You are on page 1of 59

Bắc thuộc lần 1

-Thời gian: 179 TCN - 39

-Mô tả: Dấu mốc xác định thời kỳ đầu tiên này chưa thống nhất giữa các
sử gia, do quan niệm khác nhau về nước Nam Việt và nhà Triệu.

-Quan điểm thừa nhận nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam
(Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Việt
Nam sử lược) xác định rằng khi nhà Triệu bị Hán Vũ Đế diệt năm 111
TCN là lúc bắt đầu thời Bắc thuộc. Theo mốc thời gian này, thời Bắc
thuộc lần 1 kéo dài 150 năm. Theo quan điểm này, thời Bắc thuộc lần 1
thực chất là từ thời thuộc Hán. Đây cũng là quan điểm chung của nhiều
sử gia thế giới.
Quan điểm không thừa nhận nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt
Nam (Việt sử tiêu án, các sách Lịch sử Việt Nam của các sử gia hiện đại)
xác định thời Bắc thuộc bắt đầu từ khi Triệu Đà diệt An Dương Vương.
Sử cũ thường xác định An Dương Vương và nước Âu Lạc bị tiêu diệt năm
207 TCN. Theo mốc thời gian này, thời Bắc thuộc lần 1 kéo dài 246 năm.
Sử hiện đại căn cứ theo ghi chép của Sử ký Tư Mã Thiên là Triệu Đà diệt
nước Âu Lạc "sau khi Lã Hậu mất", tức là khoảng năm 179 TCN. Theo
mốc thời gian này, thời Bắc thuộc lần 1 kéo dài 218 năm.
Địa điểm: Việt Nam

Hình ảnh:

Khởi nghĩa Hai Bà Trưng Và Lĩnh Nam Quốc

-Thời gian: Năm 40- 43 sau công nguyên

-Mô tả:Dấu mốc xác định thời kỳ đầu tiên này chưa thống nhất giữa các
sử gia, do quan niệm khác nhau về nước Nam Việt và nhà Triệu.
Quan điểm thừa nhận nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam
(Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Việt
Nam sử lược) xác định rằng khi nhà Triệu bị Hán Vũ Đế diệt năm 111
TCN là lúc bắt đầu thời Bắc thuộc. Theo mốc thời gian này, thời Bắc
thuộc lần 1 kéo dài 150 năm. Theo quan điểm này, thời Bắc thuộc lần 1
thực chất là từ thời thuộc Hán. Đây cũng là quan điểm chung của nhiều
sử gia thế giới.
Quan điểm không thừa nhận nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt
Nam (Việt sử tiêu án, các sách Lịch sử Việt Nam của các sử gia hiện đại)
xác định thời Bắc thuộc bắt đầu từ khi Triệu Đà diệt An Dương Vương.
Sử cũ thường xác định An Dương Vương và nước Âu Lạc bị tiêu diệt năm
207 TCN. Theo mốc thời gian này, thời Bắc thuộc lần 1 kéo dài 246 năm.
Sử hiện đại căn cứ theo ghi chép của Sử ký Tư Mã Thiên là Triệu Đà diệt
nước Âu Lạc "sau khi Lã Hậu mất", tức là khoảng năm 179 TCN. Theo
mốc thời gian này, thời Bắc thuộc lần 1 kéo dài 218 năm.
Từ khi nhà Triệu tiêu diệt An Dương Vương và thiết lập quyền cai trị trên
lãnh thổ Âu Lạc cũ, chế độ thống trị dừng lại ở cấp quận với đại diện là 2
viên quan sứ ở 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Đến khi nhà Tây Hán diệt
nhà Triệu (111 TCN), cấp độ thống trị vẫn ở cấp quận; chế độ các Lạc
hầu, Lạc tướng của người Việt với quyền thế tập trên lãnh thổ Âu Lạc cũ
được các chính quyền phương Bắc chấp nhận cho duy trì, nhưng ngày
càng suy yếu.
Các Lạc tướng, Lạc hầu, Bồ chính để duy trì quyền hành và sự thế tập bị
bắt buộc phải cộng tác với chính quyền cai trị phương Bắc. Trong hàng
ngũ các Lạc tướng có sự phân hóa giữa một bên là những người thực sự
cộng tác với chính quyền nhà Hán, bên kia là những người chỉ thần phục
bên ngoài.
Từ khi nhà Đông Hán thành lập, Hán Quang Vũ Đế tuy chưa dẹp xong các
lực lượng cát cứ phương Bắc nhưng vẫn quan tâm tới miền Nam. Tích
Quang, Nhâm Diên làm Thái thú Giao Chỉ và Thái thú Cửu Chân của nhà
Hán, ra sức thực hiện chính sách đồng hóa, thay đổi tập tục từ hôn nhân
đến y phục, lễ nghĩa của người Việt bắt theo người Hán, dẫn đến xúc
phạm nặng nề tới phong tục cũ nhiều đời của người Việt.
Từ khi Tô Định sang làm Thái thú Giao Chỉ năm 34, ách thống trị của nhà
Đông Hán càng nặng nề hơn với người Việt. Tô Định tàn bạo và tham
lam, tăng cường phục dịch và thuế khóa đối với người Việt để cống nạp
cho triều đình nhà Hán nhiều hơn, thúc ép các Lạc tướng nhiều hơn. Sự
đụng chạm lớn về văn hóa, tín ngưỡng và kinh tế khiến mâu thuẫn
giữa người Việt – không chỉ nhân dân mà cả các Lạc tướng – với chế độ
thống trị của nhà Hán ngày càng gay gắt. Vì vậy các Lạc tướng đã đoàn
kết nhau lại để chống đối.

Trong số các Lạc tướng có ý chống lại sự thống trị của nhà Hán, nổi lên
nhà Trưng Trắc ở Mê Linh, Phong Châu và nhà Thi Sách ở Chu Diên. Theo
Đại Việt sử lược, Trưng Trắc và em gái là Trưng Nhị có cá tính mạnh mẽ,
không chịu ràng buộc theo pháp luật mà Tô Định áp đặt. Địa bàn mà
Trưng Trắc quản giữ khá rộng lớn, giữa dãy Ba Vì và Tam Đảo tức là
trung tâm quốc gia Văn Lang của vua Hùng trước đây, lọt vào giữa 3
khúc sông: khuỷu sông Đà, sông Hồng và sông Đáy. Còn địa bàn của Thi
Sách liền kề với Mê Linh, cách nhau con sông Đáy, nằm trong châu thổ
hữu ngạn sông Hồng và tả ngạn sông Đáy.

Trưng Trắc kết hôn với Thi Sách, hai nhà đồng lòng tập hợp lực lượng
chống lại sự cai trị của nhà Hán và đã tập hợp được sự ủng hộ của khá
nhiều thủ lĩnh địa phương khác.

Trước khí thế chống đối của các thủ lĩnh người Việt, Tô Định đã giết Thi
Sách để hy vọng dập tắt sớm ý định chống đối. Thù chồng bị giết càng
khiến Trưng Trắc hành động gấp rút trong việc khởi binh chống nhà Hán.

-Địa điểm: cửa sông Hát (thuộc địa phận huyện Phúc Thọ - Hà Nội)

-Hình ảnh:

Khởi nghĩa Bà TRiệu


-Thời gian: Năm 248
-Mô tả:Mùa xuân năm Mậu Thìn (248), thấy quan lại nhà Đông Ngô
(Trung Quốc) tàn ác, dân khổ sở, Bà Triệu bèn bàn với anh việc khởi binh
chống lại. Lúc đầu, anh bà không tán thành nhưng sau chịu nghe theo ý
kiến của em.

Từ hai căn cứ núi vùng Nưa và Yên Định, hai anh em bà dẫn quân đánh
chiếm huyện trị Tư Phố nằm ở vị trí hữu ngạn sông Mã. Đây là căn cứ
quân sự lớn của quan quân nhà Đông Ngô trên đất Cửu Chân. Thừa
thắng, lực lượng nghĩa quân chuyển hướng xuống hoạt động ở vùng
đồng bằng con sông này.

Đang lúc ấy, Triệu Quốc Đạt lâm bệnh qua đời. Các nghĩa binh thấy bà
làm tướng có can đảm, bèn tôn lên làm chủ. Bà đã phối hợp với ba anh
em họ Lý ở Bồ Điền đánh chiếm các vùng đất còn lại ở phía Bắc Thanh
Hóa ngày nay, đồng thời xây dựng tuyến phòng thủ từ vùng căn cứ Bồ
Điền đến cửa biển Thần Phù (Nga Sơn, Thanh Hoá) để ngăn chặn viện
binh của giặc Ngô theo đường biển tấn công từ phía Bắc.

Được tin cuộc khởi nghĩa lan nhanh, vua Ngô là Tôn Quyền liền phái
tướng Lục Dận (cháu của Lục Tốn), sang làm Thứ sử Giao Châu, An Nam
hiệu úy, đem theo 8.000 quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Đến nơi,
tướng Lục Dận liền dùng của cải mua chuộc một số lãnh tụ địa phương
để làm suy yếu và chia rẽ lực lượng nghĩa quân.

Những trận đánh ác liệt đã diễn ra tại căn cứ Bồ Điền. Song do chênh
lệch về lực lượng và không có sự hỗ trợ của các phong trào đấu tranh
khác
nên căn cứ Bồ Điền bị bao vây cô lập, và chỉ đứng vững được trong hơn
hai tháng.

Theo Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược, bà chống đỡ với quân
Đông Ngô được năm, sáu tháng thì thua. Bà Triệu đã tuẫn tiết trên núi
Tùng (xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, Thanh Hóa) vào năm Mậu Thìn (248),
lúc mới 23 tuổi.

Nước Việt lại bị nhà Đông Ngô đô hộ cho đến 265.

- Địa điểm: Núi Nưa (Triệu Sơn)


- Hình ảnh:

Khởi nghĩa Lý Bí

-Thời gian: Năm 544

-Mô tả: Lý Bí sinh ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi (17 tháng 10 năm 503).
Từ nhỏ, Lý Bí đã tỏ ra là một cậu bé thông minh, sớm hiểu biết. Nhờ có
tài văn võ kiêm toàn, Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh địa phương.

Lý Bí có tài, được Thứ sử Tiêu Tư nhà Lương mời ra làm chức Giám quân
ở Đức châu (huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay).

Thứ sử Giao Châu là Vũ Lâm hầu Tiêu Tư hà khắc tàn bạo nên mất lòng
người. Do bất bình với các quan lại đô hộ tàn ác, Lý Bí bỏ quan, về quê,
chiêu binh mãi mã chống lại chính quyền đô hộ.

Được nhiều người hưởng ứng, lực lượng của Lý Bí lớn mạnh. Lý Bí liên
kết với các châu lân cận cùng chống lại Tiêu Tư. Cuối năm 541, Lý Bí
chính thức khởi binh chống nhà Lương, khí thế rất mạnh. Theo sách
Lương thư của Trung Quốc, Tiêu Tư liệu thế không chống nổi quân Lý Bí,
phải sai người mang của cải đến đút lót cho Lý Bí để được tha chạy thoát
về Quảng Châu. Quân của Lý Bí đánh chiếm lấy thành Long Biên.

Tuy Tiêu Tư đã bỏ chạy nhưng Lý Bí chỉ mới kiểm soát được vùng Bắc Bộ
Việt Nam hiện nay, các châu phía nam vẫn còn trong tay nhà Lương.
Tháng 4 năm 542, Lương Vũ Đế sai Thứ sử Việt châu là Trần Hầu, Thứ sử
La châu là Ninh Cự, Thứ sử An châu là Úy Trí, Thứ sử Ái châu là Nguyễn
Hán cùng hợp binh đánh Lý Bí. Nhưng Lý Bí đã chủ động ra quân đánh
trước, phá tan lực lượng quân Lương ở phía nam, làm chủ toàn bộ Giao
Châu.
Đầu thế kỉ VI, nhà Lương đô hộ Giao Châu. Chính quyền đô hộ chia lại
nước ta thành: Giao Châu (đồng bằng và trung du Bắc bộ), Ái Châu
(Thanh Hóa), Đức Châu, Lợi Châu, Minh Châu (Nghệ An – Hà Tĩnh) và
Hoàng Châu (Quảng Ninh).

Cuối năm 542, Lương Vũ Đế lại sai thứ sử Giao Châu là Tôn Quýnh, Thứ
sử Tân Châu là Lư Tử Hùng sang đàn áp.

Được tin quân Lương lại tiến sang, Lý Bí chủ động mang quân ra bán đảo
Hợp Phố đón đánh. Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng đi đến Hợp Phố, bị quân
Lý Bí đánh bại, mười phần chết đến sáu, bảy phần, quân tan rã.

Chiến thắng này giúp Lý Bí kiểm soát toàn bộ Giao Châu, tức là miền Bắc
Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam cộng thêm quận Hợp Phố (khu vực huyện
Hợp Phố thành phố Bắc Hải tỉnh Quảng Tây và bán đảo Lôi Châu tỉnh
Quảng Đông, Trung Quốc hiện nay).

Trong khi Lý Bí bận đối phó với nhà Lương ở phía Bắc thì tại phía nam,
vua Lâm Ấp có ý nhòm ngó Giao Châu.

Biên giới giữa Giao Châu và Lâm Ấp lúc đó là dãy Hoành Sơn. Tháng 5
năm 543, vua Lâm Ấp Rudravarman I mang quân xâm chiếm quận Nhật
Nam và tiến đến quận Cửu Đức. Lý Nam Đế sai Phạm Tu cầm quân vào
nam đánh Lâm Ấp.

- Địa điểm: Thái Bình (Sơn Tây)

-Hình ảnh:
Loạn 12 sứ quân
-Thời gian: 944

- Mô tả:Loạn 12 sứ quân (Thập nhị sứ quân chi loạn) là một giai đoạn nội
chiến diễn ra vào cuối thời nhà Ngô, kéo dài từ năm 944 sau khi Ngô
Quyền mất cho đến khi Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước, lập ra nhà
Đinh năm 968, được ghi chép trong phần Bản kỷ Ngô sứ quân Ngô
Xương Xí.

Cuộc loạn lạc này có nguyên nhân sâu xa từ quá trình phân hóa xã hội
thời Bắc thuộc, dẫn đến việc xuất hiện tầng lớp thổ hào, quan lại có thế
lực mạnh về kinh tế, chính trị và tạo ra sự phân tán cát cứ. Thực chất của
cuộc nội chiến này là việc đấu tranh giành quyền lực tối cao trên đất
Tĩnh Hải quân của các thủ lĩnh địa phương khi nhà Đường suy yếu, người
Việt có cơ hội đứng lên tranh giành quyền lãnh đạo. Giai đoạn này có
mầm mống từ đầu thế kỷ X và có cơ hội phát triển mạnh từ khi Dương
Tam Kha cướp ngôi nhà Ngô, các nơi không chịu thuần phục, các thủ lĩnh
nổi lên cát cứ một vùng, nhiều người còn xưng Vương như An vương
Ngô Nhật Khánh, Vũ Ninh vương Nguyễn Thủ Tiệp, Quang Hiển quốc
vương Kiều Thuận, Quảng Trí quân Nguyễn Khoan hoặc tranh ngôi vua
như Lã Xử Bình, Dương Huy, Đỗ Cảnh Thạc,
Kiều Công Hãn và đem quân đánh chiếm lẫn nhau.

Sau khi Thiên Sách vương mất, thủ lĩnh ở quận Thao Giang là Chu Thái
quật cường không thần phục nhà Ngô. Nam Tấn vương thân chinh đi
đánh, chém được Chu Thái. Cũng sau thời gian này, Ngô Xương Văn đi
đánh giặc Lý Huy/Dương Huy ở châu Tây Long, đóng quân ở cửa Phù
Lan, suốt tháng trời giặc tan mới rút quân trở về.

Các sứ quân tham chiến


Năm 965, Ngô Xương Văn đi đánh thôn Đường tức Đường Lâm của sứ
quân Ngô Nhật Khánh và thôn Nguyễn Gia Loan của sứ quân Nguyễn
Thái Bình bị phục binh bắn nỏ chết. Khi Ngô Xương Xí nối ngôi, Ngô Nhật
Khánh là anh em cùng họ cũng kéo quân từ Đường Lâm về Cổ Loa tranh
giành.

Cũng trong năm 965 Thứ sử Phong Châu Kiều Công Hãn kéo quân về
triều đình Cổ Loa cùng tranh ngôi vua với Lã Xử Bình, con của Ngô Xương
Ngập là Ngô Xương Xí phải lui về giữ đất Bình Kiều, trở thành Ngô Sứ
quân. Đinh Liễn sau 15 năm làm con tin ở Cổ Loa đã trở về Hoa Lư, cùng
cha Đinh Bộ Lĩnh sang đầu quân cho Sứ quân Trần Lãm ở Thái Bình.

Năm 966 Thứ sử Dương Huy, Thứ sử Kiều Công Hãn, Tham mưu Lã Xử
Bình và Nha tướng Đỗ Cảnh Thạc tranh nhau làm vua. Đinh Bộ Lĩnh giết
được Lã Xử Bình, kiểm soát được thành Cổ Loa. Các tướng Kiều Công
Hãn, Đỗ Cảnh Thạc thua chạy về Phong Châu và Đỗ Động, nổi dậy thành
sứ quân.
Các sứ quân ra mặt đánh chiếm lẫn nhau: Phạm Bạch Hổ tấn công Trần
Lãm, Lã Đường tấn công Đỗ Cảnh Thạc; Kiều Công Hãn tấn công Nguyễn
Khoan; Nguyễn Thủ Tiệp giết Dương Huy chiếm Vũ Ninh và tự xưng là Vũ
Ninh vương.

Năm 967, Sứ quân Trần Lãm mất, Sứ quân Ngô Nhật Khánh từ Đường
Lâm, Đỗ Động Giang tập hợp 500 con em Ngô Tiên chúa đánh Bố Hải
Khẩu, khi đến đất Ô Man thì bị Ngô phó sứ chặn đánh phải bỏ về. Đinh
Bộ Lĩnh liền cất quân đi đánh, không bộ lạc nào ở đó không hàng phục.
Các sứ quân Phạm Bạch Hổ, Ngô Nhật Khánh, Ngô Xương Xí đem quân
về hàng, lực lượng họ Đinh ngày càng lớn mạnh. Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp
các sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu, Nguyễn Khoan, Kiều Công Hãn,
Kiều Thuận.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh tiếp tục đánh dẹp các sứ quân Lý Khuê, Lã Đường
và thống nhất Tĩnh Hải quân, lên ngôi Hoàng đế ở kinh đô Hoa Lư, chính
thức lập ra triều đại nhà Đinh trong lịch sử Việt Nam.

- Địa điểm: (Triệu Sơn, Thanh Hóa).], Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội).Đỗ
Động Giang (Quốc Oai và Thanh Oai, Hà Nội), Đằng Châu (Hưng Yên),
Phong Châu (Phú Thọ), Hồi Hồ (Cẩm Khê, Phú Thọ)., (Vĩnh Tường, Vĩnh
Phúc)., (Thanh Trì, Hà Nội)., Tiên Du (Bắc Ninh)., (Thuận Thành, Bắc
Ninh)., Bố Hải Khẩu (Thái Bình)., (Văn Giang, Hưng Yên).

- Hình ảnh:

Lý Công Uẩn dời đô về Thăng Long


- Thời gian: năm 1010

- Mô tả:Thành Hoa Lư vốn là kinh đô của 2 triều đại Đinh và Tiền Lê, là
một vị trí cố thủ tự nhiên giữa những những mỏm núi đá nằm bên rìa
phía Đông Nam đồng bằng sông Hồng trong tỉnh Ninh Bình. Hoa Lư kiểm
soát tuyến đường đất từ đồng bằng sông Hồng tới các tỉnh phía Nam. Nó
cũng là tiền đồn của những tỉnh phía Nam nhìn ra đồng bằng sông Hồng.
Lúc lên ngôi, Lý Thái Tổ cho rằng "Hoa Lư thành thì hẹp, đất thì thấp",
muốn dời đô về Đại La (nay là Hà Nội), tức thành Tống Bình đời Đường -
nơi mà Cao Biền sau khi đuổi quân Nam Chiếu đã xây dựng lại phủ trị
của An Nam đô hộ phủ. Nhà vua ra chiếu rằng:

“Xưa kia nhà Thương đến vua Bàn Canh đã năm lần thiên đô, nhà Chu
đến đời Thành Vương đã ba lần thiên đô, không phải là theo ý riêng một
mình, là nghĩ đến kế muôn năm về sau. Nhà Đinh và Lê không theo lối cũ
của Thương, Chu, cứ để kinh đô ở mãi nơi này, trẫm rất đau lòng. Duy có
thành Đại La ở giữa khu vực của trời đất, có cái thế long, hổ vững bền,
địa thế rộng và bằng phẳng, đất thì cao mà sáng sủa, rõ là khu vực phồn
thịnh. Đã xét khắp đất Việt, chỉ có nơi ấy là thắng địa, là nơi đô hội thật
là kinh đô của muôn đời sau.”

Sử chép rằng các quan đều nhất trí với nhà vua: "Bệ hạ vì thiên hạ lập kế
dài lâu, trên cho nghiệp đế được thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân
chúng được đông đúc giàu có, điều lợi như thế, ai dám không theo".

