Professional Documents
Culture Documents
4. Chặng đường phát triển 3000 năm của tiếng Việt với hai thời kì khác biệt
4.1. Thời kì đầu
Thời kì này chiếm 2/3 thời gian phát triển. Lịch sử tiếng Việt trong thời kì này
chính là lịch sử các ngôn ngữ Việt-Mường. Ở thời kì này, những biến đổi của tiếng
Việt cũng chính là những biến đổi được ghi lại trong dấu ấn của các ngôn ngữ thuộc
nhóm Việt-Mường hiện nay. Và chính điều đó đã lí giải vì sao khi tiến hành nghiên
cứu lịch sử tiếng Việt người ta lại phải tiến hiến hành nghiên cứu những vấn đề ngôn
ngữ của các ngôn ngữ Việt-Mường hiện nay.
4.2. Thời kì sau
Trong khoảng thời gian còn lại, tiếng Việt đã phát triển theo con đường của
riêng nó và những biến đổi về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp chỉ tác động ở riêng tiếng
Việt mà không liên quan gì đến các ngôn ngữ Việt-Mường khác.
Chính vì thế, khi nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, đúng theo nghĩa của nó, sẽ là
lịch sử phát triển từ giai đoạn tiền Việt-Mường cho đến tiếng Việt hiện đại hiện nay.
Chương 3
VỀ PHÂN ĐỊNH CÁC GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ TRONG QUÁ TRÌNH
PHÁT TRỂN CỦA TIẾNG VIỆT
Để có điều kiện đi sâu khảo sát những hiện tượng lịch sử cụ thể của tiếng Việt,
chúng tôi thấy rằng trước hết cần phải xác định những giai đoạn phát triển chính của
nó, từ khởi thuỷ cho đến hiện nay. Theo chúng tôi, đây là một công việc hết sức quan
trọng. Bởi vì, muốn theo dõi lịch sử của một ngôn ngữ minh bạch nhất, rõ ràng nhất thì
phải hình dung ra những thời điểm phát triển của bản thân nó một cách có cơ sở. Mà
điều này, dường như cho đến hiện nay, hầu như trong số các nhà nghiên cứu lịch sử
tiếng Việt vẫn còn những cách nhìn nhận chưa cùng cấp với nhau.
Cái khó ở đây là việc xác định khoảng cách thời gian trong quá khứ. Nó có thể
là vài trăm năm, cũng có thể là hàng nghìn năm. Đồng thời, thời điểm để đánh dấu
khoảng cách ấy cũng có thể là một thời điểm xác định, cũng có thể là một quá trình
xảy ra trong một khoảng thời gian nhất định. Như vậy, điều đó có nghĩa là ở đây tính
tương đối của thời gian lịch sử sẽ mang tính hiện hữu và đây chính là đặc trưng rõ
nhất của nghiên cứu so sánh lịch sử trong ngôn ngữ học.
Hiện nay, như chúng ta biết, đa số các nhà nghiên cứu đều chấp nhận giả
thiết tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc nhóm Việt-Mường nhánh Mon-Khmer họ Nam
Á, một giả thiết do A.G. Haudricourt chứng minh thuyết phục nhất từ những năm 50
của thế kỉ trước và đã được nhiều người bổ sung, trong đó có chúng tôi. Như vậy, điều
đó cũng có nghĩa là đối với chúng ta, tiếng Việt đã trải qua giai đoạn phát triển không
được ghi chép lại (từ thế kỉ X trở về trước) và đã được ghi chép lại ít nhiều về sau này.
Do vậy, có một vấn đề quan trọng là trong sự khác biệt có thực ấy, phải làm sao thể
hiện được một sự phân chia ích lợi cho việc nghiên cứu, không bị nghiêng về bên nay
hay coi nhẹ bên kia. Trong thực tế, vẫn còn có những nhà nghiên cứu chưa tránh được
nhược điểm đó.
1. Tiếng tiền Annam (protoannamite): trước khi hình thành Hán Việt.
2. Tiếng Annam cổ xưa (annamite archaique): sự hoàn thiện vấn đề Hán Việt
(từ thế kỉ X trở đi)
3. Tiếng Annam cổ (annamite ancien): từ vựng Hán Việt của Hoa di dịch ngữ
(thế kỉ XV). Đây là thời điểm ghi lại cách đọc tiếng Hán Việt, tiếng Hán Việt trong tiếng
Việt ở một mức độ tương đối chính xác
4. Tiếng Annam trung cổ (annamite moyen): cuốn từ điển Việt-Bồ-La của cha
cố A. de Rhodes (1651 – thế kỉ XVII)
5. Tiếng Annam hiện đại (annamite moderne): thế kỉ XIX trở về sau.
Sau đó ông còn ghi rõ rằng khái niệm protoannamite (tiền Annam) mà ông sử
dụng là cái ngôn ngữ chung để từ đó về sau tách ra thành tiếng Việt (annamite) và
tiếng Mường.
Như vậy, chúng ta dễ dàng nhận thấy cách phân chia của ông dường như hoàn
toàn dựa vào mốc thời gian cụ thể, tức là căn cứ vào thời gian xuất hiện tư liệu được
ông sử dụng để so sánh và kết quả phân định rất chi tiết.
Trong công trình của H. Maspero, ông rất nhất quán trong cách xử lí tư liệu như
đã nói ở trên khi xem xét lịch sử của từng phụ âm đầu trong tiếng Việt. Chẳng hạn,
ông coi những hiện tượng xử lí âm Hán Việt là những xử lí ngữ âm thuộc thế kỉ thứ X
hay ở thời gian sau đó, còn khi những hiện tượng nào được so sánh với các ngôn ngữ
Mon-Khmer hoặc Thái, ông coi đó là hiện tượng ngữ âm thuộc tiền Việt, tức là trước
thế kỉ thứ X. Nhờ cách làm này mà chúng ta thấy rõ sự phân định lịch sử tiếng Việt
theo cách của H. Maspero có cái lợi ở thời kì sau nhưng lại không thật rõ ràng ở thời kì
trước thế kỉ thứ X.
So với cách phân định lịch sử theo lối phục nguyên tiền ngôn ngữ, cách làm mà
chúng ta đang nói đến cho thấy một kết quả có vẻ cụ thể và xác định . Nhưng cách làm
này chỉ có thể giúp ích khi lịch sử ngôn ngữ đã có chữ viết hay đã được ghi chép lại.
Còn khi ngôn ngữ không có một trong hai điều kiện ấy, cách làm này sẽ không thực
hiện được. Chứng cớ là, khi xem xét lịch sử tiếng Việt, H. Maspero đã phải đưa ra cái
hộp " trước thế kỉ X" để đựng một thời kì khá dài, dài tới mức khi phân kì theo lối
phục nguyên người ta phải chia thành những giai đoạn khác nhau. Chính vì một trong
những lẽ đó, chúng ta dễ dàng nhận thấy cách phân định giai đoạn theo lối phục
nguyên có ưu thế hơn rất nhiều.
1.3. Cách phân định lịch sử ngôn ngữ dựa vào tình thế ngôn ngữ
Tình thế ngôn ngữ có thể hiểu là hiện trạng của ngôn ngữ phản ánh mối tương
tác hay tương quan giữa các ngôn ngữ, giữa các kiểu văn tự, giữa vai trò xã hội khác
nhau của chúng trong cùng một môi trường xã hội ngôn ngữ. Do đó có thể nói đây là
bình diện xã hội ngôn ngữ trong lịch sử, gắn với lịch sử cụ thể của dân tộc chủ thể sử
dụng ngôn ngữ ấy. Một thời kì khá dài, trong nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, người ta
thường "quên đi" khía cạnh này. Chính vì thế, hầu như việc nghiên cứu lịch sử một cá
thể ngôn ngữ cụ thể chưa gắn với sự phát triển ngôn ngữ với bối cảnh lịch sử dân tộc
sử dụng ngôn ngữ ấy.
Đối với trường hợp tiếng Việt, người nhận thấy sự thiếu khuyết này là giáo sư Nguyễn
Tài Cẩn và ông đã áp dụng nó vào phân định giai đoạn lịch sử tiếng Việt. Trong một tài liệu
công bố năm 1998, dựa vào tình trạng tương tác hay cách sử dụng ngôn ngữ của xã hội Việt
Nam trong lịch sử, ông đã đề nghị phân chia lịch sử 12 thế kỉ của tiếng Việt một cách khá chi
tiết. Nhờ đó, chúng ta nhận thấy khá rõ bức tranh lịch sử ngôn ngữ liên quan với lịch sử dân
tộc. Tuy nhiên, cũng có thể nhận thấy sự áp dụng như thế cũng chỉ có khả năng thực hiện khi
ngôn ngữ hoặc chủ thể của nó đã được ghi chép lại bằng văn tự. Bảng phân kì mà giáo sư đưa
ra là như sau:
A, Giai đoạn proto - Có 2 ngôn ngữ: tiếng Hán (khẩu Vào khoảng các thế kỉ VIII, IX
Việt (tiền Việt) ngữ của lãnh đạo) và tiếng Việt.
- Có 1 kiểu văn tự: chữ Hán
B, Giai đoạn tiếng Việt - Có 2 ngôn ngữ: tiếng Việt (khẩu Vào khoảng các thế kỉ X, XI,
tiền cổ (cổ xưa) ngữ của lãnh đạo) và văn ngôn Hán XII
- Có 1 kiểu văn tự: chữ Hán
C, Giai đoạn tiếng Việt - Có 2 ngôn ngữ: tiếng Việt và văn Vào khoảng các thế kỉ XIII,
cổ ngôn Hán XIV, XV, XVI
- Có 2 văn tự: chữ Hán và chữ Nôm
D, Giai đoạn tiếng Việt - Có 2 ngôn ngữ: tiếng Việt và văn Vào khoảng các thế kỉ XVII,
trung đại ngôn Hán XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX
- Có 3 văn tự: chữ Hán và chữ Nôm
và chữ quốc ngữ
E, Giai đoạn tiếng Việt - Có 3 ngôn ngữ: tiếng Pháp, tiếng Vào thời gian Pháp thuộc
cận đại Việt và văn ngôn Hán
- Có 4 văn tự: Pháp, Hán, Nôm và
chữ quốc ngữ
G, Giai đoạn tiếng Việt - Có 1 ngôn ngữ: tiếng Việt Từ năm 1945 trở đi
hiện nay - Có 1 văn tự: chữ quốc ngữ
Có thể nói, cách phân chia theo tình thế ngôn ngữ đã chỉ rõ đặc điểm xã hội
trong thời kì phát triển của tiếng Việt. Nó cho thấy sự chuyển đổi chức năng xã hội của
tiếng Việt với tư cách là tiếng mẹ đẻ của dân tộc Việt Nam và nhờ đó cho thấy sự liên
quan mật thiết giữa chữ viết và tiếng nói dân tộc trong mối quan hệ nhiều chiều ở cùng
một thời kì lịch sử.
Trong những cách phân định giai đoạn lịch sử như đã mô tả ở trên, mỗi cách có
những đóng góp riêng của mình. Chẳng hạn, cách thứ ba phản ánh rõ nét sự tương tác
giữa lịch sử ngôn ngữ và lịch sử dân tộc, cách thứ hai có ưu thế hơn về điểm thời gian
phân định. Nhưng cách thứ nhất rõ ràng mới cho phép người nghiên cứu xem xét cả
giai đoạn mà hai cách phân định trước khó có thể vươn tới được lẫn những giai đoạn
sau này một cách nhất quán.
Thế nhưng, đối với chúng tôi, đương nhiên là việc kết hợp đồng thời cả ba cách
phân định đã được áp dụng là để tận dụng thế mạnh và tránh được những hạn chế của
mỗi cách. Với cách làm đó, chúng tôi xin đề nghị xem xét lịch sử tiếng Việt và những
giai đoạn phát triển của nó theo tiến trình dưới đây.
