You are on page 1of 80

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

(Dành cho: khối không chuyên 02 tín chỉ)

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN HÓA


1.1. Các khái niệm chung
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là sản phẩm chỉ có ở con người, nó là cái dùng để phân biệt giữa loài
người và giống vật. Sự khác biệt căn bản nhất giữa con người và các loài động vật khác
chính ở đời sống tinh thần – cái mà con người tạo ra trong quá trình lao động, sáng tạo và
tư duy. Yếu tố sáng tạo được coi là bản chất cốt lõi của văn hóa.
 Theo quan niệm của người phương Đông:
- Nghĩa của từ Văn hóa được người phương Đông sử dụng từ rất sớm và được hiểu là
điển chương, điển tích, chế độ, giáo hóa. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã có từ văn và hóa:
Xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hóa thiên hạ (Quan hồ nhân văn dĩ hóa thành
thiên hạ).
- Theo nghĩa Hán – Việt văn có nghĩa là vẻ đẹp; hóa có nghĩa là sự chuyển hóa, biến
đổi tức văn hóa là trở thành đẹp, thành có giá trị. Văn hóa chỉ chứa cái đẹp, chứa cái
có giá trị, nó là thước đo mức độ tiến bộ của xã hội loài người.
- Trong Từ điển tiếng Việt, văn hóa có rất nhiều nghĩa: tổng thể nói chung những giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử; trình độ cao
trong xã hội, biểu hiện của văn minh; chỉ trình độ học vấn, lối sống.
 Theo quan niệm của người phương Tây:
- Người Anh có từ culture, người Đức có từ kultur, người Nga có từ kultura. Những
chữ này có chung gốc Latinh là chữ cultus (hoạt động gieo hạt).
- Đến thế kỷ XVIII, từ văn hóa với nghĩa đen được áp dụng vào con người và xã hội
với nghĩa là trồng trọt tinh thần (cultus animi )- giáo dục đào tạo cá thể hay cộng đồng
để họ không còn là động vật tự nhiên, và họ có những phẩm chất tốt đẹp.
 Theo quan niệm của một số tổ chức, nhà nghiên cứu văn hóa, danh nhân văn hóa:
- UNESCO đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa nên được đề cập đến như là
một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một
xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ

1
thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức
tin.1
- Chủ tịch Hồ Chí Minh coi văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát
minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa.Văn hóa là sự tổng
hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản
sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn. 2 Gần đây,
UNESCO đã có khái niệm theo hướng tiếp cận văn hóa là biểu tượng: Văn hóa là hệ
thống các ký hiệu (biểu tượng), nó quy định cách ứng xử của một số đông người và
giúp con người có thể giao tiếp được với nhau trong những cộng đồng riêng biệt.
- GS. Trần Quốc Vượng cho rằng: văn hóa là quá trình biến đổi thiên nhiên thứ nhất
thành thiên nhiên thứ hai mang tính người.
- GS. Viện sĩ Trần Ngọc Thêm định nghĩa văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị
vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực
tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội.3
Có thể nói, định nghĩa về văn hóa sẽ còn tiếp tục tăng lên theo thời gian và quan
niệm nhìn nhận của các nhà nghiên cứu và đương nhiên, không phải lúc nào các định
nghĩa đưa ra cũng có thể thống nhất, hay hòa hợp và bổ sung cho nhau. Cơ bản nhất có
thể hiểu: Văn hóa là tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
trong quá trình lịch sử. Những giá trị đó được chắt lọc qua thời gian để trở thành hệ
thống các giá trị và chuẩn mực, quy định nên truyền thống và thị hiếu của mỗi cộng đồng
dân tộc.
1.1.2. Khái niệm văn hiến
Khái niệm văn hiến thường chỉ dùng trong các sách vở của phương Đông mà chủ
yếu là Việt Nam và Trung Quốc.
Chu Hy đời Tống chú thích một câu trong sách Luận ngữ như sau: văn là điển
tích, hiến là tốt đẹp, tài giỏi. Như vậy, văn hiến nguyên nghĩa là văn chương, sách vở hay
bảo tồn truyền thống văn hóa lâu đời.

1
Hội nghị quốc tế do UNESCO chủ trì năm 2001, Tuyên bố toàn cầu về đa dạng văn hóa.
2
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3 (2009), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.431.
3
Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. TP Hồ Chí Minh, tr25.

2
Từ thời Lý, người Việt đã tự hào nước mình là một văn hiến chi bang.
Đến thế kỉ XV, Nguyễn Trãi viết: Duy ngã Đại Việt thực vi văn hiến chi bang
(Duy nước Đại Việt ta thực sự là một nước văn hiến).
Theo Từ điển Hán Việt: Văn là đẹp, Hiến là hiền tài
Như vậy: Văn hiến là khái niệm chỉ những giá trị tinh thần lâu đời và tốt đẹp do
những con người có tài đức chuyển tải, thể hiện tính dân tộc, tính lịch sử rõ rệt.
1.1.3. Khái niệm văn vật
Theo nghĩa hẹp, văn là vẻ đẹp, vật là các sản phẩm mang tính vật chất do con
người sáng tạo ra, có giá trị nghệ thuật và sức sống lâu bền. Văn vật thể hiện hàm lượng
văn hóa cao trong các công trình kiến trúc, di tích, hiện vật quý hiếm.
1.1.4. Khái niệm văn minh
Văn minh là danh từ Hán – Việt (văn là vẻ đẹp, minh là sáng) chỉ tia sáng của đạo
đức, biểu hiện ở chính trị, pháp luật, văn học, nghệ thuật. Trong tiếng Anh, từ civilisation
với nội hàm nghĩa văn minh, từ gốc latinh là civitas với nghĩa gốc: đô thị, thành phố và
các nghĩa: thị dân, công dân.
Theo nghĩa thông thường, văn minh đối lập với những gì lạc hậu, mông muội, dã
man, phản tiến bộ, phi nhân tính. Văn minh không ra đời đồng thời với sự xuất hiện của
con người mà hình thành khi trình độ con người đã phát triển. Nó gắn liền với những yếu
tố như nhà nước, đô thị, chữ viết, các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật.
Văn minh chủ yếu liên quan đến kỹ thuật làm chủ thế giới, biến đổi thế giới sao
cho đáp ứng nhu cầu của con người. Một thành tựu của văn minh thường lan rộng khắp
thế giới. Khi nói đến văn minh, người ta thường nghĩ đến phương Tây đô thị.
Có thể hiểu văn minh là trình độ phát triển nhất định của văn hoá về phương diện
vật chất, đặc trưng cho một khu vực rộng lớn, một thời đại hoặc cả nhân loại.
Bảng : So sánh văn hoá, văn hiến, văn minh, văn vật 4
Văn hoá Văn hiến văn vật Văn minh
Chứa cả giá trị vật Thiên về giá trị Thiên về giá Thiên về giá trị vật chất –
chất và tinh thần tinh thần trị vật chất kỹ thuật
Có bề dày lịch sử Chỉ trình độ phát triển
Có tính dân tộc Có tính quốc tế
Gắn bó nhiều hơn với
Gắn bó nhiều hơn với phương Đông nông nghiệp
phương Tây đô thị
1.2. Những đặc trưng và chức năng của văn hóa
4
Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. TP Hồ Chí Minh, tr25.

3
1.2.1. Tính hệ thống và chức năng tổ chức xã hội của văn hóa
Tính hệ thống cần để phân biệt văn hóa như một hệ thống giá trị với quan điểm sai
lầm coi văn hóa như một tập hợp (phức hợp) của những tri thức rời rạc từ nhiều lĩnh vực.
Đặc trưng tính hệ thống của văn hóa được thể hiện ở việc nó không tồn tại riêng lẻ
mà nó là sự gắn kết giữa các yếu tố trong một hệ thống hữu cơ, có mối quan hệ tác động
qua lại...
Đặc trưng này yêu cầu chúng ta khi xem xét các sự vật, hiện tượng thuộc một nền
văn hóa cần phải tìm hiểu nguyên nhân, hoàn cảnh, quy luật hình thành và phát triển của
nó, cần đặt những sự vật, hiện tượng ấy trong một chỉnh thể là môi trường tự nhiên, môi
trường xã hội và con người – chủ nhân của nền văn hóa.
Nhờ có tính hệ thống mà văn hoá, với tư cách là một thực thể bao trùm mọi hoạt
động của xã hội, thực hiện được chức năng tổ chức xã hội. Nhờ có chức năng tổ chức
xã hội mà văn hoá làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội những gì cần thiết
để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Tính hệ thống còn giúp chúng ta
lý giải được những hiện tượng văn hóa mang tính đặc thù của mỗi dân tộc.
1.2.2. Tính giá trị và chức năng điều chỉnh xã hội của văn hóa
Tính giá trị cần để phân biệt văn hóa như cái có giá trị với cái phi văn hóa.
Giá trị là quan niệm về cái có ý nghĩa, được cộng đồng xã hội lựa chọn, cùng nhau
chia sẻ và tôn vinh. Những giá trị xã hội do văn hóa tạo ra trong một xã hội tạo nên bản
sắc văn hóa của mỗi cộng đồng, dân tộc.
Giá trị thường đi cùng chuẩn mực xã hội (chuẩn mực xã hội là hệ thống những
quy định cụ thể về phương thức hành xử trong đời sống giưa mọi người nói chung và
giao tiếp xã hội nói riêng), hai yếu tố này tác động bổ sung cho nhau hướng dẫn hành
động cho mọi người.
Nhờ tính giá trị mà văn hoá có chức năng quan trọng thứ hai là chức năng điều
chỉnh xã hội. Có những giá trị chủ đạo đại diện cho lý tưởng xã hội của cả một cộng
đồng nên có tác động rất lớn đến hành vi của con người. Vì vậy, giá trị giúp cho thành
viên trong xã hội xác định vị thế xã hội của mình, từ đó tìm ra phương thức hành xử phù
hợp với lý tưởng chung mà cộng đồng đã chọn.
Tuy nhiên, khi giá trị và chuẩn mực đã bị lỗi thời, trở thành rào cản cho sự tiến bộ
của xã hội thì nhiệm vụ bức thiết đặt ra là phải tiến hành cải cách xã hội, thực chất là thay
đổi hệ giá trị và chuẩn mực xã hội.

4
1.2.3. Tính nhân sinh và chức năng giao tiếp
Tính nhân sinh cần để phân biệt văn hóa như cái nhân tạo (do con người sáng tạo,
vì con người) với các giá trị tự nhiên (mang tính tự thân).
Tính nhân sinh cho phép phân biệt văn hoá như một hiện tượng xã hội do con
người sáng tạo ra và khác với giá trị tự nhiên (thiên tạo). Văn hóa là cái tự nhiên được
biến đổi bởi con người.
Văn hóa là sản phẩm mà trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, con người
đã tạo ra.
Do mang tính nhân sinh, văn hoá trở thành sợi dây nối liền con người với con
người. Nó thực hiện chức năng giao tiếp và có tác dụng liên kết họ lại với nhau.
Thông qua sản phẩm văn hóa, người ta có thể hiểu được nhau, giao tiếp với nhau
để tồn tại và phát triển. Sản phẩm văn hóa còn là cầu nối giữa cá nhân với cá nhân, cá
nhân với tập thể, giữa tập thể với nhau. Nó thể hiện trình độ giao tiếp của mỗi người với
một đối tượng cụ thể, thậm chí sẽ phản ánh trình độ văn hóa của cả một dân tộc.
1.2.4. Tính lịch sử và chức năng giáo dục của văn hóa
Tính lịch sử cần để phân biệt văn hóa như cái được tích lũy lâu đời với văn minh
như cái chỉ trình độ phát triển ở trình độ nhất định.
Văn hóa là sản phẩm của một quá trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ. Tính
lịch sử tạo cho văn hoá một bề dày, một chiều sâu. Nó buộc văn hóa thường xuyên tự
điều chỉnh, tiến hành phân loại và bố trí lại các giá trị.
Tính lịch sử được duy trì bằng truyền thống văn hoá. Truyền thống văn hoá là
những giá trị tồn tại tương đối ổn định, được tích luỹ và tái tạo trong cộng đồng người
qua không gian và thời gian, được đúc kết thành những khuôn mẫu xã hội và cố định
dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận.
Truyền thống văn hoá tồn tại nhờ giáo dục, chính vì thế mà văn hoá có chức năng
giáo dục. Do đó đây là chức năng quan trọng của văn hóa. Tuy nhiên, văn hóa thực hiện
chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị ổn định (truyền thống văn hóa) mà còn
bằng cả những giá trị mới đang được hình thành. Hai loại giá trị này sẽ tạo nên hệ thống
chuẩn mực mà con người hướng tới.
Xuất phát từ chức năng giáo dục mà văn hoá đóng vai trò quyết định trong việc
hình thành nhân cách.
1.3. Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội
1.3.1. Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên

5
Môi trường tự nhiên là sự tổng hợp toàn bộ những gì tồn tại khách quan, là những
gì đương nhiên tồn tại mà không phụ thuộc vào ý muốn, sự sáng tạo của con người. Đó là
toàn bộ vũ trụ với rất nhiều những hình thức biểu hiện, từ các thiên hà, các yếu tố địa lý
đến sinh vật, vi sinh vật, con người…Mọi sinh vật đều sống trong mỗi quan hệ không thể
tách rời nhau và với những điều kiện thiên nhiên bao quanh chúng. Ở đó diễn ra sự tương
tác lẫn nhau và sự tương tác với môi trường tự nhiên. “Môi trường tự nhiên là cái gốc
quy định lối sống và văn hóa ứng xử của con người không chỉ đối với tự nhiên mà cả đối
với xã hội. Nếu con người chọn cho mình một lối ứng xử phù hợp với những điều kiện tự
nhiên vốn có mà điều này trước tiên phụ thuộc vào trí tuệ của họ thì chắc chắn con người
sẽ nhanh chóng thích nghi và có thể biến đổi tự nhiên một cách có hiệu quả hơn, phục vụ
nhu cầu con người. Con người, văn hóa ứng xử trước tiên được định hình và phát triển
trong lĩnh vực mối quan hệ con người – tự nhiên »5. Như vậy, ứng xử của con người với
môi trường tự nhiên được xem xét dưới nhiều góc độ.
Trước hết, đó là sự thích nghi của con người với môi trường tự nhiên. Sự thích
nghi ấy có tính bản năng và được truyền trao từ thế hệ này sang thế hệ khác. Con người
sống gắn bó với thiên nhiên nên có sự nương nhờ vào thiên nhiên, có thái độ hòa hợp với
thiên nhiên và có tâm lý thuận theo tự nhiên. Đây cũng là đặc trưng trong lối ứng xử với
thiên nhiên của cư dân nông nghiệp. Vì thế, trong tổng hợp kinh nghiệm của cư dân,
thường có nhiều câu nói như: Thiên – Nhân hợp nhất; Thiên thời – Địa lợi – Nhân hòa;
Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên;…Điều đó được thể hiện đậm nét trong cách ăn, mặc,
đi lại, xây dựng nhà cửa…của con người.
Song song với sự thích nghi nói trên là sự biến đổi. Thích nghi để tồn tại còn biến
đổi để phát triển. Khi nói đến văn hóa ứng xử của con người với môi trường tự nhiên, ta
thấy ứng xử có tính biến đổi nhiều hơn. Điều đó được lý giải bởi sự phát triển cao của
con người về mọi phương diện, đặc biệt về bộ não và đôi bàn tay. Do vậy, con người đã
khai thác thiên nhiên, làm biến đổi nó theo hướng có lợi cho con người. Điều đó thể hiện
rõ trong ứng xử thực tiễn và ứng xử thẩm mỹ của con người.
Khi con người còn chưa hiểu về thiên nhiên, họ coi thiên nhiên là thần bí, trong
tâm trí họ có thần nước, thần lửa, thần sông...cho nên họ sợ hãi, tôn sùng tự nhiên: Ơn
trời mưa nắng phải thì ; Lạy trời mưa xuống…Những hiện tượng hiện tượng thiên nhiên
như nắng, mưa, gió,…đối với con người lúc này có sức mạnh rất lớn, có thể đe dọa đến
5
Viện văn hóa (2002), Văn hóa ứng xử của người Hà Nội với môi trường tự nhiên, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội,
tr54

6
đời sống con người. Và con người luôn quan niệm, đứng sau những hiện tượng đó là một
đấng tối cao – ông Trời: Gió thổi là chổi trời/Nước mưa là cưa trời. Chính vì vậy, ở giai
đoạn này, con người sống phụ thuộc vào tự nhiên, nương nhờ tự nhiên và dường như
hành động chưa dám trái với những quy luật của tự nhiên.
Khi con người bắt đầu gần gũi, tìm hiểu và khám phá thiên nhiên, qua quan sát các
hiện tượng tự nhiên, họ đã biết cách sống khôn ngoan hơn, tránh được những yếu tố bất
lợi do thiên nhiên đem lại: Ráng mỡ gà, ai có nhà thì phải chống ; Kiến đen tha trứng lên
cao / Thế nào cũng có mưa rào rất to.
Trong lao động sản xuất, nhờ quan sát thiên nhiên rất kỹ lưỡng nên con người có
nhiều kinh nghiệm để trao truyền cho nhau. Cha ông khuyên nhủ trong lao động, phải căn
cứ lịch thời tiết mà hoạch định cho mình một lịch thời vụ rõ ràng: Tháng hai trồng đậu
trồng khoai, trồng cà / Tháng ba cày vỡ ruộng/ Tháng tư gieo mạ, mưa sa đầy đồng ;
Đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm.
Con người còn phát hiện những hiện tượng mang tính quy luật của tự nhiên, nhờ
đó mà con người nắm được đặc điểm tự nhiên để bố trí lịch sinh hoạt cho phù hợp: Tháng
giêng rét dài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân; Đêm tháng năm chưa nằm đã
sáng / Ngày tháng mười chưa cười đã tối.
Việc cải tạo thiên nhiên đã được con người nghĩ đến, thực hiện và gặt hái được một
số thành công: Nhân định thắng thiên ; Công cấy là công bỏ, công làm cỏ là công ăn.
Khi con người khai thác tự nhiên trái qui luật thông thường, chế ngự thiên nhiên
theo suy nghĩ chủ quan của mình, dẫn đến hậu quả môi trường sống thay đổi, các ứng xử
của thiên nhiên vượt ra ngoài dự đoán của con người, môi trường sống bị tàn phá nặng nề
gây ra bao tai họa nghiêm trọng cho con người. Một số năm gần đây, những trận lũ kinh
hoàng, những cơn bão có sức tàn phá lớn, những đám cháy rừng lan rộng…có một phần
rất lớn từ sự khai thác môi trường tự nhiên một cách quá mức của con người. Việc phát
triển các khu công nghiệp và gia tăng dân số quá nhanh khiến lượng rác thải công nghiệp
và sinh hoạt đổ về môi trường tự nhiên quá lớn. Cuộc sống của con người đang phải đối
mặt với những thách thức rất lớn là ô nhiễm môi trường.
Nhận thấy được vai trò to lớn của thiên nhiên với sự sống con người, cha ông ta đã để
lại những câu tục ngữ khuyên răn con người biết trân trọng những tài sản mà thiên nhiên
ban tặng. Con người cần yêu thiên nhiên, gắn bó với nó và thấu hiểu những giá trị mà tự
nhiên mang lại cho mình: Tấc đất, tấc vàng; rừng vàng biển bạc…Thiên nhiên là một tài

7
sản vô cùng quý giá, là nguồn sống, nguồn của cải nuôi sống bao thế hệ do vậy cần phải
tôn trọng, bảo vệ, giữ gìn thiên nhiên cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Với kiểu ứng xử hòa hợp với thiên nhiên có tích cực: làm cho con người sống luôn
gắn bó với thiên nhiên, biết tôn trọng và bảo vệ sự cân bằng của cảnh quan thiên nhiên.
Việc tạo lập một cuộc sống ổn định, tĩnh tại là cần thiết để cư dân an tâm tạo mùa vụ,
nhiều sản phẩm nông nghiệp tốt hơn…Sự gắn bó, hài hòa với thiên nhiên là cách ứng xử
thông minh và hài hòa nhất.
Một ví dụ cho sự thích nghi và biến đổi trong ứng xử với môi trường thiên nhiên
của con người đó là qua tập quán xây dựng nhà ở của con người. Với mỗi dạng môi
trường, địa hình khác nhau, con người có thói quen cư trú khác nhau. Với môi trường
sông nước, ngư dân lấy con thuyền làm nhà; với môi trường rừng núi, người dân xây
dựng nhà sàn để ở…Trong lối xây dựng nhà ở, con người biết tận dụng và thuận theo
thiên nhiên từ việc chọn hướng nhà đến việc sử dụng các nguyên vật liệu vốn có trong tự
nhiên. Trong quan niệm về vị trí của ngôi nhà theo hướng tiếp cận giá trị sử dụng, người
Việt quan niệm: Nhất cận thị, nhị cận lân, tam cận giang, tứ cận lộ, ngũ cận điền. Tuy
nhiên, theo sự phát triển của xã hội, yếu tố thẩm mỹ đã bao trùm lên các mặt trong xây
dựng nhà cửa. Chính nguồn cảm hứng thẩm mỹ đã thôi thúc con người có những sáng tạo
vượt bậc và để lại cho đời những kiến trúc vĩ đại qua thời gian.
1.3.2. Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội
Môi trường xã hội là môi trường của các mối quan hệ và tác động qua lại giữa
người và người. Sự tác động ấy diễn ra trong những thể chế như: pháp luật, chính trị, tôn
giáo, tín ngưỡng, đạo đức…Con người không ngừng sáng tạo ra các giá trị văn hóa vật chất
và tinh thần và từ đó con người đã tạo nên môi trường văn hóa cho chính mình.
Khi nghiên cứu văn hóa ứng xử với môi trường xã hội, chúng ta thường đề cập
đến những yếu tố truyền thống văn hóa, giao lưu văn hoá, thể chế chính trị…tác động
trực tiếp đến hoạt động tiếp thu, sáng tạo văn hóa của con người.
* Quá trình giao lưu văn hóa
Một trong những thuộc tính của văn hoá là có thể chia sẻ, tức là văn hoá có thể
giao lưu, ảnh hưởng, vay mượn từ cộng đồng này sang cộng đồng khác và ngược lại.
Chính vì vậy sự vay mượn, giao lưu, ảnh hưởng văn hoá còn là một nhân tố quan trọng
trong qui luật truyền thống và đổi mới của văn hoá.

8
Trong quá trình lịch sử, cư dân Việt cổ đã mở rộng không gian sống của mình từ
miền núi xuống đồng bằng, từ Bắc xuống Nam. Trong quá trình đó cư dân người Việt
cùng chung sống với cư dân các tộc người khác với người Chăm (miền Trung), người
Khơ me (Nam bộ). Qua sự biến đổi của thời gian những đặc trrưng văn hoá của các dân
tộc hoà trộn vào nhau, tạo nên sự phức hợp văn hoá Việt Nam. Qua giao lưu văn hoá thể
hiện rõ nét trong phong tục tập quán. Về tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, trước đây người
Khơ me thường cóng tổ tiªn tập trung ở chùa. Nay do ảnh hưởng của người Việt, người
Khơ me cũng lập bàn thờ cúng ông bà, tổ tiên ở trong nhà. Nhiều câu truyện cổ tích của
người Khơ me như Chao Sanh; Chao sra tốp chêk cũng giống như truyện Thạch Sanh;
Tấm Cám của người Việt.
Giao lưu với văn hoá Ấn Độ: từ khoảng đầu Công nguyên khi đó Việt Nam còn là
“Giao Châu” dưới sự thống trị của đế chế Hán, các nhà sư Ấn Độ đã đến đây theo con
đường thương nhân, gồm cả đường thuỷ và đường bộ. Trung tâm Phật giáo sớm nhất ở
Giao Châu là Luy Lâu, tức vùng Dâu, nay là Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Từ đầu Công
nguyên cho đến thế kỷ III, Phật giáo Việt Nam chịu sự tác động mạnh của Phật giáo Ấn Độ.
Giao lưu với văn hoá Trung Hoa: Người Việt Nam tiếp nhận sự truyền bá tư tưởng
Nho giáo: Tam cương (Quân-thần; Phụ-Tử; Phu-Thê ) và Ngũ thường (Nhân; Nghĩa; Lễ;
Trí ; Tín) vào tập quán của người Việt nhằm xây dựng một hệ tư tưởng mới ở đất Giao
Chỉ. Ngoài ra, việc truyền bá chữ Hán và Nho giáo trở thành nội dung học tập trong các
trường học do người Hán lập ra.
Sự giao lưu văn hoá với Trung Hoa có ba phương thức: Phương thức cưỡng bức;
phương thức giáo hoá; phương thức tự nguyện. Phương thức cưỡng bức thường gắn liền
với những đợt tiến công xâm lược của người Hán khi họ giành được thắng lợi. Phương
thức giáo hoá thường được tiến hành trong hoà bình, họ có mở mang kiến thức, phổ biến
kỹ thuật canh tác mới cho người Việt cũng chỉ mang tính nửa vời, phục vụ cho cai trị là
chính. Phương thức tự nguyện được tiến hành khi người Việt tiếp thu những giá trị văn
hóa của Trung Hoa phù hợp và có lợi cho đời sống của người dân. Song trong cả ba
phương thức trên đều chứa đựng tính chất hai mặt của một vấn đề trong quá trình cưỡng
bức và giao thoa văn hoá. Nhiều lĩnh vực đời sống vật chất tinh thần của người Việt từ sự
ảnh hưởng này có sự biến đổi không ngừng. Trước những thành tựu rực rỡ của nền văn
minh Trung Hoa người Việt không phủ nhận mà rất trân trọng, tiếp thu có chọn lọc, hình
thành nên những thành tố văn hoá mới trong đời sống cộng đồng của người Việt.

9
Giao lưu với văn hoá Pháp: khi nước ta rơi vào sự thống trị của thực dân Pháp,
Việt Nam bị mất chủ quyền phải chịu sự thống trị của nền văn hoá thực dân. Trước thử
thách đó, một lần nữa người dân Đại Việt không phản ứng kiểu tiêu cực, co lại, đóng kín
mà liên tục đứng lên tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong quá trình đó
chúng ta vẫn tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hoá Pháp, giao lưu làm giàu thêm
nền văn hoá cổ truyền Việt Nam, làm cho nền văn Việt Nam đổi mới và mạnh mẽ hơn
bao giờ hết .
Nhìn chung trong quá trình giao lưu hội nhập văn hoá, người Việt đã bổ sung
những tập quán mới, những phong tục mới trong đời sống của cộng đồng, làm phong phú
thêm đời sống tinh thần của nhân dân. Tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại,
làm giàu thêm cho những phong tục, tập quán của con người Việt Nam.
* Điều kiện thể chế chính trị
Trong điều kiện của lịch sử sự thay đổi của các thể chế chính trị cũng là điều kiện
ảnh hưởng đến phong tục, tập quán của người Việt. Sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng
bao giờ cũng kéo theo sự thay đổi của cơ sở hạ tầng. Nhất là trong thời kỳ phong kiến các
điều luật do Nhà nước quy định cũng làm bó hẹp hoặc mở rộng các tập quán, phong tục.
Ví dụ: Phong kiến Trung Hoa nhiều lần muốn đồng hóa người Việt bỏ váy để mặc quần
song không thành công. Trong thời gian thuộc Minh, chỉ số ít bộ phận phụ nữ thành thị bị
ảnh hưởng bởi trang phục quần. Tuy nhiên, đến năm 1665, vua Lê Huyền Tông đã ra
chiếu chỉ ngăn cấm việc mặc quần để bảo tồn tập quán mặc váy cho phụ nữ cả nước.
Các bộ luật của nhà nước cũng đề cập đến quy định dựa theo tập quán. Ví dụ trong
bộ luật Hồng Đức đề cập đến “cưới cheo” tức đôi trai gái phải nộp cho làng một khoản
“lệ phí” gọi là “cheo” thì đám cưới ấy được coi là hợp pháp. Ngoài ra khi thể chế chính
trị thay đổi, luật thay đổi cũng ảnh hưởng đến phong tục, tập quán. Ví dụ trong xã hội
phong kiến quy định người phụ nữ không được đi học nhưng hiện nay quy định này
không còn phù hợp.
Tuy vậy thể chế chính trị thường thay đổi và đây cũng không phải điều kiện tiên
quyết để hình thành phong tục, tập quán. Nhưng dù thể chế chính trị có thay đổi như thế
nào thì những phong tục có giá trị, thể hiện bản sắc văn hóa Việt thì vẫn còn tồn tại, chỉ
có những phong tục không còn phù hợp thì mới mai một dần, trở thành tập quán hoặc dần
dần mất đi.
* Điều kiện văn hoá truyền thống

10
Nhiều tập quán được duy trì từ đời này sang đời khác, đó là những tập quán đẹp,
được nhiều người tin tưởng và làm theo. Chúng được sàng lọc qua thời gian để trở thành
những phong tục truyền thống. Sự chuyển tải phong tục, tập quán đó rất gần gũi, dễ nhớ,
dễ thuộc qua những câu ca dao, tục ngữ, các làn điệu dân ca, hò, vè.
Từ xưa tới nay, lối sống cộng đồng làng xóm đoàn kết, gắn bó, san sẻ với nhau
luôn được nhân dân đề cao. Nhân dân ta một mặt coi trọng tính huyết thống, nhưng mặt
khác luôn khuyên nhủ con người phải sống hài hòa với bà con lối xóm, đoàn kết cộng
đồng : Bán anh em xa mua láng giềng gần ; Tắt lửa tối đèn có nhau
Bất kỳ ai, dù sống trong môi trường xã hội nào cũng đề phải tôn trọng qui định
của cộng đồng: lệ làng, phép nước. Truyền thống Trọng xỉ hơn trọng tước; Kính lão đắc
thọ, Yêu trẻ trẻ hay đến nhà / Kính già già để tuổi cho luôn được ông bà, cha mẹ, thầy cô
nhắc nhở con cháu phải ghi nhở và thực hiện. Đó là truyền thống tốt đẹp được truyền trao
và lưu giữ.
Trong làng Việt cổ truyền, truyền thống lễ hội và hương ước có tác động lớn đến
mối quan hệ của cá nhân với cộng đồng làng xã. Con người phải ghi nhớ và có lòng tự
hào về nguồn gốc của mình : Dù ai đi ngược về xuôi / Nhớ ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng
Ba.
Trong nền văn hóa cổ truyền, các giá trị đạo đức, chuẩn mực được hình thành từ
những ứng xử của con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Chủ nghĩa
yêu nước, tinh thần đoàn kết, sự kiên cường cũng như khí phách anh hùng là biểu hiện
của những nét đẹp đạo đức truyền thống của người Việt Nam. Những cụm từ “tình làng
nghĩa xóm”, “Trọng nghĩa khinh tài”, “Lá lành đùm lá rách”...như định hướng cách ứng
xử của con người với nhau. Cao nhất là tình yêu đối với Tổ quốc, quê hương Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã viết: Việt Nam có hai tiếng tổ quốc, ta cũng gọi tổ quốc là đất nước; có
đất lại có nước thì mới thành tổ quốc. Có đất lại có nước thì dân giàu, nước mạnh.6

6
Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.9 Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.506

11
CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC TẬP
1. Trình bày khái niệm văn hóa. Phân biệt các khái niệm văn hóa, văn hiến, văn vật, văn
minh.
2. Cho biết những đặc trưng và chức năng của văn hóa.
3. Anh (chị) hãy phân tích cách ứng xử của con người với môi trường tự nhiên và môi
trường xã hội. Lấy ví dụ minh họa.

