You are on page 1of 33

Tiếng Việt EnglishAA+

Tìm kiếm nhanh...

Home

Science profiles

Biography / Background

Qualifications

Employment History

Science Awards

Education

Projects

Publications / Books

Workshop papers

Science blogs

Teaching subjects

English Tiếng Việt

LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI: Trung Quốc cổ trung đại

I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VĂN MINH TRUNG QUỐC

1. Điều kiện tự nhiên – Dân cư

* Điều kiện tự nhiên

- Trung Quốc nằm ở phía Đông châu Á, diện tích 9,6 triệu km2, đứng thứ ba trên thế giới (sau Nga và
Canađa).
Phía Đông: giáp Thái Bình Dương

Ba mặt còn lại giáp 14 nước láng giềng.

- Lãnh thổ Trung Quốc ngày nay được định hình vào khoảng thế kỷ XVIII - đời nhà Thanh, là kết quả của
một quá trình mở rộng và bành trướng kéo dài hàng nghìn năm.

- Văn minh Trung Quốc bắt nguồn từ trung lưu sông Hoàng Hà, sau đó lan toả ra toàn bộ lưu vực sông
Hoàng Hà và sông Trường Giang. Vùng hạ lưu sông Hoàng Hà lầy lội ẩm ướt, không thích hợp cho đời
sống con người, đó là lý do giải thích vì sao nền văn minh Trung Hoa bắt nguồn ở vùng trung lưu sông
Hoàng Hà chứ không phải vùng hạ lưu.

Sông Hoàng Hà và Trường Giang đã bồi đắp nên những đồng bằng màu mỡ, tuy nhiên cũng thường gây
ra lũ lụt, nên công tác thuỷ lợi rất quan trọng. Hai sông này bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng đổ ra biển
Đông Trung Hoa mang về phía Nam lượng phù sa rất lớn, tạo nên hai đồng bằng lớn nhất Trung Hoa:
Hoa Bắc và Hoa Nam – là hai vựa lúa lớn nhất cả nước.

Sông Hoàng Hà dài 5464 km ở phía Bắc, sông Trường Giang dài 6300 km ở phía Nam. Sông Hoàng Hà
thường đổi dòng, không theo một cửa cố định đổ ra biển, tạo nên một vùng quét tương đối rộng, gây
nguy hiểm cho cuộc sống con người (hiện tượng “quẫy đuôi” của sông Hoàng Hà).

Sông Trường Giang đóng vai trò quan trọng trong quá trình dựng nước của người Trung Hoa, là một
trong những hướng bành trướng, di tản lớn nhất của người xưa, vượt Trường Giang tiến xuống phía
Nam. Bên cạnh sông, ở Trung Quốc có rất nhiều hồ rộng là nơi trữ nước vào mùa cạn để tưới tiêu, phân
lũ vào mùa mưa.

- Địa hình Trung Quốc đa dạng, có nhiều dãy núi cao: Thiên Sơn (Thái Sơn), Tây Côn Lĩnh; có nhiều hồ
lớn: Động Đình, Thanh Hải, có cao nguyên: Tây Tạng, sa mạc lớn: Gôbi, bờ biển dài ở phía Đông.

- Địa hình phức tạp đó dẫn đến nhiều loại khí hậu khác nhau, nhưng có thể chia thành hai khu vực lớn về
mặt khí hậu:
miền Nam: nóng ẩm, mưa nhiều

miền Bắc: lạnh, khô.

- Tên Hoa Hạ:

Trên vùng thượng lưu sông Hoàng Hà có bộ tộc người Hạ sinh sống, thành lập nhà Hạ (thế kỷ XXI TCN). Ở
vùng hạ lưu sông Hoàng Hà có tộc người Thương sinh sống, lập nên nhà Thương vào thế kỷ XVIII TCN.

Đến thế kỷ XVI TCN, hai bộ tộc này đồng hoá với nhau thành bộ tộc Hoa Hạ. Đất nước gọi là Trung Hoa
(đất nước của những người Hoa sinh sống ở trung tâm, xung quanh là các bộ tộc lạc hậu: Man, Di,
Nhung, Địch).

Đến Cách Mạng Tân Hợi (1911), sau khi lật đổ triều Mãn Thanh, Tôn Trung Sơn đặt tên nước là “Trung
Hoa cộng hoà dân quốc” (1912), từ đó xuất hiện tên Trung Quốc.

*Cư dân:

Từ rất xa xưa trên lãnh thổ Trung Quốc đã có người nguyên thủy sinh sống. Bằng chứng là ở khu vực Chu
Khẩu Điếm (phía Tây Nam Bắc Kinh) (năm 1929), các nhà khảo cổ học đã khai quật được những xương
hoá thạch của người vượn có niên đại cách nay chừng 400.000 năm. Đặc biệt, người vượn Nguyên Mưu
(Vân Nam) phát hiện năm 1977 có niên đại đến 1.700.000 năm.

Chủng tộc: cư dân Trung Quốc thuộc chủng da vàng Môngôlôit. Đó là tiền thân của dân tộc Hán sau này.
Hiện nay, Trung Quốc gồm 56 dân tộc, trong đó dân tộc Hán chiếm đa số (dân số Trung Quốc hiện nay
khoảng 1,3 tỉ người, người Hán chiếm 94%), sau đó là Mãn, Mông, Hồi, Tạng…

2. Sơ lược tiến trình lịch sử Trung Quốc cổ trung đại


a. Thời kỳ cổ đại

- Thời kỳ chế độ công xã nguyên thuỷ: Đây là thời kỳ chưa có giai cấp nhà nước nên có chữ viết, do đó
tìm hiểu lịch sử Trung Quốc thời kỳ này chủ yếu qua các di tích khảo cổ học và các câu chuyện truyền
thuyết: thuyết Tam Hoàng – Ngũ Đế có nói tới ba vị “vua” hiền: Nghiêu (Đường Nghiêu), Thuấn (Ngu
Thuấn), Vũ (Hạ Vũ), thực chất là thủ lĩnh của những liên minh bộ lạc. (Tam Hoàng: Toại Nhân (Thiên
Hoàng), Phục Hy (Địa Hoàng), Thần Nông (Nhân Hoàng), Ngũ Đế: Hoàng Đế, Thiếu Hạo, Xuyên Húc, Đế
Cốc, Đế Trí. Cuối Đế Trí xuất hiện ba thánh hiền.

- Thời kỳ xã hội có giai cấp và nhà nước: (thời kỳ Tam Đại): 3 vương triều nối tiếp nhau: Hạ, Thương, Chu

+ Hạ (khoảng thế kỷ XXI TCN đến thế kỷ XVI TCN): là nhà nước cổ đại đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa,
người thành lập nhà Hạ là vua Vũ. Trong thời kỳ này, người Trung Quốc đã biết sử dụng đồng đỏ, chưa
có chữ viết. Về chính trị: quyền lực của nhà vua bắt đầu được tăng cường, ngôi vua được cha truyền con
nối. Bộ máy nhà nước đã được thiết lập tuy còn đơn giản, có quân đội, nhà tù. Cuối nhà Hạ có vua “Kiệt”
được mệnh danh là bạo chúa trong lịch sử Trung Quốc.

+ Thương (còn gọi là Ân, thế kỷ XVI – XII TCN): Người sáng lập là Thành Thang. Trình độ sản xuất: thời kỳ
này người Trung Quốc biết sử dụng đồ đồng thau. Chữ viết đã ra đời, đó là văn tự giáp cốt (ghi trên mai
rùa, xương thú).

Do lũ lụt sông Hoàng Hà, nhà Thương di chuyển về đất Ân Khư (Hà Nam) nên nhà Thương còn có tên gọi
là nhà Ân. Cuối nhà Thương có một ông vua tàn bạo là Trụ Vương. Chu Văn Vương đã lật đổ vua Trụ, lập
nên một nhà nước mới gọi là nhà Chu.

+ Chu (thế kỷ XI – III TCN): chia hai giai đoạn:

Tây Chu (XI – VIII TCN (771 TCN): triều Chu đóng đô ở Cảo Kinh ở phía Tây nên gọi là Tây Chu. Đây là thời
kỳ phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, người Trung Quốc biết sử dụng công cụ bằng sắt.
Nông nghiệp: thực hiện chế độ tỉnh điền (chia ruộng đất cho nông dân công xã cày cấy theo hình chữ
“tỉnh”. Chế độ tỉnh điền đã xuất hiện từ trước nhưng đến Tây Chu nó phát triển hơn và hoàn chỉnh).

Chính trị: nhà nước thực hiện chế độ “tông pháp” (chế độ cai trị theo tông tộc, dòng máu): tất cả các
nước chư hầu đều là con cháu nhà Chu

Đông Chu (VIII – III TCN): năm 770 TCN, vua Chu dời đô sang Lạc Ấp ở phía Đông, gọi là Đông Chu.

Gồm 2 thời kỳ: Xuân Thu (722 – 481 TCN) và Chiến Quốc (403 – 221 TCN)

Đây là thời kỳ nhà Chu suy yếu, các nước chư hầu nội chiến triền miên để giành quyền bá chủ, tiến tới
thống nhất Trung Quốc. Đầu thời Xuân Thu có hàng nghìn nước nhỏ, đến cuối thời Chiến Quốc xuất hiện
cục diện Ngũ bá Thất hùng. Trong số 7 nước lớn, Tần là nước mạnh hơn cả, đã tiêu diệt 6 nước đối địch,
thống nhất Trung Quốc cả về lãnh thổ, chính trị, kinh tế.

b. Thời kỳ trung đại (221 TCN đến 1840)

(Năm 221 TCN là năm Tần Thuỷ Hoàng thành lập triều Tần, năm 1840 là năm xảy ra cuộc chiến tranh
thuốc phiện giữa Trung Quốc và Anh, Trung Quốc từ một nước phong kiến trở thành một nước nửa
phong kiến nửa thuộc địa)

Trong hơn 2000 năm đó, Trung Quốc trải qua các triều đại sau đây:

- Tần (221 – 206 TCN)

4 năm Hán Sở tranh hùng

- Tây Hán (206 TCN – 8)


- Tân (9 – 23)

- Đông Hán (25 – 220)

- Thời kỳ Tam quốc: Nguỵ - Thục – Ngô (220 – 280)

- Tấn (265 – 420)

Năm 265, một thừa tướng nhà Nguỵ cướp ngôi nhà Nguỵ lập ra nhà Tấn

Thời kỳ Nam - Bắc triều (420 – 581). Năm 581, Tuỳ cướp ngôi Bắc Chu, đến năm 589, thống nhất Trung
Quốc.