Nội dung của chương này cung cấp một số quy luật ngữ âm trong lịch sử phát
triển của tiếng Việt. Những quy luật ngữ âm sẽ cung cấp cho người học những nội
dung về nghiên cứu từ vựng lịch sử, ngữ pháp lịch sử trong lịch sử tiếng Việt.
Thứ nhất, đặc điểm nổi bật quan trọng ở bình diện này là tiếng tiền Việt-Mường
chưa có hệ thống thanh điệu, giống như tất cả các ngôn ngữ Mon-Khmer khác. Nói
khác đi, tiếng Việt ở giai đoạn tiền Việt-Mường là một ngôn ngữ chưa có hệ thống
thanh điệu một cách chân chính. Lúc này, vai trò khu biệt ý nghĩa của các từ trong
ngôn ngữ đều do những đơn vị đoạn tính của âm tiết đảm nhận.
Thứ hai, về hệ thống ngữ âm, người ta có thể nói tới một danh sách phụ âm và
nguyên âm tiền Việt-Mường sau đây.
- Đối với trường hợp tiền âm tiết, trong tiếng tiền Việt-Mường thường chỉ gặp
các phụ âm vô thanh *p-, *t-, *ch-, *k-, *s- và thỉnh thoảng mới là phụ âm lỏng hoặc
phụ âm hữu thanh. Về nguyên âm ở kiểu âm tiết này, người ta cũng thấy có hai loại
khác nhau. Một loại với đại đa số là nguyên âm *a, ít hơn nữa là nguyên âm *i là
những nguyên âm tự nó làm thành tiền âm tiết (tức tiền âm tiết không có phụ âm đầu);
ở những tiền âm tiết mở kiểu Cv, thường chúng ta chỉ thấy có nguyên âm trung lập *ơ.
Về nguyên tắc, cả phụ âm lẫn nguyên âm ở tiền âm tiết không mang giá trị âm vị học
nên các từ ngữ âm hai âm tiết này không phải là những từ song tiết đích thực mà
chúng chỉ thể hiện giá trị phát âm mà thôi. Như vậy, các yếu tố làm nên tiền âm tiết chỉ
bó hẹp trong một bộ phận nhất định của hệ thống ngữ âm của tiếng tiền Việt-Mường.
- Về tổ hợp phụ âm, trong tiếng tiền Việt-Mường chỉ thấy những dạng thức có
hai yếu tố, trong đó yếu tố thứ hai có thể trùng với âm đầu của âm tiết chính. Như vậy,
rất có thể tổ hợp phụ âm ở giai đoạn này có phần đơn giản hoặc đơn điệu và nó chính
là hệ quả, là chứng cớ rõ ràng biểu hiện tình trạng ngừng hoạt động của hệ thống phụ
tố cấu tạo từ (chủ yếu là dưới dạng trung tố) của thời kì Mon-Khmer trong tiếng tiền
Việt-Mường. Nếu thể hiện tổ hợp phụ âm thành C1C2 (trong đó C2 là phụ âm của âm
tiết chính), tình hình tổ hợp phụ âm là như sau: Yếu tố C1 thường là phụ âm vô thanh
(gần 90%), trong đó những phụ âm có tần số xuất hiện cao là *k-, *t-, *p-, *ch-, sau đó
là hai âm sát *s-, *h- và đôi khi cũng có âm không vô thanh mà đáng kể nhất là *m-.
Yếu tố C2 là âm đầu âm tiết chính nên về nguyên tắc có thể là phụ âm bất kì nào
nhưng thường gặp nhất là âm -*r-, -*l- và hầu như ít gặp là âm tắc hữu thanh.
- Đối với trường hợp ở âm tiết chính và ở từ đơn âm, trong tiếng tiền Việt-
Mường, dựa trên kết quả nghiên cứu của Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn hay của M. Ferlus,
chúng ta có thể nói đến những hệ thống sau đây.
Trước hết, đó là hệ thống phụ âm đầu gồm:
Vị trí 1 2 3 4 5
Phụ âm tắc bật hơi *ph *th *kh
Phụ âm tắc vô thanh *p *t *ch *k *?
Phụ âm tắc hữu thanh *b *đ *j *g
Phụ âm tiền mũi *?b *?đ *?j *?g
Phụ âm mũi *m *n *nh *ng
*w *r
Phụ âm bên và rung
*l
Các âm xát vô thanh *s *s' *h
Các âm xát hữu thanh *z *j
Điều đáng chú ý thứ nhất là ở giai đoạn tiền Việt-Mường này, như danh sách
được chúng tôi đề nghị ở trên, tiếng Việt có sự đối lập đều đặn giữa cặp vô thanh và
hữu thanh ở cả trường hợp âm tắc lẫn trường hợp âm xát. Đây là sự đối lập rất đáng
được chú ý trong hệ thống phụ âm của ngôn ngữ ở giai đoạn lịch sử này. Điều đáng
chú ý thứ hai là cũng ở vào giai đoạn này, chúng tôi đã đề nghị có một dãy ba âm bật
hơi. Đối với hiện tượng thứ nhất, lí do để tái lập như vậy là căn cứ vào nguyên tắc hình
thành thanh điệu của tiếng Viêt và cách xử lí xát hoá âm tắc giữa sau này. Còn đối với
hiện tượng thứ hai việc tái lập như thế được sự ủng hộ đều đặn trong các nhôn ngữ
Việt-Mường.
Sau đó là hệ thống vần tiền Việt-Mường bao gồm sự kết hợp giữa nguyên âm
với âm cuối. Nhưng để tiện lợi cho việc theo dõi vấn đề, chúng tôi xin tách biệt một
bên là danh sách âm cuối và một bên là danh sách nguyên âm như sau:
Danh sách âm cuối gồm:
Vị trí 1 2 3 4 5
Các phụ âm cuối tắc *p *t *ch *k
Các phụ âm cuối mũi *m *n *nh *ng
Các phụ âm cuối khác *w *r *j
*s *h
Danh sách nguyên âm gồm:
*i:*i *ư *u:*u
*ê:*ê*ơ: *ơ *ô:*ô
*e:*e*a: *a *o:*o
*i
*iê
ơ
(trong đó có *ie, *iơ là hai âm đôi).
Tóm lại, tiếng tiền Việt-Mường (hay còn gọi là tiếng Việt ở giai đoạn tiền Việt-
Mường), ngôn ngữ cơ sở của tiếng Việt, về cơ bản vẫn lưu giữ những đặc điểm quan
trọng của nhánh ngôn ngữ Mon-Khmer. Điều đó thể hiện ở chỗ:
Nó, về đại thể, vẫn duy trì vốn từ vựng gốc chung có từ Nam Á và Mon-Khmer.
Tuy nhiên, ở giai đoạn này trong một mức độ nào đấy, tiếng tiền Việt-Mường
đã có sự tiếp xúc cơ bản dẫn đến vay mượn lẫn nhau với các ngôn ngữ Nam
Đảo.
Là một ngôn ngữ chưa có thanh điệu. Tình trạng này vừa là điều kiện, vừa là hệ
quả để chúng ta nhận biết hai đặc điểm sau đây. Thứ nhất, trong danh sách phụ
âm đầu âm tiết chính sự đối lập vô thanh và hữu thanh vẫn được duy trì. Thứ
hai, trong danh sách phụ âm cuối âm tiết chính hai âm cuối xát và tắc họng còn
hiện diện đầy đủ.
Đồng thời tuy nó vừa có những từ cấu tạo đơn tiết vừa có những từ cấu tạo song
tiết nhưng cả hai kiểu ấy không lưu giữ phương thức phụ tố cấu tạo từ như các
ngôn ngữ thuộc những nhóm Mon-Khmer còn lại.
Nét nổi trội của giai đoạn này là tình trạng duy trì thế đối lập dài ngắn khá đều
đặn của các nguyên âm làm âm chính của âm tiết chính. Rất có thể, về sau do
sắp xếp lại thế đối lập nguyên âm này mà tình trạng thanh điệu của các ngôn
ngữ và thổ ngữ khác nhau trong nhóm Việt-Mường rất đa dạng và phức tạp.
Mặt khác, nó có hiện tượng song tiết hoá các từ đơn Mon-Khmer (những từ đơn
này còn lưu lại trong một vài ngôn ngữ thuộc nhóm Katu hiện nay). Đây dường
như là nguyên nhân khiến cho các ngôn ngữ thuộc tiểu nhóm song tiết trong
nhóm Việt-Mường ngày nay có tỉ lệ từ ngữ âm song tiết khá cao.
Chính nhờ những đặc điểm nói trên và có thể còn một vài đặc điểm khác nữa
chưa biết đến, tiếng tiền Việt-Mường đã tách riêng khỏi nhánh Mon-Khmer, làm thành
ngôn ngữ mẹ, ngôn ngữ tiền thân của tất cả các ngôn ngữ thuộc nhóm Việt-Mường
hiện nay.
Trong nghiên cứu lịch sử tiếng Việt, hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất
coi đây là mốc khởi đầu lịch sử của ngôn ngữ này. Vì thế, những khảo sát về một quá
trình biến đổi nào đó đều được theo dõi chủ yếu từ giai đoạn tiền Việt-Mường cho đến
hiện nay. Do chỗ giai đoạn này không có tài liệu ngữ văn để ghi chép lại nên những
hiểu biết về nó đều dựa trên những nghiên cứu so sánh-lịch sử với các ngôn ngữ có họ
hàng xa gần với tiếng Việt phân bố trên lãnh thổ Việt Nam và khu vực. Những dạng
thức mà chúng ta vừa nêu lên ở trên về ngôn ngữ này đều là những dạng thức tái lập
và chúng được gọi là dạng thức tiền Việt-Mường hay là dạng thức của tiếng Việt ở giai
đoạn tiền Việt-Mường. Như vậy tiếng tiền Việt-Mường là ngôn ngữ mẹ của nhóm
Việt-Mường nhưng đồng thời cũng là giai đoạn phát triển đầu tiên của lịch sử tiếng
Việt. Điều này có nghĩa là những quy luật ngữ âm hành chức trong lịch sử tiếng Việt
được tính từ quá trình khởi thuỷ ở giai đoạn này.
PHẦN II
TỪ HÁN VIỆT
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.1 Quá trình tiếp xúc và vay mượn từ ngữ Hán vào tiếng Việt
Do đặc điểm địa lý, lịch sử mà hai nước Việt Nam và Trung Hoa có quan hệ với nhau
từ rất sớm. Trong mối quan hệ đó có mối quan hệ về ngôn ngữ - văn hoá. Ngôn ngữ với tư
cách là công cụ giao tiếp có thể vượt qua không gian và thời gian, trong đó có cả ranh giới
quốc gia, dân tộc để tiếp xúc với nhau. Một thực tế mà ai cũng phải thừa nhận là giữa tiếng
Việt và tiếng Hán có sự tiếp xúc từ rất sớm, vào khoảng 2000 năm về trước. Sự tiếp xúc này
để lại nhiều dấu vết trong tiếng Việt hiện đại. Một số lượng khá lớn từ ngữ Hán thuộc nhiều
nguồn khác nhau (Hán, Tạng, Miến, Ấn) đã du nhập vào tiếng Việt qua nhiều giai đoạn và với
nhiều phương thức khác nhau. Mặc dù, tiếng Hán và tiếng Việt không cùng một nguồn gốc.
Tiếng Hán thuộc họ Hán - Tạng, tiếng Việt nằm trong nhánh Việt - Mường thuộc họ Nam Á.
Thế nhưng chúng lại có ưu thế là cùng loại hình. Đây chính là một điều kiện thuận lợi cho sự
tiếp xúc và vay mượn giữa hai ngôn ngữ.
