You are on page 1of 38

https://tuhoconline.edu.

vn/de-cuong-on-tap-mon-co-so-van-hoa-viet-nam-co-loi-
giai.html

ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM CÓ LỜI GIẢI

Câu 1: Văn hóa là gì? Phân biệt văn hóa với văn minh, văn hiến và văn vật.

* Khái niệm: Theo Hồ Chí Minh: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài
người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học,
tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở
và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó là văn hóa.
Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với những biểu hiện của
nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với những nhu cầu đời sống và đòi hỏi
sự sinh tồn”

* Phân biệt:

- Văn hóa với văn minh

     Lâu nay, không ít người vẫn sử dụng "văn minh" như một từ đồng nghĩa với "văn
hóa". Thực ra"đây là những khái niệm gần gũi, có liên quan mật thiết với nhau, song
không đồng nhất. Văn hóa giàu tính nhân bản, nó hướng tới những giá trị muôn thuở;
trong khi đó thì văn minh hướng tới sự hợp lý, sắp đặt cuộc sống sao cho tiện lợi". Nói
đến văn minh, người ta chủ yếu nghĩ đến các tiện nghi vật chất.

HOT! TOP 5 trang web khóa học Online Uy Tín và Chất Lượng TỐT NHẤT:

★  Học Mãi
★ Unica
★ Monkey Junior
★ Kyna (Có nhiều khóa học Miễn Phí)
★ kynaforkids
 Như vậy, văn hóa và văn minh khác nhau trước hết là ở tính giá trị: trong khi văn hóa là
một khái niệm bao trùm, nó chứa cả các giá trị vật chất lẫn tinh thần, thì văn minh thiên
về các giá trị vật chất mà thôi.

Văn hóa và văn minh còn khác nhau ở tính lịch sử: trong khi văn hóa luôn luôn có bề
dày của quá khứ (tính lịch sử) thì văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại, nó chỉ cho
biết trình độ phát triển của văn hóa; từ "văn minh" có thể được định nghĩa khác nhau
trong các từ điển khác nhau, song chúng thường có chung một nét nghĩa là nói đến
"trình độ phát triển". Văn minh luôn là đặc trưng của một thời đại: nếu như vào thế kỷ
XIX, chiếc đầu máy hơi nước đã từng là biểu tượng của văn minh thì sang thế kỷ XX,
nó trở thành biểu tượng của sự lạc hậu, nhường chỗ cho tên lửa vũ trụ và máy vi
tính. Một dân tộc có trình độ văn minh cao vẫn có thể có một nền văn hóa rất nghèo
nàn, và ngược lại, một dân tộc lạc hậu vẫn có thể có một nền văn hóa phong phú.

Sự khác biệt của văn hóa và văn minh về giá trị tinh thần và tính lịch sử dẫn đến
sự khác biệt về phạm vi: Văn hóa mang tính dân tộc, bởi lẽ nó có giá trị tinh thần và
tính lịch sử, mà cái tinh thần và cái lịch sử là của riêng, không dễ gì mua bán hoặc thay
đổi được; còn văn minh thì có tính quốc tế, nó đặc trưng cho một khu vực rộng lớn
hoặc cả nhân loại, bởi lẽ nó chứa giá trị vật chất, mà cái vật chất thì dễ phổ biến, lây
lan.

Và sự khác biệt thứ tư, về nguồn gốc: Văn hóa gắn bó nhiều hơn với phương Đông
nông nghiệp, còn văn minh gắn bó nhiều hơn với phương Tây đô thị. Nếu văn minh liên
quan chủ yếu với kĩ thuật thì văn hóa biểu hiện sự liên quan của con người với ba mặt:
tự nhiên, con người và thần linh.

Như vậy, có thể khẳng định, văn minh nằm trong văn hóa.

- Văn hóa với văn hiến và văn vật

          Văn hiến là những giá trị tinh thần do những người có tài đức chuyển tải, thể hiện
tính dân tộc, tính lịch sử rõ nét. Văn hóa và văn hiến, do vậy, là 2 khái niệm tương đồng
khi người ta dùng để chỉ đời sống tinh thần của xã hội. Song chúng khác nhau về tính
lịch sử và phạm vi bao quát. Văn hóa là khái niệm rộng hơn văn hiến vì nó còn hàm
nghĩa văn hóa vật thể.
          Khái niệm văn vật thường được dùng theo nghĩa hẹp, gắn với những thành quả
vật thể của văn hóa. Tuy văn vật cũng thể hiện sâu sắc tính dân tộc và tính lịch sử
nhưng khi so sánh với khái niệm văn hóa, ta thấy văn vật cũng ở trong tương quan tựa
như văn hiến nhưng từ một phía khác

          Chung quy, văn minh, văn hiến, văn vật đều là những khái niệm bộ phận của văn
hóa. Bởi vì văn hóa bao giờ cũng được dùng với một hàm nghĩa bao quát hơn.

Câu 2: Những thành tựu của Văn minh Văn Lang – Âu Lạc.

          Nền văn minh sông Hồng được hình thành cùng với sự ra đời của nhà nước Văn
Lang - Âu Lạc và sự phát triển của đời sống vật chất và tinh thần của người Việt cổ.
Trên cơ sở một nền kinh tế phát triển mạnh và phạm vi lãnh thổ được mở rộng từ vùng
đồi núi, trung du đến vùng đồng bằng rộng lớn của sông Hồng, sông Mã, sông Cả,...
đời sống vật chất, tinh thần được nâng cao rõ rệt; tổ chức xã hội đạt đến một trình độ
cao hơn, vượt khỏi thời nguyên thuỷ, bước sang thời đại văn minh đầu tiên của người
Việt cổ - nền văn minh sông Hồng.

          * Về đời sống vật chất

          Sản xuất: Thóc gạo là nguồn lương thực chính của cư dân Văn Lang - Âu Lạc,
chủ yếu là gạo nếp. Người bấy giờ dùng gạo nếp để thổi cơm, xôi, làm bánh chưng,
bánh giầy. Sách Lĩnh nam chích quái ghi rằng ở thời Hùng Vương trồng được nhiều
gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Nhiều chiếc chõ gốm dùng để thổi xôi đã được tìm
thấy ở các địa điểm thuộc văn hoá Đông Sơn. Ngoài thóc gạo là nguồn lương thực
chính, cư dân Văn Lang - Âu Lạc còn sử dụng các loại hoa màu, rau quả, nhất là các
loại cây có củ cung cấp chất bột như củ từ, khoai lang, sắn, củ mài, khoai sọ. Lúc thiếu
thốn, người ta còn dùng các loại cây có bột khác như cây quang lang, búng, báng.

          Thức ăn cũng khá phong phú, gồm các loại cá, tôm, cua, ốc hến, ba ba, các loại
rau củ (bầu, bí, cà, đậu...). Thức ăn được chế biến theo nhiều cách khác nhau theo sở
thích từng vùng, từng gia đình (đun nấu, nướng, muối, ăn sống...) Nghề chăn nuôi và
săn bắn phát triển đã cung cấp thêm nguồn thức ăn cho mỗi gia đình. Cư dân bấy giờ
đã biết chăn nuôi nhiều loại gia súc, gia cầm (trâu, bò, lợn, gà, chó...). Trong thức ăn
quen thuộc của cư dân Văn Lang - Âu Lạc còn có nhiều loại hoa quả vùng nhiệt đới
như: vải, nhãn, mơ, mận, chuối, dưa hấu, cam, quýt,... Người ta cũng đã biết sử dụng
nhiều thứ gia vị có nguồn gốc thực vật như gừng, hẹ,... Nguồn lương thực và thực
phẩm của người Việt cổ rất phong phú, đa dạng và rất giàu chất bột, chất đạm và các
chất bổ khác. Đây là một biểu hiện của cuộc sống vật chất được nâng cao, của sự phát
triển kỹ thuật canh tác nông nghiệp của cư dân bấy giờ .

          Tập quán ăn uống: Người Việt cổ bấy giờ có tục uống rượu gạo và ăn trầu.
Rượu được nhắc đến nhiều trong các thư tịch cổ, truyện dân gian. Người Đông Sơn có
thói quen ăn trầu, nhuộm răng đen. Dấu tích hạt cau, quả cau đã được tìm thấy ở Đông
Sơn.

          Trang phục của cư dân Văn Lang - Âu Lạc đã phản ánh một phần trình độ phát
triển, óc thẩm mỹ và bản sắc văn hoá của người Việt cổ. Do nghề dệt phát triển, người
Việt cổ đã sản xuất được nhiều loại vải khác nhau từ sợi đay, gai, tơ tằm, bông,... nên
đã đáp ứng được nhu cầu may mặc của nhân dân. Trong sinh hoạt đời thường, nam
thường đóng khố, nữ mặc váy. Khố của nam giới có loại quấn đơn và loại quần kép.
Váy của nữ giới có loại váy quấn và loại váy chui, được làm từ một mảnh vải dài, rộng.
Tượng người đàn ông thổi kèn ngồi trên cán đèn Việt Khê hay các tượng mặc váy dài
trên thạp đồng Đào Thịnh đã phản ánh kiểu mặc đó. Phụ nữ ngoài mặc váy còn có yếm
che kín ngực, áo xẻ giữa, thắt lưng quấn ngang bụng và khăn quấn đầu. Vào các ngày
lễ hội, trang phục của nam nữ đẹp đẽ hơn: có mũ lông chim, váy xòe kết bằng lông
chim hoặc lá cây và mang nhiều đồ trang sức đẹp (khuyên tai, hạt chuỗi, nhẫn, vòng
tay, vòng cổ chân bằng đá, đồng).

Sự phát triển kinh tế, nhất là sự phát triển mạnh của nghề thủ công và kỹ thuật luyện
kim đã tạo điều kiện làm phong phú, đa dạng các đồ trang sức. Điều đó cũng chứng tỏ
đời sống vật chất của cư dân Văn Lang - Âu Lạc được nâng cao rõ rệt.

Về đầu tóc, người bấy giờ có bốn kiểu: kiểu tóc cắt ngắn, búi tó, tết bím và tóc quấn
ngược lên đỉnh đầu. Trên thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái) có tượng nam tóc cắt ngắn
ngang vai để xoã. Ở trống đồng Cổ Loa cũng có hiện tượng tương tự. Lối cắt tóc ngắn
đến ngang lưng, để xoã khá phổ biến ở nam giới thời bấy giờ. Búi tóc cũng rất phổ biến
ở cả nam giới và nữ giới. Nhiều người còn có kiểu chít một dải khăn nhỏ giữa trán và
chân tóc, hoặc có đuôi khăn thả dài phía sau. Có thể nói, kiểu tóc cắt ngắn buông xoã
sau lưng và búi tóc cao sau đầu là hai kiểu tóc phổ biến nhất của người Đông Sơn.
Người Việt cổ bấy giờ còn có tục xăm mình.
          Nhà ở có nhiều kiểu như nhà sàn, nhà mái cong làm bằng gỗ, tre, nứa. Trên
trống đồng Đông Sơn ta thấy có 2 kiểu nhà: nhà sàn mái cong hình thuyền và mái tròn
hình mui thuyền, sàn thấp, mái rủ xuống như mái tranh đến gần sàn, có cầu thang lên
xuống. Mỗi công xã nông thôn bao gồm một số nhà sàn quần tụ bên nhau trong một địa
vực, hình thành những xóm làng định cư lâu dài mà thời đó thường gọi là kẻ, chiềng -
tức là nơi chốn, chạ tức là tục kết đôi làng quê. Các vật dụng trong sinh hoạt gia đình
rất phong phú như bình, vò, thạp, mâm, chậu, bát bằng đồ gốm hay bằng đồng. Ngoài
ra, có những đồ dùng làm bằng tre, nứa, mây, vỏ bầu,...

Phương tiện giao thông chủ yếu là thuyền bè. Thuyền có thuyền độc mộc, thuyền ván
với các kiểu loại khác nhau: thuyền chiến, thuyền tải, thuyền bơi trải. Trên bộ còn sử
dụng súc vật như voi, trâu, bò, ngựa.

          * Đời sống tinh thần

          Cư dân Văn Lang - Âu Lạc đã đạt đến một trình độ thẩm mỹ, tư duy khá cao.
Những sản phẩm đẹp, tiêu biểu như trống đồng, thạp đồng, trang sức bằng đồng nói
lên kỹ thuật luyện đồng đã đạt đến đỉnh cao (từ cách xây dựng các lò đúc, khuôn đúc,
nguyên liệu pha chế hợp kim, làm hoa văn,...). Người xưa tuỳ theo chức năng sử dụng
của từng loại công cụ mà tạo nên một hợp kim hay tỷ lệ giữa các hợp kim cho phù hợp
với cách chế tạo đồ đồng của người Đông Sơn, thể hiện khá rõ nét trình độ tư duy khá
cao của người Việt cổ. Điều này còn được thể hiện ở trình độ luyện sắt bấy giờ với
phương pháp hoàn nguyên trực tiếp thành loại sắt xốp.

