You are on page 1of 50

See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.

net/publication/351932469

Hồ Quý Ly hoàng đế cách tân

Book · May 2021

CITATIONS READS

0 167

2 authors, including:

Trinh Thi Hanh


Ha Noi University of Industry
17 PUBLICATIONS   0 CITATIONS   

SEE PROFILE

All content following this page was uploaded by Trinh Thi Hanh on 28 May 2021.

The user has requested enhancement of the downloaded file.


PHẠM VĂN CHẤY - TRỊNH THỊ HẠNH

Hồ Quý Ly -
Hoàng đế cách tân

NHÀ XUẤT BẢN ÐẠI HỌC QUỐC GIA


Lời nói đầu
Những năm gần đây, du khách trong và ngoài
nước đến du lịch Xứ Thanh ngày càng nhiều
hơn. Các địa danh nổi tiếng phải kể đến Sầm
Sơn, Lam Kinh, Tây Đô, suối cá Cẩm Lương,…
đặc biệt là quần thể Di sản Văn hóa thế giới
Thành Nhà Hồ. Theo thống kê của Trung tâm
Bảo tồn di sản Thành Nhà Hồ, tính từ 28
tháng Chạp năm Nhâm Thìn 2012 đến mùng
10 tháng giêng năm Quý Tỵ, đã có trên 10.000
lượt khách đến tham quan danh thắng này.
Đứng trước toà thành kì vĩ, hầu như du khách
nào cũng muốn tìm hiểu tài nghệ khai thác,
chế tác và vận chuyển những khối đá vôi
khổng lồ từ trên núi cao về xây dựng gần 4 km
tường thành và 4 cổng thành. Công trình này
còn thể hiện tính chất tân Nho giáo của Đại
Việt, không rập theo khuôn mẫu kiến trúc của
Trung Hoa thời bấy giờ. Cuốn sách “Thành
Nhà Hồ và những câu chuyện xây thành đắp
luỹ” với những truyền thuyết về quá trình công
trình đã ra mắt bạn đọc từ năm 2009.

3
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Hơn thế, nhiều du khách còn muốn tìm hiểu


nhiều hơn về những cải cách, canh tân xã hội
cuối Trần của Hoàng đế Hồ Quý Ly và Hồ
1 Bối cảnh xã hội cuối triều Trần (Cuối
thế kỉ XIV)
Triều Trần lưu danh sử sách với những chiến công oanh
Hán Thương. Chúng tôi xin ghi chép tóm lược
liệt, ba lần đại thắng Mông - Nguyên thế kỉ XIII, ngút
những việc làm của các ông trong cuốn “Đại
trời hào khí Đông A, đưa dân tộc Đại Việt đến đỉnh vinh
Việt sử kí toàn thư” (Toàn tập) do Nhà xuất
quang, thoát khỏi đại hoạ bị làm nô lệ của các vương
bản Thời đại ấn hành năm 2011. Một số sự
việc, chúng tôi xin bình giải thêm. triều phương Bắc. Thế nhưng về cuối triều Trần, vua Dụ
Tông xao nhãng công việc triều đình, ham mê tửu sắc,
Việc ghi chép tóm lược từ sách sử cũ chắc chắn xây cung điện để đánh bạc khiến cho triều Trần bắt đầu
khó tránh khỏi những hạn chế. Chúng tôi rất suy vi. Chiêm Thành thấy nhà Trần suy yếu, có ý xem
mong được sự đóng góp của độc giả. thường, muốn đòi lại đất Thuận Hoá. Vua Chiêm là Chế
Các tác giả Bồng Nga nhiều lần đem quân đánh phá thành Thăng
Long, khiến triều Trần nhiều phen khốn đốn. Có đến
bốn lần các vua Trần phải đi lánh nạn. Triều Trần thực
sự bắt đầu suy sụp từ đời vua Phế Đế (Trần Nghiễn; lên
ngôi từ tháng 5-1377, làm vua đến tháng 12-1388). Sử
sách ghi lại: Vua là người ngu hèn chẳng biết làm gì, uy
quyền ngày một thuộc về tay quan lại, xã tắc nghiêng
đổ, bị giáng làm Linh Đức vương, rồi phải thắt cổ chết
trong chùa Tư Phúc. Sau đó, Thuận Tôn hoàng đế (huý
là Ngung; là con út của Thượng hoàng Nghệ Tôn) làm
vua (1388-1398), lấy Thánh Ngẫu - con gái trưởng của
Hồ Quý Ly, lập làm hoàng hậu, càng không phải là bậc
vua sáng thủ thành, lại mắc căn bệnh thần kinh, không
thể gánh vác trách nhiệm lớn lao trong khi hiện tình xã
hội rối ren, phức tạp. Mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa
các tầng lớp quý tộc, địa chủ với nông dân, nô tì, nô lệ;
giữa phe quan lại bảo thủ với phe đổi mới đang lên càng
làm cho tình hình rối ren phức tạp hơn. Sau khi giữ ngôi

4 5
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

10 năm, Thuận Tôn nhường ngôi cho con là Thiếu đế An - Tháng 3-1371, Chiêm Thành sang cướp cửa biển Đại
mới lên 3 tuổi để xuất gia tu hành. Được hơn một năm An (Nghĩa Hưng) tiến thẳng đến kinh sư, dụ binh của
thì Thuận Tôn bị giết. Bầu trời cuối thời Trần ngày càng giặc đến bến Thái Tổ1. Ngày 27, giặc vào thành đốt
phá cung điện cướp lấy con gái, của cải đem về. Giặc
u ám, sáng tối nhập nhoà, nhưng vẫn còn ít vì sao lấp loá, đốt cung điện, đồ thư trụi cả. Trong nước từ đấy sinh
có thể là những cứu tinh le lói, trong đó một số người lại ra nhiều chuyện.
có xu hướng chính trị khác nhau, nhiều người có ý mưu
- Tháng 5-1376 (năm Bính Thìn), người Chiêm đến
bá đồ vương. Khi ấy, ở phương Bắc, sau khi đánh bại nhà cướp Châu Hoá. Tháng 6, vua xuống chiếu cho các
Nguyên, nhà Minh bắt đầu nhòm ngó và chuẩn bị cho quân sắm sửa khí giới, thuyền chiến, để đợi vua thân
cuộc xâm lăng Đại Việt. chinh đi đánh Chiêm.
Phía Nam, vua Chiêm là Chế Bồng Nga - một quốc - Ngày 12-12-1377 (năm Đinh Tị), vua Duệ Tôn
thân chinh đem 12 vạn quân từ kinh sư kéo đi đánh
vương rất hiếu chiến, đã nhiều lần đem quân cướp phá.
Chiêm Thành. Ngày 24 tháng giêng năm 1377, vua
Đại Việt sử kí toàn thư có ghi: tiến quân đánh thành Chà Bàn nhưng bị mắc mưu
- Năm 1361 (năm Tân Sửu). Chiêm Thành vượt biển giặc nên tử trận.
đến cướp dân ở cửa biển Dĩ Lí (Lí Hoà, Bố Trạch, - Ngày 6-11, người Chiêm lại vào cướp, nhưng biết có
Quảng Bình). phòng bị nên kéo quân về, khi ra đến cửa Thần Phù
thì gặp bão, quân chết đuối nhiều vô kể.
- Tháng 3-1362, đánh cướp ở Châu Hoá.
- Tháng 5-1378 (năm Mậu Ngọ), người Chiêm dẫn hàng
- Năm 1365, người Chiêm lại đến bắt dân ở Châu Hoá. vương Ngự Câu Húc đến cướp Nghệ An tiếm xưng
tôn hiệu để chiêu dụ nhân dân. Tháng 6, giặc đánh
- Tháng 3-1366, người Chiêm đến cướp phủ Lâm Bình, vào sông Đại Hoàng, vua sai Hành khiển Đỗ Tử Bình
phủ quan là Phạm A Song đánh bại quân Chiêm, thăng A đem quân chống giữ, quan quân tan vỡ, giặc tiến đánh
Song làm Đại tri phủ Lâm Bình hành quân thủ ngữ sứ. kinh sư, bắt người cướp của rồi về.
- Tháng 2-1368 (năm Mậu Thân), Chiêm Thành sai Mục - Năm 1380 (năm Canh Thân), người Chiêm dụ dỗ
người Tân Bình, Thuận Hoá đi cướp Nghệ An, Diễn
Bà Ma sang đòi lại đất biên giới Hoá Châu. Tháng tư,
Châu, cướp của bắt người. Tháng 3, giặc ra cướp các
Trần Thế Hưng đến Chiêm Động. Người Chiêm phục nơi ở Thanh Hoá.
quân đánh úp, quân ta tan vỡ, Thế Hưng bị giặc bắt,
Tử Bình đem quân về. 1
Nay là phường Phục Cổ.

6 7
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

- Tháng 2-1382 (năm Nhâm Tuất), người Chiêm vào Em Linh Ðức vương (Trần Nghiễn) là Trần Nguyên Diệu
cướp ở Thanh Hoá. muốn báo thù cho Linh Ðức, đem bè đảng đầu hàng giặc.
- Tháng 6-1383 (năm Quý Hợi), vua Chiêm là Chế Thượng Hoàng và vua sang châu Bắc Giang.
Bồng Nga cùng Đại tướng La Ngai đem quân bộ ra Ngày 23 tháng giêng năm 1390 (năm Canh Ngọ), đô tướng
chân núi trấn Quảng Oai, dò đường đến đóng ở sách Trần Khát Chân đại thắng quân Chiêm ở Hải Triều, giết
Khổng Mục, kinh sư kinh động, Thượng hoàng sang được vua Chế Bồng Nga. Bấy giờ, Chế Bồng Nga cùng
sông Đông Ngàn (sông Đuống) tránh giặc. Khi ấy, có với Trần Nguyên Diệu đem hơn 100 chiến thuyền đến
người học trò là Nguyễn Mộng Hoa mặc cả áo mũ lội xem tình hình quan quân Đại Việt, hai phần lực lượng còn
xuống nước kéo thuyền ngự xin vua ở lại đánh giặc,
đóng ở đại bản doanh chờ đợi lệnh. Hôm đó, Ba Lậu Kê
Thượng hoàng không nghe. Tháng 12, Chiêm Thành
đem quân về. là tiểu thần của Chế Bồng Nga, bị Chế Bồng Nga trách
phạt vì tội trêu ghẹo mĩ nữ của Chế Bồng Nga, hắn sợ bị
Như vậy, quân Chiêm đã đánh Thăng Long cả thảy bốn giết, chạy trốn sang quân ta đầu hàng, trỏ vào thuyền sơn
lần (các năm 1371, 1377, 1378, 1383), khiến cho vua Trần xanh nói đó là thuyền của quốc vương. Tướng Trần Khát
phải bỏ kinh đô đi lánh nạn vào các năm 1371 và 1383.
Chân sai quân ta tập trung hoả lực bắn vào. Bồng Nga bị
- Tháng 10-1389 (năm Kỉ Tị), người Chiêm tiến đánh trúng suốt mà chết, người trong thuyền kêu khóc ầm lên.
hương Cổ Vô, Thanh Hoá. Vua sai Hồ Quý Ly đem Nguyên Diệu chặt lấy đầu Chế Bồng Nga chạy về quan
quân chống giữ nhưng bị thua. Hồ Quý Ly về xin viện quân. Đại đội phó Thượng đô quân Long tiệp là Phạm Nhữ
binh nhưng Thượng hoàng không cho. Vì thế, Hồ Quý Lặc và Đầu ngũ là Dương Ngang bèn giết Nguyên Diệu và
Ly xin giải quyền cầm quân, không đi đánh nữa. lấy cả đầu Bồng Nga, quân giặc bỏ chạy tan hoang. Trần
- Tháng 11-1389, quân Chiêm đánh ra Bắc, Thượng Khát Chân sai Giám quân là Lê Khắc Khiêm bỏ thủ cấp
hoàng sai Trần Khát Chân làm tướng đem quân Long của Bồng Nga vào hòm chở thuyền về báo tin thắng trận
tiệp đi đánh giặc. Khát Chân rỏ nước mắt, khảng khái tại Bình Than. Bấy giờ đồng hồ đã điểm canh ba, Thượng
vâng lệnh ra đi. Thượng hoàng cũng khóc lấy mắt tiễn hoàng Nghệ Tông đang ngủ say thì bị khinh động thức dậy,
đưa. Quân đi từ sông Lô đến sông Hoàng2 thì gặp giặc. cho là giặc đã đánh đến ngự dinh. Đến khi nghe báo là đã
Khát Chân xem chỗ ấy không có thế đánh được, mới thắng trận, lấy được thủ cấp của Chế Bồng Nga, Thượng
lui về giữ sông Hải Triều3 ở phía tây bắc huyện Hưng
hoàng mừng lắm, cho gọi các quan đến xem, các quan
Nhân, phía nam huyện Tiên Lữ.
mặc triều phục tung hô “vạn tuế”. Thượng hoàng nói:
2
Sông Hồng. “ta với Bồng Nga cầm cự với nhau đã lâu, ngày nay mới
3
Sông Luộc. được thấy mặt, khác gì Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ.

8 9
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Thiên hạ yên rồi”. Có thể đây là một nhận định sai lầm (Tướng quốc kém thua tài Lý Bật
của Thượng hoàng Nghệ Tôn. Thực ra thiên hạ đang Thiên đô còn thẹn với Bàn Canh)
bước vào thời kì vô cùng tao loạn. Tuy vậy, Hồ Quý Ly có công lao không nhỏ trong việc
Chiêm Thành nhiều lần đem quân đánh vào bờ cõi Đại giúp vua củng cố quốc phòng, xây dựng đội quân thuỷ, bộ
Việt, một phần là do xã hội cuối Trần suy yếu, sau một ngày càng mạnh mẽ. Vào cuối triều Trần, Hồ Quý Ly là
trăm năm đại thắng Mông - Nguyên, việc quân dần dần một ngôi sao sáng, vừa là ngoại thích vừa là con rể của vua
chểnh mảng, một phần là do đế chế Chiêm Thành đương Trần Minh Tôn. Ông bắt đầu được trọng dụng, đặc biệt
thời cực thịnh, quân đội chính quy, được tập luyện thường dưới thời vua Nghệ Tông.
xuyên trên sông, trên biển.
Trong tình trạng xã hội cuối Trần rối ren, suy thoái,
Quân Chiêm có hai thế mạnh là Hải quân và Tượng quân, những người nắm giữ vai trò chủ chốt triều đình không
thường dùng chiến thuyền bí mật tiến quân đánh nhanh, thể không tìm con đường canh tân đất nước.
rút nhanh. Tượng quân Chiêm Thành rất mạnh, ví như
Có thể nói, nếu như cha con họ Khúc thế kỉ thứ X là
những cỗ xe tăng của thời cận đại, làm cho bộ binh đối
những người mở đầu tư tưởng cách tân trong thời phong
phương khiếp đảm. Chế Bồng Nga cũng là quốc vương
kiến nước ta thì cha con Hồ Quý Ly cũng là những hoàng
cực kì hung bạo. Sau khi Bồng Nga tử trận, Ðại tướng La
đế cách tân xứng đáng được vinh danh. Tuy nhiên, có
Ngai chạy về tự lập làm vua, không dám nhòm ngó nước
học giả cho rằng: một số việc làm đổi mới của Hồ Quý
ta như trước.
Ly chưa đạt đến tầm cải cách mà mang tính chất cải
Xét về các tướng quân sự cuối Trần, không nhiều người lương để lấy lòng dân.
cầm quân giỏi, trực tiếp chỉ huy trận mạc như các thống
Thực ra, canh tân là một nhu cầu khách quan và quy luật
soái đầu Trần đại phá Mông - Nguyên. Ngay cả Hồ Quý
Ly, trong bài thơ cảm hoài ông sáng tác năm 1405, cũng khách quan thúc đẩy xã hội tiến lên. Trong bối cảnh xã
tự nhận rằng: hội cuối thời Trần có nhiều mâu thuẫn đối kháng giữa
các tầng lớp quý tộc, tôn thất với nô tì, nô lệ, nông dân;
“Tướng quốc tài nan tàm Lý Bật4 giữa các phe cánh quan lại bảo thủ với phái đòi hỏi cách
Thiên đô kê chuyết khốc Bàn Canh5” tân,… Nhiều thủ lĩnh cầm đầu nô lệ, nô tì, nông dân ở
4
Lý Bật là tướng quốc có tài trị quốc yên dân đời nhà Đường. các địa phương nổi lên xưng hùng xưng bá. Một số vua
5
Bàn Canh là vua đời thứ 12 nhà Thương, khi thấy kinh đô cũ không Trần hèn kém, nhu nhược, không còn đảm nhiệm được
còn phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước, ông đã quyết định vai trò lãnh đạo đất nước. Nếu không canh tân, đổi mới,
dời đô lên đất Bắc (đất nhà Ân cũ). Từ đó, sự nghiệp nhà Thương
phát triển phồn thịnh.
thay thế, đổ nát là sự đương nhiên.

10 11
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

2 Quá tr nh tham chính và công cuộc


canh tân đất nước của Hồ Quý Ly
Quan gia7 đáng giúp thì giúp, nếu là người hèn kém, ngu
tối thì ngươi tự lấy lấy nước”. Đến khi lên ngôi Hoàng
đế, Hồ Quý Ly có thêm điều kiện tiến hành các cuộc cải
Có nhiều sử gia và chính trị gia đánh giá rằng Hồ Quý
Ly là người văn võ toàn tài, bước đầu sự nghiệp có sự cách toàn diện xã hội cuối Trần.
hậu thuẫn của các vua Trần vì có hai người cô ruột lấy Hồ Quý Ly lấy cải cách kinh tế làm cơ sở, làm chỗ dựa
vua. Người cô thứ nhất là Thái phi Minh Từ, được Trần để cải cách hành chính, văn hoá, giáo dục, y tế, bộ máy
Minh Tông phong là Nguyên phi Anh Tư năm 1317, sinh cai trị, xây dựng cơ sở hạ tầng sản xuất và đời sống, giao
ra Hoàng tử Vượng (tức Trần Hiến Tông) và Hoàng tử thông, thuỷ lợi; trong đó, việc xuyên suốt cuộc đời tham
Phủ (tức Trần Nghệ Tông). Sau khi bà mất (1365), năm gia chính trị của ông và cũng là việc quan trọng nhất,
khó khăn, phức tạp và lâu dài nhất là canh tân, cải tổ bộ
1371, Trần Nghệ Tông truy phong bà là Minh từ Hoàng
máy nhà nước. Cùng với việc đối phó với thù trong cũng
Thái Phi. Về sau, bà còn được truy phong là Thái hoàng như loại bỏ một số chức sắc, chức việc ở các địa phương
- Thái hậu mẫu nghi Trần triều. Người cô thứ hai của và một số khá đông tôn thất bảo thủ nhà Trần ngáng
Hồ Quý Ly là bà Đôn Từ. Bà Đôn Từ lấy Trần Minh đường, cản lối công cuộc đổi mới, Hồ Quý Ly cũng nhận
Tông, vào cung là một “sang viên”6, bà sinh ra Hoàng tử thức sâu sắc rằng nguy cơ bị giặc ngoài xâm lược thường
Kính (tức là vua Trần Duệ Tông). Bà Đôn Từ mất năm trực biên ải phương bắc; ở phía nam, Chiêm Thành cũng
Đinh Hợi (tháng 8-1347), được vua Trần Dụ Tông truy nhiều lần đem quân đánh phá sâu vào bờ cõi Đại Việt.
phong là “Quang Hiến thần phi” và vua Trần Duệ Tông Do đó, song hành với cải cách kinh tế, cần phải đặc biệt
truy phong là “Đôn Từ Hoàng Thái phi” năm 1373. Tuy ưu tiên củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang
nhiên, khi Hồ Quý Ly vào triều tham chính, vua Trần hùng mạnh.
Minh Tông, Hiến Tông và hai cô ruột đã mất cả rồi, cha
đẻ của ông có thể cũng không còn nữa. Không rõ cha 2.1. Canh tân trong lĩnh vực quân sự
Hồ Quý Ly có làm chức gì trong triều để làm chỗ dựa Từ khi giữ chức tham mưu quân sự (1375), Hồ Quý Ly đã
cho ông có những bước đi ban đầu thuận lợi hay không giúp vua chọn các quan viên có tài quân sự làm tướng coi
nhưng điều rõ ràng do ông được vua Nghệ Tông (là con quân, không cứ dòng dõi xuất thân là dân hay là tôn thất;
cô con bác với ông) yêu mến tài năng nên rất tin dùng và đồng thời cho điểm duyệt binh nhiều lần, sắp xếp bố trí
có ý cất nhắc. Vua Nghệ Tông từng nói: “Bình Chương là binh quyền, quân ngũ; chấn chỉnh quân phong, quân kỉ,
người họ thân, công việc trong nước đều giao cho cả, nay trang bị vũ khí, luyện quân thuỷ, bộ.
thế nước suy yếu, ta đã già yếu, sau khi ta đã chết rồi,
6 7
Một cung tần. Chỉ vua.

