You are on page 1of 83

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM


(Lưu hành nội bộ)

CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM


(Tài liệu hướng dẫn học tập)

Đà Nẵng, năm 2021


1
CHƯƠNG 1. VĂN HÓA HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

1.1. Dẫn luận Văn hoá học


1.1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Văn hóa
Sự phát triển của loài người gắn liền với văn hóa ngay từ những bước đi sơ khởi, tuy
không phải ngay lúc ấy đã có một khái niệm văn hóa độc lập song có thể nói rằng văn hóa
xuất hiện khá sớm từ thời cổ đại, trong ngôn ngữ của các dân tộc văn minh như Trung Hoa,
Ấn Độ, Ai Cập, Hi Lạp.
Ở phương Đông, từ văn hóa mà chúng ta dùng có cội nguồn từ tiếng Hán. Trong
ngôn ngữ Hán, hai chữ văn và hóa xuất hiện khá sớm, như hai từ đơn có nghĩa riêng biệt.
Theo ngôn ngữ cổ Trung Hoa thì văn có nghĩa là “vẻ đẹp”, hóa có nghĩa là giáo hóa, dạy dỗ,
sửa đổi “biến đổi”. Văn hóa gộp lại theo nghĩa gốc là “làm cho đẹp, trở thành đẹp đẽ”.
Ở phương Tây, từ văn hóa xuất hiện vào khoảng thế kỷ III TCN. Xét về nguồn gốc,
văn hóa là khái niệm gắn với sản xuất nông nghiệp. Văn hóa trong tiếng Latinh bắt nguồn từ
chữ Cultus có nghĩa gốc là trồng trọt, cày cấy, vun trồng. Về sau, thuật ngữ văn hóa mở
rộng thành Cultus animi và được chuyển nghĩa, nói về sự vun trồng tinh thần, trí tuệ, bồi
dưỡng tâm hồn con người. Từ thuật ngữ gốc Latinh này mà xuất hiện từ Culture trong tiếng
Anh, Pháp, Kultur trong tiếng Đức và Kultura trong tiếng Nga đều có nghĩa là văn hóa.
Theo tiến trình lịch sử, khái niệm văn hóa dần phong phú hơn về nội hàm, trong rất
nhiều thế kỷ nó được dùng để chỉ những khái niệm và hiện tượng hết sức khác nhau. Năm
1952, A.L. Kroeber và Kluckhohn xuất bản quyển sách Culture, a critical review of concept
and definitions [Văn hóa, điểm lại bằng cái nhìn phê phán các khái niệm và định nghĩa],
trong đó tác giả đã trích lục khoảng 160 định nghĩa về văn hóa do các nhà khoa học đưa ra ở
nhiều nước khác nhau. Điều này cho thấy, khái niệm “Văn hóa” rất phức tạp.
Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa: “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về
tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập
quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách một
thành viên của xã hội” . Theo định nghĩa này thì văn hóa và văn minh là một; nó bao gồm
tất cả những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ
thuật, đạo đức, pháp luật… Có người ví, định nghĩa này mang tính “bách khoa toàn thư” vì
đã liệt kê hết mọi lĩnh vực sáng tạo của con người.
F. Boas định nghĩa: “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất và những
hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm người vừa có tính
tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên của họ, với những
nhóm người khác, với những thành viên trong nhóm và của chính các thành viên này với

2
nhau”. Theo định nghĩa này, mối quan hệ giữa cá nhân, tập thể và môi trường là quan trọng
trong việc hình thành văn hóa của con người.
Ở Việt Nam, văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao gồm
toàn bộ những gì do con người sáng tạo và phát minh ra. Cũng giống như định nghĩa của
Tylor, văn hóa theo cách nói của Hồ Chí Minh sẽ là một “bách khoa toàn thư” về những
lĩnh vực liên quan đến đời sống con người.
Phạm Văn Đồng cho rằng: “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong
phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến
con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử…
(văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ
và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản
lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn
mạnh”. Theo định nghĩa này thì văn hóa là những cái gì đối lập với thiên nhiên và do con
người sáng tạo nên từ tư tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm và sức đề kháng của mỗi
người, mỗi dân tộc.
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở nước ngoài
khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do UNESCO đưa ra vào
năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng: “Văn hóa là một phức hệ- tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần,
vật chất, tri thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm
làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương
mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những
truyền thống, tín ngưỡng…”; còn hiểu theo nghĩa hẹp: “Văn hóa là tổng thể những hệ thống
biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó
có đặc thù riêng”,…
Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Chúng tôi dựa trên các
định nghĩa đã nêu để xác định một khái niệm văn hóa cho riêng mình nhằm thuận tiện cho
việc thu thập và phân tích dự liệu khi nghiên cứu. Chúng tôi thống nhất với cách hiểu: văn
hóa là sản phẩm của con người được tạo ra trong qua trình lao động (từ lao động trí óc đến
lao động chân tay), được chi phối bởi môi trường (môi tự nhiên và xã hội) xung quanh và
tính cách của từng tộc người. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên khác biệt so với các
loài động vật khác; và do được chi phối bởi môi trường xung quanh và tính cách tộc người
nên văn hóa ở mỗi tộc người sẽ có những đặc trưng riêng.

3
1.1.1.2. Các khái niệm liên quan với văn hóa
* Văn minh
Văn minh là danh từ Hán – Việt, văn là vẻ đẹp, minh là sáng, chỉ tia sáng của đạo
đức biểu hiện ở chính trị, pháp luật, văn học, nghệ thuật.
Trong tiếng Anh, từ civilisation với nội hàm nghĩa văn minh, có từ căn gốc Latinh là
civitas với nghĩa gốc là đô thị, thành phố và các nghĩa phái sinh là thị dân, công dân.
Văn minh chủ yếu liên quan tới kĩ thuật làm chủ thế giới, biến đổi thế giới sao cho
đáp ứng được đòi hỏi của con người. Cho nên một thành tựu của văn minh thường lan rộng
khắp thế giới. Nghiên cứu văn minh là nghiên cứu mặt động của trí tuệ, tâm thức con người.
Nếu như văn minh của loài người tiến lên không ngừng thì văn hóa lại không thể. Có những
nước văn minh rất cao nhưng văn hóa lại suy giảm. Thế giới đã trải qua nhiều nền văn
minh: văn minh đồ đá, văn minh du mục, văn minh nông nghiệp, văn minh thương nghiệp,
văn minh công nghiệp và đang bước vào văn minh hậu công nghiệp.
Như vậy, văn hóa và văn minh khác nhau ở các điểm sau:
- Văn hóa là khái niệm bao trùm gồm cả giá trị vật chất lẫn tinh thần còn văn minh
thiên về giá trị vật chất.
- Văn hóa luôn có bề dày của quá khứ còn văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại, chỉ
“trình độ phát triển.
- Văn hóa mang tính dân tộc, văn minh mang tính quốc tế.
- Văn hóa gắn bó nhiều hơn với phương Đông nông nghiệp còn văn minh gắn bó
nhiều hơn với phương Tây đô thị.
Theo đấy, văn minh là khái niệm mang tính quốc tế, có nguồn gốc từ phương Tây đô
thị và chỉ trình độ phát triển nhất định của văn hóa chủ yếu về phương diện vật chất.
* Văn hiến dùng để chỉ những giá trị tinh thần do những người có tài đức chuyển tải
(Văn là văn hóa, hiến là hiền tài).
*Văn vật là truyền thống văn hóa tốt đẹp được thể hiện thông qua một đội ngũ tài và
hiện vật trong lịch sử.
Để dễ dàng cho việc phân biệt các thuật ngữ trên, Trần Ngọc Thêm đã thể hiện thông
qua bảng so sánh:

VĂN HÓA VĂN HIẾN VĂN VẬT VĂN MINH


Chứa cả giá trị vật chất lẫn Thiên về giá trị Thiên về giá trị Thiên về giá trị vật
tinh thần tinh thần vật chất chất- kỹ thuật
Có bề dày lịch sử Chỉ trình độ phát triển
Có tính dân tộc Có tính quốc tế
Gắn bó nhiều với Phương Đông nông nghiệp Gắn bó nhiều với
phương Tây đô thị

Bảng 1: So sánh văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật

4
1.1.1.3. Văn hóa học
Để nghiên cứu các biểu thị của văn hóa, người ta sử dụng nhiều môn khoa học khác
nhau như Dân tộc chí, Dân tộc học, Nhân học, Xã hội học, Khảo cổ học, Tâm lý học…Tuy
nhiên chỉ có văn hóa học là nghiên cứu văn hóa như một chỉnh thể tự biến đổi và phát triển.
Người đầu tiên đặt nền móng cho cách tiếp cận tổng thể trong nghiên cứu văn hóa và
cũng được coi là người đầu tiên đặt nền móng cho văn hóa học là Edward B.Tylor – nhà
nhân học nổi tiếng người Anh với cuốn Văn hóa nguyên thủy (1871).
Tuy nhiên, công sáng lập ra văn hóa học thì thuộc về nhà nhân học Hoa Kỳ Leslie
Alvin White (1900-1975). Ông nổi tiếng với những công trình lý luận về sự tiến hóa của văn
hóa và với những nghiên cứu khoa học về văn hóa mà ông gọi là “văn hóa học”. Trong các
tác phẩm “Khoa học về văn hóa” (The Science of Culture - 1949), “Sự tiến hóa của văn
hóa” (The Evolution of Culture - 1959), “Khái niệm văn hóa” (The concept of Culture -
1973) L.A.White đã đặt cơ sở cho văn hóa học với tính cách là một môn khoa học độc lập,
lý giải văn hóa như một hệ thống toàn vẹn, làm rõ phạm vi, nguyên tắc và đối tượng nghiên
cứu của văn hóa học…
Cuối thế kỷ XX, khi tiến trình toàn cầu hóa tác động mạnh mẽ lên đời sống của các
cá thể và cộng đồng trên thế giới, người ta mới thực sự chú ý đến vai trò của các tác nhân
văn hóa đối với các quá trình phát triển kinh tế - xã hội, và do đó mới quan tâm đầu tư để
thúc đẩy văn hóa học phát triển và lan rộng trên khắp thế giới. Nhờ thế mà các bộ môn
nghiên cứu về văn hóa có điều kiện để phát triển, dẫn đến việc phổ biến khoa học về văn
hóa ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Ở Việt Nam, khái niệm về Văn hóa học cũng được bàn luận nhiều nhưng vẫn chưa đi
đến thống nhất. Có thể tham khảo một vài quan điểm sau :
Trong công trình Đại cương văn hóa Việt Nam, Phạm Thái Việt cho rằng: Văn hóa
học là một bộ môn khoa học tương đối mới, một khoa học tích hợp, vừa nghiên cứu văn hóa
nói chung vừa nghiên cứu các hiện tượng văn hóa riêng biệt. Mục đích của văn hóa học là
phát hiện ra và phân tích tính quy luật của những biến đổi văn hóa – xã hội.
Còn Trần Ngọc Thêm thì cho rằng: “Văn hóa học là một ngành khoa học nhân văn
giáp ranh với khoa học xã hội, có đối tượng nghiên cứu là văn hóa với tư cách một hệ
thống giá trị mang tính biểu tượng, bằng hệ phương pháp lý luận định tính mang tính liên
ngành với độ bao quát rộng các sự kiện và tính khái quát cao trong yêu cầu khảo cứu”.
1.1.2. Đặc trưng và chức năng của văn hóa
Tính hệ thống là đặc trưng hàng đầu của văn hóa. Chính nhờ có tính hệ thống mà
văn hóa, với tư cách là một đối tượng bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được
một trong ba chức năng cơ bản của mình là chức năng tổ chức xã hội . Chính văn hóa
thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần
thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.

5
Đặc trưng thứ hai của văn hóa là tính giá trị ("văn hóa là một hệ thống ... của các
giá trị vật chất và tinh thần...").Văn hóa có nghĩa là "trở thành đẹp, thành có giá trị". Văn
hóa chỉ chứa cái đẹp, chứa các giá trị. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con
người. Đặc trưng tính giá trị cho phép phân biệt văn hóa với hậu quả của văn hóa hoặc
những hiện tượng phi văn hóa.
Nhờ thường xuyên xem xét, phân loại các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức
năng quan trọng thứ hai của mình là chức năng điều chỉnh xã hội, nó định hướng các giá
trị, điều chỉnh các ứng xử, nó là động lực cho sự phát triển của xã hội, giúp cho xã hội duy
trì được trạng thái cân bằng động của mình.
Đặc trưng thứ ba của văn hóa là tính lịch sử ("văn hóa... do con người... tích lũy qua
quá trình hoạt động thực tiễn...)" . Tính lịch sử của văn hóa thể hiện ở chỗ nó bao giờ cũng
hình thành trong một quá trình và được tích luỹ qua nhiều thế hệ. Tính lịch sử tạo cho văn
hóa một bề dày, một chiều sâu; và chính nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến
hành phân loại và phân bố lại các giá trị.
Tính lịch sử của văn hóa được duy trì bằng truyền thống văn hóa. Truyền thống
(truyền = chuyển giao, thống = nối tiếp ) là cơ chế tích lũy và truyền đạt kinh nghiệm qua
không gian và thời gian trong cộng đồng. Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối
ổn định (những kinh nghiệm tập thể ) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được tích lũy
và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian và được cố định hoá dưới
dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận....
Truyền thống văn hóa được tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là chức năng
quan trọng thứ ba của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ
bằng những giá trị đã ổn định (truyền thống), mà còn bằng cả những giá trị đang hình thành.
Các giá trị đã ổn định và những giá trị đang hình thành tạo thành một hệ thống chuẩn mực
mà con người hướng tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành
nhân cách ở con người, trồng người (dưỡng dục nhân cách). Từ chức năng giáo dục, văn
hóa có chức năng phái sinh là đảm bảo tính kế tục của lịch sử.
Văn hóa còn có tính nhân sinh (văn hóa... do con người sáng tạo... ). Nó là một hiện
tượng xã hội, là sản phẩm hoạt động thực tiễn của con người. Nói một cách hình tượng, văn
hóa là cái tự nhiên đã được biến đổi dưới tác động của con người, là "phần giao" giữa tự
nhiên và con người. Đặc trưng này cho phép phân biệt văn hóa với những giá trị tự nhiên
chưa mang dấu ấn sáng tạo của con người (như các tài nguyên khoáng sản trong lòng đất).
Sự tác động của con người đối với tự nhiên có thể mang tính vật chất (như việc luyện quặng
để chế tạo đồ dùng, đẽo gỗ tạc tượng) hoặc mang tính tinh thần (như việc đặt tên, tạo truyền
thuyết cho các cảnh quan thiên nhiên: vịnh Hạ Long, núi Ngũ Hành Sơn, hòn Vọng Phu....).
Do gắn liền với con người và hoạt động của con người trong xã hội, văn hóa trở
thành một công cụ giao tiếp quan trọng. Chức năng giao tiếp là chức năng thứ tư của văn

6
hóa. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó; điều đó đúng
với giao tiếp giữa các cá nhân trong một dân tộc, lại càng đúng với giao tiếp giữa những
người thuộc các dân tộc khác nhau và giao tiếp giữa các nền văn hóa.
1.1.3. Cấu trúc của hệ thống văn hóa
Như đã nói, lâu nay, tính hệ thống của văn hóa chưa được chú ý đầy đủ, cho nên
cũng chưa có được một mô hình hệ thống văn hóa đầy đủ và có sức thuyết phục. Để tiếp cận
văn hóa như một hệ thống, cần phải vận dụng chính Lí thuyết hệ thống. Trên cơ sở này, hợp
lí hơn cả là xem văn hóa như một hệ thống gồm 4 thành tố (4 tiểu hệ) cơ bản, mỗi tiểu hệ lại
có hai vi hệ nhỏ hơn như sau:

HỆ THỐNG TIỂU HỆ VI HỆ

a. Nhận thức về vũ trụ


1. Văn hóa nhận thức
b. Nhận thức về con người

a. Tổ chức đời sống tập thể


2. Văn hóa tổ chức cộng đồng
b. Tổ chức đời sống cá nhân

a. Văn hóa tận dụng môi


HỆ THỐNG
3. Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên
VĂN HÓA
trường tự nhiên b. Văn hóa đối phó với môi
trường tự nhiên

a. Văn hóa tận dụng môi


4. Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
trường xã hội
b. Văn hóa đối phó với môi
trường xã hội

Bảng 2: Cấu trúc của Hệ thống văn hóa


1.1.4. Đối tượng của Văn hoá học
Mặc dù trong việc định nghĩa thế nào là văn hóa có rất nhiều quan điểm khác nhau,
thậm chí đối lập nhau nhưng trong việc xác định đối tượng nghiên cứu của khoa học văn
hóa thì các nhà nghiên cứu đều đi đến chỗ thống nhất: đối tượng của văn hóa học chính là
văn hóa. Vậy nên, công việc của chúng ta là đã rõ ràng:
- Tìm hiểu văn hóa là gì ?
- Đặc trưng và chức năng ?
- Các quy luật vận động và biến đổi của văn hóa ?...
7
1.1.5. Các phương pháp nghiên cứu
1.1.5.1. Phương pháp chung
Hệ thống - chỉnh thể: khi xem xét bất cứ thành tố văn hóa nào cũng phải đặt nó trong
chính hệ thống, chỉnh thể mà nó tồn tại nhằm tìm ra giá trị, vai trò thực chất của nó.
Liên ngành: Văn hóa vốn dĩ là một khái niệm hàm chứa những nội dung rất phong
phú và rộng lớn. Để tiếp cận được, đặc biệt hơn là để có thể hiểu được, con đường tất yếu là
phải tạo ra sự kết hợp của nhiều ngành khoa học khác nhau.
Lịch sử (cách tiếp cận lịch đại): nghiên cứu văn hóa dưới góc độ thời gian, bao gồm
diễn trình văn hóa của một dân tộc qua từng giai đoạn lịch sử
Lôgich (cách tiếp cận đồng đại): nghiên cứu văn hóa dưới góc độ không gian, thời
gian cụ thể, mang tính chất khách quan nhất, không áp đặt quan điểm của bản thân.
1.1.5.2. Phương pháp chuyên biệt
Nhân học văn hoá: một trong những đối tượng nghiên cứu của ngành Nhân học là
lịch sử hình thành, phát triển và không ngừng biến đổi của các tộc người. Nghiên cứu văn
hóa dưới góc độ nhân học sẽ chỉ ra được đặc trưng văn hóa tộc người.
Sử học văn hoá: thực hiện phương pháp này, chúng ta nghiên cứu văn hóa trong tiến
trình hình thành, phát triển với những quy luật nội tại của chúng, nghiên cứu văn hóa gắn
với lịch sử tư tưởng, lịch sử xã hội của mỗi dân tộc và nhân loại.
Xã hội học văn hoá: vận dụng những phương pháp nghiên cứu tối ưu của Xã hội học
như quan sát, miêu tả, điều tra hiện tượng văn hóa để có cái nhìn đa chiều, cả chất và lượng.
Kinh tế học văn hoá: Cơ sở kinh tế - xã hội quy định nội dung, bản chất của một nền
văn hóa và của các thành tố văn hóa. Tách rời khỏi cơ sở kinh tế sẽ không hiểu được nội
dung, bản chất của văn hóa. Cơ sở kinh tế - xã hội góp phần xác định mục tiêu, xu hướng
phát triển của văn hóa; bởi văn hóa mang tính giai cấp.
1.2. Văn hoá Việt Nam
1.2.1. Khái niệm văn hóa Việt Nam
Văn hóa Việt Nam như đang tồn tại là nền văn hóa của một quốc gia đa tộc người.
Hiện nay Việt Nam gồm có tất cả 54 tộc người, trong đó tộc người Việt/ Kinh là tộc người
chủ thể. Chỉnh thể văn hóa Việt Nam được thể hiện bởi một nền văn hóa thống nhất của một
quốc gia dân tộc bao gồm 54 sắc thái văn hóa của 54 tộc người, với đặc điểm là một nền văn
hóa đa tộc người vừa có tính thống nhất, vừa có tính đa dạng. Tiếp cận văn hóa Việt Nam
cần phải hiểu và phản ánh được tính thống nhất trong sự đa dạng ấy.
Hiện trạng văn hóa Việt Nam là kết quả của một quá trình phát triển lịch sử lâu dài,
bắt đầu từ khi hình thành những nền tảng văn hóa thời Tiền sử và Sơ sử cho đến nay, đã
hình thành những hằng số văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Hằng số và bản sắc
văn hóa luôn được gìn giữ và phát huy, và nó đang là nền tảng cho việc xây dựng một “nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.

8
1.2.2. Định vị văn hoá Việt Nam
1.2.2.1. Địa - văn hoá
Địa – văn hóa vừa là một phương pháp dùng để định vị văn hóa theo vùng địa lý,
đồng thời cũng là phương pháp kiến giải các đặc điểm văn hóa dựa vào điều kiện địa lý và
hoàn cảnh tự nhiên. Phương pháp này cùng với những phương pháp khác đã góp phần lý
giải tính đồng nhất (tương đồng) văn hóa của các cộng đồng người cùng sống trên một vùng
lãnh thổ - nơi có điều kiện tự nhiên khá giống nhau.
Vận dụng vào việc định vị văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm cho rằng xét từ trong
cội nguồn, không gian văn hóa Việt Nam vốn được định hình trên nền của không gian văn
hóa khu vực Đông Nam Á. Có thể hình dung không gian văn hóa khu vực Đông Nam Á này
như một hình tròn bao quát toàn bộ Đông Nam Á lục địa và hải đảo.
Dù rộng hay hẹp thì đặc trưng địa lý cố hữu của khu vực này vẫn là: nhiệt độ, độ ẩm
cao và có gió mùa. Điều kiện tự nhiên quy định cho khu vực này loại hình văn hóa nông
nghiệp với những đặc điểm sau:
+ Trồng lúa nước, khác với văn hóa khô mạch của Trung Hoa – phía Bắc sông
Dương Tử.
+ Sống định cư và hòa hợp với thiên nhiên.
+ Đề cao vai trò của phụ nữ (một đặc trưng của văn hóa thực vật, nơi chế độ mẫu hệ
dựa trên kinh tế hái lượm, trồng trọt là hình thái thống trị).
+ Sùng bái mùa màng, sinh nở (văn hóa phồn thực).
Do nằm trong vùng địa lý này nên văn hóa Việt Nam có đầy đủ những phẩm chất nói
trên và chúng cấu thành các yếu tố đặc thù (mang tính khu vực) trong nội dung văn hóa Việt
Nam.
Bên cạnh đó, điều kiện địa lý riêng có của Việt Nam cũng tạo ra những phẩm chất
văn hóa độc đáo (các yếu tố riêng thuộc về bản sắc). Đó là:
+ Ứng xử mềm dẻo, khả năng thích nghi và chịu đựng cao (ảnh hưởng của môi
trường nước).
+ Tính dung chấp cao (do là đầu mối giao thông đường thủy và đường bộ - cửa ngõ
của Đông Nam Á nên người dân thường xuyên giao lưu với khu vực bên ngoài và tiếp thu
nhiều kiến thức từ hoạt động giao lưu đó).
+ Không có các công trình kiến trúc đồ sộ (ngoại trừ hệ thống đê điều và thủy lợi), do
là vùng đất trẻ lấn dần ra biển nên không có kết cấu bền vững và cư dân của khu vực này
thường phải sống chung với nước.
+ Tồn tại nhiều loại hình nghệ thuật gắn với sông nước như chèo, múa rối nước, đua
thuyền…

9
1.2.2.2. Nhân học - văn hoá
Cùng với thời gian lịch sử, dân số trên hành tinh ngày càng tăng, điều kiện tự nhiên ở
một số vùng trên trái đất cũng thay đổi và do cả những cuộc xâm lược lẫn nhau của chính
con người đã dẫn đến những làn sóng di cư nhân khẩu từ vùng địa lý này sang vùng địa lý
khác.
Di cư đã làm thay đổi đáng kể diện mạo của thứ văn hóa vốn trước kia bị chi phối bởi
hoàn cảnh địa lý. Sự phát tán các cộng đồng người đã làm cho một không gian địa lý có thể
hàm chứa vô số các không gian văn hóa khác nhau. Đây là nguyên nhân cơ bản thúc đẩy sự
ra đời của phương pháp nhân học – văn hóa nhằm khắc phục những hạn chế của phương
pháp địa – văn hóa.
Phương pháp này xác định thực thể văn hóa chủ yếu dựa vào sự phân bố chủng người
và thổ ngữ. Bằng cách gắn các phẩm chất văn hóa với chủ thể - con người (vừa là vật mang,
vừa là chủ thể, vừa là kết quả của văn hóa), phương pháp này đã giảm thiểu việc lệ thuộc
vào hoàn cảnh địa lý khi tiến hành lý giải các hiện tượng văn hóa. Nó chuyển sang xem xét
văn hóa như một quá trình tự thân có khả năng tái sản xuất ra chính nó trong khuôn khổ của
một cồng đồng xác định.
Vận dụng vào việc định vị văn hóa Việt Nam, có thể thấy văn hóa Việt Nam là nền
văn hóa thống nhất trong đa dạng. Tính đa dạng văn hóa là kết quả của sự đa dạng tộc người
(có 54 tộc người đang sinh sống tại Việt Nam), trong đó, tộc người Kinh (Việt) đóng vai trò
chủ thể (chiếm 90% tổng dân số). Bởi vậy, văn hóa Việt Nam tuy đa dạng song vẫn hướng
tâm vào văn hóa chủ thể - văn hóa Việt.
* Về mặt chủng tộc, quá trình hình thành các dân tộc Việt Nam có thể chia thành ba
giai đoạn:
- Vào thời đồ đá giữa (khoảng 10.000 năm về trước), có một dòng người thuộc đại
chủng Mongoloid từ phía dãy Himalaya thiên di về hướng đông nam, tới vùng Đông Nam Á
cổ đại thì dừng lại và hợp chủng với dân cư Melanesien bản địa (thuộc đại chủng
Australoid), dẫn đến sự hình thành chủng Indonesien với nước da ngăm đen, tóc quăn dợn
sóng, tầm vóc thấp... Từ đây lan tỏa ra, người Indonesien cư trú trên toàn bộ địa bàn Đông
Nam Á cổ đại.
- Từ cuối thời đá mới, đầu thời đại đồ đồng (khoảng 5000 năm về trước), tại khu vực
nay là nam Trung Hoa và bắc Đông Dương, trên cơ sở sự chuyển biến từ loại hình
Indonesien bản địa dưới tác động của sự tiếp xúc thường xuyên với chủng Mongoloid từ
phía bắc đã hình thành chủng mới là chủng Nam – Á. Dần dà, chủng Nam – Á này đã được
chia tách thành một loạt các dân tộc mà trong cổ thư Việt Nam và Trung Hoa được gọi bằng
danh từ Bách Việt, bao gồm nhiều tộc người Việt như Điền Việt, Dương Việt, Mân Việt,
Đông Việt, Nam Việt, Lạc Việt... sinh sống khắp khu vực phía nam sông Dương tử cho tới

10
Bắc Trung Bộ ngày nay, hợp thành những khối cư dân lớn như Môn – Khmer, Việt –
Mường, Tày – Thái, Mèo – Dao...
- Quá trình chia tách này tiếp tục diễn tiến, dẫn đến sự hình thành các tộc người cụ
thể, trong đó người Việt (Kinh) chiếm gần 90% dân số cả nước. Ở phía nam Việt Nam là
nơi cư trú của các tộc người Chăm, Giarai, Êđê, Churu, Hroi... gọi chung là Nam Đảo.
* Về mặt ngôn ngữ, ngôn ngữ phổ thông hiện nay (tiếng Việt của tộc người Kinh) là
kết quả của quá trình hòa hợp các thổ ngữ của các tộc người trong cộng đồng Bách Việt và
quá trình Hán hóa.
- Lúc đầu ngôn ngữ của người Kinh gồm các thổ ngữ của người Bách Việt. Cùng với
sự hòa huyết và chung sống, và xuất phát từ nhu cầu giao tiếp, các thổ ngữ này bị biến đổi
để trở thành một thứ ngôn ngữ chung cho cả cộng đồng, đó là ngôn ngữ Việt – Mường. Các
yếu tố cấu thành ngôn ngữ Việt – Mường là Môn – Khơme, Tày – Thái.
- Quá trình giao lưu văn hóa với Hán ngữ, chủ yếu diễn ra vào giai đoạn Bắc thuộc,
ngôn ngữ Việt – Mường đã hấp thụ Hán ngữ để làm giàu và phát triển.
- Cuộc giao lưu với văn hóa phương Tây – từ thời Pháp thuộc đến nay đã đem lại cho
tiếng Việt một diện mạo mới, được đánh dấu bằng sự ra đời chữ Quốc ngữ và một cấu trúc
ngữ pháp cũng như vốn từ vựng ổn định như ngày nay.
1.2.2.3. Tôn giáo
Trong thiên niên kỷ thứ ba này, quá trình toàn cầu hóa đang kiến tạo nên các hệ
thống chuẩn mực chung cho toàn nhân loại. Điều đó có nghĩa là, khía cạnh văn minh đang
gia tăng một cách tỷ lệ thuận với sự tiến triển của toàn cầu hóa. Chính điều này đã làm cho
các nền văn hóa ngày càng trở nên giống nhau hơn, xét từ góc độ văn minh.
Trong tình huống đó, tôn giáo với bản tính phi duy lý cố hữu của nó đã không bị biến
dạng bởi tính duy lý của khoa học và công nghệ. Nhờ đó, tôn giáo đã trở thành chỗ dựa cho
bản sắc văn hóa của nhiều cộng đồng trong điều kiện toàn cầu hóa. Đó chính là lý do khiến
việc định vị văn hóa bằng tôn giáo trở thành một phương pháp thịnh hành trong các nghiên
cứu hiện nay về văn hóa.
Có thể coi Chiristopher Dawson (1889 - 1970) là ông tổ sáng lập ra phương pháp
định vị này. Theo ông, tôn giáo không phải là một hình thái ý thức trừu tượng mà là truyền
thống văn hóa hay tập tục văn hóa. Cũng theo ông thì một xã hội giàu sức sống tất có một
tôn giáo, mà tôn giáo này ở mức độ rất lớn lại quyết định phương thức văn hóa của xã hội
ấy. Do đó, việc nghiên cứu tôn giáo trong sự thống nhất với văn hóa sẽ mở ra một cái nhìn
mới, hay nói đúng hơn là cho phép đánh giá lại các vấn đề có liên quan đến sự phát triển xã
hội.
Theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu hiện nay, Việt Nam thuộc cộng đồng các
quốc gia Phật giáo (cùng với Lào, Campuchia, Thái Lan, Mianma…). Cách phân loại này đã
không xếp Nho giáo vào hàng tôn giáo.