Tháng 7 năm Thuận Thiên thứ nhất (1010


thì khởi sự dời đô. Khi thuyền mới đến đậu ở dưới thành, thấy có con
rồng vàng hiện ra, nhân thế đặt tên là Thăng Long, liền lập nhiều cung
điện, cộng 13 sở, xây thành lũy, sửa sang phủ khố; thăng châu Cổ Pháp
làm phủ Thiên Đức, Bắc Giang gọi là Thiên Đức Giang, thành Hoa Lư gọi
là phủ Tràng An, trong phủ Thiên Đức lập ra tám ngôi chùa, đều có lập
bia ghi chép công đức.
- Hình ảnh:

- Địa điểm: Hoa Lư (Ninh Bình) về Thành Đại La (tức Thăng Long)

Chiến tranh Việt-Chiêm

-Thời gian: 1069

- Mô tả: Chiến tranh Việt-Chiêm 1069 là cuộc chiến do vua Lý Thánh


Tông của Đại Việt phát động năm 1069 nhằm đánh vương quốc Chiêm
Thành ở phương Nam với lý do người Chiêm từ chối thần phục nhà Lý.
Nhà Lý gọi cuộc chiến này là Chiến dịch phạt Chiêm 1069.

Năm Giáp Thân (1044), Lý Thái Tông đã đánh Chiêm Thành với lý do
nước này bỏ thông hiếu, phá quốc đô Phật Thệ và giết chúa Sạ Đẩu.

Sang thời Lý Thánh Tông, năm 1065 - 1069, Chiêm Thành bỏ cống. Vua
Thánh Tông lại đem quân Nam chinh. Nhưng một vài sử gia cho rằng tới
giai đoạn lịch sử này cuộc đánh Chiêm chẳng phải riêng vì việc đoạn
tuyệt giao hiếu, mà do Đại Việt bắt đầu thi hành chính sách mở rộng
biên giới, dựa vào chỗ Chiêm Thành có tinh thần bất khuất chống đối đối
với Đại Việt và lại lén lút thần phục nhà Tống.

Quốc vương Chiêm là Chế Củ muốn dựa vào nhà Tống để chặn bước tiến
của Đại Việt, xin thần phục và được vua Tống Thần Tông giúp đỡ, cho
ngựa trắng và cho phép họ mua lúa ở Quảng Châu, Chiêm Thành không
tiếp tục nạp cống cho Đại Việt nữa. Mọi hành động của Chiêm Thành
đều bị người Việt cho là khiêu khích họ.

Năm 1068 vua Lý Thánh Tông sửa soạn thêm chiến thuyền (việc giao
thông từ thành Phật Thệ tới Đại Việt bằng đường núi theo lời sứ Chiêm
tâu với vua Tống phải mất 40 ngày. Vua nhà Tiền Lê trước đây có đào tân
cảng và sửa chữa đường sá nhưng xét ra dùng thủy đạo vẫn dễ dàng cho
việc chuyển quân hơn. Lực lượng quân sự của Lý triều tất cả có chừng
200 chiếc thuyền, Lý Thường Kiệt được làm Đại tướng đi tiên phong, em
Thường Kiệt là Lý Thường Hiến giữ chức Tán kỵ Võ úy.

Ở triều bấy giờ Lý Thánh Tông giao cho Nguyên phi Ỷ Lan và Thái sư Lý
Đạo Thành trông coi việc nước. Bảy ngày sau khi rời khỏi Thăng Long các
đạo quân Việt đã có mặt ở Nghệ An, ba ngày sau tới phía Nam núi Hồng
Lĩnh (Hà Tĩnh), vào hải phận Chiêm

- Địa điểm: Vương quốc chiêm thành

- Hình ảnh:

Chiến tranh Nguyên Mông - Đại Việt lần 1


- Thời gian: Năm 1257-1258

- Mô tả: (Sơ đồ trận chiến Mông Nguyên lần 1) Chiến tranh Nguyên
Mông – Đại Việt lần thứ nhất hay Kháng chiến chống Nguyên Mông lần
thứ nhất là cách người Việt Nam gọi cuộc chiến đấu của quân dân Đại
Việt chống lại quân đội của đế quốc Mông Cổ do Uriyangqatai (Ngột
Lương Hợp Thai) chỉ huy vào trong khoảng thời gian nửa tháng cuối
tháng 1 năm 1258 (hay năm Nguyên Phong thứ 7). Cuộc chiến mở đầu
với thất bại của quân Đại Việt trong trận Bình Lệ Nguyên, sau đó là trận
ở Phù Lỗ, dù thắng nhưng quân đội của Ngột Lương Hợp Thai không
đánh bại được đạo quân chủ lực của nhà Trần. Quân Mông Cổ tiến vào
kinh thành của Đại Việt trong 9 ngày. Quân đội nhà Trần đã đại phá quân
Mông trong trận Đông Bộ Đầu khiến cho đội quân này phải chạy về phía
Bắc, sau đó còn phải hứng chịu một cuộc tập kích khác của thủ lĩnh miền
núi - Hà Bổng. Cuộc chiến này đã kết thúc với chiến thắng của nước Đại
Việt, ghi dấu công lao của vua Trần Thái Tông trong việc lãnh đạo quân
dân Đại Việt chiến đấu chống quân đội Mông Cổ. Vào năm 1206, Thành
Cát Tư Hãn đã tập hợp thành công các bộ lạc Mông Cổ, từ đó Đế quốc
Mông Cổ liên tục thực hiện nhiều cuộc chiến nhằm mở rộng đế quốc của
mình. Đến đời đại hãn thứ 4, tức Mông Kha, ông đã tiến hành các chiến
dịch tấn công nước Tống (Trung Quốc) bằng việc đánh vào sườn nhà
Tống thông qua việc cử người em trai là Hốt Tất Liệt đánh Đại Lý. Đánh
Đại Lý xong vào năm 1253, Hốt Tất Liệt trở về, giữ Ngột Lương Hợp Thai
ở lại đánh các nước chưa hàng phục. Đến năm 1257, việc chiếm Đại Việt
nằm trong chiến lược tổng thể của quân đội Mông Cổ nhằm tiêu diệt
Nam Tống. Bốn cánh quân Mông Cổ sẽ tấn công Nam Tống từ những địa
điểm khác nhau từ phía Nam và phía Tây. Nắm quyền chỉ huy 3 cánh
quân kia là Mông Kha, Hốt Tất Liệt và Tháp Sát Nhi. Cánh quân còn lại –
cánh quân thứ tư, sau khi chiếm Đại Việt sẽ đánh thốc vào Nam Tống từ
mạn cực Nam. Tổng chỉ huy của cánh quân thứ tư là Ngột Lương Hợp
Thai. Nhà Trần (Đại Việt) được thành lập vào năm 1225, đến thời điểm
nhà Nguyên xâm phạm, đã có nền hòa bình 180 năm kể từ khi nhà Tống
xâm lược vào năm 1077. Lực lượng Theo Tập sử biên niên của Rasìd ud-
Dìn: Quân đội của Ngột Lương Hợp Thai gồm kỵ binh Mông Cổ và 20.000
quân sĩ người Di (thuộc nước Đại Lý vừa bị Mông Cổ chinh phục). Không
có số liệu chính xác về số kỵ binh Mông Cổ, nhưng theo Rasìd ud-Dìn
(Tập sử biên niên) cho biết rằng ban đầu Ngột Lương Hợp Thai đã đem 3
vạn quân xuống đánh Đại Lý (Vân Nam), sau đó đánh tiếp sang Đại Việt,
khi tiến lên châu Ngạc gặp Hốt Tất Liệt thì quân số còn lại không quá
5.000. Như vậy, trừ đi số tổn thất khi đánh Đại Lý, thì số kỵ binh Mông
Cổ khi tiến đánh Đại Việt sẽ dao động trong khoảng 20.000 tới 25.000 là
hợp lý. Cộng thêm quân người Di thì tổng số quân của Mông Cổ có
khoảng 40.000 - 45.000. Tiên phong là tướng Aju và Cacakdu (Triệu Triệt
Đô hay Triệt Triệt Đô). Ngoài ra, trong quân đội Mông Cổ còn có phò mã
của Mông Cổ là Quaidu (Hoài Đô). Đi tiên phong là Đoàn Hưng Trí – vua
Đại Lý đã đầu hàng. Theo sách Nghệ thuật đánh giặc giữ nước của dân
tộc Việt Nam thì quân Mông Cổ có khoảng 2 đến 3 vạn, cộng với 2 vạn
quân Đại Lý được Mông Cổ trưng dụng, tổng số là khoảng 4 đến 5 vạn.
Quân Đại Việt, gồm quân cấm vệ và quân các lộ, có khoảng 10 vạn, trong
đó có 2 vạn cấm quân (lực lượng chủ lực đóng ở gần kinh thành) và 8
vạn sương quân (quân đóng ở các địa phương). Quân Trần có đủ các
binh chủng bộ binh, kỵ binh, tượng binh và thủy binh đã được thao
luyện chu đáo. 2 vạn cấm quân có thể huy động được ngay, nhưng 8 vạn
sương quân thì phải đóng quân rải khắp trên lãnh thổ cả nước, bao gồm
việc ngăn ngừa nổi loạn, chống đạo tặc, canh gác biên giới và lăng tẩm,...
nên nhà Trần chỉ có thể tập trung được một bộ phận sương quân để tác
chiến với Mông Cổ. Ước tính tổng binh lực của nhà Trần trong cuộc
chiến này vào khoảng 6 vạn. Đạo quân của Ngột Lương Hợp Thai không
thật đông nếu nhìn về số lượng tuyệt đối, họ chỉ bằng 2/3 quân số nhà
Trần. Tuy vậy, quân Mông Cổ, như đã được chứng minh qua quá trình
tác chiến của mình, hầu như luôn thua sút về quân số so với đối phương
của họ, ít nhất là theo tỷ lệ 1:2, tức là nhiều ra thì số quân nhân của họ
cũng chỉ bằng nửa so với đối phương (Mông Cổ là nước thưa dân, dù
huy động hầu hết trai tráng thì họ cũng chỉ có khoảng 10 – 15 vạn quân).
Tuy ít hơn về số lượng song quân Mông Cổ có lợi thế hơn hẳn về kỵ binh.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, quân Trần có không quá 1 vạn kị binh, còn
quân Mông Cổ có khoảng 2 - 3 vạn kị binh. Ngoài ra, kỵ binh Mông Cổ
cũng giỏi hơn về kỹ năng chiến đấu (người Mông Cổ là dân tộc du mục
sống bằng chăn nuôi và săn bắn, nên từ nhỏ đã phải liên tục tập cưỡi
ngựa và bắn cung để sinh tồn, hình thức "thao luyện kị binh cả đời" này
không thể có được trong một đất nước sống bằng nông nghiệp - ngư
nghiệp như Đại Việt) Kỵ binh là binh chủng lợi hại bậc nhất thời trung cổ,
có tính cơ động hơn hẳn bộ binh, cho phép quân Mông Cổ nhanh chóng
tập trung lực lượng đánh vào chỗ mỏng yếu của đối phương, hoặc sẽ rút
lui nhanh nếu thấy bất lợi. Kỵ binh M
Mông Cổ cũng rất giỏi bắn cung trên lưng ngựa, họ có thể phi ngựa rồi
bắn đối phương từ xa mà không sợ bị đánh trả. Vì vậy, có những trận
đánh quân Mông Cổ chỉ đông bằng 1/4 đối phương mà vẫn chiến thắng
(như Trận sông Kalka, trận Mohi,...), hoặc như Chiến tranh Mông-Kim,
Mông Cổ chỉ có khoảng 12 vạn quân mà đã đánh bại quân đội gần 1 triệu
người của nhà Kim. Huy động 4,5 vạn quân (trong đó 2,5 vạn là kỵ binh
Mông Cổ) là tương đương 1/5 binh lực của toàn nước Mông Cổ huy
động đánh nước Nam Tống (trong khi Nam Tống đất rộng và đông dân
gấp 20 lần Đại Việt). Dựa trên thực tế đó, các tướng Mông Cổ cho rằng
với nước nhỏ như Đại Việt thì chỉ cần 4 vạn quân là quá đủ để chinh phạt
rồi. Một đặc điểm nữa của đạo quân này là trong thành phần lãnh đạo,
nó quy tụ tới 50 chư vương của triều đình Mông Cổ và phò mã Mông Cổ
tên là Quaidu. Đây là những sĩ quan có liên hệ huyết thống hoặc hôn
nhân với gia đình của Thành Cát Tư Hãn, gia tộc đang thống trị Mông Cổ.
Nhà sử học cổ trung đại người Ba Tư là Rasid ud-Din chép: “......hãn còn
phái năm mươi chư vương... trong số con cháu của Sát Hợp Đài (con thứ
hai của Thành Cát Tư Hãn) có một người tên là An-bi-ska (Abiska).” Tuy
nhiên, quân Mông Cổ có nhược điểm lớn bắt nguồn từ chính ưu điểm
của họ. Do chú trọng việc tác chiến cơ động, hành quân phải thật nhanh
nên quân Mông Cổ không mang theo dân phu để vận tải lương thực, xây
dựng doanh trại (do dân phu phải khuân vác nặng nên đi khá chậm, nếu
đi cùng dân phu thì kỵ binh không hành quân nhanh được). Tất cả những
gì cần thiết cho việc chiến đấu, sinh hoạt và ăn uống đều được quân
Mông Cổ mang theo trên lưng ngựa. Với cách này, quân Mông Cổ chỉ có
thể mang theo rất ít lương thực (chỉ đủ ăn vài ngày), khi đánh vào lãnh
thổ đối phương thì họ sẽ cướp lương thực của dân bản địa để nuôi sống
quân lính. Đây là chiến thuật mà Mông Cổ thường áp dụng trong các
cuộc chiến trước đó và tỏ ra khá hiệu quả. Nhưng nhà Trần đã nhận ra
điểm yếu của chiến thuật này và chuẩn bị sẵn kế hoạch "vườn không nhà
trống" để đối phó. Triều đình nhà Trần đã sớm ra lệnh cho người dân cất
giấu hết lương thực trong các kho, khiến quân Mông Cổ không cướp
được lương thực và dần bị suy yếu. Diễn biến Đội quân của Ngột Lương
Hợp Thai sau khi chiếm được Đại Lý, rồi đóng binh ở phía Bắc Đại Việt,
sai hai sứ giả đến dụ hàng Đại Việt. Nhà Trần đã nhốt hai viên sứ giả vào
ngục và trói bằng dây tre. Theo Nguyên sử: Ngột Lương Hợp Thai không
thấy tin tức hai viên sứ giả này, bèn sai tướng là Triệt Triệt Đô cùng đem
3000 quân, chia đường tiến binh tấn công Đại Việt. Tháng 8 năm 1257,
chủ trại Quy Hóa là Hà Khuất báo tin có sứ Nguyên sang. Vua Trần không
nghe lời dụ hàng, xuống chiếu ra lệnh đem quân thủy bộ ra ngăn giữ
biên giới, theo sự tiết chế của Trần Quốc Tuấn và truyền cả nước sắm
sửa vũ khí. Trận Bình Lệ Nguyên Ngột Lương Hợp Thai chia quân làm hai
cánh, một cánh do mình chỉ huy và cánh quân còn lại do Triệt Triệt Đô
chỉ huy, chia đường tiến xuống sông Thao ở vùng Kinh Bắc, Đại Việt. Viên
tướng này dùng con trai là A Truật sang giúp và dòm ngó tình hình. Nhà
Trần bày nhiều lớp phòng thủ, A Truật trở về báo, liền tiến quân đi gấp,
sai Triệt Triệt Đô làm tiên phong, A Truật ở sau làm điện, đến tháng 12,
1257, hai đạo quân hợp lại với nhau. Đến tháng 12, 1257, quân đội
Mông Cổ xâm lấn đồng Bình Lệ, vua Trần Thái Tông tự mình dẫn theo
sáu đạo cấm quân (Thiên Thuộc, Thiên Chương, Thánh Dực, Chương
Thánh, Thần Sách, Củng Thần), cộng thêm sương quân ở các địa phương
gần kinh thành để chống lại. Quân Mông Cổ giáp trận quân Đại Việt do
đích thân Trần Thái Tông (Trần Cảnh) ngự giá thân chinh chỉ huy tại Bình
Lệ Nguyên (nay là huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc). Đó là ngày 17
tháng 1 năm 1258. Quân đội nhà Trần bày tượng binh, kỵ binh và bộ
binh bên bờ sông Hồng đợi giặc, tượng binh dàn hàng ngang tại tiền
quân che chắn cho lớp bộ binh, kỵ binh phía sau, thủy quân dọc sông
Hồng để có thể khi thua sẽ rút quân an toàn. Quân Mông Cổ chia làm ba
đội để sang sông, Triệt Triệt Đô dẫn 5.000 quân làm quân tiên phong,
Ngột Lương Hợp Thai cầm đại quân đi giữa, phò mã Hoài Đô và
Sau đó, quân Trần lại chủ động rút khỏi Thăng Long. Quân Mông Cổ
chiếm được kinh đô Đại Việt chỉ sau một trận đánh. Nguyên sử chép:
Ngột Lương Hợp Thai cũng phá quân bộ, lại cùng A Thuật hội đánh, đại
phá chúng, rồi vào nước này. Nhật Quýnh (chỉ vua Trần) trốn chạy ra hải
đảo. Bắt gặp sứ giả ngày trước ở trong ngục, bị dây tre trói lằn vào da
thịt, lúc cởi trói ra, một sứ giả chết, do đó làm cỏ thành này. Quân Trần
phản công Chiếm được kinh đô chỉ sau hai trận đánh, nhưng kho tàng
trống rỗng là vấn đề lớn đối với đội quân Mông Cổ. Những cuộc cướp
bóc để kiếm lương ở vùng ngoại vi và phụ cận không có nhiều kết quả,
quân Mông Cổ lâm vào tình trạng thiếu thốn lương thực. Nửa đêm ngày
28 tháng 1 năm 1258, từ nơi trú quân là Hoàng Giang, Trần Thái Tông
cùng Thái tử Trần Hoảng ngự lâu thuyền ngược sông, bất ngờ đánh
thẳng vào quân Mông Cổ. Quân Mông Cổ cho rằng lực lượng quân Trần
đã kiệt quệ sau trận thua đầu nên rất chủ quan, do đó khi bị tập kích đã
không kịp trở tay, bị thua to. Sau khi bị phá tan tại Đông Bộ Đầu, quân
Mông Cổ không giữ nổi Thăng Long nữa. Họ đồng loạt tháo chạy thẳng
về Vân Nam. Như khi mới tiến quân vào, quân Mông Cổ rút chạy theo
dọc sông Thao, nhưng theo con đường bộ ở phía tả ngạn. Quân Mông
rút lui quá nhanh, ngoài cả dự tính của nhà Trần khiến vua Trần chưa kịp
bố trí lực lượng đón đánh. Tuy nhiên khi đến Quy Hóa (vùng Lào Cai, Yên
Bái), quân Mông bị chủ trại là Hà Bổng – một thổ quan người Tày - tập
kích kịch liệt. Trong số quân của Hà Bổng có những người Thái chạy từ
nước Đại Lý vừa bị Mông Cổ diệt sang theo Đại Việt, muốn trả thù người
Mông Cổ nên đã đánh rất hăng khiến quân Mông Cổ khốn đốn; chỉ vì số
quân của Hà Bổng ít người nên thiệt hại của quân Mông Cổ không lớn.
Trên đường rút về, do sợ bị quân Trần truy đuổi đằng sau, quân Mông
Cổ cố rút nhanh và không cướp phá dân chúng, do đó người Việt mỉa
mai gọi là "giặc Bụt". Kết cục Theo Nguyên sử, Ngột Lương Hợp Thai
truyện của Nguyên sử và Kinh thế đại điển tự lục chép rằng sau khi bỏ
Thăng Long, người Mông Cổ đã lui về thành Áp Xích, trên đất của 37 bộ
Quỷ Phương (Đại Lý), và điều này có nghĩa là Mông Cổ đã không đạt
được mục tiêu là mượn đường Đại Việt để đánh vào lưng Nam Tống.
Ngột Lương Hợp Thai truyện cũng cho biết, Uriyangqatai tháo chạy về
Áp Xích, sau khi có lệnh của Mông Kha thì mới đi theo đường trại Hoành
Sơn để tiến vào châu Ngạc của Tống và hội quân với Hốt Tất Liệt. Nguyên
sử lại viết: quân ở lại 9 ngày, vì khí hậu nóng nực nên rút quân về. Lại sai
hai sứ giả đi gọi Nhật Cảnh về (chỉ vua Trần). Nhật Cảnh thấy kinh đô bị
phá hủy, rất giận, ép sứ giả quay về nghiệp yên như cũ. Định công phong
tước, cho Lê Tần (hay Lê Phụ Trần) làm Ngự sử đại phu và đem công
chúa Chiêu Thánh gả cho. Vua nói: Trẫm không có khanh thì làm gì có
được ngày nay. Khanh nên cố gắng để cùng hưởng phúc sau này. Cùng
năm đó (1258), vua Trần Thái Tông truyền ngôi cho thái tử Hoảng, tức
Trần Thánh Tông. Năm 1258, ngay khi vừa bị đuổi chạy dài về đến Vân
Nam, U-ry-ang-kha-đai (Ngột Lương Hợp Thai) đã sai ngay hai sứ sang dụ
vua Thái Tông vào chầu. Căm phẫn vì thấy kinh đô Thăng Long bị tàn
phá, Thái Tông với khí thế của người chiến thắng, đã sai trói hai sứ lại,
đuổi về. Vua Trần sai sứ giả sang thông hiếu với nhà Tống. Sai Lê Phụ
Trần làm sứ, Bác Lãm làm phó sang nhà Nguyên, rốt cuộc định ba năm
một kỳ cống làm lệ thường. Theo Nguyên sử: Tháng 2 ngày mậu ngọ
năm thứ 8, Nhật Cảnh (vua Trần) truyền nước cho con trưởng là Quang
Bính, đổi niên hiệu Thiệu Long. Mùa hạ, Quang Bính sai con rể (Lê Phụ
Trần)cùng người nước này đem phương vật đến, Ngột Lương Hợp Thai
hộ tống đến sở quan, sai riêng Nột Lạt Đinh đến dụ chúng nói: "Trước ta
sai sứ giả đến giao hảo, các ngươi bắt giữ mà không cho quay về, ta do
đó phát binh năm trước. Vì vua của nước ngươi đứng trốn ở đồng cỏ, lại
lệnh cho hai sứ giả đến gọi về nước, ngươi lại ép sứ giả ta trở về. Nay sai
riêng sứ giả đến dụ, nếu các ngươi thực lòng nội thuộc, thì vua nước
ngươi phải tự mình đến, nếu vẫn không chừa, sớm đến báo cho ta".
Quang Bính nói: "Nước nhỏ thật lòng thờ Nhà vua, thì nước lớn lấy gì đối
đãi nước nhỏ?". Nột Lạt Đích về báo. Bấy giờ Vương chư hầu là Bất Hoa
giữ Vân Nam, Ngột Lương Cáp Thai nói với Vương, lại sai Nột Lạt Đinh
đến dụ, sai sứ giả cùng đến. Quang Bính bèn thực lòng nạp thuộc, lại nói:
"Đợi ban ân đức, liền sai con em làm con tin". Vương lệnh cho Nột Lạt
Đinh lên ngựa đưa tin vào tấu lên. Thiệt hại của quân Mông Cổ, tùy theo
nguồn tài liệu mà chênh lệch từ già nửa cho tới khoảng 4 phần 5: Theo
Ra-sit-ut-đin, đạo quân ba vạn kỵ binh Mông Cổ của Ngột Lương Hợp
Thai kéo xuống Vân Nam, trước khi tiến lên châu Ngạc, còn lại không quá
năm nghìn người, không rõ thiệt hại trong chiến tranh với Đại Việt là bao
nhiêu. Nguyên sử, Ngột Lương Hợp Thai truyện và bài bia ký A Truật thì
chép rằng: khi thâm nhập đất Tống, đoàn quân này còn lại 3.000 kị binh
Mông Cổ và 1 vạn quân Thoán Bặc.