12
Chương 2. THÀNH TỐ VĂN HÓA VIỆT NAM

2.1. Phong tục tập quán


2.1.1. Khái niệm
* Tập quán
Tập quán là những thói quen đã thành nếp trong đời sống xã hội, trong sản xuất
và sinh hoạt thường ngày, được mọi người công nhận và làm theo.
Những thói quen đó có thể là lối sống, cách sống hay các hoạt động do được lặp đi
lặp lại lâu ngày thành quen mà nên.
Phạm vi của thói quen rất hẹp, có khi chỉ là của một nhóm người, của một dòng
họ, của một làng trở thành một tập quán địa phương.
Khi thói quen đã trở thành tập quán của con người, thì tập quán đó là tập quán xã
hội, mang tính xã hội.
* Phong tục
Nếu “Tập quán” là thói quen trong đời sống của một cộng đồng dân cư nhỏ hẹp,
không mang tính rộng rãi thì “Phong tục” lại là một nếp sống, một lối sống mang tính
phổ biến rộng rãi. Phong tục là những tập quán đã đi đến sự công nhận của xã hội, đạt
đến những chuẩn mực trong mức độ nhất định được coi như là một phần của luật lệ.
Phong tục đã ăn sâu vào đời sống xã hội từ lâu đời, lan toả ra rất nhiều vùng và được cả
một cộng đồng rộng lớn (đại đa số mọi người) cùng đón nhận.
Nếu tập quán mới dừng lại ở việc phản ánh của một nếp sống của một nhóm người
thì phong tục có khả năng ràng buộc các hành vi và chi phối cuộc sống xã hội của cá
nhân hay cộng đồng.
Phong tục có cả những phong tục tốt, phong tục đẹp phù hợp với đại đa số gọi là Mỹ
tục (thói quen đẹp), có cả những thói quen xấu, lạc hậu, không phù hợp nhưng chưa mất
đi gọi là những “Hủ tục”.
Trong các phong tục cổ truyền của người Việt, các nhà văn hoá học đã chia thành
các nhóm phong tục chủ yếu như: Nhóm phong tục theo vòng đời; Nhóm phong tục theo
chu kỳ thời gian; Nhóm phong tục theo tôn giáo, tín ngưỡng.
2.1.2. Những tập quán tiêu biểu
2.1.2.1. Tập quán ăn uống
Ăn uống là một tập quán được cư dân nông nghiệp Việt Nam coi trọng, trong dân
gian có câu: “Có thực mới vực được đạo”, hay “Trời đánh còn tránh miếng ăn”. Mọi hoạt

13
động của người việt đều quan trọng hoá cái ăn, lấy cái ăn làm đầu : ăn uống, ăn mặc, ăn
nói, ăn chơi, ăn tiêu....
 Nguyên liệu, cơ cấu bữa ăn:
Theo GS. Trần Quốc Vượng: Cơm + Rau + Cá + Thịt
+ Nguyên liệu được sử dụng trong bữa ăn hàng ngày của người Việt đầu tiên phải
kể đến lúa gạo. Về gạo Việt Nam có hai loại đó là gạo tẻ và gạo nếp, đồng thời trong bản
thân hai loại này cũng được chia ra làm nhiều nhóm gạo khác nhau. Gạo không chỉ được
nấu thành cơm để ăn mà người Việt còn có nhiều cách chế biến khác nhau từ nguồn
nguyên liệu này như: làm bánh, làm bún, mà ở các phiên chợ quê đâu đâu chúng ta cũng
thấy bắt gặp, bênh cạnh đó chúng còn góp phần hình thành nên đặc sản của các vùng
miền. Bánh đúc làng Kẻ (Từ Liêm- Hà Nội), bánh đa Lạng Côn- Đông Phương- Đại
Đồng, bánh gai Hải Dương…
+ Thực phẩm không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày của người Việt phải kể đến
rau. Với môi trường tự nhiên, cùng với khí hậu nóng ẩm nên Việt trong bữa ăn hàng ngày
thường sử dụng nhiều rau.
+ Nguồn thức ăn chiếm vị trí quan trọng, cung cấp chất dinh dưỡng cho con người
phải kể đến nguồn thực phẩm từ thủy sản. Đặc biệt, người Việt sử dụng cá nhiều hơn cả,
đối với cư dân vùng nhiều ao, hồ, sông, suối thì tập quán ăn cá nước ngọt là phổ biến.
Còn đối với cư dân sống ven biển thì tập quán sử dụng cá nước mặn là phổ biển. Từ
nguồn thủy hải sản này người Việt còn sáng tạo ra một loại nước chấm đặc biệt mà chỉ ở
Việt Nam của chúng ta mới có đó là nước mắm. Ở mỗi địa phương tùy kinh nghiệm, thói
quen trong việc sử dụng gia vị mà cho ra những loại nước mắm khác nhau như mắm cái,
mắm nước, mắm nhuyễn… Người Việt dùng mắm để chế biến thành nước chấm, dùng
chế biến thành các món mắm như mắm chưng, lẩu mắm, mắm kho, dùng để tẩm ướp các
loại gia vị trong quá trình chế biến món ăn.
+ Trong tiềm thức của người Việt xưa, thịt chỉ hay được sử dụng trong những
ngày cũng lễ, đình đám, hoặc đãi khách đến nhà. Thường người dân sử dụng thịt động vật
nuôi trong gia đình như: lợn, gà, ngan, vịt…
 Phương thức chế biến:
Từ phương thức chế biến món ăn bình thường như: ăn sống, ăn gỏi, ăn chín, ăn
nẩu, ăn nướng, ăn lùi, ăn nhúng, ăn vã, ăn liền, luộc, xào, rán, hấp… Có thể khẳng định,

14
người Việt có nhiều phương thức chế biến món ăn khác nhau tùy theo từng vùng mà có
những phương thức chế biến cho phù hợp.
- Gia vị: là thêm vào, vị có nghĩa là mùi vị, thêm vào cho tăng thêm mùi vị của thức ăn.
Từ rất sớm, người Việt đã nhận thấy tầm vai trò quan trọng của việc sử dụng gia vị trong
chế biến món ăn, trong văn hóa dân gian Việt Nam đã có sự đúc rút kinh nghiệm của cha
ông qua các bài đồng dao, ca dao, tục ngữ 7. Nguồn gia vị của Việt Nam rất phong phú và
đa dạng, chúng ta có những gia vị có nguồn gốc từ bản địa, gia vị có nguồn gốc từ ngoại
nhập: Các loại gia vị có nguồn gốc phương Tây như: hạt tiêu, cần tây; gia vị có nguồn
gốc từ châu Á như: xì dầu, tương, cà ri, hùng lìu…Các cây gia vị có nguồn gốc ở Việt
Nam như: hồi, quế, đinh hương, thảo quả, hành gừng, sả, hành, tỏi, tía tô, hẹ, chanh, dọc,
me, sấu, bỗng, dấm….
 Cách thức ăn uống:
- Cách ăn là sự kết hợp hài hòa âm dương: Thức ăn cũng có năm mức âm dương, ứng
với ngũ hành: hàn (lạnh, âm nhiều= thủy); nhiệt (nóng, dương nhiều=hỏa), ôn (âm,
dương ít=mộc), lương (mát, âm ít=kim), bình (trung tính= thổ). Cũng có khi các vị được
quy vào bảng tính chất trên như: cay thuộc nhiệt, chua và đắng thuộc bình hoặc ấm, mặn
thuộc ấm. Từ chỗ hiểu về âm dương nên trong cách chế biến và ăn uống người Việt biết
tuân thủ, kết hợp để cho âm dương hài hòa. Mục đích của việc kết hợp hài hòa âm dương
trong ăn uống là bồi bổ cho cơ thể.
- Cách ăn phù hợp với môi trường tự nhiên: Người Việt ăn uống cho cân bằng âm dương
giữa con người với môi trường tự nhiên. Do đó, người Việt có tập quán ăn uống theo
vùng khí hậu, theo mùa.
- Cách ăn của người Việt còn là sự hiểu biết về nguyên liệu: trong cách thức ăn uống còn
thể hiện người Việt Nam rất sành ăn, đó là việc chọn đúng bộ phận của những nguyên
liệu chế biến thức ăn, đúng chủng loại, đúng trạng thái có giá trị, đúng thời điểm để ăn.
 Dụng cụ trong ăn uống của người Việt: Đôi đũa, Mâm, Bát
 Văn hóa ăn uống:
Đối với người Việt bữa ăn có một vai trò quan trọng, bữa ăn thể hiện sự sum họp
và gắn kết giữa các thành viên trong gia đình với nhau. Bữa ăn không chỉ là đáp ứng nhu
cầu tồn tại của con người, mà nó còn là môi trường giáo dục, đó là sự kính trên nhường
7
Bài đồng dao phổ biến mà người Việt nào cũng biết “Con gà cục tác lá chanh/ Con lợn ủn ỉn mua hành
cho tôi/ Con chó khóc đứng khóc ngồi/ Bà ơi đi chợ mua tôi đồng riềng/ Con trâu ngó ngó, nghiêng
nghiêng/ Mình đã có riềng, để tỏi cho tôi”.

15
dưới, sự yêu thương đùm bọc giữa các thành viên với nhau, nơi học tập văn hóa ăn “học
ăn, học nói..” (Tính cộng đồng và tính mực thước)
 Đồ uống: chè (trà) và rượu
2.1.2.2. Tập quán trang phục
 Quan niệm: Người Việt Nam quan niệm: “ăn lấy chắc, mặc lấy bền; cơm ba bát,
áo ba manh, đói không xanh, rét không chết”; “người đẹp về lụa, lúa tốt về phân,
chân tốt về hài, tai tốt về hoa”; “cau già khéo bổ thì non, nạ dòng trang điểm lại giòn
hơn xưa”...
 Chất liệu may mặc: có nguồn gốc thực vật, là sản phẩm của nghề trồng trọt, cũng
là chất liệu may mặc mỏng, nhẹ, thoáng: Sợi đay, sợ gai, tơ chuối, sợi bông, tơ tằm...
 Cơ cấu trang phục: Trang phục gồm có đồ mặc phía trên, đồ mặc phía dưới, đồ
đội đầu, đồ đi chân và đồ trang sức phân biệt theo chủng loại và chức năng :
+ Đồ mặc phía dưới:
Đối với phụ nữ: Đồ mặc phía dưới tiêu biểu và ổn định hơn cả qua các thời đại là
cái váy. Váy có hai loại: váy mở, váy kín. Mặc váy mát, thích ứng được với khí hậu nóng
bức và phù hợp với công việc đồng áng.
Đối với nam giới: đồ mặc phía dưới ban đầu là chiếc khố. Khố là một mảnh vải dài
quấn một hoặc nhiều vòng quanh bụng và luồn từ trước ra sau. Khố mặc mát, phù hợp
với khí hậu nóng bức và dễ thao tác trong lao động, vì vậy, nó được duy trì từ thời Hùng
Vương cho đến khá lâu về sau. Đến khi chiếc quần thâm thâm nhập ngày càng mạnh vào
Việt Nam thì nam giới là bộ phận tiếp thu nó sớm nhất. Tiếp thu và cải biến linh hoạt
thành chiếc quần lá toạ: ống rộng và thẳng, đũng sâu, cạp quần to bản. Quần phù hợp với
khí hậu nóng bức do ống rộng và rất thích hợp với lao động đồng áng đa dạng: nhờ đũng
sâu nên ở mỗi loại ruộng khác nhau (ruộng cạn, ruộng nước, nước nông, nước sâu), người
ta có thể điều chỉnh cho ống quần cao hoặc thấp rất dễ dàng bằng cách kẹp cạp quần lên
hoặc xuống. Ngày lễ hội, nam giới dùng quần ống sớ: quần màu trắng, có ống hẹp, đũng
cao, gọn gàng, đẹp mắt.
+ Đồ mặc phía trên
Đối với phụ nữ: Đồ mặc phía trên ổn định nhất qua các thời đại là cái yếm: Yếm
trắng mà vã nước hồ/ Vã đi vã lại anh đồ yêu thương. Yếm có nhiều màu: yếm nâu để
mặc đi làm thường ngày ở nông thôn, yếm trắng mặc thường ngày ở thành thị; yếm hồng,
yếm thắm, yếm đào…mặc vào những ngày lễ hội. Yếm cùng với váy là trang phục phụ
nữ thường mặc với hai tay và lưng để trần, khi làm lụng, rất thích hợp với khí hậu nóng

16
bức. Cho đến nay, phụ nữ nhiều dân tộc ít người vẫn cởi trần, mặc váy. Dịp lễ hội, phụ
nữ thường mặc áo dài. áo dài phụ nữ phân biệt với áo tứ thân và năm thân. Áo tứ thân
may từ bốn mảnh vải, hai mảnh sau ghép liền ở giữa sống lưng, hai tà (vạt) đằng trước
khi mặc bỏ buông hoặc buộc thắt vào nhau. Áo năm thân cũng nhau như áo tứ thân, chỉ
có điều vạt trước phía trái may từ hai thân vải, thành ra rộng gấp đôi vạt phải, để bên
ngoài, gọi là vạt cả, đè lên vạt phải bên trong, gọi là vạt con. Xưa, cũng vào dịp này, phụ
nữ còn hay mặc áo mớ ba, mớ bảy, tức là nhiều áo cánh lồng vào nhau.
Đối với nam giới: Khi lao động, họ thường cởi trần như câu thành ngữ “cởi trần
đóng khố”. Trong sinh hoạt thường ngày, họ thường mặc áo ngắn. Dịp hội hè, đàn ông
thường mặc áo dài the đen. Giới thượng lưu thì mặc áo dài cả trong sinh hoạt hàng ngày.
Về màu sắc áo: phổ biến là các màu âm tính, phù hợp với phong cách truyền thống
ưa tế nhị, kín đáo. Miền Bắc là màu nâu gụ - màu của đất. Miền Trung là màu tím trang
nhã phù hợp với phong cách đế đô. Miền Nam là màu đen - màu của bùn. Trong lễ hội, phụ
nữ mặc áo dài màu thâm hoặc nâu bên ngoài, bên trong là các lớp áo cánh nhiều màu
dương tính hơn như vàng mỡ gà, hồng cánh sen. Càng về sau, do ảnh hưởng của phương
Tây, màu sắc trang phục trở nên đa dạng hơn. Tuy nhiên, theo quan niệm của người Việt
Nam, màu hồng và màu đỏ vẫn là màu của sự tốt đẹp. Vì thế, trong các cuộc vui, đám cưới,
đám hỏi, mừng tân gia những màu này vẫn được chuộng dùng.
+ Đồ đội đầu
Thường là chiếc khăn. Phụ nữ để tóc dài, vấn tóc bằng một mảnh vải dài cuộn lại
để trên đầu, đuôi tóc chừa ra một ít gọi là đuôi gà. Phủ ra ngoài là cái khăn vuông, chít
hình mỏ quạ vào mùa lạnh; hoặc hình đồng tiền vào mùa nóng.
Đàn ông trước đây để tóc dài búi tròn trên đầu gọi là búi tó. Người Nam Bộ
thường đội khăn rằn.
Bên cạnh chiếc khăn là chiếc nón: nón chóp, nón thúng, nón ba tầm. Đặc điểm của
nón là rộng vành (để chống nắng) và có mái dốc (để thoát nước nhanh, che mưa) để ứng
phó lại với thời tiết nắng lắm, mưa nhiều ở Việt Nam. Các loại nón đều phải có quai để
giữ; quai thao là loại phổ biến hơn cả. Xuất hiện muộn hơn sau này là mũ, đội ôm sát đầu
và kín tóc.
+ Đồ trang sức
Từ thời Hùng Vương, người Việt đã rất thích đeo vòng: vòng tai, vòng cổ, vòng
tay, vòng chân. Thời bấy giờ, họ còn xăm mình, nhuộm răng đen, ăn trầu và nhuộm
móng tay móng chân; vừa để có tác dụng bảo vệ, chữa bệnh vừa để làm đẹp. Ngoài ra đồ

17
trang sức còn có tác dụng như một thứ trang sức để thể hiện quyền uy, làm tài sản của cá
nhân hoặc tài sản để lại cho con cháu.
+ Đồ thắt lưng
Ban đầu có mục đích giữ cho đồ mặc dưới khỏi tuột (có thể là một sợi dây, gọi là
dải rút) rồi phát sinh thêm mục đích giữ áo dài cho gọn và tôn thêm vẻ đẹp của phụ nữ.
Phụ nữ còn dùng thắt lưng bao để làm túi đựng đồ vặt (tiền, trầu cau). Giờ đây, thắt lưng
dành cho nam và nữ đều rất phong phú về chủng loại và màu sắc với chức năng trang trí
là chủ yếu.
2.1.2.3. Tập quán ở (nhà cửa)
Ngôi nhà, đối với người Việt Nam là đặc biệt quan trọng, đảm bảo cho họ một
cuộc sống định cư ổn định.
- Cấu trúc nhà:
Cấu trúc nhà được khái quát trong câu thành ngữ “nhà cao cửa rộng”, với mục
đích ứng phó với tự nhiên.
Nhà cao tức là sàn nhà, nền nhà cao hơn mặt đất để ứng phó với lụt lội, ẩm ướt,
côn trùng. Nhà cao còn là mái cao và rộng hơn so với sàn và nền nhà, nhằm tạo khoảng
không gian rộng, thoáng mát, chống nắng nóng. Mái cao nhưng còn phải dốc để thoát
nước mưa nhanh, tránh dột, tránh mục nát mái.
Cửa rộng để tránh nắng xiên vào nhà, tránh mưa hắt mà vẫn đón được gió mát,
tránh gió độc, gió mạnh.
- Việc chọn hướng nhà, chọn đất:
Khi dựng nhà để ở do đặc điểm địa hình và khí hậu nước ta: phía Đông giáp biển,
phía Tây thì núi, khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa cho nên hướng Nam đón được hướng gió
mát lành vào mùa Hạ, tránh được cái gió bấc lạnh thấu xương vào mùa Đông, cái nắng
cháy và gió Lào khô nóng từ phía Tây thổi lại, gió bão từ biển Đông thổi về. Nhận thức
điều đó, ông cha ta đã đúc kết: Lấy vợ hiền hòa, làm nhà hướng Nam.
Quan niệm làm nhà hướng Nam ta cũng bắt gặp trong câu ca ở Nam Bộ: Cất nhà
quay cửa vô Nam / Quay lưng về chướng không làm cũng có ăn.
Chọn đất: tuỳ thuộc vào địa hình, vào nhiều yếu tố khác như đường xá, sự có mặt
của núi, của sông mà ảnh hưởng đến việc chọn hướng nhà. Nên để giải quyết việc làm
nhà triệt để hơn, nhân dân ta thường chú ý nhiều đến việc chọn đất. Chọn đất theo luật
phong thuỷ. Phong tức là gió, gió động nên thuộc dương; không có gió thì không được

18
những gió nhiều quá cũng không tốt do vậy cần phải nắm hướng gió khi chọn đất làm
nhà. Thuỷ là nước, tĩnh hơn nên thuộc âm. Mặt nước trước nhà sẽ tạo nên sự cân bằng
sinh thái cho ngôi nhà; nước đọng thì tù, không tốt nhưng nước chảy mạnh quá cũng
không nên. Vì vậy mà âm dương điều hoà là tốt nhất, nước chảy từ từ.
Người Việt Nam nông nghiệp trọng cộng đồng nên trong việc chọn nơi ở còn chú
ý chọn hàng xóm láng giềng; chọn cả vị trí giao thông sao cho đi lại, buôn bán thuận tiện:
“nhất cận thị, nhị cận lân, tam cận giang, tứ cận lộ, ngũ cận điền”.
- Bố trí sắp đặt trong ngôi nhà:
Môi trường sông nước phản ánh qua cách làm nhà sàn với vách nghiêng và mái
cong hình thuyền. Tính cộng đồng thể hiện ở việc trong nhà không chia thành nhiều
phòng nhỏ biệt lập như phương Tây; giữa hai nhà hàng xóm với nhau thì chỉ ngăn cách
bằng rặng cây (dâm bụt, mùng tơi).
Ngôi nhà được thiết kế gian giữa là phòng khách, phía trong, nơi trang trọng nhất
đặt bàn thờ tổ tiên, phía ngoài là bộ bàn ghế tiếp khách. Chi tiết này xuất phát từ truyền
thống coi trọng tổ tiên và truyền thống hiếu khách.
Hình thức kiến trúc ngôi nhà Việt Nam tuân thủ theo nguyên tắc coi trọng số lẻ:
cổng tam quan; bậc tam cấp, nhà có ba gian, năm gian; các kiến trúc lớn theo lối tam toà.
Các toà thành có ba vòng (Cổ Loa, Huế). Cổng Ngọ môn nhìn chính diện có 3 cửa, thêm
hai cửa phụ hai bên thành năm. Số gian ngôi nhà, số bậc của lối đi bao giờ cũng là lẻ (lẻ
là số dương = động = dành cho người sống). Còn nhà cho người chết ở Tây Nguyên, Việt
Bắc thì làm cầu thang có số bậc chẵn, chẵn là số âm = tĩnh = chết).
Tóm lại, trong việc ở của người Việt Nam thể hiện rất rõ ý muốn hướng tới một
cuộc sống hài hoà và chịu sự chi phối của triết lý âm dương.
2.1.2.4. Tập quán đi lại
Xã hội Việt Nam cổ truyền, do bản chất nông nghiệp định cư nên con người rất ít
có nhu cầu di chuyển, có đi thì đi gần nhiều hơn đi xa. Nên phương tiện vận chuyển
truyền thống ngoài sức trâu, ngựa, voi thì phổ biến là đôi chân; quan lại thì di chuyển
bằng cáng, kiệu.
Hoạt động đi lại chủ yếu của người nông nghiệp Việt Nam là đi gần, từ nhà ra
đồng, từ nhà lên nương; mà ruộng nước và nương rẫy là nơi không thể đưa xe tới được
nên họ dùng sức người mà vận chuyển mọi thứ. Vì vậy mà ở nước ta, lượng từ chỉ hoạt
động vận chuyển bằng sức người hết sức phong phú và đa dạng. Từ mang được hiểu theo

19
nghĩa khái quát còn mang trong bàn tay là cầm, mang gọn trong bàn tay thì là nắm, mang
trong tay qua trung gian sợi dây là xách, sợi dây dài chạm đất là kéo, mang bằng hai tay
một vật nặng là bê, mang gọn trong lòng bằng hai tay là ôm; mang trên lưng một vật là
gùi, một người là cõng; mang ở nách là cắp, cặp; mang trên đầu là đội; mang trên vai là
vác, hai người cùng mang trên vai một vật nặng là khiêng v.v..
Phương tiện đi lại phổ biến hơn cả từ bao đời nay của người Việt Nam là bằng
đường thuỷ. Chính đặc điểm là vùng sông nước với hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng
chịt và bờ biển rất dài là nguyên nhân của hệ quả trên.
Trong khi phương Bắc gốc du mục di chuyển bằng ngựa thì thuyền lại là phổ biến
ở phương Nam sông nước. Phương tiện giao thông và chuyên trở trên sông của Việt Nam
hết sức phong phú: thuyền, ghe, xuồng, bè, mảng, phà, tầu.
Sông ngòi nhiều nên giao thông đường thuỷ phát triển mạnh là vậy nhưng chính
đặc điểm tự nhiên ấy lại khiến cho giao thông đường bộ gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, mà
ở Việt Nam sớm xuất hiện những chiếc cầu (cầu phao, cầu thuyền) bắc qua những đoạn
sông, giúp cho việc đi lại, vận chuyển trên bộ được thuận lợi hơn. Cũng vì thế, Việt Nam
được biết đến là một trong những nước biết làm cầu phao, cầu tre sớm nhất thế giới.
Hình ảnh sông nước ăn sâu vào tâm khảm người Việt Nam đến độ mọi mặt sinh
hoạt đều lấy con thuyền và sông nước làm chuẩn mực:
Nói về kinh nghiệm làm ăn: ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau.
Nói về ý chí nghị lực: chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo.
Nói về quan hệ vợ chồng, tình yêu: thuyền theo lái, gái theo chồng; thuyền về có
nhớ bến chăng, bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
Không những thế, hình ảnh sông nước và con thuyền còn được xem như có linh
hồn. Thể hiện rõ trong những phong tục Việt Nam: Tục vẽ mắt thuyền, người ta tin rằng
con mắt ấy sẽ giúp cho thuyền tránh khỏi thuỷ quái, tránh được những nỗi nguy hiểm đe
doạ ngư dân khi đi biển; giúp họ tìm được nhiều cá tôm.
2.1.3. Một số phong tục chủ yếu
2.1.3.1. Phong tục hôn nhân
- Hôn nhân xưa kia:
Hôn nhân của người Việt Nam truyền thống xuất phát từ quyền lợi gia tộc, làng
xã; cuối cùng, mới đến nhu cầu riêng tư của chàng trai và cô gái. Do những quy định
nghiêm ngặt của xã hội phong kiến theo tư tưởng Nho giáo, “nam nữ thụ thụ bất thân”,

20
quan niệm “môn đăng hộ đối”...vì thế trong hôn nhân xuất hiện bà mối, các tiêu chuẩn
chọn vợ, kén chồng: “Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống”, “Đàn bà thắt đáy lưng ong/
Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con”, quan niệm “tam tòng, tứ đức”.
Tục nộp cheo: Nhân dân ta có câu: Nuôi lợn thì phải vớt bèo/ Lấy vợ thì phải nộp
cheo cho làng; Lấy vợ mười heo/ Không cheo cũng mất...để khẳng định một phương diện
kinh tế trong hôn nhân: đó là khi láy nhau đôi trai gái phải nộp một khoản lệ phí gọi là
cheo cho làng thì mới được coi là hợp pháp. Những lệ phí này được dùng cho những
công việc mang tính cộng đồng của làng xã.
Về cách thức tiến hành hôn lễ, một hôn lễ cổ thường gồm 6 nghi thức - gọi là 6 lễ
cổ:
- Nạp thái (kén chọn): là đưa lễ tỏ ý đã kén chọn, tục gọi là chạm mặt hay giạm
vợ.
- Vấn danh (hỏi vợ): hỏi tên tuổi, ngày sinh tháng đẻ của người con gái định
cưới hay làm vợ.
- Nạp cát: lễ này có nghĩa là nhà trai đã coi bói được một quẻ tốt về hôn nhân
của đôi trai gái, rồi làm lễ cáo trước bàn thờ tổ tiên rằng hai tuổi của đôi trẻ đã
hợp, có thể thành hôn được. Sau đó nhà trai đưa lễ vật tượng trưng và thông
báo cho nhà gái biết.
- Thỉnh kì (định ngày): là lễ mà nhà trai hứa cưới và xin nhà gái định ngày làm
lễ cưới lựa theo ngày tháng tốt xấu.
- Nạp tệ (đưa lễ cưới): nhà trai đưa sính lễ đến nhà gái.
- Thân nghinh: lễ rước dâu về nhà trai.
Ngoài sáu lễ bắt buộc trên, cô dâu chú rể còn phải làm lễ hợp cẩn và lễ lại mặt. Lễ
hợp cẩn là cô dâu chú rể cùng uống với nhau một chén rượu và ăn với nhau bữa cơm
chung đầu tiên. Lễ lại mặt là nhà trai đem xôi, lợn, sang lễ từ đường nhà gái sau khi hôn
lễ cử hành được một hoặc ba ngày.
Ngoài ra, trong hôn nhân xưa thường có một số tục như: trước cửa nhà trai thường
đặt một lò than hồng, cô dâu phải bước qua đó, nhằm mục đích đốt hết vía dữ mà cô dâu
gặp trên đường. Nhiều nơi còn có tục chăng dây. Khi gặp dây chăng, cụ già đi đầu đoàn
rước thường cho bọn trẻ chăng dây ít tiền xu, tiền lẻ để chúng tháo dây ra. Tránh để đoàn
đi qua, làm đứt dây là điềm báo đôi vợ chồng “đứt gánh giữa đường”.