11
Một số khác coi Việt Nam nằm trong cộng đồng của các nước chịu ảnh hưởng của
Nho giáo (như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc...).
Tồn tại quan điểm thứ ba, mà chủ yếu là các học giả trong nước, đó là coi tôn giáo ở
Việt Nam mang tính tổng hợp theo nguyên lý “Tam giáo đồng nguyên” (Nho – Phật –
Đạo). Trong đó, Phật giáo giữ vai trò cơ sở, chất dung môi để hòa trộn hai yếu tố còn lại.
Như vậy, đối với Việt Nam, việc định vị văn hóa dựa trên dấu hiệu tôn giáo là rất khó
khăn, do thiếu tính thuần nhất về tín ngưỡng và tôn giáo. Bởi vậy, việc sử dụng lý thuyết
giao lưu – tiếp biến văn hóa để định vị trong trường hợp này là rất cần thiết.
1.2.2.4. Giao lưu và tiếp biến văn hoá
Với vị trí địa lí giao điểm của các luồng văn hóa, quá trình phát triển lịch sử - xã hội
của Việt Nam đã bị chi phối mạnh mẽ bởi các quan hệ giao lưu văn hóa rộng rãi với Đông
Nam Á, Trung Hoa, Ấn Độ và phương Tây. Dưới giác độ giao lưu tiếp biến, văn hóa Việt
Nam là kết quả của các cuộc gặp gỡ văn hóa lớn trong khu vực:
+ Giao lưu với văn hóa các tộc người bản địa qua văn hóa Chămpa ở Trung Bộ và
văn hóa Óc Eo ở Nam Bộ;
+ Giao lưu với văn hóa Trung Hoa: chủ yếu bằng con đường cưỡng chế (bị xâm lược,
đô hộ và đồng hóa);
+ Giao lưu với văn hóa Ấn Độ: chủ yếu bằng con đường hòa bình, tự nguyện;
+ Giao lưu với văn hóa phương Tây: trong lịch sử, sự giao lưu này diễn ra chủ yếu
thông qua các kênh: buôn bán đường biển, sự đô hộ của thực dân Pháp, và sau đó là đế quốc
Mĩ.
1.2.3. Diễn trình lịch sử của văn hoá Việt Nam
1.2.3.1. Văn hoá Việt Nam thời Tiền sử và Sơ sử
Giai đoạn bản địa của văn hóa Việt Nam có thể tính từ khi con người bắt đầu có mặt
trên lãnh thổ Việt Nam cho tới khoảng thế kỷ I.TCN. Đây là một giai đoạn dài và có tính
chất quyết định, là giai đoạn hình thành, phát triển và định vị của văn hóa Việt Nam. Giai
đoạn này có thể chia làm hai thời kỳ: thời Tiền sử từ buổi đầu đến cuối thời đại đá mới; thời
Sơ sử cách đây khoảng trên dưới 4000 năm.
1.2.3.1.1. Thời Tiền sử
Những kết quả nghiên cứu khoa học hiện nay của Khảo cổ học và Cổ nhân học đã
khẳng định: Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á là một trong những chiếc nôi của loài
người. Cách đây khoảng 40 – 50 vạn năm và đến bây giờ khí hậu Việt Nam mang nặng đặc
trưng nhiệt đới nóng ẩm thích hợp cho sự sinh sống của con người. Với những vết tích còn
lại là các di cốt người – vượn trong các hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn) và hang
Thẩm Ồm (Nghệ An) và những phát hiện di cốt người hiện đại trong hang Hùm (Yên Bái)
và hang Kéo Lèng (Lạng Sơn) đã chứng tỏ ở Việt Nam, con người đã có mặt từ rất sớm và

12
đã trải qua sự tiến hóa từ dạng người vượn đến dạng người hiện đại (người khôn ngoan –
Homo sapien).
Mở đầu cho giai đoạn tiền sử là văn hóa Núi Đọ (tên di chỉ khảo cổ học thuộc sơ kỳ
thời đại đồ đá cũ (cách đây khoảng 300.000 năm) phát hiện ở núi Đọ - Thiệu Hóa – Thanh
Hóa).
Sau văn hóa Núi Đọ, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra di chỉ khảo cổ học thuộc
hậu kỳ đá cũ ở Việt Nam, đó là văn hóa Sơn Vi – Lâm Thao, Phú Thọ (tồn tại trong khoảng
từ 30.000 đến 11.000 năm cách ngày nay).
Trong giai đoạn Tiền sử, cách đây khoảng một vạn năm, loài người cũng bước vào
thời đại đá mới. Thời kỳ này con người nhận biết, tận dụng và sử dụng nhiều loại nguyên
vật liệu như đá, đất sét, xương, sừng, tre, gỗ… Kĩ thuật chế tác đá được hoàn thiện và đạt tới
đỉnh cao, loại hình công cụ nhiều. Đặc biệt con người đã biết làm gốm, thuần dưỡng động
vật và cây trồng, bắt đầu sống định cư, dân số gia tăng. Tiêu biểu cho giai đoạn này là văn
hóa Hòa Bình.
Cư dân văn hóa Hòa Bình sống chủ yếu trong các hang động núi đá vôi, nhất là khu
vực gần cửa hang thoáng đãng, có ánh sáng. Người Hòa Bình cũng sống chủ yếu bằng săn
bắt và hái lượm theo phổ rộng.
Sự xuất hiện của nông nghiệp trồng trọt và muộn hơn một chút trong các văn hóa
thuộc trung kỳ và hậu kỳ đá mới, việc sản xuất đồ gốm đã đánh dấu một bước chuyển biến
quan trọng trong đời sống con người, từ kinh tế khai thác sang kinh tế sản xuất. Cũng nhờ
phương thức sản xuất mới mà con người đã mở rộng không gian sinh tồn, họ đã chinh phục
được hai vùng sinh thái là núi, trước núi và ven biển.
Thời kỳ này cũng để lại những dấu vết của nghệ thuật như những hiện vật bằng
xương có vết khắc hình cá, hình thú và những hình vẽ trên vách hang Đồng Nội, những
mảnh thổ hoàng… Tư duy về thời gian vũ trụ được con người thể hiện bằng những hoa văn
kí hiệu biểu thị mặt trời như hình tròn, hình chữ… vẽ trên đồ gốm. Thời kỳ này cũng xuất
hiện những tín ngưỡng nguyên thủy. Là cư dân nông nghiệp nên mưa, gió và đặc biệt là mặt
trời đã trở thành những thần linh quan trọng đối với con người.
1.2.3.1.2. Thời Sơ sử
Cách đây 4.000 năm, các cộng đồng cư dân từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông
Đồng Nai đã bước vào thời đại kim khí/ thời đại đồ đồng. Thời kỳ này trên lãnh thổ Việt
Nam có ba trung tâm văn hóa:
- Văn hóa Đông Sơn (miền Bắc) được coi là cốt lõi của người Việt cổ.
- Văn hóa Sa Huỳnh (miền Trung) được coi là tiền nhân tố của người Chăm và
vương quốc Chămpa.
- Văn hóa Đồng Nai (miền Nam) là một trong những cội nguồn hình thành văn hóa
Óc Eo của cư dân thuộc nhóm Mã Lai – Đa Đảo sinh sống vào những thế kỉ sau công

13
nguyên ở vùng Đông và Tây Nam Bộ. Hiện nay văn hóa Óc Eo thường được gắn với vương
quốc Phù Nam, một nước tồn tại từ thế kỉ II đến thế kỉ VII ở châu thổ sông Cửu Long.
* Văn hóa Đông Sơn
- Quá trình hình thành
Quá trình hình thành và phát triển của văn hóa Đông Sơn ở miền Bắc là một quá
trình hình thành nên cái cốt lõi của người Việt cổ và Nhà nước đầu tiên của người Việt cổ.
Quá trình này là một sự phát triển có ý nghĩa nhảy vọt trong lịch sử Việt Nam. Bởi lẽ, về
mặt xã hội sự phát triển từ xã hội công xã nguyên thủy sang xã hội phân hóa giai cấp sơ kỳ,
từ bộ lạc đến liên minh bộ lạc, tiến đến hình thành Nhà nước sơ khai là Nhà nước Văn Lang
của các vua Hùng, rồi Nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương. Về mặt văn hóa thì từ
những tiền đề của văn hóa thời Tiền sử đã hình thành nên nền văn minh đầu tiên của người
Việt cổ là văn minh sông Hồng – quá trình văn hóa bộ lạc mất dần tính địa phương để hòa
chung vào một nền văn hóa thống nhất trên một vùng rộng lớn từ biên giới Việt – Trung cho
đến bờ sông Gianh (Quảng Bình) với chủ nhân là một cộng đồng cư dân nhiều thành phần
tộc người (54 tộc người) thuộc 4 ngữ hệ lớn: Nam Á, Thái, Tạng – Miến, Nam Đảo.
- Thành tựu văn hóa Đông Sơn
+ Văn hóa tổ chức xã hội
Xã hội Đông Sơn là một xã hội đã có phân hóa nhưng chưa sâu sắc, Nhà nước thì
mới hình thành. Đơn vị cơ sở của xã hội là công xã nông thôn – một tổ chức mang tính chất
vùng địa lý, tập hợp một số gia đình gần gũi nhau cùng chung sống, quan hệ huyết thống
dòng họ được duy trì. Đơn vị kinh tế là gia đình nhỏ.
Ở phạm vi quốc gia, ngay từ thời kỳ này đã xác lập thể kết hợp “Nhà – Làng – Nước”
mang sắc thái riêng của xã hội truyền thống Việt Nam. Trong đó, làng là đơn vị xã hội – văn
hóa giữ vai trò chủ yếu trong sáng tạo, bảo tồn và tái tạo các truyền thống văn hóa.
+ Văn hóa vật chất
Nền kinh tế nông nghiệp lúa nước dùng cày với sức kéo trâu bò phát triển, với sản
phẩm chủ yếu là lúa. Bên cạnh đó là các ngành sản xuất thủ công như luyện kim, chế tạo đồ
gốm, thủy tinh, nghề mộc, nghề dệt vải cũng phát triển.
Cơ cấu bữa ăn là Cơm – Rau - Cá. Có tục uống nước chè, uống rượu, tục ăn trầu,
nhuộm răng, xăm mình… Y phục: sau một thời kỳ dùng vỏ cây làm áo, người Việt cổ tiến
tới trồng gai, đay, trồng dâu chăn tằm, ươm tơ, dệt vải lụa. Từ các chất liệu đó, người xưa
làm ra khố, váy, yếm, thắt lưng, khăn đội đầu… Nhà ở chủ yếu là nhà sàn có nhiều kiểu
dáng, vật dụng sinh hoạt chủ yếu bằng gốm, tre nứa… Phương tiện đi lại là bằng thuyền, bè,
mảng… Ngoài ra còn có đi bộ, gánh gồng mang vác trên vai trên lưng, con người cũng biết
thuần dưỡng voi để chuyển chở. Nghề mộc phát triển nên người xưa đã đóng được những
thuyền lớn chở được vài chục người, họ còn đóng cả thuyền chiến, thuyền đua…

14
+ Văn hóa tinh thần
Tín ngưỡng người Đông Sơn chủ yếu liên quan đến nông nghiệp trồng lúa. Đó là
hình thái tín ngưỡng sùng bái tự nhiên với tục thờ mặt trời, thờ thần sông, thần biển… Tiếp
đến là tín ngưỡng phồn thực biểu hiện ở tục thờ cơ quan sinh dục nam nữ và thờ hành vi
giao phối. Tục thờ cúng tổ tiên, sùng bái các anh hùng và thủ lĩnh, tín ngưỡng thờ Thành
hoàng…
+ Văn hóa nghệ thuật
Các nghệ thuật âm nhạc, nhảy múa thời Đông Sơn khá phát triển. Nhạc khí phong
phú và đa dạng như trống các loại, chiêng, cồng, chuông, sênh, phách, khèn… Nghệ thuật
múa gồm có múa hóa trang và múa vũ trang.
Lễ hội là một sinh hoạt quan trọng của cư dân nông nghiệp Đông Sơn. Tính chất của
lễ hội là lễ hội làng, thường mở vào mùa xuân và mùa thu, có nội dung cầu mùa, cầu bình
an vô sự. Các thần thoại, truyền thuyết cũng hình thành trong thời gian này, biểu hiện tư duy
của người Đông Sơn trong sự nhận thức về thế giới với đặc điểm chính là tư duy lưỡng
phân.
Biểu tượng của văn hóa Đông Sơn, văn minh sông Hồng là trống đồng Đông Sơn.
* Văn hóa Sa Huỳnh
- Quá trình hình thành
Trung tâm hay đỉnh cao của văn hóa thời đại kim khí Việt Nam ở miền Trung (từ đèo
Ngang đến Đồng Nai) được gọi theo tên một địa điểm khảo cổ học ven biển tỉnh Quảng
Ngãi, đó là văn hóa Sa Huỳnh.
Văn hóa Sa Huỳnh tồn tại từ sơ kỳ thời đại đồng thau (hơn 4.000 năm cách ngày nay)
cho tới sơ kỳ thời đại sắt sớm (những thế kỉ 7-6 T.CN tới thế kỉ 1-2 S.CN). Chủ nhân văn
hóa Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với chủ nhân văn hóa Bàu Tró là người tiền Mã Lai –
Pôlinêdi và chủ nhân của văn hóa sơ kì đồng thau miền cao nguyên Lâm Đồng là người tiền
Môn – Khơme hay tiền Nam Á. Ngoài ra còn có những mối giao lưu rộng rãi với các cư dân
kim khí Đông Nam Á hải đảo và lục địa. Qua đó có thể thấy chủ nhân của nền văn hóa này
nói tiếng Nam Đảo hay Malai – Pôlinêdi với nhiều yếu tố Nam Á.
- Thành tựu văn hóa
Một đặc trưng tiêu biểu của văn hóa Sa Huỳnh là hình thức mai táng bằng chum gốm
với nhiều hình dạng như hình cầu, hình trứng, hình trụ… Trong và ngoài chum chứa nhiều
đồ tùy táng với các chất liệu đá, thủy tinh, đồng, sắt…
Công cụ lao động và vũ khí chủ yếu bằng đồng, sắt như dao, rựa, giáo, mai, liềm,
thuổng, kiếm, qua… Cùng với việc đạt đến trình độ cao của kĩ thuật chế tạo đồ sắt, cư dân
văn hóa Sa Huỳnh còn đạt đến bước phát triển cao với các nghề se sợi, dệt vải, chế tạo đồ
gốm, làm đồ trang sức.

15
Nền kinh tế của cư dân văn hóa Sa Huỳnh là nền kinh tế đa thành phần. Bên cạnh
làm nông họ còn biết khai thác những nguồn lợi từ biển, rừng, biết phát triển các nghề thủ
công, mở rộng quan hệ buôn bán với các cư dân trong khu vực Đông Nam Á lục địa và hải
đảo, và rộng hơn là với Ấn Độ, với Trung Hoa.
* Văn hóa Đồng Nai
Cư dân Đồng Nai có mặt ở vùng đồng bằng Nam Bộ cách ngày nay khoảng 4.000 –
5.000 với không gian sinh sống gắn chặt với vùng đất cửa sông, giáp biển. Các cư dân ấy là
lớp người đầu tiên đến lập nghiệp ở vùng đất này và xây dựng nên văn hóa Đồng Nai, đặt
nền móng cho thời kì chinh phục vùng châu thổ sông Cửu Long, tức thời kì của văn hóa Óc
Eo vào những thế kỉ đầu công nguyên sau này.
Hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân Đồng Nai là nghề nông và nghề thủ công.
Trong trồng trọt, lúa là loại cây lương thực chính. Người Đồng Nai còn khai thác các sản vật
rừng và săn bắn. Nghề thủ công của họ khá phát triển, thể hiện ở chế tác các đồ trang sức
bằng đá, thủy tinh, sắt, đồng…
Đời sống tinh thần của cư dân Đồng Nai còn nặng tín ngưỡng bái vật giáo được thể
hiện qua nghệ thuật tạo hình: các di vật như tượng lợn rừng, rùa bằng sa thạch, tượng chó
săn mồi bằng đồng… Ngoài ra còn phải kể tới sưu tập đàn đá hơn 60 thanh.
Ngoài ra còn có sự hội nhập của không ít yếu tố văn hóa láng giềng như trống đồng
Đông Sơn, khuyên tai hai đầu thú, khuyên tai ba mấu của văn hóa Sa Huỳnh…
1.2.3.2. Văn hoá Việt Nam thiên niên kỷ đầu công nguyên
1.2.3.2.1. Văn hóa ở châu thổ Bắc bộ thời Bắc thuộc
* Bối cảnh văn hóa lịch sử
Vào những thế kỷ cuối của thiên niên kỷ trước công nguyên, nền văn hóa Việt cổ bắt
đầu chịu những thử thách lớn. Quốc gia Văn Lang, sau đó là Âu Lạc và dân tộc hầu như vừa
mới được xác lập và tồn tại chưa bao lâu đã rơi vào tình trạng bị đô hộ. Năm 179 T.CN,
Triệu Đà vua nước Nam Việt đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Đông - Trung Quốc ngày
nay) xâm chiếm nước Âu Lạc, chia Âu Lạc ra thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Năm
111 T.CN, nhà Hán chiếm được nước Nam Việt, đổi vùng đất của Âu Lạc thành châu Giao
Chỉ, dưới đó là bảy quận, với chức quan đầu châu là Thứ sử, đầu quận là Thái thú. Thời kỳ
này kéo dài từ năm 179 T.CN tới năm 938 với chiến thắng của Ngô Quyền mở đầu cho kỷ
nguyên độc lập thời tự chủ của quốc gia Đại Việt. Thời kỳ này thường được gọi là thời
nghìn năm Bắc thuộc, song có lẽ đúng hơn là thời Bắc thuộc và chống Bắc thuộc vì người
Việt chưa bao giờ chịu khuất phục.
Trong diễn trình lịch sử văn hóa, bên cạnh xu hướng Hán hóa là xu hướng chống Hán
hóa mạnh mẽ, gìn giữ bản sắc của dân tộc Việt, văn hóa Việt. Cùng với việc xâm lược lãnh
thổ, nhà Hán và sau này là các triều đại tiếp theo của phong kiến phương Bắc đã tiến hành
đồng hóa về mặt dân tộc và văn hóa. Trong thời kỳ này, đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt

16
là đấu tranh để bảo vệ bản sắc văn hóa của mình, chống lại chính sách đồng hóa, đồng thời
vẫn tiếp tục cố gắng phát triển, cố gắng duy trì và nung nấu quyết tâm giải phóng đất nước,
giải phóng dân tộc.
* Tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt – Hán
Cùng với việc xâm chiếm và thôn tính đất đai của người Việt, giai cấp thống trị Hán
đã tiến hành những chính sách đồng hóa văn hóa Việt trên mọi phương diện.
+ Ở lĩnh vực chính trị - xã hội, kẻ thống trị Hán có ý thức di thực mô hình tổ chức
chính trị và sinh hoạt xã hội của Trung Hoa sang đất Việt với mục đích thiết lập trên đất này
một cơ cấu xã hội, một thể chế chính trị, một phương thức canh tác và một phong tục tập
quán giống như Trung Hoa. Đó là các chính sách bắt dân bản xứ học tập như người Hán, ăn
mặc, tổ chức xã hội, làm ruộng giống người Hán. Ngoài ra còn có những cuộc di cư ồ ạt từ
phương Bắc xuống sống lẫn với người Việt để đồng hóa người Việt.
+ Ở lĩnh vực tư tưởng là sự truyền bá các học thuyết, các tôn giáo của phương Đông,
là sự du nhập của đạo Nho, đạo Lão – Trang… vào Việt Nam.
+ Sự tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt – Hán còn để lại dấu ấn trong
những lĩnh vực khác như cách ăn, mặc, ở, đi lại, phương thức sản xuất, quan hệ xã hội, tiếng
nói…
Nhưng Hán hóa với mục tiêu là đồng hóa thì bọn xâm lược phương Bắc không thành
công. Điều đó là do trong suốt thời gian này, bên cạnh hướng Hán hóa đã có một chiều
hướng khác luôn hạn chế và làm biến chất cái áp đặt từ bên ngoài. Đó là chiều hướng chống
Hán hóa để giữ gìn bản sắc của dân tộc. Vì thế từ đầu công nguyên trở đi, nền văn minh
Đông Sơn mà sợi dây liên kết là Nhà nước Âu Lạc với thiết chế xã hội là chế độ Lạc tướng
đã bị giải thể cấu trúc. Những mảnh vụn của nền văn minh này cùng với cái “thần thái Đông
Sơn” của nó tuy không bị mất đi nhưng một mặt đã hòa tan vào nền văn hóa dân gian của
các làng Việt cổ và các thành phần tộc người khác của miền Đông Dương và Đông Nam Á;
mặt khác đã và sẽ gá lắp với những thể chế văn minh ngoại sinh tới từ phía Trung Hoa, Ấn
Độ… để dần dần tạo nên một sắc thái văn minh mới.
* Giao lưu văn hóa tự nhiên Việt - Ấn
Ngay từ thời Đông Sơn, người Việt cổ đã tiến hành giao lưu rộng rãi với nhiều vùng
trong khu vực. Trong giai đoạn thiên niên kỉ I sau công nguyên, bên cạnh giao lưu với văn
hóa Hán, luồng ảnh hưởng của văn hóa phương Nam mà tiêu biểu là văn hóa Ấn Độ đã theo
Phật giáo du nhập vào nước ta. Phật giáo từ Ấn Độ truyền bá vào đất Việt và Trung Quốc,
rồi từ Trung Quốc truyền dội sang đất nước ta từ rất sớm, khoảng thế kỉ I, II đầu công
nguyên.
Ở đời Hán, ba trung tâm Phật giáo là Lạc Dương ở Hà Nam (kinh đô nhà Hậu Hán),
Bành Thành ở Giang Tô và trung tâm Luy Lâu ở đất nước ta. Trung tâm Luy Lâu có thể
được hình thành do sự viếng thăm của những thương nhân và tăng sĩ Ấn Độ theo thuyền mà

17
tới bằng đường biển và đường sông. Đạo Phật tại Giao Châu chắc chắn do từ Ấn Độ truyền
sang trực tiếp, mãi về sau mới lại do từ Trung Hoa tiếp tục truyền xuống.
Thương gia Ấn Độ đến Giao Châu phải ở lại đây cho đến năm tới, chờ gió mùa Đông
Bắc để trở về Ấn Độ. Một số tăng sĩ có thể ở lại hẳn Luy Lâu. Họ sống với người Việt và
Hoa kiều, và đã ảnh hưởng tới những người này bằng tiếng nói, lối sống và đạo Phật. Người
Việt đã tiếp thu nhiều thành tựu văn hóa vật chất, ngôn ngữ và tinh thần Ấn Độ trong đó có
Phật giáo.
* Giữ gìn, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc
Từ trong các xóm làng cổ, người Việt thời Bắc thuộc vẫn bảo tồn và phát huy cái vốn
liếng văn hóa bản địa, nội sinh tích lũy được qua hàng nghìn năm trước.
Trên cơ sở vốn liếng văn hóa bản địa vững chắc, sự hấp thụ các yếu tố văn hóa Đông
Nam Á, Ấn Độ, Trung Á và Tây Á… có tác dụng trung hòa những ảnh hưởng văn hóa
Trung Hoa, khiến cho văn hóa Việt cổ thời Bắc thuộc vẫn mang tính chất độc đáo, đặc thù,
khác và vẫn có thể phân biệt được với văn hóa Trung Hoa. Nhân dân ta đã biến những của
cải đi vay thành tài sản của dân tộc để bồi dưỡng, xây dựng và phát triển nền kinh tế và văn
hóa dân tộc.
Ngay trong khi vay mượn, nhân dân ta vẫn thể hiện được tinh thần sáng tạo. Ví dụ
như từ chỗ tiếp thu kĩ thuật làm giấy của Trung Quốc, nhân dân ta đã biết tìm tòi, khai thác
nguyên liệu địa phương để chế tác những loại giấy tốt, chất lượng và có phần hơn giấy sản
xuất ở miền nội địa Trung Hoa. Hay là trong khi chịu ảnh hưởng của kĩ thuật gốm sứ Trung
Quốc, ta vẫn sản xuất ra các mặt hàng độc đáo như sanh hai quai, ống nhổ, bình con tiện có
đầu voi, bình gốm có nạm hạt đá ở chung quanh cổ tựa như loại “iang” của đồng bào
Mơnông gần đây.
Biểu hiện rõ rệt của sự bảo tồn nòi giống và văn hóa Việt là sự bảo tồn tiếng Việt –
tiếng mẹ đẻ, tiếng nói của dân tộc. Khi bị đế chế Trung Hoa chinh phục và kiểm soát chặt
chẽ, tiếng Hán và chữ Hán được du nhập ồ ạt vào nước ta. Song nó không thể tiêu diệt được
tiếng Việt bởi lý do rất đơn giản là chỉ một lớp người thuộc tầng lớp trên học. Nhân dân lao
động trong các xóm làng Việt cổ vẫn sống theo cách sống riêng của mình, cho nên họ duy
trì được tiếng nói của tổ tiên, tiếng nói biểu hiện cuộc sống và tâm hồn Việt. Nói như vậy
không có nghĩa là tiếng Việt không có sự thay đổi dưới tác động của ngôn ngữ Hán. Tiếng
Việt đã phát triển ngày càng xa với trạng thái ban đầu của nó do có tiếp thu nhiều yếu tố của
ngôn ngữ Hán. Tiếng Việt có nhiều từ gốc Hán, và chúng được nhân dân biến đổi để trở
thành những từ Hán – Việt. Ngoài ra, tiếng Việt cũng tiếp thu nhiều ảnh hưởng của ngôn
ngữ Mã Lai, Tạng-Miến và nhất là Ấn Độ làm cho vốn từ tiếng Việt thêm phong phú. Về
mặt chữ viết, người Việt cũng tiếp nhận một cách sáng tạo loại hình chữ khối vuông của chữ
Hán để ghi âm tiếng Việt đã dẫn đến sự hình thành chữ Nôm.

18
Phong tục, lễ giáo, văn học nghệ thuật trong thời kỳ Bắc thuộc vẫn được duy trì và
phát huy mạnh mẽ. Nhiều tục lệ cổ truyền khác vẫn được bảo tồn như tục cạo tóc hay búi
tóc, tục xăm mình, tục chôn người chết trong quan tài hình thuyền hay thân cây khoét rỗng,
tục nhuộm răng, ăn trầu…
Tục thờ cúng các anh hùng huyền thoại và các anh hùng lịch sử như Hai Bà Trưng,
Bà Triệu, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan… được người Việt thực hiện thường
niên. Các tín ngưỡng và lễ hội nông nghiệp của cư dân lúa nước vẫn giữ được sức sống của
nó trong lòng các làng xã.
Về âm nhạc, bên cạnh một số nhạc cụ chịu ảnh hưởng của Trung Hoa như khánh,
chuông… chịu ảnh hưởng của Ấn Độ và Trung Á như trống cơm, hồ cầm,… vẫn tồn tại
những dụng cụ độc đáo của nền nhạc Việt như trống, khèn, cồng chiêng…
Đứng trên phương diện thể chế chính trị và cơ cấu xã hội hạ tầng, có thể nói, trong
thời Bắc thuộc người Việt mất nước chứ không mất làng. Giống như một học giả phương
Tây đã nhận xét, qua Bắc thuộc, nước Việt như một tòa nhà chỉ bị thay đổi mặt tiền mà
không bị thay đổi cấu trúc bên trong. Đó là một hạn chế rất lớn của nền Bắc thuộc và cũng
là một lợi thế quan trọng của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống đồng hóa, giành lại
độc lập dân tộc.
1.2.3.2.2. Văn hóa Chămpa
Người Chăm lập quốc vào khoảng thế kỉ thứ II, sau khi thoát khỏi ách độ hộ của
phong kiến Trung Quốc, và cho đến tận thế kỉ XV, vương quốc Chămpa tan rã. Trong quá
khứ, vương quốc này trải dài dọc theo Trung Bộ: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên,
Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Nha Trang, Khánh Hoà, Phan Rang - Phan
Thiết. Từ rất sớm (vào những thế kỉ trước công nguyên), thông qua các hoạt động thương
mại và truyền giáo, người Chăm đã giao lưu với văn hoá Ấn một cách hoà bình.
* Đời sống kinh tế
Người Chăm có một nền kinh tế đa thành phần mà trước hết là nghề nông trồng lúa
nước – dâu tằm – bông – hoa màu; nghề rừng khai thác lâm thổ sản như quế, trầm hương,
hạt tiêu...; nghề biển; nghề thủ công như rèn, dệt vải lụa, làm gốm, chế tạo đồ thủy tinh, đá
ngọc...
Người Chăm có những tiến bộ về nông nghiệp mà đầu tiên là phát hiện ra giống lúa
chịu hạn (lúa Chiêm), gieo cấy cả hai vụ từ tháng 7 đến tháng 10 trồng lúa trắng ở ruộng
bạch điền, từ tháng 12 đến tháng 4 trồng lúa đỏ ở ruộng xích điền. Để thích ứng với đất khô
hạn, người Chăm có hàng loạt biện pháp thủy lợi như cọn nước, giếng, hồ đập... đặc biệt là
hệ thống khai thác nước mạch chảy ra từ những cồn cát, đồi gò mà vết tích hiện nay vẫn còn
thấy ở Ninh Thuận, Bình Thuận...
* Đời sống tôn giáo
Hầu như tất cả các tôn giáo của Ấn Độ đều có mặt trong văn hoá Chăm, trong đó

19
Bàlamôn giáo là tôn giáo có ảnh hưởng lớn nhất.
- Brahmanism là tiền thân của Hinđu giáo (Ấn Độ giáo ngày nay), với ý niệm trung
tâm là bộ ba gồm các thần: Brahma (thần sáng tạo đầy quyền năng) - Visnu (thần bảo trợ và
bảo tồn) - Siva (thần huỷ diệt). Trong bộ ba này, người Chăm đặc biệt coi trọng vai trò của
Thần Siva, khiến cho việc thờ phụng Siva trở thành một nhánh tôn giáo phát triển khá độc
lập, khiến có thể hiểu Brahmanism của người Chăm là Siva giáo.
- Siva giáo và tín ngưỡng phồn thực bản địa của người Chăm hoà trộn với nhau để
tạo thành một thứ tôn giáo hỗn dung. Theo đó, Siva được hoá thân dưới dạng Linga hay
hiện diện đi kèm với Linga - với tư cách là những đối tượng thờ cúng của người Chăm.
* Kiến trúc – điêu khắc
Người Chăm để lại một di sản kiến trúc đầy tính nghệ thuật và tinh tế. Đó là các quần
thể kiến trúc - điêu khắc mà chủ yếu là quần thể các tháp Chàm.
Tháp Chăm đứng sừng sững uy nghi trước sóng gió, chúng có mặt rải rác từ ven biển
lên đến Tây Nguyên, suốt dọc miền Trung từ Bắc vào Nam – khắp nơi có người Chăm cư
trú. Thống kê cho biết hiện còn 19 khu tháp với hơn 40 kiến trúc lớn nhỏ. Số lượng các phế
tháp do bom đạn tàn phá và hủy diệt là chưa thể xác định được. Theo khảo sát và thống kê
của H. Parmentier vào năm 1904-1909, riêng lòng chảo Mĩ Sơn (Quảng Nam) đã có tới trên
70 kiến trúc.
Về kiến trúc quần thể, tháp Chăm có hai loại: Loại thứ nhất là các quần thể kiến trúc
bộ ba gồm tháp song song thờ ba vị thần Brahma, Visnu, Siva. Loại thứ hai là các quần thể
kiến trúc có một tháp trung tâm thờ Siva và các tháp phụ vây quanh. Loại này thường xuất
hiện muộn hơn (khoảng thế kỉ IX); có những nơi trước vốn là quần thể kiến trúc bộ ba, đến
khi tu chỉnh đã được chuyển thành loại quần thể có một tháp trung tâm.
Về chức năng, hầu hết tháp Chăm đều mang tính chất lăng mộ thờ vua (ta theo hình
thức mà gọi là “tháp”, nhưng người Chăm thì gọi chúng là kalăn, có nghĩa là “lăng”). Ngoài
chức năng lăng mộ thờ vua, tháp Chăm còn là đền thờ thần bảo trợ của nhà vua. Chính vì
chức năng lăng mộ và đền thờ nên nội thất tháp Chăm rất chật hẹp, nó chỉ đủ chỗ cho các
pháp sư hành lễ chứ không phải là nơi tín đồ hội tụ và cầu nguyện.
* Văn tự, lịch pháp, âm nhạc
Người Chăm tiếp thu hệ thống văn tự Ấn Độ cổ (chữ Phạn - Sancrit) để tạo ra chữ
viết riêng của họ.
Từ thời xưa, người Chăm đã biết dùng lịch. Có một lịch pháp Ấn Độ đã du nhập vào
Chămpa và người Chăm đã dùng lịch này từ đó đến nay.
Âm nhạc và múa có vai trò rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người Chăm,
nhất là những nghi lễ và hội lễ mang tính chất tín ngưỡng, tôn giáo như lễ Tết Katê, lễ mở
cửa thánh, lễ cầu đảo, các lễ Chà Và lớn và nhỏ, những buổi lên đồng. Trống Baranưng và
trống Kynăng là hai loại trống tiêu biểu cho nhạc cụ gõ của người Chăm. Trong nhạc cụ hơi,

20
chiếc kèn Saranai có vị trí đặc biệt. Múa là loại hình nghệ thuật gắn bó với người Chăm như
hình với bóng. Người Chăm có các loại múa như múa sinh hoạt, múa tôn giáo, múa tập thể
và độc diễn, múa đạo cụ và múa bóng...
1.2.3.2.3. Văn hóa Óc Eo
Óc Eo là tên một di tích khảo cổ học ở cánh đồng Giồng Cát – Giồng Xoài, nơi lần
đầu tiên phát hiện ra di chỉ của một nền văn hoá, được người Pháp tiến hành khai quật vào
năm 1944. Hiện nay, địa danh này thuộc tỉnh An Giang.
Chủ nhân của nền văn hoá Óc Eo, cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Một
số học giả cho rằng, chủ nhân của nền văn hoá này là thuỷ tổ của người Khơ-me ngày nay,
một số quan điểm khác lại coi đây là nền văn hoá của giống người thuộc chủng Indonesia,
sử dụng tiếng Nam Đảo là chủ yếu. Nền văn hoá rực rỡ này đã tàn lụi vào khoảng thế kỉ thứ
VIII, và hiện nay người ta chỉ biết về nó thông qua các di chỉ khảo cổ.
Các di chỉ khảo cổ cho thấy, địa bàn cư trú của người của người Óc Eo trải rộng khắp
các tỉnh Nam Bộ ngày nay, ở nhiều tiểu vùng sinh thái khác nhau và ở mỗi tiểu vùng này có
những đặc trưng riêng về cách xây cất nhà ở, đền tháp, cách thức làm ăn, đi lại. Có các tiểu
vùng như tiểu vùng tứ giác Long Xuyên, tiểu vùng Đồng Tháp Mười, tiểu vùng ven biển
Tây Nam (vùng U Minh – Năm Căn), tiểu vùng rừng sát duyên hải, tiểu vùng ven biển
Đông, tiểu vùng Đông Nam Bộ...
Người Óc Eo ở nhà đất và nhà sàn, phổ biến là nhà sàn. Họ trồng trọt trên nhiều loại
thổ nhưỡng khác nhau, chủ yếu là trồng lúa. Ngoài ra còn có trồng dừa, mía, cau và nhiều
loại cây ăn quả khác. Hoạt động chăn nuôi thuần dưỡng khá phát triển như nuôi trâu, bò,
lợn, chó... Nghề thủ công phát triển cao, rất đa dạng và tinh xảo nhất là nghề làm trang sức
bằng vàng, rồi nghề gia công kim loại màu, nghề chế tác đá, nghề làm gốm... Ngoài các hoạt
động sản xuất, hoạt động trao đổi buôn bán cũng khá phát triển ở cư dân Óc Eo.
Người Óc Eo ảnh hưởng mạnh văn hoá Ấn Độ. Cư dân theo Bàlamôn giáo, Phật
giáo, thờ cúng Linga. Hệ thống đền đài và lăng tẩm khá quy mô, tất cả đều mang hơi hướng
của nền văn hoá Ấn.
Tóm lại, có thể nhận ra Phật giáo là "mẫu số chung" của những lần giao lưu với văn
hoá Ấn. Vì yếu tố này hiện diện nhiều lần trong các đợt lan toả trực tiếp và thứ phát. Điều
đó giúp lí giải vì sao Phật giáo lại là yếu tố văn hoá ngoại sinh song lại có ảnh hưởng mạnh
mẽ nhất tại Việt Nam.
1.2.3.3. Văn hoá Việt Nam thời tự chủ
1.2.3.3.1. Bối cảnh văn hóa lịch sử
Thời tự chủ của quốc gia Đại Việt kéo dài suốt gần một thiên niên kỉ, từ năm 938 cho
đến năm 1858. Giai đoạn này có nhiều biến đổi tự thân trong nội bộ quốc gia, dân tộc, đồng
thời cũng lại là thời kì có biến đổi nhiều từ ngoại cảnh.
Sau chiến thắng Bạch Đằng, Đại Việt bước vào thời kì xây dựng quốc gia độc lập.

