tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa." Phạm trù văn hóa là gì? Văn hoá là một phạm trù gắn với lịch sử hình thành và phát triển của nhân loại. Với tư cách là kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa con người với con người, thiên nhiên, xã hội, trong nếp sống, lối sống, đạo đức xã hội, văn hoá nghệ thuật…Văn hoá chính là nền tảng tinh thần thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của một dân tộc, là một chủ thể thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển toàn diện của văn minh con người và xã hội trong tiến trình lịch sử. Trong văn hóa sẽ gồm có văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần đều là do con người sáng lập ra nhưng đây là các loại văn hóa không giống nhau. Ví dụ văn hóa vật chất sử dụng để chỉ khả năng sáng tạo của con người thể hiện qua các vật thể, đồ sử dụng, dụng cụ do con người làm ra. Văn hóa tinh thần gồm có các tư tưởng, giá trị tinh thần, những lý luận mà con người sáng tạo ra trong quá trình sinh sống. Đặc điểm của văn hóa: Văn hóa mang tính hệ thống: Tương tự như tính lịch sử, văn hoá cũng được đúc kết theo chuỗi các sự kiện, kết nối trong suốt chiều dài lịch sử gắn với quá trình phát triển của dân tộc, quốc gia. Văn hóa mang tính giá trị của cả một dân tộc: Bất cứ một khía cạnh nào của văn hoá cũng mang đến một giá trị nào đó. Có thể có tính tức thời hoặc có thể mang tính lâu dài. Tuy nhiên, nhìn chung, văn hoá mang đến ý nghĩa tốt đẹp, thậm chí nhiều trường hợp còn trở thành thước đo chuẩn mực của con người và xã hội. Văn hóa mang tính nhân sinh sâu sắc: Văn hóa được hình thành từ rất sớm nên tính nhân sinh theo đó cũng rất sâu sắc phù hợp với phạm trù của nó. Văn hóa mang tính lịch sử: Văn hoá được hình thành theo chiều dài lịch sử của nhân loại, phản ánh quá trình sáng tạo của con người trong một khoảng thời gian dài thậm chí gắn với bề dày lịch sử của một dân tộc.
2. Vai trò của văn hóa Văn hóa góp phần ổn định xã hội, vì nó là cái đã có từ lâu đời, đi sâu vào nhận thức của mỗi người dân nên mọi hành vi của con người đều phải chịu sự điều chỉnh bởi một phong tục và khuôn khổ đạo đức của dân tộc. Văn hóa đã góp phần cải thiện các mối quan hệ trong xã hội, mang lại cuộc sống chất lượng hơn cho con người cả về vật chất và tinh thần. Văn hóa được chia thành văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể, mang lại lợi ích tinh thần và vật chất cho con người, từ đó tạo nên những nét đẹp truyền thống mang đậm dấu ấn của dân tộc. Văn hóa là một trong những văn kiện minh chứng cho lịch sử vẻ vang và hùng mạnh của dân tộc. Vì văn hóa được phát triển trong một quá trình hình thành lâu dài, chứa đựng bao thăng trầm của cả một đất nước nên thông qua những nét văn hóa đó, thế hệ sau mới cảm nhận được truyền thống văn hóa của ông cha ta để lại. Văn hóa thực hiện chức năng giao tiếp, biểu đạt là nhịp cầu nối con người với con người, nối thế hệ trước với thế hệ sau. Văn hóa còn có chức năng giáo dục, giúp thế hệ sau hiểu biết về lịch sử dân tộc, đảm bảo cho sự bảo tồn và phát triển. Văn hóa góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Bởi văn hóa thể hiện vẻ đẹp độc đáo của một quốc gia, là một trong những yếu tố thu hút khách du lịch quốc tế đến tham quan và khám phá văn hóa của quốc gia đó.
3. Ví dụ về văn hóa Việt Nam Văn hóa Việt Nam rất phong phú và đa dạng. Nó được đặc trưng theo từng vùng miền chia theo dải chữ S của Tổ Quốc. Dưới đây là một số ví dụ về văn hóa Việt Nam theo vùng miền: - Văn hóa lúa nước: Văn minh lúa nước là một nền văn minh cổ đại xuất hiện từ cách đây khoảng 10.000 năm tại vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa. Từ ngàn đời nay, cây lúa đã gắn bó với con người, làng quê Việt nam.Và đồng thời cũng trở thành tên gọi cho một nền văn minh – nền văn minh lúa nước. Ví dụ như trong nền văn họa dân gian sẽ không thể thiếu những câu ca dao, tục ngũ nói về cây lúa nước. “Ăn lấy chắc mặc lấy bền”; “Trời đánh còn tránh miếng ăn” hay “Trâu ơi ta bảo trâu này, trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta…” - Văn hóa Tây Bắc: Ngày nay, mỗi khi nghe danh từ riêng Tây Bắc, như một phản xạ tự nhiên ai trong chúng ta cũng nghĩ đến một vùng văn hoá với loài hoa ban bình dị như cuộc sống nghìn đời của người dân sơn cước. Thật không hề đơn giản chút nào khi nói về văn hoá của cả một vùng rộng lớn, với mấy chục sắc tộc vừa đơn lẻ vừa thống nhất với những nét về tôn giáo tín ngưỡng , lễ hội đa dạng , nhiều màu sắc như: Lễ hội hoa ban: được tổ chức vào ngày mùng 5 tháng 2 âm lịch hàng năm. Lễ hội Lồng Tồng: được tổ chức hàng năm từ những ngày đầu tháng giêng, kéo dài đến đầu tháng hai âm lịch. Lễ hội cầu an bản Mường: được tổ chức hàng năm vào cuối tháng giêng, đầu tháng hai âm lịch. Lễ hội cầu mưa: được tổ chức hàng năm lúc đầu mùa mưa vào khoảng cuối tháng 10, đầu tháng 11 âm lịch. . Văn hoá của các tộc người vùng Tây Bắc rất đa dạng và phong phú. Nhà ở: của các tộc người Thái, Lào, Mường, Khơmú, Xinhmun, Kháng, Cống đều là nhà sàn. Với người Hmông, Dao lại ở nhà trệt, mái thấp, tường trình. Về trang phục: Đây là nét đa dạng và độc đáo nhất của bản sắc văn hóa tộc người thể hiện qua yếu tố văn hóa vật chất của các bộ trang phụ nữ và nam.. Về ẩm thực: Không chỉ đa dạng, xinh đẹp về cảnh sắc thiên nhiên mà văn hóa vùng Tây Bắc cũng có rất nhiều nét đặc trưng riêng mà không một nơi nào có được. Được mệnh danh là thiên đường của vô vàn món ăn ngon vô cùng độc đáo, hấp dẫn, chính vì thế, những ai đã đặt chân đến vùng đất này đều không nỡ rời đi. Về nghệ thuật dân gian: được thể hiện rất phong phú, sinh động qua hàng loạt các loại hình như nhạc cụ dân gian, dân vũ... có những nhạc cụ nổi tiếng như cồng, chiêng của người Mường, khèn, kèn lá, đàn môi của người Hmông và sáo, nhị, trống, kèn đồng. Múa dân gian của các tộc người Tây Bắc cũng rất đa dạng: Người Thái có mùa xòe, nhảy sạp, múa nón, người Hmông nổi tiếng với mùa khèn.