- Địa điểm: Bình Lệ Nguyên (nay là huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc)

- Hình ảnh:
Chiến tranh Nguyên Mông- Đại Việt lần 2

- Thời gian: cuối tháng 1 đến tháng 5/1285

- Mô tả: Chiến tranh Tống–Việt lần thứ hai diễn ra từ năm 1075 đến năm
1077 là cuộc chiến tranh giữa nhà Lý nước Đại Việt và nhà Tống của
Trung Quốc vào cuối thế kỷ 11. Cuối thế kỷ X - đầu thế kỷ XI, triều Tiền Lê
suy thoái. Sau khi vua Lê Long Đĩnh, một người hung tàn, bạo ngược
chết, triều đình đưa Lý Công Uẩn lên làm vua, lập ra triều Lý (năm 1009).
Dưới triều Lý, đất nước ta có một bước phát triển vượt bậc. Kinh tế phát
triển mạnh, quốc phòng được tăng cường, đặc biệt quân đội đời Lý đã
đạt đến trình độ tổ chức, huấn luyện và trang bị khá cao. Chính sách
“ngụ binh ư nông” được thực hiện bắt đầu từ thời kỳ này. Quốc gia
thống nhất được củng cố; quan hệ với các nước trong khu vực mở rộng
và được các nước nể trọng. Thế, lực nước ta lúc đó đang vững mạnh.
Nhà Tống là quốc gia lớn mạnh nhưng đang gặp nhiều khó khăn. Phía
Bắc và Tây Bắc bị các nước Liêu, Hạ uy hiếp. Trong nước thì mâu thuẫn
giai cấp gay gắt, các cuộc khởi nghĩa nông dân bùng lên. Triều đình chia
bè chia cánh tranh giành quyền lực. Tống Thần Tông và Tể tướng Vương
An Thạch chủ trương xâm lược nước ta, vừa thỏa mộng bành trướng từ
lâu, vừa nhằm hướng mâu thuẫn ra bên ngoài và nếu thắng, với oai
thắng trận đó, vừa giải quyết được mâu thuẫn nội bộ, vừa chế áp được
các nước Liêu, Hạ. Với ý nghĩa chiến lược như vậy nên nhà Tống chuẩn bị
cho cuộc xâm lược khá cẩn thận. Ở gần biên giới phía Bắc nước ta, chúng
chuẩn bị những căn cứ xâm lược ở các thành trì lớn như Ung Châu,
Khâm Châu, Liêm Châu, lấy đây làm nơi xuất phát và dự trữ hậu cần
trong chiến tranh. Ở phía Nam, chúng còn xúi giục Chiêm Thành quấy
phá biên giới, âm mưu đánh nước ta từ hai phía Bắc, Nam. Đánh nước
ta, nhà Tống tuy lực có mạnh nhưng thế không mạnh. Triều đình nhà Lý,
đặc biệt là Phụ quốc Thái úy Lý Thường Kiệt đã theo dõi và nắm tình hình
chặt chẽ. Sự chuẩn bị kháng chiến cũng rất chủ động. Nhà Lý vừa lo ổn
định vững chắc tình hình trong nước, tăng cường khả năng quốc phòng,
vừa loại trừ mối hiểm họa từ phía Nam. Năm 1069, Lý Thánh Tông cùng
Lý Thường Kiệt đem quân vào Nam đánh tan quân Chiêm Thành, tiến
vào kinh đô bắt quốc vương Chiêm phải cắt đất ba châu (Quảng Bình,
Bắc Quảng Trị) cho nhà Lý. Sau đó Lý Thường Kiệt cho vẽ bản đồ, khẳng
định biên giới, bố trí lực lượng biên phòng rồi rút về nước. Biên giới phía
Nam được bảo vệ vững vàng. Sang những năm 1070, hoạt động chuẩn bị
xâm lược càng được đẩy mạnh. Quân Tống thường xuyên xâm nhập biên
giới quấy nhiễu và do thám. Thời điểm nổ ra chiến tranh đã gần kề. Lý
Thường Kiệt nói: “Ngồi yên đợi giặc không bằng đem quân ra trước để
chặn mũi nhọn của chúng”. Ông chủ trương tiến công để tự vệ, xuất
quân tập kích tiêu diệt các căn cứ xâm lược trên đất Tống rồi nhanh
chóng rút quân về tổ chức phòng thủ đất nước.
Ngày 27/10/1075, hơn 10 vạn quân Đại Việt chia làm hai đạo nhanh
chóng bất ngờ vượt biên giới đánh vào đất Tống. Một đạo quân gồm
binh lính địa phương vùng biên giới phía bắc do các tướng lĩnh người
dân tộc thiểu số: Tôn Đản, Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn, Thân Cảnh Phúc, Vi
Thủ An chỉ huy tiến công diệt các đồn trại quân Tống ở biên giới rồi tiến
về Ung Châu. Đạo quân chủ lực do Lý Thường Kiệt chỉ huy tập trung ở
Vĩnh An (Móng Cái, Quảng Ninh) dùng thuyền vượt biển đánh chiếm
Khâm Châu, Liêm Châu tiến đến hợp quân với đạo quân đi đường bộ vây
đánh thành Ung Châu. Trên đường tiến quân, Lý Thường Kiệt cho quân
phát các bản Lộ bố nói rõ mục đích của quân ta là đánh bọn thống trị tàn
ác, giải phóng dân khỏi cực khổ, lầm than nên không những không bị dân
Tống chống lại mà còn được hoan nghênh ủng hộ. Đến lúc này triều
Tống mới được tin báo, vội cho 1 vạn quân xuống ứng cứu nhưng đến
cửa ải Côn Lôn (phía bắc Ung Châu) đã bị quân Đại Việt do Lý Thường
Kiệt mai phục sẵn ở đây tiêu diệt. Sau 42 ngày vây hãm, chiến đấu gan
dạ, mưu trí, ngày 1/3/1076, quân ta đã chiếm được Ung Châu, căn cứ
chính rất kiên cố của quân Tống. Quân ta đã đốt phá kho tàng, phá hủy
thành lũy, lấy đá lấp sông để ngăn chặn đường thủy của địch. Mục tiêu
cuộc tiến công đã hoàn thành thắng lợi. Trong khi triều Tống đang lúng
túng chứ kịp phản ứng thì tháng 4/1076, quân ta đã chủ động nhanh
chóng rút quân về nước. Cuộc tập kích chiến lược này thể hiện tư tưởng
“tiên phát chế nhân”, lấy tiến công để tự vệ của Lý Thường Kiệt. Đây là
cuộc tập kích chiến lược đầu tiên và cũng là duy nhất trong lịch sử chống
xâm lược phương Bắc. Cuộc tập kích đã kích thích sĩ khí quân dân ta, chủ
động chuẩn bị cuộc kháng chiến. Trái lại, lực lượng xâm lược Tống đã bị
tiêu hao suy yếu một phần do thất trận, mâu thuẫn nội bộ bị khoét sâu,
do đó mất thế chủ động trong chiến tranh. Sau khi rút quân về nước, Lý
Thường Kiệt dàn thế trận kháng chiến. Qua cuộc tập kích sang đất Tống
và các tin tức do thám, Lý Thường Kiệt biết chắc quân xâm lược sẽ vào
theo hướng Bắc và Đông Bắc rồi tiến đến mục tiêu chính là chiếm kinh
thành Thăng Long. Trên những con đường tiến quân của địch, ông bố trí
các lực lượng quân địa phương cùng dân binh làm nhiệm vụ kiềm chế và
tiêu hao địch. Tại bờ Nam sông Như Nguyệt (đoạn sông Cầu từ ngã ba
sông Cà Lồ và sông Cầu, thuộc làng Như Nguyệt, xã Tam Giang, Yên
Phong, Bắc Ninh) đến Phả Lại (Chí Linh, Hải Dương), ông cho xây một
phòng tuyến vững chắc, chặn đứng mọi đường tiến quân của địch xuống
Thăng Long. Phía trước là dòng sông rộng, ven bờ có nhiều tầng cọc tre,
rào tre tạo thành bãi chướng ngại, quân thủy quân bộ đều khó vượt qua;
bên bờ dựng lũy đất cao có binh lính với vũ khí trang bị đánh quân đổ bộ
túc trực ngày đêm. Trên hướng đường thủy Đông Bắc, một đạo thủy
quân trấn giữ vùng duyên hải để ngăn chặn thủy binh địch, còn đại bộ
phần thủy binh đóng ở Vạn Xuân (Phả Lại) cơ động đánh địch trên các
hướng. Đại quân do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy đóng phía sau chiến
lũy, vùng Từ Sơn (Bắc Ninh) chỉ huy, tiếp ứng và công, thủ trên cả hai
hướng thủy, bộ.
Cuối năm 1076, Tống Thần Tông và Tể tướng Vương An Thạch hạ lệnh
điều 30 vạn bộ binh và kỵ binh, trong đó có 1 vạn kỵ binh và một đạo
thủy quân do Quách Quỳ làm chánh tướng và Triệu Tiết làm phó tướng
xuất quân đánh nước ta. Với lực lượng mạnh, các mũi tấn công tập trung
nên quân Tống đã vượt qua các lực lượng đánh ngăn chặn của quân ta ở
vùng biên giới, nhanh chóng tiến đến bờ Bắc như sông Như Nguyệt. Bị
phòng tuyến Như Nguyệt chặn lại, quân Tống rải quân đóng trên trận
tuyến dài 30 km từ bến đò Như Nguyệt đến chân núi Nham Biền (Việt
Yên, Bắc Giang). Lợi dụng quân đông với chiến lược đánh nhanh thắng
nhanh, đầu năm 1077, Quách Quỳ cho bắc cầu phao tổ chức vượt sông
đột phá phòng tuyến quân ta ở bến đò Như Nguyệt nhưng bị đánh bại.
Quách Quỳ chờ thủy quân đến có phương tiện vượt sông và phối hợp
thủy bộ tiến công nhưng đạo thủy quân Tống đến bờ biển Quảng Ninh
đã bị thủy quân ta do tướng Lý Kế Nguyên đánh cho tan tác, số tàn quân
phải nằm lại ngoài đảo. Chờ thủy quân không được, Quách Quỳ ra lệnh
đóng bè chở quân đổ bộ sang bờ Nam sông Như Nguyệt nhưng phương
tiện vượt sông có hạn, quân sang lại khó vượt qua bãi chướng ngại, bị
quân ta từ trên lũy cao đánh xuống, số quân Tống vượt sông bị quân ta
tiêu diệt hoàn toàn. Cuộc tiến công lần thứ hai bị thất bại thảm hại.
Muốn đánh cũng không được, Quách Quỳ phải ra lệnh: “Ai bàn đánh sẽ
bị chém” nhưng đóng lại cũng không xong, bị quân ta tiến công, tập kích,
phục kích, cắt đường vận chuyển, lương thực thiếu thốn, doanh trại tạm
bợ, thủy thổ không hợp, bệnh dịch hoành hành, quân Tống ở vào tình
thế lúng túng, bị động, chỉ lo cố thủ. Tháng 2/1077, Lý Thường Kiệt chủ
trương phản công chiến lược. Thủy quân ta vượt sông đánh mạnh vào
trận địa ở Nham Biền, vừa tiêu diệt một bộ phận quân địch vừa nghi
binh thu hút địch chú ý vào hướng này, sau đó rút lui. Đồng thời, đại
quân ta do Lý Thường Kiệt chỉ huy vượt sông bất ngờ đánh vào cánh
quân Triệu Tiết, tiêu diệt quá nửa số quân Tống ở đây ước tính vài vạn
tên. Sau trận này, quân Tống lâm vào tình trạng quẫn bách, quân tướng
đều mệt mỏi, tinh thần sa sút. Nắm tình hình đó, Lý Thường Kiệt chủ
trương kết thúc chiến tranh để “không nhọc tướng tá, khỏi tốn xương
máu mà bảo toàn được tôn miếu”. Ông chủ động điều đình mở lối thoát
cho địch. Cuộc thương lượng “giảng hòa” để quân Tống rút về nước
nhanh chóng được hai bên thỏa thuận. Tháng 3/1077, quân Tống rút
chạy về nước trong cảnh hỗn loạn. Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ
hai thắng lợi hoàn toàn. Trong cuộc chiến tranh xâm lược, nhà Tống tiêu
tốn 5.190.000 lạng vàng. Quân chiến đấu 10 vạn khi trở về chỉ còn
23.400 người, 1 vạn ngựa chỉ còn 3.174 con. Kể cả thiệt hại trong trận
tập kích chiến lược của ta thì số binh lính và dân phu bị tiêu diệt lên đến
30 vạn, ý chí xâm lược của nhà Tống tiêu tan, 200 năm sau nhà Tống còn
tồn tại nhưng không dám nói đến việc xâm lược nước ta một lần nào
nữa. Cuộc kháng chiến chống Tống đời Lý có vị trí đặc biệt trong lịch sử
chiến tranh chống giặc ngoại xâm cũng như lịch sử phát triển của dân tộc
ta. Dựa vào sự đánh giá đúng đắn tương quan thế và lực giữa ta với
địch, tạo thời cơ chủ động sáng tạo trong nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh
kết hợp với tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh tự vệ, lòng nhân
ái khoan dung của dân tộc ta thể hiện rõ rệt trong giải quyết giữa đánh
và đàm. Đánh cho quân địch thiệt hại nặng, đè bẹp ý chí xâm lược của
chúng thì chủ động thương lượng đuổi quân địch khỏi đất nước ta, kết
thúc chiến tranh, khôi phục nền độc lập. Truyền thống vừa đánh vừa
đàm trong chiến tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta bắt đầu từ đây.
Cuộc kháng chiến chống Tống đời Lý còn có bước phát triển mới về ý chí
độc lập tự chủ, quyền bình đẳng và bất khả xâm phạm của dân tộc ta
qua bài thơ bất hủ như bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên, tương truyền
của Lý Thường Kiệt:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phậm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Được dịch là: “Sông núi nước Nam, vua Nam ở Rành rành định phận ở
sách trời Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm

- Địa điểm: trên lãnh thổ Đại Việt


- Hình ảnh:

Hồ Quý Ly bức Thiếu Đế nhường ngôi


- Thời gian: Năm 1398

- Mô tả: Hồ Quý Ly (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), lấy tên húy Hồ Nhất
Nguyên, là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt
Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng đế từ năm 1400 đến năm 1401 tự xưng là
Quốc Tổ Chương Hoàng, sau đó giữ ngôi Thái thượng hoàng từ năm
1401 đến năm 1407. Thời niên thiếu, Hồ Quý Ly theo học võ, gia nhập
chốn quan trường triều Trần sau khi đỗ thi Hương, khoa Hoành từ. Hồ
Quý Ly có hai người cô ruột là vợ của vua Trần Minh Tông, một người
sinh ra vua Trần Nghệ Tông còn người kia sinh ra Trần Duệ Tông, do đó
ông được sự tín nhiệm khi Trần Nghệ Tông lên làm vua. Năm 1372, ông
được phong làm Tham mưu quân sự. Năm 1377, vua Trần Duệ Tông
đánh Chiêm Thành bị tử trận, Hồ Quý Ly kinh hãi, bỏ chạy về trước,
nhưng vẫn được tha tội. Năm 1380, Hồ Quý Ly làm Thống lĩnh quân Đại
Việt để chống lại các đợt tấn công của Chiêm Thành. Năm 1387, ông
được phong làm Tể tướng. Từ đó, ông có quyền lực gần như tuyệt đối
trong triều, các tông tộc, quan lại trung thành với họ Trần đã có 2 lần
chính biến nhằm lật đổ sự thống trị của Quý Ly nhưng ông đều giành
chiến thắng và đã có nhiều người bị hành quyết sau đó. Năm 1400, Hồ
Quý Ly chiếm ngôi nhà Trần, đặt quốc hiệu là Đại Ngu, chưa được 1 năm
trao ngôi cho con và làm Thái thượng hoàng nhưng vẫn nắm đại quyền.
Hồ Quý Ly đã đề ra những cải cách về hành chính, kinh tế, quân sự và đã
chuyển kinh đô từ Thăng Long về Thanh Hóa. Mười tháng sau khi lên
ngôi, ông đã phát binh thảo phạt Chiêm Thành, qua hai lần phát binh,
chiếm được hai châu Đại Chiêm và Cổ Lũy (1402). Năm sau (1403), ông
còn cho đại quân bao vây Đồ Bàn nhưng không thắng. Đến năm 1406,
nhà Minh đưa quân xâm lược Đại Ngu. Do không được lòng dân, binh sỹ
bất mãn nên quân nhà Hồ thất bại nhanh chóng, lui dần về phía nam và
thất bại toàn cục năm 1407 khi cha con Hồ Quý Ly đều bị quân Minh bắt
và giải về Trung Quốc. Các sử quan thời quân chủ của Đại Việt sau này
khi biên soạn các bộ sử của triều đình như sách Đại Việt sử ký toàn thư
hay Khâm định Việt sử Thông giám cương mục đã không coi nhà Hồ như
một triều đại chính thống. Họ đã chỉ trích việc giết vua cướp ngôi, các
chính sách làm mất lòng dân của Hồ Quý Ly và coi việc họ Hồ thất bại
trước nhà Minh là kết cục tất yếu.

- Địa điểm: Việt Nam

- Hình ảnh:

Chiến tranh Đại Ngu- Đại minh


- Thời gian: 1406-1407

- Mô tả: Chiến tranh Đại Ngu – Đại Minh (1406 – 1407), hay thường
được giới sử học Việt Nam gọi là cuộc xâm lược của nhà Minh 1406 –
1407, là cuộc chiến của nhà Hồ nước Đại Ngu (Đại Việt) chống cuộc xâm
chiếm của nhà Minh (Trung Quốc) dưới triều Minh Thành Tổ từ tháng 4
năm 1406 cho đến tháng 6 năm 1407 khi nhà Minh đánh bại hoàn toàn
quân đội nhà Hồ và bắt được Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương. Năm 1400, Hồ
Quý Ly bức vua nhà Trần - Đại Việt nhường ngôi cho mình, lập ra nhà Hồ
– Đại Ngu. Hồ Quý Ly đã thực hiện những thay đổi về tiền giấy, hành
chính, quân đội, chuyển kinh đô từ Thăng Long về Thanh Hóa,... nhằm
phát triển Đại Ngu và có thể chống lại một cuộc xâm lược từ nhà Minh.
Ba năm sau, nhà Hồ dùng 20 vạn quân để tấn công quốc gia phía Nam là
Chiêm Thành, vây kinh đô Chiêm Thành 9 tháng nhưng sau đó rút quân
về do thiếu lương thực. Nhà Minh đã cư xử với Chiêm Thành như một
đồng minh bằng cách sai 9 chiến thuyền sang cứu, quân thủy nhà Minh
và nhà Hồ khi quay về gặp nhau giữa biển nhưng không có xung đột nào
xảy ra. Nhà Minh đã gây sức ép lên nhà Hồ bằng các đòi hỏi về người,
lương thực, đất đai, của cải,... nhưng nhà Hồ chỉ đáp ứng cho nhà Minh
theo cách mà gây ít thiệt hại nhất cho họ. Đến tháng 4 năm 1406 nhà
Minh lấy cớ đưa Trần Thiêm Bình, một người tự xưng là dòng dõi nhà
Trần đã sang cầu cứu nhà Minh việc Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, về
Đại Ngu, họ mang quân đánh vào ải Lãnh Kinh. Đội quân này bị đánh bại,
nhưng nhà Hồ đã mất bốn đại tướng chỉ huy quân các vệ. Ba tháng sau,
nhà Minh huy động 215.000 quân, nói phao lên thành 80 vạn quân, chia
làm 2 đường tấn công Đại Ngu. Đại Ngu đã không phòng thủ ở biên giới,
mà tập trung phòng thủ ở bờ Nam sông Hồng. Quân Minh với sự dẫn
đường của các ngụy quan đầu hàng người Việt đã đánh bại Đại Ngu ở
trận Mộc Hoàn, sau đó là trận Đa Bang, chiếm được Đông Đô. Quân
Minh tiếp tục đánh bại hoàn toàn quân chủ lực của Đại Ngu ở trận Hàm
Tử, khiến cho nhà Hồ phải rút lui về Thanh Hóa, và bắt được cha con Hồ
Quý Ly, Hồ Hán Thương vào tháng 6 năm 1407, nhà Hồ hoàn toàn chấm
dứt. Nhà Minh đặt ách đô hộ lên nước Việt, họ tự đặt nước Việt trở
thành một tỉnh của Trung Quốc, Đại Ngu còn mất đi lãnh thổ mà họ
chiếm được của Chiêm Thành trước đó khi Chiêm Thành nhân cơ hội đã
đưa quân chiếm lại. Các sử quan người Việt khi biên soạn sách chính sử
Đại Việt sử ký toàn thư vào thời Lê sơ ở thế kỷ 15 (xem Ngô Sĩ Liên) và
thời Lê – Trịnh ở thế kỷ 17 (xem Phạm Công Trứ) đã không coi nhà Hồ
như một triều đại chính thống như một sự phủ nhận về mặt pháp lý của
nhà Minh lên lãnh thổ nước Việt. Họ cũng coi Nhà Hậu Trần là một triều
đại chính thống từ năm (1407 – 1414) và tiếp đó là khởi nghĩa của Lê Lợi
năm 1418 đã thành lập nên Nhà Hậu Lê như một sự tiếp diễn về mặt lịch
sử mà nhà Minh chỉ là lực lượng chiếm đóng tạm thời.

