You are on page 1of 19

I.

LỜI MỞ ĐẦU

Trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước, trải qua biết bao thời kì bị đô hộ,
xâm lược, nền văn hóa Việt Nam đã chứng minh được sự trường tồn và sức sống mãnh
liệt của mình với thời gian. Đó là nền văn hóa kết tinh từ những giá trị vật chất và tinh
thần in đậm dấu ấn bản sắc dân tộc, là kết quả của sự lao động sáng tạo và ý chí đấu tranh
quật cường của nhân dân ta.

“Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng
phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa” (Hồ Chí Minh). Công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay đòi
hỏi cần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến nhưng vẫn phải mang
được hồn cốt của dân tộc; xây dựng nền tảng tinh thần xã hội vững chắc vừa là mục tiêu
vừa là động lực để phát triển kinh tế – xã hội. Đứng trước khó khăn của thời kì mới – thời
kì mở cửa hội nhập, Đảng và Nhà nước ta đã và đang có những chủ trương, chính sách
tạo thuận lợi cho sự giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa có những bước đi
cần thiết nhằm tránh sự “hòa tan”, đánh mất nét đặc sắc của văn hóa nước nhà.

Xuất phát từ thực tiễn đó, bài tiểu luận của nhóm chúng em hướng tới tìm hiểu đề
tài “Đảng lãnh đạo xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc từ năm 1998
đến nay” để có cái nhìn rõ nét hơn về các chủ trương, chính sách trong lĩnh vực văn hóa
đã được Đảng đề ra, cũng như những tác động của nó tới đời sống tinh thần của người
dân. Đồng thời, tiểu luận còn đề cập tới nhóm đối tượng sinh viên – những người có sự
giao lưu quốc tế mạnh mẽ có nhận thức, ý thức và hành động như thế nào đối với nền văn
hóa dân tộc. Các giải pháp, kiến nghị cũng được chúng em đưa ra nhằm khắc phục những
tiêu cực trong đời sống văn hóa – xã hội hiện nay.
Bố cục bài tiểu luận được chia làm ba phần:

Phần 1: Quan niệm về nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ kinh tế
mở.
Phần 2: Chủ trương, chính sách của Đảng trong xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc từ năm 1998 đến nay.
Phần 3: Quá trình thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng trong xây dựng nền văn
hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vào đời sống.

