You are on page 1of 66

CHUYÊN ĐỀ 1: MỘT SỐ NỀN VĂN MINH CỔ ĐẠI TRÊN ĐẤT NƯỚC VIỆT NAM

A. VĂN MINH VĂN LANG – ÂU LẠC


I. Khái niệm văn hóa – văn minh
Văn hóa là 1 hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích
lũy qua quá trình thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội,
hình thành từ khi con người xuất hiện cho đến ngày nay. Văn hóa có hai dạng vật chất và tinh thần.
Văn hóa vật chất là sản phẩm do con người tạo ra có thể cảm nhận, sờ nắn được. Văn hóa tinh thần
là sản phẩm cũng do con người tạo ra nhưng không thể động chạm được (tín ngưỡng, tôn giáo, lễ
hội).
Văn minh: chỉ trình độ phát triển cao của văn hóa ở một số phương diện nhất định (vật
chất, kĩ thuật) và được coi là một “lát cắt của văn hóa” khi chỉ xuất hiện ở một giai đoạn nhất định
(khi xã hội đã có giai cấp và nhà nước)... (hoặc hiểu văn minh là trạng thái phát triển cao của văn
hóa)… (Ví dụ: văn minh Văn Lang - Âu Lạc, văn minh Đại Việt…)
=> Như vậy, văn minh là trình độ phát triển cao hơn của văn hóa. Có văn minh thì nhất định sẽ có
văn hóa nhưng có văn hóa thì chưa chắc đã có văn minh.
Nội dung Văn hóa Văn minh
Giá trị Chứa các giá trị vật chất và tinh thần Chủ yếu thiên về các giá trị vật chất
Trình độ phát Có bề dày lịch sử Chỉ trình độ phát triển nhất định của
triển văn hóa từng giai đoạn
Phạm vi Có tính dân tộc Có tính quốc tế
Nguồn gốc Găn bó nhiều hơn với phương Đông Gắn bó nhiều hơn với phương Tây đô
nông nghiệp thị

II. Văn minh Văn Lang – Âu Lạc


1. Nhà nước Văn Lang – Âu Lạc
a. Cơ sở/ điều kiện ra đời:
Khoảng cuối TNK I TCN, các cư dân văn hóa Đông Sơn sống dọc lưu vực sông Hồng, sông
Mã, sông Cả đã sớm hình thành các quốc gia riêng. Việc hình thành các quốc gia cổ Văn Lang- Âu
Lạc dựa trên cơ sở những chuyển biến về kinh tế, xã hội ở thời kì văn hóa Đông Sơn.
* Điều kiện kinh tế

1
+ Nhờ sự tiến bộ của kỹ thuật luyện kim, đến thời Đông Sơn, công cụ lao động bằng đồng thau đã
trở nên phổ biến và con người đã biết rèn sắt, nên cư dân đã phát triển nền kinh tế nông nghiệp
trồng lúa nước, dùng cày với sức kéo của trâu bò.
+ Nông nghiệp trở thành ngành kinh tế chính, đảm bảo một khối lượng lương thực chính cần thiết
của cư dân. Bên cạnh đó, việc săn bắn, chăn nuôi, đánh cá… góp phần làm gia tăng nguồn thực
phẩm cho con người. Đời sống của người Việt cổ được đảm bảo và ngày càng phát triển.
+ Sự phát triển của các nghề thủ công, đã nảy sinh sự phân công lao động giữa nông nghiệp và thủ công
nghiệp, tạo ra sự chuyên môn hóa trong lao động, với nhiều ngành nghề... Đặc biệt là sự phát triển rực rỡ
của nghề đúc đồng – đạt đến trình độ kỹ thuật, nghệ thuật, mỹ thuật cao…
* Biến chuyển về xã hội
+ Thời Phùng Nguyên, bắt đầu có hiện tượng phân hóa xã hội giữa giàu và nghèo. Đến thời Đông
Sơn, sự phân hóa đó ngày càng phổ biến. Điều này được phản ánh qua những hiện vật được chôn
theo trong các khu mộ táng, cũng như những truyền thuyết lịch sử.
+ Tổ chức công xã thị tộc mất dần vai trò lịch sử của mình, công xã nông thôn – làng xóm, gia
đình phụ hệ ra đời thay thế. Đồng thời, yêu cầu phát triển của xã hội đòi hỏi có một tổ chức để
quản lý, điều hành xã hội.
=> Chuyển biến kinh tế- xã hội là điều kiện tiên quyết để hình thành nhà nước
* Nhu cầu trị thủy và làm thủy lợi:
Để bảo vệ nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước trước nạn lũ lụt thường xuyên đe dọa. Người
Việt cổ phải thường xuyên đấu tranh chống lại những hiện tượng bất thường của tự nhiên…
* Nhu cầu tự vệ, chống ngoại xâm, nhà nước Văn Lang ra đời (khoảng thế kỉ VII TCN): nước ta ở
vào vị trí địa lý mang tính chất tiếp xúc của bán đảo Đông Dương và Đông Nam Á, nằm trên đầu
mối của những luồng giao thông tự nhiên nối liền đại lục với đại dương… Nó trở thành vị trí mà
nhiều người nhòm ngó, tấn công từ nhiều phía để chiếm đoạt. Yêu cầu tự vệ chống lại các mối đe
dọa từ bên ngoài vì thế cũng sớm được đặt ra và ngày càng trở nên bức thiết.
b. Tổ chức bộ máy nhà nước
- Nhà nước Văn Lang:
+ Theo thể chế quân chủ chuyên chế sơ khai, đứng đầu là vua Hùng, giúp việc cho vua có các Lạc
hầu, Lạc tướng. Cả nước chia thành 15 bộ. Đứng đầu mỗi bộ là 1 Lạc tướng. Dưới bộ là các làng
do các Bồ chính cai quản. Chức năng của NN: cơ quan quản lí và điều hành các công việc tập thể
(trị thủy, ngoại xâm)
2
+ Chưa có luật pháp thành văn và chỉ điều hành đất nước qua tập tục.
+ Con gái vua gọi là Mị Nương, con trai là quan lang
=> Hình thái nhà nước còn sơ khai, tổ chức đơn giản. Mối quan hệ giữa nhà nước với các bộ lạc
chưa chặt chẽ. Tính chuyên chế của nhà nước đối với làng xã, với nông dân công xã còn mờ nhạt.
- Nhà nước Âu Lạc: Nhà nước Âu Lạc (208 - 179 TCN) được thành lập nối tiếp Văn Lang, bộ
máy tổ chức nhà nước cơ bản không có thay đổi, ngoại trừ chức năng quân sự mạnh hơn trước (dấu
tích hàng vạn mũi tên đồng ở Cổ Loa và 3 vòng thành Cổ Loa còn lại ngày nay). Tuy vậy, lãnh thổ
được mở rộng trên cơ sở sát nhập Văn Lang và Âu Việt, việc quản lý đất nước chặt chẽ hơn.
c. Đời sống vật chất, tinh thần của cư dân Văn Lang- Âu Lạc
* Đời sống vật chất
- Do điều kiện tự nhiên thuận lợi cư dân Việt cổ lấy kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước là ngành
kinh tế chủ đạo kết hợp với trồng trọt, chăn nuôi và làm một số nghề thủ công.
- Thức ăn: nguồn lương thực chính là gạo nếp, gạo tẻ, ngoài ra còn có các loại củ như khoai, sắn…
Thức ăn gồm các loại như rau, củ quả, tôm, cua, cá…là những thứ có sẵn trong tự nhiên, dễ kiếm,
dễ tìm, do họ trồng được, nuôi được.
- Trang phục: nam cởi trần, đóng khố; nữ mặc váy áo... Trong các ngày lễ hội họ mặc quần áo hóa
trang, đầu đội mũ có đính lông chim…=> trang phục của cư dân đơn giản, gần gũi với thiên nhiên,
phán ánh trình độ phát triển, óc thẩm mĩ và bản sắc văn hóa của người Việt.
- Cư dân Việt cổ có tập quán ở nhà sàn làm bằng gõ, tre, nứa, lá. Đồ dùng trong gia đình cũng rất
phong phú, có nhiều loại như bình, vò, thạp, mâm, chậu, bát…được làm bằng gốm, đồng thau.
Ngoài ra còn có đồ đựng bằng mây, tre, nứa, vỏ bầu…rất đơn giản và có sẵn trong tự nhiên.
=> Chứng tỏ cư dân Việt cổ có đời sống giản dị, đạm bạc, thích ứng hòa nhập với tự nhiên. Đây
cũng là bản sắc riêng của người Việt.
* Đời sống tinh thần:
- Cư dân Việt cổ có tục nhuộm răng đen, ăn tràu, xăm mình, đeo đồ trang sức .... Tục cưới xin, ma
chay, lễ hội khá phổ biến, nhất là lễ hội mùa xuân với những phong tục thuần hậu chất phát....
Nhạc cụ phong phú..
- Cư dân Văn Lang - Âu Lạc có chung một cội nguồn, tổ tiên, tập quán. Vì vậy tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên và thờ cúng, sùng kính những người có công với làng nước là nét đặc sắc.
- Tín ngưỡng chủ yếu và phổ biến như là thờ thần linh, thần sông, thần núi, thần mặt trời....

3
=> Những thành tựu về đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang Âu Lạc là nền tảng
định hình những giá trị truyền thống và bản sắc của dân tộc Việt.
d. Vị trí, ý nghĩa
- Mở ra thời kì mới cho lịch sử dân tộc: thời kì dựng nước và giữ nước đồng thời đánh dấu sự xuất
hiện của một quốc gia cổ ở lưu vực sông Hồng trên bản đồ khu vực Đông Nam Á
- Tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển của nền văn minh Văn Lang – Âu Lạc (văn minh
sông Hồng). Xây dựng nền văn minh bản địa, đậm đà bản sắc dân tộc.
2. Văn minh Văn Lang – Âu Lạc
a. Tên gọi: Các tên gọi khác nhau:
- Văn minh sông Hồng (gọi theo địa bàn/không gian hình thành). Nhưng thực ra địa bàn của văn
minh Văn Lang - Âu Lạc hay văn minh Việt cổ ngoài lưu vực sông Hồng còn bao gồm cả các triền
sông lớn khác của vùng Bắc Trung Bộ như sông Mã, sông Cả,...
- Văn minh Văn Lang - Âu Lạc (gọi theo tên quốc gia/nhà nước hình thành)
- Văn minh Đông Sơn (gọi theo tên gọi nền văn hóa tiêu biểu nhất)
- Văn minh Lạc Việt/Việt cổ (gọi theo tên tộc người chủ thể của nền văn minh)...
- Tên gọi phổ biến: Văn minh sông Hồng; văn minh Văn Lang - Âu Lạc
b. Điều kiện hình thành
* Điều kiện tự nhiên:
- Nền văn minh đầu tiên của nước ta được hình thành trên vùng châu thổ các con sông lớn ở Bắc
Bộ và Bắc Trung Bộ: sông Hồng, sông Mã, sông Cả. Nơi đây, có những đồng bằng rộng lớn, màu
mỡ, có khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi cho cuộc sống của con người...
- Nhưng do đặc trưng của khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mưa nhiều, với lượng nước rất lớn, những đợt mưa
kéo dài, nên thường gây gió bão, lụt lớn.
→ Do vậy, cũng như nhiều nước phương Đông khác, cư dân Việt cổ vừa tiếp nhận những điều kiện
thuận lợi và phải đấu tranh với những khó khăn. Đó chính là cơ sở cho một nền văn minh mới được
hình thành.
* Cơ sở kinh tế:
- Nhờ sự tiến bộ của kỹ thuật luyện kim, đến thời Đông Sơn, công cụ lao động bằng đồng thau đã
trở nên phổ biến và con người đã biết rèn sắt, nên cư dân đã phát triển nền kinh tế nông nghiệp
trồng lúa nước, dùng cày với sức kéo của trâu bò.

4
- Nông nghiệp trở thành ngành kinh tế chính, đảm bảo một khối lượng lương thực chính cần thiết
của cư dân. Bên cạnh đó, việc săn bắn, chăn nuôi, đánh cá… góp phần làm gia tăng nguồn thực
phẩm cho con người. Đời sống của người Việt cổ được đảm bảo và ngày càng phát triển.
- Sự phát triển của các nghề thủ công, đã nảy sinh sự phân công lao động giữa nông nghiệp và thủ công
nghiệp, tạo ra sự chuyên môn hóa trong lao động, với nhiều ngành nghề... Đặc biệt là sự phát triển rực rỡ
của nghề đúc đồng – đạt đến trình độ kỹ thuật, nghệ thuật, mỹ thuật cao.
=> Điều kiện kinh tế đóng vai trò quan trọng, là nền tảng quyết định đưa đến sự chuyển biến xã
hội, ra đời nhà nước và hình thành nền văn minh.
* Điều kiện dân cư- xã hội
- Chủ nhân là các nhóm cư dân thuộc chủng tộc Nam Á (Việt - Mường, Môn Khơme), Tày -
Thái...
- Sự phát triển của sản xuất và trao đổi đã dẫn đến sự phân hóa và sự thay đổi quan hệ xã hội. Đến
thời Đông Sơn, mức độ phân hóa giàu nghèo trở nên phổ biến. Điều này được phản ánh qua những
hiện vật được chôn theo trong các khu mộ táng.
- Tổ chức công xã thị tộc mất dần vai trò lịch sử của mình, công xã nông thôn – làng xóm, gia đình
phụ hệ ra đời thay thế. Đồng thời, yêu cầu phát triển của xã hội đòi hỏi có một tổ chức để quản lý,
điều hành xã hội.
→ Sự phân hóa xã hội trên nền tảng của sự phát triển kinh tế đã tạo nên những tiền đề cần thiết để
hình thành nền văn minh.
* Yêu cầu trị thủy và chống ngoại xâm:
+ Để bảo vệ nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước trước nạn lũ lụt thường xuyên đe dọa. Người
Việt cổ phải thường xuyên đấu tranh chống lại những hiện tượng bất thường của tự nhiên…
+ Mặt khác, nước ta ở vào vị trí địa lý mang tính chất tiếp xúc của bán đảo Đông Dương và Đông
Nam Á, nằm trên đầu mối của những luồng giao thông tự nhiên nối liền đại lục với đại dương… Nó
trở thành vị trí mà nhiều người nhòm ngó, tấn công từ nhiều phía để chiếm đoạt. Yêu cầu tự vệ
chống lại các mối đe dọa từ bên ngoài vì thế cũng sớm được đặt ra và ngày càng trở nên bức thiết.
→ Như vậy, mặc dầu sự phân hóa xã hội chưa sâu sắc, nhưng do yêu cầu trị thủy, chống ngoại
xâm đã buộc cư dân Việt cổ trong các cộng đồng gần nhau sớm liên kết với nhau, dẫn đến sự ra đời
sớm của nền văn minh Văn Lang – Âu Lạc.
c. Thành tựu
* Tổ chức nhà nước
5
- Nhà nước Văn Lang: Theo thể chế quân chủ chuyên chế sơ khai, đứng đầu là vua Hùng, giúp việc
cho vua có các Lạc hầu. Cả nước chia thành 15 bộ. Đứng đầu mỗi bộ là 1 Lạc tướng. Dưới bộ là
các làng do các Bồ chính cai quản. Chức năng của NN: cơ quan quản lí và điều hành các công việc
tập thể (trị thủy, ngoại xâm). Chưa có luật pháp thành văn và chỉ điều hành đất nước qua tập tục.
=> Hình thái nhà nước còn sơ khai, tổ chức đơn giản. Mối quan hệ giữa nhà nước với các bộ lạc
chưa chặt chẽ. Tính chuyên chế của nhà nước đối với làng xã, với nông dân công xã còn mờ nhạt.
- Nhà nước Âu Lạc: Nhà nước Âu Lạc (208 - 179 TCN) được thành lập nối tiếp Văn Lang, bộ máy
tổ chức nhà nước cơ bản không có thay đổi, ngoại trừ chức năng quân sự mạnh hơn trước (dấu tích
hàng vạn mũi tên đồng ở Cổ Loa và 3 vòng thành Cổ Loa còn lại ngày nay). Tuy vậy, lãnh thổ
được mở rộng trên cơ sở sát nhập Văn Lang và Âu Việt, việc quản lý đất nước chặt chẽ hơn.
- Thời Văn Lang đóng đô ở Phong Châu (di tích đền Hùng còn lại ngày nay). Đến thời Âu Lạc đã
mở rộng địa bàn xuống vùng đồng bằng, lấy vùng Cổ Loa làm kinh đô (khu di tích Cổ Loa còn lại
ngày nay).
* Sản xuất kinh tế:
- Nghề nông trồng lúa nước có bước tiến rõ rệt: người dân “lợi dụng nước triều lên xuống” để
canh tác, gọi là ruộng Lạc...
- Các nghề đúc đồng, rèn sắt phát triển hơn trước tạo ra các loại công cụ (cày, cuốc), vật dụng
(thau, thạp, trống), vũ khí (dao găm, qua, mũi tên...). Hiện vật tiêu biểu có trống đồng Đông Sơn
(điển hình nhất là trống đồng Ngọc Lũ), thạp đồng Đào Thịnh.
- Các nghề gốm, dệt, đan lát, đánh cá...cũng hình thành với dấu vết các loại hình đồ gốm (vò,
chum, vại...) và “dọi xe chỉ” còn tìm thấy trong các khu khảo cổ học...
* Đời sống sinh hoạt vật chất:
- Ăn: nguồn lương thực chính là gạo nếp, gạo tẻ, ngoài ra còn có các loại củ như khoai, sắn…Thức
ăn gồm các loại như rau, củ quả, tôm, cua, cá…là những thứ có sẵn trong tự nhiên, dễ kiếm, dễ
tìm, do họ trồng được, nuôi được…=> chứng tỏ đời sống giản dị, đạm bạc, thích ứng với tự nhiên.
- Trang phục: nam cởi trần, đóng khố; nữ mặc váy áo... Trong các ngày lễ hội họ mặc quần áo hóa
trang, đầu đội mũ có đính lông chim…=> trang phục của cư dân đơn giản, gần gũi với thiên nhiên,
phán ánh trình độ phát triển, óc thẩm mĩ và bản sắc văn hóa của người Việt, chứng tỏ nghề dệt phát
triển…
- Nhà ở: cư dân ở nhà sàn, đồng bằng cư dân ở nhà tranh tre nứa lá. Cư dân ở nhà sàn vì nó thích
hợp với đạ hình trung du, ven sườn đồi và tránh được thú dữ. Ở nhà đất lợp bằng mái lá – đó là loại
6
lá to bản, dày, và có độ dẻo, cư dân đem phơi khô làm mái lợp: lá cọ. Đồ dùng trong gia đình cũng
rất phong phú, có nhiều loại như bình, vò, thạp, mâm, chậu, bát…được làm bằng gốm, đồng thau.
Ngoài ra còn có đồ đựng bằng mây, tre, nứa, vỏ bầu…rất đơn giản và có sẵn trong tự nhiên.
* Đời sống văn hóa tinh thần:
- Hình thành và bảo tồn được tiếng Việt cổ (tiếng mẹ đẻ) dù chưa sáng tạo ra chữ viết...
- Tín ngưỡng: sùng bái các hiện tượng tự nhiên, thờ cúng tổ tiên, vua Hùng; vạn vật hữu linh, phồn
thực...
- Phong tục tập quán: nhộm răng ăn trầu, làm bánh chưng bánh dày, các lễ hôi gắn với nông
nghiệp...
- Nghệ thuật tạo hình, trang trí, tư duy hình khối, lưỡng hợp hình thành (thể hiện rõ nhất qua các
họa tiết trang trí trên trống đồng)...
=> Những di sản văn hóa còn được bảo tồn và phát huy đến tận ngày nay như Hát xoan, tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, lễ hội đền Hùng, tục ăn trầu cau, cúng bánh chưng, bánh dày...
d. Đặc điểm
- Về kỹ thuật chế tác: Nền văn minh sông Hồng hình thành và phát triển trên cơ sở cuộc cách mạng
luyện kim với nghề đúc đồng dần đạt đến mức hoàn thiện (tiêu biểu là nền văn hóa Đông Sơn). Và
trên cơ sở đỉnh cao của nghệ thuật đúc đồng đó, chủ nhân của nền văn hóa đã bước vào Sơ kỳ thời
đại đồ sắt.
- Về đời sống kinh tế: là nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước của người Việt cổ sống trong
khu vực nhiệt đới gió mùa, một xứ sở có nhiều sông nước, núi rừng, đồng bằng và biển cả.
- Về kết cấu xã hội: Là nền văn minh xóm làng dựa trên cơ cấu nông thôn kiểu Á châu của một xã hội
chưa phân hóa gay gắt và Nhà nước mới hình thành. Nhà nước đó vừa có mặt bóc lột công xã, lại vừa
đại diện cho lợi ích chung của công xã trong yêu cầu tổ chức đấu tranh chinh phục thiên nhiên, chống
thiên tai, khai hoang, làm thủy lợi và tự vệ, chống ngoại xâm.
- Về cội nguồn sâu xa: Là nền văn minh bản địa, có cội rễ và cơ sở sâu xa trong cuộc sống lâu đời của
các lớp cư dân trên lãnh thổ Văn Lang – Âu Lạc thuở đó, được hình thành trước khi tiếp thu nền văn
minh Trung Hoa, Ấn Độ.
- Nó phát triển phong phú, đa dạng với những biểu hiện đặc trưng riêng trong đời sống chính trị - xã
hội, đời sống vật chất và tinh thần. Kết tinh trong đó bản lĩnh truyền thống, cốt cách và lối sống của
người Việt.