- Địa điểm: bờ Nam sông Hồng


- Hình ảnh:

Khởi Nghĩa Lam Sơn


-Thời gian: 1418-1427

- Mô tả:Khởi nghĩa Lam Sơn (1418–1427) là cuộc khởi nghĩa đánh đuổi
quân Minh xâm lược về nước do Lê Lợi lãnh đạo và kết thúc bằng việc
giành lại độc lập cho nước Đại Việt cùng với sự thành lập nhà Hậu Lê.
Trong giai đoạn đầu (1418–1423), nghĩa quân Lam Sơn gặp rất nhiều khó
khăn, thường hứng chịu các cuộc càn quét của quân Minh và quân Ai
Lao, chịu tổn thất lớn. Các tướng Lam Sơn là Lê Lai và Lê Thạch tử trận.
Quân Lam Sơn bấy giờ chỉ có thể thắng những trận nhỏ. Nghĩa quân bắt
đầu giành thế thượng phong khi Lê Lợi nghe theo Nguyễn Chích, tiến
quân ra đất Nghệ An vào năm 1424. Sau nhiều trận đánh lớn với quân
Minh do các tướng Minh và cộng sự người Việt chỉ huy, quân Lam Sơn
giải phóng hầu hết vùng đất từ Thanh Hóa vào Thuận Hóa, siết chặt vòng
vây các thành chưa đầu hàng. Ở giai đoạn cuối, sau khi tích lũy được lực
lượng, quân Lam Sơn lần lượt chuyển đại quân ra Bắc, thực hiện chiến
lược cơ động, buộc quân Minh phải co cụm để giữ các thành trì quan
trọng. Đặc biệt với chiến thắng quyết định trong trận Tốt Động – Chúc
Động, quân Lam Sơn giành được thế chủ động trên chiến trường và sự
ủng hộ của dân chúng vốn khiếp sợ trước uy thế của quân Minh trước
đó. Tiếp nối thắng lợi, cuối năm 1427, quân Lam Sơn triển khai chiến
dịch Chi Lăng – Xương Giang, đánh tan tác lực lượng viện binh quân
Minh, buộc tướng chỉ huy quân Minh trên đất Việt cũ là Vương Thông
phải xin giảng hòa và được phép rút quân về nước. Sau chiến thắng, Bình
Định vương Lê Lợi sai văn thần Nguyễn Trãi viết bài Bình Ngô đại cáo để
tuyên cáo cho toàn quốc. Nước Đại Việt được khôi phục, Lê Lợi lên ngôi
Hoàng đế, đặt niên hiệu Thuận Thiên, mở ra cơ nghiệp nhà Lê trong gần
400 năm sau đó.

- Địa Điểm: vùng núi Thanh Hoá

- Hình ảnh:

Vụ án Lệ Chi Viên
- Thời gian: năm 1442

- Mô tả: Ngày 27-7 âm lịch (1442), Lê Thái Tông xa giá rời kinh thành, đi
lên miền đông duyệt binh tại Chí Linh. Chí Linh gần Côn Sơn, Nguyễn Trãi
có mặt ở đó. Côn Sơn là một thắng cảnh đẹp vua chúa thường tới du
ngoạn. Sau khi ở thăm Côn Sơn, Lê Thái Tông cùng đoàn hộ giá đi đường
sông về kinh thành, bà Nguyễn Thị Lộ vẫn đi theo đoàn hộ giá. Ngày 4-8
âm lịch (1442) vua về đến Trại Vải bên bờ sông Thiên Đức (sông Đuống)
thì ở lại. Trại Vải tức Lệ Chi Viên ở thôn Đại Lại nay thuộc xã Tân Lập,
huyện Gia Bình (Bắc Ninh). Vua Lê Thái Tông lên cơn sốt nặng và mất
ngay đêm đó, tại nơi ấy có mặt cả bà Nguyễn Thị Lộ cùng các phi tần,
cung nữ. Vua chết, Thái tử còn nhỏ tuổi thì lâm thời mọi việc đều do mẹ
Thái tử quyết định, đó là Thần phi Nguyễn Thị Anh. Sau khi vua mất,
Bang Cơ lên ngôi, Nguyễn Thị Anh được làm thái hậu, nắm quyền trị
nước. Nguyễn Trãi không thể biện bạch cho sự oan uổng của mình và
phải chịu án tru di tam tộc. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, ngày 16-8 năm
Nhâm Tuất (19-9-1442) Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ cùng gia đình thân
thuộc đều bị giết. Tháng 9, ngày 9, (năm 1442), 2 hoạn quan Đinh Phúc,
Đinh Thắng cũng phải chịu chung tội chết, vì khi Nguyễn Trãi sắp bị hành
hình có nói là hối không nghe lời của Thắng và Phúc. Có lẽ hai hoạn quan
Đinh Thắng và Đinh Phúc đã khuyên Nguyễn Trãi sớm nói cho vua biết
thái tử không phải con vua, nhưng Nguyễn Trãi đã chần chừ không thực
hiện. Sau khi hoàng thái hậu Nguyễn Thị Anh giết Đinh Phúc, Đinh Thắng,
lại tiếp tục bắt giam Thái sư Đinh Liệt (Đại Việt sử ký toàn thư không nêu
lý do) Như vậy, những người có lương tri và những người đi hộ giá theo
hầu Lê Thái Tông trong cuộc tuần du biết rõ cái chết của vua, nhưng
không ai dám nói rõ sự thật vì sợ khép vào tội đồng lõa giết vua, còn
Nguyễn Trãi có bào chữa cũng không thể được, vạch mặt Nguyễn Thị
Anh và bọn nịnh thần chỉ làm liên lụy thêm người khác. Chính bởi thân
thế của Lê Nhân Tông có phần "không chính" nên sau này, năm Kỷ Mão
(1459), con trưởng của vua Thái Tông là Lê Nghi Dân lấy lý do để làm
binh biến giết hai mẹ con Nguyễn Thị Anh. Trong bài chiếu lên ngôi, Nghi
Dân nói rõ: "... Diên Ninh [Nhân Tông] tự biết mình không phải là con
của tiên đế [Thái Tông]..." Tháng 8 năm 1464, sau 22 năm, vua Lê Thánh
Tông đã xuống chiếu chiêu tuyết cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước
hiệu là Tán Trù bá, bãi bỏ lệnh truy sát của triều đình với gia quyến
Nguyễn Trãi và ra lệnh bổ dụng con cháu ông làm quan. Nỗi oan của
Nguyễn Trãi coi như đã được giải, nhưng nỗi oan của nữ danh nhân
Nguyễn Thị Lộ thì vẫn còn đó. Vì vậy, nhiều cuộc khảo cứu và tọa đàm
khoa học đã được tổ chức nhằm minh oan cho bà.
Dựa vào những kết quả thu nhặt được, một số nhà nghiên cứu, dưới sự
chủ biên của nhà giáo Hoàng Ðạo Chúc, đã biên soạn thành cuốn “Lễ
nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ với thảm án Lệ Chi Viên” (xuất bản năm 2004).
Sau hơn 560 năm, vụ án “Lệ Chi viên” mới chính thức khép lại với sự
minh oan trọn vẹn nhất dành cho bà Nguyễn Thị Lộ. Đọc lại vụ án Lệ Chi
Viên xin dẫn câu kết của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói về người anh
hùng của dân tộc Nguyễn Trãi trên Báo Nhân Dân số 3099, ngày 19-9-
1962: “Đối với triều đình nhà Lê lúc bấy giờ, sau khi bốn biển đã yên
lặng, Nguyễn Trãi nhân nghĩa quá, trung thực quá, thanh liêm quá!
Nguồn gốc sâu xa của thảm án vô cùng đau thương của Nguyễn Trãi bị
tru di ba họ là ở đó”.

- Địa điểm: Lệ Chi Viên (huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay)
- Hình ảnh:

Chiến tranh Đại việt- Lan Xang


- Thời gian: 1478-1480

- Mô tả: Chiến tranh Đại Việt - Lan Xang là cuộc chiến giữa nhà Hậu Lê
nước Đại Việt với Lan Xang (Lào). Mục đích phát động của Đại Việt là
bình định vương quốc Bồn Man và ngăn chặn sự quấy nhiễu của quân
Lan Xang tại biên giới phía tây. Cuộc chiến xuất phát từ những trận chiến
lẻ tẻ trong suốt giai đoạn cai trị của Lê Thánh Tông, khiến vị vua này
quyết định mở cuộc tiến công lớn vào lãnh thổ Lan Xang (Lão Qua). Cuối
cùng sau khi đã nắm chắc được Bồn Man, Lê Thánh Tông sai rút quân
vào năm 1480. Đến giữa thế kỷ 15, quan hệ hai bên lại xấu đi. Lan Xang
mang quân đánh phá biên giới Đại Việt và xung đột bùng phát. Sau khi
xung đột tạm lắng khoảng 10 năm, tình hình lại căng thẳng trở lại. Theo
sử Lào, năm 1478, một viên tướng của vua Lan Xang Xaiyna Chakhaphat
bắt được một con voi trắng và dâng lên vua. Được tin, vua Đại Việt sai sứ
sang xin lông voi trắng. Chao Chienglaw, thái tử Lan Xang, luôn ghét Đại
Việt vì lý do này khác, liền thay vì tặng lông voi, lại sai nhét phân voi vào
một chiếc rương và gửi cho vua Đại Việt. Vua Đại Việt nổi giận cất binh
đánh Lan Xang. Tuy nhiên, cần phải xét rằng trong lãnh thổ Đại Việt khi
đó không phải không có voi trắng, vì Đại Việt Sử ký Toàn thư có chép về
việc bắt voi trắng vào các năm 1068, 1418,... và tượng binh là một binh
chủng thường trực của quân đội Đại Việt từ thời Trưng Vương. Năm
1478, Cầm Công (hay Lư Cầm Công thủ lĩnh của Bồn Man) liên kết với
Lão Qua (Lan Xang) đem binh quấy nhiễu (châu Quy Hợp) khu vực phía
tây xứ Nghệ của Đại Việt. Vua Lê quyết định cất quân sang đánh Lan
Xang.\r \r Sử sách Lào kể rằng quân Lan Xang đã giết được vô số tướng sĩ
Đại Việt. Quân đội Đại Việt phải bỏ chạy về nước và trong số 4000 tướng
lĩnh Đại Việt, chỉ còn 600 sống sót về được đến Đại Việt. Còn sử sách Việt
Nam thì lại kể là quân đội Đại Việt thắng to, phá được thành, bắt được
dân, giết được tướng, đuổi được vua Lan Xang trốn chạy. Tuy nhiên,
không thấy kể việc khao thưởng tướng lĩnh cầm quân thế nào. Theo biên
chép của Minh Thực lục, nhà Minh chỉ biết đến sự việc này vào năm sau
(1480) qua Tổng binh Vân Nam là Kiềm quốc công Mộc Tông, còn đương
thời khi xảy ra chiến sự giữa Đại Việt và Lan Xang, nhà Minh bận đối phó
với những vụ quấy rối biên giới huyện Mông Tự, tỉnh Vân Nam của
khoảng 800 quân Đại Việt do chính Lê Thánh Tông (Minh thực lục chép là
Lê Hạo) phát động. Mộc Tông nhận được lời "tố cáo" của các nước Bồn
Man, Xa Lý, Bát Bách Đại Điện mới tâu lại vua Minh về vụ việc "Đại Việt
đánh giết Lão Qua" năm 1480, sau đó Tổng đốc Lưỡng Quảng là Chu Anh
sang tận đầu năm dương lịch 1481 (tháng 12 năm Canh Tý) mới tâu báo
cụ thể hơn cho Minh Hiến Tông (vua thứ 9 nhà Minh) biết, theo đó Đại
Việt đánh phá 20 trại của Lan Xang, giết hơn 20 vạn người, còn Đại Việt
tổn thất 5 vạn, phải rút lui vào tháng 12 năm 1479.\r \r Cuộc chiến này
đã khiến cho Lan Xang bị tàn phá nặng nề. Quan hệ giữa hai nước càng
thêm xấu đi, đẩy Lan Xang tới chỗ liên minh chặt chẽ hơn với các quốc
gia của người Thái khác. Bồn Man lệ thuộc vào Đại Việt, và từ đó về sau
ít phụ thuộc vào Lan Xang hơn, đặc biệt là những giai đoạn Lan Xang suy
yếu. Trong khi đó, Đại Việt lại chịu thêm sức ép từ phía Đại Minh. Hoàng
đế nhà Minh gửi thư trách hoàng đế Đại Việt về việc dấy binh đánh Lan
Xang. Đại Việt sử ký toàn thư chép về việc này như sau: “Canh Tý, năm
thứ 11,... Mùa thu, tháng 8,... Ngày 27, nhà Minh có sắc văn đưa sang
nói rằng: "Gần đây, được các quan trấn thủ và tổng binh Vân Nam, tâu
rằng Quốc Vương An Nam vô cớ điều động binh mã đánh giết ở đất Lão
Qua đến nay vẫn chưa lui quân, lại định đánh nước Bát Bách Tức Phụ
(Lan Na, Thái Lan ngày nay). Vậy tư cho Vương biết, nếu có phạm lỗi nói
trên, nên gấp lui quân; nếu không, Vương phải sang báo ngay để triều
đình truy xét kẻ báo cáo bậy trị tội theo pháp luật.” Để trả lời việc này
(đánh Lão Qua), cùng hai việc tranh chấp biên giới phía bắc với nhà Minh
cũng năm đó, vua Lê Thánh Tông sai Lương Thế Vinh, Thân Nhân Trung
theo kế Lê Thọ Vực mà soạn 3 bài biểu (công hàm) ngoại giao, rồi sai
Nguyễn Văn Chất, Doãn Hoành Tuấn, Vũ Duy Giáo trình cho vua nhà
Minh, nhân dịp đi sứ tuế cống nhà Minh vào tháng 12 âm năm Canh Tý
(1480).

- Địa điểm: Lào, Việt Nam, Vân Nam


- Hình ảnh:

Khởi nghĩa Trần Tuân


- Thời gian: 1511-1512

- Mô tả: Huy (tên thật là Trần Nguyên Trừng, hậu duệ các vua nhà Trần,
không phải dòng dõi Trần Hưng Đạo như có thuyết nêu), đỗ tiến sĩ trong
niên hiệu Thái Hòa đời Lê Nhân Tông. Ông nội Trần Tuân là Trần Cẩn đỗ
tiến sĩ thời Lê Thánh Tông, làm quan đến chức Thượng thư Bộ Lại. Dòng
tộc Trần Tuân có mối quan hệ với Hoàng hậu Trần Thị Tùng (vợ Lê Uy
Mục), người làng Nhân Mục Môn, nên được Lê Uy Mục ưu ái (sử sách có
ghi Lê Uy Mục chỉ tin dùng ngoại thích bên mẹ và bên vợ), khiến một số
thế lực khác trong Triều đình căm tức chống lại. Khi Lê Uy Mục bị Giản
Tu Công Lê Oanh (tức Lê Tương Dực) lật đổ cuối năm Đoan Khánh thứ 5
(1509) với sự ủng hộ của các gia tộc đại thần họ Nguyễn (Nguyễn Văn
Lang, Nguyễn Hoằng Dụ) và họ Trịnh (Trịnh Duy Đại, Trịnh Duy Sản),
Hoàng hậu Trần Thị Tùng phải chạy trốn đến chùa Hoàng Mai và tự vẫn ở
đây. Toàn bộ ngoại thích họ Trần của Hoàng hậu bị truy sát phải chạy
trốn, nhiều người phải đổi cả họ tên (những người còn lại trong gia tộc
của Trần Tuân đổi sang họ Đặng và toả đi lánh nạn các nơi). Trần Tuân là
một võ quan thuộc phe ngoại thích của Hoàng hậu vì chuyện này nên
mới nổi dậy chống lại Triều đình của vị vua mới Lê Tương Dực ngay từ
đầu năm 1510, đến năm 1511 mới tiến về uy hiếp Kinh thành. Theo mô
tả của Đại Việt sử kí toàn thư, Trần Tuân là người có "tính khí hung hãn".
Trần Tuân cũng tập hợp lực lượng ở vùng rừng núi Hưng Hóa, chiêu mộ
được vài ngàn người, cắt đặt ngôi thứ. Năm 1511, ông cùng bộ tướng
Nguyễn Nghiêm chính thức khởi binh chống triều đình tại Sơn Tây. Ở
nhiều nơi khác có khởi nghĩa của: Phùng Chương ở Tam Đảo Lê Hy ở
Nghệ An nổi dậy khởi nghĩa cùng Trịnh Hưng phát triển ra Thanh Hóa
Trần Cảo ở Đông Triều (Quảng Ninh) Uy hiếp kinh thành Nhân dân đi
theo Trần Tuân khá đông, tụ tập hàng vạn người. Ông mang quân đến
Từ Liêm uy hiếp kinh thành. Vua Tương Dực sai Trịnh Duy Sản, Nguyễn
Văn Lang mang quân ra đánh, nhưng hai tướng bị Trần Tuân đánh bại,
phải rút về Đông Ngạc và Nhật Chiêu. Nguyễn Văn Lang sai tập trung thợ
ở các xưởng vũ khí của Bộ Công, bày kỳ binh để làm thanh thế tại Đông
Hà bảo vệ cho kinh thành, nhưng đến đêm quân triều đình sợ thế Trần
Tuân đều bỏ chạy. Lê Tương Dực sai Minh Luân bá Lê Niệm và thái giám
Lê Văn Huy mang lực sĩ 2 ty Hải Thanh và Hà Thanh chèo thuyền nhẹ ra
Từ Liêm dò xét tình hình. Trần Tuân cho quân đốt phá phố xá. Lê Niệm
và Lê Văn Huy đến chợ An Gia thấy phố xá bị cháy bèn trở về báo cho
vua Tương Dực. Cả kinh thành chấn động vì Trần Tuân đã áp sát sắp tiến
vào. Thất bại Lúc đó Trịnh Duy Sản bại binh chỉ còn 30 người. Duy Sản
tập hợp tàn quân, cùng quân sĩ thề cùng nhau đánh giặc, xé áo làm dấu
hiệu, rồi nhân lúc chiều tối chia nhau lẻn đến trại của Trần Tuân. Ông
vừa đánh thắng quân triều đình nên chủ quan không phòng bị. Lúc đó
Trần Tuân mặc áo đỏ ngồi trên giường. Duy Sản cùng 30 người đột kích
vào thẳng trong trại, đến nơi Trần Tuân ngồi, đâm chết Trần Tuân. Các
thủ hạ của ông ở quanh trại vẫn chưa biết ông bị giết, vẫn đóng đồn như
trước. Giết được Trần Tuân, Trịnh Duy Sản sai quân đốt 3 tiếng pháo làm
hiệu, cánh quân đến tiếp ứng của Nguyễn Văn Lang xông tới đánh giết.
Quân Trần Tuân tan vỡ, chạy tới xã Thụy Hương, Tảo Động (Từ Liêm, Hà
nội), bị giết và chết đuối rất nhiều. Bộ tướng của ông là Nguyễn Nghiêm
rút chạy lên Sơn Tây rồi Hưng Hóa. Sang đầu năm 1512, quân triều đình
truy kích đến nơi, các thủ hạ của ông đều được nhận hàng. Không rõ
Trần Tuân bao nhiêu tuổi. Dòng dõi của ông dời đến xã Yên Quyết
Thượng huyện Từ Liêm và đổi sang họ khác.

- Địa điểm: Sơn Tây (Hà Nội).