21
Tục mẹ chồng cầm bình vôi lánh sang nhà hàng xóm: trong gia đình nông nghiệp,
người phụ nữ được xem là nội tướng; người mẹ chồng lánh đi là có ý nhường quyền nội
tướng tương lai cho con dâu để cho gia đình thuận hoà. Nhưng đó là tương lai, còn hiện
tại thì chứ nên mẹ chồng mới ôm theo bình vôi - biểu tượng quyền lực của phụ nữ.
- Hôn nhân ngày nay:
Hôn nhân Việt Nam có nhiều cải biến và cũng là cho phù hợp với xã hội hiện đại.
Hôn lễ dành nhiều sự thoải mái cho đôi trai gái và chuyện kết nối thông gia cũng không
nặng nề, câu nệ theo phép tắc cũ. Hôn lễ được tiến hành theo các lễ tục:
- Lễ chạm ngõ
- Lễ ăn hỏi
- Lễ rước dâu
2.1.3.2. Tang ma
- Quan niệm: Trong việc tang ma, người Việt Nam tồn tại hai quan niệm: một mặt là
quan niệm có tính triết lý cho rằng sau khi chết, linh hồn sẽ về thế giới bên kia nên tang
ma được xem như việc đưa tiễn; mặt khác là quan niệm trần tục coi chết là hết nên việc
tang ma là việc xót thương.
- Các nghi lễ khi cử hành tang lễ, phải tuân thủ một số những nghi thức:
+ Tục đặt tên Hèm
+ Tục hạ tịch
+ Tục gọi hồn
+ Lễ mộc dục
+ Lễ phạm hàm
+ Lễ khâm liệm
+ Lễ nhập quan
+ Lễ thiết linh
+ Lễ thành phục
+ Lễ phát dẫn
+ Lễ chung thất
+ Lễ Thốt khốc
+ Lễ cải táng
+ Lễ cúng giỗ hàng năm
- Phong tục tang ma thấm nhuần sâu sắc tinh thần triết lý âm dương Ngũ hành.

22
Về màu sắc: tang lễ truyền thống dùng màu trắng là màu của hành Kim (hướng
tây) theo Ngũ hành. Hướng tây được xem là xấu. Mọi thứ như: nơi để mồ mả của người
Việt Nam thường là hướng tây của làng; người dân tộc xem rừng phía tây là rừng của ma
quỷ.
Sau màu trắng là màu đen (màu của hành Thuỷ, phương bắc theo Ngũ hành). Chỉ
khi chắt, chút để tang cụ, kị là tốt bởi đó là bằng chứng việc các cụ sống lâu thì mới dùng
các màu tốt như màu đỏ (phương nam) và vàng (trung ương).
Về loại số, theo triết lý âm dương, âm ứng số chẵn, dương ứng số lẻ. Vì vậy, mọi
thứ liên quan đến người chết (âm) đều phải là số chẵn: lạy trước linh cữu phải 2 hoặc 4
lạy; ở nhà mồ của các dân tộc miền núi, cầu thang phải làm với số bậc chẵn; hoa cúng
người chết cũng phải dùng số chẵn.
Cũng theo quy luật âm dương là việc phân biệt tang cha và tang mẹ. khi con trai
chống gậy để tang thì cha gậy tre, mẹ gậy vông. Đó là vì thân tre tròn (+), cành vông đẽo
hình vuông (-). Đưa tang và để tang còn có tục cha đưa, mẹ đón (tang cha đi sau quan tài,
tang mẹ đi giật lùi phía đầu quan tài) và tục áo tang cha thì mặc trở đằng sống lưng ra,
tang mẹ mặc trở đằng sống lưng vào: hai tục này thể hiện triết lý âm dương qua cặp
nghĩa: hướng ngoại (dương, cha) và hướng nội (âm, mẹ).
2.2. Tôn giáo, tín ngưỡng
2.2.1. Khái niệm
Tôn giáo và tín ngưỡng là hai thuật ngữ dùng để chỉ về những loại hình tổ chức hoạt
động trong lĩnh vực đời sống tâm linh của con người trong xã hội. Chúng ta có thể khẳng
định với nhau rằng: cơ sở của mọi loại hình tôn giáo, tín ngưỡng chính là yếu tố niềm tin
trong mỗi con người. Niềm tin đó là một kiểu, dạng niềm tin khá đặc biệt trong đời sống
tình cảm của họ, đó là niềm tin ngưỡng vọng vào cái gì đó rất thiêng liêng, rất siêu nhiên
(khác với cái trần tục hiện hữu mà ta có thể thấy được), hay nói cách khác đó là niềm tin
vào cái thiêng. Tuy nhiên, niềm tin vào cái thiêng đó cũng có thể được phân loại theo
nhiều cấp độ khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi dân tộc,
mỗi địa phương, vùng miền và quốc gia mà chúng được thể hiện dưới các dạng thức tôn
giáo và tín ngưỡng khác nhau.

Chính vì vậy, sau đây chúng ta có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản để so sánh, phân biệt
giữa hai loại hình tôn giáo và tín ngưỡng như sau:

23
Tôn giáo Tín ngưỡng

 Về giáo lý: Có hệ thống giáo lý, kinh  Về giáo lý: Chưa có hệ thống giáo lý
điển thể hiện quan điểm về vũ trụ quan bài bản, hoàn chỉnh và thống nhất (có
và nhân sinh quan và được truyền dạy chăng chủ yếu được biểu hiện qua các
thông qua việc học tập bài bản ở các tu huyền thoại, thần tích hoặc truyền
viện, thánh đường) thuyết dân gian)

 Về tổ chức: Có tổ chức giáo hội, giáo  Về tổ chức: Chưa có giáo hội, giáo
đoàn quy củ, chặt chẽ từ trên xuống đoàn quy củ, chặt chẽ. Có chăng chỉ
dưới, thể hiện bằng các vị trí cấp bậc được hình thành theo lối tự phát, tự
chức sắc được tổ chức tấn phong phong và đặc biệt là chưa có tính liên
kết của một tổ chức hội đoàn

 Về nơi thờ cúng và nghi lễ: Có nơi  Về nơi thờ cúng và nghi lễ: Cũng có
thờ cúng riêng (Thánh đường, nhà thờ, nơi thờ cúng nhưng còn mang tính tự
chùa) Có điện thờ và hệ thống thần phát, riêng lẻ, phân tán. Nghi lễ thờ
điện rõ ràng, được biểu hiện dưới dạng cúng chưa thành quy ước chặt chẽ.
đa thần hay nhất thần giáo. Nghi lễ thờ
cúng chặt chẽ, bài bản.

 Về thần chủ: Đã có sự tách biệt rõ  Về thần chủ: Còn có sự hòa nhập giữa
ràng về thế giới thần linh và con thế giới thần linh và con người, chưa
người và xuất hiện hình thức cứu mang tính cứu thế.
thế

 Về mức độ phổ quát: được phát  Về mức độ phổ quát: hình thành và
triển ở diện rộng, mang tính siêu phát triển ở mức độ địa giới hẹp hơn
dân tộc, quốc tế (vùng, miền), chưa mang tính siêu dân
tộc mà mới dừng lại ở những sinh hoạt
mang tính chất dân gian và thường gắn
với đời sống của những người nông
dân.

24
2.2.2. Tôn giáo
Ở Việt Nam hiện nay có 12 tôn giáo được Nhà nước công nhận chính thức và đang
hoạt động một cách hợp pháp đó là: Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hồi giáo,
Phật giáo Hòa Hảo, Tịnh độ cư sĩ Phật hội, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, đạo Ba’hai, Minh Chơn
đạo, Minh Lý đạo, Bửu Sơn Kỳ Hương, với 32 tổ chức giáo hội, hội thánh. Tổng số
người theo các tôn giáo ở Việt Nam vào khoảng trên 20 triệu tín đồ (chiếm gần 25% dân
số cả nước), trong đó có trên 85.000 chức sắc, nhà tu hành và trên 26.000 cơ sở thờ tự ở
hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước.
2.2.2.1. Phật giáo

- Sự ra đời và nội dung cơ bản của Phật giáo:


Phật giáo là một tôn giáo được Thích Ca Mâu Ni 8 (Shakyamuni hay gọi theo phiên
âm Hán – Việt là Tất-đạt-đa Cồ đàm - Siddhārtha Gautama: có nghĩa là người đã hoàn tất
được ý nghĩa của cuộc sống) sáng tạo vào thế kỷ thứ 6 TCN. Ngoài tên gọi Thích Ca
Mâu Ni, ông còn được gọi theo tên dân gian là Bụt (ông Bụt) theo phiên âm từ tiếng
Buddha, hay Phật đà theo phiên âm Hán – Việt (Buddha: có nghĩa là người giác ngộ)

Ông sinh vào khoảng năm 624 TCN trong một gia đình hoàng tộc dòng họ Thích Ca
(Thích Ca hay Shakya là tên dòng họ quý tộc) tại vương quốc Ca-tì-la-vệ (Kapilavastu –
vương quốc cổ thuộc một phần Đông Bắc Ấn Độ và một phần vùng đất miền Trung nằm
về phía Nam của Nê Pan ngày nay). Ông là thái tử con vua Tịnh Phạn (Suddhodana) và
mẹ là hoàng hậu Maya (Mayadevi).

Nội dung chủ yếu của học thuyết Phật giáo được tóm tắt trong câu nói của Phật
Thích Ca: “Trước đây và ngày nay ta chỉ lý giải và nêu ra cái chân lý về nỗi đau khổ và
sự giải thoát khỏi nỗi đau khổ”, “Cũng như nước đại dương chỉ có một vị là mặn, học
thuyết của ta chỉ có mục đích là cứu vớt”. Chân lý về nỗi khổ đau và sự giải thoát khỏi
nỗi khổ đau ấy được thể hiện trong thuyết “Tứ diệu đế” (Bốn chân lý huyền diệu) mà
Phật Thích Ca giảng lần đầu tiên ở vườn Lộc uyển, gần thành Benares ở Ấn Độ sau khi
Phật mới đắc đạo. Đó cũng là nội dung mà Phật nhắc lại trước khi tịch. Bốn chân lý giải
thích bản chất của sự đau khổ trong cuộc sống và cách thức tận diệt các đau khổ đó để
được an lạc, hạnh phúc, thái bình mãi mãi. Bốn chân lí đó được thể hiện trong 4 tập là:

8
Sakya là một dòng họ quý tộc cung đình ở Ấn Độ thời đó; còn Muni có nghĩa là một vị thánh.

25
Khổ đế: là nói về các nỗi khổ của chúng sinh. Theo Phật, con người có tám nỗi
khổ. Đó là: sinh, lão, bệnh, tử, gần kẻ mình không ưa, xa người mình yêu, cầu mà không
được và giữ lấy năm uẩn. Năm uẩn tức là sắc, thụ, tưởng, hành, thức. Đó là những cảm
nhận của con người đối với thế giới bên ngoài. Con người nếu không biết cảm nhận thế
giới bên ngoài thì sẽ ít khổ hơn, trái lại, vì những cảm nhận đó mà càng chuốc thêm khổ
đau. Người ta thường cho rằng chết là hết khổ, nhưng đạo Phật quan niệm bản thân cái
chết cũng là một sự đau khổ chứ không phải là một sự giải thoát. Đau khổ là một hiện
thực, không nên chạy chốn và phớt lờ nó, nhưng ngược lại cũng không nên cường điều
nó quá mức. Muốn đoạn tuyệt với đau khổ thì trước tiên phải biết thừa nhận sự hiện hữu
của nó trong cuộc sống.
Tập đế (Nhân đế): chân lí về nguyên nhân dẫn đến các nỗi khổ trong cuộc sống,
đó là tham ái, chấp hận, si mê, chấp thủ. Nguồn gốc sâu sa của các nỗi khổ trong sinh tử
luân hồi chủ yếu là do vô minh và ái dục tạo nên. Nguyên nhân nỗi khổ của chúng sinh
trong vòng sinh tử luân hồi được biểu hiện ra bằng thuyết Thập nhị nhân duyên sau (12
nhân duyên): Vô minh sinh Hành; Hành sinh Thức; Thức sinh Danh sắc; Danh sắc sinh
Lục nhập (căn); Lục nhập sinh Xúc; Xúc sinh Thụ (Thọ); Thụ sinh Ái; Ái sinh Thủ; Thủ
sinh Hữu; Hữu sinh Sinh (Sanh); Sinh sinh Lão (Tử).

Diệt đế: chân lí về diệt khổ để đạt được sự yên vui, hạnh phúc khi đoạn tuyệt được
với những ham muốn bản năng trong mỗi con người và con đường học tập, tu dưỡng để
có trí tuệ chấm dứt sự vô minh – là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến sinh tử luân hồi.

Đạo đế: chân lí về cách thức học tập, tu luyện để đi đến con đường diệt (đoạn
tuyệt) khổ. Con đường diệt khổ được thể hiện ra bằng 8 điều/nhánh hay còn gọi là Bát
chánh/chính đạo: Chính kiến; Chính tư duy; Chính ngữ; Chính nghiệp; Chính mạng;
Chính tinh tấn; Chính niệm; Chính định.

Về giới luật, tín đồ Phật giáo, nhất là các tăng ni phải kiêng kị 5 điều, gọi là ngũ
giới:
- Không sát sinh
- Không trộm cắp
- Không tà dâm
- Không nói dối

26
- Không uống rượu9
Về thế giới quan, nội dung cơ bản của học thuyết Phật giáo là thuyết Duyên khởi.
Duyên khởi là nói tắt của câu “Chư pháp do nhân duyên nhi khởi”, nghĩa là các Pháp đều
do nhân duyên mà ra. Mọi vật đều do nhân duyên mà thành. Sách Phật nói: “Vật này có
cho nên vật kia có, cái này không thì cái kia cũng không; vật này sinh cho nên vật khác
sinh, cái này diệt thì cái kia cũng diệt”. Câu này của đạo Phật có nghĩa là mọi vật đều có
liên quan mật thiết với nhau, không có một thực thể nào tồn tại riêng biệt.
Nhưng Duyên khởi do đâu mà có? Học thuyết Phật giáo giải thích rằng Duyên khởi
do Tâm mà ra. Như thế, Tâm là nguồn gốc của Duyên khởi, tức cũng là nguồn gốc của vạn
vật. Do quan niệm Duyên khởi sinh ra vạn vật nên đạo Phật chủ trương Vô tạo giả, Vô ngã,
Vô thường.
Vô tạo giả là không có vị thần linh tối cao tạo ra vũ trụ. Đây là một nội dung cơ
bản mà đạo Phật chống lại đạo Balamon, và cũng là sự khác biệt quan trọng giữa đạo
Phật với nhiều tôn giáo khác như đạo Do Thái, đạo Kitô, đạo Islam.
Vô ngã là nội dung quan trọng thứ hai mà đạo Phật khác với đạo Balamon. Đạo
Balamon cho rằng mỗi con người đều có bản ngã, hay nói đơn giản, đó là linh hồn. Đạo
Phật thì cho rằng không có cái gì chỉ có một mình, tức là không có nhân và duyên mà có
thể tồn tại mãi được. Do vậy, không thể có bản ngã tồn tại và cũng không có linh hồn bất
tử.
Vô thường là mọi sự vật luôn biến đổi và tiêu diệt trong chốc lát.
Như vậy, về thế giới quan, Phật giáo ban đầu chủ trương vô thần nhưng là duy tâm
chủ quan. Đạo Phật ban đầu là một học thuyết khuyên người ta từ bỏ dục vọng, tránh
điều ác, làm điều thiện để được giải thoát chứ không thừa nhận thượng đế và các vị thần
bảo hộ, do đó không cần nghi thức cúng bái và tất nhiên, tầng lớp thầy cúng cũng không
có cơ sở để tồn tại.
Lịch sử phát triển Phật giáo trải dài suốt mấy chục thế kỷ đã có sự biến đổi nhiều so
với ban đầu khi Đức Phật còn hiện diện. Sau khi Thích Ca nhập niết bàn, các đồ đệ đã
phát triển mở rộng giáo lí của Ngài với nhiều quan điểm khác nhau. Đây chính là lí do
cho sự ra đời nhiều tông phái Phật giáo mà ngày nay ta thấy được.
9
Không sát sinh là không được giết người, còn giết các động vật thì luật cấm không khắt khe lắm. Ban đầu, Phật
giáo không cấm tín đồ ăn thịt. Tục lệ tín đồ (nhất là các tăng ni) phải ăn chay, không được ăn mặn là do vua Lương
Vũ Đế (502 – 549) ở Trung Quốc đặt ra vào thời kì đạo Phật thịnh hành ở nước này. Giới luật cấm không tà dâm,
lúc đầu chỉ cấm quan hệ tình dục với người không phải là vợ chồng chứ không cấm lấy vợ, lấy chồng. Về sau, đến
Phật giáo Đại thừa, những giới luật này mới trở nên nghiêm ngặt. Giờ đây, giới luật không sát sinh là cấm không
được giết tất cẩ các loại động vật, không tà dâm là tuyệt đối cấm mọi hành vi tình dục.

27
- Quá trình du nhập Phật giáo vào Việt Nam:
Theo đường biển thì các nhà sư Ấn Độ đã đến Việt Nam ngay từ đầu công nguyên.
Luy Lâu trị sở của quận Giao Chỉ, đã sớm trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng.
Tại đây, đã diễn ra quá trình truyền giáo của nhà sư Khâu đà la (ông đã đến Luy Lâu
khoảng những năm 168-169), đã xuất hiện truyền thuyết Phật giáo Việt Nam đầu tiên
giữa nhà sư Khâu đà la với Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu, gắn với tín
ngưỡng thờ Tứ pháp: Pháp Vân (nữ thần mây); Pháp Vũ (nữ thần mưa); Pháp Lôi (nữ thần
sấm); Pháp Điện (nữ thần chớp)10.
Từ trung tâm Luy Lâu này đã có những nhà sư Ấn Độ như Maha- kỳ- vực hay
như Khương Tăng Hội (người gốc Trung Á) sau khi xuất gia tu hành theo Phật giáo, đã
đi sâu vào lãnh thổ Trung Hoa truyền đạo. Phật giáo được du nhập vào VN trước (dẫn
liệu: Sau này, có lần trả lời vua Tùy Văn Đế về tình hình Phật giáo xứ Giao Châu, nhà
sư Trung Quốc Đàm Thiên (người gốc Trung Á) đã tâu rằng “Xứ Giáo Châu có đường
thông sang Thiên Trúc. Phật giáo truyền vào Trung Hoa chưa phổ cập đến Giang Đông
mà xứ ấy đã xây ở Luy Lâu hơn 20 bảo tháp, độ được 500 vị tăng và dịch được 15 bộ
kinh rồi. Thế là xứ ấy theo Đạo phật trước nước ta”.
Cũng do Phật giáo du nhập từ Ấn Độ vào Việt Nam ngay từ đầu công nguyên nên
từ “Buddha” đã được phiên âm trực tiếp từ tiếng Phạn sang tiếng Việt thành Bụt 11. Phật
giáo Giao châu lúc này mang màu sắc Tiểu Thừa Nam Tông. Trong con mắt của người
Việt thì Bụt được hình dung như là vị Thần dân dã toàn năng có mặt ở khắp mọi nơi,
luôn sẵn sàng giúp đỡ dân lành và trừng trị kẻ ác.
Sau này, đến thế kỷ IV- V lại có thêm luồng ảnh hưởng Phật giáo Đại Thừa Bắc
Tông từ Trung Hoa tràn vào. Cùng với quá trình phát triển nó đã lấn áp và thay thế cho
luồng Nam Tông có từ trước. Từ Trung Hoa có ba tông phái được truyền bá vào Việt
Nam: Thiền tông, Tịnh độ tông, Mật tông…
Do thâm nhập một cách hòa bình, ngay từ thời Bắc thuộc, Phật giáo đã phổ biến
rộng khắp. Khi Lý Bí lên ngôi vua năm 544 đã cho dựng chùa Khai Quốc (tiền thân của
chùa Trấn Quốc- Hà Nội).
Đến thời kỳ Lý- Trần, Phật giáo Việt Nam phát triển đến mức cực thịnh.

10
Tại huyện Thuận Thành-Bắc Ninh ngày nay hiện còn có các Chùa Dâu thờ Pháp Vân; Chùa Đậu thờ Pháp Vũ (đã
bị phá hủy thời chiến tranh, ngày nay tượng thờ Bà Đậu được mang về thờ chung ở chùa Dâu; Chùa Tướng thờ Pháp
Lôi; Chùa Dàn thờ Pháp Điện; Chùa Tổ thờ Phật Mẫu Man Nương.
11
Sau này, vào thế kỷ thứ IV - V, do ảnh hưởng của Phật giáo nhà Hán từ Trung Quốc mà xuất hiện từ Phật dùng để
chỉ Thích Ca vì trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành "Phật đà", rồi sau được rút gọn hơn thành từ "Phật".

28
Sang thời Lê, nhà nước tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo, Phật giáo dần dần bị
suy thoái. Song nó tồn tại và phát triển bám rễ vào cơ tầng văn hóa truyền thống bản địa
Việt Nam như là một thành tố văn hóa quan trọng của dân tộc.
Đầu thế kỷ XVIII, vua Quang Trung đã rất quan tâm chấn hưng Phật giáo, xuống
chiếu chỉnh đốn việc cất chùa, cho xây các chùa lớn đẹp, chọn các tăng nhân có học thức
và đạo đức trông coi chùa, song nhà vua mất sớm nên công việc này ít thu được kết quả.
Đầu thế kỷ XX đứng trước trào lưu Âu hóa và những biến động mọi mặt của đất
nước do sự giao lưu với văn hóa phương Tây, phong trào chấn hưng Phật giáo được dấy
lên…
Hiện nay ở Việt Nam tồn tại song song hai phái lớn Phật giáo đó là phái Tiểu
Thừa (hay còn gọi là Phật giáo Nam Tông) và Đại Thừa (hay còn gọi là Phật giáo Bắc
Tông). Phái Nam Tông chủ yếu xuất hiện tại khu vực miền Nam trong cộng đồng của
đồng bào Khơ Me. Phái Đại Thừa thì được phát triển phổ biến tại các khu vực miền
Trung và miền Bắc Việt Nam với nhiều tông phái như Thiền tông, Tịnh Độ tông và Mật
tông12. Thiền Tông Việt Nam được truyền đến từ Trung Quốc ở hai giai đoạn khác nhau,
đó là dòng Thiền do nhà sư Tì-Ni-Đà-Lưu-Chi (Vinitaruci) truyền vào năm 580 và dòng
Thiền do nhà sư Vô Ngôn Thông truyền vào năm 820 13. Đến thời Lý có thêm dòng Thiền
Thảo Đường, thời Trần có thêm dòng Thiền Trúc Lâm. Như vậy, ở Việt Nam, lịch sử
Phật giáo cơ bản là lịch sử của các phái Thiền. Chúng ta chưa gặp tài liệu cổ nào đề cập
một cách chắc chắn, rõ ràng về sự tồn tại độc lập của các tông phái khác. Tịnh Độ tông và
Mật tông ở Việt Nam không trở thành các tông phái riêng biệt, độc lập với Thiền tông mà
chúng tồn tại chủ yếu dưới các yếu tố được Thiền tông chấp nhận. Tuy nhiên khi phân
tích vấn đề Phật giáo về mặt tư tưởng, chúng ta có thể tách rời 3 yếu tố Thiền, Tịnh, Mật
để nhìn nhận và đánh giá, nhưng khi coi Phật giáo Việt Nam như một thực thể tôn giáo
thì 3 yếu tố này lại gắn bó với nhau thành một hệ thống nhất chung. Thực tế cho chúng ta
rất dễ có thể thấy được ngay ở cùng một vị sư tăng thì bài kinh này bộc lộ quan điểm của

12
Về các tông phái Phật giáo Đại Thừa tôn tại và phát triển ở Việt Nam cũng có những điểm khác biệt với các nước
trong khu vực. Trong khi ở Trung Quốc, 3 phái Thiền, Tịnh Độ và Mật tông tồn tại và phát triển như là những tông
phái độc lập với nhau thì ở Việt Nam chúng không xuất hiện như vậy. Có chăng chỉ có Thiền tông được coi là có sự
tồn tại độc lập như là một tông phái theo đúng nghĩa của nó, còn Tịnh Độ và Mật chỉ được coi là những yếu tố tín
ngưỡng xuất hiện trong văn hóa Phật giáo Việt Nam truyền thống mà thôi.
13
Thiền Tông được hình thành ở Trung Quốc năm 520, truy nhận Bồ-Đề-Đạt-Ma (Bodhidharma) là nhà sư đến từ
Ấn Độ làm tổ thứ nhất, nhưng giai đoạn được cho là có sự đổi mới Thiền ở Trung Quốc chính là vào thời kỳ tổ thứ 6
với nhà sư Huệ Năng (638-720). Thiền ở Việt Nam là dòng Tì-Ni-Đà-Lưu-Chi bị ảnh hưởng bởi phái trước Huệ
Năng (từ Bồ-Đề-Đạt-Ma trở đến Huệ Năng) và dòng Vô Ngôn Thông bị ảnh hưởng bởi phái Thiền từ Huệ Năng trở
đi.

29
Thiền tông, nhưng nghi lễ kia lại tỏ ra có màu sắc của Mật tông và miệng vị sư đó lại
luôn luôn niệm tên Phật A-Di-Đà.
- Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam:
+ Tính tổng hợp: Phật giáo khi vào Việt Nam đã tiếp xúc với nhiều tín ngưỡng dân
gian Việt Nam và có những thay đổi nhất định để phù hợp với văn hóa Việt Nam. Các cơ
sở thờ tự Phật giáo ở Việt Nam có lối kiến trúc phổ biến là: “tiền Phật hậu thánh”, đưa các
thần thánh, thành hoàng, thổ địa, anh hùng dân tộc, ở các chùa có tục để hậu. Phật giáo
Việt Nam có sự tổng hợp giữa các tông phái Phật giáo khác nhau (Thiền, Tịnh, Mật; Nam
tông–Bắc tông); tổng hợp với các tôn giáo như: Đạo Khổng, Đạo Lão (Tam giáo đồng
nguyên thời Lý–Trần là một điển hình; Thiền tông thường xích lại gần với Nho giáo, còn
Mật tông và Tịnh Độ tông thường lại gần với Đạo giáo hơn). Phật giáo Việt Nam kết hợp
chặt chẽ việc đạo với việc đời.
+ Phật giáo Việt Nam thiên về âm tính: ảnh hưởng của văn hóa nông nghiệp với
khuynh hướng thiên về nữ tính (các vị Phật Ấn Độ xuất hiện đều là nam tính trong khi ở
Việt Nam có Phật Bà quan âm, Phật Mẫu Man Nương, Phật Tứ Pháp, Quan âm Thị
Kính...)
+ Phật giáo Việt Nam có tính linh hoạt: coi trọng sống phúc đức hơn đi chùa, đức
Phật thống nhất với những vị thần trong tín ngưỡng truyền thống.
+ Phật giáo Việt Nam mang đậm tính dân gian: kết hợp với các tín ngưỡng dân
gian bản địa đã có từ lâu như tín ngưỡng thờ Mẫu qua hình ảnh bà chúa Ba ở động
Hương Tích; kết hợp với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên với quan niệm về luân hồi, nghiệp
báo...; kết hợp với tục thờ nữ thần: hệ thống Tứ Pháp...; Quan niệm về ông Bụt (Phật)
hiền từ, cứu giúp người hiền gặp nạn...
- Ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn hóa Việt Nam:
Là một tôn giáo có ảnh hưởng rất mạnh đến xã hội Việt Nam, Phật giáo với tư
cách là tôn giáo - một thành tố văn hóa ảnh hưởng đậm nét đến các thành tố khác của văn
hóa Việt Nam.
Phật giáo có nhiều đóng góp cho văn hóa Việt Nam trên nhiều phương diện như
lĩnh vực tư tưởng, đào tạo nhân tài cho đất nước, lĩnh vực văn học nghệ thuật, lĩnh vực
kiến trúc, điêu khắc, phong tục tập quán, lễ hội... Từ những giá trị đạo đức mà Phật giáo
mang đến đã giúp điều chỉnh hành vi của con người, khiến con người sống nhân bản hơn.