7
- Về sự giao lưu văn hóa: là nền văn minh sớm có quan hệ giao lưu mật thiết với các nền văn minh
láng giềng, đặc biệt là văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ.
e. Giá trị
- Đây là nền văn minh đầu tiên của người Việt cổ, kết tinh thành quả lao động sản xuất, thích ứng
với môi trường tự nhiên và xã hội của người Việt cổ trên cơ sở các nền văn hóa trước đó từ Phùng
Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun tới Đông Sơn..., là nền văn minh có cội nguồn lâu đời của cư dân
nông nghiệp trồng lúa nước ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, mang tính dân tộc đậm nét, kết tinh trong
đó bản lĩnh, truyền thống, cốt cách, lối sống và lẽ sống của người Việt cổ.
- Khẳng định nguồn gốc bản địa lâu đời của văn hóa Việt chứ không phải là nền văn hóa ngoại lai
do người Hán về sau đưa đến bằng vó ngựa của kẻ xâm lược (chủ thể phi Ấn, phi Hoa)... mở ra
thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc.
- Đặt nền móng/tảng cho những giá trị, cội nguồn bản sắc văn hóa dân tộc về sau: Nền văn minh
Văn Lang – Âu Lạc trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài đã trở thành cội nguồn
của các nền văn minh tiếp theo của dân tộc; góp phần tạo dựng những yếu tố nền móng cốt lõi của
bản sắc văn hóa Việt Nam hiện nay.. Nó phác họa, định hình bản sắc dân tộc, là cội nguồn sức
mạnh tinh thần để nhân dân Việt Nam vượt qua mọi thử thách to lớn trong hơn 1000 năm Bắc
thuộc.
f. Những giá trị văn hóa của nền văn minh Văn Lang - Âu Lạc còn lưu giữ đến ngày hôm nay
- Mô tả các giá trị văn hóa vật chất: ăn, mặc, ở, đi lại, công cụ sản xuất… thời Văn Lang - Âu Lạc.
Ngày nay chúng ta vẫn duy trì cơm – canh – cá, mặc váy, ở nhà sàn, công cụ canh tác nông
nghiệp… nhưng có một số biến đổi, thay thế.
- Mô tả cách ứng xử với tự nhiên của cư dân Văn Lang - Âu Lạc. Ngày nay, chúng ta tiếp thu
truyền thống ứng xử hòa hợp với tự nhiên thông qua các tín ngưỡng thờ tự nhiên, lễ hội truyền
thống gắn với quá trình sản xuất nông nghiệp như thờ mẫu, thờ thánh, tứ pháp, hội lồng tồng, bảo
vệ rừng thiêng (rừng đầu nguồn)…
- Mô tả cách ứng xử với cộng đồng của cư dân Văn Lang - Âu Lạc. Nó được phát triển thành tinh
thần đoàn kết dân tộc, sự cố kết cộng đồng trong làng xã, trở thành truyền thống quý báu của dân
tộc. Để con cháu hôm nay phát huy như hội làng, Giỗ tổ, Quỹ vì người nghèo,… Đặc biệt nhấn
mạnh vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
B. Văn minh Champa- Phù Nam
I. Văn minh Chămpa
8
1. Sự ra đời của nhà nước Chăm pa:
Trên cơ sở văn hóa Sa Huỳnh, đã hình thành quốc gia cổ Chăm Pa ở Trung và Nam Trung Bộ
nước ta ngày nay.
- Ở giai đoạn của văn hóa Sa Huỳnh, trên địa bàn của nó nổi lên hai bộ lạc sinh sống: Cau và Dừa.
Với trình độ phát triển của văn hóa Sa Huỳnh, cư dân ở đây đã đứng trước ngưỡng cửa của sự
chuẩn bị lập nước ( Sự biến đổi công cụ lao động bằng sắt, kĩ thuật chế tác sắt đạt trình độ cao).
- Tuy nhiên, việc lập nước chưa được thực hiện vì trên lãnh thổ của cư dân Sa Huỳnh đang bị
phong kiến phương Bắc đô hộ cùng Âu Lạc ở Bắc Bộ. Đồng thời, bị phong kiến phương Bắc chia
thành các quận, huyện để cai trị.
- Tượng Lâm là huyện xa nhất trong các đất chiếm đóng của nhà Hán.
- Cuối thế kỉ II, nhân dân Tượng Lâm dưới sự lãnh đạo của Khu Liên đã nổi dậy khởi nghĩa giành
thắng lợi, Khu Liên tự lập làm vua, lập ra nước Lâm Ấp.
- Các vua Lâm Ấp tấn công các nước láng giêng, mở rộng lãnh thổ và qua nhiều lần đổi tên (Lâm
Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành), đến thế kỉ VI, mang tên Chămpa. Đến thế kỉ XV suy thoái và
hòa nhập vào lãnh thổ Đại Việt.
2. Thành tựu của văn minh Chămpa
a. Chính trị
- Theo thể chế quân chủ. Đứng đầu là Vua, nắm quyền hành về tất cả các mặt kinh tế, chínhtrị, tôn
giáo. Dưới vua là Tể tướng và hệ thống quan văn, quan võ. Dưới là thuộc quan (3 cấp)
- Cả nước chia làm 4 châu (quản hạt) -> huyện -> làng ( mỗi làng 200 – 500 hộ)
- Quân đội hùng mạnh: bộ binh, thủy binh, tượng binh, kị binh.
- Điều hành đất nước bằng mệnh lệnh, tập tục.
b. Đời sống vật chất- tinh thần của cư dân Chăm pa
* Đời sống vật chất
- Kinh tế nông nghiệp là chủ yếu: trồng lúa(lúa Chiêm), kê, đậu, sen mía. Ngoài ra có nghề khai
thác lâm thổ sản, thủ công nghiệp nuôi tằm, dệt lụav, kim hoàn, luyện kim...đạt trình độ cao, mang
tính tự cung tự cấp.
- Thức ăn chủ yếu như lúa, gạo, rau quả, cá... do họ tự làm ra hoặc trao đổi lẫn nhau.
- Cả nam và nữ đều quấn quấn ngang một tấm vải ngang từ lưng trở xuống. Người sang đi giày da,
hèn đi chân đất, mặc quần cộc và ở trần.

9
- Họ chặt cây làm nhà sàn để ở, nhà thường làm bằng tre, gỗ. Đơn giản, mộc mạc, hòa hợp thiên
nhiên, có nhiều nét tương đồng với cư dân Việt cổ.
* Văn hóa tinh thần
- Văn hóa chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa Ấn Độ nhưng tiếp thu có sáng tạo để xây dựng văn
hóa dân tộc:
- Phong tục, tập quán: Thờ thần linh, vua nước, vua mẹ. Ăn trầu, nhuộm răng, gặp nhau thường
chắp tay vái lạy. Tục ma chay, cưới hỏi: con gái Chăm luôn chủ động và huyết thống được tính
theo dòng mẹ. Vào ngày cưới, một thầy Balamon dắt chàng rể đến gặp cô dâu, ăn cỗ bên nhà gái
và con trai phải ở rể 1 năm. Ma chay: Người chết được hỏa táng ngoài đồng, lấy tro xương chon
trong mộ hoặc vào bình nhỏ thả xuống sông, biển, con cháu khóc lóc thảm thiết.
- Chữ viết: trên cơ sở chữ Phạn, sáng tạo ra chữ Chăm cổ.
- Tôn giáo, tín ngưỡng: tiếp thu Ấn Độ giáo nhưng chủ yếu thờ thần Siva, tiếp thu đạo Phật...
- Kiến trúc, điêu khắc: đền tháp, bệ đá, phù điêu.. tiêu biểu là tháp Chăm. Theo tiếng Chăm, tháp
có nghĩa là lăng mộ. Tháp Chăm là lăng mộ của vua và thờ các thần bảo trợ cho nhà vua.
- Ngoài ra, ca múa nhạc rất thịnh hành: múa Chăm..
=> Xây dựng một nền văn hóa đa dạng, phong phú, độc đáo mang tính bản địa trên cơ sở tiếp thu
sáng tạo văn hóa Ấn Độ: Văn hóa Ấn Độ chỉ là lớp vecni trên bề mặt văn hóa Chămpa.
II. Văn minh Phù Nam
1. Sự ra đời của nhà nước Phù Nam
- Theo truyền thuyết: Nhà nước Phù Nam ra đời là kết quả của cuộc hôn nhân giữa một chàng trai
Ấn Độ là Hỗn Điền với một người con gái bản địa đã được tôn lên làm vua là Liễu Diệp.
- Theo lịch sử:
+ Trên địa bàn châu thổ sông Cửu Long (Nam Bộ) đã hình thành nền văn hóa cổ Óc Eo cách ngày
nay 1500 – 2000 năm.
+ Trên cơ sở văn hóa Óc Eo, quốc gia cổ Phù Nam của cư dân cổ Nam Á và Nam Đảo đã hình
thành vào khoảng thế kỉ I, phát triển mạnh mẽ từ thế kỉ III – V và từng trở thành một cường quốc ở
khu vực.
+ Tuy nhiên, vào cuối thế kỉ VI, Phù Nam suy yếu do nhiều nguyên nhân và bị Chân Lạp xâm
chiếm, đến thế kỉ VII, sự tồn tại của Phù Nam với tư cách là một quốc gia hùng mạnh chấm dứt.
2. Thành tựu của Văn minh Phù Nam
a. Chính trị
10
- Theo thể chế quân chủ tập quyền. (Ấn Độ).
- Bộ máy nhà nước được tổ chức chặt chẽ theo 2 cấp:
+ Trung ương: Vua -> đại tướng quân-> quan lại phụ trách các lĩnh vực
+ Địa phương: gồm 2 cấp: thành (hoàng thân) -> ấp (tiểu vương).
- Không phải là một nhà nước thống nhất mà là tập hợp các tiểu quốc, các tiểu quốc chỉ là chư hầu.
- Vua nắm cả vương quyền và thần quyền. Đạo Balamon được sử dụng làm công cụ hữu hiệu hóa
uy quyền nhà vua.
- Pháp luật chịu ảnh hưởng của Ấn Độ nhưng chưa thành hệ thống pháp lí.
b. Đời sống vật chất- tinh thần
- Kinh tế: Hoạt động kinh tế chủ yếu là kết hợp nông nghiệp trồng lúa nước với thủ công nghiệp
và ngoại thương. Trong nông nghiệp, cư dân Phù Nam trồng lúa nước, cây ăn quả, chăn nuôi voi,
ngựa, trâu, bò... TCN phát triển ở trình độ cao. Đặc biệt, thương nghiệp đường biển ở Phù Nam rất
phát triển, Phù Nam không chỉ mở rộng buôn bán với các nước láng giêng mà còn sang tận Địa
Trung Hải, Trung Á. Đặc biệt phát triển ngoại thương đường biển.
=> Là một nền kinh tế phát triển đan xen giữa các ngành kinh tế, nền kinh tế mang tính chất kinh tế
hàng hóa.
- Đời sống vật chất: Thức ăn chính vẫn là lúa gạo, rau củ, quả. Phụ nữ mặc váy có nhiều đường
gấp nếp, áo là mảnh vải chữ nhật, có lỗ xẻ để chui đầu. Đàn ông đóng khố, cởi trần. Cư dân đi
guốc gỗ hoặc chân đất. Họ đốn cây làm nhà ở, nhà sàn ở trên nền đất đắp cao.
- Đời sống tinh thần:
+ Phong tục, tập quán: Thờ đá, thờ sinh thực khí bằng đất nung, cuội tự nhiên. Ma chay: ném
xuống sông, hỏa thiêu, chôn cất trong hầm, phơi xác cho chim mổ. Tập quán tắm rửa: nhiều gia
đình sử dụng chung một thùng tắm.( ngày nay vẫn thấy ở Campuchia).
+ Chữ viết: dùng chữ Phạn – Ấn Độ.
+ Kiến trúc, điêu khắc: đền, chùa, nhà ở thiết kế độc đáo theo hướng thích ứng với điều kiện tự
nhiên. Ở nơi đất cao thì nhà cửa xây dựng bằng gạch và đá; nơi đầm lầy xây nhà sàn bằng gỗ, lợp
lá dừa nước, xung quanh vòng thành đắp đất. Tiêu biểu nhất của văn hóa Phù Nam là các pho
tượng Phật đứng với hình dáng và chất liệu khác nhau.
=> trình độ văn hóa tương đối cao.

11
III. Hệ thống câu hỏi ôn tập
Câu 1. Phân tích cơ sở hình thành, những đặc điểm và vị trí của nền văn minh Văn Lang –
Âu Lạc đối với lịch sử dân tộc Việt Nam.
a. Điều kiện/ cơ sở hình thành
* Điều kiện tự nhiên:
- Nền văn minh đầu tiên của nước ta được hình thành trên vùng châu thổ các con sông lớn ở Bắc
Bộ và Bắc Trung Bộ: sông Hồng, sông Mã, sông Cả. Nơi đây, có những đồng bằng rộng lớn, màu
mỡ, có khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi cho cuộc sống của con người...
- Nhưng do đặc trưng của khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mưa nhiều, với lượng nước rất lớn, những đợt mưa
kéo dài, nên thường gây gió bão, lụt lớn.
→ Do vậy, cũng như nhiều nước phương Đông khác, cư dân Việt cổ vừa tiếp nhận những điều kiện
thuận lợi và phải đấu tranh với những khó khăn. Đó chính là cơ sở cho một nền văn minh mới được
hình thành.
* Cơ sở kinh tế:
- Nhờ sự tiến bộ của kỹ thuật luyện kim, đến thời Đông Sơn, công cụ lao động bằng đồng thau đã
trở nên phổ biến và con người đã biết rèn sắt, nên cư dân đã phát triển nền kinh tế nông nghiệp
trồng lúa nước, dùng cày với sức kéo của trâu bò. Nông nghiệp trở thành ngành kinh tế chính, đảm
bảo một khối lượng lương thực chính cần thiết của cư dân. Bên cạnh đó, việc săn bắn, chăn nuôi,
đánh cá… góp phần làm gia tăng nguồn thực phẩm cho con người. Đời sống của người Việt cổ
được đảm bảo và ngày càng phát triển.
- Sự phát triển của các nghề thủ công, đã nảy sinh sự phân công lao động giữa nông nghiệp và thủ công
nghiệp, tạo ra sự chuyên môn hóa trong lao động, với nhiều ngành nghề... Đặc biệt là sự phát triển rực rỡ
của nghề đúc đồng – đạt đến trình độ kỹ thuật, nghệ thuật, mỹ thuật cao.
=> Điều kiện kinh tế đóng vai trò quan trọng, là nền tảng quyết định đưa đến sự chuyển biến xã
hội, ra đời nhà nước và hình thành nền văn minh.
* Điều kiện dân cư- xã hội
- Chủ nhân là các nhóm cư dân thuộc chủng tộc Nam Á (Việt - Mường, Môn Khơme), Tày -
Thái...
- Sự phát triển của sản xuất và trao đổi đã dẫn đến sự phân hóa và sự thay đổi quan hệ xã hội. Đến
thời Đông Sơn, mức độ phân hóa giàu nghèo trở nên phổ biến. Điều này được phản ánh qua những
hiện vật được chôn theo trong các khu mộ táng.
12
- Tổ chức công xã thị tộc mất dần vai trò lịch sử của mình, công xã nông thôn – làng xóm, gia đình
phụ hệ ra đời thay thế. Đồng thời, yêu cầu phát triển của xã hội đòi hỏi có một tổ chức để quản lý,
điều hành xã hội.
→ Sự phân hóa xã hội trên nền tảng của sự phát triển kinh tế đã tạo nên những tiền đề cần thiết để
hình thành nền văn minh.
* Yêu cầu trị thủy và chống ngoại xâm:
+ Để bảo vệ nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước trước nạn lũ lụt thường xuyên đe dọa. Người
Việt cổ phải thường xuyên đấu tranh chống lại những hiện tượng bất thường của tự nhiên…
+ Mặt khác, nước ta ở vào vị trí địa lý mang tính chất tiếp xúc của bán đảo Đông Dương và Đông
Nam Á, nằm trên đầu mối của những luồng giao thông tự nhiên nối liền đại lục với đại dương… Nó
trở thành vị trí mà nhiều người nhòm ngó, tấn công từ nhiều phía để chiếm đoạt. Yêu cầu tự vệ
chống lại các mối đe dọa từ bên ngoài vì thế cũng sớm được đặt ra và ngày càng trở nên bức thiết.
→ Như vậy, mặc dầu sự phân hóa xã hội chưa sâu sắc, nhưng do yêu cầu trị thủy, chống ngoại
xâm đã buộc cư dân Việt cổ trong các cộng đồng gần nhau sớm liên kết với nhau, dẫn đến sự ra đời
sớm của nền văn minh Văn Lang – Âu Lạc.
b. Đặc điểm
- Về kỹ thuật chế tác: Nền văn minh sông Hồng hình thành và phát triển trên cơ sở cuộc cách mạng
luyện kim với nghề đúc đồng dần đạt đến mức hoàn thiện (tiêu biểu là nền văn hóa Đông Sơn). Và
trên cơ sở đỉnh cao của nghệ thuật đúc đồng đó, chủ nhân của nền văn hóa đã bước vào Sơ kỳ thời
đại đồ sắt.
- Về đời sống kinh tế: là nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước của người Việt cổ sống trong
khu vực nhiệt đới gió mùa, một xứ sở có nhiều sông nước, núi rừng, đồng bằng và biển cả.
- Về kết cấu xã hội: Là nền văn minh xóm làng dựa trên cơ cấu nông thôn kiểu Á châu của một xã hội
chưa phân hóa gay gắt và Nhà nước mới hình thành. Nhà nước đó vừa có mặt bóc lột công xã, lại vừa
đại diện cho lợi ích chung của công xã trong yêu cầu tổ chức đấu tranh chinh phục thiên nhiên, chống
thiên tai, khai hoang, làm thủy lợi và tự vệ, chống ngoại xâm.
- Về cội nguồn sâu xa: Là nền văn minh bản địa, có cội rễ và cơ sở sâu xa trong cuộc sống lâu đời của
các lớp cư dân trên lãnh thổ Văn Lang – Âu Lạc thuở đó, được hình thành trước khi tiếp thu nền văn
minh Trung Hoa, Ấn Độ. Nó phát triển phong phú, đa dạng với những biểu hiện đặc trưng riêng trong
đời sống chính trị - xã hội, đời sống vật chất và tinh thần. Kết tinh trong đó bản lĩnh truyền thống, cốt
cách và lối sống của người Việt.
13
- Về sự giao lưu văn hóa: là nền văn minh sớm có quan hệ giao lưu mật thiết với các nền văn minh
láng giềng, đặc biệt là văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ.
c. Giá trị
- Đây là nền văn minh đầu tiên của người Việt cổ, kết tinh thành quả lao động sản xuất, thích ứng
với môi trường tự nhiên và xã hội của người Việt cổ trên cơ sở các nền văn hóa trước đó từ Phùng
Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun tới Đông Sơn..., là nền văn minh có cội nguồn lâu đời của một cư
dân nông nghiệp trồng lúa nước ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, mang tính dân tộc đậm nét, kết tinh
trong đó bản lĩnh, truyền thống, cốt cách, lối sống và lẽ sống của người Việt cổ.
- Khẳng định nguồn gốc bản địa lâu đời của văn hóa Việt chứ không phải là nền văn hóa ngoại lại
do người Hán về sau đưa đến bằng vó ngựa của kẻ xâm lược (chủ thể phi Ấn, phi Hoa)... mở ra
thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc.
- Đặt nền móng/tảng cho những giá trị, cội nguồn bản sắc văn hóa dân tộc về sau: Nền văn minh
Văn Lang – Âu Lạc trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài đã trở thành cội nguồn
của các nền văn minh tiếp theo của dân tộc; góp phần tạo dựng những yếu tố nền móng cốt lõi của
bản sắc văn hóa Việt Nam hiện nay.. Nó phác họa, định hình bản sắc dân tộc, là cội nguồn sức
mạnh tinh thần để nhân dân Việt Nam vượt qua mọi thử thách to lớn trong hơn 1000 năm Bắc
thuộc.
Câu 2.
a. Em hãy nêu những nét chính về đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Văn Lang – Âu
Lạc.
b. Những phong tục tập quán nào từ thời Văn Lang – Âu Lạc còn được nhân dân ta lưu giữ
đến ngày nay? Là một học sinh bậc THPT, em thấy mình cần làm gì để giữ gìn và phát huy
truyền thống văn hóa dân tộc.
a. Nét chính về đời sống vật chất và tinh thần
* Đời sống sinh hoạt vật chất:
- Ăn: nguồn lương thực chính là gạo nếp, gạo tẻ, ngoài ra còn có các loại củ như khoai, sắn…Thức
ăn gồm các loại như rau, củ quả, tôm, cua, cá…là những thứ có sẵn trong tự nhiên, dễ kiếm, dễ
tìm, do họ trồng được, nuôi được…=> chứng tỏ đời sống giản dị, đạm bạc, thích ứng với tự nhiên.
- Trang phục: nam cởi trần, đóng khố; nữ mặc váy áo... Trong các ngày lễ hội họ mặc quần áo hóa
trang, đầu đội mũ có đính lông chim…=> trang phục của cư dân đơn giản, gần gũi với thiên nhiên,

14
phán ánh trình độ phát triển, óc thẩm mĩ và bản sắc văn hóa của người Việt, chứng tỏ nghề dệt phát
triển…
- Nhà ở: cư dân ở nhà sàn, đồng bằng cư dân ở nhà tranh tre nứa lá. Đồ dùng trong gia đình cũng
rất phong phú, có nhiều loại như bình, vò, thạp, mâm, chậu, bát…được làm bằng gốm, đồng thau.
Ngoài ra còn có đồ đựng bằng mây, tre, nứa, vỏ bầu…rất đơn giản và có sẵn trong tự nhiên.
* Đời sống văn hóa tinh thần:
- Hình thành và bảo tồn được tiếng Việt cổ (tiếng mẹ đẻ) dù chưa sáng tạo ra chữ viết...
- Tín ngưỡng: thờ cúng tổ tiên, vua Hùng; vạn vật hữu linh, phồn thực...
- Phong tục tập quán: nhộm răng ăn trầu, làm bánh chưng bánh dày, các lễ hôi gắn với nông
nghiệp...
- Nghệ thuật tạo hình, trang trí, tư duy hình khối, lưỡng hợp hình thành (thể hiện rõ nhất qua các
họa tiết trang trí trên trống đồng)...
=> Những di sản văn hóa còn được bảo tồn và phát huy đến tận ngày nay như Hát xoan, tín
ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, lễ hội đền Hùng, tục ăn trầu cau, cúng bánh chưng, bánh dày...
b. Liên hệ
* Những phong tục tập quán còn lưu giữ đến ngày nay….như thờ cúng tổ tiên và các vị anh hùng
có công với làng với nước; tục làm bánh trưng bánh giày, ăn trầu, nhuộm răng và tổ chức các lễ
hội…
* Trách nhiệm của HS:
- Thể hiện được trách nhiệm của giới trẻ trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
- Thể hiện bằng việc làm cụ thể như tự trau dồi kiến thức, nỗ lực rèn luyện vì lợi ích chung; tham
gia các sân chơi lành mạnh, bổ ích…
Câu 3. “Quốc gia Văn Lang – Âu Lạc tồn tại trên dưới 500 năm TCN. Bằng sức lao động
sáng tạo, sự đấu tranh kiên cường và bền bỉ, người Việt cổ đã xây dựng cho mình một nền
văn minh bản địa đậm đà bản sắc dân tộc …” Bằng những kiến thức lịch sử, em hãy làm
sáng tỏ nhận định trên.
a. Nhà nước Văn Lang – Âu Lạc
- Khoảng cuối TNK I TCN, các cư dân văn hóa Đông Sơn sống dọc lưu vực sông Hồng, sông Mã,
sông Cả đã sớm hình thành các quốc gia riêng. Việc hình thành các quốc gia cổ Văn Lang- Âu Lạc
dựa trên cơ sở những chuyển biến về kinh tế, xã hội ở thời kì văn hóa Đông Sơn.