- Hình ảnh:

Bắc Triều- Nam Triều


- Thời gian: 1533-1592

- Mô tả: Nguyễn Kim khởi nghĩa, họ Vũ cát cứ Khi Mạc Đăng Dung giết
vua Lê Cung Hoàng để cướp ngôi, nhiều quan lại đã tử tiết để phản đối
nhà Mạc giết vua cướp ngôi, từ đó thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh
"phù Lê diệt Mạc". Bấy giờ triều thần có Lại bộ thượng thư Đông các đại
học sĩ người thì nhổ vào mặt hay là lấy nghiên mực ném vào mặt Mạc
Đăng Dung, hay chửi mắng, đều bị Đăng Dung giết đi. Có người thì khởi
binh phù Lê thất bại và bị giết, có người thì theo vua Lê không kịp, nhảy
xuống sông mà chết, người thì quay đầu về Lam Sơn bái lạy rồi tự tử.
Sau này, khi dẹp xong nhà Mạc, nhà Lê được trung hưng lại, vua Lê
Huyền Tông và triều đình bàn luận công lao, truy phong tước phúc thần
cho 13 vị trung thần tiết nghĩa vì nước hy sinh này. Năm 1529, một võ
tướng cũ của nhà Lê là Nguyễn Kim trung thành với nhà Lê, không thần
phục nhà Mạc, bỏ chạy vào miền núi Thanh Hoá và sang Ai Lao (Lào), tập
hợp lực lượng chống nhà Mạc. Năm 1533, Nguyễn Kim tìm một người
tên là Lê Ninh là con của vua Lê Chiêu Tông đưa lên ngôi trên đất Sầm
Châu (Ai Lao), tức là vua Lê Trang Tông. Tuy nhiên các nhà sử học nghi
ngờ Lê Ninh không phải là con của vua Chiêu Tông vì tuổi của Lê Ninh và
Lê Chiêu Tông chênh nhau quá ít. Từ khi Trang Tông lên ngôi, nhiều sĩ
phu, tướng lĩnh bắt đầu tập hợp bên Nguyễn Kim để chống nhà Mạc.
Năm 1540, Mạc Thái Tông chết. Thượng hoàng Mạc Đăng Dung lập cháu
nội là Mạc Phúc Hải lên ngôi, tức là Mạc Hiến Tông. Năm sau, thượng
hoàng Đăng Dung chết. Năm 1543, quân nhà Lê về nước đánh chiếm Tây
đô (Thanh Hoá). Hoạn quan nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đầu hàng.
Năm 1545, Chấp Nhất dâng dưa độc cho Nguyễn Kim, Kim ăn vào chết.
Chấp Nhất bỏ trốn về nhà Mạc. Con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm lên
thay cầm quyền chỉ huy quân đội. Ở phía Tây Bắc, vùng Hưng Hoá
(Tuyên Quang), anh em Vũ Văn Mật, Vũ Văn Uyên (Chúa Bầu) là thủ lĩnh
trong vùng cát cứ không thần phục nhà Mạc. Nhà Mạc vài lần mang quân
đánh nhưng không diệt được họ Vũ, sau lại phải đối phó với nhiều biến
cố khác nên buộc phải để họ Vũ cát cứ. Họ Vũ sai người liên lạc theo về
nhà Lê trung hưng.x Phụ chính Mạc Kính Điển Năm 1546, Mạc Hiến Tông
chết, con là Mạc Phúc Nguyên còn nhỏ lên thay, tức là Mạc Tuyên Tông,
chú là Khiêm vương Mạc Kính Điển làm phụ chính. Trong triều xảy ra
biến loạn. Tướng Phạm Tử Nghi muốn lập con Mạc Thái Tổ là Hoằng
vương Mạc Chính Trung đã trưởng thành nhưng không được nên cùng
Chính Trung khởi binh nổi loạn. Phạm Tử Nghi nhiều lần muốn đánh
chiếm Đông Kinh không thành, bèn đem Chính Trung ra chiếm cứ Yên
Quảng (Quảng Ninh), cướp phá Hải Dương và đánh phá sang Trung Quốc
khiến nhà Minh lo ngại. Đến năm 1551, Mạc Kính Điển dẹp được Phạm
Tử Nghi. Tử Nghi bị chém, Chính Trung bỏ chạy và bị giết. Có thuyết nói
Tử Nghi chết về tay người Minh.
Năm 1550, Thái tể Lê Bá Ly quyền thế quá lớn, có phần hống hách, hai
sủng thần là Phạm Quỳnh, Phạm Dao cậy thế vua Mạc vây đánh. Bá Ly
cùng thông gia là Nguyễn Thiến mang gia quyến gồm các tướng Nguyễn
Quyện, Nguyễn Khải Khang, Lê Khắc Thận chạy vào Thanh Hóa hàng theo
nhà Lê. Tuy nhiên sau vài năm, khi Nguyễn Thiến và Lê Bá Ly chết, các
con là Nguyễn Quyện, Lê Khắc Thận lại về theo nhà Mạc và Nguyễn
Quyện trở thành danh tướng nhà Mạc. Năm 1562, Mạc Tuyên tông mất,
con là Mạc Mậu Hợp mới 2 tuổi lên nối ngôi. Việc chính sự đều do Khiêm
vương Kính Điển điều hành. Bấy giờ nhà Lê chiếm lại được Thanh Hóa và
Nghệ An. Năm 1558, con thứ Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể
Trịnh Kiểm hại như anh cả Nguyễn Uông nên xin vào trấn thủ Thuận Hoá.
Năm 1570, Trịnh Kiểm lại giao cho Hoàng trấn thủ nốt Quảng Nam. Năm
1572, Hoàng dùng kế giết được tướng Mạc là Mạc Lập Bạo vào đánh.
Nhà Mạc mất hẳn phía nam và chỉ còn kiểm soát Bắc Bộ. Năm 1570,
Trịnh Kiểm chết, hai con Trịnh Cối, Trịnh Tùng tranh ngôi. Trịnh Cối thua
phải sang đầu hàng nhà Mạc. Tuy nhiên Trịnh Tùng là người thay thế
xứng đáng của Trịnh Kiểm nên vẫn duy trì được thế cân bằng với nhà
Mạc. Trong suốt những năm 1545–1580 là giai đoạn hai bên giằng co, khi
thì Trịnh Kiểm và sau này là Trịnh Tùng dẫn quân ra đánh Sơn Nam, Ninh
Bình, Sơn Tây, Thăng Long, khi thì Mạc Kính Điển cho quân tấn công
Thanh Hóa - Nghệ An. Mạc Kính Điển nhiều lần phải mang vua Mạc qua
sông tránh sang Kim Thành (Hải Dương) nhưng quân Lê vẫn không vào
được Thăng Long. Hai bên khi được khi thua. Cuộc chiến giằng co nổi lên
tên tuổi các tướng Hoàng Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu bên Lê, Nguyễn
Quyện bên Mạc. Tháng 10 năm 1580, Mạc Kính Điển mất, em là Mạc
Đôn Nhượng lên thay làm phụ chính. Lực lượng quân đội nhà Mạc suy
yếu đi nhiều vì thiếu đi người chỉ huy có tầm cỡ và uy tín. Mạc Mậu Hợp
từ nhỏ lên ngôi, khi lớn vẫn dựa vào các hoàng cha chính, không chú
trọng việc chính sự. Sau khi Mạc Kính Điển chết, việc trong ngoài đều
trông chờ vào Mạc Đôn Nhượng cùng các tướng Nguyễn Quyện, Mạc
Ngọc Liễn(con công thần Nguyễn Kính, được cải sang họ Mạc), Bùi Văn
Khuê. Uy thế quân Mạc suy sút nhiều và thường bị thua trận. Năm 1591,
Trịnh Tùng đem quân bắc tiến áp sát thành Thăng Long. Đầu năm 1592,
Mạc Mậu Hợp chạy sang Gia Lâm, thống suất thủy quân để làm thanh
thế trên sông Nhị Hà cho các tướng giữ thành Thăng Long. Trịnh Tùng
thúc quân tổng tiến công. Các tướng Mạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê, Trần
Bách Niên tan vỡ bỏ chạy. Phục binh của Nguyễn Quyện ở cầu Dền
không kịp nổi dậy đã bị giết. Nguyễn Quyện bị bắt, hai con tử trận. Quân
Mạc chết rất nhiều. Trịnh Tùng rút quân chủ lực về. Mạc Mậu Hợp thu
tàn quân án ngữ sông Nhị Hà, lại ham sắc đẹp của vợ tướng Bùi Văn
Khuê là Nguyễn Thị Niên nên muốn giết Khuê. Tháng 8 năm 1592, Khuê
biết chuyện bèn đem quân hàng Lê, hợp binh với Trịnh Tùng đại phá
quân Mạc. Tháng 11 năm 1592, Trịnh Tùng lại tiến đánh Thăng Long.
Mậu Hợp thua chạy về Kim Thành (Hải Dương). Thấy thế nguy cấp, Mậu
Hợp lập con là Toàn lên ngôi, tự mình làm tướng thống suất quân đội.
Sau các cuộc chiến đẫm máu tại khu vực các phủ Nam Sách, Hạ Hồng,
Kinh Môn trong tháng 11 và 12 thì quân đội nhà Mạc chịu tổn thất cực
kỳ nặng nề. Mạc Mậu Hợp phải bỏ trốn đến huyện Phượng Nhãn, bị bắt
sống sau đó ít ngày và bị hành hình. Cát cứ Cao Bằng Dù Mạc Mậu Hợp
và sau đó là Mạc Toàn bị bắt và bị giết thì thế lực của nhà Mạc chưa bị
tiêu diệt hết. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, cho đến đầu thế kỷ 17 thì các
vùng như Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng vẫn thuộc quyền quản lý của
nhiều người như Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan là thân
thuộc của nhà Mạc (thuộc chi Mạc Kính Điển). Tại các khu vực này, chiến
trận vẫn tiếp diễn trong nhiều năm và nhân dân vẫn tiếp tục chịu cảnh
lầm than, đồng ruộng bị bỏ hoang. Điều này đã được phản ánh chi tiết
qua câu ca dao:
"Con cò lặn lội bờ sông,
Gánh gạo theo chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con,
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng".

- Địa điểm: Thăng Long

- Hình ảnh:
Đàng Trong-Đàng Ngoài
- Thời gian: 1560- 1788

- Mô tả: Con trai đầu của Nguyễn Kim là Nguyễn Uông bị ám hại, con trai
thứ Nguyễn Hoàng lo sợ hoàn cảnh của mình đã tìm gặp Nguyễn Bỉnh
Khiêm để xin gợi ý. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mở lối đi mới, ảnh hưởng to
lớn đến Việt Nam sau này bằng câu nói: Hoành Sơn nhất đái, vạn đại
dung thân Nguyễn Hoàng đã nhờ sự giúp đỡ của chị ruột Bảo Ngọc là vợ
Trịnh Kiểm xin vào trấn Thủ ở Thuận Hóa. Năm 1558, Nguyễn Hoàng đã
cũng gia quyến, thân thuộc, tướng lĩnh đi vào Thuận Hóa. Năm 1569,
Nguyễn Hoàng ra Thanh Hóa yết kiến Lê Anh Tông, giúp Nam triều đánh
nhà Mạc, rồi đến phủ Thái sư lạy mừng Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm hài lòng,
phong cho ông trấn thủ luôn đất Quảng Nam. Nguyễn Hoàng làm Tổng
Trấn tướng quân kiêm quản cả xứ Quảng Nam. Năm 1572, Trịnh Kiểm
mất, hai con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng tranh giành ngôi Chúa. Năm 1593,
Nguyễn Hoàng đưa quân ra Bắc Hà giúp Trịnh Tùng đánh dẹp họ Mạc
trong 8 năm trời, rồi bị họ Trịnh lưu giữ lại do lo sợ sự cát cứ và thế lực
lớn mạnh của ông. Năm 1599, Nguyễn Hoàng nhân có nổi loạn chống lại
với họ Trịnh ở cửa Đại An (thuộc Nam Định), ông xin Trịnh Tùng cho
mình đánh dẹp, để người con thứ năm là Hải và cháu là Hắc làm con tin.
Sau đó ông kéo quân theo đường hải đạo về Thuận Hoá. Sau khi trở về,
Nguyễn Hoàng đã quyết tâm xây dựng một thế lực độc lập, nhưng vẫn
duy trì nộp thuế hàng năm cho chính quyền họ Trịnh vì biết rằng lực
lượng quân sự chưa thể trực tiếp đối đầu. Ông lo phát triển cơ sở, mở
mang bờ cõi, phòng bị quân Trịnh vào đánh phá. Năm 1613, Nguyễn
Hoàng qua đời. Con là Nguyễn Phúc Nguyên lên thay. Nguyễn Phúc
Nguyên tiếp tục ý chí của cha, tăng cường sức mạnh kinh tế, quân sự,
mở rộng lãnh thổ về phía Nam và khuyến khích di dân lập ấp. Năm 1620,
Chúa Phúc Nguyên ngừng nộp thuế cho chính quyền Lê-Trịnh đàng
ngoài. Năm 1627, Chúa Trịnh Tráng mới sai quan vào Thuận Hóa đòi tiền
thuế từ ba năm về trước. Chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên) tiếp sứ nhưng
không chịu nộp thuế. Chúa Trịnh lại sai sứ mang sắc vua Lê vào dụ Chúa
Sãi cho con ra chầu, và đòi nộp 30 con voi cùng 30 chiếc thuyền để đưa
đi cống nhà Minh. Chúa Sãi không chịu. Biết rằng họ Nguyễn ly khai,
không chịu thần phục nữa, tháng 3 năm 1627, chúa Trịnh mang quân đi
đánh họ Nguyễn. Sự kiện này đánh dấu sự chia tách hoàn toàn cả về lý
thuyết và thực tế của xứ Thuận Quảng tức Đàng Trong của Chúa Nguyễn
với Đàng Ngoài của Chúa Trịnh. Nó cũng tạo ra thời kỳ Trịnh-Nguyễn
phân tranh kéo dài 45 năm, từ 1627 đến 1672, với 7 cuộc đại chiến của 2
bên. Dân tình quá khổ cực, chán nản, hai họ Trịnh, Nguyễn phải ngừng
chiến, lấy sông Gianh làm ranh giới chia cắt lãnh thổ, miền Nam sông
Gianh–Rào Nan thuộc quyền chúa Nguyễn, được gọi là Đàng Trong.

- Địa điểm: Bắc Hà và Nam Hà

- Hình ảnh:

Các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài


- Thời gian: 1545- 1788

- Mô tả: Năm 1527, Mạc Đăng Dung phế bỏ triều Lê lập ra triều Mạc
(1527 - 1592). Một tướng của nhà Lê là Nguyễn Kim tập hợp lực lượng
chống Mạc ở Thanh Hoá nhằm khôi phục triều Lê; năm 1533, lập Lê
Trang Tông lên làm vua. Năm 1545, Nguyễn Kim chết, binh quyền giao
cho con rể là Trịnh Kiểm. Năm 1592, con Trịnh Kiểm là Trịnh Tùng đánh
bại triều Mạc, chiếm lại kinh thành Thăng Long, cùng con cháu họ Trịnh
kế tục xưng vương, nhân dân thường gọi là chúa Trịnh. Thực quyền nằm
trong tay chúa Trịnh, còn vua Lê chỉ là danh nghĩa. Phạm vi thống trị của
vua Lê - chúa Trịnh chỉ còn từ sông Gianh trở ra Bắc vì phía nam do
Nguyễn Hoàng, con trai của Nguyễn Kim, và con cháu họ Nguyễn chiếm
giữ, nhân dân cũng gọi là chúa Nguyễn. Hai bên Trịnh - Nguyễn thường
xuyên giao chiến, trong gần nửa thế kỷ từ 1627 đến 1672, hai bên đánh
nhau 7 lần mà không có kết quả. Hai họ Trịnh, Nguyễn phải ngừng chiến
tranh, lấy sông Gianh giới tuyến hai miền, phía bắc sông Gianh thuộc
quyền vua Lê - chúa Trịnh gọi là Đàng Ngoài hay Bắc Hà (có kinh đô là
Đông Kinh nên người phương Tây gọi là Tonquin hay Tonkin), phía nam
sông Gianh thuộc chúa Nguyễn gọi là Đàng Trong hay Nam Hà. Chấm dứt
Tận dụng biến cố từ phong trào Tây Sơn ở Đàng Trong, họ Trịnh mở bờ
cõi Bắc Hà tới Thuận Hóa năm 1775. Sau khi đánh bại được quân Tây
Sơn tại trận Cẩm Sa (Quảng Nam) rồi thu hàng Tây Sơn, nhận Tây Sơn
làm tiên phong đi đánh chúa Nguyễn, chúa Trịnh lo hưởng lạc không chú
trọng việc phòng bị. Ngay cả khi Nguyễn Nhạc giết được hai chúa
Nguyễn rồi tự xưng làm vua Thái Đức (1778), họ Trịnh vì Quảng Nam xa
xôi hiểm trở và ngại dùng binh nên không hỏi đến. Sau khi Trịnh Sâm qua
đời (1782), hai con là Trịnh Tông và Trịnh Cán tranh giành quyền lực.
Cuối cùng Trịnh Tông giết phụ chính Hoàng Đình Bảo, lật đổ Trịnh Cán
giành ngôi. Thủ hạ của Đình Bảo là Nguyễn Hữu Chỉnh vào nam đầu hàng
Tây Sơn. Chính quyền Trịnh Tông không ổn định được Bắc Hà, ngày càng
suy yếu. Năm 1786, sau khi đánh bật chúa Nguyễn Ánh ra khỏi Đại Việt,
Tây Sơn tiến ra bắc đánh Trịnh với danh nghĩa "phù Lê diệt Trịnh" theo
đề nghị của Nguyễn Hữu Chỉnh. Quân Trịnh lâu ngày không chiến đấu,
chủ tướng trấn thủ Phú Xuân là Phạm Ngô Cầu không chú trọng việc binh
nên thành Phú Xuân nhanh chóng thất thủ. Sang tháng 7 năm 1786,
quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy tiến ra bắc. Quân Trịnh rệu rã liên
tiếp thất bại. Trịnh Tông chạy trốn khỏi kinh thành, bị bắt đã tự sát trên
đường bị áp giải. Họ Trịnh bị tiêu diệt, chính thể Đàng Ngoài chấm dứt
tồn tại. Khi Tây Sơn rút về nam trả lại chính thể cho vua Lê, lực lượng họ
Trịnh còn cố gắng tái lập nhưng không thành công. Chính thể của vua Lê
sau đó mâu thuẫn với Tây Sơn, cầu viện nhà Thanh sang giúp nhưng thất
bại và nhà Hậu Lê chấm dứt tồn tại năm 1789. Các đời chúa Trịnh Trịnh
Kiểm 1545–1570 (25 năm) hiệu Thế Tổ,Đương thời khi cầm quyền, ông
không xưng là chúa nhưng được đời sau truy tôn là Minh Khang Thái
vương. Do đó, ông không phải là vị chúa Trịnh đầu tiên. Đời vua: Lê
Trang Tông (1533–1548), Lê Trung Tông (1548–1556), Lê Anh Tông
(1556–1573). Trịnh Cối 1570. Năm 1570, đầu hàng nhà Mạc, được Mạc
Kính Điển phong làm Trung Lương hầu. Sau khi chết được Lê đế xá tội,
truy tặng Thái phó, tước Trung quốc công. Do đó, ông không được xem
là chúa Trịnh đầu tiên. Đời vua Lê Anh Tông Bình An vương Trịnh Tùng
1570–1623 (53 năm), hiệu Thành Tổ(成祖). Ông là vị chúa Trịnh đầu tiên
trong lịch sử. Con thứ của Thế Tổ Minh Khang Thái vương Trịnh Kiểm.
Đời vua: Lê Anh Tông, Lê Thế Tông (1573–1599) Lê Kính Tông (1599–
1619) Lê Thần Tông (lần một: 1619-1643) Thanh Đô vương Trịnh Tráng
1623–1657 (34 năm), Văn Tổ( 文 祖 ). Con thứ hai của Bình An vương
Trịnh Tùng, cháu nội của Thế Tổ Minh Khang Thái vương Trịnh Kiểm. Đời
vua: Lê Chân Tông (1643–1649) Lê Thần Tông (lần hai: 1649–1662) Tây
Định vương Trịnh Tạc 1657–1682 (25 năm), Hoằng Tổ(弘祖). Con thứ hai
của Thanh Đô vương Trịnh Tráng, cháu nội của Bình An vương Trịnh
Tùng, chắt của Thế Tổ Minh Khang Thái vương Trịnh Kiểm. Đời vua: Lê
Thần Tông, Lê Huyền Tông (1662–1671) Lê Gia Tông (1671–1675) Lê Hy
Tông (1675–1705) Định Nam vương Trịnh Căn 1682–1709 (27 năm),
Chiêu Tổ(昭祖). Con trưởng của Tây Định vương Trịnh Tạc, cháu nội của
Thanh Đô vương Trịnh Tráng, chắt của Bình An vương Trịnh Tùng. Đời
vua: Lê Hy Tông Lê Dụ Tông (1705–1729) An Đô vương Trịnh Cương
1709–1729 (20 năm), hiệu Hy Tổ( 禧祖). Cháu chắt của Trịnh Căn, cháu
nội của Lương Mục vương Trịnh Vịnh, con trai của Tấn Quang vương
Trịnh Bính. Đời vua: Lê Dụ Tông, Lê Đế Duy Phường (1729–1732) Uy Nam
vương Trịnh Giang 1729–1740 (11 năm), hiệu Dụ Tổ( 裕祖). Con trưởng
của Trịnh Cương, bị ép nhường ngôi và tôn lên làm Thái thượng vương
năm 1740. Đời vua: Lê Đế Duy Phường, Lê Thuần Tông (1732–1735), Lê Ý
Tông (1735–1740) Minh Đô vương Trịnh Doanh 1740–1767 (27 năm),
hiệu Nghị Tổ(毅祖). Con thứ của An Đô vương Trịnh Cương, em trai của
Uy Nam vương Trịnh Giang. Đời vua: Lê Ý Tông Lê Hiển Tông (1740–
1786) Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm 1767–1782 (15 năm), hiệu Thánh Tổ( 聖
祖 ). Con trưởng của Minh Đô vương Trịnh Doanh, cháu nội của An Đô
vương Trịnh Cương. Đời vua: Lê Hiển Tông (1740–1786) Điện Đô vương
Trịnh Cán 9–10/1782 (1 tháng). Con thứ của Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm,
cháu nội của Minh Đô vương Trịnh Doanh, chắt của An Đô vương Trịnh
Cương. Bị phế làm Cung quốc công và mất sau loạn kiêu binh 1782. Sau
khi mất được ban thụy là Trung Cần. Đời vua: Lê Hiển Tông (1740–1786)
Đoan Nam vương Trịnh Tông 10/1782–1786 (4 năm). Con trưởng của
Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm, cháu nội của Minh Đô vương Trịnh Doanh,
chắt của An Đô vương Trịnh Cương. Đời vua: Lê Hiển Tông (1740–1786)
Án Đô vương Trịnh Bồng 1786–1787 (1 năm). Con trưởng của Uy Nam
vương Trịnh Giang, trốn mất tích sau 1787. Đời vua: Lê Mẫn Đế (1786–
1789)