Theo thống kê của H.Maspéro (1912), “trong tiếng Việt có một số lượng khá lớn được
du nhập từ tiếng Hán (chiếm trên 60%). Sự du nhập này có lúc diễn ra chậm chạp, lẻ tẻ, có lúc
diễn ra ồ ạt. Cũng có khi nó đã vào tiếng Việt rồi lại được biến đổi đi theo các sự biến đổi ngữ
âm của tiếng Việt” (H.Maspéro,1912). Có thể xem xét sự tiếp xúc văn hóa - ngôn ngữ Việt-
Hán theo từng giai đoạn sau:
Thế kỷ thứ X thường được các nhà sử học coi là cái mốc để phân đôi lịch sử Việt Nam
làm hai giai đoạn: a) giai đoạn trước thế kỷ X là thời kỳ nước Việt chịu sự đô hộ của phong
kiến phương Bắc, và b) giai đoạn từ thế kỷ thứ X là kỷ nguyên mới của nước Đại Việt - kỷ
nguyên độc lập, tự chủ nước nhà. Trên cơ sở đó có thể lý giải tình hình tiếp xúc ngôn ngữ,
văn hóa Việt - Hán có ảnh hưởng đến sự du nhập từ vựng tiếng Hán vào tiếng Việt.
- Thời kỳ trước thế kỷ thứ X
Ngay từ đầu Công nguyên, từ khi phương Bắc đô hộ, tiếng Hán đã được sử dụng ở
Giao Châu với tư cách là một sinh ngữ. Mặc dù người Hán muốn đồng hóa tiếng nói của dân
tộc Việt, nhưng tiếng Việt đã có cơ sở vững vàng từ trước vẫn tiếp tục tồn tại. Tuy nhiên trải
qua hàng ngàn năm, một số lẻ tẻ từ Hán thường dùng đã được người Việt mượn để lấp vào
chỗ thiếu hụt trong tiếng Việt như: buồng, buồm, muộn, mây, muỗi, đục… Ngoài 113 yếu tố
đơn tiết do Vương Lực tìm ra và sau này tăng lên là 401 do Vương Lộc phát hiện thêm thì
không thấy có một thành ngữ nào cả. Sở dĩ có tình hình như vậy là do sức mạnh chống lại
đồng hóa của người Việt ở mọi mặt, trong đó có ngôn ngữ. Tiếng Hán ở Việt Nam trong giai
đoạn này chỉ là một sinh ngữ. Học tiếng Hán, sử dụng tiếng Hán là học, sử dụng một ngoại
ngữ. Thời kỳ này ở Giao Châu sử dụng hai loại ngôn ngữ: Việt ngữ và Hán ngữ, tức là một
bên là tiếng Hán một bên là tiếng Việt bình dân và một loại chữ viết tức là chữ Hán. “Suốt
thời kỳ Bắc thuộc, chữ Hán là ngôn ngữ Trung Quốc được dùng trong Nhà nước, nhà chùa,
thờ cúng tổ tiên, sáng tác văn học, trong ghi chép giấy tờ hàng ngày. Tổ chức hành chính theo
Trung Quốc, phong tục tập quán theo Trung Quốc, Khổng giáo, Lão giáo của Trung Quốc
truyền vào. Phật giáo cũng được truyền vào từ Trung Quốc là chính. Nhưng điều đó không
làm Việt Nam bị Trung Quốc hóa mà chỉ chịu ảnh hưởng của Trung Quốc (Hồng Phong,
1984).
Cuối thời đô hộ, người Hán mở nhiều trường học, văn ngôn Hán được truyền bá rộng
rãi cùng với kinh, sử, tử, tập. Nhiều người Việt đã tinh thông chữ Hán và đã đỗ đạt cao, sang
làm quan ở Trung Quốc, bên cạnh đó lại có những kinh Phật viết bằng chữ Hán. Qua thư tịch,
lớp từ văn hóa của người Hán được phổ biến cho người Việt. Nhiều từ biểu thị khái niệm trừu
tượng của Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo trong tiếng Hán được người Việt vay mượn để lấp
khoảng trống thiếu hụt trong ngôn ngữ của mình.
- Thời kỳ từ thế kỷ X
Năm 938, Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán, mở ra một thời kỳ độc lập tự chủ cho
dân tộc, chấm dứt nghìn năm Bắc thuộc. Với nền độc lập tự chủ của mình, các triều đại phong
kiến Việt Nam đã tiếp thu một cách có ý thức nhiều điều của Trung Quốc từ cách tổ chức
hành chính đến cách tổ chức kinh tế, văn hoá, tư tưởng để xây dựng quốc gia Đại Việt và tiếp
tục sử dụng tiếng Hán để xây dựng thể chế chính trị và văn hóa dân tộc, do tiếng Việt lúc ấy
chưa đủ khả năng để diễn đạt những khái niệm phức tạp. Đọc những văn bản Nôm rất sớm
còn tàng trữ lại được, chúng ta thấy khá rõ điều ấy. Trong các văn bản Nôm này, các khái
niệm trừu tượng đều được diễn đạt bằng chữ Hán. Chính quyền phong kiến Việt Nam vẫn sử
dụng hệ thống hành chính theo mô hình Trung Quốc, chữ Hán vẫn được các triều đại phong
kiến Việt Nam tiếp tục sử dụng chính thức trong cơ quan hành chính, trường học, khoa cử
cũng như trong sáng tác văn học. Đặc điểm lớn nhất trong sự tồn tại chữ Hán ở Việt Nam là
chữ Hán dần dần bị đồng hoá và bị hấp thu vào văn hoá của Việt Nam. Nhiều tinh hoa văn
hoá chữ Hán đã được dân tộc Việt Nam hấp thụ. Nhiều tác phẩm văn học, văn hoá của Việt
Nam đã được viết bằng chữ Hán. “Chính vào lúc sự tiếp xúc ngôn ngữ không bị ràng buộc bởi
yêu cầu chính trị theo quan hệ chinh phục, nó lại đi sâu vào ngôn ngữ. Sự vay mượn lúc này
đã đóng một vai trò của chính ngôn ngữ đi vay, không phải là sự cưỡng ép” (Nguyễn Văn
Khang, 2007). Nhưng lúc này tiếng Hán đã mất đi tư cách là một sinh ngữ; tiếng Hán không
được đọc theo âm Hán của người Hán, tiếng Việt đã tạo ra âm Hán Việt là cách đọc chữ Hán
của riêng người Việt Nam trên địa bàn Việt Nam. Tiếng Việt không tiếp xúc trực tiếp với
tiếng Hán nhưng số lượng từ ngữ Hán vào tiếng Việt thời kỳ này có thể nói là “ồ ạt”. Từ cái
mốc đầu thế kỷ X về sau, tiếng Hán ở Việt Nam đã tách ra khỏi tiếng Hán ở Trung Quốc và
phát triển theo con đường riêng của mình, bị chi phối bởi quy luật ngôn ngữ (ngữ âm, ngữ
pháp và ngữ nghĩa) của tiếng Việt và cách sử dụng của người Việt, đặc biệt là về mặt ngữ âm.
Từ khi xuất hiện âm đọc Hán Việt, về mặt lý thuyết tất cả các chữ Hán vào Việt Nam bằng
con đường sách vở đều được đọc theo âm Hán Việt.
Việc tiếng Hán ở Việt Nam tách khỏi tiếng Hán ở Trung Quốc và phát triển theo con
đường riêng của mình đã là bước Việt hóa đầu tiên và quan trọng đối với lớp từ vựng Hán
nhập vào tiếng Việt. Điều đáng chú ý là, ở Việt Nam lúc này, bên cạnh tiếng Việt là ngôn ngữ
giao tiếp khẩu ngữ hàng ngày của mọi từng lớp người trong xã hội thì văn tự Hán (với cách
đọc Hán Việt, cách viết vừa theo ngữ pháp Hán cổ vừa theo ngữ pháp Việt) là ngôn ngữ sách
vở, ngôn ngữ hành chính (sắc, lệnh, chiếu, chỉ), ngôn ngữ khoa cử, văn chương. Cách gọi chữ
Hán là chữ Nho (hay chữ Thánh Hiền) cũng xuất phát từ đây. Các nhà Nho là những người đi
tiên phong trong việc tuyên truyền văn hoá, văn học Hán vào Việt Nam. Bối cảnh này giúp
cho các đơn vị từ vựng Hán trong đó có cả thành ngữ Hán được du nhập vào tiếng Việt.
1.1.2 Phân loại từ Việt gốc Hán
Những từ vay mượn Hán trong tiếng Việt bao gồm cổ Hán Việt (tiền Hán Việt), Hán
Việt, Hán Việt Việt hoá. Gọi như vậy là căn cứ vào các thời kỳ du nhập khác nhau. Ngữ âm
lịch sử tiếng Hán và tiếng Việt là căn cứ để xác định cổ Hán Việt, Hán Việt và Hán Việt Việt
hoá. Sự phân biệt ba loại này đã có trong công trình “Nghiên cứu ngữ âm lịch sử tiếng Việt
Nam” của H.Maspero (1912).
Các từ tiền Hán Việt do du nhập vào tiếng Việt từ rất sớm, tuyệt đại bộ phận lại là
những từ đơn tiết nên đã được Việt hoá rất sâu, có khả năng vận dụng độc lập trong tiếng Việt
và “có một vị trí không khác gì các từ gốc Mon- Khmer và gốc Tày -Thái, trong thực tế lâu
nay vẫn được coi là từ thuần Việt” (Nguyễn Ngọc San, 2003, tr.146].
Hán Việt là giai đoạn vay mượn tiếng Hán từ đời Đường. Có thuyết cho rằng âm đọc
Hán Việt này có thể là ngữ âm tiếng Hán đời Đường cuối thế kỷ VIII truyền thụ cho khu vực
Giao Châu. Cách đọc này dần dần bị biến đổi do ảnh hưởng của âm hệ và quy luật phát âm
của tiếng Việt bản địa. Nhất là sau thế kỷ X, Việt Nam đã độc lập, tách khỏi hệ thống ngữ âm
đời Đường, hình thành quy luật phát âm riêng của người Việt Nam và vùng văn hoá Việt
Nam. Trong đó cách đọc của 6000 – 7000 chữ Hán thường dùng nhất có tính hệ thống và tính
quy luật rất mạnh, có quy luật ứng đối chặt chẽ và đều đặn với âm hệ thiết vận. Do vậy, về lý
thuyết, có thể dùng âm Hán Việt này để đọc toàn bộ kho chữ Hán. Xét theo nghĩa này, âm
Hán Việt đã hình thành một cách có hệ thống, đồng thời có quy luật phát triển độc đáo và có
chức năng công dụng nhanh. Nguyễn Thiện Giáp (1999) có nhấn mạnh: “Vì người ta có thể
đọc tất cả các chữ Hán theo cách đọc Hán Việt cho nên cần phân biệt từ gốc Hán trong tiếng
Việt và các từ Hán đọc theo âm Hán Việt” (Nguyễn Thiện Giáp, 1999). Tác giả cho rằng:
“Các từ ngữ gốc Hán không đọc theo âm Hán Việt có số lượng lẻ tẻ và không làm thành hệ
thống như từ Hán Việt”(Nguyễn Thiện Giáp, 1999). Do các từ ngữ Hán Việt khi nhập vào hệ
thống tiếng Việt đã chịu sự tác động của quy luật biến đổi ngữ âm tiếng Việt nên một số từ đã
thay đổi diện mạo, không còn giống với dạng ngữ âm Hán Việt ban đầu, tạo nên những cặp từ
song song. Thuộc nhóm này, theo Nguyễn Thiện Giáp (1999) còn có những từ gốc Hán tiếp
nhận bằng con đường khẩu ngữ qua cách phát âm địa phương của Trung Quốc như: mì chính,
sủi cảo, hoành thánh,…
Trong các từ vay mượn từ tiếng Hán thì từ Hán Việt chiếm ưu thế tuyệt đối, nó chiếm
một khối lượng từ ngữ rất lớn. Theo thống kê của H.Maspero thì chúng chiếm trên 60% số từ
vựng của Việt ngữ. Hơn nữa, “những thành phần gọi là từ gốc Hán trong tiếng Việt, đặc biệt
là những từ Hán Việt Việt hoá thì tuyệt đại bộ phận từ tiếng Hán Việt chuyển sang” (Nguyễn
Ngọc San, 2003).
