You are on page 1of 68

MÔN CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

Câu 1.Trình bày các khái niệm: văn hóa học, văn minh, văn
vật, văn hiến. Phân biệt các khái niệm ấy với khái niệm văn hóa.
- Khái niệm văn hóa: Trên cơ sở phân tích các định nghĩa văn hoá; PGS;
TSKH Trần Ngọc Thêm đã đưa ra một định nghĩa về văn hoá như sau: “Văn
hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con
người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”. Định nghĩa này đã nêu bật
4 đặc trưng quan trọng của văn hoá: Tính hệ thống; tính giá trị; tính lịch sử; tính
nhân sinh.
- Văn hoá học là một ngành khoa học được hình thành trên vùng tiếp giáp
của các tri thức xã hội, nhân văn về con người và xã hội, nhằm nghiên
cứu văn hoá như một chỉnh thể toàn vẹn và như một chức năng đặc biệt.
Ngành Văn hóa học trang bị những kiến thức cơ bản giúp sinh viên tiếp
cận công việc đạt hiệu quả như mong muốn. Như vậy văn hóa học là
ngành khoa học nghiên cứu về văn hóa.  
- Khái niệm văn minh: là trình độ phát triển nhất định của văn hoá về
phương diện vật chất; đặc trưng cho một khu vực rộng lớn; một thời đại;
hoặc cả nhân loại. Hoặc là, văn minh được dùng để chỉ trình độ
phát triển về vật chất và tinh thần của nhân loại đến một thời kỳ
lịch sử nào đó. Như vậy, văn minh khác với văn hoá ở ba điểm:
+ Thứ nhất; trong khi văn hoá có bề dày của quá khứ thì văn minh chỉ là
một lát cắt đồng đại.
+Thứ hai; trong khi văn hoá bao gồm cả văn hoá vật chất lẫn tinh thần thì
văn minh chỉ thiên về khía cạnh vật chất; kĩ thuật.
+Thứ ba; trong khi văn hoá mang tính dân tộc rõ rệt thì văn minh thường
mang tính siêu dân tộc- quốc tế. Ví dụ nền văn minh tin học hay văn
minh hậu công nghiệp và văn hoá Việt Nam; văn hoá Nhật Bản; văn hoá
Trung Quốc… Mặc dù giữa văn hoá và văn minh có một điểm gặp gỡ
nhau, giống nhau đó là do con người sáng tạo ra.
- Khái niệm văn vật (vật = vật chất): Truyền thống văn hoá tốt đẹp biểu
hiện ở nhiều nhân tài trong lịch sử và nhiều di tích lịch sử. “Hà Nội nghìn
năm văn vật”. Có thể hiểu văn vật còn là khái niệm hẹp để chỉ những
công trình hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử; khái niệm văn vật
cũng thể hiện sâu sắc tính dân tộc và tính lịch sử. Khái niệm văn hiến;
văn vật thường gắn với phương Đông nông nghiệp trong khi khái niệm
văn minh thường gắn với phương Tây đô thị.
- Văn hiến (hiến = hiền tài) : truyền thống văn hoá lâu đời và tốt đẹp. GS.
Đào Duy Anh khi giải thích từ văn hiến khẳng định: “là sách vở” và nhân
vật tốt trong một đời. Nói cách khác văn là văn hoá; hiến là hiền tài; như
vậy văn hiến thiên về những giá trị tinh thần do những người có tài đức
chuyển tải; thể hiện tính dân tộc; tính lịch sử rõ rệt.
Như vậy văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần của một
dân tộc, một quốc gia hay một châu lục có bề dày của quá khứ còn văn
minh chỉ là một lát cắt đồng đại và thiên về khía cạnh vật chất, kĩ thuật.
Văn vật cũng thiên về khía cạnh vật chất, còn văn hiến lại thiên về giá trị
tinh thần.

Câu 2. Bản chất của văn hóa và đặc trưng của loại hình văn hóa
gốc nông nghiệp:
Bài làm 1
a. Bản chất của văn hóa: Văn hóa là một hiện tượng khách quan, là tổng
hoà của tất cả các khía cạnh của đời sống. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhặt
nhất của cuộc sống cũng mang những dấu hiệu văn hóa. Văn hóa có:

– Tính hệ thống
Tính hệ thống của văn hóa giúp tập hợp, phát hiện những mối liên hệ
giữa các sự kiện văn hóa, các hiện tượng, quy luật hình thành, phát triển cùng
đặc trưng của nó. Với tính hệ thống, văn hóa hiện diện trong mọi hoạt động của
xã hội, giúp tổ chức xã hội tốt hơn.
– Tính giá trị 
Giá trị của văn hóa dựa theo mục đích phân thành giá trị vật chất phục vụ
nhu cầu vật chất của con người hay giá trị tinh thần phục vụ cho nhu cầu tinh
thần của con người. Còn nếu dựa theo ý nghĩa, văn hóa chia thành giá trị đạo
đức, giá trị thẩm mĩ và giá trị sử dụng. Dựa theo thời gian, văn hóa chia thành
giá trị nhất thời, giá trị vĩnh cửu.
Giá trị theo thời gian giúp con người có thể đánh giá khách quan, biện
chứng hơn về giá trị của văn hóa, tránh được sự phủ nhận sạch trơn hay tán
dương hết lời một cách cực đoan.
Một hiện tượng, sự vật có thể tồn tại nhiều giá trị khác nhau nhiều hay ít
tùy vào việc chúng ta xem xét ở những góc độ nào, dựa trên bình diện gì. Chính
vì vậy, một hiện tượng được đánh giá có thuộc phạm trù văn hóa hay không sẽ
được xem xét các giá trị và phi giá trị trong mối tương quan của nó.
Một hiện tượng có giá trị hay không còn phụ thuộc vào từng thời kỳ lịch
sử với các chuẩn mực văn hóa được lấy làm hệ quy chiếu. 
– Tính nhân sinh
Văn hóa là tất cả các sản phẩm do con người tạo ra và phục vụ lợi ích của
con người nên văn hóa có tính nhân sinh. Từ lâu con người biết điêu khắc đã,
chạm khảm gỗ là những hoạt động mang tính vật chất và thực hiện các hoạt
động mang tính tinh thần như đặt tên cho các danh lam thắng cảnh, xây dựng
truyền thuyết về cuộc sống xung quanh. 
– Tính lịch sử
Thời gian giúp phân biệt văn hóa là sản phẩm của một quá trình mà con
người tạo ra. Vì vậy mà tính lịch sử của văn hóa cho thấy văn hóa được tích lũy
qua nhiều thế hệ, có những giai đoạn phát triển khác nhau. Lịch sử của văn hóa
tạo nên chiều sâu, bề dày cũng như giúp văn hóa phải điều chỉnh, phân loại lại
các giá trị một cách thường xuyên. Truyền thống văn hóa sẽ là cốt lõi trong lịch
sử phát triển của lĩnh vực này. Truyền thống văn hóa gồm các giá trị khá ổn
định được tích lũy và phát triển theo thời gian của một cộng đồng người, sau đó
được đúc kết thành khuôn mẫu xã hội, lưu truyền dưới dạng ngôn ngữ, nghi lễ,
tập quán, phong tục và dư luận, luật pháp…

b. Đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp
Qua quá trình phát triển lâu dài của lịch sử Việt Nam cho thấy việc chế
ngự thiên nhiên và chiến thắng địch họa là điều kiện sống còn và phát triển của
dân tộc ta. Vừa dựng nước, vừa giữ nước là hai mặt cơ bản mật thiết gắn bó với
nhau trong cuộc sống của con người Việt Nam. Đó là nội dung và đặc điểm nổi
bật, xuyên suốt trong lịch sử nước ta từ xưa cho đến nay. Từ hai lĩnh vực nói
trên, con thuyền quốc gia Việt Nam đã vượt qua bao thác ghềnh nguy hiểm, vận
mệnh của Tổ quốc đã phải trải qua những bước thăng trầm, nhiều khi bị lầm
than và tủi nhục, nhưng cũng lắm lúc rất dỗi chói lọi và vinh quang. Song dân
tộc ta bao giờ cũng tỏ rõ ý chí vươn lên, tự cường tự lập của mình, thể hiện một
sức sống phi thường và mãnh liệt. Con đường lịch sử gian nan và tiến trình phát
triển đất nước hết sức éo le đã nhào nặn nên tâm hồn Việt Nam và đã có tác
động sâu sắc lên nội dung, tính chất, đặc điểm của nền văn hóa Việt Nam.
Văn hóa Việt Nam thuộc về loại hình văn hóa gốc nông nghiệp điển
hình với những đặc trưng chủ yếu sau đây:
- Trong ứng xử với môi trường tự nhiên luôn có ý thức tôn trọng và sống hòa
hợp với thiên nhiên, tôn sùng thiên nhiên, thể hiện đức hiếu sinh.
- Vì sống bằng kinh tế nông nghiệp, nhất là nông nghiệp lúc nước, ở đó con
người có sự phụ thuộc vào các hiện tượng tự nhiên (như trời, đất, nước, nắng,
mưa...), nên trong nhận thức đã hình thành một lối tư duy tổng hợp, trọng quan
hệ, trọng tình biện chứng, thiên về kinh nghiệm, trực giác, cảm tính và duy linh
(linh cảm).
- Trong tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa tổ chức xã hội theo
nguyên tắc trọng tình, chuộng sự hòa thuận, tương trợ, quan tâm đến những láng
giềng.
- Lối sống trọng tình đưa đến thái độ trọng đức, trọng văn, trọng Mẫu đề cao
nguyên lý Mẹ.
- Nguyên tắc trọng tình cũng là cơ sở của tâm lí hiếu hòa, chuộng sự bình đẳng,
dân chủ, đề cao tính cộng đồng, tính tập thể.
- Lối tư duy tổng hợp biện chứng, cộng với nguyên tắc trọng tình dẫn đến lối
sống linh hoạt, luôn ứng biến cho phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể.
- Tư duy tổng hợp và phong cách linh hoạt của văn hóa nông nghiệp còn quy
định thái độ dung hợp trong tiếp nhận các yếu tố khoan dung trong ứng xử,
mềm dẻo trong đối phó.
- Tuy nhiên, mặt trái của tính linh hoạt và trọng tình là nó dẫn đến thái độ tùy
tiện, coi thường tính nguyên tắc, ý thức tổ chức kỷ luật kém.
Văn minh nông nghiệp kéo dài đã làm chậm sự phát triển của tiến trình lịch
sử Việt Nam, không tạo ra được những tiền đề và điều kiện để bức ra khỏi cái
khung phong kiến phương Đông, làm hạn chế tính năng động, sáng tạo của con
người Việt Nam và dẫn đến sự trì trệ của xã hội Việt Nam.

Bài làm 2:
a. Bản chất của văn hóa: Văn hóa là một hiện tượng khách quan, là tổng
hoà của tất cả các khía cạnh của đời sống. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhặt
nhất của cuộc sống cũng mang những dấu hiệu văn hóa. Văn hóa có:
– Tính hệ thống
Tính hệ thống của văn hóa giúp tập hợp, phát hiện những mối liên hệ
giữa các sự kiện văn hóa, các hiện tượng, quy luật hình thành, phát triển cùng
đặc trưng của nó. Với tính hệ thống, văn hóa hiện diện trong mọi hoạt động của
xã hội, giúp tổ chức xã hội tốt hơn.
– Tính giá trị 
Giá trị của văn hóa dựa theo mục đích phân thành giá trị vật chất phục vụ
nhu cầu vật chất của con người hay giá trị tinh thần phục vụ cho nhu cầu tinh
thần của con người. Còn nếu dựa theo ý nghĩa, văn hóa chia thành giá trị đạo
đức, giá trị thẩm mĩ và giá trị sử dụng. Dựa theo thời gian, văn hóa chia thành
giá trị nhất thời, giá trị vĩnh cửu.
Giá trị theo thời gian giúp con người có thể đánh giá khách quan, biện
chứng hơn về giá trị của văn hóa, tránh được sự phủ nhận sạch trơn hay tán
dương hết lời một cách cực đoan.
Một hiện tượng, sự vật có thể tồn tại nhiều giá trị khác nhau nhiều hay ít
tùy vào việc chúng ta xem xét ở những góc độ nào, dựa trên bình diện gì. Chính
vì vậy, một hiện tượng được đánh giá có thuộc phạm trù văn hóa hay không sẽ
được xem xét các giá trị và phi giá trị trong mối tương quan của nó.
Một hiện tượng có giá trị hay không còn phụ thuộc vào từng thời kỳ lịch
sử với các chuẩn mực văn hóa được lấy làm hệ quy chiếu. 
– Tính nhân sinh
Văn hóa là tất cả các sản phẩm do con người tạo ra và phục vụ lợi ích của
con người nên văn hóa có tính nhân sinh. Từ lâu con người biết điêu khắc đã,
chạm khảm gỗ là những hoạt động mang tính vật chất và thực hiện các hoạt
động mang tính tinh thần như đặt tên cho các danh lam thắng cảnh, xây dựng
truyền thuyết về cuộc sống xung quanh. 
– Tính lịch sử
Thời gian giúp phân biệt văn hóa là sản phẩm của một quá trình mà con
người tạo ra. Vì vậy mà tính lịch sử của văn hóa cho thấy văn hóa được tích lũy
qua nhiều thế hệ, có những giai đoạn phát triển khác nhau. Lịch sử của văn hóa
tạo nên chiều sâu, bề dày cũng như giúp văn hóa phải điều chỉnh, phân loại lại
các giá trị một cách thường xuyên. Truyền thống văn hóa sẽ là cốt lõi trong lịch
sử phát triển của lĩnh vực này. Truyền thống văn hóa gồm các giá trị khá ổn
định được tích lũy và phát triển theo thời gian của một cộng đồng người, sau đó
được đúc kết thành khuôn mẫu xã hội, lưu truyền dưới dạng ngôn ngữ, nghi lễ,
tập quán, phong tục và dư luận, luật pháp…

b. Đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nông nghiệp

Việt Nam, do ở góc tận cùng phía đông-nam nên thuộc loại văn hóa gốc
nông nghiệp điển hình. Vậy những đặc trưng chủ yểu của loại hình văn hóa gốc
nông nghiệp là gì ?
Trong cách ứng xử với môi trường tự nhiên, nghề trồng trọt buộc ngươi
dân phải sống định cư để chờ cây cối lớn lên, ra hoa kêt trái và thu hoạch. Do
sống phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên dân nông nghiệp có ý thức tôn trọng
và ươc vọng sống hòa hợp vời thiên nhiên. Người Việt Nam mở miệng là nói
“lạy trời”, “nhờ trời”, “ơn trời”…
Vì nghề nông, nhât là nghề nông nghiệp lúa nước, cùng một lúc phụ
thuộc vào tất cả mọi hiện tượng thiên nhiên (Trông trời trong đất, trông mây;
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm…) cho nên, về mặt nhận thức,
hình thành lối tư duy tổng hợp. Tổng hợp kéo theo hiện chứng – cái mà người
nông nghiệp quan tâm không phải là các yếu tố riêng rẽ, mà là những mối quan
hệ qua lại giữa chúng. Tổng hợp là bao quát được mọi yếu tố, còn biện chứng là
chú trọng đến các mối quan hệ giữa chúng. Người Việt tích lũy được một kho
kinh nghiệm hết sức phong phú về các loại quan hệ này: Quạ tắm thì ráo, sáo
tắm thì mưa; Ráng mỡ gà, ai có nhà phải chống; Được mùa lúa thì úa mùa cau,
được mùa cau thì đau mùa lúa…
Về mặt tổ chức cộng đồng, con người nông nghiệp ưa sống theo nguyên
tắc trọng tình. Hàng xóm sống cố định lâu dài với nhau phải tạo ra một cuộc
sống hòa thuận trên cơ sở lấy tình nghĩa làm đầu
Trong truyền thống Việt Nam, tinh thần coi trọng ngôi nhà và coi trọng
cái bếp, coi trọng người phụ nữ là hoàn toàn nhất quán và rõ nét: Phụ nữ Việt
Nam là người quản lí kinh tế, tài chính trong gia đình – người nắm tay hòm chìa
khóa. Chính bởi vậy mà người Việt Nam coi Nhất vợ nhì trời; Lệnh ông không
bằng cồng bà. Tư tưởng coi thường phụ nữ là từ Trung Hoa truyền vào .
Không phải ngẫu nhiên mà vùng nông nghiệp Đông Nam Á này được
nhiều học giả phương Tây gọi là “xứ sở Mẫu hệ” (le Pays du Matriarcat). Cho
đến tận bây giờ, ở các dân tộc ít chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa như
Chàm hoặc hoàn toàn không chịu ảnh hưởng như nhiều dân tộc Tây Nguyên
(Êđê, Giarai…), vai trò của người phụ nữ vẫn rất lớn: phụ nữ chủ động trong
hôn nhân, chồng về ở đằng nhà vợ, con cái đặt tên theo họ mẹ… Cũng không
phải ngẫu nhiên mà cho đến nay, người Khmer vẫn gọi người đứng đầu phum,
sóc của họ là mê phum, mê sóc (mê=mẹ), bất kể đó là đàn ông hay đàn bà.
Lối tư duy tổng hợp và biện chứng, luôn đắn đo cân nhắc của người làm
nông nghiệp cộng với nguyên tắc trọng tình đã dẫn đến lối sống linh hoạt, luôn
biến báo cho thích hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, dẫn đến triết lí sống Ở bầu thì
tròn, ở ống thì dài; Đi với Bụt mặc áo cà-sa, đi với ma mặc áo giấy…
Sống theo tình cảm, con người còn phải biết tôn trọng và cư xử bình
đẳng, dân chủ với nhau. Đó là nền dân chủ làng mạc, nó có trước nền quân chủ
phong kiến phương Đông và nền dân chủ tư sản phương Tây. Lối sống trọng
tình và cách cư xử dân chủ dẫn đến tâm lí coi trọng cộng đồng, tập thể. Người
nông nghiệp làm gì cũng phải tính đến tập thể, luôn có tập thể đứng sau.
Mặt trái của tính linh hoạt là thói tùy tiện biểu hiện ở tật co giãn giờ giấc
(giờ cao su), sự thiếu tôn trọng pháp luật… Lối sống trọng tình làm cho thói tùy
tiện càng trở nên trầm trọng hơn: Một bồ cái lí không bằng một tí cái tình… Nó
dẫn đến tệ “đi cửa sau” trong giải quyết công việc: Nhất quen, nhì thân, tam
thần, tứ thế… Trọng tình và linh hoạt làm cho tính tổ chức của người nông
nghiệp kém hơn so với cư dân các nền văn hóa gốc du mục.
Trong lối ứng xử với môi trường xã hội, tư duy tổng hợp và phong cách
linh hoạt còn quy định thái độ dung hợp trong tiếp nhận: ở Việt Nam không
những không có chiến tranh tôn giáo mà, ngược lại, mọi tôn giáo thế giới (Nho
giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo…) đều được tiếp nhận. Đối phó với
các cuộc chiến tranh xâm lược, người Việt Nam luôn hết sức mềm dẻo, hiếu
hòa. Ngày xưa, trong kháng chiến chống ngoại xâm, mỗi khi thế thắng đã thuộc
về ta một cách rõ ràng, cha ông ta thường dừng lại chủ động cầu hòa, “trải chiếu
hoa” cho giặc về, mở đường cho chúng rút lui trong danh dự (xem VI-§6.1.1).

Câu 3. Văn hóa ăn, mặc, ở, đi lại của người Việt. (Lối sống của người
Việt)

Bài làm 1( Bài dài)

Cuộc sống của con người gắn bó và lệ thuộc vào môi trường tự nhiên. Con
người ngoài việc tận dụng môi trường tự nhiên, còn phải ứng phó với nó. Việc
ăn là tận dụng môi trường tự nhiên, còn mặc, ở là ứng phó với thời tiết; đi lại là
ứng phó với khoảng cách.
a. Văn hoá ẩm thực

- Quan niệm về ăn và dấu ấn nông nghiệp trong cơ cấu bữa ăn.


+ Việt Nam là một nước nông nghiệp, với tính thiết thực nên ăn rất quan trọng
(có thực mới vực được đạo; Trời đánh còn tránh miếng ăn). Mọi hành động của
người Việt đều lấy ăn làm đầu (ăn chơi, ăn mặc, ăn cắp...)

+ Cơ cấu bữa ăn của người Việt bộc lộ dấu ấn của truyền thống văn hoá nông
nghiệp lúa nước: đó là cơ cấu thiên về thực vật, trong đó lúa gạo đứng đầu bảng
(bữa ăn gọi là bữa cơm). Sau lúa gạo đến rau quả, trong đó đặc thù là rau muống
và dưa cà, ngoài ra còn có các loại gia vị. Thứ ba là các loại thuỷ sản, sản phẩm
của vùng sông nước, từ các loài thuỷ sản mà chế tạo ra một loại đồ chấm đặc
biệt là nước mắm và mắm các loại (trong bữa cơm bao giờ cũng có bát nước
mắm). Ở vị trí cuối cùng là thịt (gà, vịt, trâu,bò, chó...).
+ Đồ uống - hút truyền thống thì có trầu cau, thuốc lào, rượu, nước chè, vối...
- Tính tổng hợp trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt được thể hiện:
+Trong cách chế biến đồ ăn: món ăn thường có đủ ngũ chất (bột, nước, khoáng,
đạm, béo) đảm bảo dinh dưỡng; đủ ngũ vị (chua, cay, ngọt, mặn, đắng); đẹp hài
hoà của ngũ sắc (trắng, xanh, vàng, đỏ, đen).
+ Trong cách ăn: mâm cơm của ngưòi Việt bao giờ cũng có nhiều món, tác
động vào các giác quan. Cái ngon của bữa ăn là sự tổng hợp của nhiều yếu tố:
thức ăn, thời tiết, chỗ ngồi, người ăn cùng, không khí bữa ăn.
- Tính cộng đồng và tính mực thước trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt,
thể hiện:
+ Cùng ăn và trong lúc ăn rất thích chuyện trò (thú uống rượu cần). Trong bữa
ăn cần có văn hoá cao (ăn trông nồi). Vì ăn chung nên mọi người đều phụ thuộc
lẫn nhau nên phải ý tứ khi ngồi và mực thước khi ăn.
+ Qua nồi cơm và chén nước mắm mà trong bữa ăn ai cũng dùng. Nồi cơm là
tinh hoa của đất, nước mắm là tinh hoa của nước (là cái khởi đầu và trung tâm
trong ngũ hành).
- Tính linh hoạt trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt, thể hiện:
+ Trong cách ăn: có bao nhiêu món ăn và bao nhiêu người ăn là có bấy nhiêu
cách tổng hợp khác nhau.
+ Trong dụng cụ ăn: đó là đôi đũa - đó là sự mô phỏng động tác của con chim
nhặt hạt, xuất phát từ thói quen ăn những thứ không thể nào dùng tay bốc hoặc
mó tay vào, nơi có sẵn tre làm vật liệu. Tập quán này đã hình thành nên triết lý:
tính cặp đôi, tính tập thể

- Tính biện chứng trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt, thể hiện ở sự đặc
biệt chú trọng đến quan hệ âm dương của thức ăn, của cơ thể và của con người
với tự nhiên.
+ Để tạo nên những món ăn có sự cân bằng âm dương. Người Việt phân chia
thức ăn theo ngũ hành: hàn (lạnh - thuỷ), nhiệt (nóng - hoả), ôn (ấm - mộc),
lương (mát - kim), bình (trung tính - thổ). Người Việt tuân thủ nghiêm ngặt luật
âm dương bù trừ và chuyển hoá khi chế biến. Tập quán dùng gia vị ngoài việc
kích thích dịch vị còn có tác dụng điều hoà âm dương (gừng đi với bí đao, rau
cải, cá...).
+ Để tạo nên sự quân bình âm dương trong cơ thể, người Việt sử dụng thức ăn
như những vị thuốc điều chỉnh sự mất quân bình âm dương trong cơ thể. Ví dụ:
sốt cảm lạnh ăn cháo tía tô, gừng; sốt cảm nắng thì ăn cháo hành.
+ Để đảm bảo quân bình âm dương giữa con người với môi trường, người Việt
có thói quen ăn uống theo vùng khí hậu, theo mùa. Ăn theo mùa là tận dụng môi
trường tự nhiên phục vụ cho con người, hoà mình vào tự nhiên, tạo nên sự cân
bằng giữa con người với tự nhiên.
+ Tính biện chứng trong ăn uống không chỉ thể hiện ở việc ăn phải đúng mùa
mà phải biết chọn đúng bộ phận có giá trị (chuối sau, cau trước); đúng trạng thái
có giá trị (tôm nấu sống, bống để ươn); đúng thời điểm có giá trị. Thời điểm có
giá trị là lúc thức ăn đang trong quá trình âm dương cân bằng vì vậy rất giàu
chất dinh dưỡng.
b. Văn hoá mặc
- Quan niệm về mặc và dấu ấn nông nghiệp trong chất liệu may mặc của người
Việt
+ Đối với người Việt, quan trọng sau ăn là mặc. Mặc không chỉ là sự ứng phó
với môi trường tự nhiên mà nó còn có ý nghĩa xã hội rất quan trọng (quen sợ
dạ, lạ sợ quần áo). Mặc là cái không thể thiếu được trong mục đích trang điểm,
làm đẹp của con người (người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân, chân tốt về hài, tai tốt
về hoa). Ăn mặc giúp cho con người khắc phục những nhược điểm về cơ thể,
tuổi tác (cau già khéo bổ thì non, nạ dòng trang điểm lại giòn hơn xưa).
Mỗi dân tộc có kiểu ăn mặc và trang sức riêng, vì vậy, cái mặc trở thành biểu
tượng của văn hoá dân tộc. Cái riêng trong cách ăn mặc của người Việt thể hiện
trong chất liệu may mặc

+ Chất liệu may mặc: có nguồn gốc từ thực vật là sản phẩm của nghề trồng trọt,
cũng là những chất liệu mỏng, nhẹ, thoáng, rất phù hợp với xứ nóng. Đó là tơ
tằm, từ tơ tằm người Việt đã dệt ra nhiều loại khác nhau (Lụa, gấm, đũi, nái,
lĩnh...). Bên cạnh đó còn có vải dệt bằng sợi tơ đay, gai, bông.
- Trang phục qua các thời đại và tính linh hoạt trong cách ăn mặc: trang phục có
thể chia ra làm nhiều loại; theo giới tính; theo mục đích; theo chức năng. Cách
thức trang phục của người Việt qua các thời đại bị chi phối bởi hai yếu tố: khí
hậu và công việc sản xuất nông nghiệp.
+ Đồ mặc phía dưới của phụ nữ là váy (từ thời kỳ Hùng Vương) là đồ mặc có
thể ứng phó rất hiệu quả với khí hậu nóng bức và phù hợp với công việc đồng
áng. Đồ mặc của đàn ông ban đầu là chiếc khố (Thời Nguyễn lính khố xanh -
địa phương, lính khố đỏ - quân thường trực, lính khố vàng - phục vụ vua). Khi
quần thâm nhập vào Việt Nam thì nam giới tiếp thu sớm nhất, nhưng đã cải biến
linh hoạt thành quần lá toạ. Đây là một sáng tạo linh hoạt phù hợp với khí hậu
nóng bức, mặc mát như váy của phụ nữ, thích hợp với lao động đồng áng đa
dạng. Ngày lễ hội, dùng quần ống sớ, có màu trắng, đũng cao, ống hẹp.
+ Đồ mặc phía trên của phụ nữ ổn định qua các thời đại là cái yếm. Yếm do phụ
nữ thường tự cắt may, nhuộm lấy, có nhiều màu: nâu để đi làm ở nông thôn,
trắng để đi làm ở thành thị, hồng, đào, thắm vào những ngày lễ hội. Đàn ông khi
lao động thường cởi trần. Cách ăn mặc này trở thành chuẩn mực của cái đẹp
(Đàn ông đóng khố đuôi lươn, đàn bà yếm thắm hở lườn mới xinh). Khi lao
động hoặc trong những hoạt động bình thường, nam nữ thường mặc áo ngắn có
2 túi phía dưới, có thể xẻ tà, hoặc không.
+ Màu sắc ưa thích là màu âm tính phù hợp với truyền thống ưa tế nhị, kín đáo.
Miền Bắc là màu nâu, gụ của đất; miền Nam là màu đen - màu của bùn, xứ Huế
ưa màu trang nhã phù hợp với phong cách đế đô. Trong lễ hội, phụ nữ mặc bên
ngoài áo dài thâm hoặc nâu, bên trong mới là các lớp áo cánh nhiều màu. Mấy
chục năm gần đây, do ảnh hưởng của phương Tây, chiếc áo dài cổ truyền đã
được cải tiến thành chiếc áo dài tân thời vừa tăng cường phô trương cái đẹp cơ
thể một cách trực tiếp kiểu phương Tây, vừa kế tục và phát triển cao độ phong
cách tế nhị, kínđáo cổ truyền (dương ở trong âm). Chiếc áo dài vừa đáp ứng
được nhu cầu của thời đại, vừa duy trì được bản sắc dân tộc, vì vậy nó đã trở
thành biểu tượng cho y phục truyền thống của dân tộc. Đàn ông vào dịp hội hè
cũng mặc áo dài nhưng là áo the đen.
+ Trang phục khác còn có thắt lưng mục đích giữ cho đồ mặc dưới khỏi tuột.
Trên đầu đội khăn, đàn bà vấn tóc bằng một mảnh vải dài - đuôi gà. Có thể phủ
ra ngoài chiếc khăn vuông, chít hình mỏ quạ. Đàn ông để tóc dài búi tó củ hành.
Khi làm vấn khăn đầu rìu, lúc sang trọng đội khăn xếp. Trên khăn hoặc thay cho
khăn là nón có quai giữ, đàn ông sau này đội mũ. Đồ trang sức có vòng các loại,
nhuộm răng đen, xăm mình.