- Địa điểm: Thanh Hóa

- Hình ảnh:
Khởi nghĩa Tây Sơn
- Thời gian: 1771

- Mô tả: Khởi nghĩa Tây Sơn là cuộc khởi nghĩa nông dân lớn nhất trong
lịch sử Việt Nam. Đầu 1771, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ,
Nguyễn Lữ; người ấp Kiên Thành, huyện Tuy Viễn (Tây Sơn, Bình Định)
lên vùng Tây Sơn Thượng Đạo (thuộc huyện An Khê, Gia Lai) tập hợp lực
lượng, nêu khẩu hiệu "lật đổ quyền thần Trương Phúc Loan ". Đầu 1773,
nghĩa quân đánh chiếm thành phủ Quy Nhơn. Cuối 1774, quân Tây Sơn
giải phóng phủ Quảng Ngãi, tiến ra Quảng Nam. Đầu 1775, quân Tây Sơn
tạm hoà với quân Trịnh để tập trung lực lượng tiêu diệt quân Nguyễn.
Nguyễn Ánh cầu cứu triều đình Xiêm (Thái Lan). Tháng 1.1785, dưới sự
lãnh đạo của Nguyễn Huệ, quân Tây Sơn đã đánh tan 5 vạn quân Xiêm ở
Rạch Gầm - Xoài Mút. Giữa 1786, quân Tây Sơn cũng dưới sự lãnh đạo
của Nguyễn Huệ tiến ra Bắc Hà tiêu diệt tập đoàn họ Trịnh, trao lại
quyền cho vua Lê. Sau đó vua Lê Chiêu Thống dùng Nguyễn Hữu Chỉnh
chống Tây Sơn. Cuối 1787, quân Tây Sơn lại tiến ra Bắc tiêu diệt Nguyễn
Hữu Chỉnh và thu phục các cựu thần nhà Lê như Ngô Thì Nhậm, Phan
Huy Ích, Nguyễn Thiếp. Lê Chiêu Thống cầu cứu nhà Thanh. Cuối 1788,
quân Thanh do tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị cầm đầu xâm lược
Đại Việt. Quân Tây Sơn rút lui về đèo Tam Điệp (giữa Ninh Bình và Thanh
Hoá), cho thuỷ quân chốt giữ ở hải phận Biện Sơn (Thanh Hoá), tổ chức
phòng thủ, đợi đại quân của Quang Trung. Tết Kỷ Dậu (tháng 1.1789),
quân Tây Sơn do vua Quang Trung chỉ huy tiến ra Thăng Long, tổ chức
chiến dịch Ngọc Hồi - Đống Đa, tiêu diệt 29 vạn quân Thanh. Từ một
phong trào nông dân, KNTS trở thành một phong trào dân tộc rộng lớn
đánh đổ các tập đoàn phong kiến Lê, Trịnh, Nguyễn, bước đầu thống
nhất đất nước và đánh bại các thế lực xâm lược Xiêm, Thanh

- Địa điểm: Tây Sơn, phủ Quy Nhơn (Bình Định).


- Hình ảnh:

Khởi nghĩa Trịnh Nguyễn- Tây Sơn


- Thời gian: 1774- 1775

- Mô tả: Tháng 5 năm 1774, chúa Trịnh Sâm, sau 100 năm giữ hòa bình
với chúa Nguyễn, sai Quận Việp Hoàng Ngũ Phúc (1713-1776), một viên
tướng lão luyện, mang 4 vạn quân vào nam tấn công Phú Xuân (Huế),
cũng lấy danh nghĩa trừng phạt Trương Phúc Loan. Tháng 9 năm 1774,
quân Trịnh đến Bắc Bố Chính. Chúa Nguyễn Phúc Thuần triệu Tôn Thất
Nghiêm về Phú Xuân, phong Nguyễn Cửu Dật làm Tả quân Đại Đô đốc
tước Du quận công chống quân Tây Sơn. Nguyễn Cửu Dật đánh 10 trận
buộc Tây Sơn lui về Bến Ván. Trong lúc chiếm đóng Quảng Nam, quân
Tây Sơn có đủ thì giờ vơ vét của cải, mang đi 45 con voi, khí giới trong đó
có 82 khẩu đại bác mà người Anh và người Hòa (người Nhật) cho chúa
Nguyễn để giữ thành. Việc rút lui này có thể còn do sự hiện diện của 2
chiếc tàu Ma cao vừa đến ở đấy. Cho nên, với sự trực tiếp can thiệp của
chiếc tàu Diligent ủng hộ chúa Nguyễn, họ đã không ngần ngại phá Hội
An, vừa để cướp tiền bạc, vừa để trả thù. Bốn năm sau, Chapman ghé
đến còn trông thấy cảnh điêu tàn của một nơi mà ngày trước "hàng trăm
thuyền bè từ các cửa biển Trung Hoa và Nhật Bản đến mua đường, quế,
hồ tiêu, kỳ nam..." Hành động phá phách trong chiến tranh này tất không
sao tránh khỏi nhưng cũng đủ làm xa lánh các khách thương mà sau này
Tây Sơn cố tìm cách vời đến vì thấy cần thiết, nhưng họ không hoàn toàn
đạt được ý muốn. Tháng 10 năm 1774, quân Trịnh vượt sông Gianh.
Chúa Nguyễn cho Cai đội Quý Lộc và Câu kê Kiêm Long đến tiếp quân
Trịnh. Kiêm Long xúi Hoàng Ngũ Phúc tiến quân bằng một câu nói ý
"Đường không đi không tới, chuông không đánh không kêu". Hoàng Ngũ
Phúc hiểu ý cho quân tiến sát lũy Trấn Ninh. Quân Nguyễn giữ lũy phản
loạn, mở cửa lũy tiếp quân Trịnh. Quân Trịnh chiếm dinh Quảng Bình.
Tháng 11 năm 1774, chúa Trịnh Sâm đem quân vào Nghệ An trợ chiến.
Chúa Nguyễn Phúc Thuần buộc phải trói Loan nộp cho Hoàng Ngũ Phúc
nhưng rồi quân Trịnh vẫn tiến. Tháng 12 năm 1774, Quân Nguyễn không
chống nổi, quân Trịnh chiếm thành Phú Xuân, buộc chúa Nguyễn Phúc
Thuần phải bỏ chạy theo đường biển về Quảng Nam. Hoàng tôn Dương
vượt đèo Hải Vân chạy vào Quảng Nam. Tháng 1 năm 1775, chúa
Nguyễn Phúc Thuần đến Quảng Nam, triệu Nguyễn Cửu Dật về hộ giá,
phong Hoàng tôn Dương làm Thế tử trấn thủ Quảng Nam. Quân Tây Sơn
Vương kéo đến đánh. Tiến quân theo 2 đường đánh ép lại: Tập Đình, Lý
Tài lên cửa biển Hợp Hòa, Nguyễn Nhạc đem bộ binh từ sông Thu Bồn
đổ xuống. Nguyễn Cửu Dật bại trận, chạy lên đóng ở Trà Sơn thuộc
huyện Quế Sơn.
Chúa Nguyễn Phúc Thuần sai Hoàng tôn Dương và Nội đội trưởng
Nguyễn Cửu Thận, Ngoại tả Tôn Thất Tĩnh, Chưởng cơ Tôn Thất Chí ở lại
Quảng Nam chống Tây Sơn. Chúa Nguyễn Phúc Thuần cùng Nguyễn Cửu
Dật, Chưởng dinh Tôn Thất Kính, Nguyễn Phúc Ánh vượt biển trốn vào
Gia Định (tức Sài Gòn). Tháng 2 năm 1775, quân Trịnh tiếp tục đi về phía
nam vượt đèo Hải Vân vào Quảng Nam. Đoàn thuyền của chúa Nguyễn
gặp bão, chỉ có thuyền của chúa Nguyễn và Nguyễn Phúc Ánh thoát nạn,
còn lại đều tử nạn trên biển. Tháng 3 năm 1775, Nguyễn Nhạc chia quân
3 đường vây bắt Hoàng tôn Dương. Hoàng tôn Dương sai giáo sĩ chiêu
hàng tướng của Nguyễn Nhạc ở thượng đạo thành công và tìm đường
chạy vào Nam. Tháng 4 năm 1775, Tập Đình, Lý Tài tấn công quân
Nguyễn, Hoàng tôn Dương chạy đến Hà Dục bị Tập Ðình và Lý Tài bắt
được đem về Hội An. Tập Ðình muốn giết Hoàng tôn Dương nhưng Lý
Tài ngăn cản. Năm 1777, Hoàng tôn Dương sau đó cũng dùng kế trốn
thoát theo chúa Nguyễn. Quân Trịnh tiếp tục đi về phía nam vượt đèo
Hải Vân và đụng độ với quân Tây Sơn ở Quảng Nam. Quân Tây Sơn thua
trận. Tập Ðình chạy về Trung Hoa. Nguyễn Nhạc cùng Lý Tài rút hết quân
về Quy Nhơn, đem hoàng tử Dương theo. Tháng 5 năm 1775, Tống
Phước Hiệp chia binh làm hai đạo kéo ra Phú Yên. Quân bộ thì đóng tại
núi Xuân Ðài thuộc Ðồng Xuân, quân thủy thì đóng ở đầm Lãnh Úc nằm
phía đông nam Ðồng Xuân. Rồi đưa thư ra Quy Nhơn đòi Tây Sơn Vương
trả Ðông Cung Nguyễn Phúc Dương. Nguyễn Nhạc mất Phú Yên, chỉ còn
giữ Quy Nhơn và Quảng Ngãi. Trước tình thế "lưỡng đầu thọ địch",
Nguyễn Nhạc xin giảng hòa với quân Trịnh, trên danh nghĩa đầu hàng
nhà Lê, xin làm tiên phong đi đánh chúa Nguyễn ở Gia Định. Chúa Trịnh
bằng lòng và phong chức Tây Sơn trưởng Hiệu Tráng tiết tướng quân cho
Nguyễn Nhạc. Tháng 7 năm 1775, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ đánh
Phú Yên, quân Nguyễn tan vỡ, Tống Phúc Hiệp phải rút về Hòn Khói. Bùi
Công Kế ở Bình Khang và Tống Văn Khôi từ Khánh Hòa đem quân ra
chiếm lại Phú Yên đều thất bại, Kế bị bắt sống còn Khôi tử trận. Tháng 8
năm 1775, Hoàng Ngũ Phúc đành xin chúa Trịnh theo thỉnh cầu của
Nguyễn Nhạc phong Nguyễn Huệ là Tây Sơn trưởng Hiệu Tiên phong
tướng quân, rồi dâng biểu về triều, xin quân Trịnh rút về Thuận Hóa và
được chấp thuận. Tháng 10 năm 1775, quân Trịnh rút về Phú Xuân.
Hoàng Ngũ Phúc bị bệnh, mất trên đường về Bắc.\r \r Tháng 11 năm
1775, Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân dấy binh chiếm lại phủ Thăng
Bình và phủ Điện Bàn, Quảng Nam. Nguyễn Nhạc liền sai Ðặng Xuân
Phong đi đánh dẹp. Không phải dùng nhiều công sức, Ðặng Xuân Phong
mới xáp chiến trận đầu là lấy ngay được Thăng Bình rồi Ðiện Bàn. Tôn
Thất Quyền và Tôn Thất Xuân đều tử trận. Quảng Nam được dẹp yên,
Tây Sơn Vương gọi Nguyễn Văn Xuân ở Quảng Nghĩa về Qui Nhơn cử
Ðặng Xuân Phong thay thế, và cử Nguyễn Văn Tuyết ra trấn thủ Quảng
Nam, cùng họ Ðặng làm răng môi giữ gìn mặt Bắc. Từ đó toàn bộ khu
vực đèo Hải Vân trở xuống đều thuộc về nghĩa quân Tây Sơn.

- Địa điểm: Phú Xuân

- Hình ảnh:

Tây Sơn tiến đánh Gia Định


- Thời gian: 1778

- Mô tả: Tạm yên mặt Bắc, Tây Sơn tập trung lực lượng tiếp tục việc
chinh phục phía nam. Trong gần 10 năm (từ 1776 đến 1783) quân Tây
Sơn nhiều lần vào đánh chiếm Gia Định. Bấy giờ Nguyễn Phúc Thuần ở
Gia Định được Mạc Thiên Tứ giúp sức, lại có thêm hàng tướng Tây Sơn là
Lý Tài, thế lực được củng cố. Trước tình hình đó, tháng 2 năm 1776,
Nguyễn Nhạc cử Nguyễn Lữ làm Tiết chế đem quân đánh Gia Định, lấy
được thành Sài Côn, chúa Nguyễn không đề phòng nên đại bại, phải chạy
ra Trấn Biên (tức là Biên Hòa). Nguyễn Lữ đem lương thực cướp được
chở về Quy Nhơn. Tháng 3 năm 1776, Nguyễn Nhạc cho đắp thành Trà
Bàn, tự xưng Tây Sơn Vương, đúc ấn tín. Phong Nguyễn Lữ làm Thiếu
phó, Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân và phong chức cho
người mình. Sau khi Tống Phúc Hiệp mất, giữa Đỗ Thanh Nhân và Lý Tài
phát sinh mâu thuẫn, Lý Tài thế lực lớn mạnh, tháng 11 năm 1776, ép
chúa Nguyễn nhường ngôi cho Nguyễn Phúc Dương. Tháng 1 năm 1777,
Trịnh Sâm phải phong cho Nguyễn Nhạc trấn thủ Quảng Nam tuyên úy
đại sứ. Tháng 3 năm 1777, Nguyễn Nhạc cử Nguyễn Huệ làm tướng đánh
Gia Định lần thứ 2. Lý Tài thua trận, bỏ chạy khỏi thành, đưa 2 chúa
Nguyễn về Hóc Môn, sau lại thua trận phải rút khỏi Hóc Môn, nhưng bị
quân Tây Sơn phong tỏa nên cùng đường buộc phải mang tàn quân chạy
về Ba Giòng - căn cứ quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhân, và bị quân
Đông Sơn tiêu diệt. Tháng 4 năm 1777, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ,
quân Tây Sơn lại đánh quân Nguyễn. Nguyễn Phúc Dương và Nguyễn
Phúc Thuần bỏ trốn nhưng đều không thoát, bị bắt đem xử tử vào cuối
năm 1777. Một Hoàng tôn tên là Nguyễn Ánh (Nguyễn Phúc Ánh), con
trai của Nguyễn Phúc Luân, lúc đó 15 tuổi, chạy thoát ra đảo Thổ Chu.\r \
r Khi cơ bản chinh phục được họ Nguyễn, tăng cường sức mạnh và uy
thế, năm 1778, sau khi giết được Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc
Dương, Nguyễn Nhạc tự xưng làm vua, lập triều đại Tây Sơn, đặt niên
hiệu là Thái Đức, đóng đô tại thành Quy Nhơn (thành Đồ Bàn cũ của
nước Chiêm Thành), đổi tên thành Hoàng đế thành, phong cho Nguyễn
Lữ làm Tiết chế, Nguyễn Huệ là Long Nhương tướng quân, không ràng
buộc với chúa Trịnh nữa. Tấn công thế lực người Hoa Sử sách nhà
Nguyễn và một số thư từ của các giáo sĩ ở Gia Định thời đó đều ghi lại
việc tấn công người Hoa của Tây Sơn vào năm 1782, do những người
Hoa này đã hỗ trợ cho chúa Nguyễn chống lại Tây Sơn. Việc người Hoa
trợ giúp cho chúa Nguyễn khiến họ gây nên mối thù với Tây Sơn và
Nguyễn Nhạc đã coi người Hoa là đối thủ chiến tranh cần phải diệt trừ.
Quân Tây Sơn khi tấn công vào Cù lao Phố thì gặp phải sự chống đối
mạnh của quân Hòa Nghĩa (người Hoa) ủng hộ Nguyễn Ánh tại đây khiến
cho một thân tướng là Đô đốc Phạm Ngạn tử trận, binh lính thương
vong nhiều, Nguyễn Nhạc nghe tin rất đau xót (Đại Nam thực lục viết:
"...Nguyễn Nhạc nghe tin Ngạn chết, đau như mất hai tay"), ông cho rằng
đạo quân Hòa Nghĩa toàn là quân Thanh trá hình, rồi nổi giận ra lệnh phá
nát khu người Hoa ở Gia Định để trả thù. Sách Lịch sử Gia Định – Sài Gòn
trước 1802 dẫn lại từ Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, một
viên quan người Hoa của nhà Nguyễn năm 1820, đã mô tả cuộc tấn công
người Hoa ở Gia Định do Nguyễn Nhạc chỉ huy năm 1782: "Năm 1776 khi
mới tiến vào Gia Định thì quân Tây Sơn đã tàn phá Cù lao Phố, một vùng
thương mại sầm uất bậc nhất xứ Đàng Trong. Họ dỡ phòng ốc gạch, ngói
đem hết về Quy Nhơn khiến dân cư bỏ chạy lưu tán khắp nơi. Năm 1778
khi chúa Nguyễn đã giành lại được Cù lao Phố thì kiểm điểm lại, dân cư
còn chưa tới 1% lúc trước". "Từ Bến Nghé tới Sài Gòn xác chết ngổn
ngang, vứt cả xuống sông, nước không chảy được, hai ba tháng sau dân
cũng không dám ăn tôm, cá... mọi người đều khổ sở". Sách Lịch sử nội
chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802 của Tạ Chí Đại Trường trích dẫn từ
Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện và thư của các linh mục có mặt ở
Gia Định lúc đó miêu tả vụ phá hủy khu người Hoa ở Chợ Lớn năm 1782
của Nguyễn Nhạc: "Người Trung Hoa, bất luận binh lính hay dân buôn,
mới đến hay ở lâu, đều bị bắt giết, thây chất ngổn ngang vất đầy sông
ngòi, đến nỗi nước ấy không chảy, cả tháng hơn người ta không ai dám
ăn tôm cá, uống nước sông. (...) Những ai có hàng Trung Hoa trong nhà
như vải, lụa, trà thuốc, hương giấy... đều vứt cả ra đường mà không
người dám lượm. Andre Tôn (thư ngày 1/7/1784) nói có từ 10.000 đến
12.000 người chết.

- Địa điểm: GIa Định

- Hình ảnh:

Nhà Tây Sơn


- Thời gian: 1778- 1802

- Mô tả: Nhà Tây Sơn (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / Tây Sơn
triều) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm
1778 đến năm 1802, được thành lập trong bối cảnh tranh chấp quyền
lực cuối thời Lê Trung hưng (1533–1789). Theo cách gọi của phần lớn sử
gia, nhất là các sử gia hiện đại tại Việt Nam thì "nhà Tây Sơn" được dùng
để gọi triều đại của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ để
phân biệt với nhà Nguyễn của Nguyễn Ánh (vì cùng họ Nguyễn). Ngoài
ra, "Tây Sơn" cũng chỉ các lãnh tụ và quân đội khởi nghĩa xuất thân từ ấp
Tây Sơn; cũng được dùng làm tên cuộc chiến của Tây Sơn. Người nắm
quyền đầu tiên của nhà Tây Sơn là Nguyễn Nhạc, người anh cả, lên ngôi
năm 1778. Tới năm 1788, Nguyễn Nhạc nhường ngôi cho em là Nguyễn
Huệ, chính là Quang Trung hoàng đế. Nguyễn Nhạc phong vương cho hai
em, mỗi người chia nhau giữ một khu vực từ tháng 4 năm 1787: Nguyễn
Nhạc xưng là Trung ương Hoàng đế, đóng đô ở Quy Nhơn. Phong
Nguyễn Lữ làm Đông Định vương, cai quản vùng đất Gia Định. Phong
Nguyễn Huệ làm Bắc Bình vương, cai quản vùng đất từ đèo Hải Vân trở
ra Bắc.\r \r Một trong những công tích lớn nhất của nhà Tây Sơn trong
lịch sử dân tộc là đã tiến đến rất gần công cuộc thống nhất và mở rộng
lãnh thổ đất nước sau hàng trăm năm Việt Nam bị chia cắt bởi các cuộc
tranh giành quyền lực giữa các thế lực lớn Mạc –Trịnh – Nguyễn kể từ
khi nhà Lê sơ (1428–1527) bị sụp đổ, đồng thời triều đại này đã 2 lần
đánh bại quân xâm lược ngoại quốc (quân Xiêm La và quân nhà Thanh)
bằng những chiến dịch quân sự thần tốc. Tuy nhiên, năm 1792, vua
Quang Trung (Nguyễn Huệ) đột ngột qua đời khi còn khá trẻ, người kế vị
là Quang Toản còn quá nhỏ (9 tuổi) đã khiến nhà Tây Sơn không có lãnh
đạo đủ năng lực, ưu thế dần chuyển sang Nguyễn Ánh, một hậu duệ của
dòng họ Chúa Nguyễn nắm quyền trên đất Đàng Trong trước kia. Triều
đại Tây Sơn tồn tại khoảng 24 năm thì sụp đổ sau khi Nguyễn Ánh tiến
hành một cuộc chiến tranh toàn diện để tiêu diệt nhà Tây Sơn và thành
lập nhà Nguyễn. Đối với nhà Nguyễn, nhà Tây Sơn bị xem là giặc phản
loạn do họ đã đánh đổ thế lực của chúa Nguyễn. Chính vì thế, nhà
Nguyễn tìm nhiều cách xóa bỏ uy tín và những di tích liên quan tới nhà
Tây Sơn, nhưng những người mến mộ vẫn ghi nhớ các chiến tích và công
lao của nhà Tây Sơn, nhiều nơi đã lập đền thờ các vị vua, tướng lĩnh của
triều đại này. Ngày nay, nhà Tây Sơn được coi là một triều đại chính
thống của Việt Nam, hoàng đế Quang Trung được coi là người anh hùng
dân tộc với những chiến công chống ngoại xâm và cũng là người đề ra
nhiều cải cách quan trọng trong xây dựng đất nước.