- Tuỳ (581 – 618)

- Đường (618 – 907)

Ngũ Đại thập quốc (907 – 960)

- Tống (960 – 1279): Bắc Tống (960 – 1127) và Nam Tống (1127 – 1279)

- Nguyên (1271 – 1368). Năm 1271, Hốt Tất Liệt lên ngôi Hoàng đế, đến năm 1279, thống nhất hoàn
toàn Trung Quốc.

- Minh (1368 – 1644)


- Thanh (1644 – 1911)

Trong đó, thời kỳ Tần – Hán là thời kỳ xác lập và củng cố chế độ phong kiến, thời Tuỳ - Đường - Tống là
thời kỳ phát triển chế độ phong kiến Trung Quốc, thời kỳ Nguyên – Minh – Thanh là giai đoạn suy tàn,
khủng hoảng chế độ phong kiến.

II. NHỮNG THÀNH TỰU CHÍNH CỦA VĂN MINH TRUNG QUỐC

1. Chữ viết

- Đến đời Thương, chữ viết Trung Quốc mới ra đời: văn tự giáp cốt (được khắc trên mai rùa, xương thú -
chủ yếu là xương quạt của bò). Lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1899 tại di chỉ Ân Khư. Đây là loại
chữ tượng hình

Trên cơ sở chữ tượng hình đã phát triển thành các loại chữ biểu ý và mượn âm thanh (gắn liền với hình
vẽ có một âm tiết để biểu đạt hình vẽ)

Ở di chỉ Ân Khư người ta phát hiện 10 vạn mảnh mai rùa và xương thú có khắc chữ giáp cốt (khoảng
4500 chữ, trong đó đã đọc được 1700 chữ).

- Thời Tây Chu, xuất hiện chữ kim văn (chung đỉnh văn) (chữ viết trên chuông đỉnh). Do việc phân phong
ruộng đất cho quý tộc có công, mỗi lần như vậy, vua Chu thường ra lệnh đúc đỉnh đồng và ghi chép sự
việc ấy lên đỉnh.

Thời Tây Chu còn một loại chữ viết nữa gọi là thạch cổ văn (chữ viết trên đá)

Ngoài ra, chữ viết thời Tây Chu còn được khắc trên thẻ tre.
Các loại chữ viết này gọi chung là chữ “đại triện”, hay “cổ văn”.

- Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, do chiến tranh, đất nước chia cắt nên chữ viết cũng không thống nhất.

- Tần: Tần Thuỷ Hoàng giao cho Lý Tư dựa vào chữ nước Tần kết hợp với các thứ chữ của các nước khác
tạo thành chữ tiểu triện.

Đây là cơ sở chữ Hán sau này.

- Sang thời Hán, xuất hiện chữ lệ (yếu tố tượng hình ít hơn chữ triện), là giai đoạn quá độ để phát triển
thành chữ chân (tức chữ Hán ngày nay)

Ai là người sáng tạo ra chữ Hán?

Kinh Dịch phần Hệ từ viết: “Ngày xưa thắt nút dây để ghi nhớ sự việc, sau bậc thánh nhân mới đổi thành
chữ khắc vạch”

Theo truyền thuyết, “Thương Hiệt - sử quan của Hoàng Đế, đầu rồng, 4 mắt sáng như đèn, miệng to như
cái chậu, nhìn vết chân chim muông, thấy phân biệt được giống loài, liền theo đó mà tạo ra chữ viết. Lúc
Thương Hiệt tạo ra chữ viết, thóc lúa từ trên trời tuôn xuống như mưa, đêm đêm quỷ khóc mưa kêu…”

2. Văn học

a. Thời cổ đại

Trung Quốc có hai tác phẩm nổi tiếng là Kinh Thi và Sở Từ.
- Kinh Thi: là tập thơ ca đầu tiên và cũng là tác phẩm văn học sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc. Đó là
công trình sáng tác tập thể của rất nhiều thi nhân thuộc nhiều thế hệ khác nhau, trong đó phần lớn là
của nhân dân lao động. Kinh Thi là tập thơ gồm nhiều bài thơ được sưu tầm, do Khổng Tử chỉnh lý (gọi
là Thi). Đến thời Hán, khi Nho giáo được đề cao, Thi được gọi là Kinh Thi. (Tập Thi được đặt vào hàng
kinh điển của Nho gia).

Kinh Thi có tất cả 305 bài, chia làm 3 phần: Phong, Nhã, Tụng.

+ Phong: (Quốc Phong), là dân ca của các nước gồm 160 bài.

+ Nhã gồm Tiểu Nhã và Đại Nhã, gồm 105 bài. Tiểu Nhã phản ánh đời sống sinh hoạt của tiểu quý tộc,
Đại Nhã phản ánh đời sống sinh hoạt của đại quý tộc.

+ Tụng (40 bài), gồm Chu Tụng, Lỗ Tụng, Thương Tụng, là những bài thơ do các quan phụ trách tế lễ và
bói toán sáng tác, nội dung ca tụng công đức của các triều vua.

Trong 3 phần đó, Quốc Phong có giá trị tư tưởng, nghệ thuật cao nhất. Nó thể hiện tính hiện thực, phản
ánh cuộc sống giàu sang phú quý của quý tộc, đối lập với cuộc sống cực khổ của nhân dân lao động.

Kinh Thi vừa là tác phẩm văn học có giá trị vừa là một tấm gương phản ánh tình hình xã hội Trung Quốc
đương thời, ngoài ra nó còn được các nhà Nho đánh giá cao về tác dụng giáo dục tư tưởng.

Khổng Tử đánh giá rất cao về Kinh Thi: “Các trò sao không học Thi? Thi có thể cảm phát tâm trí làm cho
người ta phấn khởi, có thể nhận xét thấy rõ những điều hay dở của bản thân mình, có thể biết cách sống
chung với quần chúng, có thể biết cách xử trí khi gặp cảnh oán hận. Gần có thể ăn ở hết lòng hết sức với
cha mẹ, xa có thể một lòng một dạ với quân vương. Còn biết thêm nhiều tên chim muông cây cỏ” (Luận
ngữ, thiên Dương Hoá)[1]

Về sau Tần Thuỷ Hoàng chủ trương pháp trị đã ra lệnh đốt Kinh Thi. Kinh Thi hiện nay còn gọi là Mao Thi
(do họ Mao đứng ra chép lại).
- Sở Từ: là những bài dân ca của nước Sở và những sáng tác của Khuất Nguyên – nhà thơ, nhà yêu nước
sống ở nước Sở vào khoảng thế kỷ IV – III TCN). Đây là tập thơ khá dài gồm 5 chương:

+ Cửu ca: những bài ca tế thần và những anh hùng lịch sử đã bỏ mình vì nước

+ chiêu hồn: những bài thơ Khuất Nguyên miêu tả thế giới địa ngục

+ thiên vấn: viết dưới dạng hỏi và đáp về thiên văn, địa lý, lịch sử, thánh nhân, đạo đức

+ cửu chương: chín bài thơ phản ánh tâm tình bi phẫn của Khuất Nguyên trên đường đi đày

+ ly tao: (sầu ly biệt): chương hay nhất, thể hiện tình cảm sâu kín, tình yêu quê hương đất nước của
Khuất Nguyên.

* Khuất Nguyên (340 – 278 TCN), tên là Bình, tự là Nguyên, cùng họ với vua nước Sở. Bình làm chức tả
đô đời Sở Hoài Vương, học rộng, nhớ lâu, thấy rõ lẽ trị loạn, thạo việc giấy tờ. Vào cung thì cùng vua bàn
tính việc nước, ban bố các mệnh lênh, ra thì tiếp đãi khách khứa, ứng đối với chư hầu. Nhà vua rất tin
dùng. Đại phu Thượng quan cùng ông ngang hàng, tranh được vua yêu, trong bụng ghen ghét tài năng.

Hoài Vương sai Khuất Nguyên làm pháp lệnh. Khuất Nguyên nháp bản thảo chưa xong, đại phu Thượng
quan trông thấy muốn cướp lấy, Khuất Nguyên không cho, ông ta bèn gièm với vua:

- Bệ hạ sai Khuất Bình làm pháp lệnh, không ai là không biết. Một khi lệnh ban ra, Bình lại khoe công của
mình, nói: “Ngoài ta ra, chẳng ai làm nổi”. Nhà vua giận, bỏ rơi Bình.

Khuất Bình gặp nỗi nhà vua nghe không phân biệt phải trái, để lời gièm pha che lấp óc sáng suốt, để kẻ
gian ác làm hại người trung thành, khiến cho người ngay không có chỗ dung thân, cho nên lo buồn, nghĩ
ngợi mà làm ra Ly tao
“Ly tao” là buồn trong chia ly. Ly Tao là bài thơ trữ tình dài đầu tiên (373 câu, có 2490 chữ) trong lịch sử
văn học Trung Quốc. Có người cho là “tiền thế vị văn, hậu thế mạc kế” (đời trước không hề thấy, đời sau
không hề bì kịp)

Một số câu thơ trong Ly Tao nói về tinh thần yêu nước của Khuất Nguyên:

- Một mình chịu ngậm sầu nuốt tủi

Nói ai hay nông nỗi lúc này

Thà cho sống đoạ thác đày

Lòng ta không nở để lây thói thường.