c. Văn hoá đi lại:


Thể hiện qua điều kiện địa lý và cách thức sản xuất.
- Xã hội Việt Nam cổ truyền, do bản chất nông nghiệp sống định cư nên con
người ít có nhu cầu di chuyển, có đi thì đi gần hơn đi xa. Điều đó lý giải tại sao
ở Việt Nam trước đây, giao thông đường bộ kém phát triển. Phương tiện đi lại
và vận chuyển ngoài sức trâu, bò, voi, thì phổ biến là đôi chân, quan lại thì đi lại
bằng cáng, kiệu. Thời Nguyễn mới có hệ thống ngựa trạm. Công văn từ Huế vào
Gia Định mất 4 ngày. Các đô thị có xe tay do người kéo, sau này kết hợp với xe
đạp thành xích lô

- Việt Nam là vùng sông nước với rất nhiều hệ thống kênh rạch, sông ngòi, bờ
biển nên bên cạnh đó có một phương tiện rất phổ biến là đường thuỷ (Sách Lĩnh
Nam chích quái: người Việt lặn giỏi,bơi tài, thạo thuỷ chiến, giỏi dùng thuyền.
Người phương Tây mô tả: xứ này không có đường cái lớn, lại chằng chịt ruộng
đồng. Muốn đi đến Huế hay bất cứ nơi nào đều phải đi bằng đường biển hay
đường sông). Không phải ngẫu nhiên mà các đô thị Việt Nam trong lịch sử đều
là các cảng sông biển như Phố Hiến, Vân Đồn, Hội An.... Thuyền Rồng là biểu
tượng của quyền uy

- Sông ngòi tạo điều kiện thuận lợi cho đường thuỷ nhưng lại gây khó khăn cho
đường bộ, vì vậy đã xuất hiện cầu di động bằng tre, gỗ (cầu phao). Hình ảnh
sông nước ăn sâu vào tâm khảm người Việt đến mức mọi mặt sinh hoạt đều lấy
con thuyền và sông nước làm chuẩn mực. Ví dụ: tiết kiệm (Buôn tàu buôn bè
không bằng ăn dè hà tiện); ý chí (Chớ thấy sóng cả mà rã tay chèo); kinh
nghiệm sống (ăn cỗ đi trước, lội nước theo sau)

d. Văn hoá ở và kiến trúc:


Đối với cư dân nông nghiệp, ngôi nhà là tổ ấm để đối phó với sự thay đổi của
khí hậu, là yếu tố để đảm bảo cho con người có cuộc sống định cư ổn định (Nhà
- gia đình, nhà nước, nhà văn...).
Những đặc điểm trong ngôi nhà của người Việt:
- Ngôi nhà gắn liền với môi trường sông nước: nhà thuyền, nhà bè, nhà sàn có
mái cong như hình con thuyền.
- Về cấu trúc: nhà cao cửa rộng. Kiến trúc của VN là kiến trúc mở để tạo không
gian thoáng mát, giao hoà với tự nhiên. Cao bao gồm 2 yêu cầu: nền nhà cao để
ứng phó với lụt lội; mái cao so với sàn nhà nhằm tạo không gian thoáng rộng để
ứng phó với nắng nóng. Cửa rộng nhưng không cao để tránh nắng chiếu xiên
khoai và tránh mưa hắt, người ta còn làm các tấm giại che cửa. Cửa rộng để đón
gió mát nhưng cũng để tránh gió độc. Đâu hồi nhà thường để trống một khoảng
hình tam giác để cho hơi nóng và khói bếp trong nhà thoát ra. Đây là một thứ
cửa sổ trên cao, cùng với các cửa ở dưới tạo thành một hệ thống thông gió hoàn
chỉnh. Cửa rộng để đón gió mát nhưng cũng để tránh gió độc, gió mạnh tạo nên
sự kín đáo cho cả ngôi nhà

- Chọn hướng nhà, hướng đất là sự tận dụng tối đa môi trường tự nhiên để ứng
phó với nó. Chọn nhà hướng nam vì VN gần biển, trong khu vực gió mùa, chỉ
có hướng Nam là tối ưu, vừa tránh được nóng từ phía Tây, bão từ phía Đông và
lạnh từ phía Bắc, lại tận dụng được cái mát vào mùa nóng. Bếp đặt ở bên trái
(phía Đông) nhìn về hướng Tây vì đặt ở vị trí đó sẽ tránh được hướng gió thổi
từ biển (đông và nam), nếu đặt ngược lại sẽ bị ngọn lửa thổi vào vách gây hoả
hoạn..
Tuy vậy, việc chọn hướng nhà tuỳ thuộc vào thế đất (phong thuỷ - hướng gió
và mặt nước trước nhà). Thuật phong thuỷ dựa trên âm dương ngũ hành (VN có
cụ Nguyễn Đức Huyên đời Lê người làng Tả Ao - Nghi Xuân - Hà Tĩnh). Ngoài
ra phải chọn hàng xóm láng giềng, vị trí giao thông thuận lợi.
Những đặc điểm trong kiến trúc ngôi nhà của người Việt:
- Cách thức kiến trúc: rất động và linh hoạt, thể hiện ở kết cấu khung chịu lực
theo không gian 3 chiều: chiều đứng trọng lực của ngôi nhà phân bố đều vào
các cột và các tảng đá kê chân cột, chiều ngang các cột nối với nhau bằng các kẻ
tạo nên vì kèo, theo chiều dọc các vì kèo nối với nhau bằng các xà. Tất cả các
chi tiết được nối với nhau bằng mộng. Để thống nhất qui cách người ta dùng
thước Tầm hay còn gọi là sào mực (là một thân tre nứa bổ đôi, trong đó vạch
những ký hiệu xác định khoảng cách, khoảng cách này được tính theo đốt gốc
ngón tay út hoặc gang tay của chủ nhà thành ra nhà nào thước ấy. Thước tầm trở
thành vật xác định quyền sở hữu ngôi nhà của chủ nhân, vì vậy, khi làm nhà
xong phải làm lễ cài sào

- Hình thức kiến trúc: ngôi nhà là tấm gương phản ánh đặc điểm của truyền
thống văn hoá dân tộc. Trước hết là môi trường sông nước thể hiện qua cách
làm nhà sàn với vách nghiêng và mái cong hình thuyền. Tính cộng đồng qua các
hàng rào thấp giữa các nhà. Bàn thờ. Coi trọng số lẻ: cổng tam quan, bậc tam
cấp, nhà dân thì 3 gian, 5 gian; kiến trúc lớn thì tam toà; toà thành 3 vòng. Số
bậc cầu thang, gian nhà bao giờ cũng là số lẻ (động - người sống); còn nhà cho
người chết cầu thang bao giờ cũng là bậc chẵn

Bài làm 2 ( Bài ngắn)

Cuộc sống của con người gắn bó và lệ thuộc vào môi trường tự nhiên.
Con người ngoài việc tận dụng môi trường tự nhiên, còn phải ứng phó với nó.
Việc ăn là tận dụng môi trường tự nhiên, còn mặc, ở là ứng phó với thời tiết; đi
lại là ứng phó với khoảng cách.
a. Văn hóa ẩm thực của người Việt Nam:

- Quan niệm về ăn và dấu ấn nông nghiệp trong cơ cấu bữa ăn.


+ Việt Nam là một nước nông nghiệp, với tính thiết thực nên ăn rất quan trọng (có
thực mới vực được đạo; Trời đánh còn tránh miếng ăn). Mọi hành động của người
Việt đều lấy ăn làm đầu (ăn chơi, ăn mặc, ăn cắp...)

+ Cơ cấu bữa ăn: cơm, rau, cá. Tính chất sông nước và thực vật, tận dụng tự
nhiên, lương thực chính trong bữa ăn là cơm.

+ Đồ uống: Nước uống thông dụng là nước chè xanh, chè trà, nước vối

+ Tính tổng hợp: Trong cách chế biến thức ăn, trong cách ăn, cân bằng âm
dương, đủ các vị cay- đắng, chua- chát, mặn- ngọt.

+ Tính linh hoạt: Ăn uống theo mùa, theo vùng miền. Ăn uống để điều hòa, cân
bằng giữa cơ thể với môi trường. Dụng cụ ăn: đũa. Đó là sự mô phỏng động
tác của con chim nhặt hạt, xuất phát từ thói quen ăn những thứ không thể nào
dùng tay bốc hoặc mó tay vào, nơi có sẵn tre làm vật liệu. Tập quán này đã hình
thành nên triết lý: tính cặp đôi, tính tập thể

+ Tính cộng đồng: Bữa ăn của người Việt là ăn chung. Trong bữa ăn người Việt
thích trò chuyện.

+ Tính mực thước, lễ nghi: Ý tứ, nhường nhịn, coi trọng lễ nghi

b. Văn hóa trang phục:

- Kiểu trang phục truyền thống:

+Trang phục của phụ nữ: váy, yếm, áo cánh, khăn chít đầu, thắt lưng...Trong
các dịp lễ hội, phụ nữ mặc áo dài hoặc áo “mớ bảy mớ ba”.

+Trang phục nam giới thường ngày: áo cánh, quần lá tọa. Trang phục lễ tết, lễ
hội: quần ống sớ, áo dài the đen.

- Đặc điểm văn hóa trang phục:

+ Chất liệu may mặc: tận dụng các chất liệu tự nhiên (tơ tằm, tơ chuối, sợi
bông, đay, gai…).

+ Coi trọng tính bền chắc

+ Ưa các gam màu tối: nâu, đen phù hợp với công việc lao động “chân lấm tay
bùn”. Chất liệu và màu sắc: tận dụng và thích nghi với tự nhiên.

– Thích trang phục kín đáo, giản dị , có ý thức về việc làm đẹp

c. Văn hóa ở:

Tận dụng và thích nghi với tự nhiên .

- Dấu ấn của xứ sở thực vật: Vật liệu làm nhà: tận dụng các loại vật liệu tự
nhiên như gỗ, tre, nứa, rơm rạ, lá cọ, lá mía, ngói. Nhà ở thân thiệnvới môi
trường: cây xanh bao bọc, chở che.

- Dấu ấn sông nước: Thích làm nhà gần sông, suối, ven kênh rạch, nhà sàn, nhà
mái cong hình thuyền, dùng thuyền làm nhà ở.
- Ứng xử với xã hội: Kiến trúc nhà ở của người Việt mang tính cộng đồng,
không gian mở. Ngôi nhà truyền thống của người Việt phản ánh lối sống, cách
tư duy, ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội, là sự thẩm thấu trong đó tâm
hồn người Việt.

d. Văn hóa đi lại:

- Phương tiện đi lại thời xưa đến thời nay: chân, ngựa, kiệu, xe ngựa, thuyền bè,
xe đạp, xe máy, ô tô, máy bay, tàu thủy…

– Giao thông đường thủy chiếm ưu thế trong các loại hình đường giao thông
thời xưa.

– Giao thông đường bộ thuở xưa kém phát triển, dấu ấn sông nước đã chi phối
các hoạt động vật chất, thẩm thấu vào chiều sâu tâm thức, tư duy, trong cách
nghĩ, cách nói của người Việt. Đến thời nay giao thông đường bộ và đường
hàng không phát triển nhanh, rất thuận tiện cho người tham gia giao thông.

Như vậy chúng ta có thể thấy các hoạt động vật chất của con người bao
gồm: sản xuất vật chất, ăn, mặc, ở, đi lại, trước hết là để đáp ứng nhu cầu tồn
tại, nhưng qua đó cũng thể hiện sự ứng xử của con người với môi trường tự
nhiên và xã hội đặc trưng văn hóa.

Câu 4. Văn hóa gia đình và văn hóa làng của người Việt

Bài làm 1

1. Văn hóa gia đình


Có nhiều định nghĩa về văn hóa và văn hóa gia đình, điều này xuất phát
từ sự đa dạng trong cách hiểu về văn hóa. Có thể thấy văn hóa gia đình là một
hệ thống giá trị văn hóa được tích hợp từ các giá trị văn hóa truyền thống và
hiện đại của một dân tộc, thể hiện nhận thức, thái độ, hành vi của các thành viên
trong việc thực hiện các chức năng của gia đình và ứng xử trong các mối quan
hệ cá nhân – gia đình – xã hội nhằm xây dựng gia đình.
Các thành tố của gia đình không tồn tại một cách cô lập mà liên kết với
nhau tạo thành một hệ thống thực hiện các chức năng của văn hóa gia đình. Các
chức năng cơ bản bao gồm:
+ Truyền tải văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác.
+ Duy trì sự cân bằng của đời sống gia đình.
+ Bảo đảm sự tiếp nối văn hóa, chống sự đứt đoạn văn hóa.
+ Giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa và chức năng hình thành các giá
trị văn hóa mới.
Văn hóa gia đình Việt Nam truyền thống được hình thành từ cơ sở kết
hợp giữa nền văn hóa bản địa nảy sinh từ xã hội sản xuất nông nghiệp lúa nước
với hệ thống tư tưởng Nho giáo Trung Quốc, với triết lý đạo Phật về gia đình.
Xã hội phát triển, sự tiếp xúc văn hóa càng tăng lên. Gia đình Việt Nam không
chỉ tiến xúc với mô hình gia đình Nho giáo, mà còn tiếp xúc với văn hóa của
các nước phương Tây. Văn hóa gia đình truyền thống có nhiều mặt tích cực cần
được phát huy trong xã hội hiện đại. Ví dụ, chuyện tình nghĩa vợ chồng là một
giá trị cao đạo đức rất cao đẹp của người xưa. Người ta lấy nhau trước hết là vì
cái tình nhưng sống với nhau rồi sinh ra cái nghĩa. Có cái nghĩa thì vợ chồng
mới sống với nhau được, mới cảm thông và chia sẻ với nhau mọi chuyện, vượt
qua khó khăn và cám dỗ trong cuộc sống. 
Tuy nhiên, nhiều những giá trị của gia đình truyền thống không còn phù
hợp thì cần phải thay đổi để chống sự trì trệ văn hóa. Ví dụ, ngày xưa cha mẹ
đặt đâu con ngồi đấy trong hôn nhân; hay chữ hiếu là con cái không được rời xa
bố mẹ, phải ở quây quần trong một nhà, nghe theo bố mẹ bât kể đúng sai, hiếu
là phải có con trai để nối dõi tông đường…Nhưng ngày ngay, hôn nhân là do
con cái tự tìm hiểu và quyết định và chữ hiếu được vận dụng sáng tạo hơn,
không nặng nề như xưa mà chủ yếu là ở việc biết ơn cha mẹ, sự kính trọng và
tình yêu thương chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ.
Ngày nay, thế giới đang bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng
trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, lối sống… Xu thế toàn cầu hóa là
một hiện tượng mang tính tất yếu khách quan, nó xuất phát từ chính nhu cầu
phát triển của nhân loại. Trong bối cảnh đó, văn hóa Việt Nam nói chung và 
văn hóa gia đình Việt Nam nói riêng tất yếu sẽ có sự giao lưu, hội nhập với văn
hóa quốc tế. Quá trình giao lưu, hội nhập ấy chúng ta không chỉ tiếp nhận mà
đồng thời cũng đóng góp những giá trị văn hóa gia đình Việt Nam làm phong
phú, đa dạng giá trị văn hóa nhân loại.

2. Văn hoá làng.


Trong truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc, có rất nhiều thành tố văn
hoá như: văn hóa biển, văn hoá cung đình, văn hoá Tây Nguyên… Nhưng văn hoá
làng là một thành tố có vị trí đặc biệt quan trọng, được đánh giá “là cái gốc của văn
hoá dân tộc”. Không phải chỉ có ở Việt Nam mới có làng, nhưng văn hoá làng là
một đặc điểm độc đáo của văn hoá truyền thốngViệt Nam.
2.1.Văn hoá vật chất.
a. Làng nghề truyền thống.
Ở các làng quê Việt Nam có rất nhiều làng nghề truyền thống như: làng gốm
Phù Lãng, làng gò giát đồng Đại Bái, làng đúc đồng Đề Cầu, làng ép dầu Đại
Bình, làng tranh Đông Hồ, làng giấy gió Phong Khê, làng rèn Đa Hội… Mỗi làng
nghề đều có bí quyết công nghệ và quy ước truyền nghề riêng. Nếu trước đây gốm
Thổ Hà thường để mộc thì gốm Phù Lãng được phủ một lớp men có màu da lươn
hoặc quy trình và kỹ thuật làm tranh của làng Đông Hồ cũng không giống với cách
làm tranh của các nghệ nhân Hàng Trống (Hà Nội)… Có thể nói rằng nghề thủ
công thể hiện một phương diện của truyền thống văn hoá làng. Gĩư gìn và phát huy
nghề thủ công truyền thống cổ truyền là góp phần giữ gìn truyền thống văn hoá
dân tộc.
Ngày nay có nhiều làng nghề, do nắm được nhu cầu và thị hiếu của khách
hàng, do áp dụng khoa học kỹ thuật nên làng nghề đã không những tồn tại mà còn
phát triển, trở thành những làng giàu có như làng gốm Phù Lãng, làng làm đồng
Đại Bái… Như vậy, làng nghề thủ công truyền thống phát triển đã tạo ra việc làm
cho người dân; góp phần giữ gìn truyền thống văn hoá làng.
b. Văn hoá ẩm thực.
Từ bao đời nay cư dân các làng xã đã biết tận dụng những sản vật sẵn có của
địa phương để chế biến thành các món ăn phục vụ cho bữa ăn hàng ngày. Ngoài
các món ăn bình thường, nhiều làng còn có các món ăn đặc sắc, góp phần tạo nên
sắc thái văn hoá thiêng liêng của làng mình: bánh xu xê Đình Bảng, chả chó làng
Dền, cỗ làng Cựu Tự, tôm chua Đồng Hới, bánh đậu xanh Hải Dương,… Những
món ăn này, ngày nay dân làng vẫn duy trì, có món ăn được khách nước ngoài rất
ưa chuộng.
Ta có thể thấy các món ăn thường là những món ăn bình dị nhưng rất đậm
đà phong vị làng quê Việt Nam, ngon miệng lại giàu chất dinh dưỡng.
c. Chợ quê.
Nhắc đến làng quê không thể không nhắc đến cái chợ. Chợ là nơi lưu giữ
tổng thể những nét văn hoá cũng như tục lệ của người dân nơi đó.
Chợ quê không chỉ dừng lại ở việc trao đổi mua bán hàng hoá, đây còn là
những nét văn hoá làng được thể hiện qua đời sống hàng ngày của người dân quê.
Thông qua hoạt động mua bán, trao đổi thông tin mà chợ trở thành nơi các phong
tục văn hoá khác nhau tìm đến tiếng nói chung. Một phần đời sống của người dân
quê được khắc hoạ và thể hiện qua cái chợ làng. Những chuyện hàng ngày của mỗi
gia đình, mỗi người đều được thông tin qua cái chợ. Người làng đi chợ cũng là dịp
để họ gặp nhau, hỏi thăm nhau.
Chợ quê đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển văn hoá
làng. Nó không chỉ tồn tại như một sự vật được tái hiện hàng ngày mà còn là một
nét văn hoá được truyền từ đời này sang đời khác.
2.2. Văn hoá tinh thần.
a. Tín ngưỡng.
* Thờ cúng tổ tiên.
Thờ cúng tổ tiên xuất phát từ lòng hiếu nghĩa “ơn sinh thành, công dưỡng
dục” của cha mẹ, ông bà lúc còn sống cũng như quan niệm khi họ chết là về với tổ
tiên nơi chín suối nhưng ông bà cha mẹ vẫn thường xuyên đi về thăm nom, phù hộ
cho con cháu. Bởi thế, việc thờ cúng cha mẹ, tổ tiên có ý nghĩa đặc biệt thiêng
liêng. Ngoài việc cúng giỗ thì việc thờ cúng tổ tiên còn được thực hiện đều đặn vào
các ngày mồng 1, ngày rằm, dịp lễ Tết và bất kỳ khi nào trong nhà có việc dựng vợ
gả chồng, sinh con, làm nhà… đều thắp hương tưởng nhớ đến ông bà, tổ tiên cầu
mong phù hộ mọi việc đều tốt đẹp.
*Thờ Thành Hoàng làng.
Thờ Thành Hoàng làng là thờ những người có công khai khẩn và có những
đóng góp to lớn cho làng. Thờ Thành Hoàng làng được coi là biểu tượng khởi
nguyên của làng với những nghi lễ trọng thể nhất.
* Thờ các vị thần khác.
Ngoài thờ Thành Hoàng làng, một số nơi dân làng còn tổ chức thờ các vị
thần khác: thờ thần tự nhiên (trời, đất, sông, núi); thờ Thổ công; thờ Táo quân…Ở
những làng nông nghiệp thì cư dân thường thờ thần Nông.
Song song với việc thờ thần là việc sùng bái các hiện tượng tự nhiên. Người
dân còn có tục đặt lư hương ở các gốc cây đa, cây bồ đề cũng như cây cao bóng
mát xung quanh đình (chùa, miếu, đền,…). Họ còn tôn thờ các con vật có liên
quan đến công việc làm ăn như: ở các làng biển có tục thờ cúng cá voi (cá Ông); ở
các làng miền núi thờ thần Núi và ông Khái (cọp).
Qua việc đó chúng ta thấy được việc thờ cúng ở các làng chủ yếu đề cao
lòng kính trọng thiêng liêng của con người trong các hiện tượng của cuộc sống một
cách sâu sắc hơn.
b. Các công trình kiến trúc, kiến trúc điêu khắc cộng đồng làng xã.
Cùng với quá trình hình thành làng xã đã có những công trình kiến trúc phục
vụ cho nhu cầu tín ngưỡng và tôn giáo của công đồng cư dân. Ở mỗi làng quê
Việt Nam đều có một cái đình, một ngôi đền, ngôi chùa thờ Phật và các vị thần
khác.
Đình làng là trung tâm sinh hoạt cộng đồng bàn việc làng (chức năng hành
chính); tổ chức lễ hội, sinh hoạt văn hoá (chức năng văn hóa) và cũng là nơi thờ
Thành Hoàng làng hay tiền khai canh của làng (chức năng tâm lý). Các công trình
đình làng đều có kiến trúc khá lớn, thường xây dựng ở vị trí có cảnh quan sơn thuỷ
hữu tình, ngoại mục thể hiện ược vị thế và ý chí thăng trưởng. Chùa là kiến trúc
thứ 2 sau đình làng…
Ví dụ: Ví dụ đình Diềm (Viêm Xá), đình chùa Đồng Kỵ, đình chùa Hồi
Quan, đình Đình Bảng…với hàng ngàn tấm bia, cây hương, câu đối, hoành phi
mang giá trị tư liệu về lịch sử, phong tục, địa lý…rất quý mà chúng đã được làng
lưu giữ từ đời này sang đời khác.
c. Phong tục tập quán làng xã.
Trong đời sống cộng đồng làng xã Việt Nam, có lẽ không có một nơi nào là
không có lễ hội (hội làng). Lễ hội là hình ảnh thu nhỏ nét văn hoá làng người Việt
nói chung và từng làng từng xóm nói riêng.
Hội làng ở các làng quê Việt Nam thường được tổ chức vào mùa xuân.
Phần lễ ở trong đình (đền, chùa) trang trọng và tôn nghiêm là vậy, ngược
lại ở bên ngoài thì phần hội thật là vui nhộn, sôi nổi. Phần hội là phần có nội
dung phong phú, có sức hấp dẫn và thể hiện rất rõ bản sắc văn hoá làng. Phần hội
mỗi làng một khác nhau: nơi tổ chức thi nấu cơm (Đình Bảng), nơi tổ chức thi
pháo (Đồng Kỵ), nơi tổ chức bơi chải (Vọng Nguyên), nơi thi dệt vải (Đại Mão),
nơi tổ chức thi hát quan họ (Viêm Xá)… và các trò chơi khác như: đánh đu, đánh
vật, đánh cờ người, bắt trạch trong chum… Hiện nay các làng Việt hầu hết người
ta còn giữ được nội dung của lễ hội xưa.
Như vậy thông qua các hình thức lễ hội đó, đời sống sinh hoạt cũng trở nên
phong phú, góp phần phong phú văn hoá của làng. Nếu văn hoá làng là hình thức
thì hội làng chính là nội dung tái hiện lại nét văn hoá truyền thống của làng. Từ hội
làng ta có thể thấy bản sắc văn hoá của làng và chính văn hoá làng tạo nên bản sắc
văn hoá Việt Nam.
d. Văn hoá dân gian.
Người Việt ở các làng trong quá trình lao động sản xuất ra của cải vật chất
đã sáng tạo ra những giá trị văn hoá tinh thần rất phong phú và đặc sắc, mang đậm
màu sắc dân gian truyền thống  của từng làng quê. Làng Việt chính là nơi lưu giữ
được các sinh hoạt văn hoá dân gian truyền thống. Đó là làng tuồng Tấn Bào, làng
tuồng Đa Hội (Tiên Sơn), làng múa rối nước Đồng Ngư (Thuận Thành), các làng
quan họ, hát trống quân, hát đối trên đình, đền, chùa và dưới thuyền, tối có
“chiếu chèo” hoặc giao lưu văn nghệ, thơ ca
e. Luật tục cổ truyền.
Ra đời cùng với sự phát triển của làng xã, Hương ước, Khoán ước, Hương
lệ, Lệ làng có vai trò to lớn trong đời sống xã hội. Có thể nói đó là “cương lĩnh
và nếp sống” của từng cộng đồng dân cư, là sợi dây cố kết các tổ chức và thành
viên trong làng, góp phần xác định và điều chỉnh các mối quan hệ giữa các
thành viên trong làng với cộng đồng và các thành viên trong cộng đồng với
nhau.
Quan hệ xã hội giữa người dân trong làng được quy định bởi những quy
ước về việc cư xử giữa người với người trong làng xã. Những điều khoản này
chiếm phần lớn trong các bản Hương ước. Nội dung chủ yếu của những điều
khoản đó đề cao tinh thần đoàn kết tương thân tương ái, gìn giữ quan hệ tốt đẹp,
không làm gì xấu ảnh hưởng tới cả làng.
Ví dụ: Điều 71 Hương ước làng Quỳnh Đôi (Nghệ An) quy định: mọi
người phải đến giúp đỡ người khác lợp nhà, đưa ma… mà không cần lời mời;
Điều 83 lại ghi ai gặp người già mà không giúp sức mang vác thì bị phạt.
Lệ làng còn có những điều khoản quy định hạn chế hiện tượng kéo bè kéo
cánh, cậy quyền ỷ thế trong việc giải quyết các công việc của làng, chống vu
cáo như: Khoán ước làng Dương Liễu (Hà Tây) ngăn cấm tệ cờ bạc và quy định
rõ mức phạt tiền đối với từng loại cờ bạc…
Như vậy, Hương ước các làng có tác dụng rất lớn, chẳng những là công cụ
giữ các mối quan hệ xã hội mà còn mở đường cho những hành vi tốt đẹp, điều
chỉnh những hành vi sai trái, bảo tồn thuần phong mỹ tục. Với những nội dung
trên, Hương ước lệ làng là công cụ văn hoá hữu hiệu mang tính cộng đồng cao và
tính nhân văn sâu sắc.
Tóm lại: thông qua yếu tố văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần ta có thể
khẳng định văn hoá làng chính là “cái gốc” của văn hoá dân tộc. Tổng thể nền văn
hóa dân tộc đều mang bản sắc văn hoá vùng, miền. Mà cái tạo nên văn hoá vùng
miền chính là văn hoá làng, đơn vị tổ chức nhỏ nhất. Đánh giá về vai trò của
văn hoá làng, cố học giả Trần Đình Hượu đã nhận xét “Tranh Đông Hồ, hát
quan họ không những có gốc làng mà còn có quy mô làng. Ngay cả văn hoá
cung đình cũng chỉ là tập hợp kỹ xảo của các làng”. Làng và văn hoá làng
những di sản văn hoá cần được bảo vệ.

