You are on page 1of 86

Bài 3

NGƯỜI VIỆT (KINH)


Tóm tắt: Bài 3 trình bày vị trí và vai trò của người Việt trong quốc gia đa tộc người
Việt Nam, tộc danh và nguồn gốc người Việt, các đặc điểm nổi bật về kinh tế, thiết chế xã
hội, các thành tố văn hóa cơ bản (văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể), tập trung vào
các loại hình di tích thờ cúng, hình thái tín ngưỡng, phong tục tập quán, hội làng.

Mục tiêu của bài: trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản về người Việt:
nguồn gốc tộc người, các đặc điểm về kinh tế, xã hội và nhất là về văn hóa, để sinh viên
vận dụng được kiến thức vào việc hướng dẫn du lịch.

3. I. NGƯỜI VIỆT - TỘC NGƯỜI GIỮ VAI TRÒ CHỦ ĐẠO

TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA QUỐC GIA ĐA TỘC NGƯỜI VIỆT NAM

Trong quốc gia đa tộc người Việt Nam, người Việt là tộc người đa số, giữ vai trò
chủ đạo cho sự phát triển, thể hiện ở các mặt:

- Về dân số, theo Tổng điều tra dân số năm 2019, người Việt có 82.085.826 người
(chiếm 85,3%); 53 dân tộc thiểu số chiếm 14,7% (theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, người Việt chiếm 85,7%; 53 tộc thiểu số chiếm 14,3 %).

- Về địa bàn cư trú: người Việt là tộc người duy nhất cư trú thành các cộng đồng
đông đúc ở tất cả các tỉnh, trên tất cả các dạng địa hình, địa bàn (đồng bằng, trung du, miền
núi, ven biển và hải đảo) trong cả nước, song tập trung đông đúc ở đồng bằng. Đây quy
luật phổ biến của các nước Đông Nam Á, giống như trường hợp người Thái ở Thái Lan,
người Bama (người Miến) ở Miến Điện, người Khơ - me ở Cămpuchia, người Lào Lùm ở
Lào, người Mã ở Malaixia ... Người Việt còn chiếm lĩnh các thành phố, thị xã, thị trấn, các
trục đường giao thông lớn trong cả nước.

- Người Việt nắm giữ các ngành kinh tế then chốt, tạo ra nguồn lực kinh tế lớn nhất
cho đất nước.

- Người Việt chiếm số đông và nắm giữ các vị trí then chốt trong hệ thống chính trị
các cấp.

- Ngôn ngữ Việt là Quốc ngữ, văn hóa Việt là yếu tố nổi trội trong văn hóa
Việt Nam: 13/17 di sản văn hóa của Việt Nam được UNESCO công nhận là Di sản
văn hóa thế giới là của người Việt. Cụ thể:
1. Quần thể di tích Cố đô Huế (công nhận năm 1993),
2. Nhã nhạc cung đình Huế (năm 2003),
3. Ca trù (năm 2009),
4. Dân ca Quan họ Bắc Ninh (năm 2009),
5. Di tích thành cổ Hà Nội (Hoàng thành Thăng Long, công nhận năm
2010),
6. Hội Gióng ở Phù Đổng và Đền Sóc (năm 2010),
7. Thành nhà Hồ ở Thanh Hóa (năm 2011),
8. Hát Xoan Phú Thọ (năm 2011),
9. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương (năm 2012),
10. Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ (năm 2013),
11. Dân ca Ví Giặm Nghệ Tĩnh (năm 2014),
12. Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu (năm 2016),
13. Di tích và danh thắng Tràng An Ninh Bình (Di sản văn hóa hỗn
hợp, năm 2014) 1.
Ngoài ra, người Việt còn có 4 di sản tư liệu được UNESCO công nhận là “Di
sản tư liệu thế giới”, gồm Mộc bản triều Nguyễn, Bia Văn Miếu - Quốc Tử Giám,
Mộc bản Kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm (tỉnh Bắc Giang) và Châu bản triều Nguyễn.
- Suốt trong tiến trình lịch sử dài dặc của đất nước, người Việt luôn giữ vai trò chủ
đạo: là lực lượng đi đầu và chủ đạo trong lập nước, tổ chức các cuộc khởi nghĩa và kháng
chiến chống giặc ngoại xâm, giành và bảo vệ nền độc lập, chủ quyền quốc gia.

- Sự tồn tại và phát triển của người Việt có ảnh hưởng lớn đến các tộc khác, đến sự
hưng vong của quốc gia Việt Nam.
1
Trong 4 di sản văn hóa còn lại (Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, Tháp
Chăm, Phố cổ Hội An và Thực hành Then của các tộc Tày, Nùng, Thái), di sản Phố cổ
Hội An có vai trò và sự đóng góp của người Việt.

2
Với những vai trò trên đây của người Việt, nhiều nhà nghiên cứu coi người Việt là
“tộc người chủ thể” của quốc gia đa tộc người Việt Nam.

3. 2. TỘC DANH VIỆT VÀ NGUỒN GỐC NGƯỜI VIỆT

3.2.1. Tộc danh Việt


Từ xưa đến nay, tộc danh “Kinh” được quen dùng trong các văn bản chính trị, giấy
tờ hành chính và giao tiếp thường ngày. Tộc danh “Kinh” được giải thích bằng các ý kiến
khác nhau:

- “Kinh” là con cháu của Kinh Dương Vương (sẽ trình bày ở mục dưới).
- “Kinh” là người sống dọc các con kênh, dòng sông (Diệp Đình Hoa,
2000). Thực tế, chỉ một bộ phận người Việt gắn bó với các dòng sông, các kênh
rạch; còn phần lớn đều sống xa sông, kênh rạch (yếu tố và tên gọi này chỉ vùng
đất Nam Bộ, là vùng đất người Việt mới mở mang vào thế kỷ XVII).
- “Kinh” là do người Hán gọi, chỉ nhóm cư dân ở Kinh đô, đã qua “giáo hóa”
(Đặng Nghiêm Vạn, 2009). Thực tế, khối cư dân Việt sống ở Kinh đô rất ít ỏi.
Trên thực tế, từ “Kinh” có ý nghĩa là “Kinh đô”, “Kinh kỳ”, do các tộc
người thiểu số gọi các quan lại miền xuôi được cử lên miền núi nhậm trị, hoặc
những người miền xuôi lên buôn bán từ thời Lý (người ở Kinh đô/Kinh kỳ lên).
Về sau, gọi tắt là “người Kinh”; còn “Việt” mới là tộc danh chính thức. Người
Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh thường gọi người Kinh là “người Việt”.
3.2.2. Nguồn gốc người Việt
3.2.2.1. Các ý kiến coi người Việt có nguồn gốc bên ngoài lãnh thổ Việt
Nam
Theo truyền thuyết, vào thiên niên kỷ 3 trước Công nguyên, Lộc Tục là con
của Viêm Đế thần nông được cử làm Kinh Dương Vương đi cai trị phương Nam.
Kinh Dương Vương sinh ra Sùng Lãm (hay Lạc Long Quân). Long Quân lấy bà
Âu Cơ là tổ tiên của người Việt phương Nam (có thuyết chép là con gái của Đế
Lai, gốc Trung Quốc). Hai người sinh ra 100 người con, con trưởng là Hùng
Vương làm vua nước Văn Lang (Từ điển Bách khoa Việt Nam, 2003). Truyền
thuyết này mang tính hoang đường, có nhiều điểm không hợp lý so với các nguồn

3
tài liệu khác.
Một số học giả nước ngoài lý giải phổ hệ Văn hóa Đông Sơn có nguồn gốc bên
ngoài Việt Nam, từ vùng thảo nguyên Âu - Á (Janse, 1947), từ sông Hoài (B. Karigen,
1942), hay từ bờ Biển Đen (Geldern, 1951) [dẫn theo Nguyễn Khắc Sử, 2014].

Học giả Đào Duy Anh (năm 1957) cho rằng, người Việt ở Việt Nam có nguồn gốc
từ vùng Chiết Giang (Trung Quốc) thiên di sang; hoặc Bình Nguyên Lộc (năm 1971) chủ
trương người Việt vốn là dân Nam Đảo từ ngoài biển vào.

Gần đây, trong cuốn “Nguồn gốc người Việt - người Mường”, tác giả Tạ Đức đưa
ra hai luận điểm:

- Từ xa xưa, Việt và Mường không có cùng nguồn gốc và đều không phải là cư dân sở
tại /bản địa ở Bắc Việt Nam, mà là sự tổng hòa các nhóm di dân từ phương Bắc xuống. Người
Mường vốn là người Mon, Man hay Mân Việt, là di dân theo đường biển, đến trước, tạo lập
nên các nền Văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun; còn người Việt vốn là người La Va
hay Lạc Việt, từ vùng Chiết Giang, đến sau, là chủ nhân đích thực của Văn hóa Đông Sơn.

- Sự ra đời và phát triển của nền văn hóa này về cơ bản gắn với các cuộc thiên di của
các nhóm Bách Việt từ phương Bắc (Tạ Đức, 2013, tr. 434).
Luận điểm của Tạ Đức đã phủ nhận không chỉ tính sở tại/bản địa mà còn cả tính
cùng nguồn gốc của 2 tộc Việt và Mường.

3.2.2.2. Các ý kiến coi người Việt là tộc người sở tại/ bản địa và hai tộc
Việt và Mường có cùng nguồn gốc
Thực tế, Việt và Mường là cư dân sở tại/ bản địa, vì các căn cứ sau:
- Tư liệu Sử học và Dân tộc học cho phép khẳng định, tổ tiên của người Việt
là nhóm Lạc Việt nằm trong khối Bách Việt (gồm nhiều tộc Việt) cư trú trên một
vùng rộng lớn ở Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc (nhóm Lạc Việt, Âu Việt ở
Bắc Việt Nam; Mân Việt ở Phúc Kiến; Điền Việt ở Vân Nam; Đông Việt ở Quảng
Đông; Nam Việt ở Quảng Tây v.v.) từ rất xa xưa. Trước khi bị người Hán xâm lấn,
các nhóm Việt này đã lập thành các quốc gia riêng, trong đó có quốc gia Văn Lang
của khối Lạc Việt và Âu Việt, cốt lõi ban đầu của nước Việt Nam ngày nay.
Về mặt nhân chủng, người Lạc Việt là nhóm trung gian giữa hai đại chủng
Mônggôlôít và Ôxtralôít.
Tư liệu khảo cổ học cho biết, trên vùng lãnh thổ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ hiện

4
nay, cách ngày nay khoảng 3500 - 4000 năm, nhóm Lạc Việt đã trực tiếp tạo ra những
nền văn hóa có tính liên tục, từ Phùng Nguyên (từ 2.000 - 1.500 năm trước Công
nguyên), Đồng Đậu (1.500 - 1.000 năm trước Công nguyên), Gò Mun (1.000 - 700 năm
trước Công nguyên) và phát triển thành nền Văn hóa Đông Sơn rực rỡ (700 trước Công
nguyên đến năm 100 sau Công nguyên), dựa trên cơ sở kinh tế là nghề trồng lúa nước
kết hợp các nghề thủ công, trong đó, độc đáo nhất là nghề đúc đồng với sản phẩm mang
tính đặc trưng là trống đồng. Quá trình tạo lập các nền văn hóa này cũng là quá trình
người Việt chuẩn bị các điều kiện để tiến tới lập ra Nhà nước đầu tiên: Nhà nước Văn
Lang (khoảng thế kỷ VII trước Công nguyên), trải qua nhiều đời vua (Vua Hùng). Đây
là Nhà nước sơ khai. Vua Hùng được xem là thủ lĩnh của một vùng rộng lớn 1. Khái
niệm “Hùng Vương” là khái niệm Hán - Việt, mới xuất hiện vào thế kỷ XV; cần được
thay thế bằng khái niệm “Vua Hùng” là khái niệm Việt Cổ, gắn với tâm tư, tình cảm của
các thế hệ người Việt từ buổi đầu dựng nước.
Như vậy, cần phải khẳng định, người Việt là tộc người có nguồn gốc bản địa,
sở tại, sinh sống từ rất lâu đời trên đất Việt Nam, không phải từ lãnh thổ ngoài
chuyển đến.

Thứ hai, Việt, Mường là hai tộc có cùng nguồn gốc, với các căn cứ sau:

- Tiếng Việt và tiếng Mường giống nhau về âm, thanh, cú pháp và đến 70%
vốn từ vị cơ bản, khiến nhiều nhà ngôn ngữ học phân vân không biết nên coi đó là
hai ngôn ngữ hay là hai phương ngôn của cùng một ngôn ngữ; là hiện tượng hiếm
có của các tộc người có nhiều nhóm địa phương ở Việt Nam. Một số tộc người ở
nước ta, như người Dao, người Nùng, có nhiều nhóm, song giữa các nhóm này
nhiều khi không hiểu hết tiếng của nhau khi giao tiếp, phải dùng ngôn ngữ trung
gian.

- Về văn hóa:

* Nhiều yếu tố trong văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần và thiết chế xã hội
của hai tộc người rất giống nhau, nhất là về tâm linh và phong tục về trống đồng,
thờ Sơn Tinh ... (Trần Quốc Vượng, Nguyễn Dương Bình, 1965). Đặc biệt, người

1
Giáo sư Sử học Trần Quốc Vượng cho rằng, “Vua Hùng” có nguồn gốc từ “Pò Khun”, là
một từ có liên quan đến ngôn ngữ Tày - Thái cổ, có nghĩa là bố của một vùng. Điều này có
cơ sở. Các nhà Dân tộc học cho rằng, nhóm cư dân Tày - Thái cổ đã có mặt trong buổi đầu
dựng nước Văn Lang - Âu Lạc.

5
Mường có truyền thuyết “Chim Ây - cái Ứa” nói người Mường và người Việt có
cùng nguồn gốc 1).

* Hoa văn cạp váy Mường và những nét tương đồng với các mô típ trang trí
trên trống đồng Đông Sơn (Trần Từ, 1978).

- Chứng cứ ngôn ngữ và cư trú gắn, trùng với phát hiện khảo cổ học: tiếng
Việt và người Mường cùng các tiếng Thổ, Chứt nằm trong nhóm ngôn ngữ Việt -
Mường. Trừ nhóm người Chứt, còn 3 tộc Việt, Mường, Thổ có địa bàn cư trú trùng
với sự phân bố của các di chỉ khảo cổ học thuộc Văn hóa Đông Sơn (Bảng 3.1).

Bảng 3.1: Địa bàn cư trú các tộc người gắn


với các di chỉ khảo cổ học thuộc Văn hóa Đông Sơn

Lưu vực Tộc người Địa bàn cư trú


Sông Hồng Việt Đồng bằng, trung du
(Trung tâm là làng Vùng đệm: trung du Phú Thọ - Sơn Tây,
Cả ở Việt Trì, tỉnh Ninh Bình
Phú Thọ)
Mường Thung lũng chân núi Phú Thọ - Hòa Bình
- Thanh Hóa, huyện Phù Yên (Sơn La)
Sông Mã – Việt Các huyện đồng bằng Thanh Hóa
Sông Chu Mường Các huyện miền núi Thanh Hóa
(Trung tâm là Đông Thổ Các huyện miền núi,
Sơn, tỉnh Thanh
trung du tỉnh Thanh Hóa
Hóa)
Sông Cả (Trung tâm Việt Đồng bằng, trung du tỉnh Nghệ An
là Làng Vạc ở thị xã Thổ Trung du, miền núi
Thái Hòa, tỉnh Nghệ
An) các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa
Mường Miền núi tỉnh Thanh Hóa

1
Truyền thuyết kể rằng, vào một năm đại hạn, rồi lại xảy ra lụt lớn, nước chảy thành suối
thành sông; đất đá lăn chất đầy thành gò đống, đồi núi. Từ dưới đất mọc lên một cây si.
Cây si lớn như thổi, thành cây cổ thụ, che kín cả bầu trời. Cây si bị sâu đục ăn làm cho gãy
cành rụng lá. Từ gốc cây si đẻ ra một đôi chim. Chim Ây là đực, Cái Ứa là cái. Đôi chim
làm tổ trên cành cây si. Cành si gãy, đôi chim bay lên cây đa làm tổ. Cây đa đổ, đôi chim
lại bay lên núi đá lấy cỏ làm thành tổ Hang Hao. Cái Ứa đẻ ra hàng ngàn quả trứng. Trứng
chim nở ra thành muôn loài; ; còn lại một trăm rứng thì nở ra con người. Đó là người
Mường và người Kinh (Việt).

6
? Chứt Miền núi
các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị

3.3. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ


3.3.1. Nông nghiệp
3.3.1.1.Nông lịch
Người Việt tạo ra lịch riêng cho mình (lịch Âm Dương), duy trì trên cơ sở
lịch mặt trăng (lịch Can Chi). Một Can có 10 năm (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ,
Canh, Tân, Nhâm, Quý). Một Chi (hay một Giáp) có 12 năm (Tý, Sửu, Dần, Mão,
Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi). Các số của từng Can lần lượt ghép với
các số tương ứng của từng chi để mang tên một năm, ứng với một con vật. Mở đầu
là năm Giáp Tý, kết thúc là năm Quý Hợi. Sau 60 năm, quay lại năm can chi đầu
(Giáp Tý), gọi là một hội.
Lịch âm dương của người Việt là loại lịch kết hợp giữa hai yếu tố lịch âm và
lịch dương theo nguyên tắc nhất định. Theo chu kỳ tuần trăng, cứ 29 hoặc 30 ngày
là một tháng (tháng thiếu và tháng đủ). Mỗi năm có 12 tháng, song vì có nhiều
tháng có 29 ngày nên thông thường, cứ 3 năm lại có một năm có 13 tháng, gọi là
năm nhuận và tháng nhuận. Để xác định tháng nhuận, các nhà làm lịch phải tính
toán một lịch dương thiên văn làm cơ sở gọi là lịch Tiết khí; một năm có 24 tiết khí.
Tên gọi các tiết khí đặt theo quy tắc:

- Theo mùa (Xuân, Hạ, Thu, Đông), có đầu mùa và giữa mùa (Lập Xuân và
Xuân phân, Lập Hạ - Hạ chí, Lập Thu - Thu phân, Lập Đông - Đông chí).

- Theo nhiệt độ từng mùa (Tiểu thử, Đại thử, Xử thử, Tiểu hàn, Đại hàn).

- Theo độ ẩm (Vũ thủy, Cốc vũ, Hàn lộ, Bạch lộ, Sương giáng, Tiểu tuyết,
Đại tuyết).

- Theo hiện tượng thiên nhiên (Kinh trập, Tiểu mãn, Mang chủng).

Các khái niệm về tiết khí trên đây chỉ đặc trưng khí hậu và thời vụ của lưu
vực sông Trường Giang và Hoàng Hà; song đã được người Việt cải biến cho phù
hợp với điều kiện thời tiết, khí hậu, việc làm ruộng nước cùng điều kiện xã hội Việt
Nam, như gọi tiết Cốc vũ là Mưa rào, tiết Tiểu mãn là Duối vàng.

7
Trước thế kỷ XX, các tiết khi trên hoàn toàn dựa vào lịch âm của người Việt,
có tính chu kỳ và quy luật. Chẳng hạn, vào khoảng mồng 5 hoặc mồng 6 tháng Năm
là tiết Mang chủng (hay Tua rua); nửa tháng sau là tiết Hạ chí (giữa hè); nửa tháng
sau nữa là tiết Tiểu thử (nắng oi). Kinh nghiệm dân gian đúc kết: tiết Mang chủng
đi gieo mạ mùa, tiếu Tiểu thử đi cấy lúa mùa (Tua rua đi bắc mạ mùa, Tiểu thử đi
bừa, cấy ruộng nông sâu).

Đầu thế kỷ XX, lịch dương được đưa vào sử dụng rộng rãi ở Việt Nam; các
tiết trên đây được tính theo lịch dương, chẳng hạn, tiết là tiết Mang chủng vào ngày
6 hoặc ngày 7 tháng 6, tiết Hạ chí vào ngày 21 hoặc 22 tháng 6; tiết Tiểu thử vào
ngày 7 hoặc ngày 8 tháng 7.

Lịch này là cơ sở để tổ chức sản xuất nông nghiệp (gọi là Nông lịch), các
sinh hoạt, các phong tục, tín ngưỡng của gia đình, cộng đồng.
3.3.1.2. Đặc điểm sản xuất nông nghiệp người Việt

Người Việt sớm chọn nông nghiệp làm cơ sở kinh tế chính, trong đó trồng trọt
ruộng nước là chủ đạo, được bổ sung bằng một số loại hoa màu. Nền nông nghiệp của
người Việt có các đặc điểm nổi bật:

- Duy trì trên cơ sở lịch mặt trăng (lịch Can chi) và được thực hiện trong
điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa, coi trọng yếu tố thì (thời vụ): “Nhất thì nhì
thục”; chi phối toàn bộ lịch trình canh tác. Mỗi tiết ứng với một đặc điểm của thời
tiết và một khâu canh tác buộc phải tuân thủ; nếu không sẽ ảnh hưởng xấu đến
năng suất cây trồng (Bảng 3.2).
Bảng 3.2. Các tiết khí và các công đoạn sản xuất
trong một năm của người Việt (theo lịch dương)

Tháng, Công việc trồng trọt


Tiết khí Đặc điểm thời tiết
Ngày phải bảo đảm
01/07 Tiểu hàn Giá rét Cấy chiêm
Cấy chiêm xong
01/ 22 Đại hàn Rất rét
trước tiết Lập xuân
Âm áp, Nghỉ ngơi đón Tết
02 /06 Lập Xuân
đầu mùa Xuân Làm cỏ lúa

8
Tháng, Công việc trồng trọt
Tiết khí Đặc điểm thời tiết
Ngày phải bảo đảm
02/ 20 Vũ thủy Ẩm ướt Làm cỏ lúa
03/ 06 Kinh trập Sâu nở Làm cỏ lúa
03/ 20 Xuân phân Giữa mùa Xuân Chăm sóc lúa
04/ 06 Thanh minh Trong sáng Chăm sóc lúa
04/ 21 Cốc vũ Mưa rào Cày vỡ ruộng mùa
05/ 05 Lập hạ Mở đầu mùa Hè Gặt chiêm, làm đất cho vụ mùa
Tiểu mãn Có cơn lũ đầu tiên Gặt xong lúa chiêm,
05/ 21
(Duối vàng) Làm đất cấy mùa
Mang chủng Sao Tua rua mọc
06/ 06 Gieo mạ mùa, làm đất cấy mùa
(Tua rua)
06/ 22 Hạ chí Giữa mùa Hè Làm đất cấy mùa
07/ 07 Tiểu thử Nắng, nóng oi Cấy mùa
07/ 21 Đại thử Rất nóng Cấy mùa (xong trước Lập thu)
08/ 07 Lập thu Mở đầu mùa Thu Hoàn thành cấy mùa
Mưa nhiều
08/ 23 Xử thử Chăm sóc lúa
(mưa ngâu)
09/ 07 Bạch lộ Nắng nhạt, trời mát Chăm sóc lúa,
Thu phân Trời trong sáng
09/ 22 Chăm sóc lúa, lúa trỗ
(Giữa Thu) (Rằm tháng Tám)
Bắt đầu làm đất cho vụ chiêm,
10/ 09 Hàn lộ Mát mẻ, chớm lạnh
gieo mạ chiêm
10/ 23 Sương giáng Sương xuống Gặt mùa
11/ 07 Lập Đông Mở đầu mùa Đông Gặt mùa
11/ 22 Tiểu tuyết Hanh khô Gặt xong lúa mùa
12/ 07 Đại tuyết Rất hanh khô Làm đất cho vụ chiêm
12/ 22 Đông chí Giữa Đông Cấy chiêm
- Đạt đến trình độ thâm canh cao so với các tộc người làm ruộng nước khác, trong
đó, coi trọng 4 khâu canh tác cơ bản: nước - phân - cần (chăm sóc) - giống (Nhất nước, nhì
phân, tam cần, tứ giống); đồng thời yếu tố “thì” (cấy, trồng đúng khung thời vụ) cũng rất
quan trọng (Nhất thì, nhì thục).
- Trải qua nhiều công đoạn sản xuất: làm đất (cày vỡ, cày lại, bừa vỡ, bừa lại, bừa
cấy); gieo mạ, be bờ, cấy, chăm sóc (làm cỏ và bón phân), thu hoạch (gặt, đập và phơi thóc

9
cho khô). Tất cả các khâu này đều diễn ra trong điều kiện thời tiết rất khắc nghiệt: vụ
chiêm phải lội xuống ruộng sâu để cấy lúa trong điều kiện rét tháng Một, Chạp cắt da, cắt
thịt, khi gặt phải dầm mình trong cái nóng nung người (tháng Tư, Năm) dội xuống đồng
nước; vụ mùa phải lội xuống đồng cày cấy giữa nắng tháng Sáu gay gắt nhất trong năm 1.

Trước năm 1960, phần lớn diện tích đồng ruộng ở các tỉnh từ Bắc Bộ và
Bắc Trung Bộ chỉ cấy được một vụ lúa mùa hoặc một vụ lúa chiêm (tùy thuộc địa
hình từng vùng) với năng suất thấp (chỉ từ 15 - 20 tạ/ ha, khoảng 50 - 70 kg/sào)
và bấp bênh. Trong khi đó, ở vùng châu thổ sông Cửu Long, đất đai rộng rãi, bằng
phẳng, màu mỡ nên việc cấy trồng chủ yếu theo lối quảng canh.
Từ đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX, công cuộc làm thủy lợi cải tạo đồng ruộng được
đẩy mạnh làm cho phần lớn diện tích ở khắp các vùng đã chủ động gieo trồng ba vụ (2 vụ
lúa, 1 vụ màu) cùng với việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho nông nghiệp
của người Việt có những đột biến, năng suất lúa đạt bình quân trên 80 tạ trở lên trên một
ha gieo trồng hai vụ; sản lượng lúa hàng năm thường xuyên đạt trên dưới 40 triệu tấn, xuất
khẩu gạo đứng hàng thứ hai trên thế giới (trên dưới 6 triệu tấn/năm), an ninh lương thực
được bảo đảm.
Chăn nuôi truyền thống của người Việt gồm các loại gia súc, gia cầm, song có quy
mô nhỏ lẻ, chủ yếu theo gia đình và phụ thuộc chặt vào trồng trọt. Trước 1954, trâu bò chỉ
được số ít gia đình có nhiều ruộng nuôi để làm sức kéo. Trong khoảng hơn 30 năm trở lại
đây, chăn nuôi đã phát triển thành ngành chính, tương xứng với trồng trọt, với hướng sản
xuất hàng hóa, quy mô ngày càng được mở rộng.

3.3.2. Thủ công nghiệp


Thủ công nghiệp của người Việt khá phát triển với nhiều nghề, từ đó hình thành
các làng nghề. Lấy sản phẩm kết hợp với nguyên liệu làm tiêu chí, có thể phân thành các
nhóm nghề làng nghề sau:
- Nhóm nghề, làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm (làm bún, miến, các loại bánh,
làm tương, mắm…).
- Nhóm nghề, làng nghề dệt (dệt vải, lụa, chiếu) - thêu - nhuộm.
- Nhóm nghề, làng nghề đan lát, tạo ra các đồ gia dụng (thúng mủng, giần sàng, bồ
cót…), dụng cụ sản xuất (quang gánh), phương tiện đi lại, vận chuyển (thuyền nan)...

1
Từ khi thu được hạt thóc về nhà, phải phơi khô, quạt sạch, rồi xay, giã, giần, sàng mới
ra hạt gạo để thổi cơm. Dân gian đã đúc kết quá trình vất vả này bằng câu ca “Ai ở
bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.

10
- Nhóm nghề, làng nghề mộc - chạm - sơn.
- Nhóm nghề, làng nghề rèn, kết hợp nghề mộc tạo ra công cụ sản xuất (cày bừa, liềm,
hái..)
- Nhóm nghề, làng nghề gốm, sứ sản xuất ra các đồ đựng, đồ trang trí, vật liệu xây
dựng.. .
- Nhóm nghề, làng nghề đúc (đúc đồng, gò đồng), tạo ra các đồ gia dụng, đồ thờ cúng...
- Nhóm nghề, làng nghề tạo ra các sản phẩm nghệ thuật (tranh dân gian).
- Nhóm nghề, làng nghề làm đồ trang sức (chế tác vàng, bạc).
- Nhóm nghề, làng nghề chế tác đá.
- Nhóm nghề, làng nghề khác.
Các nghề thủ công của người Việt có những đặc điểm nổi bật sau:
Là một bộ phận gắn chặt với nông nghiệp. Số làng nghề (làng thủ công chuyên
nghiệp) không nhiều và sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào nông nghiệp (về thời gian tổ chức
sản xuất, đầu tư vốn, tiêu thụ sản phẩm).
Sản xuất cũng dựa trên lao động thủ công, tư duy kinh nghiệm, khung tổ chức
chính là gia đình, năng suất thấp, sản phẩm hàng hóa ít, dẫn đến độc quyền, giấu nghề; làm
cho nghề không tạo ra sự đột biến, làng nghề không phát triển thành trung tâm công
nghiệp.

