You are on page 1of 4

ĐỀ CƯƠNG HỌC PHẦN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

I-Các vùng văn hóa Việt Nam


 Đất nước Việt Nam có địa hình, khí hậu đa dạng nên đã hình thành nhiều vùng
văn hóa khác nhau.
A. Vùng văn hóa Tây Bắc: Hệ thống núi non trùng điệp bên hữu ngạn sông
Hồng, thuộc lưu vực sông Đà, kéo dài tới phía bắc tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An.
Có trên 20 dân tộc sinh sống, tiêu biểu là hai dân tộc Thái và Mường. Thành tựu
văn hóa nổi bật:
• Hệ thống mương phai dẫn nước từ suối vào ruộng trồng lúa.
• Trang phục hoa văn sặc sỡ: khăn váy áo.
• Ca múa xòe, khèn, sáo...
Gồm các tỉnh: Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình và một số vùng của tỉnh Thanh Hóa,
Nghệ An giáp giới nước Lào.
B. Vùng văn hóa Việt Bắc (còn gọi: vùng Đông Bắc) Núi non hiểm trở bên tả
ngạn sông Hồng. Cư dân chủ yếu người Tày và Nùng.
Gồm sáu tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà
Giang. Trang phục giản dị, quần áo chàm Có hệ thống văn tự sớm, văn học phát triển.
C. Vùng văn hóa Bắc Bộ (vùng Thăng long, vùng sông Hồng) Gồm các tỉnh
đồng bằng Bắc Bộ: Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương,
Hưng Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình,Thanh Hóa, Nghệ
An.
Cư dân chủ yếu là người Việt Kinh, sống thành làng xã.Vùng này đất đai trù phú,
phát triển toàn diện, sẽ là nguồn cội của văn hóa Trung bộ và Nam bộ sau này và trở
thành trung tâm văn hóa cả nước.
D. Vùng văn hóa Trung Bộ Dải đất hẹp và dài dọc theo biển Đông, từ tỉnh
Quảng bình tới tỉnh Phan Thiết. Khí hậu khắc nghiệt, đất đai khô cằn. Dân Việt từ
ngoài vào, sinh sống chủ yếu bằng nghề biển. Con người chịu đựng gian khổ, cần cù,
hiếu học. Chủ nhân đầu tiên là người Chăm (gốc Indonesien), trước đây dựng nên
vương quốc Cham Pa, sau sáp nhập vào nước Đại Việt (thời Lê). Bộ phận văn hóa
Chăm chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ với nhiều thành tựu đặc sắc về kiến trúc và điêu
khắc...tiêu biểu là những Tháp Chàm. Trung tâm của vùng văn hóa Trung bộ là tỉnh
Thừa Thiên - Huế.
E. Vùng văn hóa Tây Nguyên Phía đông dãy Trường Sơn, bốn tỉnh Gia Lai,
Kontum, Đak Lak, Lâm Đồng. Trên 20 dân tộc, đây là vùng có nhiều thành tựu văn
hóa cổ đặc sắc, như các lễ hội, nhạc cụ cồng chiêng, dân ca, lễ hội, trường ca cổ (Đam
San, Xing Nhã...).
F. Vùng văn hóa Nam Bộ Hai lưu vực sông Đồng Nai và sông Cửu Long, gọi là
miền Đông Nam bộ và Tây Nam Bộ, trung tâm là thành phố Sài Gòn -Gia Định. Đồng
bằng rộng rãi, kinh rạch chằng chịt, khí hậu 2 mùa mưa và khô rõ rệt, điều hòa. Những
cư dân bản địa như Khmer (miền Tây) và Mạ, Stieng, Chơ ro, Mnông sinh sống (miền
Đông) cùng với những cư dân đến sau như Việt, Hoa, Chăm xây dựng cuộc sống. Nhà
ở dọc theo kênh rạch và đường lộ trong những làng xã mở. Sản xuất chủ yếu làm
ruộng lúa nước và nghề đánh bắt cá sông biển. Đồ ăn thiên về thủy sản. Tín ngưỡng,
tôn giáo rất phong phú và đa dạng. Tính cách con người phóng khoáng. Vùng đất này
tiếp xúc sớm với phương Tây. Nhưng trong lòng người dân vẫn in đậm hai câu thơ:
“Từ thuở mang gươm đi mở cõi Ngàn năm thương nhớ đất Thăng long”
II- Phân biệt văn hóa, văn hiến, văn minh, văn vật

Những khái niệm văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật thường được sử dụng rất nhiều trong
cuộc sống nhưng với những ý nghĩa chưa thực sự chính xác. Vì thế, chỉ ra sự khác nhau về
bản chất giữa những phạm trù này là cần thiết cho các quá trình nhận thức và nghiên cứu.
 