Trong quá trình thực hiện bài tiểu luận, nhóm chúng em khó tránh khỏi việc gặp
phải những sai sót, rất mong nhận được sự nhận xét và góp ý của cô và các bạn để bài
tiểu luận được hoàn thiện hơn.
II. NỘI DUNG
1. Quan niệm về nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong thời kỳ
kinh tế mở
1.1. Khái quát về nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã bồi đắp nên bản
lĩnh, trí tuệ, cốt cách của con người Việt Nam, kết tinh các giá trị văn hóa, tạo thành sức
mạnh nội sinh giúp toàn dân ta vượt qua vô vàn khó khăn, thử thách khắc nghiệt để đi
đến những thắng lợi vẻ vang. Hiện nay, trong bối cảnh mới, phát huy các giá trị văn hóa
là yếu tố quan trọng để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
tạo động lực thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Khái niệm “văn hóa” có nghĩa rộng, bao gồm nội hàm phong phú. Chính vì vậy có
rất nhiều định nghĩa về văn hóa. Trong Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa
tại Vơ-ni-dơ (I-ta-li-a), năm 1970, nguyên Tổng Giám đốc UNESCO F.May-ơ đã đưa ra
một khái niệm về văn hóa, vừa mang tính khái quát, vừa mang tính đặc thù, được cộng
đồng quốc tế công nhận. Ðó là "Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này
khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng,
phong tục, tập quán, lối sống và lao động". Trong Mục đọc sách ở phần cuối tác phẩm
Nhật ký trong tù được viết trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam cầm từ
29-8-1942 đến 10-9-1943 tại Quảng Tây (Trung Quốc), lãnh tụ Hồ Chí Minh viết: "Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng toàn bộ những sáng
tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh
hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu
cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn". Định nghĩa về văn hóa của Hồ Chí Minh có rất
nhiều điểm gần với quan niệm hiện đại về văn hóa, đồng thời, khắc phục được quan niệm
phiến diện về văn hóa trong lịch sử và hiện tại, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực tinh thần,
trong văn học nghệ thuật, hoặc chỉ đề cập đến lĩnh vực giáo dục, phản ánh trình độ học
vấn. Trên thực tế, văn hóa bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất và những giá trị tinh
thần mà loài người đã sáng tạo ra, nhằm đáp ứng sự sinh tồn và cũng là mục đích cuộc
sống của loài người. Ví dụ văn hóa vật chất sử dụng để chỉ khả năng sáng tạo của con
người thể hiện qua các vật thể, đồ sử dụng, dụng cụ do con người làm ra. Văn hóa tinh
thần gồm có các tư tưởng, giá trị tinh thần, những lý luận mà con người sáng tạo ra trong
quá trình sinh sống.
Về việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam, trong Cương lĩnh hiện hành của Ðảng
nêu rõ nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. “Tiên
tiến” là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội theo Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con
người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối
quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến cũng là
một khái niệm đối lập với lạc hậu lỗi thời. Văn hóa ở thời nào cũng được cuộc sống con
người chắt lọc, để giữ mặt tiên tiến loại bỏ mặt lạc hậu lỗi thời. “Tiên tiến” không chỉ về
nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội
dung. Dân chủ là đặc trưng cơ bản của nền văn hóa tiên tiến, là yếu tố làm thay đổi nhiều
mặt đời sống văn hóa dân tộc. Dân chủ là động lực cho sự phát triển tài năng, nhu cầu
sáng tạo của quần chúng nhân dân góp phần làm phong phú, đa dạng nền văn hóa dân
tộc. Nền văn hóa tiên tiến phải có sắc thái riêng, cái độc đáo của truyền thống, tâm hồn,
cốt cách, lối sống của một dân tộc, chứa đựng những tinh hoa của quá khứ kết hợp với
những cái tốt đẹp của hiện đại. Nếu không, trước xu hướng toàn cầu hóa, xu hướng áp đặt
văn hóa được truyền bá bởi sức mạnh vật chất và phương tiện kỹ thuật hiện đại sẽ biến
văn hóa của các quốc gia dân tộc thành “bản sao” của nền văn hóa khác. “Bản sắc dân
tộc” bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó
là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng
gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình,
đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối
sống... Bản sắc văn hóa dân tộc không phải bất biến mà mang tính lịch sử - cụ thể, luôn
luôn tự đổi mới trên cơ sở loại bỏ những yếu tố tiêu cực và lạc hậu, sáng tạo và xây dựng
các giá trị văn hóa mới thích ứng với yêu cầu biến đổi của thời đại. Do đó, bảo vệ bản sắc
dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái
tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống lạc
hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ.
Bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là hai mặt
của một quá trình, luôn kết hợp chặt chẽ với nhau. Trong xây dựng, phát triển văn hóa
phải lấy bản sắc văn hóa dân tộc làm nền tảng. Nền tảng có vững vàng thì mới tiếp thu
được những tinh hoa văn hóa nhân loại; chắt lọc được những gì thực sự là tinh hoa và
mới vứt bỏ được những gì là lệch lạc của bất cứ loại phản văn hóa nào từ bên ngoài. Giữ
gìn và phát huy những giá trị truyền thống, nội sinh của dân tộc, tạo cơ sở vững chắc để
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là yêu cầu khách quan trong quá trình xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