- Phân thây xé xác đã đành

Lòng này hồ dễ dỗ dành được sao![2]

Vua Sở không nghe lời nói phải, để mất nước vào tay nhà Tần. Khuất Nguyên đau đớn nhảy xuống sông
Mịch La (tỉnh Hà Nam) tự vẫn (278 TCN). Tương truyền ông qua đời vào ngày 5 tháng 5 âm lịch, được
nhân dân thương nhớ và kỷ niệm ngày mất của ông bằng ngày Tết Đoan Ngọ. Năm 1953, Hội đồng Hoà
bình thế giới làm lễ kỷ niệm lần thứ 2230 năm Khuất Nguyên qua đời, sau đó UNESCO đưa ông vào danh
sách danh nhân văn hoá thế giới.

Ly Tao đã thể hiện tập trung lòng yêu nước thương dân, tinh thần bất khuất không chịu hoà mình với
thế tục xấu xa và nỗi đau khổ không thực hiện được lý tưởng chính trị tốt đẹp của Khuất Nguyên.

Tư Mã Thiên đã đánh giá Khuất Nguyên rất cao:


“Văn ông gọn, lời ông dịu, chí ông sạch, nết ông cao, chữ dùng ít, nhưng ý rất nhiều. Điển diễn gần mà
nghĩa khá xa. Chí ông sạch cho nên hay nói đến các hoa thơm. Nết ông cao cho nên dù chết cũng không
chịu buông thả. Quằn quại trong vũng lầy, trút lốt khỏi chỗ nhơ đục để cất mình ra ngoài đám bụi trần,
chẳng để cho đời dơ bẩn. Thật là ở bùn mà chẳng lây đen…Suy chí ông ra, dù thi sáng với mặt trăng, mặt
trời cũng được…”

(Sử Ký, Khuất Nguyên liệt truyện)[3],

b. Thời phong kiến: Trung Quốc có kho tàng văn học rất phong phú với nhiều thể loại: thơ, phú, từ, kịch,
tiểu thuyết

* Thơ Đường là đỉnh cao của nghệ thuật thơ ca Trung Quốc. Trong gần 30 năm tồn tại, thời Đường đã để
lại tên tuổi của hơn 2000 nhà thơ với gần 50.000 tác phẩm.

Không những có số lượng rất lớn mà thơ Đường còn có giá trị rất cao về tư tưởng và nghệ thuật.

Thơ Đường có hai loại chính: thơ ngũ ngôn (mỗi câu 5 chữ) và thơ thất ngôn (mỗi câu 7 chữ)

Trong mỗi loại đó, có 3 thể: cổ phong, luật thi và tứ tuyệt

Cổ phong: thơ tự do, chỉ cần có vần, không giới hạn số chữ số câu

Luật thi: thơ 8 câu, 4 hoặc 5 vần, mỗi câu 5 hoặc 7 chữ, luật bằng trắc đối nhau giữa các chữ trong câu 3-
4, câu 5-6, các câu 3 và 2,5, câu 4 và 6,7 phải đúng niên (cùng một luật bằng trắc)

Tứ tuyệt: thơ 4 câu, tuân theo luật bằng trắc, nhưng không đối cũng được
Một số tác giả nổi tiếng: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị

Lý Bạch: (701 -762): tự Thái Bạch, được mệnh danh là tiên thơ (thi tiên). Lý Bạch sinh tại làng Thanh
Liêm, huyện Long Xuyên, xứ Tây Thục (nay là huyện Miên Dương, tỉnh Tứ Xuyên). Ông là con người
phóng khoáng, không chịu mọi sự trói buộc nào. Các nhà thơ Đường phần lớn đều qua thi cử rồi ra làm
quan, nhưng Lý Bạch (dù học rất giỏi, 15 tuổi đã đọc hết sách Bách gia chư tử và các loại kỳ thư), nhưng
không chịu vào kinh ứng thí mà ở nhà học kiếm rồi mơ ước trở thành một hiệp khách. Lý Bạch đi rất
nhiều, ông đã đi khắp đất nước. Lý Bạch còn có hiệu là Thanh Liêm cư sĩ. Lý Bạch đã để lại cho đời hơn
2000 bài thơ. Thơ ông chủ yếu miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên, cảnh núi sông hùng vĩ, lời thơ bay bổng,
hào hùng, mang màu sắc lãng mạn. Những bài thơ tiêu biểu nhất của ông là “Hành lộ nan” (Đường đi
khó), “Vọng Lư sơn bộc bố” (Xa ngắm thác núi Lư).

Nắng rọi hương Lô khói tía bay

Xa trông dòng thác trước sông này

Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước

Tưởng dải Ngân hà tuột khỏi mây

(Xa ngắm thác núi Lư)

Đỗ Phủ (712 – 770), sinh ra ở huyện Củng (Hà Nam), quê gốc ở Tương Dương (Hồ Bắc) trong một gia
đình dòng dõi quý tộc nhưng đã sa sút. Đỗ Phủ tự Tử Mỹ, hiệu Thiếu Lăng. Con đường thi cử của ông
không thành đạt, cả đời chỉ giữ những chức quan nhỏ, nhiều khi phải sống trong cảnh túng thiếu và loạn
lạc. Đỗ Phủ từng kết thân với Lý Bạch, có thời cùng nhau đi du ngoạn săn bắn.

Tác phẩm của Đỗ Phủ còn lại “Đỗ Lăng tập”, gồm 1453 bài thơ.

Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực, được mệnh danh là “thi sử” (sử viết bằng thơ)
Sáng tác của ông thể hiện như một bức tranh toàn cảnh rộng lớn, bao gồm nội dung chiến tranh, đời
sống binh lính, cuộc sống người dân thời buổi loạn ly, đặc biệt là số phận người phụ nữ cực khổ trăm bề.
Vì vậy, ông được đánh giá là nhà thơ hiện thực chủ nghĩa lớn nhất thời Đường, đồng thời lớn nhất trong
văn học cổ điển Trung Quốc.

Bạch Cư Dị (772 – 846) tự là Lạc Thiên, hiệu Hương Sơn, là nhà thơ hiện thực nổi tiếng của Trung Quốc
thời Trung Đường. Ông đã từng thi đỗ Tiến sĩ, ra làm quan đến chức Thượng thư bộ Hình. Nhưng con
đường quan chức của ông cũng nhiều gập ghềnh, khi thăng khi giáng. Bạch Cư Dị là người thanh liêm,
chính trực, có tư tưởng tiến bộ, lại sống vào thời đại sau loạn An - Sử nên ông đã viết ra những bài thơ
chua chát, vạch trần tội ác của giai cấp thống trị và nói lên nỗi thống khổ của nhân dân. Bạch Cư Dị là
người sáng tác thơ nhiều nhất ở đời Đường, ông đã để lại khoảng 2800 bài thơ, trong đó, nổi tiếng nhất
là “Trường hận ca” (Bài ca trường hận) và “Tỳ bà hành” (Bài ca đàn tì bà), được coi là những kiệt tác của
thơ Đường.

Thơ Đường đặt cơ sở cho nghệ thuật, phong cách cho nền thi ca Trung Quốc các thời kỳ sau này. Thơ
Đường cũng có ảnh hưởng rất lớn đến thơ ca Việt Nam thời trung đại.

* Phú

Là hình thức văn học kết hợp văn xuôi và văn vần, lời văn gọt giũa công phu, câu trên đối với câu dưới.
Phú chủ yếu phát triển ở thời Tây Hán với những tên tuổi nổi tiếng: Giả Nghị, Tư Mã Tương Như.

* Từ

Ra đời vào cuối đời Đường, là một hình thức biến thể của thơ Đường. Từ là thơ được phổ vào những
điệu nhạc có sẵn. Vì vậy mà số câu, số chữ, âm điệu của từ tuỳ thuộc vào các điệu nhạc. Do đó các câu
thơ của từ dài ngắn không đều nhau, không bị ràng buộc bởi các quy tắc chặt chẽ như thơ Đường. Thời
nhà Tống, từ phát triển nhất với tên tuổi Tô Đông Pha (Tô Thức)

- Tô Thức (hay Tô Đông Pha) (1037 – 1101), tự Tử Chiêm, khi ở ẩn xưng là Đông Pha cư sĩ nên thường gọi
là Tô Đông Pha, người Mi Sơn, Tứ Xuyên. Cùng với cha là Tô Tuân, em là Tô Triệt được gọi là “Tam Tô” và
được liệt vào hàng: “Tám nhà văn lớn thời Đường - Tống”. Ông là một học giả uyên bác, thi đỗ tiến sĩ
năm 21 tuổi, từng làm tri châu ở nhiều địa phương, nhưng do chính kiến khác với tể tướng Vương An
Thạch nên hay bị bài xích, giáng chức. Ông mất ở Thường Châu, để lại khoảng 4000 bài thơ, hơn 300 bài
từ và nhiều bài văn xuôi có giá trị. Tiêu biểu: “Vườn họ Lý”, “Ly Sơn”, “Thuỷ điệu ca đầu”, “Uống rượu ở
Tây Hồ”.

* Kịch

Hình thức văn học tiêu biểu nhất thời Nguyên, các nhà biên kịch đã sáng tác được khoảng 500 kịch bản,
lưu truyền đến nay chỉ còn hơn 100 vở. Những tác giả tiêu biểu: Quan Hán Khanh với tác phẩm “Đậu
Nga oan” (Nỗi oan của nàng Đậu Nga), “Bái nguyệt đình” (Nhà đón trăng)…; Vương Thực Phủ với tác
phẩm “Tây sương ký” (Mái tây)

Quan Hán Khanh (1229? – 1307?), chưa rõ tên thật, hiệu là Dĩ Trai (còn có hiệu là Nhất Trai), người Đại
Đô (nay là Bắc Kinh). Ông đã soạn 63 vở tạp kịch, nay chỉ còn 13 vở là có đủ lời hát và nhạc khúc. Nổi
tiếng là Đậu Nga Oan, Cứu phong trần, Bái nguyệt đình, Đơn đao hội…

Vở kịch Đậu Nga Oan tố cáo gay gắt chế độ chính trị đen tối đương thời (đời Nguyên), không đảm bảo
quyền sống của con người, ca ngợi tinh thần phản kháng của nhân dân, đồng thời thể hiện niềm tin của
quần chúng vào sự thắng lợi của công lý.

