You are on page 1of 62

MỤC LỤC

Phần I.
1. Trình bày khái niệm văn hóa. Phân biệt văn hóa với văn minh, văn hiến, văn vật.
........................................................................................................................... 1
2. Trình bày đặc trưng và vị trí của nền văn hoá Đông Sơn trong tiến trình lịch sử
văn hoá Việt Nam. ................................................................................................... 4
3. Trình bày những biến đổi của văn hóa Việt Nam trong giao lưu tiếp biến với văn
hoá Trung Hoa. ........................................................................................................ 6
4. Trình bày diện mạo văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần. ......................................... 9
5. Trình bày đặc điểm hệ thống tín ngưỡng Việt Nam ...........................................13
6. Trình bày ý nghĩa văn hóa của lễ hội truyền thống Việt Nam? .........................16
7. Trình bày những đặc trưng văn hóa trang phục của Việt Nam ..........................19
8. Trình bày những đặc điểm của gia đình người Việt truyền thống......................21
9. Trình bày những đặc điểm của lễ Tết Việt Nam. ............................................. 23
10. Trình bày những biến đổi của văn hóa Việt Nam trong quá trình giao lưu với
văn hóa Pháp giai đoạn 1858 – 1945. ................................................................... 25
Phần II.
1. Phân tích đặc điểm của lễ hội truyền thống Việt Nam. Liên hệ việc thực hành lễ
hội hiện nay. .......................................................................................................... 30
2. Phân tích những đặc điểm của làng Việt truyền thống. Liên hệ với vấn đề xây
dựng làng văn hóa trong giai đoạn hiện nay. ........................................................ 33
3.Phân tích đặc điểm văn hoá giao thông truyền thống của người Việt ................ 37
4. Phân tích đặc điểm văn hóa ẩm thực truyền thống của người Việt ................... 40
5. Phân tích ý nghĩa văn hóa của lễ Tết. Liên hệ việc thực hành lễ Tết hiện
nay. ........................................................................................................................ 45
6. Phân tích tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt. Liên hệ việc
thực hành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình hiện nay ............................ 47
7. Phân tích vai trò của người phụ nữ trong gia đình ngưởi Việt truyền
thống....................................................................................................................... 51
8. Phân tích ý nghĩa văn hoá của việc khắc tên những người thi đỗ tiến sĩ lên bia đá
đặt trên lưng rùa ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám. ................................................... 54
9. Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong văn hoá giao thông hiện
nay. ........................................................................................................................ 56
10. Phân tích các chức năng cơ bản của văn hoá. Cho ví dụ minh hoạ................. 58
Phần III.
2. Tại sao có thể cho rằng có một cuộc cách mạng đá mới trong văn hoá Hoà Bình
– Bắc Sơn? ............................................................................................................ 61

1
ĐỀ CƯƠNG CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
PHẦN I: 10 CÂU TÁI HIỆN (mỗi câu 4 điểm)

Câu 1: Trình bày khái niệm văn hóa. Phân biệt văn hóa với văn minh, văn
hiến, văn vật.

1.1. Khái niệm văn hoá


 Văn hóa là một tổng thể hệ thống những giá trị, những chuẩn mực, những
thói quen, những hoạt động trong thực tiễn, có ý thức, mang tính xã hội,
sáng tạo và nhân văn của một cộng đồng người nhất định trong lịch sử nhằm
thỏa mãn nhu cầu của cuộc sống và tạo ra bản sắc riêng.
1.2. Phân biệt văn hóa với văn minh, văn hiến, văn vật:
 Văn minh: Minh là sáng, văn minh là giá trị vật chất có thể nhìn thấy được,
có những đặc trưng cho cả một xã hội rộng lớn, một thời đại và cả nhân loại.
 Văn hiến: Hiến là học, hiền tài, là những truyền thống văn hóa lâu đời.
 Văn vật: Vật là giá trị vật chất như nhân tài và di tích, công trình, hiện vật.

*Văn minh:

Theo quan điểm của các nước thì văn minh được biết đến như sau

- Phương Đông: văn minh chỉ tia sáng của đạo đức, biểu hiện ở chính trị, pháp
luật, văn hóa, nghệ thuật

- Phương Tây: (civitas: đô thị, thành phố) văn minh chỉ xã hội đạt tới giai đoạn
tổ chức đô thị và chữ viết

- Văn minh chỉ trình độ văn hóa về phương diện vật chất, đặc trưng cho 1 khu
vực rộng lớn, 1 thời đại hoặc cả nhân loại. Văn minh có thể so sánh cao thấp, văn
hóa chỉ là sự khác biệt.

Văn minh (civilization) gốc La tinh là “civitas”, nghĩa là “đô thị”, hàm ý một
giai đoạn con người đã thoát khỏi tình trạng cư trú tự nhiên sang cư trú có bố trí
quy hoạch, mang nhiều yếu tố nhân tạo.

- Do vậy khái niệm văn minh chỉ khía cạnh vật chất, kĩ thuật. Văn minh là
những thành tựu đã đạt được khi văn hóa phát triển đến một mức độ nhất định của
một không gian xã hội nhất định.

Ví dụ: văn minh Ai Cập cổ đại, văn minh Địa Trung Hải, văn minh Hoa-Hạ, văn
minh trống đồng, văn minh cơ khí, văn minh châu u...

+ Văn hóa xuất hiện trước văn minh. Trước khi xuất hiện văn minh Văn Lang-
Âu Lạc, Việt Nam đã xuất hiện một số nền văn hóa như: văn hóa Hòa Bình, văn

2
hóa Bắc Sơn. Văn minh chỉ trình độ phát triển, có tính quốc tế và gắn bó nhiều với
ph. Tây đô thị

*Văn hiến:

văn = vẻ đẹp, hiến = hiền tài. Văn hiến thiên về các giá trị tinh thần do hiền tài
sáng tạo ra, có bề dày lịch sử, tính dân tộc và gắn bó nhiều hơn với phương đông
nông nghiệp

VD: chữ viết, thơ văn, phong tục tập quán.

*Văn vật:

văn = vẻ đẹp, vật = vật chất. Văn vật thiên về những giá trị văn hóa vật chất.
Biểu hiện ở những công trình, hiện vật có giá trị nghệ thuật và lịch sử, giống như
văn hiến bề dày, dân tộc, phương Đông

VD: Phở Hà Nội, Cốm Làng Vòng, Gốm Bát Tràng

*Văn hiến, văn vật chỉ là 1 bộ phận của văn hóa.

Xét trong mối tương quan liên hệ với nhau, có thể thấy:

Về đối tượng, văn hóa bao gồm tất cả các yếu tố vật chất và tinh thần, văn vật
thiên về yếu tố vật chất hơn, văn hiến chủ yếu tập trung về các yếu tố tinh thần con
văn minh lại thiên về các yếu tố vật chất kỹ thuật.

Trong khi văn hóa, văn hiến, văn vật có tính lịch sử, tính dân tộc thì văn minh
lại có tính quốc tế và chỉ sự phát triển theo giai đoạn.

Cũng bởi những thuộc tính đó mà văn minh thường gắn với xã hội phương tây
còn văn hóa ,văn hiến văn vật lại thân thuộc hơn với xã hội phương Đông.

=> các yếu tố tương tác với nhau làm nên văn minh của con người.

Văn hóa Văn hiến Văn vật Văn minh

Đối
tượng
Chứa cả giá trị Thiên về Thiên về Thiên về yếu tố vật chất khoa
vật chất lẫn giá trị tinh giá trị vật học kĩ thuật. Chỉ sự phát triển
tinh thần thần chất mang tính giai đoạn

3
Tính
chất Có bề dày lịch sử và tính dân tộc Có tính quốc tế

Kiểu Gắn bó nhiều hơn với phương


Gắn bó nhiều hơn với phương Đông
xã hội Tây đô thị
nông nghiệp

Câu 2: Trình bày đặc trưng và vị trí của nền văn hoá Đông Sơn trong tiến
trình lịch sử văn hoá Việt Nam.

1.1. Nguồn gốc


 Phát hiện trước Cách mạng T8-1945
 Đông Sơn là tên một làng nằm ở bờ sông Mã (huyện Đông Sơn, Thanh Hóa)
 Một số học giả phương Tây coi văn hóa Đông Sơn có vai trò của “văn hóa
mẹ” đối với toàn vùng Đông Nam Á
 Người khảo cổ học người Nhật đã tìm thấy khuôn đúc trống đồng ở Việt
Nam, nhờ đó đã chứng minh được văn hóa trống đồng Đông Sơn là của Việt
Nam chứ không phải Thái Lan, TQ,..
 Hiện vật phong phú, đa dạng với các chất liệu khác nhau đồng, đá, thuỷ tinh,
gốm sắt, nhiều nhất là đồ đồng
1.2. Đặc trưng cơ bản: Từ duy trì khảo cổ đến giá trị đặc trưng văn hóa
 Có tính thống nhất trong đa dạng
 Nền văn hóa lúa nước phát triển, thực phẩm dồi dào và có dự trữ dần, dẫn
đến sự phân cấp xã hội
 Kỹ thuật đúc đồng phát triển, đỉnh cao là trống đồng Đông Sơn
 Kỹ thuật về quân sự với đinh cao là thành Cổ Loa (thành, mũi tên đồng và
nỏ)
 Sự tổ chức cộng đồng hoàn chỉnh theo phương thức xã thôn tự trị, đỉnh cao
là sự thành lập nhà nước Văn Lang
1.3. Hiện vật của văn hóa Đông Sơn
 Vũ khí: Rìu, giáo, lao, dao găm, búa chiến, mũi tên
 Công cụ sản xuất: Rìu, lưỡi cày, cuốc, lưỡi dao gặt.,,,
 Đồ dùng sinh hoạt: Thạp, thố, bình, khay, đĩa, chậu, âu, muôi, thìa…
 Nhạc cụ: Chuông, trống, lục lạc…
 Trang sức: Vòng, khuyên tai, hạt chuỗi, trâm, khóa thắt lưng…

*Phương thức sản xuất:

+ Sản xuất công nghiệp lúa nước phát triển

4
+ Sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh mẽ và chủ đạo + săn bắn, hái lượm bổ trợ
cho sinh hoạt sống.

+ Phát minh ra kỹ thuật luyện kim, làm ra số lượng sản phẩm lớn nhiều chủng loại

+ Năng suất nông nghiệp khá, kỹ thuật canh tác thuần thục, đã biết “đao canh thuỷ
nậu”, sản xuất theo mùa (2 mùa), gieo trồng nhiều loại lúa và rau quả khá đa dạng.

+ Biết làm thuỷ lợi nhỏ, biết dẫn thuỷ nhập điền => đồng ruộng có mực nước phù
hợp với nhu cầu phát triển của cây lúa trong từng giai đoạn + bón phân

+ Chăn nuôi trâu, lợn, gà…với vị trí quan trọng: dùng làm sức kéo, làm nguồn
thực phẩm,…

+ Nông cụ đa dạng: cuốc, xẻng, mai, thuổng, đặc biệt là lưỡi cày đồng. Các nghề
thủ công đặc biệt phát triển như nghề mộc, nghề làm đồ gốm, nghề dệt,...

+ Đồ đồng phong phú, độc đáo, chủ yếu là hợp kim đồng, thiếc, chì, đồ gốm mỗi
vùng có một phong cách riêng có tiến bộ về chất liệu, kỹ thuật tạo hình, tạo dáng
và trang trí.

*Văn hóa sinh hoạt vật chất

+ Mô hình bữa ăn là cơm - rau - cá, trong đó cơm và rau là món ăn chủ đạo.

+ Trang phục có nhiều nét riêng độc đáo. Bằng tơ tằm, gai, bông,… Trang phục
rộng, thoải mái, màu gần với màu bùn đất để phù hợp với lao động đồng áng

+ Nhà sàn phù hợp với địa hình núi không bằng phẳng, hợp với không gian sống
củng Việt đương thời. Nhà ở là nơi sinh hoạt cộng đồng => Tình làng nghĩa xóm,
tối lửa tắt đèn

+ Phương tiện đi lại: sử dụng thuyền bè nhiều hơn đi bộ, vì chủ yếu là địa hình
sông nước, kênh rạch. Phương tiện đa dạng: thuyền, bè, ghe, mảng Đường bộ dùng
voi, trâu,…

*Văn hóa sinh hoạt tinh thần: đã phát triển tư duy, nhận thức cao

 tín ngưỡng (chưa có tôn giáo): tín là tin, ngưỡng là vọng. Tín ngưỡng là tự
tin ngưỡng vọng. trống đồng đông sơn, mặt trời tia nắng xuyên qua lá được
đục lỗ, thờ cúng tự nhiên
 lễ tết, lễ hội: Tết là từ Tiết, mỗi tiết mở đầu một chu kỳ có các tiết khác nhau
trong năm, diễn ra vào mùa thu khi đã gặt hái xong mùa màng

5
+ Đã có tri thức thiên văn học. Họ đã hình thành một vũ trụ quan sơ khai, định vị
mặt trời là trung tâm và có hành tinh khác quay xung quanh => vòng tròn đồng
tâm tr Đồng

+ Về nhận thức thế giới: tư duy âm-dương lưỡng phân, lưỡng hợp được hình
thành: đàn ông-đàn bà, núi-biển,…

+ Về văn hóa nghệ thuật: nghệ thuật âm nhạc, tạc tượng, kiến trúc đã hình thành

+ Về chữ viết: được chạm khắc trên các công cụ, vũ khí đồng thau, các đường nét
còn sơ lược những khúc chiết rõ ràng

+ Về kỹ thuật qsu: phổ biến, đa dạng về loại hình và số lượng độc đáo về hình
dáng

+ Về tín ngưỡng: phát triển tín ngưỡng vạn vật hữu linh, phồn thực, thờ cúng tổ
tiên cùng thủ lĩnh bộ lạc, vua Hùng

+ Về phong tục: xuất hiện nhuộm răng, ăn trầu, phong tục cưới xin, ma chay,
phong tục lễ hội. Ngoài ra còn có hội mùa, hội cầu, hội nước,…

*Tổ chức xã hội:

+ Xuất hiện chế độ tư hữu và phân chia xã hội thành giai cấp, chủ yếu mẫu hệ

+ Nhà nước Văn Lang được hình thành thuộc thời đại Hùng Vương + nhà nước Âu
Lạc thuộc An Dương Vương.

2. Vị trí của nền văn hóa Đông Sơn trong tiến trình lịch sử của văn hóa VN

 Văn hóa Đông Sơn được coi là văn hoá gốc, văn hoá mẹ của toàn vùng Đông
Nam Á.
 Có vị trí quan trọng trong tiến trình lịch sử dân tộc, tạo nền móng cho sự phát
triển của văn hoá việt nam trong các giai đoạn sau này, ảnh hưởng đến sự hình
thành và phát triển văn hoá khu vực Đông Nam Á
 Vị trí quan trọng trong việc kết nối, trau chuyền, giữ gìn các giá trị vh từ thời kì
đson cho đến hiện nay và tương lai thông qua giá trị của các nền văn hoá này
vẫn đang phổ biến trong thời đại nay: vd việt nam khi đi các quốc gia giới thiệu
về trống đồng đông sơn, văn hoá đông sơn trong lĩnh vực thời trang
 giáo dục niềm tự hào của lớp trẻ về giá trị văn hoá Đông Sơn.

Câu 3: Trình bày những biến đổi của văn hóa Việt Nam trong giao lưu tiếp
biến với văn hoá Trung Hoa.

3.1. Bối cảnh văn hóa lịch sử


6
*Khái niệm: Giao lưu tiếp biến văn hóa là sự gặp gỡ, thâm nhập và học hỏi lẫn
nhau giữa các nền vh. Trong quá trình này, các nền vh bổ sung, tiếp nhận và làm
giàu cho nhau, dẫn đến sự biến đổi, ptr và tiến bộ văn hoá.

- Giao lưu tiếp biến văn hoá vn và vh trung hoa là sự giao lưu, tiếp biến liên tục
qua nhiều thời kì của lịch sử. Vị trí địa lý và những diễn biến của lịch sử đã tạo
điều kiện gặp gỡ và tiếp xúc thường xuyên giữa văn hóa VN và vh trung hoa.

- Không thể phủ nhận ảnh hưởng của vh trung hoa đối với vh vn là rất lớn. Nhưng
vh dân tộc vn vẫn còn tồn tại và ptr, vẫn khẳng định được bản sắc vh của mình.

- Thời kì nghìn năm Bắc thuộc kéo dài từ năm 179 trước công nguyên tới năm
938 với chiến thắng của Ngô Quyền, người Việt chưa bao giờ chịu khuất phục.
Trong diễn trình lịch sử văn hóa bên cạnh xu hướng Hán hóa là xu hướng chống
Hán hóa mạnh mẽ, giữ gìn bản sắc của dân tộc Việt, văn hóa Việt.

- Cùng với việc xâm lược lãnh thổ, nhà Hán và sau này là các triều đại tiếp theo
của phong kiến phương Bắc, đã tiến hành đồng hóa về mặt dân tộc và văn hóa.
Trong thời kì này, đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt là đấu tranh để bảo vệ bản
sắc văn hóa của mình, bảo vệ dân tộc mình, chống lại chính sách đồng hóa, đồng
thời vẫn tiếp tục cố gắng phát triển, cố gắng duy trì và nung nấu quyết tâm giải
phóng đất nước, giải phóng dân tộc.

3.2. Quá trình giao lưu tiếp biến diễn ra với 2 hình thức: giao lưu cưỡng bức
và giao lưu tự nguyện

3.2.1. Hình thức giao lưu cưỡng bức

Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỷ I đến thế
kỷ X và từ 1407 đến 1427.

- Suốt thiên niên kỷ thứ nhất sau công nguyên, các đế chế phương Bắc ra sức thực
hiện các chính sách đồng hoá về phương diện văn hoá nhằm biến nước ta trở thành
một quận, huyện của Trung Quốc.

- Từ 1407 đến 1427 là giai đoạn nhà Minh xâm lược Đại Việt. Binh lính vào nước
Nam tàn phá khốc liệt. Trừ sách vở và bản in đạo Phật, đạo Lão thì không thiêu
hủy, ngoài ra mọi sách vở khác đều đốt hết. Khắp trong nước, phàm những bia do
người Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận, các bia còn lại bị
phá hủy tất cả. Hệ quả là 950 ngôi chùa bị phá, 84000 tòa bảo tháp không còn, An
Nam tứ đại khí bị nung chảy.

3.2.2. Hình thức giao lưu tự nguyện

7
Trước thời kỳ Bắc thuộc đã từng diễn ra giao lưu tự nhiên giữa tộc người Hán với
cư dân Bách Việt. Đó là sự giao lưu tiếp biến hai chiều, học hỏi lẫn nhau giữa
các nền văn hóa. Trong nền vh ds, ngta nhận thấy khá nhiều di vật của vh ph. Bắc
nằm cạnh những hiện vật của văn hoá ds như đồng tiền thời Tần Hán, tiền ngũ thủ
đời hán, các dụng cụ sinh hoạt của quý tộc hán như gương đồng, ấm đồng… =>
những sản phẩm ấy là kết quả của sự trao đổi, thông thương giữa 2 nước.

→ Hình thức và con đường giao lưu là cưỡng bức nhưng trong quá đó thì ta
thấy có nhiều cái hay nên ta tiếp thu và con đường giao lưu chuyển sang hoà
bình.

3.3. Những biến đổi của VH Việt Nam trong giao lưu tiếp biến với VH Trung
Hoa

Những biến đổi của văn hoá Việt Nam trong giao lưu tiếp biến với văn hoá Trung
Hoa đó là văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần.

*Văn hoá vật chất:

- Người Việt đã tiếp nhận một số kỹ thuật trong sản xuất và sinh hoạt như: kỹ
thuật rèn, đúc sắt, gang để làm ra công cụ sản xuất và sinh hoạt, kỹ thuật dùng
phân để làm tăng độ màu mỡ cho đất, dân gian gọi là “phân bắc”, kỹ thuật xây
cất nơi ở bằng gạch ngói.

- Người Việt cũng học được kinh nghiệm dùng đá đắp đê ngăn sóng biển, biến
cải kỷ làm đồ gốm (gốm tráng men)…. bên cạnh cơm rau cá thì tiếp thu banh bao,
màn thầu, nước tương, xì dầu; nhà chen nón lá, nhà sàn còn tồn tại thể hiện sự
vượt thoát văn hoá người trung hoa.

*Văn hoá tinh thần: Việt Nam tiếp nhận một số phong tục trong văn hoá Trung
Quốc, đặc biệt là hệ thống lễ Tết do ảnh hưởng của thể thức nho giáo nên chúng
tôn vinh tết nguyên đán, có những lễ hội thờ thành hoàng có nguồn gốc từ TQ.

- Việt Nam tiếp nhận ngôn ngữ của người trung hoa (cả từ vựng và chữ viết, tiếp
thu hệ tư tưởng trung hoa cổ đại (Nho gia, Đạo gia) trên tinh thần hỗn dung, hoà
hợp với tín ngưỡng bản địa và các tư tưởng khác, mô phỏng hệ thống giáo dục
theo tinh thần Nho giáo, tiếp nhận 1 số phong tục lễ Tết, lễ hội,..

Tuy nhiên cách tiếp nhận của Việt Nam rất thông minh và linh hoạt. Hệ thống lễ
Tết của Việt Nam thực sự là “vỏ Tàu lõi Việt”, bởi sự khác biệt trong thế ứng xử
của người Việt Nam với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.

VD: Tết Nguyên Đán là một ví dụ tiêu biểu: trong văn hoá Việt Nam ngày Tết
này không thể thiếu “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ - Cây nêu tràng pháo, bánh
8
chưng xanh”. Ngày 15/1 ở Trung Quốc là lễ hội đèn lồng, ở Việt Nam là ngày tết
Thượng Nguyên.

3.4. Liên hệ thực tiễn

Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một yêu
cầu cần thiết trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
hội nhập quốc tế. Phương hướng phát triển này vừa giữ gìn và phát huy được bản
sắc và bản lĩnh văn hóa dân tộc, vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để phát
triển không ngừng, đạt tới trình độ tiên tiến của các nước trong khu vực và thế
giới.

→ Có tiếp biến làm giàu cho văn hoá dân tộc nhưng vẫn giữ bản sắc dân tộc

- Giải pháp: không bài trừ, bài xích văn hoá trung hoa mà không lệ thuộc, không
rập khuôn để làm giàu

Câu 4: Trình bày diện mạo văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần.

1. Bối cảnh lịch sử

- Trong lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam, thời đại Lý – Trần là thời
đại phát triển hưng thịnh bậc nhất của dân tộc ta. Triều Lý (1009 – 1226) và Triều
Trần (1226 – 1400) là hai triều đại lớn trong lịch sử dân tộc ta, đây được xem là
một giai đoạn lịch sử oanh liệt nhất thời trung đại, giai đoạn mà dân tộc ta đã
vươn lên mạnh mẽ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, viết nên những
trang sử chói lọi trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước.

- Ở Thời Lý – Trần, nhà nước phong kiến củng cố và phát triển chế độ trung ương
tập quyền, nhiều cải cách về chính trị, kinh tế, quân sự được áp dụng đã đem lại
những thành quả rực rỡ về nhiều mặt. Trên cơ sở của nền kinh tế – chính trị đó,
văn hoá, tư tưởng của dân tộc cũng được phát triển mạnh mẽ. Văn hoá Lý Trần
mở đầu cho thời kỳ văn hoá Đồng Việt và là thời kì đạt được nhiều thành tựu cơ
bản góp phần khởi điểm bản sắc văn hoá dân tộc.

2. Diện mạo văn hóa

2.1. Văn hóa vật chất

*Những công trình nổi bật:

- Thành tựu lớn nhất của thời kì này là xây dựng được kinh thành Thăng Long.
Kinh đô Thăng Long được xây dựng ven bờ sông Hồng, nơi trung tâm trời đất.

9
- Những ngôi chùa được xây dựng rất nhiều, chùa thường gắn với nước non, sông
núi, mây trời. Một số ngôi chùa nổi tiếng được xây dựng ở thời kì này như: Chùa
Diên Hựu (Một Cột), chùa Phật Tích, chùa Yên Tử,....

- Văn Miếu – Quốc Tử Giám được khởi công xây dựng từ thời Lý (1070) là một
quần thể kiến trúc tiêu biểu cho sự ảnh hưởng của Nho giáo vào nước ta.

*Kiến trúc:

- Kiến trúc Phật giáo thời Lý – Trần luôn tạo ra một không gian kiến trúc thâm
nghiêm phù hợp với triết lý phật giáo.

- Hình tượng đặc trưng là con rồng thời Lý – Trần thể hiện tín ngưỡng thờ Nước,
cầu mong mưa thuận gió hòa. Rồng thời Lý – Trần có thân dài, uốn lượn mềm
mại. Rồng ở đây đã được thần thánh hóa, đồng nghĩa với Mặt trời, với sức mạnh
vũ trụ mây, mưa, sấm chớp để phù hộ đất nước thái bình, toàn dân no đủ.

- các nghề thủ công mĩ nghệ khá phát triển, các sản phẩm gốm gồm nhiều màu sắc,
hoạ tiết trang trí đặc sắc được những người thợ khéo tay, thông minh đời Lý làm
ra.

2.2. Văn hóa tinh thần

*Đạo Phật:

+ Phật giáo phát triển khắp mọi nơi, tư tưởng giáo lý Phật giáo ngấm sâu vào suy
nghĩ, tình cảm và cuộc sống của mọi tầng lớp dân chúng.

+ Các làng quê chỗ nào cũng có chùa, nhà sư là tầng lớp trí thức có uy tín đối với
dân chúng. Ngôi chùa trở thành trung tâm văn hóa ở kinh đô và các xóm làng,
đồng thời là trung tâm dạy học, nơi hội họp dân chúng, tổ chức lễ hội.

+ Phật giáo triều Lý là một cơ cấu giáo dục hoàn chỉnh, trung ương có Đại sư -
một chức vụ cao cấp, Ở các chùa có tăng trụ trì, đồng thời kiêm việc dạy học,
truyền bá kinh sách

=> Tư tưởng chính trị và tâm linh tín ngưỡng của người dân Đại Việt thời Lý -
Trần là sự kết hợp hài hòa giữa Nho – Phật – Đạo.

*Nho giáo

Vào nửa đầu thế kỷ XI, dưới triều vua Lý Thái Tông (1028-1054), giặc giã nổi lên
khắp nơi. Nhà vua và các nhà tư tưởng uyên bác đương thời đã nhận ra hạn chế
của Phật giáo và tính ưu việt của triết lý Nho giáo trong việc trị quốc. Chính vì

10
vậy, Nho học được du nhập mạnh mẽ hơn, dần dần phát huy ảnh hưởng đến đời
sống xã hội cùng với Phật giáo và Lão giáo.

*Văn hóa giáo dục thời Lý :

- Vua Lý Nhân Tông đã không ngừng mở mang việc học tập, thi cử, và coi đây là
một việc hệ trọng của quốc gia.

- Năm 1075, vua mở khoa thi Nho học đầu tiên. Nho giáo ngày càng được đề cao,
nho học ngày càng được suy tôn.

- Năm 1076, vua Lý Nhân Tông cho mở Quốc Tử Giám để đón nhận con em các
quý tộc, quan lại cao cấp vào học. Đây là trường đại học đầu tiên của nước ta.

=> Ở triều Lý, nền văn hoá giáo dục từ nguyên sơ, tản mạn đã được phát triển
lên một trình độ cao hơn, cả về lĩnh vực vật chất và tinh thần. Một tầng lớp nho sĩ
được đào tạo theo ý thức hệ nho giáo bắt đầu xuất hiện, đó là những con người
xuất sắc cả về trí tuệ, phẩm chất và tài năng, góp phần khẳng định những giá trị
văn hoá truyền thống: Đề cao độc lập dân tộc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ thiêng
liêng, bất khả xâm phạm, ca ngợi ý chí kiên cường bất khuất, cần cù chịu khó,
đoàn kết trong lao động sản xuất và chiến đấu...

- Giáo dục, thi cử trở thành một lĩnh vực trọng yếu để xây dựng nền tảng chính
trị, tuyên truyền, động viên và tổ chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ của nhà
nước phong kiến, đồng thời cũng là con đường ngắn nhất, có hiệu quả nhất để trí
thức hoá bộ máy cầm quyền phong kiến. Chỉ có thông qua giáo dục, thi cử một
cách nghiêm túc, vai trò trị quốc của giai cấp phong kiến mới được khẳng định.

*Văn hóa giáo dục Thời Trần: ( 1225 – 1400 )

- Năm 1232, vua Trần Thái Tông mở kỳ thi đại khoa đầu tiên dưới triều Trần.

- Năm 1267, vua Trần Thánh Tông cho chọn những nho sinh hay chữ để bổ vào
quán, các, sảnh, viện, công bằng với tất cả những người có tài, văn hay chữ tốt.

- Năm 1304, vua Trần Anh Tông (1293-1314) tổ chức và cải cách kỳ thi Thái học
sinh theo thể lệ mới, quy chế thi vô cùng nghiêm ngặt. Từ đây, các nhân tài đất
nước càng được trọng dụng và gắn bó với triều đình phong kiến hơn.

- Vua Trần Thuận Tông (1388-1398), đã tiếp tục cải tạo giáo dục và đưa việc thi
tuyển vào nề nếp chặt chẽ hơn trước, vua quy định lệ thi 3 cấp: thi Hương, thi Hội,
thi Đình.

11
=> Bước sang thời Trần, nhìn chung việc học hành thi cử đã tiến bộ hơn triều Lý.
Hệ thống trường học đã được thiết lập và mở rộng từ trung ương đến các địa
phương, thể lệ thi cử ngày càng chặt chẽ và chất lượng. Tầng lớp trí thức nước ta
ở thời kỳ này tiếp thu Nho học và cải biến nó theo tinh thần dân tộc, góp phần giữ
vững bản sắc văn hoá dân tộc, khẳng định truyền thống Việt Nam, cốt cách Việt
Nam ngang tầm với các quốc gia láng giềng.

*Văn hóa nghệ thuật:

Từ thời đại Lý – Trần, nền văn hóa nghệ thuật, văn chương Bác học đã được phát
triển có hệ thống, đạt đến đỉnh cao trên mọi phương diện. Những tác phẩm tiêu
biểu: Thiên đô chiếu, Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ,….

*Quân sự

- Trong thời đại Lý – Trần, nghệ thuật quân sự đã phát triển thành một nền văn hóa
quân sự với những nguyên tắc, nguyên lý chặt chẽ được thế hiện qua sách vở và
thực hiện trong các trận đánh tiêu diệt quân xâm lược như: kế sách: Tiên phát –
Chế nhân (tấn công để phòng thủ), sách Binh Thư yếu lược. Trong 3 lần đụng độ
với giặc Nguyên Mông, Trần Quốc Tuấn đã đề ra kế sách Rút lui chiến lược trong
cả 3 lần để bảo toàn lực lượng và làm hao tổn ý chí, sức mạnh của kẻ địch

- Văn hóa quân sự của thời đại này là tư tưởng quân sự của người phương Nam
chống lại người phương Bắc, của cư dân nông nghiệp chiến đầu với người du
mục, của chính nghĩa đấu tranh với phi nghĩa, của ít địch nhiều, của yếu chống
mạnh.

*Tinh thần yêu nước :

Tinh thần yêu nước thiết tha là một đặc điểm nổi bật ở thời đại Lý Trần, tinh thần
yêu nước ấy luôn luôn được thể hiện trong các tác phẩm văn học, sử học, trong
mỗi bài thơ, bài hịch, bài chiếu của các nhà sư, nho sĩ, tướng quân hoặc vua chúa.

4.3. Những ảnh hưởng của văn hóa thời Lý - Trần tới xã hội ngày nay, liên hệ
trách nhiệm thế hệ trẻ.

Ở thời đại Lý Trần, Đạo Phật rất phát triển và còn ảnh hưởng rõ nét cho tới ngày
nay. Rất nhiều ngôi chùa trên cả nước được xây dựng tại thời đại này vẫn giữ
nguyên giá trị văn hóa cho đến thời điểm hiện tại. Có những ngôi chùa đã bị tàn
phá bởi thời gian và chiến tranh đã được nhà nước và nhân dân ta phục dựng và
đặc biệt là vẫn giữ được những nét kiến trúc đặc trưng nhất. Một số ngôi chùa
được xây dựng thành khu du lịch văn hóa tâm linh, giúp quảng bá nền văn hóa và

12
nét đẹp của Việt Nam với bạn bè quốc tế. Các công trình ấy cũng là niềm tự hào
của người dân việt nam

Tín ngưỡng sùng bái đạo Phật vẫn là một nét văn hóa đẹp được nhân dân ta
duy trì cho tới ngày nay. Đi chùa vào các dịp lễ Tết là một nét đẹp văn hóa, một
tục lệ không thể thiếu của nhân dân.

Văn hóa giáo dục thời Lý Trần có những bước phát triển vượt bậc và là tiền đề,
nền móng cho nền giáo dục của nước ta hiện nay.

Những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần là tài sản quý báu của dân tộc. Do đó,
thế hệ trẻ Việt Nam nói chung và sinh viên nói riêng phải không ngừng tìm hiểu về
văn hóa nước nhà, chỉ khi hiểu sâu sắc hóa dân tộc, ta mới yêu văn hóa nước ta,
mới trân trọng những giá trị văn hóa quý báu mà ông cha ta đã xây dựng, giữ gìn
cho tới ngày nay và phát triển văn hóa nước ta ngày càng phong phú, giàu đẹp.

Câu 5: Trình bày đặc điểm hệ thống tín ngưỡng Việt Nam. (tr.165)

*Khái niệm tín ngưỡng

- Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ
nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về
tinh thần cho cá nhân và cộng đồng.

*Đặc điểm của tín ngưỡng:

Trong đời sống văn hóa Việt Nam, hệ thống tín ngưỡng về cơ bản gồm: tín
ngưỡng thờ các thần tự nhiên (tín ngưỡng vạn vật hữu linh), tín ngưỡng phồn thực,
tín ngưỡng thờ cúng Tổ Tiên, tín ngưỡng thờ thần Thành hoàng làng, tín ngưỡng
thờ Mẫu. Tín ngưỡng Việt Nam giống như các bộ phận khác của văn hóa Việt
Nam đề mang những đặc trưng của văn hóa nông nghiệp đó là:

· Tôn trọng và gắn bó mật thiết với thiên nhiên: Thể hiện ở tín ngưỡng sùng bái tự
nhiên.

· Hài hòa âm dương: thể hiện ở các đối tượng thờ cúng: Trời – Đất, Tiên – Rồng,
ông đồng – bà đồng…

· Đề cao phụ nữ: Thể hiện ở rất nhiều nữ thần như các Mẫu Tam phủ ( Bà Trời –
Đất – Nước), Mẫu Tứ phủ (Bà Mây – Mưa – Sấm – Chớp)…

· Tính tổng hợp và linh hoạt và hệ quả là tôn giáo đa thần chứ không phải độc thần
như trong nhiều tôn giáo khác.

1. Tín ngưỡng thờ các thần tự nhiên:


13
- Từ xa xưa, người việt cổ đã thờ thần mặt trời – vị thần làm ra ánh sáng, hơi ấm,
làm ra mưa thuận gió hoà – phù trợ cho cuộc sống của cư dân nông nghiệp trồng
lúa nước.

- Ngoài việc thờ cây, người việt cũng thờ 1 số loài động vật. Tiêu biểu nhất là tín
ngưỡng thờ con Rồng. Hình ảnh con rồng là 1 hình ảnh biểu trưng, ước lệ được
cấu thành từ 3 con vật có thật trong đời sống tự nhiên: rắn nước, cá sấu và loài
chim sống ở vùng sông nước. => rồng vừa mang đặc tính của loài sống dưới nước
biết bơi, vừa mang đặc tính của loài chim, biết bay lượn trên trời. Ngoài ra, nhân
dân miền duyên hải thờ cá Ông (cá voi cứu người bị nạn trên biển), đồng bào Nam
Bộ thờ Ông cả Cọp (con hổ) …. Đó là bởi gắn bó với môi trường tự nhiên của
vùng sống nước mênh mang, con người muốn tìm một điểm tựa tâm linh để củng
cố niềm tin và sức mạnh cho chính mình.

2. Tín ngưỡng phồn thực:

- Thờ các hình ảnh sinh thực và tôn vinh hành vi tính giao. Nó hoá thân vào
trong các trò chơi, trong tập tục, điêu khắc, văn chương,…

- Khi đi vào văn hoá Chăm Pa, nó hỗn dung với tôn giáo, thể hiện bằng hai hình
tượng điêu khắc Linga và Yoni – biểu trưng cho đấng sáng tạo, sinh sôi sự sống.

- Ý nghĩa văn hoá của tín ngưỡng này ở chỗ: thể hiện ước nguyện chính đáng và
phác thực của những cư dân nông nghiệp cổ cầu cho mùa màng bội thu, con
người và vật nuôi sinh sôi nảy nở, khỏe mạnh, tự nó mang tinh thần nhân văn sâu
sắc, thể hiện sức sống, niềm lạc quan của con người.

3. Tín ngưỡng thờ Mẫu:

- Trong vh VN truyền thống, tín ngưỡng thờ Mẫu không đồng nhất với tín ngưỡng
thờ thần nữ. Tục thờ thần nữ đã có mặt ở VN từ rất xa xưa với nhiều hình ảnh
thuộc Nhiên thần và Nhân thần. Ví dụ: thờ Mẹ Âu Cơ – một hình tượng người Mẹ
sinh ra con Rồng cháu Tiên trong huyền thoại, thờ Bà Dâu, Bà Tướng, Bà Đậu, Bà
Giản – vốn là những Nhiên thần (thần mây, thần mưa, thần sấm, thần chớp) phù
trợ cho cuộc sống của những cư dân nông nghiệp trồng lúa nước vùng đồng bằng
bắc bộ. Còn Nhân thần bao gồm những vị nữ thần trong huyền thoại và trong lịch
sử như: Mẹ Âu Cơ, mẹ Gióng, Hai Bà Trưng…..Tất cả được nhân dân tôn vinh là
Thần, Tiên, Thánh hết. Nhưng trong đó chỉ có một số nhất định mới được tôn vinh
là Mẫu mà thôi. Tín ngưỡng (hay còn gọi là Đạo) thờ Mẫu ra đời từ đó. Tín
ngưỡng Mẫu xuất phát từ một thứ tín ngưỡng phổ quát rộng hơn là thờ thần nữ,
thờ tính Nữ mà mức độ cao nhất của nó là tính Mẫu – tính Mẹ. Rất nhiều những
biểu hiện sinh động chứng minh cho nguyên lý Mẫu tính, thí dụ như việc đặt tên

14
đất, tên làng, tên núi, tên sông hễ cứ có tên người Nam là phải có tên người Nữ
(Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…)

Tính Mẹ hay tính Mẫu thể hiện ở sự sinh sôi, chở che, nuôi dưởng và lưu giữ. Nó
chính là lòng bao dung, nhân từ, hiền hòa. Với tư cách là một dân tộc, nó là khát
vọng hòa bình, là lòng độ lượng, vị tha, chăm lo cho tất thảy mọi người, ngay cả
với kẻ thù khi chúng thua trận.

4. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên

- cơ sở xuất phát của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trước hết là từ niềm tin về sự bất
tử của linh hồn: tin rằng con người có phần hồn và phần xác, khi chết đi con
người chỉ chết về phần xác còn phần hồn sống mãi. Ông bà ở nơi chín suối nhưng
vẫn thường xuyên đi về thăm hỏi con cháu, phù hộ độ trì cho con cháu. Cơ sở xã
hội nữa rất quan trọng đối với người Việt đó là đạo lý uống nước nhớ nguồn, là
lòng tri ân của con cháu đối với ông bà tổ tiên đã tạo dựng hình hài và vóc dáng,
đã ban tặng cho con người sự sống. => tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên là tín ngưỡng
thiêng liêng, thể hiện tính nhân bản của người VN, thể hiện lòng biết ơn của người
sống với người đã khuất và có ý nghĩa triết lý sâu sắc. Với người VN, đất có thổ
công, sông có Hà bá nên trong gd người việt có tín ngưỡng thờ thần Thổ công
cùng với thờ cúng Tổ tiên. Thổ công định đoạt phúc hoạ trong gia đình nên là vị
thần rất quan trọng. Ông bà Tổ tiên sinh thành nên được tôn kính nhất. Tổ tiên ngự
ở bàn thờ tôn kính nhất – gian giữa. Thổ công ở bên trái, thổ thần địa vị kém
nhân thần nhưng quyền lực lớn hơn và được coi là đệ nhất gia chi chủ, quyết định
phúc hoạ cho mỗi gia đình. Bàn thờ của Tổ tiên trong gd người Việt thường được
thắp hương, cúng lễ vào dịp giỗ kị và ngày Tết. Thái độ thành kính của con người
cho thấy thờ cúng tổ tiên không chỉ xuất phát từ niềm tin về sự bất tử của linh hồn,
cốt lõi của tín ngưỡng này nằm chính ở đạo lý uống nước nhớ nguồn của người
việt, biểu hiện sự tri ân sâu sắc của con cháu đối với ông bà, cha mẹ. Giỗ tổ hùng
vương đã trở thành ngày giỗ trọng đại của cả dân tộc, đã in đậm trong cõi tâm linh
của mỗi người dân việt. Dù ở phương trời nào, ng VN đều nhớ ngày giỗ Tổ. Từ
ngàn đời qua, đền hùng là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công lao các vua hùng, là biểu
tượng của khối đại đoàn kết dân tộc VN, minh chứng cho sự kết nối giữa gd – gia
tộc và dân tộc.

5. Tín ngưỡng thờ thần Thành Hoàng Làng

- nơi thờ thần Thành Hoàng làng là đình làng, vốn có nguồn gốc từ đình dịch,
đình trạm, đình quán, về sau được linh thiêng hoá thành nơi thờ vị thần quyết định
phúc hoạ cho cả làng. Thần thành hoàng không phải là nhiên thần mà là nhân thần,
vốn có nguồn gốc hiện thực gần gũi với đời sống con người, là những người có
công lập làng, những ông tổ nghề đã đem đế phương thức sống cho dân làng. Điều
15
này cho thấy lòng tri ân của dân làng đối với những người đã mở làng, truyền
nghề cho dân làng.

*Liên hệ thực tiễn:

Bước vào thời kỳ đổi mới, mở cửa hội nhập, quan điểm, chính sách về tín ngưỡng
tôn giáo của Đảng và Nhà nước có nhiều đổi mới được ghi nhận qua Nghị quyết
24-NQ/TW (1990) của Bộ Chính trị về vấn đề tôn giáo. Nhờ chính sách đổi mới,
đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa tư tưởng của Nhân dân có nhiều thay đổi theo
hướng tích cực. Cùng với đó là đời sống tinh thần, tín ngưỡng tôn giáo của người
dân được tự do cởi mở hơn, nhiều loại hình, sinh hoạt tín ngưỡng trước đây ít
nhiều bị mai một ngày được phục hồi, bảo tồn, phát triển. Nhiều lễ hội tín ngưỡng
được phục hồi, phát triển với tổng số khoảng 7000 lễ hội gắn với tín ngưỡng (trong
tổng số gần 8000 lễ hội).

Với sự phục hồi của nhiều sinh hoạt tín ngưỡng cũng đã góp phần làm cho văn hoá
truyền thống được bảo tồn, phục hưng, tạo nên bức tranh đa diện của văn hoá Việt
theo hướng kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Thông qua các hoạt động ở di
tích, việc giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp của quê hương, đất nước
là chất keo kết dính, biểu dương sức mạnh của cộng đồng, thấm đượm đạo lý
“Uống nước nhớ nguồn”, hướng về cội nguồn dân tộc. Hoạt động tín ngưỡng giúp
người dân cân bằng đời sống tâm linh, tinh thần, là dịp vui chơi giải trí, bảo tồn,
sáng tạo văn hóa, giáo dục con người về lịch sử, tinh thần yêu nước…

Bên cạnh đó, những hoạt động của tín ngưỡng cũng phát sinh không ít những biểu
hiện mê tín dị đoan, lợi dụng vì mục đích vụ lợi cá nhân, “buôn thần bán thánh”,
biến tướng lệch lạc gây phản cảm, tốn kém tài chính, tổn hại sức khỏe, trái quy
định pháp luật.

Câu 6: Trình bày ý nghĩa văn hóa của lễ hội truyền thống Việt Nam?

Khi nước ta cũng như ở nhiều nước khác đã bước vào công nghiệp hoá, hiện đại
hóa nhưng lễ hội cổ truyền vẫn tồn tại thậm chí còn bùng phát mạnh mẽ. Có được
điều đó là do lễ hội cổ truyền hội tụ các giá trị sau:

1. Giá trị cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng:

Lễ hội nào cũng là của và thuộc về một cộng đồng người nhất định, đó có thể là
cộng đồng làng xã (hội làng), cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng đồng tôn
giáo (hội chùa, hội đền, hội nhà thờ), cộng đồng dân tộc (hội Đền Hùng - quốc tế)
đến cộng đồng nhỏ hẹp hơn, như gia tộc, dòng họ... chính lễ hội là dịp biểu dương
sức mạnh của cộng đồng và là chất kết dính tạo nên sự cố kết cộng đồng.

16
Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn kết, như
gắn kết do cùng cư trú trên một lãnh thổ (cộng cư), gắn kết về sở hữu tài nguyên
và lợi ích kinh tế (công hữu), gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối của một lực
lượng siêu nhiên nào đó (cộng mệnh), gắn kết bởi nhu cầu sự đồng cảm trong các
hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá (cộng cảm)… Lễ hội là môi trường góp
phần quan trọng tạo nên niềm cộng mệnh và cộng cảm của sức mạnh cộng đồng.

Ngày nay, trong điều kiện xã hội hiện đại, con người càng ngày càng khẳng định
“cái cá nhân”, “cá tính” của mình thì không vì thế cái “cộng đồng” bị phá vỡ, mà
nó chỉ biến đổi các sắc thái và phạm vi, con người vẫn phải nương tựa vào cộng
đồng, có nhu cầu cố kết cộng đồng. Trong điều kiện như vậy, lễ hội vẫn giữ
nguyên giá trị biểu tượng của sức mạnh cộng đồng và tạo nên sự cố kết cộng đồng
ấy.

2. Giá trị hướng về cội nguồn:

Tất cả mọi lễ hội cổ truyền đều hướng về nguồn. Đó là nguồn cội tự nhiên mà con
người vốn từ đó sinh ra và nay vẫn là một bộ phận hữu cơ; nguồn cội cộng đồng
như dân tộc, đất nước, xóm làng, tổ tiên, nguồn cội văn hoá... Hơn thế nữa, hướng
về nguồn đã trở thành tâm thức của con người Việt Nam - “uống nước nhớ
nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Chính vì thế, lễ hội bao giờ cũng gắn với
hành hương - du lịch.

Ngày nay, trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, tin học hoá, toàn cầu hóa,
con người bừng tỉnh về tình trạng tách rời giữa bản thân mình với tự nhiên, môi
trường; với lịch sử xa xưa, với truyền thống văn hoá độc đáo đang bị mai một.
Chính trong môi trường tự nhiên và xã hội như vậy, hơn bao giờ hết con người
càng có nhu cầu hướng về, tìm lại cái nguồn cội tự nhiên của mình, hoà mình vào
với môi trường thiên nhiên; trở về, tìm lại và khẳng định cái nguồn gốc cộng đồng
và bản sắc văn hoá của mình trong cái chung của văn hoá nhân loại. Chính nền văn
hoá truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là một biểu tượng, có thể đáp ứng
nhu cầu bức xúc ấy. Đó cũng chính là tính nhân bản bền vững và sâu sắc của lễ hội
có thể đáp ứng nhu cầu của con người ở mọi thời đại.

3. Giá trị cân bằng đời sống tâm linh:

Bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tư tưởng còn hiện hữu đời sống
tâm linh. Đó là đời sống của con người hướng về cái cao cả thiêng liêng - chân
thiện mỹ - cái mà con người ngưỡng mộ, ước vọng, tôn thờ, trong đó có niềm tin
tôn giáo tín ngưỡng. Như vậy, tôn giáo tín ngưỡng thuộc về đời sống tâm linh, tuy
nhiên không phải tất cả đời sống tâm linh là tôn giáo tín ngưỡng. Chính tôn giáo
tín ngưỡng, các nghi lễ, lễ hội góp phần làm thoả mãn nhu cầu về đời sống tâm

17
linh của con người, đó là “cuộc đời thứ hai”, đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời
sống trần tục, hiện hữu.

Xã hội hiện đại với nhịp sống công nghiệp, các hoạt động của con người dường
như được “chương trình hoá” theo nhịp hoạt động của máy móc, căng thẳng và
đơn điệu, ồn ào, chật chội nhưng vẫn cảm thấy cô đơn. Một đời sống như vậy tuy
có đầy đủ về vật chất nhưng vẫn khô cứng về đời sống tinh thần và tâm linh, một
đời sống chỉ có dồn nén, “trật tự” mà thiếu sự cởi mở, xô bồ, “tháo khoán”... Tất
cả những cái đó hạn chế khả năng hòa đồng của con người, làm thui chột những
khả năng sáng tạo văn hoá mang tính đại chúng. Một đời sống như vậy không có
“thời điểm mạnh”, “cuộc sống thứ hai”, không có sự “bùng cháy” và “thăng hoa”.

Trở về với văn hoá dân tộc, lễ hội cổ truyền con người hiện đại dường như được
tắm mình trong dòng nước mát đầu nguồn của văn hoá dân tộc, tận hưởng những
giây phút thiêng liêng, ngưỡng vọng những biểu tượng siêu việt cao cả - chân thiện
mỹ, được sống những giờ phút giao cảm hồ hởi đầy tinh thần cộng đồng, con
người có thể phô bày tất cả những gì là tinh tuý đẹp đẽ nhất của bản thân qua các
cuộc thi tài, qua các hình thức trình diễn nghệ thuật, cách thức ăn mặc lộng lẫy,
đẹp đẽ khác hẳn ngày thường... Tất cả đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống hiện
thực, vượt lên trên đời sống hiện thực. Nói cách khác, lễ hội đã thuộc về phạm trù
cái thiêng liêng của đời sống tâm linh, đối lập và cân bằng với cái trần tục của đời
sống hiện thực.

4. Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa:

Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng - văn hoá cộng đồng của nhân dân ở
nông thôn cũng như ở đô thị. Trong các lễ hội đó, nhân dân tự đứng ra tổ chức, chi
phí, sáng tạo và tái hiện các sinh hoạt văn hoá cộng đồng và hưởng thụ các giá trị
văn hoá và tâm linh, do vậy, lễ hội bao giờ cũng thấm đượm tinh thần dân chủ và
nhân bản sâu sắc. Đặc biệt trong “thời điểm mạnh” của lễ hội, khi mà tất cả mọi
người chan hòa trong không khí thiêng liêng, hứng khởi thì các cách biệt xã hội
giữa cá nhân ngày thường dường như được xoá nhoà, con người cùng sáng tạo và
hưởng thụ những giá trị văn hoá của mình.

Điều này có phần nào đối lập với đời sống thường nhật của những xã hội phát
triển, khi mà phân công lao động xã hội đã được chuyên môn hoá, nhu cầu sáng
tạo và hưởng thụ văn hoá của con người đã phần nào tách biệt.

Đấy là chưa kể trong xã hội nhất định, một lớp người có đặc quyền có tham vọng
“cướp đoạt” các sáng tạo văn hoá cộng đồng để phục vụ cho lợi ích riêng của
mình. Đến như nhu cầu giao tiếp với thần linh của con người cũng tập trung vào
một lớp người có “khả năng đặc biệt”. Như vậy, con người, đứng từ góc độ quảng

18
đại quần chúng, không còn thực sự là chủ thể của quá trình sáng tạo và hưởng thụ
các giá trị văn hoá một cách bình đẳng nữa. Xu hướng đó phần nào xói mòn tinh
thần nhân bản của văn hoá, làm tha hoá chính bản thân con người. Do vậy, con
người trong xã hội hiện đại, cùng với xu hướng dân chủ hoá về kinh tế, xã hội thì
cũng diễn ra quá trình dân chủ hoá về văn hoá. Chính nền văn hoá truyền thống,
trong đó có lễ hội cổ truyền là môi trường tiềm ẩn những nhân tố dân chủ trong
sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá ấy.

5. Giá trị bảo tồn và trao truyền văn hóa:

Lễ hội không chỉ là tấm gương phản chiếu nền văn hoá dân tộc, mà còn là môi
trường bảo tồn, làm giàu và phát huy nền văn hoá dân tộc ấy.

Cuộc sống của con người Việt Nam không phải lúc nào cũng là ngày hội, mà trong
chu kỳ một năm, với bao ngày tháng nhọc nhằn, vất vả, lo âu, để rồi “xuân thu nhị
kỳ”, “tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, cuộc sống nơi thôn quê vốn tĩnh lặng
ấy vang dậy tiếng trống chiêng, người người tụ hội nơi đình chùa mở hội. Nơi đó,
con người hoá thân thành văn hoá, văn hoá làm biến đổi con người, một “bảo tàng
sống” về văn hoá dân tộc được hồi sinh, sáng tạo và trao truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Tôi đã nhiều lần tự hỏi, nếu như không có nghi lễ và hội hè thì các làn
điệu dân ca như quan họ, hát xoan...; các điệu múa xanh tiền, con đĩ đánh bồng,
múa rồng, múa lân...; các hình thức sân khấu chèo, hát bội, rối nước, cải lương...;
các trò chơi, trò diễn: Đánh cờ người, chọi gà, chơi đu, đánh vật, bơi chải, đánh
phết, trò trám... sẽ ra đời và duy trì như thế nào trong lòng dân tộc suốt hàng nghìn
năm qua. Và như vậy thì dân tộc và văn hoá dân tộc sẽ đi đâu, về đâu, sẽ còn mất
ra sao?

Đã ai đó từng nói làng xã Việt Nam là cái nôi hình thành, bảo tồn, sản sinh văn
hoá truyền thống của dân tộc nhất là trong hoàn cảnh bị xâm lược và đồng hoá.
Trong cái làng xã nghèo nàn ấy, ngôi đình mái chùa, cái đền và cùng với nó là lễ
hội với “xuân thu nhị kỳ” chính là tâm điểm của cái nôi văn hoá đó. Không có làng
xã Việt Nam thì cũng không có văn hoá Việt Nam.

Điều này càng cực kỳ quan trọng trong điều kiện xã hội công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và toàn cầu hoá hiện nay, khi mà sự nghiệp bảo tồn, làm giàu và phát huy văn
hoá truyền thống dân tộc trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, thì làng xã và lễ hội
Việt Nam lại gánh một phần trách nhiệm là nơi bảo tồn, làm giàu và phát huy bản
sắc văn hoá dân tộc!

Câu 7: Trình bày những đặc trưng văn hóa trang phục của Việt Nam

*Khái niệm văn hóa trang phục:

19
Văn hóa trang phục là văn hóa mặc, là sự tổng hợp những cách mặc, sử dụng phụ
kiện… Thông qua đó con người có thể gửi gắm những quan niệm về thẩm mĩ,
nhân sinh, vũ trụ; thể hiện phong cách riêng của một cộng đồng dân tộc.

* Đặc trưng văn hóa trang phục của Việt Nam

- Tính nông nghiệp truyền thống:

Về chất liệu, trang phục của người Việt chủ yếu được chế tác từ các loại cây cối
như tơ cây chuối, cây gai, bông, nuôi tằm lấy kén dệt vải. Về màu sắc, người Việt
chủ yếu dùng màu nâu hoặc đen, màu gần với màu bùn đất, phù hợp với công việc
lao động đồng áng.

Ngay từ những buổi đầu lịch sử, người Việt đã biết tận dụng các chất liệu tự
nhiên để tạo nên trang phục cho mình. Chất liệu mà người Việt cổ sử dụng ban
đầu là vỏ cây, lá cây, những sợi dây rừng. Sau này, người ta bắt đầu sử dụng cây
gai, cây bông, trồng dâu nuôi tằm lấy kén để dệt vải.

Sau đó, họ bắt đầu biết tạo ra màu sắc để trang phục không chỉ giúp con người
che nắng, che mưa mà còn để con người làm đẹp cho chính mình. Kỹ thuật nhuộm
vải ra đời, ban đầu là “Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn”, sau này, những màu
sắc được tận dụng và chế biến từ tự nhiên. Màu đen từ lá tre đốt mà thành, màu
xanh từ lá cây, nhựa cây hoặc từ rỉ đồng, màu vàng từ gạch non hoặc từ cây
dành dành…

- Tính linh hoạt (trang phục phù hợp lao động):

Theo chủng loại và chức năng, trang phục gồm có đồ mặc phía trên, đồ mặc phía
dưới, đồ đội đầu, đồ đi chân và đồ trang sức. Theo mục đích, có trang phục lao
động và trang phục lễ hội. Theo giới tính, thì có sự phân biệt trang phục nam và
trang phục nữ. Văn hóa trang phục vô cùng linh hoạt, người ta mặc những bộ trang
phục thích hợp với hoàn cảnh, tính chất nghề nghiệp, môi trường sinh hoạt đa dạng
của từng người.

Như vậy, trong việc trang phục, người Việt Nam đã ứng xử rất linh hoạt để ứng
phó với môi trường tự nhiên, còn luôn hướng tới mục đích làm đẹp cho con người;
đặc biệt người Việt Nam luôn làm đẹp một cách tế nhị, kín đáo. Và sự linh hoạt ấy
vẫn được người Việt áp dụng một cách tinh tế cho đến ngày nay.

- Tính thẩm mỹ:

Nói đến văn hóa trang phục là nói đến văn hóa mặc của con người. Nhưng con
người không chỉ biết mặc cho ấm mà còn biết mặc cho đẹp. Các trang phục được
may theo những tiêu chuẩn quy định, đảm bảo kỹ thuật, tuy nhiên vẫn đảm bảo
thẩm mỹ.
20
Ví dụ, áo yếm của người phụ nữ xuất hiện từ lâu, sau đó cách tân dần và trở thành
trang phục tôn vinh vẻ đẹp cho người phụ nữ. Người đàn ông cũng không bằng
lòng với chiếc khố che thân mà đã tạo ra cho mình bộ quần áo riêng phù hợp với
nhu cầu làm đẹp.

Văn hóa mặc của người Việt ít nhiều chịu tác động và thay đổi khi tiếp xúc với văn
hóa Trung Quốc, thế nhưng, người Việt đã rất tinh tế và linh hoạt khi tiếp nhận
những yếu tố văn hóa ngoại sinh phù hợp với văn hóa mặc truyền thống của mình
để làm phong phú và độc đáo thêm cho văn hóa trang phục dân tộc mà không bị
mất đi quan điểm thẩm mỹ mang tính thời đại.

- Thể hiện địa vị xã hội:

Trang phục còn là dấu hiệu bên ngoài để nhận thấy vị trí xã hội của con người, chỉ
rõ đẳng cấp, nguồn gốc xuất thân của người mặc trang phục. Người ta đã tổng kết:

“Hơn nhau tấm áo manh quần

Thả ra bóc trần, ai cũng như ai”

Người xưa thường dùng chất liệu, màu sắc để phân biệt tầng lớp xã hội. Chẳng
hạn, về chất liệu, tầng lớp quý tộc mặc trang phục bằng chất liệu cao cấp như:
gấm, vóc, đoạn sa...trong khi thường dân sử dụng chất liệu thô sơ hơn. Về màu
sắc, Ở Việt Nam, sử sách ghi chép rằng: Trong quá khứ, màu vàng được sử dụng
khá phổ biến và chỉ dành cho vua chúa để thể hiện sự uy quyền.

Tuy nhiên hiện nay, văn hóa trang phục truyền thống không có sự phân biệt giai
cấp, thể hiện sự bình đẳng trong xã hội

Câu 8: Trình bày những đặc điểm của gia đình người Việt truyền thống.

1. Khái niệm:

- Gia đình là một thực thể xã hội, một giá trị văn hoá đáp ứng nhu cầu tồn tại và
các nhu cầu tinh thần đặc biệt thiêng liêng của con người.

- Gia đình chỉ một cộng đồng người được hình thành và phát triển trên cơ sở hôn
nhân , huyết thống, pháp lý và có mối quan hệ mật thiết với nhau trong sinh hoạt
vật chất và sinh hoạt tinh thần. Điều tiết hành vi ứng xử của các thành viên trong
gia đình là những quy định đã trở thành đạo đức đó là gia quy

2. Đặc điểm của gia đình người Việt truyền thống

- Gia đình truyền thống được xây dựng theo nguyên tắc phong kiến “cha mẹ đặt
đâu con ngồi đấy”, từ nguyên tắc đó dẫn đến cách thức xây dựng gia đình là từ
hôn nhân đi đến tình yêu và hạnh phúc.

21
- Tính chất phụ quyền, gia trưởng của gia đình truyền thống thể hiện ở nhiều khía
cạnh, nhưng tiêu biểu nhất là ở chế độ đa thê.

- Sự gắn kết giữa gia đình và dòng họ.

- Gia đình người Việt trong xã hội cổ truyền có mối quan hệ mật thiết với dòng họ.
Gia đình mạnh thì dòng họ mạnh. Dòng họ chính là gia đình mở rộng và là nơi
nương tựa của con người về cả vật chất và tinh thần

+ Ưu điểm, mặt tích cực: Sự liên minh dòng họ không theo đuổi mục đích kinh tế
mà là sự liên kết để khẳng định sức mạnh với các dòng họ khác và cơ bản để thực
hiện chức năng thờ cúng tổ tiên, bảo tồn, giữ gìn giá trị đạo đức, gìn giữ gia phong.

+ Mặt tiêu cực: sự tranh giành quyền lực, phô trương thanh thế của dòng họ này
đối với dòng họ khác, dẫn đến mất đoàn kết trong họ hàng làng nước

- Coi trọng chức năng tái sản xuất văn hoá tộc người: gia đình phải duy trì nòi
giống , nối dài cây gia phả dòng họ, viết tiếp những trang sử mới cho gia đình và
gia tộc. Bởi người Việt rất quý trọng con người, để có thêm nhân lực trong hoạt
động kinh tế, người

- Gia đình không chỉ sinh con để cái mà quan trọng là giáo dục con cái theo những
thăng bậc và chuẩn mực giá trị văn hoá gia đình, giáo dục tri thức và nhân cách để
từ đó mỗi thành viên trong gia đình sẽ làm rạng danh cho gia tộc, cho cộng đồng
dân tộc.

*Hoạt động kinh tế :

- Do nền sản xuất tiểu nông, gia đình người Việt cổ truyền là một đơn vị sản xuất
nhỏ. Nghề chính của gia đình người Việt là sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên trình
độ canh tác còn ở mức độ nhất định và phụ thuộc vào thiên nhiên nên năng suất
bấp bênh không ổn định

- Cùng với sản xuất nông nghiệp là một số nghề thủ công hoặc buôn buôn bán
nhỏ, hoạt động này phân chia đồng đều cho cả nam và nữ. Tuy nhiên không phải
làng nào cũng có nghề thủ công và hoạt động thương nghiệp cũng chỉ dừng lại ở
mức bán một số nông sản và những vật dụng thiết yếu

· Hoạt động kinh tế gia đình trở thành hoạt động đặc thù mang giá trị văn hóa đạo
đức, khẳng định phẩm chất và năng lực của mỗi thành viên, đồng thời góp phần
khẳng định vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.

*Vai trò của người phụ nữ trong gia đình :

- Thiên chức làm mẹ, làm vợ trong đời sống gia đình

22
+ là vợ : người phụ nữ chia sẻ mọi trách nhiệm, trách nhiệm, gian truân và niềm
hạnh phúc với chồng. Là nguồn động viên khích lệ tinh thần đối với chồng và là
người bảo vệ sự yên ấm trong gia đình

+ là mẹ : công lao sinh thành chín tháng mang nặng đẻ đau, nuôi dạy con cái

- Người phụ nữ có vai trò trong việc giáo dục

- Là cầu nối giữa các thế hệ trong gia đình và giữa gia đình mình với họ hàng

- Tham gia vào quá trình lao động, sản xuất , vừa trực tiếp quản lý kinh tế gia đình,
vừa giữ lửa, giữ nhịp điệu của cuộc sống gia đình

Câu 9: Trình bày những đặc điểm của lễ Tết Việt Nam.

1. Khái niệm lễ tết

Lễ Tết gồm 2 phần: Cúng gia tiên (lễ), ăn uống (tết)

Lễ Tết thiên về vật chất (ăn Tết), giới hạn trong mỗi gia đình, duy trì quan hệ tôn ti
trên dưới giữa các thành viên trong gia đình, những lúc nông nhàn.

2. Căn nguyên hình thành lễ tết

*Theo niên lịch:

Theo thời gian trong năm của dương lịch, người ta lấy năm mặt trời chia
thành 24 phần được gọi là tiết khí.

Một năm có 12 tháng thì có 12 tiết chính và 12 tiết phụ tương ứng với thời
tiết khí hậu từng mùa. Từ tiết biến âm thành Tết, thế nên một năm 12 tháng thì ít
nhất có 12 cái Tết, tháng nào cũng vui như Tết.

*Theo nông nghiệp:

Các pho truyền thuyết rực rỡ cổ xưa và bằng chứng lịch sử chỉ rõ, nhà nước Văn
Lang với Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân - Âu Cơ được suy tôn là thủy tổ
của người Việt, lập nên các triều đại vua Hùng. Ngay từ thời hồng hoang lịch sử
ấy, hoàng tử Lang Liêu đã dùng gạo nếp trắng ngần kết tinh hương thơm trời đất
để làm nên bánh chưng bánh dày dâng lên vua cha.

Kể từ đó triết lý trời tròn đất vuông là hệ vòng quay bốn mùa xuân hạ thu đông
được hình thành, hương thơm lúa nếp thành tinh hoa văn hóa của nền văn minh lúa
nước, Lễ Tết như một mỹ tục đã đi vào đời sống như một biểu tượng văn hóa linh
thiêng. Bánh chưng bánh dày được dâng lên để tạ ơn trời đất, tri ân Tổ tiên để nhớ
cội nguồn, nhớ các vua Hùng đã có công dựng nước để ngày nay có non sông gấm
vóc Việt Nam.
23
- Hệ thống lễ tết Việt Nam: Trong năm, quan trọng nhất là Tết Nguyên đán.
Ngoài ra còn có Tết Trung thu, Tết Đoan Ngọ, Tết Nguyên Tiêu…

• Tết Nguyên Đán

• Tết Thượng Nguyên (Rằm tháng Giêng).

• Tết Trung Nguyên (Rằm tháng 7).

• Tết Hạ Nguyên (Rằm tháng 10).

• Tết Hàn Thực (3/3).

• Tết Đoan Ngọ (05/5).

• Tết Ngâu (7/7).

• Tết Trung Thu (15/8)

• Tết Ông Công Ông Táo (23/12).

3. Đặc điểm của lễ Tết VN (cấu trúc 2 phần lễ và tết, lễ tết là dịp đoàn viên
sum họp....)

*Lễ Tết Việt Nam được phân bổ theo thời gian:

- Theo thời gian trong năm của dương lịch, người ta lấy năm mặt trời chia thành
24 phần được gọi là tiết khí. Một năm có 12 tháng thì có 12 tiết chính và 12 tiết
phụ ứng với thời tiết khí hậu từng mùa. Từ “tiết” biến âm thành Tết nên một
năm có 12 tháng thì có 12 cái Tết.

- Trong văn hóa Việt Nam, chúng ta có đến 12 cái Tết trong năm.

-> Lễ Tết thể hiện mối quan hệ sâu sắc giữa con người với thiên nhiên. Lễ Tết
có ý nghĩa đặc biệt với xã hội mà nền kinh tế dựa vào sản xuất nông nghiệp là
chính. người nông dân gửi gắm vào Lễ Tết lòng tôn kính và tri ân các vị thần linh
có liên quan đến sự được, mất của mùa màng như thần Đất, thần Mưa, thần Sấm,
thần Nước, thần Mặt trời.. Lòng tôn kính ấy được biểu thị thông qua phần Lễ trang
trọng linh thiêng trong Lễ Tết, với những thức dâng xuất phát từ tấm lòng thành
kính, tôn nghiêm.

*Lễ Tết Việt thiên về vật chất:

- Bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh dày tượng trưng cho trời; hương thơm lúa
nếp trở thành tinh hoa văn hoá của nền văn minh nước ta trong mỗi dịp đặc biệt.
Lễ Tết cũng như vậy đi vào đời sống người dân như một biểu tượng văn hóa
linh thiêng.

24
· Lễ Tết thiên về vật chất (ăn Tết), nên ở một số lễ Tết sẽ có một số món ăn, ẩm
thực đặc trưng:

· Tết Hàn Thực: Bánh trôi, bánh chay.

· Tết Đoan Ngọ (tết giết sâu bọ): Bánh tro, cơm rượu nếp, chè trôi nước, thịt vịt.

· Tết Trung Thu: Bánh trung thu

- Thể hiện chiều sâu, giá trị bản sắc văn hoá và tinh hoa dân tộc Việt Nam. Tết
Việt là của dân tộc Việt, từ cách ăn Tết cho đến thức dâng trong lễ Tết đều thể hiện
đậm đà bản sắc văn hoá của nước Việt Nam ta.

*Các lễ Tết diễn ra trong phạm vi không gian gia đình và duy trì tôn ti trật tự
giữa các thành viên trong gia đình.

· Các lễ Tết đều thể hiện lòng kính trọng, biết ơn tới thần linh, tổ tiên. “Uống
nước nhớ nguồn” đã luôn là truyền thống cao đẹp của dân tộc ta; vào các ngày lễ
Tết, chúng ta tạ ơn trời đất, thần linh, tri ân tổ tiên, tưởng nhớ tới những người đã
khuất thông qua các hoạt động thắp hương, dâng lễ,...

· Các lễ Tết luôn mang đến niềm vui, hy vọng, giúp mọi người gắn kết với
nhau, gia đình hòa thuận, giúp họ nạp năng lượng sống bằng những niềm tin tốt
đẹp vào tương lai.

Các lễ Tết không chỉ thuộc về một cộng đồng nhất định mà là nét truyền
thống của toàn nước, toàn dân. Bất cứ người Việt Nam nào đều có thể đón Tết,
dù đang sinh sống tại chính quê hương hay xa xứ.

Câu 10: Trình bày những biến đổi của văn hóa Việt Nam trong quá trình giao
lưu với văn hóa Pháp giai đoạn 1858 – 1945.

*Hoàn cảnh lịch sử:

- Chiều ngày 31/08/1858, Liên quân Pháp – Tây Ban Nha nổ súng tấn công
vào khu vực bán đảo Sơn Trà – Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam. Ngày
25/08/1883, nhà Nguyễn ký hòa ước Hác Măng với Pháp, thừa nhận sự thống trị
của Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Nước ta bị chia cắt thành 3 kỳ.

- Cuộc giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và phương Tây giai đoạn này
càng đậm nét, mở rộng và tập trung vào mối quan hệ Việt – Pháp. Đây là cuộc
giao lưu mang tính chất cưỡng bức, áp đặt. => không chỉ chịu tác động của nhân
tố phương Đông mà phải đương đầu với áp lực chính trị, văn hóa của phương Tây.

1. Văn hóa vật thể

1.1. Kiến trúc đô thị


25
*Ảnh hưởng mạnh mẽ từ phong cách kiến trúc phương Tây:

Kiến trúc đô thị Việt Nam giai đoạn này phát triển mạnh mẽ theo xu hướng
du nhập những phong cách của kiến trúc phương Tây, đặc biệt là kiến trúc Pháp.

- Ở các đô thị lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh, Nam Định,
Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Sài Gòn, Biên Hòa,…):

+ Xuất hiện nhiều loại hình kiến trúc mới: những dãy nhà biệt thự kiểu miền
Nam nước Pháp.

+ Hiện tại vẫn còn nhiều công trình kiến trúc tiêu biểu cho sự ảnh hưởng của
kiến trúc Pháp tại Việt Nam: Bảo tàng Lịch sử Quân sự (phong cách Tiền thực
dân), Nhà Hát lớn Hà Nội (phong cách Tân cổ điển), Nhà Thờ lớn Hà Nội (phong
cách Gothic), Bảo tàng tàng lịch sử Hà Nội (Viễn Đông Bác Cổ - phong cách
Đông Dương),… và nhiều khu nhà cổ, biệt thử cổ.

*Nét kiến trúc truyền thống của dân tộc không biến mất hoàn toàn:

- Trong quá trình thiết kế, thi công có nhiều kiến trúc sư và người lao động
Việt Nam tham gia xây dựng đã cố gắng bảo tồn những nét độc đáo của kiến
trúc cổ truyền Việt Nam:

+ Trường Viễn Đông Bác Cổ (Bảo tàng Lịch sử Hà Nội hiện nay), Bộ
ngoại giao, Phủ toàn quyền Đông Dương: hệ thống cấu trúc nhà có 2 tầng mái,
hệ thống cấu trúc cột – tảng kẻ chân cột, cấu trúc chồng rường, giá chiêng -> dấu
ấn của kiến trúc cổ VN.

1.2. Hệ thống giao thông

Trong công cuộc khai thác thuộc địa ở Việt Nam, người Pháp đã xây dựng hạ
tầng giao thông vận tải để phục vụ cho vận hành bộ máy hành chính và vận chuyển
quân đội đàn áp phong trào nổi dậy.

*Đường sắt:

- Người Pháp đã triển khai xây dựng tuyến đường sắt theo công nghệ đường
sắt của Pháp với khổ đường ray 1 mét, kết nối nhiều khu vực trên khắp cả nước
và cả với các nước lân cận.

- Hàng loạt cây cầu kiên cố cũng được xây dựng để phục vụ cho tàu hỏa và
các loại phương tiện giao thông đường bộ khác. VD: cầu Long Biên.

*Đường hàng không:

- Pháp cũng xây dựng nhiều sân bay dọc khắp cả nước để vận chuyển binh
lính, vũ khí đến các địa điểm trọng yếu. Hệ thống sân bay thời Pháp đến năm 1945
26
tại Việt Nam có khoảng 11 sân bay: Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng, Gia Lâm, Cát Bi,
Bạch Mai, Đồng Hới, Huế, Nha Trang, Cà Mau, Phan Thiết, Sóc Trăng,...

*Đường thủy:

- Ở Việt Nam thời đó, giao thông đường thủy đóng vai trò chủ đạo => Năm
1860, Pháp tuyên bố mở cửa biển cho tàu buôn Pháp tự do vào Sài Gòn: HTGT
đường thủy ở VN được khai thác và phát triển. VD: Cửa biển Đà Nẵng, Cam Ranh
(1862), cảng Hải Phòng (1876), cảng Sài Gòn (1884),…

1.3. Ẩm thực

Một trong những biểu hiện nổi bật của sự kết hợp tinh hoa văn hóa Việt Nam
và văn hóa Pháp chính là trong lĩnh vực ẩm thực.

- Người pháp đã mang rất nhiều nguyên liệu và hương vị tới Việt Nam: khoai
tây, măng tây, cà rốt, hành tây, su su, su hào, bơ, pho mát,…

- Bánh mỳ dài baguette, salad, pa tê, trứng omlette, bít tết (beef steak), sốt
vang, dăm bông (jambon), xúc xích,…

1.4. Trang phục

Văn hóa trang phục thời Nguyễn giai đoạn này cũng bắt đầu có du nhập
những kiểu cách trang phục mới về chất liệu, về kiểu dáng và quan điểm thẩm mỹ.

- Trang phục thông quê giản dị nhường chỗ cho kiểu trang phục mới chốn
thị thành: những ông Tây bà Đầm và giới quý tộc với những chiếc đầm hở cổ, ôm
sát cơ thể và những chiếc giày cao gót; các quý ông thanh lịch trong bộ vest, áo sơ
mi, giày da, mũ phớt.

2. Văn hóa phi vật thể

2.1. Tư duy nhận thức và lối sống

- Tiếp xúc văn hóa phương Tây, tư duy văn hóa truyền thống bị lay động.
Người Việt Nam đã hình thành một cách tư duy mới - tư duy phân tích: Nhìn
nhận sự việc một cách biện chứng hơn

=> Chọn lọc và học tập những giá trị tốt đẹp, vừa bảo tồn được giá trị văn
hóa dân tộc, vừa tiếp nhận hành tựu văn hóa tiến bộ.

- Trong lối sống, người Việt chịu ảnh hưởng của kinh tế hàng hóa => Đồng
tiền chiếm vị trí trọng yếu trong đời sống, tình nghĩa bị lép vế trước lợi nhuận.

- Một mặt tôn vinh bản sắc văn hóa: lễ hội, gia đình, tình làng nghĩa xóm,
đạo thầy trò, sự bao dung, thủy chung nhân hậu.
27
- Mặt khác phê phán hủ tục lạc hậu: thay đổi cách đặt tên -> đặt tên con theo
tên loài hoa, theo ước vọng; đem hoa viếng mộ người đã khuất; thành thị đơn giản
hóa ngày Tết; con cái được tự do, chủ động trong hôn nhân.

2.2. Giáo dục & văn học

- Nhìn nhận về Nho giáo có những điểm mới: Vừa thấy cái hay của Nho
giáo, làm cho nước nhà có kỷ cương, giúp con người tu dưỡng đạo đức. Nhưng
cũng thấy cái yếu là dễ nhu nhược, kỹ nghệ thô sơ.

- Để có công chức cho chính quyền tộc địa, thực dân Pháp vẫn phải mở các
cơ sở đào tạo: mở trường Hậu bổ ở Hà Nội; cải tổ trường Quốc Tử Giám ở Huế;
mở trường sư phạm sơ cấp ở Hà Nội; sửa đổi quy chế thi Hương và thi Hội.

- Ban đầu, chữ Quốc ngữ chỉ dùng để in sách đạo trong nội bộ đạo Thiên
chúa. Sau khi chiếm được Nam Kì, người Pháp xem chữ Quốc ngữ là công cụ
thuận lợi cho việc cai trị và đồng hoá văn hoá => khuyến khích học chữ Quốc
ngữ.

+ Chữ Quốc ngữ được dạy trong các trường học ở Nam kỳ; xuất hiện trong
các công văn giấy tờ bên cạnh chữ Nho.

- Trong quá trình giao thoa với văn hóa Pháp, người Việt đã nâng chữ quốc
ngữ thành quốc tự - chữ viết phổ thông của dân tộc. Làm phong phú thêm ngôn
ngữ dân tộc bằng cách du nhập hoặc phiên âm tiếng nước ngoài để diễn tả những
khái niệm mới của thời đại.

=> Nhờ chữ Quốc ngữ, VN đã xây dựng được một nền văn chương đẹp đẽ,
độc đáo bằng tiếng mẹ đẻ gồm các thể loại báo chí, văn học. Thơ ca cách mạng
cũng đạt đến đỉnh cao (Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Thủy, Lê Đức Thọ,…), thể
hiện niềm tin vào cách mạng, ca ngợi quê hương, Tổ quốc…

- Báo chí tiếng Việt ra đời và phát triển từ đầu thế kỷ XX: tờ Quan báo bằng
chữ quốc ngữ ra số đầu tiên 01/1919, Nam Phong (1919), Thanh niên (1925),
Tiếng dân (1927)... Nhiều tạp chí, nhà xuất bản sách tiếng Việt ra đời.

2.3. Nghệ thuật

- Đây cũng là thời kỳ văn hóa dân tộc được bổ sung những ngành nghệ
thuật mới gồm:

+ Nghệ thuật hội họa xuất hiện những thể loại mới có nguồn gốc từ Phương
Tây: Tranh sơn dầu, tranh bột màu. Trường Mỹ thuật Đông Dương trở thành trung
tâm đào tạo hội họa hiện đại.

28
+ Nghệ thuật sân khấu từ chỗ công diễn các vở kịch nói của Pháp người Việt
Nam đã tự dàn dựng kịch nói của mình.

+ Năm 1924 điện ảnh ra đời và chiếu bộ phim đầu tiên do diễn viên Việt
Nam đóng: bộ phim Kim Vân Kiều truyện.

- Âm nhạc: xuất hiện các ca khúc lời Việt nhạc Tây, nhạc cụ Phương Tây như
đàn ghita. Dòng tân nhạc Việt Nam hình thành với các nhạc sĩ nổi tiếng như Nam
Cao, Nguyễn Xuân Khoát, Doãn Mẫn,...

2.4. Tư tưởng

- Trên lĩnh vực tư tưởng, sự tiếp biến văn hóa tinh thần đậm nét nhất.

- 1900 - 1918, Việt Nam đã tiếp xúc với tư tưởng dân chủ tư sản tiến bộ hơn
tư tưởng quân chủ phong kiến. Lớp sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ XX đã hướng cả
dân tộc phát triển theo hướng văn minh tư sản.

- Từ 1919, người Việt được tiếp xúc với tư tưởng xã hội chủ nghĩa - Học
thuyết Mác - Lênin. Tư tưởng yêu nước Việt Nam đã chuyển biến theo hướng
tiến bộ hơn, cách mạng triệt để hơn. Tiêu biểu nhất cho sự chuyển biến tư tưởng
yêu nước đó là Nguyễn Ái Quốc.

29
PHẦN II: 10 CÂU VẬN DỤNG (mỗi câu 4 điểm)

Câu 1: Phân tích đặc điểm của lễ hội truyền thống Việt Nam. Liên hệ việc thực
hành lễ hội hiện nay.

1. Khái niệm lễ hội

Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa tất yếu nảy sinh trong xã hội loài
người dựa trên cơ sở nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người khi sống thành cộng
đồng. Lễ hội là hoạt động của tập thể người liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo. Lễ
hội của dân tộc Việt Nam đã hình thành và phát triển cùng với lịch sử dân tộc, đất
nước diễn ra từ ngàn xưa. Qua thời gian và những biến thiên của lịch sử, lễ hội đã
dần lắng đọng lớp phù sa văn hóa đặc sắc.

2. Kết cấu, cấu trúc lễ hội

- Chia lễ hội thành hai bộ phận: lễ và hội. Lễ là các nghi thức thờ cúng thực thi
trong lễ hội, thường là có sự giống nhau trong các lễ hội, sau được thể chế hóa
thành điển lễ của các triều phong kiến. Phần hội là phần khác nhau giữa các lễ
hội.

3. Đặc điểm lễ hội

*Tính địa phương và tính dân tộc

- Lễ hội mỗi làng quê khác nhau thì ngày hội làng cũng khác nhau, mang đậm sắc
thái từng vùng từ nội dung đến phong cách lễ hội.

- Lễ hội mang tính tộc người rất rõ, các dân tộc khác nhau sẽ có những lễ hội khác
nhau

*Tính thiêng:

- Lễ hội được tổ chức để tưởng nhớ nhân vật được cả cộng đồng suy tôn, thờ
phụng. Tùy vào từng tiêu chí mà chia hệ thống nhân vật được thờ phụng thành các
loại: nhân thần và nhiên thần; phúc thần và ác thần; nam thần và nữ thần và các
Mẫu.

*Tính cộng đồng

- Lễ hội diễn ra ngoài không gian cộng đồng làng, vùng miền, Tổ quốc.

- Thỏa mãn những nhu cầu tinh thần, ước vọng của con người khi sống thành cộng
đồng. Cộng đồng lớn là quốc gia,dân tộc như Hội đền Hùng, cộng đồng nhỏ như
cộng đồng gia tộc, tôn giáo, nghề nghiệp, làng xã. Lễ hội đã trở thành biểu tượng
của sức mạnh cộng đồng và đây là giá trị căn cốt nhất lý giải sức lôi cuốn của lễ
hội trong đời sống ngày nay.
30
*Tính cung đình:

- Các nhân vật được suy tôn thành Thần linh trong các lễ hội là người đã giữ chức
vị trong triều đình xưa. VD: Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Huệ,..

- Các nghi thức như tế lễ, dâng hương, rước kiệu đến cả các hình thức như trang
phục, phụ kiện

*Tính đương đại:

- Tuy mang nặng sắc thái cổ truyền, lễ hội, trong quá trình vận động của lịch sử,
cũng dần dần tiếp thu những yếu tố đương đại. Những trò chơi mới, những cách
bài trí mới, những phương tiện kỹ thuật mới như rađiô, cassette, video, tăng âm,
micro... đã tham gia vào lễ hội, giúp cho việc tổ chức lễ hội được thuận lợi hơn,
đáp ứng nhu cầu mới. Tuy vậy, những sự tiếp thu này đều phải dần dần qua sự
sàng lọc tự nguyện của nhân dân, được cộng đồng chấp nhận, không thể là một sự
lắp ghép tùy tiện, vô lý...

*Tính diễn xướng:

- Có 3 nhân vật: 1 là Thầy cúng người có khả năng thông qua các Thần linh, sự
nhập vai của các Thần linh (lên đồng); 2 là quần chúng nhân dân, những tín đồ,
sẵn sàng tham gia vào các cuộc trình diễn; 3 là nhân vật tạo ra cảm hứng và là
động lực của lễ hội là các Thần linh, đối tượng thờ cúng của các lễ hội

4. Các loại hình lễ hội

*Liên quan đến nhân vật trung tâm của lễ hội:

· Nhân vật được cả cộng đồng suy tôn và thờ phụng

· Tất cả nghi lễ, lễ thức trò chơi, trò chơi đều hướng đến nhân vật này

*Lễ hội nghề nghiệp: liên quan đến cuộc sống trong mối quan hệ với môi trường
tự nhiên

· Quan trọng nhất là lễ hội nông nghiệp: được tổ chức với mục đích cầu mưa,
chống hạn: hội Chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh); hội Tứ Pháp chùa Thứa; hội
Tam Tổng

· Ngoài ra còn có lễ hội các nghề đúc đồng, nghề rèn, làm gốm, nghề dệt, nghề
pháo, đến cuộc sống vùng sông nước: hội đua thuyền ở Đồng Hới, hội đua ghe ngo
ở Sóc Trăng

*Lễ hội kỷ niệm các anh hùng dân tộc: liên quan đến cuộc sống trong mối quan
hệ với môi trường xã hội

31
· Hội Đền Hùng giỗ Tổ Hùng Vương; hội Gióng, hội đền An Dương Vương, hội
đền Hai Bà Trưng; hội đền Kiếp Bạc, hội Tây Sơn

*Lễ hội tín ngưỡng - tôn giáo:

· Lễ hội Phật giáo: hội chùa Hương, chùa Tây Phương, chùa Thầy

· Lễ hội tín ngưỡng: hội đền Và, hội Chử Đồng Tử

5. Liên hệ:

*Bối cảnh:

Công cuộc đổi mới của đất nước ta với những thành tựu lớn đã làm cho đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao.
Từ đó, nhu cầu sinh hoạt văn hóa của nhân dân ngày càng tăng, trong đó lễ hội là
một loại hình có sức hấp dẫn lớn Trong những năm gần đây, với chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước khuyến khích phục dựng những giá trị văn hóa truyền
thống, do nhu cầu của xã hội, trên cơ sở đời sống kinh tế, đời sống văn hóa ở cơ sở
được nâng cao, các lễ hội truyền thống được phục hồi, góp phần phát huy giá trị
văn hóa, giữ

*Thành tựu tích cực:

- Quảng bá du lịch Việt Nam với bạn bè quốc tế.

- Huy động được nguồn lực lớn từ nhân dân cả về vật chất lẫn tinh thần.

- Tạo lập môi trường thuận lợi để nhân dân thực sự là chủ thể của hoạt động lễ hội:
Nhân dân chủ động sáng tạo, cùng tham gia tổ chức, đóng góp sức người sức của
cho các lễ hội truyền thống.

*Hạn chế:

- Tổ chức một cách đơn điệu.

- Máy móc hóa bản chất của lễ hội: Các lễ hội đang bị áp đặt một số mô hình định
sẵn, làm cho tính chủ động, sáng tạo của người dân bị suy giảm.

- Lễ hội ngày càng bị thương mại hóa.

- Đặc trưng của các lễ hội dần bị phai nhạt.

- Các vấn đề phát sinh sau lễ hội như: môi trường và rác thải.

- Ý thức thực hiện nếp sống văn minh tại di tích, danh thắng và đặc biệt là khi
tham gia lễ hội của một bộ phận người dân vẫn còn hạn chế.

32
*Giải pháp:

- Về quan điểm: Tổ chức lễ hội cần bám sát thực tiễn, tổng kết thực tiễn trên cơ sở
lý luận về quản lý văn hóa. Người dân phải được tham gia các quá trình tổ chức lễ
hội, phải được trao quyền tổ chức lễ hội hiệu quả.

- Đẩy mạnh nghiên cứu xu hướng biến đổi của lễ hội và tổ chức sự kiện nhằm dự
báo sát với thực tiễn của tình hình lễ hội.

- Về đào tạo nguồn nhân lực và tổ chức bộ máy quản lý 1ễ hội: Cần có chương
trình giảng dạy về việc tổ chức quản lý lễ hội, nhằm đào tạo các cán bộ quản lý
văn hóa có trình độ và khả năng quản lý lễ hội.

Câu 2: Phân tích những đặc điểm của làng Việt truyền thống. Liên hệ với vấn
đề xây dựng làng văn hóa trong giai đoạn hiện nay.

1. Định nghĩa.

Theo Từ điển văn hóa cổ truyền Việt Nam, “làng” là tiếng cổ của Việt Nam dùng
để chỉ đơn vị tụ cư của người Việt từ lâu đời. Tuỳ từng vùng, ngoài những nét
chung, làng xóm người Việt còn có những đặc điểm riêng biểu hiện ở thế đất, ở
nghề nghiệp, ở diện mạo của làng, ở mật độ dân cư, ở cách bố trí nhà cửa trong
khuôn viên…

- Làng là đơn vị cơ bản hình thành nên quốc gia dân tộc. Nước chỉ là tổng số, là
kết quả của sự liên kết các làng xã.

2. Phân loại:

- Dựa vào thế đất: làng đất trũng, làng ven biển, làng trên đảo…

- Dựa vào nghề nghiệp: làng thuần nông, làng thủ công, làng bán nông bán công,
làng bán nông bán thương, làng vạn chài...

3. Đặc điểm Làng Việt truyền thống

3.1. Cơ cấu hành chính

- Về cơ cấu hành chính: làng là 1 đơn vị xã hội được tổ chức chặt chẽ bởi 3 vòng
tròn đồng tâm: tầng lớp kì dịch, tầng lớp kỳ mục và ưa trọng nhất dân cư.

+ tầng lớp kỳ dịch là diện mạo hành chính của làng, đó thường là lý tưởng và thi
hành các quy định trong làng, đảm bảo ổn định.

+ tầng lớp kì mục: được cơ cấu từ những già làng những quan viên, những bậc cha
chú. Đây là người có con cái đuề huề, giàu có để có bữa cỗ khao làng, đứng tuổi,

33
nhiều hiểu biết, họ là hiện thân của truyền thống kinh nghiệm bởi họ là điểm tựa
và niềm tin cho dân làng.

+ dân cư là lực lượng quyết định nhất tạo dựng nên văn hoá làng. Dân cư trong
làng thường có 2 loại là dân chính cư và dân ngụ cư. Dân chính cư là dân sống lâu
đời ở làng, được làng công nhận và được hưởng nhiều quyền lợi.

3.2. Tính cộng đồng và tính tự trị…

*Tính cộng đồng:

- Cơ sở hình thành:

Cuộc sống nông nghiệp phụ thuộc vào thiên nhiên, vì vậy người dân phải liên
kết với nhau, dựa vào nhau mà sống. Chính điều đó đã tạo nên tính cộng đồng.
Tính cộng đồng nhấn mạnh vào sự đồng nhất, tạo nên những tính cách tốt đẹp của
người Việt Nam

- Biểu hiện:

+ Biểu tượng: Sân đình - Bến nước - Cây đa

+ Ngôi đình: nơi thờ cúng thành hoàng làng, là trụ sở của hội đồng làng xã và là
trung tâm văn hóa khi làng mở lễ, hội, văn nghệ,..

+ Bến nước: nơi sinh hoạt, gặp gỡ của phụ nữ hàng ngày

+ Gốc đa đầu làng: nơi dừng chân nghỉ cho khách qua đường và người đi làm - nơi
gặp gỡ trao đổi thông tin.

+ Luôn sẵn sàng đoàn kết, giúp đỡ nhau, coi mọi người như anh em trong nhà: “Lá
lành đùm lá rách”; “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”; “Thương người như thể
thương thân”…

+ Tạo nên tính tập thể cao, mang đến sức mạnh to lớn cho dân tộc, đặc biệt là
trong những trường hợp cần thiết như chống thiên tai, lũ lụt, chống giặc ngoại
xâm…

- Mặt trái:

+ Ý thức cá nhân bị thủ tiêu, hoà tan vào các mối quan hệ xã hội, giải quyết xung
đột theo lối “hoà cả làng” (khác phương Tây: Con người được rèn luyện ý thức cá
nhân ngay từ nhỏ).

+ Tư tưởng ỷ lại, dựa dẫm vào tập thể Nước trôi thì bèo trôi, nước nổi thì bèo nổi;
Cha chung không ai khóc; Lắm sãi không ai đóng cửa chùa…

34
Ví dụ: Việc sử dụng các thiết bị cơ sở vật chất chung như: điện, điện thoại, máy
tính… ở một số người còn bừa bãi, thiếu ý thức tiết kiệm.

- Thói cào bằng, đố kị: Xấu đều hơn tốt lỏi; Chết một đống hơn sống một người…

*Tính tự trị:

- Cơ sở hình thành:

Tính tự trị trong làng xã đã đề cao tinh thần tự chủ, độc lập của làng cũng như của
người dân sống trong làng. Mỗi làng có đời sống độc lập. Mọi người dân tự lập
xây dựng đời sống riêng về ăn, ở, mặc, đi lại...Mỗi làng có thể coi như một
“vương quốc” nhỏ khép kín với những tập quán riêng biệt.

- Biểu hiện:

+ Biểu tượng: Lũy tre. Lũy tre bao bọc, như hàng rào của ngôi làng. Cuộc sống
khép kín, mỗi làng đều có chợ riêng, có đủ mọi nghề thủ công dịch vụ nhằm tự cấp
tự túc. Do vậy kinh tế hàng hóa kém phát triển, thiếu cạnh tranh.

- Làng tự quản, đặt ra nhiều “lệ làng” được quy định trong Hương ước.

- Mặt trái:

+ Thói tư hữu ích kỉ: Trống làng nào làng ấy đánh, thánh làng nào làng ấy thờ…
Ai có thân người ấy lo, ai có bò người ấy liệu; Thân trâu trâu lo, thân bò bò liệu..

+ Lối gia trưởng tôn ti: lòng tự tôn thái quá nhiều khi trở thành tự thị, gia trưởng,
áp đặt ý muốn của mình cho người khác, tạo nên tư tưởng thứ bậc vô lý: Sống lâu
lên lão làng; Áo mặc không qua khỏi đầu…

+ Thói bè phái địa phương cục bộ

→ Hai đặc trưng đối lập, trái ngược này dẫn đến sự hình thành tính cách nước đôi
của người Việt:

+ Vừa có tinh thần đoàn kết, vừa có tư tưởng tư hữu, ích kỷ

+ Vừa có tinh thần tập thể, vừa có óc bè phái, địa phương

+ Vừa có nếp sống dân chủ, bình đẳng, vừa có óc gia trưởng

+ Vừa có đức tính cần cù, vừa có thói dựa dẫm, ỉ lại

3.3. Hoạt động kinh tế

Nếu hoạt động kinh tế gia đình mang tính chất tự cung tự cấp thì hoạt động kinh
tế làng lại mang sắc thái khác, đó là kinh tế trao đổi hàng hóa.

35
Những sản phẩm từ hoạt động kinh tế mang tính cá thể này sẽ mang ra trao đổi
trong cộng đồng làng xã, dần dần xuất hiện một hoạt động vừa mang yếu tố kinh
tế, vừa mang giá trị văn hóa đó là chợ quê.

Chợ quê thường không có lều quán, được nhóm họp ở bãi đất trống đầu làng,
họp một lúc vào buổi sáng sớm. Chợ là thước đo trình độ phát triển của kinh tế,
là diện mạo văn hóa, là hương vị thổ ngơi của từng vùng miền.

Khi dân số tập trung và thoát khỏi tình trạng lệ thuộc tự nhiên, hình thành các
vùng sản xuất chuyên canh, chuyên nghề, nhu cầu trao đổi, mua bản được tạo điều
kiện phát triển.

+ Ví dụ: làng gốm Bát Tràng, Hà Đông có vải lụa, Thanh Hóa có nhiều mía
đường. Trong nước có 3 khu chợ lớn là Thăng Long, Phố Hiến và Hội An,... Đến
cuối thế kỷ XVI-XVII, các chợ trong nước còn manh nha buôn bán với nước
ngoài: người Tây, người Nhật, phương Hoa.

Chợ không chỉ thúc đẩy phát triển kinh tế, thực hiện chức năng trao đổi mua bán
hàng hóa, mà còn là một biểu tượng giá trị văn hóa tâm linh của người Việt.

+ Ví dụ: các phiên chợ tình nổi tiếng: chợ tình Sapa, chợ tìng Khau Vai, là nơi
để nam nữ, thanh niên gặp gỡ, hẹn hò. Người ta đến chợ để gặp bạn, kết bạn, hát
giao duyên...

Các phiên chợ miền có vai trò quan trọng trong giao lưu hàng hóa và văn hóa
giữa các vùng miền. Người miền núi cần muối mắm, cá khô, vàng bạc, tranh thờ,
chỉ màu của người xuôi, người miền xuôi cần trâu bò, cây củ, lá thuốc, thổ cẩm củ
người miền núi.

- Chợ âm dương: tổ chức ở những nơi xưa kia là chiến trường/nghĩa trang.

+ Họp trong đêm trước rằm, nhằm siêu thoát cho linh hồn người đã khuất.

IV. Liên hệ thực tế xây dựng văn hóa làng hiện nay

- Làng văn hóa là sự phát huy và phát triển những giá trị của văn hóa làng trong
thời đại mới, văn hóa làng chính là nền tảng để xây dựng làng văn hóa một cách
vững chắc trong bối cảnh hiện nay.

*Tích cực:

- Nhà nước, các cơ quan tích cực quan tâm, chú trọng đến việc xây dựng văn hóa
làng với nhiều chủ trương tiến bộ như đẩy mạnh phong trào xây dựng Làng văn
hóa, nâng cao nhận thức của người dân về những hủ tục lạc hậu, cực đoan cần
được loại bỏ.

36
- Văn hóa làng như tín ngưỡng thờ cúng, các phong tục tập quán vẫn được giữ gìn,
phát huy một cách có chọn lọc.

- Tại các vùng quê tình làng nghĩa xóm vẫn khăng khít, gắn bó, người dân giúp đỡ
lẫn nhau, cùng nhau xây dựng làng, xã

- Mở rộng đường xá, mở rộng không gian sinh sống của làng truyền thống.

*Tiêu cực:

- Đường sá được mở về tận trung tâm các xã và không ít làng truyền thống cũng
đang ngày càng “mở” cả về không gian sinh sống và xu thế “hướng ngoại” - giao
lưu với bên ngoài. Bởi quá trình “phố hóa làng quê” cũng kéo theo không ít vấn
nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, lô đề, lừa đảo, vỡ hụi; rồi thì bạo lực gia đình, ô
nhiễm môi trường, tai nạn giao thông... cũng gia tăng.

- Nguyên nhân

+ Do xu thế hội nhập, giao lưu với bên ngoài.

+ Nhu cầu của con người ngày càng cao. Lối sống, cách sinh hoạt của thành thị
dần tràn về các làng quê.

*Giải pháp góp phần Xây dựng văn hóa Làng hiện nay

- Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và các cấp chính quyền trên lĩnh vực
văn hóa tư tưởng, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của
cấp ủy Đảng, chính quyền và người dân về tầm quan trọng của việc xây dựng văn
hóa làng, xây dựng làng văn hóa.

- Thứ hai, định hướng việc phát triển có chọn lọc để các giá trị văn hóa làng truyền
thống không bị mất đi và những tinh hoa văn hóa bên ngoài cúng được bổ sung,
tiếp thu có chọn lọc trong quá trình giao lưu, tiếp biến.

- Thứ ba, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, rút ra những bài học về thành tựu
và hạn chế của quá trình xây dựng văn hóa làng ở mỗi địa phương.

- Cuối cùng là, duy trì nếp sống văn mình có văn hóa, bài trừ hủ tục, lễ giáo cổ hủ
gây ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống ngày một nâng cao của người dân.

Câu 3: Phân tích đặc điểm văn hoá giao thông truyền thống của người Việt. 136

1. Khái niệm:

- Giao thông: Việc đi lại từ nơi này đến nơi khác của người và phương tiện
chuyên chở (Từ điển tiếng Việt). Là hệ thống di chuyển, đi lại của mọi người, bao
gồm những người tham gia giao thông dưới các hình thức đi bộ, cưỡi động vật
37
hoặc chăn gia súc, sử dụng xe đạp, xe máy, ô tô hay các phương tiện giao thông
khác, một cách đơn lẻ hoặc cùng nhau. (Ở tài liệu khác)

- Văn hoá giao thông: Là biểu hiện cụ thể của văn hóa trên lĩnh vực giao thông,
thể hiện bằng hành vi xử sự đúng pháp luật, theo các chuẩn mực của xã hội về lẽ
phải, cái đẹp, cái thiện của người tham gia giao thông.

Để nhận diện văn hóa giao thông cần có 3 tiêu chí cơ bản:

- Về nhận thức và hành động, hiểu biết đầy đủ và tự giác chấp hành đúng các quy
định của pháp luật về bảo đảm trật tự an toàn giao thông.

- Có trách nhiệm với bản thân và cộng đồng, tôn trọng, nhường nhịn và giúp đỡ
người khác.

- Có thái độ ứng xử văn minh, lịch sự khi xảy ra va chạm giao thông và tinh thần
thượng tôn pháp luật.

2. Lí giải căn nguyên hình thành đặc điểm văn hóa giao thông truyền thống:

Ở xã hội Việt Nam cổ truyền, do bản chất nông nghiệp sống định cư cho nên
con người ít có nhu cầu di chuyển; có đi thì đi gần nhiều hơn đi xa, thường chỉ có
đi ra đồng, đi lại giữa láng giềng với nhau và thỉnh thoảng mới đi lại giữa các làng
để dự lễ hội hoặc thăm nhau. Ban đầu khi người Việt sống ở văn hóa núi hay văn
hóa biển thì cách thức đi lại của con người dựa vào chính bản thân, họ đi lại trên
đôi chân trần và in dấu chân lên mặt đất tạo thành những con đường. Khi xã hội
sống của con người được tổ chức cao, con người bắt đầu biết thuần hóa súc vật,
chó để giữ nhà, trâu bò làm sức kéo. Sau khi biết đến sửu dụng sức kéo dán tiếp
của loài vật, "trâu" trở thành phương tiện phổ biến với tính chất "đầu cơ nghiệp"
của nhà nông dùng để kéo cày, làm đất,.., "voi" trở thành loài động vật tối ưu
trong trong giao thông vận tải, nhất là trên miền ngược., sau đó còn có bò, ngựa,..

Từ văn hóa núi xuống văn hóa đồng bằng, con người dựa vào sức nước và
phương tiện đi lại ở vùng văn hóa sông nước chủ yếu là bằng thuyền. Việt Nam
là vùng sông nước với rất nhiều hệ thống kênh rạch, sông ngòi, bờ biển nên đây là
một phương tiện rất phổ biến, không phải ngẫu nhiên mà các đô thị Việt Nam
trong lịch sử đều là các cảng sông biển như Phố Hiến, Vân Đồn, Hội An.... và
thuyền Rồng là biểu tượng của quyền uy. Ngay từ thời Đông Sơn, Phù Nam,
Chăm pa, chúng ta đã có nhiều loại thuyền: thuyền độc mộc, thuyền tam bản,
thuyền lớn. Thuyền chiến, thuyền rồng cũng được sử dụng trong quân đội và các
hàng ngũ quan liêu quý tộc. Các người ngoại quốc phương Tây đến Việt Nam
trong những thế kỷ XVII, XVIII, XIX đều có nhận xét rằng người Việt Nam đóng
thuyền chiến và điều khiển thuyền chiến rất giỏi, kỹ thuật vào loại cao trên thế
giới. Hình ảnh con thuyền và sông nước in đậm dấu ấn trong đời sống tinh thần
38
người Việt Nam, vừa gần gũi thân thiết vừa lãng mạn bay bổng: thuyền - bến, non
- nước, lên nguồn xuống bể, lên thác xuống ghềnh,..

Từ căn nguyên trên về lịch sử hình thành văn hóa giao thông truyền thống, có
thể thấy văn hóa giao thông người Việt không mấy phát triển, mang tính tự
phát.

3. Đặc điểm văn hoá giao thông truyền thống :

a, Tính nông nghiệp:

Sau khi biết đến sử dụng sức kéo gián tiếp của loài vật, "trâu" trở thành phương
tiện phổ biến với tính chất "đầu cơ nghiệp" của nhà nông dùng để kéo cày, làm
đất,.., "voi" trở thành loài động vật tối ưu trong trong giao thông vận tải, nhất là
trên miền ngược., sau đó còn có bò, ngựa,..

Bởi những con đường thời xưa nhỏ hẹp, bùn lầy khi trời mưa, mọi người dùng sức
đôi chân (đi bộ, lội bộ)) hiếm khi có xe trâu bò, ngựa, voi. Quan lại, nhà giàu đi
bằng kiệu, cáng. Các đô thị có xe tay do người kéo, sau này kết hợp với xe đạp
thành xích lô (mượn từ tiếng Pháp cycle, cyclo-) được dùng phổ biến đến tận bây
giờ.

b, Tính sông nước:

Mạng lưới sông ngòi dày đặc từ Bắc vào Nam đều đổ ra biển Đông, tạo thành môi
trường giao thông đường thủy thuận lợi. Trừ thời gian có bão lũ lớn, sông, biển
Việt Nam luôn là những tuyến huyết mạch quan trọng để người dân đi lại, để
chuyên chở, buôn bán hàng hóa, trao đổi sản phẩm giữa các vùng miền và với các
quốc gia bên ngoài. Đường thủy là tuyến giao thông thuận tiện,vừa nhanh
chóng,vừa rẻ mà lại an toàn và thông dụng. Dọc bờ biển Việt Nam đã xuất hiện
nhiều thương cảng nổi tiếng sầm uất như Vân Đồn (Quảng Ninh), Hội An (Quảng
Nam)... Đó là nơi hội tụ các thương gia quốc tế và là địa điểm để các sản phẩm
gốm sứ,lúa gạo,vải lụa, mắm muối ... của Việt Nam tỏa ra khắp các quốc gia.Từ
thế kỷ XVII-XVIII, khi bắt đầu phát triển nền kinh tế hàng hóa và bắt đầu cuộc
giao lưu văn hóa Việt Nam với các nước phương Tây thì phố Hiến (Hưng Yên) đã
trở thành trung tâm ngoại thương lớn nhất nhì ở khu vực Đàng Ngoài. Ở đó có
nhiều thương điếm của các hãng buôn lớn từ Hà Lan,Tây Ban Nha, Pháp, Ấn Độ,
Trung Hoa, Nhật Bản ... Dòng sông đã trở thành nơi neo đậu những tàu buôn lớn
và cũng hình thành chợ nổi trên sông. Chính vì thế mà ở Đàng Ngoài cách đây ba
thế kỷ có hai trung tâm kinh tế,văn hóa nổi tiếng thế giới, thứ nhất Kinh kỳ, thứ
nhì phố Hiến.

Sông ngòi tạo điều kiện thuận lợi cho đường thuỷ nhưng lại gây khó khăn cho
đường bộ, Có lẽ chính vì vậy mà Việt Nam là một trong những nước biết làm cầu
39
di động bằng tre gỗ (cầu phao) hoặc thuyền ghép lại (cầu thuyền) sớm nhất thế
giới. Sách Trung Hoa đời Hán diễn đạt sự khác biệt truyền thống trong cách thức
đi lại của phương Nam và phương Bắc rất ngắn gọn: Nam di chu, Bắc di mã (Nam
đi thuyền, Bắc đi ngựa). Trong khi ở Trong Hoa gốc du mục, cái sang trọng của
vua thể hiện ở các cỗ xe tam mã, tứ mã thì ở phương Nam sông nước, thuyền rồng
là biểu tượng của quyền uy; ngay cả ông Táo lên Trời cũng đi bằng cá chép.
Phương tiện giao thông và chuyên chở trên sông nước ở Việt Nam hết sức phong
phú: thuyền, ghe, xuồng, bè, mảng, phà, tàu… Đặc biệt, phổ biến và gần gũi nhất
với con người vùng sông nước đó là Thuyền. Những ai chưa biết sẽ cảm thấy thấy
thú vị khi biết rằng Việt Nam có tục vẽ mắt thuyền, người ta tin rằng con mắt ấy sẽ
giúp cho thuyền tránh khỏi bị thủy quái làm hại; giúp cho ngư phủ tìm được nơi
nhiều cá; giúp cho bạn hàng tìm được bến bờ nhiều tài lộc…

Từ thời Đông Sơn, Phù Nam, Chăm pa, chúng ta đã có nhiều loại thuyền: thuyền
độc mộc, thuyền tam bản, thuyền lớn. Thuyền chiến, thuyền rồng cũng được sử
dụng trong quân đội và các hàng ngũ quan liêu quý tộc. Các người ngoại quốc
phương Tây đến Việt Nam trong những thế kỷ XVII, XVIII, XIX đều có nhận xét
rằng người Việt Nam đóng thuyền chiến và điều khiển thuyền chiến rất giỏi, kỹ
thuật vào loại cao trên thế giới.

Câu 4: Phân tích đặc điểm văn hóa ẩm thực truyền thống của người Việt
(tr.111)

1. Văn hóa ẩm thực là gì?

- Ẩm thực là là từ Hán Việt chỉ hoạt động ăn uống của con người.

- Văn hóa ẩm thực là sinh hoạt ăn uống mang bản sắc riêng của cộng đồng, thể
hiện ở cách lựa chọn nguyên liệu, cách chế biến, cách ứng xử, quan niệm, thị hiếu.

2. Ảnh hưởng của môi trường tự nhiên và môi trường xã hội đến việc hình
thành và phát triển văn hóa ẩm thực nước ta

*Yếu tố tự nhiên

· Việt Nam nằm tại khu vực Đông Nam Á thuộc vùng nhiệt đới gió mùa. Nhiều hồ,
ao, hệ thống sông lớn. Các vùng đồng bằng khí hậu ẩm ướt, mưa nhiều theo mùa.

· Cây lúa nước là loại cây thích hợp nhất phát triển và trở thành cây lương thực
chủ đạo ở Việt Nam ảnh hưởng rất lớn đến ẩm thực Việt.

· Việt Nam có đường bờ biển dài, đa dạng sinh học biển, có trữ lượng hải sản rất
lớn. nhiều hải sản có giá trị cao như tôm, cua, sò… đặc biệt loại cá cơm để sử dụng
làm nước mắm rất nổi tiếng như ở Phú Quốc, Phan Thiết, Nha Trang …

40
· Ngoài ra hệ thống sông hồ khắp cả nước tạo ra nguồn lợi từ thuỷ sản nước ngọt
rất phong phú dồi dào như cá rô, cá bông lau,....

* Yếu tố xã hội

· Việt Nam bị giặc ngoại xâm xâm lược. Sự thống trị, đô hộ hàng nghìn năm của
các nhà nước phong kiến phương Bắc,do đó Việt Nam chịu ảnh hưởng khẩu vị ăn
uống của người Trung Quốc, ảnh hưởng khẩu vị ăn uống của người Pháp và lối
sống, tác phong ăn nhanh theo hướng công nghiệp của người Mỹ ở miền Nam Việt
Nam.

· Điều kiện kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến ẩm thực của người Việt Nam. Xuất phát
từ nước nông nghiệp nghèo nàn lạc hậu, sản lượng nông nghiệp không đủ ăn

· Sau 30 năm đổi mới, kinh tế Việt Nam có bước chuyển mình. Tập quán và khẩu
vị ăn uống của người Việt Nam có sự thay đổi cơ bản.

=>>> Từ những yếu tố tự nhiên và xã hội, ảnh hưởng một cách sâu sắc đến hình
thành ẩm thực Việt có những đặc trưng riêng biệt khác với dân tộc khác trên thế
giới mà chúng ta có thể dễ dàng nhận biết được.

6. Đặc điểm của văn hóa ẩm thực

Cơ cấu bữa ăn và đặc trưng cơ bản trong bữa ăn của người Việt.

Người Việt rất quan trọng việc ăn “Có thực mới vực được đạo – Trời đánh tránh
miếng ăn”, “Ăn” quan trọng đến mức xuất hiện trong nhiều câu nói, đứng trc nhiều
hành động thường ngày: ăn uống, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn chơi, ăn học, ăn ngủ, ăn
nằm, ăn cắp, ăn trộm…

Thể hiện đặc trưng văn hóa nông nghiệp lúa nước của ng Việt, trong cơ cấu của
bữa ăn: Cơm – rau – cá – thịt . Thành phần đầu tiên và quan trọng nhất là cơm

+ Cơm được làm từ gạo, gạo đứng vị trí đầu tiên trong cơ cấu bữa ăn:
“Người sống về gạo, cá bạo về nước”, bữa ăn của người Việt gọi là bữa cơm.
Người Việt trồng cả hai loại lúa: nếp và tẻ. Cây lúa tẻ là loại cây trồng chính nên
gạo tẻ được dùng trong bữa ăn hàng ngày: “Cơm tẻ là mẹ ruột”, “Đói thì thèm thịt
thèm xôi, hễ no cơm tẻ thì thôi mọi đường”. Người Việt còn coi cây lúa là tiêu
chuẩn của cái đẹp: “Em xinh là xinh như cây lúa”. Người Việt không chỉ tận dụng
cây lúa thành gạo để nấu cơm mà còn biết tận dụng từ gạo để làm bún và làm
bánh: bánh lá, bánh đúc, bánh tráng… Gạo nếp được dùng làm xôi, làm bánh mặn,
bánh ngọt…

+ Rau: Là nước nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, nông nghiệp
lại là ngành kinh tế chủ yếu nên rau quả vô cùng phong phú. Việc dùng rau trong

41
cơ cấu bữa ăn chứng tỏ khả năng tận dụng môi trường tự nhiên của người Việt.
Người Việt thường hay nói: “Đói ăn rau, đau uống thuốc”.Ngoài ra còn có những
loại rau dùng làm gia vị như: hành, rau răm, rau diếp cá…Gia vị cũng là thành
phần không thể thiếu trong bữa ăn của người Việt.

+ Cá đại diện cho thủy sản: Việt Nam có phía Đông giáp với biển Đông lại
có hệ thống sông ngòi, ao hồ chằng chịt nên dùng cá trong cơ cấu bữa ăn cũng là
khả năng tận dụng môi trường tự nhiên của người Việt.“Cơm với cá như má với
con” tận dụng các loài thủy sản để chế biến ra một thứ đồ chấm đặc biệt là nước
mắm, các loại nước mắm nổi tiếng: Nghệ An, Phan Thiết, Phú quốc Thực phẩm
được chế biến từ thủy sản cũng rất đa dạng: nấu chín, ướp mắm, phơi khô. Chế
biến cũng có nhiều cách: chiên, xào, kho, luộc, nướng, gỏi…

+ Thịt cũng là một thành phần quan trọng trong cơ cấu bữa ăn nhưng chiếm
vị trí khá khiêm tốn. Thịt có thể dùng kết hợp với cơ cấu nói trên, có thể thay thế
cho cá trong các bữa cơm của người Việt. Các món ăn thường sử dụng nhiều loại
gia vị và cách chế biến món ăn phong phú, đa dạng. Người Việt thường ăn các loại
thịt như: thịt lợn, thịt vịt, thịt gà, thịt bò, thịt trâu, thịt cầy…“Sống ở trên đời ăn
miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không?

+ Nước chấm: nước mắm

+ CÁc đồ uống (thức uống) cũng tận dụng sản phẩm từ thiên nhiên: nước ngọt
sông suối, nước mưa, rượu, nước chè xanh, nước vối

Truyền thống của người Việt có trầu, cau , thuốc lào, nước vối. rượu gạo,
chúng đều là những sản phẩm cổ truyền của nghề trồng trọt đông nam á: ăn trầu
cau + uống trà

* Đặc điểm trong văn hóa ăn của người Việt

+ Tính tổng hợp

Tất cả các món ăn đều có sự pha trộn, kết hợp hài hòa của nhiều nguồn
nguyên vật liệu. Trong chế biến thức ăn, tổng hợp nhiều loại thức ăn, gia vị… Chế
biến đảm bảo cơ cấu đủ ngũ chất: bột – nước – khoáng – đạm – béo, đủ ngũ vị:
chua – cay – ngọt – mặn – đắng; đủ ngũ sắc: trắng – xanh – vàng – đỏ – đen. Nước
chấm cũng mang tính tổng hợp rất đặc biệt nước mắm với vị mặn đậm đà được kết
hợp với vị cay của gừng, ớt, tiêu, vị chua của chanh, giấm, vị ngọt của đường…
Trong cách ăn, tính tổng hợp được biểu hiện qua việc ăn nhiều món trong bữa ăn.
Cách ăn tổng hợp, tác động vào đủ mọi giác quan: mũi ngửi mùi thơm, mắt nhìn
màu sắc hài hòa của bàn ăn, lưỡi nếm vị ngon của thức ăn, tai nghe tiếng kêu ròn
tan của thức ăn. Người Việt ăn uống nhiều món cùng một lúc. Cách ăn của người

42
Việt còn tổng hợp cái ngon của nhiều yếu tố: thời tiết, chỗ ăn, bè bạn, người thân,
không khí bữa ăn… Món ăn là sự tổng hợp của sự pha chế nhiều nguyên liệu.

Vd: Bánh chưng làm từ nhiều nguyên liệu -> mang theo câu chuyện: đất phải màu
mỡ, phải xanh – cây cối, nuôi dưỡng cả động vật, đất nuôi dưỡng cả cẩm thú cỏ
cây con người

Râu tôm nấu với ruột bầu/Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon …

+ Tính biện chứng, linh hoạt

Tính linh hoạt của người Việt Nam thể hiện rất rõ trong cách ăn và còn thể
hiện trong dụng cụ ăn : truyền thống sử dụng dụng cụ là đôi đũa, đó là cách ăn đặc
thù mô phỏng động tác của con chim nhặt hạt xuất phát từ những thứ ăn những thứ
ko thể dùng tay bốc hoặc mó tay vào được ( cơm, cá, nước mắm..)thể hiện trong
cách ăn, trong dụng cụ đựng thức ăn: đôi đũa lấy vật liệu từ tre, gỗ. Ứng xử khi ăn:
“ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. - Trong cơ cấu bữa ăn, cơm có thể được thay thế
bằng ngô, khoai sắn; rau, củ, quả cũng rất đa dạng. Ngoài bữa cơm truyền thống
còn có các món bún, phở. Từ gạo, chúng ta còn có thể làm rất nhiều các món bánh,
điển hình nhất là bánh chưng, bánh dày; các món bánh đặc trưng từng vùng miền
như bánh cuốn, bánh đúc, bánh giò, bánh mật,,,

Người Việt Nam đặc biệt chú trọng đến quan hệ biện chứng Âm- Dương
bao gồm 3 mặt liên quan mật thiết với nhau là: âm dương của thức ăn, sự quân
bình âm dương trong cơ thể và sự cân bằng âm dương giữa con người với môi
trường tự nhiên.

Tính biện chứng: Để tạo nên những món ăn có sự cân bằng âm dương người
Việt phân biệt thức ăn theo 5 mức âm dương ứng với ngũ hành: hàn (lạnh), nhiệt
(nóng), ôn (ẩm), lương (mát), bình (trung tính). Thể hiện ở sự lựa chọn nguyên liệu
sao cho phù hợp với khí hậu từng mùa: “Mùa nào thức ấy”. Đối với từng mùa,
cách chế biến cũng khác nhau.

Ví dụ như mùa hè thì ăn các món luộc, canh chua; mùa đông ăn các món xào,
kho, mứt gừng, trà nóng.

- Màu sắc hương vị của món ăn cũng tuân theo nguyên tắc này

Ví dụ: Rau muống luộc phải có giọt chanh, bánh đúc phải có nước tương…

- Bằng việc quan tâm đến tính âm - dương, người Việt đảm bảo được sức khỏe của
mình.

Ví dụ: Món ốc luộc là món hàn, ăn chấm cùng nước mắm gừng để có tính nhiêt,
nhằm cân bằng hàn - nhiệt, không gây đau bụng.

43
+ Tính cộng đồng

Thể hiện trong văn hóa ăn tập thể của ng Việt, biểu hiện của tính cộng dồng
là việc ăn chung, uống chung, “một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”.
Trong khi ăn thích trò chuyện cùng nhau… và thú uống rượu cần của người vùng
cao là biểu hiện triết lý thâm thúy về tính cộng đồng sống chết có nhau. Tính cộng
đồng đòi hỏi ở con người 1 thứ văn hóa cao trong ăn uống ” Ăn trong nồi ngồi
trong hướng”. Vì nét truyền thống của người Việt trong bữa ăn là mực thước, tính
mựcthước là biểu hiện của khuynh hướng quân bình trong âm dương nó đòi hỏi ”
ăn chậm nhai kĩ”. Khi ăn cơm khách 1 mặt phải ăn cho ngon miệng để tỏ lòng biết
ơn và tôn trọng chủ nhà, mặt khác phải chừa ra 1 ít trong các đĩa đồ ăn để tỏ rằng
mình không chết đói, không tham ăn. Tục ngữ có câu : Ăn hết bị đòn. ăn còn mất
vợ. Nồi cơm và chén nước mắm là hai biểu tượng của tính cộng đồng trong bữa ăn
(cũng giống như sân đình, bến nước là biểu tượng cho tính cộng đồng nơi làng xã).
Người Việt ăn cơm chung cùng một nòi cơm, chấm chung chén nước mắm. Biểu
hiện của tính mực thước ở chỗ tôn trọng khách “tiên khách hậu chủ”. Mọi người
quây quần bên bữa cơm, chia sẻ ngọt bùi. - Bữa cơm không chỉ chứa đựng tình
nghĩa giữa những người đang sống mà còn sống/ đã khuất

4. Văn hóa trong ăn uống (Trong vh ẩm thực của ng việt k chỉ ăn như thế nào
mà còn ăn với ai, ăn như thế nào...)

· Văn hóa tinh thần của người Việt trong ẩm thực chính là sự thể hiện văn hóa giao
tiếp,cư xử giữa người với người trong bữa ăn qua thái độ ứng xử lịch lãm. Việc ăn
uống đều có những phép tắc, lề lối riêng của từng người, của từng gia đình, của
từng cộng đồng dân cư và của cả xã hội.

· Bản thân mỗi người biết giữ gìn, thận trọng trong khi ăn, cũng như đề cao danh
dự của mình: “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, hay “ăn phải nhai, nói phải
nghĩ”… phản ảnh tinh thần thanh cao trong văn hóa ẩm thực.

· Trong gia đình: Ăn chung mâm, cần thể hiện sự kính trọng "kính trên nhường
dưới" , tình cảm yêu thương. Bữa cơm hàng ngày được xem là cơ hội xum họp gia
đình, mọi người quây quần bên nhau vui vầy sau một ngày làm việc.

· Ngoài xã hội: Việc mời khách đến nhà thể hiện nét văn hóa giữa người với người
trong xã hội. Khi có dịp tổ chức ăn uống, gia chủ thường làm những món ăn thật
ngon, nấu thật nhiều để đãi khách. Chủ nhà thường gắp thức ăn mời khách, tránh
việc dừng đũa trước khách, và có lời mời ăn thêm khi khách dừng bữa. Bữa cơm
không chỉ đơn thuần là cuộc vui mà còn thể hiện tấm lòng hiếu khách đặc trưng
của người Việt.

5. Liên hệ thực tiễn

44
*Đặc điểm tích cực:

· Giao lưu văn hóa: Thông qua du lịch và Internet, người Việt Nam ngày nay
không chỉ khám phá, học hỏi cung cách, lễ nghi, niềm tin trong ẩm thực của các
nước Đông Á, Đông Nam A hay Pháp, Mỹ mà còn có thể tìm hiểu về văn hóa ẩm
thực của bất kỳ đất nước nào chúng ta muốn, bằng một cú search trên mạng hoặc
du lịch nếu có điều kiện.

· Ẩm thực truyền thống được nhiều bạn trẻ khám phá, giữ gìn

Ví dụ: Ẩm thực miền Tây có food reviewer Khoai Lang Thang (Khoai Lang Thang
làm các video chất lượng nhưng rất bình dị và gần gũi về lối ăn uống của người
miền Tây); nhà đài VTC thường làm các video Khám phá ẩm thực tại vùng cao…

*Đặc điểm hạn chế:

· Vệ sinh an toàn thực phẩm

· Việc kinh doanh ẩm thực chỉ tập trung vào lợi ích, chưa thực sự giữ gìn bản sắc
văn hóa

*Giải pháp: bối cảnh toàn cầu hoá => tiếp thu nhiều ẩm thực (Mỹ, Hàn Quốc,
Nhật)=> bản sắc, giữ gìn, phát huy, trao truyền các giá trị.

Câu 5: Phân tích ý nghĩa văn hóa của lễ Tết. Liên hệ việc thực hành lễ Tết hiện
nay.

NX: Lễ Tết là văn hoá sinh hoat tinh thần quen thuộc với người Việt bao đời.

Ý nghĩa lễ tết:

· KN: Lễ Tết là mỹ tục trong văn hóa của mọi dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên mỗi
dân tộc lại có một cách tổ chức và tận hưởng Lễ Tết khác nhau, các nghi thức và
phong tục cũng không giống nhau, thể hiện văn hóa khác biệt và quan niệm về lịch
pháp không đồng nhất giữa các quốc gia dân tộc trong quá trình phát triển.

· Hệ thống cấu trúc lễ tết: Theo thời gian trong năm của dương lịch, người ta lấy
năm mặt trời chia thành 24 phần được gọi là tiết khí. Cấu trúc thời tiết Việt Nam
theo thời gian dựa vào dương lịch được bắt đầu từ tháng 10 là bắt đầu mùa khô;
tháng 11 chuyển gió mùa đông; tháng 12 se lạnh; tháng 1 mưa phùn; tháng 2,3 rét
lộc; tháng 4 chuyển hạ; tháng 5,6,7 là mùa hạ nắng nóng; tháng 8 lập thu với mưa
ngâu; tháng 9 chuyển mùa; tháng 10 lặp lại chu kì vào đông với không khí se lạnh,
ít mưa. Mỗi năm có 12 tháng thì có 12 tiết chính và 12 tiết phụ tương ứng với thời
tiết khi hậu từng mùa. Từ tiết biến âm thành Tết, thế nên một năm có 12 tháng thì
có ít nhất 12 cái tết, tháng nào cũng vui như tết.

45
· Do đặc điểm chi phối của lối sống sản xuất nông nghiệp lúa nước nên người Việt
trọng yếu tố tâm linh => trong lễ tết không thể thiếu phần lễ.

· Cấu trúc Lế, tết gồm 2 phần: lễ và tết. Tuỳ theo từng lễ tết mà đối tượng nhân vật
phụng thờ tương ứng => thể hiện niềm tin tâm linh trao vọng tốt đẹp, cầu mong
may mắn đối với gia đình, xã hội.

· VD: TẾT NGUYÊN ĐÁN Trong văn hoá VN, chúng ta có đến 12 cái Tết trong
năm. Nhưng không phải cái Tết nào cũng được đón đợi và tổ chức như nhau.
Trong 12 lễ Tết ấy thì Tết Nguyên Đán là cái tết quan trọng nhất. Nó diễn ra vào
thời điểm kết thúc một năm cũ, mở đầu một năm mới theo chu kỳ vận hành vũ trụ,
nó phản ánh tinh thần hoà điệu giữa con người với tự nhiên.

· Nguồn gốc lễ tết: các pho truyền thuyết rực rỡ cổ xưa và bằng chứng lịch sử chỉ
rõ, nhà nước Văn Lang với Kinh Dương Vương - Lạc Long Quân - Âu Cơ được
suy tôn là thuỷ tổ của người Việt, lập nên các triều đại vua Hùng. Ngay từ thời hồn
hoang lịch sử ấy, hoàng tử Lang Liêu đã dùng gạo nếp trắng ngần kết tinh hương
thơm trời đất để làm nên bánh chưng bánh dày dâng lên vua cha. Kể từ đó triết lý
trời tròn đất vuông là hệ vòng quay bốn mùa xuân hạ thu đông được hình thành,
hương thơm lúa nếp thành tinh hoa văn hoá của nền văn minh lúa nước, Lễ Tết
như một mỹ tục đã đi vào đời sống như một biểu tượng văn hoá linh thiêng.

· Ý nghĩa văn hoá: Lễ Tết gắn liền với lịch pháp, thể hiện sự hoà điệu vũ trụ của
con người với tự nhiên, là thành tố văn hoá tinh thần vô cùng quan trọng, chi phối
sâu sắc nếp cảm nếp nghĩ của mỗi người, điều chỉnh hành vi ứng xử không chỉ của
cá nhân mà sâu rộng hơn là cả cộng đồng quốc gia dân tộc. Lễ Tết thể hiện chiều
sâu văn hoá của mỗi quốc gia, chứa đựng tính cộng cảm cộng đồng của cả dân tộc.
Tìm về nguồn gốc lễ tết là tìm về cội nguồn văn hoá, là để kết nối truyền thống, để
xưa - nay gần lại bên nhau, giúp ta nhìn sâu hơn vào tâm hồn dân tộc thông qua
lăng kính văn hoá Lễ Tết.

b. Liên hệ việc thực hành Lễ Tết hiện nay:

· Văn hoá VN hiện nay là nền văn hoá vừa đậm đà bản sắc dân tộc, vừa xen lẫn tác
động của quá trình hội nhập toàn cầu từ phương diện văn hoá. Bởi vậy hệ thống Lễ
Tết của VN ngày càng phong phú, bên cạnh những cái Tết cổ truyền đã trở thành ý
thức hệ dân tộc, có những cái Tết đã phai nhạt trong tâm trí người dân, nhưng lại
có thêm những cái Tết mới ( ăn, chơi, đình đùa Tết) làm giàu thêm cho đời sống
tinh thần phong phú của dân tộc. Tết Nguyên Đán được lưu giữ ngàn đời ngày nay
vẫn là cái Tết linh thiêng và quan trọng nhất. Tuy nhiên xã hội ngày càng phát
triển, người dân VN ngày càng được hưởng thụ một nền văn hoá cao cả về thể chất
và tinh thần, nên cách đón Tết hôm nay cũng không giống ngày xưa. Nhiều nghi

46
lễ, nhiều điều kiêng kỵ, nhiều tập tục cũ đã thay đổi để đáp ứng với sự đổi thay của
xã hội.

· Thời gian dành cho Tết vẫn là khoảng thời gian mà đời thường đã được linh
thiêng hoá, dù thức dâng trong ngày Tết bên cạnh bánh chưng đã có thêm bao
hương sắc văn hoá ẩm thực Đông - Tây, nhưng Tết Nguyên Đán vẫn là Tết Việt
với những nét đặc trưng mang giá trị vật chất và tinh thần đậm đà bản sắc văn hoá.
Kế thừa những tinh hoa văn hoá dân tộc trong Lễ Tết là cách nâng văn hoá VN lên
tầm cao thế giới, để chúng ta chủ động hội nhập mà không bị hoà tan, để văn hoá
VN giới thiệu với bạn bè khắp năm châu bốn bể vẻ đẹp độc đáo của dân tộc mình.

ð Giữ gìn, phát huy những giá trị văn hoá đặc sắc của lễ tết, gạn đục khơi trong để
làm đảm bảo, có sự trao truyền, tiếp nối.

Câu 6: Phân tích tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt. Liên hệ
việc thực hành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình hiện nay.

1. Khái niệm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên

· Tín ngưỡng là niềm tin, sùng bái của con người hướng tới những điều huyền bí,
mang tính chất siêu nhiên, dduojdc biểu hiện ra bằng hoạt động riêng của mỗi cộng
đồng.

· Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là hệ thống nghi lễ cúng lễ nhằm bày tỏ sự biết ơn,
tôn kính của thế hệ sau với thế hệ đầu tiên của dòng họ

2. Cơ sở hình thành

· Điều kiện nhận thức:

xuất phát từ niềm tin về sự bất tử của linh hồn. Người Việt tin rằng con người có
phần hồn và phần xác, khi chết đi con người chỉ chết đi về phần xác, còn phần hồn
thì sống mãi. Ông bà nơi chín suối vẫn thường xuyên về thăm con cháu và phụ hộ
độ trì cho con cháu.

· Điều kiện tâm lý:

xuất phát từ lòng tri ân của con cháu đối với ông bà tổ tiên đã tạo dựng hình hài và
dáng vóc, đã ban tặng sự sống cho thế hệ sau, thể hiện lòng biết ơn với ông bà tổ
tiên đã khuất. Ngoài ra, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn xuất phát từ khát khao
được chia sẻ những điều xảy ra trong cuộc sống mong ông bà tổ tiên phù hộ vượt
qua những khó khăn.

· Điều kiện lịch sử:

47
Nho giáo: Theo Khổng Tử, sự sống của con người không phải do tạo hóa sinh ra
càng không phải do bản thân tự tạo ra mà nhờ cha mẹ, sự sống của cha mẹ lại gắn
với ông bà và cứ như vậy thế hệ sau kế tiếp thế hệ trước, vì thế mà thế hệ sau phải
biết ơn thế hệ trước. Cùng với tư tưởng tôn quân, quyền huynh thế phụ đã củng cố
thêm tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở nước ta ngày một thể chế hóa. Thế kỉ XV khi
Nho giáo chiếm địa vị ưu thế trong xã hội, gia đình, gia tộc, và vấn đề “dương
danh hiển gia” được đề cao, nhà Lê đã thể chế hóa việc thờ cúng tổ tiên.