21
Diễn trình lịch sử từ năm 938 đến 1858 diễn ra với những đặc điểm sau:
- Các vương triều liên tục thay thế nhau xây dựng một quốc gia tự chủ.
- Đất nước được mở rộng dần về phương Nam, đến giữa thế kỉ XVIII, việc khai phá
miền Nam Bộ đã cơ bản hoàn thành. Sau năm 1786 và năm 1802, đất nước Việt Nam có
một lãnh thổ thống nhất từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau.
- Thời kì này có các cuộc xâm lược liên tiếp của phong kiến phương Bắc và những
cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước của cư dân Việt.
- Văn hóa Việt Nam thời tự chủ có ba lần phục hưng lớn: lần thứ nhất là thời Lý –
Trần; lần thứ hai vào thế kỉ XV từ đời Lê Thái Tổ đến đời Lê Thánh Tông; lần thứ ba vào
cuối thế kỉ XVIII.
1.2.3.3.2. Đặc trưng văn hóa thời Lý – Trần
Với việc dời đô về Đại La và đổi tên là thành Thăng Long, nhà Lý đã mở đầu một
giai đoạn phục hưng văn hóa Đại Việt. Nhà Trần tiếp tục sự nghiệp của nhà Lý, đưa đất
nước tiếp tục phát triển về mọi mặt.
* Văn hóa vật chất
Sau dời đô, tại Thăng Long, nhà Lý cho xây dựng nhiều cung điện, đền đài, thành
lũy. Thành Thăng Long là một công trình xây dựng thành lũy lớn nhất trong các triều đại
phong kiến với hai vòng, thành dài khoảng 25 km, bên trong lại có những cung điện cao ba
bốn tầng.
Kiến trúc và điêu khắc phát triển, chủ yếu là các công trình chùa chiền như chùa Một
Cột, tháp Báo Thiên, chùa Giạm… Nghệ thuật điêu khắc trên đá, trên gốm thể hiện một
phong cách đặc sắc và tay nghề khá thuần thục. Bố cục tượng gọn, đẹp và cân xứng nhưng
không trùng lặp và đơn điệu. Từng chi tiết được chú ý khi chạm trổ, những đường cong
mềm mại, gợi tả nên rất thanh thoát và nhẹ nhàng.
Các nghề thủ công cũng rất phát triển như nghề dệt, nghề gốm, mĩ nghệ… Đã hình
thành những làng nghề chuyên sản xuất một mặt hàng nhất định như làng Ma Lôi (Hải
Hưng). Kinh thành Thăng Long mở rộng chia thành 61 phường, tại đây không chỉ có chợ
mà còn có những phường thủ công và phố xá buôn bán.
* Hệ tư tưởng
Đặc trưng nổi trội thời Lý – Trần là sự dung hòa Tam giáo Nho – Phật – Đạo hay còn
gọi là Tam giáo đồng nguyên. Tinh thần văn hóa Lý – Trần là tinh thần khai phóng đa
nguyên, phối hợp Phật, Nho, Đạo cùng các tín ngưỡng dân gian khác kể cả ảnh hưởng của
tôn giáo Chămpa.
* Văn hóa tinh thần
Nhà Lý bắt đầu chăm lo mở mang học tập và thi cử để đào tạo nhân tài và tuyển lựa
quan lại có năng lực cho bộ máy hành chính. Năm 1070 cho xây dựng Văn Miếu, năm 1076
mở Quốc Tử Giám làm nơi học tập cho con em quý tộc, năm 1975 mở khoa thi đầu tiên để

22
chọn nhân tài…
Các hình thái văn hóa dân gian như lễ hội, tín ngưỡng, phong tục, truyện dân gian,
hát múa, điêu khắc được phục hưng và lưu truyền cho đến tận ngày nay.
Nền văn hóa bác học hình thành và phát triển. Văn học chữ viết được hình thành với
một đội ngũ tác giả hùng hậu. Bên cạnh dòng văn học viết bằng chữ Hán, lịch sử thời kì này
chứng kiến sự hình thành của văn học chữ Nôm.
1.2.3.3.3. Đặc trưng văn hóa thời Minh thuộc và Hậu Lê
Cuối thời nhà Trần, nhà Hồ thay thế một khoảng thời gian rất ngắn (1400 - 1407). Hồ
Quý Ly đã tiến hành những cải cách có những mặt tiến bộ nhất định. Nhưng các chính sách
cải cách này chưa đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội và chưa trả lời được những câu hỏi lớn
của dân tộc đang đặt ra một cách gay gắt. Tháng 4 năm 1407, sau khi chiếm được Đại Việt,
nhà Minh đổi nước ta thành quận Giao Chỉ, tiến hành một chính sách cai trị vô cùng tàn bạo
nhằm thủ tiêu nền độc lập của Đại Việt và thủ tiêu luôn cả nền văn hóa của nước ta. Toàn
thể dân tộc Đại Việt đứng trước một thử thách vô cùng ngặt nghèo.
Cuộc tụ nghĩa ở Lam Sơn của người dân, của những thức giả có lòng yêu nước đã
dẫn đến chiến thắng của dân tộc Đại Việt trước sự xâm lược và đô hộ của nhà Minh. Trang
sử mới của đất nước được mở ra, văn hóa dân tộc bước vào thời kì phục hưng lần thứ hai.
* Hệ tư tưởng
Nho giáo đã nhanh chóng chiếm một địa vị ưu thế so với các tôn giáo khác. Nho giáo
thời Lê chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo đời Tống. Phật giáo, Đạo giáo bị lấn át, nhất là
Phật giáo mất vị trí ưu thế của mình đã có từ thời Lý – Trần.
* Văn hóa vật chất
Nhà Lê rất quan tâm đến đê điều và các công trình thủy lợi. Một số đê điều được tu
bổ lại, một số đê mới ở ven biển được đắp để ngăn mặn có kè đá chắc chắn.
Sau một thời gian bị tàn phá nặng nề, các ngành nghề, làng nghề lại tiếp tục phát
triển. Nhiều trung tâm thủ công nghiệp xuất hiện, kinh thành Thăng Long chia lại 36
phường. Nhiều phường có phố xá buôn bán và sản xuất thủ công nghiệp. Riêng quan hệ
buôn bán với nước ngoài nhà Lê có phần hạn chế nên ngoại thương cũng không phát triển
bằng thời Lý – Trần.
Kiến trúc và điêu khắc chịu sự tác động của hệ tư tưởng mà triều đình lựa chọn.
* Văn hóa tinh thần
Vương triều Lê chú trọng mở mang giáo dục. Chế độ đào tạo Nho sĩ được xây dựng
theo một xu hướng rất chính quy. Nội dung học tập chủ yếu là các sách kinh điển của Nho
giáo. Đối tượng người học có phần cởi mở hơn lúc trước, có cả con em bình dân, không kể
giàu nghèo. Chế độ thi cử khá quy cũ. Từ 1422 trở đi, cứ 3 năm có một lần thi Hội ở kinh
thành, tại các địa phương có thi Hương, triều đình đặt ra lễ xướng danh, lễ vinh quy và lễ
khắc tên mỗi người đỗ tiến sĩ vào bia đá dựng ở Văn Miếu gọi là bia tiến sĩ.

23
Văn hóa ngôn từ, văn học chữ Nôm vẫn không ngừng phát triển. Quốc âm thi tập của
Nguyễn Trãi là bài thơ Nôm cổ nhất hiện còn. 28 hội viên của hội Tao Đàn để lại khá nhiều
tác phẩm, về hình thức tuy còn khuôn sáo nhưng có ít nhiều đóng góp cho tiến trình văn
học, văn hóa của dân tộc.
Một số loại hình như ca, múa nhạc vẫn tiếp tục phát triển. Tuồng chèo là hai thể loại
sân khấu đã đạt đến sự ổn định về mặt nghệ thuật. Cuốn Hý phường phả lục của Lương Thế
Vinh đã hoàn thành năm 1501 là tác phẩm lý luận đầu tiên về kịch hát cổ truyền chứng tỏ
bước phát triển của tư duy nghệ thuật dân tộc về phương diện lý luận.
Tín ngưỡng thờ cúng Thành hoàng có sự thay đổi cả về lượng lẫn diện mạo. Đình
làng trở thành trú sở của thần linh ở mỗi làng quê và cũng mang chức năng mới – công sở
của làng xã, nơi ban bố chính lệnh của Nhà nước.
Thành tựu đáng ghi nhận ở thời kì này là bộ luật Hồng Đức, bao gồm cả luật hình sự,
luật hôn nhân và gia đình, luật dân sự và tố tụng. Bộ luật này được thi hành cho đến cuối thế
kỉ XVIII, về sau có bổ sung thêm một số điều, tổng cộng là 721 điều chia làm 6 quyển, 16
chương. Bộ luật Hồng Đức là một bước phát triển quan trọng của lịch sử pháp quyền Việt
Nam.
1.2.3.3.4. Đặc trưng văn hóa từ thế kỉ XVI đến năm 1858
Đặc điểm của thời kì này là sự phân liệt về chính trị một cách gay gắt. Sự xung đột
giữ nhà Mạc và nhà Lê rồi sự xung đột gay gắt giữa nhà Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài với các
chúa Nguyễn ở Đàng Trong, sự thống nhất đất nước buổi đầu của Nguyễn Huệ và sau đó là
nhà Nguyễn của vua Gia Long đã tạo cho văn hóa giai đoạn này một diện mạo khá đa dạng.
* Hệ tư tưởng
Trên thực tế, nhà Mạc chống lại tư tưởng độc tôn Nho giáo của nhà Lê, nhưng từ
trong tiềm thức của giai cấp phong kiến thì Nho giáo vẫn được bảo vệ để làm kỷ cương cho
đời sống xã hội. Tuy nhiên, tầng lớp Nho sĩ lúc này bị phân hóa, một số có tấm lòng ưu thời
mẫn thế thì hoặc lui về ở ẩn hoặc tham gia các cuộc khởi nghĩa của nông dân; còn đa số đua
chen vào con đường danh lợi.
Sự suy sụp của Nho giáo kéo dài cho đến đầu thế kỉ XIX. Bắt đầu từ vua Gia Long
cho tới Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức đều ra sức củng cố địa vị của Nho giáo nhưng vẫn
không làm cho Nho giáo có được vị thế như nó đã từng có ở thế kỉ XV.
Bắt đầu từ thế kỉ XVI, một tôn giáo mới được du nhập vào nước ta là Kitô giáo. Sự
phát triển của Kitô giáo ở Việt Nam có phần khác biệt với Nho giáo, Phật giáo ở Việt Nam.
Từ thế kỷ XVII, khi vào nước ta để truyền đạo, các giáo sĩ đã học tiếng Việt để giảng
đạo, dùng chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt nên chữ Quốc ngữ dần dần xuất hiện.
* Sự phát triển của các ngành văn hóa nghệ thuật
Nét đáng chú ý của văn học giai đoạn này là văn Nôm, được khởi phát từ các giai
đoạn trước đã ngày càng phát triển. Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ đã dùng văn Nôm để

24
sáng tác, và sang đến thế kỷ XVIII – XIX những tác phẩm chữ Nôm đã hoàn toàn chiếm ưu
thế trên văn đàn như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều,
thơ của Bà Huyện Thanh Quan, những truyện Nôm dài như Phan Trần, Nhị độ mai, Quan
Âm Thị Kính, Phạm Công – Cúc Hoa… Tương ứng với sự phát triển của văn học viết bằng
chữ Nôm là sự phát triển của thể lục bát và song thất lục bát, cùng những sáng tác dân gian
như truyện trạng, truyện cười, tục ngữ; các hình thức diễn xướng như hát tuồng, hát chèo,
hát ả đào… đều phát triển.
Về kiến trúc và điêu khắc là sự nở rộ của những công trình mang đậm màu sắc Phật
giáo và Đạo giáo như chùa chiền, đình đền… Bên cạnh những chủ đề tâm linh nhân thế,
điêu khắc đình làng thời kỳ này còn có những hoa văn phản ánh sinh hoạt văn hóa đời
thường. Nghệ thuật tạc tượng thế kỷ XVIII đã đạt đến một trình độ nghệ thuật điêu luyện.
Đáng chú ý là kiến trúc và điêu khắc thời các vua Nguyễn nửa đầu XIX, thể hiện qua các
công trình của Kinh đô Huế và các đền đài lăng tẩm.
1.2.3.4. Văn hoá Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1945
1.2.3.4.1. Bối cảnh văn hóa lịch sử
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam với lý do triều đình Huế
ngược đãi các giáo sĩ và cự tuyệt không nhận quốc thư của Pháp đòi tự do buôn bán – mở
đầu cho thời kỳ thực dân Pháp đô hộ nước ta.
Đứng trước vận mệnh lớn lao của lịch sử, nhân dân Việt Nam đã liên tục đứng lên
chống Pháp. Tất cả các phong trào yêu nước chống Pháp, bảo vệ độc lập dân tộc tuy rất kiên
cường nhưng đều bị thất bại.
Công cuộc bình định Việt Nam của thực dân Pháp căn bản hoàn thành và chúng bắt
tay vào công cuộc khai thác thuộc địa. Cả hai lần khai thác thuộc địa, thực dân Pháp không
hề chủ trương xóa bỏ các quan hệ kinh tế cổ truyền mà chủ trương duy trì các quan hệ ấy.
Vậy nên, diện mạo văn hóa xã hội Việt Nam thời kỳ này sẽ bao gồm cả quan hệ tư bản thực
dân và cả quan hệ phong kiến.
1.2.3.4.2. Đặc trưng văn hóa từ năm 1858 đến năm 1945
Giai đoạn này có hai đặc trưng văn hóa lớn là sự tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn
hóa Việt – Pháp; giao lưu văn hóa tự nhiên Việt Nam với thế giới Đông Tây.
* Hệ tư tưởng
Sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và phương Tây tạo ra sự chuyển mình
của hệ tư tưởng Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1945 diễn ra trong một thời kì đầy biến
động lớn về tư tưởng và chính trị.
Trên mặt bằng lịch sử, các hệ tư tưởng vào Việt Nam từ hàng nghìn năm trước vẫn
tồn tại ở xã hội mà căn bản vẫn là xóm làng với những người nông dân trồng lúa nước nên
hệ tư tưởng của họ là hệ tư tưởng thần thoại với một hệ thống thần linh đa dạng.
25
Hệ tư tưởng Nho giáo mất dần vị trí của mình khi ngày càng có nhiều luồng tư tưởng
mới du nhập vào Việt Nam như trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản qua các tân văn và tân thư
của Trung Quốc, các thuyết về nhân đạo, dân quyền của một số nhà tư tưởng phương Tây.
Các nhà Nho Việt đã từ biệt hệ tư tưởng cũ để tiếp thu các hệ tư tưởng mới này để tìm một
con đường khác trên hành trình cứu nước. Phan Bội Châu là một nhân chứng tiêu biểu. Đi
từ tư tưởng quân chủ chuyển sang tư tưởng dân chủ, và cuối đời ông còn viết sách về chủ
nghĩa xã hội.
Từ tấm lòng yêu nước, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu chủ nghĩa Mác –
Lênin rồi truyền bá vào Việt Nam. Giai cấp công nhân ngày càng phát triển và giác ngộ về
mình. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng lan rộng và có tổ chức. Đặc
biệt là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh dấu một bước ngoặt vô cùng quan
trọng trong lịch sử cách mạng nước ta. Nó chứng tỏ giai cấp vô sản đã trưởng thành và đủ
sức lãnh đạo cách mạng, đồng thời cũng khẳng định sự hiện diện của một hệ tư tưởng mới ở
Việt Nam.
* Văn hóa vật chất
Từ cuối thế kỷ XIX, tính chất của đô thị Việt Nam đã chuyển từ một trung tâm chính
trị văn hóa sang tính chất của một trung tâm công – thương nghiệp. Đó là các đô thị lớn như
Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn – Chợ Lớn, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Biên Hòa, Mỹ Tho…
Kiến trúc đô thị cũng phát triển không kém. Các kiến trúc Tây phương được đưa vào
Việt Nam nhưng đã được Việt Nam hóa. Giao thông vận tải có diện mạo mới với các con
đường liên tỉnh dài 20 ngàn km, hệ thống đường sắt dài với 2059 km (1912)…
* Văn hóa tinh thần
Báo chí tiếp tục phát triển và ngày càng có nhiều tờ báo nổi tiếng như Gia Định báo,
Phan Yên báo, Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn, Phụ nữ tân văn, Đăng cổ tùng báo,
Thực nghiệp dân báo, Trung Bắc tân văn…
Văn học lúc này là một thứ vũ khí của quần chúng để chống kẻ thù cướp nước, cổ
động cho sự tiến bộ xã hội nên văn học giai đoạn này có bước phát triển nhanh chóng về cả
nội dung và hình thức.
Với việc phổ biến chữ Quốc ngữ, mảng văn học bằng chữ Quốc ngữ đã phát triển với
các thể loại như kí sự, tiểu thuyết, văn xuôi, truyện ngắn, truyện dài… Về mặt nội dung, cái
tôi cá nhân, sự ý thức về cá nhân, tình yêu đôi lứa được thể hiện trong hầu hết các thể loại
của văn học.
1.2.3.5. Văn hoá Việt Nam từ năm 1945 đến nay
1.2.3.5.1. Bối cảnh văn hóa lịch sử
Cách mạng tháng Tám là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, toàn dân
Việt Nam bước sang một cuộc đời mới. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên
26
ngôn độc lập chấm dứt chế độ thực dân nửa phong kiến ở nước ta. Thế nhưng, chỉ hai chục
ngày sau đó – 23/9/1945, thực dân Pháp núp dưới bóng quân Anh, trong vai trò lực lượng
đồng minh sang giải giáp phát xít Nhật ở Đông Dương, gây hấn ở Nam Bộ. Ngày
19/12/1945, nghe theo lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân
tộc bước vào cuộc trường chinh kháng chiến để bảo vệ quyền độc lập dân tộc mới giành lại
được.
Ngày 21/7/1954, hiệp định Giơnevơ được kí kết, nước ta tạm thời chia thành hai
miền với hai thể chế chính trị khác nhau, quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ở hai miền
cùng tiến hành hai nhiệm vụ chính trị khác nhau. Miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã
hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Với chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của
dân tộc ta toàn thắng, giành lại toàn vẹn non sông.
1.2.3.5.2. Đặc trưng văn hóa từ 1945 đến nay
▪ Sự phát triển của văn hoá nghệ thuật chuyên nghiệp
Ngay từ khi hoà bình lập lại, lực lượng hoạt động văn hoá nghệ thuật chuyên nghiệp
được tổ chức lại.
Nghệ thuật điện ảnh có bước phát triển đột biến. Đã có những phim Việt Nam như
“Cánh đồng hoang” và một số phim khác đoạt giải thưởng quốc tế.
Đội ngũ hoạt động văn hoá được chú trọng nâng cao trình độ trở thành những nhà
hoạt động văn hoá nghệ thuật chuyên nghiệp. Hàng loạt tác giả ở mọi lĩnh vực như văn học
với Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận,… sân khấu như Đào Hồng Cẩm, Tào Mạt, Lưu
Quang Vũ…. điện ảnh như Hải Ninh, Trà Giang, Hồng Sến … tôi luyện qua hai cuộc
kháng chiến trở thành những tác giả, những nhà định hướng văn hoá chuyên nghiệp.
▪ Kế thừa và nâng cao giá trị văn hoá truyền thống
Nghệ thuật truyền thống như chèo, tuồng, mĩ thuật dân gian, việc kế thừa được thực thi
ở cả hai phương diện khôi phục, bảo tồn và chỉnh lí, cải biên.
Công tác sưu tầm, nghiên cứu về văn học cổ, về các tác giả Nguyễn Trãi, Nguyễn Du,
Hồ Xuân Hương…. đã đạt được những thành công đáng kể.
Vấn đề gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc được Đảng, Nhà nước đặt ở tầm vĩ mô để giải
quyết các công việc nhằm góp phần vào sự phát triển của văn hoá Việt Nam.
▪ Giao lưu văn hoá ngày càng mở rộng
Giai đoạn này giao lưu văn hoá diễn ra trong tự nhiên và tự giác. Nhiều hiệp định văn
hoá được ký kết giữa nước ta và nước bạn.

27
Sau năm 1954 khi Việt Nam là thành viên của phe xã hội chủ nghĩa sự giao lưu văn
hoá giữa Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và các nước Đông Âu cũng
như Trung Quốc được đẩy mạnh.
Trong khi đó ở miền Nam từ năm 1954 đến năm 1975 giao lưu văn hoá Việt Nam và
văn hoá Mỹ không phải là giao lưu tự nhiên mà giao lưu cưỡng bức.
Sau năm 1975 hai miền thống nhất việc giao lưu văn hoá giữa nước ta và thế giới càng
diễn ra mạnh mẽ hơn.
1.2.4. Văn hóa và phát triển (Quan niệm về phát triển; nét khác biệt giữa phát triển và
tăng trưởng; Vai trò của văn hoá trong phát triển - đọc tài liệu)
1.2.5. Văn hoá Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá (Tác động của toàn cầu hoá đối
với bản sắc dân tộc; Giữ gìn và làm giàu bản sắc văn hoá Việt Nam trong điều kiện
toàn cầu hoá - đọc tài liệu)

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP

1. Hãy giải thích ý kiến cho rằng: “Văn hóa là cái còn lại khi người ta đã quên đi tất cả,
là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả” (Edouor Herriot)
2. Từ cấu trúc, đặc trưng và chức năng văn hóa, hãy lí giải vì sao văn hóa được coi là
nền tảng, là nội lực của sự phát triển?
3. Hãy phân tích và chứng minh đặc trưng văn hóa các thời kì: Tiền sử và Sơ sử; Thiên
kỉ đầu công nguyên; Thời tự chủ; từ 1858 - 1945; từ 1945 đến nay ?
4. Hãy chỉ ra các cơ sở hình thành và quá trình hình thành nền văn hóa truyền thống
Việt Nam?

28
CHƯƠNG 2. CÁC THÀNH TỐ VĂN HÓA VIỆT NAM

2.1. Văn hoá vật chất


2.1.1. Văn hóa ẩm thực
Để duy trì sự sống, ăn uống là việc có tầm quan trọng số 1. Người Việt Nam nông
nghiệp với tính thiết thực công khai nói to lên rằng, có năng lượng vật chất mới nói đến
chuyện tinh thần.
“Có thực mới vực được đạo” ăn uống là văn hóa, đó là văn hóa tận dụng môi trường
tự nhiên, cho nên trong cơ cấu bữa ăn của người Việt bộc lộ rất rõ dấu ấn của truyền thống
văn hóa nông nghiệp lúa nước. Đó là cơ cấu ăn thiên về thực vật với lúa gạo là thành phần
đứng đầu bảng “người sống về gạo, cá bạo về nước”, “cơm tẻ mẹ ruột”, “đói thì thèm thịt
thèm xôi, hễ no cơm tẻ thì thôi mọi đường”. Không phải ngẫu nhiên mà bữa ăn của người
Việt Nam được gọi là bữa cơm.
Trong bữa ăn của ta, sau lúa gạo thì đến rau quả. Nằm trong khu vực là một trong
những trung tâm trồng trọt, Việt Nam có một danh mục rau quả mùa nào thức ấy phong phú
vô cùng. Đối với người Việt thì đói ăn rau, đau uống thuốc là chuyện tất nhiên. Thực đơn
của người Việt có nhiều món canh, món xào với đủ các loại rau xanh, các loại quả như bí,
bầu, mướp, đu đủ, cà… và cả các loại hoa như hoa bí, bắp chuối, thiên lý… Nói đến rau
trong bữa ăn thì không thể không nhắc đến 2 món đặc thù là rau muống và dưa cà: “Anh đi
anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương”…
Đứng thứ ba trong cơ cấu bữa ăn và đứng đầu trong hàng thức ăn động vật của người
Việt Nam là các loại thủy sản – sản phẩm đặc thù của vùng sông nước: Có cá đổ vạ cho
cơm; Con cá đánh ngã bát cơm… Từ các loại thủy sản người Việt đã chế tạo ra một thứ đồ
chấm đặc biệt là nước mắm và mắm các loại. Thiếu nước mắm thì chưa thành bữa cơm
Việt.
Cuối cùng chiếm một vị trí khiêm tốn trong cơ cấu bữa ăn Việt Nam mới là thịt. Phổ
biến thì như thịt gà, thịt lợn, thịt heo, thịt trâu… Đặc sản bình dân thì có thịt chó “Sống
được miếng dồi chó, chết được bó vàng tâm”, sơn hào hải vị thì có yến sào, gân hổ…
Các loại gia vị như hành, gừng, ớt, tỏi, riềng, rau mùi, rau răm… cũng là những thứ
không thể thiếu được trong bữa ăn người Việt.
Người nước ta có thói ăn trầu, nhai một miếng cau tươi hay khô với một miếng trầu
quyệt vôi, phụ thêm một miếng vỏ cây chát hay hột mây, hột móc. Người nước ta cũng có
tục hút thuốc lào. Thuốc lào là một thứ lá cây phơi khô xắt ra cho nhỏ rồi dùng điếu mà hút.
Có ba thứ điếu hút thuốc lào, điếu cày bằng ống tre, điếu bát bằng sành hay bằng sứ, và điếu
đóng bằng gỗ hay bằng ngà.
Rượu Việt Nam làm từ gạo và nếp. Gạo nếp được đem đồ xôi, ủ cho lên men rồi cất
ra. Rượu chế tạo như thế gọi là rượu trắng hoặc rượu đế, để phân biệt với rượu có ướp thêm

29
các thứ hoa gọi là rượu mùi. Cúng ông bà tổ tiên thì phải có ly rượu trắng.
Các đặc trưng trong văn hóa ẩm thực người Việt
Lối ăn uống của người Việt mang đậm tính tổng hợp. Đặc tính này thể hiện trước hết
trong cách chế biến đồ ăn. Hầu hết các món ăn Việt Nam đều là sản phẩm của sự pha chế
tổng hợp từ rất nhiều nguyên liệu, để đảm bảo một món ăn vừa có đủ ngũ chất (đạm-béo-
bột-khoáng-nước), ngũ vị (mặn-béo-chua-cay-ngọt), ngũ sắc (đen-đỏ-trắng-xanh-vàng)…
Tính tổng hợp còn thể hiện ngay trong cách ăn với mâm cơm dọn ra bao giờ cũng rất nhiều
món. Suốt bữa ăn là cả một quá trình tổng hợp các món ăn. Bất kì bát cơm nào, miếng cơm
nào cũng là sự tổng hợp nhiều món canh-rau-cá-thịt. Cái ngon của bữa ăn Việt Nam là tổng
hợp cái ngon của nhiều yếu tố: thức ăn ngon, hợp thời tiết, chỗ ăn ngon, bạn bè tâm giao,
không khí bữa ăn…
Tính tổng hợp kéo theo tính cộng đồng. Ăn tổng hợp, ăn chung cho nên các thành
viên trong bữa ăn có liên quan và phụ thuộc vào nhau. Vì vậy trong lúc ăn uống, người Việt
rất thích chuyện trò, thú uống rượu cần của người vùng cao cũng là biểu hiện tiêu biểu của
tính cộng đồng. Tính cộng đồng đòi hỏi mọi phải có một văn hóa ăn uống. Đó là “ăn trông
nồi, ngồi trông hướng”; “lời chào cao hơn mâm cỗ”; “ăn hết bị đòn ăn còn mất vợ”…
Trong cách ăn của người Việt thể hiện rõ tính linh hoạt, biện chứng. Chẳng hạn, có
bao nhiêu người ăn thì có bấy nhiêu cách tổng hợp khác nhau trong cách ăn. Tính linh hoạt
còn thể hiện ở dụng cụ ăn là đôi đũa. Nó có thể thực hiện nhiều chức năng như: gắp, và, xẻ,
xé, dầm, trộn,… nối cho cánh tay dài ra để gắp thức ăn. Người Việt Nam đặc biệt chú ý đến
quan hệ biện chứng âm dương trong việc ăn. Để tạo nên những món ăn có sự cân bằng âm
dương, người Việt phân biệt thức ăn theo 5 mức âm dương ứng với Ngũ hành: hàn, nhiệt,
ôn, bình, trung tính. Tập quán dùng gia vị ngoài các tác dụng kích thích dịch vị làm dậy mùi
thơm ngon của thức ăn còn có tác dụng điều hòa âm dương, thủy hỏa của thức ăn. Để đảm
bảo quân bình âm dương giữa con người với môi trường người, Việt có tập quán ăn uống
theo vùng khí hậu, theo mùa và chọn đúng bộ phận có giá trị để ăn. “chuối sau cau trước”,
“tôm nấu sống, bống để ươn”, “cơm chín tới, cải vồng non, gái một con, gà ghẹ ổ”…
2.1.2. Văn hóa trang phục
Đối với con người, sau ăn thì đến mặc là cái quan trọng. Nó giúp con người đối phó
với môi trường, với cái nóng, cái rét của thời tiết, khí hậu “được bụng no còn lo ấm cật”. Vì
vậy, quan niệm về mặc của người Việt hết sức thiết thực: “ăn lấy chắc mặc lấy bền”, “cơm
ba bát, áo ba manh, đói không xanh rét không chết”…
Từ mục đích ban đầu là đối phó với môi trường tự nhiên, mặc dần dần trở thành một
nhu cầu không thể thiếu trong mục đích trang điểm, làm đẹp cho con người: “Người đẹp vì
lụa, lúa tốt vì phân, chân tốt về hài, tai tốt về hoa”…
Mỗi dân tộc có một cách ăn mặc riêng, vì vậy mặc đã trở thành biểu tượng của văn
hóa dân tộc. Cái riêng trong cách ăn mặc của người Việt trước hết là cái chất nông nghiệp

30
trong chất liệu may mặc – đó là các chất liệu có nguồn gốc thực vật là sản phẩm của nghề
trồng trọt, cũng là chất liệu may mặc nhẹ thoáng phù hợp với xứ nóng. Đó là sợi gai, đay,
chuối, bông, tơ tằm…
Trang phục thường chọn các màu âm tính như đen, nâu, chàm, gụ, tím… và chỉ sử
dụng những trang phục có màu sắc dương tính như đỏ, điều, vàng, xanh… vào các dịp lễ
hội.
Cách thức trang phục của người Việt qua các thời đại bị chi phối bởi hai nhân tố
chính là khí hậu nhiệt đới nóng bức và công việc trồng lúa nước. Đồ mặc phía dưới tiêu biểu
và ổn định hơn cả của phụ nữ qua các thời đại là cái váy. Váy có hai loại là váy mở - một
mảnh vải quấn quanh thân; và váy kín được khâu lại thành hình ống. Đối với nam giới, đồ
mặc phía dưới ban đầu là chiếc khố. Khố mặc mát, phù hợp với khí hậu nóng bức và dễ thao
tác trong lao động. Ngày nay nam giới không còn đóng khố nữa nhưng lối cởi trần mặc độc
một chiếc quần đùi lúc ở nhà vào mùa nóng vẫn không khác cách mặc cởi trần đóng khố là
mấy. Khi chiếc quần thâm nhập ngày càng mạnh vào Việt Nam thì nam giới là bộ phận tiếp
thu nó sớm nhất. Tiếp thu nhưng người Việt Nam đã cải biến nó một cách linh hoạt thành
quần lá tọa. Đó là quần ống rộng và thẳng, đũng sâu, cạp quần to bản. Khi mặc người ta
buộc dây thắt lưng ra ngoài rồi thả phần cạp thừa phía trên rủ xuống ra ngoài thắt lưng thành
lá tọa.
Đồ mặc phía trên của người phụ nữ ổn định nhất qua các thời đại là cái yếm. Yếm là
đồ mặc thuần túy Việt Nam thường do phụ nữ tự cắt may, nhuộm với nhiều màu phong phú:
yếm nâu để đi làm thường ngày ở nông thôn, yếm trắng thường ngày ở thành thị, yếm hồng
- yếm đào - yếm thắm dùng vào các ngày lễ hội. Đối với đàn ông, khi lao động thì thường
cởi trần. Ngoài ra, nam và nữ cũng thường mặc áo ngắn có hai túi phía dưới, có thể xẻ tà hai
bên hông hoặc bít tà, ngoài Bắc gọi là áo cánh, trong Nam thì gọi là áo bà ba. Dịp lễ hội,
phụ nữ (mặc áo dài), gồm áo tứ thân và áo năm thân. Đàn ông vào dịp hội hè cũng mặc áo
dài (là áo the đen), giới thượng lưu thì mặc áo dài cả trong sinh hoạt thường ngày.
Về màu sắc, màu phổ biến là các màu âm tính, phù hợp với phong cách truyền thống
ưa tế nhị, kín đáo: ở miền Bắc là màu nâu, gụ; ở miền Nam là màu đen; ở xứ Huế thì ưa
màu tím trang nhã phù hợp với phong cách đế đô. Gần đây, do ảnh hưởng của phương Tây
nên màu sắc đã trở nên đa dạng hơn.
Phụ nữ trước đây để tóc dài và vấn tóc bằng một mảnh vải dài cuộn lại để trên đầu,
đuôi tóc để chừa ra một ít gọi là đuôi gà. Có thể phủ ra ngoài cái vấn tóc là cái khăn vuông
chít hình mỏ quạ vào mùa lạnh hoặc hình đồng tiền vào mùa nóng. Đàn ông trước đây để
tóc dài búi tròn, khi làm lụng vấn khăn đầu rìu, lúc sang trọng thì đội khăn xếp, người Nam
bộ thường đội khăn rằn.
Trên khăn hoặc thay cho khăn là cái nón che mưa che nắng. Có nhiều loại nón nhưng
nhiều nhất, phổ biến nhất là nón rộng vành và có mái dốc. Các loại nón này thường phải có

31
quai để giữ, quai thao làm bằng vải thao là loại phổ biến hơn cả. Mũ là loại đồ đội đầu ôm
sát và kín tóc, xuất hiện muộn sau này, gọn hơn nón nhưng khả năng che mưa nắng kém
hơn. Bởi vậy người miền Nam dùng một từ nón để gọi chung cho cả mũ và nón.
Về đồ trang sức thì từ thời Hùng Vương, người Việt đã rất thích đeo vòng các loại
như vòng tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân… Thời Hùng Vương có tục xăm mình theo hình
cá sấu để khi xuống nước khỏi bị nó làm hại. Tục nhuộm răng đen vừa có tác dụng bảo vệ
răng vừa để trang điểm.
2.1.3. Văn hóa cư trú
Đối với người nông nghiệp, ngôi nhà là cái tổ ấm để đối phó với nóng lạnh, mưa
nắng, gió bão; là một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo cho cuộc sống định cư ổn
định. Nằm trong khu vực là vùng sông nước cho nên ngôi nhà của người Việt truyền thống
cũng mang đậm dấu ấn môi trường sông nước. Những người chài lưới, chèo đò thường lấy
ngay thuyền bè làm nhà ở, nhiều gia đình tụ họp với nhau lại tạo nên các làng chài, xóm
chài… Rồi nhiều người, tuy không sống bằng nghề sông nước nhưng cũng làm nhà sàn để
ứng phó với lũ lụt quanh năm. Đây là kiểu nhà rất phổ biến ở Việt Nam từ thời Đông Sơn.
Ngôi nhà Việt cổ thường làm với chiếc mái cong mô phỏng hình thuyền – kỉ niệm về sông
nước. Các đình, chùa, cung điện thì đầu đao ở 4 góc thường được làm cong vút như một con
thuyền rẽ sóng nước lướt tới, tạo nên dáng vẻ thanh thoát và gợi cảm giác bay bổng cho cấu
trúc.
Để ứng phó với môi trường tự nhiên, tiêu chuẩn ngôi nhà Việt Nam về mặt cấu trúc
phải là nhà cao cửa rộng, tạo không gian thoáng mát giao hòa với thiên nhiên. Nơi được
chọn làm nhà phải đáp ứng những yêu cầu trong việc chọn hướng nhà, hướng đất. Hướng
nhà tiêu biểu là hướng Nam vì Việt Nam ở gần biển, trong khu vực gió mùa, trong 4 hướng
chỉ có hướng Nam và Đông Nam là tránh được cái nóng từ phương Tây, cái bão từ phương
Đông và gió lạnh thổi vào mùa rét từ phương Bắc, nhưng lại tận dụng được cái gió mát từ
phương Nam vào mùa nóng.
Phong và thủy là hai yếu tố quan trọng tạo thành vi khí hậu cho một ngôi nhà. Nhà ở
là nơi có gió không nhiều quá cũng không ít quá. Có mặt nước trước nhà tạo nên sự cân
bằng sinh thái nhưng không được là nước đọng, cũng không là nước chảy quá mạnh, nước
chảy từ từ là tốt nhất. Ngoài ra, trong việc chọn nhà ở, người Việt Nam với tính cộng đồng
rất quan tâm đến việc chọn hàng xóm láng giềng, chọn vị trí giao thông thuận lợi “nhất cận
thị, nhị cận giang” hay là “nhất cận thị, nhị cận lân, tam cận giang, tứ cận lộ, ngũ cận
điền”…
Về cách thức kiến trúc thì đặc điểm của ngôi nhà Việt Nam truyền thống là rất động
và linh hoạt, thể hiện ở lối kết cấu khung. Cốt lõi của ngôi nhà là một bộ khung chịu lực với
sự liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận trong một không gian ba chiều: theo chiều đứng, trọng
lực của ngôi nhà phân bố đều vào các cột và dồn xuống các viên đá tảng kê chân cột; theo