Vương Thực Phủ (thế kỷ XIII) đời Nguyên, tên Đức Tín, người Đại Đô (Bắc Kinh nay), ông viết đến 40 vở
tạp kịch, đến nay chỉ còn lại ba vở: Tây Sương Ký, Phá dao ký, Lệ Xuân đường. Trong đó, Tây Sương Ký là
vở kịch thành công nhất của Vương Thực Phủ, là vở tạp kịch dài nhất đời Nguyên (gồm 5 phần, mỗi phần
4 chương, mỗi chương 4 màn).

Vở kịch kể về cuộc tình duyên của Thôi Oanh Oanh (tiểu thư xinh đẹp, con một vị tướng quốc) với một
hàn sĩ là Trương Quân Thuỵ. Khi tướng quốc chết, hai mẹ con Thôi Oanh Oanh về quê, vì gặp hoạn nạn,
nên tạm lánh ở chùa Phổ Cứu. Trương Quân Thuỵ, một thư sinh nghèo đến vãn cảnh chùa, gặp Oanh
Oanh, say mê trước sắc đẹp của nàng, Trương Sinh tìm cách trọ lại chùa. Đêm đến, chàng ngâm thơ tình,
Oanh Oanh hoạ lại. Tôn Phi Hổ, thủ lĩnh toán giặc cướp, vây chùa đòi lấy Oanh Oanh. Thôi phu nhân
tuyên bố ai giải vây được chùa sẽ gả con gái cho. Trương Sinh viết thư nhờ tướng quân Đỗ Xác ở gần Bồ
Thành, là người bạn cũ, đến giải vây, bắt được tướng giặc Tôn Phi Hổ. Nhưng sau khi thoát nạn, Thôi phu
nhân thất hứa, nói đã gả Oanh Oanh cho cháu mình là Trịnh Hằng và cho phép Oanh Oanh nhận Trương
Sinh là anh. Trương Sinh và Oanh Oanh đều đau khổ. Chiều tối, Trương Sinh ôm đàn gảy khúc tự tình, tỏ
nỗi lòng với Oanh Oanh. Oanh Oanh đến bên cửa sổ nghe Trương Sinh gảy đàn vô cùng cảm động.
Trương Sinh đau khổ sinh ốm tương tư, Oanh Oanh cũng rất khổ não. Hồng Nương là đầy tớ gái của
Oanh Oanh trở thành cầu nối giữa hai người. Từ đó hai người bí mật đi lại với nhau như vợ chồng.
Chuyện vỡ lỡ, trước lý lẽ phải trái của Hồng Nương, Thôi phu nhân đành tác thành cho đôi trẻ, nhưng
bắt Trương Sinh phải vào kinh thi hội, đỗ mới cho kết hôn. Trương Sinh đỗ trạng nguyên, được giữ lại
làm quan ở triều đình. Oanh Oanh vui mừng khôn xiết, nhưng Trịnh Hằng đến chơi với Thôi phu nhân
phao tin bậy là Trương Sinh đã lấy vợ khác ở Kinh Thành. Thôi phu nhân tin là thật, định gả Oanh Oanh
cho Trịnh Hằng. Trương Sinh về kịp, phải nhờ tướng quân Đỗ Xác phân giải. Đỗ Tướng quân mắng Trịnh
Hằng, doạ tố cáo hắn tội cướp vợ người, Trịnh Hằng sợ hãi, đập đầu vào cây tự tử. Đỗ Tướng quân làm
chủ hôn cho Oanh Oanh và Trương Sinh.

Vở kịch phản ánh nguyện vọng tự do yêu đương và tự do kết hôn của thanh niên man mữ dưới chế độ
phong kiến hà khắc, bắt buộc phải “môn đăng hộ đối” và “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”[4]

* Tiểu thuyết Minh – Thanh

Là thể loại văn học bắt đầu xuất hiện và phát triển nhất ở thời Minh – Thanh. Được hình thành dựa trên
cơ sở những câu chuyện kể rong, sau đó được các nhà văn tập hợp lại viết thành tiểu thuyết có chương,
có hồi. Những tác phẩm nổi tiếng như: Thuỷ Hử (Thi Nại Am), Tam Quốc chí (La Quán Trung), Tây Du Ký
(Ngô Thừa Ân), Nho lâm ngoại sử (Ngô Kính Tử), Hồng Lâu Mộng (Tào Tuyết Cần)

- Thi Nại Am – “Thủy Hử”

Thi Nại Am (1296? – 1370?) tự là Nhĩ, hiệu là Tử An, sống ở cuối đời Nguyên đầu đời Minh, quê ở Giang
Tô. Đã từng ra làm quan nhưng tính tình cương trực nên làm quan không được bao lâu.

“Thuỷ Hử” (còn có tên là “Giang hồ hảo khách truyện”) - (thuỷ là nước, hử là bến) – “câu chuyện bến
nước”, kể lại cuộc đấu tranh cách mạng - khởi nghĩa nông dân Lương Sơn Bạc do Tống Giang lãnh đạo
chống lại giai cấp thống trị đời Bắc Tống. Tư tưởng cơ bản trong tác phẩm là tư tưởng của nông dân
“thay trời hành đạo”. Thành công lớn nhất là tác giả đã sáng tạo ra những hình tượng anh hùng nông
dân sống mãi trong lòng nhân dân Trung Quốc.
Nguyên tác Thuỷ Hử của Thi Nại Am đã không còn. Bộ Thuỷ Hử ngày nay được lưu truyền là do Kim
Thánh Hán (đời Thanh) chỉnh lý lại gồm 71 hồi.

- La Quán Trung – “Tam quốc chí diễn nghĩa”

La Quán Trung tên La Bản, tự Quán Trung, sống cuối đời Nguyên, đầu đời Minh (khoảng 1328 – 1398).
Ngoài “Tam quốc chí diễn nghĩa”, ông còn viết tiểu thuyết khác: “Tuỳ Đường lưỡng triều chí truyện”,
“Tấn Đường ngũ đại sử diễn nghĩa”…nhưng những tiểu thuyết này không còn nguyên tác mà đã bị thay
đổi nhiều.

Tiểu thuyết “Tam quốc chí diễn nghĩa” được sáng tác dựa vào những dã sử, truyền thuyết, truyện kể dân
gian, thoại bản, tạp kịch đời Nguyên, có tham khảo bộ chính sử “Tam quốc chí” của Trần Thọ (đời Tấn),
“Tam quốc chí chú” của Bùi Tùng Chi (đời Nam - Bắc triều).

“Tam quốc chí diễn nghĩa” là bộ tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng của Trung Quốc, gồm 240 hồi, kể lại cuộc
chiến tranh kéo dài gần 100 năm (184 – 280) giữa các tập đoàn quân phiệt sau khi đàn áp cuộc khởi
nghĩa nông dân Khăn vàng năm 184, đến khi 3 tập đoàn phong kiến Nguỵ - Thục – Ngô thành lập Tam
quốc và cuối cùng là nhà Tần thống nhất lại Trung Quốc. Tác phẩm đã diễn tả rất sinh động những nhân
vật, những cuộc chiến tranh tàn khốc, những tai hoạ và nỗi thống khổ của nhân dân…Tác phẩm là một
bộ bách khoa về lịch sử, quân sự, về quan hệ xã hội…Tiểu thuyết Tam quốc chí diễn nghĩa về sau được
Mao Tôn Cương (đời Thanh) chỉnh lý còn 120 hồi và thêm lời bàn, hiện nay đang được lưu truyền.

- Ngô Thừa Ân – “Tây du ký”

Ngô Thừa Ân (1500 – 1583) - cuối đời Minh, tự Nhữ Trung, hiệu Xạ Dương sơn nhân, sinh ở Giang Tô.
Thuở nhỏ nổi tiếng văn hay chữ tốt, nhưng thi cử lận đận. Đến năm 45 tuổi mới đỗ Cống sinh (cử nhân).
Làm thừa lại ở huyện nhưng do tính tình ngạo mạn nên chẳng bao lâu từ quan. Sau đó đến Hàng Châu
sống bằng nghề viết văn. Ông viết Tây Du Ký năm 71 tuổi.

“Tây du ký” là bộ tiểu thuyết lãng mạn mang màu sắc thần thoại, kể lại chuyện Đường Tam Tạng (nhà sư
Trần Huyền Trang) cùng ba đồ đệ là Tôn Ngộ Không, Trư Bát Giới và Sa Tăng sang Tây Trúc (Ấn Độ) để
thỉnh kinh Phật. Sự tích Huyền Trang tây du đã được chính Huyền Trang ghi lại trong cuốn “Đại Đường
Tây Vực ký” (sự thực Huyền Trang đã một mình sang Ấn Độ xin kinh Phật, vượt qua 5 vạn dặm, qua 128
nước lớn nhỏ, đi về mất 17 năm – 629 đến 645). Câu chuyện có thật đó đã được thần thoại hoá và
truyền tụng rộng rãi trong dân gian. Ngô Thừa Ân đã dày công thu thập, và viết thành bộ “Tây du ký”
gồm 100 hồi.

“Tây du ký” đã thể hiện kín đáo tư tưởng bất mãn, căm giận hiện thực xã hội đen tối thời Minh. Tác giả
phê phán, đả kích, thậm chí lật nhào toàn bộ những thần tượng trong đời sống tinh thần của xã hội
phong kiến từ Ngọc Hoàng, Diêm Vương, Long Vương và đủ loại thần thánh, đến Nho giáo, đạo Giáo và
các thứ đạo đức phong kiến. Tây Du ký còn phản ánh lý tưởng tự do, bình đẳng cũng như tinh thần khắc
phục khó khăn, chiến thắng thiên tai địch hoạ của nhân dân và tầng lớp thị dân mới trỗi dậy thời bấy giờ,
dưới hình ảnh Tôn Ngộ Không.

