You are on page 1of 14

ĐẠI CƯƠNG VĂN HÓA VIỆT NAM

CHƯƠNG 1 :

I. Khái niệm về văn hóa

• Theo Taylor, Văn Hóa: là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp,
phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội.

• Chủ tịch Hồ Chí Minh:“Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh
ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hàng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng.Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”.

• Theo TT. Phạm Văn Đồng: “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm
tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển,
quá trình con người làm nên lịch sử…”

• Trần Ngọc Thêm, 1999 Cơ sở Văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội : “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ
các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình họat động thực tiễn, trong sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”.

• UNESCO: “Văn hóa là tập hợp các đặc trưng tiêu biểu về tinh thần, vật chất, tri thức và xúc cảm của xã hội
hoặc một nhóm người trong xã hội; văn hóa không chỉ bao gồm văn học và nghệ thuật, mà còn cả phong cách
sống, phương thức chung sống, các hệ giá trị, truyền thống và niềm tin.

- Thuật ngữ “văn hóa” có rất nhiều nghĩa:

• Nghĩa thông dụng: chỉ học thức, lối sống (trình độ văn hoá, đời sống văn hoá…)

• Chuyên biệt: Chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn nào đó trong lịch sử (văn hoá Đông Sơn)

• Nghĩa rộng: Bao gồm tất cả do con người sáng tạo ra

II. Đặc trưng, cấu trúc, chức năng của văn hóa

a) Đặc trưng của nền văn hóa

◇ Tính HỆ THỐNG: Mọi hiện tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa đều có liên quan mật thiết với nhau.

◇ Tính GIÁ TRỊ: hóa là “trở thành”, văn hóa có nghĩa là “trở thành đẹp, thành có giá trị”. Văn hóa chứa các giá
trị, là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người.

◇ Tính NHÂN SINH: Văn hóa là một hiện tượng xã hội, là sản phẩm hoạt động thực tiễn của con người.

◇ Tính LỊCH SỬ: Thể hiện ở chỗ nó bao giờ cũng hình thành trong một quá trình và được tích lũy qua nhiều
thế hệ. Tính lịch sử của văn hóa được duy trì bằng truyền thống văn hóa.

b) Cấu trúc của văn hóa

- Văn hoá cá nhân và văn hoá cộng đồng

- Văn hoá nhóm (tiểu văn hoá):

+ Theo địa lý: văn hoá theo vùng lãnh thổ, được nhóm người chia sẻ trong quá trình sinh tồn, ở VN có 6 vùng:
Tây Bắc, Việt Bắc, Châu thổ bắc Bộ, Trung Bộ, Trường Sơn – Tây Nguyên và Nam bộ, các vùng này lại có các
tiểu vùng khác nhau

+ Theo đặc trưng xã hội: Nhóm giàu, nghèo, nam nữ, thanh niên, tội phạm, tôn giáo, nghề nghiệp…

Trên thực tế có nhiều cách phân loại văn hoá khác nhau: 2, 3, 4 bộ phận

- XHH, Dân tộc học: Văn hoá vật chất; văn hoá ứng xử; văn hoá tinh thần

- Địa lý: Vùng văn hoá


- Đồng đại: Văn hoá dân gian/văn hoá chính thống

- UNESCO: Chia văn hoá thành vật thể và phi vật thể

c) Chức năng của văn hóa

◇ Chức năng tổ chức xã hội

• Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là một thực thể bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện
được chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã
hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và xã hội của mình. Nó là nền tảng của xã hội
– có lẽ Chính vì vậy mà người Việt Nam ta dùng từ chỉ loại “nền” để xác định khái niệm văn hoá (nền văn hóa).

◇ Chức năng điều chỉnh xã hội

• Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị mà văn hoá thực hiện được giúp cho nó có chức năng điều chỉnh xã hội,
giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động, không ngừng hoàn thiện, thích ứng và biến đổi của môi
trường, giúp định hướng các chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển của xã hội.

◇ Tính nhân sinh

• Văn hoá do con người sáng tạo ra, khác với các giá trị tự nhiên. Văn Hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con
người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể mang tính vật chất (như việc luyện quặng, đẽo gỗ...) hoặc
tinh thần (như việc đặt tên, truyền thuyết cho các cảnh Quan thiên nhiên...).

• Do mang tính nhân sinh, văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người với con người, nó thực hiện chức năng
giao tiếp và có tác dụng liên kết con người lại với nhau. Nếu ngôn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là
nội dung.

◇ Chức năng giáo dục

• Là chức năng quan trọng thứ tư của văn hóa. Văn hóa thực hiện chức năng giáo dục bằng những giá trị đã ổn
định (truyền thống), và những giá trị đang hình thành. Hai Loại giá trị này tạo thành một hệ thống chuẩn mực
mà con người hướng tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách (trồng
người)

III.Vai trò của văn hóa đối với phát triển du lịch

Công nghiệp văn hóa hiện đang là “con gà đẻ trứng vàng” năm 2017, có tổng doanh thu lên đến 2.250 nghìn tỷ
USD và tạo công ăn việc làm cho 29,5 triệu lao động trên toàn cầu với gần 20% thành phần lao động ở độ tuổi
từ 15 đến 29. Nhiều quốc gia có ngành công nghiệp văn hóa và sáng tạo hàng đầu như Nhật Bản, Hàn Quốc và
Ấn Ðộ đã trở thành thị trường CCIs lớn nhất thế giới, vượt trên cả châu Âu và Bắc Mỹ.

Theo dữ liệu WB 2019, tỷ lệ đóng góp doanh thu của ngành công nghiệp văn hóa (bao gồm cả lĩnh vực du lịch
văn hóa) đối với tổng doanh thu toàn cầu là xấp xỉ 4,04% và đem lại việc làm chiếm tỷ trọng 2,21% tổng số lao
động trên thế giới, lao động ngành có thu nhập cao gấp 2,44 lần so với mặt bằng chung.

Đại hội XIII xác định văn hóa là “Động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước”. Từ ngày thành lập
đến nay. Đảng ta luôn coi trọng vai trò của văn hóa và hết sức quan tâm đến công tác xây dựng văn hóa trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, nhất là trong thời kì quá độ lên CNXH. Nhận thức
của Đảng về văn hóa ngày càng toàn diện, đẩy đủ và sâu sắc hơn. Đảng ta xác định: Văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước; xác định
phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội là một định hướng căn bản của quá
trình xây dựng CNXH ở Việt Nam, thể hiện tính ưu việt của chế độ ta.

- Văn hoá là tài nguyên của du lịch

Đại hội : “Gắn phát triển văn hoá với Phát triển du lịch, đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng
thời bảo vệ, gìn giữ tài nguyên văn hoá cho các thế hệ mai sau”.
Hiện nay, công nghiệp văn hóa được Chính phủ Việt Nam xác định bao gồm 12 lĩnh vực: Quảng cáo, Kiến trúc,
Phần mềm và các trò chơi giải trí, Thủ công mỹ nghệ, Thiết kế, Điện ảnh, Xuất bản, Thời trang; Nghệ thuật biểu
diễn, Mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; Truyền hình và phát thanh; Du lịch văn hóa.