+ Đặc trưng của văn hóa làng :

– Tính cộng đồng: là sự liên kết, gắn bó chặc chẽ, giữa các gia đình, gia tộc,
giữa các thành viên trong làng với nhau, là ứng xử trong mối quan hệ giữa các
thành viên trong làng với nhau.

– Tính tự trị: là sự ứng xử trong mối quan hệ giữa làng này với làng khác, do
tính cố kết cộng đồng cao khiến cho mỗi làng trở thành 1 đơn vị độc lập, khép
kín, co cụm lại, trong không gian khá biệt lập của mỗi làng tạo nên tính chất tự
trị của làng.

+ Tác động của nó ( Hạn chế)

Tạo nên lối sống khép kín, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau khi khó khăn, hoạn nạn,
cả làng có chung tập tục văn hóa, giữa các thành viên trong làng tạo nên tính cố
kết chặc chẽ, bên cạnh những mặt tốt thì nó còn để lại nhiều điều tiêu cực như
tạo nên tư tưởng bè phái, dựa dẫm, ỷ lại, cào bằng, đố kị, thủ tiêu ý thức về
người cá nhân. Tư tưởng tiểu nông tư hữu, ích kỉ, bề phái, địa phương cục bộ….

Bài làm 2

1. Văn hóa gia đình


Có nhiều định nghĩa về văn hóa và văn hóa gia đình, điều này xuất phát
từ sự đa dạng trong cách hiểu về văn hóa. Có thể thấy văn hóa gia đình là một
hệ thống giá trị văn hóa được tích hợp từ các giá trị văn hóa truyền thống và
hiện đại của một dân tộc, thể hiện nhận thức, thái độ, hành vi của các thành viên
trong việc thực hiện các chức năng của gia đình và ứng xử trong các mối quan
hệ cá nhân – gia đình – xã hội nhằm xây dựng gia đình.
Các thành tố của gia đình không tồn tại một cách cô lập mà liên kết với
nhau tạo thành một hệ thống thực hiện các chức năng của văn hóa gia đình. Các
chức năng cơ bản bao gồm:
+ Truyền tải văn hóa từ thế hệ này sang thế hệ khác.
+ Duy trì sự cân bằng của đời sống gia đình.
+ Bảo đảm sự tiếp nối văn hóa, chống sự đứt đoạn văn hóa.
+ Giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa và chức năng hình thành các giá
trị văn hóa mới.
Văn hóa gia đình Việt Nam truyền thống được hình thành từ cơ sở kết
hợp giữa nền văn hóa bản địa nảy sinh từ xã hội sản xuất nông nghiệp lúa nước
với hệ thống tư tưởng Nho giáo Trung Quốc, với triết lý đạo Phật về gia đình.
Xã hội phát triển, sự tiếp xúc văn hóa càng tăng lên. Gia đình Việt Nam không
chỉ tiến xúc với mô hình gia đình Nho giáo, mà còn tiếp xúc với văn hóa của
các nước phương Tây. Văn hóa gia đình truyền thống có nhiều mặt tích cực cần
được phát huy trong xã hội hiện đại. Ví dụ, chuyện tình nghĩa vợ chồng là một
giá trị cao đạo đức rất cao đẹp của người xưa. Người ta lấy nhau trước hết là vì
cái tình nhưng sống với nhau rồi sinh ra cái nghĩa. Có cái nghĩa thì vợ chồng
mới sống với nhau được, mới cảm thông và chia sẻ với nhau mọi chuyện, vượt
qua khó khăn và cám dỗ trong cuộc sống. 
Tuy nhiên, nhiều những giá trị của gia đình truyền thống không còn phù
hợp thì cần phải thay đổi để chống sự trì trệ văn hóa. Ví dụ, ngày xưa cha mẹ
đặt đâu con ngồi đấy trong hôn nhân; hay chữ hiếu là con cái không được rời xa
bố mẹ, phải ở quây quần trong một nhà, nghe theo bố mẹ bât kể đúng sai, hiếu
là phải có con trai để nối dõi tông đường…Nhưng ngày ngay, hôn nhân là do
con cái tự tìm hiểu và quyết định và chữ hiếu được vận dụng sáng tạo hơn,
không nặng nề như xưa mà chủ yếu là ở việc biết ơn cha mẹ, sự kính trọng và
tình yêu thương chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ.
Ngày nay, thế giới đang bước vào giai đoạn hội nhập quốc tế sâu rộng
trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, lối sống… Xu thế toàn cầu hóa là
một hiện tượng mang tính tất yếu khách quan, nó xuất phát từ chính nhu cầu
phát triển của nhân loại. Trong bối cảnh đó, văn hóa Việt Nam nói chung và 
văn hóa gia đình Việt Nam nói riêng tất yếu sẽ có sự giao lưu, hội nhập với văn
hóa quốc tế. Quá trình giao lưu, hội nhập ấy chúng ta không chỉ tiếp nhận mà
đồng thời cũng đóng góp những giá trị văn hóa gia đình Việt Nam làm phong
phú, đa dạng giá trị văn hóa nhân loại.

b. Văn hóa làng:


Làng xã Việt Nam vốn bắt nguồn từ công xã nông thôn, ra đời vào thời
kỳ tan rã của công xã nguyên thuỷ, tức là vảo khoảng thiên niên kỷ thứ nhất
trước công nguyên. Từ thế kỷ thứ X trở đi, cùng với sự hưng thịnh của chế độ
phong kiến, các công xã nông thôn dần dần bị phong kiến hoá và trở thành các
đơn vị hành chính cơ bản của chính quyền phong kiến với tên gọi chung là xã,
cũng có khi gọi là thôn hay làng.
Văn hóa làng có các đặc trưng sau:
- Thứ nhất, chủ nghĩa tập thể: Có thể nhận thấy rằng trong truyền
thống cộng đồng Việt Nam, ít thấy những quan hệ trực tiếp giữa cá nhân với các
cộng đồng lớn mà thường là quan hệ trách nhiệm giữa các cấp cộng đồng. Một
gia đình hay rộng ra là một gia tộc có trách nhiệm với xóm làng. Bởi thế, một cá
nhân bình thường chỉ có vai trò trong khuôn khổ gia đình họ mà thôi, còn ra đến
cộng đồng lớn, cá nhân luôn bị tan biến đi trong đó để duy trì những quan hệ
cộng đồng, cá nhân phải hoà mình tập thể và ngược lại cơ chế quản lý làng xã
phải được tổ chức sao cho đảm bảo được quyền bình đẳng giữa các thành viên.
Biểu hiện rõ nét nhất của truyền thống này quyền được tham gia bầu chọn ra
người đại diện tham gia vào bộ máy quản lý của làng xã, được hỏi ý kiến trước
những quyết định hệ trọng của làng. Công cụ điều chỉnh hành vi của các cá
nhân trong cộng đồng chủ yếu là dư luận, những lời đồn đại, thái độ khích lệ
hoặc chê cười của dân làng. Trong những trường hợp đặc biệt, làng áp dụng
biện pháp phạt vạ hoặc một số hình thức bêu riếu, hạ nhục trước tập thể. Như
vậy là tập thể có vai trò rất quan trọng đối với quá trình “lập pháp” và “hành
pháp” cũng như đối với “tư pháp” trong làng. Do tính cộng đồng cao như vậy,
nhiều học giả cho rằng cộng đồng làng xã Việt Nam đã làm nảy sinh truyền
thống dân chủ làng xã.
-Thứ hai, thể chế làng xã khó chấp nhận những cái mới và không có năng
lực tự biến đổi trước sự biến động của hoàn cảnh xã hội. Cái được gọi là truyền
thống dân chủ làng xã, về thực chất là tính chất công xã - thị tộc còn được lưu
tồn từ thời nguyên thuỷ và cũng chỉ tồn tại ở giai đoạn đầu của qúa trình hình
thành làng xã. Còn sau đó, làng xã vận hành theo những nguyên tắc mặc định và
cứng nhắc. Độ vênh giữa lệ làng “bất di bất dịch” với đời sống vật chất và nội
tâm của cá thể “luôn biến động” theo chiều hướng ngày một giãn rộng, tới độ,
để có thể duy trì sự tồn tại của mình, lệ làng bóp nghẹt mọi tiềm năng sáng tạo,
mọi ý thức về “cái tôi” của chủ thể Nhân cách và tính đa dạng của nhân cách bị
tan biến trong cộng đồng làng xã. Trong không gian làng xã, thời gian lịch sử
dường như ngưng đọng lại. Bởi vậy, không nên đánh giá quá cao những yếu tố
tương tự dân chủ của làng xã, vì cùng với thời gian chúng đã chuyển hoá thành
mặt đối lập.
-Thứ ba, tính tự quản thể hiện ở việc các thành viên giám sát lẫn nhau trở
thành một yêu cầu tự nhiên và là biện pháp quan trọng để duy trì kỷ cương. Có
thể thấy tính tự quản này vận hành như thế nào thông qua kết cấu quản trị của
làng xã. Bộ máy hành chính của làng xã gồm hai cơ quan: cơ quan quyết nghị
và cơ quan chấp hành. Cách thức tổ chức cũng như thành lập thể hiện rõ tính tự
trị của làng xã. Tất cả các dân đinh trong làng xã đều có thể trực tiếp tham gia
vào giải quyết các công việc của làng xã, kể cả một số việc của Nhà nước.
Cơ quan quyết định của làng là Hội đồng kỳ mục (có nơi gọi là hội đồng kỳ
hào, hội đồng làng, hội đồng xã …), đây là một tập thể không hạn định về mặt
số lượng các thân hào danh tiếng trong xã, đã từng đỗ đạt như: cử nhân, tú tài,
tiến sĩ đã làm quan hoặc đang làm quan. Người được quyền tham gia Hội đồng
kỳ mục phải hội đủ các điều kiện đã quy định trong Hương ước của làng.
Tính tự quản và làng xã còn thể hiện rất rõ trong mối quan hệ giữa làng xã với
chính quyền trung ương. Về nguyên tắc, Vua hay triều đình không giao dịch
trực tiếp với dân trong làng xã. Do vậy, nhà nước quản lý làng xã (mà trên
thực tế là hầu như toàn bộ xã hội) phải thông qua đại diện của làng xã.
Song cũng phải thừa nhận rằng, tính tự quản của làng xã dễ dàng biến thái
thành tính tự trị. Lịch sử Việt Nam đã cho thấy làng xã tự quản theo lệ mà
không dựa vào luật của chính quyền trung ương, nên dẫn đến sự gián cách giữa
trung ương với địa phương và tạo cơ hội cho các hoạt động tùy tiện của đội ngũ
“quan trị viên” biến chất. Bước chuyển từ tự quản sang tự trị đã đẻ ra tầng lớp
cường hào nhiễu sách nhân dân. Những bi kịch khốn quẫn của người nông dân
trong cộng đồng làng xã tự trị đã khắc sâu trong tác phẩm của nhiều văn sĩ
thuộc trường phải hiện thực: Ngô Tất Tố, Nam Cao …
-Thứ tư, chủ nghĩa cục bộ địa phương Đặc trưng này làm cho sự tiếp
nhận các quy định chung của nhà nước trở nên bê trễ hoặc chỉ mang tính hình
thức hoặc bị áp dụng và giải thích sai lệch về nội dung, tóm lại là bị “uốn nắn”
theo quan điểm địa phương chủ nghĩa: phép vua thua lệ làng. Trong không
gian làng xã, pháp luật bị đẩy xuống hàng thứ yếu và mọi vấn đề phát sinh đều
có thể quy về cái gọi là “giải quyết nội bộ”
Tóm lại: thông qua yếu tố văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần ta có thể
khẳng định văn hoá làng chính là “cái gốc” của văn hoá dân tộc. Tổng thể nền văn
hóa dân tộc đều mang bản sắc văn hoá vùng, miền. Mà cái tạo nên văn hoá vùng
miền chính là văn hoá làng, đơn vị tổ chức nhỏ nhất. Đánh giá về vai trò của
văn hoá làng, cố học giả Trần Đình Hượu đã nhận xét “Tranh Đông Hồ, hát
quan họ không những có gốc làng mà còn có quy mô làng. Ngay cả văn hoá
cung đình cũng chỉ là tập hợp kỹ xảo của các làng”. Làng và văn hoá làng
những di sản văn hoá cần được bảo vệ.

Câu 5. Tôn giáo và tín ngưỡng của người Việt.


Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, đa tôn giáo. Theo thống kê chưa đầy
đủ cho thấy Việt Nam có khoảng 95% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo
(trong hàng nghìn tín ngưỡng thì tín ngưỡng phổ biến là thờ cúng ông bà tổ tiên
và tín ngưỡng thờ Mẫu).Tính đến nay, cả nước có khoảng 45.000 cơ sở tín
ngưỡng, trong đó có hơn 2.900 di tích gắn với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, một
số di tích được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Hàng năm, Việt Nam có
gần 13.000 lễ hội, gồm 5 loại: lễ hội dân gian, lễ hội lịch sử cách mạng, lễ hội
tôn giáo, lễ hội du nhập từ nước ngoài, lễ hội văn hóa - thể thao và ngành nghề.
Riêng trong lĩnh vực tôn giáo, Việt Nam có khoảng hơn 26,5 triệu tín đồ (chiếm
27% dân số), 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được nhà nước công nhận hoặc cấp
chứng nhận đăng ký hoạt động. Cả nước hiện có hơn 57,4 ngàn chức sắc, trên
147 ngàn chức việc, hơn 29,6 ngàn cơ sở thờ tự. Số lượng tín đồ theo các tôn
giáo hiện nay khoảng: Phật giáo: 15,1 triệu; Công giáo: 7,1 triệu; Cao đài: 1,1
triệu; Tin lành: 1 triệu; Hồi giáo: 80.000; Phật giáo Hòa hảo: 1,3 triệu, còn lại là
các tôn giáo khác (Tịnh độ Cư sỹ Phật hội, Tứ ân Hiếu nghĩa, Bà La môn, Bửu
Sơn Kỳ Hương, Minh sư đạo, Minh lý đạo…).

Với chính sách tôn giáo đúng đắn, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo, quyền theo hoặc không theo tôn giáo của mọi người, các tôn
giáo bình đẳng trước pháp luật, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong
việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng của mọi người, số lượng chức sắc, chức
việc, cơ sở thờ tự ngày càng gia tăng; quy mô hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo
lớn; chính quyền các cấp đảm bảo an ninh trật tự, phòng chống cháy nổ, vệ sinh
an toàn thực phẩm đối với các hoạt động tôn giáo có đông người dân và du
khách nước ngoài tham dự... Cụ thể, người có tín ngưỡng, tín đồ các tôn giáo
được tự do bày tỏ đức tin tại gia đình, cơ sở thờ tự hoặc điểm nhóm đăng ký với
chính quyền. Tổ chức tôn giáo được hoạt động theo Hiến chương, điều lệ, được
tạo điều kiện in ấn, phát hành kinh, sách tôn giáo; nâng cấp, xây mới cơ sở thờ
tự; mở rộng quy mô và hình thức sinh hoạt; tăng cường, mở rộng hoạt động
quốc tế… Việc công nhận tổ chức tôn giáo theo quy định của pháp luật nhận
được sự đồng tình, ủng hộ của người dân và sự đánh giá cao của cộng đồng
quốc tế.

Còn đối với các nhóm người theo tôn giáo chưa được công nhận về mặt
tổ chức hoặc chưa được cấp đăng ký hoạt động, chính quyền các địa phương
vẫn bảo đảm tự do sinh hoạt tôn giáo cho các tín đồ tại gia đình, điểm nhóm
đăng kí với chính quyền hoặc địa điểm hợp pháp theo quy định của Luật. Hiện
nay, có hàng trăm điểm nhóm được cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung,
trong đó có cả điểm nhóm của người nước ngoài. Tính đến năm 2020, khu vực
Tây Nguyên hiện có khoảng 580.000 tín đồ đạo Tin lành thuộc 33 tổ chức, hệ
phái, nhóm Tin lành đang sinh hoạt tại 311 chi hội, 183 nhà thờ, hơn 1.700 điểm
nhóm được chính quyền địa phương cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung.
Tại khu vực miền núi phía Bắc có khoảng 250.000 tín đồ đạo Tin lành đang sinh
hoạt tại 14 chi hội và hơn 1.600 điểm nhóm, trong đó chính quyền địa phương
đã cấp đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung cho gần 800 điểm nhóm. Ông
Nguyễn Thanh Sơn, Chánh Văn phòng Thường trực Ban Chỉ đạo về Nhân
quyền của Chính phủ nhấn mạnh, Việt Nam thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn
giáo ngày 18/11/2016. Luật đã tác động tích cực đến đời sống tín ngưỡng, tôn
giáo ở Việt Nam tạo hành lang pháp lý vững chắc để bảo đảm thực thi quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Việc sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo của
bà con cũng rất thuận lợi. Nếu như trước đây, thời gian sinh hoạt tập trung của
các điểm nhóm Tin lành phải từ 20-25 năm trở lên thì nay, chỉ cần 5 năm sinh
hoạt liên tục, thường xuyên, cộng thêm một số điều kiện khác sẽ được đăng ký.
Và nhờ có sự đoàn kết, ở Việt Nam không có xung đột tôn giáo. Các tôn giáo
chung sống hòa hợp, gắn bó đồng hành với dân tộc. Chức sắc, tín đồ các tôn
giáo tích cực tham gia phong trào xã hội, từ thiện, xóa đói giảm nghèo, đóng
góp thiết thực vào sự phát triển của đất nước.

Chưa hết, theo thống kê của Ban Tôn giáo chính phủ, chính sách của Nhà
nước Việt Nam cũng phát huy được những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp,
nguồn lực của tôn giáo cho quá trình phát triển đất nước. Những năm qua, các
tổ chức tôn giáo tích cực tham gia các hoạt động xã hội hóa về y tế, giáo dục và
từ thiện nhân đạo, góp phần đáng kể vào công tác an sinh xã hội, giảm gánh
nặng cho Nhà nước, cụ thể: Thành lập trên 450 cơ sở y tế; gần 1.300 trường, lớp
mầm non, trên 50 cơ sở dạy nghề; 800 cơ sở bảo trợ xã hội chăm sóc trẻ em mồ
côi, trẻ tàn tật, người già cô đơn, bệnh nhân tâm thần, HIV/AIDS. Bên cạnh đó,
các tổ chức tôn giáo đã đồng hành cùng với Chính phủ trong công tác phòng
chống COVID-19 thông qua việc ủng hộ vật chất (tiền và hiện vật) với tổng giá
trị hàng chục tỷ đồng. Điển hình: Giáo hội Phật giáo Việt Nam ủng hộ Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 5 phòng áp lực âm phục vụ điều trị
COVID-19, trị giá 3,5 tỷ đồng; Ủy ban bác ái xã hội, Hội đồng giám mục Việt
Nam hỗ trợ vùng dịch của tỉnh Vĩnh Phúc khẩu trang, nước rửa tay, vitamin C;
Giáo hội Các ngày sau của Chúa Giê su Ki tô đã ủng hộ 50.000 khẩu trang trị
giá 300 triệu đồng…

Nói thêm về những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong việc tự do tôn
giáo, từ năm 2017, mục sư F.Graham - Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Hiệp hội
truyền bá phúc âm Billy Graham và là một trong các mục sư nổi tiếng nhất ở
Mỹ, người trực tiếp chủ trì hai buổi truyền giảng với sự tham dự của hơn mười
nghìn người tại Hà Nội từng trả lời phỏng vấn hãng AP rằng: “Chính quyền
Việt Nam đã không đặt ra bất kỳ điều kiện nào cho việc tổ chức hai buổi truyền
giảng. Chúng tôi chỉ là khách, chính quyền chưa nói với tôi là được nói gì hoặc
không được nói gì” rằng “tự do tôn giáo tại Việt Nam đang được cải thiện”.

6. Đặc điểm hôn nhân, tang ma của người Việt.