Tây Du ký là tác phẩm lãng mạn mang tính chất thần thoại thành công nhất trong các tác phẩm cổ điển
Trung Quốc[5] (theo Những mẩu chuyện, tr 70 – 71)

- Ngô Kính Tử (tiểu thuyết gia lớn đời Thanh) và “Nho lâm ngoại sử”

Ngô Kính Tử (1701 – 1754), tên chữ là Mẫn Hiên, hiệu Lạp Dân, về già lại lấy hiệu Văn Mộc lão nhân,
người tỉnh An Huy. Ông xuất thân trong một giai đình có truyền thống khoa cử đỗ đạt, nhưng ông không
chịu đi thi và tiếp nhận cuộc sống nghèo khổ, nhưng cao ngạo chứ không chịu cúi gập đầu. Năm 49 tuổi,
ông viết xong “Chuyện làng Nho” (Nho lâm ngoại sử) nhưng 10 năm sau mới được khắc in.

“Nho lâm ngoại sử” là bộ tiểu thuyết “lịch sử không chính thức” (ngoại sử) của các nhà Nho, trình bày
những tấm gương phản diện và chính diện và các nhà Nho, trong đó chủ yếu nói đến sự đồi bại của chế
độ khoa cử và sự sụp đổ không cứu vãn được của phong hoá. Đây là một tác phẩm châm biếm nổi tiếng.

- Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc - đời Thanh với “Hồng Lâu Mộng”

Tào Tuyết Cần (1716? – 1763?), tên là Triêm, tự Mông Nguyên, xuất thân trong một gia đình quý tộc
người Hán, nhập Quốc tịch Mãn Châu, cha là quý tộc quan lại nhà Thanh nhưng đến đời vua Ung Chính
thì bị cách chức, từ đó gia cảnh sa sút, cuộc sống túng thiếu. Do đó, Hồng Lâu Mộng có thể xem là những
hồi ức của Tào Tuyết Cần về cuộc sống quý tộc đã tan vỡ.
Con đường khoa cử của Tào Tuyết Cần gặp nhiều lận đận dù ông có tài thơ văn. Ông luôn sống trong
cảnh bần hàn cô độc và bất đắc chí, nhận rõ sự mục nát và thói hư tật xấu của bọn vua quan phong kiến
Mãn Thanh.

Trong lịch sử văn học Trung Quốc, Hồng Lâu Mộng có một vị trí đặc biệt, người Trung Quốc say mê đọc
Hồng Lâu Mộng, “Khai đàm bất thuyết Hồng Lâu Mộng, Độc tận thi thư diệc uổng nhiên” (Mở miệng nói
chuyện mà không nói Hồng Lâu Mộng thì đọc hết cả thi thư cũng vô ích)

Hồng Lâu Mộng (giấc mộng lầu hồng, giấc mộng lầu son) gồm 120 hồi, nhưng Tào Tuyết Cần mới viết
xong 80 hồi đầu thì mất (ông viết 80 hồi đầu trong vòng 10 năm – “Xem ra chữ chữ toàn bằng huyết, cay
đắng mười năm khéo lạ lùng”, năm lần sửa chữa trong cảnh cùng khốn ốm đau, không tiền chạy thuốc,
ông đã mất trong cảnh đau khổ dồn dập đó). Hơn 20 năm sau Cao Ngạc đã viết tiếp 40 hồi sau, đến
khoảng 1792 – 1793 thì Hồng Lâu Mộng được in và lưu truyền khắp Trung Quốc.

Tác phẩm Hồng Lâu Mộng viết về câu chuyện hưng suy của một gia đình quý tộc phong kiến họ Giả và
câu chuyện tình giữa Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại Ngọc, nhưng qua đó đã vẽ nên bộ mặt xã hội phong kiến
Trung Quốc trong giai đoạn suy tàn. Bằng cách xây dựng cho hai nhân vật chính Giả Bảo Ngọc và Lâm Đại
Ngọc tính cách chống đối chế độ thi cử, chế độ quan trường, đạo đức và lễ giáo phong kiến, khát vọng
tự do và hạnh phúc…tác giả đã đánh trực tiếp và khá mạnh vào ý thức hệ của giai cấp phong kiến lúc bấy
giờ. Hồng Lâu Mộng được đánh giá là tác phẩm có giá trị nhất trong kho tàng văn học hiện thực cổ điển
Trung Quốc, đồng thời được coi là kiệt tác của nhân loại.

3. Sử học

Sử học ở Trung Quốc phát triển rất sớm và Trung Quốc có một kho tàng sử sách rất phong phú.

- Thời Thương, trong các tài liệu văn tự giáp cốt tìm được có chứa đựng một số tư liệu lịch sử quý giá, có
thể coi đó là mầm mống của việc chép sử.

- Ngay từ thời Tây Chu đã có những viên quan chuyên chép sử. Đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc đã xuất
hiện những bộ sử đầu tiên: sách “Xuân Thu”, “Tả truyện”, “Chiến Quốc sách”, “Lã Thị Xuân Thu”…
Quyển “Xuân Thu” của Khổng Tử biên soạn lại trên cơ sở quyển sử của nước Lỗ, là quyển sử do tư nhân
biên soạn sớm nhất ở Trung Quốc. Tác phẩm này ghi chép các sự kiện lịch sử trong 242 năm, từ năm 722
đến năm 481 TCN, ghi chép các sự kiện lớn về chính trị, quân sự, ngoại giao của 124 nước chư hầu.

Tự đánh giá về ảnh hưởng của sách Xuân Thu, Khổng Tử nói: “Kẻ hiểu ta là do sách Xuân Thu, kẻ lên án
ta cũng là do sách Xuân Thu”. Còn Tư Mã Thiên thì đánh giá rất cao giá trị của Xuân Thu: “Từ khi cái
nghĩa (tư tưởng) của sách Xuân Thu lưu hành, loạn thần tặc tử trong thiên hạ đều sợ hãi”. Đến thời Hán,
Xuân Thu được coi là một trong Ngũ kinh của nhà Nho.

- Thời Tây Hán, sử học Trung Quốc bắt đầu trở thành một lĩnh vực độc lập, mà người đặt nền móng đầu
tiên là Tư Mã Thiên. “Sử ký” của Tư Mã Thiên là bộ thông sử đầu tiên của Trung Quốc, ghi chép lại lịch
sử Trung Quốc gần 3000 năm từ thời Hoàng đế đến thời Hán Vũ đế.

Tư Mã Thiên (khoảng 145 – 86 TCN), tự là Tử Trường, sinh ra trong một gia đình có truyền thống làm
quan viết sử (tổ tiên ông từ đời Chu đã làm Thái sử, đến đời cha ông là Tư Mã Đàm làm Thái sử lệnh đời
nhà Hán). Năm 10 tuổi, Tư Mã Thiên đã học các sách cổ sử và thuộc lòng những bài văn thơ nổi tiếng.
Năm 20 tuổi, ông đi tham quan du lịch hầu khắp đất nước để lấy tài liệu viết sử. Khi trở về, ông được
Hán Vũ Đế phong cho làm Lang Trung, một chức quan nhỏ tháp tùng xa giá nhà vua trong các chuyến đi
công cán. Năm 108 TCN, ông được phong làm Thái sử lệnh thay cha ông đã mất. Từ đó, ông miệt mài
ngày đêm biên soạn Sử ký, thực hiện hoài bão lớn nhất của cha ông và cũng là mong ước duy nhất của
ông.

Năm 99 TCN, Tư Mã Thiên đã ca ngợi Lý Lăng, trái với ý vua Hán Vũ Đế nên bị khép tội khi quân và trở
thành thái giám. Phẫn uất và xấu hổ, ông đã tính đến tự vẫn, nhưng vì việc biên soạn bộ Sử ký chưa xong
nên ông đành gượng sống.

Sử ký của Tư Mã Thiên là bộ thông sử đồ sộ theo kiểu bách khoa toàn thư trải suốt 3000 năm lịch sử từ
thời Hoàng đế đến Hán Vũ Đế, gồm 526.500 chữ chia làm 130 chương, gồm: 12 bản kỷ (sự tích các vua),
10 biểu (bảng tổng kết về niên đại), 8 thư (lịch sử các chế độ, các ngành riêng biệt như lễ, nhạc, kinh
tế…), 30 thế gia (lịch sử các quý tộc chư hầu, những người có danh vọng), 70 liệt truyện (truyện các nhân
vật lịch sử). Sử ký đề cập đến các mặt chính trị, kinh tế, quân sự, chế độ điển chương, học thuật, văn
hoá, y dược, bói toán, hoạt động của các nhân vật thuộc mọi tầng lớp xã hội, thiên văn, địa lý, quan hệ
giữa các dân tộc, giao lưu với nước ngoài…đề xướng nhân nghĩa, chống bạo lực, chiến tranh, coi trọng
hoạt động sản xuất…
Tư Mã Thiên là người đầu tiên trong các sử gia trên thế giới ghi chép lịch sử bằng thể ký. Sử ký đã để lại
cho đời sau những tư liệu lịch sử hết sức có giá trị, đồng thời cũng là một kiệt tác văn học được Lỗ Tấn
ca ngợi là “Lời hát tuyệt vời của các sử gia, thiên Ly Tao không vần”. Sử ký của Tư Mã Thiên được xếp
vào hàng những tác phẩm đồ sộ, bất hủ của nhân loại.[6]

Bên cạnh “Sử ký” còn có một số bộ sử khác như: “Hán Thư” của Ban Cố, “Hậu Hán Thư” của Phạm Diệp,
“Tam Quốc chí” của Trần Thọ. Cùng với “Sử ký”, ba tác phẩm này được gọi là “Tiền tứ sử” (bốn bộ sử
trước)

- Thời Đường bắt đầu có cơ quan biên soạn lịch sử do nhà nước thành lập được gọi là sử quán, từ đó về
sau các bộ sử của các triều đại đều do nhà nước biên soạn.

- Đến thời Minh, Trung Quốc đã biên soạn được 24 bộ sử, sau thêm “Tân Nguyên sử” và “Thanh sử cảo”
thành 26 bộ sử.

Ngoài ra còn nhiều tác phẩm như “Sử thông” của Lưu Tri Cơ, “Thông điển” của Đỗ Hữu đời Đường, “Tư
trị thông giám” của Tư Mã Quang đời Tống…

“Sử thông” là tác phẩm viết về phương pháp biên soạn lịch sử sớm nhất của Trung Quốc, trong đó tác
giả bình luận tất cả các tác phẩm sử học đời trước về các mặt như phương pháp biên soạn, việc sử dụng
tư liệu, cách hành văn…

“Thông điển” là quyển sử đầu tiên viết về lịch sử từng lĩnh vực như kinh tế, chế độ thi cử, chức quan…từ
thời thượng cổ cho đến giữa thế kỷ VIII.

