You are on page 1of 9

NHẬN THỨC CHUNG VÊ VĂN HÓA

1.1Khái quát về văn hóa:

Văn hóa là gì??  Từ xưa, nền "văn hiến" (văn hóa) lâu đời của dân tộc đã có
trong niềm tự hào của cha ông ta khi khẳng định về độc lập, chủ quyền của đất
nước trước kẻ thù xâm lược. Văn hóa là một di sản cực kỳ quý báu được kế thừa
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ngày hôm nay, văn hóa xuất hiện trên hầu hết
các lĩnh vực của cuộc sống: văn hóa tình cảm, văn hóa giao tiếp, văn hóa kinh
doanh, văn hóa tranh luận, phê bình. Sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo
ra và phát triển trongquan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn
hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã
hội. Văn hóa được truyền từthế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã
hội hóa. Văn hóa được tái tạo vàphát triển trong quá trình hành động và tương
tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã
hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động
của con người cũng như trong giá trị vậtchất và tinh thần mà do con người tạo
ra.

Khái niệm về văn hóa: Từ văn hóa có rất nhiều nghĩa. Trong tiếng
việt,vănhóa được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức,lối sống. Theo
nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn. Trong khi theo
nghĩa rộng,thì văn hóa bao gồm tất cả,từ những sản phẩm tinh vi,hiện đại,cho
đến tín ngưỡng,phong tục,lối sống...

Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam -
Bộ Giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB Văn hóa – Thông
tin,xuất bản năm 1998, thì: “Văn hóa là những giá trị vật chất, tinh thần do con
ngườisáng tạo ra trong lịch sử”.

Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, do NXB Đà Nẵng và
Trungtâm Từ điển học xuất bản năm 2004 thì đưa ra một loạt quan niệm về văn
hóa:Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con
người sángtạo ra trong quá trình lịch sử. -văn hóa là một hệ thống hữu cơ các
giá trị vật chấtvà tinh thần do con người sng1 tạo và tích lũy qua quá trình hoạt
động thực tiễn,trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên xã
hội.

Văn hóa là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời
sống tinhthần (nói tổng quát);Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học (nói khái
quát);Văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn
minh;Văn hóa còn là cum từ để chỉ một nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ
xưa, được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật có những đặc điểm
giống nhau, ví dụVăn hóa Hòa Bình, Văn hóa Đông Sơn .

Trong cuốn Xã hội học Văn hóa của Đoàn Văn Chúc, Viện Văn hóa và
NXBVăn hóa – Thông tin, xuất bản năm 1997, tác giả cho rằng: Văn hóa – vô
sở bất tại:Văn hóa – không nơi nào không có! Điều này cho thấy tất cả những
sáng tạo củacon người trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa; nơi nào có con
người nơi đó cóvăn hóa.

Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, PGS.TSKH Trần Ngọc
Thêmcho rằng: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần
do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình.

Theo tổ chức giáo dục và khoa học của Liên Hiệp Quốc UNESCO: Văn hóa
bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc kia.

Như vậy, có thể thấy rằng: Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do con
người sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên.