1.2. Mối quan hệ giữa bản sắc dân tộc và tính hiện đại

Văn hóa và dân tộc, hai khái niệm khác biệt nhưng liên kết chặt chẽ với nhau,
phản ánh sự đa dạng văn hóa giữa các dân tộc. Bản sắc của mỗi dân tộc được tập trung
thể hiện qua đặc trưng văn hóa riêng của chính dân tộc đó. Mặt khác, chính đời sống văn
hóa và giá trị tinh thần của một dân tộc là dấu hiệu để đánh giá nền văn hóa đó ở trình độ
nào, thuộc các cộng đồng nào trên thế giới. Vậy nên, mất đi bản sắc văn hóa là mất đi bản
chất dân tộc.
Tình yêu nước và tinh thần đoàn kết, đấu tranh, bảo vệ chủ quyền độc lập của đất
nước là biểu hiện của tinh thần dân tộc, ý thức giữ gìn những giá trị thuộc về Việt Nam.
Trong chiến tranh, người Việt Nam không chỉ sử dụng vũ khí, súng đạn mà còn chống lại
kẻ thù bằng văn hóa. Văn hóa trở thành vũ khí sắc bén trong cuộc chiến, đặc biệt hơn là
nó mang trong mình bản sắc, truyền thống dân tộc.
Bản sắc dân tộc được thể hiện rõ trong các biểu hiện đặc sắc của văn hóa dân tộc.
Để bảo vệ bản sắc này, cần phải kết hợp mở rộng và giao lưu quốc tế, nhận thức và chọn
lọc những giá trị tích cực từ văn hóa các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc dân tộc cần phải đi
kèm với việc chống lại lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề lối cũ.
Hệ thống quan điểm nhất quán về việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời tích hợp với quốc tế, là quan điểm
mang tính nhất quán. để thấy rõ hơn hệ thống quan điểm thống nhất trong quá trình hiện
đại hóa văn hóa Việt Nam cũng như việc xây dựng nền văn hóa mới, chúng ta cũng cần
nhận thức rõ mối quan hệ giữa tính đa dạng văn hóa và việc giữ gìn, phát huy bản sắc
riêng của văn hóa các dân tộc trong nền văn hóa Việt Nam thống nhất.
2. Chủ trương, chính sách của Đảng trong xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc từ năm 1998 đến nay
2.1. Bối cảnh tác động
Về bối cảnh quốc tế, toàn cầu hóa, một xu thế lớn của thế giới đang diễn ra và tác
động mạnh mẽ đến tất cả các mặt đời sống xã hội của mọi quốc gia trên thế giới. Toàn cầu
hóa đã, đang tạo ra những ưu thế, như: khả năng phát triển, phổ cập công nghệ thông tin và
các phương tiện viễn thông; thúc đẩy phát triển thương mại và mở rộng thị trường rộng lớn;
tạo điều kiện cho việc giao lưu văn hóa và tư tưởng rộng rãi; đem lại điều kiện để các nước
cùng tham gia giải quyết các vấn đề mang tính toàn cầu...
Về bối cảnh trong nước, sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam từ một nước chậm
phát triển, khó khăn, nghèo nàn về kinh tế, hạn chế về hợp tác quốc tế… đã vươn lên trở
thành nước có nền kinh tế trung bình, hội nhập sâu rộng và vị thế không ngừng được khẳng
định trên trường quốc tế. Đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân được nâng cao, đa dạng,
phong phú về chất lượng và số lượng.
Trong bối cảnh đó, hệ giá trị văn hóa Việt Nam đã có những biến đổi lớn. Một bộ phận có
xu hướng chuyển từ đề cao các giá trị tinh thần, đạo đức sang đề cao các giá trị vật chất,
kinh tế; xu hướng coi trọng các giá trị tình cảm sang coi trọng giá trị pháp lý; xu hướng dựa
vào tập thể, đề cao cộng đồng chuyển sang khẳng định cái tôi, giá trị tài năng cá nhân; xu
hướng tôn trọng kinh nghiệm, trọng lão sang đề cao tri thức khoa học, trọng tài năng, thực
lực; xu hướng trọng tĩnh chuyển sang trọng động (trọng năng động, ưa đổi mới, sáng tạo để
đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập); xu hướng sống theo tôn ti, trật tự chuyển sang đòi
hỏi cuộc sống tự do, bình đẳng…. Vì vậy, việc duy trì xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc đóng vai trò rất quan trọng trong bối cảnh hiện nay.