Gắn liền với tín ngưỡng là phong tục. Đó là những thói quen ăn sâu vào
đời sống xã hội từ lâu đời; được đại đa số mọi người thừa nhận và làm theo
(phong: gió; tục: thói quen; phong tục: thói quen lan rộng). Phong tục có trong
mọi mặt đời sống; ở đây tập trung xem xét ba nhóm chủ yếu: phong tục hôn
nhân; tang ma; lễ Tết và lễ hội.
a. Phong tục hôn nhân
Như ta đã biết; một trong hai đặc trưng cơ bản của làng xã Việt Nam là tính
cộng đồng. Mọi việc liên quan đến cá nhân cũng đồng thời liên quan đến cộng
đồng; kể cả hôn nhân là lĩnh vực riêng tư nhất. Hôn nhân của người Việt Nam
truyền thống không phải là việc hai người lấy nhau mà là việc “hai họ” dựng vợ
gả chồng cho con cái. Tục lệ này xuất phát từ quyền lợi của tập thể.
-Trước hết là QUYỀN LỢI CỦA GIA TỘC
Việc hôn nhân tuy là của hai người nhưng lại kéo theo việc xác lập quan hệ giữa
hai gia tộc. Vì vậy; điều cần làm đầu tiên chưa phải là lựa chọn một cá nhân cụ
thể; mà là lựa chọn một dòng họ; một gia đình xem cửa nhà hai bên có tương
xứng không; có môn đăng hộ đối không.
Tiếp theo; đối với cộng đồng gia tộc; hôn nhân là một công cụ duy nhất
và thiêng liêng để duy trì dòng dõi và phát triển nguồn nhân lực. Để đáp ứng
nhu cầu nhân lực của nghề trồng lúa (xem về tín ngưỡng phồn thực ở IV- §1.1);
khi xem xét con người trong hôn nhân; người nông nghiệp Việt Nam quan tâm
trước hết đến năng lực inh sản của họ.
Kén dâu; lấy vợ thì phải chọn người Lưng chữ cụ; vú chữ tâm; phải là
Đàn bà thắt đáy lưng ong; Vừa khéo chiều chồng; vừa khéo nuôi con. Năng lực
sinh đẻ của người phụ nữ còn có thể nhìn thấy qua gia đình họ: Mua heo chọn
nái; lấy gái chọn dòng; Ăn mày nơi cả thể; lâm rể nơi nhiều con; Lấy con xem
nạ (nạ = mẹ). Hướng tới mục đích sinh đẻ là tục “giã cối đón dâu” và tục trải
chiếu cho lễ hợp cẩn: gia đình nhờ một người phụ nữ đứng tuổi; đông con; phúc
hậu; vợ chồng song toàn vào trải chiếu cho cô dâu chú rể: chiếu trải phải một
đôi – một ngửa; một sấp (một âm một dương) úp vào nhau.
Không chỉ duy trì dòng giống; người con tương lai còn có trách nhiệm
làm lợi cho gia đình. Con gái phải đảm đang tháo vát; đem lại nguồn lợi vật chất
cho gia đình nhà chồng; con trai phải giỏi giang; đem lại vẻ vang (nguồn lợi
tinh thần) cho gia đình nhà vợ: Chồng sang vợ được đi giày; Vợ ngoan chồng
được tối ngày cậy trông; Trai khôn kén vợ chợ đông; Gái khôn kén chồng giữa
chốn ba quân…
- Hôn nhân còn phải đáp ứng các QUYỀN LỢI CỦA LÀNG XÃ.
Mối quan tâm hàng đầu của người Việt Nam là sự ổn định của làng xã; vì
vậy mà có truyền thống khinh rẻ dân ngụ cư. Cũng nhằm tạo nên sự ổn định; đã
hình thành quan niệm chọn vợ chọn chồng cùng làng: Ruộng đầu chợ; vợ giữa
làng; Ruộng giữa đồng; chồng giữa làng; Lấy chồng khó giữa làng; hơn lấy
chồng sang thiên hạ; Ta về ta tắm ao ta; dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn…
Nếu việc phân biệt “dân chính cư – dân ngụ cư” là phương tiện hành
chính để duy trì sự ổn định; cách nói “gắn bó với quê cha đất tổ”; với nơi “chôn
nhau cắt rốn”; quan niệm chọn vợ chọn chồng cùng làng là phương tiện tâm lí;
thì tục nộp cheo đóng vai trò phương tiện kinh tế: Khi lấy vợ; nhà trai phải nộp
cho làng xã bên gái một khoản “lệ phí” gọi là “cheo” thì đám cưới mới được
công nhận là hợp pháp.
Ca dao; tục ngữ có những câu: Nuôi lợn thì phải vớt bèo; Lấy vợ thì phải
nộp cheo cho làng; Lấy vợ mười heo; không cheo cũng mất; Lấy vợ không
cheo; tiền gieo xuống suối. Người cùng làng lấy nhau thì nộp ít (có tính tượng
trưng); gọi là cheo nội; lấy vợ ngoài làng thì cheo rất nặng; gấp đôi gấp ba cheo
nội; gọi là cheo ngoại.
Nhìn chung; lịch sử hôn nhân Việt Nam luôn là lịch sử hôn nhân vì lợi
ích của cộng đồng; tập thể: từ các cuộc hôn nhân vô danh của thường dân đến
những cuộc hôn nhân nổi danh như Mị Châu với Trọng Thủy; công chúa Huyền
Trân với vua Chăm Chế Mân; công chúa Ngọc Hân với Nguyễn Huệ…; rồi vô
số những cuộc hôn nhân của các con vua cháu chúa qua các triều đại được triều
đình gả bán cho tù trưởng các miền biên ải nhằm củng cố đường biên giới quốc
gia – tất cả đều là làm theo ý nguyện của các tập thể cộng đồng lớn nhỏ: gia
đình; gia tộc; làng xã; đất nước.
- Khi các quyền lợi của tập thể cộng đồng đã được tính đến và đáp ứng cả
rồi; lúc ấy người ta mới lo đến những NHU CẦU RIÊNG TƯ.
Trước hết là sự phù hợp của đôi trai gái xét một cách trừu tượng bằng
việc hỏi tuổi (lễ vấn danh; mà ngày nay gọi là chạm ngõ; hay lễ dạm) xem đôi
trai gái có hợp tuổi nhau hay không; còn nếu xung khắc thì thôi. Để cho quan hệ
vợ chồng được bền vững; khi cưới; đôi vợ chồng trẻ thời Hùng Vương có tục
trao cho nhau nắm đất và gói muối: nắm đất tượng trưng cho lời nguyền gắn bó
với đất đai – làng xóm; gói muối là lời chúc cho tình nghĩa giữa hai người mặn
mà thủy chung (Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau).
Sau này; thay cho đất và muối; trong lễ vật dẫn cưới luôn có một loại
bánh đặc biệt rất có ý nghĩa là hành su sê (tên đọc chệch đi của phu thê): Bánh
“phu thê” (vợ chồng) hình tròn bọc bằng hai khuôn hình vuông úp khít vào
nhau. Đó chính là biểu tượng của triết lí âm dương (vuông tròn) và ngũ hành
(ruột dừa trắng; nhân đậu vàng; rắc vừng đen; khuôn lá xanh; buộc lạt đỏ); biểu
tượng cho sự vẹn toàn; hòa hợp – hòa hợp của đất trời và của con người. Khi
làm lễ hợp cẩn; còn có tục hai vợ chồng ăn chung một điã cơm nếp; uống chung
một chén rượu: ý nghĩa của tục này cũng là cầu chúc cho hai vợ chồng luôn gắn
bó với nhau: đính nhau như cơm nếp và say nhau như say rượu.
Quan hệ mẹ chồng – nàng dâu cũng rất được chú ý. Mẹ chồng; nàng dâu
vốn hay mâu thuẫn vì những chuyện không đâu; chẳng qua là do cả hai đều cảm
thấy tình cảm của người con – người chồng đã không dành trọn cho mình. Vì
vậy mà khi cô dâu mới bước vào nhà; có tục mẹ chồng ôm bình vôi lánh sang
nhà hàng xóm: Trong gia đình nông nghiệp Việt Nam; người phụ nữ được xem
là nội tướng ; người mẹ chồng lánh đi là có ý nhượng quyền “nội tướng” tương
lai cho con dâu để cho trong gia đình trên thuận dưới hòa. Nhưng đó là trong
tương lai; còn hiện tại thì chưa; cho nên mẹ chồng mới ôm theo chiếc bình vôi –
biểu tượng quyền lực của người phụ nữ.
b. Phong tục tang ma
- Trong việc tang ma; người Việt Nam bị giằng kéo giữa hai thái cực:
Một mặt là quan niệm có tính triết lí cho rằng sau khi chết; linh hồn sẽ về nơi
“thế giới bên kia” nên việc tang ma được xem như việc đưa tiễn; mặt khác là
quan niệm trần tục coi chết là hết nên việc tang ma là việc xót thương.
Xem tang ma như việc đưa tiễn và với thói quen sống bằng tương lai (sản
phẩm của triết lí âm dương); cho nên người Việt Nam rất bình tĩnh; yên tâm đón
chờ cái chết. Chết già vì vậy được xem là một sự mừng: trẻ làm ma; già làm
hội. Nhiều nơi có người già chết còn đốt pháo; chắt chút để tang cụ kị thì đội
khăn đỏ; khăn vàng
Người Việt Nam chuẩn bị khá chu đáo cho cái chết của mình. Các cụ già
tự mình lo sắm áo quan (quan tài; còn gọi là cỗ hậu; cỗ thọ). Quan tài của người
Việt Nam làm hình vuông – tượng trưng cho cõi âm; làm xong; kê ngay dưới
bàn thờ như một việc hết sức bình thường. Có cỗ thọ rồi; các cụ lo đến việc nhờ
thầy địa lí đi tìm đất; rồi xây sinh phần (mộ). Các vua chúa bao giờ cũng lo tất
cả những việc này rất chu đáo thường là ngay từ khi mới lên ngôi; các lăng mộ
vua còn giữ được ở Huế đồng thời cũng là những nơi thắng cảnh là vì thế.
Do chu đáo khi trong nhà có người hấp bối; việc quan trọng là đặt tên
kèm (tên thụy) cho người sắp chết. Đó là một tên mới (do người sắp chết tự đặt
hoặc con cháu đặt cho) mà chỉ có người chết; con cháu và thần Thổ công nhà đó
biết mà thôi. Khi cúng giỗ; con trưởng sẽ khấn bằng tên hèm; Thổ thần có trách
nhiệm chỉ cho phép linh hồn có “mật danh” đúng như thế vào thôi (vì vậy; tên
này còn gọi là tên cúng cơm). Làm như vậy là để phòng ngừa những cô hồn
lang thang vào ăn tranh cỗ cúng sau này.
Trước khi khâm liệm; phải làm lẽ mộc dục (tắm gội cho người chết) và lễ
phận hàm: bỏ một nhúm gạo nếp và ba đồng tiền vào miệng (gạo để dùng thay
bữa; tiền để đi hò – quan niệm của người vùng sông nước). Khi khâm liệm; phải
có miếng vải đắp mặt người chết đế khỏi trông thấy cháu con sinh buồn. Trong
áo quan; từ thời Hùng Vương đã có tục chia tài sản cho người chết mang theo.
Trước khi đưa tang; người Việt cúng thần coi sóc các ngả đường để xin phép.
Trên đường đi; có tục rắc vàng giấy làm lộ phí cho ma quỷ. Đến nơi; làm lễ tế
Thổ thần xin phép cho người chết được “nhập cư”.
Chôn cất xong; trên mộ đặt bát cơm; quả trứng; đôi đũa (cắm trên bát
cơm) có tua bông ở đầu (hoặc mớ bùi nhùi). Bát cơm là đất mẹ (âm); tua bông
(hoặc mớ bùi nhùi) là mây trời (dương); đôi đũa nối âm dương hòa hợp. Hoặc
theo cách giải thích của những người Nho học thì tua bông (mớ bùi nhùi) tượng
trưng cho thế giới hỗn mang; trong hỗn mang hình thành nên thái cực (tượng
trưng bằng bát cơm); thái cực sinh ra ông nghi (đôi đũa); có lương nghi (âm
dương) là có sự sống (tượng trưng bằng quả trứng). Toàn bộ toát lên ý cầu chúc
cho người chết sớm đầu thai trở lại.
Xót thương nên muốn níu kéo; giữ lại. Tục khiêng người chết đặt xuống
đất; tục gọi hồn thể hiện hi vọng mong người chết sống lại. Vì xót thương nên
có tục khóc than; con cháu không lòng dạ nào mà dùng đồ tốt (đồ tang làm hằng
các loại vải thô; xấu như xô; gai); không tâm trí nào mà nghĩ đến việc ăn mặc
(nên gấu xổ; áo trái; đầu bù;…); đau buồn quá nên đứng không vững (trai phải
chống gậy; gái phải lăn đường); đau buồn quá dễ sinh quẫn trí và đập thành
trùng tang (nên phải đội mũ dây chuối;…). Ngày nay; nhiều tục lệ trong số đó
không còn tồn tại nữa; không phải vì chúng vô nghĩa mà có lẽ chính là vì chúng
quá chi li; cầu kì.
Ở lĩnh vực tang lễ này ta cũng thấy rõ tính cộng đồng: biết nhà có tang;
bà con xóm làng hao giờ cũng chạy tới ngay giúp rập; lo toan chỉ bảo cho mọi
việc. Người Việt Nam quan niệm Bán anh em xa; mua láng giềng gần nên khi
nhà có người mất; hàng xóm láng giềng không những giúp đỡ; mà còn để tang
cho nhau: Họ đương 3 tháng; láng giềng 3 ngày; Láng giềng còn để ba ngày;
Chồng cô; vợ cậu một ngày cũng không. Người nông nghiệp sống gắn bó không
chỉ với xóm làng; mà còn cả với thiên nhiên; cho nên khi chủ chết; cây cối cũng
đau buôn mà để tang: nhiều nơi có tục đeo băng trắng cho cả cây cối trong
vườn.
Phong tục tang lễ của ta thấm nhuần rất sâu sắc tinh thần triết lí âm
dương Ngũ hành.
Về màu sắc; tang lễ Việt Nam truyền thống dùng màu trắng là màu của
hành Kim (hướng tây) theo Ngũ hành. Mọi thứ liên quan đến hướng tây đều
được xem là xấu. Nơi để mồ mả của người Việt và người dân tộc thường là
hướng tây của làng; người dân tộc xem rừng phía tây là rừng của ma quỷ. Sau
màu trắng là màu đen (màu của hành Thủy – phương bắc theo Ngũ hành). Chỉ
khi chắt; chút để tang cụ; kị (là tốt; bởi đó là bằng chứng cho thấy các cụ sống
lâu) thì mới dùng các màu tốt như màu đỏ (phương nam) và vàng (trung ương).
Tất cả đều theo đúng trình tự ưu tiên trong Ngũ hành.
Về loại số; theo triết lí âm dương; âm ứng với số chẵn; dương ứng với số
lẻ; vì vậy; mọi thứ liên quan đến người chết (âm) đều phải là số chẵn: Lạy trước
linh cữu thì phải lạy 2 hoặc 4 lạy; ở nhà mồ của các dân tộc miền núi; cầu thang
phải làm với số bậc chẵn; hoa cúng người chết cũng phải dùng số chẵn.
Khác với người sống ở cõi dương; mọi thứ phải theo số lẻ: lạy người
sống phải là 1 hoặc 3 lạy; cầu thang; lối lên nhà phải có số học lẻ (thế mới là
tam cấp!); hoa cho người sống cũng phải có số bông lẻ. (Trừ trường hợp chết
coi như sống: cúng Phật; cúng cha mẹ sau khi đoạn tang thắp 3 nén nhang; hoặc
sống coi như chết: con gái lạy cha mẹ trước khi xuất giá đi lấy chồng 2 lạy; từ
nay trở thành con nhà người khác).
Cũng theo luật âm dương là việc phân biệt tang cha với tang mẹ: Khi con
trai chống gậy để tang thì cha gậy tre; mẹ gậy vông. Đó là vì thân tre tròn; biểu
tượng dương; cành vông đẽo thành hình vuông; biểu tượng âm. Đưa tang và để
tang còn có tục cha đưa mẹ đến (tang cha – đi sau quan tài; tang mẹ – đi giật lùi
phía đầu quan tài) và tục áo tang cha thì mặc trở đằng sống lưng ra; tang mẹ
mặc trở đằng sống lưng vô – hai tục sau cũng đều thể hiện triết lí âm dương qua
cặp nghĩa hướng ngoại (dương; cha) – hướng nội (âm- mẹ).
Phong tục lang lễ phổ biến và chính thống của ta còn thừa kế được cả tinh
thần dân chủ truyền thống . Thọ Mai gia lễ của ta quy định cha mẹ phải để tang
con; và không chỉ cha mẹ để tang con mà cả ông bà và cụ kị cũng để tang hàng
chấp; hàng chắt.
Trong khi đó thì; theo tục lệ Trung Hoa; “Phụ bất bái tử” (cha không lạy
con); con chết trước cha mẹ là nghịch cảnh; bất hiếu (một vài nơi có truyền
thống Nho học mạnh cũng theo quan niệm này nên nếu con chết trước thì lúc
khâm liệm; quấn trên đầu tử thi mấy vòng khăn trắng; ý là ở cõi âm cũng phải
để tang báo hiếu sẵn cho cha mẹ!)

Câu 7. Giới thiệu lễ tết và lễ hội của người Việt.


Nghề lúa nước mang tính thời vụ cao; lúc có việc thì tối tăm mặt mũi;
ngay miếng ăn cũng đại khái cốt được việc thì thôi; cho nên lúc rảnh rỗi; người
nông nghiệp có tâm lí chơi bù; ăn bù. Vì vậy mà ở Việt Nam; Tết nhất đã nhiều;
hội hè cũng lắm.
- Các ngày LỄ TẾT được phân bố theo thời gian trong năm; xen vào các
khoảng trống trong lịch thời vụ (chữ “Tết” là biến âm từ chữ “tiết” mà ra). Lễ
tết gồm hai phần: cúng tổ tiên (lễ) và ăn uống bù cho lúc làm lụng đầu tắt mặt
tối (tết). Tết là phải ăn – “ăn tết”.
Trong năm; quan trọng nhất là Tết Nguyên Đán (nguyên = bắt đầu; đán =
buổi sáng); nó còn được gọi là Tết ta để phân biệt với tết tây (đầu năm theo lịch
đương) hoặc Tết cả để phân biệt với các tết con còn lại.
Thời cổ; năm mới phương Nam bắt đầu từ tháng Tí; tức tháng Một (=11);
về sau ta chịu ảnh hường của Trung Hoa; mới lấy tháng Dần (tháng Giêng) làm
tháng đầu năm; chỉ riêng một vài dân tộc thiếu số và một số vùng vẫn còn duy
trì được tục đón năm mới vào tháng Tí Tuy chịu ảnh hưởng của Trung Hoa
trong việc xác định mốc đầu năm; Tết ta vẫn mang trọn vẹn đặc trưng văn hóa
truyền thống dân tộc.
Có thể nói; đặc trưng văn hóa điển hình nhất của Tết Nguyên Đán là nếp
sống cộng đồng: Từ 23 tháng Chạp (ngày ông Táo lên trời); người dân nô nức
đi chợ Tết – có người đi để sắm Tết; có người đi cốt để chơi chợ Tết (ở chợ
miền núi; vợ chồng con cái đưa nhau đi chợ vui chơi suốt ngày). Chợ Tết là
thước đo sự ấm no của cộng đồng trong năm. Rồi người ta chung nhau giết lợn;
chung nhau gói bánh chưng; cùng ngồi bên bếp lửa canh nồi bánh. Nếp sống
cộng đồng còn thể hiện ở chỗ Tết là dịp duy nhất trong năm có sự sum họp đầy
đủ của tập thể gia đình; gia tiên và gia thần.
Con cháu dù đi làm ăn ở đâu ngày Tết cũng cố gắng về ăn Tết với gia
đình; hương hồn ông bà tổ tiên các thế hệ cũng cùng về gặp mặt; các vị thần phù
hộ cho gia đình đều được chăm lo cúng bái. Tết thật là một cuộc đại đoàn viên.
Tính cộng đồng của Tết bộc lộ một cách đặc biệt trong tục mừng tuổi: Truyền
thống Việt Nam không có tục kỉ niệm sinh nhật; mọi người đều như nhau – Tết
đến; tất cả đều được thêm một tuổi.
Không chỉ ngày đầu năm; mà tháng đầu năm cũng đặc biệt quan trọng;
thêm vào đó; tháng này công việc lại ít (tháng Giêng là thàng ăn chơi) nên tháng
Giêng có nhiều Tết hơn hẳn các tháng khác (tháng Giêng ăn nghiêng bồ thóc):
Ngoài Tết Nguyên Đán là Tết rằm tháng Giêng – đó là ngày trăng tròn đầu tiên;
là Tết Thượng Nguyên; hướng Thiên cầu phúc.
Rằm tháng giêng còn là ngày vía của đứt Phật Adiđà (Lễ cả năm không
bằng rằm Tháng Giêng). Trước đây; người Việt còn kỉ niệm cả ngày 9 và 10
tháng Giêng nữa: Ngày 9 ví Trời; ngày 10 vía Đất (vía = ngày sinh). Hai số 9 và
10 là hai số dương và âm tận cùng; được xem là số của Trời và Đất; đó cũng là
“số phương” của Trời Đất: Lạy 9 phương Trời; lạy 10 phương Đất.
Tết Thượng Nguyên nằm trong cùng hệ thống với các Tết Trung Nguyên
(rằm tháng Bảy; Địa quan xá tội; dân cúng cô hồn bằng cháo hoa đổ vào những
chiếc lá đa đặt dọc đường đi; cũng là ngày lễ Vu Lan của nhà Phật) và Hạ
Nguyên (rằm tháng Mười; Thủy quan giải ách; cũng là ngày Tết cơm mới).
Thuộc loại Tết ngày rằm còn có Trung Thu (rằm Tháng Tám) vốn là Tết chung
của mọi người; đánh dấu ngày có trăng tròn nhất trong năm; lúc thời tiết mát
mẻ; tổ chức thả diều; hát trống quân… sau này chuyển thành Tết của thiếu nhi.
Ngoài ra; có Tết Hàn Thực (3-3) làm bánh trôi; bánh chay cúng gia tiên;
Tết Đoan Ngọ (5-5) là Tết của xứ nóng phương Nam ta kỉ niệm thời điểm giữa
năm (lịch nguyên thủy tính từ tháng Tí; cho nên Tí = đầu năm; Ngọ = giữa
năm). Đây là thời điểm nóng nực; nhiều bệnh tật phát sinh nên dân ta gọi ngày
này là Tết giết sâu bọ; với tục dùng lá móng nhuộm (để bảo vệ) móng tay móng
chân cho trẻ; ăn rượu nếp (miền Nam gọi là cơm rượu) và hoa quả chua chát (để
“sâu bọ” trong người say và chết); vào giờ Ngọ đi hái lá (các loại lá ngải; ích
mẫu; lá muỗm; lá vối…) phơi khô để dùng uống cả năm. Thuộc loại Tết trùng
ngày tháng (3-3; 5-5); trước đây còn có Tết Ngâu 7-7.
Cuối năm; 23 tháng chạp là ngày Tết ông Táo; các gia đình sắm 2 mũ ông
1 mũ bà để cúng bộ ba Thổ Công – Thổ Địa – Thổ Kì cùng với cá chép để ông
lên chầu Trời (người du mục thì đi ngựa; còn người vùng nông nghiệp sông
nước thì cưỡi cá!). Mở đầu bằng Tết Nguyên Đán; kết thúc bằng Tết ông Táo;
để rồi đêm 30; ông Táo lại trở về cùng gia đình bước vào năm tiếp theo – hệ
thống lễ Tết làm thành một chu trình khép kín; âm dương chuyển hóa cho nhau.
- Nếu lễ Tết là một hệ thống phân bố theo thời gian thì Lê Hội là hệ thống
phân bố theo không gian: Vào mùa xuân và mùa thu; khi công việc đồng áng
rảnh rỗi nhất; lễ hội diễn ra liên tiếp hết chỗ này đến chỗ khác; mỗi vùng có lễ
hội riêng của mình. Chẳng thế mà vùng Kinh Bắc có câu: Mồng 7 hội Khám;
Mồng 8 hội Dâu; Mồng 9 đâu đâu nhớ về hội Gióng. Lễ hội có phần lễ và phần
hội.
Phần LỄ mang ý nghĩa tạ ơn và cầu xin thần linh bảo trợ cho cuộc sống
của mình. Căn cứ vào mục đích này và dựa vào cấu trúc của hệ thống văn hóa;
có thể phân biệt ba loại lễ hội: Lễ hội liên quan đến cuộc sống trong quan hệ với
môi trường tự nhiên (lễ hội cầu mưa; hội xuống đồng; hội đâm trâu; hội cơm
mới; hội cốm; hội đua thuyền; hội đua ghe Ngo…).
Lễ hội liên quan đến cuộc sống trong quan hệ với môi trường xã hội (kỉ
niệm các anh hùng dựng nước và giữ nước – hội Đền Hùng; hội Gióng; hội đền
An Dương Vương; hội đền Hai Bà Trưng; hội đền Kiếp Bạc; hội Tây Sơn; hội
Đống Đa…); và lễ hội liên quan đến đời sống cộng đồng (các lễ hội tôn giáo và
văn hóa – hội Chùa Hương; hội chùa Tây Phương; hội chùa Thầy; hội đền Bắc
Lệ; hội đền Dạ Trạch; hội Phủ Giày; hội núi Bà Đen…).
Phần Hội gồm các trò vui chơi giải trí hết sức phong phú. Xét về nguồn
gốc; phần lớn các trò chơi này đều xuất phát từ những ước vọng thiêng liêng
của con người nông nghiệp: Xuất phát từ ước vong cầu mưa là các trò tạo ra
tiếng nổ mô phỏng tiếng sấm vào các hội mùa xuân để nhắc Trời làm mưa như
thi đốt pháo; đi thuyền đốt pháo; ném pháo; đánh pháo đất… Xuất phát từ ước
vọng cầu cạn là các trò thi thả diều vào các hội mùa hè mong gió lên; nắng lên
để nước lụt mau rút xuống.
Xuất phát từ ước vọng phồn thực là các trò cướp cầu thả lỗ; đánh đáo;
ném còn; nhún đu; bắt chạch trong chum… Xuất phát từ ước vọng luyện rèn sự
nhanh nhẹn; tháo vát; khéo léo là các trò thi thổi cơm; vừa gánh vừa thổi cơm;
vừa giữ trẻ vừa thổi cơm; vừa bơi thuyền vừa thổi cơm; thi luộc gà; thi dọn cỗ;
thế bắt lợn; thi bắt vịt; thi dệt vải; thi leo cầu ùm; thi bịt mắt bắt dê; đua cà
kheo… Xuất phát từ ước vọng luyện rèn sức khoẻ và khả năng chiến đấu là các
trò đấu vật; kéo co; chọi gà; chọi trâu; chọi cá; chọi dế…
- Lễ Tết và lễ hội đều là sự tổng hợp uyển chuyển của cái linh thiêng (lễ)
và cái trần thế (Tết; hội); nhưng lễ Tết thiên về vật thật (ăn); còn lễ hội thiên về
tinh thần (chơi): “ăn Tết”; nhưng “chơi hội”. Lễ Tết đóng (giới hạn trong mỗi
gia đình); còn lễ hội mở (lôi cuốn mọi người tìm đến). Lễ Tết duy trì quan hệ
tôn ti (trên dưới) giữa các thành viên trong gia đình; lễ hội duy trì quan hệ dân
chủ (bình đẳng) giữa các thành viên trong làng xã và liên kết các lứa đôi thành
những gia đình mới. Lễ Tết phân bố theo thời gian; lễ hội phân bố theo không
gian. Hai trục này – một dọc một ngang – kết hợp với nhau làm nên nhịp sống
âm dương hài hòa suốt bao đời của người dân đất Việt

Câu 8. Đặc điểm văn hóa giao tiếp của người Việt
Bản chất con người chỉ bộc lộ ra trong giao tiếp.

-Trước hết, xét về THÁI ĐỘ đối với việc giao tiếp, có thể thấy đặc điểm
của người Việt Nam là vừa thích giao tiếp, lại vừa rất rụt rè. Như đã nói, người
Việt Nam nông nghiệp sống phụ thuộc lẫn nhau và rất coi trọng việc giữ gìn các
mối quan hệ tốt với mọi thành viên trong cộng đồng, chính tính cộng đồng này
là nguyên nhân khiến người Việt Nam đặc biệt coi trọng việv giao tiếp và, do
vậy, rất thích giao tiếp. Việc thích giao tiếp này thể hiện chủ yếu ở hai điểm:

Từ góc độ của chủ thể giao tiếp, thì người Việt Nam có tính thích thăm
viếng. Đã thân với nhau, thì cho dù hàng ngày có gặp nhau bao nhiêu lần đi nữa,
lúc rảnh rỗi, họ vẫn tới thăm nhau. Thăm viếng không còn là nhu cầu công việc
(như ở phương Tây) mà là biểu hiện của tình cảm, tình nghĩa, có tác dụng thắt
chặt thêm quan hệ.

Với đối tượng giao tiếp thì người Việt Nam có tính hiếu khách. Có khách
đến nhà, dù quen hay lạ, thân hay sơ, người Việt dùi nghèo khó đến đâu, cũng
cố gắng tiếp đón chu đáo và tiếp đãi thịnh tình, dành cho khách các tiện nghi tốt
nhất, đồ ăn ngon nhất: Khách đến nhà chẳng gà thì gỏi, bởi lẽ đói năm, không ai
đói bữa. Tính hiếu khách này càng tăng lên khi ta và những miền quê hẻo lánh,
những miền rừng núi xa xôi.

Đồng thời với việc thích giao tiếp, người Việt Nam lại có đặc tính hầu
như ngược lại là rất rụt rè – điều mà những người quan sát nước ngoài rất hay
nhắc đến. Sự tồn tại đồng thời của hai tính cách trái ngược nhau (thích giao tiếp
và rụt rè) này bắt nguồn từ hai đặt tính cơ bản của làng xã Việt Nam là tính
cộng đồng và tính tự trị: Khi đang ở trong phạm vi của cộng đồng quen thuộc,
nơi tính cộng động ngự trị thì người Việt Nam sẽ tỏ ra xởi lởi, thích giao tiếp.
Còn khi ở ngoài cộng đồng, trước những người lạ, nơi tính tư trị phát huy tác
dụng thì người Việt Nam, ngược lại, sẽ tỏ ra rụt rè. Hai tính cách tưởng như trái
ngược nhau ấy không hề mâu thuẫn với nhau vì chúng bộc lộ trong những môi
trường khác nhau, chúng chính là hai mặt của cùng một bản chất. Là biểu hiện
cho cách ứng xử linh hoạt của người Việt Nam.

- Xét về QUAN HỆ GIAO TIẾP, văn hóa nông nghiệp với đặc điểm
trọng tình đã dẫn người Việt Nam tới chỗ lấy tình cảm làm nguyên tắc ứng xử.
Yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau, ghét cả tông ti họ hàng; Yêu nhau cau sáu
bổ ba, Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười; Yêu nhau chín bỏ làm mười; Yêu
nhau củ ấu cũng tròn, Ghét nhau bồ hòn cũng méo; Yêu nhau mọi việc chẳng
nề, Dẫu trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng…

Nếu nói khái quát, người Việt Nam lấy sự hài hòa âm dương làm trọng
nhưng vẫn thiên về âm hơn, thì trong cuộc sống, người Việt Nam sống có lí có
tình nhưng vẫn thiên về tình hơn: Một bồ cái lí không bằng một tí cái tình…
Người Việt Nam luôn coi trọng tình cảm hơn mọi thứ ở đời. Ai giúp mình một
chút đều phải nhớ ơn, ai bảo ban một chút cũng đều tôn làm thầy – khái niệm
“thầy” được mở ra rất rộng: thầy đồ, thầy võ, thầy thuốc, thầy cúng, thầy bói,
thầy địa lí, thầy phù thủy, thầy cãi, thầy rắn (ở Nam Bộ)…

- VỚI ĐỐI TƯỢNG GIAO TIẾP, người Việt Nam có thói quen ưa tìm
hiểu, quan sát, đánh giá… Tuổi tác, quê quán, trình độ học vấn, địa vị xã hội,
tình trạng gia đình (bố mẹ còn hay mất, đã có chồng chưa, có con chưa, mấy trai
mấy gái…) là những vấn đề người Việt thường quan tâm. Thói quen ưa tìm hiểu
này khiến cho người nước ngoài có nhận xét là người Việt Nam hay tò mò. Đặc
tính này – dù gọi bằng tên gọi gì đi chăng nữa – chẳng qua cũng chỉ là một sản
phẩm của tính cộng đồng làng xã mà ra.

Do tính cộng đồng, người Việt Nam tự thấy có trách nhiệm phải quan tâm
đến người khác, mà muốn quan tâm thì cần biết rõ hoàn cảnh. Mặt khác, do lối
sống trọng tình cảm, mỗi cặp giao tiếp đều có những cách xưng hô riêng, nên
nếu không có đủ thông tin thì không thể nào lựa chọn từ xưng hô cho thích hợp
được. Biết tính cách, biết người để lựa chọn đối tượng giao tiếp thích hợp: Tùy
mặt gửi lời, tùy người gửi của; Chọn mặt gửi vàng. Khi không được lựa chọn thì
người Việt dùng chiến lược thích ứng một cách linh hoạt: ở bầu thì tròn, ở ống
thì dài; Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy.

- Tính cộng đồng còn khiến người Việt Nam, dưới góc độ CHỦ THỂ
GIAO TIẾP, có đặc điểm là trọng danh dự: Tốt danh hơn lành áo; Đói cho sạch,
rách cho thơm; Trâu chết để da, người ta chết để tiếng. Danh dự gắn với năng
lực giao tiếp: Lời hay nói ra để lại dấu vết, tạo thành tiếng tăm; lời dở truyền
đến tai nhiều người, tạo nên tai tiếng.

Chính vì quá coi trọng danh dự nên người Việt Nam mắc bệnh sĩ diện: Ở
đời muốn sự của chung, Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi; Đem chuông đi
đấm nước người, Không kêu cũng đấm ba hồi lấy danh; Một quan tiền công,
không bằng một đồng tiền thưởng. Ở làng quê, thói sĩ diện thể hiện trầm trọng
qua tục lệ ngôi thứ nơi đình trung và tục chia phần. Do danh dự (sĩ diện), các cụ
già bảy tám mươi vẫn có thể to tiếng với nhau vì miếng ăn: Một miếng giữa
làng, bằng một sàng xó bếp. Thói sĩ diễn đã tạo nên giai thoại cá gỗ nổi tiếng.

Lối sống trọng danh dự dẫn đến cơ chế tin đồn, tạo nên dư luận như một
thứ vũ khí lợi hại bậc nhất của cộng đồng để duy trì sự ổn định của làng xã.
Người Viết Nam sợ dư luận tới mức, như có nhà văn đã viết, họ “chỉ dám lựa
theo dư luận mà sống chứ không ai dám dẫm lên dư luận mà đi theo ý mình”.

- Về CÁCH THỨC GIAO TIẾP, người Việt Nam ưa sự tế nhị, ý tứ và trọng sự


hòa thuận.
Tính tế nhị khiến người Việt Nam có thói quen giao tiếp, “vòng vo tam quốc”,
không bao giờ mở đầu trực tiếp, đi thẳng vào đề như người phương Tây. Truyền
thống Việt Nam khi bắt đầu giao tiếp là phải vấn xá cầu điền, hỏi thăm nhà cửa
ruộng vườn. Cũng để đưa đẩy tạo không khí là truyền thống miếng trầu làm đầu
câu chuyện. Với thời gian, chức năng “mở đầu câu chuyện” này của “miếng
trầu” được thay thế bằng chén trà, điếu thuốc lá,

Đế biết người đối thoại còn cha mẹ hay không, có thế hỏi: Các cụ nhà ta
vẫn mạnh giỏi cả chứ? Để biết người phụ nữ đang đối thoại có chồng chưa,
người ý tứ sẽ hỏi: Chị về muộn thế này liệu ông xã có phàn nàn không? Để tỏ
tình, người con trai vòng vo: “Chiếc thuyền giăng câu/ Đậu ngang cồn cắt/ Đậu
sát mé nhà/ Anh biết em có một mẹ già, Muốn vô phụng dưỡng, biết là đặng
không?” (Ca dao Nam Bộ).