“ Đa dạng văn hóa, di sản chung của nhân loại. Văn hóa có nhiều hình thức thay đổi theo thời gian và không
gian. Sự đa dạng này thể hiện trong sự độc đáo và sự đa nguyên của các bản sắc đặc trưng cho các nhóm và các
xã hội cấu thành nhân loại. Là một nguồn trao đổi, cải tiến và sáng tạo, sự đa dạng văn hóa đối với nhân loại
cũng cần thiết như sự đa dạng sinh học trong trật tự cơ thể sống vậy. Với ý nghĩa đó, đa dạng văn hóa là di sản
chung của nhân loại và phải được thừa nhận, khẳng định vì lợi ích của các thế hệ ngày nay và mai sau” – Điều
1: Tuyên ngôn thế giới của tổ chức UNESCO về đa dạng văn hóa ( 2001 )

CHƯƠNG 2 : Tận dụng MTTN trong văn hóa ẩm thực của người Việt

I. Tận dụng MTTN: ăn

1.Quan niệm ăn uống :

- Coi trọng việc ăn uống, mọi hành động đều lấy ăn làm đầu.

- Coi ăn uống là văn hóa, thể hiện nghệ thuật sống và phẩm giá con người

- Người Việt Nam nông nghiệp có câu: “Có thực mới vực được đạo” ‘’Trời đánh còn tránh bữa ăn”

- Mọi hành động của người Việt Nam đầu lấy ăn làm đầu : ăn uống, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn chơi, ăn học,
ăn tiêu, ăn ngủ, ăn nằm, ăn cắp, ăn trộm… =>Ăn uống là văn hóa, chính xác hơn, đó là văn hóa tận dụng
môi trường tự nhiên.

 Cho nên, sẽ không có gì ngạc nhiên khi cư dân các nền văn hóa gốc du mục (như phương
Tây, hoặc như Bắc Trung Hoa) thiên về ăn thịt, còn trong cơ cấu bữa ăn của người Việt
Nam thì lại bộc lộ rất rõ dấu ấn của truyền thống văn hóa nông nghiệp lúa nước.

2. Cơ cấu bữa ăn

• Bộc lộ rõ dấu ấn của truyền thống văn hóa nông nghiệp lúa nước.

• Chuộng thực vật hơn động vật : cơm-rau-cá-thịt.

• Kỹ thuật chế biến phong phú: sử dụng gia vị khéo léo, làm mắm, tương…

• Đồ uống, hút : trầu cau, thuốc lào, rượu gạo, nước chè, nước vối…

- Quê hương của cây lúa là vùng Đông Nam Á thấp ẩm, trong khu vực Đông Nam Á thì Việt Nam
là nơi cây lúa rất phát triển. Không phải ngẫu nhiên mà bữa ăn của người Việt Nam được gọi là
bữa cơm.
- Gạo nấu lên thành cơm, xôi, gạo nấu cho nhiều nước thành cháo, chế biến thành món quà là
bỏng…
- Cây lúa theo đặc tính hạt thóc thì có lúa nếp, lúa tẻ, theo thời vụ thì có lúa mùa, lúa chiêm…

3. Tập quán ăn trầu, hút thuốc: là biểu trưng văn hóa độc đáo ở Việt Nam

- Biểu tượng của nghi lễ .

- Biểu hiện của sự giao tiếp trong các mối quan hệ xã hội

4. Đặc trưng văn hóa ẩm thực của người Việt

a) Tính tổng hợp

• Cơ cấu bữa ăn: Đồng thời rất nhiều món: cơm canh, rau, dưa,cá thịt, xào, nấu, luộc, kho

• Cách chế biến món ăn: tổng hợp nhiều nguyên vật liệu, đủ chất, đủ vị, đủ sắc…
• Cách ăn: ăn đồng thời nhiều món, tổng hợp cái ngon của nhiều yếu tố.

Tổng hợp đầy đủ các giác quan: mũi ngửi, mắt nhìn, lười cảm nhận, tai nghe tiếng nhai thức ăn…

b) Tính cộng đồng và mực thước

• Tính cộng đồng: ăn chung, thích chuyện trò khi ăn…

• Tính mực thước : ăn uống phải tuân theo những cách Thức, những phép tắc nhất định.

c) Tính cân bằng và hài hòa

• Sự hài hòa âm-dương của thức ăn. Người Việt phân biệt thức ăn theo: hàn, nhiệt, ôn, bình. Tuân thủ
nghiêm ngặt luật âm dương bù trừ và chuyển hóa khi chế biến. Tập quán dùng gia vị của người Việt
Nam.

• Sự quân bình âm-dương trong cơ thể. Ngoài việc ăn các món chế biến có tính đến sự quân bình âm –
dương; vì vậy một người bị ốm do quá âm cần ăn đồ dương và ngược lại ốm do quá dương cần ăn đồ ăn
để khôi phục lại dự thăng bằng đã mất.

• Bảo đảm sự quân bình âm-dương giữa con người và môi trường

=> Ăn uống phải hợp thời tiết, đúng mùa.

- Để đảm bảo quân bình âm dương giữa con người với môi trường, người Việt có tập quán ăn uống theo
vùng khí hậu, theo mùa: Mùa hè ăn rau quả, Tôm cá là những thứ âm; mùa đông ăn thịt, mỡ, đồ nóng là
những thứ dương.

- Ăn theo mùa (mùa nào thức ấy) đã tận dụng tối đa môi trường tự nhiên để phục vụ con người, hoà mình
vào tự nhiên, tạo nên sự cân bằng giữa con người với tự nhiên.

- Tính biện chứng trong việc ăn uống không chỉ thể hiện ở việc ăn hợp thời tiết, phải đúng mùa, mà người
Việt Nam sành ăn còn phải biết chọn bộ phận đúng giá trị, đúng trạng thái có giá trị, đúng thời điểm
(rượu cổ be, chè đít ấm, dừa ăn đít, mít ăn đầu…)

- Thời điểm có giá trị là thời điểm âm – dương chuyển hóa, đang ở dạng âm dương cân bằng hơn
cả, và vì vậy có những thứ rất giàu chất dinh dưỡng đó là món ăn dạng bao tử, động vật có trứng
lộn, nhộng, lợn sữa, chim ra ràng, ong non, dế non…Cơm chín tới, cải ngồng non, gái một con, gà
ghẹ ổ…

CHƯƠNG 3 :

1. Gia Đình

Đa số gia đình hạt nhân (bố mẹ và con cái chưa trưởng thành).Ngoài ra còn có hình thức gia đình nhỏ (bố mẹ và
gia đình một con trai, thường là con trai trưởng)

- Gia đình hạt nhân của người Việt là cơ cấu kinh tế tự cung, tự cấp theo mô hình “chồng cày, vợ cấy,
con trâu đi bừa”
- Nho giáo chỉ là lớp phủ bên ngoài “vỏ Tàu, lõi Việt”

• Quan hệ huyết thống là GIA ĐÌNH – GIA TỘC, gia tộc rất được coi trọng: Trưởng họ, tộc trưởng, nhà thờ họ,
từ đường, gia phả, ruộng kị, giỗ họ, giổ tổ, mừng thọ… làng và gia tộc (họ). Nhiều khi đồng nhất với nhau (Đào
xá, Đặng xã…).

• Gia tộc đùm bọc, thương yêu nhau: Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì; Nó lú nhưng chú nó khôn; và dìu dắt nhau,
làm chỗ dựa cho nhau về chính trị: Một người làm quan, cả họ được nhờ.