2.2. Chủ trương, chính sách của Đảng


*** Theo Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16/7/1998, của Ban Chấp hành Trung
ương tại Hội nghị Trung ương 5 (khóa VIII) về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc:
Phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu
nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thụ tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu
vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và
cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra
trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục
vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Hội nghị xác định
những quan điểm cơ bản:
1 - Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội;
2 - Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc
3 - Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam
4 - Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo,
trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng
5 - Văn hoá là một mặt trận; xây dựng, phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách
mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng
***Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương (khóa IX) đã tiến thêm một bước về
khẳng định vai trò của văn hóa: "Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là
trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa -
nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là
điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước".
***Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục nhấn mạnh, phải giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc; quan tâm chăm lo xây dựng, hoàn thiện những phẩm giá nhân
cách tốt đẹp của con người Việt Nam.
***Kế thừa ba nguyên tắc cuộc vận động văn hóa mới của “Đề cương Văn hóa Việt
Nam” và phát triển tư tưởng văn hóa của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống
nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ tiến bộ; làm cho văn
hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát triển. Kế thừa và phát huy
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tiếp thu những
tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích
chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ
ngày càng cao” .
3. Quá trình thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng trong xây dựng nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vào đời sống
3.1. Đánh giá kết quả trong việc thực hiện chủ trương của Đảng vào thực tiễn
Nhiều văn bản quy phạm pháp luật, các quy chế được ban hành nhằm hướng dẫn,
điều chỉnh các hoạt động văn hoá; vừa có tính chiến lược lâu dài, vừa có tính cương lĩnh
hành động trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam thời kỳ đổi mới để
thực sự bước vào thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Nhờ đó đã đạt được nhiều
thành tựu:
Vị trí, vai trò của văn hoá truyền thống được đề cao; tư tưởng, đạo đức, lối sống
của người Việt Nam có nhiều chuyển biến tích cực; Thể chế, thiết chế văn hoá được củng
cố, tăng cường về số lượng, từng bước nâng cao chất lượng; vai trò của văn hóa trong
phát triển kinh tế ngày càng được chú trọng; công tác tu bổ, tôn tạo, bảo tồn di sản văn
hoá đạt được nhiều kết quả tốt, từ việc xây dựng các văn bản pháp quy đến việc đưa các
di sản đến với thế giới; đời sống văn hoá cơ sở đã có bước phát triển mới; nhận thức về
giá trị di sản văn hoá và truyền thống văn hoá được nâng cao; xã hội hoá hoạt động văn
hoá được đẩy mạnh, nhất là trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn hoá, hoạt động sân khấu,
văn nghệ quần chúng; giao lưu, hợp tác, hội nhập văn hoá quốc tế từng bước được mở
rộng.
Đội ngũ sáng tác, biểu diễn ngày càng đông, hoạt động nghệ thuật biểu diễn phong
phú; đội ngũ cán bộ quản lý văn hóa ngày một trưởng thành. Phong trào "Toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá" có tác động to lớn đối với việc xây dựng gương người tốt
việc tốt, uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, việc xoá đói giảm nghèo, xây dựng gia
đình văn hóa, làng, xã, phường, khu phố văn hóa... góp phần ổn định chính trị, giữ gìn,
bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, xây dựng nếp sống văn hoá, môi trường văn hóa lành mạnh
ở cơ sở.
Chủ trương của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa được lan tỏa sâu rộng
trong đời sống xã hội. Nguồn lực văn hoá, mà trước hết là nguồn lực con người ngày
càng được phát huy, phát triển toàn diện. Quan hệ hợp tác quốc tế về văn hóa ngày càng
được mở rộng và phát huy sức mạnh. Nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam
đã đạt được nhiều kết quả rất quan trọng.
Tư tưởng, đạo đức và lối sống của con người Việt Nam đã có những chuyển biến
tích cực, quan trọng. Các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc được đề cao, kế thừa,
phát triển; đồng thời nhiều giá trị văn hoá và chuẩn mực đạo đức mới từng bước được
hình thành phù hợp với xu thế phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước. Tính năng
động và tích cực của mỗi người dân, doanh nghiệp được phát huy, sở trường và năng lực
sáng tạo cá nhân được khuyến khích. Không khí dân chủ trong xã hội ngày càng được mở
rộng và phát triển. Đạo lý "”uống nước nhớ nguồn", "” ăn quả nhớ người trồng cây”
được đề cao; các hoạt động "đền ơn đáp nghĩa", “hướng về cội nguồn”, tưởng nhớ các
Anh hùng dân tộc… là những hoạt động văn hoá tốt đẹp, thấm đượm tinh thần nhân văn
ngày càng nở rộ.
Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được phát triển và
ảnh hưởng tích cực đến đời sống văn hóa cả nước. Môi trường văn hóa, các thiết chế văn
hóa cơ sở, các phong trào quần chúng hoạt động văn hóa nghệ thuật đạt nhiều tiến bộ.
Gia đình văn hóa với tinh thần “ông – bà, cha – mẹ mẫu mực, con cháu thảo hiền " được
chú trọng đã phát huy những yếu tố tích cực, góp phần duy trì và bảo vệ gia phong truyền
thống – tế bào lành mạnh của xã hội.
Đội ngũ sáng tạo văn học nghệ thuật đã có những bước phát triển cả về số lượng
và chất lượng. Các hoạt động sáng tác và phổ biến văn học nghệ thuật ngày càng phong
phú, đa dạng. Nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật có chất lượng tốt hướng vào các đề tài
lịch sử, cách mạng và phản ánh sự sôi động, đa chiều, những tấm gương sáng của công
cuộc đổi mới. Đề tài cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng, đồng bào các dân tộc thiểu số
được quan tâm hơn. Văn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số có bước tiến đáng kể thể
hiện sự đa dạng, phong phú của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Hoạt động lý luận, phê
bình văn học, nghệ thuật đã đạt nhiều kết quả tích cực.
Giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hoá, nghệ thuật được mở rộng và thực sự khởi
sắc. Phát huy tiềm năng và thế mạnh, lĩnh vực du lịch đóng góp ngày càng nhiều vào phát
triển kinh tế – xã hội, đồng thời tăng cường giao lưu văn hóa giữa người dân các vùng
miền trong cả nước cũng như giới thiệu văn hóa, lịch sử Việt Nam với các du khách quốc
tế. Công tác bảo tồn và phát huy các di sản văn hoá được quan tâm chú trọng, ngày càng
chuyên nghiệp hoá và đạt được nhiều kết quả tốt, đưa các di sản đến với thế giới.
Hệ thống các thiết chế văn hoá cơ sở được quan tâm, đồng bào dân tộc ít người,
vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo ngày càng được quan tâm nhiều hơn cả vật
chất và tinh thần, góp phần cân bằng sự hưởng thụ văn hoá giữa đô thị và vùng sâu, vùng
xa. Huy động đầu tư ngày càng nhiều từ các nguồn lực xã hội, phát triển nhiều công trình
văn hóa trọng điểm cấp quốc gia đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo văn hoá của các
tầng lớp nhân dân và giao lưu, hội nhập quốc tế. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về
quản lý Nhà nước đối với hoạt động văn hóa ngày càng được hoàn thiện, tạo hành lang
pháp lý, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về văn hoá, đưa sự nghiệp văn hóa phát
triển lên tầm cao mới.
Tuy vậy, công cuộc xây dựng nền văn hóa mới ở nước ta hiện nay còn nhiều tồn
tại, bất cập cả về nhận thức, tư duy và lý luận. Để có cái nhìn sâu sắc, đánh giá khách
quan thì ta cần đi sâu vào tìm hiểu và nhìn nhận cả ở khía cạnh ưu và nhược điểm của
Nghị quyết. Bên cạnh những thành tựu rất đáng được biểu dương, vẫn còn tồn tại vô số
những hạn chế rất cần lưu ý và khắc phục:
Nhân cách văn hóa của người Việt Nam có nơi, có lúc vẫn chưa được quan tâm
ngay từ gia đình, từ nhà trường; sự tha hóa, lối sống xa hoa, phù phiếm, giả dối có xu
hướng ngày càng phát triển, bệnh thành tích và hình thức trong tổ chức các hoạt động,
các sự kiện văn hóa ngày càng lan rộng.
Hệ thống văn bản pháp quy về văn hóa chưa thích ứng với sự năng động của nền
kinh tế thị trường. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa, nghệ thuật nhiều lúc còn lúng
túng. Hoạt động trùng tu, tôn tạo, bảo tồn di sản có lúc có nơi vẫn thực hiện chưa nghiêm,
gây bức xúc trong dư luận…
Những yếu kém và sa sút này không chỉ làm suy giảm tốc độ phát triển kinh tế –
xã hội, mà còn có thể làm chệch hướng phát triển, làm xấu hình ảnh của đất nước, con
người, văn hóa Việt Nam. Đó không chỉ là một nguy cơ lớn, mà còn có thể là nguy cơ
của mọi nguy cơ, đặc biệt khi chúng ta mở rộng hội nhập với thế giới.
3.2. Giải pháp khắc phục
Một là, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc phải học tập, quán triệt và
thực hiện tốt hơn nữa các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng nói chung, về học tập lý
luận chính trị nói riêng trên tinh thần gắn lý luận với thực tiễn. Thông qua quá trình đó,
mỗi người tự soi, tự sửa, tự rèn luyện mình theo 3 chuẩn mực và nêu gương về đạo đức
cách mạng: “Tự mình phải”, “Đối với người phải”, “làm việc phải” như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ trong tác phẩm Đường Kách mệnh, năm 1927. Trong triển khai thực hiện,
chú trọng nguyên tắc “trên trước, dưới sau”, "trong trước, ngoài sau"; coi đó là việc làm
thường xuyên, liên tục, nền nếp, là nhu cầu tự thân của mỗi cán bộ, đảng viên gắn liền
với tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát.