12 13
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Ông tham mưu cho vua tổ chức lại quân túc vệ, đặt thêm Ông cho xây dựng nhiều xưởng rèn dập vũ khí, giao cho
các phiên hiệu cho các loại quân như: Thiên đình, Bảo Nguyên Trừng phụ trách đúc đạn dược và súng Thần cơ -
tiệp, Thần dực, Thần sách, Thiên uy, Thánh dực, Thần loại binh khí mạnh nhất bấy giờ; chế ra các súng bắn đá,
vũ, Thiên trường, Long tiệp, Hoa ngạch, Thị vệ, để làm chông sắt ba cạnh, thuần dưỡng hàng trăm thớt voi đánh
tăng sĩ khí. Đồng thời, ông cho sắp xếp lại biên chế, như giặc, vừa làm sức kéo những khối đá lớn, những cây gỗ to,
Cấm quân có 20 vệ, trong đó có 12 vệ quân Nam ban và xây thành đắp luỹ, xây dựng lâu đài, cung điện.
Bắc ban, 8 vệ quân Điện hậu đông và Điện hậu tây; mỗi Sau này, Hồ Hán Thương9 sai đào liên cảng, từ phủ Tân
vệ lại biên chế thành 18 đội, mỗi đội 18 người. Đại quân Bình đến địa giới Thuận Hoá, vì bùn cát đùn lên, nên việc
gồm 30 đội, Trung quân 20 đội, Dinh quân 15 đội, Đoàn không thành.
quân 10 đội, trong hoàng cung có 5 đội Cấm vệ đô.
Hán Thương cho đóng thuyền đinh nhỏ để đánh Chiêm
Lúc này, ông đang từng bước tiến tới nắm trọn binh Thành; dự định chia các đất Bản Đạt Lang, Hắc Bạch và
quyền, đối phó với giặc ngoài và để đánh dẹp các cuộc Sa Li Nha từ Tư Nghĩa trở về Nam đến biên giới Xiêm
bạo loạn trong nước. La làm các châu, huyện.
Tháng 8-1375, ông định lại số quân, thải người già yếu, Năm 1405,  Hồ Hán Thương hạ lệnh cho các nơi đầu
lấy người mạnh khoẻ bổ sung. Phàm là dân Thanh Hoá, nguồn ở các trấn nộp gỗ làm cọc để đóng cọc ở cửa biển
Nghệ An8 đang đi làm thuê lấy tiền công ở khắp nơi đều và các nơi quan yếu trên sông Cái để phòng giặc phương
bị triệu hồi bổ sung quân ngũ. Ông cho lập sổ hộ kê khai Bắc. Ông đặt 4 xưởng sản xuất và kho quân khí, không kể
dân số lấy bổ sung quân. Đối với những người đàn ông quân hay dân, người nào giỏi nghề đều sung vào làm việc.
đang trốn việc quan, vào sống trong chùa, ông lệnh cho
xem xét, nếu đủ sức khoẻ cũng bắt hoàn tục để sung Tháng 7, Quý Ly và Hán Thương đi xem xét địa hình núi
vào quân đội. sông ở các kinh lộ và các cửa biển, biết chỗ nào hiểm,
chỗ nào dễ, đến tháng 8 mới trở về.
Cùng năm ấy, ông lấy Tư đồ Nguyên Đán coi việc quân
trấn Quảng Oai; sau này bổ nhiệm một số tướng quân Ông cho đóng thuyền Cổ Lâu, thuyền đinh sắt. Các hiệu
như đại tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hoà, Hành khiển thuyền Diễm Dã, Ngọc Đột, Nha Tiệp đều là những
Phạm Huyền Linh, Ngự sử đại phu Trương Đỗ, Giám 9
Hồ Hán Thương (?-1407) là vua thứ hai và cũng là vua cuối cùng
quân Thánh dực Hoàng Phụng Thế, Nguyễn Đa Phương, của nhà Hồ, cai trị nước Đại Ngu từ năm 1401 đến 1407. Hồ Hán
Phạm Cự Luận, Trần Khát Chân v.v. Thương là con thứ của vua Hồ Quý Ly và công chúa Huy Ninh - con
gái vua Trần Nghệ Tông. Năm 1401, Hồ Quý Ly chính thức truyền
ngôi cho Hồ Hán Thương. Tuy nhiên, Hồ Quý Ly vẫn nắm quyền
8
Có truyền thống gan dạ trong chiến đấu. quyết định nhiều việc.

14 15
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

chiến thuyền hiện đại. Riêng hai loại chiến thuyền lớn thành Tây Đô không dùng vật liệu truyền thống (gạch
nhất là thuyền Cổ Lâu, Châu Kiều, trên mặt thuyền lát nung) là một công trình sáng tạo, có thể coi là một việc
ván bằng phẳng cho quân đi lại và chiến đấu dễ dàng, bảo cách mạng trong ngành sản xuất vật liệu xây dựng và là
vệ cho người chèo lái ở tầng dưới được an toàn, chứa tư tưởng táo bạo, cách tân, chỉ có thể phát tiết ra ở một
được nhiều lương thực, thực phẩm, đảm bảo thời gian bộ não kì hùng.
chiến đấu dài ngày, có thể vượt qua sóng cả, đuổi theo
thuyền giặc. 2.2. Công cuộc cải cách kinh tế
Tháng 9-1404, Hán Thương định quân Nam ban và Bắc •• Về chế độ sưu thuế
ban, chia làm 12 vệ; Quân điện hạ Đông và Tây, chia Trong cuộc cải cách, canh tân kinh tế, Hồ Quý Ly đặc
làm 8 vệ; mỗi vệ 18 đội, mỗi đội 18 người; đại quân gồm biệt quan tâm lợi ích của dân, cho miễn thuế thân đối
30 đội; trung quân gồm 20 đội; mỗi dinh là 15 đội; mỗi với cô nhi, quả phụ có chồng là những binh sĩ hi sinh nơi
đoàn là 10 đội; Cấm vệ đô có 5 đội. Đại tướng quân chiến trận.
trông coi cả.
Đối với nông dân, trước hết, ông giảm nhẹ sưu cao, thuế
Vào cuối triều Trần, Hồ Quý Ly bàn với Thượng hoàng nặng đánh vào nông nghiệp, ưu tiên khai hoang khẩn hoá.
Nghệ Tông, rồi Trần Thuận Tông cho dựng tuyến phòng
Tháng 6-1397, ông tham mưu cho nhà vua xuống chiếu
thủ dài gần 400 cây số, từ núi Tản Viên, dọc theo sông
hạn chế ruộng đứng tên (danh điền), chỉ trừ các đại vương
Đà, hữu ngạn sông Hồng, sông Luộc đến cửa sông Thái
và trưởng công chúa. Quan lại, địa chủ và dân thường
Bình. Đó là hệ thống các đồn quân, bãi cọc, hàng rào
thì chỉ cho sử dụng 10 mẫu, còn thừa phải dâng nộp
bằng các luỹ tre. Ngoài ra, ông còn cho xây dựng căn cứ
nhà nước. Năm 1398, có lệnh ban rằng : Người nào có
Đa Bang, căn cứ trên núi Đại Huệ thuộc xã Nam Anh
ruộng thì tự cung khai số mẫu, người dân phải đề họ tên
và xã Nam Xuân huyện Nam Đàn, Nghệ An để phòng
trên bờ ruộng. Các lộ, phủ, châu, huyện có chung trách
chống giặc. Đặc biệt, thành đá Tây Đô, Vĩnh Lộc, Thanh
nhiệm điều tra, đo đạc làm sổ, 5 năm mới xong. Ruộng
Hoá vừa là kinh đô vừa là căn cứ quân sự cực kì hiểm trở.
nào không có giấy cung kết thì lấy làm ruộng công. Đây
Bên ngoài là các dãy núi tạo thành lòng chảo khổng lồ,
là cuộc trưng thu, cải cách ruộng đất lớn nhất trong xã
bên trong là hai sông lớn; sông Mã, sông Bưởi vây bọc
hội phong kiến tính đến năm 1398. Dĩ nhiên, trong mỗi
tứ vi Đông - Tây - Nam - Bắc, trong nữa là Ðại La thành,
giai đoạn lịch sử, mỗi trình độ xã hội khác nhau, hiệu quả
trong cùng mới là Hoàng thành kì vĩ, kiên cố có một
và quyền lợi mà các cải cách ấy đem lại cho nông dân và
không hai ở khu vực Đông Nam Á. Tháng 6-2011, thành
cho xã hội cũng có sự khác biệt.
đã được xếp hạng di sản văn hoá thế giới. Việc xây dựng

16 17
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Sau khi lên ngôi Hoàng đế, năm 1402, Hồ Hán Thương Năm 1403, Hồ Hán Thương còn đem những người không
tiếp tục định lại các mức về tô, thuế ruộng. Nếu như có ruộng nhưng còn có điều kiện làm ăn đến các châu
triều vua trước, với mỗi mẫu ruộng, Nhà nước thu 3 Thăng Hoa biên làm quân ngũ, các quan lộ, phủ, châu,
thăng thóc thì nay thu 5 thăng. Với bãi dâu, triều vua huyện phải chọn đất cho họ ở, năm sau cho vợ con đi
trước thu mỗi mẫu từ 7 đến 9 quan tiền thì nay thu hạng theo. Hồ Hán Thương mộ dân nộp trâu, cho tước phẩm,
thượng đẳng mỗi mẫu 5 quan tiền giấy (tương đương 4,1 lấy cấp cho các hộ dân mới di dời đến lộ Thăng Hoa.
quan tiền cũ); hạng trung đẳng 4 quan tiền giấy; hạng hạ Năm 1405, mất mùa, dân đói, Hán Thương hạ lệnh cho
đẳng thu 3 quan tiền giấy. Tiền hằng năm của đinh nam các quan phủ, lộ, châu, huyện đi kiểm soát xem các nhà
trước đây thu mỗi người 3 quan tiền, nay thu theo số giàu có nhiều thóc phải bán cho dân mua theo thời giá;
ruộng. Người nào chỉ có 5 sào thì chỉ phải nộp 5 tiền tuỳ theo tốt xấu.
giấy; từ 6 sào đến 1 mẫu thì phải nộp 1 quan tiền giấy; từ Hán Thương đánh thuế thuyền buôn, bổ sung quốc khố,
1mẫu 1 sào đến 1 mẫu 5 sào thì phải nộp 1 quan 5 tiền định ba bậc thuế. Bậc thượng, mỗi chiếc thuyền buôn
giấy; từ 1 mẫu 6 sào đến 2 mẫu thì nộp 2 quan tiền giấy; đánh thuế 5 quan; bậc trung, mỗi thuyền mức thuế 4
từ 2 mẫu 1 sào đến 2 mẫu 5 sào phải nộp 2 quan 6 tiền quan; bậc hạ, mỗi chiếc 3 quan.
giấy; từ 2 mẫu 6 sào trở lên phải nộp 3 quan tiền giấy. Những việc làm trên vừa là công cuộc mở mang điền địa
Đinh nam không có ruộng và trẻ con mồ côi, đàn bà goá vừa là chính sách kinh tế khuyến nông, kết hợp sắp xếp
chồng, dù có ruộng cũng không phải đóng tô thuế. bố trí lại dân cư, đưa dân cư đến vùng rừng núi, biên ải
Như vậy, chính quyền đã giảm nhẹ thuế thân đối với để khai khẩn đất hoang, ngày nay gọi là vùng kinh tế mới,
lập nên tuyến phòng thủ dọc biên cương Tổ quốc, kết
người ít ruộng và đã có chính sách ưu đãi đối với những
hợp kinh tế với quốc phòng. Những chính sách tiến bộ
người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
ấy cho đến ngày nay vẫn là vấn đề thời sự.
Tháng 4-1401 (mùa hạ năm Tân Tị), Hán Thương sai
làm tất cả sổ hộ trong nước; cho ghi họ Hồ có hai phái •• Về tiền tệ, thương mại
ở Diễn Châu và Thanh Hoá; biên hết vào sổ các nhân Từ tháng tư năm 1396 (năm Bính Tí), Nhà nước bắt đầu
khẩu từ hai tuổi trở lên, đều lấy số hiện tại làm thực số; phát hành tiền giấy Thông Bảo hội sao thay thế tiền
không cho ghi tên người phiêu tán vào trong sổ. Đến khi đồng. Để khuyến khích tiêu dùng tiền giấy, nhà nước quy
sổ làm xong, Hán Thương cho điểm số người từ 15 tuổi định mỗi quan tiền đồng đổi được 1 quan 2 tiền giấy.10
trở lên, 60 tuổi trở xuống được gấp bội số trước; cho
nên sang năm Thiệu Thành thứ hai, điểm binh càng được 10
Khi ấy, đa số người dân phản đối dùng tiền giấy. Lí do là vì họ chưa đủ
nhiều hơn. phương tiện bảo quản tiền giấy, nhất là chống mưa, chống nước; hơn
nữa, trong quá trình lưu thông, tiền giấy dễ bị ẩm ướt, nhàu nát.

18 19
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Tiền giấy có nhiều loại mệnh giá với hình thức phong xã hội đúng đắn như: chính sách cải cách ruộng đất, hạn
phú: Tờ 10 đồng có hình rau rong; tờ 30 đồng có hình nô, hạn điền, lập kho dự trữ thóc gạo “thường bình”,
sóng nước; tờ 1 tiền có hình đám mây; tờ 2 tiền có hình khuyến khích khai khẩn hoang hoá vùng biên, quai đê lấn
con rùa; tờ 3 tiền có hình con lân; tờ 5 tiền có hình con biển, mở mang đồng ruộng.
phượng; tờ 1 quan có hình con rồng.
Thời bấy giờ, Nhà nước còn cho dựng nhiều quán xá dọc
Đây là lần đầu trong chính sử Việt Nam, tiền giấy được đường, cứ cách 5 dặm lại cho dựng một cái nhà, cả 4 mặt
lưu thông. Có thể nói, đây là một bước tiến quan trọng đều để chõng cho dân đem hàng bày bán kiểu chợ nông
trong lịch sử phát triển tiền tệ của nhân loại, từ khi xã thôn, dân đỡ phải đem các sản vật đi xa trao đổi, tiết
hội loài người biết dùng vật ngang giá trung gian (bỏ cách kiệm thời gian lao động và giảm bớt khó nhọc
trao đổi trực tiếp vật lấy vật), khởi thuỷ là dùng vỏ sò, Từ năm Quý Mùi (1403), Hồ Hán thương đặt chức Thị
vỏ hến, tiến đến là dùng tiền kẽm, tiền đồng. Thời ấy, giám (giám sát thị trường), ban hành cân, thước, thưng,
trên thế giới có rất ít nhà nước phong kiến phát hành đấu, ngăn ngừa cái tệ buôn gian, bán lận. Nhà nước cũng
tiền giấy thay tiền bằng kim loại. Điểm bất lợi của tiền quy định: Nếu cửa hàng nào bán giá cao thì sẽ bị đóng
kim loại là dễ bị hoen rỉ, không thuận tiện khi dùng một cửa; nếu thương nhân nào vào hùa nhau buôn gian bán
lượng tiền lớn đem đi mua bán xa xôi. Việc dùng tiền lận sẽ bị trị tội.
giấy cho phép tiết kiệm được kim loại đồng (khi ấy là kim
Chợ nông thôn được mở ở khắp mọi nơi chẳng những
loại quý hiếm) để có thể tập trung cho việc chế tạo nồi,
tạo thuận lợi cho việc trao đổi sản vật giữa các vùng
mâm, xanh, vạc, đồ dùng gia dụng; chế tạo binh khí, đúc miền, cung cấp kịp thời nhu cầu thực phẩm cho quân đội,
súng Thần cơ. cho các gia đình quan lại sinh sống tập trung ở kinh đô
mà còn kích thích sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi phát
•• Về các tiến bộ thương mại triển với tốc độ nhanh. Khi ấy, Thăng Long có tới 61 phố
Hồ Quý Ly cho lập các kho “thường bình” ở các địa phường chứ không phải chỉ 36 như các thời sau.11
phương, giao tiền cho các địa phương để họ tự căn cứ Có một số nhà nghiên cứu cho rằng: Việc Hồ Quý Ly
thời giá mà mua thóc gạo dự trữ nhằm phục vụ quốc tiến hành chính sách hạn điền, lấy bớt ruộng tư sung
phòng và chống đói cho dân, bình ổn giá cả thị trường, công làng, xã khiến ruộng đất công làng, xã trở thành
chống bán ép giá. Nhờ vậy, tuy bão lụt thường xuyên cơ sở kinh tế của nhà nước trung ương là một thiết chế
xảy ra nhưng theo sử cũ, từ sau năm 1379 cho đến năm đã tồn tại từ xa xưa. Thái độ của Hồ Quý Ly đối với bộ
1400, tức là trong suốt hơn hai mươi năm, không có nạn 11
Theo Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng. Lịch sử chế độ phong kiến
đói nào xảy ra. Đây thực sự là kết quả của các chính sách Việt Nam, tập một. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1968, trang 29.

20 21
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

phận ruộng đất này hình như không có gì mới. Nô tì cũng Có lẽ khi lựa chọn mức hạn điền trên, Hồ Quý Ly đã phải
bị đem sung công chứ chưa được giải phóng. cân nhắc kĩ càng. Việc hạn nô chắc là cũng vậy. Nhưng
trong việc hạn nô, ông chỉ quan tâm đến tầng lớp nô tì,
Thực tế, việc hạn điền, hạn nô của Hồ Quý Ly đã tác nô lệ đông đảo trong nước mà không hạn chế nô tì, nô
động tích cực tới tình hình kinh tế - xã hội. Cuối thời lệ là người nước ngoài. Trong khi đó, rất ít tù binh được
Trần, triều đình suy yếu, tham quan, quý tộc, chúa đất giao cho các nhà tôn quý nuôi làm kẻ hầu, người hạ.
đua nhau vơ vét của công, chiếm đoạt đất đai, nô tì, nô
lệ, khai gian đất đai để trốn thuế. Do đó, kinh tế nhà Tuy có những hạn chế nhưng xét về mặt mục tiêu thì việc
nước trung ương suy yếu, dân nghèo không còn gia sản, hạn nô, hạn điền là những bước đi của một cuộc cải cách.
phải cầm cố bán cả sự tự do để trở thành nô tì, nô lệ Tước đi phần lớn quyền lợi và thanh thế của lãnh chúa,
trong các nhà giàu, quan tham, quý tộc. Nhờ chính sách quý tộc để sung công khi ấy là việc làm rất mạnh tay chứ
hạn nô, họ đã được giải phóng một phần. không phải là mang tính cải lương để lấy lòng dân.
Có năm điều đáng chú ý trong việc cải cách hạn điền,
Có lẽ khi ấy, Hồ Quý Ly rất muốn làm cuộc “cách mạng”
hạn nô của Hồ Quý Ly.
ruộng đất một cách triệt để: tịch thu toàn bộ ruộng đất,
nô tì, nô lệ (lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội phong Thứ nhất, tuy Nhà nước vẫn quan tâm phát triển kinh tế
kiến Đại Việt đang nằm trong tay quý tộc và lãnh chúa) tiểu chủ, tiểu thương nhưng khả năng phát triển của loại
sung công để khôi phục thật nhanh kinh tế trung ương hình kinh tế này mới ở mức vừa và nhỏ, phần lớn nông
đã bị cạn kiệt; hoặc đem toàn bộ ruộng đất tịch thu dân chưa thể tức thì trở thành địa chủ. Do đó, cho họ
được của quý tộc, lãnh chúa, địa chủ chia cho nông dân; sở hữu dưới 10 mẫu đất canh tác là phù hợp, nếu cho sở
hoặc đưa ra chính sách hạn điền ở mức thấp hơn 10 mẫu hữu nhiều hơn thì họ lại phải bỏ tiền để mua nô tì, nô lệ,
một hộ dân, là 5 mẫu chẳng hạn. Nhưng với thế và lực hoặc thuê người ăn kẻ ở để làm và rồi họ sẽ quay lại con
của Hồ Quý Ly khi ấy, ông chỉ có thể tiến hành dần dần, đường chiếm hữu lực lượng sản xuất của công.
từng bước. Thứ hai, do tương quan lực lượng giữa Hồ Quý Ly và các
Đối với dân thường và những nhà dân hơi khấm khá, quý tộc triều Trần cấu kết, lãnh chúa phong kiến ngầm
chống đối ông nên Hồ Quý Ly chưa thể hạn nô, hạn điền
được sở hữu 10 mẫu đã là quá tốt. Với vài con trâu, bò
của các đại vương và trưởng công chúa là con em ruột
dùng làm sức kéo, vài ba lao động, việc cày cấy chừng
thịt nhà vua. Tuy nhiên, số này không nhiều.
ấy ruộng cũng khá vất vả. Nhưng với đa số quý tộc, tôn
thất, địa chủ còn có trong tay nô tì, nô lệ, người ăn, kẻ ở Thứ ba, hạn điền liên quan chặt chẽ đến hạn nô. Đối với
cày thuê cuốc mướn, nếu bị hạn điền, hạn nô quá đáng, quan lại, quý tộc, địa chủ, dân thường có trên 10 mẫu,
họ không còn điều kiện làm giàu và sẽ có những phản khi phần quá hạn mức bị sung công thì họ cũng không
ứng mạnh mẽ với chính quyền. cần nhiều nô tì, nô lệ. Một phần nô tì, nô lệ được chuyển

22 23
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

nhượng thành của công hoặc được sung vào làm lính. Hồ Quý Ly cho chép thiên Vô dật13 để dạy quan gia.
Nhà nước trung ương sở hữu thêm nhiều tư liệu sản
Ông khuyên vua quan thực hành tiết kiệm. Tháng 6-1395,
xuất và người lao động trong tay (lực lượng sản xuất của
xã hội), tiềm lực quốc gia được gia tăng. Còn thân phận vua ra lệnh cấm các quan không được dùng áo tay rộng,
những người nô tì, nô lệ cũng được cải thiện ít nhiều và chỉ cho dùng áo tay hẹp. Đồ dùng của quan lại không
được giải phóng một phần. được sơn son thếp vàng.
Thứ tư, ruộng công tăng nhanh, kinh tế trung ương có Từ năm 1404, Hồ Hán Thương cấm người trong nước
thêm sức mạnh để lập kho “thường bình” dự trữ thóc không được dùng lụa Phiếu Kĩ may áo, ra lệnh cho các quan
gạo, bình ổn giá cả và cứu tế cho dân, ngăn ngừa nạn đói; viên không được đi hia, chỉ cho đi giày gai sống. Lệ của đời
đồng thời có thêm sức mạnh xây dựng lực lượng vũ trang trước là quan từ lục phẩm trở lên mới được đi hia.
chống giặc và xây dựng hạ tầng cơ sở.
Công tác cứu tế xã hội cũng được Hồ Hán Thương đặc
Thứ năm, việc đề ra chính sách hạn điền làm cho kinh tế biệt quan tâm. Vào năm 1404, khi lộ Thăng Hoa có một
lãnh chúa dần dần suy yếu. Với 10 mẫu ruộng, các địa số nơi bị đói do bị bão lụt, nghe tin tấu báo của Hoàng
chủ nhỏ phát triển khá nhanh. Do đó, thân phận của Hối Khanh, Hồ Hán Thương đã sai các lộ đồ gạo chín
người nông nô được giải phóng dần, chuyển thành thân đem vào cấp cho các trẻ nhỏ. Lúc thiên tai, mùa màng
phận của người tá điền, được nhận ruộng phát canh thu
sa sút, Hồ Hán Thương cấm nấu rượu để tiết kiệm gạo.
tô của những địa chủ. Sau này, cho đến các triều đại hậu
Lê mới có luật giải phóng nô tì, nô lệ. Tuy chính sách là do Hồ Hán Thương ban ra nhưng phần
lớn đều từ sự chỉ đạo của Hồ Quý Ly.
2.3. Canh tân lĩnh vực văn hoá Tháng 8-1402, Hoàng đế Hồ Hán Thương cho lập Đàn
Dấu son đậm nét thứ ba trong cuộc canh tân đất nước tế Nam Giao tại Đốn Sơn thuộc xã Vĩnh Thành, Vĩnh
của Hồ Quý Ly là văn hoá. Hồ Quý Ly đã cách tân nhiều Lộc. Địa tháp Ðàn Giao gồm có 5 tầng; ngoài ra còn có
mặt như: phương pháp giáo dục; luật lệ tuyển dụng, bổ một số công trình phụ cận phục vụ cho việc tế lễ trời
nhiệm quan lại; thu hẹp khoảng cách giàu nghèo (qua đất, thần linh như là Giếng Vua, Thần Trù, Thần Khố,
việc lập kho thường bình, hạn nô, hạn điền). Sau này, Hồ trai phòng, đường Thần Đạo.
Hán Thương còn cấm những người tôn thất, cung nhân
không được xưng hô quý hiệu và quy định nếu ai vi phạm Đàn tế Nam Giao là đàn tế cổ nhất Việt Nam và có quy
sẽ bị bắt tội.12 mô hoành tráng, miếu đàn lộng lẫy. Các mặt viên đàn

12
Khi quan đi ra ngoài mà xưng hô quý hiệu với dân sẽ bị cho là có ý nạt
13
dân. Một thiên trong kinh thư để khuyên vua, chúa không nên nhàn rỗi.