Quan hệ huyết thống là quan hệ theo hàng dọc, theo thời gian. Nó là cơ sở của tính tôn ti. Người Việt có hệ
thống tôn ti trực tiếp rất chi li, phân biệt rạch ròi tới 9 thế hệ
2. Làng

Làng (bản): là một đơn vị cộng cư có một vùng đất chung của cư dân nông nghiệp, một hình thức tổ chức xã hội
nông nghiệp tiểu nông tự cấp tự túc: làng được tổ chức rất chặt chẽ, theo nhiều nguyên tắc: Theo huyết thống: là
nơi ở của 1 dòng họ (Đặng Xá, Ngô Xá, Trần Xá…)

• Theo địa bàn cư trú: quan hệ hàng ngang, theo không gian. Không chỉ gắn bó với nhau bằng máu mủ mà bằng
cả quan hệ sản xuất (vắng anh em xa, mua láng giềng gần…)

• Theo nghề nghiệp và sở thích: Phường, Hội: phần lớn người dân đều làm nông nghiệp; có những bộ phận cư
dân sinh sống bằng nghề khác, tạo thành đơn vị gọi là PHƯỜNG: phường gốm, phường nề, phường chài,
phường vải, phường nón, phường giấy, phường mộc, phường thợ tiện, phường đúc đồng…

• HỘI là tổ chức nhằm liên kết những người cùng sở thích, thú vui, đẳng cấp: Hội tư văn liên kết các quan văn
cùng làng, hội văn phả liên kết các nhà nho trong làng không ra làm quan, hội võ phả liên kết những người theo
nghề võ, hội bô lão liên kết các cụ ông, hội chư bà liên kết các cụ bà đi chùa, rồi còn hội tổ tôm, hội chọi gà, hội
cờ tướng, v.v.

- Phường và hội rất gần nhau, nhưng phường thì mang tính chất chuyên môn sâu hơn và bao giờ cũng
giới hạn trong quy mô nhỏ.
- Liên kết theo chiều ngang, đặc trưng của phường hội là tính dân chủ, có trách nhiệm tương trợ giúp đỡ
lẫn nhau.

• Tổ chức theo nam giới: Giáp

+) Xuất hiện muộn. Đứng đầu giáp là ông cai giáp (câu đương); giúp việc cho cai giáp là các ông lềnh – lềnh
nhất, lềnh hai, lềnh ba (từ chữ lệnh mà ra). Đặc điểm của giáp là:

(a) Chỉ có đàn ông tham gia;


(b) “cha truyền con nối”, cha ở giáp nào thì con cũng vào giáp ấy. Phân biệt ba lớp tuổi: ti ấu (từ nhỏ đến
18 tuổi), đinh (hoặc tráng: đinh = đứa; tráng = khỏe mạnh) và lão.

+) Vinh dự tối cao của thành viên hàng giáp là lên lão. Thông thường tuổi lên lão là 60.

+) Lên lão là lên ngồi chiếu trên, được cả giáp, cả làng trọng vọng.

+) Giáp là một tổ chức mang tính hai mặt (dọc theo lớp tuổi; ngang người cùng làng).Cho nên, một mặt, giáp
mang tính tôn ti, nó là một môi trường tiến thân bằng tuổi tác: Sống lâu lên lão làng; mặt khác, giáp lại cũng có
tính dân chủ: tất cả mọi thành viên cùng lớp tuổi đều bình đẳng như nhau, cứ đến tuổi ấy thì sẽ có địa vị ấy

• Tổ chức theo đơn vị hành chính: Thôn và Xã

+) Trong xã, sự phân biệt rõ rệt nhất là phân biệt dân chính cư và dân ngụ cư. Muốn chuyển thành dân chính cư,
dân ngụ cư phải thoá mãn 2 điều kiện: đã cư trú ờ làng từ 3 đời trở lên và phải có một ít điền sản.

Dân chính cư trong xã chia làm 5 hạng:

1. Chức sắc gồm những người đỗ đạt hoặc có phẩm hàm;


2. Chức dịch gồm những người đang làm việc trong xã;
3. Lão gồm những người thuộc hạng lão trong các giáp;
4. Đinh gồm trai đinh trong các giáp;
5. Ti ấu là hạng trẻ con của các giáp

CHƯƠNG 4
◇ 3 NỀN VH của THỜI SƠ SỬ
- Cách đây 4.000 năm, cư dân Việt Nam, từ lưu vực sông Hồng cho đến lưu vực sông Đồng Nai, đã bước
vào thời đại kim khí.
- Tồn tại 3 trung tâm văn hóa lớn là Đông Sơn (miền Bắc), Sa Huỳnh (miền Trung) và Đồng Nai (miền
Nam).
- Văn hóa Đông Sơn (cả giai đoạn tiền Đông Sơn) được coi là cốt lõi của người Việt cổ.
- Văn hóa Sa Huỳnh (cả giai đoạn tiền Sa Huỳnh) được coi là tiền nhân tố của người Chăm và Vương quốc
Chămpa.
- Văn hóa Đồng Nai (cả giai đoạn đồng và sắt) lại là một trong những cội nguồn hình thành văn hóa Óc Eo
của cư dân thuộc nhóm Mã Lai – Đa Đảo sinh sống vào những thế kỉ sau công nguyên ở vùng Đông và Tây
Nam Bộ. Hiện nay, văn hóa Óc Eo thường được gắn với vương quốc Phù Nam, một nhà nước tồn tại từ thế
kỉ II đến thế kỉ VII ở châu thổ sông Cửu Long
1. Từ văn hóa tiền Đông Sơn đến văn hóa Đông Sơn
- Văn hóa Đông Sơn hình thành trực tiếp từ ba nền văn hóa ở lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Cả.

- Vẫn sử dụng đá, gỗ, tre, nứa, xương, sừng… để chế tạo công cụ và vũ khí. Đồ gốm đạt độ nung cao hơn,
dày và cứng hơn, đa số có màu xanh mốc. Xuất hiện của vật liệu mới – đồng, tạo nên tác động to lớn đối với
KT - XH và VH của các cộng đồng người.

a) Sản xuất nông nghiệp

- Trồng trọt: Canh tác trên nhiều loại đất khác nhau. trồng lúa nước, ruộng chờ mưa… Đã có kĩ thuật trị
thủy: đắp đê chống lụt.Nông cụ đa dạng: cuốc, xẻng, lưỡi cày bằng kim loại đã tạo nên bước nhảy vọt trong
kĩ thuật canh tác. Nông nghiệp dùng cày phát triển, có thể đã biết làm một năm hai vụ.

- Chăn nuôi: Đã biết chăn nuôi một số gia súc như trâu, bò, lợn

b) Kỹ thuật

- Đúc đồng thau đạt tới đỉnh cao, trình độ điêu luyện. Số lượng và loại hình công cụ vũ khí bằng đồng tăng
vọt. Đặc biệt, đã đúc những hiện vật bằng đồng kích thước lớn, trang trí hoa văn phong phú, là biểu tượng
của văn hóa dân tộc: trống đồng, thạp đồng Đông Sơn nổi tiếng.

