí. Những tác phẩm tiêu
biểu của ông có thể kể đến như Mùa xuân ở Chương – Mỹ (1954), Người con gái
quang vinh (1956), Xung đột (truyện, 1959), Mùa lạc (tập truyện ngắn, 1960), Hãy đi
xa hơn nữa (truyện vừa, 1963), Người trở về (tập truyện vừa, 1964), Họ sống và chiến
đấu (ký sự, 1966), Hoà – Vang (bút ký, 1967), Đường trong mấy (tiểu thuyết, 1970),
Ra đảo (1970), Chủ tịch huyện (truyện, 1972), Chiến sĩ (tiểu thuyết, 1973), Tháng ba
1
Tây nguyên (ký, 1976), Cách mạng (kịch, 1978), Gặp gỡ cuối năm (tiểu thuyết, 1982),
Thời gian của người (1985), Điều tra về một cái chết (tiểu thuyết, 1986), Vòng sống
đến vô cùng (truyện, 1987), Một cõi nhân gian bé tí (tiểu thuyết, 1989), Một người Hà
Nội (tập truyện ngắn, 1990), Cha và các con và… (tiểu thuyết, 1990), Sư già chùa
Thắm và ông đại tá về hưu (tập truyện vừa, 1993), Một thời gió bụi (truyện ngắn,
1993), Hà Nội trong mắt tôi (tập truyện ngắn, 1995), Chút phấn của đời (truyện ngắn
và kịch, 1999), Chuyện nghề (1999), Nắng chiều (tập truyện ngắn, 2001), Hãy đi xa
hơn nữa (tập truyện ngắn thiếu nhi, 2002), Mẹ và các con (tập truyện ngắn thiếu nhi,
2002), Vòng tròn trống rỗng (kịch, 2003), Sống ở đời (tập truyện, 2003), Ký sự và
Kịch (2003), Thượng đế thì cười (tiểu thuyết, 2003), Nghề văn cũng lắm công phu
(truyện – tạp văn, 2003), Vòng tròn trống rỗng (kịch, 2003), Một chặng đường (tiểu
thuyết, 2005), Đi tìm cái tôi đã mất (tuỳ bút, 2006),…
Nguyễn Khải là nhà văn khá thành công khi viết về đề tài nông thôn trong quá
trình xây dựng cuộc sống mới, về bộ đội trong những năm chiến tranh chống Mỹ, về
những vấn đề xã hội – chính trị có tính thời sự và đời sống tư tưởng, tinh thần của
người dân trước những biến động phức tạp của đời sống. Tác phẩm của ông thể hiện
tài năng, sự nhạy bén và cách khám phá riêng của nhà văn về các vấn đề xã hội, năng
lực phân tích tâm lý sắc sảo, sức mạnh của lý trí tỉnh táo.
Với số lượng tác phẩm đồ sộ, đa dạng về thể loại, điển hình về phong cách,
Nguyễn Khải đã xứng đáng được xem là một tài năng văn chương, có nhiều đóng góp
cho lịch sử văn học Việt Nam, đúng như lời lời của cố Thủ tướng Võ Việt đã ghi vào
Sổ tang ngày Nguyễn Khải đi xa: “Tên tuổi và tác phẩm của nhà văn Nguyễn Khải
sống mãi trong lòng dân tộc”, “là một trong những nhà văn đương đại xuất sắc nhất”
(trích trong Lời tiễn biệt của Hội Nhà văn Việt Nam, tr. 160 -165).
2
Năm 1951: Giải thưởng Văn học Lê Thanh Nghị (Liên khu III).
Năm 2000: Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (đợt II).
3
Tác giả-tác phẩm tiêu biểu
Tiểu sử
Năm 13 tuổi, ông học tại trường Quốc học Huế, cũng từ đây ông bắt đầu
được tiếp cận với lý tưởng cộng sản, sớm giác ngộ cách mạng. Bước vào tuổi
thanh niên, ông tham gia phong trào đấu tranh cách mạng và trở thành lãnh đạo
chủ chốt của Đoàn thanh niên dân chủ ở Huế, rồi được kết nạp vào Đảng cộng
sản. Từ đó, ông hăng say hoạt động và nắm giữ nhiều cương vị trọng yếu trong
bộ máy Nhà nước như: Phó Tổng thư ký Hội Văn nghệ Việt Nam (1948), Bí thư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Trưởng ban Tuyên
truyền Trung ương (1976), Ủy viên chính thức Bộ Chính trị (1980), Phó Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng (1981), cùng nhiều chức vụ quan trọng khác…
Năm 2002, ông qua đời sau một cơn bạo bệnh để lại cho văn học Việt
Nam một gia sản thơ có giá trị.
Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiên phong trong nền văn học cách
mạng Việt Nam. Thơ ông gắn bó và phản ánh chân thực những chặng đường
phát triển đầy gian khổ, hi sinh nhưng cũng đầy oanh liệt, vẻ vang của cách
mạng Việt Nam ; là tiếng lòng của người chiến sĩ yêu nước, hi sinh vì sự nghiệp
giải phóng dân tộc. Những tập thơ tiêu biểu nhất của ông là: Từ ấy (1946), Việt
Bắc (1954), Gió Lộng (1961), Ra trận (1972), Máu và Hoa (1977), Một tiếng
đờn (1992), Ta với ta (1999).
Tố Hữu là một chiến sĩ cách mạng, một nhà hoạt động chính trị xuất sắc
và là một nhà thơ lớn của dân tộc nên mỗi bài thơ đều có sự gắn bó mật thiết
giữa tiếng lòng của người chiến sĩ với các chặng đường phát triển của từng thời
kì kháng chiến. Thơ ông chứa chan tình yêu quê hương, đất nước, đậm đà tính
dân tộc, tính trữ tình chính trị nhưng không kém phần ngọt ngào và lãng mạn.
Thơ của ông luôn ngợi ca lí tưởng cách mạng, kêu gọi cổ vũ tinh thần chiến đấu
của dân tộc, quyết tâm đánh đuổi giặc ngoại xâm; ca ngợi niềm vui chiến thắng
và cuộc sống tươi đẹp của con người.
Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình- chính trị, có khuynh hướng về sử thi và cảm
hứng lãng mạn với giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, mang đậm tính dân tộc. Vì
vậy, thơ ông là tấm gương phản chiếu tâm hồn một người chiến sĩ cách mạng
suốt đời phấn đấu, hi sinh vì tương lai tươi đẹp của dân tộc, vì cuộc sống hạnh
phúc của con người.
Tố Hữu được xem là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến, ông
được tôn vinh là “nhà thơ của cách mạng”, “nhà thơ của nhân dân”, “ngọn cờ
chiến đấu của thơ ca cách mạng Việt Nam”, “người có công đầu xây dựng nền
thơ ca cách mạng Việt Nam”, “một cuộc đời trọn vẹn với Cách mạng - Nghệ
thuật - Tình yêu”, “nhà thơ của chủ nghĩa nhân văn cách mạng”. Trong hai cuộc
kháng chiến, ông đã sáng tác nhiều bài thơ để động viên, cổ vũ tinh thần chiến
đấu cho chiến sĩ và nhân dân, nổi tiếng với các tác phẩm như: Việt Bắc, Lượm,
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Việt Nam máu và hoa, Ta đi tới,…
Ông được Nhà nước trao tặng nhiều giải thưởng quan trọng như: Giải
thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt 1 (1996); Giải nhất giải thưởng
văn học Hội Văn nghệ Việt Nam 1954-1955 (tập thơ Việt Bắc); Giải thưởng
Văn học ASEAN năm 1996 cho tập thơ Một tiếng đờn; Huân chương Sao Vàng
(1994). Tố Hữu đã đi xa nhưng những áng thơ của ông vẫn luôn còn mãi trong
lòng của những độc giả yêu nước, yêu văn học.
Tác giả-tác phẩm tiêu biểu
người lính trên tuyến đường Trường Sơn đã gợi cảm hứng Chân dung Phạm Tiến Duật
cho ông viết nhiều tác phẩm thơ nổi tiếng.
Năm 1970, Phạm Tiến Duật được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam khi ông
đoạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ. Sau chiến tranh, ông về làm việc tại Ban
Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam.
Năm 2007, ông mất tại Hà Nội, để lại cho văn học Việt Nam một gia tài thơ có
giá trị.
Trên chặng đường hoạt động cách mạng gian khó, hiểm nguy, Phạm Tiến Duật
vẫn lạc quan, yêu đời với các vần thơ mang đầy ước mơ, tâm sự, niềm tự hào về
những hình tượng người lính trẻ và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường
Trường Sơn. Thơ ông mang đến cho văn học Việt Nam thời bấy giờ một giọng điệu
sôi nổi, trẻ trung, “tinh nghịch” nhưng cũng rất sâu sắc, trở thành những bài thơ gợi
cảm hứng chiến đấu cho thế hệ thanh niên bấy giờ.
1
Những tập thơ tiêu biểu của ông có thể kể đến như: Vầng trăng quầng lửa (thơ,
1970), Ở hai đầu núi (thơ, 1981), Vầng trăng và những quầng lửa (thơ, 1983), Thơ
một chặng đường (tập tuyển, 1994), Nhóm lửa (thơ, 1996), Tiếng bom và tiếng chuông
(trường ca, 1997), và Tuyển tập Phạm Tiến Duật (in xong đợt đầu ngày 17 tháng 11
năm 2007, khi ông đang ốm nặng). Ngoài ra, ông còn có tập tiểu luận, in năm 2003 có
tên là Vừa làm vừa ghi. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành những bài hát
nổi tiếng như: Trường Sơn đông, Trường Sơn tây; Tiểu đội xe không kính,...
Những nỗi đau về tinh thần và thể xác của người lính trên tuyến đường Trường
Sơn ác liệt, dữ dội trong những năm tháng chiến tranh cùng với tình cảm của những
người lính, người đồng đội ở đây đã gợi cảm hứng cho một thi sĩ có tâm hồn mơ
mộng, lãng mạn như Phạm Tiến Duật sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị. Chứng kiến
đời sống thực của người lính trên tuyến đường ấy, hơn ai hết ông thấu hiểu và ghi
nhận được vẻ đẹp và sức mạnh của những người lính trẻ như người chiến sĩ lái xe, cô
thanh niên xung phong, đôi khi là hình ảnh của hoa bướm trong rừng… Hình ảnh
những anh bộ đội lái xe quả cảm và vui tính “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” trong
Bài thơ về tiểu đội xe không kính; những chiến sĩ công binh mở đường quả cảm “lầm
lì”, “áo giáp lấm đầy đất cát” trong Vầng trăng quầng lửa; những cô gái thanh niên
xung phong “phá nhiều bom nổ chậm”, “nằm mơ nói mớ vang nhà” trong Gửi em cô
thanh niên xung phong; những người lính coi kho “sống xa phố, xa làng” trong Tiếng
cười của đồng chí coi kho… ; tất cả hiện lên sinh động, hấp dẫn như một bức tranh với
đủ sắc màu chan chứa yêu thương mà ông dành cho những người đồng đội của mình.
Sức hấp dẫn của thơ ông còn ở sự mới mẻ trong cách thức lựa chọn góc độ tiếp
cận hiện thực, kết cấu và giọng điệu trẻ trung, tươi tắn. Tinh thần yêu đời của những
người lính trẻ đã trở thành những biểu tượng đẹp đẽ, tràn đầy sức sống của tuổi trẻ
thời chống Mỹ. Bởi vậy, thơ ông có vị trí đặc biệt trong tâm hồn người lính, đồng
hành vởi cuộc chiến, vang vọng trong những cánh rừng Trường Sơn.
2
Vị trí trên tiến trình văn học
Thơ ông có nhiều sáng tạo, đổi mới, hấp dẫn. Nhiều hình ảnh trong tác phẩm
của ông đã trở thành biểu tượng trong lòng của biết bao thế hệ người lính trong những
năm tháng chiến tranh oai hùng ấy. Sau này, một số nhà thơ tiếp bước Phạm Tiến
Duật, làm giàu thêm văn thơ thời chống Mỹ nhưng nhiều tác phẩm của ông có chỗ
đứng nhất định, khó có nhà thơ nào vượt qua được.
Với những đóng góp đó, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học
– nghệ thuật năm 2001, Giải thường văn học 2007 của Trung tâm Văn hoá Doanh
nhân, Huân chương Lao động hạng nhì năm 2007 và được truy tặng Giải thưởng Hồ
Chí Minh về văn học – nghệ thuật năm 2012.
3
CHƯƠNG 3
1
là cái nhìn khách quan, đấy chất nhân văn về những con người bên kia chiến
tuyến. Họ không hoàn toàn là người xấu, người ác hay hèn nhát, ngu xuẩn mà
cũng là những nạn nhân của chiến tranh. Bên cạnh sự tàn bạo, những người lính
phía kẻ thù cũng có tâm hồn biết yêu cái đẹp và săn đuổi đến tận cùng cái đẹp
(Năm 1975 họ đã sống như thế - Nguyễn Trí Huân, Sông xa, Nắng đồng bằng
của Chu Lai,...).
Ngoài đề tài chiến tranh, văn học giai đoạn này có sự đổi mới khi hướng
vào các vấn đề thế sự – đạo đức trong đời sống hàng ngày của con người, mở
ra cho văn học những hướng tiếp cận mới với hiện thực đang có nhiều biến đổi,
phức tạp – hiện thực đời thường. Nhiều tác phẩm đề cập đến những vấn đề đạo
đức trong cuộc sống, phê phán những mặt tiêu cực, trì trệ trong xã hội. Hiện
thực cuộc sống được nhìn nhận ở nhiều mặt, nhiều khía cạnh. Nhà văn xoáy sâu
vào miêu tả tâm lý, tính cách nhân vật, những giằng xé trong nội tâm nhân vật
(Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Bến quê, Bức tranh của Nguyễn Minh
Châu; Mùa lá rụng trong vườn của Ma văn Kháng; Bên kia bờ ảo vọng, Chuyện
tình kể trước lúc rạng đông của Dương Thu Hương,...). Các nhà văn cũng mạnh
dạn tấn công vào những mặt tiêu cực trong xã hội, vạch trần sự ấu trĩ, bảo thủ
của một bộ phận cán bộ quản lý (Đứng trước biển, Cù Lao Tràm của Nguyễn
Mạnh Tuấn, Mưa mùa hạ của Ma Văn Kháng,...). Thơ của Nguyễn Duy (Ánh
trăng), Ý Nhi (Người đàn bà ngồi đan), Thanh Thảo (Những ngọn sóng mặt
trời)... cũng góp sức chuẩn bị tích cực cho những chuyển biến mạnh mẽ của văn
học khi bước vào thời kỳ đổi mới.
Đây được xem là chặng đường chuyển tiếp từ nền văn học cách mạng
trong chiến tranh sang nền văn học thời kỳ hậu chiến hay là giai đoạn tiền đổi
mới. Văn học có sự khởi động và chuẩn bị tích cực cho những chuyển biến
mạnh mẽ khi bước vào thời kỳ đổi mới. Nói cách khác, đó là những con sóng
ngầm làm nên những cơn bão lớn ở giai đoạn sau. Đóng góp lớn cho văn học
2
giai đoạn chuyển tiếp này là nhà văn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trọng Oánh,
Nguyễn Mạnh Tuấn, Hữu Thỉnh,...
3
CHƯƠNG 3
(1929- 1993)
Năm 1955: Ông nhập ngũ, tham gia chiến đấu trên
nhiều chiến trường miền Bắc, sau được điều về trại
sáng tác viết truyện anh hùng ở tổng cục Chính trị.
Năm 1957: Công tác tại Ban Biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Năm 1967: Vào Nam chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên, sau làm biên tập
viên, rồi giữ chức Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng.