30
Ở Việt Nam, Phật giáo còn có ảnh hưởng tới sự ra đời của một vài tôn giáo mới
hình thành (mang tính địa phương), tiêu biểu như đạo Hòa Hảo, đạo Cao Đài.

2.2.2.2. Kitô giáo

Tên gọi Kitô là phiên âm của từ Khristos (tiếng Hy Lạp có nghĩa là người được
xức dầu; tiếng Anh là Christ) hay Cơ Đốc giáo (theo âm Hán Việt) – là tên gọi dùng để
chỉ các tôn giáo thờ Chúa Giêsu bao gồm có: Công giáo (hay Thiên Chúa giáo), Anh
giáo, Tin Lành, Cảnh giáo, Chính Thống giáo.

Nội dung chính của Kitô giáo là niềm tin vào sự sáng tạo thế giới của Chúa Giêsu
(Jesus hay Jesus Christ) và sự màu nhiệm của Thiên Chúa. Con người do Chúa sinh ra vì
vậy phải có nghĩa vụ thờ phụng Chúa cũng như phải tiếp tục hoàn thành những công việc
của Chúa ở trái đất này14.

Trong thực tế, Kitô giáo là tôn giáo được Jesus (Giêsu) sáng lập hồi đầu công
nguyên, có nghĩa là cách ngày nay trên dưới 2000 năm. Jesus là người Do Thái, ông sinh
vào khoảng đầu thế kỷ thứ nhất tại Belem gần Jerusalem, là con của bà Maria và ông
Giuse (Joseph). Năm 30 tuổi bắt đầu đi giảng đạo và chữa bệnh. Ông sử dụng các phương
pháp dụ ngôn để giảng dạy quan điểm về tình yêu thương vì vậy đã thu hút được nhiều
người dân đến nghe.

Giáo lí của Kitô giáo gồm hai bộ kinh Cựu ước và Tân ước. Bộ kinh Cựu ước gồm
46 quyển, nội dung dựa trên căn bản giáo lí của kinh thánh Do Thái giáo (Tanakh) , có
các phần viết về lịch sử, luật pháp, thi ca, tiên tri (nói về quá trình lịch sử trước khi Chúa
giáng thế). Bộ kinh Tân ước gồm 27 quyển do các môn đệ của Chúa Jesus viết ra có nội
dung liên quan tới cuộc đời của Chúa và những bài giảng của Ngài, bao gồm các sách
Phúc âm, sách Công vụ Tông đồ, các thư tín của các Thánh và sách Khải huyền 15 (nội
dung các vấn từ khi Chúa giáng thế trở về sau này).

14
Theo nội dung kinh thánh thì Chúa sáng tạo ra thế giới vũ trụ này trong vòng 7 ngày. Ngày thứ nhất, Chúa tạo ra ánh sáng
và bóng tối để tạo ra ngày và đêm. Ngày thứ hai, Chúa tạo ra bầu trời, biển cả và đất liền. Ngày thứ ba, Chúa tạo ra muôn loài
cỏ cây hoa trái. Ngày thứ tư, Chúa tạo ra mặt trời để canh giữ vũ trụ vào ban ngày, tạo ra mặt trăng và các vì sao để canh giữ
bầu trời vào ban đêm. Ngày thứ năm, Chúa tạo ra muôn loài động vật trên không và dưới nước. Ngày thứ sáu, Chúa tạo ra
muôn loài động vật trên mặt đất và con người. Ngày thứ bẩy, Chúa nghỉ ngơi sau sáu ngày làm việc vì vậy ngày này được gọi
là ngày của Chúa – Chúa nhật (Chủ nhật).
15
Khải Huyền có nghĩa là vén màn cho thấy điều bí mật che khuất bên trong. Sách này do các Thánh John viết ra
theo lối văn khải huyền của người Do Thái, ghi lại những thị kiến và mặc khải những điều trong kinh thánh.

31
Ngày nay, Kitô giáo là một tôn giáo có tín đồ đông nhất trên toàn thế giới. Theo con
số thống kê năm 2010, có vào khoảng trên dưới 2 tỷ tín đồ Kitô giáo trên toàn thế giới
(trong khi Hồi giáo là 1,6 tỷ, Ấn Độ giáo là 1 tỷ, Phật giáo là 500 triệu).

Trong các nhánh của Kitô giáo ngày nay, Giáo hội Công giáo Roma là giáo hội
lớn nhất với hơn 1,2 tỷ tín đồ trên toàn thế giới. Tôn giáo này có trụ sở ở Roma (Ý) đó là
Tòa Thánh Vatican. Đứng đầu Giáo hội Roma là Giáo hoàng, tại các quốc gia là Tổng
Giám mục (thường là có thêm tước vị Hồng y), các tỉnh là các Tổng Giám mục (có thể có
thêm tước vị Hồng y), các xứ là các Linh mục (cha xứ).

Đạo Kito giáo được truyền vào Việt Nam từ những thập niên đầu của thế kỷ XVI.
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục có ghi: “vào năm Nguyên Hòa thứ nhất
đời vua Lê Trang Tông (1533) có một người Tây dương tên là I-nê-khu theo đường biển
lẻn vào giảng đạo Gia tô ở các làng Ninh Cường, Quần Anh, Trà Lũ (thuộc Nam Định
cũ)”. Từ đó, các giáo sĩ người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha tìm đến ngày càng đông. Ban
đầu, do chưa quen thông thổ và không thạo ngôn ngữ nên việc truyền giáo ít thi được kết
quả. Dần dần thì việc truyền giáo đạt kết quả tốt hơn, theo tài liệu của Giáo hội thì đến
năm 1593, ở Nghệ An đã có đến 12 làng Công giáo. Kitô giáo đã mở đầu cho sự giao lưu
văn hóa Việt Nam với Phương tây.
Ban đầu, sự tiếp xúc văn hóa trong giai đoạn đầu tiên diễn ra trên phương diện tôn
giáo và thương mại. Các giáo sĩ đã bắt tay cùng với những nhà tư bản để thực hiện ý đồ
của riêng của mình trong việc mở rộng nước chúa và kinh doanh buôn bán.
Giai đoạn sau: Thời gian ở châu Âu chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ và đi vào
con đường thực dân hóa; nó chi phối mọi hoạt động của xã hội, kể cả tôn giáo. Sự cấu kết
giữa Giáo hội và các cường quốc phương Tây để bành trướng Kitôgiáo và chủ nghĩa thực
dân ra khắp thế giới, trong đó Việt Nam cũng là một trong những nơi diễn ra sự cấu kết
đó.
Khi du nhập vào Việt Nam, Kitô giáo gặp phải rất nhiều khó khăn: từ một đất
nước xa xôi đến, những giáo sĩ không thông thạo về lãnh thổ cộng với sự bất đồng về
ngôn ngữ nên việc truyền đạo ở thời gian đầu không như mong muốn. Bên cạnh đó, các
vua nhà Nguyễn, nhất là Gia Long ra lệnh cấm đạo. Trong quá trình hoạt động truyền
giáo ở Việt Nam, một số giáo sĩ hoạt động chuẩn bị cơ sở cho những hoạt động xâm lược
của thực dân Pháp. Quá trình thâm nhập của Kitô vào Việt Nam không giống như các tôn
giáo khác vào một cách tự nhiên mà mang màu sắc chính trị nên không gây được niềm

32
tin cho dân chúng. Hơn nữa, khác với những tôn giáo có nguồn gốc từ Á Đông đã vào
Việt Nam trước đó (như Đạo Phật, Đạo Giáo..) Kitô giáo là tôn giáo mang đậm tính cách
cứng rắn của truyền thống văn hóa Phương Tây. Nổi bật là mâu thuẫn giữa một bên là
truyền thống thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam với bên kia là tính độc tôn của Kitô
giáo- không chấp nhận thờ phụng ai ngoài Chúa.
Tin Lành xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1894 với nhà thờ Tin Lành do người Pháp xây
dựng đầu tiên ở Hải Phòng. Vào năm 1902, Pháp xây dựng nhà thờ ở Hà Nội, Sài Gòn và
Đà Lạt. Nhưng thời điểm được coi là chính thức tôn giáo này được truyền vào Việt Nam là
vào năm 1911, do các nhà truyền giáo thuộc Hội Truyền giáo Phúc âm Liên hiệp
(Christian and Missionary Alliance - C&MA)16 truyền bá Phúc âm theo đức tin Tin Lành
đến Việt Nam truyền giáo đầu tiên ở Đà Nẵng. Tin Lành là một trong những tôn giáo phát
triển nhanh nhất Việt Nam tính từ những năm cuối thế kỷ XX đến nay với khoảng 1,0
triệu tín đồ.
Ảnh hưởng của Kito giáo với văn hóa Việt Nam được nhìn nhận ở nhiều khía cạnh
như về kiến trúc, điêu khắc, báo chí, văn chương và đặc biệt về ngôn ngữ (sự hình thành
chữ quốc ngữ). Về kiến trúc của Công giáo ở Việt Nam tập trung chủ yếu là Nhà thờ với
hai dạng chính là Nhà thờ Tây (kiểu gô tích mái vòm) và Nhà thờ Nam (có thể mang
dáng dấp nhà thờ Tây hoặc thuần Nam). Về báo chí, văn chương, ngôn ngữ: lúc đầu ra
đời với những mục đích mang nội dung tôn giáo và những vấn đề của đời sống thường
ngày. Chính báo chí với việc sử dụng chữ quốc ngữ đã góp phần phát triển tiếng Việt.
Những tín đồ có nhiều đóng góp cho báo chí nói riêng và chữ quốc ngữ nói chung là
Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của.
2.2.3. Tín ngưỡng

2.2.3.1. Tín ngưỡng phồn thực

Tín ngưỡng phồn thực là một nghi lễ tín ngưỡng nông nghiệp. Đối với các cộng đồng
dân tộc có nền kinh tế gắn với hoạt động nông nghiệp thì ước nguyện về một sự sinh sôi
nảy nở, phát triển và gặt hái được nhiều sản phẩm nông nghiệp được coi là ước nguyện
ngàn đời của người nông dân. Họ luôn mong muốn khi cấy một cây mạ xuống ruộng thì sẽ
sinh sôi cho ra một khóm lúa tốt tươi; nuôi một con lợn lái thì sẽ đẻ ra một đàn lợn béo tốt;
trong gia đình, vợ chồng lấy nhau rồi thì phải sinh được nhiều con, nuôi lớn trưởng thành

16
Được thành lập năm 1887 bởi Tiến sĩ Albert Benjamin Simpson, có trụ sở hiện nay tại thành phố Colorado
Springs, tiểu bang Colorado,Hoa Kỳ.

33
mới có thể đáp ứng được sức lao động trong nông nghiệp và duy trì nòi giống (thời xưa
trong quan niệm văn hóa Việt Nam, nhà đông con mới là nhà có phúc)...và như vậy đây
chính là những yếu tố cơ bản để hình thành nên một tín ngưỡng dân gian, biểu hiện sự sùng
bái sức mạnh siêu nhiên mà có liên quan đến vấn đề sinh sôi nảy nở của vạn vật trong tự
nhiên - Tín ngưỡng phồn thực (phồn có nghĩa là nhiều; thực có nghĩa là sinh sôi, nảy nở).
Tín ngưỡng phồn thực là một loại hình tín ngưỡng xuất hiện khá sớm trong cơ tầng
văn hóa Đông Nam Á cổ đại. Tín ngưỡng phồn thực thể hiện sự khát vọng, cầu mong sự
sinh sôi nảy nở của vạn vật tự nhiên. Tín ngưỡng này lấy biểu tượng về sinh thực khí và
các hành vi giao phối làm đối tượng thờ cúng. Nó được xây dựng trên vũ trụ luận của nền
văn hóa phương Đông đó là sự hòa hợp giữa hai yếu tố Âm và Dương là hai yếu tố
nguyên khí cội nguồn của vũ trụ.
Triết lí về Âm và Dương là một khái niệm rộng và trừu tượng, tuy nhiên đối với
người dân, trong cuộc sống đời thường thì quan niệm về Âm và Dương thường được gắn
với những sự vật, hiện tượng cụ thể, ví dụ:
 Âm: là biểu hiện của phía dưới, bóng tối, mềm mại, bên phải, giống cái...
 Dương: là biểu hiện của bên trên, ánh sáng, cứng rắn, bên trái, giống đực...
Như vậy, quan niệm về Âm – Dương và “Lưỡng phân lưỡng hợp” là một quan niệm
rộng, bao trùm lên trên tất cả mọi mặt đời sống văn hóa xã hội bao gồm cả đời sống văn
hóa tín ngưỡng dân gian. Bất kỳ một sự vật hiện tượng nào trong tự nhiên và cuộc sống
thì người ta đều có thể quy nó về phạm trù thuộc Âm hoặc Dương và tính đến sự kết hợp
hài hòa giữa chúng. Trong tín ngưỡng phồn thực, sự hòa hợp thuận hòa giữa Âm và
Dương được biểu hiện cụ thể ở đây là sự kết hợp giữa Đực và Cái là quan niệm chi phối
chủ đạo của loại hình tín ngưỡng này.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, nền văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa nông
nghiệp, vì vậy tín ngưỡng dân gian người Việt nói chung và tín ngưỡng phồn thực nói
riêng là một loại hình tín ngưỡng xuất hiện khá phổ biến trong cộng đồng những người
làm nghề nông. Người ta thần thánh hóa, linh thiêng hóa 2 yếu tố Âm – Dương mà ở đây
được thể hiện cụ thể bằng hai vật linh đó là hình tượng về Sinh thực khí thường xuất hiện
trong các nghi lễ thờ cúng của loại hình tín ngưỡng phồn thực: Âm vật – Dương vật và
các trò diễn biểu hiện hoặc ẩn dấu dưới dạng giao phối đực cái – nam nữ.
Chúng ta có thể thấy những minh chứng của tín ngưỡng phồn thực có từ rất sớm
trong văn hóa Việt Nam thông qua một số di tích lịch sử còn tồn tại cho tới ngày nay như

34
hình tượng những cặp đôi nam – nữ đang giao hợp trên nắp thạp đồng Đào Thịnh thời
văn hóa Đông Sơn. Trai thì bên trên, xõa tóc, hông đeo dao găm, đóng khố. Gái thì bên
dưới, mặc váy ngắn, ngực trần. Bộ phận sinh dục của nam giới được thể hiện rất rõ,
chứng tỏ người xưa cố ý khi đặt khối tượng này trên nắp thạp, nhằm phản ánh khát vọng
sinh sôi nảy nở, sự phồn thịnh của con người và vạn vật.
Hình tượng về chùa Bà Đanh với câu nói trong dân gian “vắng như chùa Bà Đanh”
cũng có nội dung liên quan đến tín ngưỡng phồn thực. Nhiều nơi có chùa Bà Đanh. Ở Hà
Nội, chùa Bà Đanh có tên Hán Việt là Linh Quang Tự, được xây dựng từ thời nhà Lê.
Tên gốc của chùa là chùa Bà Banh vì ở trong chùa có một hình tượng người phụ nữ dáng
điệu hớ hênh, miệng thì mỉm cười, tay chỉ vào âm vật của mình được phô bày toàn bộ.
Chùa được đồn rằng rất linh thiêng, có nhiều người tới để cầu cúng. Truyền thuyết nói
rằng sau này Trạng Quỳnh khi đi qua chùa có làm một bài thơ viết lên bụng bức tượng có
ý chế giễu rằng:
Khen ai đẽo đá tạc nên mày
Khéo đứng ru mà đứng mãi đây
Trên cổ đếm đeo dăm chuỗi hạt
Dưới chân đứng chéo một đôi giày
Ấy đã phất cờ trêu ghẹo tiểu
Hay là bốc gạo thử thanh thầy
Có ngứa gần đây nhiều gốc dứa
Phô phang chi ở đám dân này
Người ta đồn rằng, khi trạng Quỳnh viết xong bài thơ thì pho tượng vã mồ hôi như
tắm và cũng từ đó Bà Banh hết thiêng. Ngôi chùa ít người qua lại dần và trở lên vắng vẻ.
Vì vậy trong nhân gian mới có câu vắng như chùa Bà Đanh (Banh) là như vậy.
Huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam ngay bên bờ sông Đáy cũng có một ngôi chùa Bà
Đanh (thuộc thôn Đanh, xã Ngọc Sơn) mà ngay trong ngôi chùa còn có một kẽ nứt mà
tục lệ ngày nay ai đi qua đó đều lấy gậy chọc vào lỗ đó một cái để mong được may mắn –
một hành động mang đậm ảnh hưởng của tính phồn thực.
Di tích của tín ngưỡng phồn thực còn thấy xuất hiện trong một số hình tượng điêu
khắc hình ảnh người phụ nữ ngồi phô bày âm vật ở đình Phù Lão (Lạng Giang, tỉnh Bắc
Giang), ở chùa Thổ Hà xã Vân Hà huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang, hay các hình có trang
trí rắn hổ mang phù lên người phụ nữ biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực.

35
Trong văn hóa tín ngưỡng của một số dân tộc Tây Nguyên, chúng ta còn thấy các di
tích của tín ngưỡng phồn thực thông qua hệ thống các nhóm tượng được đẽo đặt xung
quanh nhà mồ của các dân tộc Ba Na, Êđê, Gia rai, M’nông, Xơ Đăng. Những tượng này
được làm từ những cây gỗ tròn khắc thành hình những nhóm tượng khác nhau. Tượng
người ngồi ủ rũ, đau thương thể hiện sự buồn đau của người sống với người chế; tượng
chim công thì làm vui linh hồn người chết; tượng ngà voi để  ngợi ca sức mạnh, lòng
dũng cảm của người chết khi còn sống và cũng là vũ khí bảo vệ cho linh hồn người chết;
tượng hình người đang trong các tư thế luyến ái hoặc những tượng gỗ khắc hình
Linga/Dương vật của người đàn ông cắm thành hàng rào bao quanh nhà mồ thể hiện ước
vọng về sự sinh tồn, sinh sôi nảy nở con người cũng như vạn vật trong tự nhiên của tín
ngưỡng phồn thực.
Đối với dân tộc Thái, trên khau cút của nhà sàn, người ta tạc những bức tượng nam
nữ đang trong thư thế giao hợp gần giống với đôi nam nữ trên thạp đồng Đào Thịnh cũng
là sự biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực trong văn hóa dân gian của dân tộc này.
Về các nghi lễ của tín ngưỡng phồn thực, ta có thể kể ra đây một số nghi lễ tiêu biểu như:
 Nghi lễ thờ cúng Ông Đùng – Bà Đà: Lễ hội làng An Xá, xã An Viên, huyện
Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên; Lễ hội làng Quang Lang thờ Bà Chúa Muối, thuộc xã Thụy
Vân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình có trò múa Ông Đùng – Bà Đà trong thực hành
nghi lễ (được tổ chức ngày 14 tháng 4 âm lịch); Lễ hội của một vài dân tộc thiểu số với
môtip Ông Đùng – Bà Đà. Tục thờ Ông Đùng – Bà Đà ở đây là biểu hiện của sự chống
xếp nhiều tầng văn hóa mà ở tầng sớm nhất ta có thể thấy được có nhiều chi tiết dân tộc
học xuất hiện ở nhiều dân tộc trên thế giới đó là nghi lễ hiến sinh đôi trai gái đang trong
trạng thái giao hoan để dâng lên vị thần nghề nông nghiệp, cầu mong sự sinh sôi, nảy nở.
 Nghi lễ tục rước sinh thực khí: Lễ hội làng Đồng Kỵ, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh (được tổ chức vào các ngày 4,5,6 tháng giêng âm lịch), lễ hội làng Khúc Lạc và Dị
Nậu, tỉnh Phú Thọ được tổ chức vào ngày 7 và 26 tháng giêng: thờ Sinh thực khí (nõ
nường) với 36 cái (18 cái dương vật và 18 cái âm vật) trên bàn thờ; điệu Múa Mo trong lễ
hội làng Sơn Đông (huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây, nay là Hà Nội).
Còn nói tới trò diễn mang tính tín ngưỡng phồn thực thì cũng có nhiều ở các lễ hội
trong cả nước. Ta có thể dẫn chứng ra đây một vài ví dụ như: tục tắt đèn trong đêm mở
hội ở làng La Khê (huyện Hoài Đức, Hà Nội), hay lễ hội làng Niệm Thượng (huyện Võ

36
Giàng, tỉnh Bắc Ninh), làng Đan Nhiễm (trước thuộc huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh;
nay thuộc thị trấn Văn Giang, tỉnh Hưng Yên).
Trò bắt chạch trong chum hay tục chen cũng là trò diễn mang tính tín ngưỡng phồn
thực thấy xuất hiện ở nhiều hội làng vùng đồng bằng Bắc Bộ, thể hiện tính chất của tín
ngưỡng phồn thực.
Ở một số các dân tộc thiểu số của nước ta cũng có các hình thức thực hành tín
ngưỡng phồn thực. Ngày nay tại xã Thượng Trạch (huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình),
đồng bào Ma Coong vẫn giữ được tục sinh hoạt lễ hội làng được tổ chức vào ngày 16
tháng giêng hàng năm – Hội đập trống cầu mưa thuận gió hoà, ngô lúa tốt tươi, người
người khỏe mạnh. Đặc biệt dịp này mọi người có thể hẹn hò, tình tự “hợp pháp” với
nhau.
Như vậy, thông qua một số phương thức thực hành lễ hội, tín ngưỡng ở các địa
phương đã đề cập tới trên đây, chúng ta thấy rằng ước muốn về sự sinh sôi nảy nở, phát
triển của tự nhiên, con người, vạn vật là ước nguyện ngàn đời của người nông dân, nó đã
xuất hiện rất sớm trong cơ tầng văn hóa cổ truyền Việt Nam thông qua một loại hình tín
ngưỡng dân gian – Tín ngưỡng phồn thực.
2.3.3.2. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
Trong các loại hình tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là loại hình tín
ngưỡng phổ biến và tồn tại lâu nhất ở nhiều các dân tộc trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Nguồn gốc của loại hình tín ngưỡng này có lẽ được xuất phát từ quan niệm tâm linh
của con người về “vạn vật hữu linh” (mọi vật đều có linh hồn). Vì vậy có thể nói rằng
những vị thần cổ xưa nhất phải kể tới đó là các nhiên thần (thần cây, thần núi, thần sông,
thần biển...). Sau này, cùng với xu hướng nhân hóa các nhiên thần bằng hình tượng các
nhân vật cụ thể đã thể hiện và khẳng định về một giai đoạn rằng con người đã bắt đầu
khám phá về chính bản thân mình. Họ tin rằng trong mỗi con người đều có hai phần đó là
“phần xác” và “phần hồn”. Lúc sống thì hai phần này hòa vào làm một và khi chết đi,
phần xác được hòa vào cát bụi, còn phần hồn thì tiếp tục tồn tại ở một thế giới khác với
trần gian đó là cõi âm phủ với quan niệm “ trần sao, âm vậy”. Người Việt tin rằng linh
hồn tổ tiên luôn dõi theo và phù hộ con cháu, hoặc cũng có thể quở trách, trừng phạt…
Trong quá trình hình thành và phát triển, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt
chịu nhiều ảnh hưởng của các điều kiện xã hội, kinh tế của Việt Nam là hình thái kinh tế
tiểu nông và hình thái gia đình phụ quyền…

37
Đặc biệt, những tư tưởng của Nho giáo mới có ảnh hưởng lớn nhất khi nó có ảnh
hưởng trực tiếp vào quan niệm dân gian một triết lí có tính lí luận về gia đình (tế bào của
xã hội) đó là sự đề cao chữ hiếu đến mức có thể trở thành đạo hiếu trong xã hội cổ truyền
Việt Nam. Hiếu là biểu hiện của nhân, gắn với trung và là nguồn gốc của trung, cho nên
Khổng Tử có nói: Hiếu là để thờ cha mẹ, thuận là vâng mệnh người trên, đem những điều
đó mà thi thố ra thiên hạ thì không có điều gì là không làm được. Những tư tưởng và học
thuyết của Nho giáo đã có ảnh hưởng to lớn trong xã hội phong kiến Việt Nam trong đó có
sự ảnh hưởng cụ thể tới loại hình tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong mỗi gia đình người
Việt, thậm chí nó còn được các vương triều phong kiến Việt Nam thừa nhận bằng thể chế
hóa pháp luật với các quy định rất chặt chẽ về luật hương hỏa17.
Ngoài Nho giáo, các tôn giáo lớn như Phật giáo, Đạo giáo cũng có ảnh hưởng tới sự
hình thành và phát triển của tục thờ cúng tổ tiên bởi vì như chúng ta đều biết, sự hỗn
dung trong thực hành tôn giáo tín ngưỡng là một trong những nét điển hình của văn hóa
truyền thống Việt Nam. Như vậy trong lịch sử phát triển văn hóa Việt Nam, thực tế chưa
bao giờ có sự tồn tại độc tôn của một tôn giáo nào kể cả Phật giáo được coi là thịnh hành
nhất thời Lý – Trần và Nho giáo được coi là thời kỳ thịnh hành nhất thời hậu Lê. Bên
cạnh ban thờ cúng gia tiên, gia tổ của mỗi gia đình thường có ban thờ Phật và câu mở
miệng cầu khấn ông, bà, tổ tiên thường là câu Nam mô A Di Đà Phật, nội dung thờ cúng
theo nội dung Nho gia với trật tự ngôi thứ được bày đặt ngay trên điện thờ và nghi lễ hay
sự thực hành thờ cúng luôn mang màu sắc của Đạo giáo gắn với phong tục bói toán, chữa
bệnh, cầu tài lộc...
Xét về mặt bản chất thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là dựa trên căn bản của đạo lí văn
hóa truyền thống Việt Nam “uống nước nhớ nguồn”. Người Việt luôn có quan niệm trong
cuộc đời về một triết lí người có tổ tông, sông có nguồn cội. Những người đương thời
trong cuộc sống bao giờ cũng chịu sự chi phối của quan niệm vừa mong nhận được phúc
ấm của tổ tiên (sống vì mồ vì mả, ai sống vì cả bát cơm), vừa lo trách nhiệm để lo phúc lộc
cho con cháu (phúc đức tại mẫu; đời cha ăn mặn, đời con khát nước...). Tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên có ý nghĩa đáp ứng nhu cầu tâm linh cho con người, là chỗ dựa vững chắc, là
động lực, định hướng cho con người trong cuộc sống. Trong ý nghĩa của sự vận hành loại
hình tín ngưỡng này, một mặt con người hướng về quá khứ để định hướng cho hiện tại,
mặt khác họ cũng đã chuẩn bị hành trang đạo lí cho những thế hệ con cháu trong tương lai.

17
Quốc triều hình luật của nhà Lê đã nêu trong điều 339 và 400 là: “Ruộng hương hỏa, dù con cháu nghèo khó
cũng không được đem bán trái pháp luật, có người tố cáo phải ghép vào tội bất hiếu. Nếu người trong họ mua ruộng
đất ấy thì mất số tiền mua. Người ngoài mà mua thì phải cho chuộc, người mua không được cố giữ”.

38
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn là hình thái tín ngưỡng có một ý nghĩa lớn về mặt
tổ chức cộng đồng trong xã hội truyền thống người Việt Nam. Trong một gia đình, dòng
họ thì việc thờ cúng tổ tiên thể hiện là sự nối tiếp liên tục các thế hệ dòng tộc và kèm theo
đó là sự phân chia ngôi thứ theo quan hệ họ hàng thường được biểu hiện thông qua gia
phả của một dòng họ. Còn đối với tầm quốc gia thì vai trò tổ chức liên kết cộng đồng còn
rõ hơn khi ta xem xét tới nó với vấn đề thờ quốc tổ. Người Việt Nam hết thảy đều tin
rằng họ có chung một cội nguồn và là con Lạc, cháu Hồng. Khi ngày giỗ vua Hùng được
coi là ngày giỗ tổ của cả nước thì ý thức về một sự cố kết cộng đồng dân tộc càng giữ
một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống tâm linh của mọi người con đất Việt. Như
vậy, có thể nói thông qua tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, đạo lí văn hóa truyền thống uống
nước nhớ nguồn của người Việt Nam sẽ luôn được tiếp nối và phát triển.
Tóm lại, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam đã tích hợp trong nó nhiều giá trị
văn hóa truyền thống lâu đời của dân tộc. Nó là sự hòa quyện của nhiều yếu tố văn hóa
tín ngưỡng tôn giáo đã hình thành và đang phát triển ở Việt Nam. Nó đã và đang đóng
một vai trò quan trọng thúc đẩy mọi người trong xã hội phát huy những giá trị nhân văn
tốt đẹp của dân tộc. Đó là thái độ trân trọng truyền thống văn hóa dân tộc, văn hóa gia
đình. Những giá trị truyền thống nhân văn dân tộc này là nền tảng quan trọng cho việc
tiếp nhận các giá trị tinh hoa văn hóa thế giới, làm giàu thêm văn hóa dân tộc trong bối
cảnh hòa nhập với cộng đồng quốc tế đang diễn ra sâu rộng ở Việt Nam hiện nay.

