Professional Documents
Culture Documents
TIỂU LUẬN
Bảo vật quốc gia Mộ thuyền Việt Khê - một mộ thuyền Đông Sơn nổi tiếng
Nguồn: thanhnien.vn
Quan tài mộ thuyền Đông Sơn được tạo tác gần với con thuyền độc mộc hơn. Nó
được sử dụng chôn người chết ở vùng lầy trũng, theo phương thức hung táng.
Chưa kể, nếu như mộ thuyền Đông Sơn và hai khu mộ ở Tứ Xuyên (Trung Quốc)
chôn trong huyệt đất, thì phần lớn mộ thuyền các nước thuộc Đông Nam Á như
Philippines, Malaysia, Thái Lan... được đặt, treo trong hang động hoặc mái đá.
Thông qua việc nghiên cứu hệ thống mộ thuyền đã phát hiện được, các nhà khảo
cổ học đã phân chia lịch sử phát triển của hệ thống mộ thuyền ra làm 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn đầu: Quan tài thân cây khoét rỗng gồm có hai tấm, một tấm quan tài
và một tấm nắp đậy.
+ Giai đoạn giữa: là giai đoạn quá độ từ quan tài thân cây khoét rỗng gồm 3, 4
tấm, 1 tấm quan tài, 1 tấm nắp đậy, phần đầu và phần đuôi ghép thêm 2 tấm ván.
+ Giai đoạn cuối: quan tài ghép ván 6 tấm hoặc 7 tấm.
Con thuyền là biểu tượng cho sự gắn bó hữu cơ với đời sống thường nhật của con
người vừa là phương tiện chở linh hồn người chết về cõi vĩnh hằng. Trong mộ
thuyền Việt Khê, các nhà khoa học tìm thấy tới 107 hiện vật, gồm: giáo, lao, dao
găm, kiếm, ống bịt đầu cán giáo, rìu, đục, nạo móc, đũa, dao gọt, thạp, thố, bình,
âu, đỉnh, khay, ấm, muôi, đèn, trống, chuông, chuông dẹt, chuông có núm...Về
hướng mộ, khu mộ Việt Khuê thường được đặt theo hướng Đông – Tây và hơi
chếch xuống phía Tây Nam. Tử thi thường được đặt nằm ngửa, hai tay duỗi thẳng,
hai chân cũng duỗi thẳng, hình dáng của quan tài sẽ quyết định tư thế của tử thi.
Mộ thuyền Đông Sơn là hình thức mai táng rất đặc biệt của cư dân Việt cổ. Mặc
dù tồn tại rất nhiều loại hình mộ táng khác, nhưng mộ thuyền Đông Sơn được coi
là đỉnh cao trong nhận thức tâm linh người Việt, phản ánh được đời sống, nét văn
hoá tín ngưỡng đặc trưng.
Di chỉ xưởng: loại hình này phát hiện rất ít chỉ 3 di tích tập trung ở xã Đông Lĩnh
(Đông Sơn, Thanh Hoá) đó là Bái Tê, Cồn Cấu, Mả Chùa. Di chỉ mang tính chất
của một công xưởng chế tạo đồ trang sức. Những di tích loại này thường không
phát hiện thấy vết tích cư trú, mộ táng, không có dấu hiệu của văn hóa khảo cổ.
Đáng chú ý là nơi cất giấu mũi tên đồng Cầu Vực (Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội)
được phát hiện năm 1959 có hàng vạn chiếc, nặng 93kg. Đến năm 1982 phát hiện
một chiếc trống đồng ở Mả Tre nằm giữa khu vực thành trung và thành nội Cổ
Loa với 200 hiện vật đồng thau.
Loại di tích được phát hiện lẻ tẻ này ngày càng thấy ở nhiều nơi, được xem như
phòng trường hợp xã hội bất ổn nên có hiện tượng cất giấu đồ quý hiếm.