Hai là, trong công cuộc phòng, đấu tranh chống tham nhũng và các biểu hiện tiêu
cực, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"
này, cần phải tăng cường vai trò nêu gương trong rèn luyện bản lĩnh chính trị gắn với
việc phát huy tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt và người đứng đầu nói riêng về mọi mặt. Trong đó, chú trọng yêu
cầu sự gương mẫu trong học tập nâng cao trình độ, nghiệp vụ, kỹ năng quản lý; trong rèn
luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác... trên tinh thần
thấm nhuần cảnh báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trước mặt quần chúng, không phải ta
cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những
người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho
người ta bắt chước... Muốn làm cách mạng, phải cải cách tính nết mình trước tiên”.

Ba là, cùng với việc các cơ quan chức năng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế
kiểm soát quyền lực, chống tham nhũng hiệu quả; cùng với việc bổ sung, thay thế Quy
định số 47-QĐ/TW bằng Quy định số 37-QĐ/TW về "Những điều đảng viên không được
làm" và sự phối hợp công tác giữa các cơ quan, ban, ngành chức năng để kịp thời nhận
diện rõ hơn, cụ thể hơn các hành vi tiêu cực nghiêm trọng, phức tạp có liên quan đến
tham nhũng của cán bộ, đảng viên (biến quyết tâm chính trị thành hành động thực tiễn
trong phòng, chống tham nhũng và mở rộng thêm nội hàm đấu tranh gắn với chống tiêu
cực bằng văn bản cụ thể), thì mỗi cấp ủy cũng cần phải chú trọng làm tốt công tác tư
tưởng, phát huy dân chủ, xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong từng tổ chức cơ sở
đảng để làm hạt nhân cho khối đoàn kết của từng địa phương, cơ quan, đơn vị.

