You are on page 1of 42

HẢI PHÒNG

Chương I

VÙNG ĐẤT HẢI PHÒNG


LỊCH SỬ

THỜI NGÔ, ĐINH VÀ


TIỀN LÊ
(938 - 1009)
CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 15

C hiến thắng Bạch Đằng cuối năm 938 là trận chung kết
lịch sử toàn thắng của dân tộc Việt Nam; chấm dứt vĩnh
viễn hiểm họa nô dịch và đồng hóa kéo dài hơn một nghìn năm
của phong kiến phương Bắc, mở ra kỷ nguyên độc lập lâu dài và
phục hưng toàn diện của đất nước. Ngay sau chiến thắng, Ngô
Quyền quyết định bỏ chức Tiết độ sứ, tự xưng Vương, đặt ra các
chức quan văn, võ, quy định các lễ nghi trong triều và màu sắc
quan phục các cấp, kiên quyết cắt đứt mọi quan hệ lệ thuộc đối
với nước ngoài, xây dựng một chính quyền quân chủ tập trung,
một vương quốc độc lập. Đặc biệt, ông đã cho tu sửa lại kinh đô
Cổ Loa (xã Cổ Loa, huyện Đông Anh, Hà Nội) để góp phần tiếp
tục sự nghiệp dựng nước và giữ nước đời Hùng Vương - An Dương
Vương, khẳng định quyết tâm giữ vững nền độc lập dân tộc non
trẻ vừa mới giành lại được. Ngô Quyền trị vì đất nước chưa đầy
6 năm mà sự nghiệp dựng nước của ông, sau này đã được nhà sử
học Lê Văn Hưu (1230 - 1322) nhận xét: “Chính thống của nước
Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được”1. Đây là một bước tiến rất dài,
rất căn bản của lịch sử Việt Nam.

I- VÙNG ĐẤT MIỀN ĐÔNG BẮC SAU KHI ĐẤT NƯỚC


GIÀNH ĐƯỢC ĐỘC LẬP
1. Vị thế của vùng đất miền Đông Bắc dưới thời Ngô, Đinh
và Tiền Lê

Phạm vi đất nước ta dưới thời nhà Ngô không được sử sách
chép đầy đủ, nhưng cũng có thể hình dung được về cơ bản vẫn là
phạm vi của nước Âu Lạc hơn một nghìn năm trước. Tuy nhiên,

1. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993,
t.I, tr.205.
16 LỊCH SỬ HẢI PHÒNG Tập II (Từ năm 938 đến năm 1888)

quyền lực chủ yếu của nhà Ngô trong buổi đầu dựng nước có lẽ
vẫn chỉ tập trung ở khu vực châu thổ sông Hồng, trung du Bắc Bộ
và khu vực đồng bằng và trung du Thanh - Nghệ, nghĩa là vẫn
trên địa bàn hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân trước đây. Lúc này,
nền độc lập dân tộc tuy mới giành lại được nhưng vẫn còn hết
sức non trẻ. Đất nước và triều đình nhà Ngô vẫn còn đứng trước
muôn vàn thử thách hiểm nghèo, trong đó nguy cơ tái xâm lăng
từ phương Bắc và nguy cơ lấn chiếm từ phương Nam vẫn đang
hằng ngày, hằng giờ đe dọa. Đóng đô ở Cổ Loa, Ngô Quyền muốn
dựa vào thành cao, hào sâu ở vị trí đầu mối của các luồng giao
thông thủy bộ giữa trung tâm miền châu thổ để triều đình trung
ương có thể nắm chắc toàn bộ miền châu thổ mà vươn ra quản lý
toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Vùng địa đầu miền Đông Bắc và vùng
đất phía Nam trở thành những vùng đất trọng yếu nhất trong
toàn bộ chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước của nhà Ngô.
Trước khi kéo quân ra Bạch Đằng tiêu diệt quân Nam Hán,
Ngô Quyền đã từng được Dương Đình Nghệ giao trấn giữ vùng
Châu Ái (Thanh Hóa). Người được Ngô Quyền đặc biệt tin dùng
đặt vào vị trí hết sức quan trọng này là Đinh Công Trứ, cha đẻ
của Đinh Bộ Lĩnh. Đinh Công Trứ từng được giao trấn giữ Châu
Hoan (khu vực Nghệ - Tĩnh) dưới thời Dương Đình Nghệ, là người
đã cùng với Ngô Quyền làm nên chiến thắng Bạch Đằng lịch sử
và giờ đây được Ngô Quyền cử về tiếp tục trấn trị vùng đất “đầu
sóng ngọn gió” ở phương Nam. Đối với vùng đất địa đầu miền
Đông Bắc, đặc biệt là khu vực Hải Phòng, Hải Dương - áo giáp
chở che cho kinh thành Cổ Loa, Ngô Quyền đưa những người
thân tín nhất, những tướng tá, những hào trưởng lập được công
đầu trong trận thắng Bạch Đằng nắm giữ những vị trí then chốt.
Vùng đất Trà Hương thuộc Nam Sách Giang (nay là khu vực
huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương) án ngữ dòng sông Thái Bình
và con đường huyết mạch nối liền kinh thành Cổ Loa với cửa ải
CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 17

Bạch Đằng được Ngô Quyền giao cho Phạm Lệnh Công trấn trị.
Phạm Lệnh Công không chỉ là bậc hào trưởng có uy tín cao trong
dân chúng, mà còn là người có công lớn trong trận Bạch Đằng,
nhất là việc cung cấp và bảo đảm hậu cần cho chiến trận. Được
Ngô Quyền tin dùng, trọng thưởng, ông rất mực trung thành,
không chỉ là “tai mắt” mà thực sự là cơ sở quan trọng nhất, chỗ
dựa vững chắc cho Ngô Quyền và triều đình nhà Ngô1. Đặc biệt,
vùng đất nội thành Hải Phòng hiện nay vốn là nơi Ngô Quyền
bài binh bố trận, trực tiếp làm nên kỳ tích anh hùng năm 938,
dưới mắt ông đương nhiên phải là vùng quan ải hiểm yếu nhất
của đất nước. Sau ngày chiến thắng, ông đã bố trí một lực lượng
quân đội ở lại xây dựng và bảo vệ vùng đất này. Sử cũ không ghi
chép về chủ trương này của Ngô Quyền, nhưng từ những di tích
lịch sử, ngọc phả, thần tích và ký ức dân gian phần nào cho thấy
không chỉ công việc huy động sức người, sức của, chuẩn bị và bố
trí chiến trường mà cả những công việc xây dựng và bảo vệ vùng
đất cửa sông sau khi cuộc kháng chiến kết thúc.
Theo thần tích đình Gia Viên (quận Ngô Quyền, Hải Phòng),
ở quận Kinh Môn (khu vực phía đông Hải Dương và Hải Phòng
hiện nay) có nhiều người hăng hái kéo về giúp đỡ nghĩa quân,
trong đó nhân dân huyện An Dương theo giúp đông nhất. Sau

1. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.205.


Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nam Sách Giang là
phủ Nam Sách, còn Trà Hương là tên cũ của huyện Kim Thành thuộc tỉnh
Hải Dương. Tuy nhiên, Nam Sách Giang ở đây bao gồm cả phủ Nam Sách
và phủ Kinh Môn (Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông
giám cương mục, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, t.1, tr.225). Theo Đặng
Xuân Bảng trong Sử học bị khảo, thì phủ Nam Sách có các huyện Chí Linh,
Thanh Lâm, Bình Hà (Thanh Hà và Tiên Lãng), còn phủ Kinh Môn có
các huyện Giáp Sơn, Đông Triều, Thủy Đường, Kim Thành, An Lão, Nghi
Dương, An Dương (Đặng Xuân Bảng: Sử học bị khảo, Nxb. Văn hóa Thông
tin, Hà Nội, 1997, tr.395). Như thế, địa bàn Nam Sách Giang phủ gần kín
vùng đất trung tâm của Hải Phòng hiện nay.
18 LỊCH SỬ HẢI PHÒNG Tập II (Từ năm 938 đến năm 1888)

này các làng xã theo giúp Ngô Quyền đều thờ ông làm thành
hoàng của làng xã mình. Vì người dân địa phương có góp công
lao lớn vào chiến công chung của dân tộc; và hơn nữa, vị trí hết
sức hiểm yếu của vùng cửa sông trong chiến lược phòng thủ đất
nước trước nguy cơ xâm lược của các đế chế phương Bắc, Ngô
Quyền đã đặc biệt quan tâm, khen thưởng, nâng đỡ người dân
trong vùng. Ông quyết định miễn mọi thứ binh lương, thuế khóa
cho dân các làng Gia Viên, Quang Đàm cùng nhiều làng xã khác.
Chế độ này còn được duy trì mãi về sau. Những người chỉ huy
các đội dân binh như Đào Nhuận, Nguyễn Tất Tố (người làng
Gia Viên) trưởng thành trong chiến đấu đã tự nguyện ở lại xây
dựng quê hương. Nhiều vị tướng lần đầu tiên có mặt ở vùng đất
cửa sông này, sau chiến thắng, cũng không ngại ngần đem cả
gia đình và dòng họ về đây lập quê hương mới. Đó là trường hợp
dòng họ Phạm ở xã An Đà, huyện An Dương (nay là phường Đằng
Giang, quận Ngô Quyền). Theo truyền thuyết, ông tổ dòng họ vốn
là người nơi khác theo Ngô Quyền đến đánh trận Bạch Đằng và
sau ngày chiến thắng, ông đã mang cả vợ con và tộc thuộc đến
đây khai cơ lập nghiệp. Tuy không có gia phả dòng họ nào chép
cụ thể về thế thứ ngược lên đến giữa thế kỷ X, nhưng cũng có
thể tin truyền thuyết dân gian rằng nhiều dòng họ ở khu vực các
huyện An Dương, Thủy Nguyên, quận Hải An ngày nay vốn đều
có nguồn gốc từ những chiến tướng, chiến binh của Ngô Quyền tự
nguyện hay được giao trách nhiệm ở lại trông giữ vùng đất trọng
yếu nơi cửa sông này.
Ở các đình Phụng Pháp, miếu Hai Xã..., hiện nay vẫn còn
giữ được đạo sắc năm Tự Đức thứ 33 (1880) phong cho 17 xã
thuộc khu vực huyện An Dương thờ Ngô Vương là các xã Đông
Khê, Phụng Pháp, Hàng Kênh, Dư Hàng, An Biên, Vĩnh Lưu, Hạ
Đoạn, Đoạn Xá, Vạn Mỹ, Trực Cát, Đông Xá, Cát Bi, Gia Viên,
Lạc Viên, Thượng Lý, Hạ Lý, An Chân. Cũng trong năm này, vua
CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 19

Tự Đức phong sắc cho 6 tổng ở An Dương (nay thuộc các quận Hải
An, Ngô Quyền) thờ Ngô Quyền là các tổng Lương Xâm, Trung
Hành, Trực Cát, Đông Khê, Hạ Đoạn, Da Viên (sau này viết
không chuẩn là Gia Viên). Sách Đồng Khánh địa dư chí, quyển 7
(tỉnh Hải Dương) cũng chép rõ: “Miếu Tiền Ngô Vương: Từ huyện
An Dương trở xuống đến xã Lương Xâm đều phụng thờ”1.
Vùng đất huyện An Dương xưa, trong khoảng thời gian hơn
một thế kỷ qua, đã dần dần đô thị hóa và hầu hết được tích hợp
vào khu vực phố phường thuộc nội thành Hải Phòng. Nhiều làng
cũ không còn, nhiều phố mới, làng mới xuất hiện, dân cư trải qua
nhiều đổi thay, xáo trộn, nhưng người dân địa phương vẫn giữ
phong tục cổ truyền thờ Ngô Quyền làm thành hoàng. Hầu như
không có làng nào, xã nào, phố nào trong vùng lại không có đình,
chùa, đền, miếu thờ chính hay thờ vọng Ngô Quyền. Người ta gộp
chung tất cả công lao, ân đức của Ngô Vương và của nhà Ngô, để
thiêng hóa thành một vị thành hoàng đại diện chung cho cả khu
vực là Ngô Quyền. Đó là quá trình phát triển bình thường của
truyền thống dân tộc, phong tục tập quán địa phương. Bên cạnh
hiện tượng thờ Anh hùng dân tộc Ngô Quyền còn xuất hiện việc
thờ cúng các vua đời sau và các tướng lĩnh khác.
Trong số những người con của Ngô Quyền lúc này chỉ có Ngô
Xương Ngập là đến tuổi trưởng thành và được giao trọng trách
chỉ huy một cánh quân quan trọng nhất bên cạnh ông ở đại bản
doanh (khu vực làng Gia Viên xưa, nay là khu vực trụ sở Ủy ban
nhân dân thành phố Hải Phòng). Lực lượng này được bố trí dọc
theo sông Cấm, có nhiệm vụ triệt để lợi dụng địa hình thuận lợi,
phối hợp chặt chẽ với cánh quân của Đỗ Cảnh Thạc đánh chặn
đoàn thuyền quân Nam Hán ở cửa Nam Triệu cũ (tức là cửa