Trong chiến tranh chống Mỹ: Công tác chủ yếu ở tuyến lửa khu 4.
Năm 1975: Tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, sau khi đất nước thống nhất, ra
Hà Nội tiếp tục sáng tác.
Năm 1980: Làm Phó tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
1
được dấu ấn trong lòng bạn đọc qua Đất trắng – cuốn tiểu thuyết viết về sự
khốc liệt của chiến tranh, những hy sinh mất mát, sự dao động dẫn đến đầu hàng
của cán bộ cao cấp trong quân đội. Những tác phẩm tiêu biểu của ông có thể kể
đến: Thơm hương bốn mùa (1961), Ngày đẹp nhất (1974), Lời người cầm súng
(1977), Nhật ký đảo Cồn Cỏ (1964), Nhật ký chiến dịch (1977), Đất trắng
(1979-1984), Con tốt sang sông (1989),…
Nguyễn Trọng Oánh là nhà văn, nhà thơ, đã đóng góp cho văn học hiện
đại Việt Nam những tập thơ, tập bút, những cuốn tiểu thuyết có giá trị.
Sau năm 1975, ông là một trong những nhà văn đánh dấu sự đổi mới rất
sớm trong tư duy nghệ thuật và cách tiếp cận hiện thực chiến tranh. Nhà văn đã
hướng thẳng, xoáy sâu vào sự thật trần trụi của chiến tranh với tất cả sự bộn bề,
phức tạp của nó; đặc biệt ông không ngần ngại viết về mặt trái, sự tha hóa của
con người - một cán bộ quân đội (nhân vật Tám Hàn trong Đất trắng).
Những tác phẩm của ông đã thể hiện sự đổi mới trong cách nhìn nhận
hiện thực, lịch sử, con người, về số phận con người ở hai bờ chiến tuyến, về
cuộc sống của người lính trở về sau chiến tranh (Con tốt sang sông - 1978, Mây
cuối chân trời -1985, Người thắng cuộc – 1987). Vì vậy, ông đã có đóng góp
đáng kể trong tiến trình đổi mới văn học Việt Nam, đặc biệt là đổi mới thể loại
tiểu thuyết.
Giải thưởng văn chương
- Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1977 và Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng
(1984) cho tiểu thuyết Đất trắng.
- Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt I, 2001.
2
Tác phẩm tiêu biểu
ĐẤT TRẮNG
và thông minh, được nhân dân ủng hộ đã bám trụ, Bìa sách Đất trắng,
tiếp tục cuộc đấu tranh quyết liệt với địch để giành NXB. QĐND, 1979
lại lại dân, giành lại địa bàn... Địch đã dùng cả không quân và các lực lượng
dù, quân địa phương để đối phó. Trung đoàn này đã chịu một sự hy sinh, tổn
thất rất lớn, chỉ còn lại khoảng 20 người nhưng họ đã làm cho kẻ thù khiếp sợ.
Trong lúc gian khổ, ác liệt thì Phó chính ủy phân khu là Tám Hàn đã dao động
chạy về hàng địch. Nhưng dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Ba Kiên và
các cán bộ khác, Trung đoàn 16 vẫn vững vàng trước mọi thử thách, anh dũng
chiến đấu, đâp tan âm mưu biến vùng đất ven đô này thành vùng đất trắng của
địch, tạo thế bàn đạp cho cuộc tổng tiến công mùa xuân 1975 đại thắng.
Đây là tác phẩm đánh dấu sự đổi mới của tiểu thuyết viết về chiến tranh
trong văn học Việt Nam sau 1975.
3
NHÀ THƠ HỮU THỈNH
Sau 1975, Hữu Thỉnh học trường Viết văn Nguyễn Du.
Từ 1982, ông lần lượt đảm nhiệm các chức vụ cán bộ biên tập, Trưởng
ban Thơ, Phó Tổng Biên tập của Tạp chí Văn nghệ Quân đội.
Từ 1990, Hữu Thỉnh chuyển sang công tác tại Hội Nhà văn Việt Nam, trở
thành Tổng Biên tập Tuần báo Văn nghệ, tham gia Ban chấp hành Hội Nhà văn
các khoá III, IV, V.
Năm 2000 ông là Tổng thư kí Hội Nhà văn Việt Nam và đảm nhiệm vai
trò này đến năm 2020.
1
Ông cũng viết hay và đầy ám ảnh về người lính. Đó là những con người
làm nên một thời dông bão, quên cả thanh xuân vì mục đích giành lại độc lập tự
do cho dân tộc.
Thơ ông giản dị nhưng tinh tế và sâu sắc. Đặc biệt, ông sáng tác nhiều
trường ca – những tác phẩm vừa có tầm khái quát rộng lớn, vừa gần gũi với
cuộc đời con người. Ngoài làm thơ, ông còn viết nhiều bút kí văn học và viết
báo.
Về thơ và trường ca, Hữu Thỉnh có những tác phẩm tiêu biểu như: Âm
vang chiến hào (in chung), Đường tới thành phố (trường ca, 1979), Từ chiến
hào đến thành phố (trường ca, thơ ngắn), Khi bé Hoa ra đời (thơ thiếu nhi, in
chung), Thư mùa đông (1994), Trường ca biển (1994), Thương lượng với thời
gian (2005), Trăng Tân Trào (2019).
Về văn xuôi, ông có các tập truyện ký tiêu biểu: Đường lửa mùa
xuân (1987), Mưa xuân trên tháp pháo (2009), Lý do của hi vọng (2010)
Hữu Thỉnh là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ của
ông vừa có đặc điểm chung của thơ ca kháng chiến vừa có những điểm riêng,
độc đáo về nội dung và nghệ thuật, có sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và
hiện đại. Ông đã tạo được tiếng thơ mới mẻ với những bài thơ ấn tượng và đặc
biệt là những trường ca có giọng điệu riêng.
Thơ Hữu Thỉnh có chiều sâu, bám sát hiện thực cuộc sống và phản ánh
trung thành những sự kiện lớn lao của đất nước; ghi lại những hình ảnh đẹp của
một thế hệ luôn ý thức sâu sắc vai trò của thế hệ mình trong công cuộc đấu
tranh giải phóng đất nước. Sau năm 1986, ông cũng là một trong những nhà thơ
có đóng góp cho công cuộc đổi mới thơ ca Việt Nam với phong cách sáng tác
mới, với những vần thơ thể hiện sự suy tư, chiêm nghiệm về cuộc sống và con
người trong xã hội đầy biến động.
2
Giải thưởng văn chương
- Giải A, cuộc thi thơ báo Văn nghệ 1975 - 1976 bài Chuyến đò đêm giáp
ranh, Trường ca Sức bền của đất.
- Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1980 với Trường ca Đường tới
thành phố.
- Giải thưởng Bộ Đại học, Trung học chuyên nghiệp và Trung ương
Đoàn (1991)
- Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1995 với tập thơ Thư mùa đông
- Giải xuất sắc Bộ Quốc phòng năm 1994 với Trường ca Biển
- Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật đợt I, 2001.
Sang thu
3
Đã vơi dần cơn mưa
(Trích trong tập Từ chiến hào tới thành phố, NXB. Văn học, Hà Nội, 1991)
Bài thơ ra đời năm 1977, in trong tập Từ chiến hào đến thành phố.
Bài thơ là những cảm nhận tinh tế của tác giả về sự biến chuyển của đất
trời từ cuối hạ sang thu. Thời khắc “sang thu” trong bài thơ mang một vẻ đẹp
trong sáng và dịu nhẹ với những hình ảnh thơ xinh xắn, đáng yêu. Qua đó, bài
thơ bộc lộ tình yêu thiết tha với thiên nhiên của một tâm hồn nhạy cảm, sâu sắc
và giàu chất suy tư.
Anh xa em
Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn.
4
CHƯƠNG 3
Sau 1975, đất nước thống nhất, giang sơn thu về một mối, chuyển từ hoàn
cảnh chiến tranh sang hòa bình.
Tuy chiến tranh kết thúc, đất nước thống nhất nhưng Việt Nam vẫn phải
đương đầu với hai cuộc chiến tranh: chiến tranh biên giới phía Bắc và chiến
tranh biên giới Tây Nam (chống Khơme đỏ). Thiệt hại trong hai cuộc kháng
chiến này cũng rất lớn.
Cuối tháng 12/1976, Đại hội Đảng lần thứ IV được tổ chức ở Hà Nội đã
khẳng định: Đường lối chung xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước
là “tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: Cách mạng quan hệ sản xuất, cách
mạng khoa học kỹ thuật, cách mạng văn hóa tư tưởng, trong đó cách mạng khoa
học kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm
vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ...”. Trong đó, cách mạng quan hệ sản xuất là
chủ trương cải tạo kinh tế ở miền Nam, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội; hy
vọng đến năm 1980 sẽ hoàn thành việc cải tạo kinh tế miền Nam và khoảng 20
năm đến 30 năm, Việt Nam sẽ thành một nước công - nông nghiệp hiện đại.
Nhưng sau 3 năm thực hiện (1976-1978), tình hình kinh tế đất nước có chiều
hướng đi xuống, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Giai đoạn đầu thập
niên 1980, khủng hoảng kinh tế- xã hội đã nổ ra.
Đầu năm 1986, chủ đề nóng bỏng nhất là nên chuyển sang kinh tế hàng
hóa hay tiếp tục nền kinh tế kế hoạch theo lối quản lý cũ. Tháng 7/1986, Bộ
Chính trị có cuộc họp và kết luận một số quan điểm kinh tế như: Bố trí lại cơ
1
cấu kinh tế, cải tạo và sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế và đổi mới cơ
chế quản lý.
Tháng 12/1986, Đại hội Đảng lần thứ VI diễn ra thành công tốt đẹp và đi
vào lịch sử như “Đại hội Đổi mới”. Đổi Mới là một chương trình cải cách toàn
diện bao gồm kinh tế và nhiều khía cạnh khác của đời sống xã hội.
Với khẩu hiệu “đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật”, Đại hội đã tạo cơ
sở tư tưởng cho xu hướng dân chủ hóa trong văn học được khơi dòng và phát
triển mạnh mẽ. Cùng với sự đổi mới toàn diện của đất nước, văn học cũng
chuyển mình, “trở dạ”, làm nên một giai đoạn văn học có tên là Đổi Mới. Đây là
giai đoạn văn học đang diễn ra, đang vận động và phát triển, trong đó, năm
1986 được xác định là một mốc phân kỳ, mở ra giai đoạn văn học có sự đổi mới
toàn diện.
Đổi mới trong văn học thời kỳ này là đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự
thật, phản ánh đúng sự thật, không tô hồng hay bôi đen sự thật. Đó là quy luật
nội tại, là yêu cầu tự thân, là sự tự ý thức của văn học. Ngoài ra, đó cũng là kết
quả của việc tiếp thu ảnh hưởng và tiếp biến các giá trị văn chương từ bên
ngoài.
Có thể nói, mốc đổi mới 1986 là mốc mở ra một thời kỳ văn học mới,
nhưng không hoàn toàn khép lại thời kỳ văn học trước đó. Trong đó, đặc biệt là
10 năm từ 1986 đến 1995, đổi mới quyết liệt và đạt được những thành công rực
rỡ.
2
CHƯƠNG 3
Đây là giai đoạn văn học Việt Nam có sự đổi mới sâu sắc và toàn diện, là
giai đoạn sôi nổi nhất của đời sống văn nghệ ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Cơ sở thúc đẩy sự đổi mới đó là Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản
Việt Nam (1986), Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị về văn hóa văn nghệ và cuộc
gặp gỡ của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với gần 100 văn nghệ sĩ cả nước
(cuối năm 1987). Đại hội Đảng lần thứ VI đã xác định đường lối đổi mới toàn
diện, mở ra một thời kỳ mới cho đất nước vượt qua thời kỳ khủng hoảng để
bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ và ngày càng vững chắc. Với văn học,
tinh thần “đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật, phản ánh đúng sự thật” của
Đại hội Đảng lần VI cùng với sự thẳng thắn, cởi mở trong cuộc gặp gỡ với lãnh
đạo cấp cao của các văn nghị sĩ là động lực tinh thần mạnh mẽ thúc đẩy sự đổi
mới sâu sắc và toàn diện.
Đổi mới quan trong nhất của văn học giai đoạn này là đổi mới “tư duy
nghệ thuật”. Có sự chuyển mạch từ “tư duy sử thi” sang “tư duy tiểu thuyết”,
hướng đến số phận cá nhân- đời tư của con người. Chính sự đổi mới tư duy
nghệ thuật đã làm thay đổi các quan niệm về chức năng của văn học, về mối
quan hệ giữa văn học và đời sống, nhà văn và bạn đọc, về sự tiếp nhận văn học.
Đồng thời, sự đổi mới tư duy nghệ thuật cũng thúc đẩy nhà văn tìm kiếm, thể
nghiệm những thủ pháp nghệ thuật mới; cách tiếp cận mới về hiện thực, phát
huy cá tính sáng tạo của nhà văn.
Tinh thần đổi mới văn học triệt để, quyết liệt của giới sáng tác thể hiện
qua việc chấm dứt một giai đoạn sáng tác để phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu
1
như văn học thời chiến tranh. Nhà văn hướng ngòi bút của mình vào những vấn
đề nhức nhối của xã hội và số phận con người. Những vở kịch của Lưu Quang
Vũ mang tinh thần chống tiêu cực đã được dàn dựng và biểu diễn khắp nơi đã
trở thành những sự kiện nghệ thuật làm chấn động dư luận: Hồn Trương ba, da
hàng thịt, Tin ở hoa hồng,... Những truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã phơi
bày sự khủng hoảng của xã hội qua việc thay đổi các giá trị và lối sống: Tướng
về hưu, Không có vua,....
Nhiều tác phẩm soi chiếu những “góc tối” của quá khứ, nhận thức lại hiện
thực (những sai lầm của công cuộc cải cách ruộng đất, của những cuộc cách
mạng văn hóa; sự áp đặt của đoàn thể, quyền lực lên đời sống cá nhân,...) nhằm
thức tỉnh con người và xã hội như: Thời xa vắng của Lê Lựu, Chuyện làng ngày
ấy của Võ văn Trực, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường,
Bến không chồng của Dương Hướng,... Hay mặt trái của chiến tranh (những mất
mát đau thương, sự tác động dữ dội đến số phận và tính cách con người) cũng
được văn học đi sâu khai phá: Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu, Vòng tròn bội
bạc của Chu lai, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân, Góc tăm tối cuối cùng của
Khuất Quang Thụy, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh,... Trong đó, Thời xa
vắng của Lê Lựu (xuất bản năm 1987) có một vị trí đặc biệt trong tiến trình văn
học Việt Nam sau 1975.
Thể loại có sự đổi mới sôi nổi và thành công nhất của văn học thời kỳ
Đổi Mới là truyện ngắn và tiểu thuyết. Tiếp theo lớp nhà văn đã thành danh như
Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải…, là những cây bút mới rất
sung sức như: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Dương Thu
Hương, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Nhật Tuấn, Dương
Hướng, Nguyễn Khắc Trường, Tạ Duy Anh, Ngô Ngọc Bội, Lê Minh Khuê, …
Sáng tác của họ đã tạo nên diện mạo vừa độc đáo, vừa đa dạng cho văn học Việt
Nam thời kỳ Đổi Mới. Trong đó, Nguyễn Huy Thiệp được xem là một “hiện
tượng” độc đáo của văn xuôi đương đại Việt Nam với hàng loạt tác phẩm gây
2
tiếng vang trong dư luận: Tướng về hưu, Con gái thủy thần, Những bài học
nông thôn, Những ngọn gió Hua Tát, Không có vua, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm
tiết,...