2.4 Đặc trưng di vật
Đồ đá không còn được phổ biến với số lượng ít ỏi, nghèo nàn về loại hình, chủ
yếu là các đồ trang sức như vòng tay, vòng tai, các công cụ như rìu, bôn, chày, bàn
mài, khuôn đúc rìu, dao găm,…Xu hướng chung về số lượng đồ đá giảm sút và
đơn giản về loại hình tuy nhiên đồ đá trang sức vẫn được quý trọng; bằng chứng là
sự tồn tại các trung tâm chế tác đồ trang sức đá ở Đông Lĩnh (Đông Sơn, Thanh
Hoá) với các di chỉ xưởng như Bái Tê, Bái Khuynh, Cồn Cấu, Mã Chùa,…Nghề
làm đá vẫn được bảo tồn và chuyển sang chức năng làm đồ trang sức đá quý.
Đồ gốm là loại di vật được thu nhiều trong các đợt khai quật, được sử dụng phổ
biến và thường xuyên trong sinh hoạt của người dân. Những đồ gốm thô và to biểu
hiện lên một cuộc sống giản dị với những con người khoẻ mạnh. Giai đoạn đầu đồ
gốm tiếp thu, bảo lưu phong cách gốm Gò Mun, giai đoạn muộn hoa văn trở nên
nghèo nàn, cẩu thả; đôi khi có những nét ảnh hưởng của hoa văn thời Chiến Quốc,
Hán. Hoa văn trên đồ gốm phổ biến là hoa văn thừng, hoa văn chải và văn khắc
vạch. Nồi thường gặp đại bộ phận có miệng loe lõm lòng máng, bụng phình, đáy
tròn hoặc bằng, màu sắc gốm thường có màu hơi hồng, trắng mốc, kích thước các
đồ đựng thường nhỏ.
Bình gốm Đông Sơn. Nguồn: luocsutocviet.com
Đồ đồng Đông Sơn phát triển rực rỡ, đạt mức hoàn hảo về mặt kỹ thuật cũng như
nghệ thuật. Hiện nay, bộ sưu tập đồ đồng Đông Sơn hết sức phong phú về số
lượng và đa dạng về loại hình, có khoảng 56 loại hình với nhiều kiểu dáng khác
nhau. Đồ đồng Đông Sơn không chỉ độc đáo về kiểu dáng, mà hoa văn trang trí
cũng có những đặc trưng riêng. Nếu như ở giai đoạn đồ đồng ở văn hoá tiền Đông
Sơn hầu như chưa trang trí hoa văn, sang đến văn hoá Đông Sơn đồ đồng được
trang trí khá phổ biến. Hoa văn trang trí trên đồ đồng Đông Sơn vô cùng phong
phú, đa dạng. Phổ biến hơn cả là hoa văn hình học với đường thẳng, đường xiên,
đoạn ngắn song song, những vòng tròn,…Đẹp và phong phú hơn cả là hoa văn
miêu tả cuộc sống của cư dân, đó là những mái nhà sàn, những cảnh người đánh
trống, người giả gạo, người múa hát,…Loại hoa văn này thường được trang trí trên
trống đồng, thạp đồng, thố đồng.
Công cụ sản xuất trong nông nghiệp: có rìu, lưỡi cày, cuốc, xẻng, thuổng (hay
mai), lưỡi dao gặt, lưỡi liềm,…Dụng cụ lao động là không thể thiếu trong đời sống
của người Việt thời Đông Sơn, chiếm 50% số lượng đồ đồng thu được. Tiêu biểu
như rìu là công cụ thường gặp nhất, kiểu dáng lại vô cùng phong phú, đa dạng,
nhiều kích cỡ to, nhỏ khác nhau. Kiểu dáng lưỡi rìu: từ lưỡi rìu tứ giác hình chữ
nhật hoặc hình thang cân đơn giản đến rìu có 1 hoặc 2 vai cân đối giống hệt kiểu
rìu có vai bằng đá, chỉ khác là nó có họng tra cán.Từ những lưỡi rìu xoè cân chút ít
đến những lưỡi rìu xoè cân rộng. Độc đáo và tiêu biểu hơn cả là những lưỡi rìu
xéo. Phần lớn các loại rìu đều có kích thước tương đương các loại rìu bằng sắt hiện
nay, song cũng có một số rìu có kích thước nhỏ, chế tác không được cẩn thận.