1. Đồng Khánh địa dư chí, q.7, tỉnh Hải Dương (bản chữ Hán), lưu tại
Phòng Tư liệu Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.
20 LỊCH SỬ HẢI PHÒNG Tập II (Từ năm 938 đến năm 1888)

sông Cấm đổ ra và hòa vào sông Bạch Đằng), không cho chúng
tiến sâu vào nội địa theo đường sông Cấm. Ngô Xương Ngập đã
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, rất có thể sau chiến
thắng, ông được vua cha giao cho trọng trách ở lại chỉ huy toàn
bộ công cuộc phòng thủ và xây dựng vùng đất này. Dấu tích còn
lại cho đến ngày nay là đền Quang Đàm (xã An Trì, huyện An
Dương, phủ Kinh Môn, nay thuộc phường Hùng Vương, quận
Hồng Bàng, Hải Phòng) thờ Ngô Xương Ngập với ý nghĩa như
là nơi đóng quân chính của ông trong thời gian đánh trận Bạch
Đằng và cũng là nơi gắn bó với ông cả về sau này nữa. Bản ngọc
phả đền Quang Đàm mang tên Hậu Ngô Vương Thiên tử ngọc
phả lục1, không chỉ xác nhận Ngô Xương Ngập chỉ huy hậu quân
lập công lớn trong trận Bạch Đằng lịch sử, mà còn có quan hệ rất
mật thiết, gắn bó lâu dài với nhân dân trong vùng.
Cũng không chỉ riêng đền Quang Đàm, ở khu vực bên bờ
sông Cấm từ An Dương đến Hải An có nhiều đền thờ khác chắc
chắn lúc đầu thờ Ngô Xương Ngập làm thành hoàng. Tại đền thờ,
người dân không phân biệt Ngô Vương Thiên tử (tức Ngô Quyền)
với Ngô Vương Thái tử (tức Ngô Xương Ngập). Chẳng hạn, ở
miếu Hạ Đoạn (phường Đông Hải, quận Hải An) có 39 đạo sắc
phong cho Ngô Vương, trong đó có 23 đạo sắc sớm hơn (từ năm
Quang Thiệu thứ 7 (1522) đến năm Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710)),
đều phong cho Ngô Vương Thái tử, 16 đạo sắc còn lại, muộn hơn
(từ năm Vĩnh Khánh thứ 2 (1730) đến năm Khải Định thứ 9
(1924)) phong cho Tiền Ngô Vương miếu và Ngô Vương Thiên tử.
Khảo sát xung quanh khu vực Hạ Đoạn, một số di tích khác cũng

1. Hậu Ngô Vương Thiên tử ngọc phả lục, bản ngọc phả đền Quang
Đàm (sau đổi là An Trì, huyện An Dương, nay là phường Hùng Vương,
quận Hồng Bàng). Bản dịch của Trần Bá Chí, lưu tại Phòng tư liệu Khoa
Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia
Hà Nội.
CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 21

lặp lại hiện tượng thờ cúng tương tự. Điều này cho phép dự đoán,
miếu Hạ Đoạn và một số đền miếu khác trong vùng lúc đầu thờ
Ngô Xương Ngập (Ngô Vương Thái tử), đến khoảng đầu thế kỷ XVIII
mới chuyển sang thờ Ngô Quyền (Ngô Vương Thiên tử). Ngô
Xương Ngập vì thế không chỉ là người có công trong kháng chiến,
mà còn là người đại diện cho vương triều mới góp phần tổ chức,
quản lý, khai phá và dựng xây vùng đất thành phố Hải Phòng
hiện nay.
Sau khi Ngô Quyền mất, các con cháu của ông không đủ uy
tín và tài năng để duy trì chính quyền quân chủ đang còn trong
thời kỳ trứng nước. Dương Tam Kha, con Dương Đình Nghệ, anh
vợ của Ngô Quyền1, dần dần thâu tóm mọi quyền hành trong
triều đình và cướp ngôi nhà Ngô, tự xưng là Bình Vương. Vùng
đất Đông Bắc bao gồm cả khu vực phía đông của tỉnh Hải Dương
và thành phố Hải Phòng ngày nay, không chỉ là nơi hội tụ vượng
khí của non sông, làm bệ đỡ cho vương triều Ngô buổi đầu khởi
dựng, mà còn là chỗ dựa cho chính vương triều trong cả lúc lỡ
vận, suy vi. Việc Ngô Xương Ngập, trước hành động cướp ngôi
của Dương Tam Kha, đã chọn Nam Sách Giang làm nơi lánh
nạn, xác nhận vai trò và vị trí không thể thay thế của vùng đất
Đông Bắc trong toàn bộ sự nghiệp của nhà Ngô. Sách Đại Việt
sử ký toàn thư cho biết: “Lúc trước, Tiền Ngô Vương bệnh nặng,
có di chúc giao cho Tam Kha giúp rập cho con. Khi Vương mất,
Tam Kha cướp ngôi. Con trưởng của Ngô Vương là Xương Ngập
sợ, chạy về Nam Sách Giang, trú ngụ ở nhà Phạm Lệnh Công ở
Trà Hương... Được ít lâu, Tam Kha sai chỉ huy sứ là Dương Cát
Lợi, Đỗ Cảnh Thạc đem quân đến nhà Lệnh Công đòi bắt Xương
Ngập, tất cả ba lần đều không thực hiện được mệnh lệnh. Lệnh

1. Có thuyết nói là em vợ (B.T).


22 LỊCH SỬ HẢI PHÒNG Tập II (Từ năm 938 đến năm 1888)

Công sợ, bèn giấu Xương Ngập trong động núi. Tam Kha biết, lại
đòi bắt như trước, rốt cuộc vẫn không bắt được”1.
Ngô Xương Văn là con thứ của Ngô Quyền, sau một thời gian
chuẩn bị lực lượng, kéo quân về truất bỏ Dương Tam Kha khôi
phục lại cơ nghiệp của vua cha, tự xưng là Nam Tấn Vương, đón
anh cả là Ngô Xương Ngập (lúc đó đang trú ngụ ở miền Đông Bắc)
về cùng trông coi việc nước. Tại miền Đông Bắc, Ngô Xương Ngập
từng lập gia đình riêng với một người phụ nữ ở Nam Sách Giang
và sinh hạ được một người con trai là Ngô Xương Xí2. Ngô Xương
Ngập về kinh sư, tự xưng là Thiên Sách Vương, cùng em trông
coi việc nước, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó trong quan hệ
anh em giữa Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn lại xảy ra mâu
thuẫn và hiềm khích, lòng người ly tán. Năm 954, Ngô Xương
Ngập mất, triều Ngô dường như không còn sức sống. Hơn chục
năm sau, năm 965, trong chuyến đem quân ngược sông Hồng lên
đánh hai thôn Đường, Nguyễn ở Thái Bình (khu vực các làng ở
hai bên bờ sông Hồng phía trên thị xã Sơn Tây), Ngô Xương Văn
bị phục binh bắn chết. Triều Ngô, kể từ sau cái chết của Nam
Tấn Vương, trên thực tế không còn tồn tại nữa. Sách Đại Việt sử
ký toàn thư chép: “Các hùng trưởng đua nhau nổi dậy chiếm cứ
quận ấp để tự giữ... Bây giờ trong nước không có chủ, 12 sứ quân
tranh nhau làm trưởng, không ai chịu thống thuộc vào ai”3.
Sứ quân phần lớn là những người thuộc dòng dõi con cháu
hoặc tướng lĩnh cũ của nhà Ngô, những người có thế lực về cả
quân sự, chính trị và kinh tế ở địa phương. Họ thường chiếm
làng quê mình và mở rộng vùng kiểm soát ra các làng xã phụ
cận, xây dựng thành vùng cát cứ, trong đó tập trung chủ yếu ở
lưu vực sông Hồng. Ngô Nhật Khánh (người thuộc dòng dõi nhà

1, 2, 3. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.205, 208, 208-209.


CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 23

Ngô) chiếm giữ Đường Lâm (Sơn Tây) - quê gốc nhà Ngô; Kiều
Công Hãn (tướng cũ của Ngô Quyền) chiếm vùng Phong Châu,
Bạch Hạc (Phú Thọ); Đỗ Cảnh Thạc (tướng cũ của Ngô Quyền)
chiếm Đỗ Động Giang (Thanh Oai, Hà Nội); Lã Đường (tướng cũ
của Ngô Quyền) chiếm Tế Giang (Văn Giang, Hưng Yên); Phạm
Bạch Hổ (tướng cũ của Ngô Quyền) chiếm Đằng Châu (Khoái
Châu, Hưng Yên); Trần Lãm (người có công giúp Ngô Quyền về
quân lương trong trận Bạch Đằng năm 938) chiếm Bố Hải Khẩu
(Thái Bình). Đặc biệt, Ngô Xương Xí, con của Ngô Xương Ngập,
cháu nội của Ngô Quyền, sinh ra và lớn lên trên vùng đất Đông
Bắc, đã trở thành đại diện cuối cùng của dòng họ Ngô, chiếm giữ
Bình Kiều (Triệu Sơn, Thanh Hóa) và tồn tại giống như một sứ
quân trong “Thập nhị sứ quân”. Vùng đất Hải Phòng tuy không
thuộc vùng kiểm soát của bất cứ một sứ quân nào trong “Thập
nhị sứ quân” nhưng lại chịu sự ảnh hưởng trực tiếp của dòng họ
Phạm ở Trà Hương, Nam Sách Giang. Đây là dòng họ rất mực
trung thành với nhà Ngô, nhưng cũng có quan hệ lâu đời và mật
thiết với dòng họ Đinh Bộ Lĩnh. Người dân vùng Đông Bắc, thông
qua dòng họ đại diện của mình, sớm đi theo Đinh Bộ Lĩnh tham
gia vào công cuộc thống nhất đất nước, mà hầu như không chịu
sự ràng buộc hay lôi kéo của bất cứ một thế lực cát cứ nào. Sự
thắng thế của Đinh Bộ Lĩnh đối với các thế lực cát cứ khẳng định
xu thế tập quyền, thống nhất đã trở thành xu thế vượt trội ở cuối
thế kỷ X. Trong đó, sự hưng khởi của vùng đất ven biển thuộc hạ
châu thổ sông Hồng, sông Thái Bình giữ vai trò định đoạt.
Vào thế kỷ X, đường bờ biển trên đại thể chạy phía ngoài
thành phố Ninh Bình đến khu vực Độc Bộ - chỗ sông Ninh Cơ
đổ vào sông Đáy, qua đất Nam Trực (Nam Định) sang phía dưới
thành phố Thái Bình (xưa là Bố Hải Khẩu), đến khu vực Diêm
Điền (Thái Thụy, Thái Bình) và tiếp sang Cổ Am (Vĩnh Bảo,
Hải Phòng). Đoạn tiếp theo chạy từ Tiên Minh, Toàn Thắng
24 LỊCH SỬ HẢI PHÒNG Tập II (Từ năm 938 đến năm 1888)

(Tiên Lãng, Hải Phòng), qua Tân Trào, Ngũ Đoan, vòng ra phía
ngoài núi Đối (huyện lỵ Kiến Thụy, Hải Phòng) rồi chạy ngược lên
Tràng Cát, Cát Bi, Lương Xâm, Hạ Đoạn, quận Hải An và khu vực
các quận Hồng Bàng, Ngô Quyền hiện nay. Khu vực bên kia sông
Cấm thuộc đất huyện Thủy Nguyên, đường bờ biển ở thế kỷ X có
thể tính từ Bến Bính đến Phà Rừng ôm lấy toàn bộ dãy núi đồi ở
trung tâm thị trấn Núi Đèo (Thủy Nguyên), hiện nay ở phía trong.
Lúc này, khu vực Đồ Sơn vẫn còn đang là đảo nằm ngoài biển. Hệ
thống các cồn cát cao từ 2 - 2,5m kéo dài từ Phù Long qua Cát Hải
sang Đình Vũ tạo thành dải chắn phía ngoài cửa biển Bạch Đằng1.
Địa thế này tạo nên tính liên hoàn, hết sức thuận tiện cho các mối
quan hệ giao thông, giao thương qua cả hệ thống sông Thái Bình
và sông Hồng.
Năm 905, nhân cơ hội chính quyền trung ương của nhà
Đường suy yếu, hào trưởng đất Hồng Châu là Khúc Thừa Dụ
được sự ủng hộ của dân chúng đã nổi dậy lật đổ chính quyền đô
hộ của nhà Đường, xây dựng nền tự chủ, đặt cơ sở trực tiếp cho
toàn dân tộc ta tiến đến nền độc lập hoàn toàn chỉ 33 năm sau đó.
Điều kiện căn bản để Khúc Thừa Dụ giành được thắng lợi nhanh
chóng như vậy chính là vì họ Khúc là dòng họ có uy tín cao, có
thế lực mạnh, huy động và tập hợp được lực lượng mới đang lên ở
vùng duyên hải và hạ lưu sông Thái Bình. Sách Khâm định Việt
sử thông giám cương mục chép: “Họ Khúc là một họ lớn, lâu đời ở
Hồng Châu. Thừa Dụ tính khoan hòa hay thương người, được dân
chúng suy tôn. Gặp buổi loạn lạc, nhân danh là hào trưởng một
xứ, Thừa Dụ tự xưng là Tiết độ sứ”2. Lê Quý Đôn, trong Vân đài