3.3.3. Thương nghiệp


Thương nghiệp truyền thống của người Việt nhìn chung không phát triển,
do các nguyên nhân:
- Nền nông nghiệp - cơ sở kinh tế chính, trong đó trồng trọt là chủ đạo có
năng suất thấp và bấp bênh, không tạo ra nguồn hàng hóa dồi dào cho buôn bán,
- Điều kiện giao thông, phương tiện đi lại, vận chuyển rất kém, cơ sở kho
tàng không có, không thuận lợi cho chuyên chở, lưu giữ hàng hóa;
- Từ giữa thế kỷ XV trở đi, người Việt chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo
coi nghề buôn là “mạt nghệ” (nghề ngọn, vì nông nghiệp mới là “nghề gốc”) và
thương nhân là tầng lớp cuối cùng trong “Tứ dân” (sĩ - nông - công - thương).
Biểu hiện của thương nghiệp kém phát triển là nội thương giữ vị trí chủ
đạo, thông qua hệ thống chợ làng (chợ quê) và luồng buôn bán tiểu thương, do

11
những người phụ nữ tranh thủ lúc nông nhàn đi buôn quanh các chợ để có thêm thu
nhập; số người có cửa hiệu buôn ở thành phố không nhiều, nên không hình thành
các trung tâm thương nghiệp lớn. Trong một vùng 5 - 10 làng có một vài chợ, các
chợ họp luân phiên nhau tạo thành vòng khép kín 5 ngày một, để ngày nào cũng có
chợ họp cho dân các làng trao đổi sản phẩm với nhau. Chẳng hạn, ở huyện Đông
Anh (thành phố Hà Nội) có năm chợ họp luân phiên, được dân gian đúc kết là:
“Chợ Sa xà chợ Kim, chợ Kim dìm chợ Dâu, chợ Dâu câu chợ Tó, chợ Tó mó chợ
Bỏi, chợ Bỏi hỏi chợ Sa, chợ Sa xà chợ Kim” 1.
Do kỹ thuật vượt biển kém (không có tàu thuyền lớn sử dụng động lực), do
yêu cầu bảo vệ an ninh đường biển và biên giới đất liền, do Nhà nước nắm độc
quyền trong buôn bán với nước ngoài, cá nhân không có quyền ra nước ngoài tự
do buôn bán, nên trong nền kinh tế truyền thống của người Việt, ngoại thương
không phát triển thành một ngành mũi nhọn, chỉ mang tính “đơn tuyến” hay một
chiều (tức chỉ có người nước ngoài đến buôn bán trong sự hạn chế và kiểm soát
ngặt nghèo của chính quyền Nhà nước).
Tóm lại, kinh tế truyền thống của người Việt tuy phát triển hơn các tộc
người thiểu số nhưng vẫn ở trình độ thấp, dựa trên cơ sở nông nghiệp, trong đó
trồng trọt là chủ đạo. Có thể coi nền kinh tế đó như là một vườn cây, trong đó là
trồng trọt - nông nghiệp là cây cổ thụ tỏa bóng rợp che hết ánh sáng của các cây -
ngành khác, làm cho các cây ngành này chỉ là những cây leo bám quanh cây cổ
thụ, cố kết rất vững bền nhưng vươn lên rất chậm chạp.
Tuy có một số hạn chế, nhưng nền kinh tế của người Việt phong phú về
ngành nghề, đem lại giá trị lớn nhất cho nền kinh tế của đất nước.

3.4. TỔ CHỨC XÃ HỘI

3.4.1.Thiết chế Nhà nước


Là tộc người có nguồn gốc sở tại/bản địa và là tộc người chiếm số dân đông nhất
trong quốc gia Việt Nam, người Việt cùng người Mường và một bộ phận cư dân khối Tày -

1
Chợ Sa (làng Cổ Loa, họp ngày 1 và 6), chợ Kim (làng Kim Con, họp ngày 2 và 7); chợ
Dâu (làng Lực Canh, họp ngày 3 và 8); chợ Tó (làng Uy Nỗ, họp ngày 4 và 9), chợ Bỏi
(làng Hải Bối, họp ngày 5 và 10).

12
Thái, Môn/Khơ - me sớm lập ra nước Văn Lang vào gần cuối thời đại đồ đồng (khoảng thế
kỷ VII trước Công nguyên). Đến năm 257 trước Công nguyên, Thục Phán - một thủ lĩnh
của cư dân Âu Việt lập ra nước Âu Lac, trên cơ sở của nước Văn Lang; đến năm 179 trước
Công nguyên, nước Âu Lạc bị nhà Hán thôn tính. Nước ta rơi vào vòng Bắc thuộc hàng
nghìn năm.
Đầu thế kỷ X, sau khi giành lại quyền tự chủ, người Việt từng bước xây dựng nhà
nước theo mô hình của phong kiến Trung Quốc, cả về các cấp hành chính và đơn vị hành
chính, các cơ quan nhà nước, hệ thống quan chức các cấp và hệ thống pháp luật.

Đến thời Nguyễn, có 6 cấp hành chính: trung ương (triều đình), tỉnh
(tương đương với lộ thời Trần, thừa tuyên, trấn thời Lê), phủ, huyện, tổng, xã.
Triều đình trung ương do vua đứng đầu, có 6 bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công) 1
cùng một số cơ quan giúp việc.
Nhà nước đặt ra pháp luật để quản lý xã hội, bảo vệ uy quyền của vua và
hoàng tộc, bảo vệ chế độ phong kiến. Bộ luật thành văn đầu tiên là Hình thư được
soạn thảo năm Nhâm Ngọ dưới triều Vua Lý Thái Tông (năm 1042), thời Lê có bộ
Quốc triều hình luật (còn gọi là Bộ Luật Hồng Đức), thời Nguyễn có bộ Luật Gia
Long (soạn xong năm Nhâm Thân, 1812).

VUA
TRIỀU

ĐÌNH
NỘI CÁC CƠ MẬT VIỆN
TRUNG

ƯƠNG
1
Từ năm Kỷ Mão (1459), Lê Nghi Dân đặt đủ 6 bộ. Chức năng, nhiệm vụ của 6 bộ được
các triều vua về sau quy định như sau:
- Bộ Lại: chuyên trách việc bổ dụng, cất nhắc, thăng giáng và thuyên chuyển quan lại.
- Bộ Hộ: chuyên trách việc tài chính, lương tiền hay binh lương, thuế khóa.
- Bộ Lễ: chuyên trách việc lễ nghi, giáo dục, ngoại giao.
- Bộ Binh: chuyên trách việc tổ chức quân đội, quân sự, bảo vệ biên giới.
- Bộ Hình: chuyên trách soạn thảo pháp luật, xử những vụ án lớn, phức tạp.
- Bộ Công: chuyên trách việc giao thông, xây dựng, thổ mộc nói chung.
Đứng đầu một bộ là Thượng thư (trật Tòng Nhị phẩm), dưới là Tả (Hữu) Thị lang, trật
Tòng Tam phẩm). Đầu thời Nguyễn đặt thêm chức Tả (Hữu) Tham tri dưới Thượng thư, trên
Thị lang.

13
CÁC CƠ QUAN LỤC BỘ LỤC TỰ ĐÔ SÁT VIỆN
KHAC

TỈNH GIÁM SÁT


Tổng đốc Tuần phủ NGỰ SỬ
Phiên ty
(Ty Bố chính) Niết (Hiến) ty
(Ty Án sát)

PHỦ
(Tri phủ, Đồng Tri phủ)

HUYỆN
(Tri huyện, Huyện thừa) CHÂU
(Tri châu, Phó Tri châu)

TỔNG TỔNG
(Chánh tổng, Phó tổng) (Chánh tổng, Phó tổng)

XÃ XÃ, SÁCH
(Lý trưởng, Phó Lý) (Lý trưởng, Phó lý

Sơ đồ 3.1. Tổ chức hành chính và bộ máy Nhà nước các cấp thời Nguyễn (1802 - 1884)

Nhà nước phong kiến Việt có các đặc điểm sau:


- Là Nhà nước quân chủ quan liêu, với hệ thống nhiều cấp hành chính,
không có tam quyền phân lập (quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư
pháp), không có lực lượng độc lập, đối trọng để kiểm tra, giám sát các công việc
của Nhà nước, càng làm cho tính chuyên chế, mất dân chủ gia tăng.
- Đội ngũ quan lại nặng tính quan liêu, xa dân; một số sau khi gia nhập
bộ máy quan trường đã thoái hóa, biến chất, lợi dụng chức quyền, lợi dụng sự
lỏng lẻo, quan liêu của Nhà nước và kẻ hở của pháp luật để tham nhũng, áp
bức nhân dân.

14
- Pháp luật ra đời muộn, thiếu đồng bộ, không đến được với người dân do số
lượng văn bản in rất hạn chế, in bằng chữ Hán, việc tuyên truyền pháp luật gặp khó
khăn, nên dân không hiểu luật, là kẽ hở cho một bộ phận quan lại lợi dụng để áp bức
và ăn chặn của dân, đục khoét tài sản của Nhà nước.
3.4.2.Thiết chế làng xã
3.4.2.1. Các khái niệm (Làng, Xã, Thôn)
Khái niệm “Làng”
Người Việt sớm tụ cư trong các Làng (thời các Vua Hùng gọi là Chạ, ngày nay, từ
này còn thấy trong lời giáo của một số trò diễn dân gian “Chiềng làng, chiềng chạ”).

Làng (廊) là một từ Nôm (từ Việt cổ), dùng để chỉ đơn vị tụ cư truyền thống
của người Việt ở nông thôn, có địa vực riêng (địa giới xác định); cấu trúc vật chất
(đường làng, ngõ xóm, các công trình thờ cúng) riêng; cơ cấu tổ chức, lệ tục, tiếng
làng riêng (thể hiện ở âm hay giọng); tính cách riêng, hoàn chỉnh và ổn định qua
quá trình lịch sử.
Tính cách làng được đúc kết qua ca dao, ngạn ngữ, chẳng hạn, “Chua ngoa
là đất Vân Đình, váy dài Đốc Tín, cậy mình Kẻ Sêu”.
Hay “Động đến quan viên Kẻ Vẽ, bát mẻ không còn”.

Nhiều vùng hình thành một cụm 4 làng (có khi 5 làng) có những nét riêng
về tính cách, phong tục, sản vật, được dân gian đúc kết thành “Tứ vật” hay “Tứ
mạc” (“Vật” hay “Mạc” đều có nghĩa là “chớ”, “đừng”). Dưới đây là những “Tứ
vật” điển hình ở 4 xứ bao quanh Kinh đô Thăng Long xưa:
- Xứ Bắc (trấn Kinh Bắc) có “Vật giao Phù Lưu hữu, vật thú Đình Bảng
thê, vật ẩm Đồng Kỵ thủy, vật thực Cẩm Giang kê” (Đừng kết bạn với người làng
Phù Lưu, đừng lấy vợ làng Đình Bảng, đừng uống nước làng Đồng Kỵ, đừng ăn
gà làng Cẩm Giang).
- Xứ Nam (trấn Sơn Nam) có“Vật giao Đông Phù hữu, vật thính Vĩnh
Trung ngôn, vật thú Lạc Thị thê, vật ẩm Hoàng Mai tửu” (Đừng kết bạn với
người làng Đông Phù, đừng nghe người làng Vĩnh Trung nói, đừng lấy vợ làng
Lạc Thị, đừng uống rượu làng Hoàng Mai).

15
- Xứ Đông (trấn Hải Dương) có “Vật du Văn Thai thị, vật học Tri Các sư,
vật giao Nghĩa Phú hữu, vật thú An Điềm thê” (đừng giao du ở chợ làng Văn
Thai, đừng học các ông đồ làng Tri Các, đừng kết bạn với người làng Nghĩa Phú,
đừng lấy vợ người làng An Điềm).
- Xứ Đoài (trấn Sơn Tây) có Tứ vật: “Vật tranh Đại Đồng trưởng, Vật thú
Tảo Thượng thê, Vật giao Đông Sàng hữu, Vật thực Mỹ Lương kê” (Chớ tranh chức
lý trưởng ở làng Đại Đồng, chớ lấy con gái Tảo Thượng làm vợ, chớ kết bạn với
người làng Đông Sàng, chớ ăn thịt gà Mỹ Lương).
Mỗi làng Việt thường có hai tên:
- Tên Nôm (hay tên Việt cổ thường gắn với từ “Kẻ”, đi kèm với một từ Nôm
khác, thường khó xác định chính xác ngữ nghĩa, như Kẻ Noi, Kẻ Gối, Kẻ Ngà, Kẻ
Trôi, Kẻ Cót...) được dùng trong giao tiếp thường ngày.

- Tên chữ (hay tên Hán - Việt) dùng trong văn bản hành chính, được phiên
âm từ tên Nôm (Kẻ Noi = Cổ Nhuế, Kẻ Gối = Tân Hội, Kẻ Ngà = Miêu Nha...).
Các làng có tên chữ gồm tên các dòng họ gắn với từ “Xá” (Bùi Xá, Dương
Xá, Đỗ Xá, Lê Xá, Nguyễn Xá, Hoàng Xá...), thường do dòng họ đó khai lập đầu
tiên, hoặc chiếm số đông dân cư trong các dòng họ buổi đầu hình thành làng.
Khái niệm “Xã, Thôn”
Xã (社) là từ Hán - Việt, dùng để chỉ đơn vị hành chính cấp cơ sở của Nhà
nước phong kiến ở nông thôn (có thời kỳ ở cả thành thị). Một số tài liệu chép làng
là đơn vị hành chính là không đúng thực tế.

Thôn (村) là từ Hán - Việt, chỉ một làng, khi làng đó nhập với một (hoặc nhiều
hơn) làng khác để trở thành một xã. Từ “thôn” thường dùng trong văn bản hành
chính, văn bản Hán Nôm, văn tế. Chẳng hạn “Vân Canh xã, Kim Hoàng thôn khoán
lệ” (Khoán lệ của thôn/làng Kim Hoàng, xã Vân Canh).

Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, phần đông các làng của người Việt
được Nhà nước phong kiến thiết lập thành một xã, vì vậy, người nông dân thường
ghép hai từ này làm một, gọi là “làng xã” và dân gian gọi kết cấu này là “Nhất xã
nhất thôn”. Tuy nhiên, nhiều trường hợp, một xã có từ hai (hoặc ba, bốn...) làng, dân
gian gọi là kết cấu “Nhất xã nhị thôn, tam thôn”.

16
3.4.2.2. Phân loại làng
Phân loại làng để nghiên cứu, tìm ra các đặc trưng riêng; đồng thời để có
các chính sách, các giải pháp phát triển đối với các loại hình làng hiện nay. Về cơ
bản, có các cách phân loại sau:
- Phân theo vùng địa lý, có làng Bắc Bộ, làng Trung Bộ, làng Nam Bộ. Mỗi
loại hình này có các đặc trưng riêng trên tất cả các mặt, do khác nhau về điều kiện
tự nhiên, về cư dân, về thời gian và phương thức khai lập, được biểu hiện cụ thể
khác nhau ở từng khu vực nhỏ hơn.
- Phân theo cảnh quan địa lý, có làng trung du, làng đồng bằng, làng miền
núi, làng ven biển, làng đảo. Mỗi loại hình này cũng có các đặc trưng riêng trên
tất cả các mặt, do khác nhau về điều kiện tự nhiên, về cư dân, về thời gian và
phương thức khai lập.
- Phân theo thời gian hình thành, có các loại hình làng:
+ Làng cổ là các làng hình thành từ trước Công nguyên đến thế kỷ X (các
làng này thường có tên gắn với từ “Kẻ”). Tuy nhiên, qua hàng nghìn năm lịch sử,
tính chất cổ xưa đã bị phai nhạt rất nhiều.
+ Làng thời Lý - Trần là làng gắn với chế độ khai hoang lập làng của các
vương hầu, công chúa thời Lý hay chế độ điền trang thái ấp của tôn thất nhà Trần.
Đặc điểm nổi bật của loại hình làng này là chế độ ruộng đất công còn tồn tại đậm
nét cho đến cải cách ruộng đất (1955 - 1957).
+ Làng thời Lê Sơ (1428 - 1527) được hình thành gắn với chế độ khai
hoang lấn biển của các cộng đồng cư dân (chẳng hạn, các làng ở khu Hà Nam,
huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh). Loại hình làng này cũng có đặc điểm nổi bật
là chế độ ruộng đất công còn tồn tại tại đậm nét đến cuộc cải cách ruộng đất (1955
- 1957) và tục thờ tiên công (những người khai lập làng đầu tiên).
+ Làng thời Lê - Trịnh: được hình thành chủ yếu ở miền Trung, gắn với công
cuộc mở đất của các chúa Nguyễn.

17
+ Làng thời Nguyễn (gắn với chế độ khai hoang của Nhà nước do các quan
lại đứng ra tổ chức, như ở huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình, huyện Kim Sơn tỉnh Ninh
Bình).

- Phân loại theo cơ sở kinh tế, có làng nông nghiệp (làng đồng chiêm, làng
đồng mùa, làng ven sông đất bãi), làng nghề (làng thủ công chuyên nghiệp), làng
buôn, làng chài.

- Phân loại theo đặc điểm xã hội, có làng Nho học và khoa bảng.

3.4.3.3. Làng - thiết chế tự quản


Mỗi làng Việt cổ truyền là một thiết chế tự quản, thể hiện ở các mặt:

a. Tự quản bằng hệ thống cơ cấu tổ chức, được nhà Dân tộc học Từ Chi
phân thành 7 thiết chế tập hợp nguời.
Xóm (Ngõ) 1
Là nơi cộng cư của một số gia đình nông dân có quan hệ láng giềng kết hợp
với quan hệ huyết thống (nhiều trường hợp, anh em của một gia đình, một dòng họ
sống quây quần trong một khu vực của xóm), có khi là cả quan hệ hôn nhân (hai gia
đình ở gần nhau gả con cho nhau).

Xóm là đơn vị cộng cảm về tín ngưỡng và phong tục: xóm có một miếu xóm
để thờ thổ địa của xóm và để cúng giỗ những người đặt hậu 1 cho xóm.

1
Thông thường, một xóm có nhiều ngõ. Song ở nhiều nơi, nhất là các làng ven sông,
thường gọi xóm là ngõ.
1
Đặt hậu (hay gửi hậu, hoặc mua hậu, bầu hậu) là một tục của người Việt ở Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ. Theo đó, những người không có con hoặc không có con trai hiến cho một tổ chức
nào đó một số ruộng và tiền để được cúng giỗ sau khi chết. Có các kiểu đặt hậu: hậu xóm
(hoặc hậu họ, hậu giáp, gửi hậu cho xóm, giáp, họ), hậu Phật (gửi hậu vào nhà chùa) và hậu
thần (gửi hậu cho làng). Người đặt hậu xóm (hoặc hậu họ, hậu giáp) thường là những phụ nữ
cô quả, về già dành dụm được một ít ruộng, tiền gửi hậu để nhờ xóm, họ, giáp cúng giỗ mình
về sau. Đặt hậu Phật (hay hậu chùa) có hai dạng: người gửi giỗ bình thường và người giàu có
hiến cho làng một lượng lớn tiền, của, ruộng đất, được tôn làm hậu Phật. Người đặt hậu cho
làng (hậu thần) không chỉ là người thật giàu có (hiến cho làng một lượng lớn tiền của và
ruộng đất) mà còn phải là người có đức độ, uy tín. Người đó có thể không có con, nhưng
cũng có thể có con, thậm chí đủ cả con trai con gái, cháu trai cháu gái, vẫn đặt hậu và có thể
đặt hậu cho cả bố mẹ, vợ con mình.
Được tôn là hậu thần còn là những người có công đóng góp với làng (chẳng hạn, giúp
làng thắng kiện trong tranh chấp đất đai với các làng bên, giành lại một diện tích lớn ruộng
đất; hoặc giúp dân làng vượt qua trận đói hoặc dịch bệnh lớn...).

18
Gia đình
Gia đình là một tập hợp của những người có quan hệ hôn nhân và quan hệ
huyết thống, gắn bó với nhau bằng các quan hệ tình cảm - trách nhiệm, nuôi
dưỡng và giáo dục.
Gia đình người Việt là tiểu gia đình phụ quyền (hay gia đình hạt nhân, chủ
yếu gồm hai thế hệ cha mẹ và con cái), có các chức năng cơ bản: là đơn vị kinh tế
tự chủ (tổ chức sản xuất), đơn vị tái sản xuất sức lao động và duy trì nòi giống,
đơn vị thờ cúng, đơn vị giáo dục và trao truyền văn hóa và là nơi điều hòa tâm lý,
tình cảm.
Do dựa trên cơ sở kinh tế là nông nghiệp ruộng nước và chịu ảnh sâu sắc
của Nho giáo, gia đình người Việt mang tính gia trưởng cao (đề cao vai trò của
người chồng, người cha); song vẫn tôn trọng vai trò của người phụ nữ (người vợ)
với vai trò “nội tướng”, “tay hòm chìa khóa” (Của chồng công vợ), đề cao sự hòa
hợp vợ chồng (Chồng là cái giỏ, vợ là cái hom; Thuận vợ thuận chồng, Biển
Đông tát cạn).
Dòng họ
Trước hết cần phân biệt họ (tông tộc, tức một đơn vị huyết thống lớn, là tập
hợp các gia đình có chung một ông tổ) với tên họ (có nhiều người cùng mang tên họ
Nguyễn, họ Lê, họ Bùi..., chỉ là sự trùng tên họ, không cùng huyết thống, hay cùng
ông tổ). Trên thực tế, có nhiều trường hợp tên họ không đồng nghĩa với huyết thống,
do đổi họ vì những lý do sau:
- Một người làm con nuôi một người nào đó; hoặc người ngụ cư tại một làng
thường phải nhận làm con nuôi một vị chức dịch, kỳ mục có uy quyền trong làng để khỏi
bị dân chính cư chèn ép và nhanh được chuyển thành dân chính cư, do vậy phải đổi họ; về
sau, con cháu người đó mang họ mới, nhưng được dân làng gọi là “họ ..... gốc .....” (chẳng
hạn, họ Đỗ gốc Bùi, tức người họ Bùi đổi thành họ Đỗ, hay người họ Đỗ, gốc họ Bùi; họ
Phan gốc Nguyễn, tức người mang danh họ Phan, song có gốc là họ Nguyễn v.v.).

- Trong họ có người phạm trọng tội, người trong họ phải đổi họ để tránh bị tru di,
trả thù; nhiều tướng lĩnh, tôn thất họ Mạc sau khi nhà Mạc thất bại (cuối thế kỷ XVI) phải
đổi thành họ Bùi, họ Nguyễn, họ Lều...

19
- Do trùng với tên của vua, mẹ vua, vợ vua. Chẳng hạn, họ Trần phải đổi
thành họ Trình vì trùng tên với mẹ Lê Thái Tông (bà Phạm Thị Trần); họ Hoa
vì trùng tên với bà Hồ Thị Hoa (mẹ Vua Thiệu Trị) phải đổi thành họ Văn; họ
Hồng trùng tên với Vua Tự Đức (Hồng Nhậm) phải đổi thành họ Cung...
- Do vua bắt đổi (họ Phí đổi thành họ Bùi vào thời Trần)...

Họ của người Việt được tổ chức theo hai nguyên tắc cơ bản:
- Nguyên tắc trưởng- đích: ngôi trưởng (trưởng họ, hoặc trưởng chi, hoặc con
trưởng trong gia đình) và ngành đích (con của người vợ cả) mang tính cha truyền con
nối. Trường hợp ngành trưởng và ngành đích không có con trai hoặc có nhưng không
đảm đương được nhiệm vụ (bị bệnh tâm thần, hoặc mắc tội bất hiếu bị cả họ lên án),
ngành thứ mới được thay thế.

- Nguyên tắc cửu tộc (9 đời): lấy một người nam giới làm “mốc” (Êgô) thì trên
người đó có 4 đời là Cao (tiếng Việt là Kỵ) - Tằng (Cụ) - Tổ (Ông) - Phụ (Cha) và
dưới người đó có 4 đời: Tử (Con) - Tôn (Cháu) - Tằng tôn (Chắt) - Huyền tôn (Chút).
Tất cả mọi người được sinh ra từ cụ tổ (trong Gia phả ghi là Thủy tổ, hoặc Tiên tổ,
Khởi tổ, Triệu tổ, Tỵ tổ 11...) đến đời thứ chín đều được coi như có quan hệ thân thuộc
vể dòng máu, nên phải cư xử với nhau trên tinh thần “Cửu đại hơn ngoại nhân” (họ
chín đời hơn người dưng) hay “Giọt máu đào hơn ao nước lã”. Con cháu đến đời thứ
chín về nguyên tắc không được kết hôn với nhau 2.
Mỗi họ có hội đồng gia tộc điều hành, gồm trưởng tộc, các trưởng chi và những
người già am hiểu, có uy tín.

Họ của người Việt từ lâu tuy không còn là đơn vị kinh tế (vì đã chia thành nhiều
gia đình nhỏ với thân phận kinh tế - xã hội riêng) song có sức cố kết rất lớn về tâm lý và
tình cảm, nhờ ý thức chung về cội nguồn (có chung ông tổ), được củng cố bởi mộ tổ, gia
phả (tộc phả), nhà thờ họ (hay chi họ), ngày giỗ tổ; tạo ra tâm lý gắn kết dòng họ (Họ chín
đời hơn người dưng, Cửu đại hơn ngoại nhân). Ý thức, tâm lý cố kết này mang nhiều ý

1
Tỵ tổ là người được xác định là tổ đầu tiên, nhưng còn nghi ngờ (Tỵ là cái mũi, theo quan
niệm của người xưa, một con người khi thành hình, cái mũi xuất hiện đầu tiên).
2
Trên thực tế, nhiều dòng họ không có gia phả nên không thể nhớ được 9 đời; vì thế thông
thường, từ đời thứ bảy, tám trở đi, nếu không còn nhớ được nguồn gốc, con cháu có thể lấy
được nhau.

20
nghĩa tích cực, giúp cho người trong họ giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn, có công
to việc lớn (ma chay, cưới xin...), trong tổ chức khai hoang, phát triển sản xuất, khuyến
học, đánh giặc, cả hoạt động cách mạng sau này. Song ý thức, tâm lý cố kết trên cũng đem
lại nhiều tác động tiêu cực như tâm lý cục bộ dòng họ, sự đố kỵ và mâu thuẫn giữa các cặp
dòng họ trong làng (họ đa đinh - ít đinh; họ chính cư - ngụ cư; họ đến trước - đến sau, họ
quyền thế - bạch đinh). Ngày nay, các ảnh hưởng tiêu cực này vẫn còn rất đậm nét (“chi bộ
dòng họ”, “chính quyền dòng họ”).

Giáp
Giáp vốn là một đơn vị hành chính ở trên làng xã, đến đầu thế kỷ XV, đã
chuyển hóa thành một thiết chế nằm trong làng 1. Mỗi giáp gồm trai đinh của nhiều
dòng họ và xóm ngõ; song nhiều trường hợp, giáp mang tính chất huyết thống (mỗi
giáp chỉ gồm các trai đinh của một dòng họ) hoặc mang tính địa vực (giáp ở một
khu vực cụ thể trong làng, về sau các giáp này phát triển thành làng độc lập, chẳng
hạn, các Giáp Nhất, Giáp Nhị, Giáp Bát, Giáp Bát của làng Sét hay làng Thịnh Liệt
thuộc huyện Thanh Trì trước đây).

Giáp được vận hành theo nguyên tắc lớp tuổi, thể hiện ở các điểm sau:

- Tuổi tác (tuổi gia nhập giáp) là tiêu chuẩn chính để xác định vị thế (chỗ
ngồi) của mỗi con người trong từng giáp. Mỗi người theo tuổi tác lần lượt được
xếp vào các vị trí ngôi thứ theo một “công thức chung” là:
+ Ti ấu (trẻ con dưới 17 tuổi).

+ Tráng đinh (hay đinh nam hoặc giai đinh) từ 18 tuổi trở lên đến trước tuổi
lên lềnh).