- Kĩ thuật luyện và rèn sắt cũng khá phát triển, đặc biệt ở giai đoạn cuối của văn hóa Đông Sơn. Ngoài ra
còn biết chế tạo thủy tinh, làm mộc, sơn, dệt vải, đan lát, làm gốm, chế tác đá.

c) Làng xóm

Phân bố ở những nơi đất cao, sườn núi hay đồi đất… nằm gần các sông lớn.

- Làng có quy mô vài trăm người. Ngoài ra, còn thấy hiện tượng một số làng xóm nhỏ quy tụ thành một vài
khu vực cư trú đông đúc.

- Chung quanh làng, có những vành đai phòng thủ là các lũy tre làng. Công trình phòng thủ thực sự với hệ
thống thành lũy quy mô thời Đông Sơn ngày nay người ta mới chỉ biết đến có một, đó là thành ốc Cổ Loa

d) Nhà ở

- Cư dân Đông Sơn được tạo ra bằng các vật liệu dễ kiếm trong tự nhiên như gỗ, tre, nữa, lá cọ, đất...

- Hình dáng nhà có các loại mái cong, mái tròn, và là nhà sàn. Lựa chọn kiểu kiến trúc nhà sàn cũng là sự
ứng xử thông minh trước môi trường của người Việt cổ.

- Phương tiện đi lại, chủ yếu là thuyền bè, vận chuyển chủ yếu là đường sông và ven biển. Ngoài ra còn có
đi bộ, gánh gồng mang vác trên vai, trên lưng. Và con người đã biết thuần dưỡng voi, dùng voi để chuyên
chở.

e) Trang phục

- Người Đông Sơn đã có những phong tục, y phục khá phong phú, ngoài ở trần, đóng khố, đi chân đất thì nữ phổ
biến mặc váy thay khố và một số loại áo, áo cánh dài tay, áo xẻ ngực bên trong có yếm. Ngoài ra còn có một số
trang phục lễ hội như váy lông chim hay lá kết, khố dài thêu…

- Người Đông Sơn ưa thích đồ trang sức, họ đeo đồ trang sức ở tay, cổ tay và cả ở chân. Đồ trang sức thường
được làm bằng đồng, thủy tinh, song không thấy đồ vàng bạc hay đá quý

f) Tín ngưỡng, tư duy


• Tín ngưỡng: Những nghi lễ và tín ngưỡng giai đoạn này gắn chặt với nghề nông trồng lúa nước. Đó là tục thờ
mặt trời, mưa dông, các nghi lễ phồn thực và những nghi lễ nông nghiệp như: hát đối đáp gái trai, tục đua
thuyền, tục thả diều…

• Tư duy: Đặc điểm nổi bật của thời kì này là tư duy lưỡng phân, lưỡng hợp.Người xưa cho rằng thế giới được
chia đôi: Có đàn ông ắt có đàn bà, có đực tất có cái, có âm ắt có dương.

• Phong tục: Nhuộm răng ăn trầu, xăm mình, ăn đất nung non, uống nước bằng mũi, tục ma chay, cưới xin…
Các lễ hội: hội mùa với nghi lễ hiến sinh trâu bò, hội cầu nước với lễ hiến tế, hội khánh thành trống đồng

• Nghệ thuật: Nhạc cụ đáng lưu ý là trống đồng, sau đó là sênh, phách, khèn. Giao lưu văn hóa thời kì này rất
rộng rãi. Ngoài giao lưu với Sa Huỳnh và Đồng Nai, ở phía Bắc có mối quan hệ và tiếp xúc với các cư dân Nam
Trung Hoa, phía Đông với các hải đảo, phía Tây với lục địa.

2. Văn hóa Sa huỳnh

Trung tâm hay đỉnh cao của văn hóa thời đại kim khí Việt Nam ở miền Trung.

-Có quan hệ gốc gác với các nền văn hóa hậu kì đá mới, sơ kì thời đại đồng thau ven biển như: Hoa Lộc, Hạ
Long, nhất là văn hóa Bàu Tró,

-Chủ nhân Văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với các văn hóa hậu kì đá mới, sơ kì đồng thau ven biển là
những người tiền Mã Lai – Pôlinêdi.

• Sản xuất: Cư dân nông nghiệp trồng lúa ở những đồng bằng ven biển.

- Tuy vậy nền kinh tế của họ là nền kinh tế đa thành phần, sớm biết khai thác những nguồn lợi của biển, của
rừng, phát triển các nghề thủ công, từng bước mở rộng quan hệ trao đổi buôn bán với các cư dân trong khu vực
ĐNA lục địa, hải đảo, với Ấn Độ, TH. Giai đoạn cuối, nghề buôn bán bằng đường biển rất phát triển. Ở ven biển
miền Trung, vào những thế kỉ TCN, SCN đã hình thành một số tiền cảng thị hay cảng thị sơ khai.

• Đặc trưng văn hoá: Tiêu biểu của văn hóa Sa Huỳnh là hình thức mai táng bằng chum gốm suốt từ giai đoạn
sớm đến giai đoạn muộn. Phát hiện nhiều khu mộ – những bãi mộ chum rộng lớn, nhiều tầng lớp với những loại
hình vò, chum mai táng hình cầu, hình trứng, hình trụ có kích thước lớn nắp đậy hình nón cụt hay lồng bàn,
phân bố lẻ tẻ hay thành cụm. Trong và ngoài chum chứa nhiều đồ tùy táng với các chất liệu đá đá quý, thủy tinh,
đồng, sắt và gốm.

• Cư trú: Sự trùng hợp về địa bàn phân bố, của niên đại kết thúc của văn hóa Sa Huỳnh và niên đại mở đầu của
văn minh Chămpa cũng như sự nối tiếp của một số loại hình hiện vật đặc biệt là đồ gốm và đồ trang sức, của
táng thức, của các ngành nghề kinh tế cho thấy nhà nước Chămpa là sự tiếp nối của nhà nước Sa Huỳnh. Nhà
nước Chămpa được hình thành trên cốt lõi của văn hóa Sa Huỳnh dưới ảnh hưởng của những yếu tố văn hóa
ngoại sinh Trung Hoa, Ấn Độ. Và sự “Ấn Độ hóa” ban đầu chỉ xảy ra ở lớp mặt của văn hóa (tôn giáo) ở tầng
lớp trên của xã hội.

3. Văn hóa Đồng Nai

- Khoảng hơn 4.000 cách ngày nay, ĐNB xuất hiện cư dân là chủ nhân của nền văn hóa ĐN (đồng thau và sắt
sớm).

Mở đầu cho truyền thống văn hóa tại chỗ ở Nam Bộ. Mỗi tiểu môi trường sinh thái ứng với một mô thức sản
xuất – văn hóa thích hợp, có 5 tiểu vùng:

1)Vùng đá phiến và bazan đất đỏ

2)Đá phiến và bazan đất đỏ dải cao nguyên

3)Vùng liên kết đồi bazan-đá phiến-phù sa cổ dọc sông ĐN

4)Vùng phù sa xám thuộc hệ thống song Vàm Cỏ

5)Vùng đồng bang phù sa mới miền châu thổ hạ lưu Đồng Nai – Vàm Cỏ.
- Ở cả năm tiểu vùng văn hóa, đồ đá là loại di vật phổ biến và có số lượng lớn. Đây cũng là đặc điểm lớn nhất
của văn hóa Đồng Nai, dụng cụ bằng đá lấn át kim loại. Đàn đá là chế phẩm đặc thù của văn hóa Đồng Nai, có
mặt ở nhiều di tích, có niên đại khoảng ba ngàn năm cách ngày nay.