Các chủ thể gia đình, trường học, xã hội đều có trách nhiệm và có khả năng đóng
góp vào việc củng cố đạo đức. Mỗi người trước tiên phải là một thành viên tốt trong gia
đình và nhà trường, thì sau đó mới trở thành thành viên tốt của xã hội. Những đức tính tốt
đẹp cần phải được thấm sâu vào tâm hồn từng người Việt từ tấm bé đến lúc trưởng thành,
đó là: “Thờ cha kính mẹ”, “Chị ngã em nâng”, “Anh em như thể chân tay”, “Trên kính
dưới nhường”, “Bán anh em xa mua láng giềng gần”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng/Tuy
rằng khác giống nhưng chung một giàn”, “Một sự nhịn là chín sự lành”, “Một cây làm
chẳng nên non/Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, “Kính thầy yêu bạn”, “Cô giáo là mẹ
hiền”, “Kính lão đắc thọ”, “Thấy người hoạn nạn cưu mang/Thấy người già yếu lại
càng chăm nom”, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/Người trong một nước phải thương
nhau cùng”…

3.3. Sinh viên vận dụng

Trong bối cảnh đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, hoàn thiện nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN và hội nhập quốc tế mạnh mẽ,
vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trên nền tảng kế thừa di sản văn hóa
của cha ông, kết hợp học hỏi những tinh hoa văn hóa nhân loại cần được đặc biệt chú
trọng. Chính vì vậy, cần thiết phải phát huy vai trò của sinh viên trong việc xây dựng nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bởi sinh viên không chỉ là những người học
tập mà còn là những người trẻ tuổi, đầy nhiệt huyết và ý chí thay đổi. Họ có khả năng tiếp
thu kiến thức mới, tư duy sáng tạo và sẵn lòng tham gia vào các hoạt động xã hội. Mỗi
sinh viên có thể góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc bằng
cách xây dựng lối sống mới - lối sống có văn hoá. Chú ý đến tất cả các thành tố cơ bản
của lối sống như mức sống, chất lượng sống, nếp sống, phong cách sống và lý tưởng
sống. Tất nhiên chúng ta không tuyệt đối hóa mức sống vì trên thực tế cũng có những
người giàu có bất chính, quan hệ ứng xử thiếu tình người thì không thể coi họ là người có
lối sống đẹp. Trong lối sống, thành tố nếp sống có vai trò rất quan trọng. Nó là mặt ổn
định của lối sống, là chiều sâu của lối sống. Ngoài ra lý tưởng sống cũng là một thành tố
quan trọng của lối sống, nói lên ý thức sống, khát vọng sống của con người. Cho nên cần
phải xây dựng lý tưởng sống để mọi người vươn tới những giá trị chân thiện mỹ, bồi
dưỡng lý tưởng cho thế hệ trẻ… Đồng thời khắc phục những thói quen tiêu cực, sống
thực dụng, sống ích kỷ, chỉ vun vén cá nhân sống vì tiền , sống gấp chỉ biết hưởng thụ,
chây lười lao động…
Hiện nay các dạng hoạt động văn hóa được duy trì khá phổ biến cơ sở là: thông tin
tuyên truyền cổ động, văn nghệ quần chúng, thư viện, câu lạc bộ, nhà văn hóa, bảo
tồn bảo tàng, nhà truyền thống, thể dục thể thao, xây dựng nếp sống văn minh,… Toàn bộ
các dạng hoạt động nêu trên chỉ có thể thực hiện tốt thông qua các thiết chế văn hóa ở cơ
sở. Vì thế xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở không chỉ dừng lại ở sự thỏa mãn nhu cầu
văn hóa cơ sở tại mà còn phải thông qua hoạt động giao lưu, gắn liền với việc củng cố và
hoàn thiện các thiết chế văn hóa. Học tập và lao động phát triển văn hóa khoa học, văn
hóa giáo dục, văn hóa nghệ thuật, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước: Về
văn hóa khoa học: tham gia lực lượng đội ngũ trí thức công nhân lành nghề, cán bộ đầu
đàn khoa học cả về số lượng lẫn chất lượng; nghiên cứu ứng dụng những thành tựu khoa
học hiện đại của thế giới, vận dụng những quy trình kỹ thuật cao vào sản xuất và đời sống
xã hội, phải đi tắt đón đầu khoa học; xây dựng và phát triển khoa học như một chiến lược
bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật làm nền tảng vật chất cho sự phát triển lâu dài của khoa
học và công nghệ, chú ý đầu tư thích đáng kinh phí cho việc nghiên cứu cơ bản, nghiên
cứu ứng dụng đặc biệt về sáng tạo phát minh, sáng kiến, sáng chế về khoa học và công
nghệ… Về văn hóa giáo dục: sinh viên học tập với mục tiêu “học để biết, học để làm, học
để chung sống và học để làm người”. Về văn hóa nghệ thuật: bản sắc văn hóa dân tộc nó
biểu hiện cụ thể và phong phú trong văn học nghệ thuật. Nhân tố gắn kết con người là
hoạt động văn hóa và sản phẩm văn hóa. Giữ gìn và phát huy các giá trị, di sản văn hóa
dân tộc, đáng chú ý là các giá trị, các di sản văn hóa của các dân tộc ít người trong cộng
đồng dân tộc Việt Nam. Các trường đại học tăng cường mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế
về văn hóa, giáo dục trên cơ sở để phát triển nền hóa dân tộc, giao lưu phải giữ vững
nguyên tắc.
Sinh viên Việt Nam đang có xu hướng học và áp dụng nhiều kiến thức quan trọng
trong việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến. Các ngành học như văn hóa, lịch sử, ngôn ngữ,
nghệ thuật và quản lý văn hóa đóng vai trò quan trọng trong việc trang bị cho sinh viên
những kiến thức cần thiết để hiểu và phát triển văn hóa dân tộc:

● Ngành văn hóa giúp sinh viên hiểu rõ về các giá trị văn hóa, tín ngưỡng và
truyền thống của dân tộc. Sinh viên được học về các hình thức nghệ thuật, âm
nhạc, mỹ thuật và văn hóa truyền thống, từ đó có thể góp phần bảo tồn và phát
triển văn hóa dân tộc.
● Lịch sử là một ngành học quan trọng giúp sinh viên hiểu về quá khứ và những
sự kiện quan trọng trong lịch sử dân tộc. Sinh viên có thể học về sự phát triển
của xã hội, chính trị và văn hóa qua các thời kỳ khác nhau. Kiến thức lịch sử
giúp sinh viên có cái nhìn tổng quan về quá khứ và từ đó rút ra bài học cho
tương lai.
● Ngôn ngữ là một yếu tố quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa.
Sinh viên học về ngôn ngữ và văn hóa của dân tộc, từ đó có thể giao tiếp và
hiểu rõ hơn về các giá trị và truyền thống của dân tộc
● Nghệ thuật là một lĩnh vực mở rộng cho sinh viên thể hiện sự sáng tạo và tư
duy nghệ thuật của mình. Sinh viên có thể tham gia vào các hoạt động biểu
diễn nghệ thuật, như diễn xuất, vũ đạo, hội họa, âm nhạc và thơ ca. Điều này
giúp sinh viên phát triển khả năng sáng tạo và thể hiện cá nhân trong việc xây
dựng nền văn hóa tiên tiến.
● Quản lý văn hóa là một ngành học mới mở ra nhiều cơ hội cho sinh viên. Sinh
viên học về cách quản lý và phát triển các hoạt động văn hóa, từ việc tổ chức
sự kiện, triển lãm, quảng cáo cho đến quản lý các tổ chức văn hóa. Điều này
giúp sinh viên có kiến thức và kỹ năng cần thiết để đóng góp vào việc xây
dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến.
Ngoài ra sinh viên còn có thể tham gia vào các hoạt động biểu diễn và giới thiệu văn hóa
dân tộc, sinh viên có thể giúp lan tỏa và tăng cường nhận thức về văn hóa đặc trưng của
Việt Nam. Họ có thể tổ chức các buổi biểu diễn truyền thống, trình diễn múa rối, hát chèo
hoặc trình diễn trang phục áo dài để giới thiệu văn hóa đến cộng đồng. Nghiên cứu về
lịch sử và truyền thống dân tộc cũng là một cách quan trọng để bảo tồn và phát triển văn
hóa dân tộc. Sinh viên có thể tham gia vào các dự án nghiên cứu, tìm hiểu về nguồn gốc
và ý nghĩa của các truyền thống văn hóa, từ đó giúp duy trì và truyền đạt kiến thức này
cho thế hệ sau.
Hơn nữa, sinh viên cũng có thể tham gia vào các dự án xã hội nhằm bảo vệ và phát triển
di sản văn hóa của Việt Nam. Đó có thể là việc tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi
trường, bảo tồn các di tích lịch sử và văn hóa, hoặc tham gia vào các dự án giáo dục và
phát triển cộng đồng.
Nhận thức rõ về tầm quan trọng của việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc, mỗi sinh viên phải tự mình phấn đấu, rèn luyện, tự trau dồi cho bản thân
những kỹ năng cần thiết, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, nỗ lực
rèn luyện vì lợi ích chung của cộng đồng và vì chính sự phát triển của cá nhân. Quan
trọng hơn, các bạn trẻ cần xây dựng bản lĩnh văn hóa, tìm hiểu, tiếp thu về những phong
tục, truyền thống quý báu của dân tộc, sẵn sàng đấu tranh với những hoạt động, sản phẩm
văn hóa không lành mạnh. Bên cạnh việc xây dựng và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,
việc xây dựng tinh thần cảnh giác đấu tranh chống âm mưu chống phá của các thế lực thù
địch trên mặt trận tư tưởng và văn hóa cũng vô cùng quan trọng. Góp phần miễn dịch cho
toàn xã hội, đặc biệt là thanh niên, sinh viên trước âm mưu diễn biến hòa bình của các thế
lực thù địch.
Sinh viên Việt Nam phấn đấu trở thành thế hệ thanh niên rèn đức luyện tài, không
ngừng nỗ lực học tập, nâng cao kiến thức, ra sức cống hiến sức mình cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Tích cực trau dồi lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa
để tránh bị tác động bởi các thế lực thù địch, phản động. Chủ động phấn đấu theo mẫu
hình thanh niên Việt Nam: tâm trong, trí sáng, hoài bão lớn, tiên phong trong công cuộc
xây dựng và đổi mới đất nước, góp sức mình vào công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.