          Trong quá trình quy tụ các bộ lạc sống trên cùng một phạm vi đất đai đã hình
thành lãnh thổ chung, đã nổi lên xu hướng thống nhất, đoàn kết, hoà hợp trước yêu
cầu trị thủy, làm thuỷ lợi để phát triển nông nghiệp và chống ngoại xâm.

          Từ ý thức cộng đồng đã nảy sinh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng bái các anh
hùng, các thủ lĩnh. Cụ thể, trong ý thức tư tưởng của cư dân bấy giờ, là các cộng đồng
cư dân của nước Văn Lang - Âu Lạc đều có cùng chung một cội nguồn, một tổ tiên.
Bên cạnh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên mới nảy sinh, người đương thời còn bảo lưu
những tàn dư của các hình thức tôn giáo nguyên thuỷ như: tín ngưỡng vật tổ, ma thuật,
phồn thực với những nghi lễ cầu mong được mùa, giống nòi phát triển. Nhiều phong
tục tập quán được định hình đã nói lên sự phong phú và phát triển của đời sống tinh
thần trong xã hội Hùng Vương như tục ăn đất, uống nước bằng mũi, tục giã cối (để làm
hiệu lệnh, truyền tin), tục cưới xin, ăn hỏi, ma chay, chôn cất người chết trong mộ đất,
mộ có quan tài hình thuyền, chôn chồng lên nhau, chôn trong nồi vò úp nhau, chôn theo
đồ tuỳ táng bằng hiện vật.

          Lễ hội bấy giờ rất phổ biến, thịnh hành, là một phần quan trọng trong đời sống
tinh thần của người Văn Lang - Âu Lạc. Lễ hội được tiến hành rải rác quanh năm, trong
đó đặc sắc nhất là ngày hội mùa với nhiều nghi lễ như đâm trâu, bò và các hình thức
diễn xướng dân gian (đoàn người hoá trang, vừa đi vừa múa, tay cầm giáo, lao, nhạc
cụ...). Bên cạnh đó, còn có những hội thi tài, thi sức khoẻ, hội đâm trâu, hội cầu nước,
hội mừng năm mới...

          Trong cuộc sống, cư dân thời Hùng Vương rất thích cái đẹp và hướng tới cái
đẹp. Đồ trang sức, công cụ lao động và đồ dùng sinh hoạt cũng như vũ khí không
những hết sức phong phú mà còn đạt đến trình độ kỹ thuật và mỹ thuật rất cao, có
những thứ có thể xem như là những tác phẩm nghệ thuật. Nghệ thuật Đông Sơn trở
thành đỉnh cao của nghệ thuật tạo hình thời Hùng Vương. Nghệ thuật đó vừa phản ánh
cuộc sống thường nhật của cư dân Việt cổ, vừa thể hiện mối quan hệ giữa con người
với thế giới chung quanh, với những đường nét có tính ước lệ, cách điệu và một bố cục
cân xứng, hài hoà.

          Nghệ thuật âm nhạc cũng phát triển. Có nhiều nhạc cụ được chế tạo và sử dụng
bộ gõ có trống đồng, trống da, chuông nhạc, phách, bộ hơi (khèn). Trong các nhạc cụ,
tiêu biểu nhất là trống đồng. Kết cấu trống đồng gồm có phần tang phình ra, phần thân
và chân trống loe ra giúp cho hình dáng trống đẹp, có sức cộng hưởng làm cho âm
thanh vang xa. Cư dân bấy giờ biết sử dụng nhiều nhạc cụ phối hợp trong các lễ hội.
Trên trống đồng Đông Sơn có cảnh sử dụng dàn trống đồng từ 2 đến 4 chiếc, dàn cồng
từ 6 đến 8 chiếc và một tốp người vừa múa vừa sử dụng những nhạc khí khác nhau
như chuông, khèn, sênh. Trên trống đồng có hình ảnh người nhảy múa hoá trang và
múa vũ trang. Có tượng đồng Đông Sơn thể hiện hai người cõng nhau, vừa thổi khèn,
vừa nhảy múa.

Cùng với trống đồng – di vật tiêu biểu của nền văn hóa Đông Sơn và văn minh sông
Hồng, công trình kiến trúc thành Cổ Loa cũng biểu hiện trình độ phát triển cao của cư
dân thời Văn Lang - Âu Lạc.

          + Tổ chức xã hội


           Đứng đầu nhà nước Văn Lang - Âu Lạc là nhà vua, cha truyền con nối. Giúp
việc cho nhà vua có các Lạc hầu, Lạc tướng. Nhà nước văn lang đã có một đội quan
thường trực với vũ khí bằng đồng, như: dìu chiến, giáo mác, dao găm. Đăc biệt, họ biết
sử dụng thành thạo các loại cung nỏ, có loại bắn một lần được nhiều mũi tên. Thời Âu
Lạc, nhà vua đóng đô ở thành Cổ Loa.

          Đơn vị xã hội cơ sở của người Việt cổ là các làng bản, đứng đầu làng bản là các
Bố chính (thường là một người già làng), Bình dân làng xã gọi là Lạc dân. Trong làng
xã, tinh thần cộng đồng rất sâu đậm. Họ sống quây quần giúp đỡ lẫn nhau, đoàn kết
cùng chống kẻ thù đến xâm lấn. Tổ chức gia đình: phụ quyền.

Câu 3: Nội dung cơ bản của triết lí Âm - Dương. Ảnh hưởng của triết lí Âm –
Dương đến nhận thức và tính cách người Việt.

* Nội dung cơ bản của triết lí Âm – Dương

          - Bản chất của triết lí Âm – Dương

          Âm dương  là hai khái niệm để chỉ hai thực thể đối lập ban đầu tạo nên toàn bộ
vũ trụ. Âm thể hiện cho những gì yếu đuối nhỏ bé, tối tăm, thụ động, nữ tính, mềm
mại ... đối lập nó là dương thể hiện sự mạnh mẽ, cho ánh sáng, chủ động, nam tính,
cứng rắn ... Triết lý giải thích vũ trụ dựa trên âm và dương được gọi là triết lý âm
dương mà bản chất của nó là sự kết hợp giữa các mặt đối lập.

          - Hai qui luật của triết lí Âm – Dương

          + Quy luật về bản chất của các thành tố

 Không có gì hoàn toàn âm hoặc hoàn toàn dương, và


 Trong âm có dương, trong dương có âm.
          Quy luật này cho thấy việc xác định một vật là âm hay dương chỉ là tương đối,
trong sự so sánh với một vật khác. Ví dụ về trong âm có dương: đất lạnh nên thuộc âm
nhưng càng đi sâu xuống lòng đất thì càng nóng; về trong dương có âm: nắng nóng
thuộc dương, nhưng nắng nhiều sẽ có mưa nhiều (hơi nước bay lên) làm nên mưa
lạnh thuộc âm. Chính vì thế mà việc xác định tính âm dương của các cặp đối lập
thường dễ dàng. Nhưng đối với các vật đơn lẻ thì khó khăn hơn nên có hai hệ quả để
giúp cho việc xác định tính âm dương của một đối tượng:

    Muốn xác định được tính chất âm dương của một đối tượng thì trước hết

phải xác định được đối tượng so sánh. Màu trắng so với màu đỏ thì là âm, nhưng so
với màu đen thì là dương. Ta có thể xác lập được mức độ âm dương cho nhiều hệ; ví
dụ, về màu sắc thì đi từ âm đến dương ta có đen-trắng-xanh-vàng-đỏ (đất "đen" sinh ra
mầm lá "trắng", lớn lên thì chuyển thành "xanh", lâu dần chuyển thành lá "vàng" và cuối
cùng thành "đỏ")

          Muốn xác định được tính chất âm dương của một đối tượng thì phải xác định
được cơ sở so sánh. Ví dụ, nước so với đất thì, về độ cứng thì nước là âm, đất là
dương; nhưng về độ linh động thì nước là dương, đất là âm.

          + Quy luật về quan hệ giữa các thành tố

 Âm dương gắn bó mật thiết với nhau, vận động và chuyển hóa cho nhau, và
 Âm phát triển đến cùng cực thì chuyển thành dương, dương phát triển đến
cùng cực thì chuyển thành âm.
          Ngày và đêm, tối và sáng, mưa và nắng, nóng và lạnh,... luôn chuyển hóa cho
nhau. Cây màu xanh từ đất "đen", sau khi lớn chín "vàng" rồi hóa "đỏ" và cuối cùng lại
rụng xuống và thối rữa để trở lại màu "đen" của đất. Từ nước lạnh (âm) nếu được đun
nóng đến cùng cực thì bốc hơi lên trời (thành dương), và ngược lại, nếu được làm lạnh
đến cùng cực thì nó sẽ thành nước đá (thành âm).

Tất cả các quy luật trên được thể hiện đầy đủ trong biểu tượng âm dương nói lên bản
chất và sự chuyển hóa của âm và dương.

* Ảnh hưởng của Triết lí Âm – Dương đến nhận thức và tính cách người Việt

Trong khi Đông Bắc Á là trung gian giữa Đông Nam Á và phương Tây thì Việt Nam là
trung gian giữa phần còn lại của Đông Nam Á với Đông Bắc Á. Việt Nam vừa nằm
trong Đông Nam Á là cái nôi sinh ra triết lý âm dương nguyên thủy, lại vừa nằm trong
vòng ảnh hưởng của Trung Hoa là nơi tạo nên triết lý âm dương hoàn thiện nên tính
cách của người Việt thể hiện ảnh hưởng của tư duy âm dương rất mạnh.
          + Tính ưa hài hòa

          Tính cách thứ nhất thuộc loại này là tính ưa hài hòa, còn có thể gọi là tư duy
Lưỡng phân lưỡng cực. Nó thể hiện ở chỗ, người Việt Nam nắm rất vững quy luật
“trong âm có dương, trong dương có âm”.

          (a) Trong kho tàng tục ngữ ca dao Việt Nam, có các câu phản ánh nhận thức
dân gian về quy luật “trong âm có dương, trong dương có âm”, kiểu như: Trong rủi có
may, trong dở có hay, trong họa có phúc; Người có lúc vinh lúc nhục, nước có lúc đục
lúc trong, v.v..

          (b) Do nắm vững quy luật “trong âm có dương, trong dương có âm” nên ở Việt
Nam, mọi thứ thường thể hiện theo cặp đôi tạo nên âm dương hài hòa. Tổ quốc là “đất
- nước”, “non - nước”, “non - sông”. Người Êđê có sông đực và sông cái (krông
nô và krông ana). Trống đồng của người Ê-đê, Lô Lô có trống đực và trống cái. Câu hò
trong dân gian có một vế trống và một vế mái (câu hò mái hai, mái ba có nghĩa là một
câu trống đi với hai hoặc ba câu mái). Anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo và nàng Liễu
Hạnh vốn chẳng có liên quan gì với nhau và sống cách nhau tới ba thế kỷ, nhưng khi
được tôn lên làm thánh, nhân dân bèn ghép lại thành đôi Cha - Mẹ (Tháng Tám giỗ
Cha, tháng Ba giỗ Mẹ - tục ngữ).

          (c) Trong khi thủy tổ của người Hán là một ông Bàn Cổ, của người Hàn là một
ông Dangun (Đàn Quân) thì thủy tổ của người Việt là cặp đôi Lạc Long Quân và Âu Cơ
biểu hiện cho Rồng và Tiên (cá sấu và chim); thủy tổ của người Mường là chàng Hươu
và nàng Cá, v.v..

          Người Chăm có hai bộ tộc là tộc cau (đặc, dương) và tộc dừa (rỗng, nước, âm).
Người Chân Lạp sống ở hai vùng là Thủy Chân Lạp (âm) và Lục Chân Lạp (dương). Ở
Tây Nguyên từng tồn tại trong một thời gian dài hai nhà nước Thủy Xá (Pơtao Ia)
và Hỏa Xá (Pơtao Pui). 

          (d) Ngay cả những khái niệm đơn độc của dân tộc khác khi du nhập vào Việt
Nam cũng được nhân đôi thành cặp: Thần mai mối ở Trung Hoa chỉ là một ông Tơ
Hồng thì vào Việt Nam được nhân đôi thành ông Tơ và bà Nguyệt. Người Hoa ở Chợ
Lớn (Tp. Hồ Chí Minh) dựng lên hai miếu thờ Quan Công và Thiên Hậu riêng rẽ thì
người Việt ở đây lập tức ghép hai nhân vật vốn không liên quan gì với nhau ấy thành
một cặp và gọi hai miếu đó là “chùa Ông - chùa Bà” (xem hình 4).