1. Tham khảo Trần Đức Thạnh: “Đặc điểm địa hình và quá trình phát
triển đất Hải Phòng”, Báo cáo hội thảo khoa học do Sở Khoa học, Công
nghệ và Môi trường thành phố Hải Phòng tổ chức, 2002.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương
mục, bản dịch, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1998, t.1, tr.217-218.
CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 25

loại ngữ, giải thích rõ hơn về vùng quê của họ Khúc ở phía đông
của Thăng Long: “Phía Đông có hai phủ Hồng (Thượng Hồng và
Hạ Hồng) và Sách (Nam Sách), đồng ruộng màu mỡ... Phía đông
có Kinh Môn phủ và lộ An Quảng lại nhiều cá muối cây gỗ châu
ngọc đồi mồi, là nơi thuyền biển tụ tập, hàng hóa ngoại quốc lưu
thông ở các cửa quan và chợ búa được tiện lợi đủ thay thế cho
thuế má”1. Cửa sông Thái Bình khi ấy không chỉ là nơi hội tụ các
mạch máu giao thông của riêng hệ thống sông Thái Bình, mà nó
chính là cửa ngõ quan trọng nhất của toàn bộ hệ thống sông ngòi
vùng châu thổ sông Hồng. Trong xu thế phát triển chung của
toàn bộ vùng hạ châu thổ vào giai đoạn cuối thời Bắc thuộc, vùng
cửa sông Thái Bình trở thành một trung tâm kinh tế - xã hội trù
phú và sôi động. Nổi lên như một thế lực hùng mạnh nhất ở vùng
hạ lưu và cửa sông Thái Bình, họ Khúc nhanh chóng giành lại
quyền tự chủ cho đất nước. Sự nghiệp của họ Khúc thật vĩ đại
nhưng chưa trọn vẹn. Tuy vậy, nó chính là bước chuẩn bị trực tiếp
cho bước ngoặt hết sức căn bản của lịch sử dân tộc. Năm 938, lần
đầu tiên sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc, sức mạnh của cả đất
nước, cả dân tộc được quy tụ lại ở vùng hạ lưu và cửa biển Bạch
Đằng làm nên chiến thắng thần kỳ.
Đinh Bộ Lĩnh là người động Hoa Lư, mà Hoa Lư khi ấy cũng
nằm kề ngay cửa biển, đã khéo vận động, tập hợp và quy tụ lực
lượng ở vùng cửa sông Đáy, cửa sông Hồng và sang cả vùng cửa
sông Thái Bình (khi ấy tương đương với vùng duyên hải Bắc Bộ
gồm các tỉnh Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Hải
Phòng) để chống lại lực lượng của các sứ quân (chủ yếu tập trung
ở miền trung tâm và đỉnh châu thổ sông Hồng). Sự toàn thắng
của Đinh Bộ Lĩnh trong công cuộc thống nhất đất nước, việc xây
dựng quốc gia Đại Cồ Việt và chọn Hoa Lư làm kinh đô là một

1. Lê Quý Đôn: Vân đài loại ngữ, Sài Gòn, 1972, t.1, tr.222.
26 LỊCH SỬ HẢI PHÒNG Tập II (Từ năm 938 đến năm 1888)

bằng chứng khẳng định thế thượng phong của vùng đất hạ lưu và
duyên hải Bắc Bộ (trong đó có đất Hải Phòng) trong xu thế phát
triển của đất nước ở nửa cuối thế kỷ X.

2. Đặc điểm hình thành và đời sống kinh tế - xã hội của


các cộng đồng dân cư

Hải Phòng chỉ trừ những vùng đất thấp của Tiên Lãng, Kiến
Thụy, Đồ Sơn, An Dương, Hải An, Thủy Nguyên với diện tích
không lớn, còn về cơ bản được khai phá và canh tác từ lâu đời.
Không kể dấu tích của bầy người nguyên thủy ở khu vực Cát Bà,
Thủy Nguyên, chỉ tính riêng thời kỳ dựng nước với loại hình văn
hóa Đông Sơn trên đất Hải Phòng đã phát hiện hơn một chục di
tích và cụm di tích (chiếm tỷ lệ khá cao so với gần một trăm di
tích ở toàn bộ vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng). Di tích Đông
Sơn ở Hải Phòng gồm hai loại hình chính là khu cư trú và mộ
táng. Người Đông Sơn ở Hải Phòng sống trên những khu đất cao
gần sông, cạnh núi, phân bố chủ yếu xung quanh khu vực cao của
huyện Thủy Nguyên và vùng Kiến An - Núi Voi. Mộ táng Đông
Sơn ở Hải Phòng đều là mộ thuyền chôn cạnh ruộng trũng hay
sông, đầm, sát biển1. Ngay từ thời kỳ văn hóa Đông Sơn, người
Hải Phòng đã phải đối mặt, đối chọi một cách khốc liệt với sự tàn
phá của biển cả và những làn sóng xâm lược, nô dịch và đồng hóa
từ phương Bắc liên tục tràn xuống. Người Hải Phòng ngay từ thời
kỳ văn hóa Đông Sơn, buổi đầu của thời đại dựng nước, đã tỏ rõ ý
chí kiên cường, bất khuất và sức vươn dậy phi thường.
Nghìn năm đô hộ của phương Bắc là thời kỳ người Hải Phòng
vừa đánh giặc vừa khai hoang, lấn biển mà dấu tích còn lại là

1. Tham khảo Bùi Văn Liêm: “Văn hóa Đông Sơn ở Hải Phòng”, Báo
cáo hội thảo khoa học do Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường thành phố
Hải Phòng tổ chức, 2002.
CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 27

các di tích và truyền thuyết từ khởi nghĩa Hai Bà Trưng cho đến
chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền năm 938. Tham gia vào
các cuộc khởi nghĩa hồi đầu Công nguyên có người dân các làng:
Hợp Lễ, xã Tam Đa; Cao Hải, xã Tân Liên; Trung Am, xã Lý Học
(huyện Vĩnh Bảo); Trình Xuyên, xã Tiên Minh; Tỉnh Lạc, Tiên
Đôi, xã Đoàn Lập; Cương Nha, xã Khởi Nghĩa; Cựu Đôi, thị trấn
Tiên Lãng (huyện Tiên Lãng); Thiểm Khê, xã Liên Khê; Đồng
Lý xã Mỹ Đồng (huyện Thủy Nguyên); Thượng Câu và các làng
bên sông Đa Độ (huyện An Lão), Quỳnh Cư, Nại Xuyên, Ngọ
Dương, An Biên (ở vùng An Dương và nội thành Hải Phòng).
Trong cuộc khởi nghĩa Lý Bí có người các làng: Hu Trì, xã Vinh
Quang (huyện Vĩnh Bảo); Lương Quy, xã Lê Lợi; Quỳnh Lâu, Hà
Liên, xã Bắc Sơn (huyện An Dương); An Tràng (thị trấn Trường
Sơn, huyện An Lão); Niêm Sơn, xã Kỳ Sơn (huyện Thủy Nguyên).
Khởi nghĩa Mai Thúc Loan nổ ra ở vùng Nghệ An, nhưng trên địa
bàn Hải Phòng cũng có sự tham gia của dân các làng Điều Yêu,
Nhu Điều thuộc xã Quốc Tuấn (huyện An Dương). Dân làng Du
Lễ (xã Du Lễ, huyện Kiến Thụy), Đồng Tử (hay Đồng Tải, nay
thuộc phường Bắc Hà, quận Kiến An) tham gia cuộc khởi nghĩa
Phùng Hưng1. Nhiều làng mang tên Cúc hay Khúc thuộc khu
vực huyện Vĩnh Bảo có quan hệ với làng quê gốc của họ Khúc ở
Cúc Bồ, Ninh Giang (Hải Dương), trực tiếp hay gián tiếp tham
gia vào công cuộc tự chủ của họ Khúc, và đặc biệt hàng chục làng
xã vùng An Dương, Hải An, Thủy Nguyên, nội thành Hải Phòng
đã trực tiếp tham gia làm nên chiến thắng Bạch Đằng lịch sử...
Nguồn tư liệu dân gian này, trong từng trường hợp cụ thể cần

1. Tham khảo Ngô Đăng Lợi: “Tinh thần yêu nước, truyền thống quật
cường của nhân dân Hải Phòng thời Bắc thuộc”, Báo cáo hội thảo khoa
học do Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường thành phố Hải Phòng tổ
chức, 2002.
28 LỊCH SỬ HẢI PHÒNG Tập II (Từ năm 938 đến năm 1888)

phải được giám định thêm, nhưng nó cũng là một cơ sở cho phép
hình dung những xóm làng định cư, những cánh đồng trồng lúa
nước, những kênh mương dẫn thủy nhập điền phủ kín không
chỉ vùng đất cao mà trải dài ra đến tận đường bờ biển thế kỷ X.
Bên cạnh nghề trồng lúa nước là chính, người dân nơi đây còn
làm các nghề thủ công như rèn sắt, đúc đồng, chế tạo các công
cụ, ngư cụ, làm gạch xây lỵ sở và xây mộ, nung đồ sứ, nghề sơn,
nghề mộc, đan lát, chăn tằm, dệt vải, đánh cá, làm muối, khai
thác các nguồn thủy, hải sản, các diện tích phủ nước và mở rộng
buôn bán không chỉ với các khu vực trong nước mà cả với thuyền
buôn nước ngoài1.
Lúc này bên cạnh các làng Việt, trên đất Hải Phòng đã xuất
hiện khá nhiều các tụ điểm dân cư, các trại ấp của người Hoa ở
các khu vực Thủy Nguyên, Núi Voi (An Lão) và Vĩnh Bảo. Đặc
biệt ở Thủy Nguyên, với mật độ tập trung các mộ Hán rất cao, với
nhiều mộ mà chủ nhân của nó chắc chắn phải là những người rất
giàu và có quyền uy lớn, như các mộ táng ở Đường Dù, Điệu Tú,
Thiên Đông... khiến nhiều nhà nghiên cứu nghĩ đến một trung
tâm chính trị - kinh tế của người Hoa đã đóng chốt tại đây, để đón
nhận và chuyển tải các làn sóng di cư và đồng hóa của phương
Bắc vào nước ta suốt thời Bắc thuộc2.
Cũng giống như các địa phương khác trong nước, dân cư
trên địa bàn Hải Phòng lúc này vẫn tồn tại ba tầng lớp chính là
tầng lớp thống trị, tầng lớp nông dân công xã và tầng lớp nô tỳ.

1. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.213. Sách chép: năm
Bính Tý (976), “Mùa xuân, thuyền buôn của nước ngoài đến dâng sản
vật của nước họ”.
2. Tham khảo Tống Trung Tín: “Di tích khảo cổ học thời Bắc thuộc ở
Hải Phòng”, Báo cáo hội thảo khoa học do Sở Khoa học, Công nghệ và Môi
trường thành phố Hải Phòng tổ chức, 2002.
CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 29

Tầng lớp thống trị bao gồm các quý tộc, quan lại và một số “thổ
hào”, “hào trưởng”, “lệnh tộc”... Quý tộc, quan lại chưa được cấp
ruộng đất cũng như lương bổng, chỉ có một số rất ít được ban thực
ấp, như trường hợp con nuôi của Lê Hoàn hồi cuối thế kỷ X. Ông
được phong đất Phù Đái (thuộc vùng Phù Cựu, Phù Tải, nay là
huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương) với tước vị Phù Đái Vương1.
Quân lính và những người phục dịch theo mô tả của Tống Cảo
trên đường từ cửa sông Bạch Đằng chạy thuyền tắt qua cửa sông
Thái Bình sang sông Luộc vào Hoa Lư năm 990 thì “hằng ngày
được phát bó lúa xay giã lấy mà ăn”2. Những “thổ hào”, “lệnh
tộc”, “hào trưởng” như trường hợp họ Khúc (khu vực huyện Ninh
Giang, tỉnh Hải Dương và huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng
ngày nay), họ Phạm (khu vực các huyện Kim Thành, Nam Sách,
Thanh Hà, tỉnh Hải Dương và mở rộng ra cả các huyện An Dương,
An Lão, Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng ngày nay)... chắc chắn
có nhiều ruộng đất được nhà nước buổi đầu thời đại độc lập “ban
cấp” không vĩnh viễn. Điều này chỉ có thể được coi là chủ trương
xác nhận quyền trông nom ruộng đất của các dòng họ vì những lý
do khác nhau đã tích lũy được từ thời Bắc thuộc. Thông qua đó,
khẳng định quyền sở hữu tối cao của vương triều trên mảnh đất
mà đáng lẽ đã trở thành ruộng tư từ lâu. Người được cấp đất chỉ
được quyền thu tô thuế của các công xã trong phạm vi đất phong,
không có quyền sở hữu ruộng đất cũng như quyền nô dịch trực
tiếp người dân trên mảnh đất được phong đó.
Đồng thời với việc mở rộng, phát triển của tầng lớp thống trị
là quá trình phát triển của tầng lớp nô tỳ. Họ là các “con nuôi”,

1. Tham khảo Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn Hải Kế: “Vị thế Địa - Giao
thông - Kinh tế của vùng đất cửa sông Thái Bình”, Báo cáo hội thảo khoa
học Di sản danh nhân Nguyễn Bỉnh Khiêm với sự nghiệp phát triển văn
hóa du lịch, Hải Phòng, 2000, tr.92.
2. Tống sử, q.448.
30 LỊCH SỬ HẢI PHÒNG Tập II (Từ năm 938 đến năm 1888)

