You are on page 1of 35

ĐỀ CƢƠNG CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

Vấn đề 1: Trình bày, lấy ví dụ làm rõ mối quan hệ giữa con người và văn hóa
Con ngƣời đóng vai trò vừa là chủ thể vừa là khách thể của văn hóa. Một trong những khía cạnh cần
xem xét của vấn đề là quan hệ giữa con ngƣời và văn hóa. Mối quan hệ này đƣợc bộc lộ ra ở các khía
cạnh quan trọng sau:
Con ngƣời với tƣ cách là chủ thể sáng tạo của văn hóa. Thông qua quá trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tƣơng tác giữa con ngƣời với môi trƣờng tự nhiên và môi trƣờng xã hội, con ngƣời dần dần
tích lũy những kinh nghiệm cũng nhƣ trải nghiệm, từ đó sáng tạo ra văn hóa. Ngƣời nguyên thủy sống
lệ thuộc vào tự nhiên. Họ di chuyển từ khu rừng này đến khu rừng khác để tìm kiếm thức ăn. Phụ nữ và
trẻ em hái lƣợm các loại hạt, quả. Đàn ông đảm nhận các công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhƣ săn bắt
thú rừng. Qua hái lƣợm, ngƣời nguyên thủy phát hiện những hạt ngũ cốc, những loại rau quả có thể
trồng đƣợc. Từ săn bắt, họ dần phát hiện những con vật có thể thuần dƣỡng và chăn nuôi. Từ đó cùng
với sự phát triển của công cụ lao động, con ngƣời tiến vào nền văn minh nông nghiệp. Có thể thấy, vì
mục đích tồn tại và sinh sống, loài ngƣời sáng tạo ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, công cụ
sinh hoạt sản xuất,v.v; toàn bộ những sáng tạo và phát minh của con ngƣời chính là văn hóa, bao gồm
những giá trị vật chất và tinh thần. Đến một lúc nào đó, con ngƣời cảm thấy cần có phƣơng tiện để giao
tiếp, tƣơng tác với nhau và rồi họ sáng tạo ra ngôn ngữ riêng của cộng đồng, dân tộc mình.
Mỗi cộng đồng sẽ tạo nên một nền văn hóa riêng biệt, đặc trƣng cho chính cộng đồng đó. Văn hóa
khác nhau là do mỗi cộng đồng, dân tộc sống trên một khoảng không gian địa lý khác nhau. Vì vậy đối
với văn hóa không thể so sánh sự cao hay thấp mà chỉ là sự khác biệt.
Theo PGS. Từ Chi : “Tất cả những gì không phải thiên nhiên thì đều là văn hóa” , qua đó ông nhấn
mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của con ngƣời đối với việc sáng tạo ra văn hóa. Con ngƣời và văn hóa
là hai khái niệm không bao giờ tách rời nhau. Mọi vật đƣợc con ngƣời tác động, biến đổi, gửi gắm vào
đó những tâm tƣ tình cảm sẽ trở thành văn hóa. Từ một hòn đá của tự nhiên có hình dáng giống với
hình ảnh một ngƣời phụ nữ đẽo một đứa bé, qua đôi bàn tay khéo léo của nhân dân ta đã trở thành Hòn
Vọng Phu (Đồng Đăng – Lạng Sơn) - một địa danh văn hóa gắn liền với câu chuyện cổ tích về nàng
Tô Thị - một ngƣời đàn bà chờ chồng đến hóa đá với mục đích đem đến cho con cháu đời sau bài học
về tấm lòng thủy chung, son sắt. Ngay cả trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày, bằng cách sử dụng
cồng chiêng vào các dịp lễ hội, những sự kiện quan trọng, ngƣời dân Tây Nguyên đã làm nên một di
sản văn hóa phi vật thể - Không gian văn hóa cồng chiêng.
Có thể khẳng định rằng, sản phẩm đặc sắc nhất của con ngƣời chính là văn hóa. Văn hóa là sự hóa
thân của đời sống, nó thấm vào mọi lĩnh vực hoạt động của con ngƣời, mang dấu ấn đậm nét của con
ngƣời ở mỗi một khu vực khác nhau.
Con ngƣời với tƣ cách là khách thể của văn hóa, con ngƣời cũng là sản phẩm của văn hóa, là đại
biểu mang những giá trị văn hóa do mình sáng tạo ra, bị văn hóa tác động trở lại. Có một vài trƣờng
hợp, chỉ cần nhìn vào lối sống, cách ứng xử, sinh hoạt của một con ngƣời, ta có thể thấy đƣợc những
đặc trƣng văn hóa của nơi ngƣời ấy sinh sống. Chẳng hạn nhƣ ngƣời châu Âu về lối sống thƣờng thiên
về cách sống độc lập còn ngƣời châu Á muốn sống gắn bó, tập thể. Hay trong khi các nƣớc châu Âu sử
dụng các loại dao dĩa khác nhau cho từng món ăn thì đôi đũa là dụng cụ phổ biến hơn cả ở các nƣớc
Châu Á. Với văn hóa đƣợc sáng tạo ra bởi những ngƣời đi trƣớc thì thế hệ sau trong quá trình lớn lên
và phát triển, chính họ đã trở thành sản phẩm của văn hóa. Cách cƣ xử, sinh hoạt, lối sống của họ đƣợc
điều chỉnh bởi nền văn hóa nơi họ sinh sống một cách phù hợp với các chuẩn mực đƣợc đặt ra từ trƣớc
của xã hội. Con ngƣời mang trên mình những giá trị văn hóa do mình sáng tạo ra. Con ngƣời sáng tạo
ra ngôn ngữ và cũng đƣợc chính ngôn ngữ ấy quy định phƣơng tiên giao tiếp của họ. Những nơi có
điều kiện tự nhiên phù hợp với việc trồng lúa nƣớc thì món ăn chính của họ sẽ là các sản phẩm đƣợc
chế biến từ gạo nhƣ cơm, bún hay phở. Còn ở những nơi điều kiện khác, vơi điều kiện tự nhiên phù
hợp với loại cây trồng khác thì thức ăn chính của con ngƣời nơi đấy sẽ là loại cây trồng ấy nhƣ dân tộc
Mông, món ăn chính của họ đƣợc gọi là mèn mén đƣợc làm từ ngô.
Có thể nói, văn hóa làm cho con ngƣời trở nên đặc biệt “có óc phê phán và dấn thân một cách đạo
lý”. Văn hóa giúp con ngƣời tự ý thức đƣợc bản thân, xem xét những khuyết điểm, khiếm khuyết của
mình để đƣa ra phƣơng án giải quyết nhằm ngày càng phát triển bản thân góp phần phát triển xã hội.
Và vì vậy, văn hóa chính là động lực của sự phát triển.
Nhƣ vậy. con ngƣời vừa là chủ thể nhƣng vừa là khách thể của văn hóa. Có nhìn nhận văn hóa nhƣ
một chỉnh thể thống nhất, chúng ta mới lí giải đƣợc mối quan hệ hữu cơ giữa con ngƣời với xã hội,
giữa con ngƣời với tự nhiên. Trong những mối quan hệ ấy con ngƣời là chủ thể, là trung tâm.
Vấn đề 2: Khái niệm văn hóa, phân biệt khái niệm văn hóa với các khái niệm văn minh, văn hiến
và văn vật.
1, Khái niệm văn hóa:
Từ “văn hóa” có rất nhiêu nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa đƣợc dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ
học thức (trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa); theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát
triển của một giai đoạn (văn hóa Đông Sơn)…Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ
những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngƣỡng, phong tục, lối sống, lao động. Với cách hiểu rộng,
văn hóa có rất nhiều định nghĩa khác nhau:
Theo GS Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là 1 hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
ngƣời sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tƣơng tác giữa con ngƣời với Môi
trƣờng tự nhiên và Môi trƣờng xã hội”. Ví dụ điền hình nhƣ: ngƣời nguyên thủy sống lệ thuộc vào tự
nhiên. Họ di chuyển từ khu rừng này đến khu rừng khác để tìm kiếm thức ăn. Phụ nữ và trẻ em hái
lƣợm các loại hạt, quả. Đàn ông đảm nhận các công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhƣ săn bắt thú rừng.
Qua hái lƣợm, ngƣời nguyên thủy phát hiện những hạt ngũ cốc, những loại rau quả có thể trồng đƣợc.
Từ săn bắt, họ dần phát hiện những con vật có thể thuần dƣỡng và chăn nuôi. Từ đó cùng với sự phát
triển của công cụ lao động, con ngƣời tiến vào nền văn minh nông nghiệp. Khái niệm này đã nêu ra bản
chất cũng nhƣ 4 đặc trƣng cơ bản của văn hóa là tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử và tính nhân
sinh.
Với Từ Chi, ông cho rằng “ Tất cả những gì không phải là tự nhiên đều là văn hóa”, tức nhấn mạnh
vào vai trò của con ngƣời đối với việc sáng tạo văn hóa. Ví dụ nhƣ từ một hòn đá của tự nhiên có hình
dáng giống với hình ảnh một ngƣời phụ nữ đẽo một đứa bé, qua đôi bàn tay khéo léo của nhân dân ta
đã trở thành Hòn Vọng Phu (Đồng Đăng – Lạng Sơn) - một địa danh văn hóa gắn liền với câu chuyện
cổ tích về nàng Tô Thị - một ngƣời đàn bà chờ chồng đến hóa đá với mục đích đem đến cho con cháu
đời sau bài học về tấm lòng thủy chung, son sắt. Ngay cả trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày, bằng
cách sử dụng cồng chiêng vào các dịp lễ hội, những sự kiện quan trọng, ngƣời dân Tây Nguyên đã làm
nên một di sản văn hóa phi vật thể - Không gian văn hóa cồng chiêng.
Còn theo chủ tịch HCM, Ngƣời lại quan niệm: “Vì lẽ sinh tồn cũng nhƣ mục đích của cuộc sống, loài
ngƣời mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, những công cụ phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặt ăn ở và các phƣơng thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Nhƣ vậy, khái niệm này lại nhằm nhấn mạnh
mục đích sáng tạo văn hóa cùng những hình thức tồn tại của nó. Nhƣ ví dụ ở trên của ngƣời nguyên
thủy từ săn bắt, hái lƣợm chuyển sang văn minh nông nghiệp, có thể thấy vì để có thể tồn tại và sinh
sống, con ngƣời dần phải tìm cách chủ động sản xuất ra nguồn lƣơng thực để ít nhiều không còn phải
sống phụ thuộc vào tự nhiên.
Theo những quan điểm quốc tế, UNESCO đã nêu lên 3 đặc điểm cơ bản của văn hóa: Thứ nhất, văn
hóa bao gồm những giá trị vật chất và tinh thần nhƣ nghệ thuật và văn chƣơng, những lối sống, những
quyền cơ bản của con ngƣời, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngƣỡng. Thứ hai,
văn hóa tạo ra sự khác biệt. Văn hóa đem lại cho con ngƣời khả năng suy xét về bản thân. Chính văn
hóa làm cho chúng ta trở thành sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có phê phán và dấn thân một các
đạo lí. Cuối cùng, văn hóa là động lực cho sự phát triển. Chính nhờ văn hóa mà con ngƣời tự thể hiện,
tự ý thức đƣợc bản thân, tự biết mình là một phƣơng án chƣa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành
tựu của bản thân , tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vƣợt
trội lên bản thân.
Theo quan niệm của UNESCO có 2 loại di sản văn hóa: Một là những di sản văn hóa vật thể (hữu
hình): là những giá trị văn hóa tồn tại dƣới dạng vật chất. Ví dụ nhƣ vƣờn quốc gia Phong Nha – Kẻ
Bàng, thánh địa Mỹ Sơn, Cố đô Huế, Hoàng thành Thăng Long v.v. Hai là những di sản phi vật thể (vô
hình): là những giá trị văn hoá không tồn tại dƣới dạng vật chất mà là các biểu tƣợng. Chẳng hạn nhƣ
nhã nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa Cồng Chiêng, dân ca quan họ Bắc Ninh,v.v. Đây là sự
phân chia tƣơng tƣơng đối: cái hữu hình và cái vô hình gắn bó hữu cơ với nhau, lồng vào nhau nhƣ
thân xác và tâm trí con ngƣời.
2, Phân biệt văn hóa, văn hiến, văn minh, văn vật
Những khái niệm văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật thƣờng đƣợc sử dụng rất nhiều trong cuộc
sống nhƣng với những ý nghĩa chƣa thực sự chính xác. Vì thế, chỉ ra sự khác nhau về bản chất giữa
những phạm trù này là cần thiết cho các quá trình nhận thức và nghiên cứu.
a) Văn minh và văn hóa
Theo quan điểm của các nƣớc thì văn minh đƣợc biết đến nhƣ sau.
Các nước Phương Đông: Văn minh chỉ tia sáng của đạo đức, chỉ các chuẩn mực mà ngƣời tôn trọng
chuẩn mực, tôn trọng nét đẹp cộng đồng cần thực hiện. Văn minh biểu hiện ở chính trị, pháp luật, văn
hóa, nghệ thuật. Nhiều khía cạnh khác nhau yêu cầu con ngƣời ứng xử, hành xử văn minh. Chính các
yếu tố này mang đến nếp sống, trật tự chung trong cộng đồng.
Các nước Phương Tây: Văn minh chỉ xã hội đạt tới giai đoạn tổ chức đô thị và chữ viết. Qua đó
mang đến một giai đoạn cũng nhƣ điều kiện mới trong xã hội.
Có thể khẳng định rằng: Văn minh chỉ trình độ văn hóa về phƣơng diện vật chất. Từ đó xác định
phạm vi, đặc trƣng cho 1 khu vực rộng lớn, 1 thời đại hoặc cả nhân loại. Văn minh có thể so sánh cao
thấp, thể hiện trong văn minh của cộng đồng, của các quốc gia hay các nền văn minh cụ thể. Trong khi
văn hóa chỉ là sự khác biệt, mang đến các đặc điểm cũng nhƣ đặc trƣng của các khu vực đó.
Đánh giá các khác biệt giữa văn hóa và văn minh:
+ Văn hóa có bề dày của quá khứ >< Văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại
+ Văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất lẫn tinh thần >< Văn minh thiên về khía cạnh vật chất, kĩ thuật
+ Văn hóa mang tính dân tộc rõ rệt >< Văn minh thƣờng mang tính siêu dân tộc, quốc tế
Do vậy khái niệm văn minh chỉ khía cạnh vật chất, kĩ thuật còn văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất
lẫn văn hóa tinh thần. Văn minh là những thành tựu đã đạt đƣợc khi văn hóa phát triển đến một mức độ
nhất định của một không gian xã hội nhất định. Vì vậy văn hóa có bề dày của quá khứ còn văn minh
chỉ là một lát cắt đồng đại
Ví dụ: Trƣớc khi xuất hiện văn minh Văn Lang- Âu Lạc, Việt Nam đã xuất hiện một số nền văn hóa
nhƣ: văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn. Văn minh Văn Lang - Âu Lạc đƣợc hình thành dựa trên cơ
sở xã hội, văn hóa đã đƣợc hình thành trƣớc đó, văn hóa là nền tảng của văn minh: Nền kinh tế nông
nghiệp chuyển từ cuốc sang cày góp phần tăng hiệu quả sản xuất; xuất hiện sự phân hóa giữa các tầng
lớp xã hội: quý tộc, nông dân và nô tỳ; quý tộc là tầng lớp có thế lực, nông dân là tầng lớp chiếm đại đa
số và sản xuất chính, nô tỳ là tầng lớp thấp kém nhất trong xã hội; quá trình giao lƣu và trao đổi sản vật
đã hình thành mối liên kết giữa các cộng đồng cƣ dân Việt cổ.
Văn hóa mang tính dân tộc rõ nét thì văn minh thƣờng mang tính siêu dân tộc – quốc tế. Văn hóa tại
mỗi đất nƣớc, mỗi khu vực là khác nhau nhƣng họ có thể ở cùng trong một nền văn minh. Nhƣ văn hóa
của Mĩ và Trung Quốc là khác nhau nhƣng đều ở cùng trong văn minh hậu công nghiệp. Văn minh có
thể kể đến nhƣ văn minh tin học hay văn minh hậu công nghiệp còn văn hóa là văn hóa Việt Nam, văn
hóa Nhật Bản, văn hóa Châu Âu, văn hóa châu Á.
Giữa văn hoá và văn minh có một điểm gặp gỡ nhau đó là đều do con ngƣời sáng tạo ra.
b) Văn hóa và văn hiến, văn vật
Văn hiến thiên về những giá trị tinh thần do ngƣời hiền tài sáng tạo ra, chuyền tải thể hiện tính dân
tộc, tính lịch sử rõ rệt. (Chữ viết, thơ văn, phong tục tập quán tốt đẹp)
Văn vật là khái niệm để chị những côn trình hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử (Phở Hà Nội,
Gốm Bát Tràng, Cốm làng Vòng)
Về đối tƣợng, văn hóa bao gồm tất cả các yếu tố vật chất và tinh thần, văn vật thiên về yếu tố vật chất
hơn, văn hiến chủ yếu tập trung về các yếu tố tinh thần con văn minh lại thiên về các yếu tố vật chất kĩ
thuật. Nói cách khác, văn hiến và văn vật đều là bộ phận của vản hóa.
c) Văn hóa, văn hiến, văn vật và văn minh
Trong khi văn hóa, văn hiến, văn vật có tính lịch sử, tính dân tộc thì văn minh lại có tính quốc tế và
chỉ sự phát triển theo giai đoạn. Cũng bởi những thuộc tính đó mà văn minh thƣờng gắn với xã hội
phƣơng tây. Họ xác định, sử dụng văn minh để đánh giá đối với nền kinh tế, xã hội của các quốc gia.