          + Triết lý sống quân bình

          Nếu việc nắm vững quy luật “trong âm có dương, trong dương có âm” tạo nên
tính ưa hài hòa thì việc nắm vững quy luật “âm dương chuyển hóa” đã giúp người Việt
có được triết lý sống quân bình.

          (a) Trong kho tàng văn hóa dân gian người Việt, có các câu tục ngữ phản ánh
nhận thức về quy luật âm dương chuyển hóa, kiểu như: Sướng lắm khổ nhiều; quan cả
vạ to; trèo cao ngã đau; ghét của nào trời trao của nấy; v.v..  

          (b) Từ đó dẫn đến triết lý sống quân bình, vừa phải: Trong việc ăn, không ăn
nhanh quá, không ăn chậm quá; không ăn hết sạch, không để thừa nhiều. Trong ứng
xử thì ở sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười, ở hẹp người chê. Trong giao tiếp
thì đề cao cách nói nước đôi: Làm trai nước hai mà nói; người khôn ăn nói nửa chừng,
để cho người dại nửa mừng nửa lo, v.v.. Ngay cả khi ước vọng cũng không tham
lam: Cầu sung vừa đủ xài.

          (c) Triết lý sống quân bình được thể hiện không chỉ nơi người sống mà cả nơi
người chết: Trong mộ cổ ở Lạch Trường (Thanh Hóa) vào thế kỷ III TCN., các đồ vật
tùy táng bằng gỗ (dương) được đặt ở phía Bắc (âm) và các đồ vật bằng gốm (âm)
được đặt ở phía Nam (dương)

          (d) Trong khi biểu tượng âm dương truyền thống của Trung Hoa là hai vạch ngắn
“- -” với một vạch dài “¾” của bát quái và hình tròn chia hai nửa bằng chữ S của Đạo
giáo thì biểu tượng âm dương truyền thống khá bền vững của Việt Nam là cặp hình
vuông - tròn. Ý niệm vuông - tròn với nghĩa là sự hài hòa, quân bình, do vậy mà viên
mãn, hoàn chỉnh được thể hiện khắp nơi: Từ ý niệm (ví dụ: “cuộc vuông tròn” = hôn
nhân), qua phong tục (bánh chưng bánh dày), đến các hiện vật.

Cái cối giã gạo của người Kh’mer có hình trong tròn, ngoài vuông. Trong tròn là để
thuận tiện cho việc giã gạo, còn ngoài vuông thì mang ý nghĩa biểu tượng âm dương
thuần túy thể hiện sự hài hòa. Năm 1995 chúng tôi đã phát hiện ra rằng hình “tròn ngoài
vuông trong” ở rìa ngoài mặt trống đồng Thôn Mống (Nho Quan, Ninh Bình) của Việt
Nam mà lâu nay được miêu tả là “trang trí bằng hình đồng tiền” có liên quan mật thiết
với hình “vuông ngoài tròn trong” trên rìa trống Yên Bồng (Lạc Thủy, Hòa Bình) và
chính là những hình biểu tượng âm dương “tròn vuông” và “vuông tròn” lồng vào nhau.
Tiền đồng cổ với lỗ vuông của Tần Thủy Hoàng xuất hiện sau đó. 

          Triết lý sống quân bình có nguồn gốc từ phương Nam được Khổng Tử và Lão Tử
tiếp nhận thành tư tưởng trung dung, trung đạo và được xem như một phẩm chất mà
nho sĩ, đạo sĩ phải rèn luyện để hướng đến. Chính bởi chứa đựng những tư tưởng vay
mượn khác thường này mà Nho gia và Đạo gia nguyên thủy đều không được xã hội
đương thời đề cao. Về bản chất, văn hóa Trung Hoa (phương Bắc) mang tính cực
đoan hơn nhiều so với văn hóa phương Nam: Nho giáo coi trọng lễ nghi một cách cực
đoan; Đạo giáo vô vi một cách cực đoan; Phật giáo Thiền tông thì phá chấp một cách
cực đoan.

          + Tính linh hoạt

          Chính triết lý quân bình âm dương đã tạo ra ở người Việt một lối sống chừng
mực và linh hoạt. Trong khi gốc văn hóa du mục lại tạo nên ở người Hán tính cực
đoan với quyết tâm cải tạo hoàn cảnh (vd: hình tượng Tinh Vệ lấp biển, Ngu Công dời
núi) thì người Việt Nam có xu hướng thích nghi với mọi hoàn cảnh (ở bầu thì tròn, ở
ống thì dài; Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy - tục ngữ). Nếu văn hóa
Trung Hoa (phương Bắc) coi trọng cuộc sống thế tục thì văn hóa Việt Nam coi
trọng tương lai (tinh thần lạc quan): Khi nhỏ mà khổ thì tin rằng về già sẽ sướng, suốt
đời khổ thì tin rằng đời con mình sẽ sướng: Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời;
Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ (tục ngữ).

          Tính cách người Việt với những biểu hiện mang tính dân gian nguyên thủy như
trên cho thấy rõ ràng ảnh hưởng sâu đậm của triết lý âm dương. Chúng hoàn toàn khác
xa với truyền thống văn hóa dân gian Trung Hoa tương ứng. Đó cũng chính là những
bằng chứng bổ sung, củng cố thêm cho kết luận của chúng tôi về nguồn gốc Đông Nam
Á của triết lý âm dương. 

Câu 4: Các quy luật vận động của Ngũ hành. Phân tích một số ứng dụng của Ngũ
hành trong văn hóa Việt Nam.
* Các quy luật vận động của Ngũ hành

1. Tương sinh: Giữa Ngũ Hành có mối quan hệ nuôi dưỡng, giúp đỡ, thúc đẩy
nhau, đó là quan hệ Tương sinh. Còn bao hàm ý là hành nào cũng có quan
hệ trên hai phương diện: cái sinh ra nó (sinh nhập) và cái nó sinh ra (sinh
xuất).
– Mộc sinh Hỏa

– Hỏa sinh Thổ

– Thổ sinh Kim

– Kim sinh Thủy

– Thủy sinh Mộc

2. Tương khắc: Giữa Ngũ Hành có mối quan hệ ức chế nhau để giữ thế quân bình,
đó là quan hệ Tương khắc. Trong tương khắc, mỗi hành cũng lại có hai mối
quan hệ: cái khắc nó (khắc nhập) và cái nó khắc (khắc xuất).
– Mộc khắc Thổ

– Thổ khắc Thủy

– Thủy khắc Hỏa

– Hỏa khắc Kim

– Kim khắc Mộc

3. Tương thừa (Thừa: thừa thế lấn áp): Trong điều kiện bất thường, Hành này khắc
hành kia quá mạnh, khi đó mối quan hệ Tương khắc biến thành quan hệ Tương
thừa. Chẳng hạn: bình thường Mộc khắc Thổ, nếu có một lý do nào đó mà Mộc
tăng khắc Thổ, lúc đó gọi là Mộc thừa Thổ.
4. Tương vũ (Vũ: hàm ý khinh hờn): Nếu Hành này không khắc được Hành kia
thì quan hệ Tương khắc trở thành quan hệ Tương vũ. Chẳng hạn: bình
thường Thủy khắc Hỏa, nếu vì một lý do nào đó làm Thủy giảm khắc Hoả (nói
cách khác: Hỏa “khinh hờn” Thủy) thì lúc đó gọi là Hỏa vũ Thủy.
5. Quy luật chế hóa Ngũ Hành:
– Mộc khắc Thổ – Thổ sinh Kim – Kim khắc Mộc

– Hỏa khắc Kim – Kim sinh Thủy – Thủy khắc Hỏa

– Thổ khắc Thủy – Thủy sinh Mộc – Mộc khắc Thổ

– Kim khắc Mộc – Mộc sinh Hỏa – Hỏa khắc Kim

– Thủy khắc Hỏa – Hỏa sinh Thổ – Thổ khắc Kim

* Một số ứng dụng của Ngũ hành trong văn hóa Việt Nam

Ngũ hành có ứng dụng rất rộng rãi. Sở dĩ như vậy là vì các hành trong Ngũ hành là
những khái niệm vừa cụ thể, vừa trừu tượng, chúng rất đa nghĩa.

Về mặt văn hóa, đáng chú ý là hệ thống các màu biểu và vật biểu theo Ngũ hành:

          Về màu biểu

          Hai màu đen, đỏ mang tính đối lập âm/dương rõ rệt nhất nên ứng với 2 hành
Thủy – Hỏa (2 phương Nam – Bắc). Hai màu xanh, trắng cũng đối lập âm dương
nhưng kém rõ rệt hơn, ứng với 2 hành Mộc – Kim. Màu vàng ứng với hành thổ ở trung
ương.

          Về vật biểu

           Rùa – chim – rồng – hổ - người. Đáng chú ý là trong số vật biểu cho 5 phương
thì đã có 3 là những động vật tiêu biểu của vùng Nam sông nước – chim, rồng, rùa;
thành ngữ VN có câu: nhất điểu, nhì xà, tam ngư, tứ tượng.

                   Phương Nam: Chim: loài vật luôn quy tụ về phương nam nắng ấm. Không
phải ngẫu nhiên mà người Lạc Việt xưng là dòng dõi họ Hồng Bàng (1 loài sếu lớn) và
trên các trống đồng là cả một thế giới các loài chim, con người cũng dùng lông chim để
hóa trang.

                   Phương Đông: Rồng.: con vật do người Bách Việt tưởng tượng ra trên cơ
sở nguyên mẫu là cá sấu và rắn. Tính cách trọng tình cảm, hiếu hòa của người nông
nghiệp đã biến con cá sấu nguyên mẫu ác độc thành con rồng tưởng tượng cao quý,
hiền lành. Rồng còn là con vật mang đủ tính tổng hợp và linh hoạt của văn hóa nông
nghiệp với các đối lập nước/lửa, nước/trời (sinh ra từ nước rồi bay lên trời và phun lửa)
linh hoạt tới mức không cần cánh mà vẫn có thể bay lên trời được.

                   Phương Tây: Hổ: con vật đại diện rất phù hợp cho văn hóa gốc du mục
trọng động, trọng sức mạnh.

                   Phương Bắc: Rùa: là phương của hành Thủy: nước là cái có tầm quan
trọng số một (sau đất) đối với nghề nông lúa nước mà con rùa thì gắn liền với nước.

                   Trung ương: người: cai quản bốn phương, muôn loài.

          Vật biểu của hành/phương nào thì mang theo màu biểu của hành/phương ấy.
Cho nên khi xã hội có vua, mà vua thì cai quản con người, con người cai quản muôn
loài, thành ra Vua mới giành lấy màu vàng (màu của hành thổ, của Trung ương, của
con người) làm của riêng cho mình. Vua mặc áo màu vàng là vì vậy.

Trong truyền thống dân gian, ta thường bắt gặp nhiều ứng dụng của ngũ hành. Chẳng
hạn, người Việt trị tà ma bằng bùa Ngũ sắc, bằng bức tranh dân gian Ngũ hổ vẽ 5 con
hổ ở 5 phương với 5 màu theo ngũ hành với ý nghĩa: Hổ tượng trưng cho sức mạnh,
trấn trị ở khắp phương, tà ma không còn lối thoát. Ở các lễ hội sử dụng những cờ hình
vuông mau bằng vải 5 màu theo ngũ hành. Không gian vũ trụ đối với Việt Nam không
phải bốn phương mà là 5 phương theo Ngũ hành, không phải 8 hướng mà là 9 hướng.
Cũng không phải ngẫu nhiên mà 6 ngọn núi ở Non nước (Quảng Nam) được quy về 5
để gọi là Ngũ Hành Sơn. Ở lăng Trần Thủ Độ (Thái Bình) có đặt tượng hổ đá phía tây,
rồng ở phía đông, phượng (chim) ở phía nam, rù ở phía bắc, mộ Trần Thủ Độ ở giữa
theo đúng quy định vật biểu trong Ngũ hành.

          Một điều rất đáng chú ý là trong các ứng dụng dân gian của Ngũ hành ngoài
trung ương là vị trí trung tâm thì phương nam và phương đông (phương của văn hóa
gốc nông nghiệp) thường được coi trọng hơn bắc và tây (phương của văn hóa gốc du
mục). Chẳng hạn trong truyền thuyết Nam Tào – Bắc Đẩu, trong khi thần Nam Tào giữ
sổ sinh ở phương Nam thì Bắc đẩu giữ sổ tử lại ở phương bắc(bên phải Ngọc Hoàng).
Trong khi màu đỏ là màu của niềm vui và sự tốt lành, màu xanh là màu của sự sống, thì
màu trắng là màu của chết chóc, màu đen là màu tang thứ 2.