+ Lềnh là những người qua tuổi tráng đinh, trước độ tuổi lên lão (tuổi cụ thể
tùy tập tục từng làng); số người lềnh nhiều hoặc ít hơn tùy tập tục từng làng, thường
là ba mâm hay ba bàn, mỗi bàn 4 người). Đây là những người phải gánh vác việc
hàng giáp để hoàn thành nghĩa vụ của đời người trước khi được lên lão (lên các cụ).

1
Giáp trở thành thành thiết chế trong làng có thể do chính sách của nhà Minh: nhằm ổn
định để nắm chặt các làng xã người Việt, thu được nguồn thuế, phu dịch từ các làng, tháng
Hai năm Kỷ Hợi (tháng 3 - 1419), nhà Minh lập hộ thiếp để nắm nhân khẩu của từng hộ
lập tổ chức giáp - lý: cứ 10 hộ lập một giáp, có giáp thủ đứng đầu và 11 giáp (110 hộ) lập
một lý, có lý trưởng đứng đầu. Có thể, sau khi quân xâm lược Minh rút đi, người Việt
không giải thể giáp do nhà Minh áp đặt mà tận dụng và cải biến nó để trở thành một thiết
chế trong làng.

21
+ Các cụ (hay lên bô): tuổi cụ thể tùy từng làng, gồm các bậc: cụ non (người
vừa mới lên lão), cụ hạ (dưới 60 tuổi), cụ trung (60 - 69 tuổi) và cụ thượng (từ 70
tuổi trở lên). Người cao tuổi nhất làng được gọi là cụ nhất hay bô cả; những người
cao tuổi tiếp theo gọi là nhì (hoặc hai), tam (ba) ...

- Cùng tuổi vào giáp (thông thường là ngang tuổi đời với nhau) thì bình đẳng
với nhau, không phân biệt địa vị xã hội, bằng cấp, giàu nghèo, cùng ngồi một mâm
(hay bàn), cùng được hưởng các quyền lợi và gánh vác các nghĩa vụ như nhau.

Với nguyên lý tổ chức và hoạt động trên đây, giáp tạo ra cho con người một
ý niệm về một xã hội dân chủ, bình đẳng. Vì thế giáp là thiết chế giữ vai trò quan
trọng nhất đối với các mặt đời sống của làng: là đơn vị quản lý nhân đinh (thông
qua sổ hàng giáp); đơn vị phân cấp và quản lý công điền, tổ chức biện lễ và phục vụ
tế lễ thờ thần hàng năm; phân bổ các đóng góp xây dựng các công trình trong làng,
cắt cử tuần phiên bảo vệ làng xóm, trông coi thủy lợi; đơn vị trợ giúp chính quyền
cấp xã trong việc thu thuế, điều động binh dịch cho Nhà nước phong kiến.
Vì thế, giáp được coi là tổ chức năng động nhất, mắt xích quan trọng nhất
trong cơ cấu tổ chức tổ chức làng xã. Tuy nhiên, một số làng không có giáp, các
công việc trong làng được phân công theo lớp tuổi.

Hội đồng kỳ mục


Hội đồng kỳ mục là cơ quan quản lý của làng, có toàn quyền đối với các
công việc của làng (chia và đấu thầu ruộng đất công, bán ngôi thứ, dựng mới và tu
bổ đình chùa, mở hội, giao hiếu, đối ngoại) ...Hội đồng gồm các thành viên đương
nhiên là quan lại (văn, võ) các cấp về hưu, các cựu chánh phó tổng, lý phó trưởng
mãn nhiệm. Một số làng tập hợp cả các quan lại đang tại chức. Đứng đầu hội đồng
là một tiên chỉ - người có phẩm hàm, chức tước hay học vị cao nhất (đã về hưu) ở
từng thời điểm và một thứ chỉ có phẩm hàm, chức tước hay học vị cao thứ hai.

Tháng 8 - 1921, nhằm nắm chặt làng xã hơn nữa, thực dân Pháp thực hiện
cuộc cải lương hương chính, xóa bỏ hội đồng kỳ mục, thay thế bằng hội đồng tộc
biểu hay giáp biểu (gồm đại biểu các dòng họ, các giáp trong làng, mỗi họ tùy theo
số suất đinh mà được cử nhiều hay ít đại biểu). Đứng đầu hội đồng là một chánh hội
và một phó hội, tiêu chuẩn, quyền hạn và nhiệm vụ giống như các tiên chỉ và thứ
chỉ trước đây.

22
Tuy nhiên, hội đồng tộc biểu hoạt động không hiệu quả vì các thành viên
không có kinh nghiệm quản lý, mâu thuẫn giữa các dòng họ vốn có trước đây được
dịp bộc lộ qua hội đồng tộc biểu. Vì thế, năm 1927, người Pháp phải lập lại hội
đồng kỳ mục (gọi là kỳ hào) bên cạnh hội đồng tộc biểu, song hoạt động của hai hội
đồng chồng chéo nhau nên đến năm 1941, hội đồng tộc biểu bị bãi bỏ, chỉ còn hội
đồng kỳ mục.

Bộ máy chức dịch

Làng của người Việt là cơ sở để Nhà nước thiết lập đơn vị hành chính cấp cơ
sở (Xã, do nhà Đường thiết lập năm 621). Nhìn chung, trên vùng đồng bằng Bắc Bộ
và Bắc Trung Bộ, đến trước tháng 8 năm 1945, phần lớn các làng cũng là một xã
(nên người nông dân thường ghép hai từ “làng - xã” với nhau). Mỗi xã có một bộ
máy chức dịch làm nhiệm vụ giữ gìn an ninh, thu thuế, điều động binh dịch cho Nhà
nước phong kiến bên trên.

- Thời Trần, bộ máy này là các xã quan (quan lại Nhà nước cử về nắm xã,
chức danh gọi là đại tư xã (quan có phẩm trật từ ngũ phẩm trở lên) và tiểu tư xã
(quan có phẩm trật từ lục phẩm trở xuông).

- Thời Lê, năm Bính Tuất - 1466, bỏ xã quan, cử xã trưởng, mỗi xã có 3 - 5


người, gồm xã chính, xã sử và xã tư, do dân xã bầu từ người của xã đó.

- Thời Nguyễn, năm Mậu Tý, 1828 bỏ xã trưởng, thay bằng lý trưởng (1
người) và 1 - 2 phó lý tùy theo số đinh nam và tùy số thôn (làng) hợp thành. Ngoài
ra, còn có các chức danh giúp việc, gồm hộ lại (phụ trách giấy tờ về hộ tịch, hộ
khẩu), chưởng bạ (phụ trách giấy tờ về ruộng đất), thủ quỹ, trương tuần (hay khán
thủ, hương trưởng, phụ trách việc bảo vệ an ninh).

Các phường hội

Là tổ chức của những người có cùng nghề nghiệp (phường đúc, phường
dệt...) hay vì mục đích tương trợ (phường thóc, phường tiền...), vì mục đích tín
ngưỡng (hội chư bà), hoặc có cùng địa vị xã hội (hội tư văn, hội kỳ anh, hội môn
sinh ...). Trong các phường hội này, hội tư văn tập hợp những người có trình độ
Nho học, có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội và văn hóa của làng.
b . Tự quản bằng các quan hệ xã hội và hương ước
Làng Việt là một phức hợp các quan hệ về giới tính (nam - nữ), huyết thống

23
(dòng họ), địa vực (hay quan hệ láng giềng), tuổi tác (người cao tuổi và người hơn
tuổi), nghề nghiệp (làm ruộng và các nghề thủ công), vị thế xã hội (quan viên và bạch
đinh). Các mối quan hệ này được điều chỉnh bằng hương ước. Phần lớn các làng đều
có bản hương ước riêng, làm công cụ để quản lý đời sống cộng đồng. Hương ước vốn
là những quy ước truyền miệng, nhiều quy ước đã trở thành phong tục của làng về các
mặt đời sống. Đến giữa thế kỷ XV, các quy ước trên được văn bản hóa thành hương
ước; đến năm 1945, hương ước làng Việt đã trải qua hai giai đoạn tồn tại:

Hương ước cổ: viết bằng chữ Hán (đầu thế kỷ XX mới có một số bản viết
bằng chữ Quốc ngữ), ra đời trước tháng 8 - 1921, do các làng tự soạn thảo, do vậy,
chúng đa dạng về tên gọi (khoán ước, tục lệ, điều lệ, điều ước, khoán bạ) và nội
dung, cách thể hiện. Nhìn chung, mỗi bản hương ước gồm các điều khoản liên quan
đến cơ cấu tổ chức và các quan hệ xã hội, bảo vệ sản xuất, gìn giữ môi trường, bảo
vệ an ninh, tổ chức thờ cúng, bảo đảm các nghĩa vụ (sưu thuế, binh dịch) với nhà
nước, nghĩa vụ của mỗi cá nhân thuộc các thành phần xã hội đối với các mặt đời
sống của làng.
Mỗi điều khoản thường gắn với lời khuyên răn, khuyến khích hay cấm đoán,
có khi là các hình thức khen thưởng người có công hay xử phạt người vi phạm (phạt
tiền, bắt bồi thường thiệt hại, đánh đòn, hạ ngôi thứ, tẩy chay quan hệ...).
Hương ước cải lương: ra đời từ cuộc cải lương hương chính vào tháng 8 -
1921 của thực dân Pháp. Văn bản được viết chủ yếu bằng chữ Quốc ngữ, một số
bản viết bằng chữ Hán, chữ Nôm. Mỗi bản hương ước gồm hai phần:

- Phần Chính trị gồm các điều về tổ chức bộ máy quản lý làng xã (hội đồng
tộc biểu, bộ máy chức dịch), việc thu chi ngân sách, giữ gìn an ninh, bảo vệ sản
xuất, khuyến học, vệ sinh...
- Phần Phong tục, gồm các điều về thờ thần, ngôi thứ, cưới xin, tang ma,
khao vọng, theo ý đồ “cải lương hương chính” của người Pháp là “xóa bỏ hủ tục”.
Hương ước là sợi dây nối các tổ chức, là công cụ để điều chỉnh các mối quan
hệ xã hội trong làng, được Nhà nước phong kiến lợi dụng để nắm làng xã. Xã hội
làng Việt trước đây được vận hành và quản lý chủ yếu bằng hương ước. Nói một
cách khác, từ một tri thức dân gian về quản lý cộng đồng, hương ước được “Nhà
nước hóa” để phục vụ cho việc quản lý làng xã (Sơ đồ 3. 2 và 3. 3).

24
Sơ đồ 3.2: Nội dung và tác động của hương ước trong quản lý làng xã
Tác động trực tiếp :
Tác động hệ quả:

25
Sơ đồ 3.3: Sự kết hợp giữa hương ước với các yếu tố khác trong quản lý làng xã
Tác động trực tiếp :
Tác động gián tiếp
3.4.3. Phân hóa xã hội ở người Việt
Xã hội người Việt phân hóa giai cấp từ rất sớm, nhưng không triệt để, thể
hiện ở các mặt:

26
- Sở hữu công cộng về ruộng đất còn tồn tại với các mức khác nhau. Mức
bình quân ở đồng bằng Bắc Bộ đến sát thời điểm cải cách ruộng đất (1955 - 1957)
khoảng 25% (nhiều hay ít hơn tùy vùng, tùy làng, phụ thuộc vào điều kiện tự
nhiên và phương thức khai lập làng). Nhìn chung, các làng ven sông, các làng
được hình thành theo phương thức khai hoang tập thể, ruộng đất công chiếm tuyệt
đối. Ruộng đất công là cơ sở quan trọng để duy trì các hoạt động hành chính và
thờ cúng. Rất nhiều làng còn nhiều ruộng đất công đem chia cho các suất đinh
(hoặc là trai đinh; hoặc là tráng đinh từ 18 - 60 tuổi, tức những người phải chịu
thuế thân).
- Sở hữu tư nhân về ruộng đất nhỏ bé và manh mún, thể hiện tầng lớp có
nhiều ruộng đất nhất (“địa chủ”) chỉ có sở hữu bình quân trên dưới 10 mẫu ruộng,
phân tán ở nhiều xứ đồng, không có tầng lớp nào khống chế được xã hội bằng thế
lực kinh tế của mình mà thường muốn khá giả phải nhờ vào, dựa vào quyền lực
chính trị; nhiều trường hợp có sự liên kết giữa quyền lực chính trị và quyền lực
kinh tế với quan hệ huyết thống để củng cố kinh tế, thông qua hiện tượng “mượn
chân điền” 1.
- Xuất hiện nhiều giai tầng: theo phân định của Cải cách ruộng đất, xã hội
nông thôn gồm 5 thành phần giai cấp. Xen vào giữa hai cặp thành phần đối lập
chính (địa chủ và bần nông thông qua quan hệ làm tô; phú nông và cố nông thông
qua thuê mướn nhân công), còn có tầng lớp trung nông (lớp trên và lớp dưới) độc
lập về kinh tế (không bóc lột ai và không bị ai bóc lột). Song, ranh giới giữa các giai
tầng liền kề rất mờ nhạt và "độ bền" của mỗi giai tầng không ổn định, do cơ sở kinh
tế nhỏ bé và bấp bênh, đời sống chịu nhiều tác động của hủ tục (cưới xin, tang ma,
khao vọng, mua ngôi thứ), cả tệ cờ bạc, kiện cáo ...

- Trong khi vấn đề phân hóa giai cấp không thật sự triệt để thì vấn đề “đẳng
cấp” lại nổi lên. Ngoài sự phân hóa vua - quan - dân về phương diện nhà nước khá
rõ nét, còn có sự phân chia cư dân thành hai tầng lớp (quan viên - bạch đinh) với

1
Mượn chân điền là hiện tượng một người ra tranh chức lý trưởng, phó lý (hoặc các chức
danh khác trong bộ máy chức dịch), nhưng không đủ số ruộng cần có theo quy định
(thường là 3 mẫu). Để dòng họ nắm được các chức đó và củng cố được quyền lực của
mình, anh em ruột thịt phải “hùn” ruộng cho người ra tranh cử (lập văn tự giả bán ruộng
cho người đó) để người đó đủ tiêu chuẩn tranh cử.

27
nhiều bậc khác nhau, được biểu hiện cụ thể ở hệ thống ngôi thứ tại đình làng, dựa
trên tiêu chuẩn về bằng cấp (học vị), phẩm hàm (từ nhất phẩm đến cửu phẩm), chức
tước, tuổi tác, tài sản, thành phần xuất thân. Mỗi vị trí ngôi thứ có quyền lợi riêng
trong họp hành, tế lễ, hưởng phần chia biếu, tùy tập tục từng làng. Ngoài ngôi thứ
chính nhờ các tiêu chuẩn do phấn đấu mà có, còn có ngôi thứ do bỏ tiền ra mua (ngôi
trùm, trưởng, xã nhiêu, lý phó trưởng...) để lấy một cái danh trước dân làng và không
phải chịu phu phen tạp dịch. Hệ thống ngôi thứ này trở thành “trục trung tâm” của đời
sống xã hội từng làng.
3. 5. VĂN HÓA VIỆT

3.5.1.Văn hóa vật thể


3.5.1.1. Ăn, mặc, ở
Truyền thống ẩm thực của người Việt thể hiện ở các đồ ăn, thức uống, phong
cách ăn uống phù hợp với điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội của từng vùng, miền.

Về mặc, nét chung của người Việt ở Bắc Bộ là bộ quần áo nâu (hoặc gụ),
được nhuộm từ loại vải thông dụng nhất cho tầng lớp bình dân là vải sợi bông,
trắng, khổ hẹp (chiều ngang của khổ vải rộng 40 cm); phù hợp với điều kiện thời
tiết luôn nắng và nóng, mồ hôi ra nhiều, lại phải lao động chân tay liên tục, loại vải
này được nhuộm nâu 1 trước khi cắt thành quần áo mặc thường ngày. Nam giới mặc
quần chùng, áo cánh (áo mỏng, dài đến ngang hông, cổ đứng hoặc viền, xẻ nách,
thường có hai túi dưới); nữ giới mặc váy, áo cánh.

Nét độc đáo trong trang phục của người Việt ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ là
bộ quần áo dài của cả nam và nữ. Bộ quần áo dài dành cho nam gồm quần trắng, áo
dài và khăn xếp. Áo dài có hai vạt dài quá gối, cài nút bên phải, thường được may

1
Để nhuộm nâu, củ nâu được rửa sạch đất và các tạp chất, dùng bàn xát hay bàn mài
(mảnh sắt tây có đục các lỗ nhỏ) xát củ nâu trong nồi hoặc chậu nước rồi đem vải ngâm
trong nước đó, trong một vài ngày cho nước nâu ngấm vào vải (khi nhuộm lần đầu, mảnh
vải phải thấm đều nước lã để màu nâu cũng thấm đều, không bị loang lổ). Sau đó đem vải
phơi trên nền rơm (hoặc rạ) để không cho vải trực tiếp tiếp xúc với nền sân gạch (dễ làm
màu nâu bị bay khi tiếp xúc với mặt sân bốc nóng; hoặc vải bị dính đất, chất bẩn ). Hai đầu
mảnh vải khâu thành nẹp để luồn thanh tre vào, cho thuận tiện khi gấp. Mỗi ngày phải
nhuộm 5 - 6 lần và nhuộm trong nhiều ngày liên tục, màu nâu mới ngấm sâu vào vải,
không bị phai, mới đem đi cắt quần áo. Nếu nhuộm ít lần, màu nâu non nhanh bạc màu.
Nhuộm kỹ thì cho màu nâu già hay màu gụ sẫm. Nếu dùng để may váy và áo cho phụ nữ
thì nhuộm thêm vài nước bùn cho vải ngả màu đen.

28
bằng các loại vải gấm (dành cho giới thượng lưu), hoặc sa, the mỏng cho giới trung
lưu. Đây là bộ lễ phục, mang nét trang trọng, nghiêm cẩn và nam tính của người đàn
ông Việt.

Bộ quần áo dài dành cho nữ gồm váy, áo tứ thân, khăn mỏ quạ. Áo dài từ cổ
buông xuống dưới đầu gối chừng 20 cm. Áo có hai vạt trước và vạt sau, không có
khuy. Vạt trước có hai tà (hai thân) tách riêng nhau theo chiều dài. Vạt sau cũng được
chia làm hai, nhưng khâu vào với nhau hình thành một đường dài gọi là sống áo. Bốn
tà áo (tứ thân) tượng trưng cho “tứ thân phụ mẫu”.

Ngoài áo tứ thân, còn có áo ngũ thân lập lĩnh (cổ đứng) cài khuy, che kín
thân hình không để hở áo lót (chỉ hở phần cổ trắng của áo lót). Ngoài tứ thân (bốn
vạt) còn có một vạt con nằm dưới vạt trước chính là thân thứ năm, tượng trưng cho
người mặc áo. Vạt con nối với hai vạt cả nhờ cổ áo có bâu đệm, và khép kín nhờ 5
chiếc khuy tượng trưng cho quan điểm về ngũ thường theo quan điểm Nho giáo và
Ngũ hành của triết học Đông phương. Từ đầu thập niên 1930, chiếc áo ngũ thân được
cải tiến thành áo dài tân thời; ngày nay tiếp tục được cải tiến, hoàn thiện, trở thành
chiếc áo dài của phụ nữ Việt Nam.

Áo dài nam và nữ của người Việt thể hiện tính cách phóng khoáng, tự tại với
thiên nhiên cũng như sự khiêm cung, phong thái nghiêm trang, đĩnh đạc cho người
mặc, đặc biệt tôn thêm vẻ đẹp và duyên dáng của người phụ nữ.

Về ở, nét nổi bật là kết cấu làng và nhà cửa được bố trí hài hòa với khung
cảnh tự nhiên, các yếu tố của điều kiện thiên nhiên (thế đất, thế nước) của từng
vùng: trung du, đồng bằng, ven biển, đồng chiêm, đồng mùa, đồi gò.

Các làng đều có các công trình thờ cúng (gắn với kiến trúc và điêu khắc của
từng thời kỳ) gồm đình, chùa, đền, miếu, văn chỉ, nhà thờ các dòng họ...

Nhìn chung, trước năm 1960, đa số các gia đình trong một làng chỉ có nhà
tranh, vách đất; số nhà ngói, nhà gạch chỉ có một số ít gia đình cùng các công trình
chung của làng, của dòng họ.

3.5.1.2. Các di tích thờ cúng

a. Đình làng

29
Đình là ngôi nhà chung của làng có các chức năng: trung tâm sinh hoạt chính
trị - xã hội, tổ chức các hoạt động văn hóa và nơi thờ vọng thành hoàng.

Thời điểm xuất hiện: chưa xác định rõ. Theo sách Hồng Đức thiện chính thư
(sách chép về các chính sách tốt dưới niên hiệu Hồng Đức, soạn vào thế kỷ XV, bổ
sung vào thế kỷ XVI), có thể cho rằng, đình xuất hiện vào khoảng niên hiệu Hồng
Đức dưới thời Vua Lê Thánh Tông (1470 - 1497) 1.

Tuy nhiên, trong các đình cổ nhất còn lại hiện nay, chỉ còn ngôi đình làng
Ngọc Cục (xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương) dựng năm Giáp
Thìn niên hiệu Hồng Đức (năm 1484), các đình còn lại đều là đình được dựng vào
thời Mạc, như đình Thụy Phiêu (xã Thụy An, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, dựng
năm 1531), đình Lỗ Hạnh (xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, dựng
năm 1576), đình Là (đình chung của 4 làng Phúc Trại, Thọ Ngãi, Mai Sao - Mai
Hồng, La Uyên ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội, 1581), đình Tây Đằng (thị
xã Tây Đằng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, 1583).

Hướng đình, thế đất đình: là nơi đẹp, cao, có long mạch (tả Thanh long, hữu
Bạch hổ, bên trái có rồng, bên phải có hổ).

Về cấu trúc của ngôi đình:

Khởi đầu (thời Lê Sơ và thời Mạc), đình chỉ là nơi tổ chức các sinh hoạt của
dân làng, chưa mang chức năng thờ thần, nên có kết cấu chữ "Nhất", gồm một tòa
nhà 3 gian, hoặc 5 gian chính và hai gian phụ, gọi là “Chái”, tức phía trên có mái
nối xuống 2 (Sơ đồ 3.4).

Gian Gian Gian Gian


Chái Gian giữa Chái
biên biên biên biên

Sơ đồ 3.4: Kết cấu chữ "Nhất" của ngôi đình

1
Điều 319 của sách có nội dung xử phạt những người bỏ bê việc giỗ chạp theo khoán lệ
đối với “Nhà giàu đã bỏ tiền ra làm đình hay dựng công đức làm chùa” (Hồng Đức thiện
chính thư, 1959, tr. 147).
2
Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, hai đầu hồi của đình được xây tường thẳng lên,
ngang với tường ở các gian chính, nên không tạo thành mái, dân gian gọi là “đầu hồi bít
đốc” và do vậy, phần không gian đình ở hai gian cuối cùng không gọi là chái, mà gọi là
“dĩ”.

30
Với tục đặt hậu thần xuất hiện từ cuối thế kỷ XV như ghi chép trong Hồng Đức thiện
chính thư, rất có thể, thành hoàng đã được vào thờ vọng ở đình, song ngai, bài vị được đặt ở
một vị trí riêng, vì thế, cấu trúc chữ “Nhất” của đình bị phá vỡ, phát triển thành các kết cấu
sau:

- Kết cấu chữ "Đinh" (hay Chuôi vồ), gồm đại đình (hay tiền tế) và hậu
cung (phần nối thêm, thường được gọi là chuôi vồ - Sơ đồ 3.5).

Hậu
cung
(chuôi
vồ)

Bái đường (Đại đình, Tiền tế)

Sơ đồ 3.5: Kết cấu chữ "Đinh" hay "Chuôi vồ" của ngôi đình

- Kết cấu chữ “Nhị”, gồm hai tòa song song với nhau; theo hai dạng, tùy theo thế
đất của khuôn viên dựng đình:

Dạng một: có một tòa lớn dựng từ trước làm đại đình, phía sau dựng thêm một tòa
làm hậu cung để thờ thần, thường nhỏ và thướng thấp hơn tòa đại đình (cũng có làng gọi là
tiền tế hoặc bái đường) để hội họp và là nơi xuất phát của các chầu tế lễ (Sơ đồ 3.6).

Hậu cung

Đại đình (Tiền tế, Bái đường)


Sơ đồ 3.6: Kết cấu chữ "Nhị" của ngôi đình
Dạng hai: cũng có một tòa lớn dựng từ trước làm đại đình, phía sau là khu
dân cư hoặc là đường đi, nên phải dựng một tòa nhỏ và thấp hơn ở phía trước. Tòa
cũ vẫn được gọi là đại đình, có bệ cao ở gian giữa để đặt ngai, bài vị của thần), là
nơi dân làng hội họp bàn việc làng; tòa ở phía trước (dựng sau) gọi là tiền tế, là nơi
xuất phát của các chầu tế lễ, hoặc diễn ra các cuộc họp không quan trọng (Sơ đồ
3.7).

31
Đại đình

Tiền tế (Bái đường)


Sơ đồ 3.7: Một dạng khác của kết cấu chữ "Nhị"

Kết cấu chữ “Tam”, gồm ba tòa song song, gọi là đình (hoặc cung), theo thứ tự là
Thượng - Trung - Hạ (Nhất - Nhì - Tam; Trong - Giữa - Ngoài), tùy làng (Sơ đồ 3.8).

Cung (Đình) Thượng (Nhất, Trong)

Cung (Đình) Trung (Nhì, Giữa)

Cung (Đình) Hạ (Tam, Ngoài)

Sơ đồ 3.8: Kết cấu chữ "Tam" của ngôi đình


- Kết cấu chữ “Công”, gồm hậu cung nối với đại đình (hay tiền tế) bằng tòa ống
muống (Sơ đồ 3.9).

Hậu cung

Tòa
ống
muống

Bái đường (Đại đình, Tiền tế)

Sơ đồ 3.9: Kết cấu chữ "Công" của ngôi đình

Ngoài ra, còn có dạng cấu trúc “Tiền Nhất, hậu Đinh”, tức có một tòa tiền
tế ở phía trước, phía sau là hậu cung được xây theo kiểu chữ Đinh (Sơ đồ 3.10).

32
Hậu
cung
(chuôi
vồ)

Đại đình

(Tiền tế, Bái đường)

Sơ đồ 3.10: Kết cấu "Tiền Nhất, hậu Đinh" của ngôi đình

Ở tất cả các dạng cấu trúc, tiếp giáp với tiền tế (hay đại đình) có hai dãy
nhà chạy song song để tạo thành sân đình, gọi là tảo mạc. Thông thường, lấy
hướng đình làm chuẩn, dãy bên trái là tả mạc, dãy bên phải là hữu mạc. Đây là
nơi các giáp ngồi họp và sửa soạn các việc liên quan đến thờ thần. Phía ngoài là
tam quan và hai cửa ngách, là lối đi vào đình. Tam quan chỉ mở vào những ngày
hội, hoặc lễ tiết quan trọng, hoặc khi đón quan trên về làng; còn ngày thường,
đóng lại, dân làng và khách đi vào đình bằng hai cửa ngách (cửa nách).

33
HẬU CUNG

ĐẠI ĐÌNH

TẢO SÂN ĐÌNH TẢO


MẠC MẠC
(HỮU (TẢ
MẠC MẠC)

2 TAM QUAN 1

Sơ đồ 3.11: Tổng thể các bộ phận của một ngôi đình


Ghi chú: 1. Cửa trải (Tả môn); 2 Cửa phải (Hữu môn)
Điêu khắc đình làng: mỗi thời kỳ, triều đại, thậm chí mỗi triều vua, đình
làng có một kiểu kiến trúc gắn với điêu khắc, thể hiện ở kết cấu vì kèo, các mô típ
trang trí, rõ nhất ở con rồng, các hoạt cảnh dân gian.
Đình làng có ý nghĩa và có chức năng quan trọng trong đời sống của dân
làng, thể hiện ở các mặt:
- Đình là kết quả của quá trình phát triển của làng: đình xuất hiện khi làng đã
ổn định về địa vực, dân số, cơ cấu tổ chức, kinh tế, lệ tục (khoảng giữa thế kỷ XV,
vì trong Hồng Đức thiện chính thư có câu “khuyến khích các nhà giàu bỏ tiền ra
dựng đình”).

- Đình là nơi hội họp, trung tâm hành chính, là “bộ mặt” của làng.

34
- Đình là nơi thờ thành hoàng (thờ vọng).
Thành hoàng là một khái niệm gốc Trung Quốc, dùng để chỉ một hình thái thờ
phụng tồn tại phổ biến vào thời Đường (618 - 905), tức thờ vị thần ở con hào bao quanh
các thành cổ thời phong kiến.