“thực khách” chủ yếu làm nhiệm vụ phục dịch trong các gia đình
“hào trưởng”, không có vị trí đáng kể trong sản xuất, vì thế, mà
cũng không có vị trí thực sự quan trọng trong xã hội. Tầng lớp
đông đảo và giữ vai trò là lực lượng sản xuất chủ yếu trong xã hội
là nông dân công xã. Người nông dân công xã vừa có nghĩa vụ đối
với công xã mình, vừa có nghĩa vụ đối với Nhà nước thông qua
công xã, nhưng thân phận của họ nhìn chung là khá tự do. Sử cũ
ca ngợi mối quan hệ giữa Nhà nước và công xã dưới thời họ Khúc
cũng chính là phản ánh thực trạng đời sống nông thôn, nông dân
nói chung ở thế kỷ X: “Chính sự cốt chuộng khoan dung giản dị.
Nhân dân đều được yên vui”1.
Ở khu vực Hải Phòng, dấu tích đầu tiên của công xã nông
thôn phải kể đến khu di chỉ, mộ táng và công xưởng Tràng Kênh
(huyện Thủy Nguyên). Khu di tích này thuộc giai đoạn văn hóa
Phùng Nguyên (cách ngày nay khoảng 4.000 năm), nghĩa là vào
giai đoạn chuyển dần từ công xã thị tộc sang công xã nông thôn.
Người Tràng Kênh sống định cư ở vùng chân núi, cạnh sông, biết
trồng lúa và các loại rau đậu. Họ “theo nước triều lên xuống mà
làm ruộng” bằng những công cụ đá do chính bàn tay của họ chế
tác ra. Ruộng đất của công xã được phân chia cho các gia đình
thành viên sử dụng theo những tục lệ mang tính chất bình đẳng,
dân chủ của cộng đồng làng xã, có thể làm phân chia một lần và
có kết hợp điều chỉnh khi cần thiết. Đơn vị sản xuất chủ yếu trong
công xã là các gia đình nhỏ (hay còn gọi là các gia đình hạt nhân).
Quan hệ chủ đạo trong công xã là quan hệ địa lý, láng giềng kết
hợp một cách hữu cơ, hài hoà với quan hệ dòng máu, huyết thống,
tạo thành kết cấu làng - họ rất bền chặt. Trong suốt thời kỳ Bắc
thuộc, địa bàn Hải Phòng là nơi chịu tác động trực tiếp và mạnh

1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương
mục, Sđd, t.1, tr.218.
CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 31

mẽ của các chính sách nô dịch và đồng hóa ở phương Bắc. Tuy
nhiên, ở các làng quê, tầng lớp hào trưởng địa phương người Việt
vẫn không để mất quyền cai quản công xã. Họ đã cùng với dân
làng không ngừng bảo tồn, củng cố cộng đồng xóm làng của mình
làm cơ sở để chống lại một cách hiệu quả chính sách bóc lột và
đồng hóa của phương Bắc. Đến khi họ Khúc giành quyền tự chủ
vào đầu thế kỷ X, với chính sách “bình quân thuế ruộng, tha
bỏ lực dịch”, họ Khúc đã xác nhận lại vai trò và truyền thống
công xã, đồng thời thi hành một phương thức bóc lột phù hợp với
trình độ kinh tế - xã hội nước ta lúc đó. Một mặt, chính quyền
họ Khúc bước đầu xác lập quyền sở hữu trên danh nghĩa của
Nhà nước đối với ruộng đất công xã; mặt khác, tích cực thi hành
chính sách cải cách hành chính, biến công xã thành đơn vị hành
chính cấp cơ sở của Nhà nước, gọi là “xã”. Sách Khâm định Việt
sử thông giám cương mục chép: “Khúc Hạo nhờ vào cơ nghiệp cũ,
giữ lấy La Thành, tự xưng là Tiết độ sứ, chia đặt các lộ, phủ, châu
và xã ở các xứ, đặt ra Chánh lệnh trưởng và Tá lệnh trưởng”1.

1. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương
mục, Sđd, t.1, tr.218.
Từ đầu thế kỷ VII, Khâu Hòa là Giao Châu Đại Tổng quản của nhà
Đường đã thi hành chính sách khuôn làng Việt vào mô hình thống trị của
Trung Quốc: đặt ra các hương, xã nằm dưới cấp huyện, châu. Theo An Nam
chí [nguyên] thì lúc đó, hương gồm có tiểu hương (từ 70 đến 150 hộ) và đại
hương (từ 160 đến 540 hộ) và xã cũng có tiểu xã (từ 10 đến 30 hộ) và đại
xã (từ 40 đến 60 hộ). Với quy mô trên thì trong thực tế, Khâu Hòa đã lấy
làng Việt truyền thống làm xã. Tuy nhiên, Khâu Hòa đã không thành công
chỉ vì ông ta là đại diện cho chính quyền đô hộ và tiến hành cải cách không
ngoài mục đích khẳng định quyền cai quản nông thôn Việt Nam của chính
quyền đô hộ, nên không được dân chúng ủng hộ. Khúc Hạo về cơ bản cũng
là nhắc lại cải cách của Khâu Hòa từ 3 thế kỷ trước, nhưng vì ông là đại
diện của chính quyền tự chủ của người Việt nên được người Việt tin theo.
32 LỊCH SỬ HẢI PHÒNG Tập II (Từ năm 938 đến năm 1888)

Khái niệm “làng xã” như một đơn vị tụ cư, đơn vị kinh tế, đơn vị
tín ngưỡng và sinh hoạt văn hóa cộng đồng, đơn vị hành chính
cấp cộng đồng, đơn vị hành chính cấp cơ sở như ta hằng quan
niệm xưa nay được hình thành trong thời điểm lịch sử này, trước
hết trên vùng nông thôn vùng Đông Bắc gắn liền với quê hương
họ Khúc. Đây cũng chính là bước chuyển biến rất quan trọng
của nông thôn Hải Phòng nói riêng và cả quốc gia Đại Việt nói
chung. Tuy vậy, suốt trong thế kỷ X, thậm chí sang cả các thế kỷ
sau, công xã nông thôn vẫn còn tồn tại phổ biến, giữ vai trò cơ sở hạ
tầng bền vững của xã hội với quyền sở hữu trên thực tế đại bộ phận
ruộng đất và quyền tự trị khá lớn. Nhà nước trung ương tập quyền
với tư cách là người chủ sở hữu tối cao về ruộng đất bóc lột thuế và
lao dịch đối với làng xã. Lúc này chế độ tư hữu ruộng đất mới phôi
thai và chiếm một tỷ lệ rất nhỏ bé. Cũng trong buổi đầu thời kỳ
độc lập, khi cấp xã được nhà nước chính thống hóa trở thành đơn
vị hành chính cấp cơ sở ở nông thôn, thì cấp thôn cũng dường như
đồng thời xuất hiện ở trong các làng xã đó. Cấp thôn ra đời chính
là do nhu cầu quản lý hành chính của bản thân cấp xã. Nhà nước
thông qua xã để quản lý dân làng, nhưng xã khó có thể làm tốt chức
năng quản lý hành chính của mình nếu như không thông qua một
cấp trung gian khác là thôn. Vì thế, thôn trở thành đầu mối gắn kết
và điều hòa hai hệ thống quản lý: hành chính và tự trị, luật pháp và
tục lệ, chính trị và xã hội.
Tổ chức xã hội và tổ chức nông thôn các thời Ngô, Đinh,
Tiền Lê, tuy mỗi thời đều có những thay đổi nhất định, nhưng
trên đại thể vẫn duy trì cấp giáp, cấp xã, thôn đã được khẳng
định và chính thống hóa từ thời họ Khúc. Tuy vậy, các nguồn
tư liệu còn lại đến nay cho thấy sự xuất hiện của “giáp”, “xã”
và “thôn” cũng chưa nhiều. Lúc này, các cấp xã, thôn ở dưới
CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 33

chưa thống kê được, chỉ tính riêng cấp giáp ở trên (giáp tương
đương với hương) thì cả nước mới chỉ có 314 giáp. Trong khi
đó, vai trò của “hương” và “ấp” vẫn còn nổi trội. Có thể khẳng
định rằng, thế kỷ X là thời kỳ tìm kiếm một mô hình tổ chức và
quản lý nông thôn của các nhà nước tự chủ và độc lập đầu tiên
của Việt Nam. Khu vực Đông Bắc chính là địa bàn thể nghiệm
và thực thi các chính sách hết sức cơ bản này của họ Khúc và
tiếp sau đó là các nhà nước Ngô, Đinh, Tiền Lê.

II- HẢI PHÒNG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG TỐNG


LẦN THỨ NHẤT
1. Vùng Bạch Đằng Giang, vị trí then chốt nhất trong toàn
bộ thế trận của Lê Hoàn năm 981

Năm 979, nội bộ triều Đinh lục đục. Đinh Tiên Hoàng và
con trưởng là Đinh Liễn bị giết hại. Đinh Toàn (mới 6 tuổi) lên
nối ngôi. Các tướng lĩnh trong triều chia thành phe phái, đánh
lẫn nhau. Ngô Nhật Khánh dẫn hơn nghìn chiến thuyền của
quân Chiêm Thành âm mưu đánh thẳng vào kinh đô Hoa Lư.
Thập đạo tướng quân Lê Hoàn sau khi đánh bại Đinh Điền,
Nguyễn Bặc, Phạm Hạp đã nắm trọn quyền bính trong tay,
xưng là Phó vương, quyền giữ việc nước. Năm 980, trước sự
đe dọa xâm lược của nhà Tống, được sự ủng hộ và suy tôn của
Dương Thái hậu (mẹ Đinh Toàn), theo đề nghị của Phạm Cự
Lạng, Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế, lập ra nhà Tiền Lê, chuẩn
bị kháng chiến.
Được sự phò tá của Phạm Cự Lạng và các cố vấn như các nhà
sư Pháp Thuận, Ngô Chân Lưu, Vạn Hạnh, Lê Hoàn đã tổ chức
phòng ngự ở kinh đô Hoa Lư, thành Đại La, xây dựng thế trận
đón đánh quân Tống trên vùng Đông Bắc, trong đó tập trung lực
34 LỊCH SỬ HẢI PHÒNG Tập II (Từ năm 938 đến năm 1888)

lượng chặn địch ở cửa biển Bạch Đằng. Tại vùng cửa biển Bạch
Đằng, học tập kinh nghiệm của Ngô Quyền hơn 40 năm trước,
Lê Hoàn đã cho bố trí trận địa cọc ở cửa sông. Sách Đại Việt sử
ký toàn thư cho biết: “Mùa Xuân, tháng 3, Hầu Nhân Bảo, Tôn
Toàn Hưng đến Lạng Sơn (Lãng Sơn, Quảng Ninh - TG), Trần
Khâm Tộ đến Tây Kết, Lưu Trừng đến sông Bạch Đằng. Vua
(tức Lê Hoàn - TG) tự làm tướng đi chặn giặc, sai quân sĩ đóng
cọc ngăn sông”1. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục
cũng chép tương tự như vậy nhưng có phần cụ thể hơn: “Tháng 3,
mùa Xuân. Quân Tống sang xâm lược. Nhà vua tự làm tướng,
đánh bại quân địch. Bấy giờ quân Tống chia đường sang xâm lấn:
Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng kéo đến Lạng Sơn (Lãng Sơn,
Quảng Ninh - TG); Trần Khâm Tộ kéo đến Tây Kết, Lưu Trừng
kéo đến sông Bạch Đằng. Nhà vua tự làm tướng ra kháng chiến:
sai quân sĩ đóng cọc ở sông Bạch Đằng để ngăn cản địch...”2.
Cửa sông Bạch Đằng là cửa ngõ yết hầu từ phương Bắc vào
nước ta. Càng ngược về xa xưa nó càng có vị trí cực kỳ quan
trọng. Các nhà địa lý học lịch sử đời Nguyễn biên soạn bộ sách
Đại Nam nhất thống chí đã nhận xét rất xác đáng rằng: “Nước
ta khống chế người Bắc, sông này là chỗ cổ họng”3. Đại anh hùng
dân tộc Nguyễn Trãi từ đầu thế kỷ XV đã từng tổng kết cửa sông
Bạch Đằng là nơi quan ải do trời đặt ra, thế hiểm yếu khiến hai
người có thể chống được cả trăm người. Đây cũng chính là nơi lập
công danh của các bậc anh hùng hào kiệt (“Quan hà bách nhị do

1. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.1, tr.220-221.