Còn văn hóa ,văn hiến, văn vật lại thân thuộc hơn với xã hội phƣơng Đông. Từ đó thể hiện cho các giá
trị riêng, các bản sắc riêng chứa đựng trong kinh tế, xã hội.
Vấn đề 3: Văn hóa hóa bản năng
Tự nhiên là cái đƣơng nhiên tồn tại, không phụ thuộc vài ý muốn chủ quan của con ngƣời. Môi
trƣờng tự nhiên là tất cả những yếu tố của tự nhiên tồn tại xung quanh và có tác động đến cuộc sống
của con ngƣời. Môi trƣờng tự nhiên thay đổi sẽ tác động tới con ngƣời và các giá trị văn hóa con ngƣời
sáng tạo ra. Môi trƣờng sống thay đổi, con ngƣời cũng phải thay đổi để thích nghi , phù hợp với môi
trƣờng sống. Ví dụ nhƣ con ngƣời di cƣ từ vùng núi xuống đồng bằng thì khi đó vấn đề thờ cúng hiện
tại sẽ không còn phù hợp và phải thay đổi.
Con ngƣời là 1 phần của tự nhiên, tồn tại bên trong môi trƣờng tự nhiên, không thể tách rời, là sản
phẩm cao nhất trong chuỗi tiến hóa của tự nhiên vì vậy con ngƣời cũng phải tuân theo những quy luật
của tự nhiên. Con ngƣời có những bản năng không thể nào chặn đứng đƣợc, vì chúng gắn chặt với sự
sống . Song ở con ngƣời, những bản năng này luôn luôn bị đặt dƣới sự kiểm soát của xã hội, từng cộng
đồng “văn hóa – hóa” chúng lên bằng những nghi thức – xã hội hay tôn giáo mà hiệu quả cuối cùng là
con ngƣời thực hiện bản năng trong phạm vi xã hội chấp nhận đƣợc hay nói cách khác là thực hiện một
cách có văn hóa. Văn hóa là sự chế ngự bản năng.
Bản năng của con ngƣời là ăn, ngủ, bài tiết, … thế nhƣng con ngƣời không thể thực hiện những bản
năng ấy nhƣ các loài động vật đƣợc. Con ngƣời sẽ tự điều chỉnh, điều khiển hành vi ấy cho phù hợp với
những chuẩn mực xã hội. Khi ăn phải mời ngƣời lớn, nhƣờng nhịn ngƣời dƣới, khi nói phải có thái độ
tôn trọng, cách xƣng hô phù hợp, ... Những ngƣời ứng xử thiếu văn hóa hay đƣợc nói là ứng xử theo
kiểu bản năng.
Văn hóa phát triển trên nền tảng bản năng sinh vật và thực tiễn xã hội cũng nhƣ môi trƣờng sống. Nói
cách khác, bản năng xã hội nhập vào bản năng sinh vật và nâng bản năng sinh vật lên bản năng ngƣời.
Tất cả hai loại bản năng sinh vật (con) và bản năng xã hội (ngƣời) đều là thuộc về bản chất con -ngƣời,
không thể tách rời đƣợc.
Qúa trình hình thành nhân cách cũng chính là quá trình văn hóa làm chủ bản năng – văn hóa hóa bản
năng ở từng con ngƣời với tƣ cách là chủ thể ý thức về bản thân mình trong quan hệ với xã hội, với
ngƣời khác. Những đứa trẻ từ khi sinh ra đến lúc trƣởng thành sẽ đƣợc gia đình định hƣớng, nuôi
dƣỡng nhân cách cũng nhƣ giáo dục để trở thành những công dân có ích đóng góp tích cực cho sự phát
triển chung của xã hội. Những bài học mà thế hệ đi trƣớc dùng để giảng dạy cho thế hệ sau là những
văn hóa truyền thống của dân tộc mình, cách ứng xử sao cho chuẩn mực, có văn hóa, các bài học về
văn hóa tôn sƣ trọng đạo, kính trên nhƣờng dƣới, hiếu thảo về ông bà, cha mẹ,v.v.
Văn hóa và văn minh có mục đích nhiệm vụ bắt chúng ta chấp nhận những cƣỡng chế xã hội bằng
cách bù lại những thú vui tinh thần. Nhƣ vậy văn hóa có nhiệm vụ điều hòa và giải quyết giữa những
ham muốn cá nhân và cƣỡng chế xã hội.
Và nhƣ vậy khác với loài vật, đặc điểm của loài ngƣời là khả năng vƣợt lên sự thống trị của bản năng.
Vấn đề 4: Mối quan hệ giữa môi trường tự nhiên Việt Nam và văn hóa Việt Nam/ Tính sông nước,
tính thực vật của văn hóa Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á. Vùng Đông Nam châu Á này bao gồm
miền chân núi Himalaya và Thiên Sơn. Các dòng sông lớn của khu vực đều bắt nguồn từ hai dãy núi
này. Hạ lƣu của các dòng sông ấy Dƣơng Tử, sông Hồng, MêCông, Chaophaya... đều là những vùng
đồng bằng màu mỡ, đầy phù sa. Đặc trƣng tiêu biểu của vùng này là sự chênh lệch khá lớn giữa bình
nguyên và núi rừng, sự chênh lệch tƣơng đối nhỏ giữa bình nguyên và mặt biển. Chính nét đặc trƣng
này cùng với điều kiện khí hậu nóng, ẩm, mƣa nhiều và có gió mùa là cơ sở thuận lợi cho việc phát
sinh nghề nông trồng lúa nƣớc từ rất sớm, với văn hoá Hoà Bình, văn hoá Bắc Sơn.
Việt Nam "nằm giữa Đông Nam Á" (lục địa hải đảo) "là ngã tƣ đƣờng của các cƣ dân và các nền văn
minh". Việt Nam – Bán đảo Đông Dƣơng là đầu cầu để mở vào Đông Nam Á từ hƣớng Ấn Độ và
Trung Quốc. Tính chất bán đảo rõ nét của Việt Nam thể hiện ở khí hậu nóng, ẩm, mƣa nhiều và có hai
mùa gió rõ rệt. Địa hình Việt Nam trải dài (khoảng 15 vĩ độ); núi rừng chiếm 2/3 diện tích, sông ngòi
nhiều và phân bố đều khắp. Đồng bằng chỉ chiếm một tỉ lệ khiêm tốn (chƣa đến 1/3 diện tích). Ngoài ra,
bao quanh hƣớng Đông và Nam là bờ biển khoảng hơn 2000 km. Tây và Bắc bị chắn bởi núi rừng,
trong đó quan trọng nhất là dãy núi Hoàng Liên Sơn và dãy núi Trƣờng Sơn. Cũng vì vậy mà việc phân
bố hệ thống sinh vật cũng nhƣ tập quán canh tác dân tộc Việt Nam là khá tiêu biểu và đặc thù.
Đông Nam Á – Việt Nam đƣợc đặc trƣng bởi hệ sinh thái phồn tạp (một trong hai loại hình hệ sinh
thái tự nhiên của thế giới). Trong hệ sinh thái phồn tạp chỉ số đa dạng giữa số giống loài và số cá thể rất
cao, thực vật phát triển hơn so với động vật (động vật dễ bị dịch bệnh do nhiệt ẩm gió mùa). Trong thời
kinh tế thu lƣợm, hái lƣợm (phổ rộng) vƣợt trội hơn săn bắn (bắt), sử dụng đạm thủy sản là chính.
(Trong các di chỉ khảo cổ học chủ yếu là dấu tích quả, hạt cây và các động vật sống dƣới nƣớc nhƣ vỏ
sò, vỏ ốc, xƣơng cá... Xƣơng động vật hiếm mà phần nhiều là động vật vừa và nhỏ). Thời kinh tế nông
nghiệp, trồng trọt (đa canh) vƣợt trội hơn chăn nuôi. Trong một hệ sinh thái phồn tạp lại có nhiều vùng
sinh thái khác nhau. Theo GS. Đào Thế Tuấn, Việt Nam có 10 vùng: Đông Bắc Việt Nam, Tây Bắc
Việt Nam, trung tâm Bắc Việt Nam (châu thổ sông Hồng), Bắc Trung Bộ Việt Nam (Thanh - Nghệ –
Tĩnh), Trung Trung Bộ Việt Nam (Bình – Trị – Thiên), Nam Trung Bộ Việt Nam (Quảng Nam – Ninh
Thuận – Bình Thuận), Bắc Tây Nguyên, Nam Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Còn theo
GS. Mai Đình Yên có 19 vùng. Ví dụ: vùng đầm phá ven biển Trung Bộ, vùng hải đảo ven bờ, xa bờ,
vùng núi, vùng đồi, vùng Hà Nội, vùng thành phố Hồ Chí Minh.
Từ góc độ địa lí – văn hoá. chúng ta có thể khái quát địa hình Việt Nam – dài Bắc – Nam, hẹp Tây –
Đông; đi từ Tây sang Đông có Núi – Đồi – Thung – Châu thổ – Ven biển - Biển và Hải đảo. Đi từ Bắc
vô Nam là các đèo cắt ngang Tây Đông.
Sự đa dạng của môi trƣờng sinh thái, điều kiện tự nhiên là yếu tố góp phần tạo nên sự đa dạng văn
hoá. Trong vô vàn yếu tố tác động đến cuộc sống hàng ngày từ góc độ tự nhiên, các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nƣớc hầu nhƣ đều nêu bật hai tính trội của văn hoá Việt Nam truyền thống: sông nƣớc
và thực vật.
Tính thực vật: Văn minh Việt Nam – nền văn minh thực vật (khái niệm của học giả Pháp P.Gourou)
hay văn minh thôn dã, văn hoá lúa nƣớc tính chất thực vật (mà cốt lõi là cây lúa) in dấu ấn đậm nét
trong đời sống hàng ngày của con ngƣời Việt Nam nhƣ ở, đi lại, mặc và ăn. Chúng ta có thể thấy rằng,
những thói quen, những phong tục của nhân dân ta từ xƣa tới nay chịu ảnh hƣởng rất nhiều bởi tính
thực vật.
Từ xa xƣa, ông cha ta sinh hoạt chủ yếu bằng nghề cày, cấy nên lƣơng thực chủ yếu là gạo và các
lƣơng thực khác mà ngƣời dân tự trồng trọt đƣợc. Dân ta lấy nông nghiệp đa canh làm nền tảng, trồng
trọt trội hơn chăn nuôi. Bữa ăn (bữa cơm) đƣợc mô hình hoá Cơm – Rau – Cá, nhấn mạnh yếu tố thực
vật là “cơm” và “rau”. Gạo tẻ dùng để nấu cơm là món ăn chính hàng ngày và xay ra bột để làm bún và
các thứ bánh nhƣ: bánh lá, bánh đúc, bánh tẻ,v.v. Gạo nếp dùng để nấu xôi, làm bánh chƣng, bánh dày
hoặc xay ra bột để làm rất nhiều thứ bánh mặn hay ngọt. Các loại rau, dƣa và các món phụ thêm đều
đƣợc trồng ở vƣờn hay mọc tự nhiên ở đồng nhƣ: rau cải, hành tỏi, rau thơm,v.v. Ngoài cơm và rau đôi
bƣa ngƣời Việt cũng thƣờng hay ăn tôm, cua, cá tự bắt đƣợc và đạm thủy sản đóng vai trò chủ yếu
trong nguồn đạm của ngƣời Việt. Những đồ ăn làm từ thịt thƣờng là từ các vật nuôi trong nhà nhƣ ngan,
vịt, lợn với mục đích tận dụng nguồn thức ăn thừa hoặc cám đƣợc xay ra từ gạo. Ngƣời Việt ta không
có thói quen ăn sữa và các sản phẩm từ sữa động vật, không có truyền thống chăn nuôi đại gia súc lấy
thịt mà có thể thấy chăn nuôi gắn với trồng trọt, phục vụ trồng trọt nhƣ nuôi trâu làm sức kéo.
Những thứ đồ uống của dân ta thƣờng dùng cũng là từ cây cối, lúa gạo mà ra nhƣ các loại chè hay
nƣớc lá vối, gạo rang; rƣợu thì đƣợc lên men từ gạo nếp, các loại rƣợu ƣớp từ hoa nhƣ hoa sen, hoa cúc,
hoa nhài.
Tết xuất phát từ chữ tiết mà ra. Tiết tức là thời tiết. Theo lịch của những ngƣời trồng lúa thì một năm
có 24 tiết. Nhƣ vậy, cứ 15 ngày là một tiết. Do đó, tết sinh ra từ trong xã hội có nền kinh tế nông
nghiệp. Là một đất nƣớc có nghề trồng lúa từ khá sớm, cách ngày nay hơn 3000 năm, nên cái tết của
dân tộc ta cũng gắn liền với thời tiết của một nƣớc nông nghiệp. Trong dịp tết nguyên đán, một thứ
bánh không thể thiếu là bánh chƣng và bánh dày với nguyên liệu chủ yếu từ thực vật là gạo và đỗ xanh.
Sự tích bánh chƣng, bánh dày thể hiện mong muốn của ngƣời nông dân mong cho trời đất giao hòa để
thuận tiện cho việc trồng trọt, thể hiện lòng biết ơn và trân trọng cây lúa – thành quả lao động và là thứ
duy trì sự sống cho ngƣời nông dân.
Trang phục của ngƣời Việt thƣờng đƣợc làm từ sợi vải tự nhiên nhƣ: đay, gai, ngô, bông,...
Nhà ở của nƣớc ta rất đa dạng, mỗi vùng miền, dân tộc có những kiều nhà khác nhau phù thuộc vào
điều kiện tự nhiên. Nhà ở đồng bằng thƣờng là nhà ngói, nhà mái bằng; ở miền núi thì có nhà sàn, nhà
rông (lợp bằng rạ hoặc lá cây, sàn bằng gỗ); ngƣời dân chài lƣới thì thƣờng xuyên ăn ở và đi lại trên
thùy bè làm bằng các loại gỗ, cây tre ghép lại. Nhìn chung nhà của ngƣời Việt, dù có các kiểu thiết kế
khác nhau song nguyên liệu chủ yếu vẫn là các loại gỗ hoặc sản phẩm từ cây cố. Cho đến ngày nay với
sự phát triển không ngừng và tiếp xúc giao lƣu văn hóa, nhà ở đa phần không còn làm từ gỗ nhƣng
những sản phẩm từ gỗ nhƣ bàn ghế, giƣờng tủ vẫn đƣợc dân ta ƣa chuộng .
Có thể thấy rằng sắc thái văn hóa thực vật hiện hiện trong cuộc sống thƣờng ngày của chúng ta, nó
xuất phát từ nền văn minh nông nghiệp, phục vụ trồng trọt của ngƣời dân lao động. Việc ăn, ở, mặc, đi
lại mang những dáng dấp rõ nét của sắc thái thực vật. Hình ảnh cây cối, thiên nhiên luôn đƣợc ngƣời
dân lao động trân trọng. Tính chất thực vật còn thể hiện rõ nét trong đời sống tâm linh mà điển hình là
tục thờ cây, thờ hồn lúa, cúng cơm gạo mới,v.v.
Có thể nói cuộc sống của ngƣời dân Việt Nam khá gắn bó, gần gũi với cây cối và thiên nhiên.
Chúng ta biết cách hòa nhập với thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên, biến thiên nhiên thành một phần
của sự sống và sinh hoạt con ngƣời. Mỗi vùng miền, sắc thái văn hóa thực vật lại đƣợc thể hiện khác
nhau tạo nên sự đa dạng phong phú, một nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
Tính sông nước:
Có thể nói, nƣớc là “ngƣời mẹ” của con ngƣời từ thuở sơ khai. Cây lúa nƣớc xuất hiện trên đồng
ruộng là một điều kỳ diệu với ngƣời Việt. Nó cung cấp thức ăn là chất bột có nhiều dinh dƣỡng lại bảo
quản đƣợc lâu. Thiếu nƣớc sẽ không có lúa nƣớc và sẽ chẳng có một nền văn minh lúa nƣớc.
Vì vậy môi trƣờng sông. nƣớc đƣợc coi là một yếu tố đặc biệt quan trọng khi xem xét về những vấn
đề văn hoá, còn ngƣời Việt Nam. Có thể nói đặc trƣng nƣớc chính là kết quả tổng thể của những đặc
điểm về địa lí, địa hình cũng nhƣ khí hậu.