1.2Mối quan hệ giữa bản sắc dân tộc với tính hiện đại :
Văn hóa - dân tộc là hai phạm trù khác nhau nhưng liên quan chặt chẽ với
nhau vì sự khác nhau giữa các dân tộc là sự khác nhau về văn hóa. Bản sắc
mỗi dân tộc được thể hiện tập trung ở bản sắc văn hóa của chính dân tộc đó.
Mặt khác, chính đời sống văn hóa và giá trị tinh thần của một dân tộc là dấu
hiệu để đánh giá nền văn hóa đó ở trình độ nào, thuộc các cộng đồng nào
trên thế giới. Như vậy, đánh mất bản sắc văn hóa riêng là đánh mất dân tộc.
Người Việt Nam yêu nước, căm thù giặc mà đoàn kết đấu tranh, bảo vệ chủ
quyền và độc lập của đất nước. Đó là biểu hiện của tinh thần dân tộc, ý thức
giữ gìn những gì thuộc về Việt Nam. Nhân dân ta đấu tranh với kẻ thù
không chỉ bằng vũ khí, súng đạn mà bằng cả văn hóa. Trong các thời kỳ
cách mạng, văn hóa được coi là một mặt trận. Văn hóa trở thành một vũ khí
sắc bén để đấu tranh với kẻ thù. Nó có thể phát huy được hiệu quả đấu tranh
khi mang trong mình bản sắc, truyền thống dân tộc.. Từ xưa đến nay văn
hóa làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng người Việt Nam vượt qua
biết bao sóng gió, thác ghềnh tưởng chừng không thể vượt qua để không
ngừng phát triển và lớn mạnh. Đó là điểm tựa vững chắc để chúng ta đến
với thế giới. Văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh
hoa của cộng đồng các dân tộc được vun đắp nên trong lịch sử hàng ngàn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, hình thành qua nhiều thế hệ, tầng
nấc thang biến đổi, phát triển. Vì thế, nó kết tinh những gì đặc sắc nhất, đẹp
đẽ nhất, độc đáo nhất của các cộng đồng dân tộc Việt Nam, nó có giá trị bền
vững, trường tồn cùng thời gian, nó như chất keo kết nối cộng đồng người
gắn bó với nhau, để cùng tồn tại và phát triển. Biểu hiện cụ thể của nó là:
Lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức
cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc, lòng nhân ái,
khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao
động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Bản sắc dân tộc
còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.
Văn hóa thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: cách tư duy,
cách sống, cách dựng nước, giữ nước, cách sáng tạo trong văn hóa, khoa
học, văn học, nghệ thuật,… nhưng được thể hiện sâu sắc nhất là trong hệ giá
trị của dân tộc, nó là cốt lõi của một nền văn hóa. Nó là cơ sở tinh thần cho
sự ổn định xã hội và sự vững vàng của chế độ. Trong sự tiến bộ và phát triển
của xã hội, các giá trị này thường không biến mất mà hóa than vào các giá
trị của thời sau, theo quy luật kế thừa và tái tạo. Con người không thể sống
tách khỏi cộng đồng cũng như mỗi dân tộc không thể sống biệt lập với thế
giới. Trong lịch sử, các quốc gia luôn có sự tiếp xúc, giao lưu với nhau qua
các cuộc di cư lớn nhỏ, chiến tranh xâm lược, trao đổi kinh tế, vật phẩm,
quan hệ hôn nhân, ngoại giao... Và như thế bản sắc văn hóa dân tộc không
chỉ được hình thành nên bằng những yếu tố bản thân vốn có mà còn có sự
tiếp nhận, biến đổi văn hóa nước ngoài sao cho phù hợp, để nâng lên thành
cái riêng đặc sắc của từng dân tộc. Với những ý nghĩa và giá trị của mình,
bản sắc văn hóa của dân tộc có sức sống trường tồn. Qua giao lưu hội nhập,
nền văn hóa nước ngoài song song tồn tại cùng văn hóa Việt Nam. Văn hóa
không đồng nghĩa với quá khứ, nó vẫn không ngừng tiếp thu những cái mới
để làm phong phú cho mình, tuy nhiên cái bản chất, tinh hoa thì không bao
giờ được thay đổi, mà phải được gìn giữ, vun đắp. Đó là khí phách, tâm hồn,