15
- Nhà nước Văn Lang ra đời (khoảng thế kỉ VII TCN. Hình thái nhà nước còn sơ khai, tổ chức đơn
giản. Mối quan hệ giữa nhà nước với các bộ lạc chưa chặt chẽ. Tính chuyên chế của nhà nước đối
với làng xã, với nông dân công xã còn mờ nhạt.
- Nhà nước Âu Lạc (208 - 179 TCN) được thành lập nối tiếp Văn Lang, bộ máy tổ chức nhà nước
cơ bản không có thay đổi. Chức năng quân sự mạnh hơn trước, lãnh thổ được mở rộng trên cơ sở
sát nhập Văn Lang và Âu Việt, việc quản lý đất nước chặt chẽ hơn.
- Sự ra đời của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc đã tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển của
nền văn minh Văn Lang – Âu Lạc (văn minh sông Hồng) - nền văn minh bản địa, đậm đà bản sắc
dân tộc.
b. Văn minh bản địa đậm đà bản sắc dân tộc
* Đời sống sinh hoạt vật chất:
- Ăn: nguồn lương thực chính là gạo nếp, gạo tẻ, ngoài ra còn có các loại củ như khoai, sắn…Thức
ăn gồm các loại như rau, củ quả, tôm, cua, cá…là những thứ có sẵn trong tự nhiên, dễ kiếm, dễ
tìm, do họ trồng được, nuôi được…=> chứng tỏ đời sống giản dị, đạm bạc, thích ứng với tự nhiên.
- Trang phục: nam cởi trần, đóng khố; nữ mặc váy áo... Trong các ngày lễ hội họ mặc quần áo hóa
trang, đầu đội mũ có đính lông chim…=> trang phục của cư dân đơn giản, gần gũi với thiên nhiên,
phán ánh trình độ phát triển, óc thẩm mĩ và bản sắc văn hóa của người Việt, chứng tỏ nghề dệt phát
triển…
- Nhà ở: cư dân ở nhà sàn, đồng bằng cư dân ở nhà tranh tre nứa lá. Đồ dùng trong gia đình cũng
rất phong phú, có nhiều loại như bình, vò, thạp, mâm, chậu, bát…được làm bằng gốm, đồng thau.
Ngoài ra còn có đồ đựng bằng mây, tre, nứa, vỏ bầu…rất đơn giản và có sẵn trong tự nhiên.
* Đời sống văn hóa tinh thần:
- Hình thành và bảo tồn được tiếng Việt cổ (tiếng mẹ đẻ) dù chưa sáng tạo ra chữ viết...
- Tín ngưỡng: thờ cúng tổ tiên, vua Hùng; vạn vật hữu linh, phồn thực...
- Phong tục tập quán: nhộm răng ăn trầu, làm bánh chưng bánh dày, các lễ hôi gắn với nông
nghiệp...
- Nghệ thuật tạo hình, trang trí, tư duy hình khối, lưỡng hợp hình thành (thể hiện rõ nhất qua các
họa tiết trang trí trên trống đồng)...
Câu 4. Giải thích các tên gọi của nền văn minh Văn Lang-Âu Lạc? Hãy chứng tỏ cư dân Việt
cổ có đời sống giản dị, đạm bạc, thích ứng hòa nhập với tự nhiên?
a. Chứng tỏ cư dân Việt cổ có đời sống giản dị, đạm bạc, thích ứng hòa nhập với tự nhiên:
16
- Do điều kiện tự nhiên thuận lợi cư dân Việt cổ lấy kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước là ngành
kinh tế chủ đạo kết hợp với trồng trọt, chăn nuôi và làm một số nghề thủ công…điều này đã ảnh
hưởng đến sinh hoạt của cư dân Việt cổ. Họ có đời sống giản dị, đạm bạc, thích ứng, hòa nhập với
tự nhiên…
- Ăn: nguồn lương thực chính là gạo nếp, gạo tẻ, ngoài ra còn có các loại củ như khoai, sắn…Thức
ăn gồm các loại như rau, củ quả, tôm, cua, cá…là những thứ có sẵn trong tự nhiên, dễ kiếm, dễ
tìm, do họ trồng được, nuôi được…=> chứng tỏ đời sống giản dị, đạm bạc, thích ứng với tự nhiên.
- Trang phục: nam cởi trần, đóng khố; nữ mặc váy áo... Trong các ngày lễ hội họ mặc quần áo hóa
trang, đầu đội mũ có đính lông chim…=> trang phục của cư dân đơn giản, gần gũi với thiên nhiên,
phán ánh trình độ phát triển, óc thẩm mĩ và bản sắc văn hóa của người Việt, chứng tỏ nghề dệt phát
triển…
- Nhà ở : có nhiều kiểu cách phù hợp với điều kiện của từng miền. Ở miền núi cư dân ở nhà sàn,
đồng bằng cư dân ở nhà tranh tre nứa lá. Nguyên liệu làm nhà lấy từ những thứ có sẵn trong tự
nhiên…Nhà ở của người Việt cổ rất phù hợp với đặc điểm điều kiện tự nhiên ở Việt Nam là khí
hậu nóng ẩm, mưa nhiều. Kiến trúc nhà vừa thoáng mát lại tránh được ẩm thấp, thú dữ nhất là nhà
sàn…
- Đồ dùng trong gia đình cũng rất phong phú, có nhiều loại như bình, vò, thạp, mâm, chậu, bát…
được làm bằng gốm, đồng thau. Ngoài ra còn có đồ đựng bằng mây, tre, nứa, vỏ bầu…rất đơn giản
và có sẵn trong tự nhiên.
- Phương tiện đi lại: chủ yếu bằng chân đất phù hợp với kinh tế nông nghiệp thường xuyên phải lội
xuống bùn và điều kiện thời tiết nóng ẩm mưa nhiều, đường trơn lầy lội… Phương tiện di chuyển
chủ yếu ở dưới nước là thuyền, còn ở trên bộ là ngựa, trâu, bò, voi...rất phù hợp với đặc điểm địa
hình nước ta là sông ngòi chằng chịt, cây cối rậm rạp…
=>KL: Qua cách ăn, mặc, ở, đi lại…của người Việt cổ chứng tỏ cư dân Việt cổ có đời sống giản dị,
đạm bạc, thích ứng hòa nhập với tự nhiên. Đây cũng là bản sắc riêng của người Việt.
b. Giải thích các tên gọi của nền văn minh Văn Lang – Âu Lạc:
- Văn minh Văn Lang – Âu Lạc: gọi tên theo tên của nhà nước Văn Lang, Âu Lạc.
- Văn minh Việt cổ: chủ nhân của nền văn minh là cư dân Việt cổ.
- Văn minh sông Hồng: nền văn minh được hình thành ở lưu vực các con sông lớn như sông
Hồng, sông Mã, sông Cả nhưng chủ yếu ở lưu vực sông Hồng.

17
Câu 5. Nêu những thành tựu về đời sống vật chất và tinh thần của văn minh Văn Lang – Âu
Lạc. Tại sao nói văn minh Văn Lang – Âu Lạc định hình bản sắc dân tộc Việt Nam?
* Đời sống văn hóa, tinh thần của cư dân Văn Lang – Âu Lạc :
* Đời sống sinh hoạt vật chất:
- Ăn: nguồn lương thực chính là gạo nếp, gạo tẻ, ngoài ra còn có các loại củ như khoai, sắn…Thức
ăn gồm các loại như rau, củ quả, tôm, cua, cá…là những thứ có sẵn trong tự nhiên, dễ kiếm, dễ
tìm, do họ trồng được, nuôi được…=> chứng tỏ đời sống giản dị, đạm bạc, thích ứng với tự nhiên.
- Trang phục: nam cởi trần, đóng khố; nữ mặc váy áo... Trong các ngày lễ hội họ mặc quần áo hóa
trang, đầu đội mũ có đính lông chim…=> trang phục của cư dân đơn giản, gần gũi với thiên nhiên,
phán ánh trình độ phát triển, óc thẩm mĩ và bản sắc văn hóa của người Việt, chứng tỏ nghề dệt phát
triển…
- Nhà ở: cư dân ở nhà sàn, đồng bằng cư dân ở nhà tranh tre nứa lá. Đồ dùng trong gia đình cũng
rất phong phú, có nhiều loại như bình, vò, thạp, mâm, chậu, bát…được làm bằng gốm, đồng thau.
Ngoài ra còn có đồ đựng bằng mây, tre, nứa, vỏ bầu…rất đơn giản và có sẵn trong tự nhiên.
* Đời sống văn hóa tinh thần:
- Hình thành và bảo tồn được tiếng Việt cổ (tiếng mẹ đẻ) dù chưa sáng tạo ra chữ viết...
- Tín ngưỡng: thờ cúng tổ tiên, vua Hùng; vạn vật hữu linh, phồn thực...
- Phong tục tập quán: nhộm răng ăn trầu, làm bánh chưng bánh dày, các lễ hôi gắn với nông
nghiệp...
- Nghệ thuật tạo hình, trang trí, tư duy hình khối, lưỡng hợp hình thành (thể hiện rõ nhất qua các
họa tiết trang trí trên trống đồng)...
 Đời sống văn hóa tinh thần của cư dân VL-AL khá đa dạng, sớm tạo nên truyền thống giản dị,
thích ứng hòa nhập với thiên nhiên...
* Lí giải : văn minh Văn Lang – Âu Lạc định hình bản sắc dân tộc vì :
- Đây là nền văn minh đầu tiên của dân tộc Việt Nam (Văn minh sông Hồng)… Nền văn minh này
trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, bắt nguồn từ thời đại đồng thau đến sơ kì
thời đại đồ sắt cùng với quá trình hình thành và tồn tại quốc gia và nhà nước Hùng Vương - An
Dương Vương vào những thế kỉ VII - II TCN.
- Đây là nền văn minh mang tính bản địa đậm nét, kết tinh trong đó bản lĩnh, truyền thống, cốt
cách, lối sống và lẽ sống của người Việt cổ....Nền văn minh này phác họa nên bản sắc và truyền

18
thống ban đầu của người Việt tạo dựng nền móng cho toàn bộ đời sống kinh tế - văn hóa Việt Nam
cho các thời kỳ sau.
Câu 6. Nền văn minh Văn Lang –Âu Lạc:
- Trình bày những cơ sở và điều kiện đưa đến sự ra đời của Nhà nước Văn Lang.
- Việc sử dụng phổ biến công cụ bằng đồng trong lao động của cư dân Đông Sơn có ý nghĩa
gì?
- Vì sao nói nhà nước Âu Lạc đạt trình độ phát triển hơn so với nhà nước Văn Lang.
a. Những cơ sở và điều kiện đưa đến sự ra đời của nhà nước Văn Lang:
* Điều kiện kinh tế
+ Nhờ sự tiến bộ của kỹ thuật luyện kim, đến thời Đông Sơn, công cụ lao động bằng đồng thau đã
trở nên phổ biến và con người đã biết rèn sắt, nên cư dân đã phát triển nền kinh tế nông nghiệp
trồng lúa nước, dùng cày với sức kéo của trâu bò.
+ Nông nghiệp trở thành ngành kinh tế chính, đảm bảo một khối lượng lương thực chính cần thiết
của cư dân. Bên cạnh đó, việc săn bắn, chăn nuôi, đánh cá… góp phần làm gia tăng nguồn thực
phẩm cho con người. Đời sống của người Việt cổ được đảm bảo và ngày càng phát triển.
+ Sự phát triển của các nghề thủ công, đã nảy sinh sự phân công lao động giữa nông nghiệp và thủ công
nghiệp, tạo ra sự chuyên môn hóa trong lao động, với nhiều ngành nghề... Đặc biệt là sự phát triển rực rỡ
của nghề đúc đồng – đạt đến trình độ kỹ thuật, nghệ thuật, mỹ thuật cao…
* Biến chuyển về xã hội
+ Thời Phùng Nguyên, bắt đầu có hiện tượng phân hóa xã hội giữa giàu và nghèo. Đến thời Đông
Sơn, sự phân hóa đó ngày càng phổ biến. Điều này được phản ánh qua những hiện vật được chôn
theo trong các khu mộ táng, cũng như những truyền thuyết lịch sử.
+ Tổ chức công xã thị tộc mất dần vai trò lịch sử của mình, công xã nông thôn – làng xóm, gia
đình phụ hệ ra đời thay thế. Đồng thời, yêu cầu phát triển của xã hội đòi hỏi có một tổ chức để
quản lý, điều hành xã hội.
=> Chuyển biến kinh tế- xã hội là điều kiện tiên quyết để hình thành nhà nước
* Nhu cầu trị thủy và làm thủy lợi: Để bảo vệ nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước trước nạn lũ
lụt thường xuyên đe dọa. Người Việt cổ phải thường xuyên đấu tranh chống lại những hiện tượng
bất thường của tự nhiên…
* Nhu cầu tự vệ, chống ngoại xâm, nhà nước Văn Lang ra đời (khoảng thế kỉ VII TCN): nước ta ở
vào vị trí địa lý mang tính chất tiếp xúc của bán đảo Đông Dương và Đông Nam Á, nằm trên đầu
19
mối của những luồng giao thông tự nhiên nối liền đại lục với đại dương… Nó trở thành vị trí mà
nhiều người nhòm ngó, tấn công từ nhiều phía để chiếm đoạt. Yêu cầu tự vệ chống lại các mối đe
dọa từ bên ngoài vì thế cũng sớm được đặt ra và ngày càng trở nên bức thiết.
b. Ý nghĩa của việc sử dụng phổ biến công cụ bằng đồng trong lao động của cư dân Đông Sơn.
- Làm chuyển biến đời sống kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp. Công cụ bằng đồng thau ( sau
là gang, sắt) thay thế công cụ bằng đá giúp cư dân khai phá đất đai, mở rộng lãnh thổ, tạo nên
những cánh đồng màu mỡ ở vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã, sông Cả.
- Phân công lao động trong xã hội nông nghiệp và thủ công nghiệp thành những ngành kinh tế độc
lập với nhiều thành tựu to lớn.
- Chứng tỏ trình độ chế tác công cụ lao động ( lưỡi cày, lưỡi cuốc…) bằng đồng của cư dân Đông
Sơn phát triển cao. Nền nông nghiệp trồng lúa nước dùng cày( thay thế cho công nghiệp dùng cuốc
đá), sử dụng sức kéo của trâu bò cho năng suất cao hơn trước.
c. So với nhà nước Văn Lang, nhà nước Âu Lạc đạt trình độ phát triển mọi mặt: Nước Âu Lạc
ra đời là một bước phát triển mới, kế tục cao hơn và hoàn thiện hơn nhà nước Văn Lang ở các
điều kiện sau.
- Hoàn chỉnh bộ máy tổ chức của nhà nước Văn Lang: tổ chức quản lí đất nước chặt chẽ hơn, lãnh
thổ được mở rộng.
- Về mặt quân sự và quốc phòng, nhà nước Âu Lạc có bước phát triển mới, mạnh mẽ: có quân
đông, vũ khí tốt, kinh đô Cổ Loa được xây dựng kiên cố. Thành Cổ Loa là một công trình lao động
đồ sộ, một thành tựu về khoa học quân sự của nhân dân Âu Lạc, là một biểu hiện bước phát triển
mới của nhà nước Âu Lạc.
Câu 7. Nền văn minh đầu tiên của người Việt cổ là nền văn minh nào? Phân tích đặc điểm, vị
trí của nền văn minh đó.
* Khẳng định: Nền văn minh đầu tiên của người Việt cổ là nền văn minh Văn Lang – Âu Lạc
* Đặc điểm
- Về kỹ thuật chế tác: Nền văn minh sông Hồng hình thành và phát triển trên cơ sở cuộc cách mạng
luyện kim với nghề đúc đồng dần đạt đến mức hoàn thiện (tiêu biểu là nền văn hóa Đông Sơn). Và
trên cơ sở đỉnh cao của nghệ thuật đúc đồng đó, chủ nhân của nền văn hóa đã bước vào Sơ kỳ thời
đại đồ sắt.
- Về đời sống kinh tế: là nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước của người Việt cổ sống trong
khu vực nhiệt đới gió mùa, một xứ sở có nhiều sông nước, núi rừng, đồng bằng và biển cả.
20
- Về kết cấu xã hội: Là nền văn minh xóm làng dựa trên cơ cấu nông thôn kiểu Á châu của một xã hội
chưa phân hóa gay gắt và Nhà nước mới hình thành. Nhà nước đó vừa có mặt bóc lột công xã, lại vừa
đại diện cho lợi ích chung của công xã trong yêu cầu tổ chức đấu tranh chinh phục thiên nhiên, chống
thiên tai, khai hoang, làm thủy lợi và tự vệ, chống ngoại xâm.
- Về cội nguồn sâu xa: Là nền văn minh bản địa, có cội rễ và cơ sở sâu xa trong cuộc sống lâu đời của
các lớp cư dân trên lãnh thổ Văn Lang – Âu Lạc thuở đó, được hình thành trước khi tiếp thu nền văn
minh Trung Hoa, Ấn Độ. Nó phát triển phong phú, đa dạng với những biểu hiện đặc trưng riêng trong
đời sống chính trị - xã hội, đời sống vật chất và tinh thần. Kết tinh trong đó bản lĩnh truyền thống, cốt
cách và lối sống của người Việt.
- Về sự giao lưu văn hóa: là nền văn minh sớm có quan hệ giao lưu mật thiết với các nền văn minh
láng giềng, đặc biệt là văn minh Trung Hoa và văn minh Ấn Độ.
* Giá trị
- Đây là nền văn minh đầu tiên của người Việt cổ, kết tinh thành quả lao động sản xuất, thích ứng
với môi trường tự nhiên và xã hội của người Việt cổ trên cơ sở các nền văn hóa trước đó từ Phùng
Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun tới Đông Sơn..., là nền văn minh có cội nguồn lâu đời của một cư
dân nông nghiệp trồng lúa nước ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, mang tính dân tộc đậm nét, kết tinh
trong đó bản lĩnh, truyền thống, cốt cách, lối sống và lẽ sống của người Việt cổ.
- Khẳng định nguồn gốc bản địa lâu đời của văn hóa Việt chứ không phải là nền văn hóa ngoại lại
do người Hán về sau đưa đến bằng vó ngựa của kẻ xâm lược (chủ thể phi Ấn, phi Hoa)... mở ra
thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc.
- Đặt nền móng/tảng cho những giá trị, cội nguồn bản sắc văn hóa dân tộc về sau: Nền văn minh
Văn Lang – Âu Lạc trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài đã trở thành cội nguồn
của các nền văn minh tiếp theo của dân tộc; góp phần tạo dựng những yếu tố nền móng cốt lõi của
bản sắc văn hóa Việt Nam hiện nay.. Nó phác họa, định hình bản sắc dân tộc, là cội nguồn sức
mạnh tinh thần để nhân dân Việt Nam vượt qua mọi thử thách to lớn trong hơn 1000 năm Bắc
thuộc.
Câu 8. Vì sao văn minh Văn Lang – Âu Lạc có đặc trưng là nền văn minh lúa nước, văn
minh xóm làng?
* Là văn minh lúa nước vì :
- Nền văn minh được hình thành dựa trên điều kiện kinh tế là nền nông nghiệp lúa nước.

21
- Nhu cầu bảo vệ nền nông nghiệp lúa nước thường xuyên bị lũ lụt đe dọa đã đẩy mạnh quá trình
hình thành nhà nước – nhà nước Văn Lang ra đời đánh dấu sự hình thành nền văn minh.
- Đời sống vật chất (ăn, mặc, nhà ở...) mang đặc trưng của cư dân nông nghiệp lúa nước.
- Đời sống tinh thần (tín ngưỡng, lễ hội, tục lệ...) mang đặc trưng của cư dân nông nghiệp lúa nước.
* Là văn minh xóm làng vì :
- Cư dân sống quần tụ trong các xóm làng ; cùng nhau lao động và xây dựng cuộc sống trong cộng
đồng làng xóm.
- Làng xóm là nơi hình thành nên lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, tính cộng đồng của cư dân
Văn Lang – Âu Lạc
a. Xuất phát từ điều kiện/ cơ sở hình thành
* Điều kiện tự nhiên:
- Nền văn minh đầu tiên của nước ta được hình thành trên vùng châu thổ các con sông lớn ở Bắc
Bộ và Bắc Trung Bộ: sông Hồng, sông Mã, sông Cả. Nơi đây, có những đồng bằng rộng lớn, màu
mỡ, có khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi cho cuộc sống của con người...
- Nhưng do đặc trưng của khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, mưa nhiều, với lượng nước rất lớn, những đợt mưa
kéo dài, nên thường gây gió bão, lụt lớn.
→ Do vậy, cũng như nhiều nước phương Đông khác, cư dân Việt cổ vừa tiếp nhận những điều kiện
thuận lợi và phải đấu tranh với những khó khăn. Đó chính là cơ sở cho một nền văn minh mới được
hình thành.
* Cơ sở kinh tế:
- Nhờ sự tiến bộ của kỹ thuật luyện kim, đến thời Đông Sơn, công cụ lao động bằng đồng thau đã
trở nên phổ biến và con người đã biết rèn sắt, nên cư dân đã phát triển nền kinh tế nông nghiệp
trồng lúa nước, dùng cày với sức kéo của trâu bò. Nông nghiệp trở thành ngành kinh tế chính, đảm
bảo một khối lượng lương thực chính cần thiết của cư dân. Bên cạnh đó, việc săn bắn, chăn nuôi,
đánh cá… góp phần làm gia tăng nguồn thực phẩm cho con người. Đời sống của người Việt cổ
được đảm bảo và ngày càng phát triển.
- Sự phát triển của các nghề thủ công, đã nảy sinh sự phân công lao động giữa nông nghiệp và thủ công
nghiệp, tạo ra sự chuyên môn hóa trong lao động, với nhiều ngành nghề... Đặc biệt là sự phát triển rực rỡ
của nghề đúc đồng – đạt đến trình độ kỹ thuật, nghệ thuật, mỹ thuật cao.
=> Điều kiện kinh tế đóng vai trò quan trọng, là nền tảng quyết định đưa đến sự chuyển biến xã
hội, ra đời nhà nước và hình thành nền văn minh.
22
* Điều kiện dân cư- xã hội
- Chủ nhân là các nhóm cư dân thuộc chủng tộc Nam Á (Việt - Mường, Môn Khơme), Tày -
Thái...
- Sự phát triển của sản xuất và trao đổi đã dẫn đến sự phân hóa và sự thay đổi quan hệ xã hội. Đến
thời Đông Sơn, mức độ phân hóa giàu nghèo trở nên phổ biến. Điều này được phản ánh qua những
hiện vật được chôn theo trong các khu mộ táng.
- Tổ chức công xã thị tộc mất dần vai trò lịch sử của mình, công xã nông thôn – làng xóm, gia đình
phụ hệ ra đời thay thế. Đồng thời, yêu cầu phát triển của xã hội đòi hỏi có một tổ chức để quản lý,
điều hành xã hội.
→ Sự phân hóa xã hội trên nền tảng của sự phát triển kinh tế đã tạo nên những tiền đề cần thiết để
hình thành nền văn minh.
* Yêu cầu trị thủy và chống ngoại xâm:
+ Để bảo vệ nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước trước nạn lũ lụt thường xuyên đe dọa. Người
Việt cổ phải thường xuyên đấu tranh chống lại những hiện tượng bất thường của tự nhiên…
+ Mặt khác, nước ta ở vào vị trí địa lý mang tính chất tiếp xúc của bán đảo Đông Dương và Đông
Nam Á, nằm trên đầu mối của những luồng giao thông tự nhiên nối liền đại lục với đại dương… Nó
trở thành vị trí mà nhiều người nhòm ngó, tấn công từ nhiều phía để chiếm đoạt. Yêu cầu tự vệ
chống lại các mối đe dọa từ bên ngoài vì thế cũng sớm được đặt ra và ngày càng trở nên bức thiết.
→ Như vậy, mặc dầu sự phân hóa xã hội chưa sâu sắc, nhưng do yêu cầu trị thủy, chống ngoại
xâm đã buộc cư dân Việt cổ trong các cộng đồng gần nhau sớm liên kết với nhau, dẫn đến sự ra đời
sớm của nền văn minh Văn Lang – Âu Lạc.
b. Thành tựu
* Đời sống sinh hoạt vật chất:
- Ăn: nguồn lương thực chính là gạo nếp, gạo tẻ, ngoài ra còn có các loại củ như khoai, sắn…Thức
ăn gồm các loại như rau, củ quả, tôm, cua, cá…là những thứ có sẵn trong tự nhiên, dễ kiếm, dễ
tìm, do họ trồng được, nuôi được…=> chứng tỏ đời sống giản dị, đạm bạc, thích ứng với tự nhiên.
- Trang phục: nam cởi trần, đóng khố; nữ mặc váy áo... Trong các ngày lễ hội họ mặc quần áo hóa
trang, đầu đội mũ có đính lông chim…=> trang phục của cư dân đơn giản, gần gũi với thiên nhiên,
phán ánh trình độ phát triển, óc thẩm mĩ và bản sắc văn hóa của người Việt, chứng tỏ nghề dệt phát
triển…

23
- Nhà ở: cư dân ở nhà sàn, đồng bằng cư dân ở nhà tranh tre nứa lá. Đồ dùng trong gia đình cũng
rất phong phú, có nhiều loại như bình, vò, thạp, mâm, chậu, bát…được làm bằng gốm, đồng thau.
Ngoài ra còn có đồ đựng bằng mây, tre, nứa, vỏ bầu…rất đơn giản và có sẵn trong tự nhiên.
* Đời sống văn hóa tinh thần:
- Hình thành và bảo tồn được tiếng Việt cổ (tiếng mẹ đẻ) dù chưa sáng tạo ra chữ viết...
- Tín ngưỡng: thờ cúng tổ tiên, vua Hùng; vạn vật hữu linh, phồn thực...
- Phong tục tập quán: nhộm răng ăn trầu, làm bánh chưng bánh dày, các lễ hôi gắn với nông
nghiệp...
- Nghệ thuật tạo hình, trang trí, tư duy hình khối, lưỡng hợp hình thành (thể hiện rõ nhất qua các
họa tiết trang trí trên trống đồng)...