Sang đến Việt Nam, ngoài ý nghĩa khởi nguyên ở Trung Quốc, vì đa số cư
dân Việt sống trong các làng, nên thành hoàng đã “hóa thân”, trở thành vị thần
che chở và phù hộ cho dân làng. Có thể phân các loại thành hoàng qua Bảng 3.3.
Bảng 3.3: Các dạng thành hoàng trong làng Việt
Chính thần Tà thần
Có lai lịch rõ ràng, được bộ Lễ soạn thần phả, Lai lịch không rõ ràng, không
vua cấp sắc phong (trong sắc ghi là Đương cảnh được bộ Lễ soạn thần phả, không
thành hoàng, hoặc Bản cảnh thành hoàng) được vua cấp sắc phong
Gồm các loại thần: Là nhân thần, gồm:
- Thiên thần (thần từ trên trời giáng nhập vào - Thần ăn trộm, thần làm nghề hót
làng) phân, thần chết trôi...
- Địa thần (thổ thần, sơn thần) - Nhân vật lịch sử “phản diện”, như
- Thủy thần Sứ quân Nguyễn Siêu hoặc Đông
- Mộc thần Chinh Vương tham gia “Loạn ba
- Nhân thần gồm: vương”, khi Lý Thái Tổ băng hà
+ Các vua, các tướng lĩnh có công đánh giặc (năm 1028)
giữ nước
+ Những người khai lập làng (tiên công, tiền
hiền)
+ Người truyền nghề thủ công cho làng
+Người dạy học đầu tiên, mở đường khoa cử
cho làng
Sắc phong là Thượng đẳng thần hoặcTrung đẳng
Không được phong sắc
thần 1
- Đình là nơi tổ chức các sinh hoạt văn hóa - xã hội mang tính “đẳng cấp”
của làng, thể hiện qua hệ thống ngôi thứ, cả khi hội họp, khi tế lễ...
- Đình phản ánh sự can thiệp của Nhà nước phong kiến vào làng, thể hiện
ở hệ thống thần, hệ thống ngôi thứ và các mảng điêu khắc, rõ nhất là hình ảnh
con rồng ở nóc đình, ở cửa võng tại gian giữa và vị trí của các mảng điêu khắc

1
Trong các vị thần được thờ có cả những vị thần rất bình thường, được các làng khai lên
để được cấp sắc phong (như hiện tượng Bà Chúa Kho, Bà Chúa Hến). Một số thành hoàng
là nhân vật phản diện (như Triệu Đà, Cao Biền) vẫn được nhà nước phong kiến cấp sắc
phong.

35
dân gian ở các gian bên.
- Đình phản ánh các đặc điểm tín ngưỡng, sinh hoạt văn hóa, hội hè, phong
tục của dân làng (tín ngưỡng đa thần, thờ tổ tiên, tục đặt hậu, tục công đức...).
- Đình phản ánh lịch sử dựng nước và giữ nước của người Việt, thể hiện hầu
hết các vị thần là người có công xây dựng xóm làng, các tướng lĩnh có công đánh
giặc giữ nước.

- Đình là kết tinh của tinh thần cộng đồng làng xã, thể hiện ở quan niệm về
hướng đình, việc dân làng tích cực tham gia đóng góp xây dựng, tu bổ đình.

- Đình phản ánh khát vọng của người nông dân, nhất là của phụ nữ muốn
thoát những khỏi ràng buộc ngặt nghèo của lễ giáo phong kiến, thể hiện ở các mảng
điêu khắc dân gian như người cưỡi rồng (rồng là biểu tượng quyền lực nhà vua),
phụ nữ tốc váy cuỡi rồng, trai gái ôm nhau tình tự ...

- Đình chứa đựng nguồn tài liệu Hán Nôm rất phong phú (gia phả, bia,
chuông, khánh, thần phả, hương ước, địa bạ, đinh bạ, sổ hàng giáp...) để tìm hiểu
các mặt của làng cổ truyền.

Như vậy, đình là yếu tố vật chất lớn nhất, quan trọng nhất trong đời sống của
làng và trong văn hóa làng.

b. Miếu, đền, nghè, am, quán


Đến nay, vẫn chưa có một sự phân biệt rõ ràng nội hàm của các khái niệm
này, tạm phân biệt như sau:

- Miếu: là một ngôi nhà thấp nhỏ, kiến trúc đơn giản, thường không có các mảng
điêu khắc; là nơi thờ thần, song có khi chỉ là nơi thờ những người, những hiện tượng bình
thường nhưng “thiêng”.

- Đền: có quy mô to, cao hơn miếu, kiến trúc phức tạp hơn, các mảng điêu khắc
rõ nét hơn; chức năng thờ cúng giống như miếu.

- Quán: vốn là kiến trúc của Đạo giáo, về sau biến thành nơi thờ thần.

- Am: vốn là ngôi nhà tranh để thờ Phật, về sau biến thành nơi thờ thần.

- Nghè: không phân biệt rõ nội hàm.

36
Với tư cách là nơi thờ thành hoàng, miếu, đền, nghè, quán, am là nơi thần
linh thành hoàng (ngự) trú ngụ, gắn với các sự kiện được ghi trong thần phả: là nơi
sinh, nhà ở, nơi hóa hoặc hy sinh, nơi đóng quân, nơi bày chiến trận, nơi dạy học...
của thành hoàng.

c. Chùa
Chùa Việt ở Bắc Bộ xuất hiện từ sớm, gắn với sự du nhập của Đạo Phật vào
nước ta.

Mỗi ngôi chùa thường có hai tên:

- Tên thường: gắn với tên làng (tên chữ, tên Nôm), như chùa làng Cót, chùa
Yên Quyết; hoặc chỉ một đặc điểm nào đó của chùa, như chùa Cả (chùa lớn nhất,
chùa chính của làng), chùa Trong, chùa Ngoài, chùa Trên, chùa Dưới, chùa Đồng
(ở ngoài đồng), chùa Bãi (ở ngoài bãi) …

- Tên chữ: gắn với chữ “tự”, như Phúc Lâm tự, Bảo Tháp tự, Linh Khánh tự,
Hoa Nghiêm tự...

Các chùa có tên chữ gắn với chữ “Diên” (Diên Phúc tự, Diên Hựu tự, Diên
Khánh tự...) thường là chùa được dựng vào thời Lý (1009 - 1225).

Về cấu trúc, chùa cũng có các dạng cấu trúc như đình, song các bộ phận
của chùa được gọi khác với ở đình, như kết cấu chữ “Đinh” hay “Chuôi vồ”, kết
cấu chữ “Nhị”; kết cấu chữ “Công”,; kết cấu chữ “Tam”, kết cấu “Nội Công
ngoại Quốc”, vốn là ngôi chùa chữ “Công”, về sau được xây thêm các công trình
bao quanh (xem các (Sơ đồ 3.12) - Sơ đồ 3.16).

Phật
điện

Tiền đường hay Bái đường

Sơ đồ 3.12: Kết cấu chữ "Đinh" hay "Chuôi vồ" của ngôi chùa

37
Thượng điện (Phật điện)

Bái đường (Tiền đường)

Sơ đồ 3.13: Kết cấu chữ “Nhị” của ngôi chùa

Thượng điện (Phật điện)

Thiêu

hương

Tiền đường (Bái đường)

Sơ đồ 3.14: Kết cấu chữ "Công" của ngôi chùa

Thượng điện

Thiêu hương

Tiền đường

Sơ đồ 3.15: Kết cấu chữ "Tam" của ngôi chùa

Sơ đồ 3.16: Kết cấu “Nội Công ngoại Quốc" của ngôi chùa

38
Một số chùa vốn là quán của Đạo giáo chuyển thành (chùa Sổ ở làng Ước
Lễ, huyện Thanh Oai, Thành phố Hà Nội). Nhiều làng, chùa hợp với đình hoặc đền
trở thành kết cấu “Tiền thần hậu Phật”, hay “Tiền Phật hậu thánh”. Đặc biệt, chùa
Cảm ứng (làng Tam Sơn, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh) còn thay đình thờ thành
hoàng, thờ sơn thần, thần nông nghiệp, tổ các dòng họ khai làng.
Hệ thống tượng trong chùa lúc đầu đơn giản, về sau phức tạp dần, do tiếp thu
nhiều yếu tố của các tín ngưỡng tôn giáo khác. Sơ đồ 3.17 là bố trí phổ biến hệ
thống tượng trong một ngôi chùa.
Cũng như đình, chùa có một vị trí quan trọng trong đời sống làng Việt.
- Trước hết, chùa là nơi sinh hoạt tín ngưỡng, đáp ứng được yêu cầu về đời sống
tâm linh của một bộ phận đông đảo dân làng (chủ yếu là phụ nữ, nhất là những người ở
tuổi về già).
- Chùa phản ánh sự du nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam, sự kết
hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng dân gian và các tôn giáo khác.
- Kiến trúc, điêu khắc chùa, điêu khắc tượng không chỉ có giá trị nghệ thuật mà còn
thể hiện tư tưởng của các thời kỳ.
- Chùa phản ánh cơ cấu tổ chức, phong tục tập quán làng xã, phân tầng xã hội, thể
hiện qua tục đặt hậu, tục công đức được ghi trong văn bia, chuông khánh.

d. Văn từ, văn chỉ


Đây là di tích thờ Khổng Tử - người sáng lập ra Đạo Nho, 72 học trò của ông, cùng
Chu Văn An - bậc thầy về Nho giáo và Nho học ở Việt Nam và những người đỗ đạt của
làng. Trước thời Nguyễn, di tích này gọi là văn từ, hay từ chỉ; sang thời Nguyễn thường
gọi là văn chỉ.

Văn từ, văn chỉ thường được dựng ở đầu làng hoặc giữa làng, trên một doi
đất gồm các bộ phận (hoặc xung quanh có các gò đống thiêng) theo quan niệm
phong thủy tượng trưng cho việc học hành, đỗ đạt; chẳng hạn, gò Bút, gò
Nghiên, gò Thần đăng, gò Bảng...

39
TAM THẾ

A NAN THẾ QUAN QUAN ÂM


Tiểu ADI ĐÀ Ngọc Kim
Bà la ĐÀ CHÍ ÂM TỐNG TỬ
sát diện nữ đồng

THẾ TÔN
A NAN CA
ĐÀ DIẾP

BỒ ĐỀ ĐẠT ĐỊA TẠNG


MA PHỔ DI LẶC VĂN
HIỀN THÙ

TƯỢNG
NÁT BÀN

1 10
Ngọc Hoàng Đế Thích
2 11
Ph
ật
3 12
Thích ca Cửu Long

4 13
1 2 CÁC
CÁC
CÁC
TƯỢNG 5 TỨ BỒ TÁT TƯỢNG
CÁC
14
TƯỢNG LA
TƯỢNG
LA 3 4
HÁN
LA
HÁN 6 15 LA
HÁN Hương án HÁN
7 16

8 17

9 (Chỗ ngồi của sư) 18

HỘ HỘ
Thổ địa Chuông Mõ Giám trai
PHÁP PHÁP

TẦN BIẾN
QUẢNG THÀNH

Thổ THÁI
địa
SỞ (Đức
ông)
GIANG (đứcSƠN
ông)
TỐNG Các tượng BÌNH
Các tượng Diêm Vương
ĐỀ ĐẲNG
Diêm Vương

Thổ
NGŨ địa ĐÔ THỊ
QUAN
(đức
ông)
DIÊM NGŨ
LA 40 ĐẠO
Sơ đồ 3.17: Hệ thống tượng phổ biến của một ngôi chùa Việt

Có ý kiến cho rằng, văn chỉ là di tích để lộ thiên, nếu có nhà lợp mái thì gọi là văn
từ (cấu trúc chữ “Nhị”, chữ “Tam” hoặc “Chuôi vồ” như các di tích khác). Văn chỉ lộ thiên
thường có tấm bia trụ “Tiên hiền tọa” (nơi đây thần linh các vị tiên hiền ngụ) gắn với bệ thờ
hoặc bát hương ở chính giữa. Nếu là văn từ thì có ban ở trong hậu cung. Cả di tích có nhà
hoặc lộ thiên đều có các tấm bia ghi họ tên, học vị, khoa đỗ, chức quan của những người đỗ
đại khoa, trung khoa, tiểu khoa, tùy theo mức độ đỗ đạt của làng (xem giải thích các bậc học
vị của khoa cử Nho học ở tiểu mục 3.5.2.5. Về giáo dục và Bảng 3. 4).

Nhìn chung, các làng chỉ thờ tại văn chỉ những người học hành, đỗ đạt, gọi
là thờ thanh lưu. Tuy nhiên, một số làng học hành, đỗ đạt kém nên thờ cả những
người có công khai lập hoặc đóng góp lớn xây dựng làng xã, dù họ không có học
vấn cao, tục gọi là thờ tạp lưu.
Ngoài văn từ, văn chỉ của làng, còn có văn từ, văn chỉ hàng tổng; văn từ,
văn chỉ hàng huyện, hàng phủ; ở tỉnh và Kinh đô thì gọi là văn miếu.
Tại văn từ, văn chỉ làng cũng như văn từ, văn chỉ hàng tổng, hàng huyện...,
vào các ngày Đinh của tháng Hai và tháng Tám, hội Tư văn của làng (tổng,
huyện, phủ) tổ chức Xuân tế và Thu tế để tôn vinh Khổng Tử, Chu Văn An và các
vị tiên hiền (đỗ đạt) của làng; đồng thời cầu mong cho làng có thêm nhiều người
đỗ đạt.
Văn chỉ có vị trí, giá trị và ý nghĩa quan trọng đối với đời sống của dân làng.
- Trước hết, văn chỉ phản ánh truyền thống học hành, thành đạt của làng
(nhìn vào các tấm bia ghi tên những người đỗ đạt, biết được làng đó học hành, đỗ
đạt ra sao).
- Văn chỉ phản ánh sự xâm nhập của Nho giáo và Nho học vào đời sống làng
xã; đề cao tinh thần hiếu học, khuyến học, đề cao đạo đức Nho giáo.

Văn chỉ cùng với bia, gia phả... là nguồn tài liệu quan trọng để tìm hiểu về
làng xã, về khoa cử và về các danh nhân khoa bảng; tìm hiểu sự phát triển của làng
xã, các dòng họ trong làng.

41
e. Nhà thờ các dòng họ, các danh nhân
Trong làng còn có nhà thờ của các dòng họ, có nguồn gốc như sau:
- Vốn là nhà ở (gắn với vườn) của đời đầu tiên và một đời nào đó về sau, khi
dòng họ đó phát triển đông đúc, có nhiều người thành đạt, con cháu lấy nhà đó làm nơi
thờ tổ tiên.
- Hoặc được dựng về sau, khi con cháu trong họ đông đúc, phát đạt, góp tiền của
để dựng nhà thờ tổ.
Nhà thờ họ (cùng với ruộng họ) thường giao cho ngành trưởng quản lý, là của
hương hỏa nên không được bán; thậm chí còn được bổ sung, mở rộng theo thời gian,
nếu dòng họ có nhiều người làm quan, đỗ đạt, hoặc phát đạt về kinh tế.
Ngoài nhà thờ họ, những dòng họ lớn, phát đạt còn có nhà thờ của các chi họ.
Một số dòng họ khoa bảng có nhiều người làm quan trong triều, có dinh thự riêng ở
làng. Sau khi người đó mất, ngôi nhà đó trở thành nơi thờ.
Nhà thờ các dòng họ, các nhân vật có những giá trị cơ bản sau:
- Phản ánh một phần sự phát triển của làng xã, các dòng họ trong làng.

- Phản ánh truyền thống học hành thành đạt của làng.
- Là tư liệu quan trọng để tìm hiểu về làng xã, các danh nhân, lịch sử
đất nước (nhiều sự kiện liên quan đến lịch sử đất nước, đến các nhân vật lịch
sử này không được ghi trong chính sử, song lại được ghi chép rất rõ trong văn
bia, gia phả lưu trong nhà thờ).
3.5.2. Các yếu tố phi vật thể
3.5.2.1. Các phong tục tập quán và các lễ tiết trong năm
a. Khái niệm
Trong Dân tộc học, cần phân biệt một số khái niệm cơ bản: tập quán, phong tục,
luật tục, lệ làng, lệ tục, hương ước.

Tập quán là thói quen của một cộng đồng người đối với một mặt nào đó
của đời sống, thường liên quan đến sản xuất và văn hóa vật chất (tập quán sản
xuất, tập quán ăn uống...). Tập quán dễ thay đổi khi điều kiện sống thay đổi.
Phong tục là thói quen của một cộng đồng người đối với một mặt nào đó của

42
đời sống xã hội và tinh thần (phong tục cưới xin, tang ma...); hay phong tục là những
tập quán về phương diện xã hội. Phong tục có tính bảo thủ hơn so với tập quán, ít
thay đổi hay chậm thay đổi khi điều kiện sống đã thay đổi.
Luật tục (thường chỉ có ở một số tộc người thiểu số, tồn tại dưới dạng chữ
viết (Luật tục Thái), hay dưới dạng văn vần, truyền miệng (luật tục Ê - đê...) là
những phong tục có dáng dấp của pháp luật (có xử phạt và có chế tài); hay luật tục
là trung gian giữa phong tục và pháp luật. Có nhà nghiên cứu cho rằng đó là hình
thức sơ khai của pháp luật.
Lệ tục là phong tục được biểu hiện bằng các lệ cụ thể, thường theo từng làng
nên còn gọi là Lệ làng. Chẳng hạn, phong tục của người Việt khi cưới nhau phải
nộp cheo, tùy từng làng, cheo đó sẽ bằng nộp gạch để lát đường đi, nộp mâm đồng
để làng dùng khi có cỗ bàn trong đình, có khi lại bằng tiền hoặc một cỗ xôi gà..., với
số lượng cụ thể khác nhau.

Lệ tục (hay lệ làng) lúc đầu được truyền miệng; đến giữa thế kỷ XV được
văn bản hóa, gọi là hương ước (hay khoán ước).
Một số nhà nghiên cứu thường đồng nhất hương ước với luật tục là không
chuẩn xác, vì hương ước được viết bằng chữ Hán (hoặc chữ Việt), chỉ có giá trị đối
với từng cộng đồng làng của người Việt và làng chỉ có quyền xử phạt (bằng bắt bồi
thường thiệt hại, đánh đòn, hạ vị trí ngôi thứ...) đối với một số hành vi vi phạm nếp
sống cộng đồng; ngoài các hành vi đó, làng phải nhường quyền cho luật pháp nhà
nước. Trong khi đó, luật tục các tộc người thiểu số thường được cố định bằng văn
vần, có phạm vi điều chỉnh ở một vùng rộng lớn (nhiều làng) và từng cộng đồng
buôn làng có toàn quyền xử lý các hành vi vi phạm, kể cả hình phạt tử hình, không
có sự can thiệp của luật nước.
b. Các dạng thức của phong tục tập quán
Phong tục của người Việt thể hiện trong cưới xin, tang ma, khao vọng, các lễ tiết
trong năm; biểu hiện rõ nét ở từng vùng, miền, thậm chí ở từng làng cụ thể.

Trong một năm, người Việt có nhiều lễ tiết, như tết Nguyên đán, tết mồng 3
tháng Ba (tết Bánh trôi bánh chay), tết mồng 5 tháng Năm (tết Đoan ngọ, hay tết
Giết sâu bọ), tết Rằm tháng Bảy, Rằm tháng Tám (Trung thu), tết mồng 10 tháng

43
Mười (tết Trùng thập), tết 23 tháng Chạp (cúng Thần bếp). Mỗi Tết có một ý nghĩa
riêng (tham khảo Việt Nam phong tục của Phan Kế Bính). Một bộ phận lớn các lễ
tiết này có nguồn gốc Việt Nam nhưng từ lâu đã bị khoác lên một vỏ ngoài Trung
Quốc (ví dụ điển hình tết 23 tháng Chạp bị gán là “tết ông Công ông Táo” thực chất
là lễ cúng thần bếp, liên quan đến tục thờ lửa và thờ mẫu, tôn vinh phụ nữ). Cần có
nhận thức đúng để có cách ứng xử đúng với các lễ tiết này.
3.5.2.2. Các hính thái tín ngưỡng
Đặc trưng nổi bật trong tín ngưỡng và tôn giáo của người Việt là có sự kết
hợp chặt chẽ giữa nhiều hình thái tín ngưỡng, như thờ tổ tiên, thờ thần nông nghiệp,
thờ thành hoàng, thờ Đức Thánh, thờ Mẫu, thờ thần tài, thờ thổ công... (xem mục
3.6. Phụ lục) với các tôn giáo thế giới (Nho - Phật - Đạo). Nho giáo vốn là một học
thuyết về luân lý và trật tự xã hội, được tôn sùng như một tôn giáo. Phật giáo - một
tôn giáo từ Ấn Độ du nhập vào Việt Nam, chủ trương khuyên người ta chân tu để
được đắc đạo (lên cõi Phật - Niết bàn). Đạo giáo - một tôn giáo có nguồn gốc từ
Trung Quốc, chủ trương tu luyện để được lên cõi tiên. Các nhà nghiên cứu gọi là
hiện tượng này là “Tam giáo đồng tôn” hay “Tam giáo đồng nguyên”, thường thấy
qua hệ thống tượng trong các di tích, qua đám tang...
3.5.2.3. Các lễ thức thờ cúng và hội làng
a. Khái niệm
Trước đây, cha ông ta chỉ dùng khái niệm “Hội” (hội Lim, hội Gióng, hội
Cổ Loa...), không gọi “lễ hội Lim, lễ hội Gióng...”. Khái niệm “Lễ hội” mới xuất
hiện vào những năm 1982 - 1983 và khái niệm này không chuẩn, vì trong hội bao
giờ cũng có phần lễ.
Hội của các làng Việt gắn với việc thờ thành hoàng, thường được tổ chức
vào các dịp kỷ niệm ngày sinh (dân gian thường gọi là thánh đản), ngày hóa của
thần (thánh húy); hay ngày khánh hạ (ngày thành hoàng thắng trận, được khao
thưởng...), hoặc ngày thành hoàng giáng nhập (nếu là thiên thần)... Các hội đều
phân thành hội lệ (tổ chức vào những năm mùa màng bình thường hoặc không
được mùa, chỉ có tế lễ, không có đám rước, hoặc các trò diễn mang tính quy mô)

44
và đại đám (tổ chức vào những năm phong đăng hòa cốc hay thật sự được mùa,
ngoài tế lễ, có đám rước và các trò diễn mang tính quy mô). Những năm mất mùa
chỉ làm một lễ nhỏ kính cáo với thành hoàng (“bao sái”).
b. Phân loại hội
Phân theo nơi tổ chức có hội đình (chiếm đa số), hội chùa và hội đền.

Phân theo quy mô, chiếm phần lớn là hội làng (do từng làng tổ chức hay chỉ
diễn ra trong phạm vi làng); một số hội mang tính liên làng (liên kết của nhiều làng
có quan hệ thân thuộc về lịch sử, điều kiện địa lý và văn hóa, thường là các làng thờ
chung thành hoàng, từng chung đình, hoặc vốn từ một làng tách ra); một số ít là hội
vùng (hội của một vùng rộng lớn), chẳng hạn hội Lim, hội Gióng, hội Cổ Loa... Hội
Đền Hùng là hội có tính chất quốc gia.

Phân theo nội dung, có các loại hình hội:


- Hội nông nghiệp: diễn trình các lễ thức, các sản phẩm nông nghiệp với
mục đích cầu mùa; trong đó yếu tố “phồn thực” nổi lên rất rõ, song việc thực hiện
các lễ thức phồn thực chỉ mang tính tượng trưng, chẳng hạn, hội Trò Trám ở Tứ Xã,
huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.

- Hội cầu ngư của cư dân ngư nghiệp, gắn với đua thuyền, mục đích để cầu
trời yên biển lặng, ngư dân ra khơi đánh cá được an toàn, thu được nhiều cá.
- Hội làng nghề của các làng làm các nghề thủ công, mục đích để tưởng
nhiệm tổ nghề, thi diễn các công đoạn của nghề.
- Hội lịch sử: hội diễn lại các sự tích, sự kiện lịch sử, chẳng hạn, hội Gióng,
hội Cổ Loa.
- Hội văn nghệ giao duyên: hội có các cuộc thi hát văn nghệ, như hội Lim
(huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh), hội hát Đúm ở các làng xã thuộc huyện Thủy
Nguyên (thành phố Hải Phòng).

c. Diễn trình hội vào năm đại đám


Hàng năm, căn cứ vào được mùa hay mất mùa, hội đồng kỳ mục cùng đại
diện các giáp bàn và quyết định việc tổ chức hội. Nếu năm đó thật “phong đăng
hòa cốc” (được mùa), làng mở hội lớn (gọi là vào đám) với các công đoạn sau:

45
- Chuẩn bị hội: làng trang hoàng lại đình, chùa, đền miếu; các xóm, các
giáp dọn dẹp đường làng ngõ xóm cho xóm làng phong quang.
- Lễ rước nước: tổ chức rước nước ở một giếng thiêng của làng (các làng ven
sông lấy nước ở giữa sông). Nước này dùng để làm lễ mộc dục và để làm lễ thần
suốt năm.
- Lễ mộc dục: thay quần áo cho tượng thần, lau rửa bài vị thần, đồ thờ trong
đình, đền.
- Tổ chức biện lễ: trước Cách mạng Tháng Tám 1945, việc sửa lễ thờ thần
trong các ngày hội chủ yếu giao cho các giáp. Mỗi năm có một giáp đăng cai (hay
đương cai) chịu trách nhiệm chính việc sửa lễ, phục vụ tế lễ, đám rước. Các giáp lại
phân cho các thành viên theo lượt. Các giáp dành một số ruộng công (của làng chia
cho và của giáp) để trợ giúp những người gánh trách nhiệm sửa lễ (người nuôi lợn
thờ, thổi xôi thờ, làm bánh thờ...).
- Đám rước nghinh: rước kiệu không từ đình về đền (miếu, quán, am) - nơi
thần linh thành hoàng ngụ để rước tượng hoặc bát hương, hoặc sắc phong về đình -
như là hình thức đón thành hoàng về đình dự hội với dân làng.
- Tế lễ, gồm tế nghinh (đón thần tại đình) và các chầu tế khác.
- Các trò diễn diễn lại các tích của thành hoàng làng; gắn với các trò chơi, các
cuộc thi tài giữa các giáp; các cuộc vui hát văn nghệ. Nhiều làng có tục đọc Mục lục
hoặc thi đọc Mục lục - là bài văn vần ca ngợi cảnh đẹp, đề cao những truyên thống tốt
đẹp của dân làng, khuyên răn mọi người ăn ở hòa thuận.

- Tế giã (chầu tế kết thúc hội) và rước giã hay rước hoàn cung (rước tượng, bài vị,
sắc phong về đền hoặc miếu), kết thúc hội.

d. Đặc điểm của lễ hội

Hội có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong đời sống người nông dân và làng
Việt.

Trước hết, hội là một công đoạn của chu kỳ sản xuất nông nghiệp, kết thúc một
chu kỳ sản xuất cũ, mở đầu một chu kỳ mới.

Hội đáp ứng yêu cầu đời sống tâm linh, thưởng thức các giá trị văn hóa và
giao lưu văn hóa - xã hội cho người nông dân sau một chu kỳ sản xuất.

46
Hội phản ánh đặc điểm tín ngưỡng, phong tục tập quán, sự phân tầng xã hội
trong làng xã (vai vế trong tế lễ, đám rước, chia phần biếu).

Hội phản ánh ước vọng của cư dân nông nghiệp (mưa thuận gió hòa, phong
đăng hòa cốc, đông con nhiều cháu...), thể hiện ở lời cầu chúc trong văn tế “Nhân
khang vật thịnh”.

Hội phản ánh lịch sử dựng nước đi liền với giữ nước, lịch sử hình thành và
phát triển của làng xã (hầu hết các vị thành hoàng được tôn vinh trong hội là các
tướng lĩnh có công đánh giặc giữ nước, người khai lập làng, người truyền nghề hay
mở đường học hành, khoa cử cho làng).

Cùng với đình làng, hội là kết tinh của tinh thần cộng đồng làng xã (thể hiện
ở mọi người cùng lo việc hội, cùng thưởng thức hội). Hội là yếu tố phi vật thể lớn
nhất trong văn hóa làng, góp phần làm phong phú văn hóa làng xã (yếu tố vật thể
lớn nhất là đình làng).