          Một hướng khác đi theo con đường phân đôi cặp lưỡng nghi Âm – dương  thành
Tứ tượng, rồi từ tứ tượng phân đôi tiếp thành Bát quái. Để trừ tà ma, trong dân gian
phương Nam sử dụng Ngũ hành làm bùa thì người phương bắc dùng bát quái làm bùa.

Câu 5. Cơ cấu bữa ăn và đặc trưng cơ bản trong bữa ăn của người Việt.

Người Việt rất quan trọng việc ăn “Có thực mới vực được đạo – Trời đánh tránh miếng
ăn”, “Ăn” quan trọng đến mức xuất hiện trong nhiều câu nói, đứng trc nhiều hành động
thường ngày: ăn uống, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn chơi, ăn học, ăn ngủ, ăn nằm, ăn cắp,
ăn trộm…

* Cơ cấu bữa ăn

Thể hiện đặc trưng văn hóa nông nghiệp lúa nước của ng Việt, trong cơ cấu của bữa
ăn: Cơm – rau – cá – thịt . Thành phần đầu tiên và quan trọng nhất là cơm

          + Cơm được làm từ gạo, gạo đứng vị trí đầu tiên trong cơ cấu bữa ăn: “Người
sống về gạo, cá bạo về nước”, bữa ăn của người Việt gọi là bữa cơm. Người Việt trồng
cả hai loại lúa: nếp và tẻ. Cây lúa tẻ là loại cây trồng chính nên gạo tẻ được dùng trong
bữa ăn hàng ngày: “Cơm tẻ là mẹ ruột”, “Đói thì thèm thịt thèm xôi, hễ no cơm tẻ thì
thôi mọi đường”. Người Việt còn coi cây lúa là tiêu chuẩn của cái đẹp: “Em xinh là xinh
như cây lúa”. Người Việt không chỉ tận dụng cây lúa thành gạo để nấu cơm mà còn biết
tận dụng từ gạo để làm bún và làm bánh: bánh lá, bánh đúc, bánh tráng… Gạo nếp
được dùng làm xôi, làm bánh mặn, bánh ngọt…

          + Rau: Là nước nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, nông nghiệp lại là
ngành kinh tế chủ yếu nên rau quả vô cùng phong phú. Việc dùng rau trong cơ cấu bữa
ăn chứng tỏ khả năng tận dụng môi trường tự nhiên của người Việt. Người Việt thường
hay nói: “Đói ăn rau, đau uống thuốc”.Ngoài ra còn có những loại rau dùng làm gia vị
như: hành, rau răm, rau diếp cá…Gia vị cũng là thành phần không thể thiếu trong bữa
ăn của người Việt.

          + Cá đại diện cho thủy sản: Việt Nam có phía Đông giáp với biển Đông lại có hệ
thống sông ngòi, ao hồ chằng chịt nên dùng cá trong cơ cấu bữa ăn cũng là khả năng
tận dụng môi trường tự nhiên của người Việt.“Cơm với cá như má với con” tận dụng
các loài thủy sản để chế biến ra một thứ đồ chấm đặc biệt là nước mắm, các loại nước
mắm nổi tiếng: Nghệ An, Phan Thiết, Phú quốc Thực phẩm được chế biến từ thủy sản
cũng rất đa dạng: nấu chín, ướp mắm, phơi khô. Chế biến cũng có nhiều cách: chiên,
xào, kho, luộc, nướng, gỏi…

          + Thịt cũng là một thành phần quan trọng trong cơ cấu bữa ăn. Thịt có thể dùng
kết hợp với cơ cấu nói trên, có thể thay thế cho cá trong các bữa cơm của người Việt.
Người Việt thường ăn các loại thịt như: thịt lợn, thịt vịt, thịt gà, thịt bò, thịt trâu, thịt
cầy…“Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không?”.

          + Đồ uống hút

          Truyền thống của người Việt có trầu, cau , thuốc lào, nước vối. rượu gạo, chúng
đều là những sản phẩm cổ truyền của nghề trồng trọt đông nam á:

                   Ăn Trầu Cau

                   Rượu

                   Cây chè và tục uống chè

* Đặc điểm trong văn hóa ăn của người Việt

          + Tính tổng hợp

          Tất cả các món ăn đều có sự pha trộn, kết hợp hài hòa của nhiều nguồn nguyên
vật liệu. Trong chế biến thức ăn, tổng hợp nhiều loại thức ăn, gia vị… Chế biến đảm
bảo cơ cấu đủ ngũ chất: bột – nước – khoáng – đạm – béo, đủ ngũ vị: chua – cay –
ngọt – mặn – đắng; đủ ngũ sắc: trắng – xanh – vàng – đỏ – đen. Nước chấm cũng
mang tính tổng hợp rất đặc biệt nước mắm với vị mặn đậm đà được kết hợp với vị cay
của gừng, ớt, tiêu, vị chua của chanh, giấm, vị ngọt của đường… Trong cách ăn, tính
tổng hợp được biểu hiện qua việc ăn nhiều món trong bữa ăn. Cách ăn tổng hợp, tác
động vào đủ mọi giác quan: mũi ngửi mùi thơm, mắt nhìn màu sắc hài hòa của bàn ăn,
lưỡi nếm vị ngon của thức ăn, tai nghe tiếng kêu ròn tan của thức ăn. Người Việt ăn
uống nhiều món cùng một lúc. Cách ăn của người Việt còn tổng hợp cái ngon của
nhiều yếu tố: thời tiết, chỗ ăn, bè bạn, người thân, không khí bữa ăn…

          + Tính linh hoạt

           Tính linh hoạt của người Việt Nam thể hiện rất rõ trong cách ăn và còn thể hiện
trong dụng cụ ăn : truyền thống sử dụng dụng cụ là đôi đũa, đó là cách ăn đặc thù mô
phỏng động tác của con chim nhặt hạt xuất phát từ những thứ ăn những thứ ko thể
dùng tay bốc hoặc mó tay vào được ( cơm, cá, nước mắm..)thể hiện trong cách ăn,
trong dụng cụ đựng thức ăn: đôi đũalấy vật liệu từ tre, gỗ

          Ứng xử khi ăn: “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”

          + Tính cộng đồng

          Thể hiện trong văn hóa ăn tập thể của ng Việt, biểu hiện của tính cộng dồng là
việc ăn chung, uống chung, “một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”. Trong khi ăn
thích trò chuyện cùng nhau… và thú uống rượu cần của người vùng cao là biểu hiện
triết lý thâm thúy về tính cộng đồng sống chết có nhau.

          Tính cộng đồng đòi hỏi ở con người 1 thứ văn hóa cao trong ăn uống " Ăn trong
nồi ngồi trong hướng". Vì nét truyền thống của người Việt trong bữa ăn là mực thước,
tính mực thước là biểu hiện của khuynh hướng quân bình trong âm dương nó đòi hỏi "
ăn chậm nhai kĩ”

          Khi ăn cơm khách 1 mặt phải ăn cho ngon miệng để tỏ lòng biết ơn và tôn trọng
chủ nhà, mặt khác phải chừa ra 1 ít trong các đĩa đồ ăn để tỏ rằng mình không chết đói,
không tham ăn. Tục ngữ có câu : Ăn hết bị đòn. ăn còn mất vợ. Nồi cơm và chén nước
mắm là hai biểu tượng của tính cộng đồng trong bữa ăn (cũng giống như sân đình, bến
nước là biểu tượng cho tính cộng đồng nơi làng xã). Người Việt ăn cơm chung cùng
một nòi cơm, chấm chung chén nước mắm. Biểu hiện của tính mực thước ở chỗ tôn
trọng khách “tiên khách hậu chủ”
          + Tính biện chứng

           Người Việt Nam đặc biệt chú trọng đến quan hệ biện chúng Âm- Dương bao
gồm 3 mặt liên quan mật thiết với nhau là: âm dương của thức ăn, sự quân bình âm
dương trong cơ thể và sự cân bằng âm dương giữa con người với môi trường tự nhiên.

                    Để tạo nên những món ăn có sự cân bằng âm dương người Việt phân biệt
thức ăn theo 5 mức âm dương ứng với ngũ hành: hàn ( lạnh ), nhiệt ( nóng ), ôn ( ẩm ),
lương ( mát ), bình ( trung tính ).

                    Để tạo nên sự quân bình âm dương trong cơ thể ngoài việc ăn các món
chế biến có tính đến sự quân bình âm dương người Việt Nam còn sử dụng thức ăn
như những vị thuốc để điểu chỉnh sự mất quân bình âm dương trong cơ thể. Mọi bệnh
tật đều do mất quân bình âm dương vì vậy mọi người bị ốm do quá ân cần ăn đồ
dương và ngược lại ốm do quá dương cần ăn đồ âm để khôi phục lại sự thăng bằng đã
mất.

                   Để đảm bảo quân bình âm dương giữa con người với môi trường thì người
Việt có tập quán ăn uống theo vùng khí hậu , theo mùa. Ăn theo mùa tức là tận dụng tối
đa môi trường tự nhiên để phục vụ con người là hòa mình vào tự nhiên tạo nên sự cân
bằng biện chứng giữa con người với môi trường. Thức ăn theo mùa hay mùa nào thức
ấy " Mùa hè cá sông, mùa đông cá bể, chim ngói mùa thu, chim cu mùa hè...

           Tính biện chứng trong việc ăn uống không chỉ thể hiện ở việc ăn phải hợp thời
tiết ,phải đúng mùa, và người Việt Nam sành ăn còn phải biết chọn đúng bộ phận có
giá trị ( chuối sau, cau trước,đầu chép, mép trôi, môi mè, lườn trắm..). Thời điểm có giá
trị còn là lúc thức ăn đang trong quá trình âm dương chuyển hóa, đang ở dạng âm
dương cân bằng hơn cả và vì vậy mà rất giàu chất dinh dưỡng ( trứng lộn, nhộng, lợn
sữa, ong non..).

Câu 6: Các đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt Nam.

Hai đặc trưng cơ bản của nông thôn Việt Nam là tính cộng đồng và tính tự trị, là hai đặc
trưng bao trùm nhất, quan trọng nhất của làng xã, chúng tồn tại song song như 2 mặt
của một vấn đề
* Tính cộng đồng

          Định nghĩa

          Việc tổ chức nông thôn đồng thời theo nhiều nguyên tắc khác nhau tạo nên tính
cộng đồng làng xã. Tính cộng đồng là sự liên kết các thành viên trong làng lại với nhau,
mỗi người đều hướng tới những người khác – nó là đặc trưng dương tính, hướng
ngoại

          Biểu tượng

          Biểu tượng truyền thống của tính cộng đồng là sân đình, bến nước, cây đa

          CÁI ĐÌNH: Làng nào cũng có một cái đình. Đó là biểu tượng tập trung nhất của
làng về mọi phương diện. Trước hết, nó là một trung tâm hành chính, nơi duễn ra mọi
công việc quan trọng, nơi hội họp, thu sưu thuế. Thứ đến, đình là một trung tâm văn
hóa, nơi tổ chức các cuộc hội hè, ăn uống ( do vậy mà có từ đình đám ), nơi biểu diễn
chèo tuống. Đình còn là một trung tâm về mặt tôn giáo: thế đất, hướng đình được xem
là quyết định vận mệnh cả làng, đình cũng là nơi thờ thần Thành Hoàng bảo vệ cho
làng. Cuối cùng, đình là một trung tâm vế mặt tình cảm: nói đến làng, người ta nghĩ
ngay tới cái đình với tất cả những tình cảm gắn bó thân thương nhất “Qua đình ngã
nón trông đình, Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.”

          BẾN NƯỚC: Do ảnh hưởng của Trung Hoa, đình từ chỗ là nơi tập trung của tất
cả mọi người dần dần chỉ còn là chốn lui tới của đàn ông. Bị đẩy ra khỏi đình, phụ nữ
quần tụ lại nơi BẾN NƯỚC (ở những làng ko có sông chảy qua thì có giếng nước ) -
chỗ hàng ngày chị e gặp nhau cùng rửa rau, giặt giũ, chuyện trò...

          CÂY ĐA cổ thụ mọc um tùm ở đầu làng, gốc cây có miếu thờ lúc nào cũng khói
hương nghi ngút ; đó là nơi hội tụ của thánh thần: thần cây da, ma cây gạo, cú cáo cây
đề; sợ thần sợ cả cây đa. Cây đa, gốc cây có quán nước, còn là nơi nghỉ chân gặp gỡ
của những người đi làm đồng, những khách qua đường…nhờ khách qua đường, gốc
cây đa trở thành cánh cửa sổ liên kết làng với thế giới bên ngoài.