-Đời sống kinh tế: Hình thức quan trọng và phổ biến nhất là trồng lúa cạn không dùng sức kéo, trồng rau đậu,
cây có quả–củ cho bột bằng phương pháp phát–đốt đặc thù của nông nghiệp nương rẫy, chăn nuôi, săn bắn, hái
lượm, đánh bắt cá tôm và nhuyễn thể của sông biển.

TÓM LẠI

=> Thời sơ sử, trên dải đất Việt Nam ngày nay có ba nền văn hóa:

1) Đông Sơn;

2) Sa Huỳnh;

3) Đồng Nai.

Đó là ba đỉnh cao của văn hóa Đông Nam Á, miền Đông bán đảo Đông Dương.

-Ba nền văn hóa đó đã phát sinh từ những nền tảng chung của các văn hóa thời đại đá mới, với những tộc người
Nam Á, Nam Đảo luôn có tiếp xúc ngôn ngữ và giao lưu văn hóa với nhau.

-Ba phức nền văn hóa đó phát triển độc lập theo thế chân vạc, nhưng luôn có mối quan hệ qua lại nhiều chiều
với nhau, bồi bổ cho nhau, làm phong phú cho nhau, đồng thời phát triển, giao lưu với nhiều văn hóa khác ở khu
vực.

-Ba nền văn hóa đã phát triển thành ba nền văn minh lớn, ứng với ba quốc gia cổ: Văn Lang – Âu Lạc, Sa
Huỳnh – Chăm Pa, Phù Nam.

-Ba nền văn hóa ấy đều thu nhận nhiều yếu tố ngoại sinh và bản địa hóa các yếu tố ấy để phát triển và đã phát
sáng rực rỡ, lan tỏa ảnh hưởng ra toàn vùng Đông Nam Á.

- Cư dân thường sống tập trung thành các làng định cư lâu dài ven các dòng sông hoặc ven biển, hay các doi đất
cao trên bậc thềm phù sa cổ các dòng sông, ở những vùng sình lầy ngập mặn với hệ thống nhà sàn gỗ đặc trưng
trên vùng sình lầy.

CHƯƠNG 5. CÁC VÙNG VĂN HÓA VIỆT NAM

I. Vùng Đông Bắc

a) Văn hóa vật chất

- Ẩm thực

• Nét độc đáo trong ẩm thực thể hiện ở các thói quen và khẩu vị trong ăn uống, cách chế biến món ăn khá cầu
kỳ, kết hợp với cách chế biến của người Việt và người Hoa, sử dụng nhiều các gia vị như ớt, gừng, mắc mật, hạt
dổi, quế, hồi, thảo quả…

• Bên cạnh đó, một số món ăn truyền thống như xôi ngũ sắc, thịt xá, khâu nhục, lạp sườn, thắng cố… được chế
biến với những bí quyết riêng tạo nên hương vị đặc trưng trong ẩm thực nơi đây.

- Trang phục

• Trang phục truyền thống của cư dân Tày Nùng vùng Đông Bắc là tương đối đơn giản so với nhiều tộc người
khác, y phục chủ yếu được làm bằng vải chàm đen, ít hoa văn trang trí. Trang phục của người Tày – Nùng có
tính thống nhất, được phân biệt theo giới tính, địa vị, lứa tuổi, nhóm địa phương.

• Nam giới gồm áo cánh bốn thân, xẻ ngực, cổ tròn, có hàng cúc vải trước ngực và hai túi ở hai bên vạt áo. Quần
may theo kiểu chân què, cạp lá tọa.
• Trang phục của nữ giới lại có phần phong phú và đa dạng hơn.. Ngoài ra, đồ trang sức cũng đơn giản, thường
gồm vòng cổ, vòng tay và xà tích bằng bạc.

- Nhà ở

• Gồm 2 loại chính: nhà sàn, nhà đất

• Nhà sàn là loại hình phổ biến, gồm hai kiểu: nhà sàn hai mái và nhà sàn bốn mái.

• Nhà đất là loại hình xuất hiện ngày càng, có loại nhà nửa sàn nửa đất, đây là dạng nhà thích hợp với địa hình
dốc, phổ biến trong cộng đồng người Dao. Ngoài ra còn có nhà trình tường

b) Văn hóa tinh thần

Tôn giáo, tín ngưỡng

• Có sự kết hợp và pha trộn giữa tín ngưỡng dân gian với các ảnh hưởng của Tam giáo (Nho, Phật, Đạo).
Bên cạnh những tàn dư của các hình thái tín ngưỡng nguyên thủy như vật linh giáo, ma thuật, bái vật
giáo (thờ cây đa, hòn đá…). Người Tày – Nùng có tín ngưỡng vạn vật hữu linh nên trong cuộc sống thờ
nhiều thần, ma mà họ vẫn gọi là “phi”.
• Theo tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên như người Việt, thờ cúng thần thổ địa, thành hoàng. Các đền miếu
xây dựng ở nhiều nơi thờ các Tiên, Thần, Thánh như đền Suối Ngang, Suối Lân thờ vọng Mẫu Liễu
Hạnh, đền Bắc Lệ thờ Cô Bé Thượng ngàn, đền Đồng Mỏ thờ Chầu Mười, và các thánh trong hệ thống
tín ngưỡng Tứ Phủ.

Lễ hội

• Lễ hội của cư dân các tộc người vùng Đông Bắc phong phú, đa dạng, khó phân biệt được đâu là lễ hội
của người Tày, Nùng hay của người Việt, Hoa… bởi lẽ, nhiều lễ hội đã trở thành lễ hội chung của các
tộc người trong vùng. Tiêu biểu phải kể đến hội Lồng tồng, hay còn gọi là hội xuống đồng.
• Đông Bắc còn có hội Lượn Nàng Hai (lễ hội Mẹ Trăng) được tổ chức ba năm một lần ở một số địa
phương tại Lạng Sơn, Cao Bằng. Trong năm còn có nhiều ngày tết như Tết nguyên đán, Tết thanh
minh, Tết Đoan ngọ, Tết rằm tháng bảy, Tết Trung thu, Tết cốm và cơm mới

Chữ viết: hệ thống nhiều chữ Nôm Tày đc kế tục và phát triển dựa trên cớ sở từ chữ hán dùng để ghi chép sách
cúng,các truyện thơ, sách hát lượn cọi

Văn học dân gian: đa dạng nhiều thể loại, đã bắt đầu xh nền văn học thành văn. Văn học dân gian truyền miệng
khá pp, từ ca dao tục ngữ tới truyện thần thoại, cổ tích,…

Âm nhạc: hát then và cây đàn tính là đặc trưng tiêu biểu của các dân tộc ng vùng Đông Bắc. Hát then là một
diễn xướng trường ca. Sli, lượn alf hình thức đối đáp giao duyên giữa trai gái.