Trong đó, có những tiểu thuyết đỉnh cao, được trao Giải thưởng Hội Nhà
văn Việt Nam năm 1991: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Bến không chồng
(Dương Hướng), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường).
Văn học trở lại với những quy luật mang tính bình thường nhưng vẫn tiếp
tục tìm tòi, đổi mới. Những năm cuối thế kỷ XX, văn học Việt Nam có sự khởi
sắc với những tác phẩm: Cơ hội của Chúa (Nguyễn Việt Hà), Lạc rừng (Trung
Trung Đỉnh), Hồ Quý Ly (Nguyễn Xuân Khánh), Ngược dòng nước lũ (Ma văn
Kháng), Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh,… Về thơ, có sự xuất hiện của những
cây bút trẻ, đang tìm đường bứt phá để tiến lên phía trước (Vi Thuỳ Linh,
Nguyễn Hữu Hồng Minh,...).
Từ năm 2000 đến nay, văn học có sự tìm tòi, đổi mới, xuất hiện nhiều tác
phẩm hay: Thượng Đế thì cười (Nguyễn Khải), Thiên thần sám hối (Tạ Duy
Anh), Người sông Mê (Châu Diên), Dòng sông Mía (Đào Thắng), Khải huyền
muộn (Nguyễn Việt Hà), Ba người khác (Tô Hoài), Và khi tro bụi (Đoàn Minh
Phượng), Tiểu thuyết đàn bà (Lý Lan),... Đặc biệt, nhiều cây bút trẻ xuất hiện
với phong cách sáng tác mới mẻ, gây được ấn tượng mạnh cho người đọc như:
Nguyễn Ngọc Tư (Cánh đồng bất tận), Đỗ Hoàng Diệu (Bóng đè), v.v...
Tuy ít có những tác phẩm gây được những “cú sốc” trong dư luận như ở
chặng đầu Đổi Mới nhưng hầu như ở thể loại nào, văn học cũng có sự tìm tòi, tự
đổi mới.
3
CHƯƠNG 3
Văn học Việt Nam từ sau 1975 đã tồn tại và phát triển trong những điều
kiện lịch sử và xã hội có sự khác biệt rõ rệt với thời kỳ chiến tranh nên mang
những đặc điểm đặc biệt. Tuy nhiên, do văn học thời kỳ này vẫn đang trong quá
trình vận động nên vẫn chưa thể xác định những đặc điểm có tính hệ thống của
một thời kỳ văn học. Về cơ bản, các nhà nghiên cứu tạm xác định những đặc
điểm chính của văn học Việt Nam thời kỳ Đổi Mới như sau:
Từ giữa những năm 80 trở đi, dân chủ hóa đã trở thành xu hướng vận
động bao trùm của văn học Việt Nam. Điều này đã được thể hiện trong đường
lối đổi mới tại Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1986) với
tinh thần “đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật”.
Dân chủ hóa được thể hiện ở nhiều cấp độ và bình diện khác nhau. Trước
hết, văn học coi trọng việc khám phá thực tại và thức tỉnh ý thức về sự thật.
Điều này hoàn toàn khác với văn học giai đoạn trước. Trong thời chiến tranh,
nhà văn đồng thời là chiến sĩ. Họ dùng văn học như là vũ khí tư tưởng của cách
mạng, phục vụ cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Văn học thời kỳ
Đổi Mới ngoài việc đáp ứng yêu cầu của như một “món ăn tinh thần” cho bạn
đọc, là vũ khí tinh thần tấn công vào cái xấu, cái ác, còn là phương tiện cần thiết
để nhà văn tự thể hiện tư tưởng, quan niệm, chính kiến của mình về xã hội và
con người. Có thể tìm thấy điều này trong những tác phẩm ký gây chấn động dư
luận một thời như: Cái đêm hôm ấy đêm gì? của Phùng Gia Lộc, Lời khai của bị
can của Trần Huy Quang, Thủ tục để làm người còn sống của Minh Chuyên hay
bài thơ Mùa xuân nhớ Bác của Phạm Thị Xuân Khải,...
1
Thứ hai, dân chủ hóa thể hiện ở mối quan hệ giữa nhà văn và bạn đọc. Đó
là mối quan hệ bình đẳng, người đọc thực sự được tôn trọng. Nhà văn không áp
đặt tư tưởng của mình lên người đọc và người đọc có thể cảm nhận tác phẩm
theo các riêng của mình, thậm chí có quyền tranh luận, đối thoại với tác giả.
Không ít tác phẩm, nhà văn để cho người đọc tham gia vào câu chuyện khi sử
dụng kiếu cấu trúc mở, mời gọi khả năng đồng sáng tạo từ người đọc. Các tác
phẩm Cỏ lau, Phiên Chợ Giát của Nguyễn Minh Châu; Tướng về hưu của
Nguyễn Huy Thiệp; Thiên sứ của Phạm Thị Hoài,… là những tác phẩm mở ra
cho người đọc nhiều chân trời suy tưởng và mời gọi sự đồng sáng tạo ấy.
Thứ ba, dân chủ hóa còn thể hiện ở quan niệm về hiện thực và sự mở
rộng biên độ phản ánh hiện thực của văn học. Nếu như trong văn học giai đoạn
trước, hiện thực mà văn học hướng đến là hiện thực lịch sử, hiện thực cách
mạng với những biến cố dữ dội, ở đó, con người cá nhân, cá thể bị mờ đi, hòa
vào cái chung của cộng động, dân tộc thì trong văn học giai đoạn này, hiện thực
được mở rộng và mang tính toàn diện. Đó không chỉ là hiện thực cách mạng,
các biến cố lịch sử mà còn là hiện thực của đời sống hàng ngày và đời sống cá
nhân của con người. Trong đó có những vùng hiện thực trước kia văn học chưa
có điều kiện khai thác (mặt trái của chiến tranh, hậu quả của cải cách ruộng đất,
vấn đề tâm linh, vấn đề tình dục,…) hay hiện thực tồn tại trong tâm tưởng của
con người (hiện thực phi không gian, phi thời gian). Nhiều tác phẩm viết rất hay
về những vùng hiện thực này: Bên kia bờ ảo vọng (Dương Thu Hương), Lão
Khổ (Tạ Duy Anh), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng (Chu
Lai), Người đàn bà trên đảo (Hồ Anh Thái), Những đứa trẻ chết già (Nguyễn
Bình Phương),…
Ngoài ra, tính dân chủ còn biểu hiện ở những bình diện khác của sáng tác
như cách chọn đề tài, kết cấu tác phẩm, xây dựng nhân vật, sử dụng giọng điệu,
ngôn ngữ, nghệ thuật trần thuật,... Chính tinh thần dân chủ hóa đã tạo nên
những phong cách khác nhau trong sáng tác văn học thời kỳ này. Nhà văn đã
2
không ngừng tìm tòi, đổi mới, thể nghiệm nhiều hình thức và thủ pháp nghệ
thuật.
Sau năm 1975, xã hội Việt Nam chuyển từ hoàn cảnh chiến tranh sang
cuộc sống hòa bình, con người phải đối mặt với biết bao đổi thay, biến động.
Chính những biến động lớn của đời sống xã hội đã ảnh hưởng đến đời sống mỗi
cá nhân, thức tỉnh ý thức cá nhân. Văn học không chỉ quan tâm đến những sự
kiện lớn lao của quốc gia, dân tộc mà còn quan tâm đến số phận từng cá nhân
với tất cả niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc và những nỗi đau.
Biểu hiện rõ nhất của ý thức cá nhân trong văn học thời kỳ này là sự thay
đổi quan niệm nghệ thuật về con người. Đó không phải là con người công dân,
con người tập thể mà là con người đời thường – con người được soi chiếu từ
nhiều góc độ, trong nhiều mối quan hệ (quan hệ với xã hội, với lịch sử; quan hệ
với gia đình, dòng tộc; quan hệ với chính mình). Đó là con người hiện lên trọn
vẹn, được tổng hòa bởi các mặt khác nhau: con người xã hội, con người tụ nhiên
và con người tâm linh.
Trong văn học hiện đại Việt Nam, sự thức tỉnh của ý thức cá nhân đã trỗi
dậy mạnh mẽ từ đầu thế kỉ XX. Đó là sự chống lại những ràng buộc của lễ giáo
phong kiến, đòi giải phóng cá nhân, giải phóng tình cảm; đòi tự do trong tình
yêu, trong hôn nhân (thể hiện trong Thơ Mới và văn xuôi Tự lực văn đoàn).
Suốt 30 năm chiến tranh (từ 1945 đến 1975), ý thức cá nhân đó đã nhường chỗ
cho ý thức giai cấp, ý thức cộng đồng với khát vọng độc lập, tự do cho dân tộc.
Vì vậy, sự thức tỉnh của ý thức cá nhân trong văn học thời kỳ Đổi Mới ở Việt
Nam thực chất là “sự trở về” với cái tôi cá nhân trong một hoàn cảnh mới, với
một ý nghĩa mới. Nhiều bi kịch về số phận con người trở về sau chiến tranh
được văn học thể hiện sâu sắc và cảm động (truyện Bức tranh của Nguyễn Minh
Châu, Thời xa vắng của Lê Lựu, Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp,...)
3
c) Văn học phát triển đa dạng, phong phú
Văn học Việt Nam thời kỳ Đổi Mới đã phát triển đa dạng, phong phú với
nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Có thể thấy sự đa dạng và phong phú của văn
học ở nhiều phương diện khác nhau: phong phú về đề tài, thể loại, kết cấu tác
phẩm, xây dựng nhân vật; đa dạng về phong cách, khuynh hướng sáng tác.
Trong đó, các nhà văn đã không ngừng tìm tòi, cách tân nghệ thuật, vận dụng
những kỹ thuật hiện đại của văn học thế giới trong thể hiện nội tâm, tâm lý của
nhân vật, trong nghệ thuật trần thuật,... Những tác phẩm của Bảo Ninh (Nỗi
buồn chiến tranh), Hồ Anh Thái (Cõi người rung chuông tận thế), Tạ Duy Anh
(Thiên thần sám hối) hay thơ Hoàng Hưng, Lê Đạt, Vi Thùy Linh, Đặng Đình
Hưng,... đã góp phần đưa văn học Việt Nam đi những bước xa hơn trên con
đường hiện đại hóa để hòa nhập vào tiến trình văn học thế giới.
4
3.3. Những thành tựu đổi mới
Văn học thời kỳ này có sự hội tụ một đội ngũ sáng tác đông đảo, đa
phong cách, bao gồm nhiều thế hệ nhà văn, nhà thơ. Trong đó, có những nhà
văn, nhà thơ đã thành danh trong văn học giai đoạn trước 1945 (Tô Hoài, Chế
Lan Viên, Tố Hữu), có những nhà văn trưởng thành hai cuộc kháng chiến
(Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Thanh Thảo, Lâm Thị Mỹ Dạ,…), và đặc
biệt là sự xuất hiện của thế hệ nhà văn trẻ, trưởng thành sau chiến tranh (Bảo
Ninh, Nguyễn Khắc Trường, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Vi Thùy Linh,…).
Trước hết, có sự tự đổi mới tư duy nghệ thuật của các nhà văn đã có sáng
tác ở giai đoạn trước (Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải,...).
Những nhà văn trẻ đem đến cho văn học hơi thở của thời đại với những
phong cách rất riêng. Tác phẩm của họ gây ra những cuộc tranh luận sôi nổi, tạo
nên không khí sôi động cho văn học. Trong đó, đáng chú ý là tác phẩm của các
nhà văn: Lê Lựu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ,
Hòa Vang, Y Ban, Nguyễn Thị Ấm, Phan Thị Vàng Anh…(văn xuôi). Phùng
Khắc Bắc, Trương Nam Hương, Nguyễn Thị Hồng Ngát, Nguyễn Quang
Thiều… (thơ).
Sau 1975, văn học vẫn tiếp tục khai thác các đề tài cũ – nhất là đề chiến
tranh. Một số tác giả đã tiếp cận chiến tranh trên một quan điểm mới, đa dạng.
Bên cạnh cảm hứng ngợi ca và phản ánh niềm vui, thắng lợi, văn học sau 1975
bắt đầu đề cập những tổn thất nặng nề, những mất mát đau thương trong chiến
tranh : Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Ăn
mày dĩ vãng (Chu Lai)...
Bên cạnh khai thác đề tài cũ, văn học sau 1975 xuất hiện một mảng đề tài
mới – đề tài đời thường. Nhà văn đã đưa những cái đời thường vào trong văn
học: Nỗi buồn, niềm vui, hạnh phúc bất hạnh, chuyện đời tư, tình yêu, tình dục,
số phận cá nhân. Đời sống hiện thực được phản ánh, soi rọi từ nhiều phía, đa
dạng và phong phú hơn (Mùa lá rụng trong vườn – Ma Văn Kháng, Thiên sứ -
Phạm Thị Hoài, …).
a) Ký : Là thể loại nhạy bén, phù hợp với những hiện thực phức tạp, có
nhiều biến đổi nên đã nắm bắt vấn đề rất nhanh. Ký đã mạnh dạn, tự tin đi vào
những góc khuất của đời sống hiện thực; trực diện, thẳng thắn bày tỏ quan điểm,
thái độ cũng như những suy tư, trăn trở về cuộc sống mới. Những khoảng tối
của đời sống, những số phận con người, đặc biệt là số phận người lính thời hậu
chiến, số phận những con người trong cuộc hành trình đi tìm công lý là mảng
hiện thực được thể hiện khá thành công trong ký. Nhiều tác phẩm ký xuất hiện
để lại ấn tượng cho người đọc: Cái đêm hôm ấy đêm gì? (Phùng Gia Lộc), Lời
khai của bị can ( Trần Huy Quang), Người đàn bà quỳ (Trần Khắc), Thủ tục
làm người còn sống (Minh Chuyên),...
Ở một phương diện nào đó, văn học (ký) cùng báo chí đã góp phần quan
trọng trong sự nghiệp đổi mới đất nước, phát hiện và giải quyết những yếu kém,
tồn đọng, nan giải của xã hội trước yêu cầu đổi mới, nhu cầu hội nhập khu vực
và quốc tế.
b) Truyện ngắn: Là thể loại năng động, nhạy bén, truyện ngắn thật sự đạt
tới đỉnh cao mới, phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Hàng loạt tập truyện
ngắn ra đời với phong cách mới mẻ, đa dạng, thu hút được sự quan tâm của bạn
đọc: Những ngọn gió Hua Tát, Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Người đàn
bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau (Nguyễn Minh Châu), Bước qua lời nguyền
(Tạ Duy Anh), Bi kịch nhỏ (Lê Minh Khuê),…
Tác giả tiêu biểu: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp
c) Tiểu thuyết: Là thể loại được xem là “cỗ máy cái” của văn học, có sự
chuyển biến chậm hơn truyện ngắn nhưng đạt nhiều thành tựu.
Trước hết, tiểu thuyết có sự đổi mới quan trọng về tư duy nghệ thuật. Đó
là sự chuyển mạch từ “tư duy sử thi” sang “tư duy tiểu thuyết”. Tư duy sử thi
hướng đến thế giới với những biến cố, những sự kiện lớn lao, ở đó con người cá
nhân bị mờ đi sau bức tranh hoành tráng của cộng đồng. Tư duy tiểu thuyết
hướng người đọc đến thế giới riêng tư của con người, đến cá nhân, cá thể. Vì
vậy, tiểu thuyết thời kỳ này có sự tiếp cận “vi mô” từ số phận con người. Nhiều
tác phẩm tiếp cận chiến tranh- một sự kiện lớn lao của dân tộc, từ những số
phận con người, nghĩa là đi từ số phận những nhân vật, nhà văn tái hiện lại
chiến tranh và lý giải chiến tranh trên nguyên tắc nhân bản (Chim én bay -
Nguyễn Trí Huân, Góc tăm tối cuối cùng – Khuất Quang Thụy, Nỗi buồn chiến
tranh – Bảo Ninh,…)
Tiểu thuyết có sự mở rộng đề tài và phạm vi phản ánh hiện thực. Hiện
thực được phản ánh không chỉ là hiện thực cách mạng mà còn là hiện thực đời
thường, hiện thực đời sống cá nhân, hiện thực tồn tại trong tâm tưởng của con
người.