Yếu tố nƣớc mang tính chất phổ quát và đặc thù này đã tạo nên sắc thái riêng biệt trong tập quán kĩ
thuật canh tác (đê, ao, kênh, rạch...), cƣ trú (làng ven sông, trên sông "vạn chài, từ chợ búa, bến” tới
những đô thị ven sông, biển hay ngã ba, ngã tƣ sông...), ở (nhà sàn, nhà mái hình thuyền, nhà – ảo, nhà
thuyền...), ăn (cá nƣớc ngọt, nƣớc mặn, các loại nhuyễn thể...), tới tâm lí ứng xử (linh hoạt, mềm mại
nhƣ nƣớc – chữ dùng của GS. Cao Xuân Huy), sinh hoạt cộng đồng (đua thuyền, bơi chải... ), tín
ngƣỡng, tôn giáo (thờ cá, rắn, thủy thần...). phong tục tập quán, thành ngữ, tục ngữ, ca dao, nghệ thuật
(chèo, tuồng, rối nƣớc, hò, lí...) và truyền thống.
Con ngƣời cƣ trú ven sông, trồng lúa nƣớc, quăng chài, kéo lƣới sinh sống. Những ngã ba sông, nơi
ven biển nhanh chóng tạo thành làng mạc đông vui, thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa. Trên
các sông ngòi đầy thuyền thay thế ngôi nhà. Khi mà trên đƣờng bộ chƣa hình thành, thì việc đi lại chủ
yếu là trên sông nƣớc. Trên đồ đồng Đông Sơn ngƣời ta đã thấy xuất hiện thuyền, mảng, bè… do con
ngƣời tự tạo từ thời Hùng Vƣơng.
Con ngƣời nhờ sông nƣớc mà có thức ăn, nhà ở, phƣơng tiện đi lại, sinh tồn. Sông nƣớc che chở con
ngƣời. Chẳng có gì khó hiểu tại sao con ngƣời thờ Mẫu là nƣớc.
Hàng nghìn năm ngƣời Việt cổ sống gắn bó với sông nƣớc đã hình thành hệ thống văn hóa sông nƣớc.
Chuyện sấm sét dông mƣa, hô vân hoán vũ có ảnh hƣởng tới cuộc sống của ngƣời dân. Ngƣời dân thuở
xƣa cho rằng trên đời này có các thần linh trông coi về nƣớc, về mƣa để dân chúng trồng cấy và sinh
sống. Các hình thức làm lễ nguyện cầu các thần phù hộ độ trì cho con ngƣời thoát khỏi tai ƣơng ra đời,
lâu dần thành tập tục. Nhiều tập tục có ý nghĩa xã hội nhƣ hội té nƣớc, hội đua thuyền còn lƣu truyền
đến tận ngày nay. Vua Lê Đại Hành chính thức lấy hội đua thuyền hằng năm làm thành quốc lễ. Nhà
vua ý thức rằng, nƣớc Việt nhƣ một hòn núi đặt trên thuyền bồng bềnh sông nƣớc, đã phát huy truyền
thống sông nƣớc trong dân chúng.
Hàng loạt các loại hình văn hóa, nghệ thuật ra đời bắt nguồn từ sông nƣớc: Truyện dân gian, truyền
miệng, ca dao, tục ngữ có liên quan đến sông nƣớc nhƣ truyện thần thoại Sơn Tinh-Thủy Tinh đánh
nhau do ghen tuông tạo ra trận lũ lụt hằng năm; một mối tình ngang trái giữa anh lái đò Trƣơng Chi và
Mỵ Nƣơng; Chử Đồng Tử và Tiên Dung trong câu chuyện tình huyền thoại bên dòng sông… Rồi
những điệu hát ngồi tựa mạn thuyền, chèo đò, đò đƣa, các điệu hò kéo lƣới, quăng chài xuất hiện đặc
sắc ở vùng sông biển.
Ngƣời Việt thành thạo sông nƣớc, thạo dùng thuyền, giỏi chài lƣới, thông luồng lạch, nắm rõ quy luật
sông nƣớc. Khi đất nƣớc có chiến tranh, sông nƣớc góp phần lập chiến công hiển hách cùng với con
ngƣời nhƣ chiến thắng sông Bạch Đằng (938), Đức Vƣơng Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán xâm
lƣợc, vẫn trên con sông Bạch Đằng ấy vua Lê Đại Hành đại thắng quân Tống (981), trận chiến nhấn
chìm 6 vạn quân Mông – Nguyên của Hƣng Đạo Đại vƣơng Trần Quốc Tuấn.
Bên cạnh những ƣu đãi, thiên nhiên cũng đặt ra cho con ngƣời Việt Nam, dân tộc Việt Nam với
không ít khó khăn, thách thức bằng những tai biến bất ngờ, khí hậu thất thƣờng, lũ lụt, bão tố, ẩm thấp
gây vô vàn dịch bệnh cho ngƣời, cho động vật, mùa màng. Cuộc đấu tranh kiên cƣờng, chống chọi
hàng ngàn năm với những thử thách này của thiên nhiên đã hun đúc nên tính cách kiên cƣờng, tinh thần
cố kết cộng đồng của ngƣời Việt mà điển hình là quá trình chinh phục và khai phá châu thổ Bắc Bộ.
Vấn đề 5: Đặc điểm của gia đình người Việt
Gia đình là 1 cộng đồng ngƣời chung sống và gắn bó với nhau bởi các mối quan hệ tình cảm, hôn
nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dƣỡng hoặc quan hệ giáo dục. Gia đình có lịch sử hình thành
từ rất sớm và đã trải qua 1 quá trình phát triển lâu dài, có những ảnh hƣởng mạnh mẽ đến xã hội. Đặc
điểm của gia đình ngƣời Việt có thể chia thành hai giai đoạn chính là gia đình ngƣời Việt trƣớc Bắc
thuộc và sau Bắc thuộc.
Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình ngƣời Việt truyền thống trƣớc Bắc thuộc tồn tại theo hai
nguyên lí cơ bản. Thứ nhất là nguyên lí Đực – Cái: trọng yếu tố Cái, âm tính với vai trò của ngƣời phụ
nữ đƣợc coi trọng. Gia đình mẫu hệ, con cái tính theo dòng mẹ, ngƣời đàn bà làm chủ gia đình, phụ nữ
có địa vị trong xã hội do phong tục “quần hôn”, con cái sinh ra không xác định đƣợc ngƣời bố. Trong
xã hội mẫu hệ, các thành viên trong gia đình sống cùng với nhau trong một ngôi nhà chung, các ngôi
nhà thƣờng có kích cỡ tƣơng tự nhau, khi chết, cộng đồng theo chế độ mẫu hệ có nghĩa trang công
cộng riêng của từng thị tộc, ngay cả khi ngƣời đàn ông kết hôn với thị tộc bên ngoài, khi chết, vẫn phải
đƣợc chôn cất trong nghĩa trang của gia tộc. Các tài sản trong xã hội mẫu hệ là tài sản chung, quyền sở
hữu đƣợc truyền từ mẹ sang con gái, ngƣời đàn ông hầu nhƣ rất ít quyền lực và không có quyền sở hữu
tài sản. Thứ hai là nguyên lí Gìa – Trẻ: trọng ngƣời già, từ xƣa dân tộc ta đã có truyền thống văn hóa
“Kính già, già để tuổi cho” , “Uống nƣớc nhớ nguồn”
Sau khi các thế lực phong kiến phƣơng Bắc xâm lƣợc và đô hộ nƣớc ta trong hơn 1000 năm, chúng
đã du nhập nhiều yếu tố văn hóa giao thoa vào nƣớc ta, làm xuất hiện gia đình ngƣời Việt với đặc điểm
“vỏ Tàu lõi Việt”
“Vỏ Tàu” với chế độ gia đình phụ hộ, phân biệt họ nội họ ngoại “nhất nội nhì ngoại”. Về hình thức,
ngƣời đàn ông làm chủ gia đình, có thể lấy đa thê. Con cái phải theo họ cha, “cha mẹ đặt đâu con ngòi
đấy”. Vỏ Tàu với những tƣ tƣởng Nho giáo mang tính gia trƣởng, trọng nam khinh nữ.Khi bàn về ảnh
hƣởng của Nho giáo với đời sống văn hoá của gia đình, gia tộc ngƣời Việt, các nhà nghiên cứu đều đi
đến luận điểm chung, Nho giáo chỉ là lớp phủ bên ngoài và nếu không đi sâu nghiên cứu các giá trị văn
hoá truyền thống thì khó mà giải thích đƣợc những đặc điểm cơ cấu nội tại của gia đình ngƣời Việt.
“Lõi Việt” với đặc trƣng quy mô trong gia đình, phổ biến là gia đình hạt nhân hoặc gia đình nhỏ có
xu hƣớng hạt nhân hóa. Gia đình ngƣời Việt, trong đại đa số trƣờng hợp (theo số liệu điều tra từ 2/3
đến 3/4) là gia đình hạt nhân (bố mẹ và con cái chƣa trƣởng thành). Ngoài ra còn có hình thức gia đình
nhỏ (bố mẹ và gia đình một con trai, thƣờng là con trai trƣởng). Tuy vậy trong từng làng, một "gia đình
nhỏ" chỉ là thiểu số bên cạnh rất nhiều gia đình hạt nhân. PGS. Nguyễn Từ Chi khi xem xét cơ cấu xã
hội – văn hoá của gia đình ngƣời Việt từ góc độ thờ cúng tổ tiên đã cho rằng quan niệm gia trƣởng của
Nho giáo, chế độ phụ quyền của nó không đủ để giải thích cơ cấu gia đình Việt trong thực tế. Gia đình
này đã cấu tạo theo hai kiểu lồng vào nhau trong quan hệ thân tộc. Đó là kiểu gia đình nhỏ, từ đó tách
ra thành những gia đình "hạt nhân hoá" và cứ thế mà tiếp diễn mãi mãi. "Sự tập hợp các gia đình "nhỏ"
và "hạt nhân" thành đơn vị "chung tộc danh về phía bố" không đeo đuổi một mục đích kinh tế rõ ràng
nào. Nó chỉ nhằm giải quyết hai vấn đề, bảo đảm chế độ ngoại hôn trong lòng từng "đơn vị chung tộc
danh về phía bố" và thờ phụng tổ tiên ở mức độ rộng rãi nhất".
Gia đình hạt nhân của ngƣời Việt là cơ cấu kinh tế tự cung. tự cấp theo mô hình "chồng cày, vợ cấy,
con trâu đi bừa". VD
Ngƣời phụ nữ vẫn giữa vai trò quan trọng gọi là “Nội tƣớng”. Nguyên lí Gìa – Trẻ vẫn đƣợc coi trọng.
Khi bàn về ảnh hƣởng của Nho giáo với đời sống văn hoá của gia đình, gia tộc ngƣời Việt, các nhà
nghiên cứu đều đi đến luận điểm chung, Nho giáo chỉ là lớp phủ bên ngoài và nếu không đi sâu nghiên
cứu các giá trị văn hoá truyền thống thì khó mà giải thích đƣợc những đặc điểm cơ cấu nội tại của gia
đình ngƣời Việt. Hình ảnh "vỏ Tàu, lõi Việt" đã nêu bật đƣợc đặc thù của gia đình Việt cổ truyền.
Vấn đề 6: Làng
Làng là một đơn vị cộng cƣ có một vùng đất chung của cƣ dân nông nghiệp, một hình thức tổ chức xã
hội nông nghiệp tiểu nông tự cấp tự túc, mặt khác là mẫu hình xã hội phù hợp, là cơ chế thích ứng với
sản xuất tiểu nông, với gia đình – tông tộc gia trƣởng đảm bảo sự cân bằng và bền vững của xã hội
nông nghiệp ấy.
Làng đƣợc hình thành, đƣợc tổ chức chủ yếu dựa vào hai nguyên lí cội nguồn và cùng chỗ. Nguyên
lí cội nguồn có thể thấy ở tên làng xã ngày xƣa, làng là nơi ở của 1 họ (nay không còn), 1 dòng họ tổ
chức khai hoang, hình thành một cộng đồng dân cƣ lấy tên là Nguyễn Xá, Lƣu Xá, Đoàn Xá. Các cộng
đồng này xây dựng và duy trì trên cơ sở huyết thống là chủ yếu. Nguyên lí cùng chỗ thể hiện ở việc các
thành viên trong làng chủ yếu cùng sinh sống trên 1 địa bàn nên tự có ý thức gắn kết với nhau.
Một mặt, làng có sức sống mãnh liệt, mặt khác, xét về cấu trúc, làng là một cấu trúc động, không có
làng bất biến. Sự biến đổi của làng là do sự biến đổi chung của đất nƣớc qua tác động của những mối
liên hệ làng và siêu làng.
Làng Việt ở châu thổ Bắc Bộ là hình thức công xã nông thôn với những đặc thù riêng của mình, hình
thức công xã nông thôn "nửa kín, nửa hở" (chữ dùng của GS. Trần Quốc Vƣợng). Cơ cấu “nửa kín nửa
hở” thể hiện tính linh hoạt của mô hình làng xã và là cái nôi, cơ sở bảo tồn các giá trị văn hóa truyền
thống.
Có thể thấy nhiều làng ở châu thổ sông Hồng khi mới thành lập đang mang tính cộng đồng họ tộc.
Trong quá trình phát triển, tính cộng đồng làng càng phức tạp hợp bởi nhiều nghề nghiệp, tín ngƣỡng,
sự phân hóa xã hội; nhƣng mặt khác cũng chặt chẽ hơn, mạnh mẽ hơn bởi sự gia tăng dân số, phải đối
phó với những biến động xã hội, chống lại rủi ro thiên tai.
Làng ngày càng đƣợc củng cố thì ý thức làng ngày càng sâu đậm. Tính “nửa kín” của làng đƣợc thể
hiện ở tính tự trị, tự quả của làng. Với hình thức khép kính là “lũy tre – cổng làng”. Không gian trực
tiếp – làng với cây đa, bến nƣớc, lũy tre, đồng ruộng và xã hội – làng với họ hàng, bè bạn, các bậc quan
viên trƣởng lão là hai yếu tố gắn chặt với ngƣời dân về tất cả mọi mặt nghề nghiệp, tín ngƣỡng, ma
chay, cƣới hỏi trong suốt đời ngƣời, từ thế hệ này sang thế hệ khác ngày càng phong phú. Cuộc sống
vật chất và tinh thần của ngƣời dân đều dựa vào làng.
- “Nửa kín”: tính tự trị, ý thức tự quản của làng
+ Hình thức: khép kín (lũy tre, cổng làng). Những làng Việt xƣa thƣờng có lũy tre bao quanh tạo thành
1 thành lũy kiên cố bảo vệ làng và hạn chế sự giao lƣu bên ngoài.
+ Hƣơng ƣớc (lệ làng) Mỗi làng có những hệ thống phép tắc quy định riêng nhƣ quy định treo cƣới,
khuyến học, các hình phạt, … (Phép vua thua lệ làng)
+ Tín ngƣỡng: Thờ thần Thành hoàng làng - thần bảo trợ cho làng
+ Đời sống kinh tế theo mô hình tự cung tự cấp, có tổ chức họp chợ nhƣng theo phiên hàng tháng hoặc
không có
- Nửa hở: quan hệ liên làng, siêu làng
+ Liên kết chống lũ lụt, chống ngoại xâm
+ Quan hệ hôn nhân vƣợt ra khỏi phạm vi làng
+ Tâm linh: đình tổng, hội vùng, miền, quốc gia, kết chiềng/chạ
+ Kinh tế: Đời sống kinh tế có sự giao lƣu buôn bán ngoài làn, nông cụ, vải, đặc biệt là sản vật địa
phƣơng. Hệ thống chợ phiên đc tổ chúc luân phiên
- Các loại hình làng Việt:
+ Làng thuần nông (Làng Quỳnh Đô, Thanh Trì, HN; Làng Đông Sơn, Thanh Hóa; …)
+ Làng nghề (Làng gố Bát Tràng, Làng Đổng Kỵ Bắc Ninh làm gỗ mỹ nghệ, Làng Cót làm vàng mã ở
Cầu Giấy, HN,…)
+ Làng buôn
+ Làng chài (Làng chài Cửa Vạn, Làng chai Mũi Né, …)
- Các nguyên tắc tổ chức làng xã:
+ Theo huyết thống: dòng họ (các dòng họ sinh sống ăn ở tập trung với nhau)
+ Theo địa vực: ngõ, xóm (phân chia làng thành từng cụm ngõ xóm nhỏ)
+ Theo giáp: phân chia theo lứa tuổi (ti ấu, đinh, lão…) để thuận lợi cho việc quản lí dân làng
- Dân làng:
+ Nội tịch: những ngƣời đàn ông đƣợc ghi tên trong sổ của làng, có quyền và nghĩa vụ với làng, với
nƣớc
 Quan viên chức sắc: khoa mục, viên chức … có uy tín, thế lực trong làng, sau này bị tha hóa
 Các hạng dân làng: ti ấu, đinh, lão / sĩ, nông, công, thƣơng
+ Ngoại tịch: không đƣợc ghi tên trong sổ của làng, sau vài đời sinh sống làm đơn, nộp tiền xin gia
nhập thành nội tịch
Nghiên cứu văn hoá làng – văn hoá ngôn từ, văn chƣơng truyền miệng, phong tục tập quán, lễ hội,
tín ngƣỡng, tôn giáo; nghiên cứu cơ cấu xã hội, môi trƣờng xã hội Việt Nam trong văn hoá Việt Nam,
nhiều học giả cho rằng chính "chủ nghĩa gia tộc" là cái giải thích tinh thần trọng đạo đức của ngƣời
Việt Nam, là sự quy chiếu mọi giá trị, chuẩn mực. Trong "chủ nghĩa gia tộc" ấy lại có đặc trƣng cơ bản
là duy tình, trong đó cốt lõi, là ý thức trách nhiệm lâu dài và toàn vẹn đối với các thế hệ tiếp theo.