bản lĩnh dân tộc, là cơ sở để dân tộc ta hòa nhập với tiến trình giao lưu quốc
tế mà không tự đánh mất mình. Văn hóa Việt Nam? Nước ta có 54 dân tộc
anh em, mỗi dân tộc có những sắc thái, bản địa riêng, chúng bổ sung cho
nhau làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân
tộc. Điều đó cho chúng ta thấy nền văn hóa nước ta là nền văn hóa thống
nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc. Vốn văn hóa truyền thống
của dân tộc được gìn giữ và phát huy qua nhiều hoạt động văn hóa. Văn hóa
là một chỉnh thể đồ sộ, phong phú nằm trong tất cả các lĩnh vực, ví dụ như:
tri thức, triết học tư tưởng, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật,
phong tục, tập quán, ngôn ngữ... nó vừa là "trầm tích" của tình cảm và ý
thức văn hóa trong quá khứ, vừa là kết tinh của tinh thần thời đại và định
hướng giá trị của văn hóa. Người Việt vốn thiết thực, chuộng ăn chắc mặc
bền. Đầu tiên là ăn, "có thực mới vực được đạo", "trời đánh còn tránh bữa
ăn". Cơ cấu ăn thiên về thực vật, cơm rau là chính cộng thêm thuỷ sản. Luộc
là cách nấu ăn đặc sắc của Việt Nam. Nhưng cách thức chế biến món ăn lại
giầu tính tổng hợp, kết hợp nhiều chất liệu và gia vị. Việt Nam là đất nước
của lễ hội quanh năm, nhất là vào mùa xuân, nông nhàn. Các tết chính là tết
Nguyên đán, tết Rằm tháng Giêng, tết Hàn Thực, tết Đoan Ngọ, tết Rằm
tháng Bảy, tết Trung Thu, tết Ông táo... Mỗi vùng thường có lễ hội riêng,
quan trọng nhất là các lễ hội nông nghiệp (cầu mưa, xuống đồng, cơm
mới...), các lễ hội nghề nghiệp (đúc đồng, rèn, pháo, đua ghe...). Tín ngưỡng
dân gian Việt Nam từ cổ xưa đã bao hàm: tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng
sùng bái tự nhiên và tín ngưỡng sùng bái con người. Con người cần sinh sôi,
mùa màng cần tươi tốt để duy trì và phát triển sự sống, nên đã nảy sinh tín
ngưỡng phồn thực. Người Việt tự nhận là thuộc về họ Hồng Bàng, giống
Tiên Rồng (Hồng Bàng là tên một loài chim nước lớn, Tiên là sự trừu tượng
hóa một giống chim đẻ trứng, Rồng sự trừu tượng hóa từ rắn, cá sấu). Rồng
sinh ra từ nước bay lên trời là biểu trưng độc đáo đầy ý nghĩa của dân tộc
Việt Nam. Trong tín ngưỡng sùng bái con người, phổ biến nhất là tục thờ
cúng tổ tiên, gần như trở thành một thứ tôn giáo của người Việt. Việt Nam
trọng ngày mất là dịp cúng giỗ hơn ngày sinh. Nhà nào cũng thờ Thổ công
là vị thần trông coi gia cư, giữ gìn hoạ phúc cho cả nhà. Làng nào cũng thờ
Thành Hoàng Làng – vị thần cai quản che chở cho cả làng. Về lĩnh vực văn
học, Văn học Việt Nam xuất hiện khá sớm, có hai thành phần là văn học dân
gian và văn học viết. Văn học dân gian chiếm vị trí quan trọng ở Việt Nam,
có công lớn gìn giữ phát triển ngôn ngữ dân tộc, nuôi dưỡng tâm hồn nhân
dân. Sáng tác dân gian gồm thần thoại, sử thi, truyền thuyết, cổ tích, truyện
cười, câu đố, tục ngữ, ca dao... với nhiều màu sắc các dân tộc ở Việt Nam.
Văn học cổ điển đã tạo nên những kiệt tác như Truyện Kiều (Nguyễn Du),
Cung óan ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Chinh phụ ngâm (Đặng Trần
Côn), Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi)... Việt Nam từ mấy thế kỉ trước đã có
những cây bút nữ độc đáo: Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà huyện
Thanh Quan. Văn xuôi hiện đại có những tác giả không thể nói là thua kém
thế giới: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng,
Nguyễn Tuân, Nam Cao... Bên cạnh đó là những nhà thơ đặc sắc như Xuân
Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Tố Hữu... Tiếc
rằng hiện nay chưa có những tác phẩm lớn phản ánh đầy đủ, trung thực và
xứng đáng đất nước và thời đại. Việt Nam có khoảng 50 nhạc cụ dân tộc,