3.5.2.4. Vốn văn nghệ dân gian làng xã

Tính phong phú và độc đáo về văn hóa của người Việt thể hiện ở nền văn
học. Trước hết là nguồn văn học dân gian (các loại truyện cổ tích, truyện thần thoại,
vốn tục ngữ, ca dao, ngạn ngữ, câu đố mang tính đặc trưng của từng vùng, miền).
Bên cạnh đó, nền văn học bác học cũng rất phát triển với nhiều tác phẩm (văn, thơ)
viết bằng chữ Hán, chữ Nôm (từ giữa thế kỷ XIX trở đi xuất hiện các tác phẩm viết
bằng chữ Quốc ngữ).

Tính độc đáo trong văn hóa dân gian Việt còn thể hiện ở các loại hình dân ca
gắn với các hình thức diễn xướng, loại hình nghệ thuật biểu diễn, như Dân ca Quan
họ Bắc Ninh, Ca trù, Hát Xoan, Dân ca Ví Giặm Nghệ Tĩnh...

3.5.2.5. Về giáo dục

Người Việt sớm hình thành nền giáo dục dân gian, từ trong gia đình, dòng họ
và làng xã, nhằm trao truyền các kỹ năng lao động, các kinh nghiệm sản xuất dựa
trên những nhận biết mang tính quy luật về sự biến chuyển của thời tiết, khí hậu
từng mùa, sự thích ứng của các loại cây trồng với các điều kiện của thổ nhưỡng,
nước và khí hậu. Nền giáo dục dân gian còn chú trọng dạy con người từ tấm bé
nhận biết để có một thái độ ứng xử đúng với các mối quan hệ trong làng (quan hệ
nam nữ, quan hệ huyết thống, quan hệ tuổi tác, quan hệ làm ăn...) nhằm duy trì tôn

47
ty trật tự từ trong gia đình ra ngoài làng, duy trì các phong tục tập quán, các sinh
hoạt văn hóa, tín ngưỡng.

Đầu Công nguyên, người Việt tiếp thu nền giáo dục Phật giáo vì giáo lý của đạo
này tương đối hòa đồng với tư tưởng, các quan niệm về đạo đức, lệ tục, tín ngưỡng dân
gian. Cũng từ đầu Công nguyên, người Việt tiếp thu chữ Hán của người Trung Quốc,
dùng làm phương tiện chủ yếu để dịch kinh, in sách Phật. Về sau, một số người Việt có
học lực khá, thi đỗ cao có tiếng vang sang cả Trung Quốc, như Trương Trọng, Lý Tiến,
Lý Cầm; đời nhà Đường có Khương Công Phụ đỗ trạng nguyên, được giao chức vụ cao
trong triều đình phong kiến Trung Quốc.

Sau khi giành quyền tự chủ (đầu thế kỷ X), yêu cầu xây dựng một Nhà nước
vững mạnh theo mô hình thể chế chính trị - xã hội dựa trên ý thức hệ Nho giáo của
Trung Quốc để đủ sức đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ nền độc lập của quốc gia
đặt ra cấp thiết đã thúc đẩy nền giáo dục và khoa cử Nho học. Năm Canh Tuất,
1070, nhà Lý cho lập Văn Miếu để thờ Khổng Tử. Năm Bính Thìn, 1076, Quốc Tử
Giám được thành lập để làm nơi học tập của Hoàng thái tử (con vua), về sau là cả
con em quan lại cao cấp và con em dân thường có trình độ học lực khá. Năm Ất
Mão, 1075, nhà Lý mở khoa thi Nho học đầu tiên - khoa Minh Kinh bác học và Nho
học tam trường. Từ đó, các quy chế về khoa cử ngày càng được bổ sung và hoàn
thiện, các kỳ thi Nho học được tổ chức đều đặn để chọn lọc người tài. Theo các
sách Đăng khoa lục, từ khoa thi đầu tiên (năm Ất Mão đời Vua Lý Nhân Tông,
1075) đến khoa cuối cùng (năm Kỷ Mùi đời Vua Khải Định, 1919), có 184 khoa thi
Hội và thi Đình được tổ chức, lấy đỗ 2.889 người (trong đó có một số người đỗ hai
lần), gồm 46 trạng nguyên, 48 bảng nhãn, 75 thám hoa, 66 người thuộc hạng nhất
giáp và nhị giáp tiến sĩ, 598 hoàng giáp, 1.793 đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân,
263 phó bảng (xem Bảng 3.4 về các kỳ thi và các bậc học vị). Đây là nguồn bổ sung
quan trọng và chính yếu nhất cho đội ngũ quan lại các cấp. Rất nhiều người trong số
họ sau khi thi đỗ đã đem hết tài năng, đức độ đóng góp xây dựng triều chính và đất
nước. Nhiều người là danh nhân văn hóa, trở thành niềm tự hào và là “biểu tượng”
không chỉ của làng quê họ mà còn của một vùng quê rộng lớn.

Văn hóa Việt có sức lan tỏa ảnh hưởng lớn đến các tộc người khác, nhưng văn hóa
Việt cũng tiếp thu nhiều yếu tố văn hóa của nhiều tộc người khác. Nét nổi bật nhất trong
văn hóa ứng xử của người Việt là thích ứng, thích nghi rất cao với điều kiện sống, với hoàn

48
cảnh mới, trước môi trường sống mới. Đến với bất kỳ môi trường nào, người Việt cũng dễ
dàng, nhanh chóng thích nghi và hòa đồng với cư dân sở tại, từ đó, tạo ra những nét mới
trong văn hóa, trên cơ sở "nguyên mẫu" ban đầu. Các sắc thái văn hóa Việt ở Trung Bộ và
Nam Bộ cho thấy điều đó.

3.6. PHỤ LỤC BÀI

3.6.1. Một số hình thái tín ngưỡng của người Việt ở Bắc Bộ

3.6.1.1. Thờ thổ công


Người Việt quan niệm, thổ công là vị thần cai quản, trông nom trong nhà, quyết định
sự họa phúc cho gia đình, ngăn cản các hồn, ma, quỷ xâm nhập để quấy nhiễu trong
gia đình, nên thường gọi là Đệ nhất gia chi chủ.

Bàn thờ thổ công thường đặt ở gian bên cạnh bàn thờ tổ tiên; các gia đình không lập
bàn thờ tổ tiên (chẳng hạn, con thứ đã ra ở riêng nhưng bố mẹ còn sống) thì có thể
đặt bàn thờ thổ công ở gian chính giữa. Tùy điều kiện nhà cửa của gia đình mà bố trí
bàn thờ, có khi chỉ là bát hương thổ công. Gia đình có điều kiện, trên ban thờ có đủ
mâm, đài rượu, bài vị (có khi được thay bằng 1 mũ đàn bà ở chính giữa, 2 mũ đàn
ông ở hai bên, bát hương (hoặc đỉnh trầm).

Bàn thờ thổ công gồm 3 vị:

- Bản gia Đông trù tư mệnh Táo phủ thần quân (thổ công, trông coi việc bếp núc).

- Bản gia Thổ địa Long mạch tôn thần (thổ địa, trông coi việc nhà cửa).

- Bản gia Ngũ phương ngũ thế phúc đức chính thần (thổ kỳ, trông coi việc chợ búa
cho phụ nữ, hoặc việc sinh sản các vật ở vườn đất).

Mũ thổ công: gồm 1 mũ đàn bà (không có cánh chuồn), 2 mũ đàn ông (có cánh
chuồn). Mỗi mũ kèm theo 1 chiếc áo và 1 đôi hia, dưới mũ đặt 100 đồng vàng thoi.
Mũ, áo, hia mỗi năm một màu, phù hợp với ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ).
Hành Kim (màu vàng), hành Mộc (màu trắng), hành Thủy (màu xanh), hành Hỏa
(màu đỏ), hành Thổ (màu đen).

Cúng thổ công vào ngày Sóc (ngày mồng một), Vọng (ngày Rằm) hàng tháng, 23 tháng
Chạp. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, ngày 23 tháng Chạp là ngày cúng thần lửa, thần
bếp để tôn vinh người phụ nữ đã phát hiện ra lửa từ thời nguyên thủy.

49
3.6.1.2. Thờ tiền chủ

Tiền chủ là chủ của ngôi nhà đã ở đầu tiên cho đến lúc chết. Sau đó, ngôi nhà
qua nhiều chủ khác, nhưng tại cõi âm, người tiền chủ vẫn nhớ ngôi nhà cũ nên thỉnh
thoảng về thăm nom. Vì thế, các chủ sau không muốn bị vong hồn người tiền chủ quấy
rối phải lập bàn thờ tiền chủ.

Bàn thờ tiền chủ chính là cây hương đặt ở ngoài sân. đó là một trụ cao khoảng 1 mét
trở lên, phía trên xây rộng ra như một cái khám thờ, có thành ở đằng sau và hai bên. Trên
bàn thờ đặt một bát hương, không có bài vị vì không ai biết tên người tiền chủ, nên khi khấn
chỉ khấn “Tiền chủ”, thường cúng vào ngày sóc vọng, giỗ Tết hoặc khi trong nhà có chuyện
không hay. Một số nơi gọi đây là “bàn thờ thiên”, tức thờ trời là chưa chuẩn xác.

3.6.1.3. Thờ Mẫu

Trước đây vẫn tồn tại một quan niệm rằng, trong các hình thức tôn giáo ở Trung
Quốc có việc thờ thánh Mẫu, được du nhập vào Việt Nam; đến khu vực nào, hình thái
tôn giáo này được "địa phương hoá" cho phù hợp và đứng được trong cộng đồng cư dân.

Tuy nhiên, gần đây các nhà Dân tộc học và Văn hóa học ở nước ta đã khẳng
định, việc thờ thánh Mẫu không hẳn có nguồn gốc Trung Quốc mà xuất phát từ tục
thờ phụ nữ (nữ thần) nói chung, thờ mẫu nói riêng có ở nhiều tộc người. Từ thờ nữ
thần và thờ Mẫu, tiến tới thờ mẫu Tam phủ gồm mẫu Thiên (hay mẫu Thượng thiên,
cai quản miền trời), mẫu Địa (Địa phủ, cai quản miền đất) và mẫu Thoải (Thoải
phủ, cai quản vùng sông nước). Đến thế kỷ XVI, xuất hiện mẫu Liễu Hạnh - nhân
vật nửa thực nửa hư ở làng Vân Cát (huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) thành mẫu Tứ
phủ. Tuy xuất hiện muộn, nhưng Mẫu Liễu Hạnh nhanh chóng trở thành vị thần chủ
đạo của Đạo Mẫu và được tôn vinh hơn tất cả các vị Thánh Mẫu khác. Liễu Hạnh
vừa là thiên thần, vừa là nhân thần. Trong điện thờ Tam tòa thánh mẫu, Liễu Hạnh
với tư cách là Mẫu Thượng thiên luôn ở vị trí trung tâm, mặc đồ đỏ (trong đền Mẫu
ở làng Vân Cát, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, Mẫu Liễu Hạnh là “Mẫu Đệ nhất
Thượng thiên” ở giữa, bên trái theo hướng đền là Mẫu Thoải, bên phải là Mẫu
Thượng ngàn). Trong quan niệm dân gian, Mẫu Liễu Hạnh có thể hóa thân vào Mẫu
Thượng ngàn.

50
Trên ban “Tam tòa Thánh Mẫu” trong điện Mẫu, Mẫu Liễu Hạnh ngự ở giữa,
mặc áo vàng; mẫu Thoải (mẫu Đệ nhị) mặc áo trắng ở bên trái nhìn từ ngoài vào;
Mẫu Thượng Ngàn (Mẫu Đệ tam) mặc áo xanh, ở bên phải.

3.6.1.4. Thờ Đức thánh

Việc thờ Đức Thánh ở Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc. Dân gian quan
niệm, những người tài năng xuất chúng, đức độ khi chết sẽ được “hiển thánh” và lãnh
sứ mệnh cai quản một vùng sông nước, phù hộ độ trì cho con người trong phạm vi
thánh cai quản. Đức Thánh là vị thần cai quản một vùng sông nước, còn thành hoàng
là người che chở, phù hộ cho từng cộng đồng làng.

Cũng như việc thờ thành hoàng, việc thờ Đức Thánh đã được "Việt hóa" và
biểu hiện khác nhau theo từng địa phương. ở ven biển Bắc Bộ, Đức Thánh ở dạng phổ
biến nhất là “Đức Thánh Trần” (tức Trần Hưng Đạo). Song nhiều vùng ven biển tỉnh
Quảng Ninh (như ở thị xã Cảm Phả) lại thờ Đức ông Cửa Sót tức Trần Quốc Tảng;
vùng Yên Hưng lại thờ Đức Thánh Niệm, tức Mạc Chính Trung, một nhân vật lịch sử
có thật sống dưới triều Mạc (giữa thế kỷ XVI). Ở miền Bắc có 4 vị thánh (“Tứ bất tử”
ở 4 trấn bảo vệ Kinh đô Thăng Long là Thánh Gióng (được thờ ở đền Phù Đổng,
huyện Gia Lâm, trấn giữ phía Bắc; Thánh Liễu Hạnh ở Phủ Giày Nam Định, trấn giữ
phía Nam; Thánh Chử Đồng Tử ở Khoái Châu, Hưng Yên, trấn giữa phía Đông và
Thánh Tản Viên, trấn giữa phía Tây).

Ở miền Trung, chẳng hạn, vùng Cửa Sót, Thạch Hà (tỉnh Hà Tĩnh), Thánh là
Lê Khôi (? - 1446) - anh trai của Bình Định vương Lê Lợi (tức Vua Lê Thái Tổ), có
công trong dẹp giặc Minh đầu thế kỷ XV.

Vào đến Nam Bộ, nhất là vùng Tây Nam Bộ, Thánh có khi là Quan Công - một
nhân vật lịch sử thời Tam Quốc ở Trung Quốc; có nơi là Mạc Cửu - người có công khai phá
vùng đất Hà Tiên thế kỷ XVIII; có nơi là Nguyễn Trung Trực - anh hùng nông dân chống
thực dân Pháp cuối thế kỳ XIX.

Dù là nhân vật có nguồn gốc nào thì các vị thánh này đều có sứ mệnh che
chở, phù hộ cho cư dân đi biển nên được lập đền miếu thờ phụng.

3.6.1.5. Thờ thần tài

Thần tài là vị thần mang tài lộc cho gia đình, mỗi khi làm việc gì. Thần tài
thường ở xó nhà, xuất phát từ điển tích Trung Quốc: một người lái buôn tên là Âu

51
Minh khi qua hồ Thanh Thảo, được thủy thần cho một nô tỳ tên là Như Nguyện. Âu
Minh đưa về nuôi trong nhà, làm ăn ngày càng phát đạt. Sau nhân ngày Tết, Như
Nguyện làm ông bực tức, bèn lấy chổi cầm đánh Như Nguyện. Nguyện biến vào
đống rác và biến đi mất. Từ sau đó, Âu Minh làm ăn sa sút dẫn đến sạt nghiệp.
Người đời sau tin rằng, đó là do Như Nguyện là Thần Tài do thủy thần đem lại
nhưng bị Âu Minh đánh đuổi. Tục lập bàn thờ thần tài và kiêng quét nhà 3 ngày Tết
xuất phát từ điển tích này.

Ở người Việt, thường chỉ các gia đình buôn bán mới lập bàn thờ thần tài. Bàn thờ
là một khám gỗ, nhỏ, sơn son thếp vàng đặt ở xó nhà hay cạnh cửa ra vào. Phía trong
khám có dán bài vị với hàng chữ: “Ngũ phương ngũ thổ long thần, tiền hậu địa chủ tài
thần” hoặc đôi câu đối: “Thổ năng sinh bạc ngọc, địa khả xuất hoàng kim” (đất hay sinh
ngọc quý, đất khá có vàng dòng). Trước bài vị có bát hương, 2 cây nến, chén nước, chén
rượu. Ngày thường chỉ thắp hương thần tài bằng hoa quả. Ngày Sóc và ngày Vọng cúng
mặn. Thường cúng vào buổi chiều.

3.6.2. Các loại hình văn bản Hán Nôm và việc quy đổi niên biểu

3.6.2.1. Các loại hình văn bản Hán Nôm

Trong các di tích đình, chùa, đền miếu, văn chỉ, nhà thờ các dòng họ ở làng xã có
một lượng lớn các văn bản Hán Nôm, là nguồn tài liệu gốc, rất quan trọng để tìm hiểu
về làng xã cổ truyền. Nhìn chung có các loại văn bản ứng với các nội dung và các giá trị
nghiên cứu sau:

Bia, cây hương đá: văn bản khắc trên đá phản ánh một mặt của đời sống làng
xã, gồm:

- Bia hậu: gắn với tục đặt hậu hay gửi hậu, gồm hậu xóm, hậu họ, hậu giáp (“Ký
kỵ bi ký”), hậu làng hay hậu thần (“Hậu thần bi ký”) và hậu chùa ("Hậu Phật bi ký”).

- Bia sự lệ, hương ước.

- Bia dựng mới (tân tạo) hoặc tu bổ (trùng tu) đình chùa, đền miếu, nhà cầu, cầu
cống..., thường gắn với bia hưng công, công đức.

- Bia gia phả, thần phả.

- Bia văn từ, văn chỉ.

- Bia về một nhân vật lịch sử, danh nhân...

52
Ngoài các nội dung theo từng loại bia trên, bia còn cho biết tên các làng xã, sự
phụ thuộc vào các đơn vị hành chính của làng qua các triều vua, cơ cấu tổ chức làng xã,
chức quan, sự phân hóa giàu nghèo trong cộng đồng cư dân làng xã v.v.

Hương ước: gồm hương ước cổ, hương ước cải lương, là văn bản ghi chép về các mặt
lệ tục gắn với thiết chế tổ chức của làng.

Gia phả: văn bản ghi chép về nguồn gốc, thế thứ, sự phát triển, thành đạt của
một dòng họ. Những họ khoa bảng, quan lại có cá bản gia phả được soạn bài bản,
tương đối đầy đủ về các đới, liên tục được bổ sung.

Thần phả, thần tích: văn bản ghi chép về lai lịch, sự tích của vị thần được thờ, lịch
thờ cúng, các đồ thờ cúng trong từng lễ tiết.

Phân biệt “Ngọc phả” với thần phả. Ngọc phả (hay ngọc điệp) là gia phả của
dòng họ nhà vua. Một số sách chép thần phả là ngọc phả là chưa chuẩn xác.

Chuông, khánh: khối đồng đúc có khắc bài Minh (bài văn) phản ánh lịch sử
ngôi chùa và việc đóng góp tiền của đúc chuông ở chùa, đền, có giá trị tư liệu gần
như bia.

Địa bạ: văn bản ghi chép về ruộng đất, cho biết các loại ruộng đất (canh tác, thổ
trạch viên trì, tha ma thổ địa...); độ tốt xấu của các hạng ruộng (nhất đẳng điền, nhị đẳng
điền, tam đẳng điền, thể hiện qua mức thuế phải nộp); số ruộng đất công, tư; mức độ sở
hữu ruộng đất của các giai tầng xã hội ở thời điểm khai báo, biến động ruộng đất qua một
số thời điểm …

Đinh bạ: văn bản ghi chép về số đinh chịu thuế thân, binh dịch của làng, cho
biết dân số (nam giới) của làng được nghiên cứu.

Sổ nhân đinh (số hàng giáp): văn bản ghi chép số đinh nam của một giáp
trong làng, theo trật tự tuổi tác hay thứ tự năm sinh.

Sắc phong: văn bản viết trên giấy sắc (giấy nghè), có ấn của vua, công nhận
vị thần được thờ ở một làng.

Ngoài sắc phong cho thần, còn có sắc phong chức, tước cho một vị quan.

Sắc phong còn cho biết tên làng, sự phụ thuộc vào các đơn vị hành chính của làng
qua các thời điểm thần (hoặc người) được phong sắc.

53
Câu đối, hoành phi, đại tự, cuốn thư: tùy di tích, các câu đối có một nội dung
riêng, nhìn chung mang tính chất ca ngợi, khuyến răn, khuyến thiện.

Xã chí (chẳng hạn Đông Ngạc xã chí, Trà Lũ xã chí): tài liệu sưu tầm hoặc có
tính chất nghiên cứu của một cá nhân hoặc một tổ chức; phản ánh khá chi tiết các
đặc điểm cơ bản về điều kiện tự nhiên, lịch sử hình thành và phát triển, các di tích,
các nhân vật, các phong tục tập quán, sản vật của một làng xã. Ngoài xã chí, còn có
quốc chí (Dư địa chí, Đại Nam nhất thống chí...), tỉnh chí (Sơn Tây tỉnh chí), huyện
chí (Chí Linh phong vật chí...).

3.6.2.2. Việc quy đổi niên biểu trong văn bản Hán Nôm [BỎ]

Bài 4

CÁC TỘC NGƯỜI VÙNG ĐÔNG BẮC

Tóm tắt: nội dung cơ bản của bài giới thiệu địa dư hành chính và điều kiện tự
nhiên (địa hình hình, thủy văn, giao thông…) của vùng Đông Bắc - địa bàn cư trú của 15
tộc người thiểu số và người Việt, những đặc điểm cơ bản về kinh tế, xã hội (gia đình,
dòng họ, làng bản, phân hóa giai cấp) và nhất là về văn hóa (văn hóa vật thể và văn hóa
phi vật thể). Phụ lục bài giới thiệu về người Hmông và người Dao - hai tộc người có
những điểm riêng biệt về văn hóa.

Mục tiêu: trang bị cho sinh viên những kiến thức cơ bản vùng tộc người Đông

54
Bắc, nhất là về phương diện văn hóa của các tộc người, vị trí của vùng trong quốc gia đa
tộc người Việt Nam, vận dụng kiến thức thực tế vào hoạt động du lịch.
4. I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, DÂN CƯ

4.1.1. Địa dư hành chính và điều kiện tự nhiên


Vùng Đông Bắc về phương diện Dân tộc học, gồm sáu tỉnh Việt Bắc cũ
(Bắc Kạn, Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên) và hai
tỉnh Bắc Giang, Quảng Ninh .
Vùng Đông Bắc có địa hình ít dốc hơn so với Tây Bắc, không bị chia cắt
mạnh (trừ các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc, Hoàng Su Phì, Yên Minh của tỉnh Hà
Giang), các huyện biên giới của hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn. Đặc điểm nổi bật
của địa hình vùng Đông Bắc là có các dãy núi đá vôi tạo thành các vòng cung lòng
máng quay lưng ra biển Đông (vòng cung Bắc Sơn, Ngân Sơn, Sông Gâm, Đông
Triều), hình thành các cánh đồng rộng lớn như Thất Khê, Lộc Bình, Đồng Đăng,
Na Sầm (tỉnh Lạng Sơn), Hòa An (tỉnh Cao Bằng), Bình Liêu (tỉnh Quảng Ninh...
Về thủy văn, vùng Đông Bắc có 2 luồng sông:

- Một luồng đổ ra biển Đông thuộc hệ thống sông Cầu, sông Lục Nam, sông
Thương (chảy qua các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh) và sông Lô chảy qua Hà Giang, Tuyên
Quang, nối với sông Hồng ở Việt Trì (tỉnh Phú Thọ).

- Một luồng chảy sang Trung Quốc, gồm sông Đồng Đăng, sông Kỳ Cùng ở tỉnh
Lạng Sơn, sông Quây Sơn ở tỉnh Cao Bằng.

Các sông đều có đặc điểm là cạn về mùa khô, gây lũ lớn vào mùa mưa.

Về giao thông
Đặc điểm về địa hình và thủy văn trên đây làm cho vùng Đông Bắc hình
thành nhiều đường giao thông huyết mạch, nối liền với trung du và vùng châu
thổ. Đó là các đường Thiên lý từ các địa phương về Thăng Long - Hà Nội:
- Đường Thiên lý chính Bắc (Thăng Long/Hà Nội - Lạng Sơn - Cửa khẩu
Hữu nghị thông sang Trung Quốc), nay là Quốc lộ số 1, đường xuyên Việt.
- Đường Thiên lý Tây Bắc (Thăng Long/Hà Nội qua Việt Trì - Phú Thọ -
Tuyên Quang lên Hà Giang ở Cửa khẩu Thanh Thủy, thông sang Trung Quốc),

55
nay là Quốc lộ 2.
- Đường Thiên lý Đông Bắc (Thăng Long/Hà Nội - Cổ Loa - Phù Lỗ -
Thái Nguyên - Bắc Kạn - Cao Bằng thông sang Trung Quốc), nay là Quốc lộ 3.
Ngoài ra còn có đường số 4 chạy dọc biên giới từ Đồng Văn (Hà Giang)
qua Cao Bằng, Lạng Sơn về huyện Tiên Yên (tỉnh Quảng Ninh); đường 18 (nối
với đường 5 từ Hà Nội) ở Nam Sách (Hải Dương) đi Đông Triều - Hạ Long -
Móng Cái.
Đông Bắc còn có các tuyến đường sắt, gồm đường Hà Nội - Lạng Sơn được
xây dựng từ đầu thế kỷ XX, Hà Nội - Thái Nguyên, Lưu Xá - Kép - Bãi Cháy (xây
dựng từ những năm 1960).
Hệ thống đường bộ kết hợp với các đường sông, đường sắt tạo cho Đông Bắc thế
mở, thông thương với vùng trung du, châu thổ Bắc Bộ và với Trung Quốc, làm cho Đông
Bắc trở thành hành lang giao lưu văn hóa giữa các tộc người thiểu số với người Việt, giữa
các tộc người thiểu số với nhau; giữa Việt Nam với Trung Quốc.

4.1.2. Các tộc người


Vùng Đông Bắc là nơi cư tụ của 16 tộc người thiểu số, trong đó người Tày
là tộc người sở tại/bản địa; các tộc người từ Trung Quốc sang, thuộc nhiều nhóm
ngôn ngữ khác nhau (Bảng 4.1).
Bảng 4.1: Các tộc thiểu số người vùng Đông Bắc
phân theo nhóm ngôn ngữ (xếp theo dân số các tộc)
Nhóm Tộc
TT Cư trú tại tỉnh Nguồn gốc
ngôn ngữ người

Tày Thái 1 Tày Tất cả các tỉnh Sở tại

Một bộ phận là bản


Tất cả các tỉnh địa, sở tại; còn phần
2 Nùng
đông từ Trung Quốc
sang vào thế kỷ X

3 Sán Bắc Giang, Quảng Từ Trung Quốc


Chay Ninh thế kỷ XVI - XVIII
Thái Nguyên, Cao

56
Nhóm Tộc
TT Cư trú tại tỉnh Nguồn gốc
ngôn ngữ người

Bằng
Hà Giang, Bắc Kạn

Tuyên Quang Từ Trung Quốc sang


4 Giáy
Cao Bằng thế kỷ XVIII

Hà Giang, Tuyên Từ Trung Quốc sang


5 Bố Y
Quang thế kỷ XIX

Từ Trung Quốc sang


6 Hoa Tất cả các tỉnh Trước Công nguyên
trở đi

Sán Các tỉnh Từ Trung Quốc sang


7
Hán Dìu (trừ Hà Giang) thế kỷ XV - XVII

Bắc Kạn, Thái Từ Trung Quốc sang


8 Ngái Nguyên đầu Công nguyên trở
Bắc Giang đi

Hà Giang, Cao
Hmôn Bằng Từ Trung Quốc sang
9
g Lạng Sơn, Bắc Kạn thế kỷ XVII
Bắc Giang
Hmông -
Dao Từ Trung Quốc sang
10 Dao Tất cả các tỉnh
thế kỷ XIII

Pà Hà Giang, Tuyên Từ Trung Quốc sang


11
Thẻn Quang thế kỷ XVIII

Cao Bằng, Hà
Giang Từ Trung Quốc sang
12 Lô Lô
Tạng - Tuyên Quang, Lạng thế kỷ XV- XVII
Miến Sơn

Từ Trung Quốc sang


13 Phù Lá Hà Giang
thế kỷ XIX

57
Nhóm Tộc
TT Cư trú tại tỉnh Nguồn gốc
ngôn ngữ người

Đa số có nguồn gốc
sở tại; một số từ
14 La Chí Hà Giang
Trung Quốc sang vào
thế kỷ XVIII

Cờ Từ Trung Quốc sang


Ka đai 15 Hà Giang
Lao thế kỷ XVIII

Từ Trung Quốc sang


16 Pu Péo Hà Giang
thế kỷ XVII

Về người Việt ở Đông Bắc, trước đây có ý kiến cho rằng, tộc người này có
mặt ở vùng đất này rất muộn. Song, các tư liệu khảo cổ học cho phép khẳng định,
tổ tiên người Việt là bộ phận quan trọng cấu thành cư dân các nền Văn hóa: Soi
Nhụ, Cái Bèo, Hạ Long có niên đại lần lượt là 7.000 năm (giai đoạn muộn), 7.000
- 5.000 năm, 5.000 - 4.000 năm cách ngày nay, từ hang động ở sơn khối Bắc Sơn
tiến ra chiếm lĩnh vùng ven biển Quảng Ninh, Hải Phòng ngày nay. Như vậy,
người Việt ở vùng Đông Bắc có nguồn gốc tại chỗ. Các làng Việt quần cư đông
đúc dọc ven biển và cả ngoài đảo ở thành phố Móng Cái, huyện Vân Đồn cho
thấy điều đó.
Từ thế kỷ XI trở đi, người Việt từ đồng bằng chuyển cư lên Đông Bắc theo
nhiều đợt, vì những nguyên nhân khác nhau, với nhiều thành phần: các công chúa
được gả cho các tù trưởng các tộc người thiểu số; các quan lại được cử lên nhậm
trị; các thương nhân lên buôn bán; các tôn thất, quan lại, binh lính, vợ con nhà
Mạc bị thất trận, cải họ, sống chung với các tộc người thiểu số; những người nông
dân đồng bằng đói khổ, không chịu được đóng góp theo phong tục làng xã, lên
miền núi mưu sinh. Một bộ phận lớn người Việt từ đồng bằng chuyển lên Đông
Bắc sinh sống đã hòa vào các tộc người thiểu số sở tại, cả về tiếng nói, nếp ăn,
nếp ở, quan hệ xã hội, phong tục. Rất nhiều trường hợp, có khi cả làng gốc là
người Việt, song đã khai là dân tộc thiểu số; dân gian thường gọi họ là "Kinh già

58
hóa Thổ".
Từ cuối những năm 50 của thế kỷ XX, một bộ phận lớn người Việt là cán bộ, công
nhân viên chức được điều lên Đông Bắc công tác tại các cơ quan hành chính, các khu công
nghiệp; những thanh niên nam nữ lên lập các nông trường, lâm trường; đặc biệt là một
lượng lớn các gia đình nông dân các tỉnh đồng bằng chuyển lên theo chủ trương "Vận động
đồng bào miền xuôi đi xây dựng và phát triển kinh tế miền núi" (từ năm 1961).