Văn minh
Theo quan điểm của các nước thì văn minh được biết đến như sau
- Phương Đông: văn minh chỉ tia sáng của đạo đức, biểu hiện ở chính trị, pháp luật, văn hóa,
nghệ thuật 
- Phương Tây: (civitas: đô thị, thành phố) văn minh chỉ xã hội đạt tới giai đoạn tổ chức đô thị
và chữ viết
- Văn minh chỉ trình độ văn hóa về phương diện vật chất, đặc trưng cho 1 khu vực rộng lớn, 1
thời đại hoặc cả nhân loại. Văn minh có thể so sánh cao thấp, văn hóa chỉ là sự khác biệt.
Văn minh (civilization) gốc La tinh là “civitas”, nghĩa là “đô thị”, hàm ý một giai đoạn con
người đã thoát khỏi tình trạng cư trú tự nhiên sang cư trú có bố trí quy hoạch, mang nhiều yếu
tố nhân tạo.
- Do vậy khái niệm văn minh chỉ khía cạnh vật chất, kĩ thuật. Văn minh là những thành tựu
đã đạt được khi văn hóa phát triển đến một mức độ nhất định của một không gian xã hội nhất
định.
Vú dụ: văn minh Ai Cập cổ đại, văn minh Địa Trung Hải, văn minh Hoa-Hạ, văn minh trống
đồng, văn minh cơ khí, văn minh châu Âu...
+ Văn hóa xuất hiện trước văn minh. Trước khi xuất hiện văn minh Văn Lang- Âu Lạc, Việt
Nam đã xuất hiện một số nền văn hóa như: văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn.
 
Văn hiến:
văn = vẻ đẹp, hiến = hiền tài. Văn hiến thiên về các giá trị tinh thần do hiền tài sáng tạo ra.
VD: chữ viết, thơ văn, phong tục tập quán.
 
Văn vật:
văn = vẻ đẹp, vật = vật chất. Văn vật thiên về những giá trị văn hóa vật chất. Biểu hiện ở
những công trình, hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử.
VD: Phở Hà Nội, Cốm Làng Vòng, Gốm Bát Tràng
Văn hiến, văn vật chỉ là 1 bộ phận của văn hóa.
Xét trong mối tương quan liên hệ với nhau, có thể thấy:
Về đối tượng, văn hóa bao gồm tất cả các yếu tố vật chất và tinh thần, văn vật thiên về yếu
tố vật chất hơn, văn hiến chủ yếu tập trung về các yếu tố tinh thần con văn minh lại thiên về
các yếu tố vật chất kĩ thuật. 
Trong khi văn hóa, văn hiến, văn vật có tính lịch sử, tính dân tộc thì văn minh lại có tính
quốc tế và chỉ sự phát triển theo giai đoạn. 
Cũng bởi những thuộc tính đó mà văn minh thường gắn với xã hội phương tây còn văn
hóa ,văn hiến văn vật lại thân thuộc hơn với xã hội phương Đông.
 
Kẻ bảng dễ quan sát hơn
  Văn hóa Văn hiến Văn vật Văn minh
Vật chất và tinh Thiên về tinh Thiên về vật Thiên về yếu tố vật chất khoa
Đối tượng
thần thần chất học kĩ thuật
Chỉ sự phát triển, mang tính giai
Tính lịch sử
Tính chất đoạn
Tính dân tộc Tính quốc tế
Kiểu xã
Phương Đông Phương Tây
hội

LIÊN HỆ BẢN THÂN BẢO TỒN, PHÁT HUY ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC

Đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực, sức mạnh nội sinh
quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất nước, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội
nhập kinh tế quốc tế. Điều này đúng với khẩu hiệu của chúng ta trong thời đại ngày nay: Hòa
nhập chứ không hòa tan, chúng ta hội nhập với sự phát triển của thế giới nhưng song song với
đó vẫn giữ được những nét truyền thống, nét đặt trưng của dân tộc.

Tuy nhiên giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không có nghĩa là đóng cửa, khép kín, “nhốt” nền
văn hóa dân tộc khỏi sự ảnh hưởng của bên ngoài mà nó đồng nghĩa với việc giao lưu hợp tác
văn hóa để tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại tiến bộ làm cho nền văn hóa dân tộc
giàu có hơn, hiện đại hơn, có sức sống mãnh liệt hơn, đề kháng trước những yếu tố phản văn
hóa.

Chúng ta cần phải trang bị cho mình tình yêu nước, tự hào về dân tộc, có như vậy thì mới giữ
được những nét đặc trưng của dân tộc mình. Bên cạnh đó, những tri thức đúng đắn về văn
hóa đất nước cũng là điều vô cùng cần thiết. Phải hiểu đúng thì mới bảo vệ được nó, phải
hiểu đúng thì mới không làm nó mất đi, mai một dần theo thời gian.

Trước xu thế toàn cầu hóa của thế giới hiện nay, chúng ta không thể phát triển trong sự tách
biệt với thế giới. Hội nhập kinh tế, giao lưu về văn hóa giữa các nước đang diễn ra hết sức sôi
động. Nhưng nếu không có một bản lĩnh vững vàng, một chiến lược phát triển đúng đắn thì
việc giao lưu đó sẽ dẫn đến nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Để mở rộng giao lưu,
hội nhập mà không đánh mất bản sắc của mình, chúng ta phải trở về với Tư tưởng Hồ Chí
Minh: Bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, những phải lấy
bản sắc văn hóa dân tộc làm nền tảng, làm bản lĩnh. Nền tảng có vững chắc, bản lĩnh có vững
vàng mới tiếp thu được tinh hoa văn hóa nhân loại một cách đúng đắn, mới chủ động, tự tin
hội nhập và làm giàu thêm, sáng lên đặc trưng văn hóa dân tộc.

You might also like