32
chiều ngang, các cột được liên kết với nhau bằng các kẻ tạo nên các vì kèo; theo chiều dọc,
các vì kèo được liên kết lại bằng các xà. Tất cả các chi tiết của ngôi nhà được liên kết với
nhau bằng mộng, khi cần di chuyển có thể tháo dở ra rất dễ dàng.
Về cách thức kiến trúc, ngôi nhà Việt Nam thể hiện đậm nét các đặc điểm của truyền
thống văn hóa dân tộc. Trong nhà không phân chia thành nhiều phòng nhỏ như ở phương
Tây, giữa hai nhà thì ngăn cách bằng rặng cây xén thấp để hai bên hàng xóm có thể nói
chuyện với nhau hoặc khi cần có thể lách rào đi tắt sang nhà nhau. Gian giữa của ngôi nhà
thường là nơi đặt bàn thờ gia tiên. Hình thức kiến trúc ngôi nhà còn tuân thủ nguyên tắc coi
trọng các số lẻ ước lệ của truyền thống văn hóa Việt Nam: tam quan, tam cấp, ba gian hai
chái…
2.1.4. Văn hóa giao thông
Trong điều kiện của một nước nông nghiệp, nhân dân ta ít có nhu cầu đi lại, thường
chỉ có đi ra đồng, đi lại giữa láng giềng với nhau và thỉnh thoảng mới đi lại giữa các làng để
dự lễ hội hoặc thăm nhau. Do đó, hoạt động giao thông ở Việt Nam thời xưa chậm phát
triển.
Hệ thống đường giao thông bộ ở nước ta đến trước thời Pháp thuộc gồm ba loại
đường: đường thiên lý, đường hàng tỉnh và đường hàng xã. Đến đầu thế kỷ XX, cùng với
chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, hệ thống đường đá, đường nhựa, đường
sắt xuyên Việt cũng như liên tỉnh mới được xây dựng. Bộ mặt giao thông ở Việt Nam được
đổi mới.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, phương tiện vận chuyển chủ yếu của giới bình
dân là đi bộ, gồng gánh đội thúng trên đầu hoặc mang gùi trên lưng. Các vật nặng trên bộ
được chở bằng xe cút kít (một bánh gỗ) hoặc xe do trâu bò kéo. Nói cách khác, trước ngày
tiếp xúc với văn minh phương Tây, người Việt thường sử dụng voi, ngựa, xe trâu, xe bò,
kiệu cáng, gùi, điệu, cõng, mang… và được cải tiến theo lối kéo trực tiếp hoặc kéo bằng xe.
Sách Trung Hoa đời Hán diễn đạt sự khác biệt truyền thống trong cách thức đi lại của người
phương Nam và phương Bắc rất ngắn gọn: Nam di chu, Bắc di mã (Nam đi thuyền, Bắc đi
ngựa). Ở phương Nam sông nước, thuyền rồng là biểu tượng của quyền uy, ở Trung Hoa du
mục thì cái sang trọng của vua thể hiện ở các cỗ xe tam mã, tứ mã…
Đường bộ thường nhỏ hẹp, bùn lầy khi trời mưa, nên dân quê thường đi chân đất.
Các tầng lớp quan liêu thường hay sử dụng các loại vận chuyển cho những phu hầu phục vụ,
như võng, cáng, kiệu, có thêm những người hầu che lọng đi theo. Trong quân sự và ở những
cấp quan cao có dùng ngựa cưỡi và đôi khi dùng voi kéo, do người quản tượng điều khiển.
Đò thuyền là hình thức vận chuyển chủ yếu và thích hợp trong một đất nước nhiều
sông, rạch, theo chức năng, có các loại đò dọc, đò ngang, theo chủng loại, có các loại thuyền
thúng, thuyền đinh, thuyền độc mộc, thuyền buồm…
Ngay từ thời Đông Sơn, Phù Nam, Chăm pa, chúng ta đã có nhiều loại thuyền:

33
thuyền độc mộc, thuyền tam bản, thuyền lớn. Thuyền chiến, thuyền rồng cũng được sử dụng
trong quân đội và các hàng ngũ quan liêu quý tộc. Các người ngoại quốc phương Tây đến
Việt Nam trong những thế kỷ XVII, XVIII, XIX đều có nhận xét rằng người Việt Nam đóng
thuyền chiến và điều khiển thuyền chiến rất giỏi, kỹ thuật vào loại cao trên thế giới.
Ngoài ra, nước ta còn có các loại phương tiện giao thông vận tải trên sông nước rất
phong phú như ghe, xuồng, bè, mảng, phà, tàu…
2.2. Văn hoá xã hội
2.2.1. Văn hóa gia đình
Mô hình phổ biến của gia đình Việt Nam truyền thống là loại gia đình nhỏ, bình quân
số khẩu trong một hộ khoảng từ 4 đến 8 người, bao gồm hai thế hệ hoặc ba thế hệ (ông bà,
cha mẹ, con cái), nhưng trong các gia đình thượng lưu quý tộc hoặc quan lại, cũng đã xuất
hiện những loại hình gia đình lớn, 4 hoặc 5 thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà, dưới
quyền răn dạy của vị gia trưởng cao tuổi, uy nghiêm, nhân từ.
Gia đình truyền thống Việt Nam đã gắn bó các thành viên bằng những quan hệ chặt
chẽ, xuất phát từ những nguyên lý Nho giáo vừa cố kết bằng tình cảm kính trọng yêu
thương, giữa các thế hệ khác nhau trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Người ta thờ cúng tổ
tiên như một hành động tiếp tục phụng dưỡng những người đã khuất, cũng như tin vào sự
hiện diện của tổ tiên luôn bên họ, phù hộ độ trì cho con cháu. Sự lo toan cho những thế hệ
con cháu sẽ sinh ra, dẫn đến những quan điểm quá đề cao việc nối dõi tông đường, trọng
nam trọng trưởng và một hệ quả tiêu cực là tục đa thê.
Sự gắn bó giữa những người cùng sống trong gia đình biểu hiện chủ yếu trong hai
quan hệ cơ bản là bố mẹ - con cái và vợ - chồng. Theo quan điểm Nho giáo, nội dung của
đạo hiếu của con cái với bố mẹ bao gồm các mặt kính yêu, vâng lời và phụng dưỡng bố mẹ.
Trách nhiệm chủ yếu của bố mẹ là việc nuôi dưỡng và răn dạy con cái. Còn đối với quan hệ
vợ chồng, vai trò của người vợ được đề cao mặc dù người vợ chỉ giới hạn công việc trong
phạm vi chăm sóc gia đình, chồng con. Sự bền chặt của hai mối quan hệ này cùng với một
nền giáo dục gia đình tỉ mỉ và hiệu quả đã củng cố tính vững chắc của gia đình như một tế
bào cơ sở của xã hội.
Gia đình mở rộng thành gia tộc (họ hàng), cơ bản dựa trên mối quan hệ huyết thống
gần gũi đến một chừng mực nào đó (thường trong phạm vi 9 thế hệ cùng chung một vị tổ
phụ xa nhất. Trên nguyên tắc, một dòng họ có thể phân bố thành nhiều làng, thậm chí ở
nhiều địa phương xa cách nhau, nhưng trong thực tế, sự cố kết gắn bó của dòng họ thường
chỉ trong một thôn làng hoặc một xã. Dòng họ ở Việt Nam khá cố kết gắn bó trong cơ cấu
làng xã. Một làng có thể có một họ, có thể có nhiều họ, tập trung vào một vài họ mạnh,
những họ này thường cạnh tranh thế lực với nhau.
Một họ chia thành nhiều chi, chỉ tính theo nam giới, nữ giới thuộc họ bên nhà chồng.
Người con trai trưởng không kể tuổi tác, được kính nể. Mỗi dòng họ thường có một nhà thờ

34
họ (Từ đường), là nơi thờ cúng tổ tiên và hội họp trong các buổi giỗ tết, thường cũng là dịp
ăn uống cỗ bàn và bàn bạc những công việc chung của họ
Mỗi dòng họ thường lưu giữ một quyển lịch sử dòng họ tức gia phả, ghi lại tên tuổi,
thế thứ các chi họ và đặc biệt là các công trạng khoa mục chức tước của những vị tổ phụ, coi
đó là niềm vinh dự chung của họ.
Kinh phí thờ cúng của họ dựa vào hoa lợi của loại ruộng hương hỏa, được giao cho
người con trai trưởng. Người nào không có con trai sẽ trao phần ruộng đó cho họ hàng để lo
việc cúng giỗ cho mình sau này, gọi là ruộng kỵ.
Những người cùng một dòng họ trong làng xã thường có ý thức cao trong việc đoàn
kết, tượng trợ bảo vệ uy tín của họ mình. Tuy nhiên, từ đó cũng sinh ra tệ nạn bè phái, cục
bộ, tranh chấp, kiện tụng trong các vấn đề quyền lực đất đai. Tính cố kết dòng họ ở đây đã
biến thành một thứ chủ nghĩa vị kỷ dòng họ mang nhiều yếu tố tiêu cực.
Gia đình được coi là tế bào cơ sở, là một tư cách pháp nhân trong xã hội. Hộ gia đình
là một đơn vị kinh tế, lao động tập thể và hợp nhất, nhất là trong việc làm ruộng theo mùa
vụ cũng như trong các nghề thủ công làng xã. Hộ gia đình cũng được coi như những cá thể
trong cơ cấu làng xã, là đơn vị được phân chia ruộng công, chịu sưu thuế, lao dịch và những
khoản đóng góp khác. Đó cũng là một đơn vị chịu liên đới trách nhiệm trước pháp luật.
Toàn thể gia đình (và gia tộc) được hưởng chung những vinh dự của một thành viên trong
cộng đồng có được. Một người đỗ đạt, cả gia đình đều được trọng vọng trong lễ vinh quy.
Một người làm quan, ân tứ của Triều đình đã ban phát đến cả những người thân như ông bà
cha me (lệ phong tước) hoặc con cháu (lệ phong ấm). Ngược lại, khi một thành viên trong
gia đình bị tội, gia đình cũng bị vạ lây, nếu là trọng tội như mưu phản, gia đình bị khép vòa
hình phạt tru di tam tộc. Pháp luật đề cao vai trò, trách nhiệm và quyền lực của người tôn
trưởng, gia trưởng trong việc răn dạy con cái, biện pháp trừng phạt bằng roi vọt được coi là
chuyện bình thường và cần thiết trong việc giữ nghiêm gia pháp. Những gương sáng về lòng
hiếu nghĩa, tiết liệt trong gia đình được nhà nước quan tâm, khen thưởng và tuyên dương
trong việc ban tặng bằng, sắc.
2.2.2. Văn hóa làng xã
Làng xã Việt Nam đã xuất hiện từ cuối thời nguyên thủy, đầu thời dựng nước, có thể
được coi là sản phẩm của một nền nông nghiệp lúa nước. Lúc này, ở các vùng trung du và
đồng bằng Bắc bộ, người Việt cổ đã quần tụ lại, định cư theo từng điểm cư dân trông nom
đồng ruộng. Trong các làng này, tồn tại rất đậm tính cộng đồng, chủ nghĩa trọng lão (vai trò
của các già làng được đề cao) và trọng nữ (trong nền nông nghiệp lúa nước, giới nữ có vai
trò tương đối cao trong sản xuất).
Thời Bắc thuộc, làng xã Việt Nam đã co mình lại để tự vệ bảo tồn cơ cấu lối sống cổ
truyền, chống lại sự đô hộ chính trị và đồng hóa văn hóa các thế lực phương Bắc. Dưới các
vương triều phong kiến dân tộc, làng xã trở thành đơn vị hành chính quốc gia. Một xã có thể

35
gồm một hoặc nhiều làng (tương đương cấp thôn). Xã là tên gọi mang tính chất hành chính,
còn làng là một cộng đồng xã hội nhiều mặt mang tính dân gian.
Thời Lý – Trần, làng xã Việt còn giữ nhiều nét cổ truyền về kinh tế - xã hội, có vai
trò tự trị tương đối lớn, nhà nước ít can thiệp vào đời sống xã. Từ thời Lê sơ, sự can thiệp
của nhà nước vào làng xã diễn ra mạnh hơn, làng xã từng bước bị phong kiến hóa và sẽ
phân hóa xã hội, kinh tế nội bộ cũng diễn ra sâu sắc.
Về không gian, các làng xã miền Bắc – mà điển hình là các làng xã vùng đồng bằng
Bắc bộ thường có kết cấu kinh tế xã hội chặt và khép kín hơn là các làng xã miền Nam, sự
phân hóa đẳng cấp cũng sâu sắc hơn. Làng xã Nam bộ mà phần lớn có nguồn gốc di dân lập
ấp thường trải dài theo hai bờ kênh rạch, sự trao đổi giao lưu kinh tế có phần năng động
hơn, văn hóa thoáng mở hơn, và ảnh hưởng của Nho giáo cũng nhạt hơn các làng xã miền
Bắc.
Làng xã miền Bắc cũng có nhiều dạng khác nhau về loại hình kinh tế: làng thuần
nông, làng chài, làng nghề, làng buôn…
Tuy có nhiều sắc thái khác nhau về các phương diện nói trên, nhìn một cách tổng
quát, làng xã Việt Nam truyền thống vẫn mang nhiều đặc điểm chung. Nó vừa là một cộng
đồng cố kết chặt, vừa là một cấu trúc phân tầng sâu sắc.
Làng xã là một cộng đồng xã hội cố kết chặt về nhiều mặt, có tính tự quản. Tính cộng
đồng làng xã đó có cơ sở, đặt nền móng cho truyền thống đoàn kết tương trợ, tinh thần tập
thể của người nông dân Việt Nam, tuy trong những điều kiện nhất định, nó cũng có thể biến
thái thành một thứ cộng đồng bản vị mang tính địa phương, bè phái, cục bộ.
Về cảnh quan, địa thế, một làng thường được bao bọc, phòng vệ sau một lũy tre
xanh, thông thương với bên ngoài bằng một cổng làng, đó là một không gian cưu trú khép
kín. Tuy nhiên, bên trong làng, là một tụ điểm quần cư thoáng mở, nhà cửa của các hộ gia
đình thường được ngăn cách sơ sài, dễ dàng thông thương với nhau. Đình làng, quán cầu,
cây đa, giếng nước là những điểm giao tiếp cộng đồng. Do đó các gia đình thường quen biết
nhau, nhưng một người trong làng có thể cả đời chỉ quanh sống trong làng và đồng ruộng,
không hề đi tới các làng xã hoặc địa phương khác.
Kinh tế ở những làng thuần nông là kinh tế bán tự túc. Mối liên hệ với bên ngoài
thường ít ỏi và ở cự ly gần, qua mạng lưới chợ luân phiên, phần lớn các hoạt động kinh tế
thực hiện ở quy mô làng: ruộng đất cày cấy tập trung quanh làng, công việc thủy lợi chung,
thủ công nghiệp mang tính tự cấp gia đình, việc mua bán các phẩm vật hàng ngày chủ yếu
diễn ra ở chợ làng. Các làng nghề trao đổi hàng hóa ở những thị trường xa hơn, nhưng bí
mật về kỹ thuật sản xuất thì vẫn mang tính làng xã. Ngay ở các làng buôn, người ta cũng tập
hợp thành các phường, bạn mang tính cộng đồng cao khi đi buôn bán ở các địa phương xa.
Tính cộng đồng tự quản về mặt chính trị của làng xã thể hiện ở sự tồn tại song song
hai hình thức quyền lực. Bộ máy chính quyền mang tính nhà nước (thực chất vẫn dân cử) có

36
chức năng hành pháp và thiết chế làng xã tự quản (hội đồng kỳ mục) có chức năng lập pháp.
Các chủ trương và những công việc chung của làng xã thường được bàn bạc và giải quyết
nội bộ ít khi cần đến sự can thiệp của cấp trên. Làng xã cũng tổ chức những lực lượng dân
phòng tự quản (đội tuần đinh do Hán thủ phụ trách) để duy trì công việc an ninh trật tự.
Làng xã còn là cộng đồng cố kết và tự quản về văn hóa tinh thần. Có một thứ tôn
giáo làng là tục thờ cúng thành hoàng, được coi là vị thần bảo trợ cho toàn thể dân làng.
Không gian thiêng của làng bao gồm các đình (chức năng tôn giáo kết hợp với chức năng
chính trị, xã hội), chùa chiền, miếu mạo, nghĩa trang làng… Trong làng, người ta thưỡng
sống theo những phong tục tập quán cổ truyền (lệ làng) mang tính mềm dẻo, là đối trọng
của phép nước (mang tính cứng rắn). Một sự thỏa hiệp hỗn dung giữa lệ làng và phép nước,
được văn bản hóa thành các khoán ước, hương ước và thương do nho sĩ được làng xã cử ra
soạn thảo, đề cập đến làng. Việc giáo dục trẻ em được giao cho một thầy đồ, thầy đồ được
làng chu cấp. Trong năm, người ta tổ chức những đám rước tế, lễ hội, các bữa cỗ tập thể
đình đám, tục hương ẩm, các dịp khao vọng, cheo cưới, nhân cơ hội này đã thu hút đông
đảo mọi tầng lớp dân làng, vừa nghiêm trang, vừa vui vẻ nhưng có khi lãng phí hình thức,
biến thành hũ tục.
2.2.3. Văn hóa quốc gia
Ở Việt Nam, do những nhu cầu cố kết các cộng đồng dân cư trong công cuộc đấu
tranh chống thiên nhiên (vấn đề thủy lợi) và đấu tranh xã hội (chống xâm lược), nhà nước
đã hình thành từ rất sớm. Văn Lang là quốc gia đầu tiên của người Việt Nam hình thành ở
phần đất phía Bắc, cùng với hai quốc gia cổ đại khác ở miền Trung và miền Nam. Tiếp theo,
là những quốc gia mang quốc hiệu Âu Lạc (thời An Dương Vương), Vạn Xuân (thời Lý
Bôn), Đại Cồ Việt (thời Đinh), Đại Việt (thời Lý – Trần – Lê) xen giữa là Đại Ngu (thời
Hồ) sau đó đến Việt Nam, Đại Nam (thời Nguyễn). Giao Chỉ và An Nam là những tên gọi
nước Việt của người phương Bắc mang ý khinh thị. Việt Nam là một quốc gia đa tộc người.
Từ thời dựng nước, đứng đầu nhà nước Văn Lang đã có một nhà vua theo chế độ cha
truyền con nối. Tuy nhiên, thực chất đó chỉ là những thủ lĩnh liên minh bộ lạc. Thiết chế
quân chủ tập quyền Việt Nam được xác lập trong những vương triều phong kiến, muộn nhất
là từ thời Lý. Và, tuy có những mức độ khác nhau, thiết chế đó đã tồn tại trong suốt thời
trung đại, đến thời Pháp thuộc. Đó là một thiết chế dựa theo mô hình lý tưởng của văn hóa
Trung Hoa, nhưng khi du nhập vào Việt Nam, nó đã bị đẽo gọt, biến thái, hỗn dung với các
yếu tố truyền thống để thích ứng với thực tế xã hội Việt Nam.
Trên nguyên lý, vua là biểu tượng tối cao của quốc gia, dân tộc, có sứ mệnh “Thay
trời trị dân”, là bậc trung gian giữa Trời và người, vừa là con Trời vừa là cha mẹ của dân
chúng. Vấn đề tuổi tác và kể cả năng lực đối với nhà vua đều không quan trọng. Trong lịch
sử, đã có một số ít nhà vua từng là Hoàng đế mạnh mẽ, quyết đoán, điển hình là vua Lê
Thánh Tông triều Lê sơ và vua Minh Mạng triều Nguyễn. Một số chỉ nắm quyền hành trên

37
danh nghĩa, thậm chí là hư vị, như dưới thời vua Lê chúa Trịnh, điển hình là vua Lê Hiển
Tông.
Trên danh nghĩa, nhà vua có quyền tối thượng và toàn năng. Vua là người chủ tế duy
nhất, không ai thay thế được trong các nghi lễ quan trọng (như tế Nam Giao, tế Tôn Miếu, tế
Giám). Vua cũng là người chủ sở hữu toàn bộ đất đai trong nước, có toàn quyền phong cấp
hoặc tịch thu đất đối với toàn dân. Vua là vị Tổng tư lệnh chỉ huy quân đội, là người trực
tiếp bổ nhiệm hoặc bãi miễn các chức quan cao cấp, người ra đề thi chọn học vị cao nhất
(thi Đình), quan tòa xử kiện tối hậu đối với các vụ trọng án. Uy quyền tối thượng đó mang
tính chất thần thánh, được biểu tượng hóa trong việc kiêng kỵ tên húy, độc quyền được dùng
các đồ dùng có hình rồng (long ngai, long sàng, long bào…) là con vật tượng trưng cho
vương quyền, độc quyền dùng áo khoác mầu vàng (hoàng bào) vì theo thuyết ngũ hành,
màu vàng thuộc hành thổ, ở trung tâm, tượng trưng cho quyền uy lãnh tụ của nhà vua.
Ở một mặt khác, vua được coi là người cha của toàn thể dân tộc như trong một gia
đình lớn, là người bảo vệ, chăm lo cho dân. ở Việt Nam đã tồn tại một thứ chủ nghĩa dân
bản, thân dân, được tô đậm bởi những truyền thống cộng đồng của nền văn hóa cơ tầng
Nam Á. Một số vị vua, nhất là trong giai đoạn Lý – Trần đã sinh hoạt gần gũi với các thần
dân như trực tiếp đi kiểm tra việc đắp đê, gặt hái, dự các lễ hội dân gian như đua thuyền,
đấu vật, đầu năm cày ruộng tịch điền để nêu gương. Trong lịch sử Việt Nam, vai trò của vị
Hoàng đế trên thực tế đã tùy thuộc nhiều vào đức độ và tư chất của cá nhân nhà vua, dao
động trên một biên độ rất rộng giữa danh và thực. Thể chế quân chủ tập quyền ở Việt Nam
là một thực thể chính trị mang trong mình nó vừa là những yếu tố mạnh, tích cực, đồng thời
vừa là những yếu tố mạnh, tích cực, đồng thời vừa là những yếu tố yếu, tiêu cực.
2.3. Văn hoá tinh thần
2.3.1. Tôn giáo, tín ngưỡng
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Người dân Việt Nam có truyền
thống sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng từ lâu đời. Các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam đều có những tín ngưỡng riêng gắn liền với đời sống kinh tế và tâm linh của
mình.
Tín ngưỡng dân gian: Với quan niệm vạn vật hữu linh, nên người xưa đã thờ rất
nhiều thần linh, đặc biệt là những sự vật có liên quan đến nông nghiệp như trời, trăng, đất,
rừng, sông, núi… để được phù hộ. Đối với các dân tộc thiểu số, mỗi dân tộc có hình thái tín
ngưỡng riêng của mình. Tuy nhiên, đặc trưng nhất là các hình thái tín ngưỡng nguyên thủy
và tín ngưỡng dân gian ngày nay còn lưu giữ được trong các nhóm dân tộc như nhóm Tày-
Thái, nhóm Hmông-Dao; nhóm Hoa-Sán Dìu-Ngái; nhóm Chăm-Ê đê-Gia Rai; nhóm Môn-
Khơ me.
Tín ngưỡng thờ thần linh rất phổ biến. Người ta phân loại thành các vị thiên thần,
nhân thần. Thiên thần phần lớn là các vị thần núi, thần sông. Ở Bắc Bộ, những thiên thần

38
được thờ cúng nhiều nhất là Tản Viên và Thánh Gióng. Trong số các nhân thần, một số là
các nhân vật lịch sử tầm cỡ quốc gia, phổ biến là Hùng vương, Hai Bà Trung, Ngô Quyền,
Lý Thường Kiệt và Trần Quốc Tuấn (được suy tôn là Đức Thánh Trần), một số khác là các
nhân vật lịch sử văn hóa mang tính địa phương.
Người ta thờ thần linh trong các đền miếu, và ở trong các đình của làng xã, trong
trường hợp này, vị thần trở thành vị Thành hoàng làng. Thần thành hoàng được thờ trong
các đình làng có thể là các vị thần linh hoặc là những nhân vật kiệt xuất có nhiều công lao to
lớn như những ông tổ làng nghề hoặc anh hùng dân tộc có công “khai công lập quốc”,
chống giặc ngoại xâm. Các thành hoàng làng được phân loại Thượng đẳng thần, Trung đẳng
thần và Hạ đẳng thần, có thần phả, thần tích và sắc phong của nhà nước.
Một tín ngưỡng đặc trưng cho xã hội nông nghiệp là tín ngưỡng phồn thực. Tín
ngưỡng này bắt nguồn từ sự sùng bái việc sinh sôi nảy nở (con người, cây cối, động vật).
Biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực là sự sùng bái các cơ quan sinh dục (nam và nữ) và
hành vi tính giao. Tất cả đều được cách điệu hóa và biểu trưng hóa trong nghệ thuật tạo hình
cũng như trong các lễ hội. Ở Chăm pa cũng có nhiều biểu tượng Linga – Yoni (sinh thực khí
nam nữ) trong điêu khắc, kiến trúc.
Tín ngưỡng thờ Mẫu cũng rất phổ biến ở nhiều địa phương. Người ta thờ Mẫu trong
cả chùa và ở các điện, phủ theo hệ thống Tam phủ, Tứ phủ. Đó là các Mẫu Thượng Thiên,
Mẫu Thượng Ngàn. Mẫu Thoải. Mẫu thứ tư là Trời đầu thai vào một cô gái có cuộc đời thực
ở Vụ Bản, Nam Định, thế kỷ XVI, tên Liễu Hạnh. Liễu Hạnh là vị Mẫu được thờ ở rất nhiều
địa phương, tập trung ở ba phủ lớn: Phủ Giày (Nam Định), đền Sòng (Thanh Hóa), phủ Tây
Hồ (Hà Nội).
Tục thờ Mẫu còn đan xen vào Phật giáo ở thời kỳ đầu du nhập vào Việt Nam với
Phật Mẫu Man Nương (chùa Dâu, Bắc Ninh), cùng hệ thống Tứ pháp: Pháp Vân, Pháp Vũ,
Pháp Lôi, Pháp Điện) thờ các vị Phật mẫu sinh ra mây, mưa, sấm, chớp phù hộ cho mùa
màng tươi tốt. Ở miền nam, có tục thờ Thánh Mẫu Thiên Yana (Tháp Bà tức Poonagar ở
Nha Trang), dung hợp với Mẫu Liễu trở thành bà chúa Ngọc (điện Hòn Chén – Huế), bà
chúa Xứ (Châu Đốc). Lễ thức thờ Mẫu thể hiện trong nghệ thuật biểu diễn các bài hát múa
chầu văn, trong tục lên đồng.
Bên cạnh đó, một phong tục, tập quán lâu đời phổ biến nhất của người Việt và một
số dân tộc thiểu số khác là việc thờ cúng tổ tiên và cúng giỗ những người đã mất. Nó vừa
biểu hiện cho sự nhớ ơn, biết ơn các vị tổ phụ, tình cảm với ông cha, vừa là niềm tin cho
rằng các vị tổ đó vẫn tồn tại bên con cháu, ban phúc hoặc giáng họa cho người còn sống.
Trong từng gia đình hoặc dòng họ, người ta lập nên các bàn thờ, trên đó các đồ thờ, khám
thờ, bài vị ghi tên tuổi chức tước tổ phụ (thường là 4, 5 đời), đèn hương. Trong các dịp giỗ
tết hoặc ngày sóc vọng, các gia đình thường cúng tế tổ tiên với niềm thành kính.

39
Ngoài thờ cúng tổ tiên, người Việt còn thờ các vị thần linh khác như Thổ Công (thần
bếp), Thổ Địa, Thần Tài. Các phường nghề có tục thờ Tiên sư (Ông Tổ nghề).
Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam có một hệ thống 4 vị thần được coi là tứ bất tử:
thần Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Liễu Hạnh.
Tín ngưỡng dân gian Việt Nam đã phản ánh một đời sống tâm linh phong phú của
người Việt xưa. Tuy nhiên, sau khi kết hợp với những yếu tố tôn giáo khác, một só cũng
biến thái thành các tục mê tín dị đoan như các thuật phù thủy, ma thuật, đồng cốt…
Các tôn giáo ở Việt Nam
Phật giáo: Trong thời kỳ Bắc thuộc, các thương nhân, các nhà sư và các tu sĩ Bà la
môn trên con đường truyền bá Phật giáo có dừng chân tại Giao Châu và đã truyền bá các
truyền thống văn hóa và tôn giáo Ấn Độ.
Phật giáo là một học thuyết về bản chất của nỗi đau khổ và sự giải thoát. Để đáp lại
câu hỏi về nguyên nhân khiến cho sinh linh sa vào chu kỳ luân hồi, và những phương tiện
để thoát khổ, Phật đã đề xướng bốn chân lí gọi là Tứ diệu đế. Bốn chân lí kì diệu đó là:
Khổ đế (Dukkha): chân lí về sự đau khổ - mọi tồn tại là đau khổ và không thỏa mãn.
Tập đế (Samudaya): chân lí về nguyên nhân của nỗi khổ - nguyên nhân ấy là ham
muốn, dục vọng, dẫn người ta tới chu kỳ luân hồi.
Diệt đế (Nirodha): chân lí về sự kết thức đau khổ - việc xóa bỏ hoàn toàn mọi ham
muốn có thể chấm dứt mọi đau khổ.
Đạo đế (Magga): chân lí về con đường cứu rỗi, được cụ thể hóa trong khái niệm Bát
chánh đạo (tám nẻo đường chân chính): chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh (thuộc lĩnh
vực rèn luyện đạo đức, gọi là giới), chính niệm, chính định (thuộc lĩnh vực rèn luyện tư
tưởng, gọi là định), chính kiến, chính tư duy, chính tịnh tiến (thuộc lĩnh vực khai sáng trí
tuệ, gọi là tuệ).
Toàn bộ giáo lý của Phật giáo về sau được sắp xếp lại thành ba tạng: kinh tạng, luật
tạng, luận tạng, hay còn gọi là tam tạng (Tripitaka). Còn khái niệm tam bảo (Triratna) dùng
để chỉ ba yếu tố căn bản của Phật giáo là Phật, Pháp, Tăng. Tín đồ Phật giáo tự đặt mình vào
sự bảo trợ của Tam bảo bằng cách nói lên công thức “Ba quy y” (quy y Phật, quy y Pháp,
quy y Tăng) để công khai thừa nhận sự gia nhập Phật giáo.
Phật giáo có một lịch sử phát triển lâu dài. Từ giữa thế kỷ VI - V TCN là giai đoạn
Phật giáo nguyên thủy. Sau đó Phật giáo phát triển thành những tông phái. Hai tông phái
chính là Đại thừa và Tiểu thừa. Ngoài ra còn có một nhánh nữa là Kim cương thừa, xuất
hiện vào giữa thiên niên kỷ thứ I, phát triển từ học thuyết Đại thừa và ma thuật. Từ thế kỷ
III, Phật giáo bắt đầu được truyền bá ra ngoài Ấn Độ. Ở mỗi vùng mà nó du nhập, Phật giáo
thích nghi với những tín ngưỡng bản địa. Phật giáo Tiểu thừa ngày nay đang có mặt ở Srilan
ca, Thái Lan, Mianma, Campuchia. Phật giáo Đại thừa có mặt tại Trung Quốc, Nhật Bản,

40
Triều Tiên, Việt Nam. Còn Phật giáo Kim cương thừa thì có mặt tại Tây Tạng, Mông Cổ và
Nhật Bản.
Phật giáo du nhập vào nước ta từ thế kỷ đầu công nguyên. Đời Hán, có ba trung tâm
Phật giáo là Lạc Dương, Bành Thành, Luy Lâu. Hai trung tâm thuộc lãnh thổ Trung quốc,
còn Luy Lâu ở miền Bắc nước ta. Trong suốt ba thế kỷ đầu công nguyên, Giao Châu với
trung tâm Luy Lâu, là mảnh đất tốt đầu tiên ở Đông Á cho những ảnh hưởng của văn hóa
Ấn Độ bén rễ. Trong các thế kỷ này, Phật giáo được truyền trực tiếp từ Ấn Độ sang Việt
Nam.
Từ thế kỷ IV, V, Việt Nam lại tiếp nhận Phật giáo Đại thừa từ Trung Quốc truyền
sang, và mở đầu cho sự ra đời các dòng thiền đầu tiên trong lịch sử Thiền tông Việt Nam:
dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi (thế kỷ VI) do nhà sư có tên là Tỳ-ni-đa-lưu-chi (người Ấn Độ) sáng
lập, ông qua Trung Quốc, rồi sang Việt Nam tu ở chùa Pháp Vân (Bắc Ninh) - đây là một
trong những dòng thiền có mặt sớm nhất ở phương Đông; dòng thiền Vô Ngôn Tông (thế kỷ
IX) do nhà sư người Trung quốc sang Việt Nam tu ở chùa Kiến Sơ (Bắc Ninh).
Lịch sử Phật giáo tại Việt Nam được tính như sau:
Thời kỳ thứ nhất diễn ra khoảng hơn năm thế kỷ, tính từ khi Phật giáo được khai sinh
ở Ấn Độ cổ đại cho đến khi Phật giáo được truyền bá đến Trung Quốc và các nước Đông
Nam Á.
Thời kỳ thứ hai gồm toàn bộ lịch sử truyền bá và không ngừng tạo nên những ảnh
hưởng đa dạng của Phật giáo đối với đời sống tư tưởng và văn hóa của Việt Nam. Thời kỳ
này có thể tạm chia thành bốn giai đoạn lớn sau đây:
Giai đoạn thứ nhất: bắt đầu từ khi Phật giáo được truyền bá vào nước ta đến hết thời
Bắc thuộc, kéo dài khoảng 1.000 năm.
Giai đoạn thứ hai: kéo dài từ đầu thế kỷ X cho đến cuối thế kỷ XIV, giai đoạn này
tương ứng với khoảng từ họ Khúc bắt đầu dựng nghiệp cho đến gần hết thời Trần. Đây là
giai đoạn mà vị trí của Phật giáo trên vũ đài chính trị và tư tưởng của Nhà nước rất lớn. Phật
giáo tồn tại gần như là quốc giáo của dân tộc.
Giai đoạn thứ ba bao gồm toàn bộ khoảng thời gian lịch sử từ cuối thế kỷ XIV đến
cuối thế kỷ XIX, giai đoạn này có thể chia làm ba chặng sau:
Chặng thứ nhất: từ cuối thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ XVI tức là cuối thời nhà Trần cho
đến hết thời Lê sơ. Ở chặng này, vị trí quan trọng của Phật giáo từng bước bị đẩy lùi và đến
thời Lê sơ thì Phật giáo và cả Đạo giáo phải rút lui khỏi vũ đài chính trị và tư tưởng, lui về
phát triển trong lòng xã hội, nhường chỗ cho Nho giáo giữ vị trí độc tôn tư tưởng.
Chặng thứ hai: từ đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII. Ở chặng này, Phật giáo phát
triển rất mạnh mẽ. Số lượng người tu hành ngày một đông, chùa chiền được xây dựng lên
rất nhiều, trong đó có nhiều ngôi chùa rất nổi tiếng. Một số dòng Thiền Tông đã gây ra được
ảnh hưởng rất lớn.