2.2.3.3. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng

Tín ngưỡng thờ cúng các vị thần thánh của người dân làng xã là một loại hình tín
ngưỡng rất phổ biến của người Việt và một số dân tộc ít người ở Việt Nam. Có thể nói nếu
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng chính của cộng đồng gia đình, họ hàng thân tộc
thì tín ngưỡng thờ cúng các vị thần của làng xã (Thành hoàng làng) là tín ngưỡng chính của
cộng đồng làng.
Để hiểu thấu về tín ngưỡng thờ Thành hoàng, trước hết ta bắt đầu đi vào tìm hiểu
nguồn gốc xuất phát của từ “Thành hoàng”. Thực chất từ Thành hoàng là một từ Hán
Việt có liên quan xuất xứ từ văn hóa dân gian Trung Hoa: Thành nghĩa là cái thành tường
bao quanh cung điện, đồn sở, còn hoàng là cái hào nước đào sâu xung quanh tường thành
để bảo vệ sự tấn công từ bên ngoài vào trong thành. Vì vậy thần Thành hoàng tức là vị
thần bảo vệ, coi giữ cho cái thành trì của người Trung Hoa. Trong một số các sách cổ sử
của Trung Quốc có nói tới các vị Thành hoàng là các vị thần bảo vệ các thành trì, vị vậy

39
thành nào theo quan niệm của người Trung Quốc thì cũng có một vị thần bảo trợ và vì
vậy họ phải thờ cúng các vị thần này (thần Thành hoàng).
Như vậy, với tên gọi Thành hoàng và ý nghĩa của nó là chỉ tới các vị thần của các
thành trì, mà đã nói tới thành trì thì hầu hết thành trì là ở nơi thành thị ở Trung Quốc
(thần ở chốn đô thị của người Trung Quốc) thì ở Việt Nam, Thành hoàng là vị thần của
làng xã Việt, bảo trợ và che chở cho dân làng.
Trong các sách cổ sử của Việt Nam, sách đầu tiên đề cập tới thần Thành hoàng có lẽ
phải nói tới đó là sách Việt điện u linh của Lý Tế Xuyên (thời nhà Trần, nửa đầu thế kỷ
XV). Sách Việt điện u linh, trong truyện “Bảo Quốc Trấn Linh Định Bang, Quốc Đô
Thành Hoàng Đại Vương” có nói tới một vị thần là thần sông Tô Lịch đã được Lý
Nguyên Gia là quan đô hộ thời Đường Mục Tông, niên hiệu Trường Khánh thứ ba (năm
823) xây đền thờ làm Thành hoàng thành Long Biên (Hà Nội ngày nay). Đến thời Cao
Biền xây thành Đại La (năm 866) đã tôn Thần là Đô Phủ Thành hoàng Thần quân. Đến
thời vua Lý Thái Tổ khi chuyển đô từ Hoa Lư về Thăng Long đã phong thần với tước
hiệu Quốc đô Thăng Long Thành hoàng Đại vương. Từ thành thị, tín ngưỡng thờ Thành
hoàng được truyền về các làng xã, trở thành tước hiệu của các vị thần bảo hộ cho cuộc
sống của người dân mỗi làng, trở thành biểu tượng đoàn kết, gắn bó và là vị thần tối cao
trong tâm trí người dân các làng xã – Thành hoàng làng.

Diện mạo các vị thần Thành hoàng làng cũng rất đa dạng và phong phú. Tín ngưỡng
thờ Thành hoàng làng ở Việt Nam có lẽ thấy đậm đặc và tiêu biểu nhất là ở vùng đồng
bằng Bắc Bộ. Nhìn chung, diện mạo Thành hoàng làng hiện lên với 3 dạng chính đó là:

 Dạng Thành hoàng làng có nguồn gốc Thiên thần – tức là các vị thần có nguồn
gốc từ trên trời có thể kể đến như: Ngọc Hoàng Thượng đế; Nam Tào – Bắc Đẩu; Tứ
Pháp; Tề Thiên; Thiên Quan Đại Vương; Tứ vị Thánh vương Mẫu Liễu; Thánh Mẫu
Thiên Yana; Chử Đồng Tử, Tiên Dung, Tây Sa...
 Dạng Thành hoàng làng có nguồn gốc Nhiên thần: bao gồm các Thành hoàng là
Sơn thần như: Cao Sơn Thần/Đại Vương; Cao Sơn Quý Minh; Quý Minh Đại Vương;
Đại Vương Sơn Thần; Sơn Tinh; Cao Sơn Lập Thạch... Các Thành hoàng có nguồn gốc
Thủy thần như: Đông Hải Đại Vương, Tây Hải Đại Vương, Nam Hải Đại Vương, Tứ Vị
Thánh Nương, Cá Ông, Tống Hậu, Pô Inư Nưgar, Thiên Yana...Các Thành hoàng có
nguồn gốc Thổ thần như: Bản cảnh Thành hoàng; Bản thổ Thành hoàng...

40
 Dạng Thành hoàng làng có nguồn gốc Nhân thần: đây là dạng Thành hoàng
chiếm số lượng lớn trong 3 dạng Thành hoàng đã nêu. Dạng Thành hoàng này cũng bao
gồm nhiều loại như: Thành hoàng là các nhân vật lịch sử (Lý Nam Đế, Triệu Quang
Phục, Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn, Quang Trung Nguyễn Huệ…); Thành hoàng là các
danh nhân văn hóa (Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Chu Văn An, Trần Tất Văn, Lê Ích
Mộc...); Thành hoàng là các vị tổ nghề; Thành hoàng là người lập làng; Thành hoàng là
người chết vào giờ thiêng...

Như vậy, việc thờ tự các vị thần làm thần chủ của mình là một việc xuất hiện phổ
biến trong đời sống văn hóa tín ngưỡng tại các làng xã người Việt. Đây là một loại hình
tín ngưỡng đặc thù của người nông dân – Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng. Tín ngưỡng
này chứa đựng trong đó nhiều nét đặc thù về đời sống tâm linh, tín ngưỡng mang màu sắc
truyền thống dân tộc Việt Nam, nhiều giá trị về mặt văn hóa, lịch sử dân tộc cần được
bảo lưu và gìn giữ.

2.2.3.4. Tín ngưỡng thờ Mẫu

Trong tất cả các loại hình tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam, tín ngưỡng thờ Mẫu là
một loại hình tín ngưỡng phổ biến thường thấy ở nhiều tộc người. Mẫu là mẹ, vì vậy tín
ngưỡng thờ Mẫu chính là tín ngưỡng thờ các mẹ.
Trong quan niệm dân gian và quan niệm này được xây dựng trên nền tảng triết lý
của nền văn hóa nông nghiệp phương Đông thì ước muốn về một sự sinh sôi nảy nở là
một ước nguyện ngàn đời của họ. Mọi sự vật hiện tượng trong tự nhiên đều phải được
sinh ra từ một cái gì đó mà cái đó chỉ có thể là giống cái. Giống cái mới trực tiếp làm
nhiệm vụ sinh nở và như vậy nhân dân tôn sùng yếu tố giống cái. Có thể nói cái gì tốt,
đẹp, cái gì to lớn đều có thể gán cho giống cái như: con đường lớn được gọi là con đường
cái; con sông lớn, sông chính được gọi là sông cái; chiếc cột lớn nhất trong nhà (hay
trong đình) được gọi là cột cái...Và như vậy, tín ngưỡng thờ giống cái được hình thành
trong văn hóa tâm linh của nhân dân.
Sự tôn thờ giống cái được biểu hiện trong đời sống tâm linh của nhân dân đầu tiên
bằng tín ngưỡng thờ các nữ thần. Trong các truyền thuyết và huyền thoại của Việt Nam
xuất hiện nhiều vị nữ thần gắn với việc tạo dựng và bản thể của vũ trụ, như Nữ thần Mặt
Trời, Nữ thần Mặt Trăng, bà Nữ Oa cùng ông Tứ Tượng đội đá, vá giời (trời), đắp núi,
khơi sông; các hiện tượng mây – mưa – sấm – chớp của tự nhiên cũng gắn với hình tượng

41
các nữ thần được biểu hiện trong tín ngưỡng thờ Tứ Pháp (Pháp Vân – Pháp Vũ – Pháp
Lôi – Pháp Điện). Ngay trong quan niệm của vũ trụ luận phương Đông về năm chất làm
nên thế giới này đó là: kim – mộc – thủy – hỏa – thổ thì cũng được gắn với yếu tố nữ đó
là: Bà Kim – Bà Mộc – Bà Thủy – Bà Hỏa – Bà Thổ. Trong lịch sử dựng nước và giữ
nước, vai trò của người phụ nữ Việt Nam chiếm một vị trí vô cùng to lớn và nổi bật trong
số này là các nhân vật lịch sử, sau được nhân dân tôn thờ thành các nữ thần như: Mẹ
Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Lê Chân, Bà Triệu, Ỷ Lan, Dương Vân Nga....
Trong hàng các nữ thần đó, một số các vị được tôn vinh là Mẫu, Thánh Mẫu,
Vương Mẫu, Quốc Mẫu...Những danh xưng này xuất phát từ việc nhân dân tôn thờ
những người phụ nữ mà lúc đương thời, họ là những người thuộc dòng dõi quý tộc hoặc
là mẹ của các anh hùng dân tộc, hay có xuất xứ là thần tiên trên trời đã có công với nhân
dân, đất nước như: Nguyên phi Ỷ Lan được tôn là Mẫu nghi Thiên hạ; Quốc Mẫu Âu Cơ;
Quốc Mẫu Tây Thiên (Hoàng phi của vua Hùng thứ VII, được thờ ở Tam Đảo); Tây
Vương Mẫu (còn gọi là Vương Mẫu nương nương, Diêu Trì Kim Mẫu, là vị nữ thần
tiên trong truyền thuyết Trung Quốc)...
Như vậy, các Mẫu thần vừa có nguồn gốc thiên thần, vừa có nguồn gốc nhân thần và
hình ảnh của họ là sự biểu hiện hình thức tín ngưỡng được nâng cao từ tín ngưỡng thờ nữ
thần đã xuất hiện từ xa xưa trong cơ tầng văn hóa cổ truyền Việt Nam.
Hệ thống thờ tự Mẫu thần có thể nói khá đa dạng và phong phú trải dài suốt từ Bắc
vào Nam. Ở miền Bắc chúng ta có thể thấy xuất hiện nhiều Thánh Mẫu trong tín ngướng
của nhân dân như: Ỷ Lan, Tứ Pháp, Tứ Vị Thánh Nương, Thiên Hậu... Ở miền Trung thì
nổi bật lên với tục thờ Tứ Vị Thánh Nương, Hậu Thổ Nguyên Quân có gốc tích từ Bà Chúa
Xứ của đất Chiêm Thành, Thiên-Yan –Na hay Po-Yanư-Nưga...Ở miền Nam thì thờ Thiên
Hậu, Tứ Vị Thánh Nương, Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Xứ, Bà Đen, Bà Ngũ Hành, Bà Thuỷ
Long, Bà Chúa Động...
Hệ thống thờ Mẫu thần nói riêng và nữ thần nói chung trong hệ thống tín ngưỡng
dân gian Việt Nam như đã nói ở trên khá đa dạng và phong phú, song nếu nói tới tính phổ
biến và có tính hệ thống hơn cả thì chúng ta có thể kể đến đó là tín ngưỡng thờ Tam/Tứ
Phủ, hay còn gọi bằng một cái tên Đạo Mẫu với ý nghĩa riêng dành cho loại hình tín
ngưỡng này.

42
Về thần điện của Đạo Mẫu, có thể theo đặc thù từng nơi có sự sắp xếp khác nhau,
song tựu chung có thể liệt kê miêu tả những cái chung nhất của hệ thống thần điện của tín
ngưỡng này tính từ trên xuống như sau:

- Quan Thế Âm Bồ tát


- Ngọc Hoàng
- Hàng Thánh Mẫu
- Hàng các Quan
- Hàng Chầu Bà
- Hàng các vị Hoàng Tử (Ông Hoàng)
- Hàng Cô
- Hàng Cậu
- Quan Ngũ Hổ
- Ông Lốt (Rắn)

Trong Đạo Mẫu, nhân gian quan niệm rằng cả vũ trụ này được hình thành nên bởi 4
miền đó là: Trời – Đất – Nước – Rừng (Núi). Đứng đầu các miền của vũ trụ này đều có các
vị thánh cai quản và đứng đầu ở đây là một Mẫu thần. Mẫu Thượng Thiên cai quản Thiên
Phủ (miền trời), Mẫu Địa cai quản Địa Phủ (miền đất), Mẫu Thoải cai quản miền Thoải
Phủ (miền sông nước) và Mẫu Thượng Ngàn cai quản Nhạc Phủ (miền rừng, núi). Giúp
việc cho 4 vị Thánh Mẫu còn có rất nhiều các vị thánh thuộc hàng Chầu, hàng Quan, hàng
Ông Hoàng, hàng Cô, hàng Cậu...và cũng được phân chia về 4 miền của vũ trụ theo các
Thánh Mẫu. Tứ Phủ ứng với bốn miền của vũ trụ (4 phương) và được biểu hiện với 4
màu sắc cơ bản là:

- Thiên Phủ ứng với màu đỏ


- Địa Phủ ứng màu vàng (nâu vàng)
- Thoải Phủ ứng với màu trắng
- Nhạc Phủ ứng với màu xanh

Bốn màu sắc trên đây là màu sắc đặc thù và duy nhất trang phục của các vị thánh
khi giáng đồng, tùy thuộc vào các Phủ mà họ cai quản, ngự trị. Khi các vị thánh giáng
đồng, chúng ta có thể dễ dàng phân biệt được các vị thánh thuộc vào Phủ nào với trang
phục họ mặc trên người.

43
Mẫu Liễu Hạnh được coi là thần chủ của Đạo Mẫu Việt Nam tuy xuất hiện muộn
khoảng cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI. Trong nhiều trường hợp, Mẫu Liễu Hạnh hóa
thần vào mẫu Thượng Thiên, hoặc Mẫu Địa nên tuy có 4 phủ nhưng chỉ có ba mẫu hiện
diện (Tam tòa, Tứ phủ).

Về thần tích của các vị thánh trong Đạo Mẫu thì cũng có sự khác nhau ở một số chi
tiết mang tính địa phương tùy thuộc vào từng vùng, tuy nhiên vị thánh Mẫu tối cao trong
Đạo Mẫu đó chính là Mẫu Thượng Thiên đệ nhất Phủ ngự trị ở trên trời, làm chủ quyền
năng về mây, mưa, sấm, chớp. Thực ra theo quan niệm dân gian, trong các huyền thoại
và thần tích về Mẫu Thượng Thiên thì đều trực tiếp liên quan tới Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Mẫu Liễu là hiện thân của Mẫu Thượng Thiên có nhiều quyền năng và là vị thần chủ
được thờ cúng ở nhiều nơi nhất ở Việt Nam. Thần tích về Liễu Hạnh đã được phản ánh
trong nhiều tài liệu như: Vân cát thần nữ truyện của nữ sỹ Đoàn Thị Điểm (thế kỷ XVII);
Tiên phả dịch lục của Kiều Oánh Mậu (1905); Tục thờ cúng thần tiên ở Việt Nam của
Nguyễn Văn Huyên (1944); Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi
(1980)...Nhưng có thể tóm tắt nội dung chính như sau:
Ở làng An Thái, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản (nay là huyện Vụ Bản, tỉnh Nam
Định) có ông Lê Thái Công rất hiện lành, chất phác. Năm Thiên Hựu (đời Lê Anh Tông –
1557), vợ ông mang thai đã quá thời gian thường kỳ mà không sinh được. Có người đạo
sĩ đến giúp để ông nằm mộng được lên Thiên Đình. Tại đây ông đã được chứng kiến cảnh
công chúa Ngọc Hoa lỡ tay đánh vỡ chén ngọc và bị đày xuống trần gian. Tỉnh dậy, ông
thấy vợ trở dạ và sinh được một người con gái với mùi hương thơm. Vì sinh con vào đêm
trăng vì vậy nhân thể ông bà đặt tên con là Giáng Tiên. Giáng Tiên càng lớn càng xinh
đẹp và được học hành giỏi tài văn thơ, họa, nhạc.
Ở gần nhà có ông Trần Công đức độ, nghĩa hiệp. Ông có một người con nuôi tên là
Đào Lang, ngoan ngoãn học giỏi có ý muốn lấy Giáng Tiên làm vợ. Được sự đồng ý của
Thái Công, hai người đã nên vợ, nên chồng và sau đó sinh được hai người con. Năm 21
tuổi, nhằm ngày mùng 3 tháng 3, nàng không bệnh mà mất (thực ra là nàng đã hạn bị đày,
nay phải về trời). Mặc dù đã về trời, song nàng vẫn không nguôi ngoai nỗi nhớ chồng
con. Nàng xin Ngọc Hoàng cho phép có cơ hội để tái hợp gia đình. Vua cha không có
cách nào khác phải đồng ý cho nàng giáng trần lần thứ hai, lần này nàng lấy hiệu là Liễu
Hạnh công chúa. Nàng về thăm cha, mẹ, chồng, con nhưng vì là thần tiên nên nàng
không thể ở lại và sống với chồng con như người phàm trần được. Khi con cái đã trưởng

44
thành, Liễu Hạnh thường vân du khắp nơi để vui thú cảnh đẹp và hóa phép đùa cợt, chêu
đùa người đời, giúp kẻ khó, trị tội kẻ gian ác. Liễu Hạnh vân du lên Lạng Sơn, hóa thân
thành người con gái xinh đẹp thách đố, họa thơ phú với Trạng Bùng Phùng Khắc
Khoan18, rồi lại về Hồ Tây gặp lại danh sĩ họ Phùng cùng với hai người họ Ngô, họ Lý
bàn chuyện văn chương. Sau đó nàng vào Nghệ An, tại làng Sóc nàng đã kết hôn với một
nam sinh (tương truyền là hậu sinh của chồng cũ – Đào Lang) nhưng cũng chỉ được ít lâu
rồi nàng cũng phải về trời.
Nỗi nhớ trần gian là nguyên nhân giáng trần lần thứ 3 của nàng. Lần này Ngọc
Hoàng cho hai cô Quế nương và Thị nương theo hầu. Nàng về phố Cát (Thanh Hóa) biến
hóa trêu ghẹo người đời, dân địa phương sợ phải lập đền thờ. Nhà vua cho quân tới bắt
đều bị nàng đánh chạy. Tức giận, vua cho phá đền thờ đi, nhưng lạ thay kể từ đấy bệnh
dịch xảy ra lan tràn, thường xuyên. Dân chúng thấy vậy cho rằng đây là sự trừng phạt của
Liễu Hạnh nên cầu xin vua cho lập lại đền thờ nàng và phong cho nàng là Mã Hoàng
công chúa. Thánh Mẫu Liễu Hạnh sau đó đã có công giúp vua đánh giặc, nên được vua
gia tặng là Chế thắng Hòa diệu Đại vương.

Về lễ hội và nghi lễ hầu bóng: Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, hệ thống lễ hội và các
nghi lễ kèm theo là hết sức đa dạng và phong phú, mang nhiều vẻ độc đáo so với các loại
hình tín ngưỡng khác. Lên đồng (hầu bóng) là nghi thức chính của tín ngưỡng thờ Mẫu
Tam/Tứ Phủ. Đây là nghi lễ nhập hồn của các vị thánh vào vai các ông đồng, bà đồng,
nhằm phán truyền, chữa bệnh hay ban tài, ban lộc cho các tín đồ. Một giá đồng là một
lượt các vị thánh giáng đồng theo thứ tự: nhập hồn (giáng đồng, nhập đồng) rồi làm việc
quan (lúc thực hiện các nghi lễ nhảy múa, phán truyền, ban lộc...) và cuối cùng là xuất
giá (thăng đồng, xuất hồn). Một buổi nghi lễ lên đồng bao giờ cũng phải có dàn hát văn đi
theo để đệm hát minh họa cho các giá đồng. Các bài hát chầu văn này đều có nội dung ca
ngợi hoặc nêu lược sử thần tích của các vị thánh giáng đồng. Ngoài ra nó còn có tác dụng là
các làn điệu nhạc đệm để tăng phần hứng khởi, tạo nhịp điệu cho các ông đồng, bà đồng
nhảy múa nhịp nhàng.

18
Phùng Khắc Khoan (1528 – 1613), tự là Hoằng Phu, hiệu là Nghị Trai, Mai Nham Tử, tục gọi là Trạng
Bùng (đỗ Nhị giáp tiến sĩ - tức Hoàng giáp năm 1580), là quan nhà Lê trung hưng và là nhà thơ Việt Nam. Tương
truyền, ông đã gặp thần nữ là Liễu Hạnh công chúa cả thảy hai lần, và đều có xướng họa thơ: một lần gặp ở chùa
Thiên Minh (Lạng Sơn) khi ông đi sứ về, một lần ở Hồ Tây (nay thuộc Hà Nội) khi ông cùng với hai bạn họ Ngô và
họ Lý đi chơi thuyền. Lần ở Hồ Tây, người tiên kẻ tục bèn làm thơ xướng họa liên ngâm, sau được nữ sĩ  Đoàn Thị
Điểm chép trong truyện "Vân Cát thần nữ" ở tậpTruyền kỳ tân phả của bà. 

45
2.3. Lễ Tết, Lễ Hội
2.3.1. Lễ Tết

 Khái niệm

Theo Đoàn Văn Chúc: Tết vừa là một cuộc lễ, qua đó con người bày tỏ kính ý của
mình với tự nhiên, vừa là sự kỷ niệm để loan báo, đánh dấu sự chuyển đoạn mang tính
chu kỳ của thời tiết/khí hậu trong năm.

Trong một năm có nhiều Tiết và tương ứng với nó là các Tết khác nhau. Đất nước
ta, người dân làm nông nghiệp là chính, nghề trồng lúa nước mang tính thời vụ cao, bận
bịu tối ngày nên bình thường ăn uống đại khái, đơn giản, chỉ những lúc nông nhàn, người
dân mới có tâm lí chơi bù, ăn bù cho thỏa những ngày đầu tắt mặt tối, lam lũ. Vì thế
ngoài hệ thống lễ hội rất phong phú, dân Việt và nhiều dân tộc khác còn có hệ thống lễ tết
không kém phần đa dạng.

Như vậy, Tết là nghi thức nghỉ ngơi ăn chơi trong những ngày nhàn hạ, nói đến
những khuôn mẫu ứng xử của con người với một đối tượng tự nhiên đặc biệt là thời tiết/
khí hậu.

 Tết Nguyên Đán (Tết Cả, Tết Cái )

Nguyên Đán là một từ Hán Việt. Theo nguyên nghĩa, Nguyên Đán là buổi sớm
đầu tiên của tháng đầu tiên của năm mới. Vậy, Tết Nguyên đán là Tết đầu năm mới. Còn
Tết Cả nghĩa là Tết hàng đầu, Tết đứng đầu, tết to nhất và quan trọng nhất. Với tên gọi
ấy, còn có những tết khác, tết con, tết không to bằng và quan trọng bằng Tết Cả, Tết Cái.

Nghi thức quan trọng bậc nhất trong dịp Tết này là giây phút giao thừa. Vào đêm
30 Tết người ta thường làm lễ cúng giao thừa ở ngoài trời và trong nhà để tiễn năm cũ và
đón chào năm mới với hy vọng về những điều tốt đẹp. Từ nhà riêng đến ngõ xóm, đình
chùa đều làm lễ trừ tịch còn gọi là lễ “tống cựu nghênh tân”- tiễn đưa vị đương niên hành
khiển địa vương của năm cũ về trời và đón rước vị tân đại vương hành khiển của năm
mới vào nhà.19 Từ 3 đến 5 ngày đầu năm mới là những ngày thường xuyên sửa cỗ cúng
Tổ tiên hưởng “hương lộc” còn con cháu thụ lộc trong tinh thần cộng cảm gia đình, thân
quyến: “Tháng Giêng ăn Tết ở nhà”. Sau 3 đến 5 ngày, người ta làm cỗ hóa vàng, đốt
tiền giấy và tiễn tổ tiên về lại thế giới của người đã khuất.

19
Huỳnh Công Bá, Cơ sở Văn hóa Việt Nam, NXB Thuận Hóa, tr473

46
Như bất cứ lễ hội nào, Tết cũng có lệ tục và những kiêng kị: thủ tục tắm gội tất
niên; mặc quần áo mới; nói lời hay ý đẹp; chúc tụng nhau năm mới, hái lộc, xuất hành,
khai bút, kiêng hót rác vào mùng một…với mong muốn có một năm mới tài lộc dồi dào,
làm ăn phát đạt, may mắn, sức khỏe dồi dào hơn năm cũ, kiêng không quét nhà đổ rác
ngày đầu năm mới (sợ mất lộc), người có tang kiêng đến nhà người khác đầu năm mới….

Từ giây phút giao thừa, sự sống hồi sinh tới 7 ngày thì được coi là hoàn toàn hồi
phục. Mồng 7 Tết là ngày khai hạ, hạ cây nêu coi như mừng kết thúc Tết. Mọi sinh hoạt
đời thường được xem là tiếp tục. Tết Nguyên Đán là những ngày gặp gỡ, nhớ ơn, tạ ơn,
đoàn viên, đoàn tụ rất đẹp và nhiều ý nghĩa.

 Các Tết khác

Tết khai hạ (còn gọi là Lễ hạ nêu, Tết mở đầu): thời gian tổ chức vào ngày 7
tháng Giêng, khi chấm dứt Tết Nguyên Đán. Khai hạ có nghĩa là mở đầu ngày vui chào
mừng xuân mới, mong mỏi một năm dài tốt lành vui vẻ. Theo quan niệm của người xưa,
trong đầu năm, ngày mồng một ứng với gà; mồng hai ứng với chó; mồng ba ứng với lợn;
mồng bốn ứng với với dê; mồng năm ứng với trâu; mồng sáu ứng với ngựa; mồng bảy
ứng với con người, mùng tám ứng với lúa. Đây vốn là một lối bói xem nghiệm vào tháng
đầu năm- tháng Giêng. Trong tám ngày ấy hễ ngày nào tạnh ráo, giống thuộc về ngày ấy
được tốt cả năm. Vì thế thấy ngày mùng bảy, trời đất sáng sủa, không mưa gió, người ta
tin rằng, con người cả năm được mạnh khỏe nên mở tiệc ăn mừng.

Tết Thượng Nguyên (còn gọi là Tết Rằm tháng Giêng): được tổ chức vào ngày 15
trăng tròn đầu tiên của năm mới. Đây là ngày vía của Phật tổ nên rất quan trọng đối với
các phật tử. Lễ này chủ yếu được tổ chức tại chùa cho các thiện nam tín nữ đi viếng, đi lễ
Phật: “Lễ Phật quanh năm không bằng rằm tháng Giêng”.

Tết Hàn Thực (là ngày cấm lửa, Tết ăn đồ nguội, Tết bánh trôi bánh chay): Thời
gian vào ngày mùng 3 tháng 3 liên quan đến Giới Tử Thôi cắt thịt đùi nấu dâng vua Văn
Công nhà Tần khi vua gặp nạn, đói ăn. Vào ngày này, để nhớ ơn Giới Tử Thôi đã cứu
mình, Văn Công ra lệnh cho nhân dân không được dùng lửa vào hôm đó mà phải nấu
thức ăn vào hôm trước. Đây là Tết có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng khi trở thành lễ
tết ở Việt Nam, người Việt không kiêng lửa vào ngày mùng 3 tháng 3, mọi việc nấu
nướng vẫn diễn ra bình thường chỉ có điều người ta làm Bánh trôi, bánh chay để tượng

47
trưng với ý nghĩa là những thức ăn nguội - Hàn thực- nên ngày này còn có tên là Tết
Bánh trôi bánh chay.

Tết Thanh Minh (tháng Ba âm lịch): Đây là dịp tiết trời mát mẻ, trong sáng, cây
cối đâm chồi nảy lộc, mọi người rủ nhau đi thăm viếng tất cả các mộ phần của ông bà tổ
tiên đã khuất như phát quang cây cối, cỏ và đắp bồi thắp hương mồ mả, sau đó làm lễ
cúng gia tiên ở nhà.

Tết Đoan Ngọ (Tết Đoan Dương, tết giết sâu bọ) – ngày 5/5 thuộc giai đoạn
chuyển mùa từ xuân sang hạ nên hay có bệnh thời khí. Theo quan niệm dân gian, trong
cơ thể con người, nhất là bộ phận tiêu hóa thường có sâu bọ, nếu không trừ khử chúng sẽ
gây hại cho con người, vì thế phải tiến hành giết sâu bọ bằng những hoa quả chua, chat
và rượu nếp.

Tết này còn liên quan đến tích Khuất Nguyên tự vẫn ở sông Mịch La, Trung Quốc.
Tuy nhiên, trong quan niệm của người dân Việt Nam, Tết này là tết phòng bệnh, tránh
bệnh dịch giữa năm.