2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương
mục, Sđd, t.1, tr.251.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Nxb. Thuận
Hóa, Huế, 1997, t.4, tr.26.
CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 35

thiên thiết; Hào kiệt công danh thử địa tằng”)1. Theo Khâm định
Việt sử thông giám cương mục, sông Bạch Đằng được tạo thành
bởi sự hợp lưu của các dòng sông: “hai chi hợp lại ở xã Đoan Lễ.
Khúc sông hợp lại này gọi là sông Bạch Đằng. Sông Bạch Đằng
phía nam giáp giới huyện Thủy Đường tỉnh Hải Dương; phía Bắc
giáp với huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Yên; chuyển về phía nam
29 dặm, đổ ra cửa biển Nam Triệu”2. Là nơi tập trung sáu nguồn
nước đổ về, một dòng chính và ba nhánh sông phụ khác đưa nước
ra biển, sông Bạch Đằng có hình thế thật mênh mông, hùng vĩ.
Sách Đại Nam nhất thống chí cho rằng, sông Bạch Đằng “do
nước sông Vũ Yên huyện An Dương và sông Thiếm Khê Thủy
Đường họp nhau mà đổ ra biển”3. Sông Vũ Yên không chỉ là
đoạn sông chảy qua đảo Vũ Yên mà chính là sông Cấm, còn sông
Thiếm Khê tức là sông Đá Bạc. Đặng Xuân Bảng, trong Sử học bị
khảo, cũng cho rằng sông Bạch Đằng “phân nhánh chảy ra cửa
Do huyện Nghi Dương và cửa Nghiêu Phong tỉnh Quảng Yên”.
Các nguồn tư liệu này góp phần xác nhận cửa sông Bạch Đằng
xưa cũng chính là cửa của hai con sông lớn là sông Bạch Đằng
và sông Cấm, ở khoảng làng Vũ Yên hiện nay. Vùng đất tính từ
khu vực nội thành Hải Phòng chạy xuống Hạ Đoạn, Lương Xâm,
Xâm Bồ, Tràng Cát, vì thế cũng là vùng cửa biển Bạch Đằng. Từ
cửa biển Bạch Đằng dùng thuyền có thể tiến sâu vào nội địa bằng
cả hai đường theo sông Cấm và sông Bạch Đằng. Đây là vùng
đất đang trỗi dậy với tất cả tiềm lực của người Việt đã tích chứa

1. Nguyễn Trãi: “Bạch Đằng hải khẩu”, in trong sách Nguyễn Trãi
toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, tr.322.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương
mục, Sđd, t.1, tr.223.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Sđd, t.3, tr.407.
36 LỊCH SỬ HẢI PHÒNG Tập II (Từ năm 938 đến năm 1888)

được từ nhiều thế kỷ trước, nên chắc chắn quân Tống không thể
không coi đây là một hướng tấn công. Hơn thế nữa, đây chính
là con đường ngắn nhất và tiện lợi nhất để chúng có thể nhanh
chóng tấn công vào Hoa Lư, kinh đô của quốc gia Đại Cồ Việt,
trung tâm đầu não của bộ chỉ huy kháng chiến. Năm 990, nghĩa
là chỉ 9 năm sau khi cuộc kháng chiến chống Tống kết thúc, Lê
Hoàn đã sai người sang tận Thái Bình quân (thuộc Quảng Đông,
Trung Quốc) để đón sứ nhà Tống là Tống Cảo. Thuyền vào cửa
sông Bạch Đằng rồi từ sông Bạch Đằng vào sông Tranh (tức sông
Luộc đoạn chảy qua các làng Tranh Chử, Tranh Xuyên, qua cửa
Hải Triều ra sông Hồng xuống sông Châu Cầu để vào Hoa Lư1.
Tài liệu ghi chép về trận đánh trên sông Bạch Đằng năm 981 quá
ít, nhưng theo nghiên cứu, có thể vùng trận địa ngăn chặn quân
Tống của Lê Hoàn không thể nằm ngoài khu vực trung lưu và
hạ lưu sông Bạch Đằng hiện nay - nghĩa là không cách xa trận
địa của Ngô Quyền năm 938. Điểm khác nhau chủ yếu trong việc
bố trí lực lượng ở sông Bạch Đằng giữa Lê Hoàn và Ngô Quyền
chính là, Ngô Quyền đã dồn toàn bộ lực lượng ra cửa sông Bạch
Đằng đánh một trận quyết định kết thúc chiến tranh. Còn ngoài
việc chặn địch ở sông Bạch Đằng, Lê Hoàn không thể không đối
phó với các cánh quân của Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng, Trần
Khâm Tộ tiến theo đường bộ và sẵn sàng phối hợp với cánh quân
thủy của Lưu Trừng (có thể ở địa điểm hợp quân là vùng thượng
lưu sông Bạch Đằng) nhanh chóng tiêu diệt toàn bộ lực lượng
kháng chiến.

1. Đặng Xuân Bảng, trong Sử học bị khảo, đã mô tả đường đi của


Tống Cảo như sau: “Lúc bấy giờ sứ nhà Tống từ sông Bạch Đằng huyện
Thủy Đường (tỉnh Hải Dương) vào sông Tranh (Vĩnh Lại) sang sông thuộc
tỉnh Hưng Yên, xuống sông Châu Cầu (sông Châu Cầu ở Lý Nhân) để vào
Hoa Lư”.
CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 37

Cuối năm 980, theo kế hoạch tốc chiến, bất ngờ, quân Tống
đã đem quân ồ ạt xâm lược Đại Cồ Việt. Hầu Nhân Bảo được vua
Tống phong cho làm Giao Châu lộ thủy lục kế độ chuyển vận sứ,
có nhiệm vụ tổng chỉ huy cả thủy binh và bộ binh tiến đánh Đại
Cồ Việt. Sử chép về các cánh quân bộ và diễn biến chiến trận có
nhiều mâu thuẫn, nên cho đến nay, trong giới nghiên cứu vẫn tồn
tại nhiều cách lý giải khác nhau về việc tổ chức kháng chiến của
Lê Hoàn. Có một vấn đề hết sức mấu chốt là có phải Hầu Nhân
Bảo và Tôn Hoàn Hưng tấn công vào nước ta theo đường Lạng
Sơn như một số bộ sử của ta chép hay không. Điều rất dễ dàng
nhận thấy là tuyến đường từ Trung Quốc sang nước ta qua Lạng
Sơn xuống Qủy Môn Quan đến thế kỷ X vẫn chưa được mở. Đặng
Xuân Bảng, trong sách Sử học bị khảo, cho biết khá cụ thể: “Con
đường từ Thăng Long lên Bắc, sang Trung Quốc, đời Đinh, đời
Lê về trước đi qua Quảng Yên (...) đời Lý về sau, có khi đi đường
Quảng Yên, có khi đi đường Lạng Sơn (đường Lạng Sơn bắt đầu
từ năm Thuận Thiên thứ 9 thời Lý (1018) sai Phi Trí đi Quảng
Tây đón kinh Tam Tạng, về sau Doãn Tử Tư, Nghiêm Thường
cũng đi đường này)”1. Con đường truyền thống mà các triều đại
Trung Quốc tiến đánh nước ta suốt 1.000 năm Bắc thuộc vẫn
chỉ là con đường ven biển. Sách Thái bình hoàn vũ ký của Nhạc
Sử đời Tống xác định rõ Qủy Môn Quan ở cách huyện Bắc Lưu
30 dặm và đời nhà Tấn ai đi sang Giao Chỉ cũng đều phải qua
đấy. Nhà bác học Lê Quý Đôn, thế kỷ XVIII, trong sách Vân đài
loại ngữ cho rằng: “Nay xét huyện Bắc Lưu gần châu Tân Yên

1. Đặng Xuân Bảng: Sử học bị khảo, Sđd, tr.246.


Về con đường truyền thống của các triều đại Trung Quốc tiến đánh
nước ta, Đặng Xuân Bảng cũng thống nhất cho rằng: “Vì từ đời Hán về
sau, Trung Quốc dụng binh ở Giao Châu, thường dùng thủy quân từ Khâm
Châu ra biển, vào Quảng Yên, thông vào sông Lục Đầu tỉnh Hải Dương,
đến Bắc Ninh...” (Đặng Xuân Bảng: Sử học bị khảo, Sđd, tr.261).
38 LỊCH SỬ HẢI PHÒNG Tập II (Từ năm 938 đến năm 1888)

thuộc tỉnh Yên Quảng ở nước ta, Qủy Môn Quan này phải ở chỗ
ấy. Nay tục truyền nói cửa Qủy Môn Quan ở xã Bình Lang thuộc
châu Ôn, tỉnh Lạng Sơn là sai”1. Như thế, đoàn quân bộ của nhà
Tống vào nước ta vẫn theo “con đường của những kẻ xâm lược”
từ Quảng Đông men theo đường bờ biển tiến vào địa đầu Quảng
Ninh, qua vùng Đông Triều, Phả Lại rồi tiến xuống trung tâm
châu thổ sông Hồng2. Trên đường tiến quân, Hầu Nhân Bảo dừng
lại ở núi Lãng Sơn đúng như sách Việt sử lược chép, “quân Hầu
Nhân Bảo đến đóng ở núi Lãng Sơn”3, hay sách Thiền uyển tập
anh chép cụ thể hơn là Hầu Nhân Bảo: “dừng quân đóng lại ở
khoảng giữa núi Cương và Lãng Sơn”4. Trần Bá Chí, trong sách
Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất (980 - 981), đã xác
định khá cụ thể: “Lãng Sơn trên bản đồ vùng biển Quảng Ninh
ngày nay đã bị thay bằng đảo Hai Núi hoặc ghi cù lao Hai Núi,
cách núi Cương (Cương Giáp) về phía tây một lạch nước. Núi
Cương cùng với núi Lãng Sơn án ngự phía tây bắc cửa Mô tức
là vũng Đa Mỗ, nằm trên tuyến đường lộ của thuyền bè từ phía
bắc qua trấn Vân Đồn để vào sâu nội địa nước ta”5. Vị trí cụ
thể Lãng Sơn có lẽ còn phải được khảo cứu kỹ thêm, tuy nhiên
tìm Lãng Sơn trên con đường bộ từ khu vực Quảng Đông (Trung
Quốc) sang nước ta theo đường bờ ven biển là hoàn toàn hợp lý.
Như vậy, có thể hình dung mục tiêu chủ yếu của quân Tống là
kinh đô Hoa Lư và con đường tiến quân chủ yếu của cả hai đạo

1. Lê Quý Đôn: Vân đài loại ngữ, Sđd, t.1, tr.212.


2. Tham khảo C.L. Madrolle: Xứ Bắc Kỳ cổ đại (trích dịch BEFEO
t. XXXVIII, tr.263), tư liệu Khoa Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1937,
TL.170.
3. Việt sử lược, Nxb. Văn Sử Địa, Hà Nội, 1960, tr.55. Lưu ý có một số
bản chép nhầm là Ngân Sơn.
4. Thiền sư Vạn Hạnh: Thiền uyển tập anh (bản chữ Hán).
5. Trần Bá Chí: Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất (980 - 981),
Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1992, tr.151-152.
CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 39

quân thủy, bộ là con đường men theo bờ biển vào khu vực Quảng
Ninh, Hải Phòng, Hải Dương. Hai đạo quân này đều đặt dưới
sự chỉ huy thống nhất của Hầu Nhân Bảo và luôn tìm cách phối
hợp, hỗ trợ cho nhau, tạo thành nguồn sức mạnh tuyệt đối để có
thể đánh và giải quyết thật nhanh như “tiếng sấm nhanh không
kịp bịt tai”. Chặn địch trên cả hai tuyến thủy, bộ trên vùng đất
địa đầu miền Đông Bắc, phá tan âm mưu phối hợp hai đạo quân
thủy, bộ và kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh của Hầu Nhân
Bảo là công việc đầu tiên có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại
của toàn bộ cuộc kháng chiến.
Vì ý thức được vị trí trọng yếu của vùng sông Bạch Đằng nên
Lê Hoàn đã trực tiếp chỉ huy cuộc chặn đánh quân Tống ở đây.
Nguồn tư liệu chính sử chỉ cho biết, ông thân chinh làm tướng,
sai quân sĩ đóng cọc ở sông Bạch Đằng mà không chép các hoạt
động cụ thể của ông. Bổ sung cho sự nghèo nàn của nguồn tư liệu
chính sử là các di tích và truyền thuyết dân gian trong vùng.
Thần tích đình làng Thường Sơn, xã Thủy Đường (huyện Thủy
Nguyên) chép: “Lê Đại Hành đem quân đến chợ Phướn, đóng đồn
ở gò đất cao trang Thường Sơn. Vua truyền hịch tuyển quân thu
lương, được dân chúng nô nức hưởng ứng. Có gia đình họ Phạm
ở Thường Sơn, cả bốn anh em kéo đến cửa doanh tình nguyện
tòng quân giết giặc, vua rất cảm phục và thu dụng”. Nhân dân
địa phương còn cho biết, khi Lê Hoàn đến đây tìm đất đặt hành
doanh có thần linh phù hộ và tiến cử bốn anh em họ Phạm, nên
mới gọi ngôi miếu cổ ở xóm Trại là miếu Phù Linh. Hành doanh
của Lê Hoàn là khu chợ Phướn, nay đã thành khu dân cư xóm
Đồng Mát, thôn Thủy Tú, xã Thủy Đường. Chợ Phướn là ngôi
chợ lớn của cả vùng, trên bến dưới thuyền tấp nập. Khu vực
bến thuyền đến nay vẫn còn lạch nước và rất nhiều mảnh sành,
mảnh vại. Xưa lạch nước này là sông thông với sông Bạch Đằng
40 LỊCH SỬ HẢI PHÒNG Tập II (Từ năm 938 đến năm 1888)