41
Chặng thứ ba: gồm gần một thế kỷ XIX. Ở chặng này, Phật giáo được chấn hưng
nhưng ảnh hưởng của nó trong đời sống xã hội không bằng các giai đoạn trước.
Giai đoạn thứ tư: từ đầu thế kỷ XX đến nay, Phật giáo tiếp tục phát triển mạnh mẽ và
là tôn giáo lớn nhất ở Việt Nam. Từ đây, thống nhất là xu hướng chi phối, chính vì vậy mà
các dòng tu của Phật giáo dần dần biến mất.
Đạo giáo: Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam từ khoảng cuối thế kỷ II. Ảnh hưởng
của tư tưởng Lão - Trang và Đạo giáo Thần tiên chỉ hạn chế ở tầng lớp trên và quan lại đô
hộ. Nhiều quan lại Trung Quốc sang nước ta cai trị đều sính phương thuật, mà điển hình là
Cao Biền đời Đường. Còn Đạo giáo Phù thủy khi vào nước ta đã nhanh chóng hòa quyện
vào tín ngưỡng dân gian, ma thuật cổ truyền của người Việt. Các tín ngưỡng, ma thuật cổ
truyển của người Việt vốn có từ thời Bắc thuộc và trong cả quá trình lịch sử nước ta về sau,
có rất nhiều đặc điểm cùng bản chất với tư tưởng Đạo giáo Trung Quốc. Vì vậy, phân biệt
trong tín ngưỡng dân gian truyền thống của người Việt đâu là phần bản địa, đâu là phần tiếp
nhận từ Đạo giáo Trung quốc không phải dễ dàng.
Từ Việt Nam và từ vị trí của góc nhìn hiện đại, có thể chia lịch sử Đạo giáo thành hai
thời kỳ lớn:
- Thời kỳ thứ nhất bao hàm toàn bộ quá trình hình thành và phát triển của Đạo giáo ở
Trung quốc, tính từ khi vừa khai sinh đến trước lúc được truyền bá vào nước ta.
- Thời kỳ thứ hai bao hàm toàn bộ quá trình truyền bá, tiếp nhận và ảnh hưởng của
Đạo giáo ở nước ta. Trước hết, cần khẳng định, sự truyền bá, tiếp nhận và ảnh hưởng của
Đạo giáo Thần tiên ở nước ta rất hạn hẹp và yếu ớt, ngược lại Đạo giáo Phù thủy lại mạnh
mẽ và rộng lớn. Toàn bộ thời kỳ thứ hai có thể chia thành 4 giai đoạn như sau:
Giai đoạn thứ nhất: tương ứng với toàn bộ thời gian lịch sử của thời Bắc thuộc, Đạo
giáo đã tự tìm đường truyền bá vào nước ta. Chính quyền phong kiến Trung Quốc đã có tác
động mạnh mẽ để vừa tạo cơ hội thuận tiện cho việc truyền bá, vừa để lợi dụng Đạo giáo.
Riêng với Đạo giáo,việc chọn lựa những nội dung để truyền bá thì không quá khắt khe như
đối với Nho giáo. Bấy giờ, chính quyền đô hộ đã nhất thể hóa đội ngũ quan lại đô hộ với đội
ngũ những đạo sĩ cao tay ấn, có nghĩa là chúng muốn đồng thời nắm cả chính quyền lẫn
thần quyền.
Giai đoạn thứ hai: bao hàm khoảng thời gian từ đầu thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIV. Ở
giai đoạn này, Đạo giáo không những có vị trí quan trọng trong đời sống tư tưởng của xã hội
mà còn có một ảnh hưởng rất lớn lao trên vũ đài chính trị của đất nước. Các thiết chế của
Đạo giáo là đạo quán, đền miếu được dựng lên ở khắp nơi. Số người tu hành theo Đạo giáo
cũng ngày một nhiều.
Giai đoạn thứ ba: từ cuối thế kỷ XIV đến cuối thế kỷ XIX. Giai đoạn này, Đạo giáo
rút lui khỏi vũ đài chính trị và tư tưởng nhưng vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong dân
gian.

42
Giai đoạn thứ tư: từ đầu thế kỷ XX cho đến nay, ở giai đoạn này, Đạo giáo dần dần
bị thu hẹp.
Nho giáo: du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc qua một số quan chức cai trị và
nho sĩ di cư, nhưng ảnh hưởng của nó còn khá nhạt nhòa. Thời Lý Trần, nhà vua chủ trương
xây dựng một thiết chế nhà nước quân chủ tập quyền, lấy tư tưởng Nho giáo làm cơ sở
chính thống, nhưng nó vẫn chưa thấm sâu vào những tầng lớp bình dân. Thế kỷ XV đánh
dấu bước phát triển quan trọng của Nho giáo ở Việt Nam. Các triều vua Lê đưa Nho giáo
lên vị trí độc tôn, trở thành hệ tư tưởng chính thống. Từ thế kỷ XVI đến XVIII, Nho giáo
suy thoái và biến dạng đi nhiều, dần dần lâm vào một cuộc khủng hoảng, khủng hoảng niềm
tin trong dân chúng. Sự bất lực của hệ tư tưởng đó trong việc ổn định xã hội, thực tế ngày
càng xa rời lý thuyết, mặt khác, nó cũng nói lên một sự thức tỉnh giác ngộ tinh thần của
nhân dân, những khát vọng về quyền sống – về công bằng xã hội mang tính nhân văn, dân
chủ.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, Nho giáo đã để lại những dấu ấn sâu đậm nhất
trong mọi tầng lớp xã hội và trong mọi mặt đời sống. Được du nhập từ Trung Hoa, nhưng
nó đã bị biến thái, khúc xạ để thích ứng với thực tế xã hội cũng như tín ngưỡng đạo đức cổ
truyền, bản địa. Nho giáo Việt Nam so với Nho giáo Trung Hoa có phần đậm về thực dựng,
nhạt về lý thuyết, đậm về chữ nhân, nghĩa và nhạt về chữ lễ.
Trong nhiều thế kỷ, Nho giáo đã là bệ đỡ tư tưởng giúp cho chế độ phong kiến nhà
nước phát triển và củng cố trật tự xã hội và gia đình, hòa nhập vào một số truyền thống đạo
đức dân tộc. Nó góp phần to lớn và chủ yếu vào sự nghiệp giáo dục khoa cử, đào tạo các trí
thức nhân tài cũng như hàng ngũ quan lại, là ý thức hệ nền tảng cho các công trình, tác
phẩm văn học, học thuật. Ở những thế kỷ sau, Nho giáo trở nên bảo thủ, phản nhân văn,
không còn đáp ứng những nhu cầu của lịch sử, trở thành lực cản kìm hãm sự phát triển của
nhân cách cũng như của xã hội Việt Nam.
Đạo Gia tô: Đạo Gia tô khi truyền bá vào Việt Nam, đương thời gọi là đạo Thiên
Chúa. Các nhà nước phong kiền gọi nó là đạo Tây dương. Ngày nay, tên chính thức là Công
giáo.
Đạo Gia tô là giáo phái chính và lớn nhất của đạo Ki tô (Cơ đốc giáo). Bắt nguồn từ
Trung Đông, đạo Ki tô đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo thế giới. Sách kinh của đạo
Ki tô là Kinh thánh: cựu ước và tân ước. Giáo lý Ki tô cơ bản chủ trương niềm tin và sự tôn
thờ chúa, tình bác ái đồng loại, mặc cảm tội lỗi và sự cứu rỗi. Nhà thờ La Mã (tòa thánh
Vatican) là trung tâm thế giới đạo Ki tô, quản lý các tín đồ bằng một tổ chức chặt chẽ (Giáo
hoàng, Giáo hội), một hệ thống các lễ thức phức tạp.
Trong quá trình phát triển, đạo Ki tô đã phân nhánh thành nhiều tông phái. Chính
thống giáo là đạo Ki tô của một số nước Đông Âu, tách ra từ thế kỷ XI. Từ thế kỷ XVI,

43
trong phong trào cải cách tôn giáo, đã ra đời Tân giáo hoặc đạo Tin lành, phổ biến ở các
nước Bắc Âu và Bắc Mỹ.
Theo chính sử, đạo Gia tô lần đầu tiên được truyền bá vào Việt Nam dưới thời nhà
Mạc. Năm 1533, một người Tây Dương tên là I-nê-khu (Ignatio) theo đường biển lẻn vào
giảng đạo Gia tô ở các làng Ninh Cường, Quần Anh, Trà Lũ, nay thuộc Nam Hà” (nay là
Nam Định và Hà Nam). Những tín đồ Việt Nam đầu tiên theo đạo thường là những dân
nghèo ít học, dân chài và phụ nữ. Họ tìm thấy một sự phù hợp giữa tinh thần bác ái Ki tô
giáo và truyền thống nhân ái của người Việt Nam. Tiếp theo đó nhiều giáo sĩ phương Tây đã
đến giảng đạo cả ở Đàng Ngoài, Đàng Trong. Đầu thế kỷ XVII, nổi bật lên là các giáo sĩ
thuộc Dòng tên C.Borri và đặc biệt là Alexan dre de Rhodes.
Lúc đầu, các vua thời Mạc, Lê trung hưng và một số chúa (như Trịnh Tráng – chúa
Sãi) đã tỏ ra khoan dung với đạo Gia tô. Một số quý tộc như công chúa con Lê Thế Tông,
các bà phi của Nguyễn Hoàng, Trịnh Tùng, bà cô chúa Sãi cũng đã theo đạo này. Giữa thế
kỷ XVII, ở Việt Nam đã có đến 340 nhà thờ, 250.000 tín đồ ở Đàng Ngoài và 100.000 ở
Đàng Trong như các trung tâm thuộc Kẻ Chợ, Phố Hiến, Hội An, Nước Mặn.
Tuy nhiên, quan hệ giữa các giáo sĩ Gia tô với các chính quyền phong kiến không
được tốt đẹp. Ngoài sự khác biệt về chủng tộc, có mâu thuẫn về hệ tư tưởng giữa nho giáo
và Ki tô giáo, việc các giáo sĩ không thừa nhận đạo thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam,
một số giáo sĩ đã dính líu đến chính trị… đã khiến mối quan hệ này ngày càng xấu đi
Các vua đầu triều Nguyễn đặc biệt là vua Minh Mạng đã thi hành một chính sách
không khôn ngoan là cấm đạo, khủng bố giáo sĩ và giáo dân, tạo cớ cho thực dân Pháp can
thiệp vũ trang.
Sự du nhập của đạo Gia tô vào Việt Nam đã mở đầu cho sự giao lưu giữa văn hóa
phương Tây và văn hóa Việt Nam, nó có một số đóng góp nhất định vào di sản văn hóa Việt
như: một số kiến thức khoa học kỹ thuật (thiên văn, toán, y học) do các giáo sĩ đem theo,
nghệ thuật kiến trúc các nhà thờ và đặc biệt là sự ra đời và phát triển của chữ quốc ngữ được
La tinh hóa.
3.3.2. Phong tục tập quán
Gắn liền với tín ngưỡng là phong tục. Đó là những thói quen ăn sâu vào đời sống xã
hội từ lâu đời, được đại đa số mọi người thừa nhận và làm theo. Phong tục có trong mọi mặt
đời sống, ở đây tập trung xem xét ba nhóm chủ yếu: phong tục hôn nhân, tang ma, lễ Tết và
lễ hội
Phong tục hôn nhân
Hôn nhân của người Việt Nam truyền thống không phải là việc hai người lấy nhau
mà là việc "hai họ" dựng vợ gả chồng cho con cái. Vì vậy, đây là dịp hai họ xác lập mối
quan hệ, trên cơ sở bình đẳng về quyền lợi. Hôn nhân là một công cụ duy nhất và thiêng
liêng để duy trì dòng dõi và phát triển nguồn nhân lực. Để đáp ứng nhu cầu nhân lực của

44
nghề trồng lúa, khi xem xét con người trong hôn nhân, người nông nghiệp Việt Nam quan
tâm trước hết đến năng lực sinh sản của họ. Kén dâu, lấy vợ thì phải chọn người Lưng chữ
cụ, vú chữ tâm, phải là Đàn bà thắt đáy lưng ong, Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi
con. Năng lực sinh đẻ của người phụ nữ còn có thể nhìn thấy qua gia đình họ: Mua heo chọn
nái, lấy gái chọn dòng; Ăn mày nơi cả thể, làm rể nơi nhiều con; Lấy con xem nạ (nạ = mẹ).
Hướng tới mục đích sinh đẻ là tục “giã cối đón dâu” và tục trải chiếu cho lễ hợp cẩn: gia
đình nhờ một người phụ nữ đứng tuổi, đông con, phúc hậu, vợ chồng song toàn vào trải
chiếu cho cô dâu chú rể: chiếu trải phải một đôi - một ngửa, một sấp (một âm một dương)
úp vào nhau. Không chỉ duy trì dòng giống, người con tương lai còn có trách nhiệm làm lợi
cho gia đình. Con gái phải đảm đang tháo vát, đem lại nguồn lợi vật chất cho gia đình nhà
chồng; con trai phải giỏi giang, đem lại vẻ vang cho gia đình nhà vợ.
Theo phong tục, khi lấy vợ, nhà trai phải nộp cho làng xã bên gái một khoản "lệ phí"
gọi là "cheo" thì đám cưới mới được công nhận là hợp pháp. Ca dao, tục ngữ có những câu:
Nuôi lợn thì phải vớt bèo, Lấy vợ thì phải nộp cheo cho làng; Lấy vợ mười heo, không cheo
cũng mất; Lấy vợ không cheo, tiền gieo xuống suối. Người cùng làng lấy nhau thì nộp ít (có
tính tượng trưng), gọi là cheo nội; lấy vợ ngoài làng thì cheo rất nặng, gấp đôi gấp ba cheo
nội, gọi là cheo ngoại.
Trước lễ cưới, còn phải thực hiện lễ vấn danh (ngày nay gọi là chạm ngõ, hay lễ
dạm) xem đôi trai gái có hợp tuổi nhau hay không, còn nếu xung khắc thì thôi. Để cho quan
hệ vợ chồng được bền vững, khi cưới, đôi vợ chồng trẻ thời Hùng Vương có tục trao cho
nhau nắm đất và gói muối: nắm đất tượng trưng cho lời nguyền gắn bó với đất đai - làng
xóm; gói muối là lời chúc cho tình nghĩa giữa hai người mặn mà thủy chung. Sau này, thay
cho đất và muối, trong lễ vật dẫn cưới luôn có một loại bánh đặc biệt rất có ý nghĩa là bánh
su sê (tên đọc chệch đi của phu thê): Bánh “phu thê” (vợ chồng) hình tròn bọc bằng hai
khuôn hình vuông úp khít vào nhau. Đó chính là biểu tượng của triết lí âm dương (vuông
tròn) và ngũ hành (ruột dừa trắng, nhân đậu vàng, rắc vừng đen, khuôn lá xanh, buộc lạt đỏ),
biểu tượng cho sự vẹn toàn, hòa hợp - hòa hợp của đất trời và của con người. Khi làm lễ hợp
cẩn, còn có tục hai vợ chồng ăn chung một đĩa cơm nếp, uống chung một chén rượu: ý
nghĩa của tục này cũng là cầu chúc cho hai vợ chồng luôn gắn bó với nhau: đính nhau như
cơm nếp và say nhau như say rượu. Quan hệ mẹ chồng - nàng dâu cũng rất được chú ý. Mẹ
chồng, nàng dâu vốn hay mâu thuẫn vì những chuyện không đâu, chẳng qua là do cả hai đều
cảm thấy tình cảm của người con - người chồng đã không dành trọn cho mình. Vì vậy mà
khi cô dâu mới bước vào nhà, có tục mẹ chồng ôm bình vôi lánh sang nhà hàng xóm. Trong
gia đình nông nghiệp Việt Nam, người phụ nữ được xem là nội tướng; người mẹ chồng lánh
đi là có ý nhượng quyền "nội tướng" tương lai cho con dâu để cho trong gia đình trên thuận
dưới hòa. Nhưng đó là trong tương lai, còn hiện tại thì chưa, cho nên mẹ chồng mới ôm theo
chiếc bình vôi - biểu tượng quyền lực của người phụ nữ.

45
Phong tục tang ma
Sinh lão bệnh tử vốn là quy luật cuộc đời mà ai cũng phải trải qua, cho nên người
Việt Nam, nhất là người già rất bình tĩnh, yên tâm đón chờ cái chết. Người Việt Nam chuẩn
bị khá chu đáo cho cái chết của mình. Các cụ già tự mình lo sắm áo quan (quan tài, còn gọi
là cỗ hậu, cỗ thọ). Có cỗ thọ rồi, các cụ lo đến việc nhờ thầy địa lí đi tìm đất, rồi xây sinh
phần (mộ). Do chu đáo khi trong nhà có người hấp bối, việc quan trọng là đặt tên kèm (tên
thụy) cho người sắp chết. Đó là một tên mới (do người sắp chết tự đặt hoặc con cháu đặt
cho) mà chỉ có người chết, con cháu và thần Thổ công nhà đó biết mà thôi. Khi cúng giỗ,
con trưởng sẽ khấn bằng tên hèm, Thổ thần có trách nhiệm chỉ cho phép linh hồn có “mật
danh” đúng như thế vào thôi (vì vậy, tên này còn gọi là tên cúng cơm). Làm như vậy là để
phòng ngừa những cô hồn lang thang vào ăn tranh cỗ cúng sau này. Trước khi khâm liệm,
phải làm lẽ mộc dục (tắm gội cho người chết) và lễ phạm hàm: bỏ một nhúm gạo nếp và ba
đồng tiền vào miệng (gạo để dùng thay bữa, tiền để đi đò – quan niệm của người vùng sông
nước). Khi khâm liệm, phải có miếng vải đắp mặt người chết để khỏi trông thấy cháu con
sinh buồn. Trước khi đưa tang, người Việt cúng thần coi sóc các ngả đường để xin phép.
Trên đường đi, có tục rắc vàng giấy làm lộ phí cho ma quỷ. Đến nơi, làm lễ tế Thổ thần xin
phép cho người chết được “nhập cư”. Chôn cất xong, trên mộ đặt bát cơm, quả trứng, đôi
đũa (cắm trên bát cơm) có tua bông ở đầu (hoặc mớ bùi nhùi). Bát cơm là đất mẹ (âm); tua
bông (hoặc mớ bùi nhùi) là mây trời (dương); đôi đũa nối âm dương hòa hợp. Hoặc theo
cách giải thích của những Nho học thì tua bông (mớ bùi nhùi) tượng trưng cho thế giới hỗn
mang, trong hỗn mang hình thành nên thái cực (tượng trưng bằng bát cơm), thái cực sinh ra
lưỡng nghi (đôi đũa), có lưỡng nghi (âm dương) là có sự sống (tượng trưng bằng quả trứng).
Toàn bộ toát lên ý cầu chúc cho người chết sớm đầu thai trở lại. Xót thương nên muốn níu
kéo, giữ lại. Tục khiêng người chết đặt xuống đất, tục gọi hồn thể hiện hi vọng mong người
chết sống lại. Vì xót thương nên có tục khóc than; con cháu không lòng dạ nào mà dùng đồ
tốt (đồ tang làm hằng các loại vải thô, xấu như xô, gai); không tâm trí nào mà nghĩ đến việc
ăn mặc (nên gấu xổ, áo trái, đầu bù,...); đau buồn quá nên đứng không vững (trai phải chống
gậy, gái phải lăn đường); đau buồn quá dễ sinh quẫn trí và đập thành trùng tang (nên phải
đội mũ dây chuối,...). Ngày nay, nhiều tục lệ trong số đó không còn tồn tại nữa, không phải
vì chúng vô nghĩa mà có lẽ chính là vì chúng quá chi li, cầu kì.
Phong tục lễ tết và lễ hội
Thời gian nông nhàn, người Việt tổ chức nhiều lễ tết, hội hè, thường trước hoặc sau
mùa thu hoạch.
Trong năm, quan trọng nhất là Tết Nguyên Đán. Con cháu dù đi làm ăn ở đâu ngày
Tết cũng cố gắng về ăn Tết với gia đình; hương hồn ông bà tổ tiên các thế hệ cũng cùng về
gặp mặt; các vị thần phù hộ cho gia đình đều được chăm lo cúng bái. Tết thật là một cuộc

46
đại đoàn viên. Truyền thống Việt Nam không có tục kỉ niệm sinh nhật, mọi người đều như
nhau -Tết đến, tất cả đều được thêm một tuổi, nên có tục mừng tuổi, lì xì vào đầu năm mới.
Ngoài Tết Nguyên Đán là Tết rằm tháng Giêng - đó là ngày trăng tròn đầu tiên, là Tết
Thượng Nguyên, hướng Thiên cầu phúc, rằm tháng giêng còn là ngày vía của đứt Phật
Adiđà. Trước đây, người Việt còn kỉ niệm cả ngày 9 và 10 tháng Giêng nữa: Ngày 9 ví Trời,
ngày 10 vía Đất. Hai số 9 và 10 là hai số dương và âm tận cùng, được xem là số của Trời và
Đất; đó cũng là "số phương" của Trời Đất: Lạy 9 phương Trời, lạy 10 phương Đất. Tết
Thượng Nguyên nằm trong cùng hệ thống với các Tết Trung Nguyên (rằm tháng Bảy, Địa
quan xá tội, dâng cúng cô hồn bằng cháo hoa đổ vào những chiếc lá đa đặt dọc đường đi;
cũng là ngày lễ Vu Lan của nhà Phật) và Hạ Nguyên (rằm tháng Mười, Thủy quan giải ách;
cũng là ngày Tết cơm mới). Thuộc loại Tết ngày rằm còn có Trung Thu (rằm Tháng Tám)
vốn là Tết chung của mọi người, đánh dấu ngày có trăng tròn nhất trong năm, lúc thời tiết
mát mẻ, tổ chức thả diều, hát trống quân... sau này chuyển thành Tết của thiếu nhi. Ngoài ra,
có Tết Hàn Thực (3-3) làm bánh trôi, bánh chay cúng gia tiên; Tết Đoan Ngọ (5-5) là Tết
của xứ nóng phương Nam ta kỉ niệm thời điểm giữa năm (lịch nguyên thủy tính từ tháng Tí,
cho nên Tí = đầu năm, Ngọ = giữa năm). Đây là thời điểm nóng nực, nhiều bệnh tật phát
sinh nên dân ta gọi ngày này là Tết giết sâu bọ, với tục dùng lá móng nhuộm (để bảo vệ)
móng tay móng chân cho trẻ, ăn rượu nếp (miền Nam gọi là cơm rượu) và hoa quả chua
chát (để "sâu bọ" trong người say và chết), vào giờ Ngọ đi hái lá (các loại lá ngải, ích mẫu,
lá muỗm, lá vối...) phơi khô để dùng uống cả năm. Thuộc loại Tết trùng ngày tháng (3-3, 5-
5), trước đây còn có Tết Ngâu 7-7. Cuối năm, 23 tháng chạp là ngày Tết ông Táo, các gia
đình sắm 2 mũ ông 1 mũ bà để cúng bộ ba Thổ Công - Thổ Địa - Thổ Kì cùng với cá chép
để ông lên chầu Trời. Mở đầu bằng Tết Nguyên Đán, kết thúc bằng Tết ông Táo, để rồi đêm
30, ông Táo lại trở về cùng gia đình bước vào năm tiếp theo - hệ thống lễ Tết làm thành một
chu trình khép kín, âm dương chuyển hóa cho nhau.
Nếu lễ Tết là một hệ thống phân bố theo thời gian thì lễ hội là hệ thống phân bố theo
không gian: Vào mùa xuân và mùa thu, lễ hội diễn ra liên tiếp hết chỗ này đến chỗ khác,
mỗi vùng có lễ hội riêng của mình. Chẳng thế mà vùng Kinh Bắc có câu: Mồng 7 hội Khám,
Mồng 8 hội Dâu, Mồng 9 đâu đâu nhớ về hội Gióng.
Lễ hội có phần lễ và phần hội. Phần LỄ mang ý nghĩa tạ ơn và cầu xin thần linh bảo
trợ cho cuộc sống của mình. Căn cứ vào mục đích này và dựa vào cấu trúc của hệ thống văn
hóa, có thể phân biệt ba loại lễ hội: Lễ hội liên quan đến cuộc sống trong quan hệ với môi
trường tự nhiên (lễ hội cầu mưa, hội xuống đồng, hội đâm trâu, hội cơm mới, hội cốm, hội
đua thuyền, hội đua ghe...); lễ hội liên quan đến cuộc sống trong quan hệ với môi trường xã
hội (kỉ niệm các anh hùng dựng nước và giữ nước - hội Đền Hùng, hội Gióng, hội đền An
Dương Vương,hội đền Hai Bà Trưng, hội đền Kiếp Bạc, hội Tây Sơn, hội Đống Đa...), và lễ
hội liên quan đến đời sống cộng đồng (các lễ hội tôn giáo và văn hóa - hội Chùa Hương, hội

47
chùaTây Phương, hội chùa Thầy, hội đền Bắc Lệ, hội đền Dạ Trạch, hội Phủ Giày, hội núi
Bà Đen...). Phần Hội gồm các trò vui chơi giải trí hết sức phong phú. Xét về nguồn gốc,
phần lớn các trò chơi này đều xuất phát từ những ước vọng thiêng liêng của con người nông
nghiệp: Xuất phát từ ước vọng cầu mưa là các trò tạo ra tiếng nổ mô phỏng tiếng sấm vào
các hội mùa xuân để nhắc Trời làm mưa như thi đốt pháo, đi thuyền đốt pháo, ném pháo,
đánh pháo đất… Xuất phát từ ước vọng cầu cạn là các trò thi thả diều vào các hội mùa hè
mong gió lên, nắng lên để nước lụt mau rút xuống. Xuất phát từ ước vọng phồn thực là các
trò cướp cầu thả lỗ, đánh đáo, ném còn, nhún đu, bắt chạch trong chum... Xuất phát từ ước
vọng luyện rèn sự nhanh nhẹn, tháo vát, khéo léo là các trò thi thổi cơm, vừa gánh vừa thổi
cơm, vừa giữ trẻ vừa thổi cơm, vừa bơi thuyền vừa thổi cơm, thi luộc gà, thi dọn cỗ, thi bắt
lợn, thi bắt vịt, thi dệt vải, thi bịt mắt bắt dê, đua cà kheo... Xuất phát từ ước vọng luyện rèn
sức khoẻ và khả năng chiến đấu là các trò đấu vật, kéo co, chọi gà, chọi trâu, chọi dế...
2.3.3. Văn hóa nghệ thuật
*Ngôn ngữ
Từ thời dựng nước, chúng ta đã có một nền văn hóa văn minh riêng của người Việt
cổ: văn minh Văn Lang – Ân Lạc. Tuy nhiên, lúc bấy giờ liệu trong xã hội đã xuất hiện chữ
viết hay chưa thì còn là một vấn đề tiếp tục được tranh cãi.
Một số nhà nghiên cứu đã đưa ra giả thuyết cho rằng có thể đã có một loại hình chữ
viết nào đó, riêng của người Việt Nam trước thời kỳ Bắc thuộc. Chứng cứ đưa ra là một số
ký hiệu hoặc hình con nòng nọc ngoằn nghèo được khắc trên bãi đá Sa pa, trên một số dụng
cụ đồng thau như lưỡi cày đồng, trống đồng… Tuy nhiên, chưa một ai giải mã được những
ký hiệu đó để khẳng định rằng đó là một loại hình văn tự. Cho nên, vấn đề chữ viết riêng
của người Việt cổ vẫn chỉ là một nghi vấn.
Chữ Hán được du nhập vào Việt Nam đầu thời Bắc thuộc, đặc biệt với vai trò của Sĩ
Nhiếp. Chữ Hán tiếp tục được được các vương triều phong kiến sử dụng là chuyển ngữ
chính thức dùng trong giáo dục, khoa cử, văn bản chính trị cũng như các tác phẩm văn thơ
bác học của các nho sĩ trí thức. Tuy ngay từ lúc đầu, nó đã được Việt Hán phần nào (đọc
theo âm Hán Việt chứ không đọc theo âm Trung Quốc), nhưng chữ Hán vẫn là một loại
hình văn tự khó nhọc, khó nhớ, phức tạp với các thể văn bát cổ, biền ngẫu, những niêm luật
trong thi phú. Vì vậy, nó đã không phổ biến được rộng rãi trong đông đảo quần chúng bình
dân.
Trong quá trình tiếp biến văn hóa Hán Việt, một loại hình chữ viết độc đáo của người
Việt đã xuất hiện, đó là chữ Nôm, mô phỏng và biến cách chữ Hán để ghi trực tiếp tiếng
Việt. Thời xưa, chữ Nôm được gọi là quốc âm, quốc ngữ, vừa mang tính dân tộc (Nôm=
Nam) vừa mang tính dân gian (Nôm, Nam Á).
Chữ Nôm có nhiều khả năng xuất hiện từ lâu đời, trong thời Bắc thuộc để ghi các tên
người, tên đất thuần Việt trong các sổ sách. Chữ Nôm được phổ biến từ khoảng đời Trần

48
(thế kỷ XIII), gắn liền với giai thoại về Nguyễn Thuyên (tức Hàn Thuyên) với bài Văn tế cá
sấu bằng chữ Nôm (nay đã thất truyền).
Chữ Nôm được sáng tạo từ việc biến cách chữ Hán qua nhiều phương pháp ghép chữ
linh hoạt: hoặc dùng nguyên chữ Hán, đọc theo âm Việt, hoặc ghép 2 chữ Hán thành một
chữ Nôm, hoặc ghép một chữ Hán với một chữ Nôm.
Trong lịch sử, các tác giả hay sử dụng chữ Nôm được kể đến là Nguyễn Thuyên,
Nguyễn Sĩ Cố, Hồ Quý Lý, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Quang
Trung…
Loại hình văn tự mới nhất trong văn học Việt là chữ quốc ngữ được La Tinh hóa.
Chữ quốc ngữ ra đời từ thế kỷ XVII, gắn liền với hoạt động truyền giáo của các giáo sĩ
phương Tây trong việc soạn giảng các sách đạo. Chữ quốc ngữ là công trình sáng tạo của
tập thể các giáo sĩ Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý, Pháp và có cả người Việt Nam. Những tác
giả đầu tiên đóng góp vào xây dựng chữ quốc ngữ như Borri, Busomi, Pina, Amaral,
Barbosa và đặc biệt là Alexanhdre de Rhodes, ông là tác giả hai cuốn sách nổi tiếng có sử
dụng chữ quốc ngữu là cuốn Từ điển Việt – Bồ - La (1651) có kèm theo phần ngữ pháp
Annam, và cuốn Phép giảng tám ngày. Chữ quốc ngữ là một kết quả độc đáo của quá trình
giao lưu văn hóa Đông – Tây, là một thành tựu văn hóa vô cùng quý giá của dân tộc.
Với tư cách là công cụ của giao tiếp, ngôn ngữ nói chung và ngôn từ tiếng Việt nói
riêng chịu sự chi phối to lớn của văn hoá giao tiếp của người Việt, vì thế một sự tìm hiểu về
nghệ thuật ngôn từ Việt Nam rất cần chú ý đến văn hoá giao tiếp.
Trước hết, xét về thái độ của người Việt Nam đối với việc giao tiếp, có thể thấy
người Việt Nam là vừa thích giao tiếp, lại vừa rất rụt rè. Sự tồn tại đồng thời hai tính cách
trái ngược nhau này bắt nguồn từ hai đặc tính cơ bản của làng xã Việt Nam là tính cộng
đồng và tính tự trị. Người Việt Nam xởi lởi, rất thích giao tiếp, nhưng đó là khi thấy mình
đang ở trong phạm vi của cộng đồng quen thuộc, còn khi đã vượt ra khỏi phạm vi của cộng
đồng, trước những người lạ, nơi tính tự trị phát huy tác dụng thì người Việt Nam, ngược lại,
lại tỏ ra rụt rè.
Xét về quan hệ giao tiếp, người Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm - lấy sự yêu sự ghét -
làm nguyên tắc ứng xử, sống có lí có tình nhưng vẫn thiên về tình hơn. Khi cần cân nhắc
giữa tình với lí thì tình được đặt cao hơn lí. Với đối tượng giao tiếp, người Việt Nam có thói
quen ưa tìm hiểu, quan sát, đánh giá. Tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội, tình
trạng gia đình… là những vấn đề người Việt Nam thường quan tâm. Do tính cộng đồng,
người Việt Nam tự thấy có trách nhiệm phải quan tâm đến người khác, mà muốn quan tâm
thì cần biết rõ hoàn cảnh.
Tính cộng đồng còn khiến cho người Việt Nam, dưới góc độ chủ thể giao tiếp, có đặc
điểm là trọng danh dự. Danh dự được người Việt Nam gắn với năng lực giao tiếp: Lời nói ra
để lại dấu vết, tạo thành tiếng tăm, nó được truyền đến tai nhiều người, tạo nên tai tiếng.