- Địa điểm: Quy Nhơn, Phú Xuân, Phượng Hoàng Trung Đô


- Hình ảnh:

Tây Sơn đánh tan quân Xiêm


- Thời gian: 1785

- Mô tả: Nguyên lúc thất trận ở Sài Côn, tướng Châu Văn Tiếp chạy sang
Xiêm La cầu cứu. Đến tháng 2 năm 1784, vua Xiêm đem thủy quân sang
Hà Tiên, tìm Nguyễn Vương để mời sang bàn việc. Chúa Nguyễn lại tiếp
được mật biểu của Châu Văn Tiếp, cho nên mới đến hội với tướng nước
Xiêm, rồi cùng sang Bangkok xin binh cứu viện. Xiêm Vương tiếp đãi
Nguyễn Vương rất hậu, và sai hai tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem
hai vạn quân cùng 300 chiếc thuyền sang giúp quân chúa Nguyễn. Khi
đánh quân Tây Sơn ở Mân Thít, Châu Văn Tiếp bị thương nặng mà mất.
Từ đó quân Xiêm ỷ thế đi đến đâu quấy nhiễu dân sự, làm nhiều điều tàn
ác. Tướng Tây Sơn giữ đất Gia Định là Trương Văn Đa sai người về Quy
Nhơn phi báo. Vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đem binh vào chống giữ.
Nguyễn Huệ vào đến Gia Định nhử quân Xiêm La đến gần Rạch Gầm và
Xoài Mút rồi đánh một trận, giết quân Xiêm chỉ còn được vài nghìn
người, chạy theo đường thượng đạo trốn về nước. Nguyễn Huệ sau đó
đem binh đuổi theo quân chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn bấy giờ hết cả
lương thực, cùng với mấy người chạy về Trấn Giang, ra đảo Thổ Chu, đảo
Cổ Cốt, rồi sang Xiêm La. Sau đó Nguyễn Huệ đem quân về Quy Nhơn để
đô đốc là Đặng Văn Chân ở lại trấn đất Gia Định.

- Địa điểm: Rạch Gầm – Xoài Mút


- Hình ảnh:

Lật đổ chúa Trịnh


- Thời gian: 1786

- Mô tả: Tại Bắc Hà, năm 1782, Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm chết. Con nhỏ
Trịnh Cán được lập. Phe người con lớn là Trịnh Tông (hay Trịnh Khải) làm
binh biến giết quan phụ chính là Huy quận công Hoàng Tố Lý (Hoàng
Đình Bảo, cháu lão tướng Hoàng Ngũ Phúc) đưa Trịnh Tông lên ngôi, tức
là Đoan Nam vương (1782–1786). Một tướng cùng phe với quận Huy là
Nguyễn Hữu Chỉnh không hợp tác với Trịnh Tông, bỏ chạy vào nam hàng
Tây Sơn và được Nguyễn Nhạc rất tín nhiệm. Bắc Hà ngày một suy yếu.
Kinh thành Thăng Long bị quân kiêu binh – những kẻ có công tôn lập
chúa Trịnh – càn quấy, tàn phá. Sau khi đánh bật được Nguyễn Ánh ra
khỏi lãnh thổ, Nguyễn Nhạc quyết định đánh chiếm Phú Xuân (đất cũ của
chúa Nguyễn). Năm 1786, ông cử Nguyễn Huệ làm tổng chỉ huy đánh ra
Bắc. Về phía Trịnh, năm 1775, sau khi nhận hàng Nguyễn Nhạc, lão
tướng Hoàng Ngũ Phúc rút đại quân về Bắc, để lại Phạm Ngô Cầu và
Hoàng Đình Thể giữ thành Phú Xuân, sau đó không lâu qua đời. Nguyễn
Huệ lập kế lung lạc chủ tướng Phạm Ngô Cầu. Nguyễn Hữu Chỉnh lại
dùng kế ly gián Cầu và phó tướng Hoàng Đình Thể. Quân Tây Sơn bất
ngờ đánh úp thành Phú Xuân. Cầu bỏ mặc Thể chết trận, dâng thành
hàng Tây Sơn. Tiến ra Thăng Long Đền Quán Cháo ở Tam Điệp với truyền
thuyết tiên nữ dâng cháo cho nghĩa quân Tây Sơn. Do sự thuyết phục
của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ quyết định đem quân ra Bắc đánh
Thăng Long để diệt họ Trịnh dù chưa được lệnh của Nguyễn Nhạc. Với
danh nghĩa "Phù Lê diệt Trịnh", Nguyễn Huệ sai Chỉnh làm tiên phong
Bắc tiến. Quân Trịnh rệu rã nhanh chóng thua trận, các danh tướng phần
nhiều nghe tin Phú Xuân thất thủ đã khiếp sợ, đến khi nghe quân Tây
Sơn kéo ra, đa số đã bỏ trốn. Chúa Trịnh không được lòng dân, bỏ thành
Thăng Long chạy, bị dân bắt đem nộp Tây Sơn. Trên đường áp giải, Trịnh
Tông tự sát. Nguyễn Huệ vào thành Thăng Long yết kiến vua Lê Hiển
Tông. Tuy về danh nghĩa Nguyễn Huệ trao trả quyền chính lại cho vua Lê
và nhận phong Nguyên súy Dực chính phù vận Uy quốc công, nhưng
trong thực tế, ông nắm toàn bộ quyền chính ở Bắc Hà. Do sự sắp xếp của
Nguyễn Hữu Chỉnh, vua Lê Hiển Tông gả công chúa Ngọc Hân cho
Nguyễn Huệ.
Tháng 7 năm 1786, vua Lê Hiển Tông qua đời, thọ 70 tuổi. Do ý kiến của
công chúa Ngọc Hân thiên về lập hoàng thân Lê Duy Cận (anh của Ngọc
Hân), Nguyễn Huệ muốn hoãn lễ đăng quang của Lê Duy Kỳ. Nhưng do
áp lực của tôn thất nhà Lê đối với Ngọc Hân, Nguyễn Huệ đành thu xếp
cho Lê Duy Kỳ lên ngôi vua, đó là vua Lê Chiêu Thống. Ít lâu sau, Nguyễn
Huệ đem công chúa Ngọc Hân cùng Nguyễn Nhạc rút quân về Nam. Dẹp
tàn dư chúa Trịnh Sau khi quân Tây Sơn rút đi, các thế lực của chúa Trịnh
từng bỏ trốn khi Tây Sơn kéo ra như Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phùng Cơ
trỗi dậy, lập Trịnh Bồng lên ngôi vương, tức là Án Đô vương, tái lập chính
quyền chúa Trịnh. Tháng 11 năm 1786, chúa Trịnh Bồng đem quân vây
chặt cung vua, định phế bỏ Lê Chiêu Thống. Nhờ có Hoàng Phùng Cơ bảo
vệ, vua Lê mới chặn đứng được âm mưu của Trịnh Bồng. Vua Lê Chiêu
Thống bèn mời Nguyễn Hữu Chỉnh đang trấn ở Nghệ An ra dẹp Trịnh
Bồng. Chỉnh nhanh chóng đánh tan quân Trịnh, đốt phủ chúa, Trịnh Bồng
bỏ đi mất tích. Họ Trịnh mất hẳn, nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh lại lộng hành
như chúa Trịnh trước kia. Ở Bắc Hà, Nguyễn Hữu Chỉnh nhân lúc Tây Sơn
lục đục bèn có ý chống lại Tây Sơn. Nguyễn Huệ phái Vũ Văn Nhậm, con
rể của Nguyễn Nhạc, ra tiêu diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Cuối năm 1787,
quân Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm chỉ huy tiến ra bắc. Hữu Chỉnh thua chạy,
bị quân Tây Sơn bắt được và xử tử. Tuy nhiên, đến lượt Vũ Văn Nhậm
chuyên quyền, có ý chống Nguyễn Huệ. Tháng 4 năm 1788, Lê Chiêu
Thống đã bỏ kinh đô lưu vong. Nguyễn Huệ phải đem quân ra Bắc lần
thứ hai, giết Vũ Văn Nhậm. Ông tổ chức lại hệ thống cai trị ở Bắc Hà, đưa
các danh sĩ có tên tuổi như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích ra đảm đương
công việc. Sau khi đã lập Sùng Nhượng công Lê Duy Cận làm Giám quốc,
Nguyễn Huệ lại rút quân về Phú Xuân.

- Địa điểm:Thăng Long


- Hình ảnh:

Nguyễn Huệ lên ngôi, chuẩn bị đánh ra Thăng Long


- Thời gian: 22/12/1788

- Mô tả: Để lấy danh nghĩa chính thống trước khi ra bắc đánh đuổi quân
Mãn Thanh, Nguyễn Huệ quyết định lên ngôi Hoàng đế. Nguyễn Huệ tức
tốc cho lập đàn Nam Giao ở núi Bân (cạnh núi Ngự Bình) làm lễ tế trời
đất, tuyên bố lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung (nghĩa là ánh
sáng ở trung tâm), nhằm vào ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân
(22/12/1788 dương lịch). Chiếu lên ngôi của vua Quang Trung viết: Nước
Việt ta từ đời Đinh, Lê, Lý, Trần gây dựng ra nước cho đến ngày nay,
thánh minh dấy lên không phải là một họ, nhưng thịnh suy, dài ngắn, vận
mệnh do trời, không phải sức người tạo ra được. Trước đây nhà Lê mất
chính quyền, họ Trịnh và cựu Nguyễn chia bờ cõi. Hơn hai trăm năm nay,
kỷ cương rối loạn, vua Lê chỉ là hư vị, cường thần tự ý vun trồng, giềng
mối của trời đất một phen rơi xuống không nâng lên được, chưa có lúc
nào hư hỏng quá như lúc này vậy. Vả lại mấy năm gần dây, nam bắc gây
việc binh đao, nhân dân rơi vào chốn bùn than Trẫm hai lần gây dựng họ
Lê, thế mà tự quân họ Lê không biết giữ xã tắc, bỏ nước đi bôn vong, sĩ
dân Bắc Hà không hướng về họ Lê, chỉ trông mong vào trẫm, về phần đại
huynh (Nguyễn Nhạc) có ý mỏi mệt, tình nguyện giữ một phủ Quy Nhơn,
tự nhún xưng là Tây Vương, mấy nghìn dặm đất về phương nam thuộc
hết về trẫm. Trẫm tự nghĩ tài đức không bằng người xưa, mà đất đai thì
rộng, nhân dân thì nhiều, ngẫm nghĩ cách thống trị, lo ngay ngáy như
dây cương mục chỉ huy sáu ngựa. Nay xem khí thần rất hệ trọng, ngôi
trời thật khó khăn, trẫm chỉ lo không kham nổi, nhưng ức triệu người
trong bốn bể đều xúm quanh cả vào thân trẫm, đó là ý trời đã định,
không phải do người làm ra. Trẫm nay ứng mệnh trời, thuận lòng người
không thể khăng khăng cố giữ sự khiêm nhường. Trẫm chọn ngày 22
tháng 11 năm nay lên ngôi thiên tử, đặt niên hiệu là Quang Trung năm
đầu, truyền bảo cho trăm họ muôn dân phải tuân theo giáo lệnh của nhà
vua. Nhân nghĩa, trung chính là đạo lớn của người, trẫm nay cùng dân
đổi mới, vâng theo mưu mô sáng suốt của vua thánh đời trước, lấy giáo
hóa trị thiên hạ.\r \r Một giai thoại được truyền lại về việc Quang Trung
lập kế để động viên quân sĩ trước khi ra quân đánh quân Thanh, tại lễ
đăng quang ở Phú Xuân. Sau lúc làm lễ, Quang Trung sai mang đến cái
mâm, trên để các đồng tiền, có phủ vải điều, rồi tuyên bố với quân sĩ:
"Ba quân hãy cùng ta quan sát, nếu cả hai trăm đồng tiền này đều sấp,
thì đó là điềm trời báo chúng ta đại thắng. Ngược bằng, có đồng ngửa,
thì đó là đại sự của chúng ta có điều trắc trở." Nguyễn Huệ chắp tay
khấn vái, rồi bưng mâm tiền, cung kính dâng lên cao, rồi hất tung xuống
sân. Quân sĩ thấy các đồng tiền nhất loạt đều sấp, reo hò mừng rỡ, tin
chắc trận này ra bắc sẽ đánh thắng quân Thanh. Kỳ thực, Nguyễn Huệ đã
ngầm sai người đúc 200 đồng tiền mà cả hai mặt đều là mặt sấp.

- Địa điểm: núi Bân, còn gọi là núi Ba Tầng, nằm ở phía Nam kinh thành
Phú Xuân, trên địa phận làng An Cựu, Bắc Bình

- Hình ảnh:

Chiến tranh Nguyễn Ánh- Tây sơn


- Thời gian: 1790- 1802

- Mô tả: Năm Nhâm Tý (1792) vua Quang Trung qua đời, con là Quang
Toản lên ngôi mới 10 tuổi, vì thế Vương nghiệp triều Tây Sơn nhanh
chóng rơi vào suy vong. Quang Toản lên ngôi vua, dùng cậu là Bùi Đắc
Tuyên làm thái sư giám quốc trông coi mọi việc trong ngoài. Vì Quang
Toản còn nhỏ quá, Bùi Đắc Tuyên ngày càng chuyên quyền nên trong
ngoài đều oán, đại thần trong triều ngoài trấn nghi kỵ lẫn nhau. Nguyễn
Ánh còn dò biết được mâu thuẫn giữ Nguyễn Nhạc và Quang Toản nên
rất quyết tâm đánh Tây Sơn. Ðược tin vua Quang Trung băng hà, Nguyễn
Ánh rất vui mừng, ông đẩy mạnh việc chuẩn bị đánh Tây Sơn. Dưới
trướng Nguyễn Vương lúc bấy giờ có nhiều quan chức người nước ngoài
như Dayot (Ông Trí), Philippe Vannier (Ông Chấn), Guilloux, Laurent
Barisy (Ông Mân), De Forcant (Ông Lăng), Jean Baptiste Chaigneau,
Olivier de Puymanel (Ông Tín), Theodore Lebuen. Những quan chức nầy
là những cố vấn kỹ thuật cho Nguyễn Vương trong lãnh vực quân sự, vũ
khí, đấp thành, v.v... Năm Nhâm tý (1792) chúa Nguyễn tự thân đi đánh
Quy Nhơn nhưng cũng không thành công. Từ đấy hằng năm cứ đến mùa
gió nồm, Nguyễn Phúc Ánh cho quân tiến ra đánh các tỉnh miền Trung,
khi gió bấc nổi lên ông lại rút quân về Gia Định. Dân chúng vùng Thuận -
Quảng (miền Trung ngày nay), sau nhiều năm mệt mỏi bởi chiến sự liên
tục, nay lại thấy vua Quang Trung mất đột ngột, nhà Tây Sơn bị lục đục
nội bộ nên cũng mâu thuẫn trong việc nên ủng hộ Nguyễn Ánh hay Tây
Sơn. Một số quay sang ủng hộ Nguyễn Ánh, trong dân gian lưu truyền
một câu ca dao lục bát: "Lạy trời cho cả gió nồm,/Để cho chúa Nguyễn
kéo buồm thẳng ra". Số khác thì vẫn ủng hộ nhà Tây Sơn, thể hiện qua
câu ca dao: "Lạy trời cho cả gió lên,/Cho cờ vua Định phất trên kinh
thành" (Định ở đây là Bình Định, nơi phát tích nhà Tây Sơn, và kinh
thành ở đây là Phú Xuân - Huế). Việc tồn tại 2 câu ca dao trái ngược
nhau cho thấy lòng dân khi đó khá mâu thuẫn về việc nên ủng hộ bên
nào Chiến dịch gió mùa đầu tiên, trong năm 1792, đưa đến một sự triệt
hạ gần như hoàn toàn hải quân của Tây Sơn tại Thị Nại, hải cảng ở Quy
Nhơn. Tại đó người anh của Hoàng Đế, Nguyễn Nhạc, đã thả neo một
hạm đội các chiến thuyền vừa mới xây dựng xong để chuẩn bị cho một
cuộc đánh xuống miền nam. Khi tin tức về chiến dịch chủ định của họ
đến tai Nguyễn Phúc Ánh, ông đã phát động một cuộc viễn chinh của
chính mình dưới sự chỉ huy của hai người Pháp. Với chiều gió thuận lợi
cho nó, lực lượng này đã mau chóng tiến tới cửa Thị Nại, nhận thấy các
chiến thuyền Tây Sơn đậu kín tại hải cảng, và đã tiến vào bến tàu, nơi
binh sĩ tức thì đổ bộ và chiếm giữ các đồn lũy. Viên tướng Tây Sơn và lực
lượng của ông ta đã bỏ chạy, để lại đằng sau các chiến thuyền và vũ khí
của mình. Trong số các thuyền tham dự trận đánh này có 40 chiếc
thuyền hải tặc được tuyển mộ bởi Hoàng Đế Quang Trung. Ba trong số
các thuyền này bị bắt giữ bởi phe chúa Nguyễn, cùng với 75 chiến
thuyền khác từ hạm đội mới của Nguyễn Nhạc. Chiến thuật này đã
nhanh chóng làm suy yếu Tây Sơn bởi đánh vào các điểm yếu của đội
quân này là hậu cần, khả năng tác chiến trên toàn lãnh thổ Việt Nam,
duy trì mạng lưới thủy quân dọc theo duyên hải miền trung và điều phối
giữ quân thủy bộ, cuối cùng dẫn đến trận Thị Nại 1801 làm thay đổi
tương quan lực lượng hai bên có lợi cho Nguyễn Ánh.
Cuộc thất trận tệ hại nhất vẫn chưa xảy ra. Trong tháng Bảy, các lực
lượng phe chúa Nguyễn, sau khi giành được lối tiếp cận với tòa thành,
trận hạ thành Quy Nhơn đã chinh phục được thành Hoàng Đế và phủ
Quy Nhơn, nơi họ đặt tên lại là Bình Định. Họ ở lại đó cho đến tháng 11
năm 1799, khi mà sự từ trần của vị cố vấn quân sự từ lâu của Nguyễn
Phúc Ánh, đức giám mục Adran, Pigneau de Behaine, đã buộc họ phải
gửi lực lượng chủ yếu về lại miền nam. Một hạm đội dưới quyền Tổng
Binh Võ Tánh đã được lưu lại phòng vệ hải cảng ở đó, cửa Thị Nại, để
chống lại hải tặc Tây Sơn. Bình Định ở vị trí lẻ loi khó tiếp viện, nên mùa
thu năm đó quân Tây Sơn vây thành và chận đường tiếp viện phía nam.
Nhờ Võ Tánh giỏi cố thủ nên thành không bị mất. Năm Canh Thân (1800)
chúa Nguyễn tự thân đi cứu viện đánh nhau nhiều phen với quân Tây
Sơn nhưng không giải được vây. Chúa Nguyễn lấy lại Phú Xuân và xưng
Đế Từ năm 1800, triều sóng chiến trận đã từ từ trở nên bất lợi cho phía
Tây Sơn. Lần đầu tiên Nguyễn Phúc Ánh, thay vì trở về miền nam, đã ở
lại Quy Nhơn, khi đó đang dưới sự bao vây. Sau gần một năm không có
các kết quả quyết định, ông ta lựa chọn việc chuyển hướng tấn công vào
Phú Xuân. Từ ngày giữ chức Đại nguyên soái đến lúc này trải qua 25
năm, Nguyễn Ánh được 40 tuổi, nhiều phen ông vào sinh ra tử mới thu
phục lại được Kinh đô cũ. Ðến tháng 4 năm Nhâm Tuất (1802), Đức Thế
Tổ Nguyễn Phúc Ánh cho sửa chữa Hoàng Thành, qua ngày mồng một
tháng 5 cho lập đàn ở xã An ninh (nay là Kim Long, Hương Trà, Thừa
Thiên) hiệp tế trời đất về việc đặt niên hiệu, hôm sau ngày mồng hai
tháng 5 (1.6.1802) vua ngự ở điện nhận lễ triều hạ, đặt niên hiệu Gia
Long, ban lệnh đại xá khắp nước. Sau đó cho dựng Thái Miếu ở bên trái
Hoàng Thành. Lên Ngôi Hoàng đế rồi, ngài sai Trịnh Hoài Ðức, Ngô Nhân
Tĩnh đem phẩm vật và những ấn sách của nhà Thanh đã phong cho Tây
Sơn, sang nạp cho Thiên Triều và xin cho mình làm An Nam Quốc Vương
thay thế Tây Sơn. Đoàn sứ thần của vua Gia Long đi trên 2 thuyền Bạch
Yến và Hoàng Hạc vượt biển tới cửa Hổ Môn thuộc Quảng Đông đem
theo cả bọn hải tặc Tây Sơn để nộp. Tổng đốc nhà Thanh là Ái Tân Cát
Khánh đem việc này chuyển lên Gia Khánh. Gia Khánh vốn ghét Tây Sơn,
chiêu nạp bọn Mạc Quan Phù cho cướp bóc, đã lâu ngăn trở ở ngoài
biển, nay được tin báo nên rất vui lòng, khoản đãi sứ thần rất hậu và
đưa các tướng lãnh hải tặc Tây Sơn ra giết hết.