II.Vùng văn hóa Tây Bắc:

a) Văn hóa vật chất

Ẩm thực

• Nguồn gốc từ gạo:


- Vùng thấp: Đặc trưng là các món ăn được chế biến từ gạo nếp, ngoài xôi (xôi nướng, xôi màu…) còn
có các loại bánh: bánh tét, bánh tro, bánh nếp, bánh chưng...
- Vùng cao: Cơm tẻ (đồ, không nấu),Phù hợp với cư dân Tạng – Miến (kiêng đỏ lửa lúc có mặt trời).
Ngô là một loại lương thực có vị trí quan trọng đặc biệt: mèn mén
• Nguồn gốc từ động vật:
- Cá là nguồn thực phẩm không thể thiếu: cá nướng gập (pa pỉng tộp), lạp, cá ướp chua, cá sấy…
- Gà luộc hay gà nấu gừng dùng để tiếp khách (bên ngoại đến chơi, con gà mái đang ấp trứng cũng phải
mổ)
- Thịt vịt là lễ vật không thể thiếu với thần linh, tổ tiên trong tất cả các lễ cúng (trừ người Thái đen)
- Nặm pịa: Món đặc sản từ xa xưa
- Các loại côn trùng: ong, trứng kiến, bọ xít
Ẩm thực (vùng thấp)

• Nguồn gốc từ thực vật:

Truyền thống là dựa vào nguồn rau cỏ tự nhiên từ rừng, ruộng, ven sông suối: rau dớn, rêu đá, măng, mộc nhĩ,
nấm, hoa ban..

• Uống:
- Có uống nước bằng mũi: (người Kháng)
- Rượu: Rượu ủ và rượu cần. Uống Với người sống, tưởng nhớ, tôn kính người mất và thần linh..
- Hút thuốc (lào, lá), ăn trầu…

• Mặc

- Nguyên liệu: bông, lanh, các tộc người có nghề dệt từ lâu đời “Gái dệt vải, trai đan chài”
- Màu sắc: Vùng thấp màu chàm (làm quần hoặc váy), ít sặc sỡ. Vùng cao khá phong phú về màu sắc,
kiểu dáng, kỹ thuật và trang trí.

• Trang phục:

- Nam: quần
- Nữ: Váy, Tiêu biểu là trang phục của phụ nữ Thái với “xửa cóm” (áo ngắn), điểm hàng cúc bạc trên hai
nẹp áo, có thêm khăn piêu và túi thổ cẩm. H’mông, Dao; Tạng – Miến: váy sặc sỡ

• Nhà ở

Vùng thấp: Nhà sàn có 2 loại: 1) Mái rùa có khau cút ở hai đầu hồi (Thái Đen); 2) Loại 4 mái phẳng (Thái
Trắng, Mường, Giáy, Tày). Nhà của người Mường: cửa sổ ở gian thờ tổ tiên (voóng tông) rất linh thiêng.

Vùng cao: Nhà đất, nhà sàn

b) Văn hóa tinh thần

• Tôn giáo, tín ngưỡng

Theo tín ngưỡng đa thần, quan niệm vạn vật hữu linh, mang đậm yếu tố bản địa và ít chịu ảnh hưởng của các
yếu tố du nhập.

Quan niệm thế giới có 3 tầng: 1) Mường Trời (then) là ở của các vị thần linh cai quản muôn loài;, tổ tiên, người
đã mất; 2) Thế giới mặt đất: muôn loài sinh sống nhưng mọin thứ rất nhỏ bé; 3) Thế giới nước là nơi của ma
thuồng luồng ngự trị. Coi các bộ phận trong cơ thể con người có các loại vía (Thái: 80, Mường: 90…)

• Lễ hội

Thường được diễn ra vào mùa xuân. Người Thái thường tổ chức lễ xên mương, xên bản, xên hươn, mời các vị
thần trên trời, thần đất, thần sông, tổ tiên các dòng họ về dự. Người H’mông có lễ hội gầu tào được tổ chức

Để cầu sức khỏe. Người Dao có lễ hội nhảy lửa vào dịp tết do một dòng họ đứng ra tổ chức. Người Khơ – mú có
lễ hội cầu mưa,. Người Tày có lễ hội Lồng Tồng,…

Trong dịp lễ hội, thường tổ chức nhiều cuộc vui chơi giải trí đượm màu sắc tôn giáo, cùng với đó là tục ném
còn, trai gái hát đối đáp, Kéo co…

• Nghệ thuật

Nghệ thuật thêu, dệt thổ cẩm (chăn, váy, áo, khăn…)

Người Thái với xoè Thái

Người Mường với múa cồng chiêng (sắc bùa)

Múa khèn của người H’mông; điệu múa lượn eo, lắ hông đặc trưng của người Xinh-mun, Khơ-mú…

• Chữ viết:
Người Thái có hệ thống chữ viết riêng (trên lá cọ), dùng để ghi chép các truyện thơ, “Quắm tố mương”, “Táy
phú sóc”…

Hệ thống chữ Nôm Tày được kế tục và phát triển dựa trên cơ sở từ chữ Hán, dùng để ghi chép sách cúng của các
thầy Tào, các truyện thơ, sách hát lượn cọi…

Người H’mông có chữ viết dựa trên ký tự latinh

• Văn học dân gian: đa dạng, nhiều thể loại, đã bắt đầu xuất hiện nền văn học thành văn. Văn học dân gian
truyền miệng khá phong phú, từ ca dao, tục ngữ, dân ca, các truyện thần thoại, cổ tích; các loại thơ ca cổ từ văn
Then…

III.Văn hóa trung bộ

a) Văn hóa vât chất

Trang Phục

- Trang phục phụ nữ Chăm truyền thống hoàn chỉnh phải hội tụ đủ các yếu tố gồm: áo dài, váy, dây thắt
lưng chéo, dây thắt lưng ngang, khăn đội đầu, khuyên tai và trang sức đeo cổ bằng hạt cườm đen óng.
- Nam phục: khăn của nam giới ngắn hơn nữ, khăn của chức sắc thường có màu trắng có tua và viền ren
chỉ màu đỏ, xanh. Áo Lakay là áo ngắn. Xà rông là một tấm vải khổ rộng, có dùng 1 thắt lưng dệt bằng
chỉ màu buộc lại và thả chùng xuống phía trước.

Ẩm thực

• Thức ăn thiên về các loại hải sản, đồ biển, yếu tố biển đã đậm đà hơn trong cơ cấu bữa ăn của cư dân ở
đây.
• Sử dụng nhiều chất cay trong bữa ăn. Đặc biệt họ còn có kỹ thuật làm mắm từ các loại cá biển cho ra
hương vị rất thơm ngon.
• Riêng tiểu vùng văn hóa xứ Huế thì ẩm thực lại rất đa dạng, phong cách chế biến theo lối cung đình
cầu kỳ, bắt mắt. Trong một bữa cơm gia đình hoặc cỗ thì thường có rất nhiều các món ăn khác nhau với
đủ Màu sắc và mùi vị.

Kiến trúc

• Nhà của ng chăm mỗi gđ có những ngôi nhà đc xây cất gần nhau theo một trật tự nhất định gồm nhà khách,
nhà cha mẹ và các con nhỏ, nhà của các cô gái đã lập gđ, nhà bếp,..

• Đối với huế thì kiến trúc nhà vườn, bước qua cổng sẽ có một bức bình phong chắn. Xung quanh nhà đc vườn
cây ăn bao lại, từng bao là các loại cây như dâm bụt chứ k phải tường gạch.