24
25
C. VĂN MINH ĐẠI VIỆT (Thuật ngữ Đại Việt tính từ 938 đến 1883)
I. Sự hình thành và phát triển của quốc gia Đại Việt (X- XV)
1. Xây dựng và phát triển nhà nước độc lập, thống nhất X- XV
a, Bước đầu xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước quân chủ chuyên chế dưới thời Ngô – Đinh –
Tiền Lê (X – đầu XI)
* Hoàn cảnh:
- Đầu thế kỉ X, dưới thời kì họ Khúc, họ Dương, đất nước ta đã giành được quyền tự chủ. Năm
938, với chiến thắng của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng đã chấm dứt hơn một nghìn năm của
triều đại phong kiến phương Bắc, mở ra nền độc lập tự chủ lâu dài cho dân tộc.
- Chế độ quân chủ chuyên chế được xác lập và từng bước được củng cố qua các triều đại Ngô (938
- 968), Đinh (968 - 980), Tiền Lê ( 980 - 1009).
* Quá trình xác lập chế độ quân chủ chuyên chế:
- Nhà Ngô (938 - 968)
+ Năm 938, sau khi chống quân Nam Hán giành thắng lợi, năm 939, Ngô Quyền xưng Vương, bãi
bỏ chức Tiết độ sứ, xây dựng triều đình mới, lấy Cổ Loa làm kinh đô, dựng cung điện.
+ Giữ nguyên các châu, huyện, làng giáp ở địa phương
=> Khắng định nền độc lập tự chủ của dân tộc, đặt cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của chế độ
quân chủ chuyên chế, nhưng chính quyền còn sơ sài, chưa đủ điều kiện kiểm soát các địa phương -
> loạn 12 sứ quân.
- Nhà Đinh – Tiền Lê
+ Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lên ngôi vua, xác lập chế độ
phong kiến dưới triều đại nhà Đinh, lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt.
+ Năm 980, nhà Đinh rơi vào tình trạng lục đục, nhà Tống nhân cơ hộ đó đem quân xâm lược.
Trước tình hình đó, thái hậu Dương Vân Nga trao quyền cho Lê Hoàn. Nhà Tiền Lê thành lập.
+ Củng cố bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương:
Ở trung ương: đứng đầu là vua, có mọi quyền lực: bổ nhiệm quan lại, phân chia đơn vị hành
chính… Dưới vua có 3 ban: ban văn, ban võ và tăng ban giúp vua trị nước, quân sự, dân sự..
Ở địa phương, chia cả nước thành 10 đạo giao cho các con và các tướng lĩnh trung thành cai
quản. Mỗi đạo đều có tổ chức quân đội, vừa bảo vệ triều đình, vừa bảo vệ đất nước.

26
- Quân đội: Chú trọng xây dựng quân đội. Ở kinh thành có cấm quân khoảng 3000 người bảo vệ
kinh thành và vua quan, ở cổng thành có Tứ sương bảo vệ. Thực hiện chế độ “ngụ binh ư nông”.
Quân đội được trang bị vũ khí đầy đủ.
(Ngụ binh ư nông: thời Đinh áp dụng với Sương quân, Lý cấp lương cho cấm quân, còn sương
quân tự túc, Lê sơ áp dụng cho cả cấm quân ở kinh thành)
- Luật pháp: Thời Ngô- Đinh- Tiền Lê chưa có luật pháp, vua quan xét xử người bị tội chủ yếu
theo tập tục, thường hình phạt rất nặng, đô hộ phủ là nơi giam tù phạm.
+ Tuyển chọn quan lại chưa có chế độ cụ thể, nắm quyền chủ yếu là các võ tướng đã từng tham gia
vào dẹp loạn sứ quân hoặc các hoàng tử. Về sau một số văn thần cũng được cất nhắc thay dần các
vị sư giỏi.
=> Nhận xét:
- Dưới thời Ngô – Đinh – Tiền Lê, nhà nước độc lập tự chủ theo chế độ quân chủ chuyên chế được
hình thành
- Hệ thống chính trị từ trên xuống còn sơ khai, chưa có phân công phân nhiệm rõ ràng, tên gọi các
chức quan chưa chỉnh, bộ phận chỉ huy quân sự giữ vai trò chủ yếu, giới tăng lữ tham gia chính
quyền với tư cách quan văn.
- Tuy vậy, nhà nước thời Đinh- Tiền Lê vẫn khẳng định được tính dân tộc và trở thành cái nền của
nhà nước Đại Việt sau này.
b, Quá trình phát triển nhà nước phong kiến dưới thời Lý – Trần – Hồ ( XI – đầu XV).
* Về tổ chức bộ máy nhà nước:
- Tháng 8. 1010, Lý Thái Tổ ra “ Chiếu dời đô” từ Hoa Lư về Đại La ( Hà Nội), đồng thời xây
dựng kinh đô gồm nhiều cung điện, thành cao, hào sâu bao quanh.
- Nguyên nhân dời đô:
+ Kinh đô thời Đinh – Tiền Lê ở Hoa Lư – là quê hương của Đinh Tiên Hoàng, việc xây dựng kinh
đô ở Hoa Lư là phù hợp với thế nước bấy giờ. Nhà nước còn non trẻ nên mục tiêu phòng thủ đất
nước được đặt lên hàng đầu. Nên kinh đô vừa là kinh thành, vừa là thành lũy quân sự.
+ Dưới thời Lý, tổ chức chính quyền đất nước được củng cố, nhu cầu phát triển kinh tế, chính trị
nên kinh đô Hoa Lư không còn phù hợp.
+ Trong khi đó “ Đại La là trung tâm của trời đất, ở thế rồng cuộn hổ chầu, chính giữa Đông – Tây
– Nam – Bắc, tiện núi sông sau trước, đất rộng và bằng phẳng, chỗ cao mà sáng, cư dân không phải
khổ vì ngập lụt”. Đây chính là nơi muôn vật phồn thịnh.
27
=> Với nhãn quan chính trị sắc bén, tài năng, trí tuệ và tầm nhìn xa trông rộng, Lý Thái Tổ đã xây
dựng Thăng Long thành kinh đô của đất nước.
- Ý nghĩa:
+ Sự lựa chọn này đã đáp ứng nhu cầu của nhân dân, chứng tỏ nhà nước đã đủ thế và lực vươn xa,
tạo điều kiện cho dân cư ổn định sản xuất và phát triển văn hóa. Tạo điều kiện cho kinh thành
Thăng Long trở thành đô thị phồn thịnh, là bộ mặt của đất nước.
+ Khẳng định tài năng, trí tuệ của Lý Thái Tổ, sự trưởng thành của ý thức dân tộc. Thể hiện được
uy thế của Đại Việt, Thăng Long vừa là kinh đô của đất nước Đại Việt, vừa là một thành thị có quy
mô lớn trong khu vực và trên thế giới lúc bấy giờ.
+ Cho đến nay, kinh đô Thăng Long vẫn là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của đất nước.
- Năm 1054, Lý Thánh Tông đổi tên nước thành Đại Việt, từng bước củng cố, xây dựng chính
quyền từ trung ương đến địa phương:
+ Trung ương: đứng đầu nhà nước là Vua, nắm mọi quyền hành cao nhất về chính trị, luật pháp,
quân đội, nghi lễ, đối ngoại. Đến nhà Trần thực hiện chế độ Thái Thượng Hoàng.
Giúp việc cho vua là Tể tướng và các quan đại thần. Trong đó gồm các cơ quan: Hành Khiển, các
cơ quan hành chính, luật pháp.. được gọi là Sảnh, Viện, Đài. Đến thời Trần còn đặt thêm các chức:
Khuyến nông sứ, Hà đê sứ trông nom sản xuất nông nghiệp và hệ thống đê điều.
+ Địa phương: chia thành nhiều lộ có chức An phủ sứ cai quản. Dưới lộ là phủ, huyện, châu,
hương, xã. Đứng đầu xã gọi là xã quan.
+ Kinh đô Thăng Long được chia làm hai khu vực: kinh thành của vua quan và phố phường của
nhân dân, có chức Lưu thủ hay Đại Doãn trông coi.
+ Quân đội: Được tổ chức quy củ. Gồm hai bộ phận: cấm binh bảo vệ nhà vua, kinh thành và lộ
binh ở các địa phương. Tuyển chọn theo chế độ: ngụ binh ư nông. Những lúc có chiến tranh, các
vương hầu quý tộc được phép mộ quân, góp sức cùng nhà nước đánh giặc, nhân dân được phép tổ
chức dân binh để bảo vệ quê nhà.
+ Luật pháp: năm 1042 nhà Lý ban hành luật Hình thư – là bộ luật thành văn đầu tiên ở nước ta.
Nhà Trần ban hành Hình luật. Nội dung quy định về quyền và giới hạn của nhà nước, bảo vệ giai
cấp thống trị, góp phần ổn định trật tự xã hội, tăng cường tính quân chủ chuyên chế.
+ Tuyển chọn quan lại: Ban đầu quan lại chủ yếu được tuyển chọn từ con em các gia đình quý tộc
hoặc con cháu quan lại, về sau những người thi cử đỗ đạt làm quan cũng được nắm giữ một số
trọng trách quan trọng.
28
- Ngoài ra, dưới thời Lý, Trần, Hồ áp dụng thay đổi cách tuyển chọn quan lại theo hình thức “ tiến
cử”. Về sau, khi đất nước phát triển, tuyển chọn quan lại thông qua thi cử trở nên phổ biến.
=> Nhận xét:
- Trải qua 4 thế kỉ xây dựng đất nước, các triều đại Lý, Trần, Hồ đã tạo nên một hệ thống hành
chính quốc gia tương đối hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương.
- Đó là một hệ thống hành chính theo thể chế quân chủ nhưng quan liêu, có phần chuyên chế
nhưng có phần cởi mở, dân chủ đồng thời mang tính dân tộc phù hợp với hoàn cảnh đất nước
đương thời.
- Tuy nhiên, các cơ quan hành chính còn phức tạp, cồng kềnh, sự phân công, phân nhiệm giữa các
quan chức chưa rành mạch và dứt khoát. Trong khi chính quyền trung ương chưa nắm chắc sự
thống nhất thì chính quyền địa phương mạnh và phân tán.
- Vai trò chủ yếu của nhà nước Lý - Trần
+ Nhà nước Lý- Trần đã thể hiện chức năng tổ chức quản lý chính trị, kinh tế- văn hóa- xã hội, tạo
điều kiện cho quốc gia Đại Việt đạt nhiều thành tựu…
+ Thể hiện vai trò bộ máy tổ chức, chỉ huy đánh giặc, tạo điều kiện đánh bại quân xâm lược nhà
Tống (1075-1077), 3 lần đánh tan quân xâm lược Mông- Nguyên (1258,1285,1288) bảo vệ độc
lập, chủ quyền lãnh thổ Tổ Quốc.
c, Tổ chức nhà nước quân chủ chuyên chế đạt đến đỉnh cao dưới thời Lê Sơ (nửa sau thế kỉ
XV).
* Tổ chức bộ máy nhà nước
- Năm 1428, sau cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế lập ra nhà
Lê, đặt quốc hiệu là Đại Việt.
- Ban đầu xây dựng theo mô hình nhà nước thời Trần – Hồ: Đứng đầu là vua, quyết định mọi việc,
giúp vua có tể tướng và một số đại thần, tiếp đến là một số cơ quan điều hành cấp bộ. Cả nước chia
làm năm đạo, dưới là lộ, phủ, huyện, chấu, xã với hệ thống quan lại như cũ.
- Những năm 60 của thế kỉ XV, Lê Thánh Tông đã tiến hành một cuộc cải cách hành chính.
+ Ở trung ương: các chức Tể tướng, Hành khiển bị bãi bỏ. Sáu bộ (Binh, Hình, Công, Lễ, Lại, Hộ)
được thành lập, trực tiếp cai quản mọi việc và chịu trách nhiệm trước vua. Ngự sử đài có quyền
hành cao hơn trước -> thể hiện tính quân chủ chuyên chế cao, vua có quyền lực tối cao.
+ Địa phương: Nhà nước bỏ các đạo, lộ cũ, chia cả nước thành 12 đạo thừa tuyên. Mỗi đạo có 3 ti
phụ trách các hoạt động về quân sự, dân sự và kiện tụng. Xã vẫn là đơn vị hành chính cơ sở.
29
- Quân đội: Được tổ chức chặt chẽ và theo chế độ “ngụ binh ư nông”, được trang bị vũ khí đầy đủ.
- Luật pháp: Ban hành bộ luật Hồng Đức năm 1483 gồm 722 điều, chia làm 16 chương. Đề cập đến
hầu hết các hoạt động của xã hội và mang tính dân tộc sâu sắc. Góp phần ổn định trật tự xã hội,
đánh dấu bước phát triển cao của tư tưởng pháp lí và được sử dụng ở các thời kì sau.
- Quan lại được tuyển chọn chủ yếu thông qua giáo dục, thi cử. Giáo dục được đặc biệt coi trọng.
Nho giáo được nâng lên thành Quốc giáo. Quốc tử Giám được mở rộng cho con em trong cả nước
tham gia. Các khoa thi được tổ chức đều đặn -> Đây là chính sách tiến bộ thu hút nhiều thành
phần, giai cấp trong xã hội, góp phần lựa chọn được nhiều nhân tài ra làm quan, là nhân tố quan
trọng đưa nhà nước phong kiến thời Lê sơ đạt đến đỉnh cao.
=> Nhận xét:
+ So với Lý, Trần, Hồ, hệ thống hành chính quốc gia thời Lê Sơ thể hiện một bước tiến rất cơ bản,
đạt đến đỉnh cao của mô hình nhà nước quân chủ chuyên chế quan liêu ngày càng chặt chẽ, hiệu
quả hơn, tính chuyên chế ngày càng cao.
+ Hệ thống các cơ quan hành chính được xếp đặt rõ ràng, có phân công phân nhiệm cụ thể, không
dẫm đạp lên nhau. Các bộ chịu trách nhiệm trước vua, các cơ quan chính quyền địa phương cũng
có mối liên hệ dọc với chính quyền cấp trên ở trung ương, đảm bảo quyền lực của nhà vua và sự
thống nhất chính trị của cả nước.
+ Những cải cách tiến bộ có tính chất toàn diện, sâu sắc đã đưa đến sự ổn định lâu dài của chế độ
chính trị, thúc đẩy kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển, đưa nhà nước quân chủ đạt đến đỉnh cao.
d, Chính sách đối nội - đối ngoại của các triều đại phong kiến X- XV
- Đối nội: Các triều đại chú ý chính sách đoàn kết dân tộc, đặt quan hệ thân tộc với các tù trưởng
dân tộc ít người: gả công chúa, ban chức tước => Các thế lực chống đối, phản loạn nhanh chóng
được giải quyết êm đẹp. Đoàn kết được dân tộc trong xây dựng đất nước và chống ngoại xâm
- Đối với phương Bắc:
+ Các triều đại PK TQ luôn dùng vũ lực để uy hiếp, dọa nạt bắt ta phải đầu hàng, coi thường vua
quan Đại Việt. Do đó, đối với phương Bắc, các triều đại phong kiến Việt Nam với tư thế của một
dân tộc độc lập, chúng ta luôn duy trì chính sách ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo nhưng kiên quyết
bảo vệ độc lập dân tộc và sẵn sàng kháng chiến chống lại sự xâm lược của phương Bắc.
+ Thời bình: ràng buộc bởi mối quan hệ sách phong và triều cống (phong vương và cống nạp) nên
đối với những yêu sách của các triều đại phong kiến phương Bắc, ta tỏ ra “ không từ chối nhưng
thực chất là từ chối, thần phục danh nghĩa nhưng độc lập thực sự”. Để giữ hòa bình, chuẩn bị lực
30
lượng, Vua – Tôi Đại Việt vẫn giữ vững nguyên tắc ngoại giao của người tự chủ: bảo vệ chủ quyền
độc lập, nên trong việc giao tiếp với sứ thần luôn thể hiện sự mềm dẻo, tránh thủ đoạn mua chuộc
nhưng cũng rất kiên quyết trước thái độ láo xược của chúng.
Tiền Lê: Quan hệ ngoại giao Việt – Tống được thiết lập trên cơ sở nhà Tống công nhận nền độc
lập của nước Đại Cồ Việt.
Lý – Trần – Hồ: tuy giữ lệ thần phục, nộp phú cống đều đặn nhưng luôn giữ vững tư thế một dân
tộc độc lập.
Lê sơ: quan hệ Việt- Trung được duy trì êm đẹp
+ Chiến tranh: Ta kiến quyết đấu tranh để bảo vệ nền độc lập dân tộc, coi trọng việc kết hợp giữa
đấu tranh quân sự với đấu tranh ngoại giao để tạo thắng lợi oanh liệt đi đến kết thúc chiến tranh
trong hòa bình.
Ví dụ: như cuộc kháng chiến chống quân Minh.... cuộc kháng chiến chống quân Thanh xâm
lược....
=> Thực hiện ngoại giao hòa hảo sau khi giành thắng lợi tạo sự giao hòa thân thiện. Luôn chủ động
ngoại giao như chủ động trao trả tù binh tạo quan hệ ngoại giao bớt căng thẳng, giữ vững biên
cương, thiết lập giao bang hòa hiếu....
- Đối với phía Nam, đặc biệt là Chăm pa: có lúc hòa hiếu, có lúc xảy ra chiến tranh nhưng nhìn
chung luôn giữ thái độ mềm mỏng, khôn khéo nhưng kiên quyết, cứng rắn giữ vững biên cương.
=> Tác dụng:
- Tạo sự đoàn kết dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước
- Giảm bớt sự căng thẳng đối với các nước, nhất là phương Bắc, tranh thủ thời gian hòa bình để
xây dựng và phát triển đất nước, góp phần tạo sức mạnh cả về thế và lực cho đất nước.
- Tạo nên ý thức về sự gần gũi nhân dân, đoàn kết các dân tộc để tạo sức mạnh nội lực vượt qua
khó khăn, bảo vệ quyền tự chủ, độc lập dân tộc.
2. Mở rộng và phát triển kinh tế
a. Kinh tế nông nghiệp
* Điều kiện phát triển kinh tế nông nghiệp:
- Đất nước độc lập thống nhất, xã hội ổn định. Trải qua các triều đại, Lý, Trần, nhà nước luôn thực
hiện những chính sách tích cực nhằm ổn định đời sống nhân dân, đất nước độc lập, thống nhất.
Đây là điều kiện tiên quyết để xây dựng và phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng.

31
- Khắc phục những hậu quả của hơn 1000 năm Bắc thuộc: Hơn 1000 năm Bắc thuộc đã để lại hậu
quả nghiêm trọng cho Đại Việt trong đó có nền kinh tế nông nghiệp, đó là tình trạng lạc hậu, đời
sống nhân dân khó khăn
- Điều kiện tự nhiên của nước ta thuận lợi cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp với lưu vực các
con sông Hồng, Mã, Cả, khí hậu thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp với đất đai phù sa
màu mỡ, nguồn nước tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp.
- Nhân dân Đại Việt có truyền thống cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất, có kinh nghiệm trong
sản xuất nông nghiệp.
- Các triều đại phong kiến X- XV đã nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế nông nghiệp. Để
khắc phục những hậu quả của 1000 năm Bắc thuộc, nâng cao đời sống nhân dân, tạo điều kiện
vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ Tổ Quốc, quyết tâm cao trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ, nhà nước phong kiến có những chính sách quan tâm, khuyến khích phát triển nông nghiệp
* Các chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp
- Chính sách khai hoang: là một trong những chính sách hàng đầu của nhà nước phong kiến. Các
vua Tiền Lê, Lý hàng năm làm lễ cày tịch điền để khuyến khích nhân dân sản xuất. Nhà Trần
khuyến khích các vương hầu, quý tộc mộ dân khai hoang lập điền trang. Nhờ đó diện tích canh tác
không ngừng được mở rộng, nhiều xóm làng mới được thành lập.
- Phát triển thuỷ lợi: Nhà Tiền Lê cho nhân dân đào, nạo vét nhiều mương máng. Thời Lý, năm
1077 phát động nhân dân đắp đê sông Như Nguyệt, năm 1108 đắp đê cơ xá dọc sông Hồng. Thời
Trần, năm 1248 đắp đê "quai vạc " dọc hai bờ sông từ đầu nguồn ra biển. Thời Lê sơ cho đắp một
số đê biển. Ngoài ra, nhà nước còn đặt chức quan Hà đê sứ chuyên trông coi công tác thủy lợi…
- Bảo vệ sức kéo: Các triều đại Lý, Trần, Lê quan tâm bảo vệ sức kéo nông nghiệp. Vua Lý Nhân
Tông xuống chiếu phạt nặng những người trộm trâu, mổ trâu. Vua Lê nghiêm cấm giết trâu bò ăn
thịt...
- Đảm bảo sức sản xuất: Chính sách "Ngụ binh ư nông", nhà Hồ đặt phép "Hạn điền", "Hạn nô
"...Thời Lê sơ ban hành chính sách "quân điền"…Những chính sách trên không những đảm bảo
sức sản xuất mà còn có tác dụng tích cực cho vấn đề an ninh quốc phòng, đảm bảo lực lượng quân
đội thường trực.
=> Những chính sách khuyến nông trên của các triều đại phong kiến thời độc lập tự chủ mang tính
toàn diện, tích cực. Tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp một cách bền vững.