- Địa điểm: Gia Định


- Hình ảnh:

Nguyễn Ánh đổi tên nước thành Việt Nam


- Thời gian: 1804

- Mô tả: Sau khi Gia Long lên ngôi vua năm 1802, ngoài việc ổn định về
mặt tổ chức của vương triều; Vua quan tâm hơn cả là đặt quốc hiệu đất
nước để khẳng định sự chính thống của một triều đại mới. Năm 1802,
nhà Nguyễn cử một phái đoàn sang Trung Quốc do Thượng thư Bộ Binh
Lê Quang Định làm Chánh sứ, xin phong vương cho vua Nguyễn Ánh và
xin đặt quốc hiệu là Nam Việt. Tuy vậy, có thể nhà Thanh sợ vương triều
Nguyễn dựa vào quốc hiệu Nam Việt để đòi phần lãnh thổ rộng lớn từ
thời cổ đại trước kia (lãnh thổ Việt Nam thời Triệu phía bắc giáp sông
Dương Tử, phía nam giới hạn Đèo Ngang, phía tây là Tứ Xuyên; tức là
bao gồm vùng Quảng Đông, Quảng Tây – Trung Quốc, nơi sinh sống của
khối cư dân Bách Việt); nên đã gửi cho vua Nguyễn bức thư, có đoạn
viết: “…Nên lấy chữ Việt mào ở trên để tỏ rằng nước nhân đất cũ mà nối
được tiếng thơm đời trước, lấy chữ Nam đặt ở dưới để tỏ rằng nước ở
bờ cõi Nam giao... Tên xưng chính đại, chữ nghĩa tốt lành, mà đối với tên
gọi cũ của Lưỡng Việt ở nội địa vốn xưa đã có tên là Nam Việt lại phân
biệt được ra” Nhận được sắc phong, tháng 2 năm Giáp Tý 1804, vua Gia
Long ban chiếu đặt quốc hiệu mới là Việt Nam. Trong chiếu chỉ có ghi:
“Đế vương dựng nước, trước phải trọng Quốc hiệu để tỏ thống nhất. Xét
từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất Viêm bang,
gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên
nước… nên định lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải
chính Quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công
việc nước ta việc gì quan hệ đến Quốc hiệu và thư từ báo cáo với nước
ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là
An Nam nữa”.... Vậy là quốc hiệu Việt Nam được công bố có ý nghĩa
quan trọng, là sự thể chế hóa nguyện vọng lâu đời của nhân dân; khẳng
định tính pháp lý về chủ quyền của một Nhà nước Việt ở phương Nam;
thể hiện ý chí, sức mạnh muôn đời của các cộng đồng cư dân Việt trên
dải đất phương Nam.

- Địa điểm: Việt Nam

- Hình ảnh:

Khởi nghĩa Phan Bá Vành

- Thời gian: 1821- 1827

- Mô tả: Cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành (khoảng năm 1821 - 1827) là
cuộc khởi nghĩa nông dân kéo dài nhất, phạm vi ảnh hưởng rộng nhất do
Phan Bá Vành lãnh đạo nhằm chống lại đường lối cai trị của nhà Nguyễn
ở nửa đầu thế kỷ 19 trong lịch sử Việt Nam. Bối cảnh & nguyên nhân
Mặc dù các vua đầu triều Nguyễn có nhiều cố gắng, nhưng các mặt nông,
công, thương,... đều suy đốn và đình trệ, làm cho các tầng lớp nhân dân
mà đại bộ phận là dân lao động nghèo lâm vào cảnh sống ngày càng cơ
cực. Chẳng những nhà Nguyễn không cải thiện được tình tình mà trái lại,
ngày càng thêm rối ren. Nạn chiếm đoạt và tập trung ruộng đất của giới
địa chủ, nạn những nhiễu của giới quan lại, chế độ thu tô thuế và lao
dịch khắc nghiệt, thêm vào đó là nạn thiên tai và ôn dịch xảy ra luôn...
tất cả đã làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt, càng làm bùng lên
làn sóng đấu tranh quyết liệt của các tầng lớp nhân dân nghèo đói ở
khắp mọi miền đất nước chống lại chế độ cai trị của nhà Nguyễn. Căn cứ
sử biên niên của triều Nguyễn, thì chỉ tính trong nửa đầu thế kỷ 19 đã có
gần 400 cuộc nổi dậy, trong đó riêng thời Minh Mạng có tới 254 cuộc,
lớn nhất là các cuộc nổi dậy của: Lê Văn Khôi (1833-1836), Nông Văn Vân
(1833-1836), Lê Duy Lương (1832-1838) và cuộc nổi dậy này. Trong Đặng
gia thế phả có đoạn chép: ...Nhân lúc triều Nguyễn nhu nhược, chuyên lo
dùng của cải xây đắp thành quách cung điện, bê trễ đê điều, đồng ruộng
nông trang luôn năm lụt lội, dân tình đói rách, làng mạc điêu tàn, nhũng
loạn khắp nơi... Có ông Phan Bá Vành ở miền Thái Bình, nhân nạn đói
năm 1821 tập hợp dân chúng chống lại triều đình, được dân đi theo, lập
căn cứ chính ở Trà Lũ. Phan Bá Vành (?-1827), tục gọi Ba Vành (vì là con
thứ ba trong gia đình), sinh trưởng tại làng Minh Giám, thuộc huyện Vũ
Tiên (nay là huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình). Diễn biến cuộc nổi dậy Bất
mãn vì đường lối cai trị của nhà Nguyễn, khoảng năm 1821, Phan Bá
Vành tập hợp dân nghèo khổ vùng Nam Định, Thái Bình (tức vùng Sơn
Nam Hạ cũ) nổi dậy chống triều đình nhà Nguyễn. Với chủ trương "lấy
của nhà giàu chia cho dân nghèo", ngay từ giai đoạn đầu, người đi theo
đã có hơn 5.000, về sau thêm mấy ngàn quân của thủ lĩnh Ba Hùm
(người Mường) từ thượng du Thanh Hóa cùng với quân nổi dậy ở các
tỉnh lân cận kéo đến hiệp lực, thì lực lượng của ông đã lên đến hàng vạn.
Những năm 1824-1825, nạn đói diễn ra ở Hải Dương, Sơn Nam; khiến
dân nghèo theo ông càng đông. Lại được sự giúp đỡ của Nguyễn Hạnh
(tướng cũ của nhà Tây Sơn, được Ba Vành phong chức hữu quân), Vũ
Đức Cát (quan nhà Nguyễn bị cách chức), Ba Hùm (thủ lĩnh người
Mường)... và một số nhân vật có tiếng ở địa phương như Trần Bá Hựu,
Hai Đáng, Chiêu Liễn,... nên thanh thế Ba Vành ngày càng tăng. Tháng 2
(âm lịch) năm Minh Mạng thứ 7 (1826), từ đại bản doanh tại thôn Phú
Nhai, thuộc làng Trà Lũ (nay thuộc 3 xã Xuân Trung, Xuân Bắc, Xuân
Phương huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định), Phan Bá Vành dẫn quân đi
đánh chiếm đồn Trà Lý và đồn Lân Hải (Kiến Xương, thuộc Thái Bình),
giết được hai viên thủ ngự sứ là Đặng Đình Liễu và Nguyễn Trung Diễn.
Tiếp đó, thủ lĩnh Ba Vành cho quân đánh lan ra vùng Kiến Xương, Vũ
Tiên, Chân Ninh (thời Thành Thái đổi thành Trực Ninh)... Trấn thủ Sơn
Nam Lê Mậu Cúc hay được, mang quân đến đàn áp. Hai bên giao chiến
ác liệt tại Cồn Tiên (Tiền Hải). Đến khi trấn thủ Cúc tử trận, thì quân triều
quăng vũ khí, bỏ thuyền bè mà chạy cả.
Nghe tin cấp báo, vua Minh Mạng sai thống chế Trương Phúc Đặng kéo
quân ra Bắc để tiễu trừ. Đến nơi, tướng Phúc Đặng cho quân đánh bất
ngờ Giao Thủy. Thua trận, quân sư Vũ Đức Cát chạy ra An Quảng, rồi đến
xã Đông Hào thì bị bắt và bị giết ngay. Tháng 12 (âm lịch) năm ấy, Phan
Bá Vành và Nguyễn Hạnh lại tập hợp được hơn 5.000 quân, mang đi tấn
công vào hai huyện là Tiên Minh và Nghi Dương thuộc tỉnh Hải Dương.
Tiếp theo, hai ông liên kết với nhóm Tàu Ô để mở rộng hoạt động ra các
vùng ven biển thuộc vịnh Bắc Bộ. Liệu chống không nổi, trấn thủ Hải
Dương là Nguyễn Đăng Huyên lại phải cầu cứu đến triều đình Huế. Vua
Minh Mạng liền thăng cho Trương Văn Minh làm tiền phong đô thống
chế chuyên quản lý Bắc thành, để hiệp đồng với tham hiệp Nghệ An là
Nguyễn Hữu Thận coi việc quân. Không yên tâm, nhà vua lại chuẩn cho
tham hiệp Thanh Hóa là Nguyễn Công Trứ, tham biện Nghệ An Nguyễn
Đức Nhuận, quản cơ Thanh Hóa Vũ Văn Bảo, quản cơ Nghệ An Trương
Văn Tín cùng mang quân thủy bộ và 14 chiến thuyền ra gấp Hải Dương
hội tiễu. Mặc dù vậy, đầu năm Đinh Hợi (1827), quân Ba Vành vẫn kiên
trì hoạt động mạnh ở vùng phủ Thiên Trường (Nam Định) và phủ Bo (tức
phủ thành Kiến Xương). Nhận được tấu sớ xin thêm quân, vua Minh
Mạng bèn sai hậu quân phó tướng Ngô Văn Vĩnh mang hai vệ quân ở
Kinh đô Huế, cùng một số lính thuộc vệ quân Thần Sách ở Nghệ An đi
gấp ra Bắc. Tính ra, vua Minh Mạng đã điều động hầu hết lực lượng
quân đội ở Bắc thành, Nghệ An, Thanh Hóa và một phần ở Huế để đối
phó với quân của Phan Bá Vành. Tháng 2 (âm lịch) năm Đinh Hợi (tháng
3 năm 1827), nhà vua cho Thân Văn Duy coi tào binh Bắc thành, kiêm
tham tán việc quân. Sau khi bị đánh lui ở sông Bổng Điền, quân Ba Vành
lại kéo đến vây chặt cánh quân của Phạm Đình Bảo (hay Bửu) ở chợ
Quán, buộc các tướng Phạm Văn Lý, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Văn
Phong phải mang ba đạo quân đến cứu, đuổi quân nổi dậy chạy về căn
cứ ở làng Trà Lũ. Để chống cự lâu dài, Phan Bá Vành cho quân đào đắp
thêm hào lũy ở đây. Tương truyền, có nhiều chỉ huy dưới quyền đã
khuyên Phan Bá Vành nên đánh ngay lúc quân triều mới đến, tức lúc họ
đang mệt nhọc và chuẩn bị chưa xong. Nhưng vì nghe theo lời người vợ
lẽ là Trần Thị Tú (con gái của viên trấn thành Phủ Bo mà ông đã bắt được
khi đánh chiếm nơi này), nên ông cứ đóng chặt cửa thành cố thủ. Sau khi
quân triều từ các nơi kéo về vây kín Trà Lũ, các tướng nhà Nguyễn liền
cho phát pháo tấn công. Quân nổi dậy chống cự quyết liệt, bị chết quá
nửa. Biết vợ lẽ thông đồng với đối phương là tướng Phạm Văn Lý, Ba
Vành liền sai quân chém chết. Một đêm, Ba Vành cho quân khơi một con
ngòi chạy từ sông Cát thông đến sông Ngô Ðồng (sau dân gian gọi con
ngòi này là sông Thanh Quan - Cống Vành), để mở đường chạy ra biển.
Rạng sáng, quân nổi dậy theo con đường thủy ấy ào ạt phá vây, nhưng
rồi bị quân triều do Phan Bá Hùng chỉ huy chặn đánh tan tác hết. Trong
cơn binh lửa, Phan Bá Vành bị thương rồi bị bắt sống, cùng với 765
thuộc hạ. Trên đường áp giải, Phan Bá Vành cắn lưỡi tử tử, còn số quân
lính trên đều bị xử cực hình. Ngay sau đó, theo lệnh của vua Minh Mạng,
làng Trà Lũ bị tháo dỡ phá hết nhà cửa, lũy tre, cây cối, không sót một
thứ gì.

- Địa điểm: Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định
- Hình ảnh:

Minh Mạng đổi tên nước thành Đại Nam


- Thời gian: 15/2/1839

- Mô tả: Thời gian đầu sau khi vua Gia Long mất (1820) Tháng 12 năm Kỷ
Mão (đầu năm 1820), vua Gia Long qua đời. Tháng giêng năm Canh Thìn
(1820), Nguyễn Phúc Đảm lên nối ngôi, đặt niên hiệu là Minh Mạng. Bấy
giờ ông đã 30 tuổi nên rất am hiểu việc triều chính. Nhiều lần sau buổi
chầu, ông cùng một vài quan đại thần ở lại để bàn việc, hoặc hỏi về các
sự tích xưa, hoặc hỏi về những nhân vật cùng phong tục các nước khác.
Minh Mạng được xem là một vị vua siêng năng, luôn thức khuya dậy
sớm để xem xét công việc, có khi thắp đèn đọc sớ chương ở các nơi gởi
về đến trống canh ba mới nghỉ. Ông thường bảo với các quan: “Lòng
người, ai chả muốn yên hay vì chuyện sinh sự để thay đổi luôn, lúc trẻ
tuổi còn khoẻ mạnh mà không biết sửa sang mọi việc, đến lúc già yếu thì
còn mong làm gì được nữa. Bởi thế trẫm không dám lười biếng bất kỳ
lúc nào.” — Vua Minh Mạng Trong suốt thời gian trị vì của mình, vua
Minh Mạng đã thay đổi rất nhiều việc, từ nội trị, ngoại giao cho đến
những cải cách xã hội cùng những việc trong dòng họ. Quốc hiệu Đại
Nam Minh Mạng đã xin triều đình Mãn Thanh cho phép đổi quốc hiệu
Việt Nam thành Đại Nam, ngụ ý một quốc gia ở phương Nam rộng lớn.
Tuy nhiên triều đình Mãn Thanh không chính thức chấp thuận. Đến ngày
15 tháng 2 năm 1839, nhận thấy triều Mãn Thanh suy yếu, Minh Mạng
đã chính thức công bố quốc hiệu Đại Nam. Quốc hiệu này tồn tại đến
năm 1945.

- Địa điểm: Huế


- Hình ảnh:

Chiến tranh Việt- Xiêm


- Thời gian: 1841- 1845

- Mô tả: Nguyên nhân xảy ra cuộc chiến còn phải bắt đầu từ chiến thắng
Giáp Ngọ 1834 của quân Đại Nam trước quân Xiêm, mà từ sau chiến
thắng này, Trấn Tây Thành được thành lập bao gồm gần hết lãnh thổ
Campuchia hiện tại với vị trấn thủ đầu tiên là tướng Trương Minh Giảng.
Sau chiến thắng này, uy danh của Hoàng đế Minh Mạng và vị thế của Đại
Nam được nâng liên cao, vua Xiêm phải cử người sang xin giảng hòa và
điều đó có nghĩa thừa nhận Đại Nam là một cường quốc quân sự trong
khu vực lúc bấy giờ. Nhưng về mặt sâu xa hơn, cần biết rằng mối quan
hệ Việt - Xiêm dựa trên mối tác động của hai quốc gia này lên Chân Lạp -
một vương quốc nằm giữa hai cường quốc Việt - Xiêm. Mặc dù từ thời
Chúa Nguyễn, ảnh hưởng của Việt Nam tại Chân Lạp đã lớn mạnh và đôi
khi át cả sức ảnh hưởng của Xiêm La, nhưng từ khoảng cuối thế kỷ XVIII
cho đến khi Hoàng đế Gia Long lên ngôi năm 1802, Đại Việt rơi vào nội
loạn và Xiêm La đã nhanh chóng áp đặt ảnh hưởng của mình lên Chân
lạp. Dần dần, những công sức này của Chân Lạp "đổ sông đổ biển" khi
Việt Nam thống nhất và tiếp tục làm mất ảnh hưởng của Xiêm La lên
Chân Lạp. Mặc dù đã xảy ra nhiều cuộc đụng độ trong quá khứ, nhưng
hai trận chiến Giáp Ngọ 1834 và Ất Tỵ 1845 là hai cuộc chiến ra mặt giữa
hai cường quốc nhằm quyết định sự ảnh hưởng của mình lên
Campuchia. Và ở lần 1, Đại Nam đã thắng và không những thắng mà còn
thắng rất vẻ vang, rất... rất ngạo mạn. Bởi vì sau khi chiến thắng trận
chiến năm 1834, những trấn thủ người Việt tại Nam Vang lại ra tay làm
nhiều điều bạo ngược với người Chân Lạp. Bắt các quận chúa Ngọc Vân,
Ngọc Thu, Ngọc Nguyên của Chân Lạp về Gia Định an trí; Trà Long, Nhân
vu và La Kiên là những hoàng thân Chân Lạp sang Đại Nam mừng thọ
Minh Mạng, nhưng lại bắt họ đày ra Hà Nội. Hoàng gia Chân Lạp bị miệt
thị, người Chân Lạp bị bắt làm bia tập bắn cho quân Đại Nam, người
Chân Lạp oán ghét, căm hờn nhưng Trương Minh Giảng lại nói rằng họ
tin theo. Từ đó, Xiêm La có cớ đưa quân can thiệp vào Chân Lạp nhằm
đẩy lui Đại Nam và gây lại sức ảnh hưởng của mình. Năm 1841, hoàng đế
Minh Mạng mất giữa lúc tình hình Chân Lạp vẫn đang rối ren, quân Xiêm
La đang ngấp nghé ngoài bờ cõi và các cuộc nổi dậy tại đây vẫn nổi ra
như ong vỡ tổ. Hoàng đế Thiệu Trị lên ngôi, thấy việc duy trì Trấn Tây
thành quá mệt mỏi, liền chiếu cho Trương Minh Giảng rút quân về giữ
An Giang. Trương Minh Giảng uất ức về đến nơi chẳng bao lâu thì chết.
Năm 1842, cuộc chiến Việt Xiêm chính thức nổ ra bằng cuộc tiến công
của quân đội Xiêm La vào các vùng Kiên Giang và An Giang. Quân Xiêm
La liên kết với quân Chân Lạp tiến quân đến kênh Vĩnh Tế, sau đó đổ bộ
xuống Hà Tiên hội binh với các cánh quân từ sông Tiền, sông hậu đổ
xuống. Chiến thuyền từ Huế, quân sĩ từ Quảng Nam, Quảng Ngãi gấp rút
điều động vào Nam kỳ, quyết không cho quân Xiêm La chiếm được sông
Tiền là mục tiêu trước nhất. Sau đó, quân Đại Nam chia ra làm 5 đạo,
mội đạo 1.000 quân tiến đánh triệt hạ đồn trại quân Xiêm, đẩy lui ra khỏi
biên giới Đại Nam. Sau đó, tiếp tục đến quân Xiêm La ngược đãi người
Chân Lạp, người Chân Lạp sang cầu cứu, vua Thiệu trị sai các tướng
Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn, Võ Văn Giải, Tôn Thất Nghị, Nguyễn Công
Nhàn tiến quân sang cứu. Khoảng từ tháng 6/1845, quân Đại Nam tiến
sang lãnh thổ Chân Lạp, gặp sự kháng cự của liên quân Xiêm Lạp vô cùng
mạnh mẽ. Quân Đại Nam vừa tiến vừa vỗ về dân chúng Chân Lạp, có lúc
lên đến cả chục ngàn người về quy hàng. Cuối cùng, tháng 11/1845,
quân Đại Nam tiến được đến cố đô Ô Đông, vây chặt tướng Xiêm La là
Phi Nhã Ất Tri cùng vua Chân Lạp Nặc Ông Đôn ở trong thành. Đến đầu
tháng 12/1845, liên quân Xiêm Lạp xin hòa, vua Thiệu Trị đồng ý, Đại
Nam lại chiến thắng Xiêm La lần thứ hai nhưng không còn đặt dinh trấn
cai trị như thời Trấn Tây Thành nữa. Đến đây, lịch sử "nội chiến" giữa ba
quốc gia Xiêm La - Chân Lạp - Đại Nam coi như kết thúc cho đến khi
người Pháp đến Đông Dương và áp đặt sức ảnh hưởng của mình trên
toàn cõi này.

- Địa điểm: Campuchia (vùng phía Đông Nam Biển Hồ) và Nam Kỳ (Nam
Bộ Việt Nam).
- Hình ảnh:

You might also like