Rìu đồng. Nguồn:luocsutocviet.com
Vũ khí: vừa nhiều về số lượng vừa đa dạng và độc đáo về loại hình. Vũ khí chiến
đấu có các loại rìu chiến, búa chiến, dao găm, kiếm, giáo, mũi lao, qua, mũi tên…
Phương tiện phòng vệ có những tấm che ngực hình vuông hay hình chữ nhật. Tuy
là vũ khí song một số dao găm, qua, giáo trên cán và lưỡi được trang trí các hoa
văn kỷ hà như văn hình chữ S, văn vòng tròn tiếp tuyến, văn vạch ngắn song song
cùng văn hình người và động vật rất sinh động, đẹp mắt.
+ Giáo đồng, có loại giáo có chuôi tra cán và giáo có họng để lắp cán.
+ Các loại lao đồng với nhiều kiểu dáng khác nhau: lao có lưỡi hình lá, lao có
cánh, lao có chuôi tra cán...
+ Mũi tên đồng dùng lẫy nỏ để bắn là một loại hình vũ khí lợi hại của cư dân
Đông Sơn. Di tích khảo cổ học Cầu Vực huyện Đông Anh thuộc văn hoá Đông
Sơn có đến hàng vạn mũi tên được tìm thấy. Địa điểm này cũng là địa điểm có liên
quan đến truyền thuyết nỏ thần và mũi tên đồng của Thục An Dương Vương.
+ Dao găm cũng là loại vũ khí khá phổ biến và phong phú. Đáng chú ý là dao găm
thời Đông Sơn được trang trí bởi những khối tượng, vừa là sưu tập vũ khí, vừa là
sưu tập các tác phẩm nghệ thuật.
+ Kiếm ngắn cũng được trang trí hình người.
Một báu vật nổi tiếng có tính đại diện cho văn hóa Đông Sơn được phát hiện tại
Thanh Hóa là kiếm ngắn núi Nưa “điểm nổi bật làm nên giá trị độc đáo của thanh
kiếm này là tượng người phụ nữ ở độ tuổi trung niên khỏe khoắn, tóc búi cao chóp
tròn làm thành đỉnh kiếm; hai tai có vòng đeo to, ôm lấy khuôn mặt; hai cánh tay
khuỳnh cong chống hông; váy hoa văn thổ cẩm xòe xuống phủ kín chân, ôm trọn
lấy đốc thân kiếm. Toàn thân tượng được cầm gọn trong tay một cách vững vàng,
làm tăng thêm khí thế chiến đấu trước kẻ địch. Tượng còn là hình ảnh người nữ
thủ lĩnh đầy uy quyền, người đứng đầu và bảo vệ lợi ích cộng đồng...”1 – hiện vật
được cho là “kiếm lệnh của Bà Triệu” từng khiến giặc Ngô. Theo TS Sử học Lê
Ngọc Tạo, Trưởng ban Nghiên cứu lịch sử Thanh Hóa “Kiếm ngắn núi Nưa là
hiện vật quý và là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị thẩm mỹ tiêu biểu cho phong
1
Địa chí Thanh Hóa tập II, NXB Khoa học Xã hội, 2004; Lịch sử Thanh Hóa thời Tiền sử và Sơ sử, NXB Khoa học Xã
hội, 1990
cách chế tác đồ đồng lưu vực sông Mã thuộc thời đại văn hóa Đông Sơn. Những
nét thể hiện trên trang phục nữ giới ở phần chuôi kiếm cho thấy vị thế xã hội đáng
kể của họ xưa kia”.
Đồ thuỷ tinh: vào khoảng thiên niên I TCN người Đông Sơn biết chế tạo đồ trang
sức bằng thuỷ tinh. Hiện đã phát hiện hơn 5000 đồ trang sức bằng nguyên liệu này
với 3 loại vòng tay, khuyên tai, hạt chuỗi. Màu sắc thể hiện khá phong phú: trắng
đục, xanh đen, xanh lơ, xanh lá mạ, nâu, da cam, đỏ, tím,…
Đồ gỗ do chất liệu dễ bị huỷ hoại nên không được bảo tồn nhiều. Là một quốc gia
vùng nhiệt đới nên gỗ từ rừng khá phong phú, nghề mộc đóng vai trò quan trọng
không những cung cấp đồ dùng trong sinh hoạt mà còn sản xuất công cụ, vũ khí,
phương tiện đi lại và làm nhà ở. Hiện vật gỗ tiêu biểu có cột nhà sàn Đông Sơn
phát hiện ở Thiệu Dương.