Professional Documents
Culture Documents
Sau thất bại này, phe chủ chiến của nhà Tống vẫn chưa từ bỏ dã
tâm xâm lược nước ta. Tháng 1-1077, 10 vạn bộ binh, 1 vạn ngựa,
20 vạn dân phu do hai viên tướng thiện chiến Quách Quỳ, Triệu
Tiết chỉ huy đã tiến vào nước ta theo nhiều đường. Khí đương
hăng, địch chọc thủng các tuyến phòng ngự của ta ở biên giới và
vùng Giáp Khẩu (Kép, Bắc Ninh) rồi về xuôi nhưng đã bị chặn lại
ở phòng tuyến sông Cầu. Thế cuộc đang giằng co, một đêm trên bờ
nam sông Cầu, trong đền Thánh Tam Giang vang lên lời thơ:
Quân ta tinh thần phấn chấn, đẩy lui địch về bên kia sông. Trong
khi đó, cánh thủy quân địch cũng bị chặn đứng từ ngoài cửa biển.
Quách Quỳ ra lệnh đóng bè vượt sông, tiến binh lần thứ hai. Chờ
cho bè giặc đến giữa sông, Lý Thường Kiệt lại cho quân ra đánh.
Hầu hết quân địch bị tiêu diệt hoặc đầu hàng.
Hơn một tháng trời, địch bị hãm tại phòng tuyến sông Cầu. Nắm
chắc thời cơ, Lý Thường Kiệt cho biện sĩ sang sông lấy điều lợi hại
khuyên răn. Sức cùng lực kiệt, tháng 3-1077, quân Tống rút chạy.
Quân Tống rút đến đâu, Lý Thường Kiệt cho quân thu lại đất đai
đến đó. Đấy là các châu Quang Lang, Môn, Tô Mậu, Tư Lang.
Riêng châu Quảng Nguyên (Cao Bằng), nhà Tống định chiếm
nhưng rồi phải trả lại năm 1079.
Nhà Tống đã hao tổn hơn 5 triệu lạng vàng, quân còn được hai
phần. Năm 1164, nhà Tống phải công nhận Đại Việt là một quốc
gia độc lập và trong khoảng 200 năm, không dám quấy nhiễu.
Tháng Sáu năm Ất Dậu (1105), Lý Thường Kiệt qua đời, thọ 86
tuổi. Vua truy tặng Nhập nội điện Đô tri Kiểm hiệu Thái úy Bình
chương Quân quốc trọng sự Việt Quốc công, cho thực ấp một vạn
hộ. Trên đất Hà Nội, có nhiều nơi thờ Lý Thường Kiệt: đền Thiên
Tiên ở phố Hàng Bông, đền Cơ Xá ở phố Nguyễn Huy Tự... Tại
phía nam nội thành Hà Nội, trên đất làng Nam Đồng, thuộc
phường Thịnh Quang đời Lê, có ngôi đình thờ Việt Quốc công.
Vốn hơn 900 năm trước, Nam Đồng còn hoang vu, Lý Thường
Kiệt đã dùng đất này để luyện quân. Sau khi ông qua đời, dân làng
nhớ ơn đã dựng đình thờ, quy mô khá lớn. Tòa đại đình 5 gian bộ
khung toàn bằng gỗ lim, treo câu đối của Hoàng giáp Nguyễn
Thượng Hiền ca ngợi Lý Thường Kiệt và quả chuông đúc năm
Chính Hòa (1687) với bài minh khắc trên chuông xác định quê
hương ông. Tả vu đình có phòng trưng bày ảnh giới thiệu công
danh của Lý Thường Kiệt. Tại đây, cùng với bài thơ “Nam quốc
sơn hà”, còn có bảng chữ trích bốn câu trong diễn ca Lịch sử nước
ta và ký họa của Hồ Chủ tịch viết về người anh hùng dân tộc: