1. Khái quát về tộc người H’Mông Người H’Mông còn được gọi là người Hmông, người Miêu (ở Trung Quốc), người Mèo( ở Việt Nam), người Mẹo ( ở Lào) là một dân tộc ở châu Á nói tiếng H’Mông. Người H’Mông còn có các tên gọi khác như Mèo Hoa, Mèo Đỏ, Mèo Xanh, Mán Trắng, Ná Mẻo. Nhóm H’mông thuộc ngữ hệ Nam Á, H’Mông Dao có 3 ngôn ngữ: Hmông, Dao, Pà Thẻn. Căn cứ vào đặc điểm dân tộc học và ngôn ngữ học, các màu áo, người ta chia dân tộc H’Mông ra các nhóm: H’mông Hoa, H’mông xanh, H’mông Trắng, H’mông Đen, H’mông Đỏ, Na Miểu. Theo số liệu Điều tra 53 dân tộc thiểu số 01/4/ 2019, dân số người H’Mông đã là 1.393.547 người, cư trú tại 62 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người H’Mông chủ yếu cư trú tập trung ở các tỉnh như Hà Giang, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Lai Châu, Yên Bái, Cao Bằng, Nghệ An, Đắk Lắk, Đắk Nông, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thanh Hoá. 2. Lí do chọn đề tài Từ ngàn xưa đến nay, hôn nhân luôn là một sự kiện quan trọng nhất của đời người. Hôn nhân không chỉ đơn giản là sự kết hợp của hai cá nhân mà cũng là sự cộng hưởng lợi ích và là công việc của cả gia đình, dòng họ. Một trong những mục đích của hôn nhân là để sinh con, đẻ cái, mưu cầu hạnh phúc, duy trì dòng dõi, gia tộc. Đối với mỗi tộc người, hôn nhân còn phản ánh nét đặc trưng văn hoá của tộc người đó. Chính vì vậy tập quán hôn nhân đã trở thành một trong những tiêu chí để phân biệt giữa tộc người này với tộc người khác. Trong những công trình nghiên cứu về các tộc người ở Việt Nam, hôn nhân cũng là điểm được khai thác nhiều và khái quát theo những khía cạnh như các nghi lễ, giá trị,... Kế thừa những nghiên cứu đó, tôi đã chọn đề tài “ Đám cưới của tộc người H’Mông” để tiếp tục và bổ sung những thiếu sót nghiên cứu trước đó, góp phần vào khai thác giá trị văn hoá của các tộc người trên lãnh thổ Việt Nam. 3. Mục đích nghiên cứu - Thông qua nghiên cứu và trình bày một cách hệ thống về đặc điểm phong tục hôn nhân truyền thống của người H’Mông, phác hoạ một cách chi tiết về bức tranh văn hoá của tộc người này. - Trong bối cảnh hiện nay, nêu lên hiện trạng bảo tồn giá trị văn hoá truyền thống của người H’Mông, đồng thời chỉ ra những ưu điểm, tồn tại trong cách bảo tồn văn hoá của tộc người này 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là người H’Mông. Trong đó, nội dung tập trung phân tích và lý giải sâu về các đặc điểm hôn nhân của người H’Mông và thực trạng hôn nhân của họ hiện nay 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi: ở huyện Tà Xùa, huyện Bắc Yên, tình Sơn La 5. Bố cục bài nghiên cứu 1) Khái quát về người H’Mông ở Tà Xùa, Bắc Yên, Sơn La 2) Đặc điểm hôn nhân của người H’Mông 3) Thực trạng hôn nhân 4) Thực trạng bảo tồn văn hoá 5) Những ưu điểm, tồn tại bảo tồn văn hoá truyền thống của người B. Nội dung I. Khái quát về người H’Mông ở huyện Tà Xùa, Bắc Yên, Sơn La 1. Tự nhiên Tà Xùa là xã vùng cao, thuộc huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La. Ở phía bắc huyện, độ cao trung bình so với mặt nước biển từ 1.500- 2.000m. Tọa độ địa lý điểm trung tâm từ 21º19'37" độ vĩ bắc đến 104º29'25" độ kinh đông. Tứ cận: Phía bắc, đông bắc, tây bắc giáp xã Háng Đồng; phía nam giáp xã Phiêng Ban; phía tây giáp xã Làng Chếu; phía tây bắc giáp xã Xím Vàng; phía đông và đông nam giáp xã Suối Tọ (huyện Phù Yên). Từ huyện lỵ đến Uỷ ban nhân dân xã đi theo tỉnh lộ 112 dài 14,5 km. Tổng diện tích tự nhiên 4496,6 ha, trong đó đất nông nghiệp 2.437,87 ha (đất SX nông nghiệp 