49
Về cách thức giao tiếp, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự hòa thuận. Lối
giao tiếp ưa tế nhị khiến người Việt Nam có thói quen giao tiếp “vòng vo tam quốc”, không
bao giờ mở đầu trực tiếp, nói thẳng vào vấn đề như người phương Tây. Nó tạo nên một thói
quen đắn đo cân nhắc kĩ càng khi nói năng: Ăn có nhai, nói có nghĩ; Biết thì thưa thốt,
không biết thì dựa cột mà nghe; Người khôn ăn nói nữa chừng, Để cho kẻ dại nữa mừng
nữa lo,...Chính sự đắn đo cân nhắc này khiến cho người Việt Nam có nhược điểm thiếu tính
quyết đoán. Để tránh phải quyết đoán, và đồng thời để không làm mất lòng ai, để giữ được
sự hòa thuận cần thiết, người Việt Nam rất hay cười. Nụ cười là một bộ phận quan trọng
trong thói quen giao tiếp của người Việt; có thể gặp nụ cười Việt Nam vào cả những lúc ít
chờ đợi nhất.
Người Việt Nam có một hệ thống nghi thức lời nói rất phong phú.Trước hết, đó là sự
phong phú trong hệ thống xưng hô bằng các từ chỉ quan hệ họ hàng. Hệ thống xưng hô này
có các đặc điểm:
Thứ nhất, có tính chất thân mật hóa (trong tình cảm), coi mọi người trong cộng đồng
như bà con họ hàng trong một gia đình.
Thứ hai, có tính chất xã hội hóa, cộng đồng hóa cao - trong hệ thống từ xưng hô này,
không có cái "tôi" chung chung. Quan hệ xưng hô phụ thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội, thời
gian, không gian giao tiếp - chú khi ni, mi khi khác. Cùng là hai người, nhưng cách xưng hô
có khi đồng thời tổng hợp được hai quan hệ khác nhau: Chú-con, bác-con, bác-em, anh-
tôi,... Lối gọi nhau bằng tên con, tên cháu, tên chồng; bằng thứ tự sinh (Cả, Hai, Ba, Tư...).
Thứ ba, thể hiện tính tôn ti kĩ lưỡng: Người Việt Nam xưng và hô theo nguyên tắc
xưng khiêm hô tôn (gọi mình thì khiêm nhường, còn gọi đối tượng giao tiếp thì tôn kính).
Cùng một cặp giao tiếp, nhưng có khi cả hai đều cùng xưng hô là em và đều cùng xưng là
em và đều gọi nhau là chị. Việc tôn trọng, đề cao nhau dẫn đến tục kiêng tên riêng: người ta
chỉ gọi tên cái ra để chửi nhau; đặt tên con cần nhất là không được trùng với tên của những
người bề trên trong gia đình, gia tộc cũng như ngoài xã hội. Do truyền thống nặng về tình
cảm và linh hoạt nên người Việt Nam không có những từ cảm ơn, xin lỗi khái quát dùng
chung cho mọi người trường hợp như người phương Tây. Cũng như trong xưng hô, đối với
mỗi người ta có một cách cảm ơn, xin lỗi khác nhau: Con xin chú (Cảm ơn khi nhận quà),
Chị chu đáo quá, Anh tốt quá (cảm ơn khi được quan tâm), Bác bày vẽ quá (cảm ơn khi
được tiếp đón nồng hậu), Quý hóa quá (cảm ơn khi có khách đến thăm), Anh quá khen (cảm
ơn khi được khen),...
Các đặc trưng cơ bản trong nghệ thuật ngôn từ Việt Nam
Trước hết, nghệ thuật ngôn từ Việt Nam có tính biểu trưng cao. Tính biểu tượng thể
hiện ở xu hướng khái quát hóa, công thức (ước lệ) hóa với những cấu trúc cân đối, hài hòa.
Xu hướng ước lệ bộc lộ ở chỗ tiếng Việt thích những cách diễn đạt bằng các con số biểu
trưng. Ở những trường hợp, người châu Âu dùng từ “tất cả” thì người Việt dùng các từ chỉ

50
số lượng ước lệ: ba thu, nói ba phải, ba mặt một lời, năm bè bảy mối, tam khoanh tứ đốm,
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo ..., trăm dâu đổ một đầu tằm, trăm khôn ngàn khéo, tiền trăm
bạc vạn, trăm họ, vạn sự, muôn dân, muôn vật,... Lối tư duy tổng hợp mọi yếu tố, lối sống
ổn định có quan hệ tốt với hết thảy mọi người dẫn đến xu hướng trọng sự cân đối hài hòa
trong ngôn từ - một biểu hiện khác của tính biểu trưng. Tính cân xứng là một đặc tính rất
điển hình của tiếng Việt.
Theo nguyên lí cấu trúc loại hình, tiếng Việt là một ngôn ngữ đơn tiết, song nó chứa
một khối lượng không nhỏ các từ song tiết; điều quan trọng hơn nữa là mỗi từ đơn tiết lại
hầu như đều có thể có những biến thể song tiết, dạng láy, cho nên thực chất trong ngôn từ,
lời nói Việt thì cấu trúc song tiết lại là chủ đạo. Các thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt đều cấu
tạo theo cấu trúc có 2 vế đối ứng: trèo cao/ ngã đau; ăn vóc/học hay; một quả dâu da/ bằng
ba chén thuốc; biết thì thưa thốt/ không biết thì dựa cột mà nghe..
Tiếng Việt rất phát triển hình thức câu đối, rất phát triển thơ. Câu đối là một loại sản
phẩm văn chương đặc biệt, nó vừa công phu tỉ mỉ, lại vừa cô đúc ngắn gọn. Trong một tác
phẩm "mini" ấy thể hiện đủ cả cái đẹp cân đối nhịp nhàng của hình thức và cái uyên thâm
của chiều sâu triết lí Đông Phương. ở Việt Nam xưa kia, nhà nhà, đình đình, chùa chùa...
nơi nào cũng đều có treo câu đối. Người Việt Nam, hầu như ai cũng biết làm thơ. Ở Việt
Nam, văn xuôi truyền thống cũng là một thứ văn xuôi thơ, thế mạnh đó còn do tiếng Việt là
một ngôn ngữ giàu thanh điệu, tự thân các thanh điệu đã tạo nên tính nhạc cho câu văn rồi.
Từ những bài văn xuôi viết theo lối biền ngẫu như Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, hoặc
tự do như thư dụ hàng của Nguyễn Trãi gửi địch, cho tới những lời văn nôm bình dân ...
khắp nơi, ta đều gặp một lối cấu trúc cân đối, nhịp nhàng, chặt chẽ và có tiết tấu, vần điệu.
Thậm chí ngay cả trong việc chửi nhau, người Việt cũng chửi nhau một cách có bài bản, cân
đối, nhịp nhàng, đầy chất thơ.
Đặc điểm thứ hai của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam là nó rất giàu chất biểu cảm. Về
mặt từ ngữ chất biểu cảm này thể hiện ở chỗ các từ, bên cạnh yếu tố gốc mang sắc thái
nghĩa trung hoà, thường có rất nhiều biến thể với những sắc thái nghĩa biểu cảm: Bên cạnh
màu xanh trung tính, có đủ thứ xanh rì, xanh rờn, xanh rợn, xanh ngắt, xanh um, xanh lè...
Bên cạnh màu đỏ trung tính có đỏ rực, đỏ âu, đỏ lòm, đỏ loét, đỏ hoe... Các từ lấy mang sắc
thái biểu cảm mạnh cũng rất phổ biến trong tiếng Việt. Về mặt ngữ pháp, tiếng Việt sử dụng
rất nhiều các hư từ có sắc thái biểu cảm: à, ư, nhỉ, chăng, chớ, hả, hở, phỏng, sao, chứ...
Nghệ thuật ngôn từ Việt Nam có đặc điểm thứ ba là tính động, linh hoạt. Tính động,
linh hoạt này trước hết bộc lộ ở hệ thống ngữ pháp. Trong khi ngữ pháp biến hình của các
ngôn ngữ châu Âu là một thứ ngữ pháp chặt chẽ tới mức máy móc thì ngữ pháp tiếng Việt
tổ chức chủ yếu theo lối dùng các từ hư để biểu hiện các ý nghĩa và quan hệ ngữ pháp, khiến
cho người sử dụng được quyền linh hoạt tối đa. Ngữ pháp phương Tây là ngữ pháp hình
thức, còn ngữ pháp Việt Nam là ngữ pháp ngữ nghĩa. Nói bằng một ngôn ngữ châu Âu, ta

51
bắt buộc phải đáp ứng đầy đủ mọi đòi hỏi tai quái mà hệ thống ngữ pháp của ngôn ngữ đó
yêu cầu. Còn trong tiếng Việt thì tùy theo ý đồ của người nói mà anh ta có thể diễn đạt,
không thể diễn đạt hay diễn đạt nhiều lần một ý nghĩa ngữ pháp nào đó: Tôi đi Hà Nội, Tôi
sẽ đi Hà Nội, Ngày mai tôi đi Hà Nội, Ngày mai tôi sẽ đi Hà Nội.
Chính vì linh hoạt như vậy mà tiếng Việt có khả năng diễn đạt khái quát rất cao, có
thể nói một câu không thời, không thể, không ngôi. Khả năng diễn đạt khái quát, mơ hồ
chính là điều kiện rất quan trọng cho việc phát triển thơ ca đã nói đến ở trên. Tính động, linh
hoạt của ngôn từ Việt Nam còn bộc lộ ở chỗ trong lời nói, người Việt rất thích dùng cấu trúc
động từ: trong một câu có bao nhiêu hành động thì có bấy nhiêu động từ; trong khi đó thì
các tiếng phương Tây có xu hướng ngược lại - rất thích dùng danh từ. Trong khi người Việt
nói: Cảm ơn anh đã tới nhà chơi thì người Anh nói: Thank you for your coming (Cảm ơn về
sự đến chơi của anh).
Tính linh hoạt, năng động còn nguyên nhân khiến cho tiếng Việt rất ít dùng cấu trúc
bị động. Người Việt thậm chí dùng cấu trúc chủ động ngay cả trong câu bị động: Trong khi
người Việt nói: Lan bị thầy giáo phạt thì người Anh nói: Linda was punished by the teacher
(Linda bị phạt bởi thầy giáo).
Như vậy, có thể nói rằng trong giao tiếp, người Việt Nam có thiên hướng nói đến
những nội dung tĩnh (tâm lí, tình cảm, dẫn đến nghệ thuật thơ ca và phương pháp biểu
trưng) bằng hình thức động (kiến trúc động từ, ngữ pháp, ngữ nghĩa linh hoạt). Trong khi đó
thì người phương Tây nói riêng và truyền thống văn hóa trọng dương nói chung lại có thiên
hướng nói đến những nội dung động (hành động, sự việc, dẫn đến nghệ thuật văn xuôi và
phương pháp tả thực) bằng hình thức tĩnh (kiến trúc danh từ, ngữ pháp hình thức chặt chẽ).
*Văn học
Văn học gồm hai bộ phận chủ yếu là văn học truyền miệng (văn học dân gian) và văn
học viết (văn học bác học). Văn học dân gian gồm: truyền thuyết, thần thoại, truyện cổ tích,
ca dao, tục ngữ, hò vè, truyện cười, truyện ngụ ngôn…do tập thể nhân dân sáng tác. Văn
học viết là những tác phẩm văn thơ của tầng lớp trí thức (sư sãi, vua quan, nho sĩ) viết bằng
chữ Hán, chữ Nôm, chữ quốc ngữ.
Thời Lý – Trần – Hồ: 3 khuynh hướng văn học nổi trội: văn học Phật giáo (bao gồm
nhiều bài thơ phú, kệ, minh hàm chứa tư tưởng Phật giáo về triết học, nhân sinh, xã hội:
Thiền uyển tập anh, Tam tổ thực lục), văn thơ yêu nước (Nam quốc sơn hà, Hịch tướng
sĩ…), khuynh hướng tìm về cội nguồn dân tộc (phản ánh qua các dã sử, truyền thuyết thời sơ
sử: Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái.
Thời Lê sơ: 2 khuynh hướng văn học nổi trội: văn học yêu nước (gương mặt nổi bật
là Nguyễn Trãi – một chiến sĩ nho gia thấm đậm lòng yêu nước, thân dân, tư tưởng nhân
nghĩa và lòng khí tiết thể hiện qua các tác phẩm Quân Trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo,
Lam Sơn thực lục, văn học Nho giáo (thơ văn hội Tao Đàn do Lê Thánh Tông chủ xướng,

52
có nội dung quan phương, thuyết giáo, ca tụng chế độ, quan hệ vua – tôi với hình thức mang
tính quy phạm, khuôn sáo trong cung đình.
Thế kỷ XVI – XIX, về mặt chính trị và hệ tư tưởng, đây là giai đoạn suy thoái của
thể chế quân chủ tập quyền và ý thức hệ Nho giáo. Ngược lại, đó là giai đoạn thịnh đạt,
những thế kỷ vàng của văn hóa dân tộc. Đây là toàn cảnh của văn học đa sắc, đa khuynh
hướng với nhiều thơ văn thể loại, nội dung phong phú, trình độ nghệ thuật điêu luyện. Tính
chất khai phóng, nhân văn, hiện thực cũng rất đậm nét trong thơ văn thời kỳ này.
Tác giả nổi bật nhất trong thế kỷ XVI là Nguyễn Bỉnh Khiêm, thơ ca có xu hướng
thiên về mặt triết lý nhân sinh. Ông chính là người dung hòa tinh hoa của ba tư tưởng Nho –
Phật – Đạo, đồng thời là người dự báo của thế kỷ, cảnh báo về vai trò lũng đoạn xã hội của
đồng tiền.
Khuynh hướng thơ văn trữ tình: thơ văn trữ tình nói nhiều đến những chủ đề về khát
vọng hạnh phúc cá nhân, khát vọng cuộc sống hòa bình, nói nhiều đến nữ giới, tố cáo những
mặt trái của cuộc sống. Những tác phẩm – tác giả chính của khuynh hướng này là Truyền kỳ
mạn lục (Nguyễn Dữ), Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm), Cung oán ngâm
khúc (Nguyễn Gia Thiều), Sư kính tân trang (Phạm Thái), thơ Hồ Xuân Hương, Truyện
Kiều (Nguyễn Du).
Thế kỷ XIX, một xu hướng thơ văn mang tính phóng túng, hưởng lạc đậm màu tư
tưởng Lão Trang xuất hiện, với 2 tác giả điển hình là Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát.
Thể loại hát nói đã rất thích hợp và có hiệu quả để thể hiện khuynh hướng thơ văn tài tử
này. Thể loại ký sự cũng rất phát triển trong giai đoạn này. Những tác phẩm đáng lưu ý nhất
là cuốn ký sự Vũ trung tùy bút (Phạm Đình Hổ), Thượng kinh ký sự (Lê Hữu Trác) và
Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái). Cùng với nền văn học nho sĩ, văn học dân gian
cũng bùng nổ với rất nhiều thể loại truyền miệng và văn học chữ Nôm khuyết danh. Đó là
các truyện cười, truyện tiếu lâm (Trạng Quỳnh, Trạng Lợn, Ba Giai Tú Xuất), các truyện
Nôm dài (Phan Trần, Thạch Sanh, Phạm Công Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa). Nền văn học
dân gian lúc này mang đậm tính hiện thực (tố cáo cái ác) và nhân văn (khát vọng chiến
thắng của cái thiện).
Thế kỷ XX, văn thơ yêu nước phát triển đến đỉnh cao, văn học phát triển theo hướng
chuyên nghiệp.
*Nghệ thuật biểu diễn
Có nhiều loại hình nghệ thuật biểu diễn dân gian và cung đình. Thời Lê sơ, nhà nước
phân biệt hai loại âm nhạc: tục nhạc (dân gian) và nhã nhạc (cung đình). Tuy nhiên, các
hình thức nghệ thuật thường xen cài, đan quyện vào nhau. Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam
phản ánh nền văn minh nông nghiệp và sông nước. Giai điệu, động tác, nhịp thường thong
thả, mềm mại, êm dịu, trữ tình…
Các loại hình ca múa, nhạc kịch truyền thống rất đậm đà tính cộng đồng, giao cảm.

53
Thường diễn ngoài trời cho đông đảo khán giả xem, bài trí sân khấu giản dị. Có sự giao cảm
giữa các nhóm biểu diễn (hát giao duyên, hát quan họ, ví, ghẹo), giữa người biểu diễn và
người xem (thể hiện trong tiếng đế). Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam thường mang tính cách
điệu, biểu trưng (trong múa, tuồng, chèo), đối xứng (giữa các cặp trung – nịnh, thiện – ác, bi
– hài). Tính chất trào lộng được thể hiện qua vai hề.
Ca múa: ở Việt Nam có nhiều loại ca hát, phần lớn mang tính chất dân gian như các
loại hát đồng giao, hát ru, hát ví, cò lả, hát trống quân. Nhiều điệu hát đã mang tính địa
phương, là đặc trưng của một vùng văn hóa: quan họ Bắc Ninh, hát dặm Nghệ Tĩnh, hò
Huế, hát bài chòi Nam Trung Bộ. Hát chầu văn (hầu bóng) dùng trong nghi lễ lên đồng của
tín ngưỡng thờ Mẫu. Hát ca trù là một dạng hát đặc biệt giữa hát cung đình, hát dân gian và
hát thính phòng, chủ yếu dựa loại hát nói, bao gồm một đào (hát và gõ phách) một kép (gảy
đàn đáy) và một quan viên (điểm trống chầu).
Nhạc: âm nhạc truyền thống thường làm nền cho múa và tế lễ. Đó là loại nhạc ngũ
âm phương Đông (hò, xừ, xàng, xê, cống). Các nhạc cụ sớm nhất Việt Nam thuộc loại bộ
gõ: trống đồng, trống cơm, cồng chiêng, chuông khánh, thanh la não bạt. Tiếp đến là các
nhạc cụ thổi bằng hơi: tù và, khèn, sáo trúc… Cuối cùng là nhiều loại nhạc cụ kéo, gảy bằng
dây: đàn nhị, đàn nguyệt, đàn tỳ bà, đàn tranh, đàn tam thập lục. Có những loại đàn đặc biệt
của Việt Nam: đàn bầu (một dây), đàn đáy (bầu đàn hình thang không có đáy, 3 dây tơ,
dùng trong hát ả đào).
*Sân khấu
Cũng như nhiều nước Đông Nam Á, Việt Nam đã có nhiều loại hình múa rối. Đặc
biệt loại múa rối nước đã phản ánh một nền văn minh sông nước. Từ thời Lý, trong các hội
đèn Quảng chiếu, đã có nhiều trò rối nước rất sinh động, trình diễn cho vua xem. Rối nước
có sân khấu nước (thủy đình), chú Tễu giáo đầu và máy rối (sào và dây) điều khiển con rối.
Rối nước nổi tiếng là của địa phương Hà Nam, Hà Nội, Thái Bình…
Chèo là loại hình sân khấu dân gian, tổng hợp các yếu tố ca, vũ, kịch. Bài trí và đạo
cụ đơn giản. Chèo sử dụng nhiều ngôn ngữ và hành động ước lệ, chất liệu trào phúng (hề).
Loại chèo phổ biến nhất là chèo cửa đình, diễn trong các hội hè. Nội dung chèo mang đậm
tính nhân văn và hiện thực. Một số vở chèo nổi tiếng như các vở Trương Viên, Quan Âm
Thị Kính, Lưu Bình – Dương Lễ, Thạch Sanh, Tấm Cám…
Tuồng là loại hình sân khấu dân tộc, có từ thế kỷ XIII, chịu ảnh hưởng của hý khúc
Trung Quốc. Phổ biến là loại tuồng pho, thường có chủ đề lịch sử, các âm mưu chính trị
cung đình, đấu tranh giữa chính và tà. Nghệ thuật tuồng cũng mang nhiều tính ước lệ, có
nhiều tình huống mang tính mâu thuẫn, bi kịch. Một số vở tuồng nổi tiếng như Sơn Hậu,
Tam nữ Đồ Vương… Còn có loại tuồng hài đậm tính dân gian, gần với chèo như vở Nghêu,
Sò, Ốc, Hến.
Các diễn viên trên sân khấu truyền thống được gọi là đào (nữ) và kép (nam). Tùy

54
theo tính cách của vai diễn, người ta phân loại thành đào chiến, đào thương, đào lẳng, đào
cảnh. Đối với kép, tính cách được biểu hiện qua màu hóa trang của sắc mặt: kép đỏ (trung
nghĩa), kép đen (dũng mãnh, nóng nảy) và kép trắng (gian nịnh).
Trong lịch sử, một số tác giả đã nghiên cứu, sáng tác và chỉnh lý về nghệ thuật sân
khấu truyền thống. Có thể kể: Lương Thế Vinh (tác giả cuốn Hí phường giả lục), Đào Duy
Từ (tác giả khởi thảo vở tuồng Sơn hậu) và Đào Tấn.
*Nghệ thuật tạo hình
Kiến trúc: loại hình kiến trúc đơn giản nhất là nhà ở dân gian: nhà sàn ở miền núi,
nhà đất ở nông thôn, nhà ống bằng gạch ở thành thị, nhà bè nơi sông nước… Các loại nhà
chủ yếu được dựng bằng tre và gỗ, mỗi nhà thường có vườn tược và giếng nước. Các dinh
thự của quý tộc, quan lại tuy có kiên cố, to rộng hơn nhưng nhìn chung không thật khác lạ
so với nhà ở của dân.
Các công trình kiến trúc được coi là quy mô là những cung điện của vua chúa. Hoàng
thành Thăng Long được coi là một quần thể các cung, điện, đường, lâu, đài, các… đồ sộ,
nguy nga trong nhiều thế kỷ. Lăng tẩm của các triều vua cũng là một loại hình kiến trúc
đáng lưu ý, còn lại các phế tích của khu lăng các vua Trần ở Thái Bình và Đông Triều, khu
lăng các vua Lê ở Lam Sơn (Thanh Hóa). Dọc theo bờ sông Hương bên cạnh hoàng thành
Huế, hầu hết các vua Nguyễn đều xây dựng cho mình các khu lăng (mộ táng) bên cạnh là
các kiến trúc (nhà nghỉ khi còn sống). Nổi tiếng là lăng Minh Mạng (Hiếu Lăng) uy nghiêm,
lăng Tự Đức (Khiêm Lăng) thơ mộng. Vẻ đẹp độc đáo của khu lăng tẩm các vua Nguyễn là
sự kết hợp hài hòa giữa cái nhân tạo và cái thiên nhiên, giữa cái sống và cái chết, gây niềm
suy tư mà không đem lại cảm giác sợ hãi.
Kiến trúc thành lũy ở Việt Nam vừa mang tính chính trị vừa mang tính quân sự:
hoàng thành Thăng Long, hoàng thành Huế, thành Nhà Hồ (Thanh Hóa), lũy Thầy (Quảng
Bình).
Kiến trúc tôn giáo, bao gồm nhiều loại hình khác nhau như chùa, tháp, đền, đình,
quán, miếu, phủ, nhà thờ.
Điêu khắc: phần lớn là hỗ trợ cho kiến trúc, mang chức năng trang trí. Chất liệu sử
dụng là đá, đồng, phổ biến là gỗ và đất nung. Hai loại hình điêu khắc chủ yếu là tượng và
phù điêu. Có nhiều loại tượng: tượng Phật, tượng Thần, tượng Bồ tát, tượng đạo sĩ. Ở các
khu lăng vua Trần, lăng vua Minh Mạng đã có nhiều tượng đá miêu tả người (võ sĩ, quan
hầu văn, võ) và thú vật (rồng, voi, hổ, chó, ngựa, dê, trâu, dơi, chim…). Trong các công
trình kiến trúc, có rất nhiều loại tượng tròn và phù điêu chạm khắc nổi trên đồ đồng, đá, gỗ.
Các mô típ điêu khắc tượng tròn và phù điêu phổ biến và tiêu biểu là: rồng, tiên nữ, lá đề,
hoa sen, sông nước, lưỡng long chầu nguyệt, ngũ long tranh châu, sư tử hí cầu, tứ linh, ngũ
phúc, ngũ hổ, tứ quý. Trong những mô típ đó đã phản ánh sự hài hòa và đậm đà các yếu tố
thiên nhiên, tâm linh trong đời sống con người.

55
Hội họa: ở Việt Nam, còn lại rất ít những tác phẩm hội họa đơn thuần mang tính
nghệ thuật. Điều đó có nhiều nguyên nhân. Trước hết, do quan điểm thẩm mỹ thực dụng,
phần lớn các tác phẩm hội họa đều mang tính tập thể quần chúng hoặc khuyết danh, phục vụ
chức năng trang trí. Hơn nữa do điều kiện khí hậu nóng ẩm, phần lớn những tác phẩm hội
họa đã bị hư hại qua thời gian. Hội họa thường sử dụng màu sắc từ chất liệu thiên nhiên. Có
nhiều loại tranh: tranh chân dung (tranh chân dung Nguyễn Trãi và Phùng Khắc Khoan),
tranh sinh hoạt, tranh tôn giáo… Nổi tiếng nhất, sinh động nhất, phong phú nhất là loại
tranh dân gian. Nó được sáng tác hàng loạt qua mẫu vẽ của các phiên bản màu. Tiêu biểu
nhất có loại tranh Đông Hồ (làng Mái, Thuận Thành, Bắc Ninh) mang vẻ đẹp chất phác, hồn
nhiên với những chủ đề dân dã, hóm hỉnh: Thầy đồ cóc, Đám cưới chuột, Kéo co, Tố nữ,
Đánh ghen, Hứng dừa. Ngoài ra còn có tranh Hàng Trống, nét vẽ tinh tế hơn, mang nhiều
tính thị dân và một số các bức tranh thờ cúng tiêu biểu như: Lý ngư vọng nguyệt, Tam đa
(phúc, lộc, thọ), Tứ bình, Ngũ hổ…
Mỹ nghệ là loại hình mỹ thuật ứng dụng (kết hợp thẩm mỹ và thực dụng) được phổ
biến trong dân gian, phục vụ đời sống. Nó gắn liền với các nghề thủ công truyền thống, ở
đây, thay vào các cá nhân nghệ sĩ là một tầng lớp nghệ nhân khéo tay lành nghề.
2.3.3. Tư tưởng học thuật
Tư tưởng về sự nhận thức vũ trụ: trong cuộc sống, dân tộc nào cũng va chạm với
những cặp đối lập “âm - dương”, “nóng - lạnh”, “cao - thấp”... Đặc biệt, người sống bằng
nghề nông luôn cầu mùa màng bội thu, đề cao Mẹ - Cha và Đất - Trời. Người ta cũng dần
dần nhận ra rằng hai hình thái sinh sản này có cùng một bản chất: Đất được đồng nhất với
mẹ, còn trời được đồng nhất với cha. Việc hợp nhất của hai cặp “mẹ - cha” và “đất - trời”
chính là sự khái quát hóa đầu tiên trên con đường dẫn tới triết lí âm dương. Chính từ quan
niệm âm dương với hai cặp đối lập gốc “mẹ - cha” và “đất - trời” này, người xưa đã dần dần
suy ra vô số những đối lập mà, đến lượt mình, lại trở thành cơ sở để suy ra những đối lập
mới. Chẳng hạn, từ cặp “lạnh – nóng”, có thể suy ra: (a) Về thời tiết thì mùa đông lạnh
thuộc âm, mùa hè nóng thuộc dương; (b) Về phương hướng thì phương bắc lạnh thuộc âm,
phương nam nóng thuộc dương; (c) Về thời gian thì ban đêm lạnh thuộc âm, ban ngày nóng
thuộc dương. Tiếp tục, đêm thì tối nên màu đen thuộc âm, ngày thì nắng đỏ nên màu đỏ
thuộc dương.
Từ hai cặp đối lập gốc “mẹ - cha” và “đất - trời” người xưa dần dần suy ra hàng loạt
cặp đối lập như những thuộc tính của âm dương. Lối tư duy đó tạo nên ở người Đông Nam
Á cổ đại một quan niệm lưỡng phân lưỡng hợp (nhị nguyên) có phần chất phác và thô sơ về
thế giới. Từ tư duy lưỡng phân lưỡng hợp, trên cơ sở các cặp đối lập rõ nét, người Đông
Nam Á xưa hơn đã mở rộng dần ra để tìm cách xác lập bản chất âm dương cho những khái
niệm, sự vật biệt lập. Quá trình này chắc đã dẫn họ tời chỗ cảm nhận được tính hai mặt của
âm dương và quan hệ chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng.

56
Ở người Việt Nam, tư duy lưỡng phân lưỡng hợp bộc lộ rất đậm nét qua khuynh
hướng cặp đôi ở khắp nơi: từ tư duy đến cách sống, từ các dấu vết cổ xưa đến những thói
quen hiện đại:
a) Trong khi trên thế giới, vật tổ của các dân tộc thường là một loài động vật cụ thể
(chim ưng, đại bàng, chó sói, bò...) thì vật tổ của người Việt là một cặp đôi trừu tượng Tiên-
Rồng. Những khái niệm truyền thuyết mang tính cặp đôi cũng gặp ở người Mường (chim
Ây -cái Ứa), người Tày (Báo Luông - Slao Cái), người Thái (nàng Kè - tạo Cặp)... - đó là
những dấu vết của tư duy âm dương thời xa xưa.
b) Ở Việt Nam, mọi thứ thường đi đôi từng cặp theo nguyên tắc âm dương hài hòa:
ông Đồng - bà Cốt, đồng Cô – đồng Cậu, đồng Đức Ông – đồng Đức Bà... Khi xin âm
dương (xin keo) thì hai đồng tiền phải một ngửa một sấp; ngói âm dương lợp nhà phải viên
ngửa viên sấp; khi ghép gỗ thì phải một tấm có gờ lồi ra khớp với tấm kia có rãnh lõm vào...
Lối tư duy âm dương khiến người Việt nói đến đất, núi liền nghĩ ngay đến nước, nói đến cha
liền nghĩ ngay tới mẹ.
c) Tổ quốc đối với người Việt Nam là một khối âm dương: đất nước. Đất - Nước,
Núi - Nước, Non - Nước, Lửa - Nước là những cặp khái niệm thường trực. Ở Tây Nguyên,
phần lớn các địa danh đều bắt đầu bằng chư (núi, vd: Chư Sê) và krông, dak (sông, nước,
vd: KrôngPa, Dak B’la). Một thời, ở Tây Nguyên đã từng tồn tại các vương quốc của Vua
Lửa (Pơtao Pui) và Vua Nước (Pơtao la).
d) Ngay những khái niệm vay mượn đơn độc, khi vào Việt Nam cũng được nhân đôi
thành cặp: ở Trung Hoa, thần mai mối là một ông Tơ Hồng thì vào Việt Nam được biến
thành ông Tơ - bà Nguyệt; ở Ấn Độ chỉ có Phật ông thì vào Việt Nam xuất hiện Phật Ông-
Phật Bà (người Mường gọi là Bụt đực, Bụt cái)...
e) Biểu tượng âm - dương dùng phổ biến hiện nay mới được đặt ra từ đầu Công nguyên.
Trong khi đó thì người Việt vẫn giữ được một biểu tượng âm - dương có truyền thống lâu đời
hơn - biểu tượng vuông - tròn. Có vuông có tròn, tức là có âm có dương; nói “vuông tròn” là
nói đến sự hoàn thiện. Thành ngữ có câu: Mẹ tròn con vuông, Ba vuông bảy tròn...
Cùng xuất phát từ nguyên lí âm dương, người xưa đã theo hai ngả khác nhau để có
hai sản phẩm rất khác nhau là Ngũ hành và Bát quái. Một hướng gọi âm dương là Lưỡng
nghi và, bằng phép phân đôi thuần túy, đã sản sinh ra những mô hình vũ trụ chặt chẽ với số
lượng thành tố chẵn: 2 sinh 4 (Tứ tượng), 4 sinh 8 (Bát quái). Kinh dịch trình bày nguyên lí
hình thành vũ trụ dưới dạng: Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng
sinh bát quái, bát quái biến hoá vô cùng.
Hướng thứ hai tạo nên những mô hình vũ trụ bí ẩn với số lượng thành tố lẻ: 2 sinh 3
(Tam tài), 3 sinh 5 (Ngũ hành). Tư duy số lẻ dường như là nét đặc thù của người nông
nghiệp phương Nam. Dân gian Việt Nam rất thích dùng những cách nói với các con số lẻ: 3
mặt 1 lời, 3 xôi nhồi 1 chỗ, 3 thưng cũng vào 1 đấu, Mua danh 3 vạn, bán danh 3 đồng, 3 bè

57
7 mối, 3 hồn 7 vía, 3 dãy 7 òa, 3 lo 7 triệu, 3 vành 7 vẻ, 3 vợ 7 nàng hầu; 3 vuông 7 tròn, 3
chìm 7 nổi 9 lênh đênh, 3hồn 9 vía, 3 bò 9 trâu, túm 5 tụm 3, 5 cha 3 mẹ, 5 lần 7 lượt, 5 lừa
7 lọc, 5 thê 7 thiếp… Các số 18 (18 chim bay khắc trên nhiều trống đồng: 18 đời Hùng
vương, 18 ụ hỏa công ở thành Cổ Loa, 18 thôn Vườn Trầu ở Hóc Môn), 27 (đại tang 3 năm
thực ra chỉ có 27 tháng): 36 (36 con chim cả bay và đứng trên mặt trống Ngọc Lũ, 36 phố
phường Hà Nội…)… thực chất đều là những bội số của các con số 3 và 9 (9 x 2, 9 x 3, 9 x
4). Người Việt thích số lẻ, nhưng đồng thời cũng sợ số lẻ, nên rất kiêng các số 3, 5, 7 và các
số có tổng bằng 5 (1+4 và 2+3): Chớ đi ngày 7 chớ về ngày 3, Mồng năm, mười bốn, hai ba.
Đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn.
Mặc dù không qua trường lớp đào tạo nghiêm túc, nhưng nền học thuật nước nhà
được khẳng định bởi một số trí thức tâm huyết. Một số ngành khoa học đạt thành tựu là:
Sử học và địa lý: Việt Nam là một quốc gia quân chủ tập quyền, có một chính sách
nhà nước dân tộc mạnh, vì vậy việc ghi chép quốc sử và địa lý rất được coi trọng. Những bộ
sử nổi tiếng thời Trần và thời Lê là Đại Việt sử ký (Lê Văn Hưu), Đại Việt sử lược (tức Việt
sủ lược, khuyết danh), Đại Việt sử ký toàn thư (nhóm tác giả Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên,
Vũ Quỳnh, Phạm Công Trứ…).
Thế kỷ XVII, một học giả nổi tiếng là Lê Quý Đôn đã viết rất nhiều sách, trong đó có
những cuốn sử nổi tiếng là Kiến văn tiểu lục, Đại Việt thông sử và Phủ biên tạp lục.
Cũng ở thời Nguyễn, cơ quan biên soạn sử của nhà nước là Quốc sử quán đã khắc in
những bộ sử nổi tiếng như Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt
truyện. Nội các triều Nguyễn biên soạn một bộ điển chế là bộ Đại Nam hội điển sự lệ.
Về các tác phẩm địa lý nổi tiếng, thời Lê có Dư địa chí (Nguyễn Trãi), tập Hồng Đức
bản đồ (soạn vẽ thời Lê Thánh Tông), được bổ sung trong thế kỷ sau). Thời Nguyễn có Gia
Định thành thông chí (Trịnh Hoài Đức), Phương đình địa chí (Nguyễn Văn Siêu) và bộ Đại
Nam nhất thống chí.
Y học cổ truyền và khoa học kỹ thuật
Y học cổ truyền Việt Nam xuất phát từ quan điểm về sự tương ứng giữa vũ trụ và
con người, tính thống nhất của cơ thể người cũng như sự liên hệ giữa các bộ phận thông qua
các chức năng ngũ hành, hệ kinh lạc và các huyệt. Trong lịch sử các vương triều đều lập ra
Thái y viện để chữa bệnh cho vua và thân tộc. Trong dân gian, có các thầy thuốc chữa bệnh
thường xuất phát từ các nhà nho (nho, y, lý, số). Thời Trần, danh y Phạm Bân nổi tiếng về y
đức, trách nhiệm đối với người bệnh. Danh y Tuệ Tĩnh là tác giả bộ Nam dược thần hiệu đề
cao tác dụng của thuốc Nam. Lê Hữu Trác là một thầy thuốc kiêm toàn về nhân cách, y đức
và tài năng, đã viết Hải thượng y tông tâm lĩnh, đây được coi là bộ sách có giá trị nhất của y
học cổ truyền Việt Nam.
Thiên văn, lịch pháp: trong lịch sử, việc chiêm nghiệm trời đất và soạn lịch pháp
thuộc các cơ quan “Khâm thiên giám” và “Thái chúc ty”. Đời Trần, Đặng Lộ đã chế tạo ra

58
“Lung linh nghi” (một dụng cụ chiêm nghiệm khí tượng rất chuẩn xác) và làm ra loại lịch
Hiệp Kỷ mang tính dân tộc. Trần Nguyên Đán làm ra loại lịch mới “Thuận Thiên”, là tác gải
cuốn “Bách thế thông kỷ thư” là một loại sách lịch thế kỷ với những dự đoán chính xác về
thiên văn, nhật thực, nguyệt thực.
Lịch pháp Việt Nam là loại âm lịch, dựa theo chuyển động của mặt trăng. Thời gian
được tính theo hệ can chi (10 thiên can, 12 địa chi). Trong năm có các tiết: Nguyên Đán,
Thượng Nguyên, Hàn Thực, Đoan Ngọ, Trung Nguyên, Trung Thu…
Khoa học kỹ thuật: đã ghi lại một số thành tựu về toán pháp, Lương Thế Vinh là tác
giả cuốn Đại thành toán pháp. Vũ Hữu là người giỏi tính toán trong các công trình xây
dựng cửa Đại Hưng và cửa Đông Hoa hoàng thành Thăng Long. Nguyễn An là một thiếu
niên Việt bị bắt sang Trung Quốc từ thời Hồ, sau trở nên một nhà kiến trúc giỏi, đã tham gai
xây dựng quần thể cung điện ở Bắc Kinh đời Minh. Hồ Nguyên Trừng là người chế tạo loại
thuyền chiến Cổ lâu hai tầng và súng lớn thần cơ. Thế kỷ XVII, Nguyễn Văn Tú ở đàng
trong học tập kỹ thuật phương Tây đã chế ra đồng hồ chạy bằng dây cót, bánh xe. Thời
Minh Mạng, các thợ giỏi đã chế được một số máy móc dùng trong đời sống như máy bơm
nước, chữa cháy, máy cưa, máy giã…

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP


1. Hãy phân tích thái độ ứng xử văn hóa của người Việt với môi trường xã hội
thể hiện ở lĩnh vực văn hóa vật chất?
2. Đặc trưng của văn hóa làng và tác động của nó đối với sự hình thành lối sống
và cách tư duy, ứng xử của người Việt truyền thống?
3. Ứng xử của người Việt với Phật giáo và vai trò của Phật giáo trong đời sống
văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay?
4. Ứng xử của người Việt với Nho giáo và vai trò của Nho giáo đối với đời sống
tư tưởng và văn hóa tinh thần của người Việt xưa và nay?

