Professional Documents
Culture Documents
Mô hình chính trị Việt thời Tây Hán (Đứng đầu là thứ sử, dưới thứ sử là Thái thú quản lý dân sự, quản lý
về quân sự có chức Đô úy. Ở các địa phương, nhà Hán vẫn sử dụng chế độ Lạc tướng, đứng đầu các làng
xã của người Việt thì vẫn do người Việt chúng ta quản lý. Các Lạc tướng giữ chức vụ theo hình thức cha
truyền con nối. Ở thời kì Tây Hán, văn hóa Hán mới dừng lại ở vùng trung tâm, nơi đặt chính quyền
của người Hán, còn ở các làng xã của người Việt thì văn hóa Hán chưa với đến.)
Thứ sử
Thái thú (cấp Quận) Đô úy: quân sự
Quản lý dân sự
!
Lạc tướng: cha truyền con nối
- Đối chiếu với bản đồ hành chính, toàn bộ vùng đất Hà Nội (ngày nay sau mở rộng năm 2008) nằm trong
quận Giao Chỉ dưới thời Tây Hán.
- Cho đến trước thế kỉ V, trên đất Hà Nội ngày nay, trước đây đã từng tồn tại những trụ sở của chính
quyền cai trị phương Bắc như Mê Linh, hoặc gần những trụ sở của chính quyền cai trị như Luy Lâu, Long
Biên, (thuộc Bắc Ninh).
- Mở đầu cho thời kì đấu tranh chống Bắc thuộc trên địa bàn Hà Nội là cuộc khởi khĩa Tây Vu Vương vào
năm 111 TCN. Cuộc khởi nghĩa này mở đầu lịch sử chống Bắc thuộc.
- Vào năm 40, diễn ra cuộc khởi nghãi thứu hai là khởi nghĩa Hai Bà Trưng chống lại ách cai trị của nhà
Đông Hán
Thời gian: 40 -43
Địa điểm: mở đầu cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ Hát Môn (Phúc Thọ, Hà Nội), thu hút nhiều quân tụ
nghĩa, 65 thành trị cùng hưởng ứng, lan sang Trung Quốc
Kết quả: Cuộc khởi nghĩa buổi đầu đã dành được thắng lợi, kết thúc Bắc thuộc lần 1, dựng đô ở
Mê Linh và xưng Vương
Nhân vật tiêu biểu: Đống Đa (3 anh em họ Đào); Đông Anh (Đào Kì, Phương Dung, Đông Bằng,
Thủy Hải, Đăng Giang, Khổng Chúng, Vĩnh Huy.); Gia Lâm( Thành Công, Ông Đô, Ông Hiền,
Ông Lang, Khóa Ba Sơn, Nàng Quốc, Ông Đống, Ông Hựu); Thanh Trì (Nàng Tía, Triệu Tam
Trinh, Huyện Từ Liêm có Quách Lăng, Tĩnh Lương, BẠch Lương, Vĩnh Gia, Ả Lã, Nàng Đế,..)
Mô hình chính trị thời Đông Hán (sau năm 43) (Sau cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm 43, nhà Hán
đã thay đổi chính sách cai trị đối với với người Việt, đó là xóa bỏ chức Đô úy và Lạc tướng. Thay thế vào
đó là chức Lệnh trưởng. Như vậy, bàn tay cai trị của triều đình phương Bắc đã với tới các làng xã của
người Việt.)
Thứ sử
Thái thú Đô
Quan chuyên trách úy
- Đến TK V, huyện Tống Bình thuộc quận Giao Chỉ được thành lập, đây là một huyện lị được thành lập ở
bờ Bắc dòng sông Tô, Tống Bình tức vùng đất Hà Nội ngày nay.
- Sau đó huyện Tống Bình trở thành quận Tống Bình: 3 huyện:
+ huyện Xương Quốc (tương ứng với bờ bắc sông Hồng, đến tận Cổ Loa – Đông Anh ngày nay)
+ huyện Nghĩa Hoài, Tuy Ninh (nằm ở khu vực phía Nam sông Hồng thuộc nội thành Hà Nội)
Bắt đầu từ đây, trụ sở của chính quyền cai trị phương Bắc đã dần dần dịch chuyển vào vùng đất nội
thành Hà Nội ngày nay.
Như vậy, Hà Nội bắt đầu dần khẳng định là một vùng đất được lựa chọn qua nhiều các vương triều
phong kiến phương Bắc.