32
Những chính sách trên không những đảm bảo sức sản xuất mà còn có tác dụng tích cực cho vấn đề
an ninh quốc phòng, đảm bảo lực lượng cho quân đội thường trực.
=> Tác dụng của kinh tế nông nghiệp
- Sản xuất nông nghiệp được phục hồi và phát triển, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của nhân dân; tạo điều kiện ổn định chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh.
- Là cơ sở cho thủ công nghiệp, thương nghiệp phát triển; góp phần xây dựng, củng cố vững chắc
nền độc lập dân tộc…
* Bài học kinh nghiệm
- Vai trò của nhà nước, của Đảng, của người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo công cuộc đổi mới,
đưa ra những đường lối đúng đắn phù hợp với điều kiện cụ thể.
- Nhà nước cần huy động sức mạnh đoàn kết toàn dân, quan tâm hơn nữa đến đời sống của nhân
dân đặc biệt là nông dân.
- Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học, công nghệ nhằm nâng cao chất lượng
giống cây trồng, vật nuôi, nâng cao năng suất.
- Chú trọng đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, có chính sách thu hút các nhà khoa học trong lĩnh
vực công nghệ cao vào làm việc trong ngành nông nghiệp.
- Xây dựng quốc phòng, an ninh, đảm bảo điều kiện hòa bình, thống nhất phát triển kinh tế.
b. Kinh tế thủ công nghiệp và thương nghiệp
* Thủ công nghiệp: Phát triển nhanh chóng dưới hai hình thức cơ bản: Thủ công nghiệp nhân dân
và Thủ công nghiệp nhà nước:
- Thủ công nghiệp nhân dân
+ Thời kì đầu dựng nước, nhân dân ta tiếp tục mở rộng các ngành nghề thủ công truyền thống: dệt,
đóng tàu, đúc đồng… với chất lượng được nâng cao.
+ Một số ngành nghề đạt trình độ chuyên môn hóa cao như: gốm tráng men ngọc, men xanh độc
đáo có in hình người, hình thú…được trao đổi khắp nơi.
+ Một số làng nghề thủ công truyền thống được hình thành: gốm Bát Tràng, Thổ Hà, Chu Đậu…
+ Tuy nhiên, những nghề thủ công truyền thống được nhân dân ta duy trì, mở rộng cùng với nghề
nông nghiệp.
- Thủ công nghiệp nhà nước

33
+ Các triều đại phong kiến đều thành lập các xưởng thủ công: cục bách tác, quan xưởng chuyên
phục vụ nhu cầu của nhà nước như: đúc tiền, rèn vũ khí, đóng thuyền chiến, may mũ áo cho vua
quan và quý tộc góp phần xây dựng cung điện, đền, miếu.
+ Dưới thời Lê sơ, ở kinh thành Thăng Long, ngoài khu cung điện vua còn có 36 phố phường vừa
sản xuất thủ công, vừa buôn bán thể hiện tính chuyên môn hóa cao.
* Thương nghiệp: Do sự phát triển của TCN, trong bối cảnh đất nước độc lập, thống nhất nên nhu
cầu trao đổi buôn bán được mở rộng, góp phần thúc đẩy thương nghiệp trong và ngoài nước.
- Nội thương
+ Việc giao lưu buôn bán giữa các làng, các vùng ngày càng nhộn nhịp, hàng hoá phong phú. Các
chợ làng, chợ huyện được hình thành. Một số sứ giả nhà Nguyên sang nước ta đã viết: “Trong xóm
làng thường có chợ, cứ hai ngày họp một phiên, hàng hoá trăm thứ bày la liệt”.
+ Thời Lê sơ, nhà nước ban hành lệnh lập chợ, khuyến khích trao đổi sản phẩm.
+ Thăng Long trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của cả nước
- Ngoại thương
+ Vùng biên giới Việt - Trung thời Lý đã hình thành các địa điểm trao đổi hàng hoá. Lái buôn hai
nước đem đủ thứ lụa là, hương liệu, vải vóc, ngà voi, giấy, ngọc vàng... đến trao đổi.
+ Thuyền buôn các nước phương Nam như Gia-va, Xiêm, Ấn Độ cũng qua lại buôn bán ở các cửa
biển vùng Đông Bắc
+ Năm 1149, nhà Lý cho lập Vân Đồn làm hải cảng trao đổi hàng hoá buôn bán với nước ngoài.
Lạch Trường cũng là một vùng hải cảng buôn bán, theo An Nam tức sự: “Thuyền bè các nước
ngoài đồn họp ở đây, mở chợ ngay trên thuyền, thật thịnh vượng”
+ Nhà Lê sơ không chủ động mở rộng giao lưu buôn bán với thương nhân bên ngoài.
=> Tác dụng của thủ công nghiệp và thương nghiệp
- Các nghề thủ công đương thời đa dạng, phong phú, chất lượng cao hơn. Bên cạnh nghề thủ công
cổ truyền, phát triển nghề mới cần kĩ thuật cao hơn như đúc vũ khí, đóng thuyền chiến, phục vụ
nhu cầu trong nước là chính.
- Sự thống nhất về tiền tệ và đo lường tạo điều kiện cho việc giao lưu buôn bán trong nước dễ
dàng, thương nghiệp bên ngoài mở rộng chủ yếu buôn bán với các nước Gia-va, Xiêm, Trung
Quốc, Ấn Độ
- Sự phát triển thủ công nghiệp thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển làm cho cuộc sống nhân
dân ấm no hạnh phúc, trật tự xã hội ổn định, khối đoàn kết dân tộc được tăng cường
34
c. Ý nghĩa của sự phát triển kinh tế
- Những thành tựu về kinh tế chứng tỏ chế độ quân chủ độc lập được củng cố, đời sống nhân dân
từng bước được cải thiện.
- Đây là một trong những nhân tố quan trọng góp phần tăng cường sức mạnh dân tộc, với sự đồng
lòng góp sức của nhân dân tạo nên thắng lợi cho các triều đại trong các cuộc kháng chiến chống
ngoại xâm.
- Để lại nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng và phát triển đất nước: tổ chức trị thủy, kết
hợp sản xuất và chiến đấu.
- Tuy nhiên, sự mở rộng và phát triển kinh tế nước ta cũng đẩy mạnh sự hình thành và phát triển
của quan hệ sản xuất phong kiến và sự phân hóa xã hội sâu sắc.
3. Xây dựng và phát triển văn hóa dân tộc
a. Hoàn cảnh:
- Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, nhân dân ta đã bền bỉ, kiên trì đấu tranh anh dũng để giành và
bảo vệ độc lập dân tộc.
- Bắt đầu từ thế kỉ X, nhà nước độc lập theo chế độ quân chủ được thành lập và dần được hoàn
chỉnh qua các triều đại Lý, Trần, Hồ, Lê sơ.
- Năm 1010, Lý Công Uẩn cho dời đô ra Thăng Long, mở ra kỉ nguyên mới cho lịch sử phát triển
của dân tộc.
- Cùng với việc xây dựng nhà nước phong kiến, phát triển kinh tế, chống giặc ngoại xâm, nhân dân
ta đã xây dựng cho mình một nền văn hóa đa dạng, phong phú.
- Một nền văn hóa Thăng Long ra đời trên cơ sở tiếp nối những thành tựu văn hóa truyền thống của
dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
b. Sự phát triển.
* Tư tưởng, tôn giáo: từ thời Bắc thuộc, hệ tư tưởng phong kiến Nho giáo và các tôn giáo lớn như
Phật giáo, Đạo giáo được truyền vào nước ta từng bước hòa nhập vào cuộc sống của nhân dân ta.
- Nho giáo: trên bước đường xây dựng nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, hệ tư
tưởng phong kiến Nho giáo được giai cấp thống trị tiếp nhận và từng bước được nâng cao. Thời Lê
sơ, Nho giáo được nâng lên vị trí độc tôn.
- Phật giáo:
+ Phật Giáo thời Lý – Trần: Phát triển thịnh đạt

35
 Phật giáo vốn được truyền bá khá sâu rộng, ngày càng thấm sâu vào đời sống tinh thần của nhân
dân, được giai cấp thống trị tôn sùng. Ở nước ta sớm xuất hiện tầng lớp tăng ni, Phật tử và không ít
người trong số họ có trình độ học vấn uyên thâm, có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội.
Nhà Đinh, Tiền Lê, Lý Trần dựa vào tầng lớp này, thậm chí mời họ tham gia bộ máy triều chính để
trị nước an dân. Nhiều nhà sư thức thời như Ngô Chân Lưu, Đỗ Thuận, Vạn Hạnh tham gia tích
cực vào sự nghiệp giữ nước và dựng nước.
 Bản thân vua, quan lại, quý tộc Lý- Trần đều sùng đạo Phật: Trong đó, xuất thân của vua Lý từ nhà
chùa, vì vậy khi lên ngôi ông đã chọn Phật giáo làm quốc giáo. Vua Lý Thái Thổ và nhiều vị vua
triều Lý cũng như vương công quý tộc, quan lại triều đình này đều tự coi mình là Phật tử. Một số
vị vua thời Lý, Trần tìm đến Phật giáo. Vua Lý Thái Tổ: “Vua Lý Thái Tổ khi mới lên ngôi, đã cấp
độ điệp cho hàng nghìn người ở kinh sư làm tăng”. Vua Trần Nhân Tông khi lên làm Thái Thượng
Hoàng đã xuất gia đầu Phật và lập ra Thiền Trúc Lâm Đại Việt. Đến thời Trần, đại bộ phận vương
công quý tộc Trần cũng tự cho mình là Phật tử.
 Chùa chiền mọc lên khắp nơi: “Hễ những núi cao cảnh đẹp đều mở mang để dựng chùa chiền”…
“Từ trong kinh thành cho đến ngoài châu, phủ… hễ nơi nào có nhà ở là ắt có chùa chiến… dân
chúng quá nửa nước là sư..” chùa chiền xây dựng nhiều nơi nhất là khi nước nhà độc lập thì kinh
đô Hoa Lư, Thăng Long lần lượt xuất hiện nhiều ngôi chùa do nhà nước đầu tư xây dựng. Bên
cạnh đó, các vương công quý tộc và tầng lớp quan lại địa chủ, những người giàu có ở địa phương
cũng xây dựng chùa.
 Nguyên nhân
 Xuất phát từ bản chất của đạo Phật: coi trọng từ bi hỉ xả, bình đẳng phù hợp với tâm thức dân
gian, với điều kiện xã hội: Giáo lí của đạo Phật có nhiều điểm tương đồng với đời sống tinh thần
của người Việt, do đó khi được truyền bá vào nước ta, Phật giáo sớm được các giai tầng trong xã
hội thừa nhận và coi đó như chỗ dựa tinh thần: đạo Phật khuyên con người làm việc thiện từ bi hỉ
xả, tương đồng với quan niệm sống tình nghĩa, chữ hiếu chữ tình trong văn hóa người Việt.
 Thời Lý Trần giáo dục Việt Nam mới bước đầu hình thành và chưa có sự phát triển vì vậy nên họ
đã sử dụng các nhà sư khi thiếu nguồn nhân lực,
 Quá trình du nhập, bám rễ và phát triển của Phật giáo trong xã hội Việt Nam: Phật giáo được
truyền bá vào nước ta sớm, được đông đảo nhân dân đón nhận.
 Bộ máy nhà nước thời Lý Trần chưa thực sự là bộ máy chuyên chế, tính quyền lực chuyên chế
chưa rõ nét: Chọn Phật giáo làm quốc giáo chính là lựa chọn sự ủng hộ của đại bộ phận giai cấp
36
theo Phật giáo đứng về phía triều đình để xây dựng và phát triển đất nước. Đạo lí của Phật giáo có
thể làm bệ đỡ cho bộ máy chính quyền, chính sách cai trị của nhà nước “thân dân”.
 Xét về mặt lịch sử - chính trị: thời kỳ Lý Trần là thời kỳ hình thành bước đầu để khẳng định sự
hình thành độc lập tự chủ của quốc gia. Trong hoàn cảnh đó, giai cấp thống trị không muốn lệ
thuộc vào hệ tư tưởng nho giáo của Trung Quốc.
+ Phật giáo thời Lê sơ: không phát triển
 Nhà Lê sơ không sử dụng Phật giáo làm quốc giáo như thời Lý – Trần mà sử dụng Nho giáo làm
hệ tư tưởng
 Không sử dụng nhà sư trong bộ máy quan lại triều đình mà sử dụng đội ngũ quan lại thông qua
những tuyển chọn thi cử.
 Phật giáo trở thành tôn giáo trong nhân dân, được nhân dân lưu giữ và phát triển
 Nguyên nhân
 Xu hướng xây dựng nhà nước quân chủ đòi hỏi có một hệ tư tưởng mới làm bệ đỡ. Dưới thời kì
nhà Lê nho giáo phát triển mạnh và trở thành quốc giáo, bộ máy quân chủ chuyên chế đạt đến mức
độ cao, dùng pháp trị chứ không dùng nhân trị như trước nên Phật giáo không được trọng dụng,
Nho giáo trở nên phù hợp với hệ tư tưởng rường cột: trung quân ái quốc, tam cương ngũ thường…
nhà Lê sơ đã coi Nho giáo là quốc giáo.
 Giáo dục Lê sơ được nhà nước đặc biệt quan tâm để phục vụ cho đội ngũ quan lại ở trung ương,
địa phương. Do đó, đội ngũ quan lại phục vụ nhà nước là những người đỗ đạt, thông qua thi cử
tuyển chọn mà không còn là những nhà sư có trình độ học vấn như thời Lý Trần.
 Đaị việt đã trải qua 5 thế kỉ khẳng định nền độc lập tự chủ vững chắc. Bộ máy nhà nước thời Lê sơ
đặc biệt dưới thời Lê Thánh Tông đã hoàn thiện với quyền lực tuyệt đối của vua chuyên chế,
không còn tăng ban như thời Lý mà thay vào đó là các Bộ, chịu trách nhiệm trực tiếp trước vua.
 Phật giáo là tôn giáo, còn Nho giáo là hệ tư tưởng của chế độ phong kiến
 Thực tiễn đã chứng minh hạn chế của Phật giáo đối với lịch sử: trong nước mọc nhiều chùa chiền,
dân quá nửa làm sư ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế. Trong đời sống chính trị thời Lê sơ nho
giáo ngự trị nhưng trong đời sống tín ngưỡng của người dân phật giáo vẫn đóng vai trò chủ đạo
cùng với các tôn giáo và tín ngưỡng tâm linh khác.
+ Đạo giáo: được truyền bá trong nhân dân và hòa nhập với một số tín ngưỡng dân gian: thờ cúng
các anh hùng dân tộc, tổ tiên.

37
- Giáo dục
+ Do nhu cầu xây dựng nhà nước và nâng cao dân trí, các nhà nước đương thời đều quan tâm đến
giáo dục. Chữ Hán trở thành chữ viết chính thức.
+ Thời Đinh – Tiền Lê: quan lại chủ yếu tuyển chọn bằng nhiệm tử hoặc tiến cử; những người nắm
quyền chủ yếu là võ tướng hoặc các hoàng tử...
+ Thời Lý năm 1070: vua Lý Thánh Tông lập Văn Miếu, năm 1075 tổ chức khoa thi đầu tiên
“Minh kinh bác học”.
+ Thời Trần: năm 1247: nhà Trần đặt lệ lấy “Tam khôi”, quy định rõ nội dung học tập, mở rộng
Quốc Tử giám cho con em quý tộc và quan chức đến học.
+ Sự phát triển của giáo dục đã tạo nên những trí thức tài giỏi: Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Phạm
Sư Mạnh...
- Thời Lê sơ: Nho giáo chiếm vị trí độc tôn, giáo dục Nho học vì vậy mà phát triển thịnh đạt. Các
khoa thi được tổ chức đều đặn: 3 năm có 1 kì thi Hội để chọn nhân tài. Tất cả người dân có học, có
lí lịch rõ ràng đều được đi thi...Những người thi đỗ được khắc tên trên bia đá dựng ở Văn Miếu.
Dưới thời vua Lê Thánh Tông, nhà nước mở 12 khoa thi Hội, lấy đỗ 501 Tiến sĩ, trong đó có 9
Trạng Nguyên. Đây là thời cực thịnh của giáo dục thi cử phong kiến.
=> Nhận xét:
+ Tích cực: Các triều đại phong kiến Việt Nam cùng với việc chăm lo phát triển các mặt kinh tế, xã
hội cũng đã chú trọng tới việc phát triển giáo dục. Tác dụng: Đào tạo đội ngũ quan chức và nhân
tài cho đất nước; nâng cao dân trí; góp phần không nhỏ vào việc xây dựng và phát triển quốc gia
Đại Việt (X - XV)
+ Hạn chế: Nền giáo dục Việt Nam dưới thời Lý, Trần, Lê sơ đã từng bước được mở rộng và chính
quy nhưng chưa phải nền giáo dục dành cho mọi người, chỉ có con em quý tộc, giàu có mới được
đi thi. Nội dung giáo dục Nho giáo chủ yếu thiên về thiên văn, triết học, đạo đức, chính trị mà
không chú ý tới các kiến thức khoa học phục vụ sản xuất. Vì vậy không tạo điều kiện cho phát
triển kinh tế
=> Tóm lại, nền giáo dục thời Lý, trần, Lê sơ đã có những đóng góp to lớn cho nền giáo dục nước
nhà, là đòn bẩy thúc đẩy tinh thần học tập, truyền thống hiếu học và bồi đắp nguyên khí cho quốc
gia. Từ đó, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu
trong tổ chức giáo dục hiện nay.
- Văn học
38
+ Từ thời Trần văn học dân tộc ngày càng phát triển. Hàng loạt bài thơ, hịch, phú nổi tiếng như
Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo,…vừa thể hiện tài năng văn học vừa toát lên
niềm tự hào dân tộc và lòng yêu nước sâu sắc.
+ Thế kỷ XI-XII, chữ Nôm ra đời…Đến thế kỉ XV, văn học chữ Hán và chữ Nôm đều phát triển
với sự xuất hiện hàng loạt tập thơ của Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông…
- Nghệ thuật
+ Cung điện, tháp, đền đài, thành được xây dựng…;những công trình kiến trúc Phật giá xây dựng
khắp nơi như: chùa Một cột, chùa Dâu, tháp Báo Thiên, Phổ Minh...
+ Nghệ thuật điêu khắc tinh tế, độc đáo với nhiều loại hình khác nhau như chân bệ cột hình hoa
sen, những bức phù điêu khắc hình rồng nổi cuộn trong lá đề…
+ Nghệ thuật sân khấu như ca múa nhạc: chèo, tuồng, múa rối phát triển. Âm nhạc với nhiều nhạc
cụ: trống cơm, sáo tiêu, đàn cầm...
* Nguyên nhân phát triển.
- Sự phát triển về các mặt chính trị, kinh tế...của các triều đại Lý, Trần, Lê tạo tiền đề cho các mặt
giáo dục, văn học, nghệ thuật phát triển.
- Các triều đại phong kiến đều có những chính sách tạo điều kiện cho các hoạt động này phát
triển...
- Sự sáng tạo của nhân dân ta trong sản xuất, trong đấu tranh nhằm gìn giữ, bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa của dân tộc...
* Tính dân tộc sâu sắc
- Tư tưởng, tôn giáo: tiếp nhận Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo từ phương Bắc, người Việt đã hòa
lẫn với tư tưởng, tình cảm, tín ngưỡng truyền thống của mình để tạo nên lối sống và cách ứng xử
riêng.
- Văn học phát triển với hàng loạt các thể loại.. mang đậm tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, niềm
tự hào dân tộc.
- Trên cơ sở chữ Hán và chữ Phạn, người Việt sáng tạo ra chữ viết riêng: chữ Nôm, chữ Chăm để
ghi chép, sáng tác thơ văn.
- Nghệ thuật, hình thành nền nghệ thuật dân tộc trên mọi lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc, múa rối…
tinh tế, độc đáo, mang tính dân tộc.
* Đặc điểm:

39
- Từ thế kỉ X – XV, với tinh thần dân tộc và ý thức tự cường, nhân dân ta đã làm sống lại nền văn
minh văn minh Văn Lang – Âu Lạc đã bị vùi dập trong hơn 1000 năm Bắc thuộc. Nhiều thành tựu
của nền văn minh Đại Việt bắt nguồn từ nền văn minh Văn Lang – Âu Lạc mang đượm tính nhân
văn sâu sắc và được phát triển trong thời đại mới.
- Trong những thế kỉ đầu độc lập, nhân dân Đại Việt đã phát huy mọi khả năng để tạo nên một nền
văn hóa dân tộc đa dạng, phong phú, đặc sắc mang đậm tính bản địa, lại vừa có tính sáng tạo, mới
mẻ, xuất phát từ việc tiếp nhận ảnh hưởng của nền văn hóa ở các nước xung quanh.
- Thành tựu của văn hóa Đại Việt trong các thế kỉ X – XV đã khẳng định được sự phát triển của
một quốc gia có nền văn hiến lâu đời, không bị yếu tố ngoại lai đồng hóa mà còn phát triển phong
phú, đa dạng
- Thành tựu văn hóa Đại Việt thế kỉ X – XV mang tính toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Vì vậy,
nó đã trở thành cơ sở bền vững cho những thành tựu văn hóa của các giai đoạn tiếp sau của lịch sử
dân tộc.
II. Thời kì đất nước bị chia cắt XVI- XVIII
1. Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong các thế kỉ XVI – XVIII
- Đầu thế kỉ XVI, nhà Lê sơ lâm vào tình trạng khủng hoảng, tình hình chính trị, xã hội Đại Việt
mất ổn định:
+ Sau khi vua Lê Hiến Tông mất, các vua Uy Mục, Tương Dực không chăm lo đến việc triều
chính, chỉ lo ăn chơi sa đọa.
+ Quan lại, địa chủ mặc sức hoành hành, chiếm đoạt ruộng đất
+ Nhân dân bị bóc lột cùng cực đã nổi dậy đấu tranh khắp nơi
+ Các thế lực phong kiến nổi dậy, tranh chấp quyền hành. Nổi trội hơn cả là thế lực của Quốc công
Thái Phó Mạc Đăng Dung.
-> Chứng tỏ nhà Lê sơ đã suy yếu và không còn đủ sức thống trị, không thể nắm lấy vai trò của
người đứng đấu đất nước. Năm 1527, Mạc Đăng Dung ép vua Lê nhường ngôi, lập ra nhà Mạc.
- Trong những năm đầu thống trị, nhà Mạc đã có những chính sách bước đầu ổn định lại đất nước:
+ Tổ chức chính quyền theo mô hình cũ của nhà Lê, tổ chức thi cử đều đặn để tuyển chọn quan lại
+ Cố gắng tập trung giải quyết vấn đề ruộng đất
+ Xây dựng một đạo quân thường trực mạnh
-> Tuy nhiên, chỉ một thời gian ngắn sau, nhà Mạc suy thoái, một số cựu thần nhà Lê tập hợp lực
lượng nổi dậy chống lại nhà Mạc.
40
- Không chấp nhận nhà Mạc, một số quan lại cũ của nhà Lê, đứng đầu là Nguyễn Kim đã họp quân
dưới danh nghĩa “phù Lê diệt Mạc”, nổi dậy ở vùng Thanh Hóa, Nghệ An. Một vương triều mới
được thành lập ở đây gọi là Nam Triều để phân biệt với Bắc triều của nhà Mạc ở Thăng Long
-> Năm 1546, chiến tranh Nam – Bắc triều bùng nổ, kéo dài đến năm 1592. Triều Mạc bị lật đổ.
Đất nước bước đầu thống nhất trở lại.
- Tuy nhiên, Nguyễn Kim mất, Trịnh Kiểm lên thay. Ít lâu sau, một thế lực cát cứ hình thành ở
phía Nam – thế lực phong kiến họ Nguyễn. Năm 1627, cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn bùng nổ,
kéo dài đến cuối năm 1672. Sau 7 lần đánh nhau không phân thắng bại, hai bên giảng hòa, lấy sông
Gianh (Quảng Bình) làm giới tuyến, chia cắt đất nước thành Đàng Trong – Đàng Ngoài với hai
chính quyền riêng biệt.
=> Nhận xét:
- Tình trạng chia cắt đất nước kéo dài đến cuối thế kỉ XVIII, gây nên những hậu quả hết sức nặng
nề
- Cuộc chiến tranh Nam – Bắc triều và cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn đã gây nên bao cảnh chết
chóc, đau thương cho nhân dân, đẩy họ vào cuộc sống khốn cùng.
- Mầm mống của sự phân liệt, chia cắt đất nước bắt nguồn từ cuộc chiến tranh Nam – Bắc triều và
trực tiếp là cuộc chiến tranh Trịnh- Nguyễn. Thực chất của hai cuộc chiến tranh này là chiến tranh
giữa các thế lực phong kiến, là cuộc nội chiến. Những cuộc chiến tranh phong kiến này là điều
không thế tránh khỏi nhưng nó cũng không thể giải quyết được xu hướng phân liệt đã hình thành.
- Tình trạng phân liệt kéo dài suốt 200 năm không chỉ là sự chia cắt đất nước về mặt lãnh thổ mà
còn là còn là sự chia cắt của tình cảm, con người, văn hóa.. để lại những hệ lụy và nỗi đau cho dân
tộc. Tuy nhiên, trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, sự phân liệt, chia cắt chỉ mang tính
tạm thời, xu thế thống nhất là tất yếu, phù hợp với quy luật lịch sử.
2. Tình hình kinh tế trong các thế kỉ XVI – XVIII
Trong các thế kỉ XVI – XVIII, mặc dù đất nước có nhiều biến động, song do nhiều nguyên nhân
khác nhau nên nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục phát triển.
a. Kinh tế nông nghiệp: Sau một thời gian bị tàn phá do chiến tranh, từ nửa sau thế kỉ XVII, dần
ổn định trở lại:
* Đàng Ngoài:

41
- Nhân dân tiếp tục khai hoang, mở rộng diện tích đất canh tác. Tuy nhiên, diện tích mở rộng
không đáng kể do Đàng Ngoài là vùng đất đã được khai phá từ lâu đời, đất đai còn lại không đáng
kể, ruộng đất tư hữu ngày càng tăng lên.
- Nhân dân đúc kết được nhiều kinh nghiệm giống cây trồng, ngành chăn nuôi cũng phát triển
mạnh và có vị trí quan trọng
- Nhà nước phó mặc cho nông dân các công việc đê điều, thủy lợi -> hạn hán, mất mùa, lũ lụt xảy
ra liên tiếp.
- Chế độ thuế khóa, lao dịch, binh dịch nặng nề
-> nhân dân xiêu tán ngày càng đông, mâu thuẫn xã hội gay gắt.
* Đàng Trong:
- Các chúa khuyến khích nhân dân khai phá đất hoang, nhanh chóng mở rộng ruộng đồng. Đàng
Trong là vùng đất mới được khai phá, diện tích hoang hóa còn nhiều, thời tiết thuận lợi, nhân dân
có kinh nghiệm khai hoang nên diện tích đất đai ngày càng mở rộng.
- Nhân dân cũng ra sức tăng gia sản xuất, bồi đắp đê điều, nạo vét mương máng.
- Đặc biệt vùng đất Nam Bộ do đất đai, thời tiết thuận lợi, nhân dân đã sản xuất được nhiều thóc
gạo phục vụ thị trường, nâng cao đời sống.
- Ngoài ra, nghề trồng vườn với nhiều loại cây: dưa, xoài… khá phát triển.
-> Gia Định trở thành nơi sản xuất nông nghiệp phát triển.
b. Thủ công nghiệp:
- Thủ công nghiệp nhà nước: Cả hai chính quyền phong kiến đều chú trọng xây dựng quan xưởng
+ Đàng Ngoài: ở kinh thành Thăng Long, chúa Trịnh lập nhiều xưởng lớn chuyên việc đúc súng,
sản xuất vũ khí, đúc tiền, đóng thuyền, may trang phục cho vua, chúa, quan lại. Từ 1760, chúa
Trịnh cho phép các trấn cũng được mở xưởng đúc tiền.
+ Đàng Trong: chúa Nguyễn đặc biệt quan tâm đến xưởng đúc súng và đóng thuyền. Lực lượng lao
động: những người thợ thủ công giỏi, được trưng tập từ các địa phương theo chế độ công tượng.
-> Chủ yếu phục vụ nhu cầu của vua, quan, quý tộc và chiến tranh. Tuy có mở rộng về quy mô sản
xuất và trình độ kĩ thuật nhưng vẫn bị ràng buộc chặt chẽ trong những tổ chức sản xuất với những
quan hệ cưỡng bức và nô dịch, ít có tác động đến sự phát triển kinh tế hàng hóa
- TCN nhân dân
+ Bộ phận TCN chuyên nghiệp ở thành thị và nông thôn ngày càng phát triển và có xu hướng trở
thành bộ phận sản xuất chính.
42
+ Những làng nghề thủ công chuyên nghiệp ở nông thôn và phường thủ công chuyên nghiệp ở
thành thị xuất hiện ngày càng nhiều: Bát Tràng, Thổ Hà, Hương Canh, Vạn Phúc..
+ Nghề khai mỏ và sản xuất đường mía đặc biệt phát triển. Nghề khai mỏ chủ yếu phát triển ở
Đàng Ngoài và nghề trồng mía, làm đường phát triển mạnh ở Đàng Trong với kĩ thuật sản xuất cao
và lượng đường xuất khẩu ngày càng lớn.
-> Sự phát triển của thủ công nghiệp nhân dân sản xuất hàng hóa ngày càng nhiều, phong phú, đa
dạng, chất lượng góp phần phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, đồng thời thúc đẩy nhu cầu
trao đổi, buôn bán, đẩy mạnh kinh tế hàng hóa phát triển.
c. Kinh tế hàng hóa trong các thế kỉ XVI- XVIII
* Biểu hiện:
- Buôn bán trong nước phát triển: Các chợ: Chợ làng, chợ chùa, chợ huyện mọc lên ở nhiều nơi
và ngày càng tấp nập, đông đúc. Xuất hiện các làng buôn: Cùng với các làng nghề thủ công thì các
làng buôn xuất hiện: Ở Đàng ngoài có làng Trúc Lâm (Hải Dương) chuyên làm thuộc da và đóng
giày dép, làng gốm Bát Tràng (Hà Nội)… Ở Đàng Trong cũng đã xuất hiện rất nhiều làng buôn
như lành Phù Trạch làm chiếu. Buôn bán liên vùng đường sông và đường biển phát triển mạnh mẽ.
- Buôn bán với nước ngoài:
+ Buôn bán với Phương Đông: Các thương nhân Trung Quốc, Giava, Nhật Bản, Xiêm buôn bán ở
nước ta rất tập nập. Những mặt hàng họ bán ở nước ta chủ yếu là quân dụng và hàng sa sỉ phẩm
như đồ sứ, chè, gấm vóc… Đến khi gió nồm thì họ trở về, mang theo tơ và hương liệu quý như
quế, hương sa, trầm hương, vây cá, yến sào, hồ tiêu...
+ Buôn bán với phương Tây: Trong các thế kỉ XVI- XVIII, thương nhân phương Tây tới nước ta
buôn bán tấp nập, nhất là Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh, Pháp…
- Sự hưng khởi của các đô thị: Đô thị đã xuất hiện ở nước ta từ X-XV. Tuy nhiên XVI-XVIII do
nhiều nguyên nhân khách quan chủ quan, đô thị có sự hưng khởi.
+ Kinh kì (Thăng Long hay Kẻ Chợ) không chỉ là trung tâm chính trị, hành chính văn hóa mà còn
là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước, với hệ thống chợ, bến, thuyền và hàng chục phố buôn
bán, chế tạo hàng thủ công… Thăng Long có 36 phố phường và 8 chợ, là nơi có nhiều mặt hàng
khắp các nơi đưa về nên thương nhân nước ngoài rất ưa thích và xin đặt thương điếm để buôn
bán…
+ Phố Hiến là một đô thị được hình thành trên cơ sở một khu chợ ở trấn Sơn Nam.

43
Từ cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII Phố Hiến đã nổi tiếng Đàng Ngoài. Nhiều thương nhân của
Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Pháp, Hà Lan… đến đây xin buôn bán và lập thương điếm. Chính
quyền Lê – Trịnh đã biến Phố Hiến thành trạm trung chuyển hàng hóa từ các tàu buôn ngoại quốc.
Vào thời điểm thịnh đạt phố Hiến có 2000 nóc nhà, 20 phườngng chuyên sản xuất hàng thủ công
và buôn bán.
=> Sự hưng khởi của đô thị Đàng Ngoài góp phần không nhỏ đối với đời sống kinh tế, văn hóa, xã
hội của mọi giai tầng từ Thăng Long đến Phố Hiến và nhiều địa phương khác
- Hội An là trung tâm buôn bán của cả vùng Đàng Trong, là thương cảng quốc tế nằm trên con
đường thương mại biển Đông. Từ rất sớm, Hội An là nơi đón tiếp thuyền buôn ngoại quốc. Từ đầu
thế kỷ XVII, Hội An là một thành phố cảng lớn, hội tụ nhiều thuyền buôn và thương điếm của các
nước phương Đông và phương Tây. Họ nhập vũ khí, hàng thủ công Mỹ nghệ, kẽm, bạc,… và mua
đủ thứ lâm sản quý, tơ lụa,…
- Thanh Hà là một đô thị mới hình thành bên bờ sông Hương, gần Phú Xuân (Huế) do người Trung
Quốc lập năm 1636. Thanh Hà được xem là khu buôn bán của Phú Xuân được gọi là “Đại Minh
khách phố”.
=> Sự phát triển các đô thị Đàng Trong góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp và thương nghiệp Đàng Trong phát triển, Hội An - Sài Gòn trở thành thương cảng lớn hoạt
động buôn bán trao đổi và giao thương giữa Đàng trong với Trung Hoa, Ấn Độ và các nước trong
khu vực và nhiều nước ở phương Tây.
=> Vai trò
- Cùng với các ngành kinh tế khác, sự hưng thịnh của một số đô thị ở Đàng Trong và Đàng Ngoài vừa
là trung tâm kinh tế, vừa là trung tâm chính trị, văn hóa của vùng hoặc cả nước đã góp phần làm cho
nước Đại Việt thế kỉ XVII-XVIII phát triển.
- Các đô thị cũng tác động trở lại, góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
thương nghiệp phát triển.
- Với vai trò là những trung tâm thương mại, các đô thị lại tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế hàng hóa, đưa nước ta tiếp xúc với luồng thương mại quốc tế, góp phần mở rộng thị
trường trong nước, ít nhiều tạo sự thay đổi bộ mặt đất nước…
- Thúc đẩy sự phát triển văn hóa thông qua việc tiếp thu một số thành tựu văn hóa phương Tây
như: sự du nhập của Thiên chúa giáo, sự ra đời của chữ Quốc ngữ, học tập kĩ thuật đúc súng và
đóng thuyền chiến của phương Tây…
44
- Tuy nhiên, sự hưng khởi của các đô thị nói riêng và sự phát triển của kinh tế hàng hóa nói chung
đã làm xuất hiện quan hệ tiền tệ, làm thay đổi tôn ti trật tự xã hội phong kiến, sự phân cực xã hội
diễn ra ngày càng mạnh mẽ... Sự có mặt của các thương nhân phương Tây tại các đô thị và hoạt
động ngoại thương phát triển cũng là con đường dẫn các nước phương Tây có mặt ở nước ta mở
rộng mục đích nhòm ngó, xâm lược phục vụ cho quá trình đi xâm lược thuộc địa...
- Sự phát triển của quan hệ tiền tệ: Sự phát triển của ruộng đất, hàng hóa đã thúc đẩy sự lưu
thông tiền tệ, quan hệ tiền tệ dẫn tới sự phân cực xã hội diễn ra nhanh chóng, bên cạnh tiền trong
nước còn sử dụng tiền Trung Quốc, Nhật Bản.
* Nguyên nhân/ nhân tố
- Sự phát triển tự nhiên của sức sản xuất: Trong nông nghiệp hình thành những vùng sản xuất phục
vụ thị trường, kĩ thuật sản xuất thủ công nghiệp được cải tiến, số lượng thương nhân giàu có tăng
lên...,
- Điều kiện tự nhiên thuận lợi cho sản xuất và giao thương, lãnh thổ không ngừng mở rộng về phía
Nam với đất đai màu mỡ, giao thông đường sông, biển, nhiều cảng sông, biển...
- Nhu cầu tiêu dùng trong sinh hoạt hàng ngày của quần chúng bình dân, trong đời sống xa xỉ của
tầng lớp thị dân giàu có và đẳng cấp vua quan đã kích thích những ngành nghề thủ công phát triển
cả về số lượng và chất lượng.
- Do chính sách tích cực của chính quyền nhà nước phong kiến ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài:
Xuất phát từ tình hình cát cứ của các tập đoàn phong kiến hai đàng và do các cuộc chiến tranh
Nam – Bắc nên các vua chúa hai Đàng đều thấy mối lợi của thông thương về nhiều mặt… Đó là
những nguyên nhân khiến chúa Trịnh cũng như chúa Nguyễn đã có chính sách “mở cửa” thông
thương rộng rãi.
- Sự hình thành và hưng khởi của đô thị do sự phát triển của kinh tế hàng hóa. Nhưng khi đã phát
triển thì các đô thị, với vai trò là những trung tâm thương mại, lại tạo điều kiện cho kinh tế hàng
hóa phát triển.
- Sự giao lưu buôn bán trên thế giới gia tăng: thương nhân châu Âu mở rộng buôn bán với phương
Đông, thương nhân các nước Đông Á cũng hoạt động rầm rộ, hình thành sự giao lưu buôn bán giữa
các nước với Đại Việt.
* Bài học kinh nghiệm
- Hiện nay đang phát triển nền kinh tế thị trường nên cần tạo điều kiện cho tất cả các thành phần
kinh tế phát triển.
45
- Gỡ bỏ những chính sách bất hợp lí, tạo điều kiện mở rộng giao lưu buôn bán với các quốc gia,
vùng lãnh thổ trong khu vực và trên thế giới.
- Tôn trọng quy luật phát triển của kinh tế hàng hóa. Thực hiện cải cách hành chính tạo được môi
trường, giảm thủ tục hành chính.. Chú trọng doanh nghiệp tư nhân.
- Bên cạnh việc đầu tư phát triển kinh tế, phát huy thế mạnh về điều kiện tự nhiện của mỗi vùng
miền, cần quan tâm giải quyết vấn đề đầu vào: vốn, máy móc và đầu ra thị trường..
- Có những chính sách xây dựng và phát triển đô thị - trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của
vùng và cả nước, tạo điều kiện tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ của thế giới, mở rộng
quan hệ hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục. Đô thị cũng là cầu nối hội nhập vào cộng đồng khu vực
và thế giới.
III. Nhà Nguyễn (1802- 1858)
1. Bối cảnh thành lập Vương triều Nguyễn
* Thế giới
- Chủ nghĩa tư bản phương Tây đang phát triển mạnh mẽ, chuyển dần sang giai đoạn độc quyền,
thúc đẩy các nước này đẩy mạnh quá trình xâm chiếm thuộc địa, giành giật thị trường . Chế
độ phong kiến đã trở nên lỗi thời, lạc hậu , những cơ sở tồn tại của chế độ phong kiến về kinh
tế, xã hội đều suy yếu nghiêm trọng…
- Các quốc gia phong kiến phương Đông trở thành đối tượng chinh phục của các nước tư bản
phương Tây. Các nước nay có vị trí chiến lược quan trọng, giàu tài nguyên thiên nhiên, nhân công
dồi dào mà chế độ phong kiến lại khủng hoảng trầm trọng. Vì thế, đã trở thành đối tượng xâm lược
của các nước tư bản. Việt Nam cũng không nằm ngoài nguy cơ đó. Việt Nam (Đại Nam) phải
chăm lo đối phó với một thế lực ngoại xâm mạnh hơn một phương thức sản xuất...
* Trong nước
- Sau khi Quang Trung mất, vương triều Tây Sơn lục đục. Lợi dụng bối cảnh đó, Nguyễn Ánh dựa vào
tư bản Pháp đã lật đổ vương triều Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lấy niên hiệu là
Gia Long, đóng đô ở Phú Xuân, thành lập nhà Nguyễn. Vương triều này tồn tại từ 1802 đến năm
1945.
=> Triều Nguyễn được dựng lên là kết quả của cuộc chiến tranh giữa tập đoàn Nguyễn Ánh, được
tư bản Pháp giúp sức và sự ủng hộ của đại địa chủ đàng Trong với vương triều Tây Sơn.
- Vương triều Nguyễn được thiết lập trên một lãnh thổ rộng lớn chưa từng thấy và được thống nhất
sau một thời gian dài bị chia cắt, khủng hoảng lâu dài (từ thế kỉ XVI – XVIII). Sau phong trào Tây
46
Sơn, đất nước cơ bản được thống nhất về mặt lãnh thổ. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam,
một triều đại phong kiến được cai quản, làm chủ trên một lãnh thổ rộng lớn, thống nhất kéo dài từ
Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau.
- Trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam những dòng họ thành lập vương triều mới thường là
sau khi lãnh đạo nhân dân lật đổ ách thống trị của ngoại bang (triều Lê) hoặc thay thế vương triều
đã suy thoái (triều Lý, Trần) nhưng triều Nguyễn được dựng lên lại là kết quả của cuộc đấu tranh
giữa các thế lực phong kiến suy đồi, được tư bản Pháp giúp sức, lật đổ phong trào nông dân Tây
Sơn – một phong trào nông dân tiến bộ đấu tranh vì quyền lợi của giai cấp và dân tộc.
=> Bởi vậy ngay từ khi ra đời triều Nguyễn đã có sự đối lập sâu sắc với nhân dân.
- Khác với sự thành lập triều Lý (thế kỉ XI), triều Trần (thế kỉ XII), triều Lê (thế kỉ XV). Triều
Nguyễn được thành lập trong bối cảnh chế độ phong kiến đã trở nên lỗi thời, lạc hậu (trên thế giới
các cuộc cách mạng tư sản đã diễn ra rộng khắp, CNTB được thiết lập, cách mạng công nghiệp đã
nổ ra). Hơn thế nữa lúc này chế độ phong kiến Việt Nam đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng và
toàn diện, những cơ sở tồn tại của chế độ phong kiến về kinh tế, xã hội đều suy yếu nghiêm trọng.
- Cơ sở kinh tế của chế độ phong kiến: ruộng đất công bị địa chủ tăng cường xâm chiếm, cướp
đoạt, giai cấp địa chủ chiếm đoạt ruộng đất của nông dân…
- Lần đầu tiên trong lịch sử, một triều đại phong kiến được cai quản trên một lãnh thổ rộng lớn
thống nhất như ngày nay.
2. Tổ chức bộ máy nhà nước
- Năm 1802, Nguyễn Ánh đánh đổ Vương triều Tây Sơn, lên ngôi Hoàng đế, đặt hiệu Gia Long,
lập nên Vương triều Nguyễn (1802-1945). Công việc đầu tiên mà Gia Long tập trung giải quyết là
thiết lập một hệ thống cai trị từ trung ương đến địa phương trên một lãnh thổ rộng lớn
- Thời Gia Long:
+ Xây dựng một thể chế quân chủ quan liêu chuyên chế, vua là người đứng đầu triều đình, toàn
quyền quyết định mọi công việc hệ trọng của nhà nước. Dưới vua có 6 bộ (lại, hộ, lễ, binh, hình,
công) đứng đầu mỗi bộ là Thượng thư. Dưới bộ có các ti chuyên trách
+ Phú Xuân (Huế) được chọn làm kinh đô, là trung tâm đầu não của cả nước. Những dinh, trấn
nằm kề Phú Xuân được coi là các trực doanh do triều đình trực tiếp cai quản
+ Hai đầu đất nước là Bắc thành, Gia định thành do Tổng trấn thay mặt Hoàng đế quyết định mọi
việc
- Thời Minh Mạng:
47
+ Tổ chức bộ máy nhà nước hoàn thiệt chặt chẽ hơn. Ngoài 6 bộ còn có các viện và cơ quan
chuyên trách như Đô sát viện, Nội các, Cơ mật viện…Cơ mật viện được Minh Mạng thành lập vào
năm 1834, là cơ quan trọng yếu có nhiệm vụ giúp vua giải quyết các công việc “quân quốc trọng
sự”
+ Năm 1831-1832, vua Minh Mạng lần lượt bỏ Bắc thành và Gia Định thành cùng các chức Tổng
trấn, chia lại cả nước thành 30 tỉnh và 1 phủ thừa thiên. Các tỉnh đều do Tổng đốc hay Tuần phủ
đứng đầu, nhưng đều trực thuộc chính quyền trung ương. Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng, xã
và thôn
+ Để bảo vệ quyền uy tuyệt đối của Hoàng đế, nhà Nguyễn không đặt chức Tể tướng, không lấy đỗ
Trạng nguyên, không lập Hoàng hậu và không phong tước Vương ngoài họ (lệ “tứ bất”)
- Luật pháp: năm 1815, Bộ Hoàng Việt luật lệ (luật Gia Long) gồm 398 điều, chia thành 7 chương
được ban hành, đây là bộ luật soạn thảo với tinh thần đề cao quyền uy của Hoàng đế, triều đình; xử
phạt rất hà khắc, nhất là những tội gây phương hại đến chính quyền.
- Quân đội: Chủ trương xây dựng quân đội thường trực mạnh với trên 20 vạn quân, được chia làm
bốn binh chủng (Bộ binh, thủy binh, pháo binh, Tượng binh). Binh lính trong quân đội được hưởng
các chế độ ưu đãi. Quân đội nhà Nguyễn từng bước được chính quy hóa từ tổ chức đến trang bị vũ
khí và là một đội quân khá mạnh ở Đông Nam Á lúc bấy giờ
- Đối ngoại:
+ Chủ trương thần phục nhà Thanh, năm 1803 Gia Long cử sứ bộ sang Trung Quốc xin quốc hiệu
và cầu phong. Năm sau, nhà Thanh sau sứ sang phong vương cho Gia Long. Từ đó, nhà Nguyễn
phải định kì cống nạp
+ Đối với Cao Miên và Lào bắt họ thần phục, thậm chí có lúc còn thiết lập chế độ bảo hộ ở Cao
Miên
+ Đối với phương tây: thời Gia Long thi hành chính sách tương đối cởi mở với Pháp và Thiên chúa
giáo. Thời Minh Mạng: khước từ dần quan hệ với phương Tây, thậm chí bắt đầu thi hành chính
sách đàn áp Thiên chúa giáo và đóng cửa, ngăn cản ảnh hưởng của người phương Tây trên đất
nước Việt Nam.
3. Đóng góp – hạn chế
* Đóng góp
- Trước khi triều Nguyễn được thành lập, các chúa Nguyễn đã có công mở rộng lãnh thổ về phía
nam đến tận đồng bằng sông Cửu Long và xác lập chủ quyền vững chắc trên vùng đất mới. Sau khi
48
được thành lập, bằng nhiều biện pháp và hình thức thiết thực, triều Nguyễn đã huy động được nhân
dân, quan lại, binh lính tiếp tục thực hiện công cuộc khai hoang...
- Tiếp tục thành tựu của phong trào Tây Sơn (đã xóa bỏ tình trạng phân chia Đàng Trong - Đàng
Ngoài, đặt cơ sở cho sự khôi phục nền thống nhất), Nguyễn Ánh và triều Nguyễn đã hoàn thành
công cuộc thống nhất đất nước về mặt lãnh thổ bao gồm cả Đàng Trong và Đàng Ngoài...
- Xây dựng và củng cố quốc gia thống nhất trên lãnh thổ tương ứng với lãnh thổ Việt Nam ngày
nay, bao gồm cả đất liền và hải đảo ven bờ cùng các quần đảo trên biển Đông (Bản đồ, hải đồ
Hoàng Sa, Trường Sa, có giá trị quan trọng làm cứ liệu cho việc bảo vệ chủ quyền biển đảo).
Triều Nguyễn là một vương triều quân chủ tập quyền có những mặt hạn chế về chế độ chuyên chế,
về một số chính sách đối nội, đối ngoại, nhưng cũng đạt nhiều tiến bộ về mặt quản lý quốc gia
thống nhất, về cải cách hành chính, xây dựng thiết chế và tổ chức bộ máy nhà nước rất quy củ.
- Thời kỳ các chúa Nguyễn và triều Nguyễn để lại một di sản văn hóa đồ sộ bao gồm cả di sản vật
thể và phi vật thể... (Những thành tựu được UNESSCO công nhận là di sản thế giới: Quần thể di
tích cố đô Huế là di sản văn hóa của nhân loại (1993); Nhã nhạc cung đình Huế được công nhận là
Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại (2003); Mộc bản triều Nguyễn được công nhận là di sản
tư liệu thế giới (2009). Di sản này trải rộng trên cả nước từ bắc đến nam, là kết quả lao động sáng
tạo của nhân dân ta, của cộng đồng các thành phần dân tộc Việt Nam, của các nhà văn hóa kiệt
xuất, tiêu biểu cho trí tuệ và tâm hồn dân tộc).
* Hạn chế…
- Ngoại giao: thần phục mù quáng nhà Thanh, bắt các nước phía Nam (Lào, Chân Lạp) phải thần
phục mình, đóng cửa khóa nước, bế quan tỏa cảng, không giao lưu, buôn bán với phương Tây…
- Kinh tế: thi hành những chính sách truyền thống trong sản xuất nông nghiệp không phát huy
được tác dụng…không áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất… thiếu khuyến
khích đối với sự phát triển của thủ công nghiệp… nắm độc quyền về ngoại thương, hạn chế sự giao
lưu buôn bán bên trong và bên ngoài…
- Chính sách giáo dục, văn hóa: duy trì nền giáo dục Nho học lỗi thời, lạc hậu. Độc tôn Nho giáo
và hạn chế các tôn giáo khác, đặc biệt là Thiên Chúa giáo…
- Không chịu đổi mới đất nước, thi hành những chính sách thủ cựu, lạc hậu…Trả thù quân Tây Sơn
tàn bạo gây nên nỗi bất bình trong nhân dân
* Bài học…

49
- Có những chủ trương, chính sách, biện pháp kịp thời, phù hợp cả về đối nội và đối ngoại để tăng
cường sức mạnh nội lực và tranh thủ được nguồn ngoại lực để phát triển…
- Phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết trong nhân dân, tăng cường niềm tin trong nhân dân, tạo
thành một khối thống nhất vững mạnh….
- Bắt kịp được xu thế phát triển của thời đại, nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, đẩy lùi nguy cơ
4. Hoạt động đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa:
- Năm 1816: Vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thuỷ trình.
- Năm 1835: Vua Minh Mạng cho xây đền, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Đội Hoàng Sa và
Đội Bắc Hải được trao nhiều nhiệm vụ hơn: khai thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên đảo, và nhiệm
vụ biên phòng bảo vệ hai quần đảo. Hai đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi Pháp nhảy vào
Đông Dương.
=> Nhận xét:
- Nhà Nguyễn đã tiếp tục thực thi việc quản lí về mặt nhà nước đối với hai quần đảo HS- TS được
chiếm hữu từ thời các chúa Nguyễn. (chiếm hữu một cách hòa bình)
- Những quần đảo này đã được các chúa Nguyễn chiếm hữu một cách hòa bình (không chiếm lại từ
bất cứ quốc gia nào), đến triều Nguyễn được tiếp tục quản lí về mặt nhà nước, thể hiện sự quản lí
liên tục của các chính quyền nhà nước Việt Nam đối với những quần đảo này. Đó là một trong
những bằng cớ khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa- Trường Sa.
- Tạo cơ sở về mặt lịch sử để đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa- Trường Sa hiện nay
- Từ chiếm hữu một cách hòa bình đến quản lí liên tục về mặt nhà nước còn là cơ sở về mặt pháp lí
để Việt Nam đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo.
* Liên hệ hiện nay (Nếu có ý liên hệ): Biện pháp bảo vệ chủ quyền biển đảo
- Về chính trị: thông qua điện đàm của lãnh đạo các cấp: Bộ trưởng Ngoại giao, Thủ tướng chính
phủ, chủ tịch nước...có thể công khai hoặc không công khai.
- Về ngoại giao: tuyên truyền, vận động quốc tế, phối hợp với các nước khác chống quân sự hoá
biển Đông, giữ gìn hoà bình, bảo đảm an ninh và an toàn đường hàng hải và hàng không quốc tế
qua biển Đông. Gửi công hàm ở những cấp độ khác nhau để phản đối sự vi phạm của đối phương.
Mở các cuộc đàm phán ở những cấp độ khác nhau, cơ sở của đàm phán là về luật pháp quốc tế.
- Về kinh tế: tăng cường việc khảo sát và khai thác tài nguyên biển nhất là thuỷ hải sản và dầu khí...
Nếu năng lực trong nước chưa đủ có thể phối hợp với doanh nghiệp nước ngoài để khẳng định chủ
50
quyền của mình. Tăng cường năng lực đi biển của ngư dân. Tăng cường năng lực về hàng hải –
vận tải đường biển để khẳng định chủ quyền.
- Về an ninh quốc phòng:
+ Tăng cường năng lực hoạt động của cảnh sát biển nhằm kiểm tra giám sát mọi hoạt động trên
biển, giữ gìn trật tự trị an trên biển, chống tội phạm trên biển, những hoạt động thương mại phi
pháp trên biển.
+ Tăng cường khả năng phòng thủ từ bờ biển vào đất liền nhằm bảo vệ các đảo và vùng biển thuộc
chủ quyền biển đảo của Việt Nam.
+ Xây dựng thế trận phòng thủ trên các quần đảo (với lực lượng, vũ khí ở mức cần thiết).
- Về mặt pháp lý:
+ Nghiên cứu đầy đủ và tập hợp đến mức cao nhất mọi chứng cứ về lịch sử, về chủ quyền biển đảo
của Việt Nam để phục vụ đấu tranh ngoại giao và vận động quốc tế.
+ Nắm vững luật pháp quốc tế, đưa các vấn đề ra các cơ quan và trọng tài quốc tế, Hội đồng Bảo
an LHQ theo đúng trình tự và quy định của Luật pháp Quốc tế.
- Về Văn hoá – Giáo dục:
+ Tổ chức và tham gia các Hội thảo Khoa học Quốc tế nhằm khẳng định chủ quyền biển đảo của
Việt Nam. Xây dựng và củng cố cơ sở lịch sử cho việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo. Đây
là cơ sở quan trọng trong việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo.
+ Tuyên truyền và giáo dục cho mọi người Việt Nam những tri thức và ý thức bảo vệ chủ quyền
biển đảo.