Là một đơn vị xã hội của văn hoá Việt Nam, làng của ngƣời Việt là một môi trƣờng văn hoá. Ở đó,
mọi thành tố, mọi hiện tƣợng văn hoá đƣợc sinh thành phát triển, lƣu giữ và trao truyền tới mọi cá thể.
Vấn đề 7: Trình bày, lấy ví dụ làm rõ khái niệm tiếp xúc và giao lưu văn hóa
- Tiếp xúc và giao lƣu văn hóa là hiện tƣợng xảy ra khi hai nhóm ngƣời hay hai tộc ngƣời có đặc trƣng
văn hóa khác nhau tiếp xúc lâu dài và trực tiếp gây ra sự biến đổi về văn hóa với một hoặc cả hai nhóm
ngƣời / tộc ngƣời tham gia tiếp xúc.
- Vì sao lại có tiếp xúc và giao lƣu văn hóa?
+ Về mặt tự nhiên, mọi sự vật, hiện tƣợng trong vũ trụ không tồn tại biệt lập mà tƣơng tác, phụ
thuộc, chuyển hóa lẫn nhau
+ Về mặt xã hội, không cộng đồng nào tự thõa mãn đƣợc các nhu cầu phát triển của nó nếu
không tƣơng tác với các cộng đồng khác.
+ Văn hóa không đứng ngoài các quy luật tự nhiên và xã hội đó
=> Tiếp xúc và giao lƣu văn hóa trở thành bản chất đặc trƣng của mọi nền văn hóa
- Tiếp xúc và giao lƣu văn hóa thể hiện mối quan hệ giữa yếu tố nội sinh và ngoại sinh, dƣới 3
dạng thức cơ bản:
+ Yếu tố nội sinh lấn át
+ Yếu tố ngoại sinh lấn át
+ Sự dung hòa, kết hợp giữa yếu tố nội sinh và ngoại sinh
- Hai hình thức của tiếp xúc và giao lƣu văn hóa:
+ tự nguyện: là hình thức 1 chủ thể tự nguyện tiếp nhận văn hóa của một/nhiều chủ thể khác mà
không trải qua bất cứ hình thức cƣỡng bức nào thông qua các quá trình, hoạt động buôn bán,
truyền giáo, hôn nhân, …
VD: Phật giáo du nhập vào nƣớc ta một cách tự nguyện theo hình thức di dân, truyền giáo
+ không tự nguyện (cƣỡng bức): Dựa trên bạo lực và xâm chiếm lãnh thổ, “chủ thể mạnh” buộc
“chủ thể yếu” sử dụng văn hóa của họ để thay thế văn hóa gốc, nhằm đi đến đồng hóa văn hóa,
thƣờng xảy ra trong thời kì chiến tranh.
VD: Pháp thực hiện chính sách ngu dân, phá trƣờng học, bắt dân ta học tiếng Pháp, học trƣờng
Pháp, từ bỏ văn hóa truyền thống dân tộc
- Hai đặc điểm của tiếp xúc và giao lƣu trong văn hóa Việt Nam:
+ chọn lọc
+ biến đổi
VD: Chữ Hán => Chữ Nôm, Tết Hàn thực tƣởng nhớ Giới Tử Thôi => Tết diệt sâu bọ
Vấn đề 8: Trình bày, lấy ví dụ làm rõ quá trình, đặc điểm tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt -
Trung; nhận xét xu hướng tiếp biến và hội nhập văn hóa ở Việt Nam hiện nay
Khi nhìn văn hoá Trung Hoa, trong sự đồng đẳng với văn hoá Việt lại phải chú ý, ranh giới của văn
hoá Trung Hoa không trùng với địa giới Trung Hoa hiện tại. Khoảng 500 năm trƣớc công nguyên trở
về trƣớc, Hoa Nam chƣa thuộc về lãnh thổ của đế chế Trung Hoa - Chu – Tần – Hán. Giáo sƣ Mĩ
W.Eberhand khi viết về các nền văn hoá địa phƣơng ở Nam và Đông Trung Hoa, đề cập đến Hoa Nam
thời cổ, ông đã gọi là Prechinese China (Trung Hoa trƣớc ngƣời Hoa). Đây là địa bàn của các tộc ngƣời
phi Hoa, quê hƣơng của các tộc ngƣời nói tiếng Tày – Thái, Mèo – Dao, Tạng – Miến, Môn – Khơme,
nói khác đi là địa bàn của cƣ dân Bách Việt.
Sự giao lƣu tiếp biến giữa văn hoá Việt Nam và văn hoá Trung Hoa là sự giao lƣu, tiếp biến rất dài
trong nhiều thời kì của lịch sử Việt Nam. Cho đến hiện nay, không một nhà văn hoá học nào lại phủ
nhận ảnh hƣởng lớn của văn hoá Trung Hoa đối với văn hoá Việt Nam, Quá trình giao lƣu tiếp biến ấy
diễn ra cả hai trạng thái: giao lƣu cƣỡng bức và giao lƣu không cƣỡng bức.
Trƣớc hết là giao lưu văn hoá một cách cưỡng bức. Việc này xảy ra vào những giai đoạn lịch sử mà
ngƣời Việt bị đô hộ, bị xâm lƣợc: từ thế kỉ I đến thế kỉ X và từ 1407 đến 1427.
Suốt trong thiên niên kỉ thứ nhất sau công nguyên, hay thời kì mà các nhà viết sử gọi là thời kì Bắc
thuộc, ngƣời Hán tổ chức đƣợc nền đô hộ, ngoài việc bóc lột ở Giao Châu về mọi phƣơng diện, bộ máy
cai trị của ngƣời Hán thực hiện chính sách đồng hoá, tiêu diệt văn hoá của cƣ dân bản địa. Câu hỏi lớn
nhất của lịch sử đặt ra cho ngƣời Việt là giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Văn hoá Việt luôn đứng trƣớc
một thử thách lớn lao và gay gắt với câu hỏi tồn tại hay không tồn tại.
Giao lƣu văn hoá cƣỡng bức còn xảy ra lần thứ hai từ 1407 đến 1427. Đây là giai đoạn nhà Minh xâm
lƣợc và cai trị Đại Việt. Trong số các kẻ thù xâm lƣợc từ phƣơng Bắc, giặc Minh là kẻ thù xâm lƣợc
tàn bạo nhất đối với văn hoá Đại Việt. GS. Trần Quốc Vƣợng, trong tuyển tập nhan đề Văn Hóa Việt
Nam, Tìm Tòi và Suy Gẫm đã viết: “Cƣớp đƣợc nƣớc ta, trong 20 năm trời bên nền đô hộ hà khắc về
chính trị, vơ vét tham tàn về kinh tế, giặc Minh đã thi hành một chính sách hủy diệt độc ác về văn hóa,
giặc Minh đã quyết tâm đập cho tan nát những cơ cấu văn hóa dân tộc xây dựng suốt hơn 400 năm, chủ
yếu dƣới thời Lý – Trần. Vua Minh đã trực tiếp ra mật lệnh cho bọn tƣớng xâm lăng khi tiến quân vào
nƣớc ta, thấy bất cứ cuốn sách vở nào, gặp bất cứ tấm bia đá nào đều phải thiêu hủy, đập phá hết.
Chính sách hủy diệt văn hóa thâm độc đó đã phá hoại gia tài văn hóa, tinh thần của dân tộc ta không
phải là ít. Nếu không, cái gia tài văn hóa, văn học tƣ tƣởng thời Lý Trần để lại sẽ phong phú biết chừng
nào!” Không những vậy, quân Minh còn cho nung chảy thành đồng An Nam tứ đại khí của nƣớc ta. An
Nam tứ đại khí, là bốn kỳ quan, bốn quốc bảo và là bốn công trình nghệ thuật bằng đồng của văn hóa
thời Lý, Trần bao gồm: Tƣợng Phật chùa Quỳnh Lâm; Tháp Báo Thiên, Vạc Phổ Minh. Có thể nói
chống lại chủ trƣơng đồng hoá ngƣời Việt của nhà Minh lại là công việc không đơn giản của cả dân tộc
Việt giai đoạn này.
Có thể thấy tiếp xúc và giao lƣu văn hóa cƣỡng bức diễn ra song song 2 quá trình: Trung Hoa đồng
hóa và ngƣời Việt chống đồng hóa. Dân ta chống đồng hóa bằng 2 cách, một là chối từ hai là tiếp nhận
có cải biến, biến thành văn hóa mang những nét đặc trƣng của dân tộc. Sau hơn 1000 năm Bắc thuộc và
sự hủy diệt văn hóa tàn độc của nhà Minh, dân tộc ta vẫn giữ đƣợc những thứ cốt yếu trong nền văn
hóa, giữ đƣợc bản sắc dân tộc Việt. Quá trình đồng hóa của Trung Hoa bao gồm 3 yếu tố chính: đồng
hóa về chủng tộc, đồng hóa văn hóa, và đồng hóa ngôn ngữ.
Mặt khác, giao lƣu, tiếp biến văn hoá một cách tự nguyện lại là dạng thức thứ hai của quan hệ giữa
văn hoá Việt Nam và văn hoá Trung Hoa.
Trong nền văn hoá Đông Sơn, ngƣời ta đã nhận thấy khá nhiều di vật của văn hoá phƣơng Bắc nằm
cạnh những hiện vật của văn hoá Đông Sơn. Chẳng hạn những đồng tiền thời Tần Hán, tiền Ngũ thù
đời Hán, các dụng cụ sinh hoạt của quý tộc Hán nhƣ gƣơng đồng, ẩm đồng v.v... Có thể những sản
phẩm ấy là kết quả của sự trao đổi, thông thƣơng giữa các nƣớc láng giềng.
Sau một ngàn năm Bắc thuộc, đất nƣớc đã độc lập, ngƣời phƣơng Bắc không cai trị Đại Việt nữa,
nhƣng giao lƣu, tiếp biến văn hoá vẫn xuất hiện và đó là giao lƣu văn hoá tự nguyện. Sự mô phỏng mô
hình Trung Hoa đƣợc các triều đại của nhà nƣớc quân chủ Đại Việt đẩy mạnh. Nhà Lý, về tổ chức xã
hội, chính trị lấy cơ chế của Nho giáo làm gốc, và vẫn chịu ảnh hƣởng rất đậm của Phật giáo. Nhƣng từ
nhà Trần, nhà Lê, đã hoàn toàn tự nguyện và chịu ảnh hƣởng của Nho giáo rất đậm, cụ thể là Tống Nho,
quả là: "trong một thời gian dài, Nho giáo đƣợc coi là ý thức hệ chính thống".
Cả hai dạng thức của giao lƣu, tiếp biến văn hoá cƣỡng bức và tự nguyện của mối quan hệ giữa văn
hoá Việt Nam và văn hoá Trung Hoa đều là nhân tố cho sự vận động của văn hoá Việt Nam qua diễn
trình lịch sử! Ngƣời Việt đã tạo ra khá nhiều thành tựu trong quá trình giao lƣu văn hoá này.
Thời Bắc thuộc, với sự giao lƣu với phƣơng Bắc, ngƣời Việt đã tiếp nhận kĩ thuật rèn đúc sắt và gang,
kinh nghiệm chất đá làm đê ngăn sóng biển, kĩ thuật dùng phân mà dân gian vùng châu thổ Bắc Bộ gọi
là "phân bắc" v.v... Đáng lƣu ý là việc tiếp nhận chữ Hán, mặc dù tiếng Việt và tiếng Hán là hai thứ
tiếng thuộc hai ngữ hệ khác nhau. Một nghìn năm Bắc thuộc cũng là một nghìn năm tiếng Việt biến đổi
theo xu hƣớng âm tiết hoá và thanh điệu hoá. Nhƣng, tiếng Việt vẫn là tiếng Việt, mà ngƣời Việt không
bị ngƣời Hán đồng hoá về mặt tiếng nói.
Thời quân chủ, nhất là từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX, các triều đại đã mô phỏng mô hình Trung Hoa,
trên cơ tầng văn hoá Đông Nam Á, lại thƣờng xuyên phải giữ độc lập dân tộc. chống xâm lƣợc từ
phƣơng Bắc. Ngoài mô hình chính trị. ngƣời Việt còn tiếp nhận nhiều thành tố văn hoá khác. Kết quả
của sự giao lƣu ấy, tạo ra ở Việt Nam một mô hình tổ chức xã hội vừa giống vừa khác mô hình tổ chức
xã hội của giai cấp phong kiến Trung Quốc về sở hữu ruộng đất, chế độ bóc lột địa tô và về hệ tƣ tƣởng.
Bản thân hệ tƣ tƣởng Nho giáo của giai cấp phong kiến Trung Quốc cũng khác hệ tƣ tƣởng Nho giáo ở
Việt Nam, bởi Nho giáo ở Việt Nam đã có một độ khúc xạ rất lớn, do những đặc điểm lịch sử – xã hội
ở Việt Nam.
Vấn đề 9: Trình bày, lấy ví dụ làm rõ quá trình, đặc điểm tiếp xúc và giao lưu văn hóa Việt Nam
với phương Tây. Nhận xét về quá trình hội nhập, toàn cầu hóa tại Việt Nam hiện nay.
Không phải đến khi ngƣời Pháp vào xâm lƣợc, giao lƣu giữa văn hoá Việt Nam và văn hoá phƣơng
Tây mới diễn ra. Bởi trong văn hoá của cƣ dân Óc Eo, ngƣời ta đã nhận thấy nhiều di vật của các cƣ
dân La Mã cổ đại: "2 huy chƣơng hay tiền La Mã. một vật thời Antonics (152 năm sau công nguyên), 1
vật thời Marcus Anrelius (161–180 sau công nguyên..) Những di vật đó nói lên rằng Óc Eo đã có
những quan hệ thƣơng mại quốc tế rộng rãi" bởi thế kỉ XVI, các linh mục phƣơng Tây đã vào truyền
giáo ở vùng Hai Hậu (nay thuộc tỉnh Nam Định), và chúa Trịnh vua Lê ở Đàng Ngoài cũng nhƣ các
chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi nhà Tây Sơn đều có quan hệ với phƣơng Tây.
Tuy nhiên, quan hệ thực sự diễn ra vào nửa sau thế kỉ XIX. khi thực dân Pháp đánh chiếm cửa Cần
Giờ và đặt ách cai trị lên dân tộc Việt Nam. Đây là thời kì biến động lớn về tƣ tƣởng và chính trị, đồng
thời văn hoá Việt Nam cũng có sự thay đổi căn bản. Nhìn ở phƣơng diện tính chất giao lƣu văn hoá ở
thời kì này có hai dạng thứ nhất là giao lƣu một cách cƣỡng bức, áp đặt; thứ hai là tiếp nhận một cách
tự nguyện.
Về phía ngƣời Pháp, đội quân đi xâm lƣợc và đô hộ rất có ý thức dùng văn hoá nhƣ một công cụ cai
trị nên bị ngƣời dân Việt phản ứng một cách quyết liệt. Có thể thấy thái độ ấy của các nhà nho yêu
nƣớc ở Nam Bộ hồi cuối thế kỉ XIX nhƣ Nguyễn Đình Chiểu, Trƣơng Công Định, Nguyễn Trung Trực
v.v... Vì vậy, ngƣời Việt chống lại cả văn hoá mà đội quân đi. xâm lƣợc định áp đặt cho họ. Số phận
của chữ Quốc ngữ, trong giai đoạn này chính là nằm trong thái độ ấy. Tuy nhiên với ngƣời Việt, vận
mệnh dân tộc là thiêng liêng nhất. bằng thái độ cởi mở, họ đã tiếp nhận những giá trị, những thành tố
văn hoá mới, miễn sao chúng có tác dụng hữu ích trong công cuộc chống ngoại xâm. giành lại độc lập
dân tộc. Vì thái độ đối với chữ Quốc ngữ trong giai đoạn này của các nho sĩ chính là biểu hiện cho điều
ấy.
Quá trình giao lƣu và tiếp xúc của văn hoá Việt Nam và văn hoá phƣơng Tây giai đoạn này đã khiến
ngƣời Việt Nam thay đổi cấu trúc lại nền văn hoá của mình, đi vào vòng quay của văn minh phƣơng
Tây giai đoạn công nghiệp. Diện mạo văn hoá Việt Nam thay đổi trên các phƣơng diện:
Thứ nhất là chữ Quốc ngữ, từ chỗ là loại chữ viết dùng trong nội bộ một tôn giáo đƣợc dùng nhƣ chữ
viết của một nền văn hoá.