Đặc biệt, tiểu thuyết thời kỳ này có sự cách tân rất lớn về phương diện
nghệ thuật (vận dụng những kỹ thuật mới của tiểu thuyết thế giới trong xây
dựng nhân vật, xây dựng kết cấu tác phẩm, xây dựng không gian, xử lý thời
gian,…).
Sự xuất hiện của một loại cây bút trẻ đã làm thay đổi hẳn bộ mặt và diện
mạo của văn xuôi. Các sáng tác của các nhà văn này đã mang lại cho văn xuôi
nói chung và tiểu thuyết nói riêng những sắc thái mới mẻ: Thời xa vắng (Lê
Lựu), Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Mảnh đất
lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Bến không chồng (Dương Hướng),
Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Cơ hội của chúa (Nguyễn Việt Hà), Thiên thần sám
hối (Tạ Duy Anh), …
d) Thơ: cũng có những tìm tòi, thể nghiệm; có nhiều nỗ lực cách tân đáng
chú ý. Cũng như văn xuôi, thơ cũng sáng tác theo nhiều xu hướng khác nhau.
Trong đó, một số xu hướng thơ ca có vai trò đáng kể tạo nên diện mạo thơ ca
thời kỳ này. Xu hướng thứ nhất là tiếp tục mạch cảm hứng sử thi của thơ ca giai
đoạn trước. Ở xu hướng này, xuất hiện nhiều trường ca viết về cuộc kháng chiến
chống Mỹ nhưng thể hiện cái nhìn sâu, xa về lịch sử đất nước - một lịch sử oai
hùng nhưng cũng không ít đau thương và bất hạnh (Đường tới thành phố - Hữu
Thỉnh, Những ngọn sóng mặt trời – Thanh Thảo,…). Các nhà thơ đã quan tâm
đến số phận của cá nhân, những nỗi đau của cá nhân trong nỗi đau chung của
dân tộc:
Thứ hai, thơ ca hướng vào đời sống thế sự, viết về cái tôi cá nhân. Ở đó,
những niềm vui, nỗi buồn trong tình yêu, hôn nhân; trong cuộc sống thường
nhật trở thành nguồn cảm hứng của thơ ca. Nhiều nhà thơ viết về nỗi buồn gắn
với thực tại mới, với một cảm quan nghệ thuật mới (Nguyễn Đức Mậu, Lâm Thị
Mỹ Dạ,...).
Đây là nỗi buồn về sự dối lừa trong tình cảm riêng tư:
Cùng với sự thay đổi trong cách tiếp cận và cảm nhận hiện thực cuộc
sống, thơ ca thời kỳ Đổi Mới có sự tìm tòi, cách tân về hình thức. Nhiều nhà thơ
với những tác phẩm giàu nội tâm cùng cách viết phá cách, đã khẳng định được
vị thế trên thi đàn (Đoàn Thị Lam Luyến, Lê Thị Mây, Lâm Thị Mĩ Dạ, Nguyễn
Thị Hồng Ngát,...). Nhiều cây bút trẻ với lối viết táo bạo, mới mẻ cũng góp
phần làm nên diện mạo của thơ ca thời kỳ này (Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư,
Phạm Thị Ngọc Liên,...).
Nhiều tác giả thành công trong sáng tác thơ văn xuôi. Mượn hình thức
của văn xuôi, có vần điệu, tiết tấu, các nhà thơ đã thoải mái thể hiện cảm xúc
của mình: Đường tới thành phố (Hữu Thỉnh), Thông điệp mùa xuân (Thu Bồn),
Chim năm sắc bi ca (Trinh Đường), Em yêu anh như tháng giêng (Phan Thị
Ngọc Liên), Tiếng gọi (Ý Nhi),…
Nhiều tập thơ đạt đến trình độ nghệ thuật cao với những cách tân mới mẻ
về tư duy thơ và về mặt ngôn từ: Di cảo thơ (Chế Lan Viên), Một chấm xanh
(Phùng Khắc Bắc), Tiếng hát người xa xứ (Trương Nam Hương), Tặng riêng
một người (Lê Thị Mây)… Việc cách tân nghệ thuật thơ (không tuân thủ luật
thơ truyền thống, phá vỡ cú pháp câu thơ) đã tạo nên một cách viết mới, vượt
khỏi những giới hạn của truyền thống.
Tuy nhiên, dù có nhiều tìm tòi, đổi mới nhưng so với văn xuôi, thành tựu
của thơ đương đại có phần khiêm tốn hơn. Ngoài những thành tựu trên, thơ
đương đại vẫn còn có một số tập thơ, câu thơ rơi vào bệnh hình thức, sử dụng
những ngôn từ và hình ảnh thiếu tính nghệ thuật; đi ngược lại thuần phong mỹ
tục của dân tộc. Những tác phẩm này không nhận được sự ủng hộ của người
đọc.
CHƯƠNG 3
(1950-2021)
Năm sinh: Sinh năm 1950, mất năm 2021, tại Thái Nguyên.
Năm 1970, ông tốt nghiệp khoa sử Trường Đại học Sư phạm
Hà Nội và được điều lên dạy học ở Tây Bắc.
Năm 1980, ông chuyển về công tác tại Bộ Giáo dục và Ðào
tạo, rồi Công ty Kỹ thuật trắc địa bản đồ, thuộc Cục Bản đồ
Năm 1992, ông nghỉ làm việc ở cơ quan Nhà nước, làm người sáng tác tự do.
Ông sống và sáng tác tại quận Thanh Xuân, Hà Nội,
Năm 2021, sau một thời gian lâm bệnh nặng, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đã
qua đời tại nhà riêng, hưởng thọ 71 tuổi.
Ðến với văn học từ khá sớm (21 tuổi) nhưng đến năm 1986, Nguyễn Huy Thiệp
mới được bạn đọc biết đến khi có những truyện ngắn in trên báo Văn Nghệ. Và
một năm sau đó (1987), với sự xuất hiện của truyện ngắn Tướng về hưu, ông đã
có một vị trí xứng đáng trên văn đàn.
Ông sáng tác nhiều thể loại (truyện ngắn, thơ, kịch, tiểu thuyết, tiểu luận phê
bình văn học) nhưng thành công nhất với thể loại truyện ngắn. Đề tài trong tác
1
phẩm của ông rất phong phú, đa dạng nhưng đặc sắc nhất là những tác phẩm
viết về nông thôn và miền rừng núi- nơi ông gắn bó với nghề dạy học suốt 10
năm.
Tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp đã được dịch ra nhiều thứ tiếng; nhiều tác
phẩm đã được chuyển thể thành phim và được khán giả yêu thích (Tướng về
hưu, Thương nhớ đồng quê, Những người thợ xẻ,...).
Trong sự nghiệp 50 năm cầm bút, Nguyễn Huy Thiệp đã để lại hơn Với hơn 50
truyện ngắn, 10 vở kịch, 4 tiểu thuyết cùng nhiều tiểu luận, phê bình. Trong đó,
có các tác phẩm tiêu biểu sau:
Truyện ngắn: Chảy đi sông ơi (1985), Muối của rừng, Nàng Sinh, Cô
Mỵ (1986); Vết trượt (1986), Tướng về hưu (1987), Không có vua (1987),
Những bài học nông thôn (1988), Những ngọn gió Hua Tát (1989); Thương nhớ
đồng quê (1992), Con gái thủy thần (1993), Thương cả cho đời bạc (2000),
Mưa Nhã Nam (2001),
Tiểu thuyết: Tiểu Long Nữ (1996), Tuổi hai mươi yêu dấu (2003), Gạ
tình lấy điểm (2007),...
Kịch: Suối nhỏ êm dịu (2001)
Phê bình văn học: Giăng lưới bắt chim (2006)
Với sự đóng góp một số lượng tác phẩm lớn, trong đó có nhiều tác phẩm
nổi tiếng, tạo nên những tranh luận sôi nổi một thời, Nguyễn Huy Thiệp được
xem là một hiện tượng độc đáo của văn học Việt Nam hiện đại. Ngay từ khi mới
xuất hiện trên văn đàn, ông đã gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc bởi lối
viết mới lạ, chất liệu khai thác và bút pháp độc đáo.
Nguyễn Huy Thiệp là một tài năng văn chương, có đóng góp không nhỏ
cho nền văn học hiện đại Việt Nam, đặc biệt có đóng góp quan trọng cho công
cuộc đổi mới văn học Việt Nam từ sau 1986. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng,
2
ông đã “đào xới lên nhiều vấn đề thuộc về bản chất văn học, tạo nên sức bật
khỏi ảnh hưởng văn học trước 1975, từ đó đưa văn học Việt Nam sau 1975 đi xa
hơn, vững vàng hơn trên hành trình đổi mới văn học dân tộc, hòa nhập vào biển
cả văn học hiện đại của thế giới”.
- Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội cho tiểu luận văn chương Giăng lưới
bắt chim (2006),
- Được Hội Nhà văn Việt Nam đề cử vào Giải thưởng Nhà nước về văn
học, nghệ thuật năm 2021 cho hai tập truyện ngắn Tướng về hưu và Những ngọn
gió Hua Tát.
TƯỚNG VỀ HƯU
Khi mới ra đời, Tướng về hưu đã gây một tiếng vang lớn. Năm 1988, tác
phẩm được dựng thành phim điện ảnh cùng tên.
Nguyễn Huy Thiệp đã rất thành công khi sử dụng một lối kể chuyện giản
dị, giọng văn lạnh lùng để khắc họa bi kịch cá nhân của con người, sự tha hóa,
lối sống thực dụng của con người trong nền kinh tế thị trường, trong một xã hội
có nhiều biến động và phức tạp.
4
CHƯƠNG 3
Tên thật:
Năm sinh: Sinh năm 1942, tại Khoái Châu, Hưng
Yên.
Quê quán: Xã Tân Châu, Huyện Khoái Châu,
Tỉnh Hưng Yên.
Quá trình công tác:
Năm 1974, Lê Lựu trở thành thành viên của Hội
nhà văn Việt Nam.
Năm 1987-1988: Là nhà văn Việt Nam đầu tiên
được Trung tâm William Joiner (WJC - Đại học Massachussetts, Mỹ) mời sang
giao lưu, nói chuyện, nhằm bước đầu hàn gắn mối quan hệ giữa hai nước sau
chiến tranh.
Năm 2014: Thành lập Quỹ Văn học Lê Lựu - Quỹ văn học đầu tiên mang
tên một nhà văn còn sống, nhằm khích lệ sáng tác của thế hệ nhà văn trẻ.
Hiện tại, ông đảm nhiệm chức Giám đốc của Trung tâm Văn hóa Doanh
nhân tại Hà Nội.
Sự nghiệp sáng tác
Lê Lựu đã khẳng định tài năng của mình ở nhiều thể loại như: tiểu thuyết,
truyện ngắn, kịch, tạp văn.
Năm 1964, ông viết truyện đầu tiên là Tết làng Mụa. Sau đó, một loạt
truyện ngắn ra đời: Người cầm súng (1970), Phía mặt trời (1972), Người về
1
đồng cói (1972). Có thể xem Người về đồng cói là truyện đặc sắc nhất của Lê
Lựu trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
Năm 1975, cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông ra đời (Mở rừng), là một
trong những tiểu thuyết tiêu biểu của văn học Việt Nam những năm 70.
Năm 1986, tiểu thuyết Thời xa vắng ra đời. Đây là tiểu thuyết tiêu biểu
nhất của Lê Lựu cũng là tiểu thuyết tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kỳ Đổi
Mới. Tác phẩm được sự đón nhận nồng nhiệt của bạn đọc trong nước và quốc
tế. Sau thành công của Thời xa vắng, ông vẫn miệt mài lao động và đóng góp
cho văn học hiện đại Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị như: Một thời lầm lỗi
(1988), Đại tá không biết đùa (1989), Chuyện làng Cuội (1991), Sóng ở đáy
sông (1995), Chuyện hai nhà (2000),...
Vị trí trên tiến trình văn học
Suốt cuộc đời cầm bút với sức sáng tạo bền bỉ, Lê Lựu đã đóng góp cho
văn học Việt Nam hơn 20 tiểu thuyết và nhiều truyện ngắn. Trong đó có nhiều
tác phẩm nổi tiếng, được dựng thành phim: Người về đồng cói, Sóng ở đáy
sông, Thời xa vắng.
Lê Lựu là một trong những cây bút có đóng góp uan trọng vào công cuộc
đổi mới văn học Việt Nam sau năm 1986. Tác phẩm của ông thể hiện sự đổi
mới trong tư duy nghệ thuật, trong cách viết, đăc biệt thể hiện bi kịch của người
lính trở về sau chiến tranh.
2
Tác phẩm tiêu biểu
THỜI XA VẮNG
Thời xa vắng là một tiểu thuyết tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của nhà
văn Lê Lựu. Tiểu thuyết ra đời năm 1986, thời điểm Việt Nam bước vào công
cuộc đổi mới.
Tóm tắt tác phẩm:
Tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu
đặt trong bối cảnh những năm đầu cuộc
kháng chiến chống Mỹ đến những năm
1980. Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của
nhân vật Giang Minh Sài, từ khi mới 10 tuổi
đến lúc trưởng thành. Tác phẩm dài 405
trang, có 12 chương, được chia làm hai
phần. Phần I, từ chương I đến chương VI :
Cuộc sống của cậu bé Sài, từ 12 tuổi phải
lấy Tuyết làm vợ. Mặc dù Sài không yêu vợ Bìa Thời xa vắng
nhưng trước mặt mọi người, Sài vẫn là một xuất bản lần đầu tiên
NXBđổi
Táckhi
phẩm mới, 1986
người chồng đúng mực. Bước ngoặt cuộc đời Sài thay anh gặp Hương.
Họ yêu nhau say đắm, mãnh liệt, nhưng vì sĩ diện của gia đình nên Sài đã xin đi
bộ đội, nhằm trốn tránh cuộc sống ngột ngạt của gia đình và tình yêu đầu đời
của mình. Khi Sài vào quân ngũ, anh lại là một người dẫn đầu về thành tích học
tập giỏi và gương mẫu, nhưng phải sống theo ý định của mọi người. Phần II, từ
chương VII đến chương XII: Sau 11 năm ở chiến trường ra, Sài ly dị vợ, anh vội
vã cưới Châu. Sau năm năm chung sống, có hai đứa con, anh lại phải ly hôn.
3
Khi ra tòa, anh mới biết đứa con đầu lòng với Châu không phải là con ruột của
mình. Sau khi ly hôn, anh quyết định quay trở về làng Hạ Vị nơi được sinh ra,
góp sức để xây dựng quê hương mình phát triển hơn.
Tiểu thuyết đề cập đến nhiều vấn đề trong đời sống hôn nhân gia đình như nạn
tảo hôn, nuôi dạy con, sinh hoạt vợ chồng ở thành phố và nhà quê, sự áp đặt của
các tổ chức lên đời sống cá nhân,... Sự ra đời của tiểu thuyết Thời xa vắng đã
gây tiếng vang lớn trong giới phê bình văn học. Tác phẩm được đánh giá cao
bởi tính nhân đạo, thời sự khi phê phán tư tưởng phong kiến bảo thủ và việc cần
thiết phải thay đổi tư duy trong quá trình xây dựng kiến thiết đất nước sau chiến
tranh.