          - Biểu hiện tích cực của tính cộng đồng trong nông thôn Việt Nam
           + Tinh thần đoàn kết, tương trợ: Tính cộng đồng nhấn mạnh vào sự đồng nhất.
do đồng nhất( cùng hội cùng thuyền, đồng cảnh ngộ ) cho nên người Việt Nam luôn
sẵng sàng đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau, coi mọi người trong cộng đồng như anh chị e
trong nhà: tay đứt ruột xót; chị ngã e nâng...

          + Tính tập thể hòa đồng: Do đồng nhất (giống nhau) nên người Việt Nam luôn có
tính tập thể rất cao, hòa đồng vào cuộc sống chung

          + Nếp sống dân chủ, bình đẳng: Sự đồng nhất cũng chính là ngọn nguồn của
nếp sống dân chủ - bình đẳng bookc look trong các nguyên tắc tổ chức nông thôn theo
địa bàn cư trú, theo nghề nghiệp, theo giáp.

          - Biểu hiện tiêu cực

          + Sự thủ tiêu vai trò cá nhân: Chính do đồng nhất mà ở người Việt Nam, ý thức
về con người cá nhân bị thủ tiêu: người Việt Nam luôn hòa tan vào các mối quan hệ xã
hội ( với người này là em, người kia là cháu, với người khác nữa là anh/ chị…), giải
quyết xung đột theo lối hòa cả làng. Điều này khác hắn với truyền thống phương Tây,
nơi con người được rèn luyện ý thức cá nhân ngay từ nhỏ.

          + Thói dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể: Sự đồng nhất còn dẫn đến chỗ người Việt
Nam hay dựa dẫm, ỷ lại vào tập thể: Nước trôi thì bèo trôi, Nước nổi thì bèo nổi. Tệ
hơn nữa là tình trạng “Cha chung không ai khóc; Lắm sãi ko ai đóng cửa chùa...” Cùng
với thỏi dựa dẫm, ỷ lại là tư tưởng cầu an ( an phận thủ thường) và cả nể, làm gì cũng
sợ rút dây động rừng nên có việc gì thường chỉ trương đóng cửa bảo nhau…

          +Thói cào bằng, đố kị: Một nhược điểm trầm trọng thứ 3 là thói cào bằng , đố kị,
không muốn cho ai hơn mình ( để cho tất cả đều giông nhau, đồng nhất ) “Xấu đều hơn
tốt lòi, Khôn độc không bằng ngốc đàn…”

          Những thói xấu có nguồn gốc từ tính cộng đồng này khiến cho ở Việt Nam, khái
niệm “ giá trị” trở nên hết sức tương đối (nó khẳng định đặc điểm tính chủ quan của lối
tư duy nông nghiệp), cái tốt nhưng tốt riêng rẽ thì trở thành cái xấu, ngược lại; cái xấu,
nhưng là xấu tập thể thì trở nên bình thường: “Toét mắt là tại hướng đình, Cả làng
cùng toét phải mình e đâu”
* Tính tự trị

          Định nghĩa

          Sản phẩm của tính cộng đồng là một tập thể làng xã mang tính tự trị: làng nào
biết làng nấy, các làng tồn tại khá biệt lập với nhau và phần nào độc lập với triều đình
phong kiến. Mỗi làng là một “vương quốc” nhỏ khép kín với luật pháp riêng ( hương
ước ) và “tiểu triều đình” riêng ( trong đó hội đồng kì mục là cơ quan lập pháp, lí dịch là
cơ quan hành pháp, nhiều làng tôn xưng bốn cụ cao tuổi nhất làng là tứ trụ ). Sự biệt
lập đó tạo nên truyền thống phép vua thua lệ làng. Đây là đặc trưng âm tính – hướng
nội.

          Biểu tượng

          Biểu tượng truyền thống của tính tự trị là LŨY TRE. Rặng tre bao kín làng, trở
thành một thứ thành lũy kiên cốbất khả xâm phạm: đốt ko cháy, trèo ko được, đào
đường hầm thì vướng rễ ko qua ( chính vì vậy mà tiếng Việt mới gọi rặng tre là lũy,
thành lũy). Lũy tre là một đặc điểm quan trọng làm cho làng xóm phương Nam khác
hẳn ấp lí Trung Hoa có thành quách đắp bằng đất.

          - Biểu hiện tích cực của tính tự trị trong nông thôn Việt Nam

          + Tinh thần tự lập: Tính tự trị chú trọng nhấn mạnh vào sự khác biệt. Khởi đầu là
sự khác biệt của cộng đồng ( làng, họ ) này so với cộng đồng ( làng, họ ) khác. Sự khác
biệt – cơ sở của tính tự trị - tạo nên tinh thần tự lập cộng đồng: mỗi làng, mỗi tập thể
phải tự lo liệu lấy mọi việc

          + Nếp sống tự cấp, tự túc, tính cần cù: Vì phải tự lo liệu, nên người Việt Nam có
truyền thống cần cù, đầu tắt mặt tối, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. nó cũng tạo
nên nếp sống tự cấp tự túc: mỗi làng tự đáp ứng mọi nhu cầu cho cuộc sống của làng
mình; mỗi nhà có vường rau, chồng gà, ao cá – tự đảm bảo nhu cầu về ăn, có bụi tre,
rặng xoan, gốc mít – tự đảm bảo nhu cầu về ở.

          - Biểu hiện tiêu cực của tính tự trị


          + Óc tư hữu, ích kỉ: Chính do nhấn mạnh vào sự khác biệt – cơ sở của tính tự trị
- mà người Việt Nam có thói xấu là óc tư hữu, ích kỉ: bè ai người nấy lo; ruộng ai người
nấy đắp bờ, ai có thân người nấy lo; ai có bò người nấy giữ…Óc tư hữu, ích kỉ nảy sinh
ra từ tính tự trị của làng xã Việt và đã luôn bị chính người Việt phê phán: của mình thì
giữ bo bo, của người thì để cho bò nó ăn; của người bò tát, của mình buộc lạt…

          + Óc bè phái, địa phương cục bộ: Làng nào biết làng ấy, chỉ lo vun vén cho địa
phương mình: trống làng nào làng nấy đánh, thánh làng nào làng nấy thờ; trâu ta ăn cỏ
đồng ta…

          + Óc gia trưởng – tôn ti: Tính tôn ti, sản phẩm của nguyên tắc tổ chức nông thôn
theo huyết thống, tự thân nó không phải là xấu, nhưng khi nó gắn liền với óc gia
trưởng, tạo nên tâm lí “quyền huynh thế phụ”, áp đặt ý muốn của mình cho người khác,
tạo nên tư tưởng thứ bậc vô lý: sống lâu lên lão làng, áo mặc không qua khỏi đầu, thì
nó trở thành một lực cản đáng sợ cho sự phát triển xã hội, nhất là khi mà thói gia đình
chủ nghĩa vẫn đang là một căn bệnh lan tràn.

Đặc điểm môi trường sống quy định đặc tính tư duy. Cả hai quy định tính cách của dân
tộc. Cuộc sống nông nghiệp lúa nước và lối tư duy biện chứng, như ta đã biết, dẫn đến
dự hình thành nguyên lý âm dương và lối ứng xử nước đôi chính là một đặc điểm tính
cách của dân tộc Việt. Người Việt đồng thời vừa có tinh thần đoàn kết tương trợ lại vừa
có óc tư hữu ích kỉ và thói cào bằng; vừa có tính tập thể hòa đồng lại vừa có có bè
phái, địa phương; vừa có nếp sống dân chủ bình đẳng lại vừa có óc gia trưởng tôn ti,
vừa có tinh thần tự lập lại vừa xem nhẹ vai trò cá nhân; vừa có tính cần cù và nếp sống
tự cấp tự túc vừa có thói dựa dẫm, ỷ lại. Tất cả những cái tốt và cái xấu ấy đều đi thành
từng cặp và đều tồn tại ở người Việt Nam; bởi lẻ tất cả  đều bắt nguồn từ 2 đặc
trưng gốc trái ngược nhau là tính cộng đồng và tính tự trị. Tùy lúc tùy nơi mà mặt tốt
hoặc mặt xấu sẽ được phát huy: khi đứng trước những khó khăn lớn, những nguy cơ
đe dọa sự sống còn của cộng đồng thì cái nổi lên sẽ là tinh thần đoàn kết và tính tập
thể; nhưng khi nguy cơ ấy đi qua rồi thì thói tư hữu và óc bè phái địa phương có thể nối
lên.

Câu 7. Tín ngưỡng phồn thực ở Việt Nam.

* Nguồn gốc
          Ngay từ đầu, duy trì và phát triển sự sống là 1 nhu cầu thiết yếu nhất của con
người, nhất là lối văn hóa nông nghiệp. Để duy trì sự sống cần mùa màng tươi tốt. Để
phát triển sự sống cần con người sinh sôi. Từ thực tiễn đó, tư duy cư dân nông nghiệp
Nam – Á đã phát triển theo 2 hướng:

          + Những trí tuệ sắc sảo đi tìm quy luật khách quan để lý giải hiện thực: triết lý âm
dương.

          + Còn những người có trình độ hạn chế thì nhìn thấy ở hiện thực 1 sức mạnh
siêu nhiên, bởi vậy mà sung bái nó như thân thánh, kết quả là xuất hiện tín ngưỡng
phồn thực (Phồn=nhiều, thực=nảy nở)

* Biểu hiện

          Ở VN, TNPT từng tồn tại suốt chiều dài lịch sử với 2 dạng biểu hiện: thờ cơ quan
sinh dục và thờ hành vi giao phối

          Thờ cơ quan sinh dục

             Việc thờ cơ quan sinh dục nam nữ được gọi là thờ sinh thực khí (sinh=đẻ,
thực=nảy nở, khí=công cụ). Đây là hình thái đơn giản của TNPT, phổ biến ở các nên
VH nông nghiệp.

              - Tượng đá hình nam nữ với bộ phận sinh dục phóng to hàng nghìn năm TCN
được tìm thấy ở Văn Điển, Sa Pa. Ở các nhà mồ Tây Nguyên thường có các tượng
người với bộ phận sinh dục phóng to.

             - Ở Phú Thọ, Hà Tĩnh và nhiều nơi khác có tục thờ cúng nõ nường (nõ=cái
nêm tượng trưng cho sinh thực khí nam; nường=nang, mo nang tượng trưng cho sinh
thực khí nữ).

              - Ở hội làng Đồng Kị (Bắc Ninh) có tục rước sinh thực khí bằng gỗ rồi đem đốt
thành tro chia cho mọi người đem rắc ra ruộng
              - Ở Phú Thọ, Bắc Ninh, Hà Tây… thường có tục rước 18 bộ sinh thực khí vào
hội làng. Khi đám rước kết thúc, mọi người tranh nhau cướp vì tin rằng sẽ đem lại may
mắn.

              - Việc thờ các loại cột đá và các loại hốc. Ở chùa Dạm (Bắc Ninh) có 1 cột đá
hình sinh thực khí nam có chạm nổi hình rồng thời Lý. Ngư phủ ở Sở đầm Hòn Đỏ thờ
1 kẽ nứt trên tảng đá gọi là Lỗ Lường

          Thờ hành vi giao phối

          Bên cạnh việc thờ sinh thực khí, cư dân trồng lúa nước với lối tư duy coi trọng
quan hệ còn có tục thờ hành vi giao phối, tạo nên 1 dạng tín ngưỡng phồn thực độc
đáo, phổ biến ở kv ĐNA

          - Trên nắp thạp đồng tìm được ở làng Đào Thịnh, xung quanh hình mặt trời là
tượng 4 đôi nam nữ đang giao phối. Ở chân thạp đồng khắc hình những con thuyền nối
đuôi nhau khiến cho 2 con cá sấu – rồng chạm nhau trong tư thế giao hoan.

          - Ở các nhà mồ Tây Nguyên dựng những tượng nam nữ giao phối

          - Hình chim, thú, cóc giao phối tìm thấy khắp nơi

          - Vào Hội đền Hùng, thanh niên nam nữ múa từng đôi, tay cầm vật biểu trưng
cho sinh thực khí.