24 25
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

đều có cửa chính, cửa phụ lên xuống, ra vào rộng rãi. thiếu được trong các kì đại lễ, và được lưu truyền mãi.
Tầng trên đỉnh tháp hình tròn, viên đàn phía dưới hình Nhã nhạc vừa mang tính chất đại chúng, nhưng lại hàm
vuông tượng trưng cho trời đất. Giếng Vua có các bậc chứa tính chất bác học sâu xa. Sau này, Nhã nhạc Cung
thềm được lát bằng đá núi hình vuông, lòng giếng hình đình được các đời vua triều Nguyễn ở Huế rất ưa chuộng
tròn. được bổ sung, phát triển lên tầm cao mới. Năm 2003,
Về mặt hình thức, Đàn tế Nam Giao nhà Hồ vừa có Nhã nhạc Cung đình Huế được UNESCO công nhận là
những nét tương đồng Đàn tế Nam Giao ở Huế, vừa kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại.
có những nét khác biệt, nhất là Đàn Giao của các triều Bộ môn tuồng truyện được du nhập vào nước ta cuối
đại Trung Hoa. Điều đó chứng minh nhà Hồ sớm biết thời Trần. Trong lần đánh quân Toa Đô, quân ta bắt
kế thừa, chọn lọc tinh hoa, đồng thời xây dựng bản sắc được người phường hát tên là Lý Nguyên Cát. Ông này
văn hoá của Đại Việt. Về mặt công năng, Đàn tế được đóng tuồng truyện rất giỏi, thường diễn tích “Tây Vương
lập với nhiều mục đích: một là để tế lễ Càn Khôn xưng mẫu hiến Bàn đào”. Trong diễn tuồng truyện, có cả thảy
đế, tỏ rõ ý thức độc lập, tự cường dân tộc, không làm nô 12 người người ra trò, được gọi là “quan nhân, chu tử,
lệ, chư hầu nước lớn; hai là để thực hiện nghi lễ cầu cho đán nương, câu nô”. Họ đều mặc áo gấm, áo thêu, gảy
quốc thái dân an; ba là để cầu cho mưa nắng thuận hoà, đàn, thổi sáo, vỗ tay, gõ phím đàn và thay đổi nhau ra
mùa màng tươi tốt, bội thu; bốn là để cầu cho dân chúng vào làm trò. Những vở tuồng có thể tác động sâu sắc
không bị bệnh dịch, ốm đau; năm là để đại xá thiên hạ, đến tâm trạng người xem, khiến người xem vui buồn
để trăm họ muôn dân một lòng vì nước. theo nội dung của các tình tiết. Triều đình cho những
Đàn tế Nam Giao nhà Hồ là một di sản văn hoá đặc biệt người ở đợ của các nhà thế gia tập hát các điệu phương
quan trọng vì nó khắc hoạ rõ nét bản chất chính trị - xã Bắc này.
hội triều Hồ. Các triều vua trước chưa từng làm lễ tế Trong số mười hai điệu hò Sông Mã hiện đang lưu truyền
Nam Giao. Lễ tế Nam Giao chính thức được bắt đầu từ ở Thanh Hoá, làn điệu “Dô khoan, dô huầy, dô tá, dô
thời nhà Hồ. ta” có lẽ bắt nguồn từ đại công trường thủ công xây
Xét riêng khía cạnh văn hoá, để phục vụ cho lễ tế Nam dựng Thành Nhà Hồ bên bờ sông Mã tại Vĩnh Lộc. Sở dĩ
Giao, Hồ Hán Thương cho tập Nhã nhạc, lấy con các chúng tôi nhận định như vậy là vì việc xây dựng thành trì,
quan văn làm Kinh vĩ lang; lấy con các quan võ làm Chỉnh cung điện vô cùng khó nhọc, gian khổ và kéo dài, những
đốn lang, cho học các điệu múa văn và võ. Nhã nhạc bắt người tham gia xây dựng rất cần sự động viên về mặt
đầu trở thành nghi thức văn hoá, văn nghệ cung đình và tinh thần bằng lời ca, tiếng hát. Nhịp hò “dô khoan” là
là một trong những hình thức, vui chơi giải trí không thể một dự lệnh để mọi người chuẩn bị, còn nhịp “dô huầy”

26 27
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

được dùng khi mọi người cùng xô đẩy những phiến đá to, 2.4. Về cải cách giáo dục
những cây gỗ lớn. Những câu hò như vậy được lặp đi lặp Hồ Quý Ly coi giáo dục là quốc sách. Mặc dù bận nhiều
lại nhiều lần, dần dần trở thành làn điệu dân ca của một việc nước, ông vẫn tranh thủ thời gian làm sách Minh
vùng miền, tạo nên một trong những điệu hò nổi tiếng đạo14 gồm 14 thiên dâng lên Thượng hoàng, suy tôn Chu
và riêng có của xứ Thanh. Công là tiên thánh, Khổng Tử chỉ là tiên sư. Ở Văn Miếu
Cũng thông qua lễ tế Nam Giao, Hồ Hán Thương cho bấy giờ thờ Chu Công ở chính giữa, ngoảnh về phương
đặt lại thể thức văn hoá tế lễ và phẩm phục của quan lại Nam; thờ Khổng Tử ở bên tả, ngoảnh về phương Tây.
văn võ và dân chúng. Quan nhất phẩm mặc quần áo màu Hồ Quý Ly cho rằng sách Luận ngữ có đến bốn chỗ đáng
tía; quan nhị phẩm mặc màu đại hồng; quan tam phẩm ngờ như Khổng Tử ra mắt nàng Nam Tử15; hay ở nước
mặc màu hồng điều; quan tứ phẩm mặc màu lục; quan Trần, Khổng Tử hết lương16; Công Sơn, Phật Hất17 gọi
ngũ phẩm, lục phẩm, thất phẩm mặc màu biếc; quan bát mà Khổng Tử muốn đến giúp,… Hồ Quý Ly cho Hàn Dũ
phẩm và cửu phẩm mặc màu xanh. Dân thường và nô tì là đạo Nho (tức nhà Nho ăn trộm); cho bọn Chu Mậu
dùng màu trắng. Thúc (tức Chu Đôn Di), Trình Hiệu, Trình Di, Dương
Thì, La Trọng Tố, Lý Diên Niên, Chu Liêm Khê đều là
Ngày tế lễ, Hồ Hán Thương ngồi kiệu Vân Long từ cửa học thì rộng nhưng tài thì ít, không quan thiết đến sự
Nam Tây Đô đi ra, các cung tần, mệnh phụ (vợ các quan tình (Học không đi đôi với hành), chỉ chuyên làm nghề
được phong), triều thần văn võ theo thứ tự đi sau. Mũ, áo lấy cắp văn chương của người xưa. Những quan điểm ấy
của đàn bà chỉ phải kém chồng một bậc. Người nào bản của ông được Thượng hoàng hết lời khen ngợi.
thân là tôn quý thì không phải mang mũ áo kém chồng.
Rất tiếc là sách Minh đạo đã bị thất truyền. Nhưng chắc
Lệ cũ trước đây thường theo bên Tàu, đặt ra hai bậc lễ chắn là nội dung sách Minh đạo không thể là những vấn
nghi. Đến thời Hán Thương, ông cho làm ba bậc lễ nghi đề tầm thường bởi tác giả của cuốn sách là người có một
(đại, trung và tiểu). Cứ ba năm thì tổ chức một đại lễ; vốn kiến thức Nho học uyên bác và tư chất kinh bang
hai năm tổ chức một trung lễ; tiểu lễ được tổ chức hằng tế thế.
năm. Trong đại lễ, nhà vua ngồi xe Thái Bình, phía trước
14
là 40 hình người tiên bằng gỗ mặc áo vóc cầm cờ. Có Đường sáng.
15
Nam Tử là vợ của Vệ Linh Công, nổi tiếng là người nhan sắc và dâm
năm, nhà vua ngự đi thuyền nhỏ ở hồ Chu Tước. Thuyền đãng…
được kéo bởi dây thừng làm bằng gấm. Trong dịp trung 16
Khổng Tử muốn sang Sở, bị bao vây ngoài đồng bị đói.
17
lễ, thiên tử ngồi trên ngai chạm trổ bách cầm. Vào dịp Hai người này, một làm quan tể của họ Quý nước Lỗ, một làm quan
đất Trung Mâu, là gia thần của đại phu Triều Giản, họ đều làm phản,
tiểu lễ, thiên tử chỉ ngồi ngai nhỏ. sai người đến mời, Khổng Tử muốn đến.

28 29
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Mùa xuân năm 1396, Hồ Quý Ly giúp vua xuống chiếu Tháng 5-1397, ông giúp vua ban chiếu chỉ rằng: Đời xưa,
định lại cách thức thi cử nhân, cho dùng thể văn bốn kì; nước có nhà học, Đảng (500 nhà) có nhà Tự (chùa), Toại
ngoài ra còn tổ chức thi tính toán, thi viết chữ và bãi (làng) có nhà Tường là để tỏ rõ giáo hoá, giữ gìn phong
bỏ cách viết ám tả cổ văn. Kì thứ nhất gồm một bài thi tục, ý trẫm rất ngưỡng mộ, nay quy chế ở kinh đô đã đủ
kinh nghĩa, có các đoạn văn phá đề, tiếp ngữ, tiểu giảng, mà ở châu, huyện thì còn thiếu, làm thế nào mở rộng
nguyên đề, đại giảng, kết luận, từ 500 chữ trở lên. Trong giáo hoá cho dân được? Chiếu đã hạ lệnh cho các lộ, phủ
kì thứ hai, các thí sinh thi viết một bài thơ Đường luật, Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông đều đặt một học quan
một bài phú thể cổ, hoặc thể li tao, thể văn tuyển, cũng và cấp ruộng công theo thứ bậc khác nhau. Học quan ở
từ 500 chữ trở lên. Ở kì thứ ba, các thí sinh thi viết một các phủ, châu lớn thì được cấp 15 mẫu; học quan ở phủ,
bài chiếu thể Hán, một bài chế, một bài biểu dùng thể tứ châu vừa thì được cấp 11 mẫu; học quan ở phủ, châu nhỏ
lục đời Đường. Kì thứ tư là thi một bài văn sách từ 1000 thì được 10 mẫu để lo chi phí cho việc dạy và học (một
chữ trở lên, đề thi được lấy từ kinh sử hay thời vụ.18 phần để cúng ngày mồng một, một phần cho cơ sở vật
chất nơi học, một phần cho đèn, dầu, sách vở). Sau này,
Đồng thời, vua cũng quy định lại thể lệ định kì thi cử: nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã bàn: Bấy giờ có chiếu lệnh này,
Cứ ba năm tổ chức thi Hội một lần để tuyển Thái học còn gì tốt bằng nữa.
sinh (năm đầu thi Hương, năm thứ hai thi ở bộ Lễ, năm
Sau khi lên ngôi Hoàng đế, tháng 8-1400 (mùa thu năm
thứ ba thi Hội), ai đỗ thì vua cho thi một bài văn sách Canh Thìn, Hồ Quý Ly cho thi Thái học sinh. Ông cho
để định cao thấp. Từ đây, các khoa thi Thái học sinh dự đỗ 20 người, trong số đó có Lưu Thúc Kiệm, Nguyễn
cũng được tổ chức mở rộng hơn, mục đích là để tuyển Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Hoàng Hiến, Nguyễn
dụng và đào tạo một loạt quan lại mới thực sự có năng Thành. Tử Tấn, Mộng Nguyên, Nguyễn Thành làm quan
lực cai trị để thay số quan lại cũ thường được lựa chọn, ở triều Hồ đến Quốc tử giám tế tửu, Hoàng Hiến làm
bổ nhiệm từ con ông, cháu cha của các tôn thất, trong Quốc tử giám giáo thụ.
đó có nhiều người chỉ là những hạng tài hèn, đức mọn, ở
bất kì một cương vị nào trong xã hội cũng thi nhau bòn Tháng 8-1405, ông tổ chức thi ở bộ Lễ, tuyển dụng, bổ
vét của dân. nhiệm được 170 người như Hồ Ngạn Thần, Lê Củng
Thần, Cồ Xương Triều,… đều là các quan lại có tài cai
Tháng 11-1396, Hồ Quý Ly làm sách Thi nghĩa (Kinh thi) trị, đó là công việc chuẩn bị nhân tài vật lực cho cuộc
bằng quốc âm cùng bài tựa, sai nữ sư dạy hậu phi và cung kháng chiến chống Minh.
nhân học tập. Bài tựa phần nhiều theo ý mình, không Hồ Quý Ly đề cao quốc ngữ là chữ Nôm, đưa Toán học
theo tập truyện của Chu Tử. vào chương trình giảng dạy. Ông không tán thành lối
18
Hiện tình xã hội. học sáo mòn theo kiểu “tầm chương trích cú” và quan

30 31
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

niệm rằng một dân tộc dốt là dân tộc yếu. Khi chính 2.5. Những tiến bộ về y tế
quyền ban hành việc dùng chữ Nôm thay cho chữ Hán,
một số nhà danh Nho đã cho rằng chữ Nôm không đa Nhà Hồ rất quan tâm chăm lo sức khoẻ cho dân. Nhà
nghĩa bằng chữ Hán và chỉ là thứ chữ dùng cho tầng lớp vua cho lập Quảng tế thự cho dân được vào chữa bệnh.
bình dân, chữ của những “bố cu, mẹ hĩm”. Nhưng chính Có thể coi đây sự manh nha lập ra trạm xá, bệnh viện
nhờ quốc ngữ - chữ Nôm19 dễ viết, dễ đọc bằng tiếng của ngành y tế hiện nay.
mẹ đẻ mà sau này rất nhiều văn nhân đã viết nên những
tác phẩm bất hủ bằng chữ Nôm đã xuất hiện như vua Khi ấy, Tây y chưa xuất hiện ở nước ta nên thuốc chủ yếu
Lê Thánh Tông - chủ soái Nhị thập bát tú tao đàn; danh là Nam dược. Thuốc Bắc chắc chắn là chưa du nhập vào
nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi - tác giả tác phẩm nhiều, bởi lẽ các nước láng giềng thuở ấy còn ít giao lưu
Bình Ngô đại cáo và tập thơ “Quốc âm thi tập” với 254 thương mại; chỉ mới có một số thuyền buôn vài nước lân
bài thơ chữ Nôm. Nhiều thế kỉ sau, đại thi hào Nguyễn cận đến các cửa sông, cửa biển nước ta buôn bán. Biên
Du đã dùng chữ Nôm viết tập Truyện Kiều với 3254 câu giới phía Bắc nước ta cũng mới có một vài điểm trao đổi
thơ ý tứ sâu xa tuyệt hảo. Sau này, nhiều nhà thơ Nôm
cũng đã sáng tác những tác phẩm thơ Nôm nổi tiếng sản vật địa phương nhỏ lẻ. Vả lại, sau này, các thày thuốc
như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương; Trịnh Thị phải học chữ Hán, chữ Nôm mới đọc được sách để dùng
Ngọc Trúc (tác giả từ điển Hán Nôm cổ nhất nước ta); thuốc Bắc. Những bài thuốc Nam sơ đẳng chữa ho, chữa
Đoàn Thị Điểm (với bản dịch “Chinh phụ ngâm” bằng cảm, nhức đầu, sổ mũi, đau mắt, đau răng,... đã được phổ
chữ Nôm); Bà Huyện Thanh Quan; vua Tự Đức,... Sự biến rộng rãi trong dân như dùng củ gừng, rau diếp cá,
quan tâm, đề cao quốc ngữ của Hồ Quý Ly từ thế kỉ XIV hương nhu, xương sông, rau má, lá sen, tía tô, hành, tỏi,
đã góp phần không nhỏ cho sự ra đời của những áng văn
hạt gấc,... Về y lí, các gia vị đắng thường có tác dụng cho
thơ tuyệt tác của những thế hệ sau.
tim mạch; vị chua tác dụng trợ gan mật, vị ngọt trợ tì vị;
Sau này, Hán Thương định ra cách thức thi cử nhân, cứ vị cay nóng, có mùi thơm trợ phế. Để chữa bỏng, người
tháng 8 tổ chức thi Hương, ai đỗ thì được miễn lao dịch;
ta thường dùng mỡ trăn, mỡ cá trộn với các loại dầu
tháng 8 năm sau thi ở bộ Lễ, ai đỗ thì được miễn tuyển
bổ làm lính; năm sau nữa lại tổ chức thi Hội, ai đỗ thì thực vật. Để chữa rắn độc cắn, thày thuốc thường dùng
được bổ Thái học sinh; rồi năm sau nữa lại bắt đầu thi lá và hoa cỏ nghể hoặc lá rau dền gai.
Hương như trước. Bấy giờ, các học trò chăm chỉ việc Thời đó có các lang y chuyên chữa bệnh cho dân và cho
học, mong được bổ dùng. Điều này cũng chứng tỏ Hán
binh lính. Hồ Quý Ly cho Nguyễn Đại Năng, một lang
Thương rất quan tâm khuyến học, khuyến tài.
y giỏi, biết dùng châm cứu chữa bệnh làm quan coi sóc
19
Chữ Hán đã được cải tiến cho đơn giản. việc chữa bệnh.

32 33
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

2.6. Về xây dựng cơ sở hạ tầng Tháng 7 năm ấy, Hồ Hán Thương đem đại binh đi đánh
Nhà Hồ sớm quan tâm xây dựng, cải tạo, nâng cấp hệ Chiêm Thành. Vua sai đóng thuyền đinh sắt, gọi là Trung
thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và chiến đấu như tàu tải lương, Cổ Lâu thuyền tải lương, nhưng thực chất là
giao thông, phương tiện vận tải, kênh, cừ20, đê điều, thuỷ đóng thuyền chiến cỡ lớn để phòng giặc phương Bắc. Trên
lợi,... thuyền có đường sàn đi thông từ đầu này sang đầu khác để
tiện cho việc chiến đấu; ở dưới có mái chèo đôi, hai người
Tháng 9-1399, vua cho phá rừng và đồng nội làm đường chèo một mái chèo lớn. Thuyền có tốc độ nhanh, có khả
và quán xá từ cầu Đại Tân đến bến đò Đàm Xá để tiện năng vượt gió tương đối to, sóng tương đối lớn.
cho quân đi lại, nghỉ đỗ.
Khi ấy, về giao thông đường bộ, nước ta chỉ có một số 2.7. Về ban hành các luật, lệ để quản lí, điều
con đường độc đạo theo trục Bắc - Nam, Đông - Tây. hành xã hội
Những đường liên hương, liên xã chưa nhiều, phần lớn Năm 1402, Hồ Hán Thương cho định quan chế và hình
còn là đường đất nhỏ hẹp, lầy lội khó đi nên giao thông luật của nước Đại Ngu, đánh dấu một bước tiến rất lớn
thuỷ và vận tải thuỷ vẫn được coi là ưu việt, rất được quan trong chính sách cai trị thời phong kiến. Ðáng tiếc là các
tâm khai thác. Nhà vua cho thiết lập trật tự giao thông định quan chế và bộ hình luật ấy đã bị thất truyền. Kèm
đường thuỷ bằng việc định Sở tuần kiểm ở sông Đại Lại21; theo các điều ghi trong hình luật của nước Đại Ngu là
sai chăng thừng to ở giữa sông, phàm các thuyền ngược chế tài hình sự rất cụ thể, đảm bảo cho luật, lệ được thi
dòng phải kéo dây theo thứ tự mà đi, không được tranh hành nghiêm minh. Chẳng hạn: Người làm tiền giả sẽ bị
nhau đi trước. Tháng 10-1399, vua lệnh đổi người có tội xử tội chết; người ra trận mà sợ giặc cũng bị xử tội chết
lưu làm dân binh đi đào cừ, đào các kênh Vi, kênh Trầm, và bị tịch thu gia sản để sung công, vợ con thì bị bắt làm
kênh Hào cho đến cửa biển Hà Hoa để thuyền bè đi lại nô tì, nô lệ.
được thuận tiện. Tính dân chủ đã được hình thành. Quan lại khi ra đường
Tháng 3-1402 (năm Nhâm Ngọ), Hồ Hán Thương sai sửa nếu xưng hô quý hiệu sẽ bị quy là có ý nạt dân và bị xử
chữa đường sá từ thành Tây Đô đến Châu Hoá, dọc đường tội. Bộ quan chế và hình luật có lẽ cũng ghi rõ trách
đặt phố xá và trạm chạy giấy22, gọi là đường Thiên Lí. nhiệm, quyền hạn kèm theo quyền lợi giao cho quan lại
từ trên xuống dưới, ở mỗi địa phương rất cụ thể, đầy đủ
20
Dãy gồm những tấm gỗ hoặc những thân tre ghép kín, ngăn không và chặt chẽ. Đây là một việc cách tân mà cha con Hồ
cho nước thấm qua hoặc để giữ cho đất đá khỏi sụt lở trôi đi. Quý Ly quan tâm đặc biệt và dùng nhiều biện pháp để
21
Sông Lèn, Thanh Hoá. thực hiện bằng được.
22
Giống như bưu thư.