Thứ hai là sự xuất hiện của các phƣơng tiện văn hóa nhƣ nhà in, máy in ở Việt Nam v.v...
Thứ ba là sự xuất hiện của báo chí, nhà xuất bản.
Thứ tƣ là sự xuất hiện của một loạt các thể loại, loại hình văn nghệ mới nhƣ tiểu thuyết, thơ mới, điện
ảnh, kịch nói, hội hoạ v.V...
Nhƣ vậy cuộc giao lƣu, tiếp biến giữa văn hoá của Việt Nam và văn hoá phƣơng Tây diễn ra trong
hoàn cảnh nhân dân ta một mặt phải tiến hành cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân giành độc lập
dân tộc, mặt khác phải tiếp nhận nên văn hoá phƣơng Tây để hiện đại hoá đất nƣớc. Nơi đây tiếp biến
văn hoá dƣợc diễn ra trên binh diện tiếp xúc Đông-Tây với hai hệ quy chiếu dƣờng nhƣ đối lập. Cuộc
gặp gỡ ấy tỏ ra rất "trái khoáy" không có gì là thú vị, ấy thế mà chỉ trong thời gian tƣơng đối ngắn (so
với sự tiếp xúc văn hoá giữa các nƣớc Đông Nam Á với Trung Hoa và Ấn Độ) nền văn hoá của các
quốc gia tại dây đã đƣợc cấu trúc hoá lại dẫn tới việc các nƣớc này từng bƣớc "rời bỏ phƣơng thức sản
xuất châu Á" tức là nền văn minh nông nghiệp truyền thống để đi vào quỹ đạo của nền văn minh công
nghiệp phƣơng Tây"". Kết quả là văn hoá Việt Nam giai đoạn này thay đổi diện mạo nhƣng văn hoá
Việt Nam không hề đánh mất bản sắc dân tộc.
Vấn đề 10: Trình bày quá trình du nhập, đặc điểm của Phật giáo ở Việt Nam; nhận xét vai trò
của Phật giáo trong xã hội Việt Nam hiện nay.
a, Nguồn gốc
- Ra đời khoảng thế kỉ VI TCN tại Ấn Độ
- Ngƣời sáng lập là Siddhartha Gautama hay còn đƣợc gọi là Tất Đạt Đạ / Thích Ca Mâu Ni 652-544
TCN)
+ Là thái tử nhƣng bất bình với sự phân chia đẳng cấp, kì thị màu da và đồng cảm với nỗi khổ của
muôn dân => tìm con đƣờng giải thoát
+ Rời nhà lúc 29 tuổi, đến 35 tuổi thì giác ngộ đƣợc tƣ tƣởng, tìm ra hƣớng giải thoát. Trong suốt 40
năm còn lại của cuộc đời đi các nơi để truyền bá tƣ tƣởng của mình.
b, Giáo lý: Kinh Phật, đƣợc xếp thành 3 tạng
- Kinh tạng: chứa các bài thuyết pháp của Phật và một số đệ tử
- Luật tạng: chứa các lời Phật dạy về thế giới luật và phƣơngt thức sinh hoạt của chúng tăng
- Luận tang: chứa những lời bàn luận
Nội dung giáo lý: học thuyết về nỗi khổ và sự giải thoát, có cốt lõi là “Tứ diệu đế” (Bốn chân
lý kì diệu)
+ Khổ đế: bản chất của nỗi khổ
“Bát khổ”: sinh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất đạt, ngũ thụ uẩn
+ Tập đế: chân lý về nguyên nhân của nỗi khổ
Đó là ái dục (tham muốn) và vô minh (kém sáng suốt). Dục vọng thể hiện hành động gọi là
Nghiệp; hành động xấu khiến con ngƣời phải nhận hậu quả của nó (nghiệp báo)
 Luẩn quẩn trong vòng luân hồi
+ Diệt đế: cảnh giới diệt khổ
Nỗi khổ sẽ đƣợc tiêu diệt khi nguyên nhân gây ra khổ bị loại trừ.
Sự tiêu diệt khổ đau gọi là niết bàn (nghĩa đen: không ham muốn, dập tắt)
 Thế giới của sự giác ngộ và giải thoát
+ Đạo đế: con đƣờng diệt khổ
“Bát chính đạo” (tám con đƣờng diệt khổ):
- Rèn luyện đạo đức - GI I: chánh ngữ, chánh nghiệp, tránh mạng
- Rèn luyện tƣ tƣởng - Đ NH: chánh niệm, chánh định
- Khai sáng trí tuệ - TUỆ: chánh kiến, chánh tƣ duy, chánh tinh tấn
c, Phật giáo có 2 phái: Đại thừa & Tiểu thừa
- Tiểu thừa (“cỗ xe nhỏ” - chở đƣợc ít ngƣời):
+ Theo xu hƣớng bảo thủ, chủ trƣơng bám sát kinh điển, giữ nghiêm giáo luật
+ Phật tử phải tự giác ngộ cho bản thân,
+ Chỉ thờ Phật Thích Ca và chỉ tu đến bậc La hán (ngƣời đã thoát cảnh luân hồi, đáng đƣợc tôn
kính)
- Đại thừa (“cỗ xe lớn” - chở đƣợc nhiều ngƣời):
+ Không cố chấp theo kinh điển, khoan dung đại lƣợng trong thực hiện giáo luật
+ Thu nạp tất cả những ai muốn quy y, giác ngộ giải thoát cho nhiều ngƣời
+ Thờ nhiều Phật, tu qua các bậc La hán, Bồ Tát đến Phật
d, Quá trình thâm nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam: 4 giai đoạn
*Từ đầu công nguyên đến hết thời Bắc thuộc: giai đoạn hình thành và phát triển rộng khắp
- Đầu công nguyên (TK I,II): Du nhập vào Việt Nam qua đƣờng biển, trung tâm là chùa Dâu (Luy Lâu,
Thuận Thành, Bắc Ninh) nhờ 1 số nhà truyền đạo gốc Ấn Độ, Trung Quốc. Phật giáo
lúc này mang màu sắc Tiểu thừa, Bụt nhƣ 1 vị thần luôn xuất hiện giúp ngƣời tốt và trừng trị kẻ
xấu
- TK IV-V: phật giáo Đại thừa từ Trung Hoa tràn vào vào thay thế luồng Tiểu thừa trƣớc đó.
Từ Buddha đƣợc phiên âm thành Phật (theo tiếng Hán) dần thay thế cho Bụt (phiên âm theo
tiếng Phạn). Bụt chỉ còn trong các quán ngữ với nghĩa ban đầu (“Gần chùa gọi Bụt = anh”)
hoặc trong các truyện cổ dân gian (Tấm Cám)
14
- Có 3 tông phái đƣợc truyền vào Việt Nam: Thiền tông, Tịnh độ tông và Mật tông
+ Thiền Tông: chủ trƣơng tập trung trí tuệ suy nghĩ để tự mình tìm ra chân lý, đề
Đòi hỏi nhiều công phu, trí tuệ, phổ biến ở giới tri thức thƣợng lƣu
+ Tịnh Độ tông: dựa vào sự giúp đỡ bên ngoài đề cứu chúng sinh thoát khổ ờng xuyên đi
chùa lễ Phật, tụng niệm “Nam mô A-di-đà Phậ ản, phổ biến cho mọi ngƣời giới bình
dân
+ Mật tông: sử dụng những phép tu luyện bí mật (linh phù, mật chú, ấn quyết,..) để thu hút tín
đồ và mau chóng đạt đến giác ngộ và giả ỡng dân gian Việt Nam
nhƣ cầu đồng, dùng pháp thuật, yểm bùa trị ma và chữa bệnh,...
*Thời Lí – Trần: giai đoạn cực thịnh
- Nhiều chùa tháp có quy mô to lớn/kiến trúc độc đáo đƣợc xây dựng: Chùa Phật Tích, chàu
Dam (chùa Đại Lãm), chùa Diên Hựu (Một Cột), hệ thống chùa Yên Tử,v.v.
- Bốn công trình nghệ thuật lớn thời Lý - Trần mà sách vở Trung Hoa còn truyền tụng là “An
Na tứ đại khí”:
+ Tƣợng Phật chùa Quỳnh Lâm (pho tƣợng Di lặc bằng đồng cao 6 trƣợng (24m) đặt trong một
tòa Phật điện cao 7 trƣợng, xây dựng vào TK XI)
+ Tháp Báo Thiên ( vua Lý Thánh Tông cho xây năm 1057, 12 tầng, 20 trƣợng, là đệ nhất danh
thắng đế đô một thời, bị phá hủy bởi quân Vƣơng Thông năm 1414, những gì còn sót lại đã bị
Pháp phá hoàn toàn để xây nhà thờ lớn trên nền đất ấy.)
+ Chuông Quy Điền (năm 1101 vua Lý Nhân Tông xuất hàng vạn cân đồng để đúc và dự định
treo tại chùa Diên Hựu nhƣng do to và nặng quá không thể treo lên, đành để ngoài ruộng, rùa
bò ra bò vào nên dân gian gọi là chuông Quy Điền (ruộng rùa))
+ Vạc Phổ Minh (thời Trần Nhân Tông, vạc to đến mức nấu đƣợc cả 1 con bò mộng, trẻ con có
thể chạy nô đùa trên thành miệng vạc. Nay còn lại 3 trụ đá kê chân vạc trƣớc sân chùa Phổ
Minh)
* Thời Hậu Lê: Cuối TK XIX: nhà nƣớc tuyên bố lấy Nho giáo là quốc giáo,
Phật giáo dần suy thoái. Đầu TK XVIII, vua Quang Trung có quan tâ chấn hƣng đạo Phật, song
vì vua mất sớm nên việc này ít thu đƣợc kết quả
* Đầ ạn chấn hƣng Phật giáo
- Đầu TK XX, trƣớc trào lƣu Âu hóa, phong trào chấn hƣng Phật giáo đƣợc dấy lên, khởi đầu
từ các đô thị miền Nam. Các hội Phật giáo Nam,Trung, Bắc Kì lần lƣợt ra đời.
- Đến nay, Phật giáo là tôn giáo có số tín đồ đông nhất ở Việt Nam. Xuất gia khoảng 3 triệu
ngƣời, thƣờng xuyên đến chùa tham gia các Phật sự khoảng 10 triệu và chịu ảnh hƣởng cũng
khoảng vài chục triệu.
*Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam
 Tính tổng hợp:
- Hòa nhập với tín ngưỡng dân gian:
VD: + Hệ thống chùa Tứ pháp vẫn chỉ là những miếu dân gian thờ các vị thần tự nhiên: Mây - Mƣa -
Sấm - Chớp và thờ đá
+ Lối kiến trúc chùa: tiền Phật hậu Thần, đƣa cả thần thánh, thành hoàng, thổ địa, các anh hùng
dân tộc vào thờ trong chùa. Hầu nhƣ không chùa nào không để bia hậu, bát nhang cho các linh hồn đã
khuất.
- Tổng hợp các tông phái với nhau: không có tông phái Phật giáo nào là thuần khiết
VD: + phối hợp Thiền Tông với Tịnh Độ tông.
+ Bắc: Chùa có nhiều pho tƣợng Phật, bồ tát, la hán của các tông phái khác nhau. Tƣợng Phật Thích ca
có tới 5 dạng: Thích ca sơ sinh (Thích Ca Cứu Long), Tuyết Sơn, Thích Ca đứng thuyết pháp, Thích Ca
ngồi tòa sen, Thích Ca nhập niết bàn (lúc sắp mất)
+ Nam: chùa mang hình thức Tiểu thừa (thờ Thích Ca, sƣ mặc áo vàng) nhƣng lại theo giáo lý Đại thừa
(cạnh Phật Thích Ca lớn có nhiều tƣợng nhỏ, ngoài áo vàng có đồ nâu lam)
- Tổng hợp chặt chẽ với các tôn giáo khác, Phật với Nho, với Đạo.
- Kết hợp việc đạo với việc đời
VD: Các cao tăng đƣợc mời tham chính hoặc cố vấn trong những việc hệ trọng
+ Vua Đinh Tiên Hoàng phong đại sƣ Khuông Việt làm tăng thống, tiếp sứ thần nhà Tống
+ Vua Lê Đại Hành hỏi ý kiến sƣ Vạn Hạnh trƣớc khi xuất quân đánh Tống 16
+ Thời Lý, thiên sƣ Vạn Hạnh cố vấn mọi mặt cho vua Lý Thái Tổ ...
+ Nhiều vua quan quý tộc đi tu Đầu TK XX, Phật tử xuống đƣờng phản đối nền độc tài của gia đình
họ Ngô: hòa thƣợng Thích Quảng Đức tự thiêu hè 1963.
 Khuynh hƣớng thiên về nữ tính (Đặc trƣng bản chất của VH nông nghiệp)
- Các vị Phật Ấn Độ xuất thân là đàn ông, sang VN thành Phật Ông, Phật Bà
VD: +Bồ tát Quan Thế Âm => Phật Bà Quan Âm với nghìn mắt nghìn tay
+ Tạo ra Phật bà riêng: Đứa con giá nàng Man, sinh ngày 8/4, đƣợc xem là Phật Tổ Việt Nam, bà Man
là Phật Mẫu => 8/4 là ngày Phật Đản; hay Quan Âm Thị Kính, Phật bà chùa Hƣơng, các thánh mẫu,...
+ Chùa chiền mang tên các bà: Chùa Bà Dâu, chùa Bà Đá, chùa Bà Đanh,...
+ Tuyệt đại bộ phận Phật tử tại gia là các bà: “Trẻ vui nhà, già vui chùa”
 Tính linh hoạt
- Tạo ra lịch sử Phật giáo cho riêng mình: nàng Man, cô gái làng Dâu Bắc Ninh, một trong những đệ tử
đầu tiên của Phật giáo, trở thành Phật Mẫu, đứa con gái của nàng hóa thân vào đá à trở thành Phật Tổ
với ngày sinh là ngày Phật Đản 8/4.
- Coi trọng việc sống phúc đức, trung thực hơn là đi chùa: “Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ 3
tu chùa”hay “Dù xây 9 bậc phù đồ, không = làm phúc cứu cho 1 ngƣời”; Coi trọng truyền thống thờ
cha mẹ, ông bà hơn là thờ Phật; đồng nhất cha mẹ, ông bà với Phật
- Đức Phật đƣợc đồng nhất với những vị thần trong tín ngƣỡng cứu giúp mọi ngƣời, làm mây mƣa sấm
chớp để mùa màng tốt tƣơi, ban cho ngƣời hiếm muộn có con, ban lộc cho bình dân để làm ăn phát đạt,
cứu độ ngƣời chết và giúp họ siêu thoát.
- Tƣợng Phật mang dáng dấp hiền hòa với những tên gọi rất dân gian: ông Nhịn ăn mà mặc(Tuyết Sơn
gầy ốm), ông Nhịn mặc mà ăn (Di lặc to béo), ông Bụt c (Thích ca tóc quăn),.. ; nhiều pho tƣợng tạc
theo dáng chân co chân duỗi rất thoải mái, giản dị,...
- Chùa thiết kế theo phong cách ngôi nhà cổ truyền với hình thức mái cong có ba gian hai chái, năm
gian hai chái, trở thành công trình công cộng quan trọng thứ hai của mỗi làng 17
 Phật giáo Hòa Hảo (tổng hớp đạo Phật với đạo ông bà - thờ cúng tổ tiên)
- Lấy pháp môn Tịnh Độ làm căn bản, kết hợp với đạo thờ ông bà tổ tiên đề ra thuyết “Tứ ân”: Ơn tổ
tiên cha mẹ, ơn đất nƣớc, ơn tam bảo, ơn đồng bào và nhân loại.
K T: Phật Giáo từ lâu đã thâm nhập vào tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của dân tộc Việt Nam, kết hợp hài
hòa với tín ngƣỡng dân tộc và đã trở thành bản chất và bản sắc của dân tộc Việt Nam.
Vấn đề 11: Kitô giáo (giáo trình)
Vấn đề 12: Trình bày, lấy ví dụ làm rõ nội dung, đặc điểm của Tín ngưỡng thờ thành hoàng ở
Việt Nam truyền thống; phân tích, nhận xét về tín ngưỡng thờ thành hoàng thông qua một
trường hợp cụ thể tại địa phương mà anh/ chị biết
Đồng bằng Bắc bộ là cái nôi văn hóa của ngƣời Việt. Ngƣời Việt qua hàng ngàn năm cƣ trú đã tạo
nên đời sống văn hóa tinh thần phong phú, độc đáo. Một trong những yếu tố góp phần tạo nên đời sống
văn hóa tinh thần đó là GIÁ TR trong tín ngƣỡng thờ Thành hoàng làng. Trong xã hội hiện đại, tƣởng
nhƣ đạo hiếu trong tín ngƣỡng thờ Thành hoàng làng không còn cơ sở tồn tại vì làng xã ở nông thôn đã
có những biến đổi sâu sắc. Song điều đó đã không xảy ra và còn có chiều ngƣợc lại, nó vẫn còn đƣợc
bảo tồn khá nguyên vẹn. Phải chăng đó là GIÁ TR vĩnh hằng trong đời sống tinh thần ngƣời Việt nơi
đây?
