Professional Documents
Culture Documents
Gồm toàn bộ thế giới ngoài châu Âu: mang ý nghĩa tương đối, không có thuần túy xác
định về phương hướng, nghĩa là gồm các nước ngoài châu Âu (Á, Phi, Mỹ La tinh) và
không có Bắc Mỹ (Mỹ, Canada) vì theo cách nhìn nhận của phương Tây thì phương
Tây là khu vực có chủ nghĩa tư bản phát triển
Phương Đông là một khu vực chính trị theo quan điểm của giai cấp tư sản, bị phương
Tây xâm lược, cai trị. Phong trào giải phóng dân tộc đã nổ ra mạnh mẽ ở phương
Đông và nhiều quốc gia đã giành được độc lập, xây dựng đất nước, phục hưng dân tộc
sau đại chiến thế giới lần 2 (Á, Phi, MLT) gọi là thế giới thứ 3
<dưới con mắt của các học giả tư sản phương Tây>
Mang tính tương đối
CÂU 2: Trình bày tiêu chí phân biệt phương Đông (và phương Tây)
Địa-lịch sử:
Trong quá trình tồn tại và phát triển giữa phương Đông và phương Tây đã có
những mối quan hệ về lịch sử như chiến tranh xâm lược giữa các nước Tây và Nam
Âu với các nước phương Đông. Có khi đó là phương Tây xâm lược phương Đông
như cuộc chiến tranh giữa Ba Tư và Hi Lạp, cũng có thể là phương Đông xâm lược
phương Tây như chiến tranh giữa đế quốc Nguyên Mông với các nước phương
Tây.
Ngoài ra, tiêu chí địa-lịch sử còn thể hiện trong các hoạt động buôn bán, truyền
giáo và đến cai trị
Địa- văn hóa:
Phương Tây có quan niệm văn hóa và lối sống khác so với phương Đông (tôn giáo,
Nho giáo, Do Thái, Hồi giáo).
Đồng thời phương Đông là xứ sở của nhiều tôn giáo như các nước Ấn Độ, Ả Rập
hay người Do Thái.
Đây cũng là xứ sở của cơ cấu xã hội, thiết chế chính trị mang tính đặc thù. Họ lấy
quan hệ gia đình làm nền tảng,cơ sở sinh hoạt cộng đồng, làng xã, ứng xử trong
quan hệ khác với phương Tây.
o Phương Đông:
kinh tế làng xã khép kín tự cấp, tự túc
lối sống vì cộng đồng tập thể
trọng tình cảm, nghĩa tình
o Phương Tây:
kinh tế du mục, giao lưu
lối sống cá nhân, thực dụng
trọng lý trí
Địa-chính trị:
Như một hệ quả tất yếu, phương Đông là nơi xuất hiện nhiều nền văn minh lớn nhất
của nhân loại như văn minh Ấn Độ, Ai Cập, Trung Quốc, Lưỡng Hà, A Rập…và đã
lan tỏa sang phương Tây. Vai trò trung gian truyền bá văn hóa của người Ai Cập,
Mông Cổ…
Từ thế kỷ 15-17 phương Tây bước sang giai đoạn TBCN, văn minh công nghiệp.
Trong khi đó phương Đông vẫn nằm trong tình trạng phong kiến lạc hậu. Sau đó,
nhiều quốc gia phương Đông lần lượt bị các cường quốc phương Tây chinh phục.
Sau đại chiến thế giới lần II, phương Đông phát triển khá mạnh mẽ song vẫn còn
thua kém phương Tây và mối quan hệ vẫn còn mang tính bất bình đằng giữa phương
Đông và phương Tây
CÂU 3: Lịch sử các quốc gia phương Đông cổ đại tiêu biểu?