34 35
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Hán Thương sai các lộ biên những người không có ruộng thất hay dân thường. Ông thường xuyên cho điểm duyệt
làm đội cùng nhân23, chắc là để thu xếp việc làm cho họ binh, bổ sung quân ngũ, quân khí, quân trang, quân dụng.
hoặc là có chính sách cứu trợ xã hội. Ông có niềm tin tiếp tục đổi mới, canh tân triều đình
Ông cha xưaó câu: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Trần mạt. Hoài bão, ước mơ trong ông cũng lớn dần lên
Quả vậy, phẩm chất, năng lực của đa số quan lại xưa kia theo từng năm tháng.
hay cán bộ ngày nay, tốt hay xấu, cao hay thấp sẽ quyết
định sự tồn vong, phát triển của xã hội. Hồ Quý Ly sớm
nhận thấy tài năng, phẩm chất đa số quan lại, tôn thất 3
Cải tổ nội các và bộ máy cai trị
triều Trần vào cuối thế kỉ XIV đã mắc các bệnh nan y Sử cũ chép rằng: Tháng 5-1371 (năm Tân Hợi), năm thứ
khó chữa, khiến cho triều đại nhà Trần hiển hách xưa hai triều vua Nghệ Tông, vua cho họ ngoại là Lê Quý Ly
kia bắt đầu suy yếu, hào khí Đông A có nguy cơ sụp làm Khu mật viện đại sứ. Khi ấy, vua mới lên ngôi nên rất
đổ hoàn toàn. Với tư cách là một tôn thất ngoại thích, quan tâm và tín nhiệm Quý Ly, lại đem gả em gái mới goá
là con rể vua, Hồ Quý Ly hẳn rất quan ngại. Từ khi bắt chồng là công chúa Huy Ninh cho.
đầu tham chính, ông đã sớm vào cuộc, được vua Nghệ
Tông tin dùng, cất nhắc liên tục. Vua coi ông coi là cánh Tháng 8, vua sai Lê Quý Ly đến Nghệ An để chiêu tập
tay đắc lực nên đã giao cho ông nhiều trọng trách của nhân dân, vỗ yên cõi ngoài biên. Vua xuống chiếu rằng:
triều đình. Xây dựng cung thất cần làm mộc mạc, chỉ lấy các tản
quan tôn thất phục dịch, không nhiễu đến dân, thực hành
Khách quan mà nói, bất kì bậc có tài kinh bang tế thế
tiết kiệm khi quốc khố triều đình cạn kiệt, khó khăn.
nào khi mới tham gia chính sự đều có những hoài bão
làm được việc có ích cho dân, cho nước. Hồ Quý Ly cũng Tháng 9, vua gia phong cho Lê Quý Ly làm Trung Tuyên
vậy. Sống trong lễ giáo phong kiến xưa kia với phong tục quốc thượng hầu. Tháng 10, vua lấy Tu sử Phan Nghĩa
cha truyền con nối, trong ông khó xuất hiện ngay tư làm Lang trung bộ Lễ, định ra thông chế của quốc triều
tưởng đoạt bá đồ vương. Đường đời rộng mở cùng với và lễ nghi, truyền cho các người có tước mệnh khai báo
trách nhiệm bổn phận là con, cháu đã dần đưa ông vào để định làm sổ hộ.
cuộc. Ban đầu, ông chỉ mới giúp vua và Thượng hoàng
Tháng giêng năm 1372 (năm Nhâm Tí), vua cho khảo lại
chỉnh đốn quân ngũ để kịp thời đối phó với hoạ xâm
công trạng của các quan văn võ để xem công lao đóng
lăng thường trực xảy ra. Khi được giữ chức Tham mưu
góp của các quan lại, làm căn cứ sắp xếp, bố trí, đề bạt,
quân sự, ông đã giúp vua chọn các tướng quân, quan lại
tin dùng. Tháng 4, vua lấy Đỗ Tử Bình làm Hành khiển
có tài thao lược chỉ huy quân đội không cứ là người tôn
tham mưu quân sự. Tháng 5, vua lấy Nguyễn Nhiên kiêm
23
Người thất nghiệp. chức Chánh chưởng Khu mật viện, lấy Hồ Tôn Xác làm

36 37
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Hàn lâm viện học sĩ, lấy Hồ Long làm Tri châu Hoá Nhà vua cũng rất chú trọng tuyển dụng nhân tài. Tháng
Châu. Tháng 7, vua cho quan phủ Lâm Bình làm Phạm A 2-1374 (năm Giáp Dần), nhà vua tổ chức thi Ðình. Năm
Song tước Minh tự. Tháng 8, vua xuống chiếu cho các lộ ấy, Đào Sư Tích đỗ trạng nguyên, Lê Hiến Phủ đỗ Bảng
làm đơn số24. nhãn, Trần Đình Thâm đỗ Thám hoa, La Tu Giáp và một
vài người nữa đỗ Hoàng giáp cập đệ và đồng Hoàng giáp
Ngày 9-11-1372, vua Nghệ Tông nhường ngôi cho Hoàng cập đệ. Những người đỗ đạt đều được vua mời ăn yến và
Thái tử Kính, con thứ 11 của người em là Minh Tông và mặc áo xấp, cho làm quan theo thứ bậc khác nhau. Ba
làm Thái Thượng hoàng. người đỗ đầu được dẫn đi chơi phố ba ngày.
Duệ Tông hoàng đế là con của Đôn Từ Hoàng thái phi; Tháng giêng năm 1375 (năm Ất Mão), nhà vua phong
sinh ngày mùng 2-6-1337 (năm Đinh Sửu, Khai Hựu Khu mật đại sứ Lê Quý Ly làm tham mưu quân sự. Vua
thứ 9). Khi vua Nghệ Tông tránh loạn Nhật Lễ vào Đại xuống chiếu chọn trong số các quan viên, người nào có
Lại, phủ Thanh Hoá (1370), quân lính và khí giới đều tài năng, có luyện tập nghề võ, thông hiểu thao lược, thì
do Hoàng thái tử Kính phụ trách, nên Nghệ Tông ngôi không cứ là tôn thất, đều cho làm tướng coi quân. Từ đó,
nhường cho. Duệ Tông ở ngôi bốn năm, thọ 41 tuổi. Vua Hồ Quý Ly trở thành cánh tay đắc lực của vua về mặt
là người ương bướng, tự theo ý mình, không nghe lời can, quân sự. Tiếc thay, vua Duệ Tông sớm qua đời, để lại sự
coi thường quân giặc. Tháng 12-1376 (năm Bính Thìn), nghiệp cai trị đất nước cho một người con không có đức
vua thân chinh đem 12 vạn quân từ kinh sư kéo đi đánh hạnh, tài năng. Sử cũ ghi lại rằng: Phế Đế là một ông vua
Chiêm Thành. Do không nghe lời khuyên can của đại ngu hèn, ăn chơi sa đoạ, hoang dâm phóng túng, khiến
tướng Đỗ Lễ, vua bị mắc kế gian của giặc, bị hãm trong cho xã tắc suy yếu, giặc ngoại xâm thừa cơ lăm le xâm
trận mà băng. Cho là vua vì nạn nước mà chết, ngày 13- phạm bờ cõi. Chỉ trong 12 năm vua Phế Đế25 ở ngôi,
5-1377, Thượng hoàng Nghệ Tôn cho lập con trưởng quân Chiêm đã vào đánh phá bờ cõi Đại Việt sáu lần.
của vua là Kiến Đức đại vương Trần Nghiễn nối nghiệp, Nhận thấy nhà Trần đã quá suy tàn, Trần Nghiễn không
lên ngôi hoàng đế. phải là bậc thánh quân, ước mơ được giữ chức trọng,
Tuy làm vua trong thời gian ngắn nhưng vua Duệ Tông quyền cao trong Hồ Quý Ly bắt đầu nhen nhóm. Trước
đã tạo được những mốc son rực rỡ. Tháng 2-1373 (năm sự ghen tị của một số quan viên tôn thất, Hồ Quý Ly bắt
Quý Sửu), khi mới lên ngôi, vua đã cho định sổ các quan đầu ngầm tìm phương cách hạ gục đối phương trước khi
văn võ. Tháng 8, nhà vua cho bổ sung quân ngũ, sửa và họ đánh gục ông, nhất là một số quan lại, tôn thất cựu
đóng mới chiến thuyền, chuẩn bị cho việc đánh Chiêm trào, bảo thủ.
Thành. Tháng 12, vua xuống chiếu thân đi đánh Chiêm. 25
Trần Phế Đế là con thứ của vua Trần Duệ Tông, có tên huý là Hiện
(hay Nghiễn), mẹ là bà Gia Từ hoàng hậu Lê thị. Ông sinh ngày 6-3
năm Đại Trị thứ 4 đời Trần Dụ Tông, tức năm Tân Sửu (1361). Ông
24
Sổ hộ. ở ngôi từ năm 1377 đến 1388.

38 39
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Đương thời, Hồ Quý Ly là một tướng quân mẫn cán, rất Ngu26 đóng cọc để cầm cự với quân Chiêm. Tháng 5,
được Thượng hoàng Nghệ Tông sủng ái, được giao trọng Quý Ly đem tướng coi quân Thần vũ là Nguyễn Kim
trách giúp việc quân cơ, củng cố quốc phòng. Đó là điều Ngao và tướng coi quân Thị vệ là Đỗ Dã Kha ra đánh.
kiện rất tốt cho ông tự cắm vây chắp cánh cho mình. Kim Ngao quay thuyền trở lại để tránh giặc, Quý Ly hạ
Năm 1378 (năm Mậu Ngọ, năm thứ hai Trần Nghiễn ở lệnh chém Kim Ngao để bêu trong quân. Quân ta đánh
ngôi vua), Hồ Quý Ly giúp vua bố trí, sắp xếp một số vị trống, khua chiêng, reo hò tiến đánh quân Chiêm. Vua
trí quan viên quân sự. Vua sai Trần Tông Ngoạn, trước Chiêm là Chế Bồng Nga thua trận, phải trốn về. Đỗ Tử
là vệ sĩ, quản quân Thiên đình; Trần Trung Hiếu coi quân Bình cáo bệnh thôi giữ binh quyền. Tháng 11, Đỗ Tử
Bảo tiệp; Trần Thế Đăng coi quân Thần dực; Bùi Bá Bình được vua phong làm Nhập nội hành khiển Tả Tham
Ngang coi quân Thần sách; Bùi Hấp coi quân Thiên uy; tri chính sự lãnh chức Kinh lược sứ ở Lạng Giang, được
Hoàng Phụng Thế coi quân Thánh dực; Lê Mật Ôn coi vài năm thì mất; còn Quý Ly chuyên lãnh chức Nguyên
quân Hoa ngạch; Đỗ Dã Kha coi quân Thị vệ; Nguyễn nhung hành hải Tây Đô thống chế.
Tiểu Luật coi quân Thiên trường; Trần Na coi quân Long Chỉ sau 10 năm tham chính, Quý Ly đã là gương mặt nổi
Tiệp; Nguyễn Kim Ngao coi quân Thần vũ. trội trong đám quan nhân quân sự.
Tháng 2-1379 (năm Kỉ Mùi, năm thứ ba Trần Nghiễn Tháng 2-1382 (năm Nhâm Tuất, năm thứ sáu Trần
ở ngôi vua), Hồ Quý Ly được làm Tiểu tư không, kiêm Nghiễn ở ngôi vua), giặc Chiêm vào cướp Thanh Hoá.
Hành khu mật đại sứ như cũ. Quý Ly tiến cử Nguyễn Đa Quý Ly đem quân chống giữ, đóng đồn ở núi Long Đại27,
Phương là con của Sư Tề làm tướng quân. Quý Ly khi cho Thần khôi tướng quân là Nguyễn Đa Phương giữ
cọc ở cửa biển Thần Đầu. Quân Chiêm thuỷ bộ phối
còn ít tuổi theo học võ nghệ với Sư Tề, nhân đó nhận
hợp tiến quân, bộ binh của chúng lấy đá trên núi ném
Đa Phương làm em. Đa Phương từng bị Chiêm Thành bắt xuống, thuyền của quân ta bị hư hỏng nhiều. Đa Phương
được và đã lập mẹo trốn về. Quý Ly tiến cử Phạm Cự không đợi lệnh của Quý Ly, cho quân nhổ cọc ra đánh,
Luận đang là Chủ thư Thị ngự sử giỏi về mưu lược làm một chặp thắng ngay. Quân ta thừa thắng tiến đánh,
Quyền Đô sự. quân Chiêm thua to, chạy tán loạn vào rừng núi. Quân
Năm thứ tư Trần Nghiễn ở ngôi vua (năm Canh Thân), ta vây núi ba ngày, quân giặc chết đói rất nhiều. Quân
Chiêm Thành dỗ bảo người Tân Bình, Thuận Hoá đi ta đốt hết thuyền ghe của giặc, bọn giặc còn lại chạy tan
cướp Nghệ An, Diễn Châu, lấy của, bắt người. Tháng 3 tác. Tháng 3, quân ta đuổi giặc đến Nghệ An rồi về. Đa
Phương được thăng làm Kim ngô vệ Đại tướng quân.
năm ấy, quân cướp hoành hành các nơi ở Thanh Hoá.
Thượng hoàng sai Lê Quý Ly đem thuỷ quân, Đỗ Tử 26
Sông Lạch Trường là phân giang của sông Mã hiện nay.
Bình đem bộ quân chống giữ. Quân triều đình đến sông 27
Núi Hàm Rồng, nay thuộc Đông Sơn, Thanh Hoá.

40 41
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Mùa xuân năm 1383 (năm Quý Hợi, năm thứ bảy), Quý Những tôn thất nhà Trần như Tư đồ Chương Túc quốc
Ly đi đánh Chiêm Thành. Bấy giờ, vua cho đóng các thượng hầu Nguyên Đán, Thái uý Trang Định Vương
chiến thuyền lớn, hiệu là Diễm Dã, Ngọc Đột, Nha Tiệp. Ngạc đã lo lắng, ái ngại vai trò đang lên rất mạnh của
Thuyền đi đến vùng Lại Bộ, Vương Loan và Ô Tôn28 gặp Quý Ly. Trước khi hưu quan về Côn Sơn nghỉ, Nguyên
phải bão to, bị hư hỏng nên phải quay về. Đán làm thơ gửi bạn có thở than rằng:
Tháng 6, vua Chiêm là Chế Bồng Nga cùng với đại tướng “Kim cổ hưng vong chân khả giám,
La Ngai đem quân sang đánh nước ta, quân bộ đi theo Chư công hà nhẫn gián thư kì.”
đường núi ra trấn Quảng Oai, dò đường đến đóng ở sách
Khổng Mục. Kinh sư kinh động. Thượng hoàng sai tướng (Còn - mất xưa nay xem đã rõ,
coi quân Hoa ngạch là Lê Mật Ôn đem quân chống giữ. Các ông sao nỡ ít thư can.)
Mật Ôn đem quân đến bãi Tam Kì (Quảng Oai), định bày Nguyên Đán còn ngại Quý Ly đến mức phải lập mưu cho
trận thế chống đánh nhưng giặc đã mai phục sẵn. Chúng con giao kết hôn nhân để tránh tai vạ về sau. Ông đem
cho quân và voi nổi dậy đánh ngay, quan quân ta thua con là Mộng Dữ kí thác cho Quý Ly. Quý Ly đem công
chạy, Mật Ôn bị bắt. chuá Hoàng Trung (là con riêng của vợ - con gái tôn thất
Nguyễn Đa Phương đốc quân dựng rào trại ở kinh thành, Nhân Vinh) gả cho Mộng Dữ. Đây cũng là chiến lược
ngày đêm lo giữ. Thượng Hoàng lánh sang Đông Ngàn thêm bạn bớt thù của người ở trên thế mạnh.
để tránh giặc. Khi ấy, có người học trò là Nguyễn Mộng Trang Định Vương Ngạc cũng có thơ giãi bày tâm sự:
Hoa mặc cả áo mũ lội xuống nước kéo thuyền ngự lại,
xin vua ở lại đánh giặc. Thượng hoàng không nghe. Tháng “Ngã thị đương niên khí vật,
12, thời tiết giá lạnh, quân Chiêm rút quân về. Công phi đại hạ kì tài.
Có thể thấy rằng vua Nghệ Tông là người hiền lành, vô Hội thủ nhất ban lão bệnh,
dũng, giặc vào chưa đánh đã lui. Lúc này, triều Trần quá Điền viên tảo biện quy lai.”
suy, xã tắc lung lay, vai trò của người đứng đầu đã yếu, (Tôi nay vào hạng vứt đi rồi,
vai trò của người đứng cạnh sẽ nổi dần lên. Theo quy luật
Ông chống nhà to chẳng có tài.
vận hành xã hội, nước có vua hèn, quan thường lấn lướt.
Lúc đó, tuy chưa được quan hàm tể tướng, nhưng Quý Cùng một phường già suy yếu cả,
Ly đã giữ bính quyền quan trọng và được Thượng hoàng Điền viên sớm liệu thoái về thôi.)
ngày càng vì nể. Tháng 2-1387 (năm Đinh Mão, năm thứ 11), Thượng
hoàng từ cung Bảo Hoà (Bắc Ninh) trở về Thăng Long.
28
Kì Anh, Hà Tĩnh; Quảng Trạch, Quảng Bình.

42 43
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Tháng 3, Thượng hoàng phong Quý Ly làm Đồng bình về ở núi Đại Lại29 để đợi biến động. Phạm Cự Luận nói
chương sự (Tể tướng), cho một thanh gươm và một lá cờ không nên đi, khi đã ra ngoài rồi thì không mưu sinh tồn
đề chữ “Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức”. Quý Ly được nữa. Quý Ly nói: “Nếu không có phương sách gì
làm thơ quốc âm để tạ. thì ta nên tự tử, không để tay người khác giết”. Cự Luận
Vào thời gian này, nhà Minh cậy mạnh luôn nhiễu sự nước nói: “Thượng hoàng vẫn oán vua vì giết Quan phục đại
ta và cũng bắt đầu lăm le nhòm ngó. Tháng 3-1385, nhà vương, vua vẫn không hài lòng. Nay quyền bính trong
Minh sai sứ sang xin 20 tăng nhân. Năm 1386, nhà Minh nước đều ở ông cả, mà vua lại có âm mưu thì Thượng
sai Lâm Bột sang xin các giống cây quý như vải, mít, nhãn, hoàng lại càng ngờ lắm. Ông liệu vào lạy Thượng hoàng,
cau… Cùng năm đó, vua Minh lại sai Lý Anh cùng bọn bày tỏ lợi hại, tất Thượng hoàng nghe theo, thì chuyển
cẩm y vệ xá, nhân sang nói mượn đường đi đánh Chiêm hoạ thành phúc như trở bàn tay. Thượng hoàng có nhiều
Thành, đòi ta đưa năm chục thớt voi đến Vân Nam cho con chính đích, ông cứ nói rằng có nghe câu ngạn ngữ:
chúng. Ta cho chúng đủ số cây nhưng trên đường đi, cây “Chưa thấy ai bán con để nuôi cháu, chỉ thấy bán cháu
héo mà chết cả, còn voi, ta chỉ giúp vài con. để nuôi con”, có thể khiến Thượng hoàng tỉnh ngộ đổi
lập Chiêu Định Vương30. Nếu Thượng hoàng không nghe,
Tháng 5-1388 (năm Mậu Thìn, năm thứ 12; từ tháng 12 khi ấy tự tử cũng chưa muộn gì”. Quý Ly nghe theo, mật
bắt đầu là vua Thuận Tôn Quang Thái thứ nhất), vua lấy tâu với Thượng hoàng như lời Cự Luận. Thượng hoàng
Trần Đỗ làm Cung lệnh. Đỗ là con của Thượng vị hầu cho là phải.
Trần Tung, mẹ lấy Quý Ly, sau đổi họ Trần thành Hồ.
Tháng 10, có nguyệt thực che lấp hết mặt trời.
Tháng 6, vua cho Lê Quý Tì (em của Quý Ly) làm Phán
thủ tri tả hữu ban sự; cho nội nhân là Nguyễn Vị làm Tri Sáng sớm ngày mùng 6-12, Thượng hoàng giả cách về
điện nội, Trần Ninh làm tri Khu mật viện sự; cho Nhập Yên Sinh, sai Điện hậu đi theo hầu; rồi sai Chi hậu nội
nội hành khiển tả ti Vương Nhữ Chu nghỉ quan, lấy Lê nhân gọi vua đến bàn việc nước. Vua còn chưa ăn sáng,
Dữ Nghị thay. vội đi ngay, chỉ đem hai người theo hầu. Khi vua đến nơi,
Thượng hoàng nói: “Đại vương lại đây!”, rồi sai người
Tháng 8, có sao chổi mọc ở hướng Tây. Vua cùng với đem vua ra giam ở chùa Tư Phúc, tuyên nội chiếu rằng:
Thái uý Ngạc bàn mưu rằng: “Thượng hoàng yêu quý “Trước kia Duệ Tông đi tuần phương Nam không trở
người họ ngoại Quý Ly, cho tự ý làm gì thì làm. Nếu về, dùng con đích để nối ngôi, là theo đạo đời xưa. Song,
không tính trước đi thì sau khó lòng kiềm chế được”.
29
Con Vương Nhữ Chu là Nhữ Mai hầu vua học, tiết lộ Sau đổi thành Kim Âu, nay thuộc xã Hà Đông, huyện Hà Trung,
Thanh Hoá.
mưu ấy, Quý Ly biết được. Đa Phương khuyên Quý Ly 30
Tức Thuận Tôn.