và phía ngoài cánh đồng là biển. Đặc biệt, chùa Linh Sơn thuộc
thôn Mỹ Cụ (xã Chính Mỹ, huyện Thủy Nguyên) tương truyền
là nơi mẹ của Lê Hoàn đến cầu tự và sinh ra ông. Lê Hoàn được
coi là người con của chùa Linh Sơn, người con thông thạo vùng
sông nước Bạch Đằng, nên ông chọn vùng này làm nơi chỉ huy
công việc bố phòng cửa biển cũng là điều dễ hiểu. Cũng không
phải là điều ngẫu nhiên, mà khu vực huyện Thủy Nguyên là nơi
tập trung dày đặc các di tích và truyền thuyết về những người
con anh hùng của quê hương trực tiếp đi theo Lê Hoàn đánh
trận Bạch Đằng. Sự thống nhất giữa các nguồn tư liệu thư tịch
cổ chính sử với các di tích và truyền thuyết dân gian vùng Thủy
Nguyên cho phép hình dung khu vực Thủy Đường, núi Đèo là nơi
Lê Hoàn đóng đại bản doanh trong quá trình chuẩn bị đón đánh
quân xâm lược Tống, một chỉ huy sở tiền tiêu ở vùng cửa biển
Bạch Đằng năm 981.
Tuy nhiên, chắc chắn trong suốt quá trình chỉ huy kháng
chiến không phải Lê Hoàn chỉ có đại bản doanh cố định ở Thủy
Đường và khu vực núi Đèo. Nếu xét về địa thế và đặt trong các
mối tương quan của toàn bộ kế hoạch tác chiến, phải cùng một
lúc đánh cả hai đạo quân thủy, bộ tiến vào vùng Đông Bắc, thì
ông không thể không cơ động chuyển dịch chỉ huy sở đến những
địa điểm an toàn hơn, mà lại phát huy hiệu quả chỉ huy chiến
đấu cao nhất. Đó là chưa nói đến những lúc quân ta gặp khó khăn
không giữ nổi vùng cửa biển Bạch Đằng, thì đại bản doanh không
thể không dời đi nơi khác. Ngay trên địa bàn Thủy Nguyên, theo
Ngọc phả cổ lục, đền Hoa Chương, xã Thủy Đường (nay thuộc
thôn Phương Mỹ, xã Mỹ Đồng), Phạm Quảng vốn là người trang
Hoa Chương (xưa là trang Hoa Kiều) đi theo Lê Đại Hành đánh
giặc, trở thành người thân tín của Lê Đại Hành. Sau trận thủy
chiến đầu tiên quân ta đánh bất lợi, hoàng đế phải rút quân ra
CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 41

xa khoảng 10 dặm. Phạm Quảng đã hiến kế mời hoàng đế chuyển


về đóng đồn sở tại làng mình để dựa vào địa thế hiểm trở bổ sung
binh lương mà chờ thời vận. Hoa Chương nằm ở phía tây bắc của
núi Đèo và chỉ cách chợ Phướn khoảng 7 - 8km nên có lẽ cũng
chỉ là nơi Lê Hoàn đóng quân tạm trong một thời gian ngắn. Ở
trang Xạ Sơn, huyện Giáp Sơn (nay là xã Quang Trung, huyện
Kinh Môn, tỉnh Hải Dương) có đền thờ bốn vị tướng theo giúp Lê
Hoàn đánh trận Bạch Đằng năm Tân Tỵ (981). Bản Ngọc phả cho
hay: “Vua (Lê Đại Hành) thân chinh đi đánh giặc (Tống), đánh
một vài trận chưa phân thắng phụ, vua lui quân về dựng đồn tại
trang Xạ Sơn, lưu lại đó khoảng một tháng để chuẩn bị cho trận
sau...”. Ngay ở trang Xạ Sơn, một vị trí hiểm yếu ở gần ngã ba
sông Kinh Môn - Kinh Thầy cũng là khu vực có vai trò giấu quân
nhiều hơn là một chỉ huy sở để “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ
thủ” như cách tính toán của Lê Hoàn.
Trong khi đóng quân ở trang Xạ Sơn, Lê Hoàn đã nhận ra
vị trí quan trọng của khu vực trang Dược Đậu (nay là khu dân
cư Đại (Lạc Đạo - Dược Đậu Trang), phường An Lạc, thành phố
Chí Linh, tỉnh Hải Dương), nên đã quyết định chuyển đại bản
doanh về đây. An Lạc có một hệ thống đồi núi trải rộng về phía
sông Kinh Thầy ở phía đông và phía nam, sông Nguyệt Giang ở
phía tây nam. Sông Nguyệt Giang chỉ là đoạn chết của sông Kinh
Thầy và có lẽ, khi Lê Hoàn đóng quân ở đây, thì sông còn là dòng
chính của sông Kinh Thầy, phía trên thông với sông Lục Đầu
và phía dưới đổ ra Ngã Ba Kèo, chỉ cách Bạch Đằng không đến
20km. Tương truyền, Lê Hoàn đến đây thấy địa thế núi non hiểm
trở mới lập đại bản doanh ở khu Đồng Dinh. Khu Đồng Dinh
rộng 24 mẫu, bên cạnh chợ Đậu, gần bến Cả, bến Tràng (bên bờ
sông Nguyệt Giang), lại có hệ thống núi đồi làm thế tựa phía sau.
Tại đây cho đến ngày nay vẫn còn địa danh Nền Vua (khu vực
42 LỊCH SỬ HẢI PHÒNG Tập II (Từ năm 938 đến năm 1888)

Trường Mầm non bán công xã An Lạc), Xiểng (Xưởng), Lò Văn,


Bàn Cung, Đền Cao và hệ thống đền thờ năm anh em họ Vương
là người địa phương có công giúp Lê Hoàn đánh giặc Tống. Đây
là vị trí an toàn, tiện lợi cho cả tấn công lẫn phòng thủ, lại có thể
trực tiếp tổ chức chặn đánh địch trên cả hai đường thủy và bộ1.
Qua hệ thống bố phòng, đặc biệt qua những lần di chuyển đại
bản doanh của Lê Hoàn, có thể hình dung quy mô rộng lớn, liên
hoàn, tính chất phức tạp và quyết liệt của cuộc chiến trên chiến
trường miền Đông Bắc. Nhìn toàn cục chiến trường và hệ thống
bố phòng của Lê Hoàn, chúng ta càng thấy rõ hơn vị trí then
chốt, vai trò quyết định của trận đánh ở Bạch Đằng đối với toàn
bộ cuộc kháng chiến.
Đúng như dự kiến, ngày 24/1/981, thủy binh Tống đã tiến
đến cửa sông Bạch Đằng. Có thể do quân Tống đã rút được kinh
nghiệm thất bại của Hoằng Tháo trước đây và cũng có thể lần
này đúng như Khâm định Việt sử thông giám cương mục mô tả
“quân Tống đông lắm” mà “quân ta đánh bất lợi”2. Trong trận
này, vẫn theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, quân
ta bị mất 200 thuyền chiến đấu3 và quan trọng hơn là nhiệm vụ
chặn địch ở ngay tại địa đầu sông nước của Tổ quốc đã không

1. Tham khảo các bài viết của Nguyễn Minh Tường: “Về vị trí đại bản
doanh của vua Lê Đại Hành trong trận Bạch Đằng năm 981”, Tạp chí
Xưa & Nay, số 76/2000; Nguyễn Minh Tường: “Trận Bạch Đằng năm 981,
trận quyết chiến chiến lược quyết định thắng lợi”, Tạp chí Xưa & Nay,
số 86/2001.
Nguyễn Minh Tường đã khảo tả khá kỹ khu di tích này và cho rằng
đây là đại bản doanh của Lê Đại Hành trong thời gian phòng ngự chiến
lược kéo dài khoảng hơn hai tháng. Nhận xét như vậy là có cơ sở khoa học.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương
mục, Sđd, t.1, tr.251.
3. Xem Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám
cương mục, Sđd, t.1, tr.251.
CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 43

hoàn thành, quân ta bị đẩy vào tình thế vô cùng khó khăn. Hầu
Nhân Bảo nhân đà thắng lợi đã nhanh chóng mang quân tiến lên
trước mà hầu như không có một chút đề phòng gì. Trong khi đó,
Tôn Toàn Hưng lại tỏ ra dè dặt, trù trừ đóng quân lại, không chịu
đi, để Hầu Nhân Bảo phải thường xuyên thúc giục1.
Rút kinh nghiệm, quân ta bố trí lại lực lượng, xốc lại tinh thần
chiến đấu. Để tranh thủ thời gian củng cố, tổ chức lại lực lượng,
nhất là để kích thích thêm thái độ chủ quan tự mãn của Hầu
Nhân Bảo và đạo quân xâm lược hùng mạnh đang ở thế thắng,
Lê Hoàn đã hết sức khôn khéo chọn con đường giả hàng quân
Tống. Tống sử không giấu giếm sự thật đau xót này đối với đạo
quân xâm lược hùng mạnh, nhưng hết sức nghênh ngang tự phụ:
“Lê Hoàn giả vờ xin hàng, mà Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng
cứ tưởng là thật”. Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử
thông giám cương mục còn nói rõ hơn: “Vua sai quân sĩ trá hàng
để dụ Nhân Bảo, nhân đó bắt được Nhân Bảo và đem chém”2.
Chủ tướng bị tiêu diệt, đoàn quân xâm lược như rắn mất đầu.
“Bọn Lưu Trừng rút lui. Khâm Tộ nghe tin, rút quân quay về.
Nhà vua lại đem các tướng truy kích: Quân Khâm Tộ thua to,
chết mất quá nửa. Bên ta bắt được bộ tướng của địch là bọn
Quách Quân Biện và Triệu Phụng Huân điệu về kinh đô”3. Sách
Đại Nam nhất thống chí đoạn nói về sông Bạch Đằng xác nhận:
“Năm Thiên Phúc thứ 2 đời Lê Đại Hành, tướng Tống là bọn Hầu
Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng và Lưu Trừng xâm lấn đến đây, Lê đế
đã sai sĩ tốt trồng cọc gỗ giữa sông để ngăn cản, bắt giết được Hầu
Nhân Bảo”4. Sau thất bại này, Chuyển vận sứ nhà Tống là Hứa

1, 3. Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương
mục, Sđd, t.1, tr.251, 251-252.
2. Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, t.I, tr.221.
4. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Sđd, t.4, tr.26.
44 LỊCH SỬ HẢI PHÒNG Tập II (Từ năm 938 đến năm 1888)

Trọng Tuyên đem tình hình tâu bày về triều, vua Tống Thái Tông
buộc phải ra lệnh bãi binh rút toàn bộ quân về nước, thừa nhận
thất bại thảm hại của cuộc chiến tranh xâm lược. Tống Thái Tông
đã trút mọi tội lỗi lên đầu bọn tướng tá thất trận trở về, nhiều
tên bị trừng phạt nặng. Riêng Lưu Trừng là kẻ cầm đầu đạo quân
thủy thất bại ở Bạch Đằng đã phải nhận án xử trảm và bêu xác
ở chợ Ung Châu.
Nguồn tư liệu này về cơ bản phù hợp với nguồn tư liệu thư
tịch cổ Trung Quốc: Tục tư trị thông giám trường biên của Lý
Đào chép toàn bộ quá trình từ khi Hầu Nhân Bảo tiến vào nước
ta cho đến khi bị giết chết gộp lại trong một trận đánh ở Bạch
Đằng: “Thái Bình Hưng Quốc năm 6, tháng ba ngày Kỷ Mùi
(tức ngày 28/4/981) Giao Châu hành doanh phá được 15.000 quân
của Lê Hoàn ở sông Bạch Đằng, chém lấy hơn 1.000 thủ cấp, lấy
được 200 chiến hạm, thu nhặt được hàng vạn mũ trụ, áo giáp.
Cũng trận này giặc giả hàng để dụ Nhân Bảo. Nhân Bảo cả tin,
liền bị giặc giết hại”1. Tống sử cũng chép tương tự như Tục tư trị
thông giám trường biên nhưng có thêm thông tin rõ ràng hơn:
“Khi Lưu Trừng đến thì Toàn Hưng cùng Lưu Trừng theo đường
thủy đến thôn Đa La, nhưng nói không gặp giặc. Lại trở về Hoa
Bộ. Đến đây Lê Hoàn giả vờ xin hàng để đánh lừa Nhân Bảo.
Nhân Bảo bèn bị giết chết”2. An Nam chí [nguyên] lại không chép
đến thắng lợi tạm thời của quân Tống khi chúng mới tiến vào cửa
biển Bạch Đằng, mà chỉ nói về thất bại đau đớn của Hầu Nhân
Bảo: “Thế lực của giặc (chỉ quân ta do Lê Hoàn chỉ huy - TG) rất
mạnh, quân hậu viện (chỉ quân nhà Tống do Tôn Toàn Hưng chỉ
huy - TG) chưa kịp đến thì Nhân Bảo đã sa hãm trong vòng trận,