Ai Cập:
Lưỡng Hà:
Ấn Độ:
Trung Quốc:
- Tam hoàng ngũ đế: Phục Hy- Nữ Oa- Thần Nông, Hoàng đế-Cao Dương-Nghiêu-
Thuấn-Vũ
- Lịch sử NN cổ đại: vm Hoa-Hạ (tnk 3 TCN)
o Hạ, Thương, Chu (Tây, Đông- Xuân Thu, Chiến Quốc)- 21,18,11 (8,5-3)
o 221 Tần Thủy Hoàng thống nhất TQ
CÂU 4: Trình bày và phân tích thành tựu chủ yếu của phương Đông thời cổ đại
CÂU 5: Trình bày đặc điểm kinh tế-xã hội phương Đông cổ đại
Năm 1859 Các MÁc nêu ra khái niệm hình thái kinh tế- xã hội là social-economic,
được biểu hiện bởi công thức sau: tự nhiên-sức sản xuất-quan hệ xã hội-kiến trúc
thượng tầng
Hình thái kinh tế-xã họi phương Đông thời cổ đại bao gồm 5 đặc điểm:
1. Nhà nước được tổ chức theo chế độ quân chủ chuyên chế, đứng đầu là vua nắm giữ
quyền lực tối cao và còn được thần thành hóa. Dưới vua là một bộ máy quan lại từ
TW đến địa phương. Bên cạnh chính quyền còn có tang flowps thầy tu có nhiều
quyền hành như Balamon ở Ấn Độ và tăng lữ ở Ai Cập
Do những nội dung nêu trên, khi nhận xét về lịch sử phương đông cổ đại các nhà
sử học đều cho rằng đó là chế độ chiếm hữu nô lệ sơ kỳ ( tảo kỳ). Tuy nhiên cũng
có nhiều ý kiến không thỏa mãn với kết luận đó và cho rằng hình thái kinh tế- xã
hội phương Đông cổ đại là một hình thái đặc biệt có thể gọi đó là phương thức sản
xuất châu Á mà Mác đã đề xuất
2. ở phương Đông cổ đại nhà nước ra đời dựa trên cơ sở sức sản xuất phát triển chưa cao
lắm, công cụ sản xuất còn tương đối thô sơ. Nhìn chung các nhà nước trong thời kỳ
đồ đồng, đồ sắt xuất hiện tương đối muộn
3. nền kinh tế chiếm vị trí thống trị vẫn là kinh tế tự nhiên, trong đó chủ yếu là kinh tế
nông nghiệp, kinh tế hàng hóa kém phát triển. Ở nông thôn kinh tế nông nghiệp kết
hợp chặt chẽ với thủ công nghiệp, còn thành thị thủ công nghiệp chủ yếu phục vụ cho
giai cấp thống trị và hoạt độngt hương nghiệp cũng chủ yếu mang tính trao đổi với
bên ngoài, thủ công nghiệp và buôn bán phần lớn lệ thuộc vào nhà nước
4. ruộng đất hầu hết thuộc quyền sở hữu của nhà nước. Công xã nông thôn tồn tại lâu
dài, vững chắc và là các đơn vị kinh tế. Công xã nông thôn tuy không có quyền sở
hữu ruộng đất nhưng cso quyền phân phối ruộng đất cho các thành viên công xã, tổ
chức xây dựng công trình thủy lợi và phân cấp nguồn nước. sự tồn tại của công xã
nông thôn là điều kiện làm cho chế độ sở hữu ruộng đất cuẩ nhà nước phương Đông
thêm vững chắc
5. chế độ nô lệ kém phát triển và mang tính gia trưởng. kẻ chiếm hữu nô lệ là nhà nước,
quý tộc, quan lại. Nô lệ chủ yếu được sử dụng trong các việc phi sản xuất như hầu hạ,
phục dịch. Họ không có vai trò làm ra của cải vật chất. trong khi đó, nông dân chiếm
số lượng đông nhất và là người trực tiếp làm ra của cải vật chất nhưng cũng bị nhà
nước và quý tộc bóc lột nặng nề, đời sống khổ cực không khác gì nô lệ. Về điểm này