977,19 ha, đất lâm nghiệp 1.460,68 ha), đất phi nông nghiệp 82,73ha (đất chuyên dùng 51,54ha, đất ở 16,22ha và một số loại đất khác 14,97 ha), đất chưa sử dụng 1.976 ha[1]. Đất đai phù hợp với sản xuất nông-lâm nghiệp, như khai hoang ruộng bậc thang, trồng cây lương thực (lúa, ngô, sắn), rừng sinh thái, trồng cỏ chăn nuôi đại gia súc, gia cầm, nuôi ong lấy mật. Nhiệt độ trung bình hàng năm 16-180C. Thường nóng nhiều vào các tháng 5, 6, 7, 8. Thường lạnh nhiều vào các tháng 11, 12 đến tháng 3 năm sau. Thường nắng nhiều vào các tháng 4, 5, 6, 7. Thường mưa nhiều vào các tháng 7, 8, 9. Lượng mưa trung bình hàng năm 1.300-1.500 mm. Xã có suối Bẹ chảy giữa 2 bản Chung Trinh xã Tà Xùa và bản Háng Bla xã Háng Đồng, chảy qua địa phận các bản Tà Xùa A, Tà Xùa C, Bản Bẹ rồi lưu hợp với suối Háng Đồng xuống suối Sập, chiều dài 25km, lưu lượng nước trung bình, tốc độ dòng chảy mạnh. Có hồ thủy điện Tà Xùa. Suối, hồ là nguồn nước tự nhiên cho sản xuất và đời sống nhưng cũng tiềm ẩn những thiên tai như lũ quét, sạt lở đất, hạn hán như năm 2008, 2010 làm thiệt hại 20% diện tích cây lương thực. Xã có dốc Tà Xùa - Làng Chếu dài 2 km, dốc Tà Xùa đi bản Chung Trinh dài 3 km, dốc từ bản Trò B xuống thủy điện Tà Xùa thuộc Công ty Xuân Thiện dài 5 km. Đồi Trạm thông tin Quân khu II cao 1.700m, các núi Tà Xùa A cao 1.600 m, Tà Xùa C cao 1.500 m, Bản Chung Trinh cao 1.640 m, Bản Khe Cải cao 1.500 m, Bản Mống Vàng cao 1.570 m, Bản Bẹ cao 1.420 m, Bản Trò A cao 1.400 m, Bản Trò B cao 1.410 m so với mặt nước biển. Có mỏ Uran, Kaolin ở bản Trò A. Diện tích rừng tái sinh 625,78 ha. Diện tích rừng trồng 308,5 ha, rừng khoanh nuôi bảo vệ 526,4 ha. Độ che phủ của rừng 40% tổng diện tích tự nhiên. Có những loài thực vật quý hiếm như mộc nhĩ, nấm hương và một số loại cây dược liệu như hà thủ ô, đẳng sâm... Có những loài động vật quý hiếm như hoãng, lợn rừng, sơn dương, gà rừng, chim... 2. Người H’Mông ở huyện Tà Xùa, Bắc Yên, Sơn La Người H’Mông ở Việt Nam có nhiều nhóm khác nhau, trong nhóm người H’Mông ở Tà Xùa thuộc nhóm H’Mông đen có tên tự gọi là H’Mông Đu. Người H’Mông di cư đến Tà Xùa hơi muộn nên họ sống thành từng nhóm nhỏ. Hiện nay, dân số H’Mông đen đã lớn dần và mở rộng quy mô hơn trước, họ đang sống lẫn với người H’Mông Hoa và đã bắt đầu tham gia vào các hoạt động du lịch của làng, xã.
Người Mông ở Tà Xùa
Đời sống kinh tế: Lao động chính của người H’Mông ở Tà Xùa chủ yếu xoay quanh trồng trọt, chăn nuôi, khai thác các nguồn từ tự nhiên. Họ trồng ngô, khoai, sắn trên nương. Các giống lúa người H’Mông dùng là các giống địa phương, năng suất thấp chủ yếu dùng phục vụ cho nhu cầu ăn uống và các dịp lễ của gia đình dòng họ.
II. Đặc điểm hôn nhân của người H’Mông
Đối với người H’Mông, hôn nhân có mục tiêu nhằm để duy trì nòi giống, phát triển gia đình dòng họ. Trong thời kì nông nghiệp phát triển trước đây, hôn nhân có mục đích nhằm bổ sung sức lao động và tái sản xuất lao động. Hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội và sự tự do trong hôn nhân, họ dựa trên tình yêu và kết hợp của cả hai bên. Lễ cưới của người Mông thường được tổ chức vào mùa xuân, khi lộc non tràn đầy nhựa sống, sắc xuân tưng bừng về khắp trên các thửa ruộng bậc thang. Lễ cưới của người Mông cũng bao gồm các lễ nghi như dạm hỏi, ăn hỏi và lễ đón dâu.
Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu đặc biệt Hệ thống tín hiệu ngôn ngữ khác hệ thống tín hiệu khác không chỉ ở giá trị khu biệt của mỗi tín hiệu ngôn ngữ cụ thể mà ở phương diện hệ thống của nó