- Khởi nghĩa Lý Bí: (Mùa xuân năm 542, Lý Bí đã phất cờ khởi nghĩa, tiếp tục công cuộc chiến đấu
chống phương Bắc.)
+ Thời gian: 10/3 năm Nhâm Tuất (542 – 544-548)
+ Địa điểm: Hoài Đức
+ Kết quả: Cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi, dựng nước Vạn Xuân (1/544), Lý Bí lên ngôi có niên hiệu
Thiên Đức/ Xưng Lý Nam Đế. Cho dựng kinh đô tại cửa sông Tô Lịch. Lý Bí chính là người đầu tiên
trong lịch sử Việt Nam nhận ra được vị trí trung tâm của nước Việt là ở vùng đất ngã ba sông NHị Hà Tô
lịch nên đã chọn khu vực cửa sông Tô Lịch thông với dòng sông Hồng làm vùng đất để đóng đô. Và thười
kì này là thời kì Phật giáo được truyền từ Ấn Độ vào Việt Nam. Dưới ảnh hưởng của Phật giáo đồng thời
cũng là phản ánh ước vọng về một thời kì mới nhằm phát triển đất nước nên Lý Bí đã cho xây dựng một
ngôi chùa Phật giáo trên đất kinh đô, đó là chùa Khai Quốc.
+ Nhân vật tiêu biểu: Lý Phục Man, Phạm Tu, Triệu Túc...
- Đầu TK VII, nhà nước Vạn Xuân sụp đổ, miền đất ngã ba sông Tô Lịch và sông Hồng không còn là
kinh đô của nước Việt nữa, nhưng vị trí trung tâm của vùng đất này vẫn còn
Thời Tùy- Đường (TK VII- TK X) (lựa chọn đóng trụ sở ở nơi đây thay cho đóng ở Luy Lâu- Long Biên
trước đó.)
- Đặt Giao Châu đại tổng quản phủ để quản lý 10 châu Giao Châu, Phong Châu, Ái Châu, Tiên Châu,
Tống Châu, Từ Châu, Hiểm Châu, Đạo Châu và Long Châu (toàn bộ 10 châu này thuộc về không gian
lãnh thổ người Việt chúng ta từ Bắc Bộ tới Đèo Ngang)
- Năm 607, nhà Tùy chuyển trụ sở quận Giao Chỉ về Tống Bình (nội thành Hà Nội).
- Năm 622: nhà Đường đổi Giao Châu đại tổng quản thành Giao Châu đô hộ phủ
- Năm 679: lại đổi tên là An Nam đô hộ phủ. Đứng đầu là Độ hộ sứ (kinh lược) dưới là các Thứ sử
Vào thời Tùy – Đường, chính quyền cai trị phương Bắc đã chuyển trụ sở của quận Giao Chỉ về Tống
Bình – nội thành Hà Nội, từ đây vùng đất trung tâm nội thành Hà Nội ngày nay đã trở thành thủ phủ của
chính quyền đo hộ phương Bắc. Đây cũng là sự kiện mở đầu cho quá trình hình thành nên một đô thị với
hệ thống các thành lũy và thị dân sinh sống trong khu vực đất Hà Nội mà lúc bấy giờ người ta gọi đó là
thành Đại La. Thời kì nhà Đường, trong suốt 3 thế kỉ thống trị nước ta đã không ngừng cho xây dựng, gia
cố, xây đắp thành lũy. Dưới sự cai trị của nhà Đường, người Việt vẫn tiếp tục tiến hành các cuộc khởi
nghĩa.
- Khởi nghĩa Mai Thúc Loan
+ Thời gian: 713? – 722?
+ Địa điểm: Cuộc khởi nghĩa bắt đầu từ vùng đất Nghệ An, Hà Tĩnh đánh ra thành Tống Bình
+ Kết quả: cuộc khởi nghĩa bước đầu giành thắng lợi, lấy được 32 châu huyện. Căn cứ theo sử liệu, cuộc
khởi nghĩa của Mai Thúc Loan có thể liên kết với nhân dân các nước láng giềng Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim
Lân và đưa số lượng quân chủng lên tới 40 vạn. Lên ngôi xưng Mai Hắc Đế.
Sau đó cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan thất bại, người Việt vẫn không chịu khuất phục, tiếp tục tiến
hành các cuộc khởi nghĩa. Nổi bật nhất là..