51
VĂN MINH ĐẠI VIỆT
I. Khái niệm Văn minh Đại Việt
- Văn minh Đại Việt tồn tại và phát triển cùng quốc gia Đại Việt, trải dài gần 1000 năm (từ thế kỉ
X- XIX), gắn liền với chính quyền họ Khúc, họ Dương và các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê….
Nguyễn.
- Văn minh Đại Việt được phát triển trong điều kiện độc lập, tự chủ của quốc gia Đại Việt với kinh
đô chủ yếu ở Thăng Long – Hà Nội. Vì vậy, văn minh Đại Việt còn được gọi là văn minh Thăng
Long. Văn minh Đại Việt là sự phát triển cao của văn hóa Đại Việt.
II. Cơ sở, điều kiện hình thành
1. Dựa trên nền độc lập tự chủ của quốc gia Đại Việt – đây là cơ sở đầu tiên quan trọng nhất
- Đất nước có điều kiện độc lập: Trải qua hơn 1000 năm Bắc thuộc, nhân dân ta đã bền bỉ, kiên trì
đấu tranh anh dũng để giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, đây là điều kiện thuận lợi để nhân dân
ta bắt tay vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
- Chế độ quân chủ chuyên chế từng bước được hoàn thiện: Sau chiến thắng của Ngô Quyền trên
sông Bạch Đằng năm 938, nhà nước độc lập theo chế độ quân chủ được thành lập và từng bước
hoàn thiện qua các triều đại Ngô, Đinh – Tiền Lê, Lý, Trần, Hồ, Lê sơ. Năm 1010, Lý Công Uẩn tổ
chức việc dời đô ra Thăng Long, mở ra thời kỳ mới cho sự phát triển của dân tộc. Năm 1054 vua
Lý Thánh Tông đổi tên nước là Đại Việt.
- Quá trình xây dựng đất nước gắn liền với kháng chiến chống ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc : cùng
với xây dựng nhà nước phong kiến, phát triển kinh tế, nhân dân ta phải tiến hành nhiều cuộc kháng
chiến và khởi nghĩa chống ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc. Chính trong các cuộc chiến đấu đó đã
xuất hiện tư tưởng chủ đạo trong xây dựng văn hóa của nhân dân Đại Việt.
2. Sự kết thừa và phát huy những thành tựu văn minh Văn Lang – Âu lạc
- Văn minh Đại Việt có nguồn gốc sâu xa từ nền văn minh Văn Lang- Âu Lạc được bảo tồn qua
hơn một ngàn năm Bắc thuộc.
- Những di sản và truyền thống của văn minh Văn Lang – Âu Lạc tiếp tục được phục hưng, phát
triển trong thời kì độc lập tự chủ. Về cơ bản nền văn minh Đại Việt kế thừa nền văn minh Văn
Lang – Âu Lạc, không có sự biến đổi về chất. Kinh tế chủ yếu vẫn là nền nông nghiệp lúa nước;
Ăn, mặc, ở, đi lại vẫn giản dị, đơn giản. Tuy nhiên, nền kinh tế phát triển mới quy mô lớn hơn,
trình độ kĩ thuật cao hơn. Nếu văn minh Văn Lang – Âu Lạc sử dụng chủ yếu là đồ đồng, bắt đầu

52
sử dụng đồ sắt thì đến văn minh Đại Việt kỹ thuật đồ sắt đã phổ biến, các ngành nghề thủ công và
hoạt động buôn bán khá phồn thịnh.
- Văn minh Đại Việt vẫn tiếp thu, bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa tinh thần của người Việt
cổ, đặc biệt là các tín ngưỡng dân gian như thờ cúng tổ tiên, thờ các anh hùng có công với làng, với
nước,…
3. Tiếp thu kế thừa có chọn lọc những tinh hoa văn minh của nhân loại
- Tinh hoa của văn minh Trung Hoa – trung tâm kinh tế văn hóa có nguồn gốc lâu đời của thế giới.
Văn minh Đại Việt đã tiếp thu từ Trung Quốc thiết chế nhà nước quân chủ chuyên chế phong kiến
quan liêu, bao trùm lên một hệ thống cộng đồng làng xã cổ truyền. Văn minh Đại Việt tiếp thu hệ
tư tưởng Nho giáo từ Trung Quốc, từ đó xuất hiện dòng văn học chữ Hán (Hịch, Phú, cáo,…), các
công trình thành quách, điêu khắc, kiến trúc theo Nho giáo như Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hoàng
thành Thăng Long,…Tuy nhiên, nhân dân ta đã biết Việt hóa các yếu tố văn hóa Trung Quốc từ
phía Bắc, tất cả các công trình trên vẫn mang nét riêng biệt của văn hóa Đại Việt, mang bản sắc
dân tộc riêng. Dựa trên cơ sở chữ Hán, nhân dân ta đã biết sáng tạo ra chữ Nôm
- Văn minh Ấn Độ, Việt Nam chịu ảnh hưởng từ tôn giáo, kiến trúc đến văn học. Khác Trung Hoa,
văn minh Ấn Độ được truyền bá vào Đại Việt bằng buôn bán, trao đổi truyền giáo chứ không phải
con đường xâm lược.
- Văn minh Chămpa - là nước có nền văn minh phát triển đầu tiên và bậc nhất nhất khu vực, những
dấu ấn của văn minh Chămpa đã tạo cơ sở tiền đề cho sự phát triển của văn minh Đại Việt. Trong
quá trình mở rộng lãnh thổ về phía Nam, Chămpa từng bước trở thành bộ phận của lãnh thổ Đại
Việt, từ đó góp phần tạo nên một nền văn minh phong phú, đa dạng. Dòng văn hóa dân gian như
văn học truyền miệng, các trò chơi, ca hát, nhạc cụ như trống cơm, các điệu hò Huế cũng chịu ảnh
hưởng của văn hóa Chăm-pa.
- Sự kế thừa tiếp thu văn minh phương Tây thông qua sự truyền giáo của các giáo sĩ phương Tây.
Đặc biệt qua cuộc phát kiến địa lý thế kỉ XV – XVI đã tạo cơ sở cho sự truyền giáo. Đặc biệt, sang
thế kỉ XVII các nhà truyền giáo và thương nhân phương tây bắt đầu có những hoạt động truyền
giáo và buôn bán. Do đó, văn hóa phương tây từng bước du nhập vào Việt Nam.
=> Như vậy, văn minh Đại Việt được hình thành trong điều kiện của quốc gia độc lập tự chủ, có
gốc rễ bền chặt, cộng hưởng với việc tiếp thu có chọn lọc từ nền văn minh lớn của nhân loại, từ đó
tạo ra nền văn minh đặc sắc, mang dấu ấn đặc trưng.
III. Quá trình phát triển của văn minh Đại Việt
53
1. Thế kỉ X (Khúc, Dương, Ngô, Đinh, Tiền Lê): bước đầu định hình thông qua công cuộc củng
cố chính quyền, phát triển kinh tế, văn hóa.
2. Thế ki XI- đầu thế kỉ XV (Lý, Trần, Hồ): phát triển mạnh mẽ, toàn diện, tính dân tộc được thể
hiện rõ nét, Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo phát triển hài hòa.
3. Thế kỉ XV – XVII (Lê sơ, Mạc, Lê Trung hưng): tiếp tục phát triển và đạt nhiều thành tựu đặc
sắc.
4. Thế kỉ XVIII- Giữa thế kỉ XIX (Lê Trung hung – hậu kì, Tây Sơn, Nguyễn): Có dấu hiệu
đình trệ và không phát triển mạnh như giai đoạn trước.
=> Giữa thế kỉ XIX, thực dân Pháp xâm lược và thiết lập chế độ cai trị, chấm dứt thời kì phát triển
của văn minh Đại Việt.
IV. Thành tựu của Văn minh Đại Việt
1. Chính trị
1.1. Tổ chức bộ máy nhà nước: Trải qua các triều đại, tổ chức bộ máy nhà nước Đại Việt không
ngừng được củng cố, hoàn thiện từ trung ương đến địa phương, vai trò tổ chức quản lí của nhà
nước ngày càng chặt chẽ.
- Năm 938, sau khi chống quân Nam Hán giành thắng lợi, năm 939, Ngô Quyền xưng Vương, bãi
bỏ chức Tiết độ sứ, xây dựng triều đình mới, lấy Cổ Loa làm kinh đô. Giữ nguyên các châu, huyện,
làng giáp ở địa phương.
- Thời Đinh- Tiền Lê, bộ máy nhà nước từng bước được củng cố. Ở trung ương, đứng đầu là vua,
có mọi quyền lực: bổ nhiệm quan lại, phân chia đơn vị hành chính… Dưới vua có 3 ban: ban văn,
ban võ và tăng ban giúp vua trị nước, quân sự, dân sự. Ở địa phương, chia cả nước thành 10 đạo
giao cho các con và các tướng lĩnh trung thành cai quản. Mỗi đạo đều có tổ chức quân đội, vừa bảo
vệ triều đình, vừa bảo vệ đất nước.
- Thời Lý- Trần: Ở trung ương, đứng đầu nhà nước là Vua, nắm mọi quyền hành cao nhất về chính
trị, luật pháp, quân đội, nghi lễ, đối ngoại. Đến nhà Trần thực hiện chế độ Thái Thượng Hoàng.
Giúp việc cho vua là Tể tướng và các quan đại thần. Ở địa phương chia thành nhiều lộ, dưới lộ là
phủ, huyện, châu, hương, xã. Đứng đầu xã gọi là xã quan.
=> Trải qua 4 thế kỉ xây dựng đất nước, các triều đại Lý, Trần, Hồ đã tạo nên một hệ thống hành
chính quốc gia tương đối hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương.
- Thời Lê sơ:

54
+ Ban đầu xây dựng theo mô hình nhà nước thời Trần – Hồ: Đứng đầu là vua, quyết định mọi việc,
giúp vua có tể tướng và một số đại thần, tiếp đến là một số cơ quan điều hành cấp bộ. Cả nước chia
làm năm đạo, dưới là lộ, phủ, huyện, chấu, xã với hệ thống quan lại như cũ.
+ Những năm 60 của thế kỉ XV, Lê Thánh Tông đã tiến hành một cuộc cải cách hành chính. Ở
trung ương: các chức Tể tướng, Hành khiển bị bãi bỏ. Sáu bộ (Binh, Hình, Công, Lễ, Lại, Hộ)
được thành lập, trực tiếp cai quản mọi việc và chịu trách nhiệm trước vua. Ngự sử đài có quyền
hành cao hơn trước -> thể hiện tính quân chủ chuyên chế cao, vua có quyền lực tối cao. Địa
phương: Nhà nước bỏ các đạo, lộ cũ, chia cả nước thành 12 đạo thừa tuyên. Mỗi đạo có 3 ti phụ
trách các hoạt động về quân sự, dân sự và kiện tụng. Xã vẫn là đơn vị hành chính cơ sở.
=> So với Lý, Trần, Hồ, hệ thống hành chính quốc gia thời Lê Sơ thể hiện một bước tiến rất cơ
bản, đạt đến đỉnh cao của mô hình nhà nước quân chủ chuyên chế quan liêu ngày càng chặt chẽ,
hiệu quả hơn, tính chuyên chế ngày càng cao.
- Nhà Nguyễn:
+ Thời Gia Long, xây dựng một thể chế quân chủ quan liêu chuyên chế, vua là người đứng đầu
triều đình, toàn quyền quyết định mọi công việc hệ trọng của nhà nước. Dưới vua có 6 bộ (lại, hộ,
lễ, binh, hình, công) đứng đầu mỗi bộ là Thượng thư. Dưới bộ có các ti chuyên trách
+ Thời Minh Mạng, tổ chức bộ máy nhà nước hoàn thiện chặt chẽ hơn. Ngoài 6 bộ còn có các viện
và cơ quan chuyên trách như Đô sát viện, Nội các, Cơ mật viện… Năm 1831-1832, vua Minh
Mạng lần lượt bỏ Bắc thành và Gia Định thành cùng các chức Tổng trấn, chia lại cả nước thành 30
tỉnh và 1 phủ thừa thiên. Các tỉnh đều do Tổng đốc hay Tuần phủ đứng đầu, nhưng đều trực thuộc
chính quyền trung ương. Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng, xã và thôn
1.2. Luật pháp: Nhà nước tăng cường quản lí xã hội thông qua luật pháp.
- Thời Ngô- Đinh- Tiền Lê chưa có luật pháp, vua quan xét xử người bị tội chủ yếu theo tập tục,
thường hình phạt rất nặng, đô hộ phủ là nơi giam tù phạm. Nhà Tiền Lê mới định luật lệ.
- Thời Lý- Trần: năm 1042 nhà Lý ban hành luật Hình thư – là bộ luật thành văn đầu tiên ở nước
ta, đánh dấu mốc quan trọng trong lịch sử pháp quyền Việt Nam. Năm 1230, nhà Trần ban hành
Hình luật. Nội dung quy định về quyền và giới hạn của nhà nước, bảo vệ giai cấp thống trị, góp
phần ổn định trật tự xã hội, tăng cường tính quân chủ chuyên chế.
- Lê sơ: Ban hành bộ luật Hồng Đức năm 1483 gồm 722 điều, chia làm 16 chương. Đề cập đến
hầu hết các hoạt động của xã hội và mang tính dân tộc sâu sắc. Góp phần ổn định trật tự xã hội,
đánh dấu bước phát triển cao của tư tưởng pháp lí và được sử dụng ở các thời kì sau.
55
- Nhà Nguyễn: năm 1815, ban hành bộ Luật Gia Long với 398 điều hà khắc, đề cao uy quyền của
Hoàng đế, xử phạt nặng nề hà khắc nhất là những tội gây phương hại đến chính quyền.
=> Nội dung chủ yếu của luật pháp qua các triều đại phong kiến Việt Nam là đề cao tính dân tộc
và chủ quyền quốc gia; bảo vệ quyền lực của vua, quý tộc, quan lại; bảo vệ sức kéo trong nông
nghiệp. Ngoài ra còn bảo vệ quyền lợi của nhân dân, trong đó có quyền lợi của phụ nữ.
2. Kinh tế
2.1. Nông nghiệp
* Điều kiện phát triển kinh tế nông nghiệp:
- Đất nước độc lập thống nhất, xã hội ổn định. Trải qua các triều đại, Lý, Trần, nhà nước luôn thực
hiện những chính sách tích cực nhằm ổn định đời sống nhân dân, đất nước độc lập, thống nhất.
Đây là điều kiện tiên quyết để xây dựng và phát triển kinh tế nói chung và nông nghiệp nói riêng.
- Khắc phục những hậu quả của hơn 1000 năm Bắc thuộc: Hơn 1000 năm Bắc thuộc đã để lại hậu
quả nghiêm trọng cho Đại Việt trong đó có nền kinh tế nông nghiệp, đó là tình trạng lạc hậu, đời
sống nhân dân khó khăn
- Điều kiện tự nhiên của nước ta thuận lợi cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp với lưu vực các
con sông Hồng, Mã, Cả, khí hậu thuận lợi cho phát triển kinh tế nông nghiệp với đất đai phù sa
màu mỡ, nguồn nước tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp.
- Nhân dân Đại Việt có truyền thống cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất, có kinh nghiệm trong
sản xuất nông nghiệp.
- Các triều đại phong kiến X- XV đã nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế nông nghiệp. Để
khắc phục những hậu quả của 1000 năm Bắc thuộc, nâng cao đời sống nhân dân, tạo điều kiện
vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ Tổ Quốc, quyết tâm cao trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập,
tự chủ, nhà nước phong kiến có những chính sách quan tâm, khuyến khích phát triển nông nghiệp
* Chính sách của nhà nước
- Chính sách khai hoang: là một trong những chính sách hàng đầu của nhà nước phong kiến. Các
vua Tiền Lê, Lý hàng năm làm lễ cày tịch điền để khuyến khích nhân dân sản xuất. Nhà Trần
khuyến khích các vương hầu, quý tộc mộ dân khai hoang lập điền trang.
- Phát triển thuỷ lợi: Nhà Tiền Lê cho nhân dân đào, nạo vét nhiều mương máng. Thời Lý, năm
1077 phát động nhân dân đắp đê sông Như Nguyệt, năm 1108 đắp đê cơ xá dọc sông Hồng. Thời
Trần, năm 1248 đắp đê "quai vạc " dọc hai bờ sông từ đầu nguồn ra biển. Thời Lê sơ cho đắp một
số đê biển.
56
- Bảo vệ sức kéo: Các triều đại Lý, Trần, Lê quan tâm bảo vệ sức kéo nông nghiệp. Vua Lý Nhân
Tông xuống chiếu phạt nặng những người trộm trâu, mổ trâu. Vua Lê nghiêm cấm giết trâu bò ăn
thịt...
- Đảm bảo sức sản xuất: Chính sách "Ngụ binh ư nông", nhà Hồ đặt phép "Hạn điền", "Hạn nô
"...Thời Lê sơ ban hành chính sách "quân điền"…Những chính sách trên không những đảm bảo
sức sản xuất mà còn có tác dụng tích cực cho vấn đề an ninh quốc phòng, đảm bảo lực lượng quân
đội thường trực.
- Hình thành những chức quan quản lí, giam sát và khuyến khích sản xuất nông nghiệp: Hà đê sứ
chuyên trông coi công tác thủy lợi, khuyến nông sứ, đồn điền sứ...
-> Khuyến khích sản xuất nông nghiệp phát triển, tạo điều kiện cho nông dân có ruộng đất canh
tác.
* Thành tựu
- Nông nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo với cây trồng chính là lúa nước, ngoài ra còn trồng nhiều
cây lương thực như ngô, khoai, sắn…
- Phương thức và kĩ thuật canh tác có những bước tiến mới, việc sử dụng công cụ lao động bằng
sắt, sức kéo trâu bò và thâm canh hai ba vụ lúa một năm trở lên phổ biến, góp phần tăng năng suất
lao động, đời sống nhân dân ổn định.
Đời vua Thái Tổ Thái Tông
Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng buồn ăn
- Diện tích trồng trọt tăng, lập thêm nhiều làng mới, góp phần mở rộng lãnh thổ và tăng cường khả
năng phòng thủ đất nước.
- Hình thành hệ thống đê điều, thủy lợi hoàn chỉnh trong cả nước.
2.2. Thủ công nghiệp
- Thủ công nghiệp nhân dân: Các nghề thủ công cổ truyền (đúc đồng, rèn sắt, gốm sứ, tơ lụa…)
phát triển đa dạng với chất lượng sản phẩm ngày càng cao. Ngoài ra còn có các nghề như tô tượng,
chạm khắc đá, làm đồ vàng bạc, trang sức, làm giấy… Việc khai thác tài nguyên được chú trọng
(bạc, đồng, thiếc…). Các làng nghề thủ công bước đầu hình thành (Bát Tràng, Thổ Hà, Chu Đậu,
Huê Cầu…) tuy còn gắn chặt với nông nghiệp.
- Thủ công nghiệp nhà nước: các quan xưởng (cục bách tác) được thành lập, ngày càng phát triển
do nhu cầu nhiều mặt của nhà nước: đúc tiền, rèn vũ khí, đóng thuyền chiến, xây dựng cung điện,
may phẩm phục.
57
-> Sự phát triển của thủ công nghiệp vừa đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong nước, vừa tạo ra
những mặt hàng quan trọng để trao đổi với thương nhân nước ngoài.
2.3. Thương nghiệp
a. Nội thương: Việc giao lưu buôn bán giữa các làng, các vùng nhộn nhịp. Hệ thống chợ (chợ
làng, chợ huyện, chợ chùa…) ngày càng phát triển. Một số đô thị lớn xuất hiện, tiêu biểu là Thăng
Long trở thành trung tâm buôn bán sầm uất dưới thời Lý, Trần, Lê sơ.
b. Ngoại thương:
- Buôn bán khá nhộn nhịp với Trung Quốc và các nước phương Nam (Ấn Độ, Gia Va, Xiêm). Một
số điểm trao đổi hàng hóa cũng hình thành ở biên giới Việt - Trung (Khâm Châu, Hoành Sơn…).
Nhiều thương cảng lớn hình thành, hoạt động nhộn nhịp như: Vân Đồn (Quảng Ninh), Lạch
Trường (Thanh Hóa)… Thế kỉ XVII – XVIII, xuất hiện các kiều dân Trung Hoa, Nhật Bản đến
buôn bán và định cư lâu dài.
- Với phương Tây: Thế kỉ XVI, người Bồ Đào Nha đến buôn bán, đến thế kỉ XVII, họ đặt thương
điếm ở Hội An, Hưng Yên, Thăng Long. Tiếp đó, thuyền buôn của Anh, Pháp cũng đến buôn bán
và lập thương điếm ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài. Thương nhân phương Tây đến bán: bạc, vũ
khí, tơ lụa…của Trung Quốc, Nhật Bản, len dạ, thuốc súng, sản phẩm công nghiệp của phương
Tây. Họ mua sản phẩm thủ công của ta: đồ sứ, tơ lụa, đường mía, lâm thổ sản…
-> Góp phần đưa nước ta tiếp xúc với nền thương mại quốc tế đang phát triển, góp phần mở rộng
thị trường trong nước và thúc đẩy sự hưng thịnh của một số đô thị.
c. Sự hưng khởi của các đô thị
* Ở Đàng ngoài có 2 đô thị tiêu biểu nhất là Kinh kì và phố Hiến:
- Kinh kì (Thăng Long hay Kẻ Chợ) không chỉ là trung tâm chính trị, hành chính văn hóa mà còn
là trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước, với hệ thống chợ, bến, thuyền và hàng chục phố buôn
bán, chế tạo hàng thủ công… Thăng Long có 36 phố phường và 8 chợ, là nơi có nhiều mặt hàng
khắp các nơi đưa về nên thương nhân nước ngoài rất ưa thích và xin đặt thương điếm để buôn
bán…
- Phố Hiến là một đô thị được hình thành trên cơ sở một khu chợ gần dinh Hiến ti, trấn Sơn Nam.
Từ cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII Phố Hiến đã nổi tiếng Đàng Ngoài, nhiều thương nhân của
Nhật Bản, Trung Quốc, Anh, Pháp, Hà Lan đến đây xin buôn bán và lập thương điếm. Chính
quyền Lê – Trịnh đã biến Phố Hiến thành trạm bốc dỡ và trung chuyển hàng hóa từ các tàu buôn