• Kiến trúc cung đình được xem là đỉnh cao của văn hóa người Việt với: Ngọ Môn, điện Thái Hòa, Cần Chánh,
cung Diên Thọ, … xa hoa tráng lệ những cây cột gỗ sơn son thiếp vàng…

• Kiến trúc tháp Chăm cũng là những giá trị văn hóa tiêu biểu, được xây dựng bằng loại gạch không nung. Tháp
Chăm và những bức phù điêu là sự kết hợp ăn ý giữa lối kiến trúc Ấn Độ và kiến trúc đình chùa bản địa

Làng nghề

• Vùng duyên hải miền Trung đã phát triển các làng nghề và nghề thủ công truyền thống lâu đời như:
thêu, dệt, làm đồ gốm, làm gạch, chế tạo công cụ sản xuất, buôn bán, đóng thuyền, đánh cá, điêu khắc...
• Một số làng nghề nổi tiếng có thể kể đến như: làng đèn lồng Hội An, làng gốm Phước Tích, làng nón lá
Huế, làng làm tranh làng Sình,…

b) Văn hóa tinh thần

Tôn giáo, tín ngưỡng

- Điển hình cho tín ngưỡng dân gian vùng ven biển miền Trung là tục thờ cá Ông (cá voi).
• Tiếp biến văn hóa Việt – Chăm là tiếp thu tín Ngưỡng thờ bà mẹ xứ sở (Po Yan Ina Nagar) của người
Chăm. Với tín ngưỡng thờ Mẫu ẩn trong tâm thức, khi vào Trung Bộ, người Việt gặp tín ngưỡng này
của người Chăm, họ đã tiếp thu các nữ thần Chăm và chuyển hóa thành các nữ thần Việt Nữ thần
Mưjưk của người Chăm được biến thành bà Chúa Ngọc. Vẫn là tục thờ nữ thần được gìn giữ nhưng tên
gọi và hình ảnh các vị nữ thần so với bắc bộ đã có sự khác biệt.

Lễ hội

• Đa phần đều gắn với tục thờ cúng cá voi, như: hội Mục đồng Phong Lệ, lễ hội Quan Thế Âm (Đà
Nẵng); lễ hội cầu ngư, lễ hội Bà Thu Bồn, lễ hội cầu ngư, lễ vía Quan Công, sự tiếp thu tín ngưỡng thờ
cá voi của người Chăm rất rõ nét.

Ngoài ra một số lễ hội như hội điện Hòn Chén, hội Tháp Bà Nha Trang... Các lễ hội này mang tính chất chung
của lễ hội gắn với tục thờ Mẫu, nhưng lại có nét riêng do việc người Việt tiếp nhận tục thờ nữ thần bà mẹ xứ sở
của người Chăm

Nghệ thuật

• Dân tộc Chăm để lại nhiều giá trị kiệt xuất, ngoài kho tàng văn nghệ dân gian phong phú. Nền dân ca-
nhạc cổ Chăm đã để lại nhiều ảnh hưởng đến dân ca- nhạc cổ của người Kinh ở miền Trung như trống
cơm, nhạc nam ai, ca hò Huế...
• Trong khi đó nơi đây được coi là mảnh đất lưu giữ nghệ thuật sân khấu tuồng Việt Nam, Tuồng kết hợp
hài hòa giữa nghệ thuật biểu diễn, vũ đạo, giọng hát, hóa trang, âm nhạc… Những điệu hò, điệu hát lí,
hát trò, hát sắc bùa, những bài ca trên sông nước Hương Giang. Nét độc đáo của dân ca xứ Huế là âm
sắc, ngữ âm địa phương, không lẫn với vùng nào trên đất nước ta.

IV.Văn hóa Trường Sơn Tây Nguyên

a) Văn hóa vật chất:

Trang phục

• Trang phục: Nét chung trong trang phục của các tộc người vùng Trường Sơn – Tây Nguyên là ưa mặc y
phục thuộc loại choàng quấn, đây là loại trang phục cổ xưa của cư dân vùng Đông Nam Á
• Con người nơi đây cũng rất chuộng các hình thức trang trí trên cơ thể vừa mang tính thẩm mĩ, vừa
mang tính nghi lễ

• Chiếc khố của người đàn ông là cả một công trình dệt, thêu và trang trí các tua bông ở hai bên diềm.

Ẩm thực

• Vùng Tây Nguyên không có biển nên ẩm thực nơi đây chủ yếu là các nguyên liệu núi rừng, Những cây
thuốc, động vật tự nhiên, các loài cá cũng là lấy từ các con suối, sông nhỏ. Nhưng cũng chính những
nguyên liệu thuốc này lại giúp cư dân Tây Nguyên có sức khỏe tốt.
• Cơm lam, thịt gà nướng, thịt hun khói, đọt mây...đặc biệt nhất trong đó là món canh thụt: phải có ít
nhất, có 10 loại nguyên liệu như: da bò khô, lá nhíp, cà đắng, đọt mây, ớt xanh… mới có thể làm nên
được món canh này.
• Ngoài ra rượu cần hiện nay được xem là thức uống “đặc sản” của đồng bào Tây Nguyên

Nhà ở

• Loại hình cư trú của vùng Trường Sơn – Tây Nguyên khá đa dạng và mang những đặc trưng riêng của
vùng đất này. Đến với Trường Sơn, ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh của những ngôi nhà cộng đồng (gươl)
có mái tròn khum khum hình mai rùa.
• Ở khu vực Bắc Tây Nguyên nổi bật với những ngôi nhà Rông có dáng mái cao vút hình lưỡi Rìu bổ
ngược, hay có người lại ví nó trông giống như hình ảnh chiếc buồm đang tiến ra khơi.
• Trung và Nam Tây Nguyên, lại đặc trưng bởi các ngôi nhà dài của người Ê-đê: Nơi cư trú của đại gia
đình sống theo chế độ mẫu hệ.

Đi lại

• Ở vùng Trường Sơn – Tây Nguyên, phương tiện đi lại và vận chuyển quen thuộc với người dân là con
voi và chiếc gùi. Các tộc người có tập quán săn voi và thuần dưỡng voi. Gùi – đối với đồng bào Tây
Nguyên, không chỉ là đồ vật sử dụng trong cuộc sống thường nhật như khi đi nương rẫy, đi chợ mua
bán, địu con đi chơi…, mà còn là tác phẩm mỹ thuật được trang trí nhiều hoa văn, thể hiện đôi bàn tay
khéo léo, óc thẩm mỹ, gửi gắm bao tâm tư tình cảm của người làm ra nó.

b) Văn hóa tinh thần

Tôn giáo, tín ngưỡng:

• Bao bọc xung quanh thế giới thực của con người Tây Nguyên là một thế giới huyền ảo, với những tư
duy thần bí, nơi đó có sự ngự trị của các thần linh, ma quỷ, các linh hồn, mọi vật xung quanh con người
đều có Yang (hồn, thần). Có Yang tốt phù hộ cho con người và có Yang xấu, người ta có thể nhận biết
Yang qua những giấc mơ.
• Là cư dân nông nghiệp, những tín ngưỡng mang dáng nét nông nghiệp vẫn còn in đậm: lễ cầu mưa
• Một biểu hiện của tín ngưỡng nông nghiệp đó là các hình thức hiến sinh. Cho đến tận những năm đầu
của thế kỷ XX, người ta còn quan sát thấy tục săn đầu người khi thực hiện nghi lễ gieo hạt của người
Cơ-tu, đó chính là dấu vết của hiện tượng hiến sinh người. Ngày nay, nghi lễ hiến sinh được thay bằng
con vật, trong đó quan trọng nhất là hiến sinh trâu.