“Tư trị thông giám” là bộ sử biên niên rất lớn ghi chép lịch sử từ thời Chiến Quốc đến thời Ngũ Đại.

- Thời Minh – Thanh có nhiều bộ bách khoa toàn thư được biên soạn hết sức đồ sộ như: “Vĩnh Lạc đại
điển”, “Cổ kim đồ thư tập thành” và “Tứ khố toàn thư”…Trong đó có nhiều thành tựu về sử học.
“Vĩnh Lạc đại điển” do vua Minh Thành Tổ (niên hiệu Vĩnh Lạc) tổ chức biên soạn, đó là công trình tập
thể của hơn 2000 người làm việc trong 5 năm, gồm 11.095 tập, là bộ Bách khoa toàn thư rất lớn của
Trung Quốc, nhưng đến nay chỉ còn hơn 300 tập.

“Cổ kim đồ thư tập thành” biên soạn dưới thời Khang Hy (nhà Thanh) được chia thành 10.000 chương,
là bộ Bách khoa toàn thư lớn thứ hai sau Vĩnh Lạc đại điển.

“Tứ khố toàn thư” biên soạn dưới thời Càn Long đời Thanh, chia thành 36.000 tập, gồm 4 phần: Kinh
(sách kinh điển của Nho gia), Sử, Tử (tác phẩm của các học giả thời Chiến Quốc), Tập (văn, thơ, từ, khúc).
Tuy nhiên khi biên soạn, vua Thanh đã ra lệnh bỏ đi nhiều tác phẩm bị coi là không có lợi cho nhà Thanh,
đồng thời những tác phẩm được chọn vào cũng bị cắt xén và sửa chữa nên giá trị của bộ sách này cũng
bị hạn chế phần nào. (GV liên hệ: tác phẩm Việt sử lược, công trình tổng hợp về lịch sử - địa lý – chính trị
Đại Việt cuối thời Trần được tìm thấy trong bộ Tứ khố toàn thư)

Khoa học tự nhiên

a. Toán học

- Theo truyền thuyết, từ thời Hoàng Đế, người Trung Quốc đã biết phép đếm lấy 10 làm đơn vị.

- Thời Tây Hán, xuất hiện tác phẩm toán học đầu tiên: “Chu bễ toán kinh”. Trong tác phẩm này chứa
đựng rất nhiều kiến thức: lịch pháp, thiên văn, hình học, số học, đặc biệt đây là tác phẩm toán học sớm
nhất của Trung Quốc đã đề cập đến mối quan hệ giữa ba cạnh của tam giác vuông giống như định lý
Pitago.

- Thời Đông Hán có tác phẩm “Cửu chương toán thuật” nói về bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia,
phương pháp khai căn bậc hai, bậc ba, phương trình bậc 1, số âm, số dương, cách tính diện tích các hình,
thể tích các hình khối, diện tích xung quanh và thể tích hình cầu, quan hệ giữa ba cạnh của tam giác
vuông…
- Thời Nguỵ, Tấn, Nam Bắc triều: Lưu Huy và Tổ Xung Chi là hai nhà toán học nổi tiếng nhất. Lưu Huy đã
chú giải sách “Cửu chương toán thuật”, tìm được số π (số viên chu xuất) bằng tỉ số 3927 : 1250 = 3,1416.
Tổ Xung Chi là người sớm nhất thế giới tìm được số π rất chính xác gồm 7 số lẻ nằm giữa hai số
3,1415926 và 3,1415927.

- Thời Đường: nhà sư Nhất Hạnh đã nêu ra công thức phương trình bậc hai, Vương Hiếu Thông soạn
“Tập cổ toán kinh”, dùng phương trình bậc ba để giải quyết nhiều vấn đề toán học.

- Thời Tống, Nguyên, Minh lại càng có nhiều nhà toán học, tiêu biểu là Giả Hiến, Thẩm Quát đời Tống.
Giả Hiến đã tìm ra được phương pháp giải các phương trình bậc cao, Thẩm Quát đã nêu ra cách tính độ
dài của cung và dây cung khi đã biết đường kính của vòng tròn và chiều cao của dây cung. Thời kỳ Tống,
Nguyên, người Trung Quốc đã phát minh ra bàn tính, rất thuận lợi cho việc tính toán.

b. Thiên văn học và phép làm lịch

* Thiên văn học

- Theo truyền thuyết, từ thời Hoàng Đế, Nghiêu Thuấn, người Trung Quốc đã biết quan sát thiên văn.

- Thời Thương, tài liệu giáp cốt đã có chép về nhật thực và nguyệt thực, là những tài liệu sớm nhất thế
giới ghi chép về hiện tượng này.

- Sách Xuân Thu có chép trong vòng 242 năm có 37 lần nhật thực, nay chứng minh được 33 lần là hoàn
toàn chính xác. Sách Xuân Thu còn chép năm 613 TCN, “sao Bột nhập vào Bắc đẩu”. Đó là ghi chép về
sao chổi Halây sớm nhất trong lịch sử thế giới. Chu kỳ của sao chổi này là 76 năm, sau này người ta biết
được sao chổi Halây đã đi qua Trung Quốc 31 lần.

- Sách Hán thư là tài liệu ghi chép sớm nhất về điểm đen trong Mặt Trời: ngày Ất Mùi tháng 3 năm 28
TCN, “Mặt Trời hiện ra màu vàng, có điểm đen lớn như cục sắt hiện ra giữa Mặt Trời”
- Nhà thiên văn học nổi tiếng Trung Quốc là Trương Hành (78 – 139 TCN), người thời Đông Hán. Ông đã
biết được ánh sáng của Mặt Trăng là nhận của Mặt Trời, là người lần đầu tiên giải thích được rằng
nguyệt thực là do Mặt trăng nấp sau bóng của Trái Đất, trong tác phẩm “Linh hiến”, ông cho rằng vũ trụ
là vô hạn, sự vận hành của hành tinh nhanh hay chậm là do cự ly cách quả đất gần hay xa. Ông còn cho
rằng thiên thể hình cầu như vỏ quả trứng, trái đất như lòng đỏ, trên cơ sở ấy chế tạo mô hình thiên thể
dùng sức nước để chuyển động gọi là “hồn trương” hay “hồn thiên ghi”, khi mô hình này chuyển động
thì các vì sao trên đó cũng di chuyển.

Trương Hành còn chế tạo ra dụng cụ đo động đất đầu tiên trên thế giới gọi là “địa động nghi” có thể đo
một cách chính xác phương hướng của động đất.

* Lịch pháp

Trung Quốc sớm có lịch nhờ những hiểu biết thiên văn từ rất sớm.

- Theo truyền thuyết, thời Hoàng Đế đã có lịch chia một năm thành 12 tháng.

- Đời Thương, người Trung Quốc đã biết kết hợp giữa vòng quay của Mặt Trăng xung quanh Trái Đất với
vòng quay của Trái Đất xung quanh Mặt Trời để đặt ra lịch. Lịch này chia 1 năm thành 12 tháng, tháng đủ
có 30 ngày, tháng thiếu có 29 ngày, lúc đầu cứ 3 năm thêm 1 tháng nhuận hoặc 5 năm thêm 2 tháng
nhuận, sau đến giữa thời Xuân Thu thì cứ 19 năm thêm 7 tháng nhuận.

Lịch đời Thương lấy tháng 12 âm lịch làm tháng đầu năm, lịch đời Chu lấy tháng 11 âm lịch làm tháng
đầu năm.

- Đến thời Hán Vũ Đế, lịch Trung Quốc được cải cách gọi là lịch Thái sơ, lấy tháng giêng âm lịch làm tháng
đầu năm, về cơ bản loại lịch này được dùng cho đến ngày nay.

- Từ thời Xuân Thu người Trung Quốc đã biết chia 1 năm làm 4 mùa, 8 tiết là lập xuân, xuân phân, lập hạ,
hạ chí, lập thu, thu phân, lập đông, đông chí. Trên cơ sở ấy, lịch Thái sơ chia 1 năm thành 24 tiết, trong
đó có 12 trung khí và 12 tiết khí. Thường thì mỗi tháng có 1 trung khí, tháng nào không có trung khí thì
thành tháng nhuận.

- Người Trung Quốc xưa chia 1 đêm thành 12 giờ và dùng 12 địa chi để đặt tên giờ, mỗi giờ chia thành 8
khắc.

Người Trung Quốc dùng cái cọc gọi là “khuê” để đo bóng mặt trời, để xác định ngày hạ chí, đông chí. Để
đo thời gian, người Trung Quốc dùng “nhật quỹ”: là một cái đĩa tròn trên mặt có khắc 12 giờ và 96 khắc,
đặt nghiêng song song với bề mặt của đường xích đạo, ở giữa có một cái kim cắm theo hướng bắc nam,
khi mặt trời di chuyển thì bóng của kim cũng di chuyển trên mặt đĩa có khắc giờ.

Đến đời Chu, Trung Quốc đã phát minh ra “lậu hồ” (bình có lỗ rò) để đo thời gian. Lúc đầu lậu hồ chỉ có
một bình, dưới đáy có lỗ rò. Nước trong bình vơi đến đâu thì biết lúc đó giờ gì, về sau người ta xếp một
hệ thống 4 – 5 bình, nước từ bình trên cùng nhỏ dần xuống các bình dưới. Trong bình dưới cùng có một
cái phao gắn một thanh tre nhỏ trên đó có khắc giờ. Nước trong bình dâng lên thì thanh tre chỉ giờ cũng
dâng lên cao hơn miệng bình, có thể biết được giờ khắc. Cái bình này thường làm bằng đồng nên dụng
cụ đo thời gian này gọi là “đồng hồ trích lậu” (cái bình bằng đồng rò nước). Đến đầu thế kỷ XVII, đồng
hồ của phương Tây truyền vào Trung Quốc, từ đó loại đồng hồ nước mới không dùng nữa.