58
ngoại quốc. Vào thời điểm thịnh đạt phố Hiến có 2000 nóc nhà, 20 phường chuyên sản xuất hàng
thủ công và buôn bán.
* Ở Đàng trong cũng xuất hiện nhiều đô thị khá sầm uất: Nước Mặn – Bình Định, Gia Định,
Hội An, Thanh Hà…
- Hội An là trung tâm buôn bán của cả vùng Đàng trong, là thương cảng quốc tế nằm trên con
đường thương mại biển Đông. Từ rất sớm, Hội An là nơi đón tiếp thuyền buôn ngoại quốc. Từ đầu
thế kỷ XVII, Hội An là một thành phố cảng lớn, hội tụ nhiều thuyền buôn và thương điếm của các
nước phương Đông và phương Tây. Họ nhập vũ khí, hàng thủ công mỹ nghệ, kẽm, bạc,… và mua
đủ thứ lâm sản quý, tơ lụa,…
- Thanh Hà là một đô thị mới hình thành bên bờ sông Hương, gần Phú Xuân (Huế) do người Trung
Quốc lập năm 1636. Thanh Hà được xem là khu buôn bán của Phú Xuân được gọi là “Đại Minh
khách phố”…
* Sự suy tàn của các đô thị
- Những thay đổi của tự nhiên, vị trí của các đô thị không còn phù hợp cho sự phát triển
- Các chính sách thuế nặng nề, phức tạp sự hạch sách những nhiễu cùng với chính sách hạn chế
ngoại thương của nhà nước phong kiến, thương nhân nước ngoài buôn bán ở các đô thị phải qua
nhiều trung gian
- Những biến động của xã hội vào đầu TK XVIII đã tàn phá nền kinh tế của đất nước
+ Khởi nghĩa nông dân
+ Sự thay đổi về vị trí địa lí: phố Hiến – sự đổi dòng của sông Hồng làm cho những bãi bồi rộng
ra 800m làm cạn các bến cảng nên không đủ khả năng tiếp nhận thuyền buôn, ghe mành; Hội an-
cuối 18, cửa Đại cạn dần; Thanh Hà – cồn nổi sông Hương, sông Cả...
→Từ nửa sau TK XVIII, các đô thị suy yếu dần
* Vai trò của các đô thị
- Sự hưng thịnh của một số đô thị vừa là trung tâm kinh tế, vừa là trung tâm chính trị, văn hóa của
vùng hoặc cả nước đã góp phần làm cho văn minh Đại Việt phát triển toàn diện.
- Các đô thị cũng tác động trở lại, góp phần thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
thương nghiệp phát triển.
- Với vai trò là những trung tâm thương mại, các đô thị lại tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của
nền kinh tế hàng hóa, đưa nước ta tiếp xúc với luồng thương mại quốc tế, góp phần mở rộng thị
trường trong nước, ít nhiều tạo sự thay đổi bộ mặt đất nước…
59
- Thúc đẩy sự phát triển văn hóa thông qua việc tiếp thu một số thành tựu văn hóa phương Tây
như: sự du nhập của Thiên chúa giáo, sự ra đời của chữ Quốc ngữ, học tập kĩ thuật đúc súng và
đóng thuyền chiến của phương Tây…
- Tuy nhiên, sự hưng khởi của các đô thị nói riêng và sự phát triển của kinh tế hàng hóa nói chung
đã làm xuất hiện quan hệ tiền tệ, làm thay đổi tôn ti trật tự xã hội phong kiến, sự phân cực xã hội
diễn ra ngày càng mạnh mẽ... Sự có mặt của các thương nhân phương Tây tại các đô thị và hoạt
động ngoại thương phát triển cũng là con đường dẫn các nước phương Tây có mặt ở nước ta mở
rộng mục đích nhòm ngó, xâm lược phục vụ cho quá trình đi xâm lược thuộc địa...
3. Văn hóa
3.1. Tư tưởng, tôn giáo, tín ngưỡng
a. Tư tưởng
- Tư tưởng yêu nước thương dân được xem là tiêu chuẩn đạo đức cao nhất để đánh giá con người
và các hoạt động xã hội, được biểu hiện thông qua các chính sách của nhà nước trong việc quan
tâm đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Đó là cội nguồn của tư tưởng “lấy dân làm gốc”.
- Nho giáo được du nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc, gắn liền với hoạt động học tập, thi cử thời
Lý Trần. Trên bước đường xây dựng nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, hệ tư
tưởng phong kiến Nho giáo được giai cấp thống trị tiếp nhận và từng bước được nâng cao. Thời Lê
sơ, Nho giáo được nâng lên vị trí độc tôn, trở thành hệ tư tưởng chính thống của nhà nước quân
chủ, góp phần quan trọng vào việc đào tạo đội ngũ tri thức, quan lại và bồi dưỡng hiền tài, Nho sĩ
trở thành lực lượng quan trọng trong triều đình.
- Nguyên nhân
+ Xu hướng xây dựng nhà nước quân chủ đòi hỏi có một hệ tư tưởng mới làm bệ đỡ. Dưới thời kì
nhà Lê nho giáo phát triển mạnh và trở thành hệ tư tưởng chính thống, rường cột, độc tôn, bộ máy
quân chủ chuyên chế đạt đến mức độ cao, dùng pháp trị chứ không dùng nhân trị như trước nên
Phật giáo không được trọng dụng, Nho giáo trở nên phù hợp với hệ tư tưởng: trung quân ái quốc,
tam cương ngũ thường… nhà Lê sơ đã coi Nho giáo tư tưởng độc tôn.
+ Giáo dục Lê sơ được nhà nước đặc biệt quan tâm để phục vụ cho đội ngũ quan lại ở trung ương,
địa phương. Do đó, đội ngũ quan lại phục vụ nhà nước là những người đỗ đạt, thông qua thi cử
tuyển chọn mà không còn là những nhà sư có trình độ học vấn như thời Lý Trần.

60
+ Đại Việt đã trải qua 5 thế kỉ khẳng định nền độc lập tự chủ vững chắc. Bộ máy nhà nước thời Lê
sơ đặc biệt dưới thời Lê Thánh Tông đã hoàn thiện với quyền lực tuyệt đối của vua chuyên chế,
không còn tăng ban như thời Lý mà thay vào đó là các Bộ, chịu trách nhiệm trực tiếp trước vua.
b. Tôn giáo – có giáo lí, giáo luật, có nơi thờ cúng
* Phật giáo
- Phật giáo du nhập từ thời Bắc thuộc, phát triển mạnh trong buổi đầu độc lập và trở thành quốc
giáo thời Lý Trần. Ở nước ta sớm xuất hiện tầng lớp tăng ni, Phật tử và không ít người trong số họ
có trình độ học vấn uyên thâm, có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội. Nhà Đinh, Tiền Lê,
Lý Trần dựa vào tầng lớp này, thậm chí mời họ tham gia bộ máy triều chính để trị nước an dân.
Nhiều nhà sư thức thời như Ngô Chân Lưu, Đỗ Thuận, Vạn Hạnh tham gia tích cực vào sự nghiệp
giữ nước và dựng nước.
- Bản thân vua, quan lại, quý tộc Lý- Trần đều sùng đạo Phật: Trong đó, xuất thân của vua Lý từ
nhà chùa, vì vậy khi lên ngôi ông đã chọn Phật giáo làm quốc giáo. Vua Lý Thái Thổ và nhiều vị
vua triều Lý cũng như vương công quý tộc, quan lại triều đình này đều tự coi mình là Phật tử. Một
số vị vua thời Lý, Trần tìm đến Phật giáo. Vua Lý Thái Tổ: “Vua Lý Thái Tổ khi mới lên ngôi, đã
cấp độ điệp cho hàng nghìn người ở kinh sư làm tăng”. Vua Trần Nhân Tông khi lên làm Thái
Thượng Hoàng đã xuất gia đầu Phật và lập ra Thiền Trúc Lâm Đại Việt. Đến thời Trần, đại bộ
phận vương công quý tộc Trần cũng tự cho mình là Phật tử.
- Chùa chiền mọc lên khắp nơi: “Hễ những nơi núi cao cảnh đẹp đều mở mang để dựng chùa
chiền”… “Từ trong kinh thành cho đến ngoài châu, phủ… hễ nơi nào có nhà ở là ắt có chùa
chiền… dân chúng quá nửa nước là sư..” chùa chiền xây dựng nhiều nơi nhất là khi nước nhà độc
lập thì kinh đô Hoa Lư, Thăng Long lần lượt xuất hiện nhiều ngôi chùa do nhà nước đầu tư xây
dựng. Bên cạnh đó, các vương công quý tộc và tầng lớp quan lại địa chủ, những người giàu có ở
địa phương cũng xây dựng chùa. Ở các làng, chùa trở thành trung tâm sinh hoạt văn hóa, vừa là nơi
dạy chữ, vừa là nơi tổ chức hội hè.
- Nguyên nhân phát triển
+ Xuất phát từ bản chất của đạo Phật: coi trọng từ bi hỉ xả, bình đẳng phù hợp với tâm thức dân
gian, với điều kiện xã hội. Giáo lí của đạo Phật có nhiều điểm tương đồng với đời sống tinh thần
của người Việt, do đó khi được truyền bá vào nước ta, Phật giáo sớm được các giai tầng trong xã
hội thừa nhận và coi đó như chỗ dựa tinh thần: đạo Phật khuyên con người làm việc thiện từ bi hỉ
xả, tương đồng với quan niệm sống tình nghĩa, chữ hiếu chữ tình trong văn hóa người Việt.
61
+ Quá trình du nhập, bám rễ và phát triển của Phật giáo trong xã hội Việt Nam: Phật giáo được
truyền bá vào nước ta sớm, được đông đảo nhân dân đón nhận.
+ Bộ máy nhà nước thời Lý Trần chưa thực sự là bộ máy chuyên chế, tính quyền lực chuyên chế
chưa rõ nét: Chọn Phật giáo làm quốc giáo chính là lựa chọn sự ủng hộ của đại bộ phận giai cấp
theo Phật giáo đứng về phía triều đình để xây dựng và phát triển đất nước. Đạo lí của Phật giáo có
thể làm bệ đỡ cho bộ máy chính quyền, chính sách cai trị của nhà nước “thân dân”.
+ Thời Lý Trần giáo dục Việt Nam mới bước đầu hình thành và chưa có sự phát triển vì vậy nên
họ đã sử dụng các nhà sư khi thiếu nguồn nhân lực.
+ Xét về mặt lịch sử - chính trị: thời kỳ Lý Trần là thời kỳ hình thành bước đầu để khẳng định nền
độc lập tự chủ của quốc gia. Trong hoàn cảnh đó, giai cấp thống trị không muốn lệ thuộc vào hệ tư
tưởng Nho giáo của Trung Quốc.
* Đạo giáo: được duy trì, phát triển trong dân gian và được các triều đại phong kiến coi trọng, đặc
biệt là thời Đinh, Tiền Lê, Lý.
* Thiên chúa giáo: Du nhập vào từ năm 1533 nhưng được truyền bá mạnh vào thế kỉ XVII, chúa
Nguyễn và chúa Trịnh lúc đầu tỏ ra thân thiện nhưng sau đó thi hành cấm đạo -> đến thập niên 70
của thế kỉ XVII, số giáo dân tăng lên trên 10 vạn người.. Cùng với sự du nhập của Thiên chúa giáo
là sự ra đời của chữ quốc ngữ.
c. Tín ngưỡng: Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt được duy trì. Tín ngưỡng thờ thành
hoàng làng ngày càng phổ biến trong các làng xã. Ngoài ra, tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ các anh hùng,
tổ nghề cũng phát triển, tạo nên truyền thống văn hóa tốt đẹp trong cộng đồng.
3.2. Giáo dục
* Thành tựu:
- Hệ thống giáo dục được mở rộng chủ yếu nhằm đào tạo đội ngũ quan lại cho bộ máy chính
quyền. + Năm 1070 vua Lý Thánh Tông lập Văn Miếu, tạc tượng Chu Công, Khổng Tử: Canh
Tuất, niên hiệu Thần Vũ năm thứ 2 (1070)… Mùa thu, tháng 8, làm Văn Miếu, đắp tượng Khổng
Tử, Chu Công và Tứ phối, vẽ ảnh Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở
đây” (Toàn thư, BK 2-5). Năm 1075 tổ chức khoa thi đầu tiên “Minh kinh bác học” viết chữ, làm
toán, hình luật. Năm 1076 vua Lý cho mở Quốc tử Giám là nơi dạy học cho con vua và con em
hàng ngũ quý tộc quan lại.

62
+ Đến thời Trần nhà nước chính quy hoá việc học hành, thi cử, lập Quốc học viện để cho con em
quý tộc, quan lại, vào học. Không chỉ có những trường học của nhà nước, các nhà Nho còn mở lớp
học ở các làng xóm.
+ Sang thời Lê, việc giáo dục càng được chú trọng, mở mang, chế độ đào tạo nho sĩ được xây dựng
theo xu hướng chính quy, có hệ thống. Ở kinh thành, cơ quan giáo dục lớn nhất là Quốc Tử Giám
hay còn gọi là Thái học viện. Tại các đạo, bên cạnh các trường do nhà nước quản lý còn có các lớp
học tư. Chế độ giáo dục thời Lê sơ so với thời Lý - Trần có phần rộng rãi hơn. Không những con
em quý tộc, quan lại được đi học, đi thi mà còn cả con em bình dân học hành ưu tú cũng được đi
học, đi thi, không kể giàu, nghèo.
+ Thời Tây Sơn để khuyến khích mọi người học tập, Quang Trung ban hành "Chiếu khuyến học"
bắt các xã phải mở lớp học cho dân và ngay từ năm 1789 Quang Trung đã mở kì thi Hương đầu
tiên ở Nghệ An.
+ Sang thời Nguyễn, nhà nước cố gắng chấn chỉnh lại giáo dục Nho học và từ năm 1822 nhà
Nguyễn mở khoa thi Hội đầu tiên. Từ đó về sau nhà Nguyễn vẫn tổ chức các kì thi để tuyển lựa
người tài sung vào bộ máy nhà nước.
- Về phương thức thi cử, tuyển chọn quan lại, nhà nước chính quy hóa việc tổ chức thi cử để tuyển
chọn nhân tài:
+ Thể lệ thi cử được quy định chặt chẽ, theo hệ thống: thi Hương, thi Hội, thi Đình.
+ Chế độ khoa cử từng bước được trở thành phương thức tuyển chọn quan lại thường xuyên. Năm
1247 nhà Trần đặt danh hiệu Tam Khôi (ba học vị trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa) dành cho
những người đỗ đầu. Nhiều nhà Nho xuất hiện và ngày càng có địa vị trong xã hội như Mạc Đĩnh
Chi, Chu Văn An v.v... Thời Lê sơ từ năm 1463 trở đi, cứ 3 năm một lần tại kinh thành có thi Hội,
tại địa phương có thi Hương. Triều đình đặt ra lệ xướng danh, vinh quy và lệ khắc tên người đỗ
vào bia đá dựng ở Văn Miếu.
- Vai trò, giá trị của Văn Miếu – Quốc Tử Giám
+ Là cái nôi của nền giáo dục Đại Việt, được coi là trường đại học đầu tiên của Việt Nam, đặt cơ
sở ra đời nền giáo dục thi cử ở Việt Nam.
+ Văn Miếu-Quốc Tử Giám gắn liền với giáo dục Nho học Việt Nam, trở thành đỉnh cao và biểu
tượng của nền giáo dục này.
+ Việc xây dựng Văn Miếu, thành lập Quốc Tử Giám là minh chứng ghi nhận quyết sách về đường
hướng giáo dục góp phần đào tạo hệ thống quan lại, nhân tài tham gia xây dựng đất nước.
63
+ Thể hiện cả lý tưởng xây dựng nền trị đạo nhân nghĩa trên đất nước ta, trở thành biểu tượng của
truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, trọng hiền tài của dân tộc.
* Nhận xét:
- Tích cực:
+ Các triều đại phong kiến Việt Nam cùng với việc chăm lo phát triển các mặt kinh tế, xã hội cũng
đã chú trọng tới việc phát triển giáo dục.
+ Tác dụng: Đào tạo đội ngũ quan chức và nhân tài cho đất nước; nâng cao dân trí; góp phần
không nhỏ vào việc xây dựng và phát triển quốc gia Đại Việt (X - XV)
- Hạn chế:
+ Nền giáo dục Việt Nam dưới thời Lý, Trần, Lê sơ đã từng bước được mở rộng và chính quy
nhưng chưa phải nền giáo dục dành cho mọi người, chỉ có con em quý tộc, giàu có mới được đi thi.
+ Nội dung giáo dục Nho giáo chủ yếu thiên về thiên văn, triết học, đạo đức, chính trị mà không
chú ý tới các kiến thức khoa học phục vụ sản xuất. Vì vậy không tạo điều kiện cho phát triển kinh
tế
=> Tóm lại, nền giáo dục thời Lý, trần, Lê sơ đã có những đóng góp to lớn cho nền giáo dục nước
nhà, là đòn bẩy thúc đẩy tinh thần học tập, truyền thống hiếu học và bồi đắp nguyên khí cho quốc
gia. Từ đó, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu
trong tổ chức giáo dục hiện nay.
3.3. Chữ viết và văn học
a. Chữ viết
- Trên cơ sở tiếp thu chữ Hán, người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm để ghi lại tiếng nói của dân tộc.
Bên cạnh chữ Hán là văn tự chính thống dùng trong thi cử, một số triều đại đã có những chính sách
khuyến khích và đề cao chữ Nôm.
- Đến đầu thế kỉ XVII, chữ quốc ngữ được hình thành từ việc sử dụng, cải biến chữ cái latinh để
ghi âm tiếng Việt và từng bước phát triển, trở thành chữ viết chính thức của người Việt ngày nay.
b. Văn học
- Văn học chữ Hán phát triển mạnh, đạt nhiều thành tựu rực rỡ. Từ thời Trần văn học dân tộc ngày
càng phát triển. Hàng loạt bài thơ, hịch, phú nổi tiếng như Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình
Ngô đại cáo,…vừa thể hiện tài năng văn học vừa toát lên niềm tự hào dân tộc và lòng yêu nước sâu
sắc.

64
- Thế kỷ XI-XII, chữ Nôm ra đời, phát triển mạnh từ thế kỉ XV và đặc biệt là trong các thế kỉ XVI-
XIX. Nội dung chủ yếu là ca ngợi tình yêu quê hương, đất nước, con người, phê phán một bộ phận
quan lại cường hào và phản ánh những bất công trong xã hội, đề cao vẻ đẹp con người. Từ thế kỉ
XVI, xuất hiện nhiều nhà thơ Nôm nổi tiếng như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan…, các
tác phẩm có giá trị: Chinh phụ Ngâm, Truyện Kiều, Lục Vân Tiên...
- Văn học dân gian tiếp tục được duy trì và phát triển mạnh trong các thế kỉ XVI- XVIII. Nội dung
chủ yếu là phản ánh tâm tư, tình cảm, con người, tình yêu quê hương, đất nước với nhiều thể loại
phong phú như thơ ca, tục ngữ, hò vè, hát, truyện cổ tích...
3.4. Khoa học kĩ thuật

Lĩnh vực Thành tựu


Sử học Nhà Trần thành lập Quốc sử viện, nhà Nguyễn thành lập Quốc sử quán. Nhiều
bộ sử lớn được biên soạn: Đại Việt sử kí – Lê Văn Hưu, Đại Việt sử kí toàn
thư, Đại Việt thông sử…
Địa lí Dư địa chí – Nguyễn Trãi, Hồng Đức bản đồ - Lê sơ, Gia Định thành thông
chí…
Quân sự Binh thư yếu lược, vạn kiếp tông bí truyền thư, Hổ trướng khu cơ
Y học Nam dược thần hiệu – Tuệ Tĩnh, Hải thương y tông tâm lĩnh – Hải thượng
lanc ông
Toán học
Kĩ thuật

* Đặc điểm
- Đạt đến trình độ cao, toàn diện, phong phú, đa dạng trên mọi lĩnh vực: Thành tựu văn hóa Đại
Việt trong các thế kỷ X-XV đã khẳng định được sự phát triển của một quốc gia có nền văn hiến lâu
đời, nó không bị yếu tố ngoại lai đồng hóa mà trái lại, nó còn phát triển đa dạng và phong phú.
- Mang đậm tính dân tộc và tính nhân văn sâu sắc: Từ thế kỷ X – XV, với tinh thần độc lập và ý
thức tự cường, nhân dân ta đã làm sống lại nền văn minh Văn Lang – Âu Lạc đã bị vùi dập trong
hơn 1000 năm Bắc thuộc. Nhiều thành tựu của nền văn minh Đạt Việt bắt nguồn từ văn minh Văn
Lang – Âu Lạc mang đậm tính nhân văn sâu sắc và được phát triển trong thời đại mới.

65
=> Trong những thế kỷ độc lập, nhân dân Đại Việt đã phát huy mọi khả năng để tạo nên một nền
văn hóa dân tộc đa dạng, phong phú, đặc sắc mang đậm tính bản địa lại vừa có tính sáng tạo, mới
mẻ, xuất phát từ việc tiếp nhận ảnh hưởng của các nền văn hóa các nước xung quanh.
* Vị trí:
- Nếu như văn minh Văn Lang - Âu Lạc phác họa và định hình bản sắc truyền thống dân tộc, thì
văn minh Đại Việt góp phần gìn giữ, phát huy những giá trị văn minh của người Việt cổ, đánh dấu
bước phát triển kiện toàn bản sắc văn hóa truyền thống Việt Nam, là nền tảng của văn hóa Việt,
góp phần tạo nên tính cách, tâm hồn người Việt.
- Văn minh Đại Việt đã khẳng định được sự phát triển của một quốc gia có nền văn hiến lâu đời,
là một sức mạnh tinh thần, là tiền đề và điều kiện quan trọng tạo nên sức mạnh dân tộc trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, cố kết cộng đồng người Việt...
- Đây là nền văn minh mang tính dân tộc sâu sắc và giàu tính dân gian… tạo cơ sở bền vững cho
những thành tựu văn hóa của các giai đoạn lịch sử tiếp theo của dân tộc.
- Văn minh Đại Việt thể hiện sức sang tạo và sự lao động bền bỉ của các thế hệ người Việt.
* Ưu điểm và hạn chế của văn minh Đại Việt
- Ưu điểm:
+ Văn minh Đại Việt là nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước, dựa trên nền độc lập tự chủ của
quốc gia, sự kế thừa nền văn minh Văn Lang – Âu Lạc, tiếp thu có chọn lọc các nền văn minh lớn
từ bên ngoài và phát triển rực rỡ, toàn diện trên mọi lĩnh vực cùng với sự tồn tại và phát triển của
quốc gia Đại Việt.
+ Yếu tố xuyên suốt trong quá trình phát triển của văn minh Đại Việt là truyền thống yêu nước,
nhân ái, nhân văn và tính cộng đồng sâu sắc.
- Hạn chế:
+ Do chính sách “trọng nông ức thương” của một số triều đại phong kiến nên nền kinh tế hàng hóa
còn nhiều hạn chế.
+ Lĩnh vực khoa học- kĩ thuật chưa thực sự phát triển.

66

You might also like