III. KẾT LUẬN

Trong suốt hơn hai thập kỷ từ năm 1998 đến nay, Đảng lãnh đạo của nước ta đã đưa ra
mục tiêu xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và đã có những thành
tựu đáng kể trong việc thực hiện mục tiêu này.
Đầu tiên, Đảng và Nhà nước đã tăng cường quan tâm và đầu tư vào lĩnh vực văn hóa,
nhận thức được vai trò quan trọng của văn hóa trong việc xây dựng và phát triển đất
nước. Qua đó, đã xây dựng và thực hiện nhiều chương trình, dự án văn hóa mang tính
chiến lược, bao gồm cả việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Thứ hai, Đảng lãnh đạo đã đẩy mạnh công tác giáo dục và đào tạo, đặc biệt là giáo dục
văn hóa, nhằm nâng cao nhận thức về văn hóa, đạo đức và tư tưởng cho toàn dân. Qua
đó, đã tạo ra một thế hệ trẻ có ý thức về bản sắc dân tộc và đóng góp tích cực vào việc
xây dựng nền văn hóa tiên tiến.

Thứ ba, Đảng lãnh đạo đã thúc đẩy sự phát triển và tăng cường quyền lợi cho các ngành
nghề và nghệ nhân truyền thống. Điều này đã góp phần quan trọng vào việc bảo tồn và
phát triển các nghệ thuật truyền thống, từ điêu khắc, mỹ thuật, âm nhạc đến văn học và di
sản văn hóa.

Cuối cùng, Đảng lãnh đạo đã thực hiện chính sách khuyến khích sáng tạo và phát triển
văn hóa đương đại. Qua đó, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà văn, nghệ sĩ, nhạc sĩ,
diễn viên và các nhà sáng tạo khác để phát triển tài năng và đóng góp vào sự phát triển
của nền văn hóa.

Tổng kết lại, từ năm 1998 đến nay, Đảng lãnh đạo đã thực hiện nhiều biện pháp quan
trọng và đạt được những thành tựu đáng kể trong việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều thách thức và vấn đề cần được
giải quyết để đạt được một nền văn hóa tiên tiến, phát triển và bền vững trong tương lai.

Khẳng định vị trí và vai trò quan trọng của văn hóa, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn
mạnh: “Văn hoá là hồn cốt của Dân tộc, nói lên bản sắc của Dân tộc. Văn hoá còn thì
Dân tộc còn,...”. Hội nhập là điều thiết yếu, không một quốc gia nào muốn phát triển mà
nằm ngoài vòng xoáy hội nhập liên kết, thuận lợi đan xen với khó khăn đòi hỏi sự nhận
thức và hành động đúng đắn của mọi người dân, đặc biệt là sinh viên – những người sau
này sẽ làm chủ đất nước. Liệu nền văn hóa Việt Nam sẽ tiếp tục được gìn giữ, phát triển
và đạt tới đỉnh cao hay sẽ bị “hòa tan” và đánh mất bản sắc độc đáo của riêng mình, đánh
mất bao công lao to lớn của ông cha ta để lại? Điều này phụ thuộc tất cả vào nỗ lực bền bỉ
của toàn Đảng, toàn dân, toàn xã hội, và là trách nhiệm của mọi người con đất Việt dù
đang sinh sống tại Việt Nam hay ở nước ngoài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Đặng, T.M.N (2022), “Một số quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa và nâng tầm văn
hóa Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản.

Hoài, P. (2013), “Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII)”, Tạp chí
Cộng sản.

Nguyễn, V.H. (2013), “Nhìn lại nghị quyết trung ương 5 (khóa VIII) sau 15 năm phát triển văn
hóa(1998-2013)”, Tạp chí nghiên cứu văn hóa, Đại học Văn hóa Hà Nội.

Đinh, G. (2022), “Giá trị văn hóa với xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, tạo động lực thực hiện khát vọng phát triển đất nước”, Tạp chí Cộng sản.

Báo Lao động (2021), “Văn hoá là hồn cốt dân tộc, văn hoá còn thì dân tộc còn”,
https://laodong.vn/thoi-su/van-hoa-la-hon-cot-dan-toc-van-hoa-con-thi-dan-toc-con-977389.ldo,
truy cập ngày 08/10/2023.

You might also like