Lễ hội

• Mùa lễ hội Tây Nguyên kéo dài suốt mấy tháng 1, 2, 3 dương lịch. Hầu như không gian không mấy lúc
vắng tiếng chiêng cồng Các lễ hội vẫn tập trung vào việc tôn sùng cũng như cầu mong các thế lực siêu
nhiên ban phước cho mùa màng bội thu.
• Một số lễ hội lớn có thể kể đến như: Lễ cầu an cho cây trồng sau khi lúa con gái được làm sạch cỏ. Lễ
tạ ơn thần sấm, đã làm mưa xuống và tạ ơn Mẹ Lúa Yang S’ri, lễ ăn cốm (Xa Mơk) hay lễ đâm trâu để
hiến sinh cho Thần linh.

Nghệ thuật

• Nghệ thuật dân gian:


- Có sự phong phú, đa dạng về nhạc cụ, âm điệu hay chức năng. Một số loại nhạc cụ như đàn tơ rưng,
đàn kni, đàn krông pút, đàn khinh khung, đàn bró, đàn gôông; kèn arơng, kèn tơ nốt và tô tiếp bằng
sừng trâu như tù và, kèn gọi thú làm bằng một ống nứa dài. Kèn aldal, bằng ống nứa chẻ đôi, ở giữa có
“lưỡi gà” và thường được thổi để tỏ tình trai gái.
- Phần lớn các loại nhạc cụ đều có nguồn gốc từ các dụng cụ đuổi thú trên nương rẫy, được làm bằng tre
nứa, có loại làm bằng kim loại và đặc biệt là đàn đá được tổ chức thành một dàn, dựng ngay trên rẫy
• Nhiều nhạc cụ Tây Nguyên ngày nay đã được cả nước và thế giới biết đến như đàn tơ rưng, krông
pút…
• Trường ca Tây Nguyên (hay còn gọi là sử thi). Người Ê-đê gọi là Khan, người Mnông gọi là Ót
Ndrông,… Các tác phẩm nổi tiếng như trường ca Đăm San, Đăm Noi, Xing Nhã, Khinh Dú,… phản
ánh một cách trung thực, sinh động đời sống sinh hoạt cộng đồng, cuộc đấu tranh vì những lý tưởng
nhân văn cao cả mà sự kiện trung tâm là hình ảnh những anh hùng thần thoại của buôn làng Tây
Nguyên.
• Cồng chiêng Tây Nguyên: chỉ là một loại nhạc cụ mà còn là biểu tượng cho sự giàu có, quyền uy của
các gia đình. Chính vì vậy, mà hầu hết trong các buôn làng, hầu như nhà nào cũng có cồng chiêng,
thậm chí có nhiều gia đình Có tới vài bộ.

V. Văn hóa Nam Bộ

a) Văn hóa vật chất

Trang phục

• Do sống trong môi trường sông nước, cả nam và nữ, rất thích chiếc áo bà ba và chiếc khăn rằn, phụ nữ
rất thích đeo kiềng vàng, một số ít giữ nếp đeo chuỗi hột vàng quanh cổ như phụ nữ miền Bắc.
• Trong khi đó người Khơ – me và người Hoa ngày nay thì hầu như không sử dụng trang phục truyền
thống, họ chủ yếu dùng âu phục và chỉ sử dụng trang phục truyền thống trong Những dịp lễ hội tại địa
phương
Ẩm thực

• Ngoài ăn cơm tẻ là chủ yếu, người Việt họ chế biến các món ăn từ gạo nếp như; xôi, chè, bánh…. Chế
biến rất nhiều loại mắm nổi tiếng từ tôm cá bắt được tại địa phương như mắm từ cá sọc, cá trê hay cá
lóc.
• Đây là vùng đất được thiên nhiên ưu đãi, đất “làm chơi ăn thiệt” không thiếu thức ăn từ những cây cỏ,
con cá, chim trên trời, cho đến các loài sinh vật khác. Những món chế biến tại chỗ như cá nướng chui
rất được ưa Chuộng.

Nhà ở

• Nhà sàn được coi là ngôi nhà truyền thống của người Khơ- me. Nhà của người dân có kết cấu đơn giản
và sử dụng bằng vật liệu sẵn có tại địa phương.
• Nam Bộ có ít bão tố, nhiều kênh rạch, con người phải dồn sự chăm chút cho ghe xuồng và vườn tược
nên nhà của khá tạm bợ. Nhà ở của người Việt Nam Bộ có ba loại chính: nhà đất cất dọc theo ven lộ,
nhà sàn cất dọc theo kinh rạch, và nhà nổi trên sông nước.
• Nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp được coi là di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khơ – me.

b).Văn hóa tinh thần

Tôn giáo, tín ngưỡng

• Lối sống phóng khoáng, không bị khuôn phép, các tôn giáo có cơ hội tự do phát triển như Đạo Phật,
Islam… các tôn giáo, tín ngưỡng địa phương như Cao Đài, Hòa Hảo, Đạo Dừa, các tín ngưỡng dân
gian như thờ tổ tiên, thổ thần, tứ phủ….
• Cộng đồng người Hoa nổi bật trong tín ngưỡng dân gian là thờ cúng tổ tiên, gia tộc, dòng họ, thờ cúng
các vị thần phù hộ (thần Bếp, Thổ Địa, thần Tài...) và một số vị thánh, bồ tát; theo đạo Nho, Phật, Lão
với hệ thống chùa miếu khá ptrien

Lễ hội

Lễ hội của người Nam Bộ cũng rất đa dạng, có thể chia thành các dạng lễ hội sau:

• Lễ hội tín ngưỡng – tôn giáo (bao gồm các lễ hội thường niên của đạo Phật, đạo Cao Đài, Phật giáo
Hoà Hảo, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành, hội đền Linh Sơn Thánh mẫu ở núi Bà Đen, lễ hội Vía Bà
Chúa Xứ ở núi Sam, Châu Đốc…),
• Lễ hội nông nghiệp, lễ hội ngư nghiệp, lễ hội đua bò Bảy núi, Lễ hội Ok om bok, các lễ hội văn hoá –
lịch sử như lễ hội Kỳ yên tiến hành vào đầu năm và cuối năm, để tạ ơn Thành hoàng Bổn cảnh, thần
linh và các bậc tiền hiền,
• Lễ tết cổ truyền như tết Nguyên đán, Lễ hội Chol Chnam Thmay, tết Đoan ngọ..., các lễ hội tưởng niệm
các danh nhân có công mở đất như Nguyễn Hữu Kính, Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu),…
• Lễ hội tưởng niệm các anh hùng dân tộc như Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Đốc
binh Kiều, Phan Công Hớn,..

Nghệ thuật

• Có một kho tàng văn học, văn nghệ dân gian phong phú, nói vè, nói tuồng…với các truyện thơ nổi
tiếng như Lục Vân Tiên, Phạm Công – Cúc Hoa, Thoại Khanh – Châu Tuấn,...
• Ngoài ra người Nam Bộ Có một kho tàng ca dao và dân ca, đờn ca tài tử

You might also like