          - Ở Sở đầm Hòn Đỏ, khi không đánh được cá, người cầm đầu tới cầu xin và cầm
vật tượng trưng cho sinh thực khí nam rồi đâm vào Lỗ Lường 3 lần

          - Chày và cối là bộ công cụ tượng trưng cho sinh thực khí nam và nữ, còn việc
giã gạo là tượng trưng cho hành động giao phối

          - Trên các trống đồng khắc rất nhiều hình nam nữ giã gạo từng đôi

          - Tục giã cối đón dâu

* Ý nghĩa
              Vai trò của TNPT trong đời sống người Việt cổ lớn tới mức chiếc trống đồng-
biểu tượng sức mạnh và quyền lực của người xưa - đồng thời cũng là biểu tượng toàn
diện của tín ngưỡng phồn thực

          - Hình dáng trống đồng phát triển từ chiếc cối giã gạo

          - Cách đánh trống mô phỏng động tác giã gạo

          - Tâm mặt trống là hình mặt trời với những tia sang biểu hiện cho sinh thực khí
nam, ở giữa các tia sang là 1 hình lá với khe ở giữa biểu trưng cho stk nữ

          - Xung quanh mặt trống thường gắn các tượng cóc, cũng là 1 dạng biểu trưng
của TNPT

          - Tiếng trống mô phỏng tiếng sấm, mang theo mùa mưa, mùa màng tốt tươi cũng
mang ý nghĩa trên

Câu 8. Tín ngưỡng sùng bái con người ở Việt Nam.

 * Nguồn gốc chung

          Con người có cái vật chất và tinh thần, cái tinh thần là cái khó nắm bắt và được
trừu tượng hóa, thần thánh hóa gọi là " linh hồn ", và linh hồn trở thành đầu mối của tín
ngưỡng . Người Việt và một vài dân tộc Đông Nam Á đã chia linh hồn thành hồn và
vía . Có 3 hồn là tinh, khí, thần. Đàn ông có 7 vía là 7 lỗ trên mặt: 2 tai, 2 mắt, 2 lỗ mũi,
1 cái miệng. Đàn bà có 9 vía: giống đàn ông và có thêm chỗ sinh sản và chỗ cho con
bú. Hồn và vía giải thích các hiện tượng như trẻ con hay đau ốm, ngủ mê, ngất, chết.
Vía phụ thuộc vào thể xác: có người lành vía, dữ vía, yếu vía, cứng vía, độc vía, vía
nặng, vía nhẹ. Khi gặp phải độc vía nếu chạm vía phải đốt vía, trừ vía, giải vía. Hồn độc
lập với thể xác (hồn người này có thể nhập vào xác của người khác).

* Biểu hiện

          Thờ cúng tổ tiên


          Khi chết thì cả vía và hồn đều lìa khỏi xác mà đi. Xác mất đi nhưng linh hồn vẫn
còn tồn tại và phù hộ độ trì cho con cháu; có tục thờ cúng tổ tiên.

          Nghĩa hẹp: là sự thờ cúng cha, mẹ, ông, bà, tổ tiên (những người đã chết) cùng
huyết thống, những người có công sinh thành và nuôi dưỡng con cháu.

          Nghĩa rộng: không chỉ trong phạm vi huyết thống từ gia đình đến họ tộc mà con
người còn mở rộng ra cả tổ tiên làng xã và đất nước.

          Nguồn gốc của thờ cúng tổ tiên:

              + Là đặc trưng của thời kì lịch sử ở chế độ thị tộc phụ quyền .

              + Gắn với sự tồn tại của linh hồn con người sau khi mất .

              + Coi tổ tiên là động vật, thực vật, sự vật đến việc thừa nhận tổ tiên đích thực
của con người.

               + Là sản phẩm của sự kết hợp giữa 3 yếu tố cơ bản ý thức về linh hồn bất tử,
tổ tiên Tôn Ten, tổ tiên của con người và ý nghĩa là sự che chở cho gia đình.

              Biểu hiện của thờ cúng tổ tiên :

              + Mang sắc thái riêng so với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Hán, nó ăn
sâu vào tâm linh của người Việt .

              + Có tính lịch sử, sức sống lâu bền, mang tính phổ quát.

              + Thờ cúng tổ tiên ở Việt Nam thể hiện 3 cấp độ: gia đình, làng xã và quốc gia.
Thờ vua - thần vừa mang tính huyết thống vừa mang tính xã hội .

          Ý nghĩa của thờ cúng tổ tiên

             + Vừa đáp ứng nhu cầu tâm linh , vừa thể hiện đạo lí làm người .

             + Ý nghĩa thế tục .


             + Là một nét đẹp văn hóa , một đặc trưng vốn có của người Việt.

cần phát huy những mặt tích cực , hạn chế mặt tiêu cực.

          Thờ Thổ Công - một dạng mẹ đất:  Là vị thần coi gia cư , định đoạt phúc họa cho
một gia đình . Sống ở đâu thì Thổ Công ở đó : " đất có Thổ Công , sông có Hà Bá " .
Mối quan hệ giữa Thổ Công và ông bà tổ tiên trong gia đình rất thú vị : Thổ Công định
đoạt phúc họa cho cả nhà nên là vị thần quan trọng nhất , nhưng ông bà sinh thành ra
gia đình nên được tôn kính nhất . Để không làm mất lòng ai , người Việt xếp cho ông ,
bà tổ tiên  ngự tại bàn thờ tôn kính nhất - gian giữa . Còn Thổ Công thì gian bên
trái .

          - Tín ngưỡng thờ thần ở Việt Nam không chỉ đóng khung trong phạm vi gia đình ,
ngoài các vị thần tại gia thì còn có các thần linh chung của thôn xã và toàn dân tôc .
Trong phạm vi thôn xã thì quan trọng nhất là thờ Thành Hoàng , trong một ngôi làng thì
Thành Hoàng là một vị thần cai quản , che chở , định đoạt phúc họa cho dân làng đó .
Không làng nào là không có Thành Hoàng . Cái lệ làng quan trọng đến mức vua Lê
Thánh Tông sai triều đình sưu tầm và biên soạn ra thần tích của Thành Hoàng các làng
để vua ban sắc phong trần. Đó thể là thiên thần , nhiên thần hay nhân thần và cũng có
khi là người có công lập ra làng xã hoặc là những người chết bất đắc kì tử .

          Có ý nghĩa :

          + Là công cụ tinh thần biểu hiện quyền uy tối thượng của nhà vua.

          + Là một loại tín ngưỡng đặc sắc nhất , phản ánh rõ đời sống hiện thực của cộng
đồng làng , xã .

          + Là bộ sưu tập văn hóa thể hiện chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc

          + Cần khuyến khích những yếu tố tích cực, định hướng vào việc bồi dưỡng tình
cảm trong sáng, lành mạnh của con người .

          - Tín ngưỡng thờ quốc tổ và quốc mẫu


            Mảnh đất Phong Châu (Phú Thọ) ở đó có đền thờ các vua hùng trên núi Hy
Cương và đền thờ Âu Cơ .

          Trong nhà thờ gia tiên, trong làng thờ Thành Hoàng, thì trong nước người Việt
Nam thờ vua tổ - vua Hùng. Người VN còn có một tín ngưỡng đặc biệt là thờ cúng Tứ
bất tử: Thánh Gióng , Tản Viên, Chữ Đồng Tử, Liễu Hạnh. Như vậy , tục thờ Tứ bất tử
là một giá trị văn hóa tinh thần rất đẹp của dân tộc ta, đó là đặc trưng được chắc lọc
trong suốt chiều dài lịch sử biểu trưng cho sức mạnh của cộng đồng, để làm ruộng và
đánh giặc, cho khát vọng xây dựng một cuộc sống vật chất phồn vinh và tinh thần hạnh
phúc .

Câu 9. Phong tục tang ma người Việt. Những quan niệm và tục lệ

Quan niệm: 2 quan niệm

          *Do cho rằng trong con người có phần xác và phần hồn, sau khi chết, linh hồn sẽ
về nơi "thế giới bên kia" và với thói quen sống bằng tương lai (sản phẩm của lối tư duy
theo triết lí âm dương) cho nên người Việt Nam rất bình tĩnh, yên tâm chờ đón cái chết.
Chết già vì vậy được xem là một sự mừng: trẻ làm ma, già làm hội. Nhiều nơi có
người già chết còn đốt pháo; chắt chút để tang cụ kị thì đội khăn đỏ, khăn vàng (là màu
tốt theo Ngũ hành).

          Người Việt Nam chuẩn bị khá chu đáo, kĩ càng cho cái chết của chính mình hoặc
của người thân. Các cụ già tự mình lo sắm cỗ hậu (chỉ việc về sau, còn gọi là cỗ thọ,
quan tài, áo quan). Quan tài của ta làm hình vuông tượng trưng cho cõi âm theo triết lí
âm dương.

          Người cẩn thận còn cho làm thêm chiếc quách bọc ngoài (thành ngữ trong quan
ngoài quách. Cỗ thọ làm xong, kê ngay dưới bàn thờ như một việc hết sức bình
thường. Có cỗ thọ rồi. các cụ còn lo nhờ thầy địa lí đi tìm đất rồi xây sinh phần. Các vua
chúa bao giờ cũng lo tất cả những việc này rất chu tất ngay từ khi mới tên ngôi; các
lăng mộ vua còn giữ được ở Huế đồng thời cũng là những nơi thắng cảnh là vì thế.

          Khi trong nhà có người nhà hấp hối, việc quan trọng là đặt lên hèm (tên thụy) cho
người sắp chết. Đó là một tên mới (do người sắp chết tự đặt hoặc con cháu đặt cho)
mà chỉ có người chết, con cháu và thần Thổ công nhà đó biết mà thôi.
          Khi cúng giỗ, con trưởng sẽ khấn bằng tên hèm. Thổ thần có trách nhiệm chỉ cho
phép linh hồn có "mật đanh" đúng như thế vào thôi (vì vậy, tên này còn gọi là tên cúng
cơm). Làm như vậy là đề phòng ngừa những cô hồn lang thang vào ăn tranh cỗ cúng
sau này.

          Trước khi khâm liệm, phải làm lễ mộc đục (tắm gội cho người chết) và lễ phạn
hàm: bỏ một nhúm gạo nếp và ba đồng tiền vào miệng (gạo để dùng thay bữa, tiền để
đi đò - quan niệm của người vùng sông nước). Khi khâm liệm, phải có miếng vải đắp
mặt người chết để khỏi trông thấy cháu con sinh buồn.

          Trong áo quan, từ thời Hùng Vương đã có tục chia tài sản cho người chết mang
theo. Ngày nay, người Việt vẫn để kèm trong áo quan các đồ vật tùy thân như quần áo,
gương lược. .. và hằng năm khi giỗ thì "gửi thêm" vàng (giấy), quần áo (giấy)....

          Trước khi đưa quan tài đến nơi chôn cất, người ta cúng thần coi sóc các ngả
đường để xin phép đưa tang. Trên đường đi có tục rắc các thỏi vàng giấy làm lộ phí
cho ma quỷ để chúng khỏi quấy nhiễu. Đến nơi, làm lễ tế Thồ thần nơi đó để xin phép
cho người chết được nhập cư".

          Chôn cất xong, trên nấm mộ đặt bát cơm, quả trứng, đôi đũa (cắm trên bát cơm),
nhiều nơi còn đặt thêm mớ bùi nhùi. Tục này mang ý nghĩa chúc tụng : mớ bùi nhùi
tượng trưng cho thế giới hỗn mang, trong hỗn mang hình thành nên thái cực (tượng
trưng bằng bát cơm), thái cực sinh ra lưỡng nghi (tượng trưng bằng đôi đũa), có lưỡng
nghi (âm dương) là có sự sống (tượng trưng bằng quả trứng).

          Toàn bộ toát lên ý cầu chúc cho người chết sớm đầu thai trở lại. Nhiều nơi có tục
làm nhà mồ cho người chết với đủ những tiện nghi. vật dụng tối thiếu.

Để cho linh hồn người chết được yên ổn và phù hộ cho con cháu khoẻ mạnh, làm ăn
phát đạt là tục cải táng.

          * Trong việc tang ma, người Việt Nam bị giằng kéo giữa hai thái cực : Một bên là
quan niệm coi chết là bước vào cuộc sống mới ở thế giới khác nên việc tang ma được
xem như việc đưa tiễn; bên kia là quan niệm trần tục coi chết là hết nên việc tang ma
là việc xót thương.
          Xót thương nên muốn níu kéo, giữ lại. Tục khiêng người chết đặt xuống đất, tục
gọi hồn là mong người chết sống lại. Vì xót thương nên có tục khóc than (nhà không có
con thì thuê người khóc mướn).