59
CHƯƠNG 3. CÁC VÙNG VĂN HÓA VIỆT NAM

3.1. Khái niệm vùng văn hóa và phân vùng văn hóa
3.1.1. Khái niệm vùng văn hóa
Vùng văn hóa là khái niệm dùng để chỉ một vùng lãnh thổ, trên đó các cộng đồng cư
dân có những nét tương đồng về văn hóa - thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống vật
chất, tinh thần và được hình thành do những tương đồng về môi trường tự nhiên, điều kiện
lịch sử, xã hội. Đặc biệt, với các mối quan hệ giao lưu văn hóa được diễn ra trong suốt quá
trình lịch sử lâu dài đã hình thành nên những đặc trưng văn hóa chung.
Trong mỗi một vùng văn hoá, lại có thể chia làm nhiều tiểu vùng văn hoá. Khái niệm
tiểu vùng văn hoá để chỉ những bộ phận hợp thành vùng văn hoá. Mỗi tiểu vùng được xác
định với những nét đặc thù, tồn tại trong một không gian địa lí, khí hậu và lịch sử hình
thành, phát triển của vùng. Việc phân loại tiểu vùng văn hoá hoàn toàn không phá vỡ tính
thống nhất của tổng thể một vùng văn hoá.
3.1.2. Tiêu chí phân vùng văn hóa
- Theo các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam, việc phân vùng văn hóa cần định vị
trên cơ sở các yếu tố có vai trò tác động đến sự hình thành văn hóa, đó là: Môi trường tự
nhiên và phương thức canh tác/ quan hệ lịch sử - cội nguồn/ trình độ phát triển kinh tế - xã
hội/ giao lưu và ảnh hưởng văn hóa.
- Hiện nay, đang tồn tại nhiều quan điểm phân vùng văn hóa Việt Nam. Song, dựa
vào các yếu tố có vai trò tác động đến sự hình thành văn hóa mang những nét đặc trưng như
đã nêu trên, chúng tôi thống nhất với quan điểm phân chia thành 6 vùng văn hóa như sau:
+ Vùng văn hóa Việt Bắc/ Vùng văn hóa Tây Bắc
+ Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
+ Vùng văn hóa Trung Bộ
+ Vùng văn hóa Tây Nguyên
+ Vùng văn hóa Nam Bộ
Mỗi vùng văn hóa có những nét đặc thù riêng làm nên bản sắc của mình trong tương
quan với các vùng khác, để rồi từ những hình thái riêng ấy, tất cả cùng tạo nên tính thống
nhất trong sự đa dạng của văn hóa Việt Nam.
3.2. Các vùng văn hóa Việt Nam
3.2.1. Vùng văn hóa Tây Bắc
3.2.1.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội
a. Đặc điểm tự nhiên
* Vị trí địa lý
- Vùng văn hoá Tây Bắc là một vùng núi non hiểm trở, trải rộng qua các tỉnh Sơn La,
Hoà Bình, Điện Biên, Lai Châu,… Tây Bắc có một vị trí đặc biệt. Phía Tây giáp với
Thượng Lào và phía Bắc giáp với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc).

60
- Đây là tiểu vùng địa lý tự nhiên hết sức đa dạng, gắn liền với quá trình tụ cư lâu đời
của cư bản địa đã hình thành nên những nét văn hóa vùng mang tính đặc thù về truyền thống
của các tộc người trong việc thích ứng với môi trường, sinh tồn và phát triển.
* Địa hình
Địa hình Tây Bắc hiểm trở, có nhiều khối núi và dãy núi cao chạy theo hướng Tây
Bắc - Đông Nam. Trong đó, dãy Hoàng Liên Sơn [người Thái gọi là Sừng trời (Khau phạ)]
dài đến 180 km, rộng 30 Km, với một số đỉnh núi cao (Fansipan, Pu luông,…) xen kẽ với
các núi thấp hơn đã gây không ít khó khăn cho việc giao thông giữa các vùng.
* Khí hậu
− Nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa, nhưng do từ độ cao từ 800 – 3000m nên khí
hậu ở vùng Tây Bắc ngả sang á nhiệt đới và nhiều nơi cao như Sìn Hồ có cả khí hậu ôn đới.
− Do ảnh hưởng của độ cao nên về mùa đông tiết trời lạnh, có sương muối.
− Địa hình chia cắt bởi nhiều dãy núi, các dòng sông, khe suối, tạo nên các thung lũng,
có nơi lớn thành lòng chảo như vùng Điện Biên. Do vậy, Tây Bắc còn là nơi có nhiều tiểu
vùng khí hậu.
b. Xã hội
− Tây Bắc là nơi sinh sống của nhiều dân tộc anh em như người Thái, Tày, H’mông,
Dao, Mường, Khơ mú, Laha, Xinh mun, Kháng, Mảng,... mỗi dân tộc mang những nét
phong tục tập quán riêng đã tạo cho vùng văn hoá Tây Bắc - một nền văn hoá đa dạng,
nhiều màu sắc độc đáo thông qua văn hoá Thái là chủ thể.
− Cơ cấu xã hội cổ truyền được gọi là bản mường, dân tộc Thái gọi là Đằm.
− Phương thức canh tác của các dân tộc này cũng khác nhau.
3.2.1.2. Đặc điểm văn hoá
Từ thế kỷ XX trở lại đây, với vai trò là chủ thể trong lịch sử phát triển của vùng, văn
hoá Thái (với những yếu tố tiếp biến từ văn hoá Đông Nam Á) nổi lên như một sắc thái văn
hoá đại diện cho văn hoá Tây Bắc.
a. Văn hoá vật chất
*Ăn
Ngày nay gạo tẻ đã trở thành lương thực chính, gạo nếp vẫn được coi là lương thực
truyền thống.
− Cơ cấu bữa ăn cũng giống người Việt: cơm + rau + cá (thịt). Tuy nhiên trong cách
chế biến có cái khác nhau. Người Thái thường làm những món nộm, nhúng, ướp muối từ
thịt, cá tươi; thích các món chế biến từ cách nướng, đồ, sấy sau đó mới đến canh, xào, luộc.
− Họ ưa thức ăn có vị cay, chua, đắng, chát, bùi ít dùng các món ngọt, lợ, đậm nồng, ...
hay uống rượu cần, rượu cất.
− Người Thái hút thuốc lào bằng ống tre, nứa và châm lửa bằng mảnh đóm tre khô nỏ.
Người Thái trắng trước khi hút còn có lệ mời người xung quanh như trước khi ăn.
61
*Mặc
− Trang phục phụ nữ Thái gồm: áo cánh ngắn nhiều màu, nẹp đính hàng khuy bạc hình
bướm, nhện, ve sầu..., bó sát thân, ăn nhịp với chiếc váy vải màu thâm, hình ống, thắt eo
bằng dải lụa màu xanh lá cây, đeo xà tích bạc ở bên hông. Nữ Thái đen đội khăn Piêu nổi
tiếng với các hình hoa văn thêu nhiều màu sắc rực rỡ.
- Nam giới thường mặc quần cắt theo kiểu chân què có cạp để thắt lưng, áo cánh xẻ
ngực có túi ở hai bên gấu vạt, áo người Thái trắng có thêm một túi ngực trái, cài khuy tết
bằng dây vải, cuốn khăn đầu rìu. Màu quần áo chủ yếu là màu đen, có thể màu gạch non,
hoa kẻ sọc hoặc trắng.
*Ở
− Người Thái ở nhà sàn, nhưng có nhiều loại dáng vẻ khác nhau: nhà mái tròn khum
hình mai rùa, hai đầu mái hồi có khau cút; nhà bốn mái mặt bằng sàn hình chữ nhật gần
vuông, hiên có lan can; nhà sàn dài, cao, mỗi gian hồi làm tiền sảnh; nhà mái thấp, hẹp lòng
gần giống với nhà của người Mường.
b. Văn hoá tinh thần
*Tập quán – Tín ngưỡng
− Người Thái còn có một thái độ rất kính trọng đối với rừng. Chẳng phải rừng có ma
thiêng mà vì rừng còn là nơi con người nương tựa để tồn tại.
Người Thái cũng có tín ngưỡng với nước, đó là đặc điểm chung của người làm nông
nghiệp, tâm thức đó được “thể chế hoá” bằng hình tượng thần nước dưới dạng thuồng luồng
và bằng các lễ cụ thể.
Văn hóa nông nghiệp thung lũng Thái nổi tiếng bởi hệ thống tưới tiêu thích hợp, được
đúc kết như một thành ngữ: “Mương – Phai – Lái – Lịn”. Tức, lợi dụng độ dốc của dòng
chảy, người ta lấy đá ngăn suối làm nước dâng cao – đó là cái phai. Phía trên phai xẻ một
đường chảy lớn dẫn vào cánh đồng đó là mương. Từ mương xẻ những rãnh chảy vào ruộng
đó là lái. Còn lịn là cách lấy nước từ nguồn trên núi cao, dẫn về ruộng, về nhà bằng các cây
tre đục rỗng mấu, nối tiếp nhau có khi dài hàng cây số. Do chủ động tưới tiêu nên người
Thái nuôi cá ngay trong mực nước của ruộng lúa. Gặt lúa xong là tháo nước bắt cá. Cho
nên, món dân cúng trong lễ cơm mới bao giờ cũng có xôi và cá nướng.
− Người Thái còn có tín ngưỡng “vạn vật hữu linh”. Nếu người Kinh cho rằng có 3
hồn 7 vía, còn người Thái có đến 80 hồn (Xam xíp khoăn mang nả, Hả xếp khoăn mang
lăng): như hồn tóc, hồn lông mày, lông mi, tai, mũi, trán, ... người chết không biến mất mà
trở về sống ở bản của tổ tiên.
- Người Thái có truyền thống sống chân thật, giản dị và rất hoà thuận, tôn trọng người
già, thương yêu trẻ nhỏ và giúp đỡ nhau vô tư.

62
* Văn hoá nghệ thuật
− Thơ ca: trong xã hội cổ truyền Tây Bắc, văn hoá chuyên nghiệp bác học chưa xuất
hiện, nhưng mỗi tộc người đều có một kho văn hoá nghệ thuật riêng với ngôn từ giàu có và
đủ thể loại: tục ngữ, thành ngữ, đồng giao, các thần thoại, cổ tích, truyện cười, ... một số dân
tộc còn có cả truyện thơ dài hàng ngàn câu như “Tiễn dặn người yêu” hay “Tiếng hát làm
dâu” (H’mông ), ... Thơ ca Tây Bắc được sáng tác để hát chứ không phải để đọc.
− Múa: nghệ thuật múa dân tộc là một nét đặc trưng của vùng Tây Bắc (Xoè Thái đã
trở thành biểu tượng của văn hoá Tây bắc).
− Âm nhạc: Các dân tộc vùng Tây Bắc này chủ yếu chơi hệ nhạc cụ có lưỡi gà bằng
tre, bằng đồng hay bằng bạc.
− Trang trí trang phục: là sở thích của người Tây Bắc. Nghệ thuật trang trí trang phục
ở một trình độ cao. Bố cục trang trí, họa tiết, cách phối màu thì rất nhiều và phong phú.
- Lễ hội tiêu biểu là lễ hội Hoa Ban vào tháng 2 âm lịch hàng năm.
3.2.2. Vùng văn hóa Việt Bắc
3.2.2.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội
a. Đặc điểm tự nhiên
Vùng văn hóa Việt Bắc bao gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Lạng
Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang và cả phần đồi núi của các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc
Giang, Quảng Ninh.
* Địa hình
− Địa hình Việt Bắc có cấu trúc theo kiểu cánh cung, tụ lại ở Tam Đảo, các cánh cung
này mở ra ở hướng Bắc và Đông Bắc và phần hướng lồi quay ra biển, thứ tự từ trong ra biển
là các cánh cung: sông Gâm, Ngân Sơn, Yên Lạc, Bắc Sơn và Đông Triều. Các dãy núi đều
thuộc loại có độ cao trung bình và thấp. Một số núi cao là Tây Côn Lĩnh, Kiều Liêu Ti, ...
* Sông ngòi
− Toàn vùng có 5 hệ thống sông chính: sông Thao, sông Lô, hệ thống các sông Cầu,
sông Thương, Lục Nam. Hệ thống các sông này chảy ra biển Đông là trục giao thông giữa
miền núi và miền xuôi. Sông Bằng Giang, sông Kì Cùng chảy theo hướng Nam – Bắc là
thuỷ lộ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
− Nét đặc trưng của hệ thống sông ở đây là độ dốc lòng sông lớn và mùa lũ là thời gian
dòng chảy mạnh nhất. Mặt khác, trong vùng còn có nhiều hồ như hồ Ba Bể, hồ Thang
Then,...
b. Xã hội.
− Cư dân chủ yếu của vùng Việt Bắc là người Tày – Nùng, ngoài ra còn có một số dân
tộc khác như Dao, H’ mông, Lô Lô, Sán Chay. Nhưng trong đó văn hoá Tày – Nùng giữ vai
trò chủ thể và có ảnh hưởng tới văn hoá của các tộc người khác.

63
− Do vị trí là vùng cửa ngõ, hành lang giao lưu văn hoá giữa nước ta với phía Bắc nên
bên cạnh những ảnh hưởng văn hoá của người Kinh còn ảnh hưởng của văn hoá Hán.
− Về phương diện tổ chức xã hội, cư dân Tày – Nùng chủ yếu sống trong các bản ven
đường, cạnh sông suối hay thung lũng. Bản là đơn vị cơ sở nhỏ nhất, các gia đình trong bản
và các thành vỉên hợp lại thành một cộng đồng dân cư và có tổ chức.
− Thành tố cấu thành các bản là các gia đình phụ quyền thuộc những dòng họ khác
nhau, có bản gồm 2, 3 họ, có bản trên dưới 10 họ. Thiết chế dòng họ có nơi chặt chẽ, có nơi
lỏng lẻo, nhưng quan hệ giữa những người trong họ vẫn đậm nét.
3.2.2.2. Đặc điểm văn hoá Việt Bắc
a.Văn hoá vật chất
* Nhà ở
− Người Tày – Nùng có hai loại nhà chính: nhà sàn và nhà đất.
+ Nhà sàn là dạng nhà phổ biến, có hai loại nhà sàn, sàn hai mái và sàn bốn mái.
+ Nhà đất là loại nhà xuất hiện ngày một nhiều, nhưng cũng có rất nhiều thay đổi so
với ngôi nhà sàn về qui mô, kết cấu, bố cục bên trong.
* Trang phục
− Trang phục của người Tày – Nùng có tính thống nhất, được phân biệt theo giới
tính, địa vị, lứa tuổi, theo nhóm địa phương.
− Trang phục nam giới Tày khá giản dị, không có sự trang trí bằng hoa văn, được
may bằng vải chàm. Họ mặc theo một kiểu, gồm áo cánh 4 thân, áo dài 5 thân, khăn đội đầu
và giầy vải, quần được may kiểu đũng chéo. Giữa nam giới Tày và nam giới Nùng chỉ khác
nhau đôi chút về kích thước trong trang phục. Về đồ trang sức, họ ít dùng đồ trang sức.
− Trang phục của nữ giới khá đa dạng và phong phú. Y phục phụ nữ Tày - Nùng gồm
có áo cánh, áo dài năm thân, quần, thắt lưng, khăn đội đầu, hài vải. Đồ trang sức cũng đơn
giản gồm: vòng cổ, vòng tay, vòng chân và xà tích bằng bạc. Những chiếc khăn của phụ nữ
Tày thường là khăn vuông, khi lễ tết, họ buộc thêm chỉ đỏ, xanh quanh vành khăn rồi thắt
nút ra phía sau.
* Ăn
− Về việc ăn uống, tuỳ từng tộc người mà cách thức chế biến thức ăn và khẩu vị của
cư dân Việt Bắc có hương vị riêng.
− Việc chế biến món ăn của cư dân Tày – Nùng, một mặt có những sáng tạo, một mặt
tiếp thu các kĩ thuật chế biến của các dân tộc lân cận như Hoa, Việt... Họ chế biến ngô một
cách tinh tế. Ngô được giã, xay nhỏ để nấu với cơm, làm các loại bánh. Thức ăn chính là
gạo tẻ, các món ăn từ gạo nếp thường có mặt trong ngày lễ tết. Thịt lợn, thịt vịt quay thường
được làm cầu kì như thịt lợn quay Lạng Sơn, thịt vịt quay Thất Khê.
− Bữa ăn của cư dân Việt Bắc mang tính bình đẳng, nhân ái. Tất cả các thành viên
trong gia đình ăn chung một mâm, khách đến nhà rất được ưu ái, nể trọng.
64
b. Văn hoá tinh thần
− Về tôn giáo, tín ngưỡng của cư dân Tày – Nùng pha trộn giữa tín ngưỡng dân gian
(tín ngưỡng nông nghiệp, thờ cúng tổ tiên, …)
− Diện mạo tôn giáo vùng văn hóa Việt Bắc cũng có những nét khác biệt. Các tôn
giáo lớn như Khổng Giáo, Phật Giáo, Đạo giáo đều có ảnh hưởng nhất định đến đời sống
tâm linh của người dân Việt Bắc.
− Thể loại văn học dân gian vùng văn hóa Việt Bắc khá đa dạng, phong phú về số
lượng tác phẩm như: thành ngữ, tục ngữ, truyện cổ tích, câu đố và đồng giao, dân ca.
− Các sinh hoạt văn hoá “cộng đồng” thể hiện tập trung ở các lễ hội cổ truyền mà
điển hình là hội Lồng Tồng (hội xuống đồng).
− Sinh hoạt văn hoá “chợ” có thể coi như một sinh hoạt văn hoá đặc thù của vùng
Việt Bắc. Chợ vừa là nơi trao đổi hàng hoá, vừa là nơi trao duyên tỏ tình của nam nữ.
c. Văn hóa giáo dục
− Tầng lớp trí thức Tày – Nùng hình thành từ sớm và được chú trọng. Đầu tiên là trí thức
dân gian như thầy Mo, Then, Tào, Pựt. Sau đó là tầng lớp trí thức Nho học, Tây học. Ngày nay
việc đào tạo trí thức, cán bộ khoa học cho Việt Bắc cũng được Đảng và nhà nước ta chú ý.
− Chữ viết, trải qua các giai đoạn: thời cổ đại không có chữ viết, thời cận đại xuất hiện
chữ Nôm Tày, giai đoạn hiện đại vừa có chữ Nôm vừa có chữ Quốc ngữ, một số dân tộc
như: H’mông, … cũng có chữ viết xây dựng trên cơ sở mẫu chữ Latinh. Cũng chính vì vậy,
điều khá đặc biệt của của vùng văn hóa này đã hình thành một bộ phận nhà văn viết bằng
chữ viết dân tộc như: Hoàng Đức Hậu, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, ... với nội dung
mang đậm tình cảm, tâm hồn của con người Việt Bắc.
3.2.3. Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
3.2.3.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội
a. Đặc điểm tự nhiên
* Vị trí địa lý
− Vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ nằm giữa lưu vực những dòng sông Hồng , sông Mã,
là tâm điểm của con đường giao lưu quốc tế theo hai trục chính: Tây - Đông và Bắc - Nam
và là cầu nối các khu vực Đông Bắc, Tây Bắc, Trung Bộ.
− Vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ - cái nôi văn hóa của lịch sử dân tộc, bao gồm địa
phận các tỉnh: Hà Tây, Nam Định, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, thành phố
Hà Nội, thành phố Hải Phòng, phần đồng bằng của các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh,
Bắc Giang, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh.
* Địa hình
− Châu thổ Bắc Bộ là địa hình núi xen lẫn đồng bằng hoặc thung lũng, thấp và bằng
phẳng, dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam, từ độ cao 10 - 15 m giảm dần đến độ cao
mặt biển.
65
− Toàn vùng có địa hình cao thấp không đều.
* Khí hậu
− Khí hậu vùng Châu thổ Bắc Bộ thật độc đáo. Đây là vùng duy nhất ở Việt Nam có
mùa đông lạnh thực sự với ba tháng có nhiệt độ dưới 18o C, do đó mà dạng khí hậu bốn mùa
với mỗi mùa mang đặc trưng tương đối rõ rệt.
* Sông ngòi
− Ở châu thổ Bắc Bộ, mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, gồm các sông lớn như sông
Hồng, sông Thái Bình, sông Mã, cùng hệ thống mương máng tưới tiêu dày đặc.
− Do ảnh hưởng của khí hậu gió mùa với hai mùa khô và mưa nên thuỷ chế của các
dòng sông, nhất là sông Hồng cũng có hai mùa rõ rệt: mùa cạn, dòng chảy nhỏ và mùa lũ
dòng chảy lớn, nước đục.
− Ngoài khơi, thuỷ triều vịnh Bắc Bộ theo chế độ nhật triều, mỗi ngày có một lần nước
lên và một lần nước xuống.
b. Môi trường xã hội
− Cư dân ở đồng bằng Bắc Bộ là cư dân sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, làm
nông nghiệp một cách thuần tuý. Người nông dân đồng bằng Bắc Bộ biết đắp đê, lấn biển
trồng lúa, đánh cá ở ven biển.
− Tận dụng ao, hồ đầm để khai thác thuỷ sản là một phương thức được người nông dân
rất chú trọng.
− Người nông dân đồng bằng Bắc Bộ đã làm thêm nghề thủ công. Một số nghề có lịch
sử phát triển lâu đời như nghề gốm, nghề dệt, nghề luyện kim, đúc đồng...
− Họ sống quần tụ thành làng. Làng là đơn vị xã hội, là cơ sở của nông thôn Bắc Bộ, tế
bào sống của cơ sở xã hội Việt. Chính điều này đã tạo nên sự gắn bó giữa con người với con
người trong cộng đồng làng quê. Do đó, cần hiểu “làng” không chỉ tồn tại dựa trên các mối
quan hệ xã hội mà còn hình thành trên nền tảng những di sản văn hóa và gắn bó các quan hệ
tâm linh, chuẩn mực xã hội, đạo đức.
3.2.3.2. Đặc điểm văn hóa
a. Văn hoá vật chất
* Ăn
− Cơ cấu bữa ăn của người dân Bắc Bộ: cơm, rau, cá (chủ yếu là cá nước ngọt). Bên
cạnh đó, trong bữa ăn còn có thêm thành phần thịt, mỡ để giữ nhiệt cho cơ thể.
− Các gia vị có tính chất cay, chua, đắng không xuất hiện nhiều trong bữa ăn của
người Bắc Bộ.
* Mặc
− Cách mặc của người dân Bắc Bộ cũng là một sự lựa chọn, thích ứng với thiên nhiên
châu thổ Bắc Bộ là màu nâu.

66
− Đàn ông với y phục đi làm là chiếc quần lá toạ, áo cánh màu nâu sồng. Đàn bà cũng
chiếc váy thâm, chiếc áo nâu. Ngày hội hè, lễ tết thì trang phục này có khác hơn: đàn bà với
chiếc áo dài mớ ba mớ bảy, đàn ông quần trắng, áo dài the, chít khăn đen. Ngày nay y phục
của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ đã có sự thay đổi khá nhiều.
*Ở
− Nhà ở thường là loại nhà không chái, hình thức nhà vì kèo phát triển, sử dụng vật
liệu nhẹ.
− Người nông dân Bắc Bộ thường muốn xây dựng ngôi nhà của mình theo kiểu bền
chắc, to đẹp, tuy nhiên vẫn muốn hoà hợp với cảnh quan. Thường là trồng cây cối xung
quanh nơi cư trú, tạo bóng mát cho ngôi nhà.
* Di tích
− Các di tích khảo cổ, các di sản văn hoá hữu hình tồn tại ở khắp các địa phương như:
đình, đền, chùa, miếu ... Nhiều di tích nổi tiếng như: Đền Hùng, khu vực Cổ Loa, Hoa Lư,
Lam Sơn, phố Hiến, chùa Dâu, chùa Hương, chùa Tây Phương, đình Tây Đằng,...
b. Văn hoá tinh thần
− Kho tàng văn học dân gian rất phong phú. Từ thần thoại đến truyền thuyết, từ tục
ngữ đến ca dao, từ truyện cười đến truyện trạng, mỗi thể loại đều dung chứa một tầm dày
dặn và mang nét riêng của Bắc Bộ.
− Nghệ thuật biểu diễn dân gian cũng khá đa dạng và mang một sắc thái vùng đậm nét.
Đó là hát quan họ, hát xoan, hát trống quân, hát trầu văn, hát chèo, múa rối,...
− Văn hoá tín ngưỡng: là tín ngưỡng của cư dân trồng lúa nước như thờ Thành Hoàng
làng, thờ Mẫu, thờ các ông tổ nghề... Các tín ngưỡng này tiềm ẩn trong tâm thức con người
và tồn tại trong lễ hội.
− Lễ hội ở đồng bằng Bắc Bộ khá dày đặc theo vòng quay của thiên nhiên và mùa vụ.
Các lễ hội ấy đều là lễ hội nông nghiệp.
c. Văn hoá giáo dục
− Vùng châu thổ Bắc Bộ là “nơi phát sinh nền văn hoá bác học”. Sự phát triển của giáo
dục, truyền thống trọng người có chữ đã trở thành nhân tố tác động tạo ra tầng lớp trí thức ở
đồng bằng Bắc Bộ.
+ Thời tự chủ, Thăng Long với vai trò là một kinh đô cũng đảm nhận vị trí một trung
tâm giáo dục.
+ Thời kì Đại Việt, số người đi học, thi đỗ vùng đồng bằng miền Bắc tính theo tỉ lệ
dân số thì cao hơn rất nhiều so với vùng khác.
+Thời thuộc Pháp, Hà Nội là nơi có các cơ sở giáo dục, khoa học thu hút các trí thức
mọi vùng.
67
+ Thời hiện đại đồng bằng Bắc Bộ là nơi đầu mối các trung tâm đào tạo và nghiên cứu
khoa học.
− Vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ là nơi diễn ra quá trình tiếp biến văn hoá lâu dài và
với nội dung phong phú hơn cả. Vì vậy Bắc Bộ là cội nguồn văn hoá của mọi vùng.
− Vùng văn hoá Bắc Bộ có thể chia ra làm nhiều tiểu bang văn hoá khác nhau mà đặc
thù của các vùng văn hoá này không làm phá vỡ những đặc điểm chung của toàn vùng.
3.2.4. Vùng văn hóa Trung Bộ
3.2.4.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội
a. Đặc điểm tự nhiên
* Vị trí địa lý
− Vùng văn hoá Trung Bộ là vùng lãnh thổ dài và hẹp nhất nước ta, phía Bắc giáp
vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ, phía Nam giáp Tây Nguyên, phía Đông là Biển Đông và
phía Tây giáp với Lào.
− Vùng văn hoá Trung Bộ là vùng đất thuộc lãnh thổ các tỉnh: Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh
Thuận, Bình Thuận và thành phố Đà Nẵng hiện nay.
* Địa hình
− Địa hình miền Trung hẹp theo chiều ngang Đông – Tây.
− Địa hình miền Trung chia cắt theo chiều dọc Bắc – Nam.
− Sát bờ biển miền Trung là các dải cồn cát chạy dọc theo hướng Bắc – Nam, ở giữa
các dải cồn cát là một vùng trũng nổi, phân bố xóm làng và ruộng lúa ngày nay.
* Khí hậu
− Miền Trung khí hậu có mùa mưa nên khá khác biệt với hai đầu đất nước, ở miền
Trung lại gặp gió Tây rất khô và nóng, thổi từ Lào sang tạo ra sự khô nóng quanh năm, có
mùa mưa và mùa khô rõ rệt.
− Miền Trung nằm trên đường di chuyển của các cơn bão. Vì vậy nơi đây là vùng
chịu nhiều thiệt hại về người và của do bão, lũ gây ra.
b. Xã hội
− Trải qua tiến trình lịch sử với các triều đại phong kiến, miền Trung đã có một thời kỳ
là kinh đô của cả nước với ba vương triều: các chúa Nguyễn, nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn
(Huế).
− Vùng Trung Bộ còn là trạm trung chuyển, là nơi diễn ra sự giao lưu trực tiếp giữa
người Việt và ngươì Chăm.

68
3.2.4.2. Đặc điểm văn hoá Trung Bộ
a. Đặc điểm chung của vùng văn hoá Trung Bộ
− Trung Bộ là vùng đất chứa nhiều dấu tích của văn hoá Chămpa. Điều đó được thể
hiện ở các dấu tích văn hoá trên khắp dải đất miền Trung như là các tháp Chăm, tượng thờ,
Tín ngưỡng dân gian của người Chăm (thờ bà mẹ xứ sở, thờ cá voi, thờ thần biển, ...)
− Quá trình tiếp biến văn hoá ở Trung Bộ của người Việt là tiếp thu những tín ngưỡng
của người Chăm, biến nó thành tín ngưỡng của mình.
− Trong văn hóa đời thường, bữa ăn của người Việt Trung Bộ đã bắt đầu có sự thay
đổi, nghiêng về các đồ hải sản, đồ biển.
− Do tính chất khí hậu, nên sử dụng chất cay nhiều hơn trong bữa ăn.
b. Tiểu vùng văn hoá xứ Huế
* Văn hoá vật chất
- Ăn: Bữa ăn truyền thống của xứ Huế rất phong phú vì đã sử dụng một cách tổng
hợp các sản vật của vùng đất có cả núi rừng lẫn đồng bằng và sông biển.
- Mặc: Trang phục của xứ Huế cũng có một phong cách riêng, chiếc áo dài, nón bài
thơ, màu tím Huế đã trở thành một biểu tượng rất Huế mà ít vùng văn hoá nào có được.
* Văn hoá tinh thần
- Văn hóa vật thể: Nói đến xứ Huế là nói đến một hệ thống kinh thành còn lưu giữ
được tương đối hoàn chỉnh với Hoàng thành, Tử cấm thành, điện Thái Hoà, Long An, Ngọ
Môn... đồng thời cũng nói đến hệ thống lăng tẩm với những lăng của Gia Long, Minh
Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức... và một hệ thống chùa, đền tháp như: chùa Thiên Mụ, điện Hòn
Chén, chùa Từ Đàm, ...Tất cả những di sản văn hóa vật thể này thể hiện một phong cách
kiến trúc của xứ Huế vừa đa dạng vừa giàu có, thích ứng một cách kì lạ với thiên nhiên mơ
mộng ở xứ này.
- Văn hoá phi vật thể:
+ Nghệ thuật biểu diễn: những điệu hò, điệu hát lí, hát trò, hát sắc bùa, những bài ca
trên sông nước Hương Giang. Nét độc đáo của dân ca xứ Huế là âm sắc, ngữ âm địa
phương, không lẫn với vùng nào trên đất nước ta, đồng thời ảnh hưởng của dân ca, âm nhạc
Chămpa đối với dân ca xứ Huế là điều không thể phủ nhận.
+ Lễ hội dân gian xứ Huế, vừa giống lại vừa khác với lễ hội dân gian ở đồng bằng
Bắc Bộ.
+ Thời nhà Nguyễn, Huế là trung tâm thu hút nhân tài của mọi miền đất nước, là
trung tâm giáo dục, trung tâm sinh hoạt văn hoá, văn học. Những văn đàn, những thi xã như
Mạc Vân thi xã,... là kết quả và cũng là biểu hiện của trung tâm văn hoá này.

69
Xứ Huế là một tiểu vùng văn hoá nằm trong vùng văn hoá Trung Bộ, nhưng có một
sắc thái riêng, tiêu biểu cho văn hoá Việt Nam thế kỉ XIX.
3.2.5. Vùng văn hóa Tây Nguyên
3.2.5.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội
a. Đặc điểm tự nhiên
* Vị trí địa lý
− Tây Nguyên là một vùng đất nằm gọn trên vùng núi non và cao nguyên phía
TâyTrung Bộ bao gồm 5 tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắc Nông, Đắc Lắc, Lâm Đồng.
− Phía Đông giáp với Duyên Hải Nam Trung Bộ, phía Nam Giáp Đông Nam Bộ, phía
Tây giáp Lào và Đông Bắc Campuchia.
* Địa hình
Địa hình chủ yếu của Tây Nguyên là cao nguyên xếp tầng, với diện tích đất đỏ Ba zan
là 1,4 triệu ha (chiếm 2/3 diện tích đất đỏ bazan của cả nước). Địa hình tương đối thuận lợi
cho việc hình thành các vùng chuyên canh cây trồng theo qui mô lớn.
* Khí hậu
Khí hậu Tây Nguyên có tính chất cận xích đạo, một mùa mưa và một mùa khô kéo
dài. Nhiệt độ thấp nhất là 180C, cao nhất là 250C.
b. Xã hội
− Tây Nguyên là vùng đất tập trung khoảng hai chục dân tộc sinh sống. Nếu không kể
mấy dân tộc phía Bắc và người Kinh di cư đến thì các dân tộc lâu đời ở đây thuộc về hai
nhóm ngôn ngữ chính là: nhóm Môn – Khơme và nhóm Mã Lai – Đa Đảo.
− Đơn vị cơ sở của các dân tộc này là buôn, mỗi buôn có vài chục đến vài trăm nóc
nhà, tinh thần cộng đồng rất cao.
− Mùa lễ hội Tây Nguyên kéo dài suốt từ tháng 1→3 dương lịch.
− Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được đề cao.
− Sự giàu có được thể hiện ở những bộ cồng chiêng và những ché rượu cần.
3.2.5.2. Đặc điểm văn hoá Tây Nguyên
a.Văn hoá vật chất
* Ăn
− Ăn cơm tẻ, cơm nếp với muối ớt và các thứ kiếm được từ rừng. Khi cúng thì mới có
thịt gia súc, gia cầm.
− Uống nước lã, rượu cần, rượu được nấu từ loại kê chân vịt, rượu sắn.
* Mặc
− Trang phục nữ giới váy áo có nhiều hoa văn.