Năm 1276, một nhà nghiên cứu thiên văn học là Quách Thủ Kính đã chế tạo được một chiếc đồng hồ cơ
giới báo giờ bằng tiếng chuông, đặt ở điện Đại Minh trong Hoàng thành. Đồng hồ báo chuông của Quách
Thủ Kính ra đời sớm hơn đồng hồ báo chuông của châu Âu gần 400 năm.

Tuy nhiên, những dụng cụ đo thời gian nói trên chủ yếu được dùng ở nơi cung phủ, còn phần lớn dân
chúng Trung Quốc xưa tính giờ theo lối cổ truyền như căn cứ vào bóng nắng, độ di chuyển lên cao xuống
thấp của Mặt Trời, Mặt Trăng, tiếng gà gáy…

c. Y dược học

- Từ thời Chiến quốc, đã xuất hiện một tác phẩm y học nhan đề là “Hoàng đế nội kinh” nêu ra những vấn
đề về sinh lý, bệnh lý và nguyên tắc chữa bệnh như “chữa bệnh phải tìm tận gốc”, phải “tìm mầm mống
phát sinh” của bệnh.
- Cuối thời Đông Hán, Trương Trọng Cảnh đã soạn sách “Thương hàn tạp bệnh luận” chủ yếu nói về cách
chữa bệnh thương hàn, đến nay vẫn là một tài liệu tham khảo có giá trị trong ngành đông y của Trung
Quốc.

- Thầy thuốc nổi tiếng sớm nhất của Trung Quốc là Biển Thước, sống vào thời Chiến Quốc. Ông tên thật
là Trần Việt Nhân, biết chữa nhiều loại bệnh, được tôn sùng là người khởi xướng ngành mạch học ở
Trung Quốc.

Hoa Đà (? – 208) là thầy thuốc giỏi các khoa nội, ngoại, phụ, nhi và châm cứu, trong đó ngoại khoa là sở
trường. Hoa Đà đã phát minh ra phương pháp dùng rượu để gây mê trước khi mổ cho bệnh nhân, mổ
xong khâu lại, dùng cao dán lên chỗ mổ, gọi chung là trị bệnh bằng phẫu thuật. Về sau ông bị Tào Tháo
giết chết.

- Thời Minh, nhà y dược học nổi tiếng là Lý Thời Trân (1518 – 1593) với tác phẩm “Bản thảo cương mục”
trong đó ghi chép 1892 loại cây thuốc, phân loại, đặt tên, giới thiệu tính chất, công dụng và vẽ hình cây
thuốc đó. Đây không chỉ là một tác phẩm dược học có giá trị mà còn là một tác phẩm thực vật học quan
trọng.

5. Bốn phát minh lớn về kỹ thuật

GV giới thiệu, kết hợp phát vấn với SV.

Trung Quốc là quê hương của bốn phát minh lớn: kim chỉ nam, thuốc súng, giấy và kỹ thuật ấn loát (in
ấn).

a. Kỹ thuật làm giấy

- Từ thời Xuân Thu - Chiến Quốc, người Trung Quốc vẫn dùng thẻ tre, lụa để ghi chép, sớm hơn là dùng
xương thú, mai rùa, kim loại, đá.
- Đến thời Tây Hán, nhờ sự phát triển của nghề tơ tằm, người Trung Quốc đã chế tạo ra một loại giấy thô
sơ bằng vỏ kén con tằm, loại giấy này sần sùi, không phẳng, gai, chủ yếu dùng để gói hàng.

- Thời Đông Hán, năm 105, có một viên hoạn quan là Thái Luân đã phát minh ra việc chế tạo giấy có chất
lượng tốt bằng nguyên liệu như vỏ cây, lưới cũ, giẻ rách,…

Thái Luân dùng một thứ dung dịch (nước tro thảo mộc hoặc nước vôi) vị chua, làm cho nguyên liệu bớt
keo, trong hơn, dùng chổi đánh cho các thứ xơ tơi ra, tăng nhiệt độ chế hồ giấy cao hơn, do đó chất
lượng hồ giấy tốt hơn, mặt giấy làm ra đều, trơn, phẳng. Nguyên liệu chủ yếu là vỏ cây “chử” (cây dó)
sẵn có, sản phẩm làm ra tốt, nhiều, rẻ nên được sử dụng phổ biến.

Thái Luân được vua Hán phong tước “Long Đình hầu” và nhân dân gọi giấy của ông làm ra là “giấy Thái
hầu”, phong ông là ông tổ của nghề làm giấy.

Từ đó, kỹ thuật làm giấy của người Trung Quốc được cải tiến thành dây chuyền:

+ bước 1: làm tơi nguyên liệu bằng cách ngâm, dầm, hay nấu, làm cho hồ giấy tách khỏi chất keo, phân
tán thành xơ

+ bước 2: khuấy đảo làm cho xơ vụn ra thành hồ

+ bước 3: cho nước vào hồ thành dung dịch rồi bỏ lên sàng, sàng qua sàng lại cho hồ kết thành những
tấm mỏng ươn ướt nước

+ bước 4: sấy, phơi, nén, ép thành từng trang.

Cho đến ngày nay công nghệ chế tạo giấy không khác phương pháp của người Trung Quốc thời cổ bao
nhiêu.
- Từ thời Tây Tấn, kỹ thuật chế tạo giấy được truyền bá sang các nước láng giềng: Việt Nam, Triều Tiên,
Nhật Bản, Ấn Độ, Ả rập, rồi từ Ả Rậptruyền sang châu Â. Sau khi nghề làm giấy được truyền bá rộng rãi,
các chất liệu dùng để viết trước kia như lá cây ở Ấn Độ, giấy papyrút ở Ai Cập, da cừu ở châu Âu…đều bị
giấy thay thế. Kỹ thuật làm giấy được coi là cuộc cách mạng trong việc truyền bá chữ viết của nhân loại.

b. Kỹ thuật in

- Kỹ thuật in bắt nguồn từ việc khắc chữ trái trên các con dấu đã có từ đời Tần.

- Hiện nay chưa rõ kỹ thuật in chính xác ra đời từ bao giờ, chỉ biết rằng đến giữa thế kỷ VII (thời Đường)
đã có kỹ thuật in. Sử sách chép lúc bấy giờ nhà sư Huyền Trang đã cho in một số lượng lớn phổ hiền
tượng để phân phát bốn phương, như thế là chậm nhất lúc này Trung Quốc đã phát minh và ứng dụng
thuật in ấn. Năm 1966, ở Hàn Quốc phát hiện được kinh Đàlani in vào khoảng năm 704 – 751, đây là ấn
phẩm cổ nhất trên thế giới đã phát hiện được. Theo nghiên cứu thì kinh này khắc in ở Tây An, vì thuật in
ấn đã được phát minh từ thế kỷ VII ở Trung Quốc.

- Kỹ thuật in lúc đầu là bằng ván khắc, quá trình in đại thể như sau: chọn thứ gỗ chắc, thớ nhỏ, cưa
thành những tấm ván theo quy cách nhất định, trên đó khắc nổi chữ trái, hoặc hình vẽ trái, sau đó xoa
mực, đặt tờ giấy lên in. Kỹ thuật in ván khắc mất công, mất thời gian, nhưng công nghệ giản đơn, ít tốn,
lại có thể in đi in lại nhiều lần nên được dùng rất phổ biến.

- Đến thế kỷ XI, một người dân thường là Tất Thăng đã phát minh ra cách in chữ rời bằng đất sét nung.
Các con chữ được xếp lên một tấm sắt có phủ sáp, nhựa thông và tro giấy, xung quanh có khung sắt giữ
lại, xếp xong đem hơ nóng cho sáp chảy ra, dùng một tấm ván ép cho bằng mặt rồi để nguội. Như vậy
sáp đã giữ chặt lấy chữ và có thể đem in. In xong, lại hơ lửa cho tan chất hồ, gỡ chữ bỏ vào ô gỗ lúc đầu.
Công nghệ in chữ rời tương đối giản đơn, hiệu suất cao, sử dụng và bảo tồn chữ rời tiện lợi, không mất
công, mất thì giờ như in bản khắc, tốn gỗ, hiệu suất thấp, giữ gìn bản khắc phức tạp.

- Sau đó, Thẩm Quát đã thử dùng chữ gỗ thay thế chữ đất sét nung nhưng chưa có kết quả, đến thời
Nguyên, Vương Trinh mới cải tiến thành công việc dùng con chữ rời bằng gỗ.
- Từ thời Đường, kỹ thuật in ván khắc của Trung Quốc đã truyền sang Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam,
Philippin, Ả Rậprồi truyền sang châu Phi, châu Âu. Năm 1448, Guttenbéc (người Đức) đã dùng chữ rời
bằng hợp kim và dùng mực dầu để in kinh thánh, đặt cơ sở cho việc in chữ rời bằng kim loại ngày nay.

c. La bàn (kim chỉ nam)

- Từ thế kỷ III TCN, Trung Quốc đã biết được từ tính của đá nam châm, phát minh ra một dụng cụ chỉ
hướng gọi là “tư nam”: làm bằng sắt có từ thiên nhiên, mài thành hình cái thìa để trên một cái đĩa có
khắc các phương hướng, cán thìa sẽ chỉ hướng nam. Nhược điểm: sắt có từ thiên nhiên khó mài, gia
công phức tạp, dễ mất từ, lại nặng nề, lực ma sát lớn, chuyển động không nhạy, chỉ hướng không được
chính xác nên không được dùng phổ biến. Mặc dù vậy, tư nam vẫn được xem là tổ tiên của kim chỉ nam.

- Đến đời Tống, thế kỷ XI, người Trung Quốc đã phát minh ra kim nam châm nhân tạo. Họ dùng kim sắt,
mài mũi kim vào đá nam châm để thu từ tính rồi dùng kim đó để làm “la bàn”. Lúc đầu la bàn còn thô
sơ: xâu kim nam châm qua cọng rơm, sợi bấc đèn rồi thả trên bát nước gọi là “thuỷ la bàn”, hoặc treo
kim nam châm bằng một sợi tơ ở chỗ kín gió.