3. Biểu hiện của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên

3.1. Về hình thức

Trong gia đình người Việt có tín ngưỡng thờ thần Thổ công cùng với thờ cúng Tổ
tiên.

· Tổ tiên ngự gian giữa. Thổ công ở bên trái (theo Ngũ hành thì bên trái - phương
Đông là nơi quan trọng thứ hai sau trung tâm).

· Thổ thần địa vị kém nhân thần nhưng quyền lực lớn hơn và được coi là "đệ nhất
gia chi chủ", quyết định phúc hoạ cho mỗi gia đình.

· Vị trí của bàn thờ bao giờ cũng được đặt ở nơi trung tâm trong kết cấu nhà ở, tại
nơi cao ráo, sạch sẽ và trang trọng nhất trong nhà. Trên bàn thờ, thường có bát
hương, chóe thờ, mầm bồng (đĩa hoa quả), kỷ thờ, lọ hoa, ống hương, đèn dầu,
chân nến. Các gia đình bình dân, đồ thờ thường được làm bằng gỗ hoặc sành sứ,
còn các gia đình giàu có thế nào cũng có đồ thờ tự bằng đồng.

· Ngoài ra còn có bộ đỉnh hạc, đĩa cau trầu, ấm chén thờ hoặc bát sâm, bát đũa thờ,
Phật thủ, đài thờ. Hai bát hương để đối xứng, phía sau 2 cây đèn thường có hai
cành hoa cúc giấy, với nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Cũng có nhà cắm
“cành vàng lá ngọc” (một thứ hàng mã) với cầu mong làm ăn được quả vàng, quả
bạc, buôn bán lãi gấp 5 hoặc gấp 10 lần năm trước. Ở giữa có trục “vũ trụ” là khúc
trầm hương, vươn lên trong bát hương. Nhiều gia đình đặt xen giữa đèn và hương
là hai cái đĩa để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự biến thiên
các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó), phía trước bát hương để
một bát nước trong, coi như nước thiêng. Trên bàn thờ nhất định phải vừa có nước,
vừa có lửa, như biểu tượng của triết lý âm - Dương

3.2. Về thời gian cúng lễ

Việc thờ cúng tổ tiên tại gia đình thường được tiến hành quanh năm, xuất phát từ
quan niệm dù đã khuất nhưng linh hồn họ vẫn luôn ở bên cạnh con cháu. Không
chỉ cúng lễ trong các dịp quan trọng như tang ma, giỗ chạp, cưới xin…, không chỉ
trong những ngày lễ tiết như Tết Nguyên đán, Thanh minh, Hàn thực, Đoan ngọ…,

48
các ngày Sóc (ngày mồng một), Vọng (ngày rằm) theo chu kỳ tuần trăng, mà các
vị tổ tiên còn được con cháu kính cáo mọi chuyện vui buồn: sinh nở, ốm đau, thi
cử, đỗ đạt, kiện cáo, bất hòa, dựng vợ gả chồng… Con cháu còn kính mời các vị
về hưởng thụ hoa trái đầu mùa, lễ tạ tổ tiên khi có phúc, có lộc.

· Các cấp độ thờ cúng

Những đặc sắc và độc đáo của tín ngưỡng này trong văn hoá Việt Nam được thể
hiện ở ba cấp độ:

· Cấp độ gia đình là thờ cúng Tổ tiên trong gia đình, biểu tượng của nó chính là
bàn thờ Tổ tiên

Mang đặc tính của cư dân nông nghiệp đa thần giáo, trong gia đình người ta
thường thờ phụng nhiều vị thần. Bên cạnh việc thờ tổ tiên, thờ Phật, người ta còn
thờ bà Cô, ông Mãnh (là những người thân thích chết trẻ, hoặc chết vào giờ linh
thiêng). Trong các vị thần được thờ tại gia, thường không có vị thần nào được sắp
xếp ngang hàng với tổ tiên.

· Cấp độ gia tộc là thờ cúng Tổ tiên của dòng họ, mà biểu tượng kết tinh là Từ
đường (nhà thờ họ) hoặc biểu hiện ở tín ngưỡng thờ thần thành hoàng làng. Gia tộc
cũng có những quy định tín ngưỡng cho việc thờ cúng Thủy tổ dòng họ. Mặc dù đã
qua nhiều đời nhưng ngày giỗ họ vẫn được lưu truyền nhờ việc ghi chép gia phả.
Trong ngày giỗ Thủy tổ, tất cả con cháu trưởng các chi, ngành, nhánh đều có mặt.
Các con cháu khác tùy vào hoàn cảnh mà mang đồ tới góp giỗ. Lễ giỗ Tổ được tổ
chức chu đáo và duy trì đều đặn hàng năm.

· Cấp độ Nhà nước là thờ cúng các vua Hùng, những người đã có công khai mở và
tạo dựng đất nước Việt Nam. Tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên cấp Nhà nước với ngày
Giỗ Tổ hằng năm Mùng Mười tháng Ba đã trở thành ngày hội tụ con cháu khắp
mọi miền đất nước hướng về đất Tổ. Có thể nói ngày giỗ tổ Hùng Vương là sự
phát triển cao có tính chất trừu tượng hóa ý thức về cội nguồn, bắt rễ sâu xa tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên ở làng xã, trong gia đình và gia tộc, thể hiện chiều sâu giá
trị văn hoá cộng đồng của các dân tộc sinh tụ trên giải đất Việt Nam, thể hiện tinh
thần đoàn kết và mối quan hệ huyết thống của 54 dân tộc anh em, đó cũng chính là
biểu hiện cao nhất của tính thống nhất trong đa dạng của văn hoá Việt Nam.

3.3. Cách ứng xử khi thờ cúng tổ tiên

· Khi đứng trước bàn thờ, chúng ta phải tuân theo ba hành vi đảnh lễ là: Thân-
khẩu-ý. “Thân lễ” nghĩa là phải ăn mặc nghiêm trang đứng đắn, dung nhan và thái
độ hành lễ nghiêm túc. “Khẩu lễ” là sự thưa, bẩm một cách cung kính, đầy đủ các
vị thần thánh, tổ tiên về những điều trong năm qua đã đạt được. Cuối cùng, “ý lễ”

49
là thể hiện lòng thành tâm, uống nước nhớ nguồn, ngẫm suy về những việc mình
đã làm và khẩn cầu sự phù trợ của tổ tiên cho năm tới.

· Bàn thờ phải tinh sạch, đồ lễ cũng vậy. Về đồ lễ cũng cần tuân theo ba nguyên
tắc: Tinh sạch; nhất thiết phải có món do mình tự nấu, trồng và lấy cái tâm làm
chính. Người xưa thường đựng đồ lễ trong một cái mủng đội trên đầu và dùng vải
sạch phủ lên trên là vì vậy, không gồng gánh hay cắp nách, để dưới thấp, bởi nó
không tạo sự tinh sạch về tinh thần.

· Cuộc sống ngày nay vốn bận rộn, nhiều gia đình không có thời gian nấu cỗ bàn
cầu kỳ song không nên để toàn bộ đồ cúng lễ là đồ hộp đặt mua. Ở quê có vườn
tược, người ta thường giành vật nuôi, rau củ quả tự mình chăm sóc để làm đồ lễ.
Chúng ta có thể sắm nhiều thứ ở chợ nhưng nên bỏ công nấu một món gì đó, là
những món mà người xưa muốn ăn chẳng hạn. Đây cũng có thể được coi là biểu
tượng để tưởng nhớ.

· Cuối cùng chính là sự thành tâm, khiêm cung, kính cẩn. “Lễ bạc lòng thành” là
câu khuyên bảo từ xưa. Mình theo hoàn cảnh của mình là tự do nhất. Tùy tiền mà
biện lễ, liệu cơm mà gắp mắm, đừng đua đòi theo người khác mà quá sức, tốn
kém, bỏ bớt những gì là mê tín, hoang phí.

· Dù nghèo đến mấy trên bàn thờ cũng phải có nước (âm) và bát hương (dương),
âm dương giao hoà, sinh sôi nảy nở.

· Trong những ngày Tết, khói hương giống như một cách kết nối với tổ tiên, cội
nguồn và thế giới tâm linh mỗi người. Khi lên hương, số nén hương được thắp có
thể đa dạng và là các số lẻ như 1, 3, 5, 7…Mỗi tôn giáo, tín ngưỡng sẽ có một cách
giải thích, nhưng chung quy thì ý nghĩa cốt lõi nằm ở biểu tượng của những con
số. Trong đó, số một (1) mang ý nghĩa biểu tượng là sự khởi nguyên, cũng đồng
thời bao quát cho tất cả khi coi thế giới như một tổng thể. Đây là con số được ý
thức đầu tiên trong nhân loại. Rồi người ta phát hiện ra sự song hành, đối xứng,
tức con số hai (2). Đó là sự tồn tại, song hành của nam và nữ, ngày và đêm, Mặt
Trăng và Mặt Trời… Như vậy, người xưa coi số một và hai là những con số cơ
bản, mô tả nền tảng của sự hiện hữu. Về sau, người ta nhận ra có những sự hiện
hữu lớn hơn một và hai. Vì vậy, số ba tượng trưng cho sự vượt qua những cái hiện
hữu để tạo ra số nhiều. Cuốn “Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới” (Jean
Chevalier và Alain Gheerbrant, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2016) cũng khẳng định số
ba là “số nhiều đầu tiên cơ bản nhất.”

4. Các dịp thực hiện thờ cúng tổ tiên:

Trong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt coi trọng việc cúng giỗ vào ngày mất
thường được tính theo âm lịch. Họ tin rằng đó là ngày con người đi vào cõi vĩnh

50
hằng. Không chỉ ngày giỗ, việc cúng tổ tiên còn được thực hiện đều đặn vào các
ngày mồng một (còn gọi là ngày sóc), ngày rằm (còn gọi là ngày vọng), và các dịp
lễ Tết khác trong một năm như: Tết Nguyên đán, Tết Hàn thực, Tết Trung thu, Tết
Trùng cửu, Tết Trùng thập… Những khi trong nhà có việc quan trọng như dựng vợ
gả chồng, sinh con, làm nhà, đi xa, thi cử…, người Việt cũng dâng hương, làm lễ
cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ, hay để tạ ơn khi công việc thành
công.

5. Liên hệ việc thực hành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong gia đình hiện nay

Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên ngày nay đã trở thành điều quen thuộc và phổ biến
trong mỗi gia đình người Việt.

Ngày nay, việc thờ cúng vẫn được thực hiện thường xuyên vào những ngày mồng
một, ngày rằm hàng tháng; việc cúng giỗ; các dịp lễ, tết: tết nguyên đán, tết trung
thu, tết hàn thực,...hoặc khi gia đình có việc như cưới hỏi, sinh con (đầy tháng, thôi
nôi…), xây nhà, thi cử, đi xa… Việc thờ cúng tổ tiên trong gia đình hiện nay
không chỉ để nhớ về cha ông mà còn là dịp để cho gia đình thêm gắn bó bền chặt.
Ví dụ như ngày giỗ là ngày con cháu về đoàn tụ. Con cháu ở khắp nơi trở về ngôi
nhà tổ tiên đã từng sinh sống, kể cho nhau nghe những kỷ niệm đã có với người
được cúng giỗ, chia sẻ với nhau những câu chuyện vui buồn, những thành công
hay khó khăn trong cuộc sống. Qua đó, mỗi người dường như đều cảm thấy hân
hoan, vui vẻ. Mọi người thêm hiểu biết lẫn nhau.

Hiện nay, đa số người Việt vẫn thực hành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, cùng với sự
biến đổi của xã hội thì việc thực hành tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên cũng có nhiều
biến đổi. Đó là sự chuyển đổi chủ thể thờ cúng từ người con trai trưởng sang
những người con khác, kể cả là con gái. Do phải đi làm ăn xa, khoảng cách địa lý
lẫn công việc bận rộn mà ngày giỗ, ngày tết không còn là ngày con cháu của người
được cúng giỗ quây quần đoàn tụ bên nhau ở nhà gia trưởng. Nhiều người tự cúng
giỗ tại ngôi nhà của mình. Để Thờ cúng tổ tiên tiếp tục lưu giữ và phát huy được
truyền thống đồng cảm, sẻ chia, hòa thuận, gắn bó, đoàn kết gia đình thì mỗi người
cần phải thực sự coi trọng truyền thống thờ cúng tổ tiên, chủ động sắp xếp thời
gian dành cho gia đình, nhất là dịp giỗ, tết.

Câu 7: Phân tích vai trò của người phụ nữ trong gia đình ngưởi Việt truyền
thống. (t162)

*Khái niệm gia đình:

- Gia đình chỉ một cộng đồng người được hình thành và phát triển trên cơ sở
hôn nhân, huyết thống, pháp lý và có quan hệ mật thiết với nhau trong sinh hoạt
vật chất và sinh hoạt tinh thần.

51
*Vai trò người phụ nữ:

- XH xưa và nay đều đề cao vai trò của người phụ nữ trong gia đình:

Trong xã hội cổ truyền và cả trong xã hội hiện đại, người phụ nữ Việt Nam
luôn được tôn trọng và khẳng định được vị thế của mình. Vai trò của người phụ nữ
trong gia đình được đề cao trước tiên do từ cơ tầng sâu xã hội là chế độ mẫu hệ
cộng với đặc điểm trọng tình nghĩa trong tính cách người Việt – những cư dân
sống dựa vào phương thức sản xuất lúa nước, dẫn đến vị trí của người phụ nữ
trong hoạt động kinh tế. Đây chính là cơ sở cho việc hình thành truyền thống tôn
trọng phụ nữ trong văn hoá Việt Nam.

- Thiên chức làm vợ, làm mẹ: Vai trò của người phụ nữ cũng được khẳng
định trước hết ở thiên chức làm vợ, làm mẹ trong đời sống gia đình.

+ Là vợ, người phụ nữ chia sẻ mọi trách nhiệm, nghĩa vụ, gian truân và niềm
hạnh phúc với chồng. Trong đời sống tinh thần, người phụ nữ là chỗ dựa tình cảm,
là nguồn động viên khích lệ tinh thần đối với chồng và là người bảo vệ sự yên ấm
trong gia đình.

+ Để hoàn thành thiên chức làm mẹ, người phụ nữ phải cố gắng, hy sinh rất
nhiều. Vai trò làm mẹ của người phụ nữ không chỉ thể hiện ở công lao sinh thành
chín tháng mang nặng đẻ đau, mà còn thể hiện chủ yếu ở việc nuôi dạy con cái.
Mẹ là người đầu tiên dạy con làm người, trao truyền những giá trị văn hoá cho
con, sự hy sinh hết lòng của người mẹ cho con cái cũng chỉ cốt sao cho con cái
trưởng thành. Người mẹ gieo vào con tình yêu, trách nhiệm và nghĩa vụ đối với gia
đình, quê hương, Tổ quốc. Bản thân người mẹ cũng luôn có ý thức tu dưỡng tâm
tính, tích phân tích thiện, ăn ở nghĩa tình với hy vọng để lại Đức cho con: “Phúc
đức tại mẫu”, “Cây xanh thì lá cũng xanh - Cha mẹ hiền lành để đức cho con”.

- Người phụ nữ là người thầy: Gia đình gắn với chức năng giáo dục mà ở
phương diện này vai trò của người phụ nữ chính là người thầy đầu tiên, người thầy
quan trọng nhất. Giáo dục của Việt Nam trước đây chủ yếu là giáo dục nhân cách
và trao truyền kinh nghiệm, người phụ nữ trong gia đình sẽ thực hiện chức năng
thiêng liêng này bởi rất nhiều lý do.

Đời sống khó khăn nên khi không có chiến tranh, người đàn ông cũng phải đi
xa săn bắt, hái lượm. Trong lửa loạn, người đàn ông ra trận, người đàn bà sẽ ở nhà
gánh vác hậu phương, nuôi cái cùng con. Người phụ nữ với khả năng chịu thương
chịu khó, kiên trì, nhẫn nhịn sẽ trở thành người thầy để con mình có những bài học
đầu đời từ những câu hát ru, từ huyền thoại, cổ tích, từ lời thủ thỉ tâm tình trong
lao động sản xuất, trong sinh hoạt đời thường. Những đứa trẻ sẽ tiếp nhận bài học

52
vỡ lòng, lớn lên cùng lời răn dạy của mẹ của bà. Với những đứa trẻ ấy, người phụ
nữ trong nhà là bảo tàng tri thức, kinh nghiệm, hiểu biết.

- Người phụ nữ là cầu nối tâm lý tình cảm:

Trách nhiệm làm vợ và tình mẫu tử đã khiến người phụ nữ trở thành linh hồn,
nơi hội tụ những tính chất tốt đẹp nhất cho mọi thành viên trong gia đình. Gia đình
hạt nhân trong xã hội cổ truyền không tách rời gia đình lớn. Người phụ nữ là cầu
nối giữa các thế hệ trong gia đình và giữa gia đình của mình với họ hàng. Đây
chính là chức năng tâm lý tình cảm của gia đình, là sợi tơ đan dệt tạo thành gia
quy. Khi bước vào cuộc sống gia đình là lúc mỗi người phải đối diện với những
mối quan hệ đan xen, phức tạp đòi hỏi sự ứng xử tinh tế mới tạo nên mối quan hệ
hài hòa, tạo nên hạnh phúc. Người Việt Nam thường nói: “Ở vậy thì rộng thênh
thênh / Lấy chồng thì phải đào kênh đắp đường”. Người phụ nữ phải rất khéo léo
khi giải quyết các tình huống tâm lý phát sinh trong quan hệ với bố mẹ chồng, chị
chồng, em chồng, họ hàng làng xóm...

- Tham gia vào hoạt động kinh tế:

Các mối quan hệ trong gia đình người Việt vừa mang tính chất cổ truyền bản
địa vừa mang tính chất Nho giáo và được biểu hiện một cách tinh tế và sâu sắc.
Nhiều ý kiến cho rằng gia đình người Việt cổ có ảnh hưởng nhiều mặt của Nho
giáo nhưng thực chất vẫn là vỏ Tàu, lõi Việt. Xuất phát từ nền sản xuất nông
nghiệp lúa nước dẫn tới vai trò bình đẳng của người phụ nữ với nam giới trong
hoạt động kinh tế “chồng cày, vợ cấy”, người phụ nữ cũng chính là người quản lý
kinh tế trong gia đình, không chỉ “nuôi cái cùng con”, hi sinh cho chồng con mà
khi đất nước cần, người phụ nữ cũng sẵn sàng hi sinh, dâng hiến: “ ngày giặc đến
nhà thì đàn bà cũng đánh - nhiều người đã trở thành anh hùng”. Phụ nữ Việt Nam
không chỉ khuôn mình trong tam tòng, tứ đức, không chỉ bằng lòng với vị trí tề gia
nội trợ mà còn gánh vác cả giang sơn khi đất nước lên tiếng gọi. Bác Hồ đã tặng
cho phụ nữ Việt Nam tám chữ vàng: anh hùng, trung hậu, bất khuất, đảm đang.
Những người phụ nữ Việt Nam luôn xứng đáng với tám chữ vàng chói lọi đó, luôn
luôn phấn đấu giỏi việc nước, đảm việc nhà, xứng đáng với niềm tin và lòng tôn
kính của dân tộc. Điều đó cho thấy những giá trị bản địa cốt lõi sâu đậm làm nên
sắc thái riêng của văn hoá gia đình Việt Nam. Sự đồng thuận của tình chồng, nghĩa
vợ yêu thương và tôn trọng lẫn nhau đã khẳng định sự lựa chọn trong văn hoá ứng
xử của người Việt Nam: “thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”.

- Những phẩm chất cần có của người phụ nữ trong gia đình:

Người phụ nữ trong gia đình là người lao động chính, cũng đồng thời là
người mẹ, người vợ và người thầy đảm nhiệm chức năng giáo dục, chức năng tâm
lý tình cảm. Công dung ngôn hạnh của người mẹ sẽ in dấu ấn lên tâm hồn con trẻ,
53
tạo dựng khí chất mà tính cách cho con, cho con kinh nghiệm sống và tri thức để
nhận biết, để trưởng thành. Sự dịu dàng, đằm thắm và phẩm chất hi sinh của người
phụ nữ đã khiến gia đình người Việt thực sự trở thành mái ấm nơi còn người luôn
khao khát được trở về để tiếp thêm nguồn năng lượng sống sau mỗi bước đi xa.

- Phụ nữ ngày nay còn là thành viên tích cực của xã hội:

Ngày nay người phụ nữ vẫn cần phải có công dung ngôn hạnh nhưng phải bổ
sung thêm hàm nghĩa mới dưới góc nhìn văn hóa, bởi phụ nữ ngày nay không chỉ
là người của gia đình mà còn khẳng định mình là thành viên tích cực của cộng
đồng xã hội. Trong xã hội hiện đại khi tri thức đã trở thành lực lượng lao động chủ
yếu thì kinh nghiệm vẫn cần thiết nhưng không đủ, con người không chỉ gắn bó
với gia đình mà còn liên quan mật thiết với xã hội, với cuộc sống sôi động luôn
phát triển. Những yếu tố khách quan của môi trường xã hội đặt ra với người phụ
nữ những cô hội và thách thức mới để họ phải không ngừng phải vươn lên, xứng
đáng với tám chữ vàng “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.

Câu 8: Phân tích ý nghĩa văn hoá của việc khắc tên những người thi đỗ tiến sĩ
lên bia đá đặt trên lưng rùa ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

*Khái quát chung:

Văn Miếu – Quốc Tử Giám nói chung và bia tiến sĩ nói riêng là di tích ẩn
chứa rất nhiều ý nghĩa về văn hóa Việt Nam.

Bia đá đặt tại khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám vinh danh tên tuổi
những người đỗ trong các kỳ thi tuyển tiến sĩ triều Lê và Mạc. Trên mỗi tấm bia
khắc một bài văn (bài ký) bằng chữ Hán, nội dung ghi lại lịch sử của các khoa thi
tổ chức từ năm 1442-1779. Có 82 tấm bia tương ứng với 82 khoa thi được dựng.