Nội dung
Tín ngƣỡng thờ Thành hoàng làng là một loại hình tín ngƣỡng khá phổ biến ở làng xã của ngƣời Việt
ở đồng bằng Bắc bộ. “Ngƣời Việt phổ biến nhất, nổi bật nhất là thờ thần ở làng, không làng nào là
không có đình, đền, miếu thờ thần”[1]. “Bởi thế, thần Thành hoàng là biểu tƣợng thiêng liêng nhất của
cả làng, ở mỗi làng, khắp các làng xƣa kia”[2]. Tín ngƣỡng thờ Thành hoàng là sự kết hợp đỉnh cao của
tín ngƣỡng sùng bái con ngƣời và tín ngƣỡng sùng bái thần linh.
Nhà - Họ - Làng - Nƣớc là cơ cấu xã hội truyền thống của ngƣời Việt trong lịch sử. Làng là một đơn
vị kinh tế - xã hội – văn hóa thống nhất chặt chẽ, liên kết giữa các gia đình, dòng họ lại với nhau trong
một cộng đồng lãnh thổ chung. Là một cơ cấu tổ chức lâu đời và đặc thù của cƣ dân nông nghiệp trồng
lúa nƣớc. “Văn hoá Việt Nam xét về bản chất là một nền văn hoá xóm làng”[3]. Làng Việt Nam từ lâu
đã là nơi sinh ra và bảo lƣu văn hoá làng – văn hoá dân tộc. Cho đến nay, văn hoá làng vẫn tồn tại với
sự ngƣng kết đậm đặc trong lối sống, phong tục tập quán, tín ngƣỡng, văn hoá dân gian… Làng Việt ở
đồng bằng Bắc bộ là nơi lƣu truyền các giá trị văn hóa làng, thu giữ vào nó nhiều loại hình tôn giáo và
văn hóa truyền thống, trong đó có tín ngƣỡng thờ Thành hoàng làng. Làng Việt có cơ cấu, thiết chế rất
chặt chẽ, tuy có quan hệ với nhà nƣớc trung ƣơng, nhƣng lại mang tính độc lập tƣơng đối. Tính độc lập
tƣơng đối này thể hiện sự khác nhau trong việc thờ Thành hoàng làng.Tín ngƣỡng thờ Thành hoàng
làng đã bám rễ sâu bền, góp phần quan trọng vào việc cố kết cộng đồng, tạo nên bản sắc văn hóa truyền
thống của ngƣời Việt ở đồng bằng Bắc bộ. Ở các làng đồng bằng Bắc bộ, Thành hoàng làng là vị thần
bản mệnh, là chỗ dựa tâm limh cho cả cộng đồng làng.
Thành hoàng làng đƣợc thờ phụng thành kính và trân trọng ở các không gian thiêng trong các làng
xã vùng đồng bằng Bắc bộ. Ở đồng bằng Bắc bộ, làng nào cũng thờ Thành hoàng làng. Thành hoàng có
thể là nhiên thần, nhân thần, đƣợc phân thành thƣợng đảng thần, trung đẳng thần, hạ đẳng thần, chính
thần, tà thần… nhƣng đều có chung một điểm là có công trạng đối với làng. Dân làng thể hiện sự biết
ơn bằng việc thờ phụng.
1, Nghi lễ thực hành tín ngưỡng thờ Thành hoàng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ
Trong tiềm thức của ngƣời dân sống trong làng Việt cổ ở đồng bằng Bắc bộ, Thành hoàng là một
biểu tƣợng thiêng liêng, là vị thần hộ mệnh của cả làng, có vai trò to lớn trong việc che chở , bảo hộ
dân làng. Sự biết ơn và tôn kính Thành hoàng đƣợc thể hiện ở nơi thờ cúng, nghi thức thờ cúng. Việc
thờ cúng vị thần chung, sự tôn kính của cả làng đƣợc thực hiện với nghi thức chặt chẽ trong lễ hội làng
mà không gian tâm điểm là đình làng .
Đình là nơi thờ Thành hoàng làng. Đình vừa là không gian văn hóa, vừa là không gian tôn giáo, tín
ngƣỡng, đồng thời là đơn vị cơ quan hành chính của làng của ngƣời việt ở đồng bằng Bmắc bộ. Đình
đƣợc coi nhƣ ngôi nhà chung của làng, nó vừa gần gũi, vừa thân thƣơng lại vừa thiêng liêng, huyền bí.
Đình làng là không gian đặc biệt của ngƣời Việt “đƣợc mọi ngƣời nhìn nhận với tính chất đặc biệt đa
dụng cả về tôn giáo lẫn xã hội, hành pháp, tƣ pháp, lập pháp, du hý, kinh tế, quan hôn, tang tế... chỉ
Việt Nam mới có"[4]. Việc thờ cúng Thành hoàng đƣợc diễn ra thƣờng xuyên thông qua việc thắp đèn,
hƣơng hằng ngày, ngoài ra việc cúng lễ đƣợc thực hiện vào các ngày Sóc, Vọng hằng tháng, những
ngày tiết nạp bốn mùa, lễ giao thừa, Tết Nguyên đán, hay những ngày trong làng có ma chay, cƣới hỏi,
ngƣời đỗ đạt, xây dựng công trình chung…dân làng vẫn ra đình cúng lễ để báo cáo, tạ ơn hay kêu cầu
sự chở che của Thành hoàng cho cuộc sống của cá nhân, gia đình và cả làng đƣợc bình yên và phồn
thịnh. Đặc biệt là ngày thần húy và thần đản, tức là ngày mất và ngày sinh của Thành hoàng làng, hay
ngày nhập tịch của làng, những ngày này thƣờng đƣợc ngƣời dân trong làng tổ chức lễ tế rất lớn. Tế
thần là sự giao cảm giữa ngƣời và thần là hoạt động thiêng liêng nhất mở đầu lễ hội, là nghi thức rƣớc
kiệu, dâng lễ vật, đọc chúc văn tỏ kính ý biết ơn thần, cầu xin thần ban những điều tốt lành cho dân
làng nhƣ: phong đăng hòa cốc, an khang vật thịnh…
Ý thức về cộng đồng của dân làng đƣợc củng cố sâu sắc thêm thông qua các lễ hội làng. Lễ hội làng
đƣợc coi là ngày giỗ của cả làng, hay còn gọi là ngày Thần kỵ. Nghi lễ tế Thành hoàng làng của ngƣời
Việt ở đồng bằng Bắc bộ đƣợc quy định rất chặt chẽ ở tất cả các khâu, từ việc chọn ngƣời chủ tế, bồi tế,
các ngƣời xƣớng, cũng nhƣ y phục, các động tác cũng đƣợc quy định rõ ràng trong điển lễ của làng và
ngƣời thực hiện lễ tế phải thực hiện các động tác đúng nhƣ quy định. Làng cũng quy định trong cuộc
tế, bắt đầu từ tiết mục "Khởi chinh cổ" cho đến "Tế tất" có bao nhiêu động tác, vị đông xƣớng xƣớng
câu gì, vị chủ tế xƣớng câu gì, mỗi chức danh trong cuộc tế đứng ở đâu... Tất cả các điều này đều đƣợc
ghi chép tỷ mỉ trong điển lễ của làng. Địa điểm diễn ra các cuộc rƣớc, tế và các trò diễn là đình và đền
(hoặc miếu) của làng. Đồng thời với tế và lễ, ngƣời dân còn tổ chức rƣớc Thành hoàng, với ý muốn đƣa
thần đi thăm thú làng quê, khoe với thần những công việc tốt đã làm đƣợc. Trong buổi rƣớc ngƣời dân
còn diễn lại những công trạng của Thành hoành làng đã làm đối với làng. Đó chính là thế hiện sự biết
ơn sâu sắc, lòng tôn kính và sự nhớ nhung khôn nguôi với ngƣời có công với làng, với nƣớc - một nét
đẹp trong đạo Hiếu của ngƣời Việt ở các làng đồng bằng Bắc bộ.
Trong lễ tế Thành hoàng làng, phần lễ và phần hội là một tổng thể. Lễ là phần tôn giáo, biểu hiện
những giá trị đạo đức sâu lắng nhất của ngƣời dân mỗi làng quê vùng đồng bằng Bắc bộ. Phần lễ gồm
một hệ thống hành vi biểu hiện sự tôn kính, biết ơn, sự mong cầu của ngƣời dân đối với Thành hoàng
làng. Điều đó đƣợc thể hiện trong văn tế. Văn tế nhắc đến công trạng của các vị thần đƣợc thờ cúng tại
đình, sắc phong của các vị Thành hoàng. Điều này vừa bày tỏ sự cung kính, nhớ ơn của ngƣời dân địa
phƣơng đối với các vị thần linh, vừa khơi dậy truyền thống lịch sử, giáo dục truyền thống uống nƣớc
nhớ nguồn cho các lớp con cháu. Văn tế của ngƣời Việt đƣợc dùng để giao cảm với thần linh, chủ yếu
cầu xin thần linh ban phúc lành cho dân làng. Trong lễ hội cổ truyền của ngƣời Việt, văn tế đƣợc viết
bằng chữ Hán. Hiện nay, văn tế của nhiều làng ngƣời Việt vùng Đồng bằng Bắc Bộ viết bằng chữ Quốc
ngữ. Sau nghi lễ rƣớc và tế Thành hoàng là phần hội với các cuộc thi, trò diễn, trò chơi dân gian, hội thi
nấu ăn. Các cuộc thi, trò chơi dân gian trong lễ hội bao giờ cũng có nội dung gắn với lịch sử của làng,
mô tả lại sự tích hay chiến tích của Thành hoàng, ca ngợi vẻ đẹp của làng…
Lễ hội làng là nơi giải toả những ƣớc muốn tâm linh của ngƣời nông dân, là nơi giúp con ngƣời lập
lại một sự cân bằng trong quan hệ nhiều chiều: ngƣời và ngƣời, ngƣời và thần linh, ngƣời và vạn vật.
Nói cách khác, đó là những triết lý mang đậm mầu sắc Á Đông của ngƣời dân Việt về trời, đất, và
ngƣời, với ƣớc mong thiên thời, địa lợi, nhân hoà.Thông qua lễ hội làng, mỗi ngƣời dân dƣờng nhƣ
cảm thấy mình đƣợc bình đẳng trƣớc trời đất, thần thánh để tỏ lòng biết ơn, cầu mong sự che chở đối
với bản thân, gia đình, họ tộc và làng xã. Sự phân biệt về địa vị và thân phận của mỗi ngƣời đều bị phá
bỏ trong mối quan hệ với thế giới thần linh, nó đã góp phần giúp ngƣời dân tăng thêm niềm tin, quên đi
những lo toan, nhọc nhằn của đời sống hiện thực, giúp họ lấy lại đƣợc cân bằng về tâm lý để sống vui
hơn, tốt hơn ngay khi lễ hội. Khuôn quanh những không gian thiêng liêng ấy, hàng năm lễ thần và hội
làng diễn ra là dịp niềm tin thiêng liêng đƣợc củng cố. Thần Thành hoàng thiêng liêng nhắc nhở con
ngƣời nhớ về cội nguồn, hiếu đạo, nhắc nhở xoá bỏ những gì khúc mắc bất hoà, làm cho ngƣời ta gắn
bó với nhau hơn. Họ sống với nhau bằng tình làng nghĩa xóm: “tối lửa tắtđèn có nhau”, “bán anh em xa
mua láng giềng gần”, “một miếng khi đói bằng một gói khi no”... Đó là những sợi dây tình cảm vô
cùng thiêng liêng cố kết, củng cố khối cộng đồng làng xã.
2, Giá trị của tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ
Thứ nhất, ý thức về lòng biết ơn những người có công với làng xã
Thành hoàng là ngƣời có công với dân làng nhƣ: lập làng, lập nghề, dạy học, đánh giặc, cứu ngƣời...
Cũng giống nhƣ thờ cúng tổ tiên, thờ cúng Thành hoàng của ngƣời Việt vừa là tín ngƣỡng, vừa là đạo
lý sống của hậu thế đối với bậc tiền bối có công với làng xóm, đất nƣớc. Nếu thờ cúng tổ tiên là đạo lý
thể hiện ý thức hƣớng về nguồn cội của gia đình, dòng họ thì thờ cúng Thành hoàng làng cũng là sự tôn
vinh các bậc tiền bối ở cấp độ làng xã. Làng nào cũng thờ Thành hoàng, mỗi một vị Thành hoàng có
nguồn gốc, công trạng khác nhau “trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ”. Vì thế,
làng không thể thiếu một biểu tƣợng thiêng liêng, vị thần hộ mệnh để phát tín hiệu tập hợp, củng cố,
bảo vệ phát triển cộng đồng. Việc thờ cúng đó đƣợc xuất phát từ sự biết ơn, sự ghi nhớ công ơn của
dân làng với ngƣời có công với làng.
Ngƣời có công đánh giăc, bảo vệ làng, nƣớc đƣợc triều đình phong kiến sắc phong hàm Thƣợng
đẳng thần thì đƣợc nhiều làng thờ phụng nhƣ: Bà Trƣng, Bà Triệu, Lê Hoàn, Dƣơng Đình Nghệ, Lê
Văn Thịnh, Tô Hiến Thành, Lý Thƣờng Kiệt… Vua Hùng có công lập nƣớc Văn Lang nên đƣợc coi là
Thành hoàng chung, đƣợc cả nƣớc tôn thờ.
Tuy nhiên, có lẽ nét khác biệt giữa các làng chính là thờ các vị thần riêng của làng mình, những vị
thần đó vừa gần gũi lại vừa thiêng liêng với từng làng. Ngƣời nông dân làng Việt ở Bắc bộ chủ yếu
sống bằng sản xuất nông nghiệp, gắn bó, phụ thuộc vào thiên nhiên. Xƣa kia, con ngƣời thụ động, phụ
thuộc phần lớn vào thiên nhiên. Trƣớc sức mạnh của thiên nhiên, con ngƣời trở nên nhỏ bé, tâm lý bất
an khi gặp thiên tai hay mất mùa. Họ cần có vị thần che chở, cứu giúp.Từ đó, “ngƣời dân trong làng
cùng nhau tự phong, tự thờ vị Thành hoàng riêng của mình nhƣ vị thần bản mệnh, chủ yếu đảm bảo
mƣa thuận gió hòa, đem lại sự bình yên cho cộng đồng”[5].
Đối với ngƣời dân vùng đồng bằng Bắc bộ xƣa kia sống ở làng, kinh tế nông nghiệp không chỉ trồng
trọt và chăn nuôi, khi những làng nghề thủ công xuất hiện, đời sống của ngƣời dân khá giả hơn, họ
mang ơn những ngƣời đã có công tìm và truyền nghề cho họ. Vì thế ngƣời dân thờ Thành hoàng làng
còn là những vị Tổ nghề. Tín ngƣỡng thờ Thành hoàng làng là Tổ nghề biểu hiện khá rõ và còn lƣu
truyền đến nay nhƣ làng gốm Bát Tràng, Gia Lâm, Hà Nội tôn vị tổ nghề gốm Hứa Vĩnh Kiều làm
Thành hoàng làng để ghi nhớ công ơn tuyền dạy nghề gốm cho nhân dân và phát triển thành làng gốm
nổi tiếng nhƣ hiện nay. Trong đình làng, ngoài vị tổ chung của cả làng còn có bài vị của chin cụ Tổ của
chin họ trong làng cũng đƣợc phối thờ. Hay bà chúa nuôi tằm, dệt vải Quỳnh Hoa thời vua Lê Thánh
Tông do có tài năng dạy cung nữ các nghề chăn tằm dệt vải đƣợc dân tôn là Thành hoàng thôn Nghi
Tàm.Trong các đình làng trên khắp mọi miền đất nƣớc có rất nhiều nơi thờ Thành hoàng làng là ngƣời
có công truyền nghề cho nhân dân nhƣ: ông tổ nghề đúc đồng ở làng Đại Bái, huyện Gia Bình, Bắc
Ninh - Nguyễn Công Truyền; đình Lò Rèn ở số 1 Lò Rèn thờ Tổ nghề rèn; đình Bích Lƣu ở 18 Thợ
Nhuộm thờ Tổ nghề thợ nhuộm; đình làng Đồng Xâm, xã Hồng Thái, huyện Kiến Xƣơng, tỉnh Thái
Bình thờ Nguyễn Kim Lâu - vị Tổ nghề chạm bạc của làng…
Thứ hai, ý thức giữ gìn luật lệ, lề lối gia phong của làng xã
Mỗi làng xã cổ truyền Việt Nam đều có phong tục tập quán riêng biệt, định hình thành tục lệ làng xã.