1. Lý Đào: Tục tư trị thông giám trường biên.


2. Tống sử, q.488.
CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 45

bị loạn quân giết chết ném xác xuống sông. Vua Tống hay tin lấy
làm đau xót, ban cho tặng điển một cách ưu hậu”1. An Nam chí
lược của Lê Tắc thời Trần cũng chép tương tự như An Nam chí
[nguyên]: “Nhân Bảo tiến binh, gặp quân địch rất mạnh; viện
binh không đến, nên Nhân Bảo bị giết chết giữa sông. Thái Tông
nghe tin rất lấy làm thương xót, truy tặng chức Công bộ Thị lang
và cho hai người con là Diên Linh và Diên Thế đều làm Trai
Lang; Diên Linh làm đến chức Điện Trung Thừa và Diên Thế đến
chức Thái Tử Trung Xá”2.
Như thế, rõ ràng đại quân đã tiến vào nước ta bằng đường
sông Bạch Đằng, tuy giành được thắng lợi tạm thời, nhưng cuối
cùng chủ tướng của chúng là Hầu Nhân Bảo vì chủ quan tự phụ,
không lo phòng bị, đã bị Lê Hoàn lừa bắt được và giết chết cũng
chính trên dòng sông mà chúng vừa mới giành được lợi thế ban
đầu3. Tuy các nguồn tư liệu còn nhiều mâu thuẫn, nhưng vẫn
có thể cung cấp những thông tin xác thực để hình dung trên đại
thể toàn bộ diễn biến trận Bạch Đằng như sau: Mùa Đông năm 980,

1. Cao Hùng Trưng: An Nam chí [nguyên], Nxb. Đại học Sư phạm Hà
Nội, 2017, tr.272-273.
2. Lê Tắc: An Nam chí lược, Nxb. Thuận Hóa - Trung tâm Văn hóa
ngôn ngữ Đông Tây, 2002, tr.206.
3. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục không biết căn
cứ vào đâu lại chép: “Khi quân Tống kéo đến sông Chi Lăng, nhà vua sai
người trá hàng, dụ bắt được Nhân Bảo, đem chém” và giải thích sông Chi
Lăng ở Lạng Sơn (Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông
giám cương mục, Sđd, t.1, tr.251-252).
Mục tiêu của Hầu Nhân Bảo là nhanh chóng tiêu diệt triều đình Hoa
Lư, mà đã vào được phía trong sông Bạch Đằng rồi thì chắc hẳn Hầu Nhân
Bảo không cần phải vòng lên Lạng Sơn làm gì nữa. Có lẽ người chép lại sự
kiện này vẫn bị ám ảnh địa danh Lạng Sơn (mà đúng ra phải gọi là Lãng
Sơn) nên mới chép sông Chi Lăng (thuộc Lạng Sơn) vào đây chăng. Vấn đề
này cần phải được tìm hiểu thêm.
46 LỊCH SỬ HẢI PHÒNG Tập II (Từ năm 938 đến năm 1888)

khi quân Tống ồ ạt kéo vào cửa biển Bạch Đằng giành được thắng
lợi tạm thời, quân ta rơi vào tình thế bất lợi đã chủ động lui quân
về vùng Xạ Sơn thuộc huyện Kinh Môn, An Lạc thuộc huyện Chí
Linh (Hải Dương). Lê Hoàn đã hết sức khôn khéo tìm cách trá
hàng quân Tống, vừa tranh thủ thời gian củng cố lại lực lượng,
vừa kích thích tính chủ quan, ngạo mạn của đội quân xâm lược,
tạo thời cơ thuận lợi tiêu diệt chúng. Đến khi thời cơ thuận lợi xuất
hiện, ta nhanh chóng tổ chức phản công giết chết chủ tướng giặc
và đánh đuổi quân xâm lược Tống ra khỏi bờ cõi. Chiến trường
chống quân xâm lược Tống đã diễn ra ở nhiều nơi khắp cả miền
Đông Bắc và vùng trung tâm châu thổ sông Hồng, nhưng khu vực
hạ lưu, cửa biển Bạch Đằng và địa bàn thành phố Hải Phòng hiện
nay luôn luôn là chiến trường chính và giữ vai trò quyết định
thắng lợi của toàn bộ cuộc kháng chiến1.

1. Trần Bá Chí, trong sách Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất
(980 - 981), Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1992, đã khái quát diễn biến
trận Bạch Đằng thành 3 giai đoạn:
- Chuẩn bị lực lượng.
- Thực hiện kế trá hàng.
- Phản công đuổi quân Tống ra khỏi Bạch Đằng - Hoa Bộ.
Chúng tôi cho rằng, trình bày như thế là hợp với lôgíc của cuộc kháng chiến.
Trong điều kiện tư liệu tập hợp được đến cuối những năm 80 thế kỷ XX,
Trần Bá Chí chỉ có thể dự báo Hoa Bộ có nhiều khả năng nằm ở khu vực
Đông Bắc huyện Thủy Nguyên, sát liền bờ phía tây sông Bạch Đằng. Gần
đây, tập hợp thêm tư liệu trong dân gian, nhiều tác giả muốn đi đến xác
định cụ thể hơn rằng Hoa Bộ và U Bò chỉ là một (U Bò - Hoa Bộ) và địa
điểm Lê Hoàn đánh bại quân Tống ở Hoa Bộ là khu vực chân núi U Bò ở bờ
tây sông Bạch Đằng, nay thuộc thị trấn Minh Đức, huyện Thủy Nguyên.
Tại đoạn sông Bạch Đằng lịch sử này, năm 981, Lê Hoàn đã lập kế giết chết
chủ tướng Tống là Hầu Nhân Bảo và năm 1288, dưới sự chỉ huy của Trần
Hưng Đạo, Nội minh tự Đỗ Hành đã bắt sống được chủ tướng Nguyên là Ô
Mã Nhi và Tích Lệ Cơ dâng lên Thượng hoàng Trần Thánh Tông.
CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 47

Sơ đồ cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất (980 - 981)

2. Nhân dân Hải Phòng góp phần làm nên chiến thắng

“Đế đô tích tại Hoa Lư động,


Thánh vũ kim tồn Bạch Đằng giang”.
(Động Hoa Lư tráng lệ đế đô,
Sông Bạch Đằng lưu truyền thánh tích).
Câu đối trên ở đền Phú Diễn, Thanh Trì (Hà Nội) đã khái quát
sự nghiệp dựng nước và giữ nước của Lê Đại Hành, nêu cao chiến
công bất hủ của quân dân Đại Cồ Việt trên sông Bạch Đằng.
Bốn mươi ba năm sau đại thắng Bạch Đằng năm 938, có
một vị dũng tướng của Ngô Quyền là Phạm Bạch Hổ lại đứng
ra đảm nhận việc quân lương cho Lê Hoàn. Vị lão tướng khai
quốc công thần của nhà Ngô, đã có lúc trở thành một sứ quân
hùng cứ ở miền Đằng Châu (Hưng Yên) rồi lại sát cánh bên cạnh
Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn giữ nước, được phong đến chức “Thân vệ
tướng quân”, tuổi đã ngoài 80 mà vẫn hăng hái trở lại vùng chiến
48 LỊCH SỬ HẢI PHÒNG Tập II (Từ năm 938 đến năm 1888)

trường xưa vận động nhân dân tham gia kháng chiến. Sự có mặt
trên đất Hải Phòng ngay từ những ngày đầu chuẩn bị kháng
chiến của vị Tổng chỉ huy, linh hồn của cuộc kháng chiến, Hoàng
đế Lê Đại Hành, vị Đại tướng quân xuất thân từ dòng dõi hào
tộc Nam Sách Giang Phạm Cự Lạng và lão tướng Bạch Đằng xưa
Phạm Bạch Hổ chính là nguồn động viên rất lớn đối với mọi tầng
lớp nhân dân tham gia trận chiến.
Trang Thường Sơn, huyện Thủy Nguyên có ông bà Phạm
Hoằng, Nguyễn Thị Bích, gia đình nghèo khổ, bán nước ở chợ
Phướn, sinh hạ được ba người con trai là Phạm Quang, Phạm
Nghiêm, Phạm Huấn và một người con gái là Phạm Cúc Nương.
Khi quân Tống sang xâm lược, Lê Hoàn đến đóng đồn ở trên gò
đất cao cạnh chợ Phướn, gia đình họ Phạm đã cùng dân làng
quyên góp lương thực, thực phẩm nuôi quân. Tương truyền kho
gạo mà dân địa phương ủng hộ Lê Hoàn là gò Đống Cơm, được
truyền lại cho đến ngày nay. Các con trai, con gái của gia đình họ
Phạm đều được Lê Hoàn cho tham gia trực tiếp chiến đấu và lập
chiến công tại dòng sông Bạch Đằng quê hương mình. Khi giặc
tan, họ đều được phong thưởng hậu và khi mất, vua truyền cho
dân trang Thường Sơn lập đền thờ. Nay xung quanh khu vực núi
Đèo vẫn còn các đền miếu thờ Phạm Quang ở Thủy Tú, Phạm
Nghiêm ở Lương Kệ, Chiếm Phương, Phạm Huấn ở Thường Sơn,
thị trấn Núi Đèo và Cúc Nương ở Thủy Đường1.
Phạm Quảng (hay Phạm Công Quảng) vốn xuất thân trong
một gia đình nghèo ở trang Hoa Kiều (sau đổi là Hoa Chương,
nay thuộc xã Mỹ Đồng, huyện Thủy Nguyên) cũng đã trở thành
người thân tín bên cạnh Lê Hoàn từ rất sớm. Ông chính là người
hiến kế cho Lê Hoàn tạm dời đại bản doanh từ Thường Sơn về

1. Tham khảo Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Hải Phòng:
Một số di sản văn hóa tiêu biểu của Hải Phòng, Nxb. Hải Phòng, 2001,
t.1 (mục Miếu Thủy Tú), tr.171-174.
CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 49

làng mình bảo toàn lực lượng chuẩn bị kỹ càng hơn cho cuộc
chiến đấu mới. Ông còn được Lê Hoàn cho chỉ huy một đạo binh
thuyền rất lớn chia ra thành các đạo thủy, bộ đánh thẳng vào
doanh trại quân Tống trên sông Bạch Đằng. Sau chiến thắng,
ông xin Lê Hoàn cho về quê khuyến khích dân trang mở đất khai
hoang, phát triển sản xuất. Sau khi ông mất, dân trang tôn ông
làm thành hoàng1.
Ngô Vĩ Thanh được thờ ở đình Tuy Lạc, xã Thủy Triều; Phạm
Viết Nghiêm được thờ ở đền Lương Đường, thôn Lương Đường
xã Hoà Bình, huyện Thủy Nguyên, đều là những người có công
chống Tống trên sông Bạch Đằng. Ba anh em Đào Tế, Đào Đại,
Đào Bộ đều sinh ra và lớn lên ở trang Trinh Hưởng, huyện Thủy
Đường. Trong buổi đất nước lâm nguy, nghe theo tiếng gọi của
Lê Hoàn, họ đã tình nguyện đầu quân và được giao chỉ huy đánh
bại giặc Tống không phải ở vùng sông nước Bạch Đằng mà ở
Bàng Châu (khu vực Lục Đầu Giang, Hải Dương). Sau ngày đại
thắng, các ông đều được vua Lê Đại Hành ban thưởng và khi qua
đời được tôn thờ làm thành hoàng trang Trinh Hưởng2.

1. Tham khảo Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Hải Phòng:
Một số di sản văn hóa tiêu biểu của Hải Phòng, Sđd, t.1 (mục Miếu và chùa
Phương Mỹ), tr.111-165.
2. Tham khảo Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Hải Phòng:
Một số di sản văn hóa tiêu biểu của Hải Phòng, Sđd, t.2 (mục Đền Trinh
Hưởng), tr.161-164.
Khu vực các huyện Chí Linh, Thanh Lâm (tức vùng Lục Đầu Giang,
nay một phần thuộc Hải Dương, một phần thuộc Bắc Ninh), xưa là đất
Bàng Châu, sách Đại Nam nhất thống chí (mục Tỉnh Hải Dương) chép:
“Huyện Chí Linh: ... Từ đời Trần về trước gọi là Bàng Châu; thời thuộc
Minh mới đặt làm huyện thuộc châu Nam Sách, lệ vào phủ Lạng Giang,
sau đổi lệ phủ Tân An...”. “Huyện Thanh Lâm: ... Xưa gọi là Bàng Châu;
thời thuộc Minh mới đặt làm huyện thuộc châu Nam Sách, lệ vào phủ Lạng
Giang, sau hợp vào bản châu, đổi lệ phủ Tân An...” (Quốc sử quán triều
Nguyễn: Đại Nam nhất thống chí, Sđd, t.3, tr.362-363).
50 LỊCH SỬ HẢI PHÒNG Tập II (Từ năm 938 đến năm 1888)