- La bàn chủ yếu được các thầy phong thuỷ sử dụng để xem hướng đất, đến cuối thời Bắc Tống thì được
sử dụng trong việc đi biển. Trước kia, người đi biển nhìn vào mặt trời, mặt trăng và các vì sao mà định
phương hướng. Gặp ngày mưa gió âm u, không thấy mặt trời, mặt trăng và các vì sao thì thường hay bị
lạc đường, va vào đá ngầm hoặc mắc cạn vào bãi cát nổi. Lúc đầu, kim chỉ nam được dùng để bổ trợ
cùng với việc xem thiên văn cho người đi biển (đêm xem sao, ngày xem mặt trời, lúc âm u xem kim chỉ
nam”. Từ Nam Tống trở về sau, kim chỉ nam trở thành nghi khí chỉ hướng chủ yếu của ngành hàng hải,
việc xem thiên văn trở thành bổ trợ.

Nhờ có kim chỉ nam, người đi biển vẽ được bản đồ hàng hải và làm sổ tay hàng hải. Ứng dụng kim chỉ
nam vào hàng hải làm cho kỹ thuật hàng hải cải tiến nhanh, mở một kỷ nguyên mới cho hàng hải nhân
loại. Đời Nam Tống và đời Nguyên, ngành hàng hải Trung Quốc phát triển rất cao, đầu đời Minh, Trịnh
Hoà đi thuyền xuống Tây Dương đều gắn liền với việc ứng dụng kim chỉ nam.

- Nửa sau thế kỷ XII, la bàn được truyền sang Ả Rậprồi sang châu Âu, người châu Âu cải tiến thành “la
bàn khô” tức là la bàn có khắc các vị trí cố định. Nửa sau thế kỷ XVI, la bàn khô lại truyền trở lại Trung
Quốc, dần dần thay thế la bàn nước.
d. Phát minh ra thuốc súng (thuốc nổ)

Thuốc nổ Trung Quốc gọi là “hoả dược” (thuốc lửa, hay thuốc phát ra lửa), thành phần cơ bản là lưu
huỳnh, diêm tiêu và than, ba thứ trộn lại thành thuốc nổ đen xưa nhất.

- Đây là phát minh hết sức ngẫu nhiên của các đạo sĩ thuộc phái Đạo gia. Khi luyện đan (tạo ra thuốc
trường sinh bất lão), nguyên liệu được sử dụng là lưu huỳnh, diêm tiêu và than gỗ, nhưng quá trình
luyện thường hay gây ra những vụ nổ, cháy nhà, bỏng tay, bỏng mặt…nên các thầy thuốc thường dùng
hoả dược để “trị ghẻ lở, sát trùng, chống phong thấp, ôn dịch”, các nhà luyện đan đã ghi lại kinh nghiệm
đó để người pha chế chú ý đề phòng.

- Cuối đời Đường, hoả dược được dùng làm vũ khí chiến tranh, nhưng lúc đầu chủ yếu người ta chỉ lợi
dụng tính năng dễ bén lửa của hoả dược để tăng hiệu lực hoả công trong chiến tranh để đốt doanh trại
của địch như hoả tiễn, hoả pháo (hoả tiễn là đầu mũi tên có buộc một bọc hoả dược, châm ngòi, dùng
cung nỏ bắn, còn hoả pháo là lấy hoả dược gói thành bao, châm ngòi, lấy máy ném đá bắn).

- Việc chế tạo thuốc súng phát triển mạnh vào thời Tống. Trong chiến tranh Tống – Kim thời Nam Tống,
quân Tống có dùng loại “chấn thiên lôi”, khi hoả dược nổ, tiếng to như sấm, sức nóng toả ra hơn nửa
mẫu đất, người và da bò nát vụn, không còn dấu vết, giáp sắt cũng thủng, tính năng bộc phá của hoả
dược đã tương đối lớn. Trần Quy đời Tống phát minh ra hoả khí hình ống (hoả thương) năm 1132: hoả
thương làm bằng ống tre to, hai người vác, lúc dùng, nạp hoả dược vào, lâm chiến thì đốt ngòi, ngọn lửa
phun ra thiêu cháy địch.

- Đầu thế kỷ XIV, đời Nguyên đã có “đồng hoả súng” (súng bằng đồng): bắn đạn đá, nạp hoả dược vào
thân súng, cuối súng có ngòi, châm ngòi thì bắn đạn đá ra.

- Đến thế kỷ XIII, thuốc súng được truyền sang châu Âu thông qua người Ả Rập(người Mông Cổ trong
quá trình tấn công Trung Quốc đã học tập được cách làm thuốc súng của người Trung Quốc, sau đó họ
chinh phục Tây Á, truyền kỹ thuật làm thuốc súng cho người Ả rập, người Ả Rậplại truyền thuốc súng và
súng vào châu Âu qua Tây Ban Nha).
→ Những phát minh trên đã làm thay đổi toàn bộ bộ mặt thế giới. Nghề in, nghề làm giấy đã góp phần
thay đổi trên bình diện văn học, thuốc súng thay đổi trên bình diện kỹ thuật quân sự, la bàn thay đổi
trên bình diện hàng hải. Từ đó dẫn đến sự thay đổi trên các lĩnh vực khác. Đây là những phát minh có ý
nghĩa toàn nhân loại.

Các Mác đã từng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát minh và ứng dụng các kỹ thuật chế tạo thuốc
súng, làm kim chỉ nam và kỹ thuật ấn loát đối với sự ra đời của xã hội tư bản: “ba đại phát minh dự báo
xã hội tư bản đến gần, thuốc nổ phá tan giai tầng kỵ sĩ, còn thuật in ấn thì trở thành công cụ của Tân
giáo, tóm lại biến thành phương tiện phục hưng khoa học, biến thành đòn bẩy mạnh mẽ vô cùng, tiền đề
tất yếu để phát triển tinh thần” (dẫn theo) [7]. Nhưng ở Trung Quốc, những phát minh này đã không
được sử dụng vào những mục đích khoa học. Lỗ Tấn đã phê phán: “Người nước ngoài sử dụng kỹ thuật
làm giấy và ấn loát để phát triển văn hoá khoa học, còn người Trung Quốc thì dùng giấy và kỹ thuật in ấn
để sản xuất kinh sách; người nước ngoài dùng chất cháy nổ làm đạn dược để chống quân thù, còn người
Trung Quốc thì chủ yếu lại dùng nó để cúng lễ thần linh, trừ tà ma; người nước ngoài dùng kim chỉ nam
để phát triển ngành hàng hải, còn người Trung Quốc thì chủ yếu lại dùng nó vào việc xem đất cát đặt mồ
mả theo thuật phong thuỷ”[8]

6. Triết học, tư tưởng, tôn giáo

Ở Trung Quốc, triết học, tư tưởng, tôn giáo nhiều khi lồng vào nhau. GV chọn vấn đề Nho giáo để giảng
dạy, những vấn đề khác giới thiệu nét tiêu biểu.

a. Âm dương – Bát quái – Ngũ hành – Âm dương gia

Âm dương, bát quái, ngũ hành là những thuyết mà người Trung Quốc nêu ra từ thời cổ đại nhằm giải
thích nguồn gốc của vạn vật.

- Âm dương: người Trung Quốc cho rằng trong vũ trụ có 2 yếu tố cơ bản tồn tại dưới dạng khí là âm và
dương. Dương có các tính chất: giống đực, ánh sáng, nóng, hoạt động, rắn rỏi…Âm có các tính chất
ngược lại: giống cái, bóng tối, lạnh, đứng yên, mềm mỏng. Âm và dương luôn tác động và chuyển hoá
cho nhau. Âm dương tương phản nhưng không tương khắc, trong âm có dương, trong dương có âm. Âm
dương được gọi là lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh ra tứ tượng (bốn mùa), tứ tượng sinh ra bát quái.
Trong vũ trụ: Mặt trời là dương, mặt trăng là âm, ban ngày Mặt Trời mọc, ban đêm mặt trăng thay thế,
tạo nên ngày và đêm. (Nhật vãn tắc Nguyệt lai, Nguyệt vãn tắc Nhật lai).

Bốn mùa (tứ tượng): cũng là do sự vận hành của âm dương mà ra.

Trong cơ thể con người, máu từ tim chảy ra là máu đỏ (dương), máu về tim: máu đen (âm).

Trong toán học: âm (chẵn), dương: lẻ

Trong quan niệm sống chết: âm: cõi chết, dương: dương thế → người sống thường kiêng số chẵn.

Âm dương bổ trợ cho nhau để cùng tồn tại: tất cả vạn vật biến hoá trong vũ trụ do âm dương không diệt
nhau mà bổ trợ cho nhau tạo nên sự vận hành vận động của thế giới vật chất (nắng – dương, mưa – âm,
kết hợp làm cho cây cối tốt tươi, vạn vật sinh sôi nảy nở). Âm dương gặp nhau sinh ra vạn vật: “Nhị khí
giao cảm hoá sinh vạn vật” (Lão Tử), “vạn vật đều cõng âm và dương”

- Bát quái: là 8 quẻ: Càn, Khôn, Chấn, Tốn, Khảm, Ly, Cấn, Đoài tượng trưng cho 8 yếu tố vật chất tạo
thành thế giới.

Càn: Trời, Khôn: đất, Chấn: sấm, Tốn: gió, Khảm: nước, Ly: lửa, Cấn: núi, Đoài: hồ. Trong bát quái, hai
quẻ Càn, Khôn là quan trọng nhất.

Trong quan hệ gia đình: Càn: cha, Khôn: mẹ, Chấn: con trai cả, Tốn: con trai giữa, Khảm: con trai út, Ly:
con gái cả, Cấn: con gái giữa, Đoàn: con gái út.

Thuyết bát quái chứa đựng tính chất duy vật và biện chứng (coi 8 yếu tố vật chất cấu tạo nên vũ trụ, cho
rằng sự vật luôn phát triển), tuy nhiên vẫn có nhiều yếu tố duy tâm, thiếu cơ sở khoa học, thường được
dùng trong việc bói toán.
- Ngũ hành: 5 yếu t

You might also like