Tết Trung Nguyên (Tết Rằm tháng Bẩy, lễ Vu Lan Bồn, lễ xá tội vong nhân theo
truyền thuyết của Phật giáo). Lễ này thường được tổ chức tại chùa và gia đình gia chủ. Ở
tại chùa, người ta thường làm cỗ chay chân tế cầu kinh Vu Lan cho những linh hồn lang
thang, không nơi nương tựa. Còn ở gia đình thì cúng gia tiên, đốt vàng mã cầu nguyện
cho họ vì theo quan niệm dân gian, vào ngày này, các phạm nhân ở cõi âm được tha tội
một ngày. Lễ cúng ở tại gia là những lễ vật đơn giản như bánh đa, khoai lang, bánh bỏng,
ngô bắp, trứng luộc, xôi chè cháo hoa, vàng mã, tiền vàng và những giấy cắt hình cái áo,
cái quần, hoa quả…Khi cúng xong, người già, trẻ nhỏ giành và chia nhau các thứ đó gọi
là tục cướp chúng sinh.

Tết Trung Thu (Tết trông trăng, Tết thiếu nhi): Thời gian vào ngày Rằm tháng
Tám – đây là thời điểm trăng sáng nhất và to nhất so với trăng rằm các tháng khác. Người
lớn dựa vào Tết này để uống rượu, thưởng trăng. Vào ngày này, người ta thường bày biện
tổ chức cỗ cho trẻ nhỏ gồm bánh dẻo, bánh nướng, bồng bưởi, hồng, cốm, chuối…và
xem múa sư tử, kết hoa rước đèn đón trăng.

Tết Trùng Cửu (Tết Trùng Dương): được tổ chức vào ngày 9 tháng 9. Tết này dựa
vào tích Hoàn Cảnh thời Hán theo Phi Tràng Phòng học phép tiên. Một hôm Phòng bảo

48
Cảnh rằng: “Mùng 9 tháng 9 nhà anh có nạn to, bảo người nhà mang túi uống rượu thì
qua khỏi nạn”. Cảnh nghe lời, đem hết người nhà lên núi. Tối về nhà, thấy các con vật
nuôi chết hết. Theo lễ này, hàng năm vào ngày 9 tháng 9 người ta làm lễ, rồi cùng lên núi
bẻ cành thù du, uống rượu cúc. Khi du nhập vào Việt Nam, các văn nhân nước ta cũng
vào dịp này đi chơi núi, uống rượu, hái hoa và ngâm vịnh thơ phú.

Tết Trùng Thập (Tết thầy thuốc): được tổ chức vào ngày 10 tháng 10 với quan
niệm đây là ngày cây thuốc hội đủ khí âm dương nên rất tốt (theo sách Dược lễ). Ở Việt
Nam, vào ngày này, dân chúng thường sửa soạn lễ gia tiên còn những người được chữa
lành bệnh thì chuẩn bị lễ để tạ ơn thần thánh và khoản đãi các đệ tử, bạn bè.

Tết Cơm mới (Tết Hạ Nguyên): Đây là tết của cư dân nông nghiệp, thường vào
các ngày từ mồng 1 đến 10 tháng 10 âm lịch. Theo đạo Lão, ngày đó ông thần Tam
Thanh xuống trần gian xem xét việc tốt xấu để về tâu với Ngọc Hoàng. Để báo công với
thần, mời thần hưởng lộc của Trời đã ban cho muôn dân, đồng thời cúng tổ tiên, mời tổ
tiên cùng hưởng, dân ta đã lấy lúa mới gặt về, phơi xong, xay giã làm cơm tiến hành lễ
cúng cơm mới, đặc biệt là cơm nếp. Cơm nếp cùng với chim cu, chim ngói là đặc sản thu
đông ở vùng quê miền Bắc nước ta:
Bao giờ cho đến tháng Mười
Nấu nồi cơm nếp vừa cười vừa ăn
Các dân tộc Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên đều có loại tết Cơm mới này, tổ chức
vào những ngày khác nhau sau vụ gặt.

Tết Ông Táo: Ngày 23 Tết được gọi là Tết Ông Công, ông Táo - vị thần tuy ba mà
một trong tam vị nhất thể gồm Thổ công - Thổ địa - Thổ kỳ được Việt Nam hóa thành
huyền tích 2 ông một bà - vị thần Đất- vị thần Nhà, vị thần Bếp núc. Vào ngày này, người
ta làm cỗ cúng tiến “ông Táo chầu Giời” tâu việc cư xử gia đình trong một năm. Lễ vật
gồm 2 mũ ông 1 mũ bà và 3 con cá chép để Táo quân lên chầu trời. Cá chép khi cúng
xong đươc thả phóng sinh xuống ao hồ sông lạch. Trước đây, ngày 23 tháng Chạp người
ta còn dựng cây nêu20. Cây nêu mang ý nghĩa phổ quát của Cây Vũ Trụ còn gọi là cây
mặt trời, mà tượng hình trên cây nêu là túm lông gà sống thiến, miếng vải đỏ hay vật đan
hình tròn mắt lưới. Sự tích cây nêu Việt Nam là một huyền thoại cổ đã được Phật hóa về
20
Theo Nguyễn Văn Huyên: Cây nêu là một cây tre cao, tước hết cành nhưng còn để trên ngọn những chiếc lá hoặc
buộc vào đó một túm lông gà trắng, một mớ lá đa hay vạn niên thanh. Gần đỉnh treo một cái võng tre buộc những
chiếc chuông con và khánh đất nung, phát ra âm thanh nhẹ và êm khi có gió. Trên đỉnh treo đèn để thắp vào ban
đêm. Dưới võng buộc mũ thần, những miếng trầu, lá dứa và gai xương rồng.

49
cành tre treo áo cà sa đức Phật xua đuổi bầy quỷ xứ từ biển Đông, lợi dụng lúc cuối năm
vô chủ - thần linh ào vào đất liền tranh giành lãnh thổ của Con người. Với ý đó, việc
dựng cây nêu vào ngày này có nghĩa là để ánh sáng xua tan đêm tối để mặt trời có chỗ
đậu ngay khi vừa tỉnh giấc Xuân.
2.3.2. Lễ Hội

 Khái niệm
Cư dân Việt và cư dân các tộc người khác trên lãnh thổ Việt Nam là những cư dân
làm nông nghiệp. Đối với họ, chu kỳ làm việc được xác lập theo chu kỳ mùa vụ. Thông
thường, hết vòng quay của mùa vụ này sang vòng quay mùa vụ khác thường có một
khoảng thời gian nghỉ, thực chất là thời gian nghỉ của đất chứ không phải của con người.
Khoảng thời gian nghỉ ngơi đó là dịp để người dân cảm ơn thần linh đã phù hộ cho họ
một mùa màng đã qua, đồng thời cầu xin một mùa vụ phong đăng sắp tới.
Đối tượng để người dân cảm ơn là các thế lực thần linh đã giúp họ trong vụ trước
và vụ sau. Căn cứ vào những tư liệu khảo cổ và cổ sử, giống lúa và vụ lúa đầu tiên của
người nông dân gieo trồng vào vụ mùa, là giống lúa ưa nước, tháng 4 gieo mạ, tháng 6
cấy, tháng 10 thu hoạch. Sau này, do đất chật người đông, người nông dân “thâm canh
tăng vụ” nên có thêm vụ chiêm gieo trồng vào vụ đông - xuân, là loại lúa chịu hạn và
chịu lạnh.
Với cơ chế hình thành ấy, lễ hội sinh ra là một hoạt động của cả cộng đồng, của cả
một làng có chung một vị thần thờ phụng. Đây là nơi, người dân gửi gắm toàn bộ số phận
của mình vào sự trợ giúp của các thần, cũng là dịp bày tỏ sự cảm ơn của người dân đối
với họ bằng những hành vi cụ thể, đồng thời là dịp để người dân nghỉ ngơi, vui chơi sau
một thời gian lao động vất vả với những trò chơi, trò diễn hướng vào nhân vật phụng thờ.

Có thể hiểu lễ hội là một sinh hoạt văn hóa cộng đồng diễn ra ở một địa phương,
trong thời gian nhàn rỗi, nhằm nhắc lại một sự kiện hoặc một nhân vật lịch sử hay huyền
thoại nào đó có ảnh hưởng tới cộng đồng, đồng thời là dịp để con người thể hiện cách
ứng xử văn hóa của mình với thần thánh và con người trong xã hội.
 Phân loại lễ hội
Hiện nay ở nước ta có nhiều cách phân loại lễ hội khác nhau:
− Lê Thị Nhâm Tuyết phân lễ hội thành 5 loại:
+ Lễ hội nông nghiệp

50
+ Lễ hội phồn thực, giao duyên
+ Lễ hội văn nghệ
+ Lễ hội thi tài
+ Lễ hội lịch sử
− PGS. TS Hoàng Lương chia làm 3 loại:
+ Lễ hội phản ánh cuộc sống lao động sản xuất
+ Lễ hội phản ánh cuộc đấu tranh giữ làng giữ nước: chống giặc, thiên tai…
+ Lễ hội đáp ứng: phản ánh đời sống văn hóa tinh thần, phong tục tập quán, tín
ngưỡng…
− Lê Trung Vũ chia lễ hội thành:
+ Lễ hội tiền nông nghiệp: tái hiện những sinh hoạt tiền nông nghiệp: san bắt; đánh
cá…
+ Lễ hội nông nghiệp: tái hiện sinh hoạt nông nghiệp (nghề tằm tang, chăn nuôi…)
+ Lễ hội lịch sử: tái hiện các hiện tượng lịch sử
+ Các đề tài khác: tái hiện những sinh hoạt khác của xã hội như văn hóa, nghệ
thuật, phong tục, thề nguyền, tôn giáo…
− TS. Huỳnh Công Bá chia lễ hội thành ba loại lớn:
+ Lễ hội nông nghiệp (chủ yếu là lễ hội nông nghiệp)
+ Lễ hội lịch sử (tưởng niệm các anh hùng dựng nước và giữ nước, các nhân vật có
công với dân với nước)
+ Lễ hội tín ngưỡng (thuộc về các tín ngưỡng thờ thần, thờ Mẫu ở địa phương và
các lễ hội tôn giáo)
Do tính phức hợp của lễ hội, khi phân loại các nhà nghiên cứu đã căn cứ vào bản
chất, đối tượng được tôn thờ cùng nghi lễ, vật phẩm của lễ hội đó để đưa ra một cách
phân loại riêng theo quan điểm của cá nhân. Tuy nhiên, cách phân loại nào cũng có mặt
ưu và mặt hạn chế, không tránh khỏi thiếu sót. Hơn nữa, hiện nay có nhiều lễ hội xuất
hiện với những nội dung và hình thức tổ chức khác nhau. Do đó, khi nhìn nhận về lễ hội,
chúng tôi cho rằng về cơ bản lễ hội có hai hình thức chính:
Lễ hội dân gian truyền thống: là đại đa số những lễ hội đã được hình thành, tồn tại
và phát triển trong lịch sử. Các lễ hội dân gian truyền thống chủ yếu bao gồm các “lễ hội
làng”, gốc là các lễ hội nông nghiệp, gắn với cuộc sống lao động sản xuất của các tầng

51
lớp cư dân. Về thời gian, những lễ hội này xuất hiện và tồn tại từ trước năm 1945 21.
(Trong giáo trình này, chúng tôi chủ yếu nghiên cứu hình thức lễ hội dân gian truyền
thống)
Lễ hội hiện đại: là những lễ hội ra đời từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nội
dung và tính chất của lễ hội hiện đại chủ yếu gắn với các nhân vật và sự kiện lịch sử liên
quan đến cách mạng và kháng chiến, với những chiến công do Đảng Cộng sản Việt Nam
và Bác Hồ vĩ đại lãnh đạo. Đồng thời, chúng còn là những hoạt động văn hóa xã hội
mang nặng yếu tố kinh tế của đất nước trong giai đoạn mới của quá trình Công Nghiệp
Hóa- Hiện Đại Hóa đất nước, sau khi Đảng và Nhà nước tiến hành cải cách và mở cửa để
phù hợp với tình hình mới với một số tên gọi như: Lễ hội du lịch…; Liên hoan du lịch…;
Festival du lịch..22.
 Thời gian và không gian của lễ hội
Lễ hội nông nghiệp được mở theo chu kỳ thời vụ gieo cấy. Khi lúa mùa đã cấy
xong, vụ gặt chưa tới, bão lụt đã qua và gió mát tháng Tám là “gió vào bồng lai”, chúng
ta có hội mùa Thu. Còn khi cấy xong lúa chiêm, trời đất kết thúc vòng quay bốn mùa
(Xuân, Hạ, Thu, Đông) hoặc hai mùa mưa nắng, vũ trụ đổi mới để đón mừng năm mới lại
cũng là những lúc nông nhàn, người xưa mở hội Xuân. 23 Vậy lễ hội mở vào hai mùa
Xuân- Thu nhị kì. Theo ý kiến của các nhà nghiên cứu lịch sử lễ hội thì lúc đầu lễ hội
nông nghiệp mở vào mùa Thu, đấy là thời tiết thích hợp của lúa mùa. Dần dần đất đai
tăng lên, trình độ thủy lợi của dân chúng khá hơn nên người ta đã tăng năng suất thu
hoạch bằng cách thâm canh tăng vụ. Từ chỗ mỗi năm chỉ cấy một vụ là vụ mùa, sau này
người ta cấy thêm một vụ chiêm nữa vào lúc giáp Tết Nguyên Đán và thu hoạch vào
khoảng tháng 5 Âm lịch. Vì vậy, thời gian mở hội cũng chuyển dần từ mùa Thu sang mùa
Xuân. Sự có mặt của hội Xuân bên cạnh hội Thu đã được thư tịch cổ Trung Quốc ghi
chép, sách Tùy Thư đã viết về phong tục của người Việt vào giữa thiên nhiên kỷ thứ nhất
sau Công Nguyên như sau: “Năm nào đến ba ngày Nguyên Đán người ta cũng dọn cỗ
bàn linh đình cúng tổ tiên, trai gái ăn chay và dùng hương hoa niệm Phật rồi rủ nhau
chơi đu, ném còn, hát múa, kéo co- bên nào được cuộc thì uống rượu, bên nào thua cuộc
thì phải chịu uống nước lã. Tháng Bảy làm hình mã đốt cúng vong hồn. Trong làng xóm

21
Dương Văn Sáu, Lễ hội Việt Nam trong phát triển du lịch, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, tr220
22
Hình thức lễ hội này chúng tôi sẽ làm rõ trong một công trình nghiên cứu chuyên biệt khác
23
Lê Trung Vũ, Lễ hội trong đời sống nhân dân xưa và nay

52
có hội bơi trải, đua thuyền. Tháng Tám nhà nông giết trâu bò tế thần đất, nói kệ, bày
tượng, chơi trò leo cột, đập tay hay làm lễ Phật cầu yên”.24
Như vậy, bước vào đầu một vụ gieo cấy hay sau khi thu hoạch, người nông dân đều
tổ chức lễ hội để cầu nguyện thần linh phù hộ và tạ ơn sự trợ giúp của các thần chuẩn bị
cho một mùa tiếp theo đầy hứa hẹn. Do đó, mở hội cũng là công việc cần thiết trong quá
trình làm ăn của người nông dân, là một mắt khâu quan trọng trong chu trình sản xuất nông
nghiệp của họ.
Lễ hội có điểm quy tụ để tập hợp dân làng, để thực hiện nghi thức và yêu cầu của
nó. Không gian tổ chức lễ hội là không gian của làng. Đó là không gian tự nhiên như gò,
bãi, đống, bến sông, bãi bồi, ven đê… Tự nhiên là cái nôi đã sinh ra và nuôi dưỡng loài
người. Việc chọn những không gian tự nhiên làm nơi mở hội hàng năm là một trong
những cách ứng xử của con người muốn hòa hợp với thiên nhiên xung quanh. Bên cạnh
không gian tự nhiên như đã nói ở trên, lễ hội truyền thống còn được tổ chức ở không gian
linh thiêng xã hội hay còn gọi là không gian nhân tạo: đền, miếu, đình, chùa. Đó là hệ
thống các công trình kiến trúc mang sắc thái địa phương dùng làm nơi thờ tự các thần,
đồng thời cũng là nơi lưu giữ, bảo tồn và phát huy các sinh hoạt văn hóa dân gian của
làng, trong đó, lễ hội là một hoạt động đặc biệt, độc đáo và quan trọng nhất.
Có thể nói, không gian và thời gian của lễ hội không phải là không gian bình
thường mà đó là những thời điểm mạnh, là không gian linh thiêng. Thời gian và không
gian này được quy định sẵn, mọi người chờ đợi nó đến và càng chờ đợi lâu bao nhiêu thì
lễ hội càng trở nên trọng thể bấy nhiêu.

 Cấu trúc lễ hội

Lễ hội bao gồm hai phần là lễ và hội:

Lễ ở đây mang hai nghĩa cơ bản là tế lễ và lễ giáo. Lễ là hệ thống các hành vi,
động tác được tiến hành nhằm biểu hiện lòng tôn kính của dân làng đối với các thần linh 25
- lực lượng siêu nhiên nói chung nào đó. Các hành vi trong lễ hội không đơn lẻ mà được
liên kết với nhau có hệ thống, trật tự và có tính quy phạm nghiêm ngặt thường gồm: Lễ
cáo yết; Lễ tỉnh sinh; Lễ rước nước; Lễ mộc dục; Lễ tế gia quan; Đám rước; Tế đại tế; Lễ
túc trực; Lễ hèm. Các lễ vật và quy trình tế lễ gắn với các đặc thù của đối tượng thờ cúng.

24
Sách đã dẫn, tr48
25
Lê Văn Kỳ, Lễ hội cổ truyền, NXB Khoa học- xã hội, Hà Nội

53
Lễ mang màu sắc tôn giáo tâm linh nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng và đảm bảo nền
nếp trật tự cho hội được hoàn thiện hơn.

Hội là hoạt động vui bằng vô số các trò chơi dân gian (trò diễn, hoạt động văn hóa
nghệ thuật) diễn ra tại một địa điểm nhất định vào một dịp hoặc cuộc lễ kỷ niệm sự kiện
xã hội hay tự nhiên nhằm diễn đạt sự phấn khích hoan hỉ của công chúng dự lễ hội 26 làm
sống lại các truyền thống sinh hoạt vui chơi đã từng ăn sâu vào lối sống của cộng đồng.
Các sinh hoạt trong hội mang tính dân dã, phóng khoáng để dân làng cùng bình
đẳng, chủ động tham gia vui chơi. Chơi hội là chơi thỏa thích, thoải mái, không bị ràng
buộc bởi lễ nghi, tôn giáo, đẳng cấp và tuổi tác: “Vui xem hát. Nhạt xem bơi. Tả tơi xem
hội”. Phần hội thể hiện tính cộng đồng và hiếu khách của người Việt Nam. Du khách vừa
có thể là người xem vừa có thể là người dự hội.
Hai yếu tố lễ và hội tưởng như hai yếu tố độc lập, tách rời và đối lập nhau: vật
chất- tinh thần; linh thiêng- đời thường nhưng thực ra chúng là hai mặt của một vấn đề.
Sự tồn tại của hai yếu tố ấy trong một lễ hội chính là sự thống nhất biện chứng của các
mặt đối lập của một vấn đề để lễ hội có thể tồn tại và phát triển được. 27Lễ và hội hòa
quyện cùng nhau biểu thị một giá trị nào đó của cộng đồng. Có lễ mà không có hội sẽ
giảm bớt vui, có hội mà không có lễ thì không còn ý nghĩa. Lễ hội phản ánh thực tế là
đạo và đời đều là một cuộc vui lớn của cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí, tín
ngưỡng, thi thố tài năng, biểu dương sức mạnh, tái hiện cuộc sống trong trường kỳ lịch
sử. Nó là một loại hình tổng thể bao gồm nhiều yếu tố dân gian luôn tương tác với nhau.
Lễ hội mang tính nhân văn sâu sắc vì nó là cuộc sống thứ hai của người dân, là bảo tàng
văn hóa sống động của cộng đồng.
 Giá trị của lễ hội

Giá trị hướng về nguồn: Lễ hội ra đời nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người
muốn hướng về trời đất với sự biết ơn, cộng cảm, giao hòa của cư dân nông nghiệp lúa
nước. Đó là cội nguồn tự nhiên mà con người là một bộ phận trong đó. Nhu cầu trở về
cội nguồn là nhu cầu vĩnh hằng của con người ở bất kì thời đại nào dù là ở xã hội nguyên
thủy, con người gần gũi với thiên nhiên hơn hay trong xã hội hiện đại ngày nay với sự
phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ, máy móc thì con người vẫn rất cần đến tự
nhiên và ngày càng có xu hướng trở về với cội nguồn tự nhiên của mình. Con người đi lễ
26
Đoàn Văn Chúc, Văn hóa học, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội
27
Trần Bình Minh, Những tương đồng giữa các lễ hội cổ truyền Đông Nam Á (trong so sánh với lễ hội cổ truyền
người Việt ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ), Hà Nội, 2000, tr120

54
hội là muốn hòa đồng với cảnh sắc thiên nhiên và tìm tới thần linh- những người có công
với dân với nước, có ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng.

Lễ hội mang trong mình những nghi thức, những trò diễn thường tái hiện lại lịch
sử của quê hương, đất nước, tái hiện lại đời sống của thần linh dù thần đó là thiên thần
hay các anh hùng dân tộc. Tổ chức lễ hội chính là làm thức dậy quá khứ, là thái độ trân
trọng quá khứ của con người. Con người đến với lễ hội là đến với lòng thành kính tổ tiên
và các bậc tiền nhân, nhắc nhở mọi người nhớ đến bổn phận và trách nhiệm của mình với
ông bà, tổ tiên, dòng tộc. Do đó, có thể thấy, lễ hội có giá trị lớn trong việc giáo dục đạo
đức, giáo dục truyền thống lịch sử của đất nước, quê hương.

Mọi lễ hội đều mang trong mình bản chất trở về cội nguồn. Chính cái bản chất trở
về cội nguồn tự nhiên, giống nòi đã tạo nên tính nhân bản bền vững cho các lễ hội và đáp
ứng cho nhu cầu vĩnh hằng của con người, phù hợp với xã hội loài người ở mọi thời đại,
đặc biệt khi quá trình giao lưu văn hóa quốc tế và vấn đề gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
ngày càng được đề cao.

Giá trị cân bằng đời sống tâm linh: Lễ hội là nơi diễn ra các hoạt động vui chơi
giải trí: các cuộc thi tài; các hình thức diễn xướng nghệ thuật khác nhau và mọi người đều
có thể đến đó một cách tự do, không bị ràng buộc bới tuổi tác, giới tính, địa vị sang hèn.
Trong môi trường lễ hội, con người được tận hưởng những giây phút thiêng liêng, bày tỏ
sự sùng kính với các vị thần, thể hiện sự giao hòa với thiên nhiên mà còn được thỏa sức
sáng tạo các giá trị văn hóa tạo niềm vui, niềm phấn khởi cho chính mình.

Lễ hội cổ truyền là “thời điểm mạnh”, là “cuộc đời thứ hai” bên cạnh cuộc đời
hiện hữu. Nói cách khác, lễ hội là đời sống tâm linh bên cạnh đời sống vật chất và tinh
thần. Đời sống tâm linh là đời sống mà con người hướng về cái thiêng liêng, cao cả, cái
chân, thiện, mỹ - cái khó có thể tìm thấy trong đời sống hiện thực trần tục. Tất cả sự linh
thiêng, cộng cảm, hoành tráng đẹp đẽ ấy của lễ hội chính là “trạng thái thăng hoa từ đời
sống hiện thực, vượt lên trên đời sống hiện thực” 28. Trạng thái cảm xúc đó rất cần thiết
cho cuộc sống hiện đại ngày nay với sự vận hành của máy móc một mặt tạo nên sự đầy
đủ, giàu có về mặt vật chất nhưng mặt khác khiến con người bị “chương trình hóa” theo
nó để rồi rất dễ tạo nên những dồn nén, ức chế về thần kinh và tâm thần, làm khô cứng
đời sống tinh thần và tâm linh, làm thui chột khả năng hòa đồng và sáng tạo của con

28
Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam

55
người. Không ai có thể phủ nhận rằng không khí vui tươi, linh thiêng ngày hội làm cho
mỗi người trút bỏ được những lo âu, phiền muộn của cuộc sống đời thường, thúc đẩy quá
trình lao động sáng tạo, khiến mọi người sống yêu thương và nhân ái hơn.

Giá trị cố kết cộng đồng: Lễ hội bao giờ cũng là của một cộng đồng người nhằm
biểu dương những giá trị văn hóa và sức mạnh của cộng đồng, tạo nên tính cố kết cộng
đồng. Có thể hiểu cộng đồng với những phạm vi và tính chất khác nhau: Đó có thể là
cộng đồng làng; cộng đồng nghề; cộng đồng tôn giáo; cộng đồng địa phương hay cộng
đồng gia tộc.

Lễ hội thể hiện rõ mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với tập thể,
giữa tập thể với cộng đồng. Đây là dịp để các làng xã biểu dương sức mạnh tập thể, lực
lượng của mình. Trong môi trường như vậy, nó có điều kiện thể hiện vai trò tập hợp, quy
tụ gắn kết và điều phối mọi tầng lớp người trong một không gian văn hóa thuộc về cộng
đồng.

Lễ hội gần như là dịp duy nhất phô diễn những sinh hoạt văn hóa cộng đồng từ
múa hát đến các hình thức diễn xướng sân khấu cổ truyền, các cuộc thi tài mang tính
thượng võ, các trò diễn mang tính phồn thực, vui chơi giải trí, đến việc thưởng thức các
món ăn phong tục. Qua lễ hội, mọi người có dịp gắn bó với nhau, cùng bày tỏ sự đồng
cảm, cộng cảm của mình trong các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.

Quá trình mở hội cũng là quá trình tập hợp dân chúng dưới sự che chở thống nhất
của một vị thần được thờ. Nói cách khác, lễ hội không chỉ là môi trường để con người
cộng cảm mà còn để cộng mệnh với nhau. Cộng mệnh là sự gắn bó giữa những con người
trong cộng đồng thông qua vận mệnh của cộng đồng. Đó là việc cùng suy tôn, tôn thờ
một biểu tượng có sức mạnh siêu nhiên bảo vệ cho sự tồn vong của cộng đồng. Việc suy
tôn những biểu tượng bảo vệ cho sự tồn vong của cộng đồng thể hiện tập trung trong các
nghi thức lễ của lễ hội. Trong lễ hội, từ sự cộng mệnh tới cộng cảm đều thông qua các
hoạt động của lễ và hội. Ngay trong cộng mệnh đã có cộng cảm, đó là sự đồng cảm về
các hoạt động tâm linh và sinh hoạt văn hóa cộng đồng, đồng cảm không chỉ giữa con
người với con người trong cộng đồng mà còn giữa con người với thần linh, vươn tới
trạng thái hòa đồng mà con người luôn khát khao, mong ước và hi vọng có được.

Giá trị bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc: Đến với lễ hội, con người
không chỉ với ước vọng giao cảm, giao hòa với siêu nhiên và tự nhiên mà còn trực tiếp

56
tham gia vào quá trình tái tạo và sang tạo văn hóa. Lễ hội là một hình thức diễn xướng
nguyên hợp và tổng hợp giữa lễ và hội, giữa các hình thức nghệ thuật khác nhau như ca
nhạc, vũ đạo, hội họa, giữa vui chơi giải trí với đấu sức thi tài, giữa tính thiêng liêng của
thần linh với tính trần tục của người đời. Trong lễ hội cũng không có sự phân biệt rạch
ròi giữa người trình diễn và người thưởng thức mà mọi người trong cộng đồng đều hứng
khởi cùng nhau tham gia vào quá trình sáng tạo và trao truyền các giá trị văn hóa cộng
đồng. Chính trong môi trường ấy của lễ hội nhiều giá trị văn hóa được bảo lưu, sáng tạo
và trao truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác, đảm bảo tính thống nhất văn hóa trong cộng
đồng, góp phần bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Nếu không có nghi lễ và hội
hè thì các làn điệu dân ca như quan họ, hát xoan, hát dặm, các điệu múa, các hình thức
sân khấu, các trò chơi, trò diễn sẽ ra đời và duy trì như thế nào trong lòng dân tộc suốt
hàng nghìn năm qua, điều đó đồng nghĩa với bản sắc văn hóa dân tộc còn hay mất?

57
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Anh (chị) hãy phân biệt hai khái niệm Phong tục và Tập quán. Cho ví dụ.
2. Tại sao nói tang ma của người Việt thấm đượm triết lý âm dương ngũ hành?
3. Anh (chị) hãy so sánh hôn nhân cổ với hôn nhân cải biên của người Việt.
4. Anh (chị) hãy trình bày những điều kiện hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu.
5. Anh (chị) hãy phân tích tính không gian và thời gian của lễ hội truyền thống Việt Nam.
6. Anh (chị) hãy trình bày những đặc điểm cơ bản trong tập quán nhà ở truyền thống của
người Việt.
7. Tại sao nói: lễ hội có giá trị cân bằng đời sống tâm linh, giá trị cố kết cộng đồng, giá
trị hướng về nguồn?
8. Anh (chị) hãy phân tích những cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người
Việt.
9. Anh (chị) hãy trình bày hiểu biết về Tết Nguyên Đán của người Việt.