Lối giao tiếp vòng vo kết hợp với nhu cầu tìm hiểu về đối tượng giao tiếp
tạo ra ở người Việt Nam thói quen chào hỏi – ”chào” đi liền với “hỏi”: Bác đi
đâu đấy? Cụ đang làm gì đấy?… Hỏi ở đây như một thói quen, hỏi mà không
cấn nghe trả lời và hoàn toàn hài lòng với những câu “trả lời” kiểu: Tôi đi đằng
này một tí hoặc trả là bằng cách hỏi lại: Cụ đang làm gì đấy? Đáp: Vâng! Bác đi
đâu đấy?

Lối giao tiếp ưa tế nhị, ý tứ là sản phẩm của lối sống trọng tình và lối tư
duy trong các mối quan hệ. Nó tạo nên thói quen đắn đo cân nhắc kĩ càng khi
nói năng: Ăn có nhai, nói có nghĩ, Chó ba quanh mới nằm, người ba năm mới
nói; Biết thì thưa thốt, không biết thì dưa cột mà nghe; Người khôn ăn nói nửa
chừng, Để cho kẻ dại nửa mừng nửa lo… Chính sự đắn đo cân nhắc này khiến
cho người Việt Nam có nhược điểm là thiếu tính quyết đoán. Để tránh phải
quyết đoán, và đồng thời giữ được sự hòa thuận, không làm mất lòng ai, người
Việt rất hay cười. Nụ cười là một bộ phận quan trọng trong thói quen giao tiếp
của người Việt; người ta có thể gặp nụ cười Việt Nam vào cả những lúc ít chờ
đợi nhất.

Tâm lí ưa hòa thuận khiến người Việt Nam luôn chủ trương nhường nhịn:
Một sự nhịn là chín sự lành; Chồng giận thì vợ bớt lời, Cơm sôi nhỏ lửa có đời
nào khê)…

- Người Việt có hệ thống NGHI THỨC LỜI NÓI rất phong phú.

Trước hết, đó là sự phong phú của hệ thống xưng hô: Trong khi các ngôn
ngữ phương Tây và Trung Hoa chỉ sử dụng các đại từ nhân xưng thì tiếng Việt
còn sử dụng một số lượng lớn các danh từ chỉ quan hệ họ hàng để xưng hô, và
những danh từ thân tộc này có xu hướng lấn át các đại từ nhân xưng. Hệ thống
xưng hô này có các đặc điểm: thứ nhất, có tính chất thân mật hóa (trọng tình
cảm), coi mọi người trong cộng đồng như bà con họ hàng trong một gia đình.
Thứ hai, có tính chất cộng đồng hóa cao – trong hệ thống này, không có những
từ xưng hô chung chung mà phụ thuộc vào tuổi tác, địa vị xã hội, thời gian,
không gian giao tiếp cụ thể: chú khi ni, mi khi khác. Cùng là hai người, nhưng
cách xưng hô có khi đồng thời tổng hợp được hai quan hệ khác nhau: chú-con,
ông-con, bác-em, anh-tôi… Lối gọi nhau bằng tên con, tên cháu, tên chồng;
bằng thứ tự sinh (Cả, Hai, Ba, Tư…). Thứ ba, thể hiện tính tôn ti kĩ lưỡng:
Người Việt Nam xưng và hô theo nguyên tắc xưng khiêm hô tôn (gọi mình thì
khiêm nhường, còn gọi đối tượng giao tiếp thì tôn kính). Cùng một cặp giao
tiếp, nhưng có khi cả hai đều cùng xưng là em và cùng gọi nhau là chị. Việc tôn
trọng, đề cao nhau dẫn đến tục kiêng tên riêng: xưa kia chỉ gọi đến tên riêng khi
chửi nhau; đặt tên con cần nhất là không được trùng với tên của những người bề
trên trong gia đình, gia tộc cũng như ngoài xã hội. Vì vậy mà người Việt Nam
trước đây có tục nhập gia vấn húy (vào nhà ai, hỏi tên chủ nhà để khi nói nếu có
động đến từ đó thì phải nói chệch đi).

Nghi thức trong các cách nói lịch sự cũng rất phong phú. Do truyền thống
tình cảm và linh hoạt nên người Việt Nam không có một từ cảm ơn, xin lỗi
chung chung cho mọi trường hợp như phương Tây. Với mỗi trường hợp có thể
có một cách cảm ơn, xin lỗi khác nhau: Con xin chú (cảm ơn khi nhận quà), Chị
chu đáo quá (cảm ơn khi được quan tâm), Bác bày vẽ quá (cảm ơn khi được tiếp
đón), Quý hóa quá (cảm ơn khi khách đến thăm), Anh quá khen (cảm ơn khi
được khen), Cậu đã cứu cho tớ một bàn thua trông thấy, Cháu được như hôm
nay là nhờ cô đấy (cảm ơn khi được giúp đỡ)…

Văn hóa nông nghiệp ưa ổn định, sống chú trọng đến không gian, nên
người Việt Nam phân biệt kĩ các lời chào theo quan hệ xã hội và theo sắc thái
tình cảm. Trong khi đó văn hóa phương Tây ưa hoạt động lại phân biệt kĩ các
lời chào theo thời gian như chào gặp mặt, chào chia tay, chào buổi sáng, buổi
trưa, buổi chiều, buổi tối…

9. Tín ngưỡng thờ mẫu và thờ cúng tổ tiên của người Việt.
1.“Tín ngưỡng thờ Mẫu” là tín ngưỡng dân gian đã tồn tại lâu đời và
phổ biến tại Việt Nam. Khởi nguồn của tín ngưỡng ngày xuất phát từ sự biết ơn
đối với người phụ nữ, người mẹ trong nhận thức thuở khai sơ của con
người. “Tín ngưỡng thờ Mẫu” thể hiện sự tin tưởng, ngưỡng mộ, tôn vinh và
thờ phụng những vị nữ thần gắn liền với các hiện tượng tự nhiên trong vũ trụ,
được người đời cho rằng có chức năng sáng tạo, sản sinh, bảo trợ và che chở
cho cuộc sống của con người như: Trời, đất, sông, nước, rừng núi...
a. Giá trị văn hóa trường tồn
Hiện nay, tại Việt Nam có khoảng 75 vị nữ thần tiêu biểu, trong đó có ba
vị nữ thần tồn tại trong truyền thuyết như ba chị em, con của Ngọc Hoàng giáng
trần được phân công cai quản ba miền. Miền Bắc với sự nổi trội của Chúa Tiên
(Thánh Mẫu Liễu Hạnh – Vân Cát Thần nữ), miền Trung với Thiên Y A NA
Diễn Phi Chúa Ngọc (tiếp biến với hình ảnh Nữ thần Ponagar – Người Mẹ đất
nước – Mẹ xứ sở dân tộc Chăm) và miền Nam với Linh Sơn Thánh Mẫu (Bà
Đen hay còn gọi là Bà Thâm, Bà Đanh, Bà Đênh), tất cả đang cư ngụ trong lòng
tin của những tín đồ thờ Mẫu hiện nay ở Việt Nam.
Người dân Đại Việt xưa đều thờ Tam toà Thánh Mẫu. Tục thờ Mẫu của
người Việt ra đời trên cơ sở tục thờ nữ thần; các vị được thờ trong các đền,
chùa, miếu, điện, đặc biệt có vị được thờ trong một loại hình kiến trúc riêng
(Phủ) như việc thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Tất cả tạo nên vẻ đẹp độc đáo được hội tụ, chắt lọc từ cuộc sống đương
đại. Và trên hết, giá trị văn hóa Việt đã tạo nên sức sống trường tồn của tín
ngưỡng thờ Mẫu.
Thờ Mẫu là tín ngưỡng dân gian lâu đời của người Việt, song cũng  là
một lĩnh vực rất nhạy cảm. Nếu không tỉnh táo sẽ rất dễ dẫn đến bị lạm dụng để
mê tín dị đoan. Mẫu là người mẹ, người phụ nữ trong cõi tâm linh của con
người, Mẫu luôn sống động trong tâm trí người Việt. Do đó, sự thờ phụng tôn
vinh Mẫu thông qua hệ thống phủ, đền, miếu và cả các lễ hội là khá phổ biến.
Song chúng ta cần có cái nhìn đúng, đầy dủ, chân thực về tín ngưỡng thờ Mẫu.
Thờ Mẫu là tín ngưỡng dân gian thuần Việt, có từ lâu đời và có chuyển
biến thích ứng với sự thay đổi của xã hội. Hiện nay, tín ngưỡng này vẫn đang
được thực hành phổ biến và đa dạng ở khắp các vùng miền trên cả nước cũng
như trong các cộng đồng người Việt ở nước ngoài.
Giá trị cốt lõi của tín ngưỡng thờ Mẫu là cái tâm hướng thiện, bởi mỗi
người mẹ đều dạy con sống hướng thiện. Người đến thờ Mẫu tâm phải sáng.
Trong cuộc sống thể hiện là người biết ăn ở, biết đối nhân xử thế, thành tâm thờ
phụng ông bà, tổ tiên. Cao hơn là biết ơn những người có công với dân, với
nước.
Người đến thờ Mẫu thường mang theo niềm tin Mẫu luôn che chở, mang
đến cho con cháu sức khỏe, tài lộc và may mắn. Những người thờ Mẫu đều thể
hiện tấm lòng thành kính từ khi dâng lễ vật, khi chắp tay vái lạy khẩn cầu. Ngay
cả những người làm “dịch vụ” cũng thể hiện cái tâm bằng sự nghiêm túc và coi
trọng chữ tín.
Trong thờ Mẫu có 4 màu đặc trưng của tứ phủ: Màu đỏ tượng trưng cho
Thiên phủ - miền trời. Màu trắng tượng trưng cho Thoải phủ - miền nước. Màu
vàng tượng trưng cho Địa phủ - miền đất. Màu xanh tượng trưng cho Nhạc phủ
- miền rừng.
Dân gian tin rằng Mẫu là đấng tối cao được hóa thân thành tứ vị Thánh
Mẫu: Mẫu Thiên, mẫu Địa, mẫu Thoải, mẫu Thượng Ngàn để cai quản 4 vùng
trời đất. Mẫu được thờ ở nhiều nơi, từ những đền cao, phủ lớn đến các điện tư
gia.
Thờ Mẫu có khi kết hợp với các vị Thánh ở nhiều vùng miền khác nhau.
Mọi người đều tin rằng vì Mẫu là mẹ của mọi người nên luôn che chở, phù hộ
độ trì cho con người gặp nhiều thuận lợi, có sức mạnh và niềm tin để vượt qua
tai ương, vận hạn hay bệnh tật, đem đến cho cuộc sống sự bình yên, sung túc.
b.“Bảo tàng sống” lưu giữ lịch sử
Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, hầu đồng là nghi lễ chính mang tính nghệ
thuật sân khấu. Những người lên đồng hóa thân thành các vị Thánh Mẫu, thể
hiện sắc diện và động thái đặc trưng trong không gian văn hóa linh thiêng.
Người đến tham dự trải nghiệm, cảm nhận được vẻ đẹp của các vị Thánh Mẫu,
ngắm nhìn những bộ trang phục lộng lẫy, nghe hát Văn kể về sự tích công trạng
của các vị Thánh Mẫu trong không gian nghi lễ với nhiều sắc màu rực rỡ. 
Muốn thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu trước hết phải có phủ thờ Mẫu.
Người đứng ra thực hiện việc lên đồng phải là người có “căn” - ấy là theo cách
nói dân gian, hiểu nôm na một cách khoa học hơn thì đó là người có một trạng
thái tâm lý không bình thường.
Sau đó cần phải có người hát văn và có người hầu dâng, tạm hiểu là
những người “nâng khăn, sửa túi” sửa soạn mũ áo, xiêm y cho thanh đồng. Khi
hương đã thắp lên, thanh đồng được phủ một tấm vải trên đầu sẽ làm các động
tác và hất khăn ra phía sau. Điều bắt buộc là trước điện thờ phải có gương để
thanh đồng nhìn bóng mình trong gương mới hầu được (hay còn gọi là hầu
bóng).
Sự tương tác giữa người hầu đồng, cung văn và những người tới dự trong
không gian buổi lễ khiến con người thăng hoa, quên đi phiền muộn trong cuộc
sống hàng ngày. Họ rất vui mừng khi nhận được lộc Thánh Mẫu ban phát.
  Thờ Mẫu là tín ngưỡng dân gian. Đến nơi thờ Mẫu chúng ta sẽ cảm thấy
thanh thản, thư thái, bởi không gian tâm linh, âm thanh và ca từ của hát Văn, sự
linh thiêng trong cách bài trí bàn thờ, đồ dâng lên hầu Thánh, những bộ khăn áo,
trang sức của người hầu đồng… Tất cả tạo nên vẻ đẹp độc đáo được hội tụ chắt
lọc từ cuộc sống đương đại. Và trên hết, giá trị văn hóa Việt đã tạo nên sức sống
trường tồn của tín ngưỡng thờ Mẫu.
Năm 2016, “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ của người Việt”
được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại điện của nhân loại. 
“Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu tam phủ của người Việt” được UNESCO công
nhận với giá trị nổi bật như: Di sản được coi là một phương thức quan trọng đối
với các cộng đồng để thể hiện ký ức lịch sử, bản sắc văn hóa, tinh thần đoàn kết
và đáp ứng nhu cầu tâm linh.
Việc ghi danh di sản này sẽ góp phần vào khả năng bảo vệ di sản văn hóa
phi vật thể nói chung và nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của di sản ở các
cấp độ khác nhau, do có những điểm tương đồng văn hóa giữa các cộng đồng và
các nhóm người tôn thờ các thánh mẫu (nữ thần) như là biểu tượng của lòng từ
bi và ban ơn trong các phần còn lại của thế giới và sự kết hợp của đạo giáo, Phật
giáo và nhiều tôn giáo khác đại diện cho di sản này.
Đây là di sản chung của nhiều nhóm dân tộc ở Việt Nam, do đó việc ghi
danh sẽ khuyến khích đối thoại và tôn trọng sự đa dạng văn hóa ở cấp địa
phương. Sự sáng tạo của con người sẽ phong phú hơn vì các yếu tố nghệ thuật
của di sản bao gồm những bộ trang phục, điệu múa và âm nhạc chiếm một vị trí
quan trọng trong lễ hội.
Tại Lễ đón Bằng công nhận danh hiệu của UNESCO tại Nam Định, ngày
2/4/2017, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng: “Thực hành tín ngưỡng thờ
Mẫu Tam phủ của người Việt” là di sản chứa đựng nhiều giá trị nhân văn sâu
sắc, được cộng đồng sáng tạo trao truyền qua nhiều thế hệ, thể hiện quan điểm
về ứng xử giữa con người với con người, con người và thiên nhiên, trong đó đề
cao vai trò của người phụ nữ, người mẹ trong cuộc sống gia đình và xã hội.
Các thực hành trong tín ngưỡng còn phản ánh sự tích hợp nhiều loại hình
văn hóa truyền thống của dân tộc, dung hòa sắc thái văn hóa của đồng bào các
dân tộc, tạo nên một bức tranh đa màu sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam, tạo
nền tảng cho sự phát triển bền vững của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, góp
phần xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc”.
Từ những năm 1990, Việt Nam đã tiến hành những biện pháp nhằm bảo
vệ và phát huy giá trị di sản từ cấp Trung ương đến địa phương. Những biện
pháp này thể hiện sự cam kết của Chính phủ, cộng đồng và các nhóm chuyên
nghiệp trong việc bảo tồn di sản. Mục tiêu tổng quát là nhằm bảo vệ di sản
chống lại các mối đe dọa đến từ bên ngoài và bên trong, chẳng hạn như việc
thương mại hóa quá mức hay các nghi thức cúng bái bị bóp méo…
Thông qua việc kết hợp một cách nghệ thuật các yếu tố văn hóa dân gian
như trang phục, âm nhạc, hát chầu văn, múa, diễn xướng dân gian trong lên
đồng và lễ hội, thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ như một “bảo tàng
sống” lưu giữ lịch sử, di sản và bản sắc văn hóa của người Việt. Người Việt thể
hiện quan niệm của mình về lịch sử, di sản văn hóa, vai trò của giới và bản sắc
tộc người.
2. Thờ cúng tổ tiên :Trong các hình thái tín ngưỡng dân gian, thờ cúng
tổ tiên là một loại hình tín ngưỡng cổ truyền mang tính phổ quát của người Việt
Nam. Là người Việt Nam thì " mọi người đều thờ cúng tổ tiên, mọi người đều
thờ ông bà”
Thờ cúng tổ tiên đã trở thành một tập tục truyền thống, có vị trí hết sức
đặc biệt trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam, là một trong các thành
tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên rất giản dị:
tin rằng tổ tiên mình là thiêng liêng, họ đi vào cõi vĩnh hằng nhưng vẫn sống
cạnh con cháu, họ phù hộ cho con cháu khi gặp tai ách, khó khăn; vui mừng khi
con cháu gặp may mắn, khuyến khích cho con cháu khi gặp điều lành và cũng
quở trách con cháu khi làm những điều tội lỗi...
  Ở nước ta, thờ cúng tổ tiên không chỉ là tín ngưỡng phổ biến ở người Việt
- tộc người đa số - mà còn lưu giữ ở một vài tộc người khác như người Mường,
người Thái... Trải qua bao thăng trầm, biến cố của lịch sử, trong khi nhiều tôn
giáo, tín ngưỡng dân gian khác đã phải chịu cảnh long đong, bị kết tội “mê tín
dị đoan” nhưng tín ngưỡng thờ tổ tiên đã và vẫn chiếm được vị trí thiêng liêng
trong đời sống tinh thần của người Việt. Ý thức “con người có tổ, có tông” được
bảo tồn trong cõi tâm linh và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, dù họ
sống trên tổ quốc mình hay lưu vong nơi xứ người. Đặc biệt đây là hình thức tín
ngưỡng được các thể chế chính trị (Nhà nước) từ xưa đến nay trân trọng thừa
nhận, dù rằng với những mức độ khác nhau. Cùng với tiến trình lịch sử của dân
tộc, nó là sự bồi lắng, kết tụ những giá trị đạo đức quý báu của con người
Việt Nam.
a. Nguồn gốc của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
   Cơ sở quan trọng đầu tiên cho việc hình thành bất cứ tôn giáo tín ngưỡng
nào cũng là quan niệm tâm linh của con người về thế giới. Cũng như nhiều dân
tộc khác, người Việt xuất phát từ nhận thức “vạn vật hữu linh” - mọi vật đều có
linh hồn, và bắt đầu từ giới tự nhiên xung quanh mình. Vẫn với quan niệm vật
linh kể trên, họ tin rằng trong mỗi con người đều có phần “hồn” và “vía”.
Chúng gắn bó khi sống và tách biệt khi chết, thể xác đã hòa vào cát bụi nhưng
phần hồn vẫn tồn tại chuyển sang sống ở một thế giới khác. Cõi âm ấy cũng có
mọi nhu cầu như cuộc sống dương gian. Theo quan niệm dân gian, chết cũng là
một dạng “sống”trong một môi trường khác.
  Người ta cho rằng nếu người chết không được cung cấp đầy đủ sẽ trở
thành “ma đói” lang thang, quấy nhiễu người sống. Các am chúng sinh lập ở
cuối làng, hay lễ Vu lan (rằm tháng bẩy) dành cho “thập chúng sinh” là những
biểu hiện mong muốn chia sẻ, an ủi những linh hồn bơ vơ, thiếu đói không có
người cúng tế. Một hiện tượng khá bí ẩn nhưng rất được con người tin tưởng, đó
là âm phủ, người chết phù trợ cho người sống
  Mối quan hệ giữa những người sống và những người chết cùng chung
huyết thống lại càng gắn bó hơn. Trong vòng hai, ba đời thì đó còn là những kỷ
niệm rất cụ thể và sâu sắc. Ông bà, cha mẹ dù qua đời nhưng vẫn luôn hiện diện
trong tâm tưởng của con cháu, và con cháu luôn cảm thấy trách nhiệm cả về vật
chất lẫn tinh thần đối với họ. Niềm tin vào cái chết chẳng qua là một cuộc trở về
gặp tổ tiên, ông bà và tổ tiên có thể sẽ dõi theo, phù hộ độ trì cho con cháu, đã là
cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ra đời và duy trì trong những điều
kiện lịch sử - xã hội nhất định. Từ hình thức liên minh cộng đồng nguyên thủy
đến hình thức liên kết gia đình sơ khai theo trục huyết thống nam đã là một
chặng đường lịch sử khá dài. Theo con đường “ chung tộc danh về phía bố”, các
gia đình nhỏ liên kết lại với nhau thành họ. Đây là loại đơn vị ngoại hôn vì các
thành viên trong họ liên kết với nhau bằng sợi dây huyết thống và cùng chung
một vị thủy tổ.
  Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở người Việt đã hình thành, tồn tại và phát
triển trên cơ sở quan niệm tâm linh và một nền tảng kinh tế xã hội tư tưởng khá
bền vững. Có thể nói những yếu tố tâm linh có tính bản địa và mộc mạc đã được
thể chế hóa, hợp pháp hóa nhờ hệ tư tưởng Nho giáo và sự ủng hộ của các
vương triều. Chính vì vậy, tín ngưỡng này đã được bảo tồn qua suốt tiến trình
lịch sử nhiều biến động.

b. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là gì?


  Tín ngưỡng của tục thờ cúng tổ tiên là quan niệm về sự tồn tại của linh
hồn và mối liên hệ giữa người đã chết và người sống (cùng chung huyết thống)
bằng con đường hồn về chứng kiến, theo dõi hành vi của con cháu, quở trách
hoặc phù hộ cuộc sống của họ. Trong tín ngưỡng này đạo lý là nội dung nổi trội.
 Đạo lý uống nước nhớ nguồn, một mặt con cháu bày tỏ lòng biết ơn đối với các
bậc sinh thành, lúc họ đã chết cũng như khi còn sống. Mặt khác, nó cũng thể
hiện trách nhiệm liên tục và lâu dài của con cháu đối với nhu cầu của tổ tiên.
Trách nhiệm được biểu hiện không chỉ trong các hành vi sống (giữ gìn danh dự
và tiếp tục truyền thống của gia đình, dòng họ, đất nước) mà còn ở trong các
hành vi cúng tế cụ thể. Một học giả nước ngoài khi nghiên cứu về tín ngưỡng
này ở nước ta đã nhận xét: “Các thành viên trong gia đình kính dâng các đồ
cúng lễ là tuyệt đối cần thiết để cho linh hồn tổ tiên có được sự yên nghỉ thanh
thản ở thế giới bên kia”.
   Ở đây cũng cần nhắc tới đặc trưng “duy tình” hơn “duy lý” của người
Việt. Mặc dù nhiều dân tộc phương Đông có tâm lý ứng xử duy tình, nhưng ở
người Việt, thái độ này biểu hiện rất rộng và thể hiện rất sâu sắc ( không chỉ đối
với người đang sống mà cả với những người sắp chào đời hoặc đã chết). Người
ta luôn luôn chịu sự chi phối của quan niệm vừa mong được nhận “phúc ấm của
tổ tiên”, “sống vì mồ mả, ai sống vì bát cơm”, vừa lo trách nhiệm để phúc lộc
cho con cháu “phúc đức tại mẫu”, “đời cha ăn mặn đời con khát nước”. Khi
cúng lễ tổ tiên, một mặt con người hướng về quá khứ, định hướng cho hiện tại
(giáo dục truyền thống gia đình, đạo lý làm người cho con cháu) và mặt khác đã
chuẩn bị cho tương lai. Đường dây thế hệ mà cũng là đường dây đạo lý sẽ luôn
liên tục nối tiếp, phát triển.
Thờ cúng tổ tiên còn là hình thái tín ngưỡng có ý nghĩa lớn về mặt tổ
chức cộng đồng trong xã hội truyền thống. Sống trong xã hội, xét theo cả trục
dọc và trục ngang, con người không thể sống biệt lập, đơn độc. Theo trục dọc
phụ hệ, thờ cúng tổ tiên là sự nối tiếp liên tục các thế hệ: ông bà - cha mẹ - bản
thân. Mỗi con người phải có trách nhiệm thờ phụng bốn đời trước: cao, tằng, tổ,
khảo (kỵ, cụ, ông, bố) và họ cũng tin rằng sẽ được con cháu bốn đời kế tiếp
cúng giỗ. Theo trục ngang, thờ cúng tổ tiên đã gắn bó con người trong mối liên
kết dòng họ: họ cha, họ mẹ, họ vợ (hoặc chồng). Với tư cách một tập thể - gồm
cả người đang sống và người đã chết gắn bó với nhau về huyết thống và thờ
chung một thủy tổ, dòng họ có sức mạnh đảm bảo giá trị tinh thần cho mỗi
thành viên của nó trong làng xã
Vai trò tổ chức liên kết cộng đồng của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn rõ
hơn khi ta xem xét vấn đề thờ quốc tổ. Cả cộng đồng cư dân Việt Nam được
củng cố bởi niềm tin chung một cội nguồn “đồng bào”, đều là “con Lạc cháu
Hồng”. Và đó cũng chính là sức mạnh giúp cho dân tộc ta vững vàng trước mọi
sự đe dọa của giặc ngoại xâm “các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu
ta phải cùng nhau giữ nước”.(Hồ Chủ Tịch). Suốt từ thế kỷ XV, XVI đến nay,
khi Hùng Vương được coi là quốc tổ, ý thức này đã đóng một vai trò vô cùng
quan trọng đối với đời sống tâm linh của dân tộc.
  Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có nội dung bình dị và giàu tính thực tiễn,
không cực đoan như nhiều tôn giáo khác. Bởi thế nó dễ dàng được thế tục hóa
trở thành nếp sống, phong tục, bám rễ sâu trong tiềm thức của mỗi người. Bằng
việc thờ cúng tổ tiên, thế hệ trước nêu gương cho thế hệ sau không chỉ vì trách
nhiệm đối với các bậc sinh thành mà còn để giáo dục dạy dỗ con cháu lưu
truyền nòi giống. Giáo sư Đào Duy Anh cho rằng: “tế tự tổ tiên là lấy sự duy trì
chủng tộc làm mục đích”. Trong khi tế lễ, lời khấn vái của họ cũng thật giản dị,
rất thực tiễn: lời cầu xin che chở, phù trợ cho cuộc sống hàng ngày của họ được
bình yên, suôn sẻ. Không biết sự cầu xin ấy hiệu quả như thế nào, nhưng trước
hết, con người cảm thấy thanh thản về mặt tâm linh, điểm tựa tinh thần quan
trọng cho cuộc sống. Trong sự thờ cúng này đã thực sự nảy sinh mối quan hệ
hai chiều: người chết cần đến sự cúng lễ của người sống để có thể yên ổn ở thế
giới bên kia, không thành “ma đói” lang thang, còn người sống chỉ có thể an
bình, thanh thản khi được che chở, phù trợ một cách bí ẩn của người chết. Linh
hồn các bậc tiền bối luôn luôn bên cạnh con cháu, mách bảo cho họ và giúp đỡ
họ có một cuộc sống tốt đẹp thuận hòa. Với những mong muốn bình dị và niềm
tin nguyên thủy chất phát, thờ tổ tiên được coi là thứ tín ngưỡng “vừa tầm” với
mọi lớp người cả về mặt nội dung đạo lý và nghi thức thực hiện. Do đó, khả
năng phổ biến trong không gian và thời gian của tín ngưỡng này cũng là một
điều dễ hiểu.
   Các tôn giáo ngoại lai, để tồn tại được ở Việt Nam, đã buộc phải dung
hòa với thứ tín ngưỡng bản địa cắm rễ sâu trong tâm thức người Việt – thờ cúng
tổ tiên. Còn các tôn giáo xuất hiện nội sinh trong nước như Cao Đài, Hòa Hảo ở
miền Nam cũng đã biết dựa trên cơ sở của đạo thờ cúng ông bà. Không chỉ các
tôn giáo, mà ngay cả trong các tín ngưỡng dân gian khác như tín ngưỡng thờ
thành hoàng, thờ Mẫu…, ta cũng thấy dấu vết tác động của tín ngưỡng thờ tổ
tiên ở sự biết ơn cội nguồn, biết ơn các đấng sinh thành. Bắt nguồn từ tín
ngưỡng thờ thần, người dân Việt thờ Mẫu (thờ mẹ) với mong muốn kéo vị thần
này gần với tín ngưỡng gia tộc, từ đó có mối đồng cảm gắn bó như giữa người
mẹ luôn che chở với đàn con của mình.
 Có thể nói, thờ cúng tổ tiên là một tín ngưỡng dân gian của dân tộc có
nguồn gốc từ xa xưa và mang đạo lý nhân ái uống nước nhớ nguồn trong tiến
trình lịch sử, nó đã được các hệ tư tưởng tôn giáo khác bổ sung hoàn chỉnh để
thể chế hóa thành một thứ đạo: Đạo tổ tiên - Đạo Ông Bà.
c. Nghi thức thờ cúng tổ tiên
 