trong đó bộ gõ là phổ biến nhất, đa dạng nhất và có nguồn gốc lâu đời nhất
(trống đồng, cồng chiêng, đàn đá, đàn tơ rưng...). Bộ hơi phổ biến là sáo,
khèn, còn bộ dây độc đáo nhất có đàn bầu và đàn đáy. Thể loại và làn điệu
dân ca Việt Nam rất phong phú khắp Trung, Nam, Bắc: từ ngâm thơ, hát ru,
hò đến hát quan họ, trống quân, xoan, đúm, ví giặm, ca Huế, bài chòi, lý,
ngoài ra còn có hát xẩm, chầu văn, ca trù. Nghệ thuật sân khấu cổ truyền có
chèo, tuồng. Rối nước cũng là một loại hình sân khấu truyền thống đặc sắc
có từ thời Lý. Đầu thế kỉ 20, xuất hiện cải lương ở Nam bộ với các điệu
vọng cổ. Ở Việt Nam, nghệ thuật chạm khắc đá, đồng, gốm đất nung ra đời
rất sớm có niên đại 10000 năm trước Công nguyên. Sau này gốm tráng men,
tượng gỗ, khảm trai, sơn mài, tranh lụa, tranh giấy phát triển đến trình độ
nghệ thuật cao. Nghệ thuật tạo hình Việt Nam chú trọng diễn tả nội tâm mà
giản lược về hình thức, dùng nhiều thủ pháp cách điệu, nhấn mạnh. Văn hóa
Việt Nam, với một lịch sử có từ hàng nghìn năm của người Việt cùng với
những hội tụ về sau của các dân tộc khác, từ văn hóa bản địa của người Việt
cổ từ thời Hồng Bàng đến những ảnh hưởng từ bên ngoài trong trong hàng
nghìn năm nay, với những ảnh hưởng từ xa xưa của Trung Quốc và Đông
Nam Á đến những ảnh hưởng của Pháp từ thế kỷ 19, phương Tây trong thế
kỷ 20 và toàn cầu hóa từ thế kỷ 21, Việt Nam đã có những thay đổi về văn
hóa theo các thời kỳ lịch sử, có những khía cạnh mất đi nhưng cũng có
những khía cạnh văn hóa khác bổ sung vào nền văn hóa Việt Nam hiện
đại.Văn hóa còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc
độc đảo . Bảo vệ văn hóa phải gắn kết với mở rộng và giao lưu quốc tế , tiếp
thu có chọn lọc những cái hay , cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác .
Giữ gìn văn hóa phải đi liền với chống lạc hậu , lỗi thời trong phong tục ,
tập quản , lề lối cũ “ Đây chính là hệ thống quan điểm mang tính nhất quản
của việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đồng thời
mang tính quốc tế vô sản sâu sắc Song , để thấy rõ hơn hệ thống quan điểm
thống nhất trong quá trình hiện đại hóa văn hóa Việt Nam cũng như việc
xây dựng nền văn hóa mới , chúng ta cũng cần nhận thức rõ mối quan hệ
giữa tỉnh đa dạng văn hóa và việc giữ gìn , phát huy bản sắc riêng của văn
hóa trong nền văn hóa Việt Nam thống nhất.
Văn hóa là những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời
sống tinhthần (nói tổng quát);Văn hóa là tri thức, kiến thức khoa học (nói
khái quát);Văn hóa là trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn
minh;Văn hóa còn là cum từ để chỉ một nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử
cổ xưa, được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật có những đặc
điểm giống nhau, ví dụ Văn hóa Hòa Bình, Văn hóa Đông Sơn.Trong cuốn
Xã hội học Văn hóa của Đoàn Văn Chúc, Viện Văn hóa và NXB Văn hóa -
Thông tin,xuất bản năm 1997, tác giả cho rằng: Văn hóa – vô sở bất tại:Văn
hóa - không nơi nào không có! Điều này cho thấy tất cả những sáng tạo của
con người trên nền của thế giới tự nhiên là văn hóa; nơi nào có con người
nơi đó có văn hóa.Trong cuốn Tìm về văn hóa Việt Nam, PGS.TSKH Trần
Ngọc Thêm cho rằng: Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và
tinh thần tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của
mình.Theo tổ do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động
thực tiễn, trong sự chức giáo dục và khoa học của Liên Hiệp Quốc
UNESCO: Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với
dân tộc kia.