Tác phẩm đã giành được giải A của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1990.
Năm 2004, tiểu thuyết Thời xa vắng được đạo diễn Hồ Quang Minh của Hãng
phim Giải Phóng dựng thành phim truyện nhựa.
4
CHƯƠNG 3
Năm sinh: 1952, tại huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Năm 1969: Vào bộ đội, chiến đấu ở mặt trận B-3 Tây
Nguyên, tại tiểu đoàn 5, trung đoàn 24, sư đoàn 10. Năm 1975: Giải ngũ.
Từ 1976-1981: Học đại học ở Hà Nội, sau đó làm việc ở Viện Khoa học Việt
Nam.
Làm việc tại báo Văn nghệ Trẻ. Là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ 1997.
1
đề tài chiến tranh, trong đó truyện Khắc dấu mạn thuyền đã được dựng thành
phim.
Những tác phẩm tiêu biểu của Bảo Ninh gồm có: Trại bảy chú lùn
(1988), Thân phận của tình yêu - Nỗi buồn chiến tranh (1991), Khắc dấu mạn
thuyền (1996), Truyện ngắn Bảo Ninh (2002),...
Vị trí trên tiến trình văn học
Bảo Ninh là một trong những cây bút quan trọng góp phần làm nên một
cuộc cách mạng trong nghệ thuật tiểu thuyết ở Việt Nam. Nhà văn đã có những
cách tân nghệ thuật khi vận dụng những kỹ thuật tiểu thuyết phương Tây trong
kết cấu tác phẩm, xây dựng nhân vật, xây dựng không gian - thời gian, nghệ
thuật trần thuật, sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu,…
Với Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh đã đóng góp cho văn học một quan
niệm và cách tiếp cận mới về hiện thực chiến tranh: Chiến tranh đồng nghĩa với
bi kịch (dù là chính nghĩa hay phi nghĩa) và nhà văn tiếp cận chiến tranh từ
những số phận con người, qua đó, phản ánh chân thực hiện thực chiến tranh
(những mất mát đau thương, sự tha hóa của con người, những chấn thương tinh
thần của người lính trở về sau chiến tranh khi toàn bộ tuổi thanh xuân đã để lại
nơi chiến trường, luôn cảm thấy bơ vơ, lạc lõng giữa cuộc sống thời bình và
luôn sống trong nỗi ám ảnh “được sống sót” sau chiến tranh,...). Đó là lý do tác
phẩm Nỗi buồn chiến tranh được đánh giá cao không chỉ trong nước mà còn ở
nước ngoài và tác giả đã nhận được những giải thưởng danh giá trong nước và
quốc tế. Và cho đến bây giờ, chưa có tác phẩm nào
Giải thưởng văn học
- Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991 cho tiểu thuyết Thân phận của
tình yêu.
- Giải thưởng châu Á lần thứ 16 trong lĩnh vực văn hóa của nhật báo
Nikkei (Nikkei Asia Prizes).
2
- Giải thưởng văn học Sim Hun của Hàn Quốc (ở hạng mục Giải thưởng
lớn dành cho các nhà văn châu Á), năm 2016.
Nỗi buồn chiến tranh (tên gốc: Thân phận của tình yêu), xuất bản lần đầu
vào năm 1990.
Nỗi buồn chiến tranh có cấu trúc gồm bảy phần (không đánh dấu
chương). Tác phẩm là những mảng hồi ức của
nhân vật Kiên, một người lính của tiểu đoàn 27 độc
lập hoạt động trên địa bàn B3 còn sống sót, về
cuộc chiến tranh đẫm máu vừa qua và về mối tình
với cô bạn tên là Phương. Kiên xuất thân từ một
gia đình trí thức tiểu tư sản miền Bắc. Kiên xung
phong đi bộ đội ở tuổi mười bảy, lao vào cuộc
chiến để phục vụ sự nghiệp cứu nước. Kết thúc
chiến tranh, Kiên trở về và rất đau khổ khi biết
Phương đã lấy chồng. Từ đó, Kiên trở thành “nhà
văn cấp phường”, sống một thời hậu chiến đầy u Bìa Nỗi buồn chiến tranh
xuất bản lần đầu tiên,
buồn. Anh viết về cuôc chiến tranh của cuộc đời
NXB Hội Nhà văn, 1990
mình như một “Thiên mệnh”. Tác phẩm được hình
thành trong bóng đêm, trong cơn say, trong điên khùng và hoảng loạn. Cuối
cùng, Kiên bỏ ra đi, để lại một đống bản thảo ngổn ngang trong căn gác xép.
Người đàn bà câm đã sắp xếp từng trang bản thảo tiểu thuyết của Kiên theo một
cách rất tùy nghi.
3
Nỗi buồn chiến tranh được xem là đỉnh cao của tiểu thuyết viết về chiến
tranh trong văn học Việt Nam thời kỳ Đổi Mới. Tác phẩm được trao giải thưởng
Hội Nhà văn Việt Năm năm 1991 và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng.
KẾT LUẬN
Nhìn chung, văn học Việt Nam thời kỳ Đổi Mới đã vận động theo hướng
dân chủ hoá, mang tính nhân bản, nhân văn sâu sắc. Từ những tìm tòi, đổi mới,
văn học đã đạt được những thành tựu. So với văn học giai đoạn trước, văn học
thời kỳ này phát triển đa dạng hơn về đề tài; phong phú, mới mẻ hơn về bút
pháp; sâu sắc hơn khi đi sâu khám phá thế giới nội tâm của con người, quan tâm
nhiều hơn đến số phận con người.
Tuy nhiên, trong quá trình đổi mới, văn học cũng còn những hạn chế như
cực đoan, quá đà trong đổi mới; chạy theo thị hiếu của bạn đọc. Một số tác
phẩm có khuynh hướng tiêu cực, xoáy vào các mặt trái của xã hội.
1. Những tiền đề đổi mới của văn học Việt Nam từ sau năm 1986?
2. Nêu những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam thời kỳ Đổi Mới.
3. Những thành tựu bước đầu của văn học Việt Nam thời kỳ Đổi Mới?
4
NHÀ VĂN NGUYỄN MINH CHÂU
(1930-1989)
***
Tiểu sử
Năm 1962, Nguyễn Minh Châu về công tác tại phòng Văn nghệ quân đội,
sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông được kết nạp vào Hội Nhà văn
Việt Nam 1972.
Năm 1989, ông qua đời tại Hà Nội, để lại một kho tàng văn chương có
giá trị.
Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn đầu tay Sau một buổi tập vào năm
1960. Từ đó cho đến khi ông rời xa cõi nhân gian với tác phẩm Phiên chợ Giát
viết năm 1989, ông đã để lại nhiều tập văn xuôi và một tiểu luận phê bình. Các
tác phẩm chính của ông là: Cửa sông (tiểu thuyết, 1967), Những vùng trời khác
nhau (truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Miền
cháy (tiểu thuyết, 1977), Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977) Những
người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành (truyện ngắn, 1983), Bến quê (truyện ngắn, 1985), Mảnh đất tình yêu (tiểu
thuyết, 1987), Chiếc thuyền ngoài xa (tập truyện ngắn, 1987), Phiên chợ Giát
(truyện vừa, 1988), Cỏ lau (truyện vừa, 1989), Hãy đọc lời ai điếu cho một giai
đoạn văn nghệ minh hoạ (tiểu luận phê bình, 1987), Trang giấy trước đèn (tiểu
luận phê bình, 1994), Nguyễn Minh Châu toàn tập (Nhà xuất bản Văn học,
2001), Di cảo Nguyễn Minh Châu (Nhà xuất bản Hà Nội, 2009). Ông cũng có
những tác phẩm viết cho thiếu nhi như: Từ giã tuổi thơ (tiểu thuyết, 1974),
Những ngày lưu lạc (tiểu thuyết, 1981), Đảo đá kỳ lạ (tiểu thuyết, 1985), ...
Nguyễn Minh Châu là nhà văn viết nhiều và viết hay về đề tài chiến tranh
và người lính. Tác phẩm của ông đã phản ánh chân thực hiện thực cuộc kháng
chiến chống Mỹ cũng như đời sống tâm hồn, tính cách của con người Việt Nam
trong chiến tranh. Với cảm hứng lãng mạn anh hùng và cảm hứng nhân văn hoà
quyện với nhau, nhà văn có khuynh hướng đi tìm “hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu
tâm hồn con người”, khám phá ra những vẻ đẹp tiềm ẩn của con người – những
vẻ đẹp mà bom đạn chiến tranh dẫu có tàn bạo đến đâu vẫn không thể nào hủy
diệt được. Điều này thể hiện qua những tác phẩm xuất sắc như: Dấu chân người
lính, Mảnh trăng cuối rừng,…
Sau năm 1975, sáng tác của Nguyễn Minh Châu đã có những bước
chuyển quan trọng, có sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật và quan niệm nghệ
thuật về con người. Nhà văn đi sâu khám phá con người ở muôn mặt đời thường
với những giằng xé trong đời sống nội tâm, với niềm vui nỗi buồn, hạnh phúc
và những nỗi đau (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1984), Bến quê
(1985), Mảnh đất tình yêu (1987), Chiếc thuyền ngoài xa (1987),…. Những tác
phẩm của ông cũng thể hiện nỗi lo âu trước sự suy thoái đạo đức, những suy
nghĩ lệch lạc, tha hoá, biến chất của một số người trước cuộc sống có nhiều biến
động (Lửa từ những ngôi nhà, Miền cháy (1977).
Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút văn xuôi tiêu biểu của
văn học Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975. Những sáng tác của ông góp phần
làm nên đặc điểm, thành tựu của nền văn học sử thi thời kỳ kháng chiến chống
Mỹ. Trong công cuộc đổi mới văn học từ sau 1986, với sự đổi mới trong tư duy
nghê thuật, đổi mới trong quan niệm về hiện thực và đổi mới cách nhìn, khám
phá về con người, Nguyễn Minh Châu được đánh giá là “người mở đường tinh
anh và tài năng nhất” (Nguyên Ngọc) của công cuộc đổi mới văn học. Ông xứng
đáng được xem là là “người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi
Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ sau này”
(Nguyễn Khải).
Ông được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học năm 2000.
Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn
Minh Châu. Tác phẩm được in lần đầu tiên trong tập Bến quê năm 1985, sau
được tác giả lấy làm tên chung cho cả tuyển tập truyện ngắn của mình năm
1987. Năm 2001, tác phẩm được in trong Nguyễn Minh Châu, Toàn tập, tập 3,
NXB. Văn học, Hà Nội. Tác phẩm còn được đưa vào tập truyện ngắn Tình yêu
sau chiến tranh – tuyển tập truyện ngắn Việt Nam đương đại do hai nhà văn
Wayne Karklin và Hồ Anh Thái chủ biên, được nhà xuất bản Curbstone ấn hành
ở Hoa Kỳ, bằng tiếng Anh.
Phùng- nhân vật chính của truyện là một nghệ sĩ nhiếp ảnh, theo lời
trưởng phòng, anh đi về một vùng biển miền Trung để thực hiện một bộ ảnh cho
tờ lịch năm mới. Sau nhiều ngày ra biển chụp nhưng chưa được tấm nào ưng ý.
Một hôm, Phùng bắt gặp một hình ảnh thiên nhiên thơ mộng, đẹp hiếm có. Đó
là hình ảnh con thuyền ngoài xa lẫn trong làn sương mờ mờ ảo ảo. Phùng vui
sướng vì đã bắt được một cảnh mà anh cho rằng sẽ rất “đắt giá”. Thế nhưng,
khi con thuyền ấy cập bến thì trước mặt Phùng lại diễn ra cảnh một người đàn
ông to cao đang đánh vợ, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh cha. Bất bình,
Phùng chạy đến ngăn cản. Không may bị người đàn ông đó đánh bị thương.
Bạn cũ của Phùng – Đẩu- một ông chánh án huyện đã mời chị vợ đến để khuyên
mụ ta tố cáo tội ác của chồng. Trước mặt Phùng và Đẩu, người đàn bà đã kể
cho họ nghe câu chuyện cuộc đời mình và lí do không thể bỏ chồng, rồi cầu xin
hai anh tha thứ cho hắn. Câu chuyện kết thúc, Phùng trở lại toà soạn với bộ
ảnh ưng ý nhưng anh luôn thấy đâu đó trong ảnh của mình cuộc sống khổ cực
của người đàn bà bị chồng đánh đập.
ÔN TẬP THI CUỐI KỲ
Môn: Tổng quan Văn học Việt Nam - Phần 2: Văn học hiện đại
1
trận phong ba tận tảo trừ", là để nhất quán với đối tượng tác động là quân ta chứ
không là quân địch([6]). Hai thay đổi này thực ra cũng còn có điều cần bàn thêm.
Giữa "phân định" và "định phận" về từ ngữ văn bản([7]), và phải có nhất thiết thay
đổi câu thứ tư, khi qua các văn bản, vẫn tồn tại đan xen cách nói như thế của thần,
một cách tuyên ngôn chân lý, không cần phân biệt rạch ròi là nói với ta hay nói với
địch. Vì vậy, vẫn nên coi văn bản quen dùng, được in ấn ở những bộ sách lớn và các
loại sách giáo khoa từ phổ thông đến đại học hiện nay, vốn lấy từ Đại Việt sử ký toàn
thư (xem trích dẫn ở dưới) nhưng đảo cụm từ phan định thành định phận, là văn bản
tương đối chuẩn.
Vấn đề cấp thiết hơn với bài thơ Nam quốc sơn hà, có lẽ lại là vấn đề tác giả và từ đó
là vấn đề thời điểm xuất hiện của bài thơ.
Theo điều tra văn bản của Giáo sư Trần Nghĩa trong bài báo đã dẫn, hiện có tới 26
văn bản bài thơ Nam quốc sơn hà. Tạp chí Hán Nôm, số 2 - 1993, trong bài : Tư kiệu
Hán Nôm ở huyện Tiên Sơn, Thuận Thành và thị xã Bắc Ninh, tỉnh Hà Bắc, Lâm
Giang cung cấp thêm một văn bản bài thơ Nam quốc sơn hà khắc trên biển gỗ trong
đền thờ thánh Trương Hống, Trương Hát ở Phù Khê, Tiên Sơn, Hà Bắc. Tạp chí Hán
Nôm, số 3 - 1993, trong bài Bài thơ "Nam quốc sơn hà" đọc và hiểu từ một dị bản mới
phát hiện, Dương Thái Minh lại đưa thêm một văn bản bài thơ Nam quốc sơn hà lấy ở
thần phả đền thờ thần xã Hoà Long, Yên Phong, Hà Bắc. Ngoài 28 văn bản bài
thơ Nam quốc sơn hà đã có này, chắc chắn còn nhiều dị bản khác của bài thơ mà ta
chưa sưu tập hết.
Tuy nhiên, chỉ cần non 30 văn bản bài thơ, nằm trong nhiều chủng loại tư liệu khác
nhau, đã thấy có hai vấn đề cần xem lại : tác giả đích thực và thời điểm xuất hiện của
bài thơ.