Nằm lùi vào phía trong địa bàn huyện Thủy Nguyên và
cùng trong hệ thống bố phòng đánh địch ở Bạch Đằng còn
phải kể đến các đồn Xạ Sơn, An Lạc. Xạ Sơn (hay Dạ Sơn, xã
Quang Trung, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương) nằm cạnh
sông Kinh Thầy, có một thời gian trở thành nơi đóng đại bản
doanh của Lê Hoàn. Bốn người con tiêu biểu của trang Xạ
Sơn là Đào Thành, Phạm Minh, Nguyễn Triết và Vũ Uy đã
sớm tham gia vào công cuộc bố phòng của Lê Hoàn trên chiến
trường vùng Đông Bắc. Các ông đã dẫn Lê Hoàn về đóng quân
tại làng mình và được giao cho trọng trách chỉ huy bố trí lực
lượng dọc sông Kinh Thầy đến thượng lưu sông Bạch Đằng.
Bốn ông đã triệt để khai thác lợi thế sông lạch, núi rừng và
làng xóm để tổ chức chiến đấu bảo vệ an toàn cho căn cứ Xạ
Sơn ở phía sau. Ít lâu sau, Lê Hoàn quyết định chuyển đại bản
doanh về trang Dược Đậu, xã An Lạc (Chí Linh, Hải Dương).
Tại đây, có 4 anh em nhà họ Vương hết lòng, hết sức phò giúp
Lê Hoàn đánh giặc, cứu nước. Người anh cả là Vương Đức
Minh được phong là Thiên Bồng đại tướng quân đại vương và
được thờ tại đền Cao. Người anh thứ hai là Vương Đức Xuân
được phong là Dực Thánh dũng mãnh đại vương. Hai người
em gái là: Vương Thị Đào là Đào Hoa trinh thuận công chúa,
Vương Thị Liễu được phong là Liễu Hoa linh ứng Công chúa,
được người dân địa phương đời đời thờ cúng ở các đền Bến
Tràng, Bến Cá, Đền Cả...1.
Ngay tại khu vực Lục Đầu Giang còn có Đào Công Mỹ (hay
Đào Công Di, chàng Di) được dân các trang Đông Hương, Phượng
Trì, Tam Sơn thuộc xã Dịch Sử, tổng Phá Lãng (Bắc Ninh)

1. Tham khảo Nguyễn Minh Tường: “Về vị trí đại bản doanh của vua
Lê Đại Hành trong trận Bạch Đằng năm 981”, Tlđd, tr.9-10, 23.
CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 51

tiến cử và được Lê Hoàn phong làm Đô dịch sứ chuyên trách việc


giao dịch thư tín giữa quân ta với quân Tống. Đào Công Mỹ bằng
tất cả những cố gắng, tài năng, trí tuệ vượt trội của mình đã làm
cho quân Tống thực tin là Lê Hoàn không thể gượng dậy được
sau thất bại ban đầu ở cửa biển Bạch Đằng và thật tâm muốn
đầu hàng quân Tống để bảo toàn tính mệnh. Nếu coi việc giăng
bẫy tiêu diệt được chủ tướng Tống là đòn điểm huyệt đánh tan
ý chí xâm lược của một đạo quân hung hăng, ngạo mạn, ngủ mơ
trong chiến thắng, thì chiến công này cũng có phần xứng đáng
của người dân miền Đông Bắc1.
Sinh ra và lớn lên trên vùng cửa sông Văn Úc, nhưng chiến
công của họ lại lẫy lừng trên sông nước Bạch Đằng và trại Bàng
Châu là năm anh em nhà họ Đặng trang Đốc Kính (nay là thôn
Đốc Hậu, xã Toàn Thắng, huyện Tiên Lãng). Theo bản ngọc phả
còn được lưu giữ tại đình Đốc Hậu thì họ là Đặng Công Xuân,
Đặng Công Trung, Đặng Công Thọ, Đặng Công Tuấn và Đặng
Công Nghiêm, con ông Đặng Công Thành và bà Lý Thị Ngọc, lớn
lên giữa lúc giặc Tống lăm le xâm chiếm bờ cõi, đã hăng hái nghe
theo lời kêu gọi của Lê Hoàn lên đường giúp nước. Họ lập được
nhiều chiến công ở chiến trường Đông Bắc. Khi đất nước thanh
bình, họ được vua Lê Đại Hành ban thưởng hậu, nhưng vì nặng
tình nghĩa với quê hương, họ đều xin về quê chăm sóc mẹ già và
giúp đỡ dân làng đắp đê ngăn mặn, mở mang ruộng đồng. Họ đã
hy sinh cả tính mạng của mình trên đồng đất quê hương và trở
thành thành hoàng làng Đốc Kính (Đốc Hậu) cho đến ngày nay.
Đình Đốc Hậu thờ năm anh em họ Đặng từ lâu đã trở thành ngôi

1. Tham khảo Trần Bá Chí: Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ
nhất (980 - 981), Sđd, tr.193-194.
52 LỊCH SỬ HẢI PHÒNG Tập II (Từ năm 938 đến năm 1888)

đình chung, thành chốn tổ đình của cả vùng cửa sông Văn Úc1.
Đối diện ở bên bờ tả cửa sông Thái Bình là trang Tử Đôi (xưa
gọi là Tử Đà, tổng Tử Đôi, huyện Tiên Minh, nay là huyện Tiên
Lãng) có một ngôi đền thiêng. Tương truyền vua Lê Đại Hành
cùng Khuông Việt đại sư đem quân đi đánh giặc Tống đã dừng
chân bên ngôi đền thiêng này. Ban đêm, nhà vua mộng thấy Thủy
đế Sa môn đại vương là vị thần cai quản vùng sông biển đến xin
ngầm giúp nhà vua đánh giặc. Đến khi thắng trận, vua Lê Đại
Hành đã phong cho thần làm Thượng đẳng phúc thần. Sự có mặt
của vị Hoàng đế chủ tướng ở giữa vùng sông nước mênh mông đã
trở thành nguồn động viên rất lớn đối với các tầng lớp nhân dân
địa phương tham gia đánh giặc. Trên địa bàn huyện Tiên Lãng
còn có đình Đông Ninh, đình Trình Xuyên (hay Chàng Xuyên), xã
Tiên Minh thờ Huy Thâu Trinh Thục công chúa, Ả Lãng Phương
Viên công chúa, Đoan Dung Thục Diệu công chúa và Lý Xoa Kỳ
bản lộ đại tướng có công giúp Lê Đại Hành đánh giặc Tống ngay
tại làng quê mình. Riêng Lý Xoa Kỳ bản lộ đại tướng còn được thờ
ở đình Đốc Hành, xã Toàn Thắng. Đình Phương Lai (Đăng Lai),
xã Quyết Tiến thờ Chu Đô làm thành hoàng làng Đăng Lai, vì
ông có công diệt Tống, bình Chiêm thời Tiền Lê. Đình miếu Đống
Táo, xã Tự Cường thờ Châu Bạc đại vương và Phúc Mẫu tôn thần
là các vị thần đời Hùng Vương dựng nước Văn Lang đã có công
âm phù Lê Đại Hành đánh tan quân Tống.
Bên cạnh tuyến phòng thủ chính trên tuyến sông Bạch Đằng -
Kinh Thầy, lúc này Lê Hoàn cũng đặc biệt lưu tâm xây dựng lực
lượng tổ chức tuyến phòng thủ ở vùng cửa sông Thái Bình và trải

1. Tham khảo Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Hải Phòng:
Một số di sản văn hóa tiêu biểu của Hải Phòng, Sđd, t.2 (mục Đình Đốc
Hậu), tr.79-83.
CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 53

dài trên toàn tuyến sông Luộc, sông Hồng, bảo vệ trực tiếp cho
kinh đô Hoa Lư ở phía sau1. Thần tích Hổ Oai đại tướng quân ở
Ngải Am, xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo chép: trang Cồn Ngãi
nằm ở bờ hữu cửa sông Thái Bình (kẹp giữa sông Thái Bình và
sông Hóa) xưa còn rất hoang vu. Trong quá trình chuẩn bị đánh
Tống, vua Lê Đại Hành đã về đây đóng đồn. Thiên nhiên hoang
sơ đã khiến cho quân lính tưởng tượng ra những tiếng gầm rú
của bầy hổ dữ và gọi đây là tiếng oai linh của hổ. Sau này, dân
gian lập đền thờ Chưởng quản sơn lâm Hổ Oai tướng quân vì đã
có công giúp vua Lê Đại Hành đánh tan giặc Tống. Câu chuyện
thật huyền bí nhưng có lẽ cũng phản ánh một thực tế là trong

1. Trần Bá Chí, trong sách Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất
(980 - 981), đã dự đoán thành Bình Lỗ mà Lê Hoàn xây dựng để phá được
quân Tống - như lời khen của Trần Hưng Đạo - là đoạn sông Hồng nối
dài từ ngã ba Lềnh đến ngã ba Vàng. Ông còn chứng minh có một trận
Lục Giang mà quân ta đã phá tan được âm mưu của Hầu Nhân Bảo muốn
đánh chiếm Hoa Lư trước khi viện binh Tống đến. Sông Lục Giang qua mô
tả của tác giả là sông Luộc - dòng sông làm ranh giới cho tỉnh Hải Dương,
tỉnh Hưng Yên ở bờ Bắc và thành phố Hải Phòng, tỉnh Thái Bình ở bờ Nam
(Trần Bá Chí: Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất (980 - 981), Sđd,
tr.114-116).
Đây là một nghiên cứu mới dày công, có cơ sở khoa học và rất đáng
được quan tâm. Tuy nhiên, việc tác giả cho rằng Tranh Giang là sông Hóa
và con đường của các đoàn thuyền từ cửa biển Thái Bình theo sông Hóa
để vào sông Luộc (cũng như “chiến sự diễn ra từ cửa sông Thái Bình dọc
theo sông Hóa, sông Luộc” (Trần Bá Chí: Cuộc kháng chiến chống Tống
lần thứ nhất (980 - 981), Sđd, tr.187), thì cần được thảo luận lại. Theo
chúng tôi, đoạn sông Luộc từ ngã ba Ninh Giang đến ngã ba Quý Cao tuy
có được khai vét nhiều lần, nhưng đấy vẫn là dòng sông tự nhiên và cũng
là dòng chính nối thông hai hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Các
đoàn thuyền lớn xưa nay vào cửa biển Thái Bình rồi đi sâu vào trung tâm
châu thổ sông Hồng vẫn đi theo đường sông này. Chỗ phía dưới Ninh Giang
là Tranh Chử, Tranh Xuyên... và nhân dân địa phương gọi là sông Tranh
(hay sông Chanh).
54 LỊCH SỬ HẢI PHÒNG Tập II (Từ năm 938 đến năm 1888)

chiến lược phòng thủ đất nước, bảo vệ cho triều đình Hoa Lư ở
phía sau, Lê Hoàn cũng không thể không quan tâm đến vùng
cửa sông Thái Bình. Thành hoàng làng Lô Đông, xã Vĩnh Long,
huyện Vĩnh Bảo là Bảo Sơn Phạm đại vương, Cảm Ứng Thượng
sĩ Trần đại vương và Hoằng Hóa chính trực Nguyễn đại vương là
các tướng của Lê Hoàn chỉ huy đánh trận, họ anh dũng hy sinh
ngay trên bờ hữu ngạn sông Luộc. Dân trang Lô Đông ghi ơn
những anh hùng hy sinh vì nước, ngay sau chiến tranh kết thúc
đã lập đền thờ ba vị đại vương.
Hệ thống đền, miếu, đình làng thờ các vị thần bao gồm các vị
thần vốn là người địa phương có công đánh giặc Tống, giữ làng
giữ nước và cả các vị thần là kết tinh của các lực lượng thiên
nhiên hoang dã vùng cửa sông, bãi biển Thái Bình đã trợ giúp
cho Lê Hoàn, trực tiếp hay gián tiếp phản ánh sự tham gia của
nhân dân Vĩnh Bảo, Tiên Lãng vào chiến công chung của nhà
Tiền Lê. Sự tập trung của cả một hệ thống di tích kéo dài từ địa
đầu cửa sông Thái Bình chuyển qua hệ thống sông Luộc, còn
phản ánh tuyến phòng thủ của Lê Hoàn và khu vực xảy ra chiến
sự ác liệt. Sử sách ghi chép về cuộc kháng chiến chống quân xâm
lược Tống thời Tiền Lê có khá nhiều mơ hồ và mâu thuẫn. Tuy
nhiên, việc tập hợp, khai thác các nguồn tư liệu còn lưu giữ trong
dân gian, các di tích và truyền thuyết ở Hải Phòng lại có thể giúp
cho chúng ta nhìn nhận một cách rõ ràng và hợp lý hơn tình hình
chiến sự.
Thế kỷ X là thế kỷ bản lề của lịch sử Việt Nam, được đánh
dấu bằng bốn sự kiện lịch sử trọng đại nhất là: công cuộc giành
độc lập, tự chủ của họ Khúc vào năm 905; chiến công của Ngô
Quyền ở vùng cửa biển Bạch Đằng cuối năm 938; Đinh Bộ Lĩnh
hoàn thành sứ mệnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước
năm 968; Lê Hoàn đại phá quân xâm lược Tống vào năm 981.
CHƯƠNG I Vùng đất Hải Phòng thời Ngô, Đinh và Tiền Lê... 55

Đây là thế kỷ sau hơn một nghìn năm bị phương Bắc đô hộ, người
Việt với những nỗ lực phi thường của mình đã khẳng định nền
độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và văn minh Đại Việt. Một
thế kỷ được coi là bản lề của toàn bộ tiến trình lịch sử đất nước
với hàng loạt những mốc son lịch sử chói lọi. Người Hải Phòng dù
là trực tiếp hay gián tiếp đều đã góp phần xứng đáng công sức
của mình tạo dựng nên tất cả những cột mốc kỳ vĩ ấy của lịch sử
dân tộc Việt Nam.

You might also like