44 45
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

quan gia từ khi lên ngôi đến giờ, vẫn còn trẻ con lắm, Bảo nghĩa sinh tiền ưng bất ngỗ;
giữ đức không thường, thân mật với bọn tiểu nhân, nghe Bộc thi nguyên thượng cánh hà tàm.
bọn Lê Á Phu, Lê Dữ Nghị gièm pha vu hãm người công (Sống thừa tuổi đã bốn mươi ba,
thần, làm dao động xã tắc, nên giáng xuống làm Linh Đức Bị chết vì trung cũng đáng mà!
đại vương. Song nhà nước không thể không có người Lúc sống không hề làm trái nghĩa;
đứng chủ, ngôi báu không thể bỏ không, nên Chiêu Định Phơi thây đồng nội xấu gì a?)
Vương được đón vào nối đại thống. Bá cáo trong ngoài
Duy Dữ Nghị bị xử lưu đi trại đầu; sau được đặc ân xét là
để mọi người đều biết”. Thế rồi Thượng hoàng giáng
không có tội, lại được bổ làm Tuyên phủ sứ lộ Bắc Giang;
con của Nghiễn làm Thuận Đức vương. Các tướng của đến năm Kiến Tân thứ hai (Niên hiệu của Trần Thiếu
quân cựu phủ như Đốc thiết liêm quân là Nguyễn Khoái, Đế), lại vì việc đảng phái mà bị giết. Dữ Nghị là con nhà
Nguyễn Vân Nhi, quản Thiết giáp quân là Nguyễn Kha, bác của Lê Á Phu. Bát Sách đi trốn, tới lúc mẹ ông bị bắt
Lê Lặc, quản Thiết sang quân là Nguyễn Bát Sách muốn giam thì mới ra chịu tội.
đem quân vào cướp vua ra. Vua viết hai chữ “giải giáp”
Sang đời Thuận Tôn Hoàng đế, Hồ Quý Ly tiếp tục cải
và răn bảo không được trái ý Thượng hoàng nên họ tổ nội các.
bèn thôi. Được một lát, quân đem vua xuống phủ Thái
Dương, ép vua thắt cổ chết. Thuận Tôn Hoàng đế, huý là Ngung, là con út của Nghệ
Tôn. Vua ở ngôi 9 năm, xuất gia hơn 1 năm thì bị Quý Ly
Trước kia, theo lệ cũ của sảnh đài, quan ở chức từ Bình giết, thọ 22 tuổi. Vua chỉ ngồi giữ ngôi cho có vì, chính
chương trở lên sẽ được ngồi ghế tựa sơn then. Bấy giờ, sự do quyền thần làm.
Trang Đinh đại vương Ngạc làm Thái uý, Lê Quý Ly làm
đồng Bình chương sự. Tri Thẩm hình viện sự là Lê Á Phu Tháng giêng năm 1389 (năm Kỉ Tị, năm thứ 2), Thánh
Ngẫu - con gái của Quý Ly được làm hoàng hậu. Khi đó,
đã bảo Ngạc bỏ ghế của Quý Ly đi, không cho ngồi cùng,
vua mới 13 tuổi, có thể Thánh Ngẫu cũng chừng tuổi ấy,
lại mật tâu với vua giết Quý Ly. Mưu cơ tiết lộ, đến nỗi
vì Hồ Quý Ly được Nghệ Tôn gả em gái là Huy Ninh
bị thất bại, bọn Á Phu, Nguyễn Khoái, Vân Nhi, Nguyễn công chúa năm 1371.
Kha, Bát Sách, Lê Lặc và người học sinh thân cận là Lưu
Thường đều bị giết cả. Tháng 3, Đỗ Tử Trừng được phong làm Ngự sử đại phu.
Tháng 4, Phạm Cự Luận được cử làm Thiêm thự Khu
Lưu Thường trước khi bị hành hình có làm bài thơ rằng: mật viện sự. Quý Ly hỏi người nào có thể làm Thuộc
Tàn niên tứ thập hưụ dư tam, viên ở Khu mật viện được, Cự Luận tiến cử em là Phạm
Trung ái phùng tru tử chính cam! Phiếm cùng Vương Khả Tuân, Dương Chương, Hàn Tử

46 47
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Tây, Nguyễn Sùng, Nguyễn Thư, Nguyễn Cảnh Chân, thì giặc tất thừa cơ đuổi theo sau”. Đa Phương bèn hạ lệnh
Đỗ Tử Mãn, đều là người có danh tiếng, đức vọng có thể cho quân giăng nhiều cờ xí, buộc thuyền lớn vào cọc, sai
dùng được, mà Đỗ Tử Mãn là hơn cả. Tháng 5, Vương người canh giữ, rồi lấy thuyền nhẹ trốn đi trong đêm.
Khả Tuân được cử coi quân Thần Dực ở Ý Yên, Dương
Nguyễn Đa Phương từ sông Ngu32 trở về, tự cho mình
Chương coi quân Thần Dũng.
là có công cao, có ý lên mặt, nhiều khi chê Quý Ly là
Tháng 8, người ở Thanh Hoá tên là Nguyễn Thanh tự bất tài. Quý Ly tâu với Thượng hoàng là vì nghe kế Đa
xưng là Linh Đức vương tránh nạn ở sông Lương (sông Phương mà đến nỗi thua. Thượng hoàng bèn thu lại quân
Chu), nhân dân đều hưởng ứng. Tháng 9, người Nông quyền của Đa Phương. Đa Phương vẫn còn có vẻ kiêu
Cống (Thanh Hoá) là Nguyễn Kỵ tụ họp bè đảng đi căng. Thượng hoàng nói: “Nên trị tội nhẹ để răn”. Quý
cướp, tự xưng là Lỗ vương Điền Kỵ. Ly nói: “Đa Phương là người mạnh khoẻ, thần e rằng nó
Tháng 10, quân Chiêm Thành đến cướp Thanh Hoá, hoặc trốn sang nước Minh phương Bắc, hoặc trốn sang
đánh vào hương Cổ Vô, Thượng hoàng sai Quý Ly đem Chiêm Thành phương Nam, như thả cọp ra để lo về sau,
quân chống giữ. Giặc đắp ngăn dòng ở thượng lưu, quan chi bằng giết đi”. Thượng hoàng bèn bắt Đa Phương tự
quân đóng nhiều cọc để đối địch. Ngày 20, giặc mai phục tử. Đa Phương than rằng: “Ta vì tài mà được quý, cũng vì
quân và voi, giả bỏ trại mà về. Quý Ly chọn quân cảm tử, tài mà đến chết, chỉ tức là không được chết ở nơi chiến
tinh khoẻ đuổi theo để đánh. Quân thuỷ của ta nhổ cọc trận mà thôi”.
ra đánh; giặc liền phá đập chắn nước, cho voi xông ra. Tháng 11, Thượng hoàng sai Trần Khát Chân làm tướng
Bấy giờ, những quân khoẻ mạnh đã đi xa rồi, thuỷ quân
đem quân Long tiệp đi đánh giặc. Khát Chân vâng mệnh,
của ta không thể ngược dòng tiến được nên đã bị thua.
khảng khái rỏ nước mắt lạy tạ ra đi. Thượng hoàng cũng
Tướng coi quân Hữu Thánh Dực là Nguyễn Chí31 bị giặc
khóc lúc tiễn đưa. Quân đi từ sông Lô đến sông Hoàng
bắt; còn 70 quân tướng khác đều bị chết. Quý Ly để tì
thì gặp giặc. Khát Chân xem chỗ ấy không có thế đánh
tướng là Phạm Khả Vĩnh ở lại cầm cự với giặc rồi chạy về
kinh sư để xin chi viện thuyền chiến Châu Kiều nhưng được, mới lui về giữ sông Hải Triều.
Thượng hoàng không cho. Vì thế, Quý Ly xin giải quyền Ngày 23 tháng giêng năm 1390 (năm Canh Ngọ, năm thứ 3),
cầm quân. Đô tướng Trần Khát Chân đại thắng quân Chiêm Thành ở
Khi ấy, Đa Phương tạm quyền coi quân Thánh dực. Một Hải Triều, giết được vua Chiêm là Chế Bồng Nga.
đêm, Đa Phương bàn với Khả Vĩnh: “Thế giặc như thế,
bọn ta thế cô, khó lòng cấm cự được lâu; nếu rút quân về
32
Sông Lạch Trường là một phân giang của sông Mã, phía thượng lưu
31
Có sách chép là Trần Đình Quý. cầu Hàm Rồng khoảng 3km, chảy qua cầu Tào Xuyên ngày nay.

48 49
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Tháng 2, vua ngự đến Long Hưng, Kiến Xương, Yên Sinh dân không thể có hai vua”. Chu Bỉnh Khuê nói: “Dương
làm lễ bái yết các lăng. Vua lấy Trần Khát Chân làm Long Liễu nói nhiều”. Mọi người im miệng. Bấy giờ, Đặng Tất
tiệp bổng thần nội vệ thượng tướng quân, phong tước Vũ và Hoàng Hối Khanh ngầm gửi thư báo cho Quý Ly biết.
tiết quan nội hầu, Phạm Khả Vĩnh làm Xa kị vệ thượng Quý Ly cho là mưu ngầm làm loạn, Bỉnh Khuê, Phan
tướng quân, phong tước quan Phục hầu; Phạm Lặc và Mãnh đều bị giết cả. Đặng Tất được phong làm Hữu châu
Dương Ngang thưởng tước 5 tư, thăng Lặc làm Giám phán, Hoàng hối Khanh được phong làm Chính hình viện
quân vệ đô, cho Ngang 30 mẫu ruộng, còn các người đại phu. Ngự sử đại phu Đỗ Tử Trừng không nói gì34,
khác được phong chức tước theo các thứ bậc khác nhau. Quý Ly làm thơ gửi cho rằng:
Tháng 12, Phạm Thán được lấy làm Tri phủ phủ Nghệ An. Tá vấn Tử Trừng noạ trung uý,
Thư sinh hà nhẫn phụ bình sinh.
Tháng 2-1391 (năm Tân Mùi, năm thứ 4), Quý Ly đem
(Hãy hỏi Tử Trừng trung uý nhác,
quân đi tuần ở Châu Hoá, xét định quân ngũ, sửa xây
Học hành sao nỡ phụ bình sinh).
thành trì. Tháng 3, Quý Ly sai tướng coi quân Tả Thánh
dực là Hoàng Phụng Thế đem quân đi dò xét ở đất Chiêm Tháng 12, La Tu được lấy làm Tri phủ Thanh Hoá.
Thành. Người Chiêm đặt quân mai phục, quân của Phụng Tháng 2-1392 (năm Nhâm Thân, năm thứ 5), Thượng
Thế tan vỡ, Phụng Thế bị giặc bắt. Quý Ly đem chém 30 hoàng cho giết người tôn thất là Trần Nhật Chương vì
người đại đội phó trong thuộc hạ của Phụng Thế. Phụng cho rằng Nhật Chương có lòng khác, mưu giết Quý Ly.
Thế lập mưu trốn về, được phục chức như cũ.
Tháng 6, Thượng hoàng lấy Phạm Cự Luận làm Tri khu
Tháng 4, Quý Ly đem quân về. Tháng 5, Thiếu uý Trang mật viện sự. Tháng 7, Thượng hoàng đổi tên Lê Nhân
Định đại vương Ngạc trốn ra trang Nam Định, người Thống thành Lê Cảnh Kì, cho làm Hành khiển. Tháng 9,
trang ấy lấy thuyền đưa ra trại Vạn Ninh33, người trại ấy Hà Đức Lân được lấy làm Hành khiển tả ti.
là Dương Đạc không nhận. Thượng hoàng sai tướng coi
quân Ninh Vệ là Nguyễn Nhân Liệt đuổi theo bắt về. Tháng giêng năm 1393 (năm Quý Dậu, năm thứ 6),
Quý Ly ngầm bảo giết đi. Ngạc và Quý Ly có hiềm khích Thượng hoàng lấy Hồ Cương làm Giám quân Tả Thánh
với nhau, nhiều lần bị Quý Ly gièm, thành ra nghi hoặc dực. Tháng 2, Thượng hoàng tổ chức thi Thái học sinh,
sợ hãi, nên đến nỗi thế. cho 30 người đỗ; trong đó có Hoàng Quán Chi, Lê vị
Tẩu, Mai Tú Phu, Đồng Thúc,… Tháng 4, Thượng hoàng
Tháng 8, các tướng ở Châu Hoá họp nhau bàn về thời lại cho tổ chức thi Lại viên.
thế. Phan Mãnh nói: “Trời không thể có hai mặt trời,
34
Đỗ Tử Trừng không cùng Bỉnh Khiêm và Phan Mãnh bàn chuyện,
33
Sau này là phủ Hải Ninh, tỉnh Quảng Ninh. nhưng cũng không tố giác, nên bị Quý Ly quở trách.

50 51
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Như vậy, trong 175 năm triều Trần cai trị đất nước Cho đến lúc này, có thể thấy, trong tận sâu thẳm đáy
(1225-1400), chỉ có 10 khoá thi lớn được tổ chức để lòng của Hồ Quý Ly chưa dám nghĩ tới thay ngay vương
tuyển nhân tài, bổ sung giữ các chức vụ quan trọng trong triều Trần mạt vì Trần Nghệ Tông vẫn còn đang sống,
triều. Quan lại trong thời cực thịnh chủ yếu lấy từ tôn dù rằng không còn phất mạnh ngọn cờ như chục năm về
thất, không qua thi tuyển. Cho đến giai đoạn cuối Trần trước. Đến đây, thời cơ chưa thực chín muồi. Sau này,
sang Hồ, các khoá thi lớn tuyển dụng, bổ nhiệm quan lại các nhà chép sử nhà nước phong kiến do không có cảm
cai trị liên tục mở ra, cấp bách bổ sung quan lại có thực tình với việc thay thế nhà Trần của Hồ Quý Ly nên cho
tài thay vào bộ máy quan lại bảo thủ, già nua. Qua đó, việc ông thề thốt với Trần Nghệ Tông là giả tạo.
Quý Ly có thể loại bỏ một số quan lại là người tôn thất
không cùng phe cánh đang phản đối hoặc ngầm phản đối Tháng 7, Thượng hoàng lấy Phùng Cụ làm Kinh sư doãn,
công việc cải cách của ông. đổi tên là Trung đô doãn. Tháng 8, Hoàng Hối Khanh
được cử làm An phủ sứ lộ Tam Đái. Tháng 11, Thượng
Tháng 2-1394 (năm Giáp Tuất, năm thứ 7), Thượng hoàng
sai thợ vẽ tranh Chu Công giúp Thành Vương, Hoắc hoàng bãi bỏ viện Đăng văn kiểm pháp, đặt Thượng Lâm
Quang giúp Chiêu Đế, Gia Cát giúp Thục Hậu chúa, Tô tự, cho Lê Nguyên Trừng là con trưởng của Lê Quý Ly
Hiến Thành giúp Lý Cao Tôn, gọi là tranh Tứ phụ35, ban làm Phán tư sự.
cho Quý Ly, để khiến giúp quan gia cũng nên như thế. Tháng 12, Thượng hoàng băng, được chôn cất ở Nguyên
Ngày 4-4, sau khi họp thề ở đền Đồng Cổ, Thượng Lăng Yên Sinh, miếu hiệu là Nghệ Tông, thuỵ là Quang
hoàng gọi Quý Ly vào cung, ung dung bảo rằng: “Bình Nghiêu anh triết Hoàng đế.
chương là người họ thân; công việc trong nước đều giao Trước khi qua đời, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông còn
cho cả. Nay thế nước suy vi, ta đã già yếu, sau khi ta chết khá minh mẫn. Ông đã nhận thấy con cháu mình hèn
rồi, quan gia đáng giúp thì giúp, nếu là người hèn kém, kém, nên mới sai thợ vẽ tranh Tứ phụ và có những lời
ngu tối thì ngươi tự lấy lấy nước”. Quý Ly bỏ mũ rập đầu
chân thành kí thác cho Hồ Quý Ly như vậy. Giá như ông
khóc để tạ ơn và thề rằng: “Thần không dốc lòng trung
có được nhãn quan chính trị nhạy cảm như Thái hậu
hết sức giúp quan gia để truyền đến con cháu về sau thì
trời hại thần”. Lại nói: “Linh Đức vương không có đức, Dương Vân Nga36 thì nhà Hồ đã thay thế nhà Trần mà
nếu không nhờ được uy linh của bệ hạ thì thần đã ngậm Hồ Quý Ly không bị mất lòng dân và khỏi bị mang tiếng
cười dưới đất rồi, được đâu đến ngày nay! Dù rằng thịt 36
Trước tình hình vận mệnh non sông ngàn cân treo sợi tóc, bà đã lấy
nát xương tan cũng chưa thể báo đáp được trong muôn
áo cẩm bào khoác cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn để chỉ huy
một, dám đâu lại có lòng khác”.
quân đội. Sau này, trước tình thế nhà tiền Lê suy mạt, bà lại khéo bàn
35
Bốn đại thần giúp vua nhỏ tuổi, như tình người cha. giao trách nhiệm gìn giữ sơn hà, xã tắc sang cho nhà Lý.

52 53
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

là người “thoán đoạt”. Nếu Hồ Quý Ly được dân ủng hộ Bấy giờ, người Minh đánh người Man làm phản ở Long
thì có lẽ nhà Minh đã không dám lợi dụng mâu thuẫn nội Châu và Phụng Nghị, sai bọn Nhâm Hanh Thái sang ta
bộ mà nhòm ngó nước ta. xin giúp 5 vạn quân, 50 con voi, 50 vạn hộc lương. Ta
không cho quân và voi, chỉ cho một ít lương, sai quan
Ngày 15-12-1394, Nghệ Tông mất, Quý Ly lên làm Nhập
tải đến Đồng Đăng rồi trở lại. Chúng lại sai sứ sang đòi
nội phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng
tăng nhân, phụ nữ, người bị thiến nhưng ta chỉ cho một
sự, Tuyên trung vệ quốc đại vương, đeo lân phù vàng.
vài người.
Thuận Tông còn nhỏ tuổi, lại nhu nhược, việc trị vì
lúc này đều dựa vào Quý Ly, Quý Ly chép thiên  “Vô Tháng 12, vua cho Lương Nguyên Bưu làm Hành khiển;
dật”  trong Kinh thư, có ý khuyên vua không nên nhàn tri Đại Tôn chính Hà Đức Lân làm Nhập nội Hành khiển
rỗi mà phải lo nghiên cứu học tập, sửa mình. Dần dần, môn hạ tả ti; Hoàng Hối Khanh làm Phát vận ti; Phạm Cự
ông bắt đầu chuyên quyền, ra tay cải tổ nội các. Ông Luận làm Tham mưu quân sự kiêm Khu mật viện sự.
thẳng tay trừng phạt những người có xu hướng chính trị Tháng giêng năm 1396 (năm Bính Tí, năm thứ 9), vua
ngược chiều, phản đối cải cách hoặc muốn hãm hại ông; xuống chiếu thải bớt tăng đạo, nếu ai chưa đến 50 tuổi
đồng thời, cho mở rộng cải cách trên các lĩnh vực tiền thì cho về hoàn tục; ngược lại, người tục nào thông hiểu
tệ, ruộng đất, văn hoá, giáo dục, thương mại; tiếp tục xây kinh giáo thì cho làm các chức đường Đầu thủ (người đầu
dựng quân đội, xây dựng cơ sở hạ tầng như đê, cừ, giao mục của tăng đồ), tri cung, tri quán, tri tự; còn những
thông, thuỷ lợi,... người khác thì cho làm giúp việc của người tu hành.
Tháng 2-1395 (năm Ất Hợi, năm thứ 8), Quý Ly cho giết Tháng 8, vua sai tướng coi quân Long tiệp là Trần Tùng,
người tôn thất là Phủ quân ti Nguyên Uyên và con thứ đi đánh Chiêm Thành, bắt được tướng nước ấy là Bố
của Cung Chính vương Sư Hiền là Nguyên Dận vì hai Đông đem về, cho đổi họ tên là Kim Trung Liệt, coi
người thường bàn đến chuyện Nhật Chương37 trong khi quân Hổ bôn; sau này, Bố Đông bị ốm rồi chết.
để tang Thượng hoàng. Ông còn giết cả người học trò là Tháng 10, vua cho Hồ Cương làm Đại tri châu lộ Diễn
Nguyễn Phù. Sư Hiền giả bị điếc tai nên thoát chết. Châu; cho Đặng Tư Thành làm Phản châu sự.
Tháng 4, nhà vua xuống chiếu cho Quý Ly vào ở bên hữu Tháng giêng năm 1397 (năm Đinh Sửu, năm thứ 10), vua
sảnh đài, gọi là Hoạ Lư. Khi ra mệnh lệnh, ông xưng là sai Thượng thư lại bộ kiêm Thái sử lệnh là Đỗ Tỉnh (có
Phụ chính cai giáo Hoàng đế. sách chép là Mẫn) đi xem xét đo đạc động An Tôn phủ
Thanh Hoá, đắp thành, đào hào, lập nhà miếu nền xã, mở
37
đường phố, có ý muốn dời kinh đô đến đấy. Việc được
Nhật Chương mưu giết Quý Ly nên bị Nghệ Tông giết.

54 55
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

làm xong trong ba tháng. Trước đó, việc bàn của triều hạn điền, hạn nô bắt đầu được thực hiện, khiến cả quan
thần chưa quyết định, Hành khiển Phạm Cự Luận can lẫn dân chóng mặt, bắt đầu ngấm ngầm chống lại triều
không nên, Quý Ly nói: “Ý ta đã quyết định trước rồi, đình, thực chất là chống lại Hồ Quý Ly.
ngươi còn nói gì nữa” và vẫn cho thi hành. Bấy giờ, Khu
Tháng 4, Quý Ly đổi trấn Thanh Hoá thành trấn Thanh
mật chủ sự thị sử là Nguyễn Nhữ Thuyết dâng thư can,
đại lược nói rằng: “Ngày xưa, nhà Chu nhà Nguỵ dời đô Đô, đổi trấn Quốc Oai thành trấn Quảng Oai, trấn Đà
đều thấy không tốt. Nay đất Long Đỗ38 có núi Tản Viên, Giang thành trấn Thiên Hưng, trấn Nghệ An thành trấn
có sông Lô sông Nhị, núi cao sông sâu, đất bằng phẳng Lâm An, trấn Trường Yên thành trấn Thiên Quan, trấn
rộng rãi, các đế vương ngày xưa mở nghiệp dựng nước, Lạng Giang thành trấn Lạng Sơn, trấn Diễn Châu thành
không đời nào là không lấy đất ấy làm nơi gốc sâu rễ bền. trấn Vọng Giang, trấn Tân Bình thành trấn Tây Bình; bãi
Nên cứ theo như trước. Bấy giờ quân Nguyên bị giết, giặc các chức Đại tiểu tư xã; chức Quản giáp vẫn để như cũ.
Chiêm nộp đầu. Xin nghĩ lại một chút, để làm thế vững Quý Ly định quy chế về quan bên ngoài; đặt chức An phủ
bền cho nước. An Tôn là đất chật hẹp hẻo lánh, cuối
sứ và phó sứ ở các lộ; chức Thông phán, Thiêm phán ở
nước, đầu non, nên với loạn mà không nên với trị, chỉ cậy
các châu; chức Lệnh uý, Chủ bạ ở các huyện. Quy chế
hiểm được thôi. Đời xưa có câu: Cốt ở đức, không cốt ở
hiểm”. Quý Ly không nghe. Sau đến kì xét công, Quý Ly cũng đặt về các thứ bậc: lộ coi phủ, phủ coi châu, châu
thấy tên Nhữ Thuyết, nói: “Người này từng nói cốt ở đức coi huyện; phàm những việc hộ tịch, tiền thóc, kiện tụng
không cốt ở hiểm” thì bỏ tên không dùng. đều làm gộp một sổ của lộ, đến cuối năm báo lên sảnh
để làm bằng mà kiểm xét; đồng thời, đặt các phủ Đô
Bắt đầu từ đó, công việc xây thành, đắp luỹ ở động An đốc, Đô hộ, Đô thống, Tổng quản và Ti thái thú để
Tôn được tiến hành vô cùng gấp gáp. Toàn bộ trai tráng, trông coi.
thợ thuyền trong nước hàng chục vạn người được huy
động về đây xẻ núi, đào hào, làm đường giao thông, nung Ông cho Phó tướng Lê Hán Thương lãnh Đông Đô lộ đô
vôi, đúc gạch xây dựng lâu đài cung điện Bảo Thanh tại hộ phủ, cho Thái bảo Trần Hãng lãnh Bắc Giang lộ đô
hương Đại Lại và ở Tây Đô. Hầu như mỗi nhà ít nhất một thống phủ, cho Trần Nguyên Hãn lãnh Tam Giang lộ đô
người gọi là khoẻ mạnh đều phải li hương để sung vào thống phủ, cho Thiếu bảo Vương Nhữ Chu làm tri Thiên
quân đội hoặc là về đây lao tác, năm này sang năm khác. Trường phủ lộ quân dân sự, cho Hành khiển Hà Đức Lân
Bệnh dịch ốm đau, tai nạn liên tục xảy ra; phụ nữ, trẻ làm hành Tân Yên phủ lộ thái thú. Ở châu, ông đặt ra
con nơi quê nhà nheo nhóc, ruộng vườn có phần hoang chức Giáo thụ và Giám tư khố.
hoá. Hơn nữa, chính sách phát hành tiền giấy, chính sách Cách sắp xếp, chấn chỉnh đội ngũ quan chức cao cấp cai
38
Tức là thành Đại La. trị của Quý Ly cho thấy ông đã dùng quan lại thân tín