58
Chương 3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ VĂN HÓA VIỆT NAM
3.1. Văn hóa Việt Nam từ nguồn gốc đến thế kỷ X
3.1.1. Những nền văn hóa thời tiền sử
Trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay, khoảng trên dưới 50 vạn năm trước đây, đã có
dấu vết cuộc sống của con người. Các nhà khảo cổ và cổ nhân học đã tìm thấy những
công cụ đá thô sơ của thời kỳ sơ kỳ đá cũ tại Núi Đọ (Thanh Hóa), Hàng Gòn, Dầu Giây
(Xuân Lộc Đồng Nai) và răng hóa thạch của người vượn ở hang Thẩm Hai, Thẩm
Khuyên (Lạng Sơn).
Hậu kỳ đá cũ để lại dấu vết trên văn hóa Sơn Vi (Phú Thọ) có niên đại cách ngày
nay khoảng từ 30.000-20.000 đến 12.000-11.000 năm.
Từ văn hóa Sơn Vi phát triển lên văn hóa Hòa Bình-Bắc Sơn thuộc sơ kỳ đá mới
cách ngày nay khoảng trên dưới 1 vạn năm. Văn hóa Hòa Bình phân bố rộng khắp vùng
Đông Nam Á lục địa và hải đảo mà ở Việt Nam đã tìm thấy cội nguồn của dòng kỹ nghệ
công cụ cuội29 từ văn hóa Sơn Vi.
Sau văn hóa Hòa Bình-Bắc Sơn khi biển tiến Flandrian dừng và bắt đầu quá trình
biển lùi, các đồng bằng châu thổ dần dần hình thành thì các lớp dân cư nguyên thủy
chuyển cư xuống vùng ven biển, để lại dấu tích qua nhiều văn hóa và di tích khảo cổ học.
Đó là văn hóa Quỳnh Văn (Nghệ An), văn hóa Đa Bút (Thanh Hóa), các di tích Soi Nhụ
(Quảng Ninh), Cái Bèo (Hải Phòng), Bàu Dũ (Quảng Nam)…tồn tại trong khoảng cách
ngày nay 7.000-4.000 năm.
Cách ngày nay khoảng 4.000-5.000 năm, văn hóa hậu kỳ đá mới phân bổ rộng
khắp lãnh thổ Việt Nam từ Bắc chí Nam, từ miền rừng núi đến đồng bằng châu thổ, từ đất
liền đến hải đảo. Đó là văn hóa Hà Giang, văn hóa Mai Pha (Lạng Sơn), văn hóa Hạ
Long (Quảng Ninh), văn hóa Bàu Tró (Quảng Bình), văn hóa Biển Hồ (Gia Lai) và nhiều
di tích văn hóa mà gần đây khảo cổ học phát hiện được ở hầu khắp mọi địa hình.
3.1.2. Văn hóa Đông Sơn30(đầu thiên niên kỷ I TCN đến thế kỷ I,II SCN)

29
Phan Huy Lê (2012), Lịch sử và văn hóa Việt Nam tiếp cận bộ phận, NXB thế giới, tr.19.
30
Cách đây khoảng 4.000 năm, Việt Nam bước vào thời đại kim khí, từ thời đại đồ đồng (giới khảo cổ gọi là đồng
thau-Bronze) tiến lên thời đại đồ sắt. Cuộc cách mạng luyện kim tạo nên những chuyển biến sâu sắc trong toàn bộ
đời sống kinh tế, xã hội của con người. Đây là thời kỳ hình thành những trung tâm văn minh và Nhà nước đầu tiên
trên lãnh thổ Việt Nam. Đó là văn hóa Đông Sơn và Nhà nước Văn Lang-Âu Lạc ở miền Bắc, văn hóa Sa Huỳnh với
Nhà nước Chămpa (lúc đầu gọi là nước Lâm Ấp) ở miền Trung và văn hóa Óc Eo với nhà nước Phù Nam ở miền
Nam.

59
Văn hóa Đông Sơn31 phân bố rộng khắp miền Bắc Việt Nam từ lưu vực sông
Hồng đến sông Mã, sông Lam và tồn tại trong khoảng thế kỷ VII, VIII TCN đến thế kỷ I,
II SCN. Văn hóa Đông Sơn là đỉnh cao phát triển của đồ đồng và đã chuyển sang sơ kỳ
đồ sắt, kết quả hội tụ của nhiều dòng văn hóa tiền Đông Sơn thuộc thời đại đồng.
Đến giai đoạn Đông Sơn, đồ đá không còn nhiều, phần lớn là đồ trang sức
như vòng tay, vòng tai… Đồ gốm mang nặng ý nghĩa thực dụng, chế tạo đơn sơ và thường
là gốm trơn không trang trí hoặc trang trí bằng những hoa văn đơn điệu, chủ yếu các loại
nồi, chõ, bình, chậu, bát, khuôn đúc, nồi nấu và rót đồng, chì lưới, dọi xe chỉ, tượng chó,
vịt…
3.1.3. Văn hóa Sa Huỳnh (thiên niên kỷ II và I TCN đến thế kỷ đầu CN)
Các di tích văn hóa Sa Huỳnh32 thường tìm thấy trên các gò đồi và cồn cát ven biển,
phân bố ở miền Trung từ Quảng Trị đến Bình Thuận vào đến miền Đông Nam Bộ. Nền văn
hóa này gồm giai đoạn tiền Sa Huỳnh và Sa Huỳnh, phát triển từ sơ kỳ thời đại đồng đến
sơ kỳ thời đại sắt.
Trong văn hóa Sa Huỳnh thuộc sơ kỳ thời đại đồ sắt, di vật thường tìm thấy là các
mộ chum, đồ gốm màu đỏ và màu chì, nhiều đồ sắt như dao, rìu, thuổng và đồ trang sức
đa dạng…Do sự mở rộng địa bàn cư trú nên bên cạnh sắc thái biển truyền thống của văn
hóa tiền Sa Huỳnh vẫn chiếm ưu thế, đã xuất hiện sắc thái văn hóa núi và sự hòa đồng
sắc thái biển-núi trong văn hóa Sa Huỳnh.
3.1.4. Văn hóa Óc Eo (thiên niên kỷ II và I TCN)
Trên miền đất Nam Bộ, nhất là trên lưu vực sông Đồng Nai, Vàm Cỏ. Trong khảo
cổ học đã phát hiện nhiều di tích văn hóa phát triển từ sơ kỳ đồng đến sơ kỳ sắt. Vào
những thế kỷ trước và đầu công nguyên, nền văn hóa Óc Eo ra đời và phát triển trên lưu
vực sông Hậu, sông Tiền đến thượng lưu sông Đồng Nai. Địa bàn văn hóa Óc Eo nằm
bên “con đường tơ lụa trên biển” nên sớm có quan hệ giao lưu với Trung Quốc, Ấn Độ và
cả thế giới La Mã. Văn hóa Óc Eo chịu nhiều ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Ấn Độ.
3.1.5. Văn hóa Việt Nam thời Bắc thuộc33
Giai đoạn này trong lịch sử dân tộc thường gọi là thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc. Vào
cuối thiên niên kỷ I TCN (năm 208 TCN), Âu Lạc bị rơi vào tình trạng bị đô hộ vào năm
179 TCN, khi Triệu Đà xâm chiếm thành Cổ Loa. Năm 111 TCN, Nhà Hán chiếm được

31
Khái niệm Văn hóa Đông Sơn ra đời trong công trình khảo cứu của R.H.Geldern năm 1934.
32
Sa Huỳnh ở Quảng Ngãi
33
Thời kỳ nước ta bị phong kiến phương Bắc đô hộ gần 1000 năm.

60
nước Nam Việt, đưa địa bàn nước Âu Lạc vào bản đồ của đế chế, đổi vùng đất của Âu Lạc
thành châu Giao Chỉ, cử chức quan thứ sử đứng đầu châu, dưới đó là bảy quận đứng đầu là
thái thú. Thời kỳ này kéo dài từ năm 111 TCN đến năm 938 với sự ra đời của vương triều
Ngô Quyền sau chiến thắng Bạch Đằng, mở ra kỷ nguyên độc lập cho nước nhà.
Trong diễn trình văn hóa thời kỳ này có hai xu hướng đối lập: Hán hóa và chống
Hán hóa mạnh mẽ. Trong bối cảnh này, văn hóa Việt Nam có ba đặc trưng cơ bản:
Một là, về sự tiếp xúc và giao thoa văn hóa Việt-Hán: sự tiếp xúc này chủ yếu mang tính
áp đặt.
Hai là, giao lưu văn hóa tự nhiên Việt-Ấn đã đưa Phật giáo du nhập vào Việt Nam
trong những thế kỷ đầu công nguyên, làm nên trung tâm Phật giáo lớn nhất thời kỳ bấy
giờ ở Đông Nam Á là thành Luy Lâu.
Ba là, giữ gìn, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc là đặc trưng quan trọng
nhất của văn hóa thời kỳ Bắc thuộc.
3.2. Văn hóa thời kỳ Đại Việt34 (thế kỷ X- nửa sau thế kỷ XIX)
Quốc gia Đại Việt đã hình thành dân tộc Đại Việt. Bắt nguồn từ cộng đồng Văn
Lang-Âu Lạc xưa, từ sau thế kỷ X, dân tộc Đại Việt ngày càng lớn mạnh. Diễn trình lịch
sử Việt Nam trong kỷ nguyên Đại Việt có những đặc điểm sau:
- Các vương triều liên tục kế tiếp nhau xây dựng quốc gia tự chủ, duy trì dòng chảy
lịch sử liên tục của quốc gia Đại Việt.
- Đất nước được mở rộng dần về phương Nam. Đến giữa thế kỷ XVIII, việc khai
phá Nam bộ cơ bản đã hoàn thành. Đến đầu thế kỷ XIX (1802) Việt Nam đã có một lãnh
thổ thống nhất từ Mục Nam quan đến mũi Cà Mau.
- Trong thời kỳ Đại Việt, nhân dân Việt Nam vẫn tiến hành nhiều cuộc đấu tranh
chống xâm lược của phong kiến phương Bắc. Đó là thời kỳ lịch sử đầy biến động, song
đã làm trỗi dậy tinh thần yêu nước của người Việt. Đây chính là kỷ nguyên phục hưng và
khẳng định bản sắc văn hóa dân tộc.
-Sự nghiệp phục hưng văn hóa lần thứ nhất diễn ra sau khi đất nước được giải
phóng khỏi ách Bắc thuộc. Sự nghiệp ấy đạt được nhiều thành tựu trong thời kỳ Lý-Trần
(thế kỷ XI-XIV).
- Sự nghiệp phục hưng văn hóa lần thứ hai diễn ra vào thế kỷ XV, sau khi đánh
thắng giặc Minh. Văn hóa phát triển rực rỡ từ đời Lê Thái Tổ đến đời Lê Thánh Tông.

34
Đại Việt là quốc hiệu của Việt Nam từ năm 1054 dưới thời vua Lý Thánh Tông.

61
Đến cuối thế kỷ XV, Đại Việt trở thành một trong những nước giàu mạnh nhất Đông
Nam Á.
- Cuối thế kỷ XVIII, diễn ra sự nghiệp phục hưng dân tộc lần thứ ba.
Tóm lại, sau 9 thế kỷ xây dựng kỷ nguyên Đại Việt, văn hóa Việt Nam đã khẳng
định được bản sắc văn hóa dân tộc trên tất cả các lĩnh vực: thể chế quản lý nhà nước, giáo
dục, thi cử, ngôn ngữ, chữ viết, luật pháp, nghệ thuật kiến trúc và tạo hình, lý luận quân
sự và y dược học dân tộc.
3.2.1. Đặc trưng văn hóa thời Lý-Trần (1009-1400)
3.2.2. Đặc trưng văn hóa thời Lê(1428-1527)
3.2.3. Đặc trưng văn hóa từ thế kỷ XVI đến năm 1858
3.3. Văn hóa Việt Nam giai đoạn từ 1858 đến 1945
Giai đoạn từ 1858 đến 1945, do chính sách cầu an thỏa hiệp của bộ phận chủ hòa
trong triều đình Nguyễn, Việt Nam mất dần chủ quyền và trở thành thuộc địa của thực
dân Pháp. Đây là thời kỳ diễn ra những va chạm mạnh mẽ giữa văn hóa cổ truyền dân tộc
và văn hóa phương Tây mang đậm màu sắc văn minh vật chất. Giai đoạn này có hai đặc
trưng văn hóa lớn đó là sự tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt-Pháp; Giao lưu
văn hóa tự nhiên Việt Nam với thế giới phương Tây.
3.4. Văn hóa Việt Nam sau cách mạng tháng Tám
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc
Việt Nam, làm thay đổi toàn diện xã hội Việt Nam trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội. Dưới góc độ văn hóa, cách mạng đã đem lại cho nhân dân Việt Nam
vị thế chủ nhân đất nước. Từ đây văn hóa Việt Nam tiếp nhận một luồng sinh khí mới,
bắt nguồn từ chủ nghĩa Max-Lenin.
3.4.1. Đường lối văn hóa của Đảng
Quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Max-Lenin, Đảng ta đã có một quan
điểm và phương pháp lãnh đạo đúng đắn đối với văn hóa. Đó là sự kết hợp những nguyên
tắc cách mạng với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Năm 1943, Đảng đã công bố Đề cương văn hóa Việt Nam với ba tiêu thức lớn :
khoa học-dân tộc-đại chúng. Đó là định hướng quan trọng cho sự ra đời của nền văn hóa
mới ở giai đoạn sau năm 1945.
Ngày 24/11/1946, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất được triệu tập tại Hà
Nội. Năm 1948, Hội nghị lần thứ hai họp tại chiến khu Việt Bắc. Tại Hội nghị này,

62
Trường Chinh- Tổng bí thư của Đảng đã trình bày bản báo cáo Chủ nghĩa Max và vấn đề
văn hóa Việt Nam. Đây là văn kiện lý luận đầu tiên mà Đảng ta vận dụng chủ nghĩa Max-
Lenin để giải quyết một số vấn đề của văn hóa Việt Nam.
Các đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2 (1957), lần thứ 3 (1962), lần thứ 4
(1968) do Đảng trực tiếp chỉ đạo đều đã đánh giá đúng đắn những thành tựu đã đạt được
và đề ra phương hướng cho chặng đường tới.
Các đại hội đại biểu lần thứ VI (1986), VII (1991) của Đảng cộng sản Việt Nam
trên tinh thần đổi mới đã khẳng định vai trò, vị trí của văn hóa, văn nghệ. Triển khai những
tư tưởng cơ bản của đại hội VII, nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung
ương khóa VII (1993) đã khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm
cao và chiều sâu về trình độ phát triển của một dân tộc, là sự kết tinh những giá trị tinh thần
tốt đẹp trong quan hệ giữa người với người, với xã hội với thiên nhiên. Văn hóa vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội vừa là mục tiêu của sự phát triển đó.
Tháng 7/1998, Hội nghị Trung ương V khóa VIII ra nghị quyết về vấn đề văn hóa,
tiếp tục khẳng định quan điểm ấy và chỉ ra phương hướng “Xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. Đây không chỉ là văn kiện mang
tính đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, mà còn thể hiện
tư duy lý luận văn hóa một cách toàn diện và sâu sắc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở Việt Nam. “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hóa nước ta là phát huy
chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự
cường, xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt
động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân
cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống
tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn
minh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”35
Như vậy, từ Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 đến nghị quyết Hội nghị lần
thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, vấn đề văn hóa trong quá trình phát triển
đất nước ngày càng được quan tâm sâu sắc và nhận thức sâu sắc hơn. Văn hóa Việt Nam
từ sau năm 1945 đến nay đã có những bước phát triển vượt bậc.
Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương khóa VIII, NXB
35

Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tr.54-55.

63
3.4.2. Khái quát một số đặc điểm của văn hóa Việt Nam từ sau cách mạng tháng
Tám đến nay
Thông qua nghiên cứu diễn trình văn hóa Việt Nam, có thể rút ra một số kết luận
về văn hóa Việt Nam. Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa mở, không khép kín, đó là nền
văn hóa đa dạng mà thống nhất vì có những giá trị định hướng đóng vai trò nhất thể hóa;
Văn hóa Việt Nam có tính chất phát triển liên tục, không đứt đoạn, có sức mạnh nội sinh
tiềm ẩn; Văn hóa Việt Nam có tính chất thích ứng nhanh, linh hoạt, mềm dẻo. Tuy nhiên
do điều kiện lịch sử đặc thù có sự xen kẽ và xếp chồng lên nhau của các hình thức kinh tế
-xã hội nên tiến trình phát triển của văn hóa truyền thống diễn ra theo cách hội nhập và
xếp tầng lên nhau giữa các lớp, các yếu tố văn hóa; Văn hóa Việt Nam mang nhiều giá trị
nhân bản, thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc, chủ yếu là các giá trị văn hóa tinh thần.

64
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Trình bày những đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam trong thiên niên kỷ đầu
Công nguyên.
2. Nêu những thành tựu của văn hóa Việt Nam thời kỳ Đại Việt (Nét đặc sắc của văn
hóa thời Lý-Trần, nét đặc sắc của văn hóa thời Lê, nét đặc sắc của văn hóa thế kỷ XVI
đến 1858).
3. Trình bày đặc trưng của văn hóa Việt Nam giai đoạn từ 1858 đến 1945.
4. Phân tích các đặc điểm của văn hóa Việt Nam giai đoạn từ sau cách mạng tháng Tám
năm 1945 đến nay.

65
CHƯƠNG 4. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG VĂN HÓA Ở VIỆT NAM
4.1. Khái niệm vùng văn hóa
Văn hóa như một thực thể phát triển không chỉ được nhìn nhận qua tiến trình lịch
sử (mặt cắt lịch đại) mà còn được xem xét trong không gian (mặt cắt đồng đại) để thấy rõ
hơn sự biến thiên của nó. Khi nghiên cứu không gian văn hóa, chúng ta không thể không
đề cập tới vấn đề vùng văn hóa, tức là tìm hiểu không gian nảy sinh, tồn tại, phát triển và
diệt vong của các nền văn hóa. Nói cách khác, vùng văn hóa được coi là dạng thức của
không gian văn hóa. Thông qua nghiên cứu vùng văn hóa, có thể thấy được sự đa dạng
của văn hóa tộc người, sự giao lưu, tiếp biến văn hóa, sự tương đồng và khác biệt giữa
các hiện tượng văn hóa, từ đó, góp phần vào việc nhận thức, kế thừa và phát huy truyền
thống văn hóa địa phương.

Vậy vùng văn hóa là gì? Vùng văn hóa được hiểu “là một vùng lãnh thổ trên đó,
các cộng đồng cư dân có những nét tương đồng về văn hóa hình thành do những tương
đồng về môi trường tự nhiên cũng như lịch sử xã hội.”36
4.2. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc phân vùng văn hóa

Khi phân vùng văn hóa, người ta dựa vào 2 yếu tố: Những yếu tố quy định bên trong
(đặc điểm về điều kiện tự nhiên; về cộng đồng tộc người; về mặt lịch sử; về phương thức
sản xuất, phương thức canh tác); những yếu tố biểu hiện bên ngoài (ngôn ngữ; phong tục
tập quán; tín ngưỡng, tôn giáo; văn học nghệ thuật thường là văn học dân gian). Những
yếu tố bên trong và bên ngoài đúc kết thành tính cách vùng, tính cách con người. Tất cả
các yếu tố địa lý, tộc người, những điều kiện lịch sử kinh tế, chính trị xã hội không chỉ
qua một thời gian nhất định mà phải trải qua một thời gian dài để tạo sự khác biệt giữa
vùng này với vùng khác.
4.3. Một số cách phân chia vùng văn hóa
Vấn đề phân chia thành vùng văn hóa ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu
với nhiều quan điểm khác nhau.
Ở phạm vi hẹp là văn học dân gian, PGS. Hoàng Tiến Tựu chia văn học dân gian của
người Việt thành 3 miền và các khu vực:
+ Miền Bắc (3 khu vực): Trung du Bắc Bộ; Đồng bằng sông Hồng; Khu vực sông

36
Chu Xuân Diên (2002), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh

66
+ Miền Trung (2 khu vực): Khu vực Nghệ Tĩnh (Khu vực sông Lam); Khu vực Bình
Trị Thiên (khu vực sông Gianh và sông Hương)
+ Miền Nam (3 khu vực): Khu vực sông Thu Bồn; Khu vực Nam Trung Bộ; Khu
vực đồng bằng Cửu Long
GS. Ngô Đức Thịnh trong cuốn Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam đã
chia nước ta thành 7 vùng, trong đó, mỗi vùng lại bao gồm nhiểu tiểu vùng văn hóa với
nhiều cấp độ khác nhau gồm:
+ Vùng văn hóa đồng bằng Bắc Bộ
+ Vùng văn hóa Tây Bắc và miền núi Bắc Trung Bộ
+ Vùng văn hóa Việt Bắc
+ Vùng văn hóa duyên hải Bắc Trung Bộ
+ Vùng văn hóa duyên hải Trung và Nam Trung Bộ
+ Vùng văn hoá Trường Sơn- Tây Nguyên
+ Vùng văn hóa Gia Định- Nam Bộ
Trong cuốn Các vùng văn hóa Việt Nam, NXB Văn học, 1995, GS. Đinh Gia Khánh
và Cù Huy Cận đã phân chia các vùng văn hóa thành 8 vùng tiêu biểu:
+ Vùng văn hóa Thăng Long- Đông Đô- Hà Nội
+ Vùng văn hóa đồng bằng miền Bắc Việt Nam
+ Vùng văn hóa Việt Bắc
+ Vùng văn hóa Tây Bắc
+ Vùng văn hóa Nghệ Tĩnh
+ Vùng văn hóa Thuận Hóa- Phú Xuân hay xứ Huế
+ Vùng văn hóa Tây Nguyên
+ Vùng văn hóa đồng bằng miền Nam
Với cái nhìn địa/ văn hóa, GS. Trần Quốc Vượng trong cuốn giáo trình Cơ sở văn hóa
Việt Nam do mình chủ biên cũng có cách phân vùng văn hóa riêng. Tác giả phân thành 6
vùng văn hóa bao gồm:
+ Vùng văn hóa Tây Bắc
+ Vùng văn hóa Việt Bắc
+ Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ
+ Vùng văn hóa Trung Bộ
+ Vùng văn hóa Trường Sơn- Tây Nguyên

67
+ Vùng văn hóa Nam Bộ
Mỗi phương án phân vùng văn hóa Việt Nam trên đều có cơ sở khoa học và mức độ
hợp lý riêng. Sự khác biệt về số vùng đáng kể ở một số phương án chỉ là do việc nâng các
tiểu vùng văn hóa lên thành các vùng văn hóa lớn. Do vậy, trong cuốn giáo trình này,
chúng tôi theo phương án phân chia thành 6 vùng văn hóa của GS. Trần Quốc Vượng.
4.4. Các vùng văn hóa ở Việt Nam
4.4.1. Vùng văn hóa Tây Bắc
 Điều kiện tự nhiên

Tây Bắc là tên gọi theo phương vị lấy Thủ đô Hà Nội làm điểm chuẩn. Vùng văn hóa
này bao gồm các tỉnh: Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Yên Bái và một phần tỉnh
Hoà Bình. Đây là vùng núi non hiểm trở, hùng vĩ vào bậc nhất ở nước ta và là một địa
bàn chiến lược trọng yếu về kinh tế và quốc phòng:“Phên dậu thứ hai án ngữ phía Tây”
(Dư địa chí, Nguyễn Trãi), là mảnh đất của ba con sông: sông Hồng; sông Đà; sông Mã
với ba d¶i níc mµu: tr¾ng, xanh, ®á. Do địa hình bị chia cắt bởi các dãy núi, các dòng
sông, khe suối nên Tây Bắc còn là nơi có nhiều tiểu vùng khí hậu khác nhau.

 Điều kiện xã hội

Thời sơ sử, Tây Bắc là một bộ phận của văn hóa Đông Sơn. Từ thế kỷ XI- XIV, tổ
tiên của người Thái theo dòng Nậm Tao thiên di vào Tây Bắc, đặc biệt là người Thái Đen
(XII-XIII), từ đó diễn ra quá trình hỗn dung văn hóa giữa dân tộc Thái và các dân tộc
khác. Thời cận hiện đại, với sự thiết lập ách thống trị lên miền Tây Bắc của người Pháp,
kế đó là công cuộc giải phóng dân tộc, nhất là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược đã thúc đẩy quá trình giao lưu văn hóa các dân tộc Tây Bắc cũng như giữa Tây
Bắc với miền xuôi.

Từ lâu đời, Tây Bắc đã là địa bàn tụ cư của nhiều dân tộc anh em: người Thái với các
ngành Đen, Trắng, Đỏ; người H’mông với các ngành Trắng, Xanh, Đen, Hoa; người Dao
với các ngành Quần chẹt, Nga Hoàng, Dao đỏ và các tộc người Mường, Khơmú, Laha,
Xinhmun, Tày. Người Thái vẫn là tộc người chiếm chủ thể ở vùng đất, sống tập trung ở
chân núi, ven đồi thấp hoặc các gò đất cao, sát đồng lúa hoặc ven các con suối tạo thành
bản và có một trình độ phát triển kinh tế xã hội cao hơn các tộc người bản địa.

 Đặc trưng văn hóa

68
Văn hoá nông nghiệp Thái nổi tiếng vì hệ thống tưới tiêu, được gói gọn trong bốn từ
“mương - phai - lái - lịn”. Ngoài ra, người Tây Bắc còn làm lúa nương, săn bắn, đánh cá,
hái lượm. Thương nghiệp vùng người Thái kém phát triển, phần lớn các vùng người Thái
trước đây không có chợ (trừ vùng Bắc Hà ở tỉnh Lào Cai).

Các dân tộc Tây Bắc cũng như nhiều dân tộc khác đều ở nhà sàn. Nhà của người Thái
đen có mái đầu hồi khum khum hình mai rùa với hai đầu hồi có hai vật trang trí gọi Khau
cút (sừng cuộn). Đặc điểm chung trong trang phục các dân tộc Tây Bắc là trang trí sặc sỡ,
thiên về gam màu nóng: màu đỏ, vàng tươi, tím, xanh da trời… Ẩm thực truyền thống
người Thái cũng như nhóm dân tộc Môn - Khơme ở Tây Bắc là đồ nếp, nay đã chuyển
sang đồ tẻ. Cơ cấu bữa ăn đơn giản là xôi nếp (khâu) ăn với các món ăn chế biến từ muối,
ớt nướng (gọi là cheo). Cá nướng là món ăn gần gũi đối với người Tây Bắc, đặc biệt là
người Thái, được chế biến thành nhiều cách khác nhau.

Trong đời sống tôn giáo, tín ngưỡng, các dân tộc Tây Bắc đều tin rằng “mọi vật có
linh hồn”- một hình thức tín ngưỡng mà mọi dân tộc trên hành tinh đều trải qua. Bên
cạnh đó, đối với các tộc người ở Tây Bắc rừng ban và những dòng suối có ý nghĩa quan
trọng. Vào mùa xuân, cả núi rừng Tây Bắc như chìm đắm trong các lễ hội: Cồng chiêng
của người Mường; Tết nhảy của người Dao; Hội mùa của người Khơmú; trong các điệu
múa Xoè – “đặc sản”37 nghệ thuật của người Thái và trở thành biểu tượng văn hóa Tây
Bắc, các điệu múa khèn, đá chân hùng dũng của nam giới người H ’mông, điệu múa lắc
mông, lượn eo của người Khơmú và Xinhmun; còn điệu Tăng bu (dỗ ống) là sở hữu của
người Laha; điệu múa bông của người Mường và điệu múa Xạp của các dân tộc ở mảnh
đất này (trừ người H’mông); trong âm thanh của tiếng khèn bè Thái, sáo Hmông…

Văn hóa dân gian nói chung và văn học nói riêng ở đây rất giàu có: tục ngữ, thành
ngữ, thần thoại, cổ tích, truyện cười đến các lời khấn, bùa chú trong tang lễ, cưới hỏi…
4.4.2. Vùng văn hóa Việt Bắc

 Điều kiện tự nhiên

Việt Bắc là quê hương cách mạng, là chiến khu, là nơi ghi dấu bao chiến công anh
hùng của quân và dân ta. Hiện nay, Việt Bắc là địa bàn của 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn,
Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang và bao gồm cả phần đồi núi của các
tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, và tỉnh Quảng Ninh. Đây là vùng đồi núi đều thuộc
37
Tô Ngọc Thanh, Vùng văn hóa Tây Bắc

69
loại có độ cao trung bình và thấp, chỉ có một số núi có độ cao là Tây Côn Lĩnh (2431m),
Kiều Liên Ti (2403m) và Pu Ta Ca (2274m). Địa hình ít bị chia cắt nên giao thông đi lại
tương đối thuận lợi hơn so với vùng Tây Bắc, là vùng cửa ngõ giao lưu giữa đồng bằng
Bắc bộ với nam Trung Quốc. Toàn vùng có 5 hệ thống sông chính: sông Thao, sông Lô
và hệ thống sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam đổ ra biển Đông.