          Vì xót thương nên con cháu không lòng dạ nào mà dùng đồ tốt (nên có tục làm
đỗ tang bằng các loại vải thô, xấu như xô gai màu trắng - màu xấu nhất trong Ngũ
hành); không tâm trí nào mà nghĩ đến việc ăn mặc (nên trong thời gian tang có tục để
gấu xổ, áo trái, đầu bù....); đau buồn quá nên đứng không vững (khi đưa ma, con trai
phải chống gậy, gái yếu hơn nên phải lăn đường); đau buồn quá dễ sinh quẫn trí va
đập thành trùng tang (nên khi đưa ma. phải đội mũ làm bằng dây chuối,...). Ngày nay,
nhiều tục lệ trong số đó không còn tồn tại nữa, lẽ chính là vì chúng quá chi li, cầu kì,
chứ không phải vì chúng vô nghĩa.

          Ở lĩnh vực tang lễ này cũng thấy rõ tính cộng đồng : nhà có tang, việc thì nhiều
mà người nhà lại không còn đủ tỉnh táo minh mẫn nữa, nên bà con xóm làng bao giờ
cũng chạy tới giúp rập, lo toan chỉ bảo cho mọi việc.

          Người Việt Nam quan niệm Bán anh em xa, mua láng giềng gần nên khi nhà có
người mất, hàng xóm láng giềng không những giúp đỡ mà còn để tang nhau : Họ
dương 3 tháng, láng giềng 3 ngày; Láng giềng còn để ba ngày- Chồng cô, vợ cậu một
ngày cũng không.

          Người nông nghiệp sống gắn bó không chỉ với xóm làng mà còn cả với thiên
nhiên, cho nên khi chủ chết, cây cối trong vườn cũng đau buồn mà để tang : nhiều nơi
có tục đeo băng trắng cho cả cây cối.

* Phong tục tang lễ của ta thấm nhuần rất sâu sắc tinh thần triết lí âm dương Ngũ
hành phương nam

          Tang lễ truyền thống Việt Nam dùng màu trắng là màu của phương Tây theo Ngũ
hành. Mọi thứ liên quan đến phương Tây đều được xem là xấu. Nơi để mồ mả của
người Việt và người dân tộc thường là hướng Tây của làng; người dân tộc xem rừng
phía Tây là rừng của ma quỷ. Sau màu trắng là màu đen (của phương Bắc theo Ngũ
hành). Nếu chắt, chút để tang cụ, kị (là tốt, vì các cụ sống lâu) thì dùng các màu tốt như
màu đỏ (phương Nam) và vàng (Trung ương).
          Về loại số, theo triết lí âm dương, âm ứng với số chẵn, dương ứng với số lẻ; vì
vậy mọi thứ liên quan đến người chết đều phải là số chẵn. Lạy trước linh cữu thì phải
lạy 2 hoặc 4 lạy; ở nhà mồ của các dân tộc miền núi, cầu thang phải làm với số bậc
chẵn; hoa cúng nười chết cũng phải dùng số chẵn. khác với người sống ở cõi dương,
mọi thứ phải theo số lẻ : lạy người sống phải là 1 hoặc 3 lạy; cầu thang, bậc tam cấp
nhà ở phải có số bậc lẻ (thế mới là tam cấp); hoa cho người sống cũng phải có số bông
lẻ. Trừ trường hợp chết coi như sống - ví dụ cúng Phật thắp 3 nén nhang, hoặc sống
coi như chết - ví dụ con gái lạy cha mẹ trước lúc xuất giá đi lấy chồng 2 lạy).

          Cũng theo luật âm dương là việc phân biệt tang cha với tang mẹ : Khi con trai
chống gậy để tang thì cha gậy tre, mẹ gậy vông. Đó là vì thân tre tròn. biểu tượng
dương; cành gỗ vông đẽo được thành hình vuông, biểu tượng âm.

          Đưa tang và để tang còn có tục cha đưa mẹ đón (tang cha - đi sau quan tài, tang
mẹ - đi giật lùi phía đầu quan tài) và tục áo tang cha thì mặc trở đàng sống lưng ra,
tang mẹ mặc trỏ đằng sông lưng vô - hai tục sau cũng đều thể hiện triết lí âm dương
qua cặp nghĩa hướng ngoại (dương, cha) - hướng nội (âm, mẹ).

          Phong tục tang lễ phổ biến và chính thống của ta còn thừa kế được cả tinh thần
dân chủ truyền thống . Thọ Mai gia lễ của ta quy định cha mẹ phải để tang con, và
không chỉ cha mẹ để tang con mà cả ông bà và cụ kị cũng để tang hàng cháu, hàng
chắt.

          Trong khi đó thì theo tục lệ Trung Hoa, "Phụ bất bái tử" (cha không lạy con). Con
chết trước cha mẹ là nghịch cảnh, là con bất hiếu (một vài nơi ở vùng Bắc Bộ có truyền
thống Nho học mạnh cũng theo quan niệm này nên nếu con chết trước thì lúc khâm
liệm quấn trên đầu tử thi mấy vòng khăn trắng, ý là ở cõi âm cũng phải để tang báo
hiếu sẵn cho cha mẹ!).

Câu 10. Đặc điểm Phật giáo Việt Nam

* Tính tổng hợp

          Đây là đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, cũng là đặc trưng nổi bật nhất của
Phật giáo Việt Nam.
          Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng truyền thống
của dân tộc, và do vậy đã được tổng hợp chặt chẽ ngay với chúng. Hệ thống chùa “Tứ
pháp” thực ra vẫn chỉ là những đền miếu dân gian thờ các vị thần tự nhiên Mây-Mưa-
Sấm-Chớp và thờ đá. Lối kiến trúc phổ biến của chùa Việt Nam là “tiền Phật, hậu Thần”
với việc đưa các thần, thánh, các thành hoàng, thổ địa, các anh hùng dân tộc vào thờ
trong chùa. Có những chùa còn có cả bàn thờ cụ Hồ Chí Minh ở Hậu tổ. Hầu như
không chùa nào là không để bia hậu, bát nhang ho các linh hồn, vong hồn đã khuất.

          Phật giáo Việt Nam là tổng hợp các tông phái lại với nhau. Ở Việt Nam, không có
tông phái Phật giáo nào thuần khiết. Tuy chủ trương của Thiền tông là bất lập ngôn,
song ở Việt Nam chính các thiền sư đã để lại nhiều trước tác có giá trị. Dòng Thiền Tì-
ni-đa-lưu-chi thì pha trộn với Mẫu giáo, nhiều thiền sư phái này, nhất là những vị sống
vào thời Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, đều nổi tiếng là giỏi
pháp thuật, có tài biến hóa thần thông. Phật giáo Việt Nam cũng tổng hợp các con
đường giải thoát bằng tự lực và tha lực, phối hợp Thiền tông với Tịnh Độ tông.

          Các chùa phía Bắc là cả một Phật điện vô cùng phong phú với hàng mấy chục
pho tượng Phật, bồ tát, la hán của các tông phái khác nhau. Ở phía Nam, Đại thừa và
Tiểu thừa kết hợp mật thiết với nhau: nhiều chùa mang hình thức tiểu thừa (thờ Phật
Thích Ca, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại thừa, bên cạnh Phật Thích Ca
lớn vẫn có nhiều tượng nhỏ, bên cạnh áo vàng vẫn có đồ nâu lam.

Phật giáo Việt Nam tổng hợp chặt chẽ với các tôn giáo khác: Phật với Nho, với Đạo,
tạo thành quan niệm Tam giáo đồng nguyên (3 tôn giáo cùng phát nguyên từ một gốc)
và Tam giáo đồng quy (3 tôn giáo cùng quy về một đích).

          Phật giáo Việt Nam kết hợp chặt chẽ với việc đạo và việc đời. Vốn là một tôn
giáo xuất thế, nhưng vào Việt Nam, Phật giáo trở nên rất nhập thế: Các cao tăng được
nhà nước mời tham chính hoặc cố vấn trong những việc hệ trọng. Sự gắn bó đạo – đời
không chỉ thể hiện ở việc các nhà sư tham gia chính sự, mà ngược lại còn có khá nhiều
vua quan quý tộc đi tu. Trong 6 thế hệ đệ tử của phái Thảo Đường thì đã có tới 9 người
là vua quan đương nhiệm. Không phải ngẫu nhiên mà ở sân chùa Phổ Minh, quê
hương nhà Trần, lại có chiếc vạc đồng lớn (1 trong “An Nam tứ đại khí”) tượng trưng
cho quyền lực.
          Vẫn với truyền thống gắn bó với đời, đầu thế kỷ XX, Phật tử Việt Nam hăng hái
tham gia vào các hoạt động xã hội (như cuộc vận động đòi ân xá Phan Bội Châu và
đám tang Phan Châu Trinh). Thời Diệm – Thiệu, Phật tử miền Nam đã tham gia tích
cực vào phong trào đấu tranh đòi hòa bình và độc lập dân tộc, nổi bật là sự kiện Phật
tử xuống đường đấu tranh phản đối nền độc tài của gia đình họ Ngô, đỉnh cao là sự
kiện hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu vào mùa hè 1963.

* Khuynh hướng thiên về nữ tính

          Các vị Phật Ấn Độ xuất thân vốn là đàn ông, sang Việt Nam biến thành Phật Ông
– Phật Bà. Bồ tát Quán Thể Âm đã được biến thành Phật Bà Quan Âm với nghìn mắt
nghìn tay – vị thần hộ mệnh của cư dân khắp vùng sông nước Đông Nam Á (nên còn
gọi là Quan Âm Nam Hải). Ở một số vùng, ngay cả Phật tổ Thích Ca cũng được coi là
phụ nữ (người Tày Nùng gọi là “Mẹ Pựt Xích Ca”). Người Việt Nam còn tạo ra những
“Phật bà” riêng của mình: Đứa con gái nàng Man, tương truyền sinh vào ngày 8-4 được
xem là Phật Tổ Việt Nam, bản thân bà Man trở thành Phật Mẫu. Rồi còn những vị Phật
bà khác nữa như Quan Âm Thị Kính, Phật bà chùa Hương. Lại còn rất nhiều các bà bồ
tát như Bà Trắng chùa Dâu, các thánh mẫu…

          Việt Nam có khá nhiều chùa chiền mang tên các bà: chùa Bà Dâu, chùa Bà Đậu,
chùa Bà Tướng, chùa Bà Dàn, chùa Bà Đá, chùa Bà Đanh… Tuyệt đại bộ phận Phật tử
tại gia là các bà: Trẻ vui nhà, già vui chùa là nói cảnh các bà.

Chùa hòa nhập với thiên nhiên, bao giờ cũng là nơi phong cảnh hữu tình; bởi vậy mới
có cách nói ví “vui như trảy hội chùa”. Cảnh chùa hữu tình, hội chùa vui, cửa chùa rộng
mở, cho nên cũng là nơi chở che cho trai gái tình tự: “Hội chùa Thầy có hang Cắc Cớ,
Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy”.

* Tính linh hoạt

          Ngay từ đầu, người Việt Nam đã tạo ra một lịch sử Phật giáo cho riêng mình:
nàng Man, cô gái làng Dâu Bắc Ninh, một trong những đệ tử đầu tiên của Phật giáo, trở
thành Phật tổ với ngày sinh là ngày Phật đản 8-4.

          Vốn có đầu óc thiết thực, người Việt Nam coi trọng việc sống phúc đức, trung
thực hơn là đi chùa: Thứ nhất là tu tại gia, Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa; Dù xây chín
bậc phù đồ, Không bằng làm phúc cứu cho một người; coi trọng truyền thống thờ cha
mẹ, ông bà hơn là thờ Phật: Tu đâu cho bằng tu nhà, Thờ cha kính mẹ mới là chân tu;
đồng nhất cha mẹ, ông bà với Phật: Phật trong nhà không thờ đi thờ Thích ca ngoài
đường (Tục ngữ).

          Vào Việt Nam, Phật được đồng nhất với những vị thần trong tín ngưỡng truyền
thống có khả năng cứu giúp mọi người thoát khỏi mọi tai họa: Nghiêng vai ngửa vái
Phật, Trời, Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân; làm nên mây mưa sấm chớp để
mùa màng tốt tươi (hệ thống chùa Tứ pháp); ban cho người hiếm muộn có con (tục đi
chùa cầu tự: Tay bưng quả nếp vô chùa, Thắp nhang lạy Phật xin bùa em đeo); ban lộc
cho người bình dân để quanh năm làm ăn phát đạt (tục đi chùa lễ phật và hái lộc lúc
giao thừa); cứu độ cho người chết và giúp họ siêu thoát (tục mời nhà sư tới cầu kinh và
làm lễ tiễn đưa người chết).