56 57
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

giữ nơi trọng yếu như là kinh đô, biên cương Tổ quốc. Quý Ly có ý cướp ngôi, nhưng trót thề với Nghệ Tông
Ông rất quan tâm đội ngũ quan lại cấp thấp ở các địa rồi, sợ trái lời thề, bèn ngầm sai đạo sĩ là Nguyễn Khánh
phương; cho bỏ chức đại và tiểu tư xã vì thấy rằng đội bảo với vua rằng: “Cõi tiên thanh nhã, thơm tho, khác
ngũ chức việc, nha lại “ăn theo” ở các làng xã, thôn bản hẳn với cõi phàm trần, các tiên đế bản triều ta đều thờ
khi ấy thường quấy nhiễu dân. Ông cũng đã đặt thêm đạo Phật, chưa từng ai theo chân tiên. Bệ hạ ở ngôi vua
một số chức sắc cai trị từ lộ đến huyện và quy định cấp tôn quý, nhưng mọi việc khó nhọc, chi bằng truyền ngôi
dưới chịu sự quản lí của cấp trên, kể cả hệ thống sổ sách, cho Thái tử để tu dưỡng khí thanh hoà”. Vua nghe lời
kho tàng rất chặt chẽ nhằm ngăn chặn tệ nạn tham ô, Khánh, Khánh bèn tâu sổ phụng đạo nhập tiên.
nhũng nhiễu. Quý Ly làm cung Bảo Thanh phía Tây Nam núi Đại Lại,
Sau khi cho xuống chiếu hạn điền, Quý Ly hạ lệnh rằng mời vua đến ở. Vua bèn truyền ngôi cho Hoàng thái tử,
người nào có ruộng thì phải cung khai số mẫu, Hành khiển tờ chiếu nhường ngôi đại lược nói: “Trẫm trước mộ đạo,
Hà Đức Lân nói mật với người nhà rằng: “Đặt ra phép này không có bụng làm vua, không có đức mà tạm giữ ngôi,
chỉ để cướp ruộng của dân mà thôi”. Quý Ly nghe được, thực khó làm nổi. Huống chi bệnh thần kinh thường phát
bèn giáng Hà Đức Lân làm Thượng thư bộ Hộ. ra, thờ cúng và chính sự đều không làm được. Lời thề
Tháng 11, Quý Ly bức vua dời đô đến phủ Thanh Hoá. nguyền trước, trời đất quỷ thần đều đã nghe. Nay nên
Khi vua đi Yên Sinh bái yết các lăng, Quý Ly bắt ép nhường ngôi để vững nghiệp lớn. Hoàng thái tử Án có thể
vua cùng đến hành tại ở hương Đại Lại, gọi là cung Bảo lên ngôi Hoàng đế. Phụ chính Thái sư Lê Quý Ly là Quốc
Thanh. Cung nhân là Trần Ngọc Cơ và Trần Ngọc Kiểm tổ nhiếp chính. Trẫm tự làm Thái thượng nguyên quân
nói với vua rằng dời kinh đô thế nào cũng có việc cướp Hoàng đế, tu dưỡng ở cung Bảo Thanh để thoả chí xưa”.
ngôi. Quý Ly nghe được cho rằng Miếu lệnh Lê Hợp và Hoàng thái tử Án bấy giờ mới 3 tuổi, lên ngôi Hoàng đế
phụ đạo Hữu Lũng là Lương Ông cùng đồng mưu, lệnh ở cung Bảo Thanh, nhận lễ truyền ngôi không biết lạy,
đem giết cả. Quý Ly bảo Thái hậu lạy ở trước cho Thái tử lạy theo.
Quý Ly lại sai Hành khiển đồng tri Đại Tôn chính tự là Quý Ly tự xưng là Khâm Đức hưng liệt đại vương; kí
Lương Nguyên Bưu, dỡ các cung điện Thuỵ Chương, Đại giấy tờ thì đề là Trung thư thượng thư sảnh phụng nhiếp
An, giao cho các châu Từ Liêm và Nam Sách chở ngói chính cai giáo hoàng đế thánh chỉ. Ngày hôm ấy, vua lên
gạch và gỗ to về kinh đô mới. Nhưng giữa đường gặp ngự điện ở kinh đô mới.
bão, ngói gạch và gỗ bị chìm mất quá nửa. Tháng 4-1399 (năm Kỉ Mão, Kiến Tân, năm thứ 2), Quý Ly
Ngày 15- 3-1398 (năm Mậu Dần, năm thứ 11), Hồ ép vua phải xuất gia theo Đạo giáo, ở quán Ngọc Thanh
Quý Ly ép vua phải nhường ngôi cho Hoàng thái tử Án. thuộc thôn Đạm Thuỷ (thuộc huyện Đông Triều, tỉnh

58 59
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Hải Dương), mật sai Nội tẩm học sinh là Nguyễn Cẩn đi xoá bỏ, không làm nữa. Khát Chân người làng Hà Lãng
theo trông nom. Vua hỏi rằng: “Ngươi theo hầu ta, muốn huyện Vĩnh Ninh, ba đời làm Thượng tướng quân. Người
làm gì chăng?”. Cẩn không nỡ nói. Quý Ly làm bài thơ đưa đời truyền rằng Khát Chân khi sắp bị chém, lên núi Đốn
cho Cẩn mà nói: “Nguyên quân không chết thì ngươi phải Sơn gào thét ba tiếng; chết qua ba ngày sắc mặt vẫn như
chết”. Rồi ông lại làm bài thơ đưa cho Nguyên quân rằng: sống, ruồi nhặng không dám bâu vào.
“Trước có vua hèn ngu, Hôn Đức và Linh Đức, sao không Tháng 6, Quý Ly tự xưng là Quốc tổ chương Hoàng đế,
liệu sớm đi chỉ để bận người khác”. Cẩn bèn tiến thuốc mặc áo màu bồ hoàng, ở cung Nhân Thọ, theo như lệ
độc, vua không chết; lại tiến nước dừa mà không cho ăn, của thiên tử, ra vào dùng 12 chiếc lọng vàng. Hồ Hán
vua cũng không chết; bèn sai Xa kỵ vệ thượng tướng quân Thương xưng là Nhiếp thái phó, ở bên hữu điện Hoàng
là Phạm Khả Vĩnh thắt cổ giết chết. Vua được chôn ở lăng Nguyên; Hồ Nguyên Trừng làm Tư đồ. Các giấy tờ thì
Yên Sinh, miếu hiệu là Thuận Tôn. đề là: Phụng nhiếp chính quốc tổ chương hoàng. Nhưng
Cùng tháng 4, nhóm Thái bảo Trần Hãng, Thượng tướng Quý Ly mới chỉ xưng “dư” chưa giám xưng “trẫm”.
quân Trần Khát Chân mưu giết Quý Ly không được, đều Tháng 7, có người ở Cổ Đằng, Thanh Hoá là Nguyễn
bị giết. Dụng Phủ dâng thư hỏi rằng: “Chương hoàng là hiệu gì?
Ngày hôm ấy, Quý Ly họp thề ở Đốn Sơn. Nhóm Khát Bồ hoàng là sắc gì? Đối với sự phó thác của tiên đế ra
Chân đã có ý giết Quý Ly. Quý Ly ngồi trên lầu nhà sao?”. Quý Ly đem giam người đó mấy ngày rồi tha.
Khát Chân để xem theo như lệ, Thiên tử ngự đến miếu,
Tháng 8, kẻ cướp là Nguyễn Nhữ Cái trốn vào núi Thiết
đến chùa. Phạm Tổ Thu (cháu gọi Khả Vĩnh là chú bác)
Sơn làm tiền giấy giả để dùng, gặp khi Thuận Tôn bị giết,
và thích khách là Phạm Ngưu Tất cầm gươm định tiến
Khát Chân bị hình, mới chiêu dụ lương dân hơn 1 vạn
lên lầu, Khát Chân trừng mắt ngăn lại, rồi thôi. Quý Ly
thấy chột dạ đứng dậy, vệ sĩ ủng hộ xuống lầu. Ngưu Tất người, thường đi lại ở các xứ Lập Thạch, Đáy Giang, Đà
vứt gươm xuống đất nói: “Cả lũ chết thôi”. Việc tiết lộ, Giang, Lịch Sơn, Tản Viên cướp bóc bừa bãi, các châu
nhóm tôn thất Hãng, Trụ quốc Nhật Đôn, tướng quân huyện không thể chế ngự được.
Trần Khát Chân, Phạm Khả Vĩnh, Hành khiển Hà Đức Tháng 12, Quý Ly sai An phủ sứ Đông lộ là Nguyễn Bằng
Lân, Lương Nguyên Bưu, Phạm Ông Thiện, Phạm Ngưu Cử đánh và dẹp yên được Nguyễn Nhữ Cái.
Tất và các liêu thuộc, hơn 370 người đều bị giết, gia sản
bị tịch thu, con gái bị bắt làm tì, con trai từ 1 tuổi trở lên Ngày 28-2-1400 (năm Canh Thìn, năm thứ 3), Lê Quý
bị chôn sống hoặc dìm nước. Quý Ly còn cho lùng bắt Ly ép vua nhường ngôi, bắt người tôn thất. Các quan ba
dư đảng đến mấy năm không thôi. Lễ minh thệ từ đây bị lần dâng biểu khuyến tiến, Quý Ly giả cách chối từ nói:

60 61
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

“Ta sắp chết đến nơi, còn mặt mũi nào trông thấy tiên Tháng 12, Hán Thương lấy Nguyễn Phi Khanh làm Hàn
đế dưới đất nữa”. Rồi Quý Ly tự lập làm đế, đặt niên hiệu lâm học sĩ.
là Thánh Nguyên, quốc hiệu là Đại Ngu, đổi làm họ Hồ. Tháng 2-1402 (nãm Nhâm Ngọ), Hán Thương cho xét
Tháng giêng, ông lập con là Hán Thương làm Thái tử. định quân ngũ.
Hồ Quý Ly phế vua làm Bảo Ninh đại vương; vì vua Tháng 3, Hán Thương cho sửa đường từ thành Tây Đô
là cháu ngoại nên không giết mà cho sống ở cung Bảo đến Châu Hoá, dọc đường đặt phố xá và trạm chạy giấy,
Thanh, nay gọi là Ly Cung nhà Hồ, thuộc xã Hà Đông, gọi là đường Thiên lí.
huyện Hà Trung, Thanh Hoá; sau này không rõ vua sống
chết ra sao. Tháng 6, Hán Thương lấy Đồng Thức làm trung tán, cho
họ là Ngu39.
Tháng 8, Quý Ly cho thi Thái học sinh để tuyển dụng
ngay một loạt quan chức có tài, làm những cánh tay giúp Tháng 7, Hán Thương đem đại binh đi đánh Chiêm
việc cho mình. Trong kì thi này có tất cả 20 người đỗ, Thành, lấy Đỗ Mãn làm Đô tướng, Điện nội phán thủ
chẳng hạn như Lưu Thúc Kiệm, Nguyễn Trãi, Lí Tử Tấn, Nguyễn Vị làm Chiêu dụ sứ, An phủ sứ lộ Đông Đô
Vũ Mộng Nguyên, Hoàng Hiến, Nguyễn Thành,... Nguyễn Bằng Cử làm đồng Chiêu dụ sứ. Khi đại quân
gần đến bờ cõi nước Chiêm, Đinh Đại Trung cưỡi ngựa
Tháng 12, Quý Ly lấy Hành khiển Đỗ Mãn làm Thuỷ đi trước ba quân, gặp tướng của giặc là Chế Cha Nan,
quân đô tướng, Trần Vấn làm tướng coi quân Tả Thánh hai bên đánh nhau, giặc bị giết cả. Vua nước Chiêm là
Dực (sau đổi thành họ Hồ), Trần Tùng là tướng coi quân Ba Đích Lại sợ hãi, sai cậu là Bố Điền dâng một con voi
Long tiệp làm bộ quân Đô tướng (cũng đổi thành họ trắng, một con voi đen cùng với nhiều sản vật quý của
Hồ), tướng coi quân Tả Thánh dực là Đỗ Nguyên Thác Chiêm và đất Chiêm Động để xin rút quân. Khi Bố Điền
làm Đồng đô tướng, đem 15 vạn quân đi đánh Chiêm đến, Quý Ly bắt ép phải đổi tờ biểu là dâng nộp cả động
Thành. Quý Ly nhường ngôi cho con là Hán Thương, tự Cổ Luỹ, rồi chia đất ấy ra làm 4 châu: Thăng, Hoa, Tư,
xưng là Thái thượng hoàng, cùng coi chính sự. Nghĩa. Quý Ly đặt An phủ sứ và Phó sứ lộ Thăng Hoa
Hán Thương đặt quan hương đình, có chánh và phó, sau để cai trị; miền đầu nguồn đất ấy thì đặt trấn Tân Ninh.
đó chỉ dùng có một viên. Chiêm thành thu lấy những dân cận tiện đem về nước,
còn người nào ở lại thì được bổ làm quân.
Hán Thương lệnh cho các lộ nung gạch để dùng vào việc
xây thành. Trước đây xây thành Tây Đô, tải nhiều đá Hán Thương đổi bổ An phủ sứ lộ Thuận Hoá là Nguyễn
khối để xây, thành bị lún sụt; lúc này mới xây trên thân Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa. Cảnh Chân
bằng gạch, dưới móng bằng đá. 39
Ví với Ngu Trưng nhà Đường.

62 63
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

dâng thư nói xin theo việc cũ của nhà Hán, nhà Đường, Hán Thương đặt chức Thị giám, ban ra cân, thước, thưng,
mộ người nộp thóc chứa vào kho ở biên giới, hoặc cho đấu; định giá tiền giấy cho trao đổi nhau nhằm quản lí thị
tước phẩm hoặc cho tha tội theo thứ bậc khác nhau. trường, ngăn chặn buôn gian bán lận.
Quý Ly phê rằng: “Biết được mấy chữ mà nói việc Hán Hán Thương dựng miếu thờ ở các lăng Thiên Xương
Đường, thế gọi là người câm hay nói, chỉ tổ cho người (Thanh Hoá) để thờ cúng tổ khảo, lại dựng các miếu thờ
cười thôi”. Có thể thấy, Cảnh Chân có sự va chạm với tư ở các lăng Bào Đột phủ Linh Nguyên để thờ cúng tiên
tưởng cách tân và ý thức văn hoá tự tôn dân tộc thường tổ. Ở kinh thành, ông cho xây dựng Đông thái miếu để
trực trong Hồ Quý Ly nên đã bị Hồ Quý Ly miệt thị. thờ cúng tôn phái họ Hồ và Tây thái miếu để thờ cúng
Hán Thương cho hàng tướng người Chiêm là Hiệu Chính họ ngoại là Trần Minh Tôn và Trần Nghệ Tông.
hầu Chế Ma Nô Đà Nan làm Cổ Luỹ huyện thượng hầu, Hán Thương phong Phạm Nguyên Khôi làm Đại tướng
trấn giữ châu Tư Nghĩa, chiêu vỗ dân chúng người Chiêm quân hai vệ Thiên ngưu và Phủng thần, coi quân Long tiệp,
để liệu tiến đánh. hành Thuỷ quân đô tướng, Hồ Vấn làm phó; Đỗ Mãn coi
Một người học trò là Nguyễn Bẩm dâng thư nói rằng: quân Thiên cương, Chương thánh, Củng thần, hành Bộ
Tiền Hồ (tức Quý Ly) nên rút lui về ở Kim Âu, Hậu Hồ quân đô tướng, Đỗ Nguyên Thác làm phó. Quân thuỷ
(tức Hán Thương) thì tôn làm Thượng hoàng, Thái tử và bộ cộng 20 vạn người đều theo tiết chế của Nguyên
Nhuế thì chính vị là quan gia. Quý Ly giận lắm, cho Bẩm Khôi. Quân ta vào đất Chiêm, làm thêm nhiều chiến cụ;
là chỉ trích nhà vua, sự tình thiệt hại, đem chém đi. vây thành Chà Bàn. Khi sắp lấy được thành thì do quân
Tháng 2-1403 (năm Quý mùi) (Hán Thương khai đại thứ đi đã 9 tháng, hết lương ăn đành phải rút về. Đỗ Nguyên
1), Hán Thương đem những người không có ruộng đất Thác vì trái lệnh của Ðô tướng, tuy được tha tội chết
mà có của đến các châu Thăng Hoa,… Hán Thương mộ nhưng bị giáng làm lính.
dân nộp trâu, cho tước phẩm, lấy cấp cho dân mới dời Chiêm Thành cầu cứu nhà Minh. Quân Minh đi 9 thuyền
đến Thăng Hoa. lớn vượt biển sang cứu. Khi quân ta trở về thì gặp quân
Hán Thương lấy phủ lộ Thanh Hoá làm đất Tam phụ Minh ở ngoài biển, người Minh bảo Nguyên Khôi nên
(Đất thuộc về phạm vi kinh đô) của kinh kì, đổi phủ đem quân về ngay, không nên ở lâu. Nguyên Khôi từ
Thanh Hoá làm phủ Thiên Xương, gồm với Cửu Chân và Chiêm Thành về, bị Quý Ly trách về việc không giết hết
Ái Châu gọi là Tam phụ, lại đổi Diễn Châu làm phủ Linh quân Minh.
Nguyên, cộng là Tứ phụ; đổi phủ Kiến Xương làm phủ Sau khi thay thế vương triều Trần mạt, nhà Hồ liên tục
Kiến Ninh; đổi núi Đại Lại làm núi Kim Âu. tiến hành công cuộc canh tân đất nước, bắt đầu cường

64 65
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

thịnh so với trước đây. Từ thế suy vi, yếu ớt, mấy thập Năm 1405 (năm Ất Dậu, Hán Thương Khai đại thứ 3),
kỉ luôn bị Chiêm Thành bắt nạt, liên tục đem quân đánh nhà Minh sai sứ sang đòi cắt trả lại đất Châu Lộc ở Lạng
phá nước Đại Việt xưa, đến vương triều Đại Ngu, quân Sơn41. Thực chất, đây là một cách gây sự để mượn cớ
nhà Hồ đã tiến đánh Chiêm Thành40. Thực ra, bản chất đem quân xâm lược. Quý Ly sai Hoàng Hối Khanh làm
các cuộc vào Chiêm của nhà Hồ trong những năm 1400- Cát địa sứ. Hối Khanh đem tất cả 59 thôn trả lại cho
1401, 1402, 1403 không mang tính chất “xâm lăng” mà nước Minh. Quý Ly trách mắng Hối Khanh tàn tệ vì trả
chỉ mang tính chất đe nẹt để rảnh tay lo việc đối phó kẻ lại cho nhà Minh nhiều quá.
thù phương Bắc. Hán Thương sai bộ Lễ thi cử nhân, lấy đỗ 170 người; cho
Tháng 2-1404 (năm Giáp Thân, Hán Thương Khai đại Hồ Ngạn Thần, Lê Cung Thần, sung Lí hành Thái học
thứ 2), nghe tin An Phủ sứ lộ Tân Hưng kiêm Đông Đô sinh; bọn Cồ Xương Triều, 6 người sung Học sinh ở Tư
phán là Trần Quốc Kiệt biết đắp đê ngăn nước mặn, tốt Thiện đường. Tháng 9, Hán Thương sai thi Lại viên.
cho việc cày cấy của dân, Hán Thương thưởng cho tước
Đây là những việc cuối cùng về việc cải tổ, canh tân đất
1 tư. Điều này minh chứng là Hán Thương rất trọng nhân
nước của cha con Hồ Quý Ly. Sau đó, ông phải dừng
tài và đã biết làm việc khuyến nông.
cuộc canh tân vì hoạ xâm lăng của nhà nước Minh.
Năm 1403, Quý Ly giết tướng quân cũ là Hồ Tùng. Trước
Từ khi Thượng hoàng Nghệ Tông qua đời đến hết triều
đây, Tùng đã bị giải chức, xin bán đồ khí giới của nhà mình,
Hồ, trong khoảng mười năm, cha con Hồ Quý Ly liên
Quý Ly không cho là có ý muốn dùng lại Tùng. Nhưng tục, khẩn trương tiến hành các cuộc canh tân xã hội.
Tùng lại thông dâm với vợ của cố Hành khiển Lương Trong đó, công cuộc cải tổ nội các cuối Trần thông qua
Nguyên Bưu, là con gái của Trần Quý. Tùng còn cùng với thi cử tuyển dụng quan lại và cả các cuộc thanh trừng đổ
người Chiêm đầu hàng là Chế Sơn Nô mưu mô làm phản. máu là cam go nhất. Có lúc tưởng như Quý Ly đã bị phe
Việc bị tiết lộ, Tùng và con gái Trần Quý đều bị xử tử. cánh đối lập đánh bật ra khỏi vũ đài. Nhưng nhờ đa mưu
Nhà Minh sai hành nhân là Lý Ỷ sang sứ. Sau khi Lý Ỷ túc kế, ông đã đánh gục đối phương ở những thời khắc
đến nhà công quán xem hết hình thế ra về, Quý Ly sợ một mất một còn.
bị tiết lộ sự tình, sai Phạm Lục Tài đuổi theo giết đi. Những chủ trương mới, những chính sách mới, những
Khi Lục Tài đến Lạng Sơn thì Ỷ đã ra khỏi cửa ải rồi. quy định mới, những việc làm mới thời Hồ khá toàn diện,
Ỷ biết chuyện đó, tức giận về tấu với vua Minh là họ táo bạo và đi trước thời đại. Chỉ riêng số lượng công việc
Hồ xưng Hoàng đế và làm thơ có lời ngạo mạn. canh tân, cải cách nhằm một mục đích duy nhất là đưa
đất nước tiến lên thì Hồ Quý Ly cũng đã đáng được vinh
40 41
So với nhà Minh còn rất yếu. Nguyên là đất cũ của tỉnh Quảng Tây.