Về dân số, trong các tộc người thiểu số ở Đông Bắc, người Tày có số dân đông nhất
(trên 1 triệu người), tiếp đến là người Nùng (trên 80 vạn người); các tộc có dân số ít là
Ngái, Lô Lô, Bố Y, Cờ Lao (vài nghìn người).

Với những đặc điểm về tự nhiên, lịch sử tộc người trên đây, nhìn chung, trên
toàn vùng Đông Bắc, tính chất "tộc người trung tâm điểm" không mạnh mẽ như ở
vùng Tây Bắc, do đây là vùng văn hóa mở (không có tộc nào chiếm số dân và có
trình độ nổi trội so với các tộc người khác như người Thái ở Tây Bắc).
4.2. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI

4.2.1. Đặc điểm kinh tế


Nông nghiệp là cơ sở kinh tế chính của các tộc người thiểu số ở Đông Bắc,
song có sự khác biệt về cách thức canh tác giữa các nhóm tộc:
- Các tộc Tày, Nùng làm ruộng nước trong các thung lũng chân núi, hình
cánh cung, là các cánh đồng tương đối rộng lớn, như Đồng Đăng, Na Sầm, Bắc
Sơn (tỉnh Lạng Sơn), Hòa An (tỉnh Cao Bằng), Bình Liêu (tỉnh Quảng Ninh) ...
Kỹ thuật thâm canh, xen canh tương đối cao; hình thành được hệ thống thủy lợi
trong các cánh đồng, trong đó chiếc cọn nước là hình ảnh tiêu biểu. Một bộ phận
người Hmông, người Lô Lô, như ở nhiều xã thuộc huyện Đồng Văn, tỉnh Hà
Giang) cũng làm ruộng nước tại các dải ruộng bậc thang hẹp, tiện nguồn nước.
- Các tộc Hà Nhì, Lô Lô. La Chí và một bộ phận các tộc Tày, Nùng,
Hmông, Dao … sống bằng nông nghiệp dựa trên hệ thống ruộng bậc thang chờ
mưa. Đó là những kiệt tác, công trình nghệ thuật của người dân các tộc người,
như ở Hoàng Su Phì (tỉnh Hà Giang) được công nhận là Di tích quốc gia.
- Các tộc còn lại và bộ phận còn lại của các tộc nói trên sống dựa vào

59
nương rẫy. Đặc biệt, người Hmông ở huyện Đồng Văn, một phần các huyện Yên
Minh, Quản Bạ (tỉnh Hà Giang), do địa hình chủ yếu là cao nguyên núi đá, nên
phải làm nương thổ canh hốc đá (gùi đất vào trong các hốc đá để gieo trồng), cây
trồng chủ yếu là ngô.
Kinh tế đồi rừng, vườn rừng của các tộc người vùng Đông Bắc khá phát
triển, tạo nên một số cây mang tính đặc sản, hình thành nhiều vùng chuyên canh.
Cây ăn quả có lê, đào, mận, mắccoọc, cam; cây công nghiệp có hồi, trẩu, sở; cây
thực phẩm - gia vị có su su, câc loại rau, mắc khén, thảo quả. Người Việt lên phát
triển cây na ở huyện Chi Lăng (tỉnh Lạng Sơn), vải thiều ở huyện Lục Ngạn và
nhiều huyện khác của tỉnh Bắc Giang, cam ở huyện Vị Xuyên (tỉnh Hà Giang).
Chăn nuôi ở vùng Đông Bắc khá phát triển với một số giống mang tính đặc
trưng của vùng như lợn Móng Cái, gà Tiên Yên (tỉnh Quảng Ninh), vịt Thất Khê
(tỉnh Lạng Sơn), ngựa Nước Hai (tỉnh Cao Bằng). Đặc biệt ngoài nuôi cá chép
trong ruộng bằng, nhiều tộc người còn nuôi cá chép trong ruộng bậc thang.
Thủ công nghiệp của các tộc người thiểu số vùng Đông Bắc phát triển hơn
Tây Bắc với các nghề rèn (người Hmông, Dao, Nùng, Tày), làm gốm, làm gạch
ngói (người Tày, Nùng), dệt (ở tất cả các tộc người), chế biến thực phẩm, ép dầu;
xuất hiện một số làng nghề chuyên biệt (ví dụ làng Phúc Sen của người Nùng ở
huyện Quảng Uyên tỉnh Cao Bằng); một số thực phẩm chế biến của người Tày,
Nùng trở thành đặc sản có giá trị hàng hóa cao như lợn quay, vịt quay.
Do điều kiện giao thông thuận lợi và thông thương với Trung Quốc, với trung du và
châu thổ Bắc Bộ nên thương nghiệp của các tộc người thiểu số vùng Đông Bắc khá phát
triển thông qua hệ thống chợ kết hợp với phố ở các đô thị (như chợ - phố Đồng Đăng, chợ
- phố Bình Gia ở tỉnh Lạng Sơn; chợ - phố Mục Mã ở tỉnh Cao Bằng, chợ - phố Móng Cái
ở tỉnh Quảng Ninh... Chợ còn là trung tâm sinh hoạt, giao lưu và bảo tồn các sinh hoạt văn
hóa của các tộc người. Dọc biên giới Việt - Trung xuất hiện các chợ đường biên, chợ cửa
khẩu, ngày nay trở thành các khu kinh tế cửa khẩu, như Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh), Tân
Thanh (tỉnh Lạng Sơn)... Đặc điểm của hệ thống chợ ở nhiều vùng biên giới là chợ lùi.
Chẳng hạn ở các huyện biên giới tỉnh Hà Giang, có 8 chợ họp cố định là chợ Ma Lé (họp
phiên vào sáng thứ bảy hàng tuần, chợ Yên Minh, Đồng Văn và Mèo Vạc họp sáng chủ
nhật), 4 chợ họp lùi phiên là Lũng Phìn, Sà Phìn, Phó Bảng và Phố Cáo. Các chợ này họp 6

60
ngày một lần, tuần sau họp lùi so với tuần trước một ngày. Chẳng hạn tuần này chợ họp
vào vào thứ bảy, thì tuần sau họp vào thứ sáu, tuần sau nữa sẽ họp vào thứ năm...

4.2.2. Đặc điểm xã hội


Gia đình của các tộc người thiểu số vùng Đông Bắc đều là gia đình nhỏ phụ
quyền, coi trọng bên nội, giống như người Việt, vai trò của bên ngoại rất mờ nhạt.
Ở người Tày và người Hoa, phân biệt trưởng thứ giữa con chú con bác, con cô con
cậu, con dì con già rất rõ, giống như người Việt; còn các tộc người khác, hầu như
không có phân biệt trưởng thứ (con chú con bác, con cô con cậu, con dì con già, ai
sinh trước được tôn làm anh, chị).

Do các tộc người Đông Bắc có kinh tế tương đối phát triển, lại tiếp xúc với
người Hoa, người Việt từ rất sớm và thường xuyên, chịu ảnh hưởng tương đối đậm
nét của Nho giáo nên gia đình của các tộc người mang tính gia trưởng cao. Quan hệ
bố chồng - con dâu, anh chồng - em dâu rất ngặt nghèo. Một số biểu hiện thể:

- Bố chồng, anh chồng không ngồi ăn cơm cùng mâm với con dâu, em dâu
(ngay cả khi chỉ có hai người ở nhà cũng ngồi thành hai mâm và giữa hai mâm có
đặt một vật dụng (như cái nồi, xoong…) thể hiện sự ngăn cách.

- Bố chồng, anh chồng không được vào buồng của con dâu, em dâu;.

- Con dâu không được trực tiếp trao con (hoặc đưa một vật dụng nào khác)
cho bố chồng... mà phải thông qua mẹ chồng, em gái chồng; hoặc để ở một điểm
trung gian (giường, bàn thờ, bàn uống nước...).

Dòng họ của các tộc người thiểu số vùng Đông Bắc được tổ chức tương đối
quy củ. Tên của các dòng họ mang tính đặc trưng ở vùng Đông Bắc, như: Ma, Bế,
Nông, Vi (người Tày), Thèn, Lôi, Thôi (người Nùng), Bàn (người Dao), Vừ, Giàng,
Mùa, Thào (người Hmông) ..., song cũng có nhiều tên họ giống như ở người Việt
(họ Hoàng, Nguyễn, Trần, Lê). Mỗi họ chia thành nhiều chi, có tộc trưởng, chi
trưởng đứng đầu. ở người Dao và người Hmông, người trưởng họ có vai trò và uy
tín rất lớn. Tuy nhiên, trưởng họ không nhất thiết phải là người của ngành trưởng.

Hôn nhân của các tộc người thiểu số vùng Đông Bắc đều mang tính gả bán,
do cha mẹ sắp đặt theo kiểu “môn đăng, hộ đối” như người Việt; mặc dù trai gái có
thể được tự do yêu đương.

61
Cư trú sau hôn nhân của các tộc người thiểu số vùng Đông Bắc đều ở bên
chồng, song ở nhiều vùng của hầu hết các tộc người, cô dâu sau khi cưới vẫn ở nhà
mẹ đẻ; hoặc ở luân phiên cả hai bên, cho đến khi chuẩn bị sinh con mới về ở hẳn
bên chồng. Nếu vợ đẻ ở nhà bố mẹ vợ, chàng rể sẽ phải giết lợn để cúng tạ lỗi ma
nhà bên vợ, vì người con gái đi lấy chồng là đã nhập ma vào nhà chồng, nếu đẻ ở
nhà mình là làm ô uế ma nhà, ma nhà sẽ giận dữ, có thể gây hại cho gia đình.

Một số tộc người cách đây chưa lâu vẫn còn tục ở rể với hai hình thức: ở rể
tạm (áp dụng đối với những gia đình bố mẹ già, có con gái lớn đến tuổi lấy chồng,
trong khi em trai còn bé, chàng rể ở nhà vợ cho đến khi em trai của vợ lớn, đủ sức
lao động, gánh vác các công việc gia đình mới trở về nhà mình, nên còn gọi là rể
nuôi em) và ở rể đời (trường hợp nhà vợ không có con trai, chàng rể ở được quyền
thừa kế tài sản của nhà vợ, song nhiều nơi, nhiều khi con cái mang họ mẹ).

Đơn vị tụ cư cơ bản của các tộc người thiểu số vùng Đông Bắc là làng
(người Tày, Nùng, Sán Dìu, nhóm Sán Chí), hay bản (các tộc người khác). Mỗi
làng, bản đều có trưởng bản đứng đầu; có miếu thờ thổ công (hoặc ma bản). Các
làng vùng thấp có đình để thờ thổ công, thổ địa hoặc thành hoàng, tổ chức hội. Bên
trên làng, bản là cấp xã, tổng, châu (huyện), phủ là các cấp hành chính của Nhà
nước phong kiến người Việt áp đặt.

Quan hệ dòng họ, làng bản của các tộc người rất bền chặt. Làng bản của
các tộc Tày, Nùng, Sán Dìu, nhóm Sán Chí ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Giang
thường có tục lập hội hiếu hay hội phe để giúp nhau khi có tang ma; hội đồng niên
để giao lưu tình cảm và giúp nhau trong cuộc sống thường ngày. Hội đồng niên
không chỉ bó hẹp trong từng làng mà mở ra một vùng rộng lớn. Tình đồng niên
được coi trọng, thiêng liêng như tình cảm anh em ruột. Người Tày và người Nùng
ở nhiều địa phương có tục kết bạn (kết tồng). Bạn (hay tồng) thường cùng tuổi,
song nhiều khi chỉ không cùng tuổi nhưng cùng thích, chí hướng. Các nhóm cư
dân ở sát đường biên giới có quan hệ huyết thống, hôn nhân, tình cảm với đồng
tộc ở bên kia biên giới từ lâu đời, nên ý thức quốc gia dân tộc ở một bộ phận cư
dân này nhiều khi mờ nhạt.
Do kinh tế tương đối phát triển nên ở các tộc người thiểu số vùng Đông Bắc
(nhất là ở người Tày, Nùng, nhóm Sán Chí), phần lớn ruộng đất đã trở thành tư hữu

62
(khác với Tây Bắc là công hữu). Trong xã hội người Tày, Nùng, nhóm Sán Chí đã
hình thành tầng lớp có nhiều ruộng (trong cải cách ruộng đất hoặc cải cách dân chủ
1955 - 1957, họ thuộc thành phần "địa chủ"); dùng ruộng đất để phát canh thu tô,
hoặc thuê mướn nhân công (theo vụ việc, hoặc thuê ở mướn trong một thời hạn vài
năm), cả trâu bò cũng được dùng để cho thuê mướn, gọi là tô trâu. Ở một số vùng
người Tày, Sán Chí, nhiều người tranh chức lý trưởng, chánh phó tổng với người
Việt. ở một số vùng người Tày và Hmông trước Cách mạng Tháng Tám 1945, còn
tồn tại chế độ "thổ ty" (quằng). Đó là các chúa đất cai quản một vùng rộng lớn, cha
truyền con nối, kết hợp vương quyền với thần quyền, bóc lột dân trong vùng bằng
cả ruộng đất công và ruộng đất tư, phát canh thu tô, lao dịch, cống nạp.
4.3. ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA
4.3.1. Văn hóa vật thể

Văn hóa các tộc người thiểu số vùng Đông Bắc mang những đặc trưng của
một vùng mở, các tộc người có sự giao lưu từ rất sớm.

Về ẩm thực, nét độc đáo là các món ăn chế biến khá cầu kỳ, kết hợp với
cách chế biến của người Hoa và người Việt, chú trọng sử dụng gia vị tự nhiên
(như mắc khén, mắc mật, thảo quả...); nhiều vùng có các món ăn đã trở thành sản
phẩm hàng hóa (vịt quay Thất Khê, lợn quay Lạng Sơn, xôi ngũ sắc...) và khó có
thể xác định nguồn gốc từ tộc người nào.
Về trang phục, nét độc đáo trong trang phục được thể hiện ở bộ nữ phục
của mỗi tộc người, cụ thể ở bộ áo dài của người Tày, Nùng kín đáo, giản dị mà
duyên dáng, gợi cảm ở màu sắc chàm hoặc xanh, đen, chiếc thắt lưng bằng vải
xanh (hoặc đen, đỏ), chiếc vòng kiêng to ở cổ; ở các tộc Hmông, Dao, Lô Lô, Hà
Nhì…, bộ nữ phục thể hiện ở bộ váy, áo, khăn, mũ với hoa văn sặc sỡ. Trang
phục là tiêu chi không chỉ để nhận biết các tộc người, mà còn giữa các nhóm với
nhau trong một tộc người (điển hình là ở người Dao, người Hmông).
Về nhà ở, các tộc người thiểu số vùng Đông Bắc có các loại hình nhà: nhà
sàn bốn mái, nhà nửa sàn nửa đất (nửa bên dưới thường trình tường), nhà đất trình
tường (nhà phòng thủ) kết hợp với làng phòng thủ (ở vùng biên giới). Nhà thường
được lợp ngói âm dương tự sản xuất. Tuy nhiên, ở nhiều vùng, do rừng sớm bị khai

63
thác thiếu tổ chức khiến cho nguyên vật liệu làm nhà (gỗ làm cột, cỏ gianh lợp mái)
ngày càng cạn kiệt và do giao lưu sớm với người Việt nên nhà truyền thống đã
không còn khoảng 45 - 50 năm nay, đồng bào ở nhà đất, như nhà của người Việt.
Đến với ngôi nhà của các tộc người thiểu số vùng Đông Bắc, sinh viên,
khách nói chung cần lưu ý một số điểm sau:
- Khi thấy ở đầu cổng nhà có treo một cây dứa dại còn xanh, hoặc cành lá tươi , một
bó củi, một cây bông lau cắm ở cạnh cửa ra vào nhà... thì không vào nhà, vì gia đình đang
có các công việc nên không thể tiếp khách (có phụ nữ mới sinh, trong thời gian ở cữ; hoặc
có người ốm nặng, hoặc đang cúng lễ phải kiêng người lạ vào…).

- Dù thuộc loại nhà sàn hay nhà đất, nhà nửa sàn nửa đất, mỗi gia đình đều có
gian riêng cho khách, khách không nên tự tiện đi lại sang khu vực khác, muốn đi
phải hỏi ý kiến của chủ nhà.
- Khu vực có bàn thờ gia tiên (có nơi gọi là ma nhà) rất linh thiêng, người lạ,
nhất là nữ giới tuyệt đối không đến gần, vì theo quan niệm, làm động đến ma nhà,
ảnh hưởng đến cuộc sống gia đình về sau. Khi ngồi không được quay lưng, khi nằm
không được duỗi chân về phía bàn thờ hay khu vực thờ. Ngoài nơi thờ gia tiên,
nhiều vị trí khác như bếp, cửa chính của nhà…) theo quan niệm của đồng bào cũng
là nơi trú ngụ của các loại ma khác nhau, phải kiêng kỵ bằng các hình thức khác
nhau (xem thêm phần viết về người Hmông, người Dao ở Phụ lục bài giảng). Khách
muốn chụp ảnh nơi thờ gia tiên và những nơi được coi là có ma (chẳng hạn, buồn
ngủ của vợ chồng người Hmông) phải xin phép chủ nhà. Một số vị trí tuy không có
ma, nhưng khách cũng không tự tiện vào, chẳng hạn chỗ đang làm cao chàm hay
nhuộm vải của người Hmông. Người Dao cũng như người Hmông đều kiêng người
lạ trèo lên gác, ngồi trước cửa bếp lò... Đặc biệt, người Hmông kiêng người lạ, nhất
là phụ nữ ngồi dựa lưng vào cột chính của ngôi nhà. Trong khi tham quan, quan sát
các vị trí, đồ vật, cả con vật trong ngôi nhà và xung quanh, khách không được chê
bai, không khen con vật tốt, to béo... ; do đồng bào (nhất là người Dao) sợ khách lạ
có thể có loại ma ngọ hải hoặc vía nặng, nếu khen hoặc chê... sẽ làm hỏng công việc
mà gia đình đang thực hiện, vật nuôi của gia đình sẽ ít ăn, gặp bệnh dịch, chậm lớn,
không mắn đẻ..., ảnh hưởng đến việc làm ăn, đời sống của gia đình nói chung.

- Bên cạnh việc phân biệt giới tính, thứ bậc huyết thống, các tộc người thiểu

64
số vùng Đông Bắc rât coi trọng trật tự tuổi tác, chức vị xã hội trong ngôi nhà. Đặc
biệt, trong các ngôi nhà sàn của nhiều tộc người, ở phía trên, thường có một hàng gỗ
(phản) tôn cao hơn mặt sàn nhà. Đấy là nơi dành cho người cao tuổi, khách quý,
người có chức vị xã hội quan trọng, khách là người trẻ tuổi, nhất là nữ không ngồi ở
hàng gỗ cao này.
4.3.2. Văn hóa phi vật thể
Văn hóa tinh thần của các tộc người thiểu số khá phong phú, thể hiện trước
hết ở nguồn văn học dân gian (các truyện cổ tích, thần thoại), nguồn thơ ca dân
gian, tục ngữ, ngạn ngữ. Nhiều tộc người còn có nguồn văn học viết (truyện Nôm
khuyết danh, có nội dung gần giống truyện của người Việt, như Thạch Sanh, Tống
Trân Cúc hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa...). Các truyện này thường được viết bằng chữ
Nôm của từng tộc (Nôm Tày, Nôm Nùng, Nôm Dao...).

Vốn âm nhạc và dân ca của các tộc người thiểu số vùng Đông Bắc cũng rất
phong phú, tiêu biểu là Then (hát then, múa then) của người Tày, Nùng - một hình
thức sinh hoạt tín ngưỡng - văn hóa cộng đồng để trừ ma, chữa bệnh. Đặc biệt,
Thực hành Then của các dân tộc Tày, Nùng (và của cả người Thái) đã được
UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới).

Then là thực hành nghi lễ không thể thiếu, thậm chí tạo thành phần cơ bản
trong đời sống tâm linh và tinh thần của các tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam; phản
ánh các quan niệm về con người, thế giới tự nhiên và vũ trụ. Các lễ Then diễn tả
hành trình Thầy Then (Ông Then, Bà Then) mặc lễ phục điều khiển đoàn âm binh
đi từ Mường Đất lên Mường Trời để dâng lễ vật và thỉnh cầu trong lễ cầu an, chữa
bệnh, cầu mùa, chúc mừng năm mới v.v. ; khởi đầu cuộc hành trình đó là các Thầy
Then cất tiếng hát, gảy tính tẩu. Lễ Then được thực hiện tại nhà con bệnh, ở ngoài
trời hoặc tại bàn thờ Then ở nhà của Thầy Then. Tùy theo mục đích của việc cầu
cúng, Thầy Then bày mâm cúng và cầu khấn trước bàn thờ Then các vị thần khác
nhau (chủ yếu là thần sở tại/ bản địa). Thầy Then thường sử dụng các lễ cụ như
kiếm trừ tà, thanh âm dương, chuông... ; vừa hát tiếng dân tộc mình, vừa gảy tính
tẩu, xóc chùm xóc nhạc, phất quạt; có buổi lễ còn có tốp nữ múa phụ họa.

Then được trao truyền bằng truyền khẩu khi thực hành nghi lễ Then, thể hiện
sự kế tục giữa các thế hệ mà các thầy Then đóng vai trò chính yếu trong việc

65
chuyển giao các kỹ năng và bí quyết liên quan. Một số thầy Then thực hiện khoảng
200 nghi lễ Then một năm.

Nghi lễ Then thể hiện bản sắc văn hóa của các tộc người, từ phong tục đến
nhạc cụ, múa và âm nhạc. Nhờ các chức năng văn hóa xã hội, Then góp phần giáo
dục đạo đức, lối sống nhân đạo và bảo vệ các phong tục và truyền thống văn hóa
của các tộc người.

Then có sức sống trong gia đình, cộng đồng, những thầy Then làm lễ cầu sức
khỏe, cầu an và cầu mùa. Then được trao truyền trong 11 tỉnh (8 tỉnh vùng Đông
Bắc và ba tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai vùng Tây Bắc). Thực hành nghi lễ
Then thể hiện sự cố kết cộng đồng trong nội bộ tộc người và giữa các tộc người.

Các tộc người vùng Đông Bắc đều có các loại hình dân ca, tập trung nhất ở
các hình thức hát đối đáp nam nữ tại các chợ phiên, các hang động, trên núi, trong
các đám cưới, trong các dịp tết, hội...., như hát Lượn (người Tày), hát Sli (người
Nùng), Sình Ca của người Sán Chay (nhóm Cao Lan), Soong Cộ của người Sán
Dìu...

Văn hóa phi vật thể của các tộc người thiểu số vùng Đông Bắc còn thể hiện ở
các lễ tiết giống với người Việt và người Hoa, như Nguyên đán, Thanh minh, mồng
5 tháng Năm, Rằm tháng Bảy, Rằm tháng Tám, mồng 10 tháng Mười (người Nùng
còn có tết mồng 6 tháng Sáu).

Đời sống tâm linh của các tộc người thiểu số vùng Đông Bắc có sự kết hợp
của Tam giáo (Nho, Phật, Đạo) với tín ngưỡng dân gian, coi trọng thờ tổ tiên (đến 5
đời hoặc ít hơn, tùy từng tộc người, từng vùng), thờ thổ địa, thành hoàng, quan niệm
về các loại ma (ngạn ngữ: Keo lắm giỗ, Thổ lắm ma), gồm ma tổ tiên, ma rừng, ma
suối, ma núi, ma lành ma dữ, người Nùng thờ ma sân; sử dụng pháp thuật, bùa ngải
để trừ ma, cầu phúc (do các thầy mo, thầy tào thực hiện trong các dịp lễ tết), các lễ
thức nông nghiệp mà tiêu biểu nhất là hội Lồng tồng (hội xuống đồng), các lễ thức
liên quan đến chu trình đời người (tiêu biểu là lễ cấp sắc - lễ thức đánh dấu sự
trưởng thành của người con trai ở các tộc Dao, Tày, Nùng).

Trong đời sống của các tộc người thiểu số vùng Đông Bắc trước đây, các
thầy mo, thầy tào, các bà Then có một vai trò và ảnh hưởng rất lớn. Trong điều kiện
hệ thống y tế xưa kia chưa được mở mang, họ là thầy thuốc chữa bệnh bằng y học

66
dân gian kết hợp với ma thuật. Họ là bộ phận cấu thành chủ yếu của đội ngũ trí thức
các tộc người thiểu số trong xã hội cũ.

Văn hóa của các tộc người thiểu số vùng Đông Bắc có sự giao lưu, giao thoa
rộng và thường xuyên với văn hóa các tộc người Việt và Hoa. Nhiều quan lại người
Việt để lại dấu ấn văn hóa, văn học ở Đông Bắc, như Thân Tài, Ngô Thì Sĩ (có các
bút tích ở động Tam Thanh là điển hình), Trần Quang Nhị (với trấn Cao Bằng)...
Trong sự giao lưu đó, tầng lớp trí thức phong kiến của các tộc người thiểu số giữ
vai trò rất quan trọng.

Trong 15 tộc người thiểu số vùng Đông Bắc, người Tày và người Nùng
không chỉ có dân số đông, cư trú trên một diện rộng (ở hầu khắp các huyện của các
tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang) mà còn có trình độ phát
triển cao hơn, là hai tộc người giữ vai trò là "trung tâm điểm" của cả vùng, song
không mạnh mẽ, nổi trội như người Thái ở vùng Tây Bắc. Tuy nhiên, ở một số
vùng, vai trò của các tộc thiểu số khác cũng rất nổi trội, thể hiện tính tộc người tiêu
biểu của tiểu vùng. Chẳng hạn, người Hmông ở các huyện vùng cao tỉnh Hà Giang,
người Dao ở tỉnh Bắc Kạn ...