Mác đã nói: ở phương Đông đã tồn tại chế độ nô lệ phổ biến
CÂU 6: Trình bày quan hệ nô lệ và quan hệ công xã nông thôn phương Đông cổ đại
CÂU 7: Trình bày đặc điểm phong kiến phương Đông và so sánh với phương Tây
Trung Quốc:
- Ruộng đất thuộc quyền quản lý của nhà nước, được gọi là công điền (quân
điền)
- Nhà nước tập trung lại ban cấp cho quan lại, quý tộc làm bổng lộc hoặc chia
cho nông dân cày cấy để thu tô thuế. Chế độ công điền xuất hiện đầu tiên ở
Trung Quốc vào năm 485 đời vua Hiếu Văn Đế triều Bắc Ngụy và tồn tại khá
phổ biến ở Trung Quốc dưới các triều Nam-Bắc triều, Tùy, Đường
- Đặc điểm chung của chế độ quân điển:
Nhà nước đem ruộng đất cho nông dân cày cấy. Chẳng hạn, thời Bắc Ngụy nam
giới 15 tuổi trở lên được cấp 40 mẫu ruộng trồng lúa (lộ điền), 20 mẫu để trồng
dâu; nữ giới được cấp 20 mẫu để trồng lúa. Nô tỳ cũng được cấp đất như người tự
do. Bò cày được cấp mỗi con tương úng với 30 mẫu
Thời Đường quy định đàn ông từ 18 tuổi trở lên được cấp 80 mẫu trồng lúa gọi là
ruộng khẩu phần và 20 mẫu trồng dâu gọi là ruộng vĩnh nghiệp. Người già, người
tàn tật, ốm yếu được cấp 40 mẫu ruộng khẩu phần, góa phụ được cấp 30 mẫu.
Các quan lại tùy theo chức vụ được cấp đất làm bổng lộc. Thời Bắc Ngụy, cấp thấp
nhất được cấp 6 khoảnh (mỗi khoảnh 100 mẫu), cao nhất 15 khoảnh. Thời Đường
cũng tùy vào chức tước, địa vị để cấp đất. Chẳng hạn, ruộng vĩnh nghiệp cấp cho
quý tộc được phong tước và quan ngũ phẩm trở lên được là ít nhất 5 khoảnh, nhiều
là 100 khoảnh. Ruộng thưởng công cấp ít nhất là 60 mẫu, nhiều là 30 khoảnh.
Ruộng chức vụ ít là 60 mẫu, nhiều là 12 khoảnh
Ruộng trông lúa đến 60 tuổi phải trả cho nhà nước. Còn ruộng trồng dâu, ruộng
vĩnh nghiệp được truyền cho con cháu. Ruộng chức vụ khi thôi chức phải giao lại
cho người kế nhiệm. Ruộng ban thưởng cho quý tộc, quan lại được tự do buôn bán.
Ruộng cấp cho nông dân không được chuyển nhượng
Nông dân phải chịu nghĩa vụ ngang nhau về thuế và lao dịch. Đến thời Tùy, Đường
nghĩa vụ đó được quy định thành 3 loại gọi là :
Tô: thuế đánh vào ruộng lúa, nộp bằng thóc
Dung: thuế hiện vật thay cho nhiệm vụ lao dich, nộp bằng lúa
Điệu: thuế đánh vào đất trồng dâu, nộp bằng lúa
- Ruộng tư nhân:
Cuối đời Đường chế độ quân điền không còn nữa. Ruộng đất từ nhà Tống trở về
sau ngày càng thu hẹp. Các quan lại được ban cấp ruộng đất đã lập đồn điền, điền
trang gọi là quan trang, tỉnh trang
Từ thời Chiến Quốc, ruộng đất tư nhân xuất hiện, phần lớn tập trung trong tay địa
chủ. Chẳng hạn, Trương Vũ thời Tây Hán có 400 khoảnh ruộng, Lương Kỳ chiếm
vùng đất 1000 dặm. thời Đường, Lý Tịch được ban 1000 khoảnh. Đời Minh, Ngụy
Trung Hiền được cấp 10k khoảnh, Phúc Vương 20k khoảnh. Đời Nguyên quý tộc
chiếm nhiều ruộng đất 20k khoảnh.