66 67
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

danh là một Hoàng đế cách tân, một nhà văn hoá xuất Minh như cha, yêu Chiêm Thành như con, thì nhà nước
chúng. Giáo sư sử học Phan Huy Lê đã có đánh giá công được vô sự; tôi dầu chết cũng không nát xương”. Do vậy,
cuộc cải cách của Hồ Quý Ly như sau: giả như nhà Hồ kháng chiến chống Minh thắng lợi thì có
“Trước hết, không ai có thể phủ nhận Hồ Quý Ly là một lẽ các nhà nho giáo, sử gia hậu thế đã không gọi nhà Hồ
nhà cải cách táo bạo và kiên quyết hiếm có trong lịch là cướp ngôi nhà Trần.
sử Việt Nam. Ông đã đưa ra một loạt chính sách và biện
pháp cải cách trên nhiều phương diện”...
Nhà Hồ thay thế nhà Trần vào tháng 3-1400 (năm Canh
4
Quan điểm về vua Hồ Quý Ly
Thìn), đến nay hơn 600 năm. Xưa kia các nhà sử học Hồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử đặc biệt đang còn gây
phong kiến đại diện tầng lớp danh Nho với quan niệm nhiều tranh cãi. Để có được quan điểm khách quan về
cũ, ghi trong sử sách rằng: Hồ Quý Ly là một ông vua ông, chúng ta cần lật giở lại những trang sử cũ.
thoán trị (cướp ngôi), không coi nhà Hồ là một chính Nước Trung Hoa có nhiều lần bàn giao triều đại. Hãy
triều mặc dù thời gian ông cai trị đất nước khá dài. Có xem những lần đổi thay của họ bằng những cách nào.42
người chỉ coi triều đại nhà Hồ là một triều “nhuận”. Có
Năm 221 trước Công nguyên, Tần Thuỷ Hoàng chinh
lẽ nguyên do là vì nhà Hồ lên nắm chính quyền thay triều
phục 6 nước để thống nhất nước Trung Hoa. Sau khi Tần
Trần mạt mà không thắng được cuộc xâm lăng thượng
Thuỷ Hoàng chết, Tần nhị thế Hồ Hợi mưu sát anh cả
triều nhà Minh hùng mạnh cùng thời.
là Phù Tô để cướp ngôi. Hồ Hợi còn hung ác và tàn bạo
Từ Chu Nguyên Chương là Minh Thái Tổ, truyền ngôi 17 hơn Tần Thuỷ Hoàng.
đời vua, nhà Minh đã thống trị nước Trung Hoa cổ gần
Tiếp theo là cuộc Hán Sở tranh hùng, Lưu Bang đánh gục
300 năm (từ năm 1368 đến năm 1644). Nhà Minh khi
Hạng Vũ thành lập ra nhà Tây Hán, kéo dài từ năm 206
ấy mở rộng quan hệ ngoại giao hầu hết các nước vùng
trước Công nguyên đến năm 23 sau Công nguyên. Đến
Đông Nam Á, qua Ấn Độ Dương sang Đại Tây Dương,
đời Hán Chiêu Đế (86 trước Công nguyên), cuộc sống
tiến vào châu Phi. Thượng triều nhà Minh có quân đội
của nông nô, nô tì chẳng khác gì trâu ngựa. Khi bị áp bức,
mạnh, chinh Bắc phạt Đông, đánh bại quân Nguyên Thát
bóc lột tàn bạo, họ phải vùng lên đòi lại quyền sống của
Đát, quân Oa Ra Mông Cổ và nhiều cuộc xâm lăng của
mình. Vương Mãng nắm lấy thời cơ hành động.
Nhật Bản.
Nhà Minh và Chiêm Thành đang thời hùng mạnh. Quan Vương Mãng xuất thân là một quý tộc ngoại thích. Trên
đại thần Trần Nguyên Đán khi được Nghệ Tông hỏi kế thực tế, ngay những năm cuối đời, Hán Nguyên Đế đã
giữ gìn sơn hà xã tắc đã tâu rằng: “Xin bệ hạ kính nước 42
Lê Giảng. Các triều đại Trung Hoa. Nxb Thanh niên. 2003.

68 69
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

nắm chính quyền Tây Hán, nhất là khi Bình Đế lên ngôi người ngoại tộc, ngoại thích. Nếu ngai vàng không bị
vẫn còn nhỏ dại (9 tuổi), Thái hậu phải nhiếp chính, uỷ lật đổ bằng cuộc giao tranh đẫm máu thì lại bằng thủ
thác quyền hành cho Vương Mãng. đoạn chính trị tinh vi, xảo quyệt. Nhà Trần thay thế nhà
Lý bằng thủ đoạn cho Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng,
Năm thứ 8 sau Công nguyên, Vương Mãng giết Hán Bình
để lấy luôn ngôi vua của nhà Lý ngày 12-12-1225. Ngày
Đế rồi tự xưng là Châu Hoàng đế, phế Hoàng tử còn bé
10-8-1226 (Bính Tuất), Thái sư Trần Thủ Độ còn giết
là Anh, thế là nhà Tây Hán đã cáo chung. Thượng hoàng nhà Lý là Lý Huệ Tôn (Cha của Lý Chiêu
Khi lên ngôi, Vương Mãng đã tiến hành một loạt cải cách Hoàng) ở chùa Chân Giáo với câu nói: “Nhổ cỏ thì nhổ
kinh tế xã hội, làm đảo lộn các quy tắc xã hội lúc bấy giờ hết rễ” để tránh sự khôi phục lại triều Lý. Nhà Hồ thay
nên bị áp lực chống đối của nhân dân. Vì mất lòng dân thế nhà Trần cũng tương tự như vậy.
nên cuối cùng Vương Mãng đã thất bại. Trong lịch sử nước ta, có hai “Ông Tổ” trung hưng đất
Triều Đông Hán kéo dài từ năm 25 đến năm 220. nước, giành lại giang sơn từ tay kẻ thù xâm lược hùng
mạnh ngoại bang. Thứ nhất là Ngô Quyền; sau chiến
Lưu Tú nhân cơ hội nhân dân, nòng cốt là nông dân bạo
thắng quân Nam Hán sau gần một nghìn năm Bắc thuộc,
động chống lại Vương Mãng, thành lập lực lượng vũ trang tưởng như nước Nam vĩnh viễn trở thành quận huyện
và hứa thực hiện lời cam kết cũ của vương triều Lưu Hán. của phía Bắc. Thứ hai là Lê Lợi, người đánh thắng nhà
Lưu Tú xưng là Quang Vũ đế, đóng đô tại Lạc Dương, do Minh giành lại giang sơn gấm vóc. Đến thời đại Hồ Chí
đó sử xưa gọi là Đông Hán hay là Hậu Hán. Mười năm Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đánh
chiến cuộc gian nan, Lưu Tú đánh bại Vương Mãng thống thắng những thực dân lớn, những đế quốc lớn của thế kỉ
nhất sơn hà”. hai mươi.
Đến thời Tam quốc, ba nước Nguỵ, Thục Hán, Ngô tranh Đến thời cận đại, ở các châu lục, dù với thể chế chính
giành đất nước Trung Hoa gây ra nội chiến kéo dài sáu trị - xã hội tiến bộ thế nào, thực chất vẫn là giành giật
chục năm trường (220-280), giết hại bao triệu dân lành. quyền lực giữa các đảng phái, ngoại trừ những đảng nắm
Tiếp theo là thời Lưỡng Tấn, Thời Nam Bắc Triều. Thời giữ vị trí độc tôn.
Minh, rồi đến Mãn Thanh, thay thế cho nhau đều bằng
Bởi vậy không có gì là lạ khi cách đây trên sáu trăm năm,
những cuộc chiến tranh đẫm máu, không có sự nhường dưới thời phong kiến, nhà Hồ thay thế nhà Trần bằng các
ngôi cho người ngoại tộc. thủ đoạn chính trị, không làm đổ máu dân đen. Với nhân
Còn với lịch sử thay thế giữa các triều đại Việt Nam, kể sinh quan cách mạng hiện nay, chúng ta vẫn nghiêng về
từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê và Nguyễn, kể cả Triều phía quan điểm xem Hồ Quý Ly là một vị Hoàng đế cách
Hồ, triều Mạc cũng không có sự bàn giao ngôi báu cho tân chứ không phải là một ông vua thoán trị.

70 71
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

5 Cuộc chiến không cân sức giữa nhà Hồ


với nhà Minh
(Trấn trị phương xa giúp một tay,
Hùng phiên tiết chế sẵn mưu hay.
Chiến tranh Minh - Đại Ngu, hay thường được giới sử Thông xanh ngươi giữ bền năm rét,
học Việt Nam gọi là cuộc kháng chiến chống quân xâm
Tóc bạc ta không ngại phía Tây.
lược Minh (1406-1407), là cuộc chiến của nhà Hồ nước
Ðại Ngu chống cuộc xâm chiếm của nhà Minh dưới triều Dạy bọn binh nông đều được tốt,
Minh Thành Tổ. Rút quân đồn thú chẳng bao ngày.
Năm 1403,  nhà Minh sai bọn nội quan là Nguyễn Tông Chớ lo khó nhọc không ai biết,
Đạo đi sứ sang doạ xâm lược phương Nam. Tua mũ không che nổi mắt này.
Hán Thương sai Tả lang Trung hình bộ là Phạm Canh Năm 1405 (năm Ất Dậu), Quý Ly tự nghĩ mình năm ấy
sang nhà Minh xin giảng hoà, thông phán là Lưu Quang đã 70 tuổi, nên đã ban cho phụ lão ở các lộ từ 70 tuổi
Đình làm phó sứ. Nhà Minh giữ mình Phạm Canh ở lại trở lên mỗi người mỗi tước 1 tư; đàn bà già thì cho tiền
mà cho Quang Đình về nước. giấy; ở kinh thành thì cho tước và cho ăn uống.
Quý Ly lấy Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ Thăng Hán Thương sai Thái thú Đông lộ là Hoàng Hối Khanh
Hoa, lấy phong Quốc giám quả cán là Nguyễn Ngạn đốc việc đem phu đắp thành Đa Bang43 để chống giặc,
Quang làm Tuyên phủ sứ, kiêm chế trí sứ trấn Tân Ninh. nên có đền thờ thần bị phá. Hối Khanh đêm nằm chiêm
Quý Ly làm bài thơ tặng Nguyễn Ngạn Quang : bao thấy có thần nhân đến bảo: Phải làm lại đền như cũ.
“Biên quận thừa tuyên tư tráng trí, Tỉnh dậy, Hối Khanh thấy sợ, làm thơ than rằng:
Hùng phiên tiết chế hữu huy du. Mao thiềm mệnh dã cung tiều thoán,
Thanh tùng bảo nhĩ tuế hàn tiết, Lão mộc thì hồ ách phủ cân.
Bạch phát khoan dư Tây cố ưu. Nghĩa là:
Huấn sức binh nông giai tựu tự, Nhà tranh đành phận nơi đun nấu,
Cây cỗi thường khi bị búa rìu.
Giải đình trấn thú thị hà thu.
Hán Thương sai quân vệ Đông Đô đóng cọc chặn cửa
Cần lao vật vị vô tri giả,
sông Bạch Hạc để ngăn giữ giặc từ Tuyên Quang đến.
Tứ lục nguyên phi tế miện lưu.
43
Xã Cổ Pháp, huyện Tiên Phong, tỉnh Sơn Tây.

72 73
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Hán Thương truyền cho An phủ sứ các lộ về kinh sư “Quan tổng binh họ Hoàng sai tiểu nhân đến đây báo
cùng với các quan ở kinh họp bàn nên đánh hay nên hoà. cho ngài biết sự tình như sau:
Có người bàn nên đánh, chớ để mối lo về sau này; trấn
thủ Bắc Giang Nguyễn Quân cho là hãy nên tạm hoà, Trước vì Thiêm Bình chạy sang triều đình nước tôi tâu
theo như ý giặc muốn, để tạm hoãn quân thì hơn. Tướng rằng hắn chính là con vua nước An Nam, vì thế mới sai
quốc Hồ Nguyên Trừng nói: “Thần không ngại đánh, chỉ đại binh sang chiêu dụ, không ngờ nhân dân ở xứ này
sợ lòng dân có theo hay không theo thôi”. Quý Ly ban đều không ai phục, rõ ràng là hắn nói bậy. Nay lui quan
cho Hồ Nguyên Trừng cái hộp trầu bằng vàng. quân về tâu với triều đình thì bị quan ải dọc đường ngăn
Tháng 4-1406 (năm Bính Tuất, Hán Thương Khai đại thứ giữ, tắc đường không đi được. Nay đem Thiêm Bình dâng
4), nước Minh sai Chinh nam tướng quân Hữu quân Ðô nộp, xin thả cho quân đi thì may lắm”. Hồ Xạ bằng lòng,
đốc đồng tri là Hàn Quan, Tham tướng Ðô đốc đồng tuy bắt được tù binh rất nhiều mà người Minh trốn thoát
tri là Hoàng Trung đem 10 vạn quân ở Quảng Tây sang cũng có. Lễ cáo thắng trận xong, xét hỏi Thiêm Bình
xâm lược, mượn tiếng đưa nguỵ Trần Vương là Thiêm thuộc tông phái nào, Thiêm Bình không chịu nói và bị
Bình về nước. xử tội lăng trì.
Ngày mùng 8-4, Hoàng Trung đánh vào cửa Lãnh Kinh44. Tù binh được đưa về Nghệ An để làm ruộng; các quan
Buổi sớm ngày hôm ấy, các quân thuỷ bộ đánh nhau lại bị bắt được lưu ở Kinh, giao cho các nhà quyền quý
với quân Minh, Đại tướng nhị vệ là Phạm Nguyên Khôi, nuôi làm người ở.
tướng coi quân Chấn cương là Chu Bỉnh Trung, tướng
coi quân Tam phụ là Trần Nguyên Huyên, tả Thần dực Hán Thương thưởng chiến công mỗi người tước 3 tư. Hồ
quân là Trần Thái Bộc đều thua trận và bị chết. Tả tướng Xạ vì nghe theo kế của người Minh bắt giải Thiêm Bình
Quốc Trừng bỏ thuyền lên bờ, suýt bị giặc vây, có người để cho bọn Hoàng Trung trốn thoát, thành ra trận ấy
vội dìu xuống thuyền được thoát. Đó là vì thấy quân giặc không được vẹn toàn, nên Xạ và các người dưới quyền
ít hơn mà khinh thường. Duy có Tả Thánh dực quân là chỉ được thưởng tước 2 tư. Các quan văn võ trong ngoài
Hồ Vấn đem quân từ Vũ Cao (Bắc Giang) ụp đến đánh, dâng biểu chúc mừng, Hán Thương không nhận.
quân giặc bị thua. Trung liệu thế địch không nổi, đến
trống canh hai trốn về. Tướng coi quân hữu Thánh dực là Khi quân Minh mới vào cõi, Hán Thương có lệnh cho
Hồ Xạ, tướng coi quân Thánh Dực ở Bắc Giang là Trần nhân dân phá bỏ hết lúa má; các xứ Lạng Châu, Vũ Ninh,
Đĩnh đã nhận mệnh lệnh từ trước đóng chặn cửa ải Chi Bắc Giang, Gia Lâm, Tam Đái ngoài đồng xơ xác. Khi
Lăng. Nhà Minh bèn giải Thiêm Bình giao cho ta và sai quân Minh rút lui rồi nhân dân lại phục nghiệp như cũ.
Cao Cảnh Chiếu đưa hàng thư rằng: Hán Thương sai An phủ sứ Tam Giang là Trần Cung Túc
44
Cửa quan đặt trên sông Cầu, ở khoảng Đáp Cầu ngày nay.
sang nước Minh xin hoà và biện bạch việc Thiêm Bình,

74 75
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Thông phán châu Ái là Mai Tú Phu làm Phó sứ, Thiêm Ngũ nguyệt phong ba
phán là Tưởng Tư làm Tòng sự. Nước Minh giữ họ lại, Bát nguyệt sơn hà
đến sau bắt được nhà Hồ mới tha về. Thập nguyệt long xa.
Hán Thương lại phải chấn chỉnh bộ máy để có sức mạnh (Tháng hai ở nhà
tiếp tục kháng chiến chống Minh: Tháng tư loạn lạc
Hán Thương gọi Tuyên phủ sứ Thăng Hoa là Nguyễn Tháng năm phong ba
Ngạn Quang về làm Ðại lí chính; lấy Trấn phủ sứ Châu Tháng tám núi sông
Nghĩa là Lê Quang Tổ hành Tuyên phủ sứ Thăng Hoa,
Tháng mười xe rồng).
Hối Khanh làm Chân hành khiển Tả ti Thị lang kiêm lĩnh
Thái thú Thăng Hoa tiết chế Tân Ninh, chuyên trị một Mùa thu, tháng 7, Hán Thương sai các lộ đóng rào sách
phương. Đỗ Mãn phải thôi chức Thượng thư lệnh hữu ở bờ nam sông Cái, từ thành Đa Bang đến sông Lỗ Giang
Tham tri chính sự; lấy Hành khiển Binh bộ Thượng thư và từ châu Lạng đến sông Chú để làm kế phòng giữ.
kiêm Thiên ngưu vệ Ðại tướng quân là Đỗ Nhân Giám Hán Thương hạ lệnh cho dân ở Tam Đái và Bắc Giang
thay. Nội nhân giám quân Thiên cương là Ngô Miễn làm
tích trữ lương thực để qua sông, tìm đất bỏ hoang làm
Hành khiển Thượng thư lệnh hữu Tham tri chính sự,
nhà cửa để sẵn sàng dời sang ở.
kiêm Tri các lăng phủ Thiên Xương.
Hán Thương gọi các quan cũ cho đợi bổ dụng.
Tháng 6, chỏm tháp Báo Thiên gãy rơi xuống. An phủ sứ
Đông Đô là Lê Khải không báo tin ấy bị biếm 1 tư. Tháng 9, nước Minh sai Chinh di hữu Phó tướng quân
Hành khiển môn hạ hữu Ti lang trung là Trần Ngạn đeo ấn chinh di phó tướng quân, Tân Thành hầu Trương
Chiêu bị bãi làm Thượng thư Hộ bộ; lấy Thiêm tri nội Phụ, Tham tướng Huỳnh Dương bá Trần Húc đem 40
mật kiêm Tri thẩm hình viện sự là Nguyễn Cẩn làm Hành vạn quân đánh cửa ải Pha Lu (Ải Nam Quan), Cứ một
khiển Môn hạ Hữu ti Lang trung. người nghỉ, một người đánh thay phiên nhau. Chinh di tả
Phó tướng quân Tây Bình hầu Mộc Thạnh, Tham tướng
Hán Thương bổ thêm hương quân, lấy người có chức tước Hữu quân Ðô đốc đồng tri Phong Thành hầu Lí Bân cũng
tạm coi. Chiêu mộ những người vong mệnh làm quân dũng đem 40 vạn quân đánh cửa ải Phú Lịnh45, bạt núi, chặt
hãn, đặt các chức thiên hộ, bách hộ để cai quản.
cây mở đường để tiến quân. Binh hai đạo cộng là 80 vạn.
Quý Ly mộng thấy thần nhân đọc bài thơ rằng: Tháng 11, họp quân ở sông Bạch Hạc, đóng doanh trại ở
Nhị nguyệt tại gia phía bắc sông Cái, thẳng đến sông Chú.
Tứ nguyệt loạn hoa 45
Gần thị trấn Hà Giang ngày nay.

76 77
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Hán Thương hạ lệnh cho quân ở sông Cái theo sự chỉ Đêm mùng 9, quân Minh đánh úp quân Hồ ở bãi sông
huy của Tả tướng quốc Trừng, quân ở sông Chú theo sự Mộc Hoàn. Tướng coi quân Tả Thần dực là Nguyễn
chỉ huy của Thiêm văn triều chính Hồ Đỗ. Ở phía bên Công Khôi đang vui chơi, không phòng bị, thuyền bị đốt
ngoài thì liên kết thuyền chiến của thuỷ quân. Trên bờ cháy gần hết, toàn quân bị giết, không hề giao chiến với
sông, quân và voi đóng đối diện với doanh luỹ của giặc giặc. Các thuỷ quân ở phía trên và phía dưới không đến
nhưng chưa giao chiến một trận nào. Trước đó, nước cứu; chỉ ở xa hỏi Tướng quốc Trừng rằng ai có thể giữ
Minh sai Thái tử Thái phó Thành quốc công Chu Năng thay chỗ ấy. Quân Minh bèn qua sông làm cầu phao cho
lĩnh chức Tổng binh đeo ấn Chinh di tướng quân, đem đại quân sang.
quân xâm lược phương Nam. Năng đi đến phủ Thái Bình
Sáng sớm ngày 12, tướng Minh là Trương Phụ đem Ðô
tỉnh Quảng Tây thì bị ốm rồi chết. Năng làm sẵn bảng
đốc là Hoàng Trung và đô chỉ huy là Thái Phúc đến đánh
văn kể tội nhà Hồ và phao tin tìm con cháu nhà Trần cho
phía Tây Bắc thành Đa Bang; Mộc Thạnh thì đem bọn
phục lại chức vương. Đến đây bọn Phụ, Thạnh cho viết
lời bảng văn ấy vào nhiều miếng gỗ cho thả trôi xuống đô đốc Trần Tuấn đánh phía Đông Nam thành. Xác chết
dòng sông. Các quân trông thấy tin lời trong bảng. Vả lại chất cao ngang với mặt thành mà quân vẫn đánh, không
họ chán ghét những chính lệnh của nhà Hồ, nên không dám tháo lui.
mấy ai có lòng đánh giặc. Bọn Nguyễn Tông Đỗ là tướng coi quân Thiên trường
Bọn Mạc Địch, Mạc Thuý, Mạc Viễn và Nguyễn Huân là đục thành cho voi ra. Quân Minh lấy tên lửa bắn, voi sợ
bọn bất đắc chí đón hàng quân Minh. Người Minh đều lùi lại, quân Minh theo voi tiến vào nên lấy được thành.
cho làm quan để dụ quân ta. Mặt trận ở dọc sông đều tan vỡ, lui giữ Hoàng Giang.
Quân Minh vào Đông Ðô cướp bắt con gái, của cải, kho
Tháng 10, quân Minh lại đến. Từ sông Lô trở về bắc, ta tàng, đặt quan coi việc, chiêu tập dân xiêu tán, làm kế ở
lại làm kế đồng không nhà trống như lần trước. lâu dài, thiến hoạn những đàn ông trai trẻ, thu lấy tiền
Ngày 12-12, quân Minh lấy được Việt Trì, bờ sông Mộc đồng ở các nơi đem về nước.
Hoàn và chỗ đóng cọc ở sông Bạch Hạc. Tướng chỉ huy Sau các trận thua này, quân đội nhà Hồ suy kiệt.
quân Tả Thánh dực là Hồ Xạ không giữ nổi, phải dời mặt
Ngày 20-2 nãm Đinh Hợi (1407). Tả tướng quốc Trừng
trận sang phía Nam sông Cái.
tiến quân đến sông Lỗ, quân Minh giữ hai bên bờ sông
Đêm mùng 7, quân Minh cho khiêng thuyền ra bãi ở bờ đánh giáp. Quân của Trừng thua, lui giữ cửa biển Muộn
phía Bắc sông Thiên Mạc, tướng quân Trần Đĩnh đánh Hải. Quý Ly và Hán Thương đều về Thanh Hoá. Ở Kinh
bại quân Minh. Tướng Minh đem những tên nào chạy lùi lộ, nhiều người theo giặc làm phản. Hồ Đỗ, Hồ Xạ bỏ
đem chém, từ đó quan, quân liều chết lập công. Bình Than qua cửa Thái Bình, cửa Đại Toàn đến cửa biển

78 79
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Muộn Hải, gồm sức với Trừng đắp luỹ, đúc súng, đóng Nhưng các thuyền chở lương đều bị chìm, cả người cũng
thuyền chống giặc; kêu gọi người nào dâng của thì được chết, không ai về được.
ban tước, con trai thì cho lấy con gái tôn thất và cấp cho
Khi ấy, Hồ Xạ biết quân Minh có mai phục nên không
10 mẫu ruộng.
chịu tiến quân. Hồ Đỗ sai người đến trách rằng: Tướng
Tướng coi quân Thần đinh của nhà Hồ là Ngô Thành, quân sao không đánh giặc. Xạ bèn tiến đánh, bị thua. An
nhân gió theo nước triều lên tiến đánh, xông đến Giao phủ sứ Bắc Giang là Nguyễn Hi Chu bị Trương Phụ bắt
Thuỷ. Phụ và Thạnh chia quân ra hai bên để chặn. Thành được. Hi Chu chửi Phụ Là giặc ác, bị Phụ giết.
thế cô nên bị hãm chết.
Tháng 4, nhà Minh xuống chiếu tìm con cháu nhà Trần
Quân Minh đối luỹ với quân nhà Hồ, ngày đêm đánh lập làm quốc vương. Các quan lại bị bắt và bô lão đều nói
nhau, vì nắng mưa sinh ra ốm đau dịch bệnh, lại thêm là bị họ Lê giết hết cả rồi, không người nào có thể nối
bùn lầy ẩm ướt khó ở, bèn dời đến đóng ở cửa Hàm Tử, dõi nhà Trần được nữa. Nhà Minh đặt Giao Chỉ Đô chỉ
lập trại để nghiêm phòng. huy sứ ti; Thừa tuyên bố chính sứ ti; Đề hình án sát sứ ti
Tả tướng quốc Trừng và Hồ Đỗ cũng dời quân đến và các nha môn vệ, sở, phủ, châu huyện; lấy Đô chỉ huy
Hoàng Giang. Lại đón Quý Ly và Hán Thương từ Thanh Lữ Nghị làm Đô ty, Bắc Kinh hành bộ thượng thư Hoàng
Hoá ra. Bấy giờ người ở Kinh lộ bị người Minh sai khiến Phúc giữ hai ti Bố Chính, Án Sát.
và bị mất cả gia thuộc, mang lòng oán giận, các quân
nhân và các đinh nam đều đến cửa quân môn tự nguyện Quý Ly và Hán Thương đem các tướng tá liêu thuộc vượt
gắng sức lập công. biển về Thanh Hoá.