 Điều kiện xã hội

Việt Bắc là địa bàn cư trú của các dân tộc: Tày, Nùng, Dao, Hmông, Lô Lô, Sán
Chay, Hoa, trong đó, cư dân Tày, Nùng chiếm chủ yếu và là tộc người có dân số đông,
trình độ phát triển kinh tế- xã hội cao, có ảnh hưởng lớn đến các quá trình phát triển xã
hội, văn hóa của các dân tộc ít người trong vùng.

Từ khi lập quốc, vùng Việt Bắc đã thuộc Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc. Suốt tiến
trình lịch sử, nó là phên dậu của quốc gia Đại Việt chống lại mưu đồ thôn tính và đồng
hóa của phong kiến phương bắc.

Thời tự chủ, các triều đại phong kiến đều có mối quan hệ mật thiết với cư dân Việt
Bắc, đặc biệt là cư dân hai tộc người Tày, Nùng. Trong các cuộc kháng chiến chống quân
Tống, Nguyên Mông, Minh, Thanh, thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, người Việt
Bắc đều hưởng ứng rất nhiệt tình và có những đóng góp lớn.

Cư dân Việt Bắc, đặc biệt là người Tày- Nùng chủ yếu sống trong các bản nằm trải
dài ven thung lũng, ven đường và ven sông suối. Bản được cấu thành bởi những gia đình
phụ quyền gồm nhiều dòng họ khác nhau.

 Đặc trưng văn hóa

Những đặc trưng văn hóa của vùng đầu tiên có thể tìm thấy qua cách sinh sống chủ
yếu bằng nghề nông, làm lúa nước ở thung lũng và làm nương rẫy. Bên cạnh làm ruộng,
nương, người Tày thường có mảnh vườn nhỏ ngay cạnh nhà để trồng rau, đậu, mía...Cư
dân nơi đây còn nổi tiếng với nghề trồng hồi, quế, chè. Buôn bán ở đây phát triển hơn các
vùng núi khác do vị trí địa lý nằm tiếp giáp với Trung Hoa. Trong tập quán ăn uống,
Người Việt Bắc dùng gạo tẻ, kỹ thuật nấu nướng các món ăn có sự tiếp thu của người
Hoa, người Việt: dùng nhiều thịt mỡ vào mùa rét; cách chế biến món ăn theo kiểu xào,
rán, hầm, dùng nhiều gia vị cay, chua, ngọt, đắng.

70
Màu sắc chủ đạo trong trang phục của người Tày Nùng là màu chàm với lối may giản
dị, ít trang trí hoa văn. Nhà sàn là loại nhà được người dân sử dụng chủ yếu ở đây với hai
loại: nhà sàn hai mái và bốn mái. Ngoài ra, vùng văn hóa này còn thấy xuất hiện một số
kiểu nhà khác như: nhà kết hợp giữa nhà sàn và nhà đất gọi là nhà tường trình chủ yếu ở
phía Đông; nhà đất; nhà trệt có tường làm bằng đất hay xây bằng gạch, lợp ngói âm
dương.

Tín ngưỡng của cư dân Tày Nùng có sự pha trộn giữa tín ngưỡng dân gian và tam
giáo (Phật, Đạo Khổng) du nhập từ bên ngoài vào (từ Hán xuống và cũng có cả từ Việt
lên). Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo có nhiều ảnh hưởng tới cư dân Việt Bắc. Hệ thống
thần linh của họ rất đa tạp: thần sông, thần núi, thần đất, các vua, Giàng Then. Người dân
nơi đây còn thờ các Tiên, Thần, Thánh trong hệ thống tín ngưỡng Tứ phủ. Dân Việt Bắc
cũng có tín ngưỡng vạn vật hữu linh (gọi chung là phi). Do đó, ở đây xuất hiện các thầy
Tào, Mo, Then vừa cúng bái, vừa chữa bệnh bằng ma thuật, kết hợp với các vị thuốc dân
gian.

Tín ngưỡng đi liền với lễ hội dân gian. Với hệ thống tín ngưỡng đa tạp nên đời sống
lễ tết, lễ hội của người dân nơi đây khá phong phú. Tết lớn nhất vẫn là Tết Nguyên Đán.
Sau Tết Nguyên Đán là hội Lồng tồng (hội xuống đồng) - ngày hội của toàn cộng đồng.

Về chữ viết, thời cổ đại, các dân tộc Việt Bắc chưa có chữ viết. Thời cận đại có chữ
Nôm. Thời hiện đại vừa có chữ Nôm, vừa có chữ La-tinh. Năm 1960, Đảng và Nhà nước
ta giúp các dân tộc Tày–Nùng xây dựng hệ thống chữ viết riêng theo lối chữ Quốc ngữ và
La-tinh.

Văn học dân gian vùng Việt Bắc đa dạng phong phú về thể loại và số lượng: Thành
ngữ, tục ngữ, truyện cổ tích, nói ví, câu đố, đồng dao, dân ca. Đặc biệt dân ca, nhất là lời
ca giao duyên nam nữ (cọi và slương), được viết trên giấy vải.

Ca múa nhạc dân gian của vùng văn hóa này cũng rất phong phú và đa dạng với Sli,
Lượn, Then. Trong đó, Then là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng văn hóa cộng đồng
bao chứa nhạc then với cây đàn then (đàn tính), hát then và múa then.
4.4.3. Vùng văn hóa châu thổ Bắc bộ

 Điều kiện tự nhiên

71
Bắc bộ là tâm điểm của con đường giao lưu quốc tế theo hai trục chính: Tây – Đông
và Bắc Nam 38, là địa bàn của các tỉnh, thành phố: Hà Tây, Nam Định, Hà Nam, Hưng
Yên, Hải Dương, Thái Bình, thành phố Hà Nội, thành phố Hải Phòng, phần đồng bằng
của các tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ
An, Hà Tĩnh.

Núi xen kẽ với đồng bằng hoặc thung lũng, thấp và bằng phẳng, độ cao 10 – 15m,
thấp dần về phía Đông Nam. Đó là kết quả của quá trình bồi đắp phù sa của sông Hồng
và sông Thái Bình, các đợt biển tiến thoái và nhất là sự chinh phục của cư dân nơi đây.
Toàn vùng Châu thổ Bắc bộ địa hình cao thấp không đều. Là vùng duy nhất ở Việt Nam
có một mùa đông 3 tháng, có nhiệt độ trung bình dưới 18 oC với bốn mùa rõ rệt. Điều đó
đòi hỏi sự nghiêm ngặt về sản xuất nhưng cũng là cơ sở tạo cơ cấu cây trồng vật nuôi ở
đây đa dạng phong phú, làm giàu bữa ăn của người dân Bắc bộ.

Bắc bộ có một mạng lưới sông ngòi dày đặc với các sông lớn: sông Hồng, sông Lô -
sông Thao (tiểu vùng văn hóa đất Tổ), sông Thái Bình (tiểu vùng văn hóa duyên hải Bắc
bộ), sông Cầu (tiểu vùng văn hóa Kinh Bắc)…và vô vàn ao, hồ, đầm kênh, mương. Đặc
điểm nổi bật gắn liền với hệ thống sông ngòi ở trên đó là vùng Bắc bộ có hàng ngàn km
đê điều.

 Điều kiện xã hội

Đồng bằng Châu thổ Bắc bộ là vùng văn hóa- lịch sử cổ, là cái nôi hình thành dân tộc
Việt đồng thời nơi đây cũng là cái nôi của các nền văn hóa nổi tiếng, đó là văn hóa Đông
Sơn, văn hóa Đại Việt và văn hóa Việt Nam. Nơi đây còn là trung tâm của đời sống chính
trị, xã hội và văn hóa của cả nước, là trung tâm đất nước trong suốt tiến trình lịch sử. Do
vậy, nó vừa mang trong mình những truyền thống lâu đời bền chắc, vừa thích ứng và theo
kịp với những biến động lịch sử, thể hiện vai trò hướng đạo đối với cả nước.

Dân cư sinh sống ở vùng này chủ yếu là người Kinh, ngoài ra, còn có một số dân tộc
khác như Tày, Nùng, Dao...Người Kinh (Việt) giữ vai trò chủ thể văn hóa. Cộng đồng
người Kinh sống tập trung thành làng với hai quan hệ chủ yếu là quan hệ huyết thống và
quan hệ láng giềng.

 Đặc trưng văn hóa

38
Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục

72
Cư dân ở vùng này sống bằng nghề trồng lúa nước, làm nông nghiệp thuần túy, là cư
dân “xa rừng, nhạt biển”39 bám chặt đồng bằng, thể hiện trong khái niệm “sơn hào, hải
vị”. Tuy có dải bờ biển tương đối dài nhưng nghề khai thác hải sản không phát triển.
Phần lớn các làng ven biển là các làng làm nông nghiệp. Bên cạnh nông nghiệp, người
nông dân thường làm thêm một nghề phụ thủ công nên Bắc bộ cũng là nơi có nghề thủ
công rất phát triển (hàng trăm nghề thủ công khác nhau: gốm, dệt, luyện kim, tranh, khắc
gỗ… ). Hoạt động thương nghiệp kiểu chợ quê cũng là một hoạt động kinh tế của vùng-
“cái đã góp phần tạo nên nét đặc trưng của đời sống văn hóa của cư dân đồng bằng Bắc
bộ”40.

Cũng là bữa ăn đậm đà màu sắc dân tộc, với thành phần thực vật và đạm thủy sản là
chính, người Bắc bộ gia tăng thành phần thịt mỡ trong khẩu phần ăn để thích ứng với thời
tiết lạnh mùa đông. Người Việt có rất nhiều cách ăn, cách nấu chế biến món ăn nhưng nổi
trội nhất vẫn là luộc, ăn cả nước lẫn cái. Đặc trưng trong cách ăn của người Việt thể hiện
tính cộng đồng rất cao. Nhà của người Bắc bộ là loại nhà không có chái. Nhà khung cột
nhưng ở đây phát triển hình thức nhà vì kèo.

Người nông dân Bắc bộ với phương châm ăn mặc bình dị, màu sắc nền nã. Chất liệu
chủ yếu là từ thực vật, sợi bông, tơ đay, tơ chuối.

Ý thức hướng về cội nguồn - gia đình, dòng họ cao nên thờ cúng tổ tiên là đặc điểm
nổi bật trong đời sống tín ngưỡng của cư dân Bắc bộ, tiêu biểu là lễ giỗ Tổ Hùng Vương
10 tháng 3. Bên cạnh đó tín ngưỡng nông nghiệp phổ biến: Thờ Thành Hoàng, thờ Mẫu,
thờ Ông tổ nghề…Tôn giáo chủ yếu là Phật giáo Đại thừa. Phật giáo đã hòa quyện với tín
ngưỡng dân gian thờ các vị thần tự nhiên - hiện tượng tự nhiên tạo một thứ tôn giáo - tín
ngưỡng độc đáo ở Bắc Bộ - Thờ Tứ Pháp. Nho giáo du nhập mạnh mẽ từ đời Hán, thông
qua hệ thống giáo dục thi cử đã ảnh hưởng đến sinh hoạt cộng đồng, hội hè, phong tục,
ứng xử của con người. Đạo giáo khi vào Bắc bộ đã hòa quyện với tín ngưỡng dân gian
tạo ra tín ngưỡng Tam Phủ, Tứ Phủ, thờ Tứ bất tử... tạo dấu ấn rõ rệt trong phong tục và
sinh hoạt văn hóa của vùng.Với đời sống văn hóa tâm linh như vậy, đồng bằng Bắc bộ
còn là nơi tập trung hàng trăm, hàng nghìn lễ hội lớn nhỏ khác nhau mà cái gốc ban đầu
đều là lễ hội nông nghiệp. Là cái nôi của nền văn học bác học dân tộc với đội ngũ trí thức
Nho học xuất hiện sớm. Đội ngũ tri thức cũng tập trung đông đảo nhất trong tổng số tri
39
Như trên
40
Ngô Đức Thịnh, Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam, NXB Trẻ

73
thức của cả nước. Những sắc thái văn hóa đồng bằng Bắc bộ còn được thể hiện qua các
hình thức văn học, nghệ thuật cực kỳ phong phú
4.4.4. Vùng văn hóa Trung Bộ

 Đặc điểm tự nhiên

Là vùng đất thuộc tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng,
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận.

Địa hình Trung bộ vừa dài vừa hẹp theo chiều Đông- Tây, rất đa dạng, có núi
rừng, có đồng bằng, có vùng đầm phá ven biển, có các đèo cắt ngang. Dưới chân đèo có
sông chảy từ Tây sang Đông, dốc, ngắn, cạn, trong xanh, ít phù sa, không có đồng bằng
nên nông nghiệp ít phát triển. Đặc trưng của biển miền Trung là ít lồi lõm, có nhiều đảo
làm tấm bình phong chắn gió. Bờ biển miền Trung nổi tiếng là các cảng biển giao lưu
buôn bán với nước ngoài như cảng Cam Ranh, Hội An, Cửa Lò. Miền Trung có mùa mưa
lệch pha với hai đầu Bắc Nam của đất nước, lại gặp gió Tây rất khô nóng thổi từ Lào vào
(gió Lào).

 Đặc điểm xã hội

Các dân tộc chủ yếu là người Kinh, người Chăm, người Thái, Mường, Khơmú...Trong
đó người Việt và người Chăm có nhiều sáng tạo văn hóa và là hai tộc người chủ thể của
vùng đất này.

So với đồng bằng Bắc bộ, đây là vùng đất mới được khai phá. Nói đến Trung bộ
người ta nghĩ đến một chiến trường khốc liệt của nhiều cuộc chiến tranh: Nam - Bắc
triều, Trịnh - Nguyễn, Tây Sơn- chúa Nguyễn. Trung bộ còn là trung tâm của xứ Đàng
Trong trải qua nhiều vương triều: Chúa Nguyễn, Tây Sơn, nhà Nguyễn và là địa bàn diễn
ra sự giao lưu trực tiếp giữa văn hoá Việt và văn hoá Chăm.

 Đặc trưng văn hóa

Vùng văn hoá Trung Bộ gồm nhiều tiểu vùng văn hoá khác nhau: tiểu vùng văn hóa
xứ Huế, tiểu vùng văn hóa xứ Quảng nhưng đặc điểm bao trùm là sự giao lưu, tiếp biến
văn hoá Việt - Chăm. Kết quả của sự giao lưu và tiếp biến đó được thể hiện trên nhiều
lĩnh vực văn hoá nơi đây.

74
Vì do một thời kỳ dài là địa bàn cư trú của đồng bào Chămpa nên Trung Bộ là một
vùng đất chứa nhiều dấu tích văn hoá Chămpa mà điển hình nhất phải kể đến các tháp
Chăm phơi sương gió cùng năm tháng.

Trong tín ngưỡng là việc thờ Pô Inư Nagar, tức Thần Mẹ Xứ Sở của người Chăm
được việt hóa thành Thiên YaNa thánh Mẫu; thờ cá voi (cá Ông); thần biển….

Trong kiến trúc nhà ở của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ (thấp, nhiều cột, nhiều
cửa…) cũng có ảnh hưởng một số yếu tố Chăm như mái, chái nhà rộng và kéo dài.

Đối với nghệ thuật ca hát dân gian ở Trung bộ, nổi bật là các loại hò như hò mái nhì,
mái đẩy, hò đưa linh, hò giã gạo, hò chèo thuyền, hò vượt thác, đặc biệt là các loại hình
ca Huế, ca Quảng, nghệ thuật hát Tuồng. Duyên hải miền Trung là quê hương của các
điệu hát lý như hoài nam, lý con sáo, lý thiên thai, cùng với điệu hát trò, hát sắc bùa, hát
bả trạo, hát chầu văn, hát bài chòi. Và ngay cả âm nhạc cung đình Chăm cũng đã ảnh
hưởng đến Chèo và hát Quan họ của người Việt.41

Với Trung Bộ, làng làm nông nghiệp tồn tại đan xen với làng của ngư dân.

Trong cơ cấu bữa ăn, yếu tố biển đã đậm đà hơn với việc dùng nhiều hải sản, đồ
biển. Từng một thời là trung tâm của Đàng Trong và của cả nước, xứ Huế đã trở thành
tiểu vùng văn hóa đặc trưng nhất của vùng văn hóa Trung bộ. Huế là một tiểu vùng văn
hóa nằm trong vùng văn hóa Trung bộ, vượt qua sự hỗn dung và đan xen văn hóa của
toàn vùng, Huế đã thâu nhận vào mình một phong cách, cá tính riêng rất Huế, tiêu biểu
cho văn hóa Việt Nam thế kỷ XIX.
1.4.5. Vùng văn hóa Trường Sơn- Tây Nguyên

 Đặc điểm tự nhiên

Là địa bàn của các tỉnh: Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng, và
phần núi của Huế, Quảng Nam, cùng với các khu vực kế cận thuộc vùng núi Quãng Ngãi,
Bình Định, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận. Đây là vùng cao nguyên mênh
mông (Lang biang (Đà Lạt), Lâm Viên, Kon Tum...), núi non hùng vĩ. Khí hậu chia hai
mùa rõ rệt: mùa nóng khô và mùa mưa.

 Đặc điểm xã hội

41
Huỳnh Công Bá, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Thuận Hóa

75
Về tộc người, trước giải phóng miền Nam, vùng Trường Sơn- Tây Nguyên có 23
tộc người (22 tộc người thiểu số và người Việt). Các tộc người thiểu số vùng văn hóa này
thuộc hai dòng Môn- Khơme (17tộc) và Mã Lai- Nam Đảo (Êđê, Gia rai, Raglai, Chu ru
và Chăm).42

Con người đã sinh sống ở đây ít nhất cũng từ hậu kỳ đá cũ, tương đương với văn
hóa Sơn Vi ở Bắc bộ. Đến thế kỷ XVII- XVIII, các dân tộc Tây Nguyên gắn bó mật thiết
hơn với các triều đại phong kiến Việt Nam và với người Việt ở vùng duyên hải miền
Trung. Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, người Việt di cư đến Tây Nguyên ngày càng đông,
chiếm khoảng gần một nửa số dân tạo nên một vùng xen cư giữa các tộc người bản địa
với người Việt và một số tộc người khác.

Cư dân Tây Nguyên cư trú thành buôn, bon, plây (làng). Quan hệ huyết thống theo
dòng mẹ còn khá phổ biến ở đây.

 Đặc trưng văn hóa

Hoạt động kinh tế chính là làm nương rẫy, nay đây mai đó, đời sống thường thiếu
thốn, bấp bênh, tạm bợ, bắt con người phụ thuộc chặt chẽ vào hoàn cảnh tự nhiên. Người
Tây Nguyên ở nhà sàn là chủ yếu. Đặc trưng của vùng trung và nam Tây Nguyên là nhà
sàn dài, trong đó có cả đại gia đình sinh sống. Nhìn tổng thể, trang phục của người
Trường Sơn - Tây Nguyên còn giữ được loại trang phục cổ sơ đặc trưng cho trang phục
các tộc người bản địa Đông Nam Á mà ngày nay không thấy ở các vùng khác. Đó là loại
trang phục choàng, quấn. Nam đóng khố, cởi trần hoặc khoác một tấm vải choàng rộng.
Nữ mặc váy (váy mảnh- váy không khâu thành ống), áo có hoa văn nền nã, kín đáo, làm
nổi bật những đường nét của cơ thể.

Những đặc trưng văn hóa độc đáo và đặc sắc của mảnh đất Tây Nguyên còn phải
kể đến là nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc của người Tây Nguyên mà nhà Rông là một đại
diện tiêu biểu. Bên cạnh nhà Rông, nhà mồ và trang trí nhà mồ cũng là một đặc trưng
chung của hầu hết các tộc người sinh sống ở đây, tuy nhiên mỗi nơi mỗi khác. Trong đời
sống tín ngưỡng, tôn giáo của người dân nơi đây cũng có rất nhiều nét độc đáo. Cư dân
quan niệm bao bọc xung quanh thế giới thực là thế giới ảo, ở đó ngự trị các thần linh, ma
quỷ, các linh hồn (Yang) - vạn vật hữu linh - một quan niệm tín ngưỡng sơ khai của loài
người trong xã hội nguyên thủy. Mối quan hệ giữa thần và người là một mối quan hệ
42
Bùi Xuân Đính, Các tộc người ở Việt Nam, NXB Thời Đại, tr213

76
bình đẳng, cả hai cùng có lợi. Bên cạnh đó, người Tây Nguyên có những ứng xử với thế
giới người sống và người chết rất đặc sắc và độc đáo. Từ đó tạo nên những tập tục, nghi
lễ, sinh hoạt văn hóa xung quanh mang tính tổng thể - sinh hoạt văn hóa nhà mồ. Ở mảnh
đất này, rất nhiều lễ hội đã diễn ra. Lễ hội liên quan đến hoạt động sản xuất nông nghiệp;
Lễ hội liên quan đến nghi lễ vòng đời; Lễ hội là sinh hoạt cộng đồng như nghi lễ mừng
nhà mới, nghi lễ cúng bến nước của cả buôn làng. Trong dòng tự sự dân gian, Trường ca
(sử thi) là thể loại đặc sắc nhất.

Một đặc trưng văn hóa tuyệt vời nữa của người Tây Nguyên là âm nhạc giàu âm
thanh tự nhiên, hồn nhiên và mộc mạc. Nhắc đến âm nhạc không thể không nói tới cồng
chiêng Tây Nguyên. Cồng chiêng có một chức năng xã hội vô cùng quan trọng đối với
người dân Tây Nguyên, nó có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống văn hóa người Tây
Nguyên kể từ khi trào đời cho đến khi về với thế giới bên kia.
1.4.6. Vùng văn hóa Nam bộ

 Đặc điểm tự nhiên

Vùng văn hoá Nam bộ thuộc địa bàn các tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phư-
ớc, Tây Ninh, Bà Rịa – Vũng Tàu (Đông Nam bộ), Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh
Long, Trà Vinh, Đồng Tháp, Cần Thơ, Sóc Trăng, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà
Mau (Tây Nam bộ) và thành phố Hồ Chí Minh.

Ban đầu, mảnh đất này là một miền đất mênh mông, hoang vu, cây cối mọc thành
rừng rậm. Ngày nay, Nam bộ chủ yếu là đồng bằng màu mỡ, những cánh đồng cò bay
thẳng cánh (thuộc lưu vực sông Đồng Nai và Cửu Long), một phần đồi núi thấp. Khí hậu
nóng quanh năm, nhiệt độ bức xạ cao, được chia thành 2 mùa rõ rệt 6 tháng mùa mưa và
6 tháng mùa khô.

 Đặc điểm xã hội

Tiến trình lịch sử của người Nam bộ có những nét khác biệt so với các địa phương
khác. Nếu như Bắc bộ, Trung bộ là những vùng có lịch sử phát triển liên tục thì Nam bộ
lại có sự đứt gãy trong sự phát triển lịch sử của mình. 43 Khi nhắc đến Nam bộ người ta
vẫn cho rằng đây là vùng đất mới, không bị trĩu nặng bởi những tư tưởng Nho giáo phong
kiến. Là vùng đất của Tổ quốc đầu tiên rơi vào tay của chủ nghĩa thực dân phương Tây
(bắt đầu từ năm 1862), nên sự cưỡng bức giao lưu và tiếp xúc văn hoá Đông – Tây diễn
43
Trần Quốc Vượng, Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục, tr267

77
ra sớm hơn các vùng khác. Do đó, những tộc người có mặt trên mảnh đất này là người
Khơme, Việt, Hoa, Chăm và một số người Nhật, Mã Lai, Ấn Độ, phương Tây, tạo nên
cho vùng đất này bức tranh chủng tộc đa dạng và phong phú. Trong buổi đầu lịch sử,
thành phần cư dân của Nam bộ rất phức tạp, là dân “tứ chiếng” từ miền Trung, miền Bắc
và các nơi khác đến. Để hài hòa với tất cả, con người nơi đây thường diễn ra trong mình
tâm lí hai mặt: vừa ồn ã hết mình để phù hợp với sự sôi động của vùng đất mới vừa mang
nặng mối sầu tư, hoài cổ nhớ quê hương.

 Đặc trưng văn hóa

Người dân sống thành làng thành ấp, nhà cửa tản mát theo bờ kênh, theo ruộng
lúa. Nếu làng Bắc bộ có nguồn gốc từ công xã nông thôn thì làng Nam bộ là làng khai
phá mà thành, cho nên cơ cấu xã hội không bền chắc, không dễ cột chặt người nông dân
ở lại với quê cha đất tổ.

Người dân Nam bộ về cơ bản vẫn là dân làm ruộng nhưng cách làm của người
Nam bộ là khai hoang quảng canh theo kiểu cày phát 5-7 ha để rồi thu hoạch kiểu cầu
may cũng đạt 3-4ha. Dân xứ này gọi là kiểu “làm móc lõm” làm một vụ sống cả năm.
Cũng vì thế, Nam bộ được mệnh danh là “đất làm chơi ăn thật”.

Món ăn của người Nam bộ là sản phẩm độc đáo của một vùng đất mới, thể hiện rõ
sự giao lưu giữa các tộc người sinh sống ở đây. Trong các món ăn của mình, người Nam
bộ thích sử dụng những nguyên liệu có phần hoang dã, thiên về sự dư dật, phong phú, ít
chú ý đến cái tinh vi của cách nấu, cách trình bày mà có phong cách ăn no, ăn thoải mái,
coi môi trường ăn uống là nơi để bộc bạch, tâm sự.

Nhà ở của người Nam bộ được xây dựng khá đơn giản, thường làm bằng những
vật liệu tre, lá dừa, nứa, phên vách. Chiếc áo bà ba là biểu tượng của trang phục Nam bộ.
Nam bộ là xứ sở của văn minh kênh rạch. Kênh rạch tạo thành hệ thống chằng chịt bám
chặt vào mọi nẻo của vùng. Ở xứ sở ấy, con thuyền là phương tiện đi lại, chuyên chở chủ
yếu “Sắm xuồng là để làm chân”, đặc biệt là loại Xuồng Ba Lá rất được ưa chuộng.

Do quá trình cộng cư và thâm nhập giữa các tộc người khác nhau mà tín ngưỡng
và tôn giáo ở Nam bộ phong phú và phức tạp hơn các vùng văn hóa khác. Ở Nam bộ vừa
có các tôn giáo lớn du nhập như Phật giáo, Gia tô giáo, Tin lành, Islam, vừa có những tín
ngưỡng dân gian như Tục thờ cúng tổ tiên, Thổ thần, Tứ Phủ, Neaktà, Aràck của người

78
Khơme, ông Bổn của người Hoa, Nghi lễ cúng việc lề của con cháu Nam bộ. Sự kết hợp
giữa tín ngưỡng dân gian và tôn giáo đã hình thành các thứ đạo mới, pha tạp, có phần kỳ
quái như đạo Ngồi, đạo Nằm, đạo Đi Chậm, đạo Câm. Do Nam bộ có nhiều Đạo được
thành lập nên ở đây có các lễ hội diễn ra là ngày kỷ niệm các Đạo đó.

Một số vùng ven biển có lễ hội rước cá voi gọi là rước Ông lớn được tổ chức vào
rằm tháng Giêng, lúc nửa đêm. Lễ hội lớn nhất là lễ hội rước bà Chúa Xứ ở Châu Đốc
26/4. Ngoài ra, người Khơme có một số lễ hội riêng rất độc đáo của mình như: lễ
Cholchnăm Thmay (lễ mừng năm mới) và lễ Oóc Bom Booc (lễ cúng trăng) vào tháng 10.

Tiếng nói Nam bộ là sản phẩm của nhiều vùng địa phương khác nhau đồng thời
cũng là sản phẩm của sự giao thoa văn hóa (Việt- Hoa- Khơme- Chăm). Người Nam Bộ
rất ưa thích âm nhạc và ca hát. Các điệu lý, hò được người nông dân rất ưa chuộng như lý
con sáo, lý con cua, lý cái cây… Khoảng những năm đầu thế kỷ XX, cải lương là hình
thức sân khấu ca kịch mới cải cách hình thức sân khấu cũ là hát bội 44, xuất hiện ở thành
thị nhưng đã nhanh chóng trở thành “đặc sản” của vùng đất mới.

44
Thụy Loan, Suy nghĩ về sức sống Việt Nam qua chặng đường âm nhạc, “Nghiên cứu nghệ thuật”, số 4,5,6 năm
1980

79
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Anh (chị) hãy phân tích những nét đặc sắc trong đời sống văn hóa vật chất vùng văn
hóa Tây Bắc.
2. Anh (chị) hãy phân tích những ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và xã hội đến việc
hình thành các đặc trưng văn hóa vùng Việt Bắc.
3. Vì sao nói: Vùng văn hóa Bắc bộ là cái nôi của văn hóa Việt?
4. Điều kiện tự nhiên đã ảnh hưởng như thế nào đến các đặc trưng văn hóa vùng Trung
Bộ?
5. Anh (chị) hãy phân tích những nét độc đáo trong đời sống tín ngưỡng của cư dân
vùng văn hóa Trường Sơn- Tây Nguyên.
6. Tại sao nói: Nam bộ là vùng văn hóa mới?

80

You might also like