          Muốn giữ cho Phật ở mãi bên mình, người Việt Nam có khi phá cả giới Phật
giáo. Có nơi, do muốn buộc ông sư phải gắn bó với làng mình để giữ chùa, cúng lễ;
dân làng đã tổ chức cưới vợ cho sư, khiến ngôi chùa gần như trở thành một gia đình.

          Tượng Phật Việt Nam mang dáng dấp hiền hòa với những tên gọi rất dân gian:
ông Nhịn ăn mà mặc (Tuyết Sơn gầy ốm), ông Nhịn mặc mà ăn (Di-lặc to béo), ông Bụt
Ốc (Thích Ca tóc quăn)… Nhiều pho tượng được tạc theo lối ngồi không phải trên tòa
sen mà là chân co chân duỗi rất thoải mái, giản dị. Trên đầu Phật Bà chùa Hương còn
lấp ló lọn tóc đuôi gà truyền thống của phụ nữ Việt Nam.

Ngôi chùa Việt Nam được thiết kế theo phong cách ngôi nhà cổ truyền với hình thức
mái cong có 3 gian 2 chái… Chùa Một Cột như một lễ vật dâng lên Phật Bà với hình
bông sen thanh thoát ở trên và trụ đá tròn trong hồ vuông ở dưới biểu hiện ước vọng
phồn thực (no đủ và đông đúc).

          Cùng với mái đình, ngôi chùa trở thành công trình công cộng quan trọng thứ hai
ở mỗi làng. Người dân đi bất kỳ đâu có thế ghé chùa xin nghỉ tạm hoặc xin ăn.

Phân tích đặc trưng của văn hóa?

Tính nhân sinh


+ Là đặc trưng quan trọng nhất của văn hóa.Nói đến văn hóa là nói đến con người.Văn
hóa là sẳn phẩm của trình độ phát triển bản chất người,là nơi hình thành,nuôi dưỡng
nhân cách con người.Con người vừa là chủ thể,vừa là sản phẩm và còn là đại biểu
mang các giá trị văn hóa.

+ Văn hóa được tạo thành bởi các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
ra.Thuộc tính này cho phép phân biệt văn hóa như 1 hiện tượng xã hội với những sản
vật tự nhiên chưa qua bàn tay sáng tạo của con người.Theo đó,1 đất nước có thể giàu
khoáng sản,dầu mỏ,các nguồn lợi thiên nhiên nhưng chưa hẳn già có về văn hóa.Văn
hóa là thành quả lao động sáng tạo lao động của nhân loại.Những thành quả ấy phải
phục vụ sự phát triển toàn diện của con người.Phục vụ cuộc sống hạnh phúc trong an
toàn của toàn thể xã hội.

 Tính nhân sinh là cơ sở làm nên giá trị nhân văn của văn hóa.Giá trị nhân văn
là thực chất của văn hóa, là cái tạo nên nội dung,bản chất của 1 nền văn hóa.
Tính hệ thống

+ Là 1 tổ hợp hữu cơ,bao gồm nhiều thành tố có quan hệ khăng khít với nhau, tương
tác,tương thành,chi phối và chế ước lẫn nhau.Văn hóa bao trùm mọi lĩnh vực hoạt động
của con người và xã hội,là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội..Văn hóa là sản phẩm
mang tính xã hội cao do mọi người cùng chung sức tạo ra.

Tính lịch sử

+ Đây là thuộc tính được xác định bởi bề dày và chiều sâu của văn hóa.Một nề văn hóa
bao giờ cũng cũng được hình thành qua nhiều thế hệ trên chiều dài lịch sử.Văn hóa là
1 quá trình vận động liên tục,không giá đoạn.Là sản phẩm của 1 xã hội,1 thời đại nhất
định,là di sản của xã hội,văn hóa đồng thời là 1 quá trình không ngừng tích lũy,đổi
mới.Tính lịch sử của văn hóa được duy trì bằng truyền thống văn hóa.Đặc trưng của
truyền thống lại biểu hiện ở tính di tồn và tính cộng đồng.

Tính giá trị

+ là đặc trưng quan trọng của văn hóa.Giá trị là những chuẩn mực được cộng đồng
chấp nhận và theo đuổi.Giá trị văn hóa là “thành quả mà dân tộc hay 1 con người đạt
được trong quan hệ với thiên nhiên,với xã hội và trong sự phát triển của bản than
mình.Nói tới giá trị vh là nói tới thái độ,trách nhiệm và những quy tắc ứng xử của mọi
người trong những quan hệ giữa bản thân mình với gia đình,xã hội và thiên nhiên.Văn
hóa chỉ bao gồm các giá trị,các vẻ đẹp.

Tính dân tộc của văn hóa

+ Là đặc trưng cho ta thấy cách thức tồn tại và biểu hiện của mọi cộng đồng,mọi nền
văn hóa.Một nền văn hóa cụ thể luôn chịu sự chi phối,chế ước của hoàn cảnh tự nhiên
và rất nhiều điều kiện sinh hoạt vật chất của con người.Ví như:Có cây chè thì mới có
văn hóa uống trà,có văn phòng tiếp khách và thời gian nhàn rỗi mới có cái gọi là”văn
hóa salong” của giới quý tộc châu Âu.

 Mỗi dân tộc sẽ có 1 ngôn ngữ chung,tuân thủ phong tục tập quán chung,
cùng chia sẻ những điều kiện sinh hoạt vật chất và tinh thần,nuôi dưỡng
thành tố chất tâm lí và tính cách chung.Đó là biểu hiện tính dân tộc của văn
hóa.
 Đặc trưng cơ bản của văn hóa có thể giúp chúng ta nhận thuwsc1 cách đầy
đủ,toàn diện hơn về bản chất của văn hóa.
Các chức năng cơ bản của văn hóa???

* chức năng tổ chức xã hội

 Tính hệ thống là thuộc tính hàng đầu của văn hóa. Khi nói đến đặc trung của
văn hóa ta đã nêu lên tính chất này để lưu ý rằng đây là một thuộc tính bản
chất, thể hiện mối liên hệ khăng khít hữu cơ, sự xâm nhập, tương tác, chi
phooisvaf chế ước lẫn nhau giữa các thành tố văn hóa cùng tạo nên diện
mạo, sức sống và bản chất sâu xa của 1 nền văn hóa. Văn hóa với tư cách là
1 hiện tượng xã hội, thẩm thấu, hiện diện và bao trùm mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, nhờ tính hệ thống mà thực hiện được chức năng tổ chức xã hội.
Đây là một chức năng quan trọng, nó duy trì kết cấu xã hội, thực hiện sự liên
kết và tổ chức đời sống cộng đồng thông qua các thiết chế xã hội-văn
hóa.Thiết chế xã hội là 1 chức năng hoạt động xã hội được đặt ra để duy trì
và phát triển các chức năng của xã hội, còn được xem như là đại diện của hệ
thống chuẩn mực xã hội, vận hành trong mọi sinh hoạt kinh tế,chính trị , pháp
luật,tôn giáo,văn hóa-xã hội…
* Chức năng điều tiết xã hội
 Đặc trưng quan trọng thứ 2 của văn hóa là tính giá trị. Hiểu một cách ngắn
gọn thì giá trị là những chuẩn mực được cộng đồng thừa nhận và theo
đuổi.Giá trị là nhân tố quan trọng của hành vi cá nhân.Nó điều chỉnh các
nguyện vọng và hành động của 1 con người, là cơ sở để đánh giá hành vi và
định đoạt lợi ích xã hội của các thành viên trong cộng đồng.Do đó giá trị xác
định các tiêu chuẩn của thang bậc xã hội, làm nền tảng cho cuộc sống chung.
 Trong cuộc sống hằng ngày, mỗi cá nhân hay nhóm xã hội có nhiều nhu cầu
và họ phải thường xuyên lựa chọn các phương thức ứng xử thích hợp nhằm
thỏa mãn các nhu cầu của mình.Sự lự chọn đó giống như 1 hành động giá trị
có liên quan mật thiết với tiêu chuẩn của khung giá trị chung của cộng
đồng.Với mức ổn định lớn, khung giá trị này là cơ sở để các thành viên trong
cộng đồng lựa chọn các phương thức hoạt động, điều chỉnh hành vi của mình
cho phù hợp với yêu cầu và chuẩn mực của xã hội.Nền văn hó nào cũng có 1
bảng giá trị được coi như bộ chỉnh của xã hội.Bảng giá trị xã hội làm nhiệm vụ
định hướng cho mục tiêu phấn đấu của mỗi các nhân và cộng đồng…Căn cứ
vào đó mà xã hội thường xuyên chấp nhận, sàng lọc điều chỉnh để duy trì sự
ổn định và không ngừng tự hoàn thiện, văn hóa thực hiện được chức năng
quan trọng thứ 2 là điều tiết xã hội.
* Chức năng giáo dục

 Đặc trưng quan trọng thứ 3 của văn hóa đó chính là tính lịch sử.Văn hóa là
sản phẩm của hoạt động con người, chứa đựng vốn kinh nghiệm xã hội.Tính
lịch sử của văn hóa thể hiện ở chỗ nó bao giờ cũng hình thành trong 1 quá
trình và được tích lũy qua nhiều thế hệ.Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề
daỳ,1 chiều sâu.Nó tạo nên các trầm tích và truyền thống văn hóa.Nhờ đó,
văn hóa thực hiện được chức năng giáo dục.Nhân cách con người được tạo
dựng và hun đúc, trước hết bởi các giá trị văn hóa truyền thống của cộng
đồng.Một đứa trẻ mới sinh chưa thực sự là con người bởi nó chưa tiếp nhận
được 1 phẩm chất xã hội nào của loài người truyền cho cả.Đúng như nhà xã
hội học người Mĩ R.E Pacco đã nói :” Người k đẻ ra người. đưa trẻ chỉ trở nên
người trong quá trình giáo dục.Truyền thống văn hó luôn thực hiện chức năng
giáo dục của mình đối với con người.Bằng con đường giáo dục hữu thức và
vô thức từ khi chào đời cho đến khi trưởng thành, con người nhận được sự
dạy bảo của truyền thống văn hóa.
 Trong các chức năng của văn hóa thì chức năng giáo dục là chức năng bao
trùm nhất.Nó đóng vai trò định hướng giá trị, chuẩn mực xã hội cho con
người, quyết định việc hình thành và phát triển nhân cách con người.Từ chức
năng này mà văn hóa phát sinh thêm chức năng là đảm bảo tính kế tục lịch
sử.Các chức năng khác như nhận thức, thẩm mĩ, dự báo, giải trí có thể coi
như là những tiểu chức năng hỗ trợ cho việc thực hiện chức năng giáo dục
của văn hóa.
*Chức năng giao tiếp

 Đặc trưng thứ 3 của văn hóa là tính nhân bản(nhân sinh).Đây là thuộc tính cốt
lõi của văn hóa.Nó cho phép phân biệt văn hóa như 1 hiện tượng xã hội với
các giá trị tự nhiên.văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con người.Sự
tác động của con người vào tự nhiên có thể mang tính chất như khai khoáng,
đẽo gỗ hoặc tinh thần như đặt tên, tạo truyền thống cho các cảnh quan thiên
nhiên.
 Do gắn liền với con người và hoạt động của con người trong xã hội,, văn hóa
trở thành 1 công cụ giao tiếp quan trọng.Thông qua ngôn ngữ, chữ viết, con
người tiếp xúc với nhau, trao đổi với vói nhau, thông báo cho nhau, yêu cầu
hoặc tiếp nhận ở nhau các thông tin cần thiết về hoạt động của cộng
đồng..Cùng với ngôn ngữ và vượt lên trên tính trực tiếp của ngôn ngữ,văn
hóa bằng hệ thống các giá trị chi phối cách ứng xử và giáo tiếp của cá nhân
với bản thân, gia đình và cộng đồng. Mọi nền văn hóa đều hướng đến con
người,vì cuộc sống của con người và cộng đồng.Nhờ đặc điểm chung này,
văn hóa còn đóng vai trò là chiếc cầu nối giữa các thế hệ, các dân tộc, quốc
gia, tạo nên sự tiếp xúc, giao lưu giữa các nền văn hóa.Bằng tính vị nhân
sinh, văn hóa thwucj hiện được chức năng thứ 4 của mình đó là chức năng
giao tiếp.Nếu ngôn ngữ là hình thwusc của giao tiếp thì văn hóa là nội dung
của nó. Văn hóa được coi là sợi dây nối liền nhân dân các nước và các dân
tộc…Sự hiểu biết lẫn nhau, sự học tập và tôn trọng lẫn nhau xưa nay đều thể
hiện sâu sắc qua văn hóa,nơi tập trung những biểu hiện rực rỡ nhất của tâm
huyết và sức sáng tạo của con người.

You might also like