Như vậy, có thể thấy rằng: Văn hóa là tất cả những giá trị vật thể do con người
sáng tạo ra trên nền của thế giới tự nhiên. Sinh viên cần phải làm gì để củng cố
và phát triển văn hóa Việt Nam Bản sắc văn hoá được coi là tấm giấy thông
hành để mỗi con người bước ra với cộng đồng nhân loại mà không bị trộn lẫn.
Điều này càng có ý nghĩa quan trọng khi chúng ta đang xây dựng nền kinh tế thị
trường, giao lưu và hội nhập với thế giới trong xu thế toàn cầu hoá. Bởi vậy,
việc giữ gìn, củng cố và phát triển văn hóa là nhiệm vụ quan trọng xuyên suốt
trong quá trình phát triển đất nước. Là một sinh viên, một bộ phận quan trọng
của dân tộc, là trụ cột tương lai của nước nhà, cần phải nhận thức rõ được tầm
quan trọng đối với nhiệm vụ giữ gìn và phát huy văn hóa, phải có nhận thức
đúng đắn về các giá trị văn hóa từ đó nâng cao trách nhiệm bản thân về bảo vệ
và phát triển văn hóa cội nguồn. Trước hết, đối với góc độ là một công dân Việt
Nam, phải luôn tin tưởng vào đường lối của Đảng, có tinh thần yêu nước, tự
cường , phấn đấu vì độc lập và chủ nghĩa xã hội, có chí vươn lên đưa đất nước
thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp
đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; cần có lối sống
lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ
cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi
trường sinh thái. Đối với góc độ là một người sinh viên, phải biết “tôn sư, trọng
đạo”, giữ gìn đạo đức, nhân cách của bản thân; có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn
đấu vì lợi ích chung; thường xuyên học tập trau dồi kiến thức, nâng cao hiểu
biết, trình độ chuyên môn của mình, thường xuyên tìm hiểu về văn hóa cội
nguồn dân tộc để có cái nhìn đúng đắn về văn hóa dân tộc. Bên cạnh đó, cần mở
rộng giao lưu văn hóa với bạn bè quốc tế. Tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân
văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài. Tích cực giới thiệu rộng rãi những tinh
hoa, bản sắc văn hóa Việt Nam, những thành tựu to lớn của hơn hai mươi năm
đổi mới đất nước và chính sách hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta, góp
phần nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Coi trọng kế thừa phát huy
truyền thống văn hoá dân tộc là việc làm cần nhân rộng không chỉ riêng cho bản
thân, mà còn cần cho tất cả mọi người xung quanh. Cần đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, vận động mọi người xung quanh tích cực tham gia các hoạt động
văn hóa; phát hiện và biểu dương kịp thời các gương điển hình, các cá nhân, tập
thể có những đóng góp tiêu biểu cho việc xây dựng đời sống văn hóa. Tóm lại,
các giá trị tốt đẹp của xã hội và con người Việt Nam là sản phẩm của lịch sử
dựng nước và giữ nước suốt mấy ngàn năm của dân tộc và là bản chất của quá
trình lịch sử ấy. Các thế hệ ông cha đã sản sinh ra những giá trị văn hóa ; kế
thừa, phát huy và phát triển là công việc của con cháu, của thế hệ sinh viên hôm
nay

You might also like