Trong tâm thức ngƣời Việt ở đồng bằng Bắc bộ Thành hoàng là vị thần tối linh, có thể bao quát, chứng
kiến toàn bộ đời sống của dân làng, bảo vệ, phù hộ cho dân làng làm ăn phát đạt, khoẻ mạnh. Các thế
hệ dân cứ tiếp tục sinh sôi nhƣng thành hoàng thì còn mãi, trở thành một chứng tích không thể phủ
nhận đƣợc của một làng qua những cơn chìm nổi. Thành hoàng chính là vị chỉ huy tối linh của làng xã
không chỉ về mặt tinh thần mà còn một phần về mặt đời sống sinh hoạt vật chất của dân làng. Cho
nên,“sự thờ phụng thành hoàng xét cho cùng là sự thờ phụng luật lệ làng xã, lề thói gia phong của
làng”[6].
Thành hoàng có sức toả sáng vô hình nhƣ một quyền uy siêu việt, khiến cho làng quê trở thành một
hệ thống chặt chẽ. Chính sự thờ phụng này là sợi dây liên lạc vô hình, giúp dân làng đoàn kết, nếp sống
cộng cảm hoà đồng, đất lề quê thói đƣợc bảo tồn. Vì lẽ đó, mỗi làng khi muốn mở hội hoặc tổ chức
việc gì đều phải có lễ cúng thành hoàng để xin phép trƣớc. “Dƣờng nhƣ sự ngƣỡng mộ thành hoàng của
ngƣời dân không kém gì sự ngƣỡng mộ đối với tổ tiên của họ, ở cấp độ cao hơn Tổ nhà, Tổ họ vì đây là
Tổ làng”[7]
Tín ngƣỡng thờ Thành hoàng làng thƣờng đƣợc thể hiện trong các lễ hội xuân hoặc Tết cổ truyền, lễ
hội cho phép dân cƣ làng khác đến tham dự, nhân đó mở rộng quan hệ cho làng - vốn đóng kín. Ngƣời
dân vùng đồng bằng Bắc bộ canh tác nông nghiệp tuần hoàn theo bốn mùa, những tập tục lâu đời tạo ra
các lề thói và giá trị tinh thần, có cái hay, cái dở, có cái nhân văn, song cũng có cái bảo thủ, hủ tục cố
hữu... điều đó tạo nên những nét riêng biệt của mỗi làng. Tín ngƣỡng thờ Thành hoàng qua đó nhắc nhở
con ngƣời phải yêu quý cộng đồng dân tộc, đặc biệt là cộng đồng làng xã, kéo ngƣời dân quay lại mối
quan hệ hàng xóm láng giềng theo kiểu “bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Trong mỗi dịp lễ hội
Thành hoàng hƣơng ƣớc của làng đƣợc nhắc nhở, lƣu giữ, làng xã trở thành một cộng đồng thống nhất.
Có thể nói, thờ Thành hoàng làng thực chất là nét văn hoá đặc trƣng trong sinh hoạt văn hoá làng, sự
giao lƣu văn hoá giữa các làng xóm với nhau; là nơi để lƣu giữ những phong tục, luật lệ của mỗi làng..
đó là sự kết tinh ý thức hệ tôn giáo quanh một hình thái thờ phụng tập thể - thờ Thành hoàng làng trong
tâm thức dân gian, tâm thức truyền thống của ngƣời dân.
Thứ ba, ý thức đoàn kết cộng đồng làng xã
Tín ngƣỡng Thành hoàng đóng vai trò liên kết cộng đồng làng xã, là nơi quy tụ tâm linh cho cƣ dân.
Thành hoàng chứng kiến đời sống của dân làng, ban phúc độ trì cho những ngƣời trung hiếu, hiền lành,
giáng họa trừng phạt những kẻ độc ác vô luân. Có tai biến, ngƣời ta thƣờng đến lễ bái cầu xin thần che
trở. Có việc oan ức, ngƣời ta thƣờng lễ bái cầu xin thần chứng giám chuyển giữ hóa lành, giải oan cho
ngƣời đó. Mọi ngƣời trong cộng đồng luôn tuân thủ theo luật lệ, đạo đức vì họ luôn tâm niệm rằng thần
luôn giám sát những hoạt động của từng thành viên trong cộng đồng. Nhà nƣớc phong kiến Việt Nam
chọn lọc và phong sắc cho Thành hoàng làng nhằm mục đích đoàn kết và động viên toàn bộ sức mạnh
của cộng đồng làng, xã và dân tộc thành một khối, đồng thời thực hiện việc quản lý xã hội đến cơ sở xã
hội. Không gian văn hóa chung là đình và linh hồn chung của làng là Thành hoàng làng. Ngôi đình
xuất hiện lúc ban đầu với chức năng làm trụ sở hành chính – công sở của nhà nƣớc phong kiến ở làng,
xã dần dần trở thành nơi thờ cúng Thành hoàng và hội họp của chức dịch, dân làng và thông qua các lễ
tế diễn ra tại đình đã thể hiện rõ sự biết ơn, lòng thành kính đối với đấng thiêng liêng là Thành
hoàng.Tín ngƣỡng thờ Thành hoàng chính là nơi “nƣơng náu” của văn hóa dân tộc. Quan niệm về quy
luật thiêng liêng trời đất, thời gian và lối sống của ngƣời nông dân tác động lên hình dáng làng mạc,
ngôi đình và các nghi thức tế lễ của tín ngƣỡng thờ Thành hoàng. Trong vòng quay của mùa màng,
năm tháng đƣợc sinh sôi và cuộc đời ngƣời nảy nở. Từ đây, mỗi ngƣời cảm thấy rõ nhu cầu ngƣỡng
vọng tâm linh, nhu cầu không thể sống một mình mà cần có thêm những ngƣời khác nữa. Phải sống
giữa cộng đồng, gắn kết với cộng đồng làng hay theo lời ngƣời xƣa, đó chính là cái lẽ “nhân quần”.Nếu
nhƣ tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên là nền tảng gắn kết mọi thành viên trong gia đình thì sự thờ cúng thần
Thành hoàng là nền tảng gắn kết mọi thành viên trong cộng đồng làng, xã. Trên cơ sở những nguyện
vọng, mong ƣớc của các thành viên trong làng hội tụ ở thần Thành hoàng.
Nhƣ vậy, đạo Hiếu của ngƣời Việt không chỉ là một trạng thái tâm lý, mà nó trở thành một nội
dung cơ bản của chủ nghĩa yêu nƣớc. Ngƣời dân Việt Nam trải qua suốt chiều dài lịch dựng nƣớc và
giữ nƣớc, phải đoàn kết nhau lại. Ý thức cố kết cộng đồng đƣợc hình thành và phát triển để chống lại
thiên tai và giặc giã. Sau mỗi khó khăn trong cuộc sống mƣu sinh và tâm thức khát khao hòa bình, cuộc
sống bình an, tâm lý đƣợc che chở, muốn đƣợc bày tỏ sự biết ơn với đấng thiêng đã ban phƣớc lành
cho mình đã ra đời một cách tự nhiên, bình dị. Tín ngƣỡng thờ Thành hoàng làng của ngƣời Việt ở
đồng bằng Bắc bộ biểu hiện đạo Hiếu, sự biết ơn và mong muốn đƣợc đền đáp công ơn của thế hệ sau
với thế hệ trƣớc, sự đền đáp đó đƣợc lƣu truyền từ đời này sang đời khác, củng cố và duy trì bền vững.
Đạo Hiếu có vai trò trung gian, điều chỉnh sự tồn tại, hoạt động trong sinh hoạt tín ngƣỡng thờ Thành
hoàng làng. Đạo Hiếu đƣợc kết tinh từ văn hóa, trở thành triết lý sống của ngƣời Việt, dạy con ngƣời
sống hƣớng thiện, có cái tâm trong sáng, biết đối nhân xử thế, thờ phụng ông bà tổ tiên và những ngƣời
có công với quốc gia dân tộc. Đạo Hiếu trong tín ngƣỡng thờ Thành hoàng làng nhƣ một lời nhắc nhở
về những giá trị từ quá khứ, là niềm tự hào của dân tộc hƣớng đến những giá trị nhân văn cao cả. Trên
con đƣờng phát triển đất nƣớc trong điều kiện toàn cầu hóa, cuộc sống bề bộn với bao niềm vui, nỗi
buồn, bao cái đƣợc, cái mất đan xen ngổn ngang. Đạo Hiếu trong tín ngƣỡng thờ Thành hoàng làng
đang tồn tại và phát triển cùng với lịch sử dân tộc, thấm dần vào các thế hệ ngƣời Việt Nam. Trải qua
thời gian, triết lý về lòng biết ơn và đền ơn của đạo Hiếu không thay đổi, sẽ mãi là giá trị vĩnh hằng,
khẳng định sự trƣờng tồn của dân tộc, tạo ra sức mạnh văn hóa trong hội nhập và phát triển.
Thực trạng tín ngƣỡng của ngƣời Việt hiện nay còn thể hiện một xu hƣớng khác, đó là thiên về hình
thức, thực dụng. Nhiều kẻ lợi dụng chính sách tự do tín ngƣỡng của Đảng và Nhà nƣớc đã lén lút hoặc
công khai đứng ra kinh doanh trục lợi, hành nghề mê tín dị đoan, “buôn thần bán thánh”. Nhiều địa
phƣơng, làng xã, biến lễ hội Thành hoàng thành nơi kinh doanh, thu tiền. Hiện nay, các lễ hội truyền
thống liên quan tới tín ngƣỡng Thờ thành hoàng ở Bắc bộ đƣợc thực hành rộng khắp. Tuy nhiên, nghi
lễ trong tín ngƣỡng thờ Thành hoàng còn quá câu nệ, bảo thủ trong việc tuân thủ các quy định trong lễ
tục thờ cúng Thành hoàng, bị kích thích bởi nền kinh tế thị trƣờng, ở nhiều nơi, nhiều lúc, đồng tiền đã
trở thành bái vật trong nghi thức thờ cúng. Mâm cao, cỗ đầy, lễ cúng đắt tiền, nghi lễ phô trƣơng lấn át
niềm tin trong sáng gây tốn kém lãng phí tiền của. Do không đƣợc sự tổ chức, hƣớng dẫn đầy đủ từ các
cấp chính quyền, các trò chơi truyền thống trong các lễ hội nhƣ: đánh đu, vật cổ truyền, thi nấu cơm,
thi đọc mục lục... cùng với các hoạt động văn nghệ nhƣ hát chèo, hát tuồng, ca trù... đang ngày bị mai
một dần. Ngƣời dân trẩy hội với lòng tôn kính tổ tiên, các vị tiền bối có công với làng xã, đất nƣớc, với
niềm tin đƣợc giải toả sau một năm lao động vất vả, miệt mài, với tinh thần tự do, nhân ái để đƣợc chan
hoà trong cuộc sống cộng đồng. Thay vào đó, nhiều hiện tƣợng tiêu cực của cơ chế thị trƣờng đã và
đang xuất hiện nhƣ đánh bạc, xổ số, lô tô... việc này đồng nghĩa với việc các giá trị văn hoá truyền
thống đang bị mất mát, không đƣợc bảo toàn và chuyển giao cho các thế hệ nối tiếp. Hơn nữa, ở nhiều
lễ hội thờ cúng Thành hoàng còn nhiều hủ tục, mê tín đƣợc khơi dậy. Một số đối tƣợng đã lợi dụng sự
mê tín của một số ngƣời để lừa đảo kiếm tiền nhƣ xem bói, cúng tế giải hạn, cầu xin vận may, trừ tà...
đặc biệt là vào các dịp lễ hội đầu năm. Ngoài ra, cùng với các trò chơi mang đậm nét văn hóa dân gian,
một số kẻ xấu còn lợi dụng dịp lễ hội để hoạt động cờ bạc, lừa bịp kiếm tiền gây mất trật tự an ninh.
Các dịp lễ hội thƣờng kéo dài gây ảnh hƣởng tới hoạt động lao động sản xuất và học tập của ngƣời dân.
Việc trùng tu, xây dựng lại đình, nghè, miếu thờ Thành hoàng làng ở một số làng ở đồng bằng Bắc bộ
nguy nga đồ sộ gây tốn kém lãng phí tiền bạc của Nhà nƣớc và nhân dân.
Trong bối cảnh hiện nay, với tinh thần của Đại hội lần thứ XII của Đảng: “phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, giữ gìn bản sắc tốt đẹp của dân tộc”[8] chúng ta, một mặt có trách nhiệm gìn giữ,
phát huy giá trị tốt đẹp, mặt khác cũng hết sức chú ý hạn chế và có những biện pháp khoa học, đồng
bộ của cơ quan văn hóa, của cả hệ thống chính trị và của mỗi ngƣời dân trong khắc phục những biểu
hiện tiêu cực khi thực hành đạo Hiếu trong tín ngƣỡng thờ Thành hoàng làng ở khắp các làng quê Bắc
bộ.
Vấn đề 13: Trình bày, lấy ví dụ làm rõ nội dung, đặc điểm, giá trị của lễ hội trong văn hóa Việt
Nam truyền thống; phân tích, nhận xét sự biến đổi của lễ hội hiện nay thông qua một lễ hội tại
địa phương mà anh/ chị biết.
Xu hướng biến đổi của lễ hội truyền thống hiện nay
Những năm gần đây, các lễ hội truyền thống có xu hƣớng biến đổi, làm nảy sinh nhiều hiện tƣợng
phức tạp, đòi hỏi phải nhìn nhận lại công tác quản lý và đặt ra yêu cầu về quản lý, xây dựng quy tắc
ứng xử trong lễ hội cho phù hợp với bối cảnh mới.
Lễ hội là sinh hoạt văn hóa dân gian mang tính cộng đồng đƣợc tổ chức ở khắp mọi miền. Việt Nam
là đất nƣớc có nền văn hóa đa dạng, độc đáo với khoảng 8.000 lễ hội. Lễ hội là sinh hoạt văn hóa dân
gian mang tính cộng đồng đƣợc tổ chức ở khắp mọi miền đất nƣớc.
Trong lễ hội làng của ngƣời Việt xƣa, việc quản lý lễ hội đều do hội đồng quan viên, cai đám và thủ
từ quản lý. Hội đồng quan viên là những ngƣời đƣợc dân làng cử ra để lo việc thờ cúng thần linh, tổ
chức lễ hội. Cai đám là ngƣời đứng đầu hàng quan viên có nhiệm vụ chủ tế, “sự thần” (nghĩa vụ làm
các công việc với thần linh) với tiêu chuẩn lựa chọn rất khắt khe. Cai đám và hội đồng quan viên phân
công ngƣời đại diện các giáp, các phe, nhóm, dòng họ thực thi các nhiệm vụ tổ chức lễ hội.
Hiện nay, trƣớc tác động của nhiều yếu tố, nhƣ cơ chế thị trƣờng, sự phát triển của truyền thông, du
lịch…, các lễ hội truyền thống ở nƣớc ta có nhiều biến đổi.
Về thời gian, không gian lễ hội
Hầu hết các lễ hội làng đều rút ngắn thời gian từ 3 - 5 ngày thành 1 ngày. Một số lễ hội vùng, hay liên
vùng mang tính chất hành hƣơng thì đƣợc tổ chức dài ngày, nhƣ lễ hội chùa Hƣơng, lễ hội Quốc Mẫu
Tây Thiên, các lễ hội thuộc tín ngƣỡng thờ Mẫu, các lễ hội gắn với du lịch... Trƣớc đây, các hội làng
chỉ đƣợc tổ chức ở không gian nhất định trong làng. Nhƣng hiện nay, do nhiều yếu tố, quy mô của các
hội làng cũng đƣợc mở rộng cả về không gian. Nhiều lễ hội không còn là lễ hội làng, mà đang có xu
hƣớng biến thành lễ hội vùng, thậm chí là lễ hội chung của liên vùng. Đối tƣợng ngƣời đến dự hội
không chỉ là dân làng, mà còn có du khách trong và ngoài nƣớc, nhiều khi dẫn tới tình trạng quá tải.
Không gian lễ hội còn đƣợc mở rộng thành “siêu không gian” với sự tƣơng tác của các hoạt động
truyền thông. Ngƣời dự lễ hội Đền Hùng ở Phú Thọ, nhƣng cả không gian lễ hội Đền Hùng đƣợc mở
rộng ra toàn quốc nhờ có truyền thông. Ngƣời dân không đi lễ hội, nhƣng có thể quan sát, “tham dự”
qua màn hình ti-vi, trên mạng xã hội... Sự mở rộng không gian lễ hội nhƣ vậy cũng đặt ra nhiều yêu
cầu về quản lý (quản lý không gian vật lý, không gian ảo của lễ hội).
Về mục đích của lễ hội
Mục đích của ngƣời dân đến dự các lễ hội truyền thống là nhằm cầu mong “ngƣời yên vật thịnh” với
niềm tin về “cái thiêng”. “Cái thiêng” là tình cảm tôn giáo, đƣợc thể hiện trong lễ hội bằng các biểu
tƣợng đặc trƣng là các báu vật thiêng. Theo quan niệm của ngƣời dân, những vật thiêng này có giá trị
đặc biệt, đem lại sự may mắn cho ngƣời dự hội. Nhƣng hiện nay, một số du khách không còn hào hứng
trƣớc các màn nghi lễ mời thánh, dâng rƣợu, dâng hoa, tế và đọc chúc văn, mà chỉ mong đƣợc cƣớp các
vật thiêng. Một số ban tổ chức lễ hội lại mong thu hút đƣợc nhiều du khách, bởi nguồn thu sẽ tăng lên
nhờ sự tiêu dùng các dịch vụ của du khách. Rõ ràng, mục đích của một số lễ hội đã có những biến đổi.