Về xuất xứ, có văn bản ghi thần đọc thơ giúp Lê Hoàn chống Tống, có văn bản ghi
thần đọc thơ giúp Lý Thường Kiệt chống Tống, lại có văn bản ghi thần đọc thơ giúp
cả Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt chống Tống. Xin dẫn ra đây tư liệu ghi về hiện tượng
âm phù này trong Đại Việt sử ký toàn thư([8]). Năm 1076, quân Tống do Quách Quỳ
chỉ huy, kéo sang xâm lược nước ta. Vua sai Lý Thường Kiệt đem quân chặn giặc trên
dọc phòng tuyến sông Như Nguyệt (tức sông Cầu, nay thuộc Yên Phong, Hà Bắc),
quân địch bị đánh bại, chết hơn ngàn người. "Người đi thuyền truyền rằng Thường
Kiệt làm hàng rào theo dọc sông để cố thủ. Một đêm quân sĩ chợt nghe ở trong đền
Trương tướng quân có tiếng ngâm to rằng :
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên phân định tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm ?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư !
Dịch nghĩa :
Sông núi nước Nam hoàng đế nước Nam ở,
(Ranh giới) đã phân định rạch ròi ở sách trời.
Sao quân giặc (kia dám) đến xâm phạm ?
2
Bọn bay cứ thử xem, sẽ chuốc lấy bại vong !
Sau đó quả nhiên như thế"([9]).
Trương tướng quân ở đây là hai anh em Trương Hống, Trương Hát, còn gọi là Đức
thánh Tam Giang, thần sông Như Nguyệt, là hai viên tướng đã từng chiến đấu dưới
ngọn cờ yêu nước của Triệu Quang Phục. Nhớ ơn Trương Hống, Trương Hát, nhân dân
lập đền thờ ven sông Cầu và sông Thương.
Như vậy, tư liệu lịch sử đáng tin cậy trong Đại Việt sử ký toàn thư, đề cập tới hiện
tượng âm phù này theo "người đời truyền rằng", tức "tục truyền", cũng giống như
"tương truyền" trong Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ. ở đây chỉ nói rõ thời điểm xuất
hiện bài thơ, không hề nói đến tác giả đích thực của bài thơ. Lý Thường Kiệt chỉ là
tướng được âm phù, không phải là tác giả bài thơ.
Loại văn bản ghi thần đọc thơ giúp Lê Hoàn chống Tống như sách Lĩnh Nam chích
quái : Năm 981, Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng cầm đầu đạo quân xâm lược nước
Nam. Đến sông Đại Than (gần sông Cầu, sông Thương), hai bên đối luỹ cùng cầm cự
với nhau. Lê Đại Hành được mộng báo của thần Trương Hống, Trương Hát : "Nay
quân Tông phạm cõi, làm khổ sinh linh nước ta, cho nên anh em thần đến yết kiến,
xin nguyện cùng nhà vua đánh giặc để cứu sinh linh". Canh ba đêm sau, trời tối đen,
mưa to gió lớn đùng đùng… hai đạo âm binh áo trắng, áo đỏ cùng xông vào trại giặc
mà đánh. Quân Tống kinh hoàng. "Thần nhân tàng hình ở trên không, lớn tiếng ngâm
rằng :
Nam quốc sơn hà, Nam đế cư,
Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư.
Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm ?
Bạch nhận phiên thành phá trúc dư.
Dịch nghĩa :
Non sông nước Nam, vua Nam ở,
Điều ấy đã định rõ trong sách trời.
Cớ sao giặc Bắc sang xâm lược,
Bay sẽ bị lưỡi gươm sắc chém tan như chẻ tre.
Quân Tống nghe thấy, xéo đạp vào nhau mà chạy tan… Đại Hành trở về ăn mừng,
phong thưởng công thần, truy phong cho hai vị thần nhân, sai dân phụng thờ, hưởng
huyết thực đời đời"([10]).
Đây là loại văn bản lấy ra từ truyện ký, nói rõ thời điểm xuất hiện (năm 981), viên
tướng được âm phù (Lê Đại Hành) và tác giả đích thực (thần Trương Hống, Trương
Hát), của bài thơ.
Một số văn bản thì lại ghi thần đọc thờ giúp cả Lê Hoàn, cả Lý Thường Kiệt. Trương
tôn thần sự tích ghi bài thơ này đã được thần sông Như Nguyệt đọc lên hai lần để giúp
vào việc đánh đuổi giặc ngoại xâm, một lần giúp Lê Hoàn (981) và một lần giúp Lý
Thường Kiệt (năm 1076).
3
Qua một số tư liệu đã trình bày trên đây có thể thấy, bài thơ Nam quốc sơn hà được
lấy ra từ những "tục truyền", "tương truyền" do các sử gia ghi lại (như Đại Việt sử ký
toàn thư), từ các dị bản thần phả, sự tích ở nhiều đền miếu (như Trương tôn thần sự
tích), từ các tập truyện ký viết về các thần linh vốn được dân ta thờ cúng (như Việt
điện u linh), hoặc ghi chép những truyền thuyết và truyện cổ tích nước nhà (như Lĩnh
Nam chích quái),... Hầu hết các văn bản này đều có tính chất dân gian, với đặc trưng
tập thể và truyền miệng, đòi hỏi có văn bản "thật sự định hình" là khó. Vì vậy việc tìm
hiểu, phân tích, lý giải các văn bản này, cần xét đến tính chất đặc thù ấy.
Về mặt thời điểm xuất hiện chẳng hạn. Đây là một tác tập thể, xuất hiện vào những
thế kỷ đầu của nền tự chủ. Chủ đề của bài thơ phù hợp với tinh thần khẳng định nền
tự chủ vừa mới giành được, chống sự tái thôn tính của các đế chế phương Bắc. Thi
pháp của bài thơ là lối hịch – thơ, phát biểu một chân lý : giản dị, thiêng liêng, minh
xác, nghiêm khắc, với lớp từ ngữ chính luận đanh thép, dõng dạc. Nên trả lại bài thơ
về thời điểm xuất hiện của nói, có thể là trước cả năm 981 chứ không phải chỉ trước
năm 1076. Và như thế thì có thể xem đây là một trong những tác phẩm văn học xưa
nhất. Văn học viết ngay từ khi xuất hiện đã có những tác phẩm hoà đậm tính dân tộc,
tính dân gian, tính bác học là như thế. Loại văn bản có tính chất như vậy cũng không
hiếm thấy. Lý Phục Man, tướng của Lý Nam Đế đem quỷ binh giúp ngầm Ngô Tiên
chủ đánh Nam Hán, Lê Đại Hành đánh Tống và còn để lại một bài thơ trong mộng ảo
của Lý Thái Tổ([11]). Ba vị thần đền Đào Xá (Thanh Thuỷ – Phú Thọ) cũng giúp Lý
Thường Kiệt đánh Tống, và đọc một bài thơ khiến Lý Thường Kiệt tin tưởng :
Nam thiên dĩ định đế Nam quân
Đại đức giai do đức nhật tân.
Thất quận sơn hà đô nhất thống,
Tống binh bất miễn tán như vân.
Dịch nghĩa :
Trời Nam đã định vua Nam ta,
Đức lớn ngày thêm đức mới ra.
Bảy quận non sông đều một mối,
Tống binh tan tác tựa mây sa([12]).
Những bài thơ này thường thấy trong các huyền thoại, truyền thuyết, cổ tích lịch sử,
thể hiện hình tượng người anh hùng đồng tâm hiệp lực với con cháu ở dương gian,
cùng đuổi giặc cứu nước, cứu dân.
Về tác giả, cũng cần xem xét như những tác giả của sáng tác dân gian. Qua gần ba
mươi dị bản của bài thơ không có văn bản nào viết Lý Thường Kiệt là tác giả của bài
thơ. Bài thơ là của thần, thần sông Như Nguyệt, Trương Hống, Trương Hát, đúng hơn
là của tập thể các tác giả đã tạo nên những huyền thoại, truyền thuyết, những lời
tương truyền. Bài thơ chắc đã được viết ra và lưu truyền vào đầu thời tự chủ. Nó là
sản phẩm chung của tầng lớp trí thức. Văn bản của nó không ngừng được sửa chữa,
bổ sung trong quá trình lưu truyền, từ đời này sang đời khác. Các dị bản còn lại
thường là bản ghi chép của một trí thức năng văn, cố định về mặt văn bản một bản
4
truyền miệng ở một thời điểm nhất định, trong một bối cảnh cụ thể. Chính vì thế mà ta
có nhiều dị bản, và nếu tiếp tục tìm tòi thì còn có nhiều hơn nữa.
Như vậy là về tác giả, nên coi bài thơ là là bài thơ thần, bài thơ của thần do con người
sáng tạo theo quy luật của sáng tác dân gian, rồi thác là của thần. Trước Cách mạng
tháng Tám, một số tập sách có giá trị của nhiều học giả nổi tiếng, từng khẳng định,
hoặc gần như khẳng định bài thơ Nam quốc sơn hà là của Lý Thường Kiệt. Dương
Quảng Hàm không hề do dự : "Lý Thường Kiệt, khi chống nhau với quân địch, có
làm bài thơ để khuyến khích tướng sĩ, lời lẽ thật là khảng khái"([13]) ; Nguyễn Đổng
Chi thận trọng hơn : "Thường Kiệt khi thúc quân cự địch, một hôm giả thác chuyện
nằm chiêm bao có một vị thần cho bài thơ rằng..."([14]) ; Hoàng Xuân Hãn : "Theo ý
Trần Trọng Kim, nhận rằng thơ là của Lý Thường Kiệt. Nhưng nói chắc là Thường
Kiệt làm được thì không có gì làm bằng cứ"([15]).
Sau Cách mạng, hầu hết những bộ sách lớn về lịch sử, lịch sử văn học, hợp tuyển thơ
văn, tổng tập văn học, v.v. đều mặc nhận bài thơ là của Lý Thường Kiệt. Song, đây đó
vẫn có cách nhìn tinh tế. GS. Nguyễn Huệ Chi viết trong Từ điển văn học : "Về xuất
xứ, đến nay vẫn chưa biết đích xác đây là tác phẩm của Lý Thường Kiệt... hay của Lê
Hoàn..."([16]). GS. Hà Văn Tấn, trong bài Lịch sử, sự thật và sử học thì dứt khoát :
"Không một nhà sử học nào có thể chứng minh được rằng bài thơ Nam quốc sơn hà
Nam đế cư là của Lý Thường Kiệt. Không có một sử liệu nào cho biết điều đó cả. Sử
cũ chỉ chép rằng trong trận chống Tống ở vùng sông Như Nguyệt, một đêm quân sĩ
nghe tiếng ngâm bài thơ đó trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát. Có thể đoán
rằng Lý Thường Kiệt đã cho người ngâm thơ. Đi xa hơn, có thể đoán rằng Lý Thường
Kiệt là tác giả bài thơ. Nhưng đó chỉ là đoán thôi, làm sao nói chắc được bài thơ đó là
của Lý Thường Kiệt. Thế nhưng cho đến này, mọi người dường như đều tin rằng đó là
sự thật, hay đúng hơn không ai dám nghi ngơ đó không phải là sự thật"([17]). Người
viết bài này từng đề nghị trên Tạp chí Hán Nôm : "Từ lâu, nhiều học giả, vì những lý
lẽ khác nhau, vẫn coi Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ. Bây giờ nên để khuyết
danh"([18]). Như vậy Lý Thường Kiệt chỉ là người sử dụng bài thơ vốn đã lưu truyền
từ lâu, còn khẳng định ông là tác giả bài thơ này thì chưa có chứng cứ. Bài thơ này
nên để khuyết danh tác giả. Còn như cách xử lý của sách giáo khoa trung học : khi
đưa văn bản bài thơ, đề là : "Lý Thường Kiệt" có dầu (?)([19]) ở sau, để tỏ ý nghi ngờ
và có chú giải thêm, cũng chỉ là biện pháp tình thế.
Vấn đề văn bản, chữ nghĩa, tác giả của bài thơ Nam quốc sơn hà, xem ra vẫn còn
nhiều điều cần bàn luận để đi tới những kết luận thoả đáng, thuyết phục.
(Tạp chí Văn học, số 10 – 1996;
In lại trong Bùi Duy Tân tuyển tập.
NXB Giáo dục, H., 2007)
([1]) Lịch sử Việt Nam, tập I, NXB Khoa học xã hội, H., 1971, tr. 182.
([2]) Xin xem : chẳng hạn Nguyễn Tài Cẩn, Thử tìm hiểu thêm về bài thơ "Nam quốc sơn hà" của Lý
Thường Kiệt, Tạp chí Văn học, số 4 - 1976 ; Đinh Gia Khánh, Tan tành một trận chúng bay coi, Văn
5
nghệ, số 14 - 1976 ; Phan Văn Các, Trở lại câu cuối bài thơ "Nam quốc sơn hà", Tạp chí Ngôn ngữ, số
2 - 1981 ; Hoàng Xuân Nhị, Trở lại bài thơ "Nam quốc sơn hà" của Lý Thường Kiệt, Tạp chí Ngôn ngữ,
số 2 - 1982, v.v.
([3]) Xem Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, thế kỷ X - thế kỷ XVII, NXB Văn hoá, H., 1962. Sách này viết
xuất xứ của bài thơ Nam quốc sơn hà là Hoàng Việt thi tuyển (Bùi Huy Bích), cần xem lại. Bài thơ này
ít khi tuyển vào các bộ thi tuyển lớn thời xưa.
([4]) Xem Thơ văn Lý – Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội, H., 1977.
([5]) Xem Tạp chí Hán Nôm, số 1 - 1986.
([6]) Theo Giáo sư Trần Nghĩa, câu 3 của văn bản quen dùng : "Như hà nghịch lỗ…" lại là lời thần nói
với quân ta, câu 4 của bản quen dùng "Nhữ đẳng hành khan…" lại là lời thần nói với quân địch (?). Bài
thơ như thế là lúng túng, thiếu ổn định và lô gích nội tại bị phá vỡ, nên cần thay câu thứ 4 lấy bằng một
câu thứ 4 lấy ở bản khác.
([7]) Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch mới phiên âm : "phân định" (Xem Đại Việt sử ký toàn thư, NXB
Khoa học xã hội, H., 1983, tr. 291). Còn bản dịch cũ phiên âm là : "phận định" (Xem Đại Việt sử ký
toàn thư, tập I, NXB Khoa học xã hội, H., 1967, tr. 238). Bản quen dùng đảo lại là "định phận".
([8])Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, bản dịch mới.
([9]) Sđd, tr. 291 - 292.
([10]) Vũ Quỳnh và Kiều Phú, Lĩnh Nam chích quái, bản dịch, Truyện hai vị thần ở Long Nhãn, Như
Nguyệt, NXB Văn học, H., 1990.
([11]) Việt điện u linh. Bản dịch. Truyện Chứng An Minh ứng Hựu Quốc Công,NXB Văn hoá, H, 1972.
([12]) Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian Việt Nam,NXB Khoa học xã hội,
H., 1971, tr. 139.
([13]) Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, in lần thứ mười, Bộ Giáo dục, S., 1968, tr. 231 -
232.
([14]) Nguyễn Đổng Chi..., Việt Nam cổ văn học sử,Hàn Thuyên xuất bản cục, 1942, tr. 143.
([15]) Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt,NXB Sông Nhị, H., 1949, tr. 303.
([16]) Nguyễn Huệ Chi, Từ điển văn học, tập I, mục từ Lý Thường Kiệt, NXB Khoa học xã hội, H.,
1983, tr. 428.
([17]) Hà Văn Tấn, Lịch sử, sự thật và sử học, báo Tổ quốc, số 401, thỏng 1 - 1988.
([18]) Bùi Duy Tân, Nên chọn tác phẩm nào là sớm nhất của văn học trung đại Việt Nam, Tạp chí Hán
Nôm, số 2 - 1993.
([19]) Xem Văn học 9,tập một, Đỗ Bình Trị – Bùi Duy Tân chỉnh lý, NXB Giáo dục, H., 1995, tr. 29.