Trong các điền trang trồng các loại ngũ cốc, dâu, đay, cây ăn quả; có ao cá, bãi
chăn nuôi; có nghề nuôi tằm, dệt lụa, dệt vải, nhuộm, may, chế tạo vũ khí
Người lao động trong điền trang từ thời Hán đến Nam- Bắc Triều goi là điền khách,
bộ khúc, nô tỳ
Thời Nguyên Phật giáo Lạt Ma phát triển, nhiều chùa được ban cấp nhiều ruộng
đất 325k khoảnh và có nhà sư có khoảng 20k khoảnh
Ấn Độ:
- Từ thời Gúp-ta (320-500) quyền sở hữu ruộng đất thuộc về nhà nước. Các quan
lại được cấp ruộng đất để làm bổng lộc. Các đền chùa Phật giáo và Balamon
giáo cũng được nhận nhiều ruộng đất. Thời Hác-xa có 2 loại: có thời hạn và
vĩnh viễn
Loại có thời hạn gọi là patta phong cho các quan lại nhà nước và chỉ được sd
trong thời kỳ còn đang chức vụ, không được cha truyền con nối
Loại ban cấp vĩnh viễn gọi là Grax cho đền chùa, tăng lữ được sd vĩnh viễn,
không chịu một nghĩa vụ nào và có toàn quyền sử dụng, thu tô, thuế trên ruộng
đất của mình. Thậm chí còn có quyền xử án nông dân lệ thuộc mình trong các
trường hợp trộm căp, dối lừa
Hiện tượng mua bán ruộng đất cũng trở nên phổ biến ở Ấn Độ
- Về xã hội gồm lãnh chúa phong kiến và nông dân lệ thuộc lãnh chúa gồm
Barama, tăng lữ Phật giáo, quý tộc, võ sĩ. Trong đó, Barama có nhiều đặc
quyền đặc lợi nhất
- Giai cấp nông dân là Vaisia, nô lệ là Sudra. Hình thức bóc lột là tô, sản vật là ½
hoặc ¼ số hoa lợi thu hoạch. Ngoài ra, họ phải làm lao dịch như xd cung điện,
các công trình thủy lợi
- Đến thời kỳ Mô-gôn (1526-1857) chế độ ruộng đất có sự thay đổi, thuế được
tính bằng 1/6 – 1/3 sô hoa lợi thu hoạch được. Đến năm 1574 thay thế hiện vật
bằng tiền
Việt Nam:
- Nhà Lê: ban cấp cho quan lại cao cấp gọi là lộc điền, giao cho địa phương cày
cấy gọi là quân điền, một phần nhà nước quản lý gọi là ruộng quốc khố và đồn
điền. VD: Nguyễn Chích- 100 mẫu, Nguyễn Công Duẩn- 470 mẫu, Nguyễn Xí,
Đinh Liệt-350 mẫu
- Ruộng quân điền là ruộng công. Luật Hồng Đức quy định mọi người dân trong
xã thôn đều được hưởng chế độ quân điền với thời hạn 6 năm 1 lần cấp. Người
được cấp chỉ có quyền chiếm giữ để cày cấy, không có quyền nhượng bán
- Ngoài 2 hình thức trên thời Lê Sơ ruộng đất tư cũng phát triển mạnh. Sự phát
triển của ruộng đất tư luôn gắn với sự mua bán, chuyển nhượng, thừa kế và
tranh chấp ruộng đất. Có hai loại mua bán là bán đợ và bán đứt. Bán đợ là khi
nào có tiền thì chuộc lại, thời gian chuộc lại là 20 đến 30 năm. Bán đứt là người
chủ cũ hoàn toàn không có quyền gì đối với ruộng đất đã bán
Triều Tiên:
- Vương triều Tân La (676-936) thi hành chế độ đinh điền để cấp khẩu phần cho
nông dân và thu tô, dung, điệu
- Đến thời Koryo nhà nước ban hành chính sách ruộng đất mới gọi là điền sài
khoa. Tức là thống kê toàn bộ ruộng đất trong nước rồi chia cho quan văn võ
theo phẩm hàm
- Thời kỳ Choson năm 1391 nhà Lý ban hành chế độ ruộng đất mới gọi là khoa
điền pháp. Tức là cấp cho công chức theo 18 thứ hạng và quy định chỉ có vùng
đất tại kinh đô Kyonggi nhằm hạn chế sự chiếm đất đai của quý tộc địa phương.