Ngày 30-3, Tả tướng quốc Trừng cùng Hồ Đỗ, Đỗ Mãn Ngày 23, quân Minh đánh vào sông Lỗi Giang46. Quân
tiến quân đến cửa Hàm Tử. Hồ Xạ và Trần Đĩnh lĩnh nhà Hồ không đánh mà tan vỡ.
quân bộ ở bờ sông phía Nam; Đỗ Nhân Giám và Trần Ngày 29, quân Minh đánh cửa biển Điển Canh (sông
Khắc Trang lĩnh quân bộ ở bờ sông phía Bắc; Nguyễn Ghép, Thanh Hóa), quân nhà Hồ bỏ thuyền chạy. Hồ
Công Chửng đem 100 chiếc thuyền chiến làm tiên phong. Quý Ly và Hán Thương muốn lánh đến Thâm Giang
Nguyên Trừng và Hồ Đỗ ở trung quân. Đỗ Mãn và Hồ (sông Ngàn Sâu, Hà Tĩnh) rồi lại không đi. Nguỵ Thức
Vấn lĩnh quân thuỷ. Cả thuỷ và bộ cộng 7 vạn quân, phao xin hai họ Hồ tự thiêu mình, nói: “Nước đã gần mất,
tin tăng lên là 21 vạn, đều cùng tiến đánh. Quân Minh 46
Đoạn sông Mã gần sát thành Tây Đô, từ xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Lộc đến
chia ra hai mặt thuỷ bộ để đánh lại. Quân bộ hai bên bờ xã Cẩm Tân, Cẩm Thuỷ; ở giữa dòng sông có những gò cát, dòng
sông của nhà Hồ không đánh nổi đều cầm ngược giáo chảy chia đôi nên được gọi là “lỗi”. Nhất định quân nhà Hồ vẫn có
chống cự, dù vẫn thất bại. Có lẽ do các sử gia hậu thời Trần, Hồ
nhảy xuống sông chết cả, chỉ có quân thuỷ được thoát. không có thiện cảm với nhà Hồ nên đã chép vậy.

80 81
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

vương giả không nên chết vì tay người khác”, Quý Ly Trương Thắng, Đô chỉ huy Du Nhượng, chỉ huy Ðồng tri
giận đem chém. Lương Đỉnh, chỉ huy Thiêm sự Thân Chí giải Quý Ly và
Ngày 5-5, quân Minh đánh cửa biển Kì La châu Nhật các con Hán Thương, Trừng, Triệt, Uông cùng các quan
lại, con cháu bắt được về Kim Lăng.
Nam, Nguyễn Đại trước làm quan Nhà Hồ, sau làm phản
đầu hàng quân Minh, nay dẫn giặc Minh sang xâm lược, Khi đến Kim Lăng, vua Minh hỏi rằng: “Trung Quốc như
bắt được Hữu tướng quốc Hồ Quý Tỳ và con là Phán thế sao không sợ phục mà dám xấc xược chống cự?”. Tất
trung đô Nguyên Cữu. cả đồng loạt trả lời là: Không biết.
Tháng 6, quân Minh đánh Vĩnh Ninh, vệ quân là bọn Đối với những kẻ hèn nhát, cúi đầu hàng giặc như Vương
Vương Sài Hồ bắt được Quý Ly ở ghềnh Chẩy Chẩy; Nhữ Tương, Đồng Ngạn Hú, Lê Sư Khải, nhà Minh giả vờ
Giao Châu hữu vệ quan là bọn Lý Bảo bắt được Tả tướng cho đi làm quan ở một số nơi, nhưng đi nửa đường thì
quốc Trừng ở cửa biển Kì La. Ngày 12, đầu mục bộ hạ cho quân giết.
của Mạc Thuý và bọn Nguyễn Nhữ Khanh bắt được Hán Những người trung kiên, không đầu hàng nhà Minh thì
Thương và Thái tử Nhuế ở trong núi Cao Vọng. Tướng không bị giết mà chỉ bị lưu đày làm lính, đưa đi canh giữ
quân Hồ Đỗ, Phạm Lục Tài, Nguyễn Ngạn Quang, Đoàn Vạn Lí trường thành, các nơi biên ải, trong số đó có cả
Bồng đều bị bắt. Còn bọn Trần Nhật Chiêu, Nguyễn Phi vua Hồ. Riêng Hồ Nguyên Trừng, sau một thời gian lưu
Khanh, Nguyễn Cẩn, Đỗ Mãn đều đã hàng quân Minh đày được nhà Minh trọng dụng. Đến cuối chặng đường
trước rồi. làm quan nhà Minh, ông được bổ dụng Thượng thư bộ
Duy có Hành khiển hữu Tham tri chính sự là Ngô Miễn Công (1445-1446). Ông mất năm 1446, thọ 73 tuổi,
và Trực chưởng là Kiều Biểu nhảy xuống nước tự vẫn. hiện còn khu mộ chí47.
Khi Ngô Miễn chết, vợ là Nguyễn Thị ngửa mặt lên trời Đời nay còn nhớ về ông:
than rằng: “Chồng ta thờ vua, một đời ăn lộc, ngày nay
“Nam ông mộng lục, lòng son sắt,
giữ tiết nghĩa mà chết, thế là chết được đáng chỗ; lại còn
oán hận gì nữa; thiếp nếu nương náu để sống há không Đúc súng bằng đồng, chí liệt oanh”.
có chỗ đi sao, chỉ nghĩ rằng đạo chồng, ơn vua mà phụ Mặc dù sau khi dẹp yên chư hầu của họ phía Nam, nhà
bạc, ta không nỡ thế, thà rằng ta chết theo chồng”. Nói Hồ cũng đã dày công chuẩn bị cho cuộc kháng chiến
xong, bà liền nhảy xuống nước chết. chống Minh xâm lược, cả về quân số, vũ khí, thành luỹ,
Trương Phụ, Mộc Thạnh sai Ðô đốc thiêm sự Liễu Thăng, phòng tuyến phòng thủ khá kiên cố nhưng chỉ sau gần
Hoành hải tướng quân Lỗ Lân, Thần cơ tướng quân 47
Tư liệu do ông Hồ Diến, khu 1 Thị Trấn Vĩnh Lộc cung cấp.

82 83
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

một năm giao tranh với giặc, quân đội nhà Hồ đã bị thất Thành nhà Hồ gồm ba bộ phận: La thành, Hào thành và
bại hoàn toàn. Nguyên nhân trực tiếp có thể là do: 80 Hoàng thành. La thành là vòng ngoài cùng, chu vi khoảng
vạn quân Minh chỉ tập trung ở hai mũi tấn công có phần 4 km. Hào thành bao quanh bốn phía ngoài nội thành,
mạnh hơn quân đội nhà Hồ phân tán phòng giữ nhiều cách chân thành theo các hướng khoảng 50m, có chức
nơi. Nguyên nhân xâu xa là do tài năng cầm quân của vua năng bảo vệ nội thành. Hoàng thành được xây dựng trên
quan, tướng lĩnh có hạn, cộng thêm ý chí chiến đấu của bình đồ có hình gần vuông. Chiều Bắc - Nam dài 870,5m,
tướng lĩnh, quân dân nhà Hồ sa sút. chiều Đông - Tây dài 883,5 m. Bốn cổng thành theo
Câu nói của Hồ Nguyên Trừng, người nắm một phần chính hướng Nam - Bắc - Tây - Đông gọi là các cổng
vận mệnh quốc gia; là tổng chỉ huy quân đội nhà Hồ Tiền - Hậu - Tả - Hữu. Toàn bộ tường thành và bốn cổng
ở giai đoạn cuối “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân chính được xây bằng những phiến đá vôi màu xanh, được
không theo” cho thấy nhà Hồ rất hiểu rằng đại đoàn đục đẽo tinh xảo, vuông vức, xếp chồng khít lên nhau.
kết toàn dân tộc sẽ tạo ra sức mạnh vô địch, quyết định Các phiến đá dài trung bình 1,5 m, có tấm dài tới 6 m,
mọi thành bại các cuộc cải cách, canh tân đất nước và cả trọng lượng ước nặng 24 tấn. Tổng khối lượng đá được
kháng chiến chống lại mọi cuộc xâm lăng. sử dụng xây thành khoảng 20.000 m³ và gần 100.000 m³
đất được đào đắp công phu.
Thất bại của cuộc kháng chiến chống Minh dẫn đến vương
triều Nhà Hồ sụp đổ, đồng nghĩa kết thúc công cuộc cải Cửa Tiền
cách, canh tân đất nước đang còn dang dở của ông.
Cửa Tiền của thành nhằm hướng Đông Nam, cửa này có
3 vòm cuốn, theo số liệu đo đạc của đoàn chuyên gia
6 Một số tư liệu về Thành nhà Hồ và
các di tích vệ tinh tiêu biểu Nhật Bản: Chiều cao từ chân đến nóc cửa này là 7,89 m;
Vòm cuốn chính giữa cao 5,75m; rộng 5,82 m; dài 15,04 m.
Vốn là kinh đô nước Đại Ngu, nằm trên mảnh đất Vĩnh Hai vòm cuốn hai bên đều cao 5,35 m, rộng 5,45 m.
Lộc thuộc tỉnh Thanh Hoá, Thành nhà Hồ còn được biết
đến với những tên gọi khác như thành Tây Đô, thành
An Tôn, thành Tây Kinh. Đây là toà thành có quy mô
lớn hiếm hoi ở Việt Nam và là một trong rất ít những
công trình kiến trúc bằng đá còn lại trên thế giới. Ngày
27/6/2011, tại Paris (Pháp), trong kì họp lần thứ 35 của
Uỷ ban Di sản thế giới, UNESCO đã công nhận thành
Nhà Hồ là di sản văn hoá thế giới.

84 85
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Cửa Hậu Đôi rồng đá


Cửa Hậu nhằm hướng Ở khoảng trung tâm toà thành hiện còn lại đôi rồng đá,
Tây Bắc. Chiều cao từ được phát hiện vào năm 1938 trong lúc làm con đường
chân lên nóc cửa này đi xuyên từ Cửa Nam lên Cửa Bắc (đường 217). Đôi
là 7,35m, chiều cao rồng này vốn là một cặp thành bậc cửa của một kiến trúc
vòm cuốn là 5,40m, quan trọng trong thành. Chúng đã bị dịch chuyển khỏi
chiều rộng vòm cuốn vị trí ban đầu. Đôi rồng đã bị mất phần đầu. Phần còn lại
là 5,80m; dài 15m. có thân dài uốn lượn hình sin, mình phủ vảy hoa, bờm
dài, bốn chân có móng sắc nhọn...là đặc điểm của rồng
Hai cửa phía Đông Bắc và Tây Nam tượng trưng cho quyền lực nhà vua ở thời Trần và thời
Hai cửa phía Đông Bắc và Tây Nam có chiều cao vòm Hồ nói riêng, cho các vương triều Việt Nam nói chung.
cuốn đều là 5,40m; chiều rộng vòm cuốn đều là 5,80m. Đây cũng là cặp rồng kiến trúc Hoàng cung sớm nhất
Trên đỉnh hai vòm cuốn này đang để những phiến đá của Việt Nam được phát hiện cho đến nay.
“mỏ”chờ lắp ráp hoàn chỉnh mặt cổng thành. Khi đó,
có thể giặc Minh đã sang xâm lược nước ta nên hai cửa
thành này còn để dở dang. Tại hai cửa thành này có
nhiều phiến đá dài đúng 5m, cao từ 1,1m đến 1,2m; rộng
trên 2m. Thành nhà Hồ tuy là hình chữ nhật, Nhưng
chiều dài chỉ hơn chiều rộng 13m; chiều dài theo hướng
Đông - Tây là 883,5m; chiều rộng theo hướng Bắc - Nam
là 870,5m.

86 87
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Tiền giấy Đàn tế Nam Giao


Một trong những Đàn tế Nam Giao nằm ở phía Nam kinh thành, được
cải cách lớn của nhà xây dựng năm 1402 để làm nơi thực hiện các nghi lễ của
Hồ chính là phát kinh đô. Dấu tích kiến trúc đàn tế chạy theo hướng Bắc
hành tiền giấy. Đây - Nam là 250m, hướng Đông - Tây là 150m với tổng diện
là hình ảnh tiền giấy tích 35.000m2. Đàn được chia làm nhiều tầng giật cấp
nhà Hồ. cao dần lên, trong đó tầng đàn trung tâm cao 21,70m so
với mực nước biển, chân đàn có độ cao khoảng 10,50m
Thần cơ sang pháo so với mực nước biển. Hiện nay, bước đầu đã khai quật
được khoảng 15.000m2 và phát lộ được cấu trúc tổng
Thần cơ sang pháo là phát minh lớn về vũ khí của thời
thể của phần đàn trung tâm bao gồm ba vòng tường đàn
nhà Hồ và cũng là của toàn lịch sử dân tộc; là thành quả
bao bọc lẫn nhau.
sáng tạo của nhà sáng chế lỗi lạc Hồ Nguyên Trừng. Đây
được coi là kiểu đại bác đầu tiên ở nước ta, sử dụng đạn
đúc bằng chì, gang hoặc đá, có sức công phá rất cao. Sau
khi nhà Hồ thua trận trước quân Minh, vua nhà Minh đã
bắt Hồ Nguyên Trừng về dạy cách chế súng thần cơ để
trang bị cho quân đội của mình.

88 89
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Giếng Vua Đền thờ Trần Khát Chân


Giếng Vua nằm trong Đền thờ Trần Khát Chân toạ lạc trên lưng chừng núi
khuôn viên đàn tế Cánh Cung, thuộc thôn Cao Mật, nay là xã Vĩnh Thành,
Nam Giao. Giếng vua huyện Vĩnh Lộc (Thanh Hoá). Đền nằm trên sườn non
được phát hiện năm cao, ẩn mình trong tầng tầng lớp lớp các tán cây cổ thụ.
2009, cách Thành Kiến trúc của ngôi đền theo kiểu chữ NHỊ có chuôi vồ,
nhà Hồ khoảng 2km.
mái thấp với những hàng cột tương đối lớn bằng gỗ quý.
Đền thờ nàng Bình Khương Ánh sáng tự nhiên không rọi thẳng vào ngôi đền mà được
va đập khúc xạ qua các hệ thống cửa và lối vào. Không
Ngay cạnh cửa Đông là đền thờ Nàng Bình Khương. gian trong đền tối với thứ ánh sáng huyền ảo của đèn nến,
Tương truyền khi xây thành, ở phía Đông có một đoạn
mùi thơm của hương khói tạo một cảm giác linh thiêng.
thành cứ xây lên là đổ. Hồ Quý Ly cho rằng người đốc
Trong đền, các đồ thờ tự cổ còn khá nhiều, mang đậm lối
công ở đây là Trần Công Sỹ có ý làm phản nên đem ra
chém đầu. Vợ của Trần Công Sỹ là nàng Bình Khương trang trí thời hậu Lê: Hương án, bệ ngai, hoành phi, câu
thấy chồng bị oan, kêu mãi không thấu bèn vỗ tay, đập đối, lư hương, các sắc phong, bài vị và tượng voi ngựa,...
đầu xuống đá. Nhân dân đã lập đền thờ để tưởng nhớ bà. Trong ngôi đền không có một pho tượng nào, kể cả trong
Hiện trên tảng đá vẫn còn vết lõm sâu hình giống vòm cung cấm, chỉ có các bài vị, tay ngai được khoác phục
trán và dấu bàn tay. trang mũ mão đại lễ.
Các sắc màu y phục
vàng xanh, các đồ
thờ tự, tay ngai, kiệu
có màu nâu đen thếp
vàng... Đặc biệt, đền
thờ Trần Khát Chân
kiêng đồ màu đỏ,
tương truyền do ngài
chết bởi gươm đao.

90 91
Hồ Quý Ly - Hoàng ðế cách tân

Động Hồ Công Tường Vân tự (Chùa Giáng)


Động Hồ Công toạ lạc trên núi Vân Đài (Xã Vĩnh Ninh, Tường Vân tự (Chùa Giáng) là một ngôi chùa cổ được
huyện Vĩnh lộc), là một trong những động đẹp nhất Việt xây dựng từ triều vua Trần Duệ Tông (1372-1377), toạ
Nam. Nơi đây đã lưu lại những bút tích của nhiều vị danh lạc ở chân núi Đốn Sơn (Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hoá).
sĩ Việt Nam, đặc biệt là của vua Lê Thánh Tông, Chúa
Trịnh Sâm, thân sinh nhà thơ Nguyễn Du - cư sĩ Nguyễn Truyền thuyết kể rằng, dưới triều vua Lê Duệ Tông, giặc
Nghiễm,… Động Hồ Công cách thành nhà Hồ khoảng Chiêm Thành đem quân ra cướp phá quấy nhiễu dân
4,5 km về hướng đông nam, có chiều dài 45m, chiều cư, triều đình đã phái quan quân đi đánh nhưng không
rộng 23m, được tạo hoá hình thành bởi những tấm đá
xanh, vuông xếp chồng lên nhau thành nhiều hình dáng
đem đến cho động một vẻ đẹp kì bí.

92 93
được, nhà vua phải thân chinh dẫn quân đi dẹp giặc. Trên
đường đi qua địa phận Đốn Sơn, thấy nơi đây phong cảnh
sơn thuỷ hữu tình, bốn bên có núi, sông bao bọc, quả là
M ỤC LỤC
1. Bối cảnh xã hội cuối triều Trần (Cuối thế kỉ XIV) .. . . . . . . . 5
một khu thắng địa, nhà vua bèn cho nghỉ lại.
2. Quá trình tham chính và
Đêm hôm đó, Vua nằm mộng thấy có một đám mây vàng công cuộc canh tân đất nước của Hồ Quý Ly . . . . . . . . . . . . . 12
tựa dải lụa cứ ẩn hiện trông rất kì lạ. Bừng tỉnh dậy, biết
2.1. Canh tân trong lĩnh vực quân sự . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 13
mình nằm mộng, Vua đem chuyện kể cho quân tướng
2.2. Công cuộc cải cách kinh tế .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 17
nghe, mọi người đều cho là điềm lành giúp nhà Vua trừ
2.3. Canh tân lĩnh vực văn hoá . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 24
giặc. Hôm sau, Vua sai quan làm đàn tế tạ trời đất rồi
2.4. Về cải cách giáo dục .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 29
đem quân đi thảo phạt giặc. Trong lúc thế trận không
2.5. Những tiến bộ về y tế .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 33
phân thắng bại, đột nhiên trời đất bỗng tối sầm, mây mù
2.6. Về xây dựng cơ sở hạ tầng .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 34
kéo đến, sấm chớp nổi lên làm rung chuyển cả vùng đất.
2.7. Về ban hành các luật, lệ để quản lí, điều hành xã hội .. . . . . 35
Trên không trung xuất hiện một đám mây vàng tựa như
đám mây nhà Vua nằm mộng. Mây chao đảo trước quân 3. Cải tổ nội các và bộ máy cai trị . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 37
giặc, quân Chiêm thấy thế hoảng loạn. Nhà vua thừa 4. Quan điểm về vua Hồ Quý Ly .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 69
thắng thúc quân xông lên đánh cho quân Chiêm tan rã.
5. Cuộc chiến không cân sức giữa nhà Hồ với nhà Minh .. . . . . 72
Khải hoàn trở về, Vua mở yến tiệc khao thắng trận, luận
6. Một số tư liệu về Thành nhà Hồ và
công thưởng phạt, sai quần thần về núi Đốn Sơn lễ tạ, ra các di tích vệ tinh tiêu biểu .. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 84
Sắc lệnh cho bản dân lập một ngôi chùa nhỏ ở ngay khu
vực tế lễ năm xưa, đồng thời đặt tên chùa theo ý nghĩa
đám mây, đó là Tường Vân Tự (chùa ghi nhớ về điềm
mây lành).

94 95
XI-NHÊ

View publication stats

You might also like