70
− Nam giới đóng khố, mặc áo, quấn khăn có cài lông chim quý nhiều màu.
*Ở
− Ở nhà sàn, nhà rông.
b. Văn hoá tinh thần
* Lễ hội
− Tây Nguyên là vùng đất giàu lễ hội, những lễ hội được diễn ra theo từng thời gian
trong năm (Từ tháng 1 → 3DL).
- Các lễ hội này kết hợp giữa các yếu tố huyền thoại và hiện thực tạo nên một nét độc
đáo trong văn hoá vùng Tây nguyên.
* Văn học nghệ thuật
- Nền văn học nghệ thuật dân gian rất đặc sắc, đa dạng về thể loại và nội dung như:
trường ca, sử thi, … Đề tài và cốt truyện thường nói về các anh hùng thủa khai sáng, những
nhân vật cứu loài người, cứu dân tộc khỏi những hiểm họa to lớn.
- Nghệ thuật điêu khắc rất độc đáo nổi tiếng với các công trình điêu khắc gỗ. Các
tượng phù điêu được thể hiện trên các cột nhà, đầu cầu thang và cả trên các nhà mồ.
* Văn hoá cồng chiêng
Cồng chiêng có vai trò quan trọng trong đời sống các dân tộc Tây Nguyên.
- Cồng chiêng được coi là ngôn ngữ để con người giao tiếp với thiên nhiên.
- Cồng chiêng được dùng trong các lễ, lễ hội và trong mọi hoạt động văn hoá.
3.2.6. Vùng văn hóa Nam Bộ
3.2.6.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội
a. Đặc điểm tự nhiên
* Vị trí địa lý
− Nam Bộ là vùng đất cuối cùng đất nước về phía Nam, nằm trong lưu vực hai con
sông Đồng Nai và Cửu Long.
− Nam Bộ là vùng đất thuộc địa bàn các tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước,
Tây Ninh, Bà Rịa - Vũng Tàu thuộc miền Đông Nam Bộ và các tỉnh Long An, Tiền Giang,
Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Cần Thơ, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang,
Bạc Liêu, Cà Mau thuộc miền Tây Nam Bộ và thành phố Hồ Chí Minh.
* Địa hình
Nói đến Nam Bộ là người ta nghĩ đến những cánh đồng tít tắp tận chân trời, một
khung cảnh thiên nhiên khoáng đạt và vùng đất với hệ thống kênh rạch chằng chịt.
* Khí hậu
Khí hậu một năm có hai mùa: mùa mưa, mùa khô. Sáu tháng mùa mưa và sáu tháng
mùa khô tạo cho vòng quay của thiên nhiên, mùa vụ có vẻ khác biệt so với vùng Bắc Bộ.

71
b. Xã hội
− Đồng bằng Nam Bộ về mặt cư dân có các tộc người Việt, Khơme, Chăm, Hoa, Mạ,
Xtiêng, Chơro, Mnông.
− Tuy sống trên cùng một địa bàn cư trú, nhưng các tộc người này sống với nhau một
cách hoà hợp, thân ái, không có chiến tranh giữa các sắc tộc trong lịch sử.
− Làng Việt ở Nam bộ là làng khai phá. Dân chủ yếu là dân di cư vì thế làng Việt ở
Nam Bộ sẽ không có tính chất kết dính chặt chẽ, quan hệ dòng họ sẽ khác với làng ở đồng
bằng Bắc Bộ.
− Cư dân Nam bộ sống dọc theo hai bờ kênh rạch, trục lộ giao thông.
− Tiến trình lịch sử Nam Bộ lại có đặc điểm riêng: là nơi đầu tiên chịu ảnh hưởng
thống trị của người Pháp, nên đã có sự giao thoa giữa hai nền văn hoá Pháp – Việt.
3.2.6.2. Đặc Điểm văn hoá của Nam Bộ
− Vùng văn hoá Nam Bộ là văn hoá của vùng đất mới, các lưu dân đến sinh sống tại
đây đã mang những nét văn hoá bản địa của mình đến vùng đất này khiến cho nền văn hoá ở
đây vừa có nét giống lại vừa có nét khác với nền văn hoá ở vùng đất cội nguồn, của cùng
một tộc người.
− Quá trình giao lưu văn hoá diễn ra với tốc độ mau lẹ. Sự tiếp biến xảy ra trước hết
giữa các tộc người cùng sinh sống trong một địa bàn. Người Việt cùng chung sống với
người Khơme nên đã tiếp thu những món ăn của người Khơme như món canh chua, món
bún Bạc Liêu… Bằng con đường gián tiếp và trực tiếp qua người Chăm Hồi giáo, người Ấn
Độ, người Kinh ở Nam Bộ trong chừng mực nào đó đã tiếp thu ảnh hưởng phong cách ăn
uống của Ấn Độ, rõ hơn cả là món cari.
− Diện mạo tôn giáo tín ngưỡng Nam Bộ khá đa dạng và phức tạp, nhiều tôn giáo tín
ngưỡng cùng đan xen nhau tồn tại. Ngoài các tôn giáo lớn ở ngoài du nhập vào như Phật
giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Nam Bộ còn là quê hương của tôn giáo tín ngưỡng địa
phương như Cao Đài, Hòa Hảo, đạo Dừa, đạo Ngồi, đạo Nằm… Bản thân các tôn giáo ở
Nam Bộ cũng khá đa dạng. Bên cạnh Phật giáo Tiểu thừa lại có Phật giáo Đại thừa…
− Trong ứng xử với thiên nhiên, các tộc người ở Nam Bộ cũng có những nét khác biệt
hơn so với các vùng khác. Đến nơi đây ta không thấy cái khung cảnh làng mạc quen thuộc
của người Kinh với lũy tre xanh bao bọc, với cổng làng, giếng nước, cây đa, sân đình… mà
cư dân tuy cũng sống thành làng, thành ấp nhưng nhà cửa của họ tản mát theo bờ kênh,
ruộng lúa. Khuôn viên ưu thích của người Nam Bộ là “tiền viên hậu điền”, nhà cửa đơn sơ,
ba gian hai chái, làm bằng tre, nứa lợp lá dừa.
- Đã từ lâu rồi, khi họa sĩ, nhà văn muốn thể hiện người phụ nữ Nam Bộ là người ta
nói tới bộ bà ba đen và tấm khăn rằn. Đó là phong cách độc đáo và đặc sắc của nữ phục

72
hàng ngày của Nam Bộ. Chiếc áo bà ba cổ truyền không chỉ hình dáng mà cách cắt may, ráp
tay, xẻ tà đều rất gần gũi với áo cánh miền Bắc. Xưa, áo bà ba may rộng vì các bà các cô
thường mặc áo lót bên trong, nhưng thời thuộc Pháp, Mỹ nó được phụ nữ thành thị cải tiến,
may không thẳng và rộng như xưa nữa, mà may hẹp, nhấn thêm eo bụng, eo ngực cho ôm
sát lấy thân mình. Khác với đồng bằng sông Hồng, Nam Bộ dù có tới 4900km kênh đào, dù
có hai dòng sông lớn những vẫn không hề có km đê nào. Dựa theo chế độ thủy triều, hệ
thống thủy lợi Nam Bộ đưa nước ngọt từ sông lớn vào sông nhỏ, vào kênh rạch rồi lên
mương, lên vườn…Và ở đây, con thuyền là phương tiện đi lại, chuyên chở chính yếu.
Xuồng ba lá là kiểu xuồng đặc trưng có dáng dài, nông, ghép lại từ ba tấm ván có thể luồn
lách mọi nơi, dưới kênh, trên đồng phủ nước hay bùn lầy.
− Trong cơ cấu bữa ăn của người Việt Nam Bộ có phần thay đổi so với người Việt ở
Bắc Bộ. Việc sử dụng nguồn đạm thuỷ sản trong bữa ăn người Việt có chú trọng hơn. Ăn
các món ăn có tác dụng giải nhiệt. Dừa và các món ăn được chế biến từ dừa chiếm một vị
thế quan trọng trong các món ăn.
− Sự phát triển của dòng văn hóa bác học đã sớm xuất hiện ở Nam Bộ.
Với sự tác động của những đặc điểm riêng về điều kiện tự nhiên, xã hội và giao lưu
văn hóa đã khiến cho Nam Bộ tuy là một vùng văn hóa còn non trẻ, nhưng lại sớm định
hình một diện mạo riêng, không thể lẫn với vùng văn hóa khác của Việt Nam. Những đặc
trưng bản sắc của văn hóa Nam Bộ đã góp phần tô đậm thêm những gam màu đa sắc trong
bức tranh toàn cảnh sinh động của văn hóa Việt Nam.

HƯỚNG DẪN ÔN TẬP


1. Nét độc đáo về sắc thái văn hóa nhóm Việt-Mường và nhóm Môn - Khơme
2. Hãy chỉ ra những đặc trưng bản sắc nổi bật nhất của mỗi vùng văn hóa?
3. So sánh sự khác nhau giữa hai vùng văn hóa Bắc Bộ và Nam Bộ? Lí giải
nguyên nhân của sự khác nhau đó?

73
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (1994), Đất nước Việt Nam qua các thời đại, Nxb Thuận Hoá, Huế.
2. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam văn hoá sử cương (tái bản), Nxb TP. Hồ Chí Minh.
3. Toan Ánh (1992), Nếp cũ, 6 tập, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
4. Phan Kế Bính (1990), Việt Nam phong tục (tái bản), Nxb thành phố HCM.
5. Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt, Nxb Văn hoá - Thông tin.
6. Trần Lâm Biền (2003), Đồ thờ trong di tích của người Việt, Nxb Văn hoá, H.
7. Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp (1991), Văn hoá Chăm, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
8. Quỳnh Cư - Đỗ Đức Hùng (1995), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh Niên, H.
9. Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hoá và tộc người, Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
10. Ngô Văn Doanh (1994), Văn hoá Chăm Pa, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
11. Phạm Đức Dương chủ biên (1998), Bước đầu tìm hiểu sự tiếp xúc và giao lưu văn hoá
Việt - Hoa trong lịch sử, Nxb Thế giới, Hà Nội.
12. Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí
Minh.
13. Nguyễn Duy Hinh (1996), Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
14. Đinh Gia Khánh (1993), Văn hoá Việt Nam trong bối cảnh văn hoá Đông Nam Á, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
15. Vũ Ngọc Khánh (2001), Tiếp cận kho tàng Folklore Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc,
Hà Nội.
16. Vũ Ngọc Khánh (1999), Sơ lược truyền thống văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Vũ Khiêu chủ biên (1991), Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
18. Hữu Ngọc chủ biên (1995), Từ điển văn hoá cổ truyền Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà
Nội.
19. Phan Ngọc (2000), Bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb Văn hoá - Thông tin, H.
20. Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh (1992), Văn hoá dân gian
người Việt ở Nam Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
21. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
22. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá ở Việt Nam, Nxb Trẻ,
TP. Hồ Chí Minh.

74
23. Nguyễn Tài Thư chủ biên (1993), Lịch sử tư tưởngViệt Nam, tập 1, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
24. Lương Duy Thứ chủ biên (2000), Đại cương văn hoá phương Đông, Nxb Đại học
Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
25. Lê Bá Thảo (2001), Việt Nam lãnh thổ và các vùng địa lý (tái bản), Nxb Thế giới, Hà
Nội.
26. Lê Trung Vũ chủ biên (1992), Lễ hội cổ truyền, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
27. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn hoá dân
tộc, Hà Nội.
28. Trần Quốc Vượng chủ biên (1996), Văn hoá học đại cương và cơ sở văn hoá Việt
Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
.

75
PHỤ LỤC

XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM


TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY
I. THỜI ĐẠI HIỆN NAY VÀ SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA Ở
VIỆT NAM
1. Đặc điểm thời đại và trong nước có ảnh hưởng tới sự phát triển của nền văn hóa
Việt Nam
Những diễn biến quốc tế trong thế kỷ XXI và một số đặc điểm cụ thể của nước ta
hiện nay tác động mạnh mẽ đến đời sống văn hóa và sự nghiệp xây dựng nền văn hóa cả
những thuận lợi và khó khăn, cụ thể là:
Trước hết, đó là ảnh hưởng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới
đối với đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa của tất cả các quốc gia, các dân tộc trên hành
tinh. Là một nước đang phát triển, ảnh hưởng đó đối với Việt Nam càng dữ dội hơn, có thể
gây nên những “cơn sốc” về văn hóa.
Hai là, xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ ảnh hưởng tới cuộc sống của tất
cả các dân tộc trên thế giới.
Toàn cầu hóa kinh tế có tác động trực tiếp tới chính trị, văn hóa các dân tộc về cả
hai mặt thời cơ và nguy cơ, nhất là lĩnh vực tư tưởng - văn hóa. Hơn nữa, toàn cầu hóa diễn
ra trong áp lực chi phối từ phía các nước phương Tây, đứng đầu là Mỹ. Điều đó đặt ra một
thách thức cho các dân tộc đang phát triển : hòa nhập để phát triển và giữ vững chủ quyền,
ngăn chặn nguy cơ biến dạng, xói mòn, mất bản sắc văn hóa.
Ba là, Những diễn biến phức tạp của thế giới cả về chính trị, kinh tế, an ninh, nhất là
cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa đang tác động mạnh mẽ tới đời sống tinh
thần, tâm lý, tình cảm của con người.
Sự thoái trào của chủ nghĩa xã hội, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
cùng với nó là âm mưu diễn biến hòa bình của Mỹ và các thế lực phản động quốc tế gây
thêm khó khăn cho chúng ta trong sự nghiệp xây dựng đất nước, xây dựng nền văn hóa Việt
Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, công cuộc đổi mới đất nước cũng đặt ra rất nhiều vấn đề phức tạp trên lĩnh
vực tư tưởng - văn hóa. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tất yếu kéo theo
quá trình đô thị hóa nhanh và tự phát, gây biến động lớn về cơ cấu dân cư , lối sống, phong
tục tập quán.
Sự phát triển của kinh tế thị trường với những mặt trái khó lường của nó cũng đã và
đang gây ra nhiều tệ nạn xã hội làm băng hoại nhân phẩm, đạo đức, nhân cách con người.
Đẩy mạnh giao lưu, hội nhập để phát triển, song cùng với nó là nhiều luồng tư tưởng
xấu, nhiều văn hóa phẩm độc hại hàng ngày hàng giờ thẩm lậu vào nước ta rất khó kiểm
soát.
Năm là, chiến lược Diễn biến hòa bình do Mỹ và phương Tây thực hiện những năm
gần cho thấy y tế, giáo dục, văn hóa thường được chọn là những đột phá khẩu để chi phối
lũng đoạn và thiết lập ảnh hưởng của họ. Với thủ đoạn dùng văn hóa để “phi chính trị hóa”

76
đời sống xã hội và “giải thể hệ tư tưởng Mác - Lê nin”, từng bước thực hiện mưu đồ xóa
bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa khác trên thế giới .
Với những xu thế và đặc điểm trên, Việt Nam cần có một chính sách phát triển văn
hóa đúng đắn, vừa phát huy được sức mạnh của thời đại, vừa chủ động khắc phục những
mặt trái của nó để xây dựng thành công một nền văn hóa Việt Nam mới - tiên tiến, giàu bản
sắc dân tộc.
2. Những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa
Quan điểm thứ nhất: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội .
Quan điểm thứ hai: nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.
Quan điểm thứ ba: Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Quan điểm thứ tư: xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng
lãnh đạo trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Quan điểm thứ năm: văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một
sự nghiệp cách mạng lâu dài , đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Năm quan điểm trên thể hiện sự đổi mới nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về
mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển, về bản chất của nền văn hóa Việt Nam hiện đại,
khẳng định chủ thể xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện nay và vai trò lãnh đạo của Đảng
đối với lĩnh vực văn hóa, tính chất phức tạp, khó khăn và lâu dài của sự nghiệp xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau đây sẽ đi sâu vào hai vấn đề then chốt nhất : vai trò của văn hóa trong phát
triển và bản chất của nền văn hóa Việt Nam trong thời đại hiện nay.
II.VAI TRÒ CỦA VĂN HÓA TRONG SỰ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC
Suy đến cùng, hai vấn đề quan trọng nhất của một quốc gia là kinh tế và văn hóa.
Không ai có thể phủ nhận chỗ đứng của văn hóa trong đời sống con người, song nhận thức
sâu sắc và toàn diện về vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia
thì phải đến cuối thập niên 70 của thế kỷ XX trở lại đây, tư duy nhân loại mới đạt tới tầm
đó.
Khẳng định “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” thể hiện tầm nhận thức mới của Đảng Cộng sản
Việt Nam về văn hóa. Đây là một trong những quan điểm có giá trị cao về lý luận và thực
tiễn, gồm hai nội dung quan trọng:
1.Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội
Những cái nhìn hạn hẹp và xem thường văn hóa trước kia khiến người ta chỉ quan
tâm nhiều đến văn hóa ở phương diện giải trí, mua vui, ít ai đặt vấn đề nghiêm túc về ý
nghĩa xã hội sâu sắc của nó. Xem văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội tức là nhìn văn
hóa như những giá trị xã hội đích thực, có ý nghĩa quyết định đối với đời sống tinh thần
của con người và tiến bộ xã hội.

77
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội bởi nó thấm sâu trong mỗi cá nhân và cộng
đồng, làm nên thế giới tinh thần của mỗi con người, hình thành những đặc trưng tinh thần
chung của toàn xã hội. Sự lành mạnh hay không lành mạnh trong đời sống tinh thần của
một xã hội, nhóm xã hội hoặc một cá nhân nào đó luôn có cội nguồn từ hệ chuẩn giá trị văn
hóa mà xã hội, nhóm, hoặc cá nhân ấy lựa chọn và tôn vinh; việc lựa chọn này sẽ dẫn tới
định hướng giá trị của họ cả về hệ tư tưởng, đạo đức, lối sống, thẩm mỹ v.v...
Một trong những nét đẹp của nền văn hóa Việt Nam cổ truyền là đề cao giá trị cộng
đồng ( gia đình, làng xã, dân tộc ) đã tạo nên những con người Việt Nam hiếu thuận trong
gia đình, gắn bó với làng xóm quê hương, yêu đất nước, sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do
của đất nước; nét đẹp ấy được bổ sung và nâng lên một tầm cao mới trong thời đại mới là
tinh thần quốc tế chân chính, sẵn sàng làm bạn với tất cả các dân tộc trên thế giới vì lợi ích
chung của dân tộc và nhân loại.
Xây dựng và phát triển văn hóa là góp phần xây dựng một xã hội lành mạnh và phồn
vinh. Kế thừa những giá trị tốt đẹp của truyền thống và xây dựng hệ chuẩn giá trị mới phù
hợp với xã hội Việt Nam hiện đại là một trong những nhiệm vụ quan trọng của sự nghiệp
phát triển văn hóa ở nước ta hiện nay.
2. Văn hóa là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội
Đây là một quan điểm then chốt trong lý thuyết phát triển tiến bộ hiện nay. Quan
điểm này đặt lời cáo chung cho cái nhìn lỗi thời về vị trí thụ động, lệ thuộc, ăn theo của văn
hóa đối với kinh tế. Hướng tới sự phát triển nhanh, bền vững thì sự phát triển phải bắt rễ
trong văn hóa, văn hóa phải thực sự trở thành mục tiêu và động lực của sự phát triển.
Nhìn nhận vai trò của văn hóa như trên đòi hỏi phải có nhận thức đúng về phát triển,
tránh nhầm lẫn tăng trưởng với phát triển.
Tăng trưởng kinh tế - đơn thuần chỉ là chỉ thay đổi về lượng các kích thước vật chất
của một nền kinh tế, không tính đến nhân tố con người, cơ cấu bên trong của nền kinh tế và
nhiều yếu tố xã hội khác gắn với nền kinh tế ấy.
Phát triển là một khái niệm rộng hơn, không chỉ bao hàm sự tăng trưởng mà còn là
sự thay đổi về chất của một nền kinh tế, biểu hiện ở việc tạo lập một cơ cấu kinh tế hiện đại,
xây dựng một chiến lược con người đúng đắn, đặt con người ở vị trí trung tâm của sự phát
triển, vừa khơi dậy nguồn lực con người vừa vì con người. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi
với việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống , bảo vệ môi trường
tự nhiên, đảm bảo sự phát triển nhanh, an toàn, bền vững.
Có rất nhiều cách để đạt tới tăng trưởng kinh tế, thậm chí có thể vì tăng trưởng mà
bất chấp văn hóa, song một khi đã hướng tới sự phát triển bền vững thì không thể hy sinh
văn hóa mà phải nhìn nhận nó trong quan hệ với văn hóa, phải biết khơi dậy nguồn lực phát
triển từ văn hóa và vì văn hóa - văn hóa là động lực và mục tiêu của sự phát triển.
Biện chứng giữa văn hoá và phát triển là một quá trình mang tính quy luật mà nhân
tố quyết định nhất chính là con người với tư cách chủ thể sáng tạo văn hoá đồng thời cũng là
sản phẩm của qúa trình sáng tạo ấy. Đó là cơ sở triết học khi xem xét vai trò vừa là động
lực vừa là mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của văn hoá.

78
a. Văn hoá là động lực của sự phát triển
Ngay từ ban đầu (xã hội nguyên thủy- khai thác tự nhiên, xã hội nông nghiệp cổ
truyền) văn hoá đã thực hiện chức năng làm động lực phát triển một cách tự phát, chưa đi
vào nhận thức của con người.
Trong nền kinh tế bao cấp, nhận thức về chức năng của văn hóa còn hạn hẹp, chỉ
nhấn mạnh hiệu qủa tinh thần; văn hóa bị quan niệm là lĩnh vực đứng ngoài kinh tế, ăn
theo, hưởng phúc lợi của kinh tế.
Tổng kết những bài học thành công và thất bại dựa vào các lý thuyết phát triển từ
sau đại chiến thế giới lần thứ hai, Thập kỷ Quốc tế phát triển văn hoá do UNESCO phát
động (1988 - 1997) đã khẳng định: Văn hoá là động lực và mục tiêu của sự phát triển.
Trước hết, văn hóa có thể mang lại hiệu quả kinh tế cao, trực tiếp nhờ các dịch vụ
văn hóa như tham quan di tích, danh thắng, nghệ thuật biểu diễn, phát hành phim, sách báo,
dịch vụ lễ hội v.v...Đây là một hướng khai thác văn hóa tốt, hiệu quả kinh tế cụ thể, trực
tiếp, nhanh nhạy, tạo công ăn việc làm, nâng cao mức sống rõ rệt cho người dân .
Việt Nam có phong cảnh thiên nhiên đẹp, nhiều di tích lịch sử - văn hóa, đa dạng về
lễ hội và sinh hoạt văn hóa dân gian, nhiều làng nghề truyền thống độc đáo, văn hóa ẩm
thực đạt đến độ tinh tế, đặc sắc ... Đây là một nguồn lực nội sinh của sự phát triển mà chúng
ta chưa khơi dậy được, đúng như năng lực vốn có của nó.
Thứ hai, vai trò làm động lực phát triển kinh tế - xã hội của văn hóa biểu hiện ở
chiều sâu qua chức năng xây dựng con người, bồi dưỡng nguồn lực cả về trí tuệ, tâm hồn,
thể chất, kỹ năng lao động v.v...
Nền văn hóa Việt Nam hiện nay phải tạo ra một thế hệ con người Việt Nam yêu
nước, có tinh thần quốc tế chân chính; đề cao tinh thần tập thể, phấn đấu vì lợi ích chung; có
lối sống lành mạnh, tôn trọng kỷ luật lao động, biết sống, làm việc theo pháp luật; lao động
chăm chỉ, có lương tâm nghề nghiệp, có năng lực và kỹ năng lao động sáng tạo, lao động
có năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội; thường xuyên học tập,
nâng cao trình độ chuyên môn, thẩm mỹ và thể lực
Như vậy, thông qua nhân tố con người, toàn bộ nền văn hoá đều tham gia vào sự
phát triển, không thể xem nhẹ bất kỳ lĩnh vực nào, cả khoa học, giáo dục, đạo đức, lối sống,
thẩm mỹ - nghệ thuật ...Tuy nhiên, không thể phủ nhận vị trí hàng đầu của khoa học và công
nghệ, giáo dục và đào tạo, bản sắc dân tộc của văn hóa trong việc bồi dưỡng, phát triển
nguồn lực con người .
Khoa học và công nghệ là lĩnh vực then chốt, điều kiện tiên quyết đối với sự tăng
trưởng kinh tế của mọi quốc gia, hiện nay, khoa học đã trở thành "lực lượng sản xuất trực
tiếp” đúng như sự tiên đoán của C.Mác. Là một nước đang phát triển, nhờ khoa học và công
nghệ, Việt Nam có thể thực hiện những bước đi tắt, trên một số lĩnh vực có thể đi thẳng
vào những công nghệ hiện đại nhất để rút ngắn thời gian phát triển, đến năm 2020 có thể trở
thành một nước công nghiệp.
Giáo dục và đào tạo - một lĩnh vực văn hoá có mục tiêu trực tiếp là tạo ra một lớp
người mới đáp ứng yêu cầu của sự phát triển trên quy mô toàn xã hội. Một đội ngũ lao động

79
có chất lượng cao, phẩm chất trí tuệ - đạo đức tốt, tinh thông nghề nghiệp, khả năng thích
ứng nhanh với công nghệ mới sẽ là nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển.
Đầu tư cho Khoa học và công nghệ, Giáo dục và Đào tạo là đầu tư chiều sâu, đầu tư
vào vốn con người, là những lĩnh vực đầu tư có hiệu quả cao và bền vững. Chính sách phát
triển ở nước ta hiện nay xem khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu.
Bản sắc dân tộc của văn hóa là nguồn lực nội sinh của sự phát triển. Một dân tộc có
truyền thống yêu nước, hiếu học, cần cù, sáng tạo, tinh tế, giàu cảm xúc như dân tộc ta là
một lợi thế về tiềm năng con người trong phát triển. Thực tế cho thấy, nếu biết khai thác
một cách thông minh, những sản phẩm của nền nông nghiệp cổ truyền, những ngành nghề
thủ công truyền thống có thể mang lại hiệu quả thu nhập cao trong nền kinh tế hiện đại.
b. Văn hoá là mục tiêu của sự phát triển
Bản chất của văn hoá - xét đến cùng là " trình độ được vun trồng " ngày càng toàn
diện của con người về cả thể lực, trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ...theo thước đo tiên tiến nhất của
thời đại. Văn hóa thể hiện sức sống, sức sáng tạo, trí tuệ, tâm hồn, bản lĩnh của một dân tộc.
Bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là giải phóng con
người, vì hạnh phúc thật sự của con người; mọi mục tiêu phát triển đều hướng vào lợi ích
chân chính của con người, xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm vào mục tiêu cuối cùng
là tạo ra một đời sống vật chất, tinh thần tốt đẹp cho toàn thể nhân dân.
Như vậy, mục tiêu cuối cùng của một xã hội tiên tiến thống nhất với bản chất của
một nền văn hoá tiến bộ, lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất, văn hóa trở
thành mục tiêu của phát triển.
Về đường lối kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, Văn kiện Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ghi rõ :
“ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa
nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội
lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát
triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa,
từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế -xã hội với tăng
cường quốc phòng - an ninh” (trích tr.89).
Như vậy, những mục tiêu văn hóa thể hiện vô cùng sâu sắc trong đường lối phát
triển kinh tế ở nước ta hiện nay :
- Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, đảm bảo sự phát triển đồng bộ,
hài hòa giữa kinh tế - văn hóa để đưa đất nước.
- Phát triển kinh tế nhằm nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của toàn thể nhân
dân, đồng thời chăm lo giải quyết tốt các vấn đề xã hội; mọi vấn đề xã hội phải được giải
quyết ngay trong từng bước đi của kinh tế.
- Phát triển sản xuất, hiện đại hoá đất nước gắn liền với bảo vệ, cải thiện môi trường
tự nhiên, tạo lập sự cân bằng sinh thái.

80
- Phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng - an ninh ( an ninh chính
trị, kinh tế, văn hóa...) tạo nên sự ổn định xã hội và cuộc sống bình an cho mỗi con người.
III. BẢN CHẤT CỦA NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
1. Văn hóa Việt Nam hiện đại là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Với định hướng xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa Việt Nam hiện đại phải là nền văn hóa
có những phẩm chất ưu tú, thể hiện được những đặc trưng tiến bộ nhất của nhân loại trong
thời đại hiện nay. Những phẩm chất ấy đã được khẳng định trong mục tiêu: Xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc .
a. Phẩm chất tiên tiến của nền văn hóa Việt Nam hiện đại
Là nền văn hóa yêu nước; trân trọng, đề cao giá trị yêu nước trên tinh thần của chủ
nghĩa yêu nước chân chính; yêu nước là một giá trị nhân loại, hình thành và được khẳng
định trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước của mọi dân tộc. Hiện nay, cùng với xu
thế toàn cầu hóa là sự thức tỉnh ý thức về chủ quyền quốc gia, dân tộc, phẩm chất yêu nước
vì vậy lại càng được đề cao, trân trọng .
Là nền văn hóa được xây dựng trên cơ sở của một hệ tư tưởng tiên tiến. Trong lịch
sử nhân loại, bất kỳ nền văn hóa tiến bộ nào cũng được xây dựng trên cơ sở của một hệ tư
tưởng tiên tiến nhất so với thời đại. Nền văn hóa Việt Nam hiện nay phải dựa trên nền tảng
của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội .
Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến là một bộ phận không thể tách rời của chế độ xã hội
tiên tiến, đồng thời là mục tiêu và động lực xây dựng xã hội ấy.
Là nền văn hóa hiện đại, tiến bộ và nhân văn; vì hạnh phúc và phẩm giá con người;
vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Tính chất tiên tiến của nền văn hóa cũng bao hàm một thái độ trân trọng, một năng
lực làm chủ, năng lực tiếp thu tinh hoa di sản văn hóa dân tộc và nhân loại. Thái độ và năng
lực này biểu hiện trong chính sách văn hóa quốc gia, trong nhận thức và hành vi ứng xử của
mỗi con người.
b. Bản sắc dân tộc của nền văn hóa Việt Nam
+ Cội nguồn bản sắc văn hóa Việt Nam:
Nền văn hóa Việt Nam có bề dày lịch sử, có quá trình sáng tạo, tích lũy sàng lọc, thử
thách lâu dài trong lịch sử, trở thành một nền văn hóa giàu bản sắc riêng. Nền văn hóa Việt
Nam hiện đại không chỉ giữ gìn, bảo tồn tinh hoa văn hóa dân tộc mà còn phát triển chúng
lên một trình độ mới, với một diện mạo mới sống động trong đời sống xã hội hiện đại. Sau
đây là hệ giá trị tiêu biểu của bản sắc văn hóa Việt Nam hiện nay:
- Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc;
- Tinh thần đoàn kết, ý thức gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc;
- Lòng nhân ái , khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý;
- Cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất;
- Tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống;
- Tính chất tiên tiến và bản sắc dân tộc là hai nội dung của một nền văn hóa Việt
Nam thống nhất không thể tách rời. Tính chất tiên tiến hàm chứa trong lòng nó những giá trị

81
dân tộc, những thái độ đúng đắn, khoa học đối với di sản văn hóa truyền thống; giữ gìn,
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc cũng có nghĩa là làm cho nó làm cho nó trở nên sống động
trong đời sống xã hội mới, phục vụ cho sự phát triển nhân cách của con người Việt Nam
hiện nay.
2. Văn hóa Việt Nam hiện đại là nền văn hóa thống nhất trong sự đa dạng.
a. Việt Nam là một quốc gia đa tộc người, đa văn hóa
- Từ cội nguồn dựng nước: Văn hóa Đông Sơn là kết quả hội tụ thống nhất của các
văn hóa tiền Đông Sơn với các nhóm cư dân khác nhau gồm cả văn hóa đồng bằng, văn hóa
núi, văn hóa biển. Sự quy tụ dẫn đến việc ra đời nhà nước Văn Lang, thống nhất quốc gia,
dân tộc song vẫn bảo lưu những yếu tố địa phương.
- Từ những nhóm cư dân đầu tiên với chủ thể trung tâm là người Lạc Việt, qua nhiều
biến động của lịch sử, đến nay có 54 tộc người anh em cùng chung sống trên mảnh đất Việt
Nam, tạo nên một dân tộc thống nhất trong sự đa dạng về văn hóa.
b. Xây dựng nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong sự đa dạng
Là một quốc gia đa tộc người, trong chính sách phát triển văn hóa cần tạo nên một
nền tảng thống nhất mà vẫn tôn trọng cái riêng độc đáo của văn hóa tộc người, tôn vinh sự
đa dạng văn hóa.
+ Tính thống nhất của nền văn hóa Việt Nam hiện đại:
- Là nền văn hóa thống nhất của toàn dân tộc; cả 54 tộc người anh em đều là chủ thể
chân chính của nền văn hóa Việt Nam.
- Thống nhất về cương vực lãnh thổ, về lịch sử văn hóa.
- Thống nhất về hệ tư tưởng, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng xây dựng nền văn hóa mới.
- Thống nhất về tiếng nói, chữ viết; lấy tiếng Việt (Kinh) và chữ quốc ngữ làm ngôn
ngữ giao tiếp chung của cả cộng đồng và quan hệ quốc tế.
- Có hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất.
- Thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, bình đẳng, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau
cùng tiến bộ.
+ Tôn vinh sắc thái độc đáo của văn hóa tộc người :
- Tôn trọng tiếng nói và chữ viết của tất cả các tộc người anh em (khuyến khích dùng
tiếng mẹ đẻ, chính sách học song ngữ ...).
- Bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan song song với việc gìn giữ những phong tục, tập quán
tốt đẹp của mỗi tộc người, tôn trọng tín ngưỡng của nhân dân.
- Có chính sách ưu tiên trong việc bảo tồn, phát triển văn hóa các tộc người thiểu số
(văn hóa vật thể - phi vật thể, sưu tầm, giới thiệu rộng rãi những giá trị văn hóa đặc sắc...).
- Có chính sách ưu tiên phát triển kinh tế, văn hóa, đào tạo cán bộ đối với các dân tộc
ít người để họ có thể theo kịp bước phát triển chung của toàn dân tộc.
- Chống mọi thái độ kỳ thị cũng như tự ti dân tộc v.v...
Xây dựng nền Văn hóa Việt Nam thống nhất trong sự đa dạng vừa là một việc làm
hợp quy luật vừa thể hiện phẩm chất ưu việt, tiến bộ của nền văn hóa Việt Nam trong thời
đại hiện nay.

82
Theo quy luật phát triển chung của các quốc gia đa tộc người, đa văn hóa, nền Văn
hóa Việt Nam hiện đại lấy văn hóa của người Việt (Kinh) làm chủ thể , làm trung tâm thống
nhất của cả cộng đồng, song chính sách văn hóa chú trọng tôn vinh bản sắc riêng của văn
hóa tộc người, tôn vinh sự đa dạng văn hóa ; thực hiện chính sách bình đẳng và ưu tiên vì sự
tiến bộ của tất cả các tộc người anh em trên đất nước ta, hướng tới một nền văn hóa Việt
Nam thống nhất, đa sắc màu, hiện đại và phồn vinh.

83

You might also like