Tóm lại, Đông Bắc là vùng sinh sống của 15 tộc người. Đây là vùng mở từ
rất sớm về văn hóa, nhờ vị trí địa lý, điều kiện địa hình, giao thông, tác động đến
các khía cạnh kinh tế - xã hội. Các điều kiện trên là cơ sở cho những biến đổi mạnh
mẽ của các tộc người trên tất cả các lĩnh vực, trong công cuộc Đổi mới hiện nay.
Tuy nhiên, các tộc người vùng Đông Bắc đang phải đối mặt với những thách thức
lớn của một vùng có đường biên giới dài, trong điều kiện “mở” và hội nhập, cạnh
tranh gay gắt từ Trung Quốc. Kinh tế chưa phát triển làm cho tình trạng di dân tự do
(ở người Hmông, Dao, Tày, Nùng) vào các tỉnh Tây Nguyên gia tăng, một bộ phận
đông lao động các tộc người, nhất là vùng biên giới phải sang Trung Quốc làm thuê,
gây khó khăn cho việc bảo đảm an ninh vùng biên giới. Về văn hóa, nhiều loại hình
ấn phẩm văn hóa Trung Quốc, trong đó có cả ấn phẩm độc hại xâm nhập trong đới
sống tinh thần ở nhiều bản làng. Chủ trương tạo ra một “biên giới mềm” của Trung
Quốc đã và đang ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của Việt Nam; biên giới mềm của
khu vực Đông Bắc chưa tương xứng với biên giới cứng - biên giới quốc gia (Vương
Xuân Tình, 2018, tr.58).

67
Ngày nay, văn hóa của các tộc người vùng Đông Bắc đang được khai thác để
phục vụ phát triển du lịch. Đó không chỉ là các cánh đồng ruộng bậc thang- ở
Hoàng Su Phì, Xín Mần, cao nguyên núi đá ở Đồng Văn (tỉnh Hà Giang), các hang
động, thác nước và suối khoáng; các đặc sản ẩm thực (lợn quay, vịt quay, xôi ngũ
sắc, các loại rượu…), mà còn là các di tích gắn với các hoạt động tín ngưỡng, lễ hội,
các sinh hoạt văn hóa của các tộc người (động Tam Thanh - chợ Kỳ Lừa, đền Bắc
Lệ, hội “chợ tình yêu” Khau Vai (huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang); hệ thống các di
tích cách mạng ở Thái Nguyên, Tuyên Quang… Nhiều làng bản các tộc người thiểu
số đã trở thành làng du lịch cộng đồng. Gần đây hình thành tuyến du lịch sinh thái -
văn hóa Thủy điện Na Hang (tỉnh Tuyên Quang).

4. 4. PHỤ LỤC BÀI


MỘT SỐ TƯ LIỆU DÂN TỘC HỌC
VỀ NGƯỜI HMÔNG VÀ NGƯỜI DAO
4.4.1. Người Hmông

4.4.1.1. Nguồn gốc và quá trình định cư ở Việt Nam

Người Hmông có nguồn gốc từ Trung Quốc, gọi là Miêu tử hay Miêu dân. Theo
truyền thuyết, người Miêu từng sống và tranh chấp với người Hán trong cuộc chiến
tranh Hoàng Đế - Suy Vưu, trước thời Nghiêu (năm 2357 - 2258 trước Công nguyên)
và Thuấn (năm 2355 - 2208 trước Công nguyên).

Người Hmông chuyển cư vào Việt Nam theo 3 đợt:

- Đợt đầu, cách ngày nay khoảng 14 - 16 đời (mỗi đời là 25 năm, ước khoảng
350 - 400 năm), gồm các họ Vù, Giàng từ Quý Châu đến huyện Đồng Văn (tỉnh Hà
Giang).

- Đợt thứ hai cách ngày nay khoảng 9 - 11 đời (ước khoảng 225 - 250 năm), gồm
hai nhóm đi theo hai đường: nhóm một gồm các họ Vàng, Lý đến Si Ma Cai (tỉnh Lào
Cai); nhóm hai gồm các họ Vàng, Sùng, Lù, Chấu, Vù, Mùa, từ đó một bộ phận chuyển
sang vùng Tây Bắc.

- Đợt thứ ba, đông hơn cả, theo nhiều đường, vào Hà Giang, Lào Cai rồi sang các
tỉnh thuộc Tây Bắc hiện nay.

4.4.1.2. Các nhóm Hmông

68
Người Hmông có nhiểu nhóm, có các nhóm chính thể hiện ở Bảng 4.2.

Bảng 4.2. Các nhóm địa phương chính của người Hmông

Nhóm Nơi cư trú (các huyện, tỉnh) Đặc trưng để phân biệt
Hmông Đấu Đồng Văn, Mèo Vạc, Quản Bạ Con gái, phụ nữ mặc váy
(Hmông (tỉnh Hà Giang) trắng vải lanh tự dệt, càng
trắng) giặt nước trơ càng trắng
Bảo Lạc, Bảo Lâm (tinh Cao Bằng)
Sông Mã, Yên Châu (tỉnh Sơn La)
Phong Thổ, Tủa Chùa (tỉnh Lai Châu)
MùCang Chải, Trạm Tấu
(tỉnh Yên Bái)
Hmông Lềnh Tủa Chùa, Điện Biên, Tuần Giáo Phụ nữ mặc váy hoa, gồm 2
\(Hmông Xí (tỉnh Lai Châu), loại, một loại dùng chỉ màu
thêu hoa văn hoặc ghép vải
(Hmông Hoa/ Mù Cang Chải, Trạm Tấu màu thay cho hoa văn thêu ở
Hmông Đỏ) (tỉnh Yên Bái) nửa phần dưới vay, trong đó
màu nổi nhất là đỏ tươi nên
Thuận Châu, Mộc Châu (tỉnh Sơn La) có nơi gọi đồng bào là
Sa Pa, Bắc Hà, Si Ma Cai, Mường Hmông Đỏ. Một loại dùng
Khương (tỉnh Lào Cai) sáp ong vẽ lên nền váy trắng
các hoa văn rồi nhuộm chàm
Hoàng Su Phì, Xín Mần cả váy, nước chàm ăn vào
(tỉnh Hà Giang) những chỗ không hình vẽ.
Nhuộm xong, nhúng váy vào
nước nóng, sáp ong tan, để
lại hình vẽ trắng trên nền váy
màu chàm
Hmông Đú Trạm Tấu (tỉnh Yên Bái) Phụ nữ mặc váy màu đen
(Hmông đen) Phong Thổ, Tủa Chùa (tỉnh Lai Châu)
Rải rác ở các tỉnh Hòa Bình, Sơn La
Hmông Súa Xã Sính Phình Chuyển cư vào Việt Nam
(Hmông đen) (huyện Tủa Chùa, tỉnh Lai Châu), muộn nhất
Xã Lùng Phình Phụ nữ mặc váy và áo vải
(huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai) bông.
4.4.1.3. Kinh tế

69
Người Hmông làm nương rẫy là chủ yếu (các huyện phía Đông tỉnh Hà Giang;
các huyện phía Tây Thanh Hóa, Nghệ An)… các huyện vùng núi đá của tỉnh Hà Giang
(Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh) sống dựa vào nương thổ canh hốc đá, cây trồng chính
là ngô. Nhiều vùng đồng bào làm ruộng chờ mưa, tạo ra những cánh đồng ruộng bậc
thang tuyệt tác, như ở Hoàng Su Phì (tỉnh Hà Giang), Bắc Hà (tinh Lào Cai), Mù Cang
Chải (tỉnh Yên Bái)…. Ngoài lúa, còn có các loại hoa màu, trong đó, ngô, mạch ba góc
là chủ đạo,

Người Hmông trồng nhiều loại cây thực phẩm (nhất là các loại đậu đỗ), cây công
nghiệp (lanh, chè, thuốc lá), cây ăn quả (lê, táo, đào, mận Tam hoa), cây dược liệu
(xuyên khung, đỗ trọng, tam thất, cây thuốc phiện).

Chăn nuôi của người Hmông có các loại gia súc lớn là trâu, bò để cày kéo, ngựa
để thồ hàng, đi chơi; ngoài ra còn để giết thịt cúng ma; gia súc nhỏ (lợn, dê) và gia cầm.

Người Hmông có các nghề thủ công: đan lát, dệt (nổi tiếng nhất là dệt lanh), một
số vùng có nghề rèn, mộc.

Trao đổi buôn bán ở người Hmông tập trung ở chợ phiên. Đây không chỉ là nơi
trao đổi hàng hóa mà còn là nơi giao lưu tình cảm qua chén rượu bát thắng cố; đặc biệt
là nơi hẹn hò của các cặp trai gái chưa vợ, chưa chồng.

Ngòi kinh tế tế sản xuất, người Hmông còn khai thác các sản vật tự nhiên thông
qua hái lượm, săn bắn và đánh cá bằng các hình thức.

4.4.1.4. Xã hội

Gia đình của người Hmông là tiểu gia đình phụ quyền, tính gia trưởng rất cao; vợ
chồng gắn bó, nhưng người vợ phải phục tùng tuyệt đối người chồng; con gái không
được quyền thừa kế, chịu nhiều thiết thòi từ khi là con gái đến khi đi lấy chồng, phụ
thuộc chặt vào nhà chồng.

Dòng họ: quan hệ dòng họ của người Hmông rất bền chặt. Người cùng tên họ (ví dụ
họ Mùa, Vàng, Thào, Ly, Lù, Và, Sùng, Giàng, Tẩn …) gọi là Thùng sênh. Cùng tên họ tuy
cũng được quý trọng, nhưng không bằng Thùng đang (cùng ma), tức cùng một huyết thống
hay cùng một ông tổ, thể hiện ở cách cúng ma, cụ thể ở bốn lễ cúng ma lớn là cúng ma tươi,
cúng ma bò, cúng ma lợn và cúng ma cửa.

70
+ Cúng ma tươi thể hiện ở các mặt: cho người chết đi ngưa hay đi kiệu (đi ngựa
thì để người chết nằm trong cáng ở trong nhà để làm ma rồi khiêng ra nghĩa địa, cho
quan tài xuống huyệt rồi đưa thi hài vào, lấp đất; đi kiệu thì cho thi hài vào quan tài
ngay sau khi khâm liệm rồi đi chôn).

+ Cho người chết đi hay không cho đi “tẩu sáng”

+ Mộ chôn ngang hay chôn dọc theo sườn đồi

+ Cách bày các phần thịt trong lễ cúng ma bò (hay trâu), tức lễ cúng sau 3 năm
bố mẹ qua đời (bày bao nhiều phần hay bát thịt; loại thịt của mỗi phần).

Cúng ma lợn: khi trong nhà có người ốm đòi cúng lợn (theo lời thầy cúng), chủ
nhà phải tổ chức cúng, thường dùng lợn nái già (do yếu tố này mà các gia đình người
Hmông thường phải có 1 - 2 lợn nái, vừa để có lợn giống, vừa có lợn làm ma). Lợn được
trói dây tết bằng rơm, đưa vào nhà. Chủ nhà nói với “ma”, xin ma ra nhìn lợn, rồi đạp
vào con lợn mấy cái và chọc tiết, làm lông; có nơi không đun nước làm lông mà đốt
đống củi giữa nhà để thui, sau đó đem lợn ra ngoài mổ. Mổ xong rồi đưa vào nhà. Thầy
cúng dùng sợi thừng bện bằng rơm (đã dùng một phần để buộc chân lợn trước đó) đem
ra đốt (cùng móng chân lợn) và khấn :”Khi nào nước chảy ngược, đá ra hoa, có quả thì
mày mới quay về; còn không thì mày cứ đi úi, đi nơi mặt trời, mặt trăng lặn, để cho
đòng họ này sung sướng”. Khi cúng ở ngoài sân, các cửa nhà đều đóng kín. Cúng xong,
thầy cúng quay vào đứng trước cửa nhà và nói :”Tôi đi, tôi thấy nhiều vàng bạc, lúa gạo
lắm, ma lợn bảo tôi mang về cho nhà chủ; còn các tai họa ma lợn đã ủi xuống nơi mặt
trời, mặt trăng lặn. Vậy đây có phải là nhà chủ không?”. Chủ nhà hỏi lại :”Vàng bạc, lúa
gạo ai bảo mày mang về?”. Thầy cúng trả lời :”Tôi đã đến dưới suối, ma lợn bảo tôi là
các tai họa, lợn đã ủi xuống nơi mặt trăng, mặt trời lặn, vàng bạc, lúa gạo thì mang về
cho chủ, nếu đúng nhà chủ thì mở cửa cho tôi vào”. Chủ nhà mở cửa, mới thầy cúng
vào, hoan hỷ đón tiếp.

Tiết lợn được đem nấu cháo ngay, cả nhà, anh em, họ hàng cùng ăn (phụ nữ ngồi
ở gian có bếp lò, nam giới ngồi ở gian có bếp kiềng).

Cúng ma cửa cũng là tục mang tính đặc trưng dòng họ. Khi trong nhà có
người ốm (nhất là chủ nhà) hoặc gia súc bị chết nhiều, được thầy bói cho biết là do
ma cửa đòi ăn thì phải làm lễ cầu cúng. Lễ vật là con lợn được chọn nuôi từ trước.
Lấy một nhúm lông đuôi con lợn đặt lễ trên cửa ra vào. Mâm cỗ cúng đặt ở cạnh

71
cửa ra vào, thể hiện đặc trưng dòng họ ở các loại thịt và lượng thịt bày cúng. Chủ
nhà tự cúng, nếu không biết cúng thì nhờ anh em, không mời thầy cúng. Phụ nữ
không tham dự lễ cúng. Khi cúng, cửa được đóng chặt, người đã ở ngoài nhà, kể cả
anh em cũng không được vào. Trong khi làm lễ, đều phải nói tiếng Hmông, nếu có
người khác tộc đã ở trong thì phải chờ khi cửa mở mới được nói. Bài cúng có nội
dung xin cửa hãy ngăn cái xấu, giữ lại cái tốt cho gia chủ. Lễ hạ, chủ nhà mời mọi
người ăn uống. Ăn xong, các đồ thừa, rác được chôn vào một hố trong nhà. Mọi
người rửa tay, uống nước, như không có chuyện gì xảy ra.

Người Hmông coi trọng việc thờ tổ tiên. Bàn thờ tổ tiên (Xử ca) không treo
ảnh, mỗi năm thay một lần vào dịp Tết và chỉ thắp hương vào dịp này, các ngày
mồng một và rằm không thắp hương. Cũng vào 30 Tết, chủ nhà dán ba miếng giấy
đỏ ở cửa ra vào với ngụ ý trừ ta ma, mời tổ tiên về ăn Tết, cầu tài lộc và không để
của cải thất thoát ra ngoài; đồng thời dán giấy đỏ ở các cửa phụ, vào các đồ dùng,
các công cụ sản xuất với mục đích cầu may mắn cho các công cụ, đồ dùng đó.

Theo quan niệm của người Hmông, trong ngôi nhà thường có nhiều loại ma;
vì vậy, khách vào nhà cần lưu ý để tránh phiền đến gia chủ, bản thân có thể bị phạt
theo tục:

- Ma nhà (xử ca) tức ma tổ tiên, gồm tất cả những người đã khuất, thuộc các
thế hệ từ cha ông trở về trước, phù hộ cho con cháu làm ăn thuận lợi. Nơi thờ là một
tờ giấy bản có đính lông gà và được dán cẩn thận vào vách của gian giữa nhà; phía
dưới tờ giấy này có một ống tre để thắp hương. Đây là chỗ linh thiêng trong nhà,
nên không ngồi dựa lưng vào vách này, phụ nữ và khách lạ không được ngồi chơi ở
khu vực này. Mỗi năm, người Hmông cúng tổ tiên một lần vào dịp tết cổ truyền
Hmông (nay cúng vào dịp tết Nguyên đán). Tờ giấy của năm trước được bóc bỏ đi,
thay vào đó một tờ khác và đây cũng là dấu hiệu năm mới; đồng thời làm lễ trình tổ
tiên bằng một con gà trống. Gà được cúng sống rồi cắt tiết, bôi máu lên tờ giấy bản
và dính vào đó ba nhúm lông cổ gà. Mâm cúng đặt trên một chiếc ghế với lễ vật
gồm con gà luộc, bát cơm, đôi đũa, bát nước lã, ba chén rượu. Chủ nhà thắp hương,
rồi đọc lời cúng tổ tiên. Sau đó, ông ta xem đôi chân gà để đoán định vận hạn của
gia đình trong năm mới tốt hay xấu. Ngoài ngày Tết, gia chủ còn cúng tổ tiên vào
các dịp cúng ngô mới (lài đỏ po cư chia) hoặc cúng lúa mới (mỳ plờ chia), lễ đặt tên

72
cho con, làm ma khô (ua plì) sau lễ tang bố (mẹ), lễ ma bò (nhụ đa) cho bố (mẹ) đã
qua đời được 3 - 5 năm...

- Ma bếp (kho trù): nhà Hmông thường có 2 bếp: bếp kiềng và bếp lò.

+ Bếp kiềng để nấu ăn và đun nước uống, không gian phía trên treo một giàn
bếp hai tầng, tầng dưới để sấy khô ngô và cất giữ các loại hạt giống (cải, vừng, bí,
bầu, đậu đũa); tầng trên để phơi lạt tre, dây mây, đồ nan mới đan. Ma bếp, trú ngụ
tại đây nên không được gõ vào những hòn đá dùng làm kiềng, không được khạc nhổ
vào bếp, nhất là lúc nấu nướng. Ma bếp kiềng được cúng vào dịp tết.

+ Bếp lò đắp bằng cách đổ đất vào một chiếc khuôn gỗ rồi nện chặt, vài hôm
sau khi đất gần khô mới tháo bỏ khuôn, khoét miệng lò để đặt chảo gang, khoét cửa
lò để tra củi đun. Bếp này tượng trưng cho sự lâu bền và vững chãi, thể hiện sự giàu
nghèo của gia đình. Bởi vậy, gian có bếp lò được coi là gian gốc của ngôi nhà,
buồng của chủ nhà bao giờ cũng ở gian này. Vào dịp tết, cùng với lễ cúng tổ tiên,
các gia đình đều Hmông cũng phải cúng ma bếp lò.

- Ma cột cái của ngôi nhà (bùa đáng): trong nhà người Hmông, cột cái được
dựng ở chính giữa, phân chia gian có bàn thờ và gian bếp lò. Cột này được coi là
nơi trú ngụ ma nhà hay còn gọi là thần nhà, tức thần hộ mệnh cho gia đình, có ảnh
hưởng rất lớn tới sự giàu sang, thịnh suy của gia đình, nên có gia đình ở một vài địa
phương lập bàn thờ ở ngay cột cái để thờ cúng ma này, gia đình nào không có bàn
thờ nhưng vẫn phải bày mâm cúng tại đó theo định kỳ trong năm hoặc mỗi khi
trong nhà có công việc liên quan. Người Hmông kiêng đập que, đá chân vào cột cái,
không ngồi dựa lưng hay sờ mó vào cột, không buộc dây vắt quần áo, kỵ đóng đinh
treo các đồ vật lên cột, không treo những đồ “uế tạp” lên cột... Ai vi phạm sẽ bị chủ
nhà quở trách, phải nộp một con gà để làm lễ tạ lỗi với ma nhà. Vào dịp tết, chủ nhà
dán lên cột cái những mảnh giấy màu trắng và màu đỏ giống như nơi thờ tổ tiên.
Cây cột cái cũng được cúng cùng với một số nghi lễ như vẩy nước hay phun rượu
để đuổi tà ma. Ngoài cúng vào dịp tết, khi trong nhà có người hay bị ốm, người
Hmông cũng cúng cột ma nhà này. Lễ vật thường một con lợn cái, khoảng 10kg,
còn sống, được buộc vào chân cột, quanh chân cột cắm hương với số lượng tương
ứng số người trong gia đình. Khi chuẩn bị mâm lễ xong, gia chủ đứng trước cột ma
nhà đọc bài cúng, cầu mong ma cột cái trông nom các hồn, bảo vệ nhà cửa…Sau
đó, giết lợn làm cỗ.

73
- Ma buồng (đá trông), thông thường những người phụ nữ người Hmông đã
có con đều phải thờ ma buồng, vì ma này liên quan đến sức khỏe gia đình, sản xuất,
nhất là việc chăn nuôi và chăm sóc trẻ em. Lễ cúng ma buồng được tiến hành vào
buổi tối hoặc nửa đêm, lễ vật cúng thường là một con lợn. Chủ nhà đóng chặt cửa,
khách lạ không được vào tham dự. Con lợn cúng được chọc tiết ngay trong nhà.
Người cúng có thể là một phụ nữ trong nhà hoặc mời một người nào đó biết cúng
chủ trì lễ. Cách thức và số lượng bát thịt cúng ma buồng có sự khác biệt giữa các
dòng họ (chẳng hạn, các họ Giàng và Vừ cúng 5 bát, họ Mùa, họ Thào bày 9 bát…).
Mâm lễ cúng được đặt trong buồng, cũng có thể đặt ngay giữa nhà. Cúng xong, lấy
một quả bầu cán cong, khoét miệng gáo, lấy lá cây và hàm lợn để ở chỗ kín trong
buồng, kiêng 3 ngày không quét nhà.

- Ma cửa (xìa mình), là ma cũng có liên quan đến sức khỏe con người trong
nhà, bảo vệ tài sản, gia súc và gác cửa không cho ma xấu vào nhà. Dấu hiệu ma cửa
là mảnh vải đỏ hay giấy đỏ dán trên thanh ngang ở cửa ra vào nhà. Ngoài việc cúng
vào dịp tết, khi trong nhà có người ốm hoặc chăn nuôi không tốt phải cúng ma cửa.
Lễ vật có thể lợn hoặc gà, được mổ làm thịt trong nhà. Mỗi lần cúng ma cửa, phải
thay mảnh vải đỏ hoặc tờ giấy dán trên cửa.

- Cúng tổ sư nghề, những gia đình có người cắt thuốc chữa bệnh và làm thầy
cúng hoặc bói thì bên cạnh tờ giấy bản thờ tổ tiên còn có bàn thờ ma tổ sư nghề
được treo trên bức vách hậu, cạnh nơi thờ ma nhà. Bàn thờ nghề cúng bái là một cái
giá bằng gỗ có hai ngăn, ngăn trên để bát hương, ngăn dưới dùng cất giữ các dụng
cụ hành nghề. Bên cạnh đó là bàn thờ ma thầy thuốc, làm bằng tấm giấy bản màu
trắng, có đính kèm các túm lông gà cúng trong ngày tết. Số lượng túm lông gà cũng
tùy từng dòng họ. Cũng có trường hợp, ma thầy thuốc được thờ chung với ma thầy
cúng. Ma tổ sư nghề được cúng vào dịp năm mới. Khi có người đến mời đi cúng
hoặc đến chữa bệnh xin thuốc, phải làm lễ cúng. Người đến mời phải thắp 3 nén
hương lên bàn thờ thầy cúng hay bàn thờ thầy thuốc, sau đó mới thưa chuyện để
mời thầy giúp. Nếu thầy đồng ý, người đến mời phải đem dụng cụ hành nghề của
thầy về nhà mình trước, thầy sẽ tự đến sau.

- Trước kia, ở một số làng Hmông, những người thầy cúng cao tay còn thờ ma
đồng (túi sếnh), bàn thờ là một cây gỗ cao khoảng 2m, được chôn xuống đất ở ngay
trước nhà, đối diện với cửa chính, trên đó có một miếng gỗ hình chữ nhật, 4 góc đục lỗ

74
để cắm hương. Cúng ma đồng vào ngày mồng một tết, cầu xin mùa màng của gia đình
và anh em dòng họ được bội thu, gia súc đông đàn. Khi sửa bàn thờ ma đồng, phải giết
lợn hoặc gà và cơm rượu để cúng.

Về phong tục tập quán, người Hmông ăn Tết cổ truyền sớm hơn so với tết
của người người Việt khoảng 1 tháng. Xuất phát từ quan niệm, các cộng cụ sản xuất
cũng được nghỉ tết nên trước tết một tuần, các gia đình làm lễ đóng tất cả các công
cụ sản xuất: cày, bừa, cuốc, xẻng… được rửa sạch, và dán giấy đỏ, đặt cạnh bạn thờ
tổ tiên; lò rèn, cối xay ngô cũng được tháo ra, dán một tờ giấy bản lên rồi làm lễ với
gà, bánh ngô, rượu…. Các cột, cửa nhà, các vật dụng hàng ngày và cả chuồng gia
súc, gia cầm đều được dán những đồng tiền cắt từ những từ giấy bạc. Đồng bào
quan niệm đó là tiền cầu phúc cho gia đình trong một năm mới có mùa màng bội
thu, sung túc và sức khỏe. Đêm 30 Tết, các gia đình đều nấu cháo để sáng mùng
một cho trâu bò lợn gà ăn, do quan niệm các vật nuôi trong nhà quanh năm vất vả
cũng phải được ăn tết như người.

Ngày tết, gia đình Hmông làm nhiều món ăn, có 4 món không thể thiếu là
thịt, rượu ngô, bánh ngô, bánh dày được làm từ những hạt gạo nếp nương do chính
gia đình trồng.

Người Hmông không đón giao thừa, mà lấy tiếng gà trống gáy đầu tiên của
sáng sớm mùng một làm mốc đánh dấu năm mới. Từ nửa đêm 30, các gia cúng tổ
tiên bằng một con lợn sống, một con gà trống còn sống, sau đó giết thịt con lợn và
gà; sắp một mâm cỗ, rồi thụ lộc cho đến khi nghe thấy tiếng gà gáy đầu tiên của
sáng ngày mồng một. Ngày tết, các gia đình, họ hàng đi thăm, chúc tụng lẫn nhau.

Đặc biệt, trong dịp tết đến giữa tháng Giêng, gia đình nào có người hay đau
ốm, hoặc hiếm có con thường tổ chức lễ Gầu Tào nhằm cầu phúc (cầu mong có
con) hoặc cầu mệnh (cầu cho con người, gia súc khỏe mạnh, mùa màng tốt tươi).
Sáng sớm mùng 2 tết, dựng một cây nêu lớn ở bãi cỏ đầu bản, hoặc quả đồi rộng,
phẳng gần bản. Gia chủ (hoặc thầy cúng) làm lễ ở ngay chân cột nêu mời tổ tiên,
các vị thần phù hộ cho có con, mọi thành viên đều khỏe mạnh, bình an, việc làm ăn
được thuận lợi, khi khấn dùng các từ hoa mỹ, những câu ví mỹ miều, những câu tục
ngữ … khoa trương. Khu vực tổ chức lễ được chi thành các “khu” ăn uống, “khu”
vui chơi, có người quán xử (chủ sự) quản lý chung và những người phụ trách việc

75
ăn uống, hậu cần, vui chơi. Người trong bản, ngoài bản quen biết đến chúc tụng chủ
nhà, cùng ăn uống và tham gia các trò chơi (đua ngưa, đẩy gậy, đánh cù…).

Lễ Gầu tào do một gia đình tổ chức nhưng là lễ chung, phát triển thành hội
của cộng đồng bản, thậm chí khi thấy một bản dựng cây nêu thì người bản khác
cũng đến dự, nên gọi là hội Gầu tào. Hội kéo dài 3 ngày, là lễ hội lớn nhất của
người Hmông trong năm, thể hiện rõ nhất những đặc trưng văn hoá Hmông trong
ngày Tết.

Hết ngày thứ ba, chủ nhà làm lễ hạ cây nêu. Thầy mo đốt thẻ giấy, hốt than
cho vào gáo nước, vừa đi vừa cầu khấn. Sau mỗi đoạn khấn vái, thầy lại hấp một
ngụm nước phun ra xung quanh. Mảnh vải đỏ thì mang về treo trong nhà cầu mong
hồng phúc.

Việc hôn nhân và cưới xin của người Hmông mang nặng tính gả bán. Trai
gái có thể tự do tìm hiểu yêu nhau qua tiếng sáo, tiếng khèn, tại các phiên chợ, ngày
hội, ngày tết, song việc kết hôn lại do cha mẹ quyết định. Từ khi đặt vấn đề hôn
nhân đến khi cưới xong phải trải qua các bước, nghi lễ (dạm và so tuổi; xem ngày
cưới và nộp lễ vật, cưới). Lễ vật thách cưới rất nặng, gồm bạc trắng, gạo, thịt,
rượu…; nhà trai phải nộp đủ.

Người Hmông có tục kéo vợ (không phải cướp vợ như một số tài liệu chép).
Việc này xảy ra khi đôi trai gái yêu nhau, nhưng bố mẹ cô gái không đồng ý. Người
con trai phải tổ chức “kéo vợ” với sự “bật đèn xanh” của cô gái. Vào một ngày đẹp
trời, chàng trai hẹn cô gái đến tâm tình, rồi nhờ người thân, bạn bè bí mật giúp sức,
kéo cô gái về nhà mình. Cô gái giả vờ kêu cứu, khóc lóc để người nhà mình biết đến
cứu. Nếu nhà gái biết thì huy động người đến cứu, phía nhà trai không được phép
đánh lại, chỉ được phép đỡ đòn và bảo vệ cô gái, đưa về nhà chàng trai. Sau 3 ngày,
nhà trai đến nhà gái bàn chuyện sính lễ.