Về chủ thể của lễ hội
Trƣớc đây, trong các lễ hội làng cổ truyền, ngƣời dân thực sự là chủ thể, mỗi ngƣời tham gia gánh
vác một việc nào đó trong tổ chức lễ hội. Ngƣời đƣợc khiêng kiệu, rƣớc lễ là một vinh dự cho cả phe,
giáp, dòng họ. Nếu nhƣ trƣớc đây, các hội làng hầu hết do chủ làng và hội đồng quản lý của làng thực
hiện, thì hiện nay, hầu hết các lễ hội ở làng quê, miền núi đều do chính quyền các cấp chỉ đạo. Ở một
số lễ hội đồng bằng, ban tổ chức thuê các công ty sự kiện, các đoàn nghệ thuật đứng ra dàn dựng
chƣơng trình, tổ chức. Ngƣời dân, chủ thể của lễ hội, chỉ đóng vai trò thụ động nhƣ các du khách. Ở
một số nơi, từ việc trang trí khánh tiết, biểu diễn nghệ thuật, tổ chức các hoạt động đều ít hoặc thậm chí
thiếu vắng sự tham gia của ngành văn hóa, thể thao địa phƣơng. Có thể thấy, vai trò của địa phƣơng,
ngƣời dân - chủ thể sáng tạo của lễ hội cổ truyền ở một số nơi - đã bị đánh mất.
Về đối tượng tham gia lễ hội
Ở các lễ hội truyền thống xƣa, đối tƣợng tham gia lễ hội chủ yếu là dân làng (trừ các lễ hội vùng và lễ
hội hành hƣơng...). Thời gian gần đây, đời sống ngƣời dân ngày càng đƣợc cải thiện, hệ thống giao
thông phát triển, khách du lịch có nhu cầu tham dự các lễ hội nhiều, trong đó có tầng lớp thanh niên
(nhất là lễ hội có các hành động, sự kiện lạ, hợp thị hiếu). Vì vậy, khi một làng quê tổ chức lễ hội thì
khách thập phƣơng tham gia rất đông, gấp từ hàng chục đến hàng trăm lần so với số dân của làng.
Trƣớc kia, đối tƣợng tham dự lễ hội Gầu tào ở Pha Long (huyện Mƣờng Khƣơng, tỉnh Lào Cai) chủ
yếu là ngƣời dân ở các xã khu vực Pha Long, nhƣng hai thập niên gần đây, lễ hội thu hút đƣợc cộng
đồng ngƣời Mông ở Trung Quốc, Thái Lan, Mỹ về tham dự. Lễ hội chùa Hƣơng không chỉ có ngƣời
Việt hành hƣơng, mà còn thu hút đông đảo Việt kiều ở các nƣớc. Lễ hội Đền Hùng có hàng vạn ngƣời
dân hành hƣơng tham dự và đông đảo du khách tham gia lễ hội qua không gian ảo.
Nguyên nhân của những xu hƣớng biến đổi trên đƣợc xác định đến từ cả chủ quan và khách quan. Xu
hƣớng chuyển đổi vai trò của chủ thể từ ngƣời dân, cộng đồng sang các cấp chính quyền; mặt trái của
cơ chế thị trƣờng với xu hƣớng thúc đẩy “thƣơng mại hóa” lễ hội, coi lễ hội là hàng hóa, là phƣơng tiện
kinh doanh... đã đặt ra hàng loạt vấn đề trong tổ chức, quản lý lễ hội, đòi hỏi phải có giải pháp hiệu quả.
Xây dựng các khuôn mẫu ứng xử văn hóa để giữ gìn và phát huy những giá trị chân chính của lễ hội là
một trong những giải pháp cấp thiết và quan trọng hiện nay.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, sự biến đổi của lễ hội truyền thống cũng nhƣ
xuất hiện nhiều loại hình tổ chức sự kiện mới là tất yếu khách quan trong đời sống văn hóa hiện nay. Vì
thế, không nên có quan điểm cứng nhắc, lấy các nguyên tắc tổ chức lễ hội truyền thống làm khuôn mẫu
cho việc tổ chức các lễ hội, tổ chức các sự kiện hiện đại, song cũng cần có những giải pháp phù hợp để
nâng cao hiệu quả quản lý lễ hội.
Một là, đề cao vai trò của cộng đồng trong tổ chức, quản lý các lễ hội truyền thống, xây dựng mô
hình phù hợp với từng địa phương.
Mô hình tổ chức lễ hội do cộng đồng tự quản, có sự giám sát của chính ền c ở
Đây là mô hình quản lý và tổ chức lễ hội bƣớc đầu có sự tham gia của Nhà nƣớc. Chủ thể tổ chức của
các lễ hội này nhất thiết phải là ngƣời dân trong cộng đồng. Vai trò quản lý của Nhà nƣớc thể
hiện trong việc giám sát, chỉ đạo và giải quyết kịp thời những vấn đề an ninh, trật tự, an toàn thực phẩm,
giá cả, dịch vụ... Vai trò quản lý nhà nƣớc cũng cần đƣợc “phân cấp” tới cộng đồng và “thể chế hóa”
bằng hệ thống hƣơng ƣớc, quy ƣớc chung của làng, đồng thời kết hợp với việc phát huy vai trò của già
làng, trƣởng bản, ngƣời có uy tín trong dòng họ, cộng đồng. Kinh phí tổ chức những lễ hội này hoàn
toàn do cộng đồng đóng góp.
Trong xã hội cổ truyền, các ban quản lý lễ hội chủ yếu nằm trong phạm vi gia đình, dòng họ hoặc bản,
làng. Các ban quản lý này vận hành đơn giản, đôi khi mang tính tự phát, nhƣng vẫn bảo đảm đƣợc việc
tổ chức lễ hội vốn chỉ diễn ra trong phạm vi hẹp, trong không gian của làng bản, một cánh đồng hoặc
một sƣờn đồi có sự tham gia của số ít ngƣời dân trong vùng. Với quy mô lớn nhƣ hiện nay, các lễ hội
cần có ban tổ chức lễ hội một cách chuyên nghiệp, với sự trợ giúp, giám sát của chính quyền cơ sở.
Thực tiễn cho thấy, ở nông thôn vùng cao, nhiều ban tổ chức lễ hội rất lúng túng trong tổ chức các dịch
vụ đón khách du lịch, quản lý du khách, trong khi đó chính quyền địa phƣơng (cấp xã, huyện) lại có nơi
can thiệp quá sâu vào việc tổ chức chƣơng trình lễ hội, làm mất đi tính chất thiêng của lễ hội, hạn chế
tính chủ động của cộng đồng. Các thành viên ban tổ chức lễ hội ở một số nơi chƣa đƣợc tập huấn để
nắm vững kiến thức của lễ hội, chƣa xử lý linh hoạt, kịp thời các tình huống phát sinh trong quá trình tổ
chức lễ hội.
Mô hình tổ chức lễ hội có sự phối hợp của Nhà nước với cộng đồng.
Đối với một số lễ hội của một làng hay liên làng có quy mô ngày càng mở rộng và đang đƣợc nâng
lên thành các lễ hội của địa phƣơng nhƣ hiện nay, cần xây dựng mô hình phối hợp chặt chẽ giữa vai trò
của cộng đồng với vai trò quản lý của Nhà nƣớc.
Trong mô hình này, các hoạt động lễ hội vẫn do cộng đồng quyết định và thực hiện là chính; tuy nhiên,
đã có sự chỉ đạo, định hƣớng và tham gia của các ban, ngành chính quyền và đoàn thể. Kinh phí tổ
chức lễ hội cũng đƣợc Nhà nƣớc tài trợ một phần. Vai trò của Nhà nƣớc thể hiện rõ trong bảo đảm an
ninh, trật tự, an toàn thực phẩm, quảng bá, giá cả dịch vụ, điều hành lực lƣợng…
Trƣớc kỳ tổ chức lễ hội, chính quyền cấp xã - nơi tổ chức lễ hội - cần tổ chức họp dân bản để cùng
bàn về việc tổ chức lễ hội, trong đó, có sự phân công cụ thể công việc cho cộng đồng. Ở đây, Nhà nƣớc
đóng vai trò là nhà tổ chức nhƣng việc thực hành lễ nghi và chủ trì lễ hội phải giao lại cho cộng đồng.
Trƣởng thôn, bản có trách nhiệm triển khai các hoạt động của lễ hội sau khi đã thống nhất với chính
quyền, với nhân dân và cùng nhân dân trong thôn, bản chuẩn bị các hoạt động phục vụ cho lễ hội.
Những lễ hội này đƣợc cấp hoặc hỗ trợ kinh phí của chính quyền. Để ngƣời dân thực sự trở thành chủ
thể, thành phần ban tổ chức cần có sự tham gia của già làng, nghệ nhân hay ngƣời có uy tín trong dòng
họ. Chính quyền xã, cơ quan chuyên môn (phòng văn hóa - thông tin) thực hiện chức năng quản lý
thông qua việc hƣớng dẫn ngƣời dân chuẩn bị và tham gia lễ hội theo đúng quy định của Nhà nƣớc và
thực hiện các biện pháp bảo đảm an ninh, trật tự trong thời gian tổ chức lễ hội. Cần coi trọng vấn đề
phân cấp quản lý. Nhà nƣớc chỉ đạo, phối hợp tổ chức các lễ hội lớn (chủ yếu là kiểm tra, giám sát),
còn phân cấp cho các đơn vị sự nghiệp, các doanh nghiệp, cộng đồng tổ chức. Với các lễ hội dân gian
quy mô nhỏ, chính quyền các cấp chủ yếu đóng vai trò kiểm tra, giám sát; việc tổ chức cụ thể cần trao
quyền cho cộng đồng.
Hai là, xây dựng bộ quy tắc ứng xử văn hóa ở các lễ hội.
Nguyên tắc chung của quy tắc ứng xử: Bảo tồn và phát huy giá trị của di sản lễ hội theo hƣớng phát
triển bền vững. Bảo vệ tính đặc sắc, đa dạng của các thành tố văn hóa của lễ hội (các nghi lễ, nghệ
thuật ngôn từ (các văn cúng, lời của các bài khấn…), nghệ thuật trang trí, nghệ thuật biểu diễn, nghệ
thuật ẩm thực, các trò chơi… tạo thành chỉnh thể nguyên hợp của lễ hội). Tôn trọng mục đích tổ chức
lễ hội của cộng đồng địa phƣơng là nhằm giáo dục truyền thống yêu nƣớc, lòng tự hào dân tộc, đạo lý
“uống nƣớc nhớ nguồn”, tôn vinh công lao của các bậc tiền nhân, các nhân vật lịch sử có công bảo vệ
và xây dựng quê hƣơng, đất nƣớc; hình thành hành vi, thái độ, nhận thức cao đẹp cho mỗi ngƣời. Loại
bỏ xu hƣớng tổ chức lễ hội với mục đích trục lợi cá nhân, chạy theo lợi ích vật chất, phục vụ lợi ích
nhóm. Thực hiện các biện pháp bảo vệ di tích, danh lam thắng cảnh; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, an toàn giao thông, phòng, chống cháy nổ, vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trƣờng.
Ứng xử văn hóa của cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương nơi tổ chức lễ hội: Thành
viên ban tổ chức lễ hội có đồng phục, có phù hiệu; phân cấp cho cộng đồng dân cƣ tổ chức lễ hội,
không làm thay cộng đồng trong việc tổ chức các nghi lễ, dịch vụ, hoạt động của lễ hội; tăng cƣờng
tuyên truyền mục đích, ý nghĩa, giá trị của lễ hội; có thái độ hòa nhã, tôn trọng du khách, xây dựng các
biển hƣớng dẫn cho du khách tham gia các hoạt động, dịch vụ của lễ hội, thông báo số điện thoại,
đƣờng dây nóng để tiếp nhận thông tin phản ánh của du khách; trực tiếp tham gia các nhiệm vụ mà
cộng đồng dân cƣ địa phƣơng khó có khả năng thực hiện, nhƣ an ninh, trật tự, an toàn xã hội, an toàn
thực phẩm, vệ sinh môi trƣờng; tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát.
Ứng xử văn hóa của cộng đồng địa phương nơi tổ chức lễ hội: Tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh
các quy định của cơ quan quản lý, ban tổ chức lễ hội; có tinh thần trách nhiệm thực hiện tốt các nhiệm
vụ đƣợc giao; có thái độ ứng xử hòa nhã, tôn trọng du khách, nhiệt tình giúp đỡ du khách khi gặp khó
khăn.
Ứng xử văn hóa của cá nhân, doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ: Thực hiện nghiêm chỉnh các
nguyên tắc, quy định của ban tổ chức lễ hội về kinh doanh dịch vụ, an toàn thực phẩm, vệ sinh môi
trƣờng; tôn trọng ngƣời dân địa phƣơng, có tinh thần hợp tác, cùng phối hợp thực hiện các nhiệm vụ
đƣợc giao; kinh doanh trung thực, tôn trọng khách hàng, giữ chữ tín, công khai, minh bạch về giá cả
(thể hiện qua niêm yết công khai giá, bán đúng giá niêm yết, không chèo kéo du khách và ép giá);
không bày bán hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lƣợng, hàng không rõ nguồn gốc; không bày bán
động vật quý hiếm và không vi phạm các điều cấm trong kinh doanh.
Ứng xử văn hóa của du khách: Có thái độ thành kính đối với các nhân vật lịch sử, tôn trọng phong
tục tập quán, tâm linh, tín ngƣỡng, những điều kiêng kỵ của lễ hội; tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh
các quy định của Nhà nƣớc, ban tổ chức, ban quản lý lễ hội; tôn trọng, hòa nhã với cƣ dân địa phƣơng,
với các cá nhân, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ; có thái độ hòa nhã, lịch sự, tôn trọng ngƣời già,
nhƣờng nhịn trẻ nhỏ, giúp đỡ phụ nữ có thai, ngƣời khuyết tật; trang phục lịch sự, phù hợp với thuần
phong mỹ tục, không nói tục, không chửi thề, không xô đẩy, gây ảnh hƣởng xấu tới không khí trang
nghiêm của lễ hội; giữ gìn vệ sinh môi trƣờng…
Ba là, tạo dựng dư l ận nhằm phổ biến và bảo vệ quy tắc ứng xử.
Ban tổ chức các lễ hội cần lập tiểu ban truyền thông (nhất là các lễ hội lớn), cộng tác với các nhà
khoa học, những ngƣời có uy tín trong việc tƣ vấn tổ chức lễ hội và tạo dựng dƣ luận xã hội; chủ động
sớm thông tin về lễ hội, phê phán các hành vi vi phạm quy tắc ứng xử lễ hội qua tiểu ban truyền thông,
các cơ quan thông tin đại chúng nhằm tranh thủ sự ủng hộ của dƣ luận xã hội. Nhiệm vụ của tiểu ban
truyền thông là cung cấp các thông tin chính xác, công khai, minh bạch cho báo chí và toàn thể ngƣời
dân tham dự lễ hội. Các cơ quan thông tin đại chúng phải tôn trọng những điều kiêng kỵ của ngƣời dân
địa phƣơng, phải coi trọng sắc thái văn hóa riêng của từng tộc ngƣời, từng vùng; cần có cái nhìn của
“ngƣời trong cuộc”, không nhìn những sắc thái văn hóa tộc ngƣời dƣới lăng kính của dân tộc mình,
vùng mình.
Quy chế ứng xử với lễ hội cần đƣợc phổ biến thƣờng xuyên trên phƣơng tiện thông tin đại chúng,
đồng thời cũng là nội dung sinh hoạt của các tổ dân phố, các cơ quan công sở, trƣờng học, thôn bản.
Mặt khác, ban tổ chức lễ hội cần tham mƣu chính quyền địa phƣơng xây dựng các chế tài xử phạt (trên
cơ sở tôn trọng pháp luật và đáp ứng yêu cầu thực tiễn) và thông báo trên phƣơng tiện thông tin đại
chúng của từng cấp địa phƣơng, hay phổ biến trên mạng xã hội.
Vấn đề tuyên truyền, hƣớng dẫn quy tắc ứng xử lễ hội cần phải đƣợc làm thƣờng xuyên, nhƣng cũng
chú trọng những thời điểm trọng tâm, trọng điểm (trƣớc mùa lễ hội, trong mùa lễ hội). Việc tuyên
truyền thƣờng xuyên về quy tắc ứng xử, kiểm tra xử phạt nghiêm khắc các hành vi vi phạm sẽ tạo
thành các khuôn mẫu ứng xử văn hóa trong lễ hội (hành vi, nếp sống của ngƣời đi dự hội; nghi thức,
nghi lễ của ban tổ chức và cộng đồng...); qua đó góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và ứng xử văn
hóa với các lễ hội hiện nay.

You might also like