6
ĐOÀN LÊ GIANG
1
CHƯƠNG 1
VĂN HỌC LÝ, TRẦN
(THẾ KỶ 10 – THẾ KỶ 14)
2
- Trong ba đời vua: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, quân dân
Đại Việt 3 lần đánh tan quân Nguyên xâm lược. Lần thứ nhất: 1258; lần thứ hai: 1285;
lần thứ ba: 1288. Vị tướng có công đầu trong chiến thắng đó là Hưng Đạo Vương
Trần Quốc Tuấn.
南國山河南帝居,
截然分定在天書。
如何逆虜來侵犯,
汝等行看取敗虚。
Phiên âm Hán-Việt:
3
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Bài thơ này xuất hiện từ thế kỷ 10, vào thời Tiền Lê, khi quân Tống xâm lược lần
thứ nhất, nhưng văn bản có khác một số chữ. Do không biết tác giả nên người ta
thường gọi là bài thơ Thần.
Năm 1076 quân Tống xâm lược lần thứ hai. Ban đêm tướng quân Lý Thường
Kiệt cho người vào đền thờ Trương Hống, Trương Hát ở bên sông Như Nguyệt (sông
Cầu hiện nay ở tỉnh Bắc Ninh), giả làm thần nhân đọc bài thơ Thần (còn gọi là bài
Nam quốc sơn hà, có sửa đổi một chút) để khuyến khích tinh thần quân dân Đại Việt,
áp đảo tinh thần quân giặc Tống. Quân Tống thất bại phải rút quân về.
Bài thơ là lời khẳng định mạnh mẽ về chủ quyền, về ý chí, sức mạnh và quyết
bảo vệ độc lập của dân tộc Việt Nam. Bài thơ được coi là tuyên ngôn độc lập lần thứ
nhất của người Việt Nam.
Một trong những bài thơ vào loại sớm nhất còn giữ lại được nói về tinh thần yêu
nước là bài Quốc tộ của Đỗ Pháp Thuận(1):
Vận nước như mây quấn,
Trời nam mở thái bình.
Vô vi trên điện gác,
Chốn chốn tắt đao binh.
Nguyên văn chữ Hán:
國祚
國祚如藤絡,
南天裏太平。
無為居殿閣,
處處息刀兵。
Phiên âm Hán-Việt:
Quốc tộ như đằng lạc,
Nam thiên lý thái bình.
Vô vi cư điện các,
1
Đỗ Pháp Thuận (915 – 990) là người có công khuông phò nhà tiền Lê, được Lê Đại Hành kính
trọng, phong chức pháp sư, cùng Khuông Việt (Ngô Chân Lưu) làm cố vấn cho triều đình. Có
lần ông được cử đi đón sứ Tống là Lý Giác, khiến Lý Giác phải nể phục. Bài thơ này không có tên,
có người đặt là “Đáp quốc vương quốc tộ chi vấn”
4
Xứ xứ tức đao binh.
Bài thơ là sự khẳng định nền độc lập của nước Đại Cồ Việt, thể hiện tinh thần
yêu hòa bình và ước mơ về một đất nước thanh bình, hạnh phúc.
Văn học yêu nước đời Trần, tiêu biểu nhất là bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc
Tuấn (Trần Hưng Đạo)2.
Năm 1285 Quân Nguyên xâm lược Đại Việt. Đại Việt đã sống trong hoà bình
được 28 năm. Trần Quốc Tuấn được phong làm đại tướng, tổng chỉ huy các lực
lượng quân đội nhà Trần. Ông viết bài Hịch tướng sĩ (tên gọi đầy đủ là Dụ chư tì
tướng hịch văn 諭諸裨將檄文, bằng chữ Hán) với mục đích: đả phá tư tưởng thờ ơ,
cầu an, hưởng lạc; kích thích tinh thần thượng võ, trọng danh dự của quân nhân; xây
dựng tinh thần quyết chiến quyết thắng. Bài hịch thể hiện rất rõ hình ảnh con người
trung nghĩa, có tinh thần yêu nước, hết lòng lo lắng vận mệnh quốc gia, dám hy sinh
thân mình để bảo vệ đất nước khi đất nước lâm nguy.
Hịch tướng sĩ
(trích)
(...) Huống chi ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi
gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường. Uốn lưỡi cú diều
mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất
Liệt(3) mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng; giả hiệu Vân Nam
Vương(4) mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt
mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi tai vạ về sau?
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm
đìa, chỉ căm tức rằng chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho
trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa(5) ta cũng vui
lòng. Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, không có mặc thì ta
cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta
cấp bổng, đi thuỷ thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa; lúc trận mạc xông
pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cuời. Cách
đối đãi so với Vương Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang ngày trước cũng chẳng
kém gì!
Nay các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không
biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức; nghe
2
Trần Quốc Tuấn (1226-1300) là nhà chính trị, nhà quân sự tài ba nhất của nhà Trần. Ông được
phong làm đại tướng, tổng chỉ huy các lực lượng quân đội nhà Trần. Có công lãnh đạo quân đội
đánh thắng quân Nguyên lần thứ hai (1285) và thứ ba (1288). Ông được phong làm Hưng Đạo Đại
Vương, nên người Việt Nam thường gọi là Trần Hưng Đạo.
3 Hốt Tất Liệt: tên vua Thế Tổ nhà Nguyên.
4 Vân Nam Vương: tức là Thoát Hoan, con thứ chín của Hốt Tất Liệt, được phong ở đất Vân Nam.
5 Gói trong da ngựa: Lấy ý câu nói của Mã Viện đời Hán: Làm trai phải đánh đông dẹp bắc, dầu chết
5
nhạc Thái thường để đãi yến(6) nguỵ sứ mà không biết căm. Hoặc lấy việc chọi
gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển; hoặc vui thú ruộng vườn,
hoặc quyến luyến vợ con; hoặc lo làm giàu mà quên việc nước; hoặc ham săn
bắn mà quên việc binh; hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc
Mông Thát tràn sang, thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc,
mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm, vườn
nhiều, tấm thân quý nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu, việc quân cơ
trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều khôn mua được đầu giặc, chó săn tuy khoẻ
khôn đuổi được quân thù; chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết,
tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ
bị bắt, đau xót biết chừng nào! (…)
(Theo Hợp tuyển thơ văn Việt Nam (tập II): thế kỷ X-thế kỷ XVII, NXB.Văn
học, 1976, tr.131-135)
1.3. THƠ THIỀN ĐỜI LÝ-TRẦN
Thời Lý Trần, triều đình đề cao Phật giáo, coi Phật giáo là quốc giáo. Chùa chiền
được xây cất nhiều, việc đào tạo các tăng ni rất được coi trọng, kinh Phật được chú
giải, khắc in nhiều.
Thời Lý Trần là thời kỳ đất nước phát triển mạnh, Phật giáo cũng rất mạnh mẽ.
Phật giáo thời Lý Trần chủ yếu là Thiền tông - một tông phái Phật giáo chủ trương
phá chấp, giác ngộ chủ yếu là tự giác, tự lực.
Các Thiền sư nổi tiếng thời Lý có: Sư Vạn Hạnh, Không Lộ, Mãn Giác, Quảng
Nghiêm v.v.
Các Thiền sư nổi tiếng thời Trần có: Tuệ Trung Thượng sĩ, 3 vị vua-thi sĩ: Trần
Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông và các sư Pháp Loa, Huyền Quang.
Trần Nhân Tông cùng Pháp Loa, Huyền Quang lập ra dòng Thiền Việt Nam gọi là
Trúc Lâm.
(1) Thơ Thiền thể hiện suy tư, triết lý về nhân sinh của các Thiền sư ngộ đạo
Thơ Thiền đời Lý hay bàn về các vấn đề của Phật giáo: sống chết, sắc không, vô
thường, chấp trước, vô minh, giác ngộ… Triết lý về đời người, nhiều nhà thơ đã thể
hiện một thái độ bình tĩnh trước sống chết, do giác ngộ được chân lý.
Thiền sư Vạn Hạnh(7) trước khi viên tịch ông có trối lại với đệ tử bằng bài Thị đệ
tử 示弟子 , bài thơ thuộc thể loại “kệ thị tịch”:
Thân như ánh chớp có rồi không,
Cây cối xuân tươi thu não nùng.
6
Yến: Đặt yến tiệc thết giặc. Nhạc Thái thường đời Trần chỉ dùng trong những dịp lễ tiết lớn của
quốc gia, lúc ấy phải dùng để tiếp sứ thần của giặc. Hưng Đạo Vương lấy điều ấy làm điều nhục
lớn.
7 Sư Vạn Hạnh: họ Nguyễn (? – 1018) người Cổ Pháp (huyện Từ Sơn, Bắc Ninh), tinh thông tam
giáo. Ông giúp vua Lê Đại Hành chống giặc giữ nước, giúp Lý Công Uẩn lên ngôi. Ông được nhà
Tiền Lê và nhà Lý kính trọng, hậu đãi. Lý Thái Tổ tôn ông làm Quốc sư.
6
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.
(Ngô Tất Tố dịch)
Nguyên văn chữ Hán:
身如電影有還無,
萬木春榮秋又枯。
任運盛衰無怖畏,
盛衰如露草頭鋪。
Phiên âm Hán-Việt:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Bài thơ thể hiện suy nghĩ của vị Thiền sư về cái Vô thường, vạn vật đều tồn tại
ngắn ngủi, hết có lại không, như một ánh chớp lóe lên rồi tắt trong thời gian vô cùng.
Đời người ta sống chết giống như cây cối: mùa xuân thì tươi tốt, mùa đông thì tàn héo,
cứ như vậy mà trôi chảy không ngừng, bất tận. Đối với người hiểu biết được quy luật
vận động ấy (nhậm vận) thì không có gì phải buồn hay lo sợ, vì thịnh hay suy, sống
hay chết ngắn ngủi, vô thường như giọt sương trên đầu ngọn cỏ. Giọt sương li ti lúc
sớm mai, đến khi mặt trời lên thì tan biến hết cả.
Bài thơ đẹp, bình tĩnh nhưng vẫn thoảng một chút buồn.
Mãn Giác thiền sư(8) lâm bệnh nặng nói lại với mọi người bằng bài Cáo tật thị
chúng (Có bệnh bảo mọi người):
Xuân qua trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa tươi.
Trước mắt việc đi mãi,
Trên đầu già đến rồi,
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua sân trước nở cành mai.
(Bùi Văn Nguyên dịch)
8Mãn Giác tên thật Lý Trường (1052 – 1096) con Trung thư ngoại lang Lý Hoài Tố, ông được Lý
Nhân Tông và hoàng hậu trọng đãi, tin cậy, thường cùng bàn bạc việc nước. Được vua phong là
Nhập nội đạo tràng, khi mất vua đặt hiệu cho là Mãn Giác.
7
告疾示眾
春去百花落,
春到百花開。
事逐眼前過,
老從頭上來。
莫謂春殘花落盡,
庭前昨夜一枝梅。
Phiên âm:
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai,
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Hai câu thơ đầu của bài thơ nói lên sự vận đông, trôi chảy không ngừng của thế
giới hữu hình trong thời gian vô tận. Đối với con người, thời gian thấm thoát qua mau,
việc đời cứ trôi đi vùn vụt tuổi già đến lúc nào không hay. Nhưng đối với bậc tu hành
giác ngộ thì có thể vượt qua vòng luân hồi của thế giới hữu hình, giống như nhành
mai kia vẫn cứ nở khi muôn hoa rụng hết. Cành mai chính là biểu tượng cho sự giác
ngộ, cho sức sống vượt ra khỏi luân hồi, sinh tử.
Bài thơ thể hiện quan niệm lạc quan về cuộc sống. Cuộc sống không tàn lụi,
không mất đi. cuộc sống vẫn sinh sôi, nảy nở, đẹp đẽ, như bông hoa mai nở muộn
trong đêm cuối xuân kia.
(2) Thơ Thiền đời Trần thể hiện quan niệm sống vui với đạo ở trong cõi đời
này
Niềm vui đời sống với đạo trong thơ Thiền đời Trần: Cư trần lạc đạo (Ở cõi trần
mà vui với đạo) của Trần Nhân Tông:
Ở đời vui đạo cứ tùy duyên,
Đói hãy ăn, buồn ngủ ngủ liền.
Trong mình có của tìm đâu nữa,
Trước cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền.
(Đoàn Lê Giang dịch)
居塵樂道且隨緣,
饑則飧兮困則眠。
8
家中有宝休尋覓,
對境無心莫問禪。
Chủ trương của hái Trúc lâm là người Phật tử “Hộ pháp, hộ quốc, hộ vương”
(Giúp Phật pháp, giúp nước, giúp vua thống nhất với nhau) và “Cư trần lạc đạo” (ở
cõi trần mà vui với đạo).
Thơ Thiền có 3 loại:
- Thơ Thiền lý: Thơ nói nhiều về lý luận Thiền học như sắc không, vô thường,
giác ngộ, sinh lạo bệnh tử…
- Thơ Thiền ý : Thơ có ý Thiền, không bàn trực tiếp vào Thiền lý.
- Thơ Thiền vị: Thơ có ý vị Thiền, mà lý luận Thiền, ý tưởng Thiền không rõ.
Bài có chất thơ đậm đà, thuộc loại thơ Thiền vị tiêu biểu là bài: Thiên Trường
vãn vọng (Ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường) của ông vua thi sĩ Trần Nhân Tông là ví
dụ tiêu biểu:
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều dường có, lại dường không.
Mục đồng sáo vẳng, trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Ngô Tất Tố dịch)
天長晚望
9
村後村前淡似煙,
半無半有夕陽邊。
牧童笛裡歸牛盡,
白鷺雙雙飛下田。
Thiên Trường vãn vọng
Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lý quy ngưu tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền.
Phong cảnh thật thanh bình, đẹp đẽ trong cách nhìn của một nhà sư về cái hư ảo
của thế giới, của cái đẹp. Đây là bài thơ đầu tiên miêu tả phong cảnh làng quê Việt
Nam.
Thơ Thiền Lý Trần là bộ phận đặc biệt của văn học dân tộc, có giá trị lâu dài, bất
hủ. Thơ Thiền thời Lý Trần gắn với thời kỳ Phục hưng dân tộc, thể hiện niềm lạc
quan, sức mạnh của con người thời thịnh trị. Thơ Thiền phát triển từ Lý sang Trần
theo hướng từ thơ Thiền lý sang Thiền ý và Thiền vị: đẹp hơn, nhẹ nhàng hơn, trữ
tình hơn.
10
1.4. THƠ CỦA CÁC NHÀ NHO CUỐI ĐỜI TRẦN-HỒ
Nguyễn Trung Ngạn 阮忠彥 (1289-1370)
Hiệu Giới Hiên 介軒, quê tỉnh Hưng Yên. Nguyễn Trung Ngạn từ nhỏ đã thông minh
xuất chúng, nổi tiếng thần đồng. Năm 15 tuổi (1304) ông đã đỗ hoàng giáp đời vua
Trần Anh Tông (tiến sĩ trong kỳ thi đình, sau đệ nhất giáp/ Tam khôi). Năm 24 tuổi
được làm Giám quân, năm 28 tuổi đi sứ nhà Nguyên. Làm quan đến chức Ðại hành
khiển tước Thân quốc công. Tác phẩm có Giới Hiên thi tập hơn 80 bài, là tập thơ đi sứ
đầu tiên của văn học nước ta.