- Khởi nghĩa Phùng Hưng:
+ Thời gian: diễn ra năm 776, kết thúc năm 791
+ Địa điểm: bắt đầu từ vùng đất Đường Lâm. (Phùng Hưng cùng em trai của mình là em trai Phùng Hải
lãnh đạo nghĩa quân nổi dậy làm chủ vùng đất Đường Lâm. Và trên đà thắng lợi thì từ Đường Lâm đã kéo
về thành Tống Bình. Ở đây Phùng Hưng tổ chức bao vây thành Tống Bình, làm cho viên quan đô hộ giữ
thành lúc đó bị vây hãm lâu ngày lo lắng phát bệnh mà chết. Phùng Hưng tiến đánh vào trong phủ thành,
tổ chức chiếm thành và cai trị.)
+ Kết quả: Dành quyền tự chủ.
“Sau thế kỷ 10, thời kỳ phục hồi dân tộc và phục hưng văn hóa dân tộc.. Những ảnh hưởng cũ của văn
hóa Ấn Độ (Phật giáo và cả Bà La môn) qua việc thờ Đế Thính và Nhị Thiên Vương (hai thần Nhật
Nguyệt đời Lý) cũng như ảnh hưởng mới từ văn hóa Chiêm Thành, Chân Lạp – những nền văn hóa cao
và không Trung Hoa, trở thành “đối trọng” (contre- poids) của văn hóa Việt Nam có tác dụng trung hòa
ảnh hưởng của văn minh Trung Quốc, tăng cường cái căn cước riêng biệt của Việt Nam..”
(Trần Quốc Vượng(2000). Trên mảnh đất ngàn năm văn vật. NXB Hà Nội. Tr142)
- Đầu TK XVI: nhà Lê suy yếu, Mạc Đăng Dung cướp ngôi của nhà Lê, lên nắm quyền (1527-1592)
- 1592: Nhà Lê được khôi phục nhờ công 2 chúa Nguyễn- Trịnh, trở lại kinh thành Thăng Long.
- Thế kỉ XVII -XVIII, là thời kì tồn tại của triều Lê Trung Hưng, xét về mặt chính trị, thời kì Lê Trung
Hưng là thời kì suy yếu hơn so với thời kì Lê Sơ bởi vì lúc này VN ta rơi vào tình trạng bị phân liệt về
mặt chính trị. Ở Đàng Ngoài là sự tranh giành quyền lực giữa hai thế lực vua Lê chúa Trịnh. Ở Đàng
Trong là sự tranh giành đất đai giữa vua Lê chúa Trịnh và các chúa Nguyễn. Xét về mặt kinh tế, mặc dù
đây là thời kì suy yếu của nhà Hậu Lê nhưng Thăng Long từ TK XVII đến TK XVIII vẫn tiếp tục phát
triển và trở thành đô thị rất sầm uất. Các thương nhân nước ngoài đã bắt đầu xuất hiện ở đây, họ đến để
định cư và buôn bán trong các khu đô thị. Thăng Long lúc này có tên gọi là Kẻ Chợ.
Có mặt trên đất của HN, có một số loại hình tín ngưỡng rất nổi bật, thứ nhất là
*Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng.
- Thành Hoàng có nguồn gốc từ TQ
- Thành Hoàng là từ gốc Hán, Thành = bức tường, thành quách, Hoàng = hào sâu bao quanh thành
- Thần Thành Hoàng: vị thần bảo vệ, coi giữ cho thành quách, đô thị.
- Xuất hiện từ thời Chu (TK VI-V TCN), phát triển mạnh vào thời Đường, phổ biến về các địa phương.
Từ thời nhà Đường, tín ngưỡng thờ Thành Hoàng được truyền bá sang VN. Vị Thành Hoàng đầu tiên
được thờ ở VN là vị thần sông Tô Lịch, là vị thần cai quản bảo vệ, bảo trợ cho thần Đại La của Cao Biền
một viên quan của thời kì nhà ĐƯờng.
- Khi vào đến VN, tín ngưỡng thờ Thành Hoàng có sự biến đổi. Vừa có tín ngưỡng thờ Thành Hoàng là vị
thần bảo vệ cho thành quách, đô thị như nguyên bản bên TQ, vừa có vị thần Thành Hoàng là bảo vệ, bảo
trợ ở các làng xã. Hệ thống các vị thần Thành Hoàng bảo trợ ở các làng xã có số lượng đông đảo hơn.