Cũng có trường hợp, trong xã hội cũ, những nhà quyền thế tổ chức bắt cóc
một cô gái về làm vợ cho con trai.

Về tang ma, người Hmông quan niệm, khi chết, hồn của mỗi người chia làm
3 phần, phần gốc về với tổ tiên, phần thứ hai đi lên trời để kiện trời tại sao băt con
người phải chết, phần thứ ba đầu thai để thành kiếp người mới (nếu khi sống, người
đó không tử tế thì phải trải qua quá trình trở thành súc vật rồi mới thành người).

76
Đám tang phải trải qua nhiều nghi lễ. Đặc điểm nổi bật trong đám ma người
Hmông là giết nhiều trâu bò, lợn để cúng ma người chết. Những người từng chịu
ơn người chết phải mang trâu, bò, lợn đến phúng viếng. Các con vật đó được buộc
sợi dây lanh vào cổ, một đầu buộc vào cọc cách chân người chết vài mét, đầu kia
buộc vào tay. Thầy cúng rót rượu và thay mặt người phúng viếng nói lời với người
chết về lễ vật của mình rồi mới giết thịt, để người chết được nhận phần lễ đó. Tục
này gây tốn kém, lãng phí rất lớn.

Nguồn: sách Dân tộc Mông ở Việt Nam


Tư liệu của Tiến sĩ Lý Hành Sơn (Viện Dân tộc học).
4.4.2. Người Dao

4.4.2.1. Các nhóm Dao, lịch sử tụ cư và kinh tế

Người Dao ở Việt Nam có 7 nhóm, tất cả đều từ Trung Quốc chuyển cư sang
vào các thời điểm khác nhau. Sự phân biệt các nhóm Dao được thể hiện qua Bảng
4.3 và Bảng 4.4.

Bảng 4.3: Nguồn gốc và thời điểm có mặt tại Việt Nam của các nhóm Dao

Nhóm Dao Địa phương Địa phương đầu khi Đị bàn cư trú tiếp theo
gốc ở Trung sang Việt Nam và
Quốc thời gian chuyển đến
Quần Trắng Phúc Kiến Quảng Yên Lạng Sơn, Cao Bằng
(Dao Họ) thế kỷ XIII Thái Nguyên
Tuyên Quang (chuyển tiếp
đến Đoan Hùng, Yên Bái,
Lào Cai)
Quần Chẹt Quảng Đông Quảng Yên Tuyên Quang, Yên Bái
Dao Tiền thế kỷ XV Phú Thọ, Hòa Bình
huyện Ba Vì (Hà Nội)
Thanh Y Quảng Đông Móng Cái Bắc Giang, Tuyên Quang
thế kỷ XVII Yên Bái, Lào Cai
(Dao Tuyển)
Dao Đỏ Quảng Đông Cao Bằng, Bắc Kạn
(Dao Tiền) Quảng Tây Hà Giang,

77
Tuyên Quang
thế kỷ XV - XVIII
Dao Đỏ Vân Nam Lào Cai Bát Xát (Lào Cai)
thế kỷ XVIII
Lô Gang ? ? thế kỷ XIX
Nguồn: Tổng hợp theo sách Người Dao ở Việt Nam.

Bảng 4.4: Sự phân biệt các nhóm Dao qua bộ nữ phục.

Nhóm Dao Đặc điểm của bộ nữ phục


Dao Đỏ - Sử dụng nhiều màu đỏ, nhiều tua và núm bông đỏ
(Cóc Ngáng, Đại Bản - Trong lễ cưới và lễ tang, cô dâu và những phụ nữ dự
Dao Sừng, Dụ Lạy) đám phải đội chiếc mũ to, khung mũ bằng gỗ gắn hai nan
tre (hay nứa) bẻ thành hai góc nhọn nhô về phía trước
mặt; ngoài khung được phủ bằng mảnh vải đỏ, nhiều
khăn thêu
Quần Chẹt - Quần ống hẹp, bó sát chân
(Sơn Đầu, Tam Đảo - Trước đây chải tóc bằng sáp ong
Nga Hoàng, Dột Kùn)
Lô Gang/Thanh Phán - Nẹp ở ngực áo được thêu nhiều mô típ
(Thanh Bản, Đội Ván - Áo và khăn đính nhiều chuỗi thủy tinh màu
Cóc Mùn, Dao Thêu)
Dao Tiền - Trong lễ cưới và lễ tang, cô dâu và những phụ nữ dự
(Đeo Tiền, Tiểu Bản) đám phải đội chiếc mũ như người Dao Đỏ, nhưng mũ
nhỏ hơn (tiểu bản)
- Cổ áo sau gáy có đính 9 đồng tiền
- Nữ mặt váy in hoa văn màu xanh nhạt
Quần Trắng (Dao Họ) - Trong lễ cưới cô dâu phải mặc quần trắng
- Yếm to che cả ngực và bụng
Thanh Y - Phụ nữ đội một mũ nhỏ giống như chiếc đấu gỗ của
(Ban Y, Dao Chăm) người Việt
- Áo thêu hoa văn trang trí hình người đội hoa
Làn Tẻn / Dao Tuyển/ - Phụ nữ cũng đội mũ nhỏ giống như mhóm Thanh Y,
Áo Dài) nhưng mũ dẹt như chiếc đĩa

(Bình Đầu, Slan Chỉ) - Áo dài, nhưng có cổ và hò như áo của người Việt.

78
Nguồn: Tổng hợp theo sách Người Dao ở Việt Nam.
Về ngôn ngữ, 7 nhóm Dao có thể chia thành hai khối:

- Một khối gồm 4 nhóm: Dao Tiền, Dao Đỏ, Lô Gang (hay Thanh Phán), Quần
Chẹt;

- Một khối gồm 3 nhóm: Thanh Y, Quần Trắng, Áo Dài (hay Dao Tuyển).

Khi giao tiếp, các nhóm trong từng khối hiểu được tiếng của nhau, song giữa
hai khối lại chỉ hiểu được khoảng 10%, phải dùng ngôn ngữ trung gian (theo TS. Lý
Hành Sơn).
Người Dao sống bằng kinh tế nương rẫy là chủ yếu (nương cuốc, nương cày,
nương thổ canh hốc đá), một bộ phận thuộc các nhóm Thanh Y, Quần Trắng, Áo
Dài, Dao Liền, Lô Gang ở một số vùng đã biết làm ruộng nước với kỹ thuật làm đất
bằng trâu quần. Săn bắt, hái lượm còn vị trí nhất định trước đây. Nghề thủ công có
dệt, đan lát, rèn, làm bạc, làm giấy, ép dầu, làm mật.
4.4.2.2.Xã hội
Gia đình người Dao là tiểu gia đình phụ quyền, ít tính gia trưởng, vợ chồng
bình đẳng, con cái được quý trọng. Người Dao thường nuôi con nuôi và con nuôi
được quý trọng, yêu thương như con đẻ. Tuy nhiên, giữa bố chồng, anh chồng và
con dâu, em dâu, giữa mẹ vợ và con rể có sự ngăn cách, cấm kỵ ngặt nghèo.
Trong hôn nhân của người Dao, có ở rể tạm và rể đời. Ở rể tạm là bắt buộc ở
tất cả các nhóm, nhất là với các nhóm Quần Trắng, Thanh Y, Áo Dài; con rể có khi
phải tự túc chăn màn, lương thực. Ở rể đời thì nhà trai không phải nộp sính lễ,
ngược lại nhiều khi nhà gái phải mang rượu, thịt, gạo cho nhà trai. Có trường hợp,
nhà trai mang đến nhà gái một ít tiền mua lộc mệnh để người con rể không phải bỏ
họ của mình và con cái do anh ta sinh ra vẫn mang họ bố.
Trong quan hệ gia đình người Dao, ông cậu có một vai trò quan trọng đối với
việc cưới xin của cháu gái. Cậu tham gia ý kiến để con gái được nhận một nửa số
bạc trắng do nhà trai mang đến và một nửa số tiền mừng của họ hàng tặng. Nhiều
nơi cậu đưa cháu gái về nhà chồng, chủ trì đám cưới của cháu, là chủ lễ hồng đường
(tơ hồng) và do vậy, cậu cũng được nhận một phần sính lễ. Đối với cháu trai, cậu
chủ trì lễ cấp sắc.

79
Dòng họ của người Dao thường mang các tên: Đặng, Triệu, Lý …, một số họ
có tên đặc trưng, như Bàn, Giồng. Mỗi huyết thống được phân biệt bằng hệ thống
tên đệm sau 7 đời hoặc 9 đời thì lại quay lại; hoặc bằng tôtem (kiêng ăn, săn bắt, sử
dụng… một loài thú, loài cây hoặc đồ vật nào đó). Một dòng họ có thể có nhiều chi
họ. Họ có trưởng họ, do các chủ gia đình trong họ cử ra từ người có tuổi, có uy tín,
có kinh tế khá, không nhất thiết là người của ngành trưởng. Tộc trưởng điều hành
các công việc trong họ, trong đó, các việc quan trọng nhất là chủ trì lễ cúng Bàn
vương, lễ vẽ tranh Tam Thanh, lễ cúng ma dòng họ, lễ cấp sắc; điều hòa mối quan
hệ giữa các thành viên trong họ… Nhà trưởng họ cũng là nơi đặt bàn thờ chung của
dòng họ (Hùng lầu). Hàng năm, vào dịp ăn cơm mới, tại nhà trưởng họ, cả họ cùng
cúng bái chung, các gia đình góp thịt, gạo, rượu làm lễ và ăn chung, như là dịp họp
họ; sau đó các gia đình ăn tết riêng. Việc cúng chung cũng diễn ra khi trong họ có
nhiều người ốm đau.
Đơn vị xã hội trên gia đình và dòng họ là bản. Mỗi bản gồm nhiều dòng họ,
trong đó có một dòng họ đông người hơn và thường là họ đến trước. Đứng đầu bản
có chức Xá chẩu (nhóm Quần Trắng, Áo Dài), Áy mo (nhóm Thanh Y), Chiếu con
(nhóm Dao Tiền)… (tạm dịch là trưởng làng, trưởng bản), do dân bản bầu (theo
các cách thức khác nhau tùy nhóm, tùy nơi) từ người đứng đầu một dòng họ đông
người hoặc một gia đình đến lập bản sớm nhất.
4.4.2.3. Văn hóa
Về tín ngưỡng, người Dao tin vào nhiều loại ma. Vì vậy, khi đến với một gia
đình người Dao, khách cần lưu ý đến những kiêng kỵ liên quan đến quan niệm về
các loại ma.
- Ma tổ tiên (cha phỉn miến) được thờ ở bàn thờ tổ tiên, tại gian chính của
ngôi nhà, treo hoặc đóng ở chỗ cao hơn đầu người ngay trên vách hay tường. Tùy
nhóm Dao mà bàn thờ tổ tiên bố trí tại nơi đối diện với cửa chính hoặc ở trong góc
phía bên có bếp nấu nướng. Trên bàn thờ chỉ có một bát hương (gia đình là trưởng
dòng họ thì bát hương bằng đồ gốm, các gia đình thành viên thì trước đây làm bằng
ống tre, nay bằng đồ gồm). Bàn thờ tổ tiên rất kỵ người lạ đụng vào, nhất là phụ nữ
trèo lên phía trên bàn thờ...
Việc cúng lễ tổ tiên ở các nhóm Dao đều tiến hành vào là Tết Nguyên đán và
Rằm tháng Bảy; khi gia đình có công việc hệ trọng như mững cơm mới, cấp sắc, lễ
cưới, làm nhà mới... cũng tổ chức cúng tổ tiên. Ngày Thanh minh là dịp quan trọng

80
nhưng không cúng tổ tiên, chỉ tự sửa nhà mộ hoặc tiến hành tảo mộ, nếu đã lâu năm
chưa làm việc này. Các ngày mồng một và Rằm hàng tháng nếu không phải là lễ tết
thì chỉ có gia đình trưởng dòng họ làm lễ thắp hương lên bàn thờ dòng họ, không
bày lễ vật để cúng.
Những gia đình làm nghề thầy cúng hoặc thầy lang ở người Dao không có bàn
thờ tổ nghề riêng. Bệnh nhân đến chữa bệnh hoặc tạ nsau khi được chữa khỏi bệnh,
mang đồ vật đến tạ ơn thầy, thầy cũng chỉ cúng ở bàn thờ tổ tiên.
- Ma buồng, hay ma giường (tsầu miến): là loại ma ở trong buồng ngủ của
đôi vợ chồng, phù hộ cho người ngủ được yên tĩnh, ngủ ngon gấc; song trong buồng
không có bàn thờ và gia chủ cũng không cúng theo định kỳ trong năm; chỉ khi
người thường xuyên ngủ trong buồng đó gặp vấn đề về sức khỏe hay các điều khác,
hoặc trẻ em hay khóc về đêm, ốm đau, thầy cúng bói là do ma buồng làm hại thì
mới tổ chức cúng. Khi trong buồng có phụ nữ mang thai thì kiêng không sửa buồng
và giường ở trong buồng. Hàng ngày kiêng động chạm mạnh nền đất trong buồng,
không gây tiếng ồn ào trong đó nếu không phải sửa buồng hoặc sửa nhà...
- Ma cửa (mườn quyên miến) được thờ tại cửa chính của ngôi nhà. Vì vậy
vào dịp tết Nguyên đán, chủ nhà cắt giấy màu đỏ dán lến phái trên cửa chính. Các
ngày Tết, thắp một nén hương cắm xuống đất ngay cạnh cửa chính, nếu thắp hai nén
thì cắm mỗi bên cửa một nén. Nếu phía nào làm bàn thờ thì ngày mồng một và ngày
Rằm hàng tháng thắp một nén hương lên bàn thờ đó. Hàng ngày cấm kỵ mọi người,
đặc biệt là phụ nữ ngồi ở chính giữa cửa chính, không treo đồ “uế tạp” lên cửa
chính ...
- Ma bếp (dố miến), là ma bếp lò, thường trú ngụ tại chỗ bếp lò nấu cám lợn
của gia đình. Nhóm Dao Tiền ở một số địa phương lập bàn thờ ở phía trên bếp lò để
cúng ma này vào dịp tết Nguyên đán và Rằm tháng Bảy; trong khi nhóm Dao Đỏ ở
Hà Giang lại thờ cúng Ma bếp cùng với tổ tiên tại bàn thờ tổ tiên. Nhóm Dao Áo
Dài không có bàn thời và chỉ cúng ma này khi con cháu trong nhà bị ốm mà bói
thấy. Vì vậy, bếp nấu nướng, đặc biệt là bếp lò trong nhà người Dao có nhiều kiêng
kỵ, phụ nữ mang thai hoặc hoặc đang ở cữ không được trèo lên bếp, trẻ em không
đái vào bếp, không phơi quần lót của phụ nữ ở phía trên bếp...
Ngoài ra, các nhóm Dao nói phương ngữ Mùn như Dao Tuyển (Dao Áo
Dài), Dao Quần Trắng và Dao Thanh Y, đặc biệt là nhóm Dao Tuyển ở phía dưới
bàn thờ tổ tiên còn có một bàn thờ để thờ cúng thổ công, thổ địa và thần chăn nuôi.

81
Vì vậy, bàn thờ này cũng rất linh thiêng như bàn thờ tổ tiên và được tổ chức cúng
vào các dịp lễ tết như khi cúng tổ tiên. Ở các nhóm Dao này còn có quan niệm về
ma phát tâu dùng, tức nhờ ma tổ tiên dùng chai nước treo ở phía trên cửa chính, sát
mái nhà để “đuổi con ma chuyên đến ăn cắp lửa vào ban đêm tại bếp” (vì ngày xưa
đồng bào phải đốt lửa cả ngày và đêm giữ lửa, vừa có lửa dùng vào việc nấu nướng,
vừa ấm cúng vào mùa Đông) nhằm phòng hỏa không cháy nhà. Vì vậy hàng năm
khi cúng tổ tiên thì phải khấn báo tổ tiên về việc này, đồng thời thay nước trong
chai treo ở phía trên cửa chính.
Nét nổi bật khác về văn hóa và tín ngưỡng của người Dao là tranh thờ, lễ cấp
sắc.
Tranh thờ
Tranh thờ là sản phẩm vừa mang yếu tố nghệ thuật, vừa mang yếu tố tâm
linh; được dùng trong ngày Tết, các nghi lễ thờ cúng, lễ Cấp sắc, tết Nhảy; mỗi nghi
lễ có những loại tranh riêng.
Tranh được vẽ trên giấy dó, có thể tự làm, song thường từ vùng đồng bằng
đưa lên (loại giấy để vẽ tranh Đông Hồ), có đặc tính xốp nhẹ, bền dai, không nhòe
khi viết vẽ, ít bị mối mọt, ẩm mốc; rộng 50cm, dài khoảng 1m.
Giấy mua về, dùng một loại keo đặc biệt (làm từ gạo nếp, bì trâu băm nhỏ,
vài lát cây rừng… đun sôi nhỏ lửa trong 2 ngày, 2 đêm), có độ bền dính cao để bồi
(phết hồ lên từng tấm giấy, rồi ghép từ 10 - 15 tấm giấy dó được bồi vào nhau, tạo
nên một tấm giấy dày khoảng 0,3mm. Treo tấm giấy bồi - ghép đó ở chỗ thoáng
gió, dưới bóng râm, để lớp keo kết dính khô dần, sau đó cất trên gác bếp để tránh
ẩm mốc, hư hỏng.
Mỗi bộ tranh thờ thường có 36 tờ (bức), được nghệ nhân người Dao (thường
là các thầy cúng) vẽ trong vòng 1 năm. Khi thầy cúng nhận lời vẽ, chọn ngày đẹp
hợp với tuổi của gia chủ làm lễ xin thần linh cho khai bút. Tranh vẽ xong, thầy chọn
ngày tốt để treo tranh và làm lễ khai quang.

Trong một bức tranh thờ vẽ nhiều các vị thần linh bảo trợ cho cuộc
sống của con người. Vị thần nào có quyền năng lớn được vẽ to, chiếm vị trí
trung tâm; các thần ít quyền năng hơn được vẽ đơn giản, nhỏ. Nội dung của
tranh thể hiện quan niệm của con người thủa sơ khai về vũ trụ, theo tục thờ
Đạo giáo, được người Dao “dân tộc hoá” thành nét văn hoá đặc trưng. Ba vị

82
thần có quyền lực tối thượng cai quản ở 3 nơi, giữ vị trí trung tâm trong các
bộ tranh thờ là: Ngọc Thanh (thần cai quản trên trời), Thượng Thanh (thần cai
quản trần gian), Thái Thanh (thần cai quản âm phủ), trong đó thần Ngọc
Thanh có vị trí cao hơn cả. Ba vị có khi được vẽ độc lập trong từng bức tranh,
nhưng cũng có khi được vẽ chung với nhau, hoặc được vẽ hòa cùng với nhiều
vị thần khác. Trong một khuôn tranh có đủ các lớp không gian, thời gian, thực
và ảo khác nhau, các thần chính, thần phụ, ma quỷ và con người. Có những
bức tranh thờ vẽ đủ các cảnh, từ mặt đất lên bầu trời, từ núi sông tới biển cả,
từ địa ngục tới tiên cảnh, tùy theo trí tưởng tượng của người vẽ; tạo ra một
không gian tranh mênh mang, thời gian tranh vô tận; thể hiện phong cách
sáng tác khoáng đạt của người vẽ tranh.
Gam màu trong mỗi bức tranh là xanh, đỏ, tím, vàng, đen, trắng được cụ thể
trong từng họa tiết...; song tùy thuộc vào chủ đề hay nhân vật. Chẳng hạn, trang
phục của Ngọc Thanh là màu xanh da trời, màu xanh lá cây, màu trắng; tranh vẽ
Thượng Thanh chủ đạo là màu xanh lá cây, xanh da trời, nâu sẫm; còn tranh vẽ
Thái Thanh chủ yếu là màu đỏ, đen, vàng, nâu.
Trong các nghi lễ thờ cúng của gia đình người Dao, các bức tranh thờ thường
treo kín trên vách nhà được những người hiểu biết về nội dung chỉ dẫn cho người
chưa biết; giúp người xem hiểu được về thế giới quan và vũ trụ quan của người
Dao, mang lại niềm tin cho con người vào thế giới tự nhiên để hướng tới giá trị cốt
cách hướng thiện. Khi cúng xong, bọc gói tranh cẩn thận rồi treo lên xà nhà để tránh
ẩm mốc, hư hỏng.

Tranh thờ của người Dao không chỉ là tín ngưỡng, mà còn là niềm tin,
là cách lý giải về vũ trụ, về các hiện tượng trong cuộc sống từ thủa xa xưa.
Tranh thờ chứa đựng nhiều giá trị giáo dục, tính nhân văn cao. Vì thế, tục thờ
tranh dân gian, được bảo tồn từ đời này qua đời khác, trở thành tài sản văn
hóa của cộng đồng người Dao.
Lễ Cấp sắc

Cấp sắc (quá tăng), “Quá” nghĩa là trải qua hoặc vượt qua thử thách, “Tăng”
là đèn hoặc vật dụng dùng để soi sáng). Hiểu một cách đơn giản, đây là nghi lễ vòng
đời người quan trọng nhất ở người Dao; có người còn coi đây là lễ thành đinh, vì phải
trải qua nghi lễ mới được cộng đồng công nhận đã trưởng thành, mới có thể trở thành

83
người có vị trí trong xã hội; nếu chưa làm lễ thì khi sống không được thờ cúng cha
mẹ đã khuất, khi chết không được về với tổ tiên, không được coi là con cháu của Bàn
Vương (tổ chung của người Dao).

Lễ Cấp sắc thường có 3 cấp, tính theo số đèn:


- 3 đèn (với 36 binh mã), 7 đèn (72 binh mã), tổ chức trong phạm vi
từng dòng họ. Mỗi đén ứng với một ông thầy. Trong 3 hoặc 7 thầy có thầy cả
(“chí chẩu sai” hoặc “cô tàn sai”), các thầy phụ (gồm: dần chái, tình mình, pá
tạn, tông tàn).
- 12 đèn (120 binh mã) có thể nhiều dòng họ cùng tổ chức một lễ cho
nhiều người, nhiều hay ít lại phụ thuộc vào người chủ đứng ra vận động
(thường từ 20 người trở lên).
Một lễ cấp sắc có thể làm cho một hoặc nhiều người, nhưng phải là số
lẻ. Lễ cấp sắc trong gia đình được tiến hành từ trên xuống dưới (từ cha đến
con, từ anh, đến em; người đã có vợ mà chưa qua cấp sắc được làm lễ trước).
Gia chủ phải sửa lễ kính cáo, xin phép tổ tiên và thời điểm tiến hành lễ
cấp sắc cho các thành viên (được chọn rất cẩn thận); phải nuôi hai con lợn
(một đực, một cái), gà, rượu, gạo … để sửa lễ, làm cỗ mời họ hàng.
Trước khi hành lễ, người được cấp sắc phải kiêng quan hệ vợ chồng
(nếu đã có vợ) hoặc để ý đến phụ nữ, không nói tục, chửi bậy ... Trong những
ngày hành lễ, các thầy và người thụ lễ đều phải kiêng thịt và các đồ có mỡ.
Lễ Cấp sắc được tiến hành vào những tháng cuối năm. Lễ 3 đèn kéo dài 1 - 2 ngày;
lễ 7 đèn 3 - 5 ngày với các nghi lễ chính trình diện và thụ đèn.

Ông thầy được chọn làm lễ phải cao tay, người được cấp sắc cũng phải
thuần thục các nghi lễ quy định trong các đạo sắc.
Trong lễ trình diện, gia chủ mổ lợn để lễ tổ tiên. Các thầy phải tẩy uế
xong mới đánh trống mời tổ tiên về dự, sau đó làm lễ khai đàn, báo cho tổ
tiên biết lý do của buổi lễ.
Tiếp đó, tại lễ thụ đèn, người được Cấp sắc ăn mặc chỉnh tề ngồi trước
bàn thờ, hai tay giữ một cây tre, nứa, ngang vai có đục và xuyên một thanh
ngang dài vừa tầm vai để thầy đốt đèn, đặt nến để làm lễ.

84
Người thụ lễ được cấp đạo sắc với 10 điều cấm và 10 điều nguyện, tên
âm của người đó cũng được ghi luôn trong đó để khi chết về được với tổ tiên.
Điều quan trọng nhất trong các buổi lễ này là cấp pháp danh cho người
thụ lễ. Người thụ lễ lấy vạt áo để hứng gạo từ thầy cả và cha đẻ, sau đó quan
sát và học một số điệu múa từ các thầy.
Kết thúc nghi lễ, các thầy múa để dâng rượu, lễ vật tạ ơn thần linh.
Nghi lễ cấp sắc tái hiện quá trình của một con người từ lúc lọt lòng, biết đi,
lớn lên biết lên nương, lên rẫy và làm nương, rẫy, biết nương tựa vào núi rừng để
trưởng thành. Trong lễ Cấp sắc có rất nhiều nghi thức được thực hiện tuần tự từng
bước, mỗi nghi thức có những nội dung, ý nghĩa khác nhau và có một thầy đảm
nhiệm. Trong đó, phần quan trọng nhất của lễ cấp sắc là nghi lễ cấp đèn, binh mã và
ấn tín. Phần này thường nằm ở khoảng giữa của nghi lễ. Lễ lên đèn cấp sắc cơ bản
nhất được biểu trưng bằng một một vật hình trụ, trên vật có các nhánh để đặt đèn.
Trong quá trình Cấp sắc chính thức, người thụ lễ (đệ tử) sẽ được ngồi lên ghế có
dán giấy đỏ thể hiện có vị trí. Những chiếc đèn với ý nghĩa soi sáng cho cơ thể, tẩy
rửa các tội lỗi để trở thành người tốt. Vị trí đèn được đặt đúng theo quy định, thể
hiện vị trí cao thấp khác nhau của người thụ lễ. Khi thắp đèn xong, các thầy đọc các
bài văn khấn và đi vòng quanh các đệ tử, coi như các đệ tử dần dần được truyền bùa
phép. Đến khi các đệ tử được truyền bùa phép hết và được phân binh tướng thì
người thụ lễ mới thật sự trưởng thành, có vị trí trong xã hội.

Nội dung giáo huấn thể hiện trong các đạo sắc nhằm hướng con người
đến cái thiện (biết ơn cha mẹ, thủy chung vợ chồng, tôn trọng bạn bè, anh em,
không dâm ô, trộm cắp…). Tất cả đều được thiêng hoá và chúng trở thành
những giá trị đạo đức mà mỗi con người phải gìn giữ, phấn đấu vươn tới. Nội
dung của nghi lễ thể hiện những khát khao, mơ ước của con người về một thế
giới tươi đẹp, mỗi người đều có cuộc sống no ấm, hạnh phúc.
CÂU HỎI ÔN TẬP, HƯỚNG DẪN TÀI LIỆU ĐỌC THÊM

1. Câu hòi ôn tập


- Đặc trưng xã hội các tộc người vùng Đông Bắc
- Đặc trưng văn hóa các tộc người vùng Đông Bắc
- Những lưu ý khi đến với gia đình các tộc người vùng Đông Bắc.

85
2. Hướng dẫn tài liệu đọc thêm
1. Bế Viết Đẳng (Chủ biên), Người Dao ở Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng & phân vùng văn hóa ở Việt Nam, Nxb.
Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh,.
3. Đặng Nghiêm Vạn (2001), Văn hóa Việt Nam đa tộc người, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội.
4. Đặng Nghiêm Vạn (2009), Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam, Nxb. Đại học
Quốc gia Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
5. Cư Hòa Vần, Hoàng Nam (1994), Dân tộc Mông ở Việt Nam, Nxb. Văn hóa dân
tộc, Hà Nội.
6. Viện Dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Bắc),
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tái bản năm 2015.
7. Viện Dân tộc học (1992), Các dân tộc Tày-Nùng ở Việt Nam, Hà Nội.
8. Viện Dân tộc học (2016), Các dân tộc ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tập 2 (Nhóm Ngôn ngữ Tày - Thái Ka đai).
9. Viện Dân tộc học (2017), Các dân tộc ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tập 3 (Nhóm Ngôn ngữ Môn - Khơ-me).
10. Viện Dân tộc học (2018), Các dân tộc ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tập 4 (Quyển 1, Nhóm Ngôn ngữ Hmông - Dao và Tạng - Miến).
11. La Công Ý (2010), Đến với người Tày và văn hóa Tày, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội.

86

You might also like