Tổ tiên theo quan niệm của người Việt Nam, trước hết là những người
cùng huyết thống, như cha, mẹ, ông, bà, cụ, kỵ v.v... là người đã sinh ra mình.
Tổ tiên cũng là những người có công tạo dựng nên cuộc sống hiện tại như các vị
"Thành hoàng làng" các "Nghệ tổ". Không chỉ thế, tổ tiên còn là những người
có công bảo vệ làng xóm, quê hương, đất nước khỏi nạn ngoại xâm như Trần
Hưng Đạo đã thành "Cha" được tổ chức cúng, giỗ vào tháng 8 âm lịch hàng
năm. "Tháng 8 giỗ cha" ở rất nhiều nơi trong cộng đồng người Việt. Ngay cả
"Thành hoàng" của nhiều làng cũng không phải là người đã có công tạo dựng
nên làng, mà có khi là người có công, có đức với nước được các cụ xa xưa tôn
thờ làm "thành hoàng". Tổ tiên trong tín ngưỡng của người Việt Nam còn là
"Mẹ Âu Cơ", còn là "Vua Hùng", là người sinh ra các dân tộc trong đại gia đình
Việt Nam.
  Thờ cúng tổ tiên là hình thức tín ngưỡng mà thông qua nghi lễ thờ cúng
nhằm xác lập "mối liên hệ" giữa người sống với người chết, giữa người ở thế
giới hiện tại và thế giới tâm linh. Là sự thể hiện quan niệm về nhân sinh của
người Việt Nam: "sự tử như sự sinh, sự vong như sự tồn". Với người Việt Nam,
chết chưa phải là hết, tổ tiên lúc nào cũng ở bên cạnh người sống, "như tại" trên
bàn thờ mỗi gia đình, động viên, trợ giúp cho con cháu trong cuộc sống thường
ngày. Nếu như tôn giáo thường tuyệt đối hóa đời sống tinh thần, hướng con
người về thế giới siêu thoát, thì tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tuy có hướng con
người về với quá khứ, song lại rất coi trọng hiện tại và tương lai.
   Đạo lý biết ơn và tiếp tục nối dõi truyền thống tổ tiên chỉ trở thành nội
dung bên trong của tín ngưỡng khi đạo lý được bộc lộ thông qua các nghi thức
có tính chất huyền bí, thiêng liêng. Các nghi thức thờ cúng tổ tiên ở nước ta tuy
phần lớn phỏng theo nghi lễ Nho giáo, nhưng lại có những yếu tố rất gần gũi
với Phật giáo hay Đạo giáo. Mặt khác với tính chất một tín ngưỡng dân dã, các
hành vi lễ thức thường được thực hiện theo tâm thức dân gian và cũng không
hoàn toàn thống nhất ở các gia đình, các địa phương.
  Thời gian cúng giỗ là những ngày húy kỵ của tổ tiên, những ngày lễ, tết
trong năm. Ngoài ra, việc cúng giỗ tổ tiên cũng được tổ chức vào những ngày
trong gia đình có sự kiện quan trọng như lấy vợ, làm nhà, tậu trâu, thi cử, đi xa,
nhà có người ốm đau... Thông qua nghi lễ thờ cúng, người Việt Nam gửi gắm
tình cảm biết ơn đối với tổ tiên. "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây" và vì "Cây có gốc
mới nở cành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng sông sâu". Trong mỗi gia
đình tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên dần dần trở thành đạo lý "uống nước nhớ
nguồn", thành "đạo hiếu". Đạo hiếu là cái gốc của mỗi con người. Công cha,
nghĩa mẹ như núi cao, nước nguồn cho nên phải hiếu thảo với cha, mẹ khi còn
sống, thành kính, biết ơn, tiếc thương khi cha, mẹ khuất núi về với tổ tiên. Lòng
hiếu thảo là giá trị đạo đức quý báu trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người
Việt Nam.
d.Thờ cúng tổ tiên trong gia đình và gia tộc
   Việc bài trí bàn thờ gia tiên thường không giống nhau, điều này phụ
thuộc vào quan niệm tâm linh và cả điều kiện kinh tế của gia chủ. Nhìn chung
bàn thờ gia tiên nào cũng có một số đồ thờ chủ yếu sau: bài vị, bát hương, đĩa
đèn, bình hoa, chén rượu, mâm đựng hoa quả…. Các gia đình bình dân, đồ thờ
thường được làm bằng gỗ hoặc sành sứ, còn các gia đình giàu có thế nào cũng
có đồ thờ tự bằng đồng. Bàn thờ gia tiên của ngành trưởng phức tạp hơn ngành
thứ, của chi trưởng phức tạp hơn chi thứ, gia đình con thứ, con út chỉ thờ vọng
nên bài trí bàn thờ cũng đơn giản hơn con trưởng.
  Với trách nhiệm thờ phụng nhiều đời: cao, tằng, tổ, khảo, bàn thờ các gia
đình chi trưởng, ngành trưởng có đặt các tấm thần chủ được làm bằng gỗ táo
(với ý nghĩa cây táo sống nghìn năm) ghi rõ tên tuổi các vị tổ. Trên bàn thờ ở
các từ đường dòng họ còn có bài vị Thủy tổ của họ, bài vị có sự chuyển dịch.
Khi thờ cúng đến đời thứ năm thì thần chủ của đời này được đem chôn, vì thế
mới có câu “Ngũ đại mai thần chủ”. Các thần chủ đời sau được chuyển lên bậc
trên, và tấm thần chủ của ông mới nhất được thay vào vị trí “khảo”. Như vậy,
các gia đình chi thứ, ngành thứ, các vị tổ đời thứ tư, thứ ba chỉ được thờ vọng,
mà chủ yếu thờ hai đời gần nhất (ông bà, cha mẹ).
  Việc thờ cúng tổ tiên tại gia đình thường được tiến hành quanh năm, xuất
phát từ quan niệm dù đã khuất nhưng linh hồn họ vẫn luôn ở bên cạnh con cháu.
Không chỉ cúng lễ trong các dịp quan trọng như tang ma, giỗ chạp, cưới xin…,
không chỉ trong những ngày lễ tiết như Tết nguyên đán, Thanh minh, Hàn thực,
Đoan ngọ…, các ngày Sóc(ngày mồng một), Vọng (ngày rằm) theo chu kỳ tuần
trăng, mà các vị tổ tiên còn được con cháu kính cáo mọi chuyện vui buồn: sinh
nở, ốm đau, thi cử, đỗ đạt, kiện cáo, bất hòa, dựng vợ gả chồng… Con cháu còn
kính mời các vị về hưởng thụ hoa trái đầu mùa, lễ tạ tổ tiên khi có phúc, có lộc.
Có thể nói trong tâm thức những người sống tổ tiên là bất tử. Người Việt dâng
hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ, hay để tạ ơn khi
công việc thành công. Bản chất việc thờ cúng tổ tiên của người Việt là từ niềm
tin người sống cũng như người chết đều có sự liên hệ mật thiết và hỗ trợ nhau.
Con cháu thì thăm hỏi, khấn cáo tiền nhân. Tổ tiên thì che chở, dẫn dắt hậu thế
nên việc cúng giỗ là thực hiện mối giao lưu giữa cõi dương và cõi âm.
   Đồ lễ trên bàn thờ cũng không quy định chặt chẽ lắm, tùy tâm nhưng
điều cơ bản phải là những thứ thanh khiết và được dành riêng. Bàn thờ tổ tiên
bao giờ cũng đặt ở trên cao, tại nơi trang trọng nhất trong nhà (gian giữa đối với
nhà một tầng, tầng trên cùng đối với nhà tầng). Trên bàn thờ bày bát hương,
chân đèn, bài vị hay hình ảnh người quá cố.Bàn thờ được coi là những dấu vết
còn lại của tín ngưỡng thờ mặt trời và thần lửa. Chén nước trắng tinh khiết cũng
được giải mã từ tục thờ thần nước xa xưa. Có thể một triết lý quen thuộc của
phương Đông cũng đã xuất hiện ở đây: sự giao hòa âm dương. Bên cạnh chén
nước, bình rượu (âm) cần đến sự có mặt của hương lửa (dương). Cũng như khi
hóa vàng (đốt mã), người ta cho rằng phải đổ chén rượu hoặc nước lên đống tro
thì người âm mới nhận được lễ. Theo quan niệm dân dã, nén hương là chiếc cầu
nối giữa tổ tiên và con cháu, nó có khả năng chuyển tải lời thỉnh cầu của những
người sống và chính mùi thơm thanh cao của hương, hoa đã tạo ra được sự giao
hòa giữa người hai cõi.
Sau khi cúng giỗ, gia đình thường dọn thức ăn vừa cúng xong để cùng ăn,
coi như hưởng lộc của tiền nhân. Bạn bè thân thuộc cũng được mời đến dùng
bữa, tức là đi ăn giỗ.
   Ngày giỗ (kỵ nhật) là ngày kỷ niệm ngày mất của người thân trong gia
đình hàng năm thường được tính theo âm lịch (hay còn gọi là ngày ta). Trong
các ngày giỗ có ba ngày chú ý nhất: tiểu tường (giỗ đầu), đại tường (giỗ hết), trừ
phục (lễ cởi bỏ đồ tang). Các ngày giỗ thường kỳ trong các năm sau được coi là
cát kỵ (giỗ lành).
  Trước lễ Tiểu tường, nhiều gia đình còn làm lễ Tiên thường (cáo giỗ)
nhằm xin phép Thổ công để linh hồn người đã mất trở về gia đình nhận giỗ. Đồ
lễ cúng trong giỗ đầu và giỗ hết phải chuẩn bị rất chu đáo. Theo quy định xưa,
vào ngày giỗ đầu, trang phục tang lễ mũ gậy, áo xô lại được con cháu mang ra
mặc. Đồ mã được gửi cho người chết cũng theo quy định: ở lễ tiểu đường đó là
“mã biếu” vì người chết phải sử dụng để biếu các ác thần mong tránh sự quấy
nhiễu (dân gian quan niệm cõi âm như cõi trần), ở lễ Đại tường và lễ Trừ phục
(một ngày tốt được chọn sau lễ Đại tường để đốt bỏ tang phục) đồ mã còn cần
nhiều hơn: mọi vật dụng sinh hoạt cho người chết ( quần áo, giầy dép, xe cộ),
thậm chí cả các hình nhân bằng giấy để xuống cõi âm phục vụ cho họ. Sau khi
hóa (đốt) những đồ mã này, đổ một chén rượu lên đống tàn vàng để vật mã trở
thành vật thật, tiền thật dưới cõi âm. Người ta còn hơ một chiếc đòn gánh, gậy
trên ngọn lửa hóa vàng, hoặc dựng một cây mía bên cạnh với lời giải thích “để
các cụ gánh vác về”.
 Gia tộc cũng có những qui định tín ngưỡng cho việc thờ cúng Thủy tổ
dòng họ. Mặc dù đã qua nhiều đời nhưng ngày giỗ họ vẫn được lưu truyền nhờ
việc ghi chép gia phả. Trong ngày giỗ Thủy tổ, tất cả con cháu trưởng các chi,
ngành, nhánh buộc phải có mặt. Các con cháu khác tùy vào hoàn cảnh mà mang
đồ tới góp giỗ. Lễ giỗ Tổ được tổ chức chu đáo và duy trì đều đặn hàng năm.
  Bên cạnh các nghi lễ cúng tế trong gia đình và gia tộc còn phải kể thêm
vào hệ thống nghi thức tế lễ tổ tiên một hình thức Tảo mộ. Ngoài việc đắp thêm
mộ trong ba ngày (sau khi người thân chết), các gia đình, dòng họ thường đi
thăm mộ, cúng tế sửa sang mồ mả vào dịp Tết Thanh minh tháng ba. Việc cúng
tế tại mộ thường diễn ra đơn giản hơn nhiều so với cúng tại nhà, nhưng trước
khi cúng trước mộ người thân người ta phải khấn cáo xin phép thổ công. Thăm
nom sang sửa mồ mả tổ tiên, một mặt là hình thức thể hiện lòng hiếu thảo của
con cháu, mặt khác bởi quan niệm mồ mả vô cùng quan trọng đối với cuộc sống
của cả gia đình, gia tộc. Người Việt cho rằng, nếu vị trí đặt mồ mả không tốt,
hướng không đúng thì con cháu làm ăn sẽ lụi bại, không thể nào phát triển
được.
Trong các hệ thống tín ngưỡng tôn giáo bản địa của nước ta thì tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên được coi là quan trọng bậc nhất. Ở đó ta thấy được niềm tin của
con người vào một thế giới bên kia, nơi có một cuộc sống giống như thế giới mà
chúng ta đang sống. Thông qua các nghi lễ thờ cúng con người mong muốn có
được sự che trở, giúp đỡ của tổ tiên, lúc nào trong tâm tưởng họ tổ tiên cũng
luôn theo sát. Chính niềm tin đó đã giúp họ sống tốt hơn, có thể vượt qua mọi
khó khăn trong cuộc sống, đồng thời cũng giúp mọi người xích lại gần nhau
hơn. Mỗi dịp giỗ chạp là lúc những người trong gia đình dòng họ có điều kiện
để gặp gỡ thăm hỏi nhau, tạo thêm sự thân thiết đoàn kết, gắn bó.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam trong quá trình hình
thành, tồn tại của nó đã góp phần tạo ra những giá trị đạo đức truyền thống như
lòng hiếu thảo, lòng nhân ái, tính cộng đồng, tính cần cù, sáng tạo, lòng hiếu
học, lòng yêu nước. Vì thế tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên như đã khái quát trên có
thể nói là vĩnh hằng cùng với sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Hiếu với tổ
tiên, ông, bà, cha, mẹ còn được nâng lên cao hơn, đẹp hơn, đó là "hiếu với dân,
với nước". Trong đời sống xã hội hiện đại, đã có thời kỳ người ta nghĩ đơn giản
rằng xã hội càng phát triển, khoa học kỹ thuật càng tiến bộ thì con người càng
bớt đi niềm tin vào thế giới vô hình, con người sẽ sống tỉnh táo hơn, khoa học
hơn. Có lẽ điều này chỉ đúng một phần, vì thế khi thế giới càng chia nhỏ rành
mạch, con người càng mở rộng tầm nhìn thì những khoảng trống, những điều
chưa thể giải thích càng lớn. Đó là điều bí ẩn của thế giới tâm linh, đặc biệt là
mối liên hệ ràng buộc vô hình nào đó giữa những người cùng dòng máu. Vì thế
càng ngày tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên càng có vai trò quan trọng trong đời sống
tâm linh của mỗi người Việt Nam, nó là một trong những nhân tố góp phần
quan trọng để bảo tồn và duy trì văn hóa truyền thống. Tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên là một tập tục mang đậm nét văn hoá của người Việt.

Câu 10. Đặc điểm cơ bản của Phật giáo Việt Nam.
Bài làm 1
Việt Nam là một nước phương Đông - nơi mà tôn giáo có ảnh hưởng rất
lớn đến đời sống văn hóa xã hội, có tác động mạnh mẽ đến nếp sống tinh thần,
thói quen, suy nghĩ của con người. Trong các tôn giáo đó thì Đạo Phật - một
trong những tôn giáo lớn của thế giới đã du nhập vào nước ta  ngay từ đầu Công
Nguyên và được người Việt Nam tiếp nhận. Người Việt đã Việt hóa Phật giáo,
biến Phật giáo trở thành Phật giáo của Việt Nam và để rồi trong tâm thức của
mỗi người dân đất Việt ai ai cũng luôn coi Phật giáo là tôn giáo của mình, của
cha ông mình, của truyền thống dân tộc mình, và gọi là Đạo Phật Việt Nam,
Phật giáo Việt Nam. Phật giáo Việt Nam có các đặc điểm sau:

a.  Phật giáo có tính tổng hợp


Tổng hợp là một trong những đặc tính của lối tư duy nông nghiệp, chính vì
thế tổng hợp là đặc tính nổi bật nhất của Phật giáo Việt Nam.
*Tổng hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng truyền thống.
Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là
thờ thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều nhất
là Tứ pháp: Mây-Mưa-Sấm-Chớp. Tuy nhiên bốn vị thần này đã được "Phật
hóa". Các pho tượng này thường được gọi tượng Phật Pháp Vân, Phật  Pháp Vũ,
Phật Pháp Lôi và Phật Pháp Điện, trên thực tế các tượng này hoàn toàn điêu
khắc theo tiêu chuẩn của một pho tượng Phật. Nghĩa là đầy đủ 32 tướng tốt
cùng 80 vẽ đẹp, mà một trong những nét tiêu biểu chính là tướng nhục kế,
những khế ấn, và khuôn mặt đầy lòng từ mẫn... Các hệ thống thờ phụng này
tổng hợp với nhau tạo nên các ngôi chùa "tiền Phật, hậu Thần" hay "tiền Phật,
hậu Mẫu". Người Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, Thành Hoàng Thổ
Địa, anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu,
bát nhang cho các linh hồn đã khuất.
*Tổng hợp giữa các tông phái Phật giáo.
Các tông phái Phật giáo Đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn
với nhau. Dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Nhiều vị thiền
sư đời Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không,... đều giỏi pháp
thuật và có tài thần thông biến hóa. Thiền tông còn kết hợp với Tịnh Độ tông
như là trong việc tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát.
Các điện thờ ở chùa miền Bắc có vô cùng phong phú các loại tượng
Phật, Bồ Tát, La Hán của các tông phái khác nhau. Các chùa miền Nam còn có
xu hướng kết hợp Tiểu thừa với Đại thừa. Nhiều chùa mang hình thức Tiểu thừa
(thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại thừa,
bên cạnh Phật Thích Ca Mâu Ni còn có các tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh áo
vàng còn có áo nâu, áo lam.
*Tổng hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác.
Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu Công nguyên.
Sau đó Phật giáo cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo giáo. Rồi tất cả
cùng tiếp nhận Nho giáo để làm nên "Tam giáo đồng nguyên" (cả ba tôn giáo có
cùng một gốc) và "Tam giáo đồng quy" (cả ba tôn giáo có cùng một mục đích).
Ba tôn giáo trợ giúp lẫn nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội, Đạo giáo lo thể xác
con người, Phật giáo lo tâm linh, kiếp sau của con người. Trong nhiều thế kỷ,
hình ảnh "Tam giáo tổ sư" với Thích Ca Mâu Ni ở giữa, Lão Tử ở bên
trái, Khổng Tử ở bên phải đã in sâu vào tâm thức mọi người Việt.
Ngoài ra Phật giáo Việt Nam còn được hòa trộn với tất cả các tôn giáo
khác để hình thành Đạo Cao Đài vào thập niên 1920 với quan điểm là "Thiên
nhân hợp nhất" và "Vạn giáo nhất lý".
b. Dung hợp các tín ngưỡng truyền thống.
Phật giáo Việt Nam dung hợp các tín ngưỡng truyền thống của người Việt
Nam: thờ cúng Tổ tiên, thờ Thần, thờ Mẫu nhưng Phật giáo vẫn giữ vai trò chủ
đạo để làm nên Đạo Phật Việt Nam. Điều này được thể hiện rất rõ trong việc bài
trí tượng thờ trên chính điện chùa Phật giáo. Trong đó, chư vị Phật được tôn trí
ở gian giữa là đại hùng bảo điện, chư vị Thánh Tổ của Lão giáo, Nho giáo được
an trí ở 2 bên. Ngoài ra còn tôn trí cả tượng của các vị Thiên Hoàng Ngọc Đế,
Thập điện Diêm Vương. Đặc biệt, trong khuôn viên thờ tự của chùa, nhất là các
chùa ở vùng Bắc Bộ luôn có phủ Mẫu ( còn gọi là điện Mẫu) thờ chư vị Thánh
Mẫu và Đức Thánh Cha ( Trần Hưng Đạo hiến thánh).Nhiều trường hợp khác,
rên gian phụ của chính điện chùa còn thờ cả các vị có công khai mở, trùng tu,
tôn tạo chùa...
c. Phật giáo là cơ sở của khối đại đoàn kết các dân tộc.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam trở thành môt tôn giáo gắn bó giữa đạo
với đời, thể hiện tinh thần nhập thế. Phật giáo Việt Nam có truyền  thống yêu
nước, gắn bó với dân tộc, đồng hành trong những giai đoạn thăng trầm của
đất nước, góp phần đấu tranh chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ Quốc. Trong
Phật giáo Việt Nam đã ghi nhận hai trường hợp đặc biệt: Lý Công Uẩn – một vị
sư xả pháp, xuất tu để ra đời làm bậc Quân vương khai mở triều đại nhà Lý và
Trần Nhân Tông – một vị Hoàng Đế từ bỏ ngai vàng để vào núi ẩn tu trở thành
một vị Tổ sư của Phật giáo đời Trần. Trông thời kì hội nhập, Phật giáo luôn chia
sẻ những khó khăn, hỗ trợ những người gặp hoàn cảnh khó khăn, gặp thien tai,
địch họa để chung tay cùng đất nước góp phần ổn định xã hội, xóa đói giảm
nghèo và phát triển kinh tế xã hội.
d. Phật giáo Việt Nam thiên về xu hướng nhập thế.
Từ các vị thiền sư Việt Nam đến không ít các vị vua, các anh hùng dân tộc
Phật tử đã thấm nhuần tư tưởng yêu nước, trở thành mối quan hệ khăng khít
giữa Phật giáo Việt Nam với lịch sử tư tưởng Việt Nam. Hơn nữa trong suốt hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cứu nước, nhiều chùa chiền Phật
giáo Việt Nam là cơ sở bao che, nuôi dưỡng cán bộ, chiến sĩ cách mạng, những
Tăng, Ni, Phật tử nằm trong các đoàn thể cứu quốc, đoàn thể Phật giáo yêu
nước, hòa mình vào các sinh hoạt cách mạng.
Phật giáo Việt Nam vừa là một học thuyết giải thoát về thuật sống lương
thiện tốt đẹp cho con người Việt Nam, vừa là một học thuyết qua tinh thần Tứ
ân có ơn với tổ quốc là trọng đại – đã thực sự góp phần trong việc hình thành
nền tư tưởng Việt Nam, văn hóa dân tộc Việt Nam, trong đó tư tưởng yêu nước
là chủ yếu.
  Phật giáo đã có rất nhiều đóng góp to lớn cho nền tảng tư tưởng văn hóa
Việt Nam. Trước hết Phật giáo đã đóng vai trò tích cực trong các cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm tâm
hồn, đạo đức, hành vi cư xử của người Việt, làm phong phú thêm nền văn hóa
dân tộc. Trước sự đòi hỏi của dân tộc, của tín đồ Phật giáo, Phật giáo Việt Nam
đã đóng góp tích cực cho nền văn hóa nước nhà.
Dân tộc Việt Nam có cái duyên là đã được tiếp nhận đạo Phật, đạo Phật có
cái duyên là tìm được chỗ đứng cho mình trong cộng đồng người Việt Nam. Cái
cộng đồng dựa trên nền tảng kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, với quan niệm làng
xã cổ truyền, với tín ngưỡng đa thần đã tiếp nhận đạo Phật và cải biến nó cho ít
nhiều phù hợp với cộng đồng ấy.
Cộng đồng người Việt tiếp nhận Phật giáo, đồng thời tiếp nhận những tư
tưởng bình đẳng, bắc ái, vô ngã, vô thường…ở đạo Phật, những tư tưởng này
cùng với những tư tưởng cộng đồng cổ truyền đã làm cản trở cho quá trình phân
hóa giai cấp, làm dịu những xung đột giai cấp trong xã hội. Trong thời gian tới,
Phật giáo tồn tại và thậm chí tiếp tục phát triển mạnh ở Việt Nam. Phật giáo
đóng góp phần tích cực của nó bằng cách tự làm trong sạch bản thân, xóa bỏ
những yếu tố mê tín lỗi thời. Phật giáo góp phần cân bằng cuộc sống ngày càng
quay cuồng với nhịp độ cao và Phật giáo góp phần hướng thiện cho con người.
Việc cải tiến nghi lễ, và hiện đại hóa là một xu hướng tất yếu, là điều cần
thiết của đạo Phật, điều đó có từ trong lịch sử Phật giáo của Việt Nam. Đạo Phật
còn có vai trò to lớn trong đời sống tình cảm, tâm linh của người Việt Nam,
người dân của đất nước đã trải qua nhiều đau thương và đang còn nhiều khó
khăn trong đời sống xã hội.
e.Phật giáo Việt Nam là phương tiện để biểu đạt chủ nghĩa nhân đạo và
tính vị tha của dân tộc Việt Nam.
Văn hóa, đạo đức Phật giáo như quan điểm “ở hiền gặp lành”, “báo đáp tứ
trọng ân”, “người Phật tử hiếu hạnh”, “hành thiện tránh ác”, “từ bi cứu khổ”,
“tôn trọng con người”, “ bình đẳng tâm, không phân biệt đẳng cấp, sang hèn”,
“yêu chuộng hòa bình”... đã thấm đậm trong tâm tưởng mỗi con người Việt
Nam qua các thế hệ. Nó đã góp phần tạo dựng nên nền văn hóa Việt Nam đậm
đà bản sắc dân tộc. Mà ở đó, người ta không còn phận biệt đâu là đao đức xã
hội, đâu là đạo đức tôn giáo.
Bài làm 2

Việt Nam là một nước phương Đông - nơi mà tôn giáo có ảnh hưởng rất
lớn đến đời sống văn hóa xã hội, có tác động mạnh mẽ đến nếp sống tinh thần,
thói quen, suy nghĩ của con người. Trong các tôn giáo đó thì Đạo Phật - một
trong những tôn giáo lớn của thế giới đã du nhập vào nước ta  ngay từ đầu Công
Nguyên và được người Việt Nam tiếp nhận. Người Việt đã Việt hóa Phật giáo,
biến Phật giáo trở thành Phật giáo của Việt Nam và để rồi trong tâm thức của
mỗi người dân đất Việt ai ai cũng luôn coi Phật giáo là tôn giáo của mình, của
cha ông mình, của truyền thống dân tộc mình, và gọi là Đạo Phật Việt Nam,
Phật giáo Việt Nam. Phật giáo Việt Nam có các đặc điểm sau:

a.Tính tổng hợp, đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, cũng là đặc
điểm nổi bật nhất của Phật giáo Việt Nam.

Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng của dân
tộc và, do vậy, đã được tổng hợp chặt chẽ ngay với chúng. Hệ thống chùa “Tứ
pháp” thực ra vẫn chỉ là những đền miếu dân gian thờ các vị thần tự nhiên Mây-
Mưa-Sấm-Chớp và thờ đá. Lối kiến trúc phổ biến của chùa Việt Nam là “tiền
Phật hậu Thần” với việc đưa các thần, thánh, các thành hoàng, thổ địa, các anh
hùng dân tộc vào thờ trong chùa. Có những chùa có cả bàn thờ cụ Hồ Chí Minh
ở Hậu tổ. Hầu như không chùa nào là không để bia hậu, bát nhang cho các linh
hồn, vong hồn đã khuất.

Phật giáo Việt Nam lại tổng hợp các tông phái với nhau. Ở Việt Nam,
không có tông phái Phật giáo nào thuần khiết. Tuy chủ trương của Thiền tông là
bất lập ngôn, song ở Việt Nam chính các thiền sư đã để lại nhiều trước tác có
giá trị. Dòng Thiền Tì-ni-đa-lưu-chi thì pha trộn với Mật giáo, nhiều thiền sư
phái này, nhất là những vị sống vào thời Lí như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh,
Nguyễn Minh Không, đều nổi tiếng là giỏi pháp thuật, có tài biến hóa thần
thông. Phật giáo Việt Nam cũng tổng hợp các con đường giải thoát bằng tự lực
và tha lực, phối hợp Thiền tông với Tịnh độ tông.