Người ta gọi những vị thần này là Thành Hoàng làng. Trước khi tín ngưỡng thờ Thành Hoàng du nhập từ
TQ vào VN thì vốn dĩ ở các làng xã của người Việt đã có tín ngưỡng thờ thần, thờ các vị thần làng. Khi
tín ngưỡng thờ Thành Hoàng được du nhập vào, len lỏi vào các làng xã của người Việt thì người Việt đã
kết hợp giữa tín ngưỡng thờ Thành Hoàng của TQ với tín ngưỡng thừo thần làng ở các làng xã thuần V có
trước này để tạo ra hệ thống vị thần Thành Hoàng làng. Trong số các vị thần làng, người ta sẽ chọn ra một
vị thần có công trạng nhất, được coi là vị thần có khả năng bảo vệ, bảo trợ cho làng đó rước vào thờ ở
trong đình. Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng phát triển nhất là ở thời Hậu Lê.
- Trên đất Thăng Long- HN tồn tại hai hệ thống Thành Hoàng, đó là Thành Hoàng là vị thần bảo vệ, bảo
trợ cho đô thị, cho thành quách, và vì Thăng Long là thủ đô của người V chúng ta nên người ta gọi vị
Thành Hoàng này là Đô Thành Hoàng. Hệ thống Thành Hoàng là ở các làng xã của Thăng Long HN thì
duy trì tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng. Các vị thần Thành Hoàng làng ở đất Thăng Long rất đa dạng
về nguồn gốc xuất thân, có thể là các vị thần có xuất thân là các nhân vật trong truyền thuyết, huyền thoại
như Thánh Tản Viên, Cao Sơn Đại Vương,...; có thể là các vị thần thuộc bộ tướng của thời kì Hùng
Vương; những nhân vật trong các câu truyện huyền thoại: Thánh Gióng, Bà Chúa Liễu Hạnh, Chử Đồng
Tử, Thần Đồng Cổ,..; những nhân vật được huyền thoại hóa; danh nhân văn hóa,...
* Tín ngưỡng thờ Tổ nghề (Tổ nghề chính là người phát minh, sáng lập, gây dựng nên một nghề hoặc là
người thứ nhất đem nghề ở nơi khác truyền lại cho dân chúng trong một làng hay miền nào đó, được
người đời sau tôn thờ như bậc Thánh.)
- Là loại hình tín ngưỡng có ở nhiều nơi nhưng trên mảnh đất Thăng Long HN, đặc biệt là khu kinh
thành Thăng Long xưa thì tín ngưỡng thờ tổ nghề rất tập trung ở đây. Những khu phố phường bán một
mặt hàng nào đó của Thăng Long xưa thường có đền để thờ vị tổ nghề của nghề đó. Vùng đất Thăng
Long là nơi hội tụ của dân tứ xứ từ khắp mọi nơi về nên nguồn gốc của tổ nghề cũng rất đa dạng phong
phú, từ nhiều nguồn nhiều nghề.
- Ý nghĩa của thờ tổ nghề:
+ Tín ngưỡng thờ tổ nghề hỗ trợ, giúp đỡ cho việc liên kết, tạo tinh thần đoàn kết giữa những người trong
nghề với nhau, nơi có sự cạnh tranh khốc liệt.
+ Thứ hai, tín ngưỡng thờ tổ nghề sẽ giúp cho những người dân ở trong nghề duy trì được nghề của mình,
có ý thức bảo vệ, gìn giữ uy tín của nghề.
+ Tín ngưỡng thờ tổ nghề thể hiện đạo lí “uống nước nhớ nguồn” của những người trong cùng một nghề,
họ tưởng nhớ, ghi nhận công lao của những người đã khai sinh sáng lập và truyền cho mình nghề đó để có
kế sinh nhai.
- Tín ngưỡng thờ Tổ nghề ở đất HN có nhiều nguồn gốc xuất thân và được thể hiện cụ thể như ở làng Ngũ
Xã thì có tục thờ Tổ nghề đúc đồng, tổ nghề sơn, Tổ nghề dệt vải (???). Tổ nghề gốm sứ, Tổ nghề kim
hoàn Định Công,..
Thờ Tổ nghề là một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, thể hiện sự biết ơn những vị sáng lập, mở mang
tri thức ngành nghề cho nhân dân, di dưỡng đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”…