Ngoài ra từ thế kỷ thứ VIII – IX đến bây giờ, tiếng Việt đều sử dụng hệ thống âm đọc
này khi hấp thụ những từ mượn Hán hay sáng tạo từ mới trong ngôn ngữ viết. Có thể thấy ảnh
hưởng to lớn của âm đọc Hán Việt trong việc hình thành và phát triển tiếng Việt hiện đại.
Đồng thời vẫn giữ được sắc thái đặc biệt về ngữ âm trong âm vận cách luật cổ đại. Còn một
điểm nữa cũng phải đề cập tới là âm đọc Hán Việt bắt nguồn từ Hán ngữ thời Trung cổ. Cho
nên nó có giá trị quan trọng đối với việc nghiên cứu Hán ngữ thời Trung cổ và các tác phẩm
kinh điển của Trung Quốc.
Các khái niệm trừu tượng của Nho, Phật, Lão đã được mượn vào tiếng Việt như :
pháp, thần, sắc, không, tướng, niệm, tâm, tín, hữu, địa, vô, thiên, nghĩa, lễ, trí, tính, quân,
thần, phong, hoa, tuyết, nguyệt… và những từ liên quan đến văn hóa như: bút, bảng, phấn,
sách, khoa, trường; trong các trước tác thư tịch và sáng tác văn học, hiện tượng vay mượn chữ
Hán trở thành một thói quen và nhu cầu, đồng thời cũng là khả năng. Số lượng từ Hán Việt đi
vào tiếng Việt ngày một nhiều và dần dần có cả từ song tiết như: trượng phu, trường ốc,
thanh nhàn, tiên sinh, công danh, sự nghiệp… Từ đấy cho đến thế kỷ XVIII, các từ Hán Việt
vẫn tiếp tục bổ sung cho kho từ vựng tiếng Việt.
Các từ ngữ Hán Việt được du nhập vào tiếng Việt khi tiếng Việt đã có đủ những từ
biểu thị những sự vật cụ thể, những từ thuộc nền văn minh vật chất. Có rất nhiều từ Hán có
âm đọc Hán Việt chỉ xuất hiện trong văn bản Hán chứ không bao giờ du nhập vào tiếng Việt.
Ví dụ trong Kinh thi, Sở từ có rất nhiều từ biểu thị giống chim, muông, cây, cỏ và các trạng
thái tình cảm, nhưng chỉ có một số từ trở thành từ Hán Việt như: quân tử, thục nữ, tiểu nhân,
yểu điệu, thiết tha, cầm sắt… Như vậy là người Việt chỉ lựa chọn trong số những từ Hán có
âm Hán Việt những từ nào có thể lấp chỗ trống cho những khái niệm thiếu hụt trong vốn từ
vựng tiếng Việt. Những từ này phần lớn là những từ trừu tượng thuộc lớp từ văn hóa, ví dụ
các từ thuộc lĩnh vực triết học, lịch sử, văn học… những từ này lúc đầu ở trong tiếng Hán là
những từ cụ thể. Thí dụ từ đạo có nghĩa cụ thể là con đường, sau được trừu tượng hoá thành
lý tưởng phải nhắm tới, thậm chí còn thành những khái niệm trừu tượng hơn nữa như đạo
trong tư tưởng của Lão Tử và của các phái đạo gia sau này… Tiếng Việt do có sự tiếp xúc lâu
dài với tiếng Hán và do có cách đọc Hán Việt rất thuận tiện cho việc tiếp thu từ ngữ Hán nên
có xu hướng vay mượn các từ ngữ trừu tượng Hán Việt. Tuy tiếng Việt đã có từ vợ và chồng
nhưng việc dựng vợ gả chồng lại gọi là giá thú hay thành gia thất, có từ xem và sao nhưng
khoa xem sao để đoán vận mệnh gọi là khoa chiêm tinh. Người Hán có thể nhận thức những
từ trừu tượng của họ bằng cách đi từ cái cụ thể như giá (gồm nữ và gia) là con gái về nhà
chồng và thú (gồm thủ là lấy và nữ) là con trai lấy vợ, hôn là nhà trai thông gia với nhà gái và
nhân là nhà gái thông gia với nhà trai… Người Việt trước đây khi tiếp thu từ Hán Việt thì còn
có khả năng nhận thức ấy, họ có thể hiểu từ kinh tế qua cụm từ kinh thế tế dân… Nhưng sau
này những người không tinh thông Hán học thì không còn khả năng nhận thức như vậy nữa.
Từ Hán Việt trở nên khó hiểu, người Việt chỉ có thể nhận thức mơ hồ, mất đi cái giai đoạn
nhận thức cụ thể. Từ Hán Việt trở thành một thứ như ngoại ngữ. Thể thống nhất giữa hình ảnh
âm thanh và khái niệm sự vật của tín hiệu Hán Việt bị phá vỡ trong óc người Việt. Người Việt
cảm nhận mặt âm thanh của từ Hán Việt nhưng không làm sao nắm bắt được trực tiếp khái
niệm của nó. Lúc này trong óc người Việt có sự đối lập hai hệ thống tín hiệu thuần Việt và
Hán Việt. Tín hiệu thuần Việt mang đầy đủ sự thống nhất giữa âm thanh và khái niệm, còn tín
hiệu Hán Việt trở nên khó hiểu. Đây chính là tiêu chí phân biệt giữa một bên là từ Hán Việt
thực sự và một bên là từ có hình thức ngữ âm Hán Việt như: bút, sách, tường, áo, quần, bình,
bát, đầu… Lúc này để hiểu được nghĩa của các tín hiệu Hán Việt thì người Việt đặt nó vào
trong mối quan hệ. Ví dụ nghĩa của từ thảo sẽ hiện ra trong mối quan hệ sau:
Thu thảo, thảo mộc, thảo quả, thảo đường, thảo khấu, thảo dã, thảo dân…
Nghĩa của từ hòa sẽ hiện ra trong chùm quan hệ sau:
Hòa thuận, hòa bình, hòa hiếu, bất hòa, hòa mục, hòa hoãn, hòa kết, hiền hòa…
Do nghĩa của nó nổi lên qua chùm quan hệ chứ không hiện ra một cách trực tiếp tức
thì, cho nên người ta thấy từ Hán Việt có ý nghĩa thấp thoáng, ẩn ức, trang nghiêm, không cụ
thể, gần gũi như từ thuần Việt. Những từ Hán Việt thường xuất hiện trong các văn bản cổ còn
có thể tạo ra phong cách cổ kính, kiểu cách.
Hiện tượng vay mượn các từ Hán đọc theo âm Hán Việt để tạo ra lớp từ Hán Việt
trong tiếng Việt xảy ra trong một quá trình lâu dài, lại mượn cả những từ trong các thư tịch
đời Tiên Tần, Lưỡng Hán, tóm lại là các từ văn ngôn Hán bao quát hàng mấy chục thế kỷ, vì
vậy toàn bộ sự phát triển của từ vựng Hán cũng được phản ánh trong lớp từ Hán Việt.
Đối với các từ Hán Việt đa tiết thì vấn đề đơn giản hơn. Người Việt có thể hiểu được
nghĩa khái quát của nó nhưng không có khả năng phân tích nghĩa của từng yếu tố một, ngay
cả đối với những từ quen thuộc nhất như: kinh tế, chính trị, xã hội, pháp luật, văn chương,
quy củ, triết học, mô phạm… người Hán thì không thể vì là ngôn ngữ văn tự của họ nên họ có
thể phân giải được từng yếu tố. Ví dụ họ biết quy là dụng cụ để vẽ vòng tròn (compa), củ là
dụng cụ để đo góc vuông (ê-ke): nghĩa biểu trưng “có khuôn phép, có nề nếp trật tự kỉ
cương”; mô là cái khuôn bằng gỗ, phạm là cái khuôn bằng tre… “Rõ ràng là cảm thức ngôn
ngữ của người Việt đối với từ Hán Việt đa tiết khác hẳn với người Hán” (Nguyễn Ngọc San,
2003)
Người ta có thể nhận diện ra các từ đa tiết Hán Việt qua các kiểu kết hợp. Từ đa tiết
tiếng Việt phần lớn là mượn từ tiếng Hán nên được cấu tạo theo cú pháp Hán. Cũng có trường
hợp người Việt dùng các từ đơn tiết Hán Việt ghép lại theo cách riêng để tạo ra từ đa tiết Hán
Việt riêng của người Việt như: tiểu đoàn, thiếu tá, náo động, ủy ban, an trí, cử động… nhưng
số lượng không nhiều lắm và cũng tuân theo cú pháp Hán. Các từ kết hợp theo kiểu chính phụ
thì yếu tố phụ bao giờ cũng đặt trước, khác hẳn với tiếng Việt.
Ví du:
- Bổ ngữ + danh từ: chính phủ, thư phòng, hiền nhân, thiên tử…
- Bổ ngữ + động từ: cưỡng đoạt, tiền tiến, tĩnh tọa, gian dâm…
- Trong tiếng Hán cũng có kiểu cấu tạo đẳng lập do sự kết hợp của danh từ với danh
từ, động từ với động từ, tính từ với tính từ.
Ví dụ:
- Danh từ – danh từ: mô phạm, quy củ, phương pháp…
- Tính từ – tính từ: hạnh phúc, phú quý, khổ sở, sung sướng…
- Động từ – động từ: trụy lạc, tiếp nhận, kiến trúc, phiêu lưu…
Những kết hợp đẳng lập này mượn tiếng Hán nên nói chung ít có thể tùy tiện đảo ngược
vị trí, khác với các tiếng thuần Việt có thể thay đổi vị trí.
Ví dụ:
Cửa nhà – nhà cửa
Cha mẹ – mẹ cha
Áo quần – quần áo
Xây dựng – dựng xây
Một số từ Hán Việt tuy cũng có cấu trúc động bổ giống tiếng Việt như: hợp lý, thất
sắc, thành công, khai mạc, bãi chức, thất học, hoàn bị, hành sự, nhượng bộ, háo danh …
Những kết hợp này cũng không thể thay đổi trật tự các yếu tố được.
Từ Hán Việt Việt hóa không thể xếp lẫn với từ Hán Việt xét về mặt thời điểm hình
thành cũng như đặc điểm giá trị từ vựng phong cách, nên xếp nhóm riêng. Sau khi âm Hán
Việt hình thành và trở thành một hệ thống ngữ âm ổn định thì trong tiếng Việt vẫn tiếp tục
xảy ra những sự biến đổi ngữ âm. Những biến đổi ngữ âm này tác động đồng loạt vào tất cả
những bộ phận của âm Hán Việt. Những từ Hán - Việt này trước sự tác động của các biến đổi
ngữ âm trên sẽ tách ra làm hai, một là giữ nguyên âm Hán Việt cũ, hai là phát sinh ra âm mới.
Vì âm mới này có âm xuất phát điểm là âm Hán Việt nên gọi chúng là âm Hán Việt Việt hóa.
Ví dụ: can đình
can đình
gan dừng
Xu hướng Hán Việt Việt hóa xét cho cùng, không phải chỉ là một sự biến âm thuần
túy mà còn là sự biến âm tạo từ vốn là một phương thức sản sinh từ trong tiếng Việt. Những
âm mới nảy sinh này đã tạo ra những từ khác với từ Hán Việt về mặt ngữ nghĩa cũng như về
mặt phong cách, do đó, có đầy đủ lý do để tách thành một lớp từ riêng. Đối với người Việt, từ
gan có ý nghĩa cụ thể trỏ một bộ phận trong lục phủ ngũ tạng. Ta có thể nói: cháo tim gan,
gan xào, viêm gan, gan bò… trong khi không thể nói như thế với từ can. Trong tiếng Việt từ
can mang ngữ nghĩa trừu tượng hơn, trỏ một trạng thái tâm lý, tinh thần như: can đảm, can
trường… Người mất ngủ và tính hay bực bội là do can hỏa hoặc can hư. Đó là sự phân công
trong tiếng Việt. Còn ở tiếng Hán thì từ can có tất cả các nét nghĩa cụ thể và trừu tượng.
Dựa vào những biến đổi ngữ âm tiếng Việt xảy ra sau khi đã hình thành âm Hán Việt
mà chúng ta có thể xác định được sự hình thành của các từ Hán Việt Việt hóa. Sự hình thành
của các từ Hán Việt Việt hóa là kết quả của sự biến đổi ngữ âm từ âm Hán Việt sang âm Hán
Việt Việt hóa dựa vào các quy luật biến đổi ngữ âm trong tiếng Việt. Những quy luật này đã
được các nhà ngữ âm học lịch sử trình bày.
Tiền Hán Việt và Hán Việt Việt hóa được hình thành từ hai thời điểm xuất phát khác
nhau và ở vào hai thời điểm lịch sử khác nhau nên không thể có hiện tượng một từ Hán vừa
có âm đọc tiền Hán Việt lại vừa có âm đọc Hán Việt Việt hóa. Như vậy là ở Việt Nam, một từ
Hán nhiều nhất chỉ có thể tạo ra hai từ:
- Tiền Hán Việt và Hán Việt.
- Hán Việt và Hán Việt Việt hóa.
Tóm lại, quá trình tiếp xúc ngôn ngữ - văn hoá Hán - Việt đã để lại trong tiếng Việt
một lớp từ ngữ có nguồn gốc từ tiếng Hán. Chúng du nhập vào tiếng Việt không phải cùng
một lúc mà trong suốt một thời gian dài với các mức độ khác nhau, bằng các con đường khác
nhau: qua sách vở, qua khẩu ngữ.
Với lớp từ vựng đông đảo đó, người Việt không tiếp nhận một cách thụ động mà vận
dụng nó, biến nó thành cái của mình. Như trong việc tiếp nhận từ ngữ Hán, người Việt đã
Việt hoá các từ ngữ Hán với các mức độ khác nhau làm cho từ ngữ gốc Hán trong tiếng Việt
trở nên đa dạng, phong phú.
1.1.3 Các biện pháp Việt hóa từ ngữ Hán
Sau khi âm hệ thống âm đọc chữ Hán của người Việt (âm Hán Việt) đã xác lập hệ
thống, phương hướng Việt hoá tiếp tục tác động sâu đến mô thức cấu tạo (từ ghép, tổ hợp từ),
kết cấu ngữ nghĩa, phương thức sử dụng, phạm vi sử dụng, sắc thái tu từ v.v. . . của từ ngữ
Hán được mượn để đưa vào tiếng Việt. Trước hết là một số lượng rất lớn từ ngữ Hán được
vay mượn trọn vẹn hai mặt kết cấu và ý nghĩa, chỉ Việt hoá âm đọc. Những từ ngữ Hán được
vay mượn vẫn giữ nguyên kết cấu, ý nghĩa cơ bản, ngoài những từ đơn như: tâm, tài, mệnh,
phúc v.v... thường là từ ghép song âm, và rải rác khắp các lĩnh vực hoạt động xã hội, từ quá
khứ đến hiện tại: đế vương, khanh tướng, đại thần, nhân dân, thủ tướng, văn chương, xã hội,
công nghiệp, tiệm cận, đạo hàm, tích phân, hiến định v.v… và các thành ngữ như: An bần lạc
đạo, đại đồng tiểu dị, đồng tâm hiệp lực, trí dũng song toàn, kiến nghĩa bất vi, khổ tận cam
lai, …
Một số thành ngữ Hán như: “địa bình thiên thành” đã được rút gọn lại thành bình thành
(nghĩa đen: đất bằng phẳng, trời yên ổn), lời khen công lao trị thuỷ của vua Vũ trong Kinh
thư. Chính sự tốt đẹp làm cho đất nước được bình trị.
Ví du:
Bình thành công đức bấy lâu,
Ai ai cũng đội trên đầu biết bao.
(Nguyễn Du)
câu cẩm tú được rút gọn từ “tú khẩu cẩm tâm”, lòng như gấm vóc, miệng nói ra những câu
hay đẹp như thiêu hoa. Câu thơ ý hay lời đẹp.
Câu cẩm tú đàn anh họ Lí,
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương.
(Nguyễn Gia Thiều)
Thành ngữ Hán quân tử cố cùng được tỉnh lược còn quân tử trong câu: “Quân tử hãy
lăm bền chí cũ” (Nguyễn Trãi, Quốc âm thi tập, bài 18, câu 7), thương hải tang điền được rút
gọn lại còn thương hải trong câu: “Thương hải hay khao thiết thạch mòn” (Nguyễn Trãi,
Quốc âm thi tập, bài 49, câu 2),…
Hoặc đảo trật tự các yếu tố, như: Hà Đông sư tử (Hán) thành sư tử Hà Đông (Việt),
cùng cốc thâm sơn (Hán) thành thâm sơn cùng cốc (Việt), sơn minh thệ hải (Hán) thành thệ
hải minh sơn (Việt),…
Hoặc thay đổi một vài yếu tố Hán bằng yếu tố Việt, như thành ngữ: nhất cử lưỡng đắc
(Hán) thành nhất cử lưỡng tiện (Việt), an phận thủ kỉ (Hán) thành an phận thủ thường (Việt),
cửu tử nhất sinh (Hán) thành thập tử nhất sinh (Việt), trị bệnh cứu nhân (Hán) thành trị bệnh
cứu người (Việt),…
Hoặc thay đổi nghĩa, thu hẹp nghĩa, mở rộng nghĩa, thí dụ như: “khẩu tâm như nhất”,
nghĩa là lời nói và tấm lòng là một. Sang tiếng Việt đã đổi thành: “khẩu tâm bất nhất”, nghĩa
là lời nói và tấm lòng không thống nhất. Thành ngữ gốc Hán: “phong thành thảo yển” có
nghĩa: Người có quyền uy đực độ ở đâu cũng được mọi người tôn kính, nể phục và nghe theo,
ví như gió đã đi qua đâu cỏ đều cúi rạp xuống. Trong Hán ngữ cổ, thành ngữ này dùng để chỉ
giáo lí đạo đức của kẻ thống trị cảm hoá muôn dân. Luận ngữ có câu: “Quân tử chi đức
phong, tiểu nhân chi đức thảo. Thảo thượng chi phong, tất yển”. Trong Hán hiện đại thành
ngữ này có nghĩa: sự giáo hoá của kẻ thống trị. Nhưng tiếng Việt chỉ có một nghĩa mượn từ
Hán ngữ cổ.
Những từ ngữ gốc Hán được vay mượn không nhất thiết chỉ nhằm mục đích khoả lấp
chỗ trống do tiếng Việt còn thiếu từ tương ứng mà còn nhằm làm phong phú thêm sắc thái
biểu cảm, tạo ra một phong thái trang trọng, tinh tế, uyển chuyển khi cần thiết hoặc tăng
cường tính khái quát, trừu tượng hoá qua sự đối chiếu những từ thuần Việt và từ gốc Hán có
quan hệ đồng nghĩa.
Ví dụ:
“vợ” và phu nhân
“mẹ” và thân mẫu, cụ bà thân sinh; “mẹ vợ” và nhạc mẫu
“bố” và thân phụ, cụ ông thân sinh; “bố vợ” và nhạc phụ
“lấy vợ lấy chồng” và kết hôn, thành thân,…
Đến đây, nên đặc biệt lưu ý đến một biện pháp quan trọng mà cái “tài năng song ngữ”
của dân tộc đã được vận dụng một cách sáng tạo để Việt hoá những từ ngữ văn thơ liệu bao
gồm cả thành ngữ, điển cố v.v... trong Hán ngữ nhằm xây dựng và phát triển ngôn ngữ tiếng
Việt.
Một trong những biện pháp thường dùng là chuyển dịch sao phỏng, trong giai đoạn
quá khứ, chúng ta thấy Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du,
Nguyễn Đình Chiểu... đều có những đóng góp rất lớn về mặt này.
Từ hai câu thơ của Thôi Hộ đời Đường Trung Quốc:
Nhân diện bất tri hà xứ khứ,
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.
Nguyễn Du đã để lại cho chúng ta hai câu lục bát tuyệt tác:
Trước sau nào thấy bóng người,
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Ngày nay, biện pháp sao phỏng này tỏ ra có nhiều hứa hẹn trong việc Việt hoá sâu hơn
nữa những từ ngữ gốc Hán. Có thể nêu một số thí dụ như sau:
Bách chiến bách thắng / trăm trận trăm thắng
Toạ thực băng sơn / miệng ăn núi lở
Phong y túc thực / đủ ăn đủ mặc
Dĩ huyết tẩy huyết / Nợ máu phải trả bằngmáu
Diệp lạc quy căn / Lá rụng về cội
Lâm khát quật tỉnh / Nước đến chân mới nhảy,…
Để góp phần làm phong phú thêm từ vựng tiếng Việt, bên cạnh những biện pháp đã
được nêu ở trên, còn một biện pháp nữa cũng được sử dụng, đó là: dùng từ Hán được vay
mượn như những yếu tố tạo từ để tạo ra những từ ghép, thành ngữ mới chỉ thông dụng trong
tiếng Việt, thậm chí chỉ người Việt mới hiểu (mặc dù những yếu tố tạo thành từ đều là gốc
Hán cả).
Ví dụ:
Tiểu đoàn, bộ binh, uỷ ban, cử nhân, trung uý, đại uý, thần thông biến hoá, khai cơ lập
nghiệp, bất khả xâm phạm, cửa Khổng sân Trình, duyên Tần Tấn, âm cực dương hồi, bất đắc
kỉ tử, …
Qua những điều đã trình bày ở trên, có thể khẳng định rằng: sự hiện diện của các lớp từ
gốc Hán đông đảo trong tiếng Việt là kết qủa cụ thể của quá trình giao lưu tiếp xúc ngôn ngữ -
văn hoá Việt - Hán với phương hướng chủ đạo là Việt hoá. Sự Việt hoá từ ngữ Hán đã diễn ra
trên bốn mặt: âm đọc, mô thức cấu tạo, ý nghĩa và phạm vi sử dụng, trong đó Việt hoá mặt âm
đọc là triệt để nhất, còn các mặt khác thì chỉ được thực thi trong một phạm vi hạn hẹp. Điều
này có ý nghĩa khoa học khá sâu sắc, thể hiện rõ tài trí thông minh của ông cha ta trong lĩnh
vực ngôn ngữ. Âm đọc chữ Hán (từ ngữ Hán) được Việt hoá một cách có hệ thống, toàn diện
và triệt để, như vậy là sự đồng hoá những yếu tố ngoại lai đã được hoàn tất một cách trọn vẹn
trên một lĩnh vực quan trọng nhất của một hệ thống ngôn ngữ - lĩnh vực ngữ âm. Dựa trên cơ
sở cùng loại hình, từ ngữ Hán sau khi được Việt hoá về mặt âm đọc đã trở thành “một kho dự
trữ dữ liệu có khả năng đáp ứng đầy đủ theo yêu cầu” của quá trình phát triển từ vựng tiếng
Việt không chỉ riêng trong quá khứ, mà ngay cả trong hiện tại.
1.1.4 Vai trò của từ Hán Việt trong tiếng Việt
Từ Hán Việt là lớp từ chiếm số lượng lớn và có vai trò rất quan trọng trong tiếng Việt.
Từ Hán Việt xuất hiện trong các phong cách, từ phong cách khẩu ngữ đến các phong cách
ngôn ngữ gọt giũa. Việc sử dụng từ Hán Việt trong các phong cách ngôn ngữ này tùy thuộc
vào đặc điểm của phong cách ngôn ngữ đó.
Từ Hán Việt cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc xây dựng hệ thống thuật
ngữ, mặc dù các thuật ngữ được tạo thành từ nhiều nguồn khác nhau: cấu tạo từ yếu tố thuần
Việt, mượn từ tiếng Hán, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga… nhưng chiếm ưu thế về số lượng
phải kể đến thuật ngữ Hán Việt.
Các ngành khoa học xã hội như văn học, ngôn ngữ học, lịch sử… các từ vay mượn từ
tiếng Hán được sử dụng rất nhiều. Ví dụ: trong số 1082 thuật ngữ ngôn ngữ thông kê trong
Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học có 787 từ và cụm từ Hán Việt, chiếm 72,73%.
Trong số 341 thuật ngữ văn học thống kê trong Từ điển thuật ngữ văn học có tới 265 từ và các
cụm từ Hán Việt, chiếm 77,71%.
Tỉ lệ từ và cụm từ Hán Việt được sử dụng trong các hệ thống thuật ngữ khoa học xã
hội cao là do các nguyên nhân sau:
- Tiếng Hán là ngôn ngữ cùng loại hình với tiếng Việt (ngôn ngữ đơn tiết) nên vay
mượn các thuật ngữ từ tiếng Hán sẽ thuận lợi hơn vay mượn thuật ngữ từ các ngôn ngữ Ấn
Âu.
- Các thuật ngữ Hán ngay từ đầu có thể dễ dàng thâm nhập vào vốn từ vựng tiếng Việt
nhờ cách đọc Hán Việt. Đây là bước khởi đầu thuận lợi cho người Việt trong quá trình vay
mượn các thuật ngữ từ tiếng Hán.
Trong hệ thống từ vựng tiếng Việt có một số lượng lớn các từ Hán Việt đang hoạt
động, chiếm trên 60% theo thống kê của một số nhà ngôn ngữ học Việt Nam. Nhiều từ và yếu
tố Hán Việt đã ăn sâu bén rễ và trở thành một bộ phận quan trọng, quen thuộc với người Việt
nên rất dễ dàng trong việc sử dụng cấu tạo thuật ngữ mới. Một số lượng khá lớn thuật ngữ đã
được cấu tạo trong tiếng Việt nhờ các yếu tố vay mượn từ tiếng Hán.
Theo thông kê của đề tài nghiên cứu trong một số từ điển thuật ngữ khoa học tự nhiên
thì, số lượng thuật ngữ ít hơn hẳn so với thuật ngữ các ngành khoa học xã hội.
Ví dụ:
Trong 2075 thuật ngữ khoa học tự nhiên và kĩ thuật trong Từ điển khoa học tự nhiên
và kĩ thuật có 764 từ và cụm từ Hán Việt, chiếm 36,82%.
Trong số 1226 thuật ngữ địa lí thông kê trong Sổ tay thuật ngữ địa lí có 419 từ và cụm
từ Hán Việt, chiếm 34,91%.
Hay trong số 1554 thuật ngữ kinh tế học thống kê trong Từ điển thuật ngữ kinh tế học
có 877 từ và cụm từ Hán Việt, chiếm 56,43%.
Có thể giải thích hiện tượng này như sau:
Trong các ngành khoa học tự nhiên và kĩ thuật, sự giao lưu tiếp xúc với các nước châu
Âu, Mĩ, nơi có nền công nghiệp phát triển nên xu hướng vay mượn trực tiếp từ các ngôn ngữ
Ấn Âu là điều dễ hiểu.
- Hệ thống thuật ngữ trong các ngôn ngữ Ấn Âu đã phát triển khá toàn diện, phong
phú và chính xác. Chính Trung Quốc cũng vay mượn từ các ngôn ngữ này.
Xu hướng vay mượn và sử dụng sáng tạo các yếu tố vay mượn để cấu tạo thêm thuật
ngữ mới giúp cho hệ thống thuật ngữ tiếng Việt ngày càng trở nên đa dạng và phong phú, đáp
ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của xã hội và của các ngành khoa học.
Đặc trưng của phong cách khoa học là mang tính trừu tượng, khái quát cao, hệ thống
và tính quốc tế. Vì vậy, hiện tượng vay mượn các thuật ngữ nước ngoài khi tiếng Việt chưa có
đủ từ đáp ứng là điều tất yếu. Tùy vào các ngành khoa học mà mức độ các từ Hán Việt xuất
hiện trong hệ thống thuật ngữ của ngành đó nhiều hay ít. Tuy nhiên, với bất kì mức độ nào, có
thể khẳng định rằn vai trò của từ Hán Việt trong nhiệm vụ xây dựng hệ thống thuật ngữ khoa
học cũng rất lớn và rất quan trọng.
Như trên đã nói, từ Hán Việt mang sắc thái tao nhã, trang trọng, cổ kính xét về mặt
hành chức. Tùy vào nội dung, hình thức và mục đích giao tiếp mà người ta chia sản phẩm
ngôn ngữ thành các loại phong cách khác nhau như phong cách ngôn ngữ khoa học, hành
chính, chính luận, báo chí, nghệ thuật. Trong từng phong cách ngôn ngữ chúng ta sử dụng từ
ngữ khác nhau. Ví dụ như trong các hội nghị khoa học để tạo không khí trang trọng, hầu hết
các từ ngữ đều gắn bó với các thuật ngữ khoa học, các từ ngữ chuyên môn hoá: đạo hàm, ẩn
số, quỹ tích,…; âm vị, hình vị, từ pháp, ngữ pháp, âm tố, phụ tố,... hầu hết các thuật ngữ khoa
học này đều là từ Hán Việt. Hay trong các văn bản hành chính, tỉ lệ sử dụng từ Hán Việt cũng
rất cao. Chủ yếu gồm các từ ngữ thường dùng trong những văn bản pháp lí, ngoại giao, hành
chính: công văn, công hàm, công ước, hoà ước, tạm ước, hiệu lực, biên bản, sao lục, tố tụng,
quy tắc, đa phương, đơn phương,... hay các từ tự do, hạnh phúc, dân chủ, dân quyền, giải
phóng, bình đảng, lãnh thổ… Còn trong phong cách chính luận gồm những từ ngữ thường
dùng trong các văn bản chính luận, bày tỏ thái độ, quan điểm: cộng sản, vô sản, tư sản, đế
quốc, thực dân, suy thoái, vũ trang, xâm lược, chiến tranh, cánh tả, cánh hữu, cấp cao,... Có
thể nói, từ ngữ được sử dụng trong phong cách khoa học, hành chính, chính luận đa phần là từ
Hán Việt. Từ Hán Việt cũng được sử dụng nhiều trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, đặc
biệt là trong văn học trung đại Việt Nam. Đọc các tác phẩm văn thơ Việt Nam trung đại,
chúng ta bắt gặp các từ bóng nguyệt, gương nga, du khách, lữ hành, giai nhân, tài tử, trầm tư,
li tao, đồng vọng, tịch liêu, tráng sĩ, chinh phu,... những thu thảo, ngư ông, ngư phủ, cù lao,
Tràng Thành, thu phong, tiêu phòng,... Cũng ở đó, ta sẽ gặp hàng loạt các điển cố, điển tích
như: Tầm Dương, Tiêu Nương, Cô Tô, Hoàng Hạc, Liễu chương đài, lá thắm chỉ hồng, thềm
hoa, lệ hoa, kết cỏ ngậm vành, bỉ sắc tư phong,... Hiện tượng này có lí do lịch sử và truyền
thống của nó. Xét về phương diện lịch sử dân tộc cho thấy, người Việt Nam từ thế hệ này
sang thế hệ khác đã tiếp nối sử dụng chữ Hán như một công cụ văn hóa của dân tộc. Sử sách
ghi lại, nhiều triều đại phong kiến Việt Nam đã sử dụng chữ Hán như một thứ chữ quan
phương chính thống liên tiếp trong một thời gian dài. Người Việt sử dụng chữ Hán để ghi
chép lịch sử, văn hoá, y học và sáng tác văn chương ngay cả khi đã hình thành chữ Nôm. Kho
tàng văn học dân tộc còn lưu lại những tác phẩm kinh điển viết bằng chữ Hán như: Bình Ngô
Đại Cáo của Nguyễn Trãi, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn, Nam quốc sơn hà của Lý
Thường Kiệt,…
Tóm lại, trong tiếng Việt, từ Hán Việt chiếm một số lượng lớn, cực kì phong phú và
cũng khá phức tạp. Chính sự đa dạng phức tạp đó dẫn đến nhiều trường hợp hiểu và sử dụng
sai từ Hán Việt. Vì vậy, việc khảo sát khả năng hiểu và sử dụng từ Hán Việt của HS trong nhà
trường phổ thông hiện nay vẫn có giá trị thực tiễn. Dựa trên kết quả khảo sát, đề tài đề xuất
những giải pháp mang tính khả thi, nhằm mục đích hướng đến nâng cao kĩ năng sử dụng ngôn
ngữ tiếng Việt nói chung và từ Hán Việt nói riêng cho HS.
1.2. LƯỢC KHẢO VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Lịch sử nghiên cứu từ Hán Việt bắt đầu từ những phát hiện của A.de Rhodes (1651)
và một số học giả phương Tây khi phát hiện ra có những đơn vị gốc Hán trong tiếng Việt và
thống kê chúng trong bảng thống kê từ vựng tiếng Việt… Đầu thế kỷ XX, Maspéro là người
có công đầu tiên thống kê và đưa ra tỉ lệ 60% từ Hán Việt trong vốn từ vựng tiếng Việt.
Vương Lực - nhà Hán học Trung Quốc đã bỏ ra nhiều công sức nghiên cứu về từ Hán Việt và
cho ra thiên “Hán Việt ngữ nghiên cứu”, in trong Hán ngữ sử luận văn tập (Khoa học xuất
bản xã, 1958, tr.290-406), trong đó, ông đã chia từ đơn Hán Việt thành 3 loại: Hán Việt cổ,
Hán Việt và Hán Việt Việt hoá và đưa ra những quy luật chuyển âm giữa các loại.
Ở Việt Nam vấn đề từ Hán Việt cũng đã được các tác giả biên soạn sách dạy tiếng
Việt thực hành thế kỷ XIX quan tâm như: Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Paulus Của và một
số nhà học giả khác…
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, Đào Duy Anh đã cho ra đời một tác phẩm khá nổi
tiếng cho đến tận ngày nay- cuốn Từ điển Hán Việt, và sau này là một số nhà nghiên cứu khác
như Hoàng Văn Hành với cuốn Từ điển yếu tố Hán Việt thông dụng (1991), Phan Văn Các
với cuốn Từ điển Hán Việt,... Các cuốn từ điển này đều là những công trình biên soạn tương
đối thành công và có những đóng góp nhất định trong việc nghiên cứu từ Hán Việt.
Nghiên cứu về cấu tạo, ngữ nghĩa và cách thức sử dụng từ Hán Việt bắt đầu với những
bài viết bàn về từ Hán Việt của những nhà nghiên cứu đăng trên Nam Phong tạp chí, Phụ nữ
Tân Văn… của Phan Khôi, Phạm Huy Hổ, Phạm Quỳnh, Ngô Vi Lâm… vào những năm đầu
thế kỷ XX. Nhưng từ Hán Việt được đề cập và nghiên cứu nhiều nhất là trong các công trình
nghiên cứu về tiếng Việt bắt đầu từ những năm giữa thế kỷ XX với tên tuổi của các nhà
nghiên cứu từ vựng: Nguyễn Tài Cẩn, Đỗ Hữu Châu, Hồ Lê, Nguyễn Văn Tu, Nguyễn Thiện
Giáp,… Các công trình nghiên cứu này tập trung nghiên cứu từ Hán Việt theo các quan điểm
khác nhau:
Nguyễn Tài Cẩn có nhiều đóng góp trong việc nghiên cứu từ Hán Việt mà thành công
nhất là công trình nghiên cứu về mặt ngữ âm. Công trình có đóng góp lớn của ông là Nguồn
gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. Các từ Hán Việt còn được ông tiếp tục nghiên
cứu trong một số bài viết và trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt. Ngoài bình diện ngữ âm của từ
Hán Việt được ông nghiên cứu một cách rất kỹ lưỡng, về ngữ nghĩa và cấu tạo của các yếu tố
(các tiếng) Hán Việt và các từ Hán Việt cũng được ông xem như những đơn vị của tiếng Việt
và tìm hiểu, nghiên cứu chúng bình đẳng như những đơn vị của tiếng Việt theo quan điểm
đồng đại chứ không phân chúng thành một lớp từ riêng như một số nhà nghiên cứu khác. Kết
quả nghiên cứu về những đặc trưng của tiếng và từ tiếng Việt trong đó có các tiếng và từ Hán
Việt đã có tác dụng gợi mở cho các thế hệ nghiên cứu sau này.
Cùng quan điểm đồng đại khi xem xét các từ Hán Việt còn có các tác giả Phan Ngọc,
Hồ Lê. Tuy nhiên những nghiên cứu của Phan Ngọc chủ yếu chỉ tập trung về ngữ nghĩa của từ
Hán Việt, còn với Hồ Lê trong cuốn Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại, ông chỉ nghiên
cứu về ngữ nghĩa của các đơn vị Hán Việt mà ông gọi là các nguyên vị tiềm tàng trong hoạt
động cấu tạo từ tiếng Việt, còn các từ Hán Việt không được ông xét đến.
Đỗ Hữu Châu (1962), Nguyễn Văn Tu (1968), Nguyễn Thiện Giáp (1999), khi nghiên
cứu về từ vựng tiếng Việt đã xem xét các từ Hán Việt theo hướng đi của Vương Lực, phân
chia các từ Hán Việt theo nguồn gốc và thời điểm du nhập gồm các loại: từ Hán Việt cổ, từ
Hán Việt, từ Hán Việt Việt hoá, từ Hán Việt mượn theo con đường khẩu ngữ.
Ngoài những tác giả trên còn có một số nhà nghiên cứu khác đã nghiên cứu về từ Hán
Việt ở nhiều khía cạnh khác nhau: về mặt xã hội, về phong cách sử dụng, từ Hán Việt trong
nhà trường, từ Hán Việt nhìn từ góc độ yếu tố vay mượn, đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của
từ ghép Hán Việt trong tiếng Việt, cách nhận diện và phân biệt từ thuần Việt với từ Hán
Việt… như các tác giả: Nguyễn Văn Thạc, Vương Lộc, Lê Xuân Thại, Nguyễn Ngọc San,
Đặng Đức Siêu, Nhữ Thành, Nguyễn Văn Khang, Cù Đình Tú, Ngô Thanh Nhàn, Nguyễn
Ngọc Trâm, Vũ Thị Kim Thoa, Nguyễn Đức Tồn, Anh Đào, Hoàng Quốc… Những nghiên
cứu của các tác giả này đã có những thành công và đóng góp nhất định trong nghiên cứu về từ
Hán Việt.
Cũng kể đến nhiều bài viết đăng trên các tạp chí, các báo của một số tác giả bàn về
phương diện sử dụng từ Hán Việt như hiện tượng dùng sai, hiện tượng lạm dụng từ Hán Việt
hoặc những biến đổi của một số từ Hán Việt về ngữ nghĩa sau một thời gian sử dụng…
Từ Hán Việt là một bộ phận quan trọng trong kho từ vựng tiếng Việt. Làm thế nào để
nhận diện được từ nào là từ Hán Việt, từ nào là từ thuần Việt là một vấn đề không đơn giản
đối với học sinh và thậm chí đối với cả giáo viên THCS, THPT. Các công trình nghiên cứu
của các tác giả đã đưa ra nhiều cách nhận diện khác nhau nhưng chúng ta có thể khái quát
thành các cách như sau:
- Mẹo dựa vào đặc điểm cấu tạo âm thanh
Theo Nguyễn Đức Tồn, để giúp HS phân biệt được các tiếng Hán Việt nói chung, từ
đơn Hán Việt nói riêng với các tiếng và từ đơn thuần Việt, tác giả chủ trương dựa vào đặc
điểm cấu tạo âm thanh. Tác giả cho rằng dựa vào đặc điểm trên có ba cách nhận diện từ Hán
Việt:
Cách thứ nhất là “Các cấu tạo âm thanh chỉ có ở các tiếng (hoặc từ đơn) Hán Việt”
(Nguyễn Đức Tồn, 2001, tr. 49).
Ví dụ:
Uyên (ngoại trừ nguyền, chuyền, chuyện là từ thuần Việt), thí dụ: duyên, tuyên,
quyến…
Uyết: tuyệt, quyết, tuyết, thuyết…
Ưu: cừu, cửu, cứu, ngưu…
Uy: tuy, tùy, hủy, ngụy, quỷ…
Mẹo để nhớ loại này là: nguyện quyết cứu nguy.
Cách thứ hai là “Các cấu tạo âm thanh chỉ có ở tiếng (hoặc từ đơn) thuần Việt”
(Nguyễn Đức Tồn, 2001, tr. 49).
Mọi tiếng có kết hợp âm ết đều là thuần Việt (trừ ngoại lệ kết là Hán Việt)
Mọi tiếng có kết hợp âm ưng đều là thuần Việt (trừ ngoại lệ ưng, ứng, ngưng là Hán
Việt)
Những tiếng nào có âm đầu [r] đều là thuần Việt, thí dụ: ro, rò, rỉ, rả, rẻ…
Cách thứ ba là “Các cấu tạo âm thanh chỉ có ở cả tiếng Hán Việt lẫn tiếng thuần Việt”
(Nguyễn Đức Tồn, 2001, tr. 49).
Âm, thí dụ: tâm, cẩm, lâm, tẩm là Hán Việt; lầm, bầm, lấm, gấm là thuần Việt.
Ương, thí dụ: cương, cường, phương, chương, tường, vương… là Hán Việt; xương,
mương, nhường,… là thuần Việt.
- Dựa vào ngữ nghĩa
Tác giả Phan Ngọc đã đưa ra mẹo nhận diện từ Hán Việt như sau:
Thứ nhất là, “Nếu một chữ có nghĩa nhưng không hoạt động làm thành từ được mà
chỉ làm thành một bộ phận của từ thôi thì đó là một chữ Hán Việt” (Phan Ngọc, 2000, tr.
415).
Ví dụ như: nhân, ái , nhất, gia…
Thứ hai là, “Nếu một chữ mà không hiểu nghĩa của nó, và nó không làm thành từ, lại
xuất hiện trong hai từ có một sự giống nhau nào đó về nghĩa thì đó là từ Hán Việt” (Phan
Ngọc, 2000, tr. 415). Ví dụ như hương xuất hiện trong hai từ hương thôn, quê hương với cùng
một nghĩa liên quan tới hàng xóm, vậy nó là từ Hán Việt.
Thứ ba là “Nếu ta có thể chắp vào trước hay sau cái chữ mà ta cần xét một trong các
chữ này nhất, vô, hữu, nhân, bất thì đó là chữ Hán Việt” (Phan Ngọc, 2000, tr. 416). Ví dụ
như ích có thể kết hợp với hữu, vô để tạo thành hữu ích, vô ích. Do vậy ích là yếu tố Hán Việt.
- Mẹo viết đúng chính tả từ Hán Việt
Khi ta đã nhận diện được từ Hán Việt, ta phải tận dụng mẹo luật chính tả để chữa lỗi
chính tả và để viết đúng chính tả.
Chẳng hạn, các phụ âm đầu không có trong từ Hán Việt là các phụ âm đầu r và g. Hiểu
biết này cho phép ta tránh đừng viết duyên trong duyên phận (từ Hán Việt) là ruyên và từ
quốc gia (Hán Việt) thành guốc gia… Cũng vậy, nếu như ta biết trong toàn bộ các chữ Hán
Việt trừ bốn chữ là sơn (núi), hợp, thời, và đơn, không có chữ nào có âm ơ, vậy ta sẽ không
viết nhân dân thành nhơn dơn, tất yếu thành tớt yếu. Đó là một điều rất tiện để chúng ta viết
đúng chính tả. Người Nam Bộ thường lẫn lộn iêm với im, nhưng nếu ta biết trong chữ Hán
Việt không có vần im trừ chữ kim thì ta sẽ viết đúng những từ hiềm khích, siểm nịnh.v.v… khi
biết đó là những từ Hán Việt. Sự lẫn lộn o và ô, e và ê, ă và e là khá phổ biến ở Nam Bộ. Nếu
ta biết, chẳng hạn không có chữ Hán Việt nào viết với oe trừ chữ hoè trong cây hòe, không có
một chữ Hán Việt nào với o trừ những vần oc (như học, trọc) và ong (như vọng) thì việc viết
đúng chính tả và chữa lỗi chính tả đối với từ Hán Việt không còn là chuyện khó nữa.
Ngoài những trường hợp đã nói, dưới đây là danh sách kiểm tra về những vần không có
trong chữ Hán Việt. Danh sách này không phải để nhớ mà chỉ đề cập một cái nhìn chung, bao
quát về mặt hình thức từ Hán Việt mà thôi.
- Với nguyên âm a: oam, oap, oac, oay, uao, ay, au.
- Với nguyên âm ă: ăp, ăm, ăt, oăn, oăm, oăp, oăt.
- Với nguyên âm ê: êm, ên, êp, êt, êch, êu, uên, uêt, uêy.
- Với nguyên âm i: im (trừ chữ kim trong kim cổ, kim khí), ip, it, iu.
- Với nguyên âm ô: ôm, ôp, ôt.
- Với nguyên âm u: um, up, un, ut, ui.
- Với iê: iêng
- Với ua: ua, uôm, uôn, uôt, uôi.
- Với nguyên âm ư: ưt, ưn, ưn, ưa, ươm, ươn, ươu, ươ.”
Ngoài những trường hợp nhầm lẫn về phần vần, còn nhầm lẫn về dấu hỏi, ngã (đặc biệt
là HS từ các tỉnh Nghệ An đến Ca Mau). Các từ Hán Việt có quy luật riêng về dấu hỏi, dấu
ngã. Do đó, nếu nắm và sử dụng được luật viết dấu hỏi, dấu ngã trong từ Hán Việt thì sẽ tránh
được lỗi về thanh điệu (ngã, hỏi). Nội dung của luật dấu hỏi, dấu ngã không khó, mặc dù luật
này đã được học từ lớp 6 nhưng thông kê bài kiểm tra (bài viết) cho thấy, số lượt các em mắc
lỗi về thanh điệu hỏi, ngã vẫn còn khá nhiều do các em chưa được cung cấp một số mẹo để
vận dụng những mẹo luật đó trong hành văn.
Thanh hỏi và thanh ngã trong từ Hán Việt có quan hệ chặt chẽ với phụ âm đầu của các
tiếng. Quan hệ đó có tính chất quy luật: thanh ngã chỉ có quan hệ với một số phụ âm đầu nhất
định, thanh hỏi lại có quan hệ với những âm đầu khác. Dựa vào mối quan hệ giữa thanh điêụ
và âm đầu trong các tiếng của từ Hán Việt, người ta đã tìm ra luật viết dấu hỏi, dấu ngã đối
với các từ Hán Việt như sau:
*Nội dung luật
Theo Phan Ngọc các tiếng trong từ Hán Việt có âm đầu là các phụ âm: M, N, NH, V,
L, D, NG đều viết bằng dấu ngã (trừ một ngoại lệ duy nhất là ngải trong ngải cứu). Sau đây là
một số ví dụ:
M: mãnh liệt, mỹ lệ, mỹ mãn, minh mẫn, mãn khoá, thương mãi, v.v…
N: nỗ lực, phụ nữ, truy nã. Long não, Nữu Ước, .v.v…
NH: nhẫn nại, truyền nhiễm, hoà nhã, nhũ mẫu, nhãn hiệu, thổ nhưỡng v.v…
V: vĩ đại, vũ trang, vãng lai, viễn thị, vĩ tuyến, vĩnh viễn, hùng vĩ, v.v…
L: lễ nghĩa, lãng mạn, lãnh đạo, lãnh tụ, phụ lão, lũng đoạn, lãng phí, thành luỹ,
v.v…
D: diễn viên, hướng dẫn, dã man, dĩ nhiên, dĩ vãng, diễm lệ, sở dĩ, v.v…
NG: ngôn ngữ, ngưỡng mộ, đội ngữ, nghĩa trang, nghĩa vụ, ngũ sắc, Nguyễn Du,
v.v…
Các tiếng trong từ Hán Việt có âm đầu không phải 7 phụ âm nói trên thì viết dấu hỏi.