Chu Văn An 朱文安 (1292-1370)
Tự Linh Triệt 靈澤, hiệu Tiều Ẩn 樵隱, tên thuỵ là Văn Trinh, huyện Thanh
Ðàm (nay là huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội). Sau khi thi đậu thái học sinh,
Chu Văn An không ra làm quan, chỉ ở nhà dạy học. Học trò theo học rất đông, nổi
tiếng nhất sau này có Phạm Sư Mạnh, Lê Quát. Đời vua Trần Minh Tông ông nhận
chức Quốc Tử Giám tư nghiệp, dạy cho thái tử học. Ðời Trần Dụ Tông (1341-1369),
bọn gian thần lộng quyền, tham nhũng, Chu Văn An bèn dâng sớ xin chém bảy tên
lộng thần (Thất trảm sớ nghĩa động càn khôn - Lê Tung, TK.15), nhưng vua không
nghe. Ông xin từ chức, lui về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, làng Kiệt Ðặc, huyện Chí
Linh cho đến khi mất.
Tác phẩm của Chu Văn An: Tứ thư thuyết ước, Quốc ngữ thi tập (đã mất), Tiều
Ẩn thi tập, còn sót lại 12 bài chép trong Thơ văn Lý Trần (tập 3, NXB.KHXH).
Thơ của ông viết về thiên nhiên, đất nước, thể hiện tâm hồn thanh cao của một ẩn
sĩ và lòng u hoài của một nhà nho bất lực trước thời cuộc. Đại Việt sử ký toàn thư
đánh giá ông là “ông tổ của các nhà nho nước Việt ta mà thờ vào Văn Miếu”.
Trần Nguyên Đán 陳元旦 (1326-1390)
11
Hiệu Băng Hồ 冰壼, ông là cháu 4 đời của Thái sư Trần Quang Khải, bố vợ
Nguyễn Phi Khanh, ông ngoại Nguyễn Trãi. Quê phủ Thiên Trường, Nam Định. Làm
quan đến chức Nhập nội kiểm hiệu Tư đồ kiêm Quản trấn Quốc Oai (Hà Tây). Nhà
Trần suy yếu, ông không làm gì được, xin về nghỉ tại Côn Sơn (Hải Dương).
Tác phẩm: Băng Hồ ngọc hác tập, hiện còn 51 bài.
Thơ ông đậm chất hiện thực, thương dân, lo đời.
Tháng 6 năm Nhâm dần
Năm nay hạ hạn, mùa thu lụt,
Lúa héo, mạ hư hại vô ngần.
Ba vạn quyển thư vô dụng hết,
Bạc đầu luống những phụ lòng dân.
(Đoàn Lê Giang dịch)
壬寅年六月作
年來夏旱又秋霖,
禾槁苗傷害轉深。
三萬卷書無用處,
白頭空負愛民心。
Nhâm Dần niên lục nguyệt tác
Niên lai hạ hạn hựu thu lâm,
Hoà cảo miêu thương hại chuyển thâm.
Tam vạn quyển thư vô dụng xứ,
Bạch đầu không phụ ái dân tâm.
Nguyễn Phi Khanh 阮飛卿 (1355?-1428)
Tên thật là Nguyễn Ứng Long, hiệu là Nhị Khê, đến đầu đời Hồ (khoảng năm
1401) đổi tên là Nguyễn Phi Khanh, quê làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, phủ
Quốc Oai, trấn Sơn Nam Thượng (Hà Tây). Thời trẻ, Phi Khanh từng ở nhà quan Tư
đồ Trần Nguyên Đán để dạy con gái quan Tư đồ là Trần Thị Thái. Hai người yêu
nhau, đến khi cô Thái có mang, Phi Khanh sợ tội bỏ trốn. Trần Nguyên Đán tìm và gả
con gái cho. Năm 1374 ông thi đậu tiến sĩ, nhưng là con nhà thường dân mà lấy vợ
dòng dõi họ nhà vua, nên không bổ dụng làm quan.
Đến thời nhà Hồ (1401) ông mới được làm quan, đến chức Tư nghiệp Quốc tử
giám. Quân Minh xâm lược, ông bị bắt về Yên Kinh và chết ở đó.
12
Tác phẩm: Nguyễn Phi Khanh thi văn do Dương Bá Cung sưu tập, có 78 bài,
ngoài ra còn có 2 bài văn là Thanh Hư động ký và phú Diệp mã nhi phú (Bài phú con
bọ ngựa).
Thơ văn của ông viết nhiều về thiên nhiên, hiện tình đất nước, thể hiện lòng yêu
thiên nhiên thanh sạch và lòng thương dân lo đời.
1.5. PHÚ VÀ VĂN XUÔI ĐỜI TRẦN-HỒ
PHÚ có nguồn gốc Trung Quốc. Phú bắt đầu từ thơ (Ly tao của Khuất Nguyên),
sau thành thể biền văn. Phú là “thể vật nhi lưu lượng” (Văn phú, Lục Cơ), “phô” (phu
diễn - Lưu Hiệp).
Ở Việt Nam bài phú chữ Hán đầu tiên là bài Bạch vân chiếu xuân hải của
Khương Công Phụ, thế kỷ 8.
Đến đời Trần phú phát triển mạnh:
(1) Phú chữ Nôm có 3 bài: Cư trần lạc đạo phú (Trần Nhân Tông), Vịnh Vân Yên
tự phú (Huyền Quang), Giáo tử phú (Mạc Đĩnh Chi, phú tứ tự).
(2) Phú chữ Hán: Bạch Đằng giang phú (Trương Hán Siêu, phú lưu thủy), Thiên
thu giám phú (Phạm Tông Mại), Ngọc tỉnh liên phú (Mạc Đĩnh Chi, phú lưu thủy pha
tao thể).
Đời Hồ có: Diệp mã nhi phú (Bài phú con bọ ngựa, Nguyễn Phi Khanh), Đổng
Hồ bút phú (Khuyết danh)…
TRUYỆN KÝ
Tản văn Trần Hồ có các thể loại: Ngữ lục (Phật giáo), Bi minh, Sử ký, Truyện ký.
Truyện ký tiêu biểu có:
(1) Thiền uyển tập anh
(2) Thánh đăng lục
(3) Tam tổ thực lục
(4) Việt điện u linh tập
(5) Lĩnh Nam chích quái
(6) Nam Ông mộng lục (Hồ Nguyên Trừng)
Trong đó Thiền uyển tập anh, ghi lại các dòng Thiền tông và sự tích các vị
Thiền sư nổi tiếng; Việt điện u linh tập, Lĩnh Nam chích quái, sưu tập truyện về các
thần của người Việt, các truyện ma quái trong dân gian là những tác phẩm có giá trị
nổi bật.
13
BẠCH VÂN CHIẾU XUÂN HẢI PHÚ
Khương Công Phụ
Khương Công Phụ (731 - 805): Người Ái Châu (Thanh Hóa), ông nội người Cam Túc, Trung Quốc. Khương Công
phụ và em đỗ đại khoa trong kỳ thi tuyển dụng hiền tài thời Đường Đức Tông, năm Canh Tý 780. Khương Công
Phụ đậu Trạng nguyên, làm quan đến chức Tể tướng (Đồng trung thư môn hạ bình chương sự). Sau ông bị đưa
ra làm thứ sử ở châu quận và mất trên đường đi nhận nhiệm sở.
白 雲 照 春 海
白雲溶溶,
搖曳乎春海之中。
紛紜層漢,皎潔長空。
細影參差,匝微明於日域;
輕文燐亂,分炯晃於仙宮。
始而乾門辟,陽光積。
乃縹渺以從龍,
遂輕盈而拂石。
出 穹巒以高翥,
跨橫海而遠摭。
故海映雲而自春,
雲照海而生白。
或杲杲以積素,
或沉沉以凝碧。
圓虛乍啟,均瑞色而周流;
蜃氣初收,與清光而激射。
雲信無心而舒 捲,
海寧有誌於潮汐。
彼則澄源紀地,
此乃泛跡流天。
影觸浪以時動
形隨風而屢遷。
入洪波而並曜,
封綠水而相鮮。
時維孤嶼冰朗,
長汀雲淨;辨宮闕於三山,
總 妍華於一鏡。
臨瓊樹而昭晰,
覆台而縈映。
鳥頡頏以追飛,
魚從容以涵泳。
莫不各得其適,
鹹悅乎性。
登夫爽塏,
望茲雲海;
雲則連景霞以離披,
海則蓄玫瑰之翠 彩。
色莫尚乎潔白,
歲何芳於首春?
惟春色也,
嘉夫藻麗;惟白雲了,
賞以清貞。可臨流於是日,
縱觀美於斯辰。彼美之子,
顧曰無倫。
揚桂楫,棹青蘋;
心遙遙於 極浦,
望遠遠乎通津。
雲兮片玉之人(闕)
Bạch vân dong dong; Diêu duệ hồ xuân hải chi trung.
Phân vân tằng hán; Kiểu khiết trường không.
Tế ảnh sâm si, táp vi minh ư nhật vực; Khinh văn lịch loạn, phân huýnh hoẳng ư tiên cung.
Thủy nhi :
Càn môn tịch; Dương quang tích.
Nãi phiêu diêu dĩ tòng long; Toại khinh doanh nhi phất thạch.
Xuất cùng man dĩ cao chứ; Khóa hoành hà nhi viễn chích.
Cố,
Hải ánh vân nhi tự xuân; Vân chiếu hải nhi sinh bạch.
Hoặc cảo cảo dĩ tích tố; Hoặc trầm trầm dĩ ngưng bích.
Viên hư sạ khởi, quân diễm sắc nhi đồng lưu; Thận khí sơ thu, hưng thanh quang nhi xạ kích.
Vân tín vô tâm nhi thư quyển; Hải ninh hữu ý ư triều tịch.
Bỉ tắc ngưng nguyên kỷ địa; Thử nãi tấn tích lưu thiên.
Ảnh xúc lãng dĩ thần động; Hình tùy phong nhi lũ thiên.
Nhập hồng ba nhi tịnh diệu; Đối duyên thủy nhi tương tiên.
Thần duy:
Cô tự băng lãng; Trường đinh tuyết tĩnh.
Phân cung khuyết ư Tam sơn; Tổng nghiên hoa ư nhất kính.
Lâm quỳnh thụ nhi chiếu hân; Phúc diêu đài nhi oanh ánh.
Điểu hiệt hàng dĩ truy phi; Ngư thung dung dĩ hàm vịnh.
Hoặc bất:
Các đắc kỳ thích; Hàm duyệt hồ tính.
Đăng phù hạp khải; Vọng tư vân hải.
Vân tắc liên cẩm hà dĩ ly; Phí hải tắc súc mai côi chi thúy thái.
Sắc mặc thướng hồ khiết bạch; Tuế hà phương ư thủ xuân.
Duy xuân sắc dã gia phù tảo lệ; Duy bạch vân dã thưởng dĩ thanh tân.
Khả lâm lưu ư thị nhật; Túng quan mỹ ư tư thần.
Bỉ mỹ chi tử; Cố mục vô luân.
Dương quế tiếp; Điệu thanh tần.
Tâm diêu diêu ư cực phố; Vọng viễn viễn hồ thông tân.
Vân hề phiến ngọc chi nhân.
Mây trắng lớp lớp; Kéo hàng hàng trên biển xuân mênh mông.
Dạt dào biển cả; Sáng rực từng không.
Hình ảnh tinh vi, bao bọc vừng nhật; Đường nét mơ màng, rực rỡ tiên cung.
Lúc ban đầu:
Cửa trời rộng mở; Vừng dương bừng tỏa.
Phơi phới theo rồng; Nhẹ nhàng vỗ đá.
Vượt hang cùng mà nhảy bay; Qua sông ngang mà ca múa.
Cho nên:
Biển in mây nên đẹp vẻ xuân; Mây chiếu biển lại sinh sắc trắng.
Hoặc lửng trời cao màu lụa bạch; Hoặc chìm đáy nuớc sắc ngọc bích.
Thái hư vừa khởi, muôn sắc đẹp đều trôi; Thận khí mới thâu (蜃氣初收 khí biển), vạn ánh sáng
cùng ngời.
Mây vô tâm nên cuốn rồi mở; Biển hữu ý mà đầy lại vơi.
Bên thì tràn trề mặt đất; Bên thì chan chứa bầu trời.
Hình theo sóng mà rung động; Bóng theo gió mà chuyển dời.
Theo sóng lớn càng rạng rỡ; Bên nước biếc đều vui tươi.
Lúc bấy giờ:
Trên đảo giá tan; Bên bờ tuyết sạch.
Như cung điện trên tiên; Như hoa lá trong kính.
Cây quỳnh thêm xinh; Đài ngọc càng thịnh.
Chim bay lượn ung dung; Cá lặn ngụp thỏa thích.
Thảy đều:
Làm theo lòng mơ; Sống tùy ý thích.
Trèo lên đầu ghềnh; Trông vời mây bể.
Mây thì như ráng gấm pha màu; Bể thì như mai khôi rạng vẻ.
Không có sắc nào bằng sắc trắng; Không có mùa nào bằng mùa xuân.
Chỉ có sắc xuân là diễm lệ; Chỉ có mây trắng là thanh tân.
Đến dòng sông ngày hôm ấy; Ngắm cảnh đẹp lúc bấy giờ.
Kìa ai mỹ tử; Đoái mắt nhìn qua.
Giương chèo quế; Dựng buồm hoa.
Lòng phơi phới khi ra đầu bãi; Nhìn xa xa đến tận cuối bờ.
Mây ơi! Người ngọc ta mơ!
(Nguyễn Thiên Thụ dịch)
Vượt núi sâu để bay cao; Đè biển chắn (横河: sông ngang) mà xa tếch.
Vậy nên:
Biển ánh mây mà đượm xuân; Mây soi biển mà sinh bạch.
Hoặc phau phau vì chứa trắng; Hoặc sẫm sẫm vì ngưng biếc.
Vòm trời thoắt mở, màu tốt đẹp trải ngang; Hơi thẫn vừa thâu, ánh trong lành chiếu bạch.
Mây thật vô tâm mà co giãn; Biển đâu hữu ý lúc sớm chiều.
Bóng chạm sóng nên thường lay động; Hình theo gió mà hay đổi dời.
Gặp sóng cồn thì đều ánh; Soi nước biếc mà cùng tươi.
Bấy giờ thì:
Gò đảo băng tan; Bãi bờ mây sạch.
Lâu đài hiện rõ chốn Tam Sơn (có bản: Bồng Lai); Hoa cỏ gồm thâu về một cảnh.
Gần cây quỳnh mà rỡ ràng; Phủ đài dao (có bản: Đài diêu = đài ngọc) mà óng ánh.
Chim liệng rộn ràng; Cá bơi đủng đỉnh.
Vật nào cũng:
Hởi dạ hởi lòng; Thỏa tình thỏa tính.
Lên gò cao ấy; Trông biển mây này.
Mây liền bóng chiều bảng lảng; Biển đúc sắc biếc dày dày.
Sắc nào chuộng hơn trinh trắng; Năm (trong năm) thì thơm nhất đầu xuân.
Duy sắc xuân thời (thì) khoe màu tươi thắm; Duy mây trắng thời ngợi vẻ thanh chân.
Có thể rong chơi vào ngày ấy; Tha hồ mà ngắm cảnh lúc này.
Người xinh đẹp kia ngoảnh bảo: Không gì sánh kịp!
Buông chèo quế; Gảy bèo xanh.
Lòng chơi vơi nơi bến thẳm; Trông vời vợi chốn đò cùng.
Mây ơi, người ngọc một vầng.
CHIẾU DỜI ĐÔ
LÝ THÁI TỔ
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành
Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô.
Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn
vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên
vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng,
coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô
nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật
không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất,
được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau
trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư
không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp
nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là
nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở,
các khanh nghĩ thế nào?
(Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn
thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993)