Chùa phía bắc là cả một Phật điện vô cùng phong phú với hàng mấy chục
pho tượng Phật, bồ-tát, la-hán của các tông phái khác nhau. Riêng tượng Phật
Thích Ca cũng đã có tới 5 dạng: Thích Ca sơ sinh (thường gọi là Thích Ca Cửu
Long, do tích khi sinh, có 9 con rồng đến phun nước cho ngài tắm), Tuyết Sơn
(Thích Ca thời kì tu khổ hạnh ở chân núi Tuyết Sơn), Thích Ca đứng thuyết
pháp, Thích Ca ngồi tòa sen và Thích Ca nhập niết bàn (lúc sắp mất). Ở phía
nam, Đại thừa và Tiểu thừa kết hợp mật thiết với nhau: nhiều chùa mang hình
thức tiểu thừa (thờ Phật Thích Ca, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo lí Đại
thừa, bên cạnh tượng Phật Thích Ca lớn thì vẫn có nhiều tượng nhỏ, bên cạnh
áo vàng vẫn có đồ nâu lam.

Phật giáo Việt Nam tổng hợp chặt chẽ với các tôn giáo khác: Phật với Nho,
với Đạo.

Phật giáo Việt Nam kết hợp chặt chẽ việc đạo với việc đời. Vốn là một
tôn giáo xuất thế, nhưng vào Việt Nam, Phật giáo trở nên rất nhập thế. Các cao
tăng được nhà nước mời tham chính hoặc cố vấn trong những việc hệ trọng.
Năm 971, vua Đinh Tiên Hoàng phong cho đại sư Khuông Việt làm tăng thống;
ông cùng pháp sư Đỗ Thuận từng được giao tiếp sứ thần nhà Tống. Trước khi
xuất quân đánh Tống, vua Lê Đại Hành đã hỏi ý kiến sư Vạn Hạnh Thời Lí,
thiền sư Vạn Hạnh trở thành cố vấn về moi mặt cho vua Lí Thái Tổ. Thời Trấn,
các sư Đa Bảo, Viên Thông… đều tham gia chính sự. Sự gắn bó đạo-đời không
chỉ thể hiện ở việc các nhà sư tham gia chính sự, mà ngược lại còn có khá nhiều
vua quan quý tộc đi tu. Trong 6 thế hệ đệ tử của phái Thảo Đường thì đã có tới
9 người là vua quan đương nhiệm. Không phải ngẫu nhiên mà ở sân chùa Phổ
Minh, quê hương nhà Trần, lại có chiếc vạc đồng lớn (một trong “An Nam tứ
đại khí”) tượng trưng cho quyền lực.

Vẫn với truyền thống gắn bó đạo với đời, đầu thế kỉ XX, Phật tử Việt
Nam hăng hái tham gia vào các hoạt động xã hội (như cuộc vận động đòi ân xá
Phan Bội Châu và đám tang Phan Châu Trinh). Thời Diệm-Thiệu, Phật tử miền
Nam đã tham gia tích cực vào phong trào đấu tranh đòi hòa bình và độc lập dân
tộc, nổi bật là sự kiện Phật tử xuống đường đấu tranh phản đối nền độc tài của
gia đình họ Ngô, đỉnh cao là sự kiện hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu vào
mùa hè năm 1963.

b. Đặc điểm nổi bật thứ hai của Phật giáo Việt Nam là khuynh hướng
thiên về nữ tính – đặc trưng bản chất của văn hóa nông nghiệp.

Các vị Phật Ấn Độ xuất thân vốn là đàn ông, sang Việt Nam biến thành
Phật Ông – Phật Bà. Bồ tát Quan Thế âm đã được biến thành Phật Bà Quan âm
với nghìn mắt nghìn tay – vị thần hộ mệnh của cư dân khắp vùng sông nước
Đông Nam Á (nên còn gọi là Quan âm Nam Hải). Ở một số vùng, ngay cả Phật
tổ Thích Ca cũng được coi là phụ nữ (người Tày Nùng gọi là “Mẹ Pựt Xích
Ca”)! Người Việt Nam còn tạo ra những “Phật Bà” riêng của mình: Đứa Con
gái nàng Man, tương truyền sinh vào ngày 8-4 được xem là phật Tổ Việt Nam,
bản thân bà Man trở thành Phật Mẫu. Rồi còn những vị Phật bà khác nữa như
Quan Âm Thị Kính (tượng bà trong các chùa thường gọi là “Quan âm tống tử” –
bị người ta gán con cho), Phật bà chùa Hương (= Bà chúa ta = Quan Âm Diệu
Thiện). Lại còn rất nhiều các bà bồ-tát như bà Trắng chùa Dâu , các thánh
mẫu…

Việt Nam có khá nhiều chùa chiền mang tên các bà: chùa Bà Dâu, chùa
Bà Đậu, chùa Bà Tướng, chùa Bà Dàn, chùa Bà Đá, chùa Bà Đanh… Tuyệt đại
bộ phận Phật tử tại gia là các bà: Trẻ vui nhà, già vui chùa là nói cảnh các bà.

Chùa hòa nhập với thiên nhiên, bao giờ cũng là nơi phong cảnh hữu tình;
bởi vậy mới có cách nói ví “vui như trảy hội chùa”. Cảnh chùa hữu tình, hội
chùa vui, cửa chùa rộng mở, cho nên cũng là nơi chở che cho bao đôi gái trai
tình tự như trong truyện thơ nôm Phan Trần hay trong câu ca dao: Hội chùa
Thầy có hang Cắc Cớ, Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy.

c. Tính linh hoạt.

Ngay từ đầu, người Việt Nam đã tạo ra một lịch sử Phật giáo riêng cho
mình: Nàng Man, cô gái làng Dâu Bắc Ninh, một trong những đệ tử đầu tiên
của Phật giáo, trở thành Phật Mẫu; đứa con gái của nàng hóa thân vào đá mà trở
thành Phật Tổ với ngày sinh là ngày Phật đản 8-4.

Vốn có đầu óc thiết thực, người Việt Nam coi trọng việc sống phúc đức,
trung thực hơn là đi chùa: Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa;
Dù xây chín bậc phù-đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người. Coi trọng
truyền thống thờ cha mẹ, ông bà hơn là thờ Phật: Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ
cha kính mẹ mới là chân tu (ca dao); đồng nhất cha mẹ, ông bà với Phật: Phật
trong nhà không thờ đi thờ Thích Ca ngoài đường (tục ngữ).

Vào Việt Nam, đức Phật được đồng nhất với những vị thần trong tín
ngưỡng truyền thống có khả năng cứu giúp mọi người (không chỉ Phật tử!) thoát
mọi tai họa: Nghiêng vai ngửa vái Phật, Trời, Đương cơn hoạn nạn độ người
trầm luân; làm nên mây mưa sấm chớp để mùa màng tốt tươi (hệ thống chùa Tứ
Pháp); ban cho người hiếm muốn có con (tục đi chùa cầu tự: Tay bưng quả nếp
vô chùa, thắp nhang lạy Phật xin bùa em đeo); ban lộc cho người bình dân để
quanh năm làm ăn phát đạt (tục đi chùa lễ Phật và hái lộc vào lúc giao thừa);
cứu độ cho người chết và giúp họ siêu thoát (tục mời nhà sư tới cầu kinh và làm
lễ tiễn đưa người chết). Muốn giữ cho Phật ở mãi bên mình, người Việt Nam có
khi phá cả giới luật Phật giáo. Có nơi, do muốn buộc ông sư gắn bó với làng
mình để giữ chùa, cúng lễ, dân làng đã tổ chức cưới vợ cho sư, khiến cho ngôi
chùa gần như trở thành một gia đình! (Thích Thanh Từ, 1966).
Tượng Phật Việt Nam mang dáng dấp hiền hòa với những tên gọi rất dân
gian: ông Nhịn ăn mà mặc (Tuyết Sơn gầy ốm), ông Nhịn mặc mà ăn (Di-lặc to
béo, hình 6.19), ông Bụt Ốc (Thích Ca tóc quăn)… Nhiều pho tượng Phật được
tạc theo lối ngồi không phải trên tòa sen mà là chân co chân duỗi rất thoải mái,
giản dị (Tuyết Sơn, Phật Bà chùa Hương). Trên đầu Phật Bà chùa Hương (xem
hình 6.17 ở trên) còn lấp ló cả lọn tóc đuôi gà truyền thống của phụ nữ Việt
Nam.

Ngôi chùa Việt Nam được thiết kế theo phong cách ngôi nhà cổ truyền
với hình thức mái cong có ba gian hai chái, năm gian hai chái… Chùa Một Cột
như một lễ vật dâng lên Phật Bà với hình bông sen thanh thoát ở trên và trụ đá
tròn trong hồ vuông ở dưới biểu hiện ước vọng phồn thực (no đủ và đông đúc).

Cùng với mái đình, ngôi chùa trở thành công trình công cộng quan trọng
thứ hai ở mỗi làng. Người dân đi bất kì đâu lỡ độ đường đều có thể ghé chùa xin
nghỉ tạm hoặc xin ăn. Thành ngữ của chùa có nghĩa là “của công”; từ đó mà
sinh ra các lối nói: làm chùa (không được trả công), ăn chùa, học chùa (không
trả tiền)…

d. Cải biến linh hoạt: trên cơ sở tổng hợp đạo Phật với đạo ông bà (thờ
cúng tổ tiên) đã tạo nên Phật giáo Hòa Hảo, còn gọi là Đạo Hòa Hảo, mà giáo
chủ là Huỳnh Phú Sổ.

Huỳnh Phú Sổ (1919-1947) quê ở làng Hòa Hảo (nay thuộc huyện Phú
Tân, tỉnh An Giang). Ông thuở nhỏ thường lên miếu Tà Lơn trên núi học hành
tu đạo. Ngày 18-5 năm Kỷ Mão (tức 4-7-1939) ông đứng ra khai đạo. Tên gọi
“Hòa Hảo” vừa chỉ địa danh quê ông, lại vừa nói lên tinh thần hiếu hòa và giao
hảo. Năm 1946 đạo Hòa Hảo có trên 1 triệu tín đồ; đến nhưng năm 70 số tín đồ
lên tới trên 2 triệu người (theo tài liệu của Ban Tôn giáo CP). Đạo Hòa Hảo
từng có cơ quan ngôn luận là tạp chí Đuốc từ bi và xuất bản bộ kinh Sấm giảng
thi văn toàn bộ. Hàng trăm thư viện của trên 30 quốc gia có lưu trữ kinh sách,
báo của đạo.

Đạo Hòa Hảo lấy pháp môn Tịnh Độ làm căn bản, rồi kết hợp với đạo của
dân tộc thờ ông bà tổ tiên mà đề ra thuyết tứ ân (ơn): Ơn tổ tiên cha mẹ, ơn đất
nước, ơn tam bảo, ơn đồng bào và nhân loại. Trong bốn ơn đó, ơn tam bảo đứng
hàng thứ ba, còn ơn cha mẹ được xếp hàng thứ nhất.

Đạo Hòa Hảo rất chú trọng giáo dục tinh thần dân tộc, ý thức chống ngoài
xâm (ơn đất nước): “Sanh ra, ta phải nhờ tổ tiên cha mẹ, sống ta phải nhờ đất
nước quê hương. Hưởng những tấc đất, ăn những ngọn rau… ta có bổn phận
phải bảo vệ đất nước khi bị kẻ xâm lăng giày đạp. Ráng nâng đỡ xứ sở quê
hương lúc nghiêng nghèo và làm cho được trở nên cường thịnh. Ráng cứu cấp
nước nhà khi bị kẻ ngoài thống trị. Bờ cõi vững lặng thân ta mới yên, quốc gia
mạnh giàu mình ta mới ấm”. Đạo Hòa Hảo không chủ trương nghi lễ rườm rà:
Tín đồ Hòa Hảo cúng Phật không có gì khác ngoài đèn hương, nước lã và hoa;
không thờ tượng, không cúng bằng cá thịt, vàng mã,… người tu tại gia có 3 nơi
thờ phụng là bàn Thông Thiên thờ Trời (ngoài sân) với bàn thờ Ông Bà và bàn
thờ Phật (trong nhà). Nhưng ngay cả điều này cũng không nhất thiết.

Với giáo lí và cách hành đạo như trên, đạo Hòa Hảo chủ trương không có
hàng giáo phẩm và hệ thống tổ chức của đạo. Sau này, khi đạo phát triển mạnh,
những người đứng đầu mới lập ra các ban trị sự từ trung ương đến cơ sở; có
những thời kì, do có tham vọng chính trị lớn, họ còn lập ra lực lượng vũ trang
và đảng phái chính trì riêng.

Câu 11. Qúa trình giao lưu văn hóa Việt Nam:
Nhà nước Đại Việt từ lúc ra đời cho đến hôm nay đã có ba lần tiếp xúc và
biến đổi mô hình văn hóa của mình.
- Tiếp xúc với văn hóa Hán để hình thành và xây dựng mô hình văn hóa
quốc gia dân tộc trên cơ tầng Đông Nam Á và mô phỏng theo mô hình văn hóa
Trung Hoa xưa suốt cả trong thời kỳ cổ đại, để xây dựng một quốc gia văn hiến,
khu biệt với văn hóa Hán, như Nguyễn Trãi đã viết: “Nhớ Đại Việt ta từ trước/
Vốn xưng nền Văn hiến đã lâu /Sơn hà cương vực đã chia/ Phong tục Bắc Nam
cũng khác…” Người Việt và các dân tộc đã bản địa hóa mô hình văn hóa Hán
và cả văn hóa Ấn Độ theo tâm thức của mình. Nhà nước Đại Việt sau này cũng
đã tích hợp trong lòng nó các nền văn hóa chịu ảnh hưởng Ấn Độ: văn hóa Phù
Nam, văn hóa Champa. Vì vậy có thể xem Việt Nam là nơi hội tụ các văn hóa
châu Á, và ở đây đã tạo nên một nền văn hóa quốc gia dân tộc gồm hai dòng:
văn hóa bác học chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán (chủ đạo) và Ấn Độ, văn hóa
dân gian bảo lưu các yếu tố văn hóa dân tộc với mối quan hệ tác động qua lại
trong một thể thống nhất.
- Tiếp xúc với văn hóa Pháp và phương Tây để hiện đại hóa nền văn hóa
dân tộc. Đây là nơi diễn ra cuộc tiếp xúc Đông – Tây mà ngày nay mang tính
chất toàn cầu. Quá trình hiện đại hóa ấy dù trong hoàn cảnh thống trị của chủ
nghĩa thực dân, đã được định hướng mô phỏng mô hình văn hóa phương Tây
bằng cách du nhập các yếu tố ngoại sinh và biến đổi chúng theo một trật tự từ
sao phỏng, mô phỏng đến Việt hóa. Đồng thời với các yếu tố nội sinh thì cũng
đi qua ba bước từ giải thể cấu trúc rồi tái cấu trúc theo hướng hiện đại để cuối
cùng hiện đại hóa chúng trong một mô hình văn hóa vừa dân tộc vừa hiện đại. Ở
đây lại hình thành một nền văn hóa với cấu trúc gồm hai dòng: văn hóa dân tộc
(hội nhập cả hai dòng văn hóa truyền thống: dân gian và bác học) và văn hóa
hiện đại (những yếu tố ngoại sinh đã được Việt hóa) và có mối quan hệ tác động
qua lại đưa văn hóa truyền thống của Việt Nam đi vào văn hóa hiện đại của thế
giới.
- Tiếp xúc với văn hóa xã hội chủ nghĩa để định hướng cho nền văn hóa
Việt Nam đi vào quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Nền văn
hóa này được chỉ dẫn bởi tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là một nền văn hóa tiên
tiến vừa giữ được bản sắc dân tộc vừa hiện đại hóa theo trào lưu chung của quốc
tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Người Việt Nam đi lên hiện đại bằng căn
cước dân tộc. Ta có sơ đồ tiếp xúc văn hóa như sau: Cấu trúc văn hóa hiện đại
Yếu tố ngoại sinh Yếu tố nội sinh Sao phỏng Tháo rời Mô phỏng Tái cấu trúc
Dân tộc hóa Hiện đại hóa Đặc trưng Vừa dân tộc vừa hiện đại
* Những thách đố mới: Ngày nay, nhìn trên tổng thể và toàn cục, loài
người đang bước vào thế kỷ XXI với một bước ngoặt vĩ đại của lịch sử nhân
loại. Sự chuyển hướng đó diễn ra dưới tác động sâu sắc, toàn diện của ba cặp
các sự kiện vô cùng quan trọng.
Một là, hai sự chuyển hướng chiến lược toàn cầu: sự chuyển hướng chiến
lược từ đối đầu chạy đua vũ trang sang đối thoại cùng tồn tại hòa bình; sự
chuyển hướng chiến lược từ châu Âu – Đại Tây Dương sang châu Á – Thái
Bình Dương.
Hai là, hai cuộc cách mạng đồng thời: cuộc cách mạng khoa học công
nghệ thần kỳ chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang nền văn minh tin học
hóa (hay hậu công nghiệp); cuộc cách mạng xã hội chuyển từ chủ nghĩa tư bản
sang chủ nghĩa xã hội (hay hậu tư bản).
Ba là, hai quá trình đồng thời diễn ra trên phạm vi toàn thế giới. Đó là
quá trình khu vực hóa và toàn cầu hóa. Ba cặp các sự kiện nêu trên đã làm thay
đổi tận gốc bộ mặt thế giới và ảnh hưởng trực tiếp đến từng khu vực, từng quốc
gia và chỉ có thể bằng công nghệ tin học mới giúp chúng ta tính toán để tìm con
đường phát triển. Trong điều kiện đó, không một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ,
dù phát triển hay đang phát triển lại có thể sống tách biệt với thế giới bên ngoài,
ngược lại, mỗi quốc gia đều là thành viên không thể tách rời, cùng sống trong
một mái nhà chung (trái đất) với những mối quan hệ tùy thuộc lẫn nhau . Do đó,
chúng ta phải đổi mới nhận thức, đổi mới tư duy để có thể hiểu sâu sắc thế giới
và tự nhận thức được mình nhằm từ đó xác định “vị thế” của mình trong quan
hệ quốc tế. Ứng xử phù hợp với “thân phận” (nói theo thuật ngữ xã hội học)
nhất định sẽ mang lại hiệu quả cao. Đó là tính ưu việt của lý thuyết hệ thống.
Tuy nhiên việc xác định vị thế của mỗi yếu tố không dễ dàng, đơn giản vì các
yếu tố phụ thuộc vào sự biến đổi như vũ bão của thế giới, hơn nữa, mỗi con
người, mỗi quốc gia đều bị khống chế trong điều kiện của chính mình với
những tham vọng khó kiềm chế. Thái độ thích nghi trong điều kiện cộng sinh
văn hóa là điều bắt buộc đối với tất cả mọi người, nếu chúng ta không muốn bị
tụt hậu và bị đẩy ra ngoài lề của sự phát triển. Vì vậy nền học vấn thế kỷ XXI đề
xuất ba yêu cầu mới nhằm khắc phục những bất cập của thế kỷ XX. Đó là: Kiến
thức đồng bộ, tư duy phức hợp và phương pháp liên ngành. Lối tư duy chuyên
ngành đã “bứt” một khách thể ra khỏi môi trường của nó, tước bỏ các mối quan
hệ rồi xếp một cách tùy tiện vào những ô của những bộ môn khoa học, phá vỡ
tính hệ thống và tính đa chiều vốn có của các hiện tượng. Người ta gọi đó là tư
duy cơ giới manh mún tuân theo những định luật nhân quả mang tính tất định và
nhị nguyên. Với những khám phá khoa học mới cho phép loài người chuyển từ
tư duy cơ giới sang tư duy phức hợp hay tư duy trong bối cảnh. Đó là cách xem
xét đối tượng như là một cái toàn thể với những tính chất, hành vi thuộc về toàn
thể và nói chung không thể quy về hoặc suy ra từ tính chất các yếu tố cấu thành,
theo mối liên hệ hồi quy và toàn hình: Cái bộ phận nằm trong cái toàn bộ và cái
toàn bộ nằm trong cái bộ phận. Để nhận dạng sự vật người ta phát hiện ra
tínhhợp trội (émeergence) mang đặc trưng toàn thể, tồn tại và phát triển trong
các hệ thống mở và phi tuyến tính vừa có thể dẫn đến hỗn độn bất định, vừa có
thể từ hỗn độn, tự tổ chức để chuyển sang một trật tự mới có tính tổ chức cao
hơn. Do đó “trái đất là một khối tổng thể sinh học / nhân học phức hợp, trong đó
sự sống nẩy sinh từ lịch sử của trái đất, và nhân loại nẩy sinh từ sự sống của trái
đất” (E. Morin) và người ta đưa ra công thức tư duy toàn cầu / hành động địa
phương và tư duy địa phương / hành động toàn cầu. Trong thời kỳ chuyển biến
vĩ đại này, các dân tộc, các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam đang
phải vật lộn, bươn chải giữa dòng thác phát triển có nhiều cơ may nhưng cũng
đầy những rủi ro cạm bẫy, đầy thách đố, mâu thuẫn giữa cái cũ và cái mới, cái
của người và cái của ta. Công cuộc đổi mới này tuy không đẫm máu như trong
điều kiện chiến tranh nhưng cũng buộc chúng ta phải chấp nhận, phải trả giá, có
gan từ bỏ những gì không còn phù hợp dù rất đau đớn để biến đổi truyền thống
dân tộc theo hướng hiện đại. Có thể nói chúng ta là một dân tộc rất tài ba và
dũng cảm trong quá khứ, nhưng lại bất cập trong điều kiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Muốn tiến nhanh kịp các nước phát triển, chúng ta không có con
đường nào khác là phải biết sử dụng và khai thác lợi thế của người đi sau. Các
dân tộc trong nước cũng vậy, và Việt Nam trên trường quốc tế cũng vậy!

Câu 12. Đường lối phát triển văn hóa của Đảng.

Bài làm 1
Văn hoá là hệ thống những giá trị chuẩn mực xã hội biểu hiện ra
trong mọi lối sống vật chất và tinh thần của một cộng đồng người hay một quốc
gia. Văn hoá phải là các giá trị chuẩn mực.Vì vậy, quá trình quản lý các hoạt
động văn hóa nói chung của Nhà nước và xã hội trở thành yêu cầu tất yếu nhằm
duy trì, phát huy và định hướng phát triển văn hóa phù hợp với truyền thống dân
tộc và thực tiễn đòi hỏi phải có sự hài hòa, hợp lý giữa truyền thống và hiện đại
trong điều kiện hiện nay.
 Để xây dựng và phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời
vẫn bảo đảm tính hiện đại, phù hợp với thực tiễn đất nước theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đòi hỏi việc tăng cường quản lý nhà
nước về văn hóa càng trở nên cấp thiết trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập
quốc tế như hiện nay. Hoạch định và đề ra một hệ thống giải pháp đồng bộ từ
khái quát đến cụ thể, nhằm thúc đẩy và quản lý tốt hoạt động văn hóa trên phạm
vi cả nước. Trong việc xây dựng và phát triển văn hóa không phải là một vấn đề
riêng, nó liên quan mật thiết với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội trong bối
cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Mục tiêu của sự nghiệp đổi mới là phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, trong đó phải giải quyết hài hoà
giữa sự phát triển kinh tế và văn hóa, bảo đảm cho đất nước phát triển bền vững
và lâu dài. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh tới vai trò của việc xây
dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nền văn hóa này vừa phải
là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động kinh tế phải đặt con người ở vị trí
trung tâm của sự phát triển, vừa phải chú ý đến hiệu quả kinh tế, vừa phải chú ý
đến hiệu quả xã hội và văn hóa. Đồng thời, phải chú trọng khai thác văn hóa
như một nguồn lực đặc biệt để phát triển kinh tế - xã hội, nhất là phát triển các
ngành công nghiệp văn hóa, dịch vụ văn hóa và du lịch văn hóa… Như vậy, văn
hóa không phải là kết quả thụ động của nền kinh tế mà là nguyên nhân, động
lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
 
Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam.
 
Quan điểm này nhấn mạnh đến tư tưởng nhất quán của Đảng và Nhà nước
ta về đảm bảo tính thống nhất và tính đa dạng của nền văn hóa Việt Nam hiện
đại. Tính thống nhất của nền văn hóa Việt Nam thể hiện ở sự thống nhất về
truyền thống yêu nước và tinh thần đại đoàn kết của các dân tộc anh em trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thống nhất ở việc bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với việc xây dựng và phát triển sự
nghiệp văn hóa; thống nhất ở ý chí và nguyện vọng chung của cộng đồng các
dân tộc trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Tính thống nhất là điều kiện để đảm
bảo sự phát triển đa dạng của văn hóa các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam.
Hiện nay, trên đất nước ta có 54 dân tộc với các đặc trưng văn hóa khác nhau.
Các giá trị và các đặc trưng văn hóa đó bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát
triển, làm phong phú cho nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất
quốc gia.
 
Để nhấn mạnh tới phương pháp xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, Đảng và nhà nước ta chủ trương văn hóa là một mặt trận, xây
dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có
ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng. “Mặt trận” là nơi đoàn kết thống nhất
ý chí và tình cảm của nhân dân, của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ và các nhà hoạt
động văn hóa vào thực hiện mục tiêu chung của sự nghiệp đổi mới do Đảng đề
ra. “Mặt trận” là nơi đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác và cái giả, khẳng định
cái đúng, cái tốt và cái đẹp nhằm xây dựng môi trường văn hóa tinh thần lành
mạnh. Đồng thời, đây cũng là nơi để chống lại mưu toan phá hoại của kẻ thù,
đặc biệt là âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch quốc tế trên
lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Trong quá trình đó, “xây” phải đi đôi với “chống”
và lấy “xây” làm trọng tâm. Quan điểm này cũng nhấn mạnh đến tính đặc thù
của việc xây dựng và phát triển văn hóa. Bảo tồn và phát huy những di sản văn
hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những giá trị mới tích cực và tiến bộ, loại
bỏ những yếu tố bảo thủ và lạc hậu trong nền văn hóa, làm cho các giá trị văn
hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành tâm lý, tập quán tiến bộ,
văn minh, nhân bản là một quá trình đầy khó khăn gian khổ, phức tạp, đòi hỏi
nhiều thời gian và cần phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng, tránh
nóng vội, chủ quan duy ý chí. Trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường và hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cần phải nhận thức sâu sắc rằng, sản phẩm văn
hóa là một sản phẩm hàng hóa đặc biệt, hoàn toàn khác với sản phẩm hàng hóa
thông thường khác. Đây là phương tiện để biểu đạt đời sống tinh thần của mỗi
dân tộc. Vì vậy, Đảng, Nhà nước và toàn xã hội cần có giải pháp hữu hiệu để
bảo vệ và phát triển nền văn hóa của dân tộc mình, chống nguy cơ bị đồng hóa
về văn hóa.
 
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cùng với quá trình đặt trọng tâm vào
đổi mới về kinh tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
xác định đường lối xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Quan điểm này đánh dấu sự phát triển  tư duy lý luận của Đảng, đồng thời cũng
là kết quả tổng kết thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong suốt
quá trình lãnh đạo của Đảng.
 
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6-1991) đã xác định nền văn hóa
tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như vậy, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm vụ trọng yếu trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
 
Đến Đại hội XI, nhiệm vụ chăm lo phát triển văn hóa được đúc kết cô
đọng hơn, cụ thể hơn, tập trung vào 4 nội dung quan trọng:
 
Một là, củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh,
phong phú, đa dạng; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh trong việc
cưới, việc tang, lễ hội…; triển khai cuộc vận động xây dựng gia đình Việt Nam
góp phần giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống của văn hóa, còn
người Việt Nam, nuôi dưỡng giáo dục thế hệ trẻ.
 
Hai là, phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị
các di sản văn hóa truyền thống, cách mạng. Theo đó, tiếp tục phát triển nền văn
học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, giàu chất nhân văn,
dân chủ, vươn lên hiện đại, phản ánh chân thật, sâu sắc đời sống, lịch sử dân tộc
và công cuộc đổi mới đất nước; cổ vũ, khẳng định cái đúng, cái đẹp, đồng thời
lên án cái xấu, cái ác. Hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc các quy định của
pháp luật về sở hữu trí tuệ, về bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa vật thể
và phi vật thể của dân tộc. Xây dựng và thực hiện các chính sách, chế độ đào
tạo, bồi dưỡng, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, tạo điều kiện để đội ngũ
những người hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật sáng tạo nhiều tác phẩm có
giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật.
 