Binh lính được cấp ruộng đất ở các địa phương gọi là quân điền. Ruộng đất còn
lại do nhà nước quản lý giao cho nông dân cày cấy để thu tô thuế
Nhật Bản:
- Sau cuộc cải cách Taika, NB bước vào giai đoạn PK xóa bỏ sở hữu ruộng đất tư
nhân chuyển thành quyền sở hữu ruộng đất nhà nước, cư dân trở thành thần dân
của nhà nước. Đông thời, nhà nước ban hành chế độ ban điền (chia ruộng), nam
giới từ 6 tuổi trở lên được cấp 12 ha, nữ giới bằng 2/3 nam. Thuế cho nông
nghiệp 3% tổng thu hoạch với mức dưới 1 mẫu và trên 25% có số ruộng trên 1
mẫu
- Nắm quyền lực cao nhất là Thiên hoàng, dưới là các cơ quan quản lý như Nội
chính, Tư pháp, Quân sự, Kinh tế tài chính. Dưới vua là bộ máy triều đình được
tổ chức thành Đại Hội đồng nhà nước do tể tướng đứng đầu và có 8 bộ gồm bộ
TW, Lại, Hộ, Binh, Hình, Ngân khố, Cung vua
- Bước sang thời kỳ Hayan chế độ ban điền tan rã, chế độ trang viên phong kiến
ra đời và phát triển trên cơ sở sự ra đời của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất.
Từ thế kỷ X ruộng đất của lãnh chúa có thế lực được miễn thuế. Điều này đã
dẫn tới mâu thuẫn với lợi ích nhà nước. Để hạn chế trang viên, Thiên hoàng đã
ban lệnh lập các Kỳ lục sở kiểm tra và thu hồi đất và thuế cho nhà nước. Tuy
nhiên, hiệu lực của nhà nước cũng không mạnh, các chúa PK còn lập các lực
lượng võ sĩ Samurai
- Trên cơ sở đó, quan hệ thái ấp cũng xuất hiện, võ sĩ phải dâng trọn đời mình
cho sự hưng vong của đoàn thể võ sĩ
- Thời kỳ Mạc phủ Tô-cư-ga-oa: xh có 4 đẳng cấp: võ sĩ, nông dân, thợ thủ công
và thương nhân
- Võ sĩ thời Tô-cư-ga-oa bao gồm hầu hết giai cấp phong kiến chia làm nhiều thứ
bậc khác nhau. Thứ nhât là tướng quân có nhiều ruộng đất (khoảng 1/3 ruộng
đất của cả nước), sau đó là các Daimyo (lãnh chúa đại danh), nông dân là lực
lượng đông đảo nhất chiếm 80% và bị bóc lột nặng nề, đời sống vô cùng khổ
cực
- Từ thế kỷ 18, do kinh tế phát triển địa vị thương nhân dần thay đổi, nhiều võ sĩ
muốn trở thành thương nhân, thương nhân giàu có lại gia nhập võ sĩ
- Đến năm 1867 Mạc phủ Tô-cư-ga-oa bị sụp đổ
So sánh:
- Phương Tây: sở hữu tư nhân về ruộng đất, kinh tế lãnh địa, quan hệ nông nô rất
phát triển. CXNT bị xóa bỏ khá nhanh. Chế độ phân quyền cát cứ
- Phương Đông: sở hữu nhà nước là chủ yếu, tuy có sở hữu tư nhân về ruộng đất
nhưng không nhiều. Sau đó sở hữu nhà nước tan rã sớm hơn, kinh tế điền trang,
thái ấp, trang viên gần giống với kinh tế lãnh địa
- Phương Đông còn có kinh tế địa chủ dưới dạng nhà nước và tư nhân. Nông dân
và tá điền là lực lượng lao động chủ yếu. Ngoài ra trong xã hội còn có thương
nhân và thợ thủ công
- Công xã nông thôn bảo toàn lâu dài hơn, chế độ phong kiến với xu thế tập
quyền mạnh hơn, mang tính chuyên chế cao hơn xuất phát từ lý do là phải xây
dựng các công trình thủy lợi và bảo vệ đất nước.