Sau đây là một số ví dụ:
Không có phụ âm: ảo ảnh, ảm đạm, quan ải, ẩn số, v.v…
B: bảo vệ, bản lĩnh, thời khoá biểu, v.v…
C: cảnh báo, cẩn thận, tình cảm, chỉnh tề, v.v…
Đ: đả đảo, đả kích, Phật đản, đẳng cấp, v.v…
GI: giảng giải, giải thích, hoà giải v.v…
H: hải cảng, hiểm yếu, hảo hạng, v.v…
K, KH: kỷ luật, thế kỷ, kỷ niệm, khả năng, v.v…
PH: gia phả, phổ biến, phẩm hàm, v.v…
Q: kết quả, quản lý, quảng trường, quỷ quyệt, v.v…
S: sỉ nhục, liêm sỉ, hộ sản, lịch sử, v.v…
T, TH: vận tải, tư tưởng, phát triển, thủ công nghiệp, thẩm vấn, v.v…
X: cư xử, xảo quyệt, cơ xưởng v.v…
Ngoài ra có khoảng hơn ba mươi trường hợp theo luật phải viết dấu hỏi, nhưng ngoại
lệ phải viết dấu ngã.
Ví dụ:
- bãi khoá, hoài bão, bĩ cực.
- cưỡng bức, linh cữu.
- đối đãi, đãng trí, du đãng, hiếu đễ, Đỗ (họ).
- hữu hạn, bằng hữu, hung hãn, hãnh diện, kinh hãi, hỗ trợ, hỗn hợp, hãm hại.
- kỹ thuật, kỹ năng, kỹ lưỡng, kỹ nữ.
- phẫn nộ, giải phẩu.
- quẫn bách, ngân quỹ, quỹ tích.
- bác sĩ, dũng sĩ, thi sĩ.
- tiễn biệt, thực tiễn, tiểu trừ, tĩnh tâm, mâu thuẫn, dự trữ, trẫm, trĩ.
- xã hội.
* Cách nhớ luật
Nội dung luật viết dấu hỏi, dấu ngã trong từ Hán Việt như vậy là khá phức tạp và rắc
rối. Do đó cần phải biết dùng mẹo để có thể nhớ một cách dễ dàng.
Mẹo 1:
Chỉ cần nhớ những trường hợp viết dấu ngã trong từ Hán Việt (tức là nhớ 7 phụ âm đầu
có viết dấu ngã và khoảng 30 trường hợp ngoại lệ phải viết dấu ngã). Các trường hợp viết dấu
hỏi không cần phải nhớ.
Mẹo 2:
Để nhớ 7 phụ âm đầu M, N, NH, V, L, D, NG, các bạn chỉ cần nhớ câu sau đây: MÌNH
NÊN NHỚ VIẾT LÀ DẤU NGÃ .
Câu này gồm 7 tiếng tương ứng với 7 phụ âm đầu nói trên: Mình (m) nên (n) nhớ (nh)
viết (v) là (l) dấu (d) ngã (ng).
Các trường hợp ngoại lệ, học sinh học thuộc lòng.
* Cách nhớ các trường hợp ngoại lệ
Tác giả Phan Ngọc trong quyển “Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả” đã
viết thành một bài thơ truyền thống “Nhất thiên tự” như sau:
“Kỹ tài, bãi bỏ, bĩ đen,
Hữu bạn, phẫu mổ, tĩnh yên, cữu hòm.
Tiễn đưa, tiễu diệt, trẫm vua,
Trĩ tre, trữ cất, huyễn mê, hỗ cùng.
Hỗn loạn, hãm hại, đãng buông,
Quẫn khốn, hữu có, đãng đường thênh thang.
Xã xã, hoãn chậm, quỹ rương,
Suyễn suyễn, quĩ dấu, tiễn tên, tiễn làm,
Hữu phải, cưỡng ép, trĩ chim,
Tuẫn chết, kỹ hát, đễ em, sĩ trò.”
Học thuộc bài thơ này giúp chúng ta viết đúng hỏi ngã cho đến 5000 chữ Hán Việt
(Phan Ngọc, 2000, tr. 435).
*Vận dụng luật
Khi gặp một từ có dấu hỏi, dấu ngã nhưng chúng ta còn băn khoăn không biết đây là
từ Hán Việt hay từ thuần Việt để vận dụng cho phù hợp thì ta phải liên hệ trước tiên đến mẹo
nhận biết từ Hán Việt để xác định cho đúng. Sau khi xác định được từ Hán Việt thì ta phải
vận dụng ngay câu: Mình nên nhớ viết là dấu ngã để viết đúng dấu hỏi, dấu ngã. Đối với
những trường hợp không bắt đầu bằng 7 phụ âm trên thì ta sẽ áp dụng bài thơ kiểu “Nhất
thiên tự” để xác định xem nó có thuộc trường hợp ngoại lệ hay không, nếu không thuộc thì
những từ đó ắt hẳn là viết dấu hỏi.
Nhìn chung, qua các công trình nghiên cứu về từ Hán Việt có thể thấy rằng, nghiên
cứu về từ Hán Việt là một việc làm cần thiết và quan trọng trong việc nghiên cứu từ tiếng
Việt. Trong các công trình nghiên cứu tiếng Việt đã xuất hiện, dù ít dù nhiều, những nhà ngôn
ngữ học đã đề cập đến từ Hán Việt. Và những công trình nghiên cứu trên đã đạt được những
thành tựu đáng kể, đặc biệt là ở các bình diện về nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển
của từ Hán Việt, đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của từ Hán Việt, vai trò của từ Hán Việt trong
các phong cách, phương pháp dạy - học từ Hán Việt…
CHƯƠNG 2
MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN HIỆN TƯỢNG HIỂU SAI VÀ
DÙNG SAI TỪ HÁN VIỆT
Để nâng cao chất lượng học môn Ngữ văn nói chung và nâng cao khả năng hiểu và sử
dụng từ Hán Việt cho HS nói riêng, bên cạnh việc đổi mới PPDH trong giờ chính khóa, thì tổ
chức các hoạt động ngoại khóa ở trường THPT có ý nghĩa rất quan trọng, nó không chỉ góp
phần tạo ra một sân chơi bổ ích, nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo, góp phần nâng cao
khả năng tư duy độc lập, tăng cường khả năng sáng tạo trong học tập, kích thích niềm say mê,
hứng thú học tập, ham muốn tìm tòi, khám phá những kiến thức mới của của HS, nâng cao
hiệu quả giáo dục thẩm mĩ, là nơi để HS bộc lộ khả năng hiểu biết và yêu thích về môn học
mà còn là dịp để thầy và trò được gần gũi và hiểu nhau hơn. Bên cạnh đó hoạt động ngoại
khóa còn khắc phục được những bất cập trong chương trình giữa thời gian của tiết học và khối
lượng kiến thức cần phải truyền đạt. GV có thể mở rộng và đào sâu những nội dung quan
trọng, bổ sung những vấn đề chưa được đặt ra trong chương trình chính khoá. Đồng thời
thông qua hoạt động ngoại khóa, GV sẽ đánh giá được kết quả học tập của HS để tự điều
chỉnh về PPDH cho phù hợp.
Hoạt động ngoại khoá là các hình thức hoạt động kết hợp dạy học với vui chơi ngoài
lớp, nhằm mục đích gắn việc giảng dạy, học tập trong nhà trường với thực tế xã hội đây là
một hình thức tự học tích cực, bổ ích và có hiệu quả có tác dụng nối liền bục giảng với thực
tiễn đời sống, nhằm củng cố, khắc sâu những tri thức đã học trên lớp, mở rộng, nâng cao hiểu
biết cho học sinh về các lĩnh vực đời sống xã hội, và phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo
của người học. GV có thể kiểm tra lại chất lượng dạy học trong giờ chính khoá. Vì thế, hoạt
động ngoại khóa VH vừa là hoạt động giáo dục, vừa là hoạt động thẩm mĩ, góp phần tạo ra lối
sống văn hoá và khả năng hưởng thụ văn hoá nghệ thuật cho học sinh.
Hoạt động ngoại khoá văn học càng cần thiết và bổ ích khi được áp dụng vào dạy học
phần VHTĐ Việt Nam ở THPT. Qua hoạt động ngoại khoá, HS có thể hiểu sâu hơn về những
giá trị tinh thần của cha ông để lại, bồi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước, tự hào về lịch sử
hào hùng của dân tộc... góp phần làm sáng tỏ những đặc trưng cơ bản của VHTĐ (tính cao
nhã, tính vô ngã và hữu ngã, tính quy phạm và bất quy phạm) cũng như phá bỏ lớp rào cản về
ngôn ngữ, văn hóa, thẩm mĩ... đây là điều mà GV và HS rất khó thực hiện trong giờ chính
khoá do hạn chế về thời gian của tiết học. Cho nên, để hoạt động ngoại khóa về từ Hán Việt
thực sự có ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa khoa học nhằm cung cấp kiến thức ngoài giờ học cho
HS thì cần sự chuẩn bị kỹ lưỡng về khâu tổ chức và nghiên cứu kỹ về chương trình.
Việc thiết kế hệ thống các bài tập hoạt động ngoại khóa nhằm kích thích hứng thú cho
HS học tiếng Việt nói chung và từ Hán Việt nói riêng, để từ đó các em yêu thích tiếng mẹ đẻ
của mình hơn. Mỗi khi HS có thích thú với tiếng Việt nói chung và từ Hán Việt nói riêng, HS
sẽ tìm tòi, học hỏi để tăng vốn kiến thức về từ Hán Việt cho bản thân.
GV nên tham khảo và cho HS thực hành các dạng bài tập hoạt động ngoại khóa về từ
Hán Việt mà nghiên cứu này thiết kế nhằm giúp học sinh nâng cao khả năng hiểu và sử dụng
từ Hán Việt trong trong hoạt động thực tiễn (tiếp nhận văn bản VHTĐ VN, nói và hành văn).
Ưu điểm của hệ thống bài tập là tính logic và tính khoa học của nó. Các bài tập được thiết kế
theo hướng từ cơ bản đến nâng cao (bài tập nhận diện, khả năng hiểu, bài tập dùng từ, bài tập
mở rộng từ). Hệ thống bài tập này nhằm mục đích rèn luyện kĩ năng dùng từ Hán Việt cho HS
từ dễ đến khó nhằm mục đích góp phần phát triển kĩ năng sử dụng từ Hán Việt cũng như củng
cố và khắc sâu kiến thức về từ Hán Việt. Hoạt động ngoại khóa sẽ tạo môi trường thực hành
cho học sinh. Đây cũng là môi trường chơi mà học, học mà chơi. Chính hoạt động ngoại khóa
này làm cho HS hứng thú hơn khi học từ Hán Việt.
Lãnh đạo các phòng Giáo dục ở các huyện thuộc khu vực nông thôn, miền núi cần đề
xuất với sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên đề nhằm nâng cao
kiến thức chuyên môn cho GV, trong đó cần có những chuyên đề riêng về từ Hán Việt, Hán
Nôm.
Tạo điều kiện về cơ sở vật chất như phòng ốc, máy móc kĩ thuật cho người dạy và
người học. Bên cạnh đó nhà trường cần xây dựng một thư viện đa dạng phong phú về chủng
loại sách, bổ sung thêm các sách công cụng như từ điển Hán Việt, từ điển từ Việt cổ, điển cố
văn học, ngữ liệu văn học... để GV và HS tra cứu. Đồng thời, Ban Giám hiệu nhà trường
thường xuyên đôn đốc, khuyến khích GV sử dụng các PPDH sáng tạo, linh hoạt và ứng dụng
công nghệ thông tin trong giảng dạy.