Ba là, chú trọng phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ chức
và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân
dân và đất nước. Tập trung đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ hoạt động báo
chí, xuất bản vững vàng về chính trị, tư tưởng, nghiệp vụ và có năng lực đáp
ứng tốt yêu cầu của thời kỳ mới.
 
Bốn là, đổi mới, tăng cường việc giới thiệu, truyền bá văn hóa, văn học,
nghệ thuật, đất nước, con người Việt Nam với thế giới. Xây dựng một số trung
tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hóa
Việt Nam ra nước ngoài. Tiếp thu những kinh nghiệm tốt về phát triển văn hóa
của các nước, giới thiệu các tác phẩm văn học, nghệ thuật đặc sắc của nước
ngoài với công chúng Việt Nam. Ngăn chặn, đẩy lùi, vô hiệu hóa sự xâm nhập
và tác hại của các sản phẩm đồi trụy, phản động từ nước ngoài vào nước ta; bồi
dưỡng và nâng cao sức đề kháng của công chúng nhất là thế hệ trẻ.
 
Như vậy, đến Đại hội XI, các quan điểm của Đảng về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam theo mục tiêu tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp
tục được khẳng định. Nhưng từ thực tiễn đời sống văn hóa của đất nước những
năm qua, đặc biệt là trong xu thế hội nhập, có sự tác động nhiều chiều của quá
trình toàn cầu hóa, của nền kinh tế thị trường…, Đảng ta đã xác định bốn đầu
việc cần được cấp ủy đảng, chính quyền các cấp và nhất là ngành văn hóa coi
trọng, tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhằm tiếp tục xây dựng nền tảng tinh
thần của xã hội.
 
Tuy nhiên, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng nhận định: Lĩnh vực
văn hóa còn nhiều vấn đề bức xúc, chậm được giải quyết. Đặc biệt là việc xây
dựng nếp sống văn hóa chưa được coi trọng đúng mức. Tình trạng suy thoái,
xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã hội và tội phạm đáng lo
ngại, nhất là trong lớp trẻ. Quản lý nhà nước về văn hóa còn nhiều sơ hở, yếu
kém. Đấu tranh ngăn ngừa văn hóa phẩm độc hại chưa được chú ý đầy đủ, còn
nhiều khuyết điểm, bất cập. Quá trình toàn cầu hóa cũng là nguy cơ làm mai
một bản sắc văn hóa dân tộc. Sự suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống tiếp
tục diễn biến phức tạp, có một số mặt nghiêm trọng hơn, tổn hại không nhỏ đến
uy tín của Đảng và Nhà nước, niềm tin của nhân dân.Việc xây dựng và phát
triển toàn diện con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
chưa tạo ra được sự chuyển biến rõ rệt... Qua đó, Đảng ta cũng đã xác định các
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý văn hóa và xây dựng nền văn hóa
mới:
 
Thứ nhất,nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của các thiết chế hiện
có; tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hoá, nâng cao hiệu
quả lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hoá; thực
hiện nghiêm túc các văn bản luật pháp về văn hóa, thông tin mà Nhà nước ban
hành, củng cố nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý văn hóa ở cấp xã, phường;
giải quyết tốt các chế độ, chính sách cho hoạt động văn hóa ở cơ sở và đáp ứng
tốt nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân; thực hiện chủ trương "Nhà nước
và nhân dân cùng làm" và xã hội hóa các hoạt động văn hoá. Tiếp tục chỉ đạo và
quản lý hiệu quả hoạt động xây dựng và hoàn thiện các thiết chế văn hóa ở cơ
sở như nhà văn hóa, thư viện, trạm phát thanh, truyền hình, trạm bưu điện văn
hóa, sân chơi, sân thể thao, trung tâm văn hóa giải trí cho thanh, thiếu niên...
 
Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị
tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc và tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn
hóa thế giới, bắt kịp sự phát triển của thời đại.Vừa phát huy mạnh mẽ tính đa
dạng, bản sắc độc đáo của văn hóa các dân tộc anh em, làm phong phú nền văn
hóa chung của cả nước, vừa kiên trì củng cố và nâng cao tính thống nhất trong
đa dạng của văn hóa Việt Nam, đấu tranh chống các khuynh hướng lợi dụng văn
hóa để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.Chủ động xây dựng quy
hoạch, kế hoạch phát triển văn hóa từ địa phương đến Trung ương, định kỳ làm
việc với các cơ quan văn hóa, chỉ đạo các cơ quan nhà nước thể chế hóa các chủ
trương, chính sách về văn hóa; có kế hoạch chăm sóc, bồi dưỡng tài năng trong
tất cả các lĩnh vực văn hóa; tôn trọng tự do sáng tác, xây dựng quan hệ chân
thành, cởi mở đối với đội ngũ những người hoạt động văn hóa, có chính sách
trọng dụng người tài, đồng thời chăm lo định hướng chính trị và ý thức trách
nhiệm công dân nhằm phát huy cao nhất sự đóng góp của đội ngũ trí thức, văn
nghệ sĩ, những người làm báo cho sự nghiệp phát triển văn hóa.
 
Ba là, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội theo tinh thần tăng cường vai trò
của văn hóa trong phát triển. Chú ý hệ chính sách đồng bộ, bên cạnh việc nhấn
mạnh các chính sách kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế cần chú ý tới
các chính sách xã hội hóa văn hóa, bảo tồn di sản văn hóa, khuyến khích sáng
tạo văn hóa, đầu tư văn hóa, ưu đãi xã hội, bảo vệ và phát triển môi trường văn
hóa, khuyến khích xây dựng văn hóa môi trường… trong tình hình mới bởi chỉ
có xuất phát từ nền tảng văn hóa dân tộc thì mọi chính sách, hoạt động văn hóa,
vấn đề văn hóa mới có được gốc rễ bền vững và khả năng thực hiện triệt để.
 
Bốn là, hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách trong việc xây dựng nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội, đẩy lùi hủ tục, tệ nạn cờ bạc,
ma tuý, mại dâm, bạo lực, gây rối trật tự công cộng. Cải thiện văn hóa ở những
vùng đời sống còn quá khó khăn, nhất là những vùng sâu, vùng xa, vùng biên
giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đáp ứng nhu cầu thiết yếu về văn
hóa tinh thần cho nhân dân. Bảo đảm gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế
là trọng tâm với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã
hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện
quyết định đảm bảo cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước.
 
Sự nghiệp đổi mới trong thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại
cũng đem đến cả thời cơ và thách thức mới cho việc xây dựng con người đảm
bảo tiến bộ xã hội và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc. Trong quá trình này, việc tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối, chính
sách xây dựng con người và phát triển văn hóa, xã hội là một yêu cầu khách
quan. Mặt khác, việc tổ chức và triển khai nghiêm túc những quan điểm chỉ đạo,
những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược xây dựng con người và phát triển
văn hóa và thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là nhân tố có ý nghĩa quyết
định để biến đường lối của Đảng thành hiện thực./.
Bài làm 2

Bên cạnh vấn đề phát triển kinh tế và xây dựng Đảng, việc phát triển văn hóa có
tầm quan trọng đặc biệt. Đảng Cộng sản Việt Nam rất coi trọng phát triển văn
hóa cụ thể là:

Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 7-
1998) đã ban hành nghị quyết chuyên đề về “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”, cho thấy chuyển biến hết sức mạnh mẽ trong nhận
thức của Đảng về tầm quan trọng của văn hóa bên cạnh vấn đề phát triển kinh tế
và xây dựng Đảng. Nghị quyết khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng,
đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh
cho sự phát triển xã hội”(1). Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây
dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (Trong ảnh:
Đua thuyền trong lễ hội truyền thống chùa Bạch Hào, tỉnh Hải Dương)_Ảnh: Tư
liệu
Đại hội IX của Đảngtiếp tục khẳng định, xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực
sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình,
lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Bước
phát triển trong quan điểm của Đảng về văn hóa thời kỳ này là nhấn mạnh mục
tiêu hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn
hóa. Đại hội xác định nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện. Để đạt được mục tiêu đề ra, các chương trình hành động phải
được triển khai đồng bộ, chú trọng việc mở rộng và nâng cao hiệu quả cuộc vận
động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nếp sống văn
minh và gia đình văn hóa”, phong trào “Người tốt, việc tốt”, làm cho văn hóa
thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người…

Đến Đại hội X của Đảng, với quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội, những yêu cầu về tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng
bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội và việc xây dựng, hoàn thiện giá trị, nhân cách con
người Việt Nam, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế,… được khẳng định lại, tiếp
nối quan điểm về văn hóa từ kỳ đại hội trước. Đại hội lần này cũng đề ra yêu
cầu đa dạng hóa các hình thức hoạt động của phong trào “Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng và nâng cấp đồng bộ hệ thống thiết chế
văn hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống nhà văn hóa, bảo tàng, nhà
truyền thống…

Đại hội XI khẳng định phương hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng,
thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn
kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển, coi “con người là
trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và
bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc,
đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”(2). Đại hội đề ra mục tiêu cho giai
đoạn tiếp theo là xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia
đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, con người phát triển toàn diện về trí tuệ, đạo
đức, thể chất, năng lực sáng tạo, ý thức công dân, tuân thủ pháp luật. Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người
Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đã khẳng định mục
tiêu: xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng
đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa
học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức
mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Văn
hóa tiếp tục là vấn đề quan trọng, có tính thời sự và dành được sự quan tâm sâu
sắc.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt
Nam tiếp tục khẳng định đường lối nhất quán xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người Việt Nam phát triển toàn diện đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa và mục tiêu “Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc
của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc”(3). Việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng con người có
bước chuyển biến quan trọng: Gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa, con người với
nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước; gắn xây dựng môi trường văn hóa
với xây dựng con người; bước đầu hình thành những giá trị mới về con người
với các phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ động,
sáng tạo, khát vọng vươn lên. Mục tiêu được đề ra là: Xây dựng nền văn hóa và
con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm
nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học, trong đó, “xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện”phải trở thành một mục tiêu của chiến
lược phát triển.
Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân -
thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn dân chủ và khoa học

Kết quả và những vấn đề đặt ra từ thực tiễn

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII nhấn mạnh đến phương
hướng, nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa, xây dựng con người Việt Nam. Quan
điểm này tiếp tục được khẳng địnhtrong các giai đoạn tiếp theo và các chương
trình hành động tương ứng được triển khai nhằm đạt mục tiêu đặt ra... Trong đó,
phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”được khởi xướng và
phát động từ năm 2000 với mục đích tạo dựng môi trường văn hóa lành mạnh,
giúp người dân nâng cao chất lượng cuộc sống. Cùng với việc phát động phong
trào là việc thành lập ban chỉ đạo xuyên suốt từ Trung ương đến địa phương để
triển khai thực hiện.

Mặc dù phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã
góp phần ổn định an ninh chính trị, xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành
mạnh, tiến bộ và giúp người dân nâng cao chất lượng cuộc sống, tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đạt được, phong trào vẫn còn những hạn chế. Đại hội X của
Đảng đã đánh giá: “Việc xây dựng nếp sống văn hóa chưa được coi trọng đúng
mức. Tình trạng suy thoái, xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã
hội và tội phạm đáng lo ngại, nhất là trong lớp trẻ. Quản lý nhà nước về văn hóa
còn nhiều sơ hở, yếu kém. Đấu tranh ngăn ngừa văn hóa phẩm độc hại chưa
được chú ý đầy đủ, còn nhiều khuyết điểm, bất cập”(4); phong trào triển khai
chưa đồng đều; hoạt động của ban chỉ đạo ở một số địa phương còn nặng tính
hành chính; cách thức triển khai phong trào còn có những điểmchưa phù hợp
với thực tiễn, chưa đáp ứng được mục tiêu đặt ra.      

Tại Đại hội XI của Đảng nhận định, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông
tin, thể dục, thể thao ngày càng mở rộng, từng bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ
văn hóa ngày càng cao của nhân dân. Phong trào từng bước đi vào chiều sâu,
nhưng “văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Quản lý
văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản còn thiếu chặt chẽ. Môi trường văn hóa bị
xâm hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã
hội, tội phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi
đạo đức, nhất là trong thanh, thiếu niên, rất đáng lo ngại”(5).

Đến Đại hội XII, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa
XI đánh giá: “Bước đầu hình thành những giá trị mới về con người với các
phẩm chất về trách nhiệm xã hội, ý thức công dân, dân chủ, chủ động, sáng tạo,
khát vọng vươn lên. Hệ thống thể chế và thiết chế văn hóa từng bước được tăng
cường… Đời sống văn hóa của nhân dân được cải thiện. Phong trào “Toàn dân
đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã khơi dậy được nhiều giá trị nhân văn
trong cộng đồng. Việc xây dựng môi trường văn hóa đã được chú trọng hơn”(6).
“Tuy nhiên, so với những thành quả trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng,
an ninh, đối ngoại, thành quả trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ
tầm mức để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa
lành mạnh. Đạo đức, lối sống có mặt xuống cấp đáng lo ngại. Đời sống văn hóa
tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu; khoảng cách hưởng thụ văn hóa
giữa miền núi, vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân
chậm được rút ngắn. Môi trường văn hóa còn tồn tại những biểu hiện thiếu lành
mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội và một số loại tội
phạm có chiều hướng gia tăng...”(7).

Tại Đại hội XI và Đại hội XII, văn kiện của Đảng đều đánh giá, văn hóa
phát triển chưa tương xứng với các lĩnh vực khác. Một trong những nguyên
nhân quan trọng đó là quan điểm tiếp cận trong xây dựng chính sách và triển
khai hành động còn nhiều bất cập. Văn hóa luôn đa dạng và vận động không
ngừng. Mỗi một vùng, miền lại có đặc thù văn hóa riêng và luôn biến đổi theo
nhu cầu của con người - chủ nhân của văn hóa. Tuy nhiên, một số chính sách và
việc triển khai chính sách liên quan đến văn hóa còn cứng nhắc, chưa phù hợp.
Việc xây dựng một nền văn hóa theo mô hình chung, không căn cứ vào tính đa
dạng và tính thường biến của đối tượng sẽ dẫn đến sựnhất thể hóa, bất biến hóa
văn hóa một cách khiên cưỡng. Do đó, các chính sách đưa ra cần phù hợp với
nguyên tắc tôn trọng đặc trưng văn hóa của từng vùng, miền cụ thể và tôn trọng
quyền tự chủ của người dân. Nói cách khác, các chính sách này nên được xây
dựng trên tinh thần “tạo điều kiện”, chứ không phải “làm thay” như trước. Cần
tạo điều kiện để người dân tham gia một cách chủ động, tích cực vào việc xây
dựng, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa.Nhà nước chỉ đóng vai trò hỗ trợ,
bởi xét đến cùng, văn hóa là của nhân dân, do nhân dân sáng tạo nên.

Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền văn hóa mới cần hội tụ
tính dân tộc, khoa học và đại chúng. Trong đó, nền văn hóa mang tính đại chúng
được hiểu là nền văn hóa do nhân dân xây dựng. Ở góc độ này, việc xây dựng
con người là nhiệm vụ quan trọng nhất. Nhìn cụ thể hơn vào mục tiêu xây dựng
con người Việt Nam, vốn đã được xác định là nhiệm vụ hàng đầu trong các
nhiệm vụ về văn hóa, có thể thấy nhữngkết quả đạt được chưa như mong muốn.
Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII lần đầu đặt ra yêu cầu việc xây dựng con
người Việt Nam đi liền với xây dựng nền văn hóa dân tộc. Các kỳ đại hội tiếp
theo xác định cụ thể hơn vấn đề này. Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã khẳng
định, việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một
mục tiêu của chiến lược phát triển, đồng thời cũng là nhiệm vụ hàng đầu trong
các mục tiêu, nhiệm vụ về văn hóa. Tuy vậy, kết quả thực hiện còn nhiều hạn
chế. Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Tình trạng suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Tội phạm và tệ nạn
xã hội còn diễn biến phức tạp; đạo đức xã hội có mặt xuống cấp nghiêm
trọng”(8). Nguyên nhân chủ yếu của các hạn chế, yếu kém trên là “do nhiều cấp
uỷ, chính quyền nhận thức chưa đúng tầm quan trọng và chưa quan tâm đầy đủ
lĩnh vực này; lãnh đạo, chỉ đạo chưa thật quyết liệt. Việc cụ thể hóa, thể chế hóa
nghị quyết của Đảng còn chậm, thiếu đồng bộ. Công tác quản lý nhà nước về
văn hóa chậm được đổi mới, có lúc, có nơi bị xem nhẹ, thậm chí buông lỏng.
Đầu tư cho lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng và còn dàn trải”(9). Đối với việc
xây dựng con người Việt Nam, nhiều ý kiến cho rằng, đó là do hệ thống giáo
dục chưa đáp ứng được yêu cầu. “Xét cho đến cùng, những sai lầm, khuyết
điểm, hạn chế của con người Việt Nam nói chung đều là do những sai lầm,
khuyết điểm, hạn chế của công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực này mà
ra”. Con người là kết quả quá trình xã hội hóa thông qua giáo dục từ gia đình,
nhà trường và xã hội, là nền tảng để tạo nên con người văn hóa. Với tư cách là
chủ thể sáng tạo văn hóa, mỗi cá nhân trong cộng đồng sẽ góp phần tạo nên văn
hóa của cộng đồng. Mặt khác, văn hóa luôn mang tính đa dạng và biến đổi,
nhưng các chính sách về văn hóa lại chưa quan tâm đúng mức đến sự đa dạng
văn hóa ở một đất nước vốn có nhiều dân tộc và nhiều vùng địa lý mang những
đặc điểm khác biệt.

Thực tiễn xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam đặt ra nhiều
thách thức trong giai đoạn mới. Đảng ta luôn khẳng định quan điểm văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực phát triển bền vững đất
nước, con người là trung tâm trong chiến lược phát triển. Chủ trương, đường lối
của Đảng về phát triển văn hóa là nền tảng vững chắc để tạo ra những chuyển
biến tích cực trong xây dựng nền văn hóa và con người hiện nay./.

13. Các di sản văn hóa được Unesco công nhận là di sản văn
hóa thế giới tại Việt Nam.
Chúng ta có thể tự hào khi biết rằng ngoài 3 di sản thiên nhiên thế
giới thì Việt Nam có khá nhiều di sản văn hóa thế giới và 3 di sản tư liệu
thế giới được UNESCO vinh danh.
a.Di sản văn hóa vật thể thế giới
1. Quần thể di tích Cố đô Huế
Quần thể di tích Cố đô Huế hay Quần thể di tích Huế là những di tích
lịch sử - văn hóa do triều Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời
gian từ đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 trên địa bàn kinh đô Huế xưa,
nay thuộc phạm vi thành phố Huế và một vài vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa
Thiên-Huế, Việt Nam. Phần lớn các di tích này nay thuộc sự quản lý của
Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế và được UNESCO công nhận là Di
sản Văn hóa Thế giới vào ngày 11/12/1993.

2. Phố cổ Hội An
Đô thị cổ Hội An ngày nay là một điển hình đặc biệt về cảng thị
truyền thống ở Đông Nam Á được bảo tồn nguyên vẹn và chu đáo. Phần lớn
những ngôi nhà ở đây là những kiến trúc truyền thống có niên đại từ thế kỷ
17 đến thế kỷ 19, phần bố dọc theo những trục phố nhỏ hẹp. Hội An cũng là
vùng đất ghi nhiều dấu ấn của sự pha trộn, giao thoa văn hóa. Các hội quán,
đền miếu mang dấu tích của người Hoa nằm bên những ngôi nhà phố truyền
thống của người Việt và những ngôi nhà mang phong cách kiến trúc Pháp.
Với những giá trị nổi bật, tại kỳ họp lần thứ 23 ngày 4/12/1999, Tổ
chức UNESCO đã công nhận đô thị cổ Hội An là một di sản văn hóa thế
giới.

3.Thánh địa Mỹ Sơn


Thánh địa Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam,
là tổ hợp gồm nhiều đền đài Chăm Pa trong một thung lũng đường kính
khoảng 2 km được bao quanh bởi đồi núi. Xưa đây từng là nơi tổ chức cúng
tế cũng như là lăng mộ của các vị vua Chăm pa hay hoàng thân, quốc thích.
Năm 1999, Thánh địa Mỹ Sơn đã được UNESCO chọn là một trong
các di sản thế giới tân thời và hiện đại.

4. Hoàng thành Thăng Long


Hoàng thành Thăng Long là quần thể di tích gắn với lịch sử kinh
thành Thăng Long - Đông Kinh và tỉnh thành Hà Nội bắt đầu từ thời kì tiền
Thăng Long (An Nam đô hộ phủ thế kỷ VII) qua thời Đinh - Tiền Lê, phát
triển mạnh dưới thời Lý, Trần, Lê và thành Hà Nội dưới triều Nguyễn. Đây
là công trình kiến trúc đồ sộ, được các triều vua xây dựng trong nhiều giai
đoạn lịch sử và trở thành di tích quan trọng bậc nhất trong hệ thống các di
tích Việt Nam.
Vào ngày 31/7/2010, UNESCO đã thông qua nghị quyết công nhận
khu Trung tâm hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là di sản văn hóa thế giới.
5.Thành Nhà Hồ
Thành nhà Hồ, nay thuộc địa phận tỉnh Thanh Hóa là tòa thành kiên
cố với kiến trúc độc đáo bằng đá có quy mô lớn hiếm hoi ở Việt Nam. Ngày
27/6/2011, sau 6 năm đệ trình hồ sơ, Thành nhà Hồ đã được UNESCO công
nhận là di sản văn hóa thế giới.

b.Di sản văn hóa phi vật thể


1.Nhã nhạc cung đình Huế
Nhã nhạc cung đình Huế là thể loại nhạc của cung đình thời phong kiến,
được biểu diễn vào các dịp lễ hội (vua đăng quang, băng hà, các lễ hội tôn
nghiêm khác) trong năm của các triều đại nhà Nguyễn của Việt Nam.Nhã
nhạc cung đình Huế đã được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và
phi vật thể nhân loại vào năm 2003.
2. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên được UNESCO công nhận là
Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại vào ngày 15/11/2005. Không
gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên bao gồm các yếu tố bộ phận sau:
cồng chiêng, các bản nhạc tấu bằng cồng chiêng, những người chơi cồng
chiêng, các lễ hội có sử dụng cồng chiêng (Lễ mừng lúa mới, Lễ cúng Bến
nước...), những địa điểm tổ chức các lễ hội đó (nhà dài, nhà rông, nhà gươl,
rẫy, bến nước, nhà mồ, các khu rừng cạnh các buôn làng Tây Nguyên,...)
3.Dân ca Quan họ
Dân ca quan họ ở Bắc Giang và Bắc Ninh là một trong những làn điệu dân
ca tiêu biểu của vùng châu thổ sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam. Nó còn
được gọi là dân ca quan họ Kinh Bắc do được hình thành và phát triển ở
vùng văn hóa Kinh Bắc xưa, đặc biệt là khu vực ranh giới hai tỉnh Bắc
Giang và Bắc Ninh ngày nay. Ngày 30/9/2009, UNESCO đã chính thức
công nhận Quan họ là di sản văn hóa phi vật thể của thể giới.
4. Ca trù
Hát ca trù là một bộ môn nghệ thuật truyền thống ở phía Bắc Việt Nam kết
hợp hát cùng một số nhạc cụ dân tộc. Ca trù thịnh hành từ thế kỷ 15, từng là
một loại ca trong cung đình và được giới quý tộc và trí thức yêu thích. Ca
trù là một sự phối hợp nhuần nhuyễn và đỉnh cao giữa thi ca và âm nhạc
Ngày 1/10/2009, tại kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ Công ước
UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28/9 tới ngày
2/10/2009), ca trù đã được công nhận là di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn
cấp.
5. Hội Gióng
Hội Gióng là lễ hội truyền thống được tổ chức hàng năm ở nhiều địa
phương tại Hà Nội nhằm tưởng nhớ và ca ngợi chiến công của người anh
hùng truyền thuyết Thánh Gióng, một trong tứ bất tử của tín ngưỡng dân
gian Việt Nam. Năm 2010, hội Gióng ở đền Phù Đổng (Gia Lâm) và đền
Sóc (huyện Sóc Sơn) đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật
thể của nhân loại.

6.Hát xoan Phú Thọ


Hát Xoan còn được gọi là Khúc môn đình (hát cửa đình), là lối hát thờ thần,
tương truyền có từ thời các vua Hùng. Thuở xa xưa, người Văn Lang tổ
chức các cuộc hát Xoan vào mùa xuân để đón chào năm mới. Năm 2011, hát
xoan đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân
loại.
7.Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương
Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương là một loại hình tín ngưỡng dân gian
được lưu truyền lâu đời ở Việt Nam mà trọng tâm là tỉnh Phú Thọ. Loại tín
ngưỡng này đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam ghi danh
vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (đợt 1) và UNESCO công
nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại năm 2012.
8.Đờn ca tài tử
Đờn ca tài tử Nam bộ là một dòng nhạc dân tộc của Việt Nam đã được
UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể vào năm 2013. Đờn ca tài
tử hình thành và phát triển từ cuối thế kỉ 19, bắt nguồn từ nhạc lễ, Nhã nhạc
cung đình Huế và văn học dân gian 14. Ví giặm Nghệ Tĩnh Dân ca ví, giặm
Nghệ Tĩnh là một loại hình nghệ thuật trình diễn dân ca chiếm vị trí quan
trọng trong đời sống văn hóa của người dân 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh
thuộc miền Trung Việt Nam. Dân ca ví giặm đã được UNESCO công nhận
là di sản văn hóa phi vật thể ngày 27/11/2014 tại Paris (Pháp).
c.Di sản văn hóa hỗn hợp
Quần thể danh thắng Tràng An, Ninh Bình
Tràng An là một trong những nơi có cảnh quan đẹp và quyến rũ nhất
trên thế giới. Phủ lên cảnh quan là thảm rừng và các tháp dạng nón hùng vĩ
cao 200m, với các hố trũng hẹp khép kín, bao quanh bởi các sống núi nối
liền nhau, các đầm lầy thông nhau qua hệ thống suối xuyên ngầm có chiều
dài lên tới 1 km. Ngoài ra, nơi đây còn sở hữu di tích danh thắng nơi đây đã
được Chính phủ Việt Nam xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt quan trọng
như Khu du lịch sinh thái Tràng An, khu du lịch Tam Cốc - Bích Động,
chùa Bái Đính, cố đô Hoa Lư.
Ngày 23/6/2014, tại Doha, với sự đồng thuận tuyệt đối của Ủy ban Di
sản thế giới, Quần thể danh thắng Tràng An chính thức trở thành di sản thế
giới hỗn hợp đầu tiên của Việt Nam.
d.Di sản tư liệu thế giới
1.Mộc bản triều Nguyễn
Mộc bản triều Nguyễn là di sản tư liệu thế giới đầu tiên tại Việt Nam được
UNESCO công nhận ngày 31/7/2009. Mộc bản triều Nguyễn gồm 34.618
tấm, là những văn bản chữ Hán-Nôm được khắc ngược trên gỗ để in ra các
sách tại Việt Nam vào thế kỷ 19, 20.
2.Bia tiến sĩ Văn Miếu - Quốc Tử Giám
Với giá trị văn hóa và lịch sử đặc biệt, đầu tháng 3/2010, 82 tấm bia tiến sĩ
của các khoa thi dưới triều Lê - Mạc (1442-1779) tại Văn Miếu - Quốc Tử
Giám (Hà Nội) đã được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới.

3.Châu bản triều Nguyễn


Châu bản là những văn bản của vương triều đã được nhà vua “ngự phê”
bằng mực son đỏ. Châu bản triều Nguyễn là các tài liệu hành chính được
hình thành trong quá trình quản lý nhà nước của triều Nguyễn (1802 -
1945), triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam, bao gồm văn
bản của các cơ quan trong bộ máy chính quyền trung ương và địa phương
trình lên nhà vua phê duyệt, văn bản các vua ban hành cùng một số văn kiện
ngoại giao và thơ văn ngự chế. Châu bản triều Nguyễn đã được UNESCO
công nhận là di sản tư liệu thế giới vào năm 2014

You might also like