CÂU 8: Trình bày chính sách thực dân của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha thời cận đại
CÂU 9: Trình bày quá trình thực dân hóa ở phương Đông
CÂU 10: Trình bày quá trình phi thực dân hóa ở phương Đông (Thái Lan, Nhật Bản)
Nhật Bản:
Kinh tế: Đầu thế kỷ 19 nền kinh tế tự nhiên của Nhật Bản ngày càng bộc lộ rõ tình
trạng yếu kém. Trong khi đó, công thương nghiệp phát triển mạnh và đã tác động
tích cực tới xã hội.
Xã hội: Trước khi thiên hoàng Minh Trị lên nắm quyền, xã hôi Nhật Bản có 4 đẳng
cấp chính
- Daimyo gồm quý tộc phong kiến có quân đội, lãnh địa, chế độ thuế khóa và
luật pháp riêng. Có khoảng gần 300 Daimyo chia thành chia thành 2 trường
phái: tiến bộ va bảo thủ
- Samurai là tầng lớp được luyện cả văn lẫn võ. Sau đó họ trở thành quý tộc có tư
tưởng chống lại Shogun (tướng quân)
- Thương nhân Osaca có vị trí đặc biệt quan trọng. Họ nắm giữ nguồn tài chính
mạnh chi phối cả Daimyo và tướng quân, thậm chí mua được cả tước hiệu
Samurai
- Nông dân chiếm 80% là những tá điền có cuộc sống ngèo khổ và thân phận
khốn khó. Hàng vạn người phải chạy ra thành thị vì không có ruộng đất, không
có việc làm.
Chính trị: Trước khi thiên hoàng Minh Trị lên ngôi, chính quyền phong kiến
Shogun (tướng quân) thời Mạc phủ Tô-cư-ga-oa tập quyền không cao, khá lỏng
lẻo. chủ nghĩa phong kiến không triệt để, không giống như các nước phương Đông
khác
Nho giáo: Nho giáo kỳ Ê-đô tuy Tống Nho chiếm địa vị quan trọng trở thành hệ tư
tưởng chính nhưng người Nhật vẫn coi trọng Thần đạo. Ở Nhật không có chế độ
khoa cử Nho học như các nước khác nên không tạo ra tầng lớp Nho sĩ lạc hậu.
Ngoài Nho học, ở Nhật còn có Quốc học (Kokugaku) và Lan học (Ranggaku)
Chế độ ruộng đất Nhật Bản tời Ê-đô chủ yếu tập trung trong tay các Daimyo, ruộng
đất bị phân tán trong tình trạng cát cứ nên không còn phù hợp với quy mô sản xuất.
Chế độ ban điền của Nhật không chia ruộng đất theo địa phương mà chia theo chức
vụ nên đã phá vỡ CXNT. Gần giống như chế độ lãnh địa của phương Tây, ruộng
đất thiên về tư hữu, chính quyền phong kiến không kiểm soát chặt chẽ ruộng đất.
Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế hàng hóa sớm phát triển
Nửa đầu thế kỷ 18, công thương nghiệp phát triển mạnh. Công trương thủ công và
phường hội xuất hiện sản xuất kinh doanh hàng hóa và nộp cho nhà nước nghĩa vụ
bằng tiền. Thương đoàn lúa gạo, tơ lụa , thương nhân đông tới hàng ngàn, nhất là
Ô-sa-ca và Ê-đô
Chính quyền Mạc phủ bị đổ 9/11/1867, thiên hoàng Minh Trị lên ngôi năm 15 tuổi.
ngày 1/3/1868 chính phủ mới được thành lập thực hiện cải cách của thiên hoàng
Minh Trị
- Hành chính: thống nhất đất nước , thiên hoàng lãnh đọa tối cao, xóa bỏ tước
hiệu các Daimyo, đổi thành Kadoku (quý tộc cấp cao), Samurai là Shidoku (sĩ
tộc) và Xudoduku (tốt tộc). Các lãnh chúa được bổ làm chi huyện , thu tô lãnh
địa thay bằng chế độ lương bổng. Đồng thời các bộ được thành lập và có bộ
trưởng.
- Nông nghiệp: đất đai trở thành hàng hóa và được tự do mua bán. Thuế đất là
3% giá đất và nộp bằng tiền. Chủ đất được lựa chọn cây trồng. nông nghiệp
được dựa vào quỹ đạo của thị trường
- Công thương nghiệp: tọa ra một thị trường thống nhất trong nước. Tạo thị
trường quốc tế và du nhập kỹ thuật tiên tiến, chế độ tiền tệ, đo lường và quan
thuế thống nhất. Công thương nghiệp được coi trọng nhất là công nghiệp quân
sự.
- Thực hiện chế độ giáo dục và chính sách cưỡng bức giáo dục…(quân sự, ngoại
giao, tài chính, ngân hàng…)
Thái Lan:
Tuy không thành công như Nhật Bản nhưng Thái Lan cũng có những tiến đề nhất
định trong việc đưa đưa đất nước theo con đường tư bản chủ nghĩa
Trước nguy cơ bị xâm lược, Rama IV (Mông Kut: 1851-1868) đã ký với Anh hiệp
ước không bình đẳng đầu tiên (1855). Sau đó vua Xiêm lần lượt ký với Pháp, Mỹ,
Đan Mạch, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Đức, Thụy Điển, Na Uy, Nga… với chủ đích là
lợi dụng các nước tư bản có mặt ở Xiêm cạnh tranh nhau để Xiêm tránh được tai
họa là thuộc địa của một trong các cường quốc tư bản
Việc ký hiệp ước bất bình đẳng với nhiều quốc gia đã gây ra hậu quả tai hại biến
Xiêm thành thị trường phụ thuộc cung cấp lương thực, nguyên liệu và là nơi tiêu
thụ hàng hóa. Tuy nhiên, về khách quan, thị trường Xiêm nối liền với thị trường thế
giới, đấy nhanh quá trình tan rã của kinh tế tự nhiên, xuất hiện tầng lớp thương
nhân kinh doanh mới.
Sau đó, thỏa hiệp Luân Đôn giữa Pháp và Anh 1896 biến Xiêm thnahf khu đệm và
thành nước phụ thuộc vào Anh và Pháp
Rama V tiếp tục công cuộc cải cách Xiêm, nhằm canh tân đất nước theo hướng tư
bản chủ nghĩa, tháo gỡ Xiêm thoát khỏi sự ràng buộc của các hiệp ước bất bình
đẳng
- Xóa bỏ chế độ nô lệ
- Xóa bỏ chế độ lao dịch thay bằng nộp tiền
- Tăng nhanh xuất khẩu gạo
- Thực hiện cải cách hành chính, tài chính
Cải cách của Rama V, VI ở Xiêm cuối cùng mang lại hiệu quả thiết thực, khiến
Xiêm không bị rơi vào tình trạng thuộc địa như các quốc gia láng giềng Đông Nam
Á lúc đó.
CÂU 8: Phân tích một số phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở phương Đông (Ấn
Độ, Trung Quốc, Philippin, Việt Nam)
CÂU 9: Trình bày tình hình một số quốc gia phương Đông sau khi giành độc lập và con
đường phát triển của các quốc gia