Có thể tìm thấy ở đây tên tuổi của nhiều danh nhân từng được nhắc nhiều
trong các sách sử Việt Nam như nhà sử học Ngô Sĩ Liên (1442); nhà bác học Lê
Quý Đôn; nhà chính trị, ngoại giao lỗi lạc Ngô Thì Nhậm (1775).

*Ý nghĩa văn hóa:

Không chỉ là nguồn tư liệu phong phú phản ánh một giai đoạn lịch sử hơn
300 năm dưới triều Lê - Mạc, bia tiến sĩ Văn Miếu còn là bức tranh sinh động phản
ảnh ý nghĩa văn hóa về truyền thống hiếu học và trọng dụng nhân tài của dân tộc
ta, thể hiện ở tư tưởng trị quốc dựa vào nhân tài.

- Ý nghĩa linh thiêng của hình ảnh con rùa:

54
Chú rùa cõng trên mình tấm bia Tiến sĩ, nó đã trở thành biểu tượng của Văn
Miếu - Quốc Tử Giám. Để giải thích hình tượng trên, trước tiên phải nói đến ý
nghĩa của hình ảnh con rùa đối với văn hóa của người Việt.

+ Rùa là một trong Tứ linh (gồm Long, Ly, Quy, Phượng, “Quy” là rùa)
trong văn hoá của người Việt cũng như trong văn hoá phương Đông. Trong đó,
Rùa là biểu tượng cho sự trường tồn, sống lâu, mãi mãi.

+ Trong quan niệm của người Á Đông, rùa được xem là biểu tượng của vũ
trụ. Mai rùa tượng trưng cho bầu trời, còn bụng rùa tượng trưng cho mặt đất. Khi
trời đất giao hòa, con người sẽ nằm ở giữa.

Tấm bia ở trên lưng rùa cũng là đi đúng với quy định của trời đất và các tầng
vũ trụ. Trán bia và vòng chầu mặt trời là biểu trưng của tầng trên. Còn rùa đóng
vai trò ở tầng dưới, sự việc của con người sẽ nằm ở giữa. Điều đó tạo nên thiên
địa nhân hòa, biểu tượng cho sự bền vững.

=> Do đó, biểu tượng rùa đội bia Tiến sĩ trong Văn miếu - Quốc tử giám cũng
với ý nghĩa để nói rằng, những vị trạng nguyên, những tiến sĩ sẽ được ghi danh
từ đời nay sang đời khác, bền vững mãi mãi.

- Cũng vì lí do đó, việc khắc tên các tiến sĩ trên tấm bia trên lưng rùa đã thể
hiện ý nguyện ngợi ca, vinh danh người tài; đề cao tri thức và nhân tài – nguồn
tài nguyên quý giá nhất của một quốc gia. Nhiều tấm bia đã nhắc đi nhắc lại ý
“nhân tài là nguyên khí quốc gia” và “phải vun trồng, bồi dưỡng nhân tài”. Việc
trọng hiền tài là một truyền thống đã có từ lâu đời của dân tộc ta, điều mà từ xưa
tới nay vẫn còn được duy trì.

- Việc lưu danh bia đá không những để nêu gương mà còn để nhắc nhở và
kêu gọi kẻ sĩ tự rèn đức luyện tài, cống hiến cho đất nước. Đồng thời, ngăn ngừa
điều ác, kẻ ác, để cho ý xấu được ngăn chặn, lòng thiện tràn đầy, kẻ ác thấy đó làm
điều răn, người thiện xem đó mà cố gắng.

- Bia tiến sĩ ở Văn Miếu còn thể hiện mong muốn xây dựng đất nước hưng
thịnh, kỉ cương phép nước bền chặt của cha ông ta xưa kia.

Ngay ở tấm bia đầu tiên (khoa 1442) đã chỉ rõ “Hiền tài là nguyên khí quốc
gia, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh, nguyên khí kém thì thế nước yếu
và suy, cho nên các đấng thánh đế minh vương không ai không chăm lo xây dựng
nhân tài”.

- Mỗi tấm bia còn là một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, kết tinh trí tuệ, bàn
tay của những nhà văn hóa, thư pháp, nghệ nhân hàng đầu Việt Nam các thời kỳ và
là loại hình văn bản đặc biệt của di sản tư liệu, làm phong phú thêm cho thể loại

55
của ký ức thế giới. Chữ viết trên bia, các hoa văn trang trí cùng phong cách tạo
dáng bia, rùa đều mang dấu ấn của thời đại sản sinh ra chúng.

*Liên hệ bản thân:

- Là sinh viên: coi trọng truyền thống hiếu học, chăm chỉ học tập, rèn đức
luyện tài, cống hiến cho Tổ quốc.

- Chung tay bảo vệ di sản văn hóa, lịch sử của dân tộc: lên án hành vi phá
hoại như sờ đầu rùa,…; quảng bả hình ảnh của di tích tới thế giới,…

Câu 9: Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong văn hoá giao thông
hiện nay.

Thực trạng văn hoá giao thông hiện nay ở VN đang là vấn đề thu hút sự quan
tâm của toàn thể xã hội. trong thời đại các loại phương tiện giao thông trở nên đa
dạng và phong phú, đan xen nhau hoạt động như hiện nay, các vấn đề về giao
thông càng trở thành mối quan tâm lớn, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của người
tham gia giao thông.

a. Thực trạng giao thông hiện nay:

*Ưu điểm:

- Chính phủ và Bộ Giao thông nỗ lực hiện đại hóa HTGT, xây dựng hệ thống
giao thông thông minh: camera giám sát, trạm thu phí tự động,…

- Phát triển và áp dụng nguồn nguyên liệu bền vững: tàu điện, xe buýt điện,
ô tô điện,…

- Đáp ứng nhu cầu cơ bản của người dân.

- Đã có các hoạt động tuyên truyền, nâng cao ý thức của người tham gia
giao thông nói riêng và người dân nói chung về ATGT; phê phán, lên án những
hành vi thiếu đạo đức, thiếu văn hoá gây ra những hậu quả nghiêm trọng...

*Hạn chế:

- Cơ sở hạ tầng và phương tiện giao thông do nhiều hạn chế mang tính lịch
sử chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của giao thông hiện đại, thiếu đồng bộ,
xuống cấp, không đảm bảo hệ số an toàn kĩ thuật.

- Các phương tiện giao thông cá nhân như xe máy, ô tô ngày càng bùng nổ
mạnh mẽ, phương tiện vận tải hành khách công cộng như xe buýt chưa đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn.

56
- Người tham gia giao thông chưa thực sự có ý thức tự giác khi tham gia
giao thông và đây là nhân tố quan trọng dẫn đến thực trạng đáng buồn về an toàn
giao thông của VN.

- Ùn tắc giao thông, tai nạn giao thông thường xuyên xảy ra

- Việc điều hành quản lý giao thông cũng là vấn đề đáng chú ý: các nhà
quản lí và điều hành giao thông nhiều khi lúng túng trong giải quyết thực trạng văn
hoá giao thông

- Công tác quy hoạch giao thông còn nhiều điều bất hợp lí, các trung tâm đào
tạo, sát hạch và giấy phép lái xe còn nhiều bất cập

b. Những vấn đề đặt ra trong văn hoá giao thông hiện nay:

Xây dựng văn hoá giao thông là vấn đề trọng đại, được ưu tiên hàng đầu,
xây dựng văn hoá giao thông cũng là xây dựng môi trường sống bình an, văn minh
cho cộng đồng và cho mỗi chúng ta.

- Một là, nâng cao ý thức của người tham gia giao thông: cần thay đổi thái
độ, hành vi và nhận thức của con người trong cách thức tham gia giao thông. Mỗi
người tham gia giao thông cần phải học tập và hiểu rõ luật giao thông.

Cần hình thành chương trình giảng dạy chính khoá trong nhà trường, trở
thành tiêu chí để xã hội nhìn nhận, đánh giá về cá nhân, tập thể. Phải xã hội hoá
công tác giáo dục ATGT, thông qua việc tạo dư luận trên địa bàn khu dân cư, cơ
quan, đơn vị, có sự giám sát lẫn nhau trong việc giáo dục vi phạm. Ví dụ như tình
trạng đua xe trái phép phải được kiểm điểm công khai trước tổ dân phố, đồng thời
đưa lên phương tiện thông tin đại chúng để phê phán.

- Hai là cải tạo, mở rộng và xây dựng mới cơ sở hạ tầng giao thông. Bên
cạnh việc nâng cấp, sửa chữa hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông cũ nát, xuống cấp;
nâng cấp và mở thêm đường ở các khu vực có tỷ lệ đất dành cho đường sá còn quá
thấp. Phải thực hiện một cách khẩn trương, nhanh chóng để giải thoát lưu lượng
giao thông, đồng thời tạo các làn đường bố trí cho xe buýt hoạt động.

Xây dựng một hành lang an toàn giao thông với các chính sách dự án khoa
học và hợp lý, nâng cao cơ sở hạ tầng một cách đồng bộ phù hợp với tình hình
phát triển kinh tế xã hội bền vững, không bỏ qua vấn đề môi trường.

- Ba là, nhanh chóng rà soát lại toàn bộ các văn bản luật pháp liên quan đến
an toàn giao thông để kịp thời bổ sung, chỉnh sửa, hoàn thiện cho phù hợp với tình
hình thực tế. Những điều đã cũ, không còn phù hợp cần được thay thế bằng những
nội dung mới. Yêu cầu các văn bản quy định phải được biên soạn ngắn gọn dễ

57
hiểu, không chồng chéo, hình thức thưởng phạt nghiêm minh, rõ ràng, đủ sức răn
đe, giáo dục tạo điều kiện cho người dân thực hiện thuận lợi.

- Bốn là, nâng cao hơn nữa công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ
Đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan, đơn vị trong lĩnh vực
đảm bảo trật tự ATGT, quán triệt trong mọi tầng lớp nhân dân ra sức thực hiện
nhiệm vụ bảo đảm trật tự ATGT.

- Năm là, cần nghiên cứu xây dựng giải pháp Văn hoá giao thông phù hợp,
cụ thể với từng địa phương, địa bàn. Ví dụ, các giải pháp trước mắt là: phân luồng
giao thông, phân làn đường dành riêng cho xe máy, ô tô; tăng thêm các tuyến
đường một chiều, xây thêm các cầu vượt cho người đi bộ, di chuyển nhà ga, bến xe
ra ngoại thành, giảm thiểu phương tiện cá nhân, tăng thêm phương tiện giao thông
công cộng, tổ...

- Sáu là, cần tăng cường công tác kiểm tra, tuần tra, kiểm soát, xử
lý nghiêm người vi phạm trật tự ATGT. Việc chấn chỉnh vi phạm bắt đầu từ các
hành vi là nguyên nhân dẫn đến TNGT như phóng nhanh, vượt ẩu, chạy quá tốc
độ, chở quá số người quy định... Đổi mới các biện pháp trong việc bảo đảm trật tự
ATGT, tuần tra kiểm soát, giám sát vi phạm bằng các công nghệ thông minh như
camera, hộp đen giám sát, xây dựng thêm các trạm dừng chân phù hợp.

- Bảy là, tích cực và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, đấu tranh
chống những biểu hiện tiêu cực, thoái hoá của một bộ phận công chức, viên chức
tham gia điều hành, quản lý hệ thống giao thông để tạo ra môi trường văn hoá giao
thông trong sạch, an toàn.

Thiết lập kỉ cương, trật tự an toàn giao thông và xây dựng văn hoá an toàn
giao thông của VN phải xuất phát từ đặc điểm, tính chất của từng loại hình,
phương tiện, không gian, thời gian cụ thể.

Câu 10: Phân tích các chức năng cơ bản của văn hoá. Cho ví dụ minh hoạ.

*Khái niệm văn hóa:

Văn hóa là một tổng thể hệ thống những giá trị, chuẩn mực, thói quen, những
hoạt động trong thực tiễn, có ý thức, mang tính xã hội, sáng tạo và nhân văn của
một cộng đồng người nhất định trong lịch sử nhằm thỏa mãn như cầu của cuộc
sống và tạo ra bản sắc riêng.

*Chức năng của văn hóa:

1. Chức năng nhận thức

58
+ Khả năng nhận thức, ý thức và học hỏi của con người là một sự khác biệt
với các loài động vật khác trên Trái Đất. Nếu loài vật chỉ sinh sống theo bản năng
tồn tại từ khi sinh ra thì con người luôn có ý thức cao, ngay từ khi sinh ra đã luôn
vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn.

+ Văn hóa có tính kế thừa, kế thừa từ đời này sang đời khác tức là học hỏi
hoạc rút kinh nghiệm từ những giá trị đi trước để định hướng những điều mới mẻ,
tốt đẹp hơn, hình thành một xã hội nhân văn hơn.

Ví dụ: Văn hóa là một lĩnh vực kiến thức tích hợp, thu thập kết quả nghiên
cứu của một loạt khoa học chuyên ngành. Các khoa học chuyên ngành văn hóa
như xã hội học, tâm lí học, nhân văn học,… đều nhằm nhận thức được các hiện
tượng xã hội, hiện tượng tâm lý,… xảy ra xung quanh con người, nắm bắt được
quy luật, nguyên nhân và giải pháp cho các hiện tượng đó.

2. Chức năng giáo dục

Chức năng giáo dục của văn hóa giúp nâng cao nhận thức và phát huy tiềm
năng của con người. Con người không chỉ tiếp thu tri thức, học thuật mà còn cả
nhân cách, tư tưởng đạo đức, lối sống trong các mối quan hệ xã hội.

Ví dụ: Văn học là đại diện tiêu biểu nhất cho chức năng giáo dục của văn
hóa. Văn học thông qua những câu chuyện ly kỳ hấp dẫn, những câu thơ ngọt ngào
tha thiết, nó thấm vào lòng người những triết lý sống đẹp. Nói như Arixtốt, đó là
người đọc tự “thanh lọc” tâm hồn để sống tốt hơn. Bởi thế ngày xưa, Khổng Tử bỏ
công sưu tập Kinh thi với mục đích chính là dùng những lời ca để giáo dục tính
nhân văn cho con người. Đạo làm người trong “Lục Vân Tiên” đã có ảnh hưởng
rất lớn đến văn hóa ứng xử của người dân Nam Bộ một thời

3. Chức năng thẩm mỹ

Nói đến văn hóa là nói đến cái đẹp. Bởi lẽ, “văn” là vẻ đẹp, “hóa” là làm cho
cái đẹp đẹp lên. Chức năng thẩm mỹ là một trong những chức năng quan trọng của
văn hóa để con người và cộng đồng không ngừng hoàn thiện, vươn đến cái đẹp
cả về hình thức lẫn nội dung.

Ví dụ: Nghệ thuật là một biểu hiện của chức năng thẩm mỹ của văn hóa.
Văn hóa nghệ thuật là sự chưng cất cái đẹp.

Nghệ thuật là sự thể hiện nhu cầu, tiếng nói bên trong tâm hồn con người
thông qua những hình tượng và biểu tượng mang tính thẩm mỹ, từ đó bộc lộ mong
muốn hoàn thiện hóa bản thân và cuộc đời. Âm nhạc, hội họa, nhiếp ảnh, văn
chương,…hay các hình thức nghệ thuật khác đều hướng đến cái đẹp chân chính,
cái đẹp trọn vẹn cả về hình thức lẫn nội dung.

59
4. Chức năng điều tiết

Văn hóa với những giá trị lịch sử của nó giúp điều chỉnh xã hội đi theo một
hướng nhất định giúp cho xã hội luôn vận hành ổn định vì mục tiêu chung của
cộng đồng. Cụ thể, đó chính là pháp luật và văn hóa pháp luật giúp con người
luôn tuân theo để giữ gìn trật tự xã hội, giúp mọi người cùng chung sống.

Ví dụ: Người dân ở các quốc gia phát triển thường có văn hóa giao thông
văn minh. Việc xây dựng và nâng cao văn hóa giao thông sẽ giúp cho tất cả mọi
người tham gia giao thông đều có ý thức chấp hành quy định và có cách ứng xử
giao thông văn minh, lịch sự.

5. Chức năng động lực

Văn hóa có chức năng động viên, định hướng xã hội phát triển, hướng tới
những điều tốt đẹp và nhân văn hơn. Và đó cũng chính là mục tiêu của xã hội loài
người, giúp chất lượng cuộc sống của con người tốt đẹp hơn cả về vật chất và tinh
thần.

+ Văn hoá là động lực của sự phát triển: Văn hoá có thể mang lại hiệu quả
kinh tế cao, trực tiếp nhờ các dịch vụ văn hoá như tham quan di tích, danh thắng,
nghệ thuật biểu diễn. Đây là một hướng khai thác văn hoá tốt, hiệu quả kinh tế cụ
thể, trực tiếp, nhanh nhạy,… còn là nguồn lực nội sinh của sự phát triển mà chúng
ta chưa khơi dậy được đúng năng lực vốn có của nó. Nó còn biểu hiện ở chiều sâu
qua chức năng xây dựng con người, bồi dưỡng nguồn lực về cả trí tuệ, tâm hồn,
thể chất, kĩ năng lao động. Bản sắc dân tộc của văn hoá là nguồn lực nội sinh của
sự phát triển.

+ Văn hoá là mục tiêu của sự phát triển: Bản chất của văn hoá, xét cho cùng
là trình độ được vun trồng ngày càng toàn diện của con người về cả thể lực, trí tuệ,
đạo đức, thẩm mĩ,…theo thước đo tiên tiến của thời đại. Mục tiêu cuối cùng của
một xã hội tiên tiến thống nhất với bản chất của một nền văn hoá tiến bộ, lấy việc
phục vụ con người làm mục đích cao nhất, văn hoá trở thành mục tiêu của sự
phát triển.

Ví dụ: Những mục tiêu văn hoá thể hiện vô cùng sâu sắc trong đường lối phát
triển kinh tế ở nước ta hiện nay: tăng trưởng kinh tế gắn với phát triển văn hoá,
đảm bảo sự phát triển đồng bộ, hài hoà giữa kinh tế - văn hoá để đưa đất nước,
phát triển kinh tế nhằm nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của toàn thể nhân
đồng thời giải quyết các vấn đề xã hội,…

60
PHẦN III. 10 CÂU SÁNG TẠO (mỗi câu 2 điểm)

TT Câu hỏi

1 Tại sao nói yếu tố thực vật và sông nước ảnh hưởng và in dấu đậm nét
trong văn hoá Việt Nam?

2 Tại sao có thể cho rằng có một cuộc cách mạng đá mới trong văn hoá Hoà
Bình – Bắc Sơn?

3 Ý kiến của anh (chị) về việc gộp tết Nguyên đán (theo âm lịch) vào tết
Dương lịch?

4 Yêu nước là giá trị cao nhất trong giá trị truyền thống của dân tộc. Anh
(chị) hãy đề xuất một số giải pháp phát huy lòng yêu nước của thế hệ trẻ
hiện nay.

5 Đánh giá của anh (chị) về văn hoá trang phục của giới trẻ hiện nay.

6 Văn hóa ẩm thực thể hiện rõ nét bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Anh
(chị) đề xuất một số giải pháp xây dựng và phát triển văn hóa ẩm thực góp
phần phát triển ngành văn hóa du lịch nước ta hiện nay.

7 Đề xuất một số giải pháp giữ gìn và phát huy giá trị lễ hội truyền thống
Việt Nam.

8 Đề xuất một số giải pháp giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa làng Việt
truyền thống trước tác động của quá trình đô thị hóa hiện nay.

9 Đề xuất một số giải pháp nâng cao ý thức văn hóa cho người tham gia giao
thông hiện nay.

10 Ý kiến của anh (chị) về một số biến tướng của lễ hội ngày xuân hiện nay?

Câu 2: Tại sao có thể cho rằng có một cuộc cách mạng đá mới trong văn hoá
Hoà Bình – Bắc Sơn?

- Văn hóa Hòa Bình - Bắc Sơn là văn hóa thuộc thời đại Đá Mới, có niên đại từ
8000 năm đến 12000 năm cách ngày nay.

- Các cư dân Hòa Bình - Bắc Sơn phân bố rải rác ở vùng hang động núi đá vôi
Đông Bắc, Tây Bắc vào đến tận vùng Quảng Bình (Trung Bộ, Việt Nam), trong
đó, tập trung nhất ở tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa, Lạng Sơn, cũng có một số thị tộc
cư trú ở dưới các mái đá ven sông suối.

61
Gọi là "Cuộc cách mạng thời đá mới" bởi vì: bước vào thời đá mới đã có sự phát
triển vượt bậc về công cụ lao động, sản xuất, đời sống văn hóa, tinh thần so với
thời kì trước. Biểu hiện:

* Về công cụ lao động:

+ Có thể ghè đẽo những mảnh đá thành hình dạng gọn và chính xác, thích hợp với
từng công việc, với nhiều kiểu loại theo những yêu cầu khác nhau (dao, rìu, đục,
…), được mài nhẵn ở rìa lưỡi hay toàn thân, được khoan lỗ hay có nấc để tra cán.

+ Biết đan lưới đánh cá bằng sợi vỏ cây và làm chì lưới bằng đất nung, biết làm đồ
gốm để dựng và đun nấu (nồi, bát, vò,…).

*Về sản xuất:

- Con người từ săn bắt, hái lượn, đánh cá đã biết tới trồng trọt và chăn nuôi.

+ Việc lượm hái từ năm này qua năm khác đã đem lại kinh nghiệm trồng và thu
hoạch theo thời vụ một số cây lương thực và thực phẩm như khoai, củ, bầu, bí, lúa,

+ Đi săn, bắt được thú nhỏ người ta giữ lại để nuôi và thuần dưỡng thành gia súc,
như: cho, cừu, lợn, bò,…

- Họ bắt đầu biết khai thác từ thiên nhiên cái cần thiết cho cuộc sống của mình,
chứ không chỉ thu lượm những cái có sẵn trong thiên nhiên.

* Về đời sống văn hóa, tinh thần:

- Bắt đầu làm sạch những tấm da thú để làm ấm và “có văn hóa”. Những chiếc cúc
(khuy) và kim làm bằng xương tìm thấy trong các di chỉ văn hóa đã nói lên điều
đó.

- Biết dùng đồ trang sức như: vòng cổ bằng vỏ ốc và chuỗi hạt xương (bằng cách
đem khoan lỗ và lấy dây xâu lại), vòng tay, vòng cổ chân, hoa tai,… bằng đá màu.

- Các nhà khảo cổ học còn tìm thấy chiếc sáo bằng xương dùi lỗ, đàn đá và có lẽ
còn có cả trống bịt da.

⟹ Những thay đổi trên mang tính chất của một "cuộc cách mạng".

62

You might also like