You are on page 1of 20

HANJA, HANGEUL VÀ NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ VĂN TỰ HÀN QUỐC

SVTH: Bùi Lê Thái Sơn 2H-19C (trưởng nhóm)

Lê Khánh Linh 2H-19C

Nguyễn Thị Diễm 2H-19C

GVHD: Thầy Phạm Tuấn Hiệp

1
PHẦN 1: MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu

Trong xu thế phát triển và hội nhập như hiện nay, nhu cầu học và tìm hiều ngôn
ngữ, văn hóa của các quốc gia ngày càng tăng lên, nhiều thứ tiếng được chú trọng và
đưa vào giảng dạy nhiều hơn ở các trường đại học. Trong đó không thể không kể đến
tiếng Hàn Quốc- ngôn ngữ của một quốc gia phát triển nằm ở khu vực Đông Á - đang
có nền văn hóa ảnh hưởng lớn ở Châu Á, nhất là đối với các khu vực Đông Á và Đông
Nam Á. Hơn nữa, ngôn ngữ Hàn Quốc đang dần vươn lên vị trí đầu trong số các ngoại
ngữ được ưa chuộng và đưa vào giảng dạy tại Việt Nam. Tiếng Hàn đang được nhiều
người trẻ cân nhắc, lựa chọn là ngoại ngữ thứ 2, thứ 3 để theo học. Ngôn ngữ Hàn Quốc
đã trở thành trào lưu trong những năm gần đây và lượng người theo học tại Việt Nam
tăng lên theo cấp số nhân là minh chứng xác thực cho điều này.

Song, như chúng ta đã biết, học một ngôn ngữ đòi hỏi chúng ta sẽ phải đối mặt
với rất nhiều thách thức: ngữ pháp, từ vựng, ngữ âm vv…và sẽ càng khó khăn hơn đối
với người học khi ngôn ngữ Hàn không cùng hệ chữ cái với ngôn ngữ mẹ đẻ của mình.
Hiện chúng tôi đang là sinh viên khoa tiếng Hàn Quốc trường đại học Hà Nội, trong quá
trình chinh phục ngôn ngữ này, khó khăn ban đầu của chúng tôi cũng chính là hệ chữ
cái tiếng Hàn khác hoàn toàn so với tiếng Việt. Để hiểu rõ được bảng chữ cái tiếng Hàn,
chúng ta cần biết về quá trình hình thành và phát triển của chữ viết tiếng Hàn. Bảng chữ
cái tiếng Hàn xưa và nay (Hanja - Hangeul), cùng văn tự tiếng Hàn là kiến thức nền
tảng cơ bản giúp người học hiểu cặn kẽ nguồn gốc, căn nguyên để từ đó có thể chuyên
sâu vào từng kỹ năng trong Hàn ngữ.

Bởi những lí do trên cùng với mong muốn mở rộng kiến thức về tiếng Hàn mà
chúng tôi quyết định chọn để tài “Hanja, Hangeul và những điều cần biết về văn tự
Hàn Quốc” làm đề tài nghiên cứu trong báo cáo khoa học này. Với mong muốn không
chỉ bản thân có thêm hiểu biết sâu hơn về tiếng Hàn Quốc mà hy vọng kết quả của báo
cáo khoa học này sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho các bạn sinh viên đang học tiếng
Hàn nói chung và những ai quan tâm đến tiếng Hàn nói riêng, từ đó có thể học tiếng
Hàn hiệu quả hơn.

2. Mục tiêu nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu trên, đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu
cơ bản sau: Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của hai loại văn tự tiếng Hàn; Ảnh
2
hưởng của Hanja trong văn tự tiếng Hàn; Lợi ích của việc học Hanja đối với người học
tiếng Hàn; Văn tự tiếng Hàn hiện đại và phạm vi sử dụng.

3. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chúng tôi hướng đến là Hanja, Hangeul - hai loại văn tự
Hàn và văn tự tiếng Hàn quá khứ và hiện tại.

4. Phương pháp nghiên cứu

Báo cáo này được áp dụng các phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng
hợp nghiên cứu và phương pháp lịch sử.

PHẦN 2: NỘI DUNG

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT

1. Hanja - loại văn tự độc tôn trong văn hoá phương Đông

Nói đến Hanja – chữ Hán, chúng ta không thể quên được một quốc gia có nền
văn minh lâu đời - Trung Quốc. Chữ Hán hay Hán tự (漢字) là loại văn tự ngữ tố xuất
phát từ tiếng Trung Quốc, sau đó du nhập vào các nước lân cận trong vùng bao gồm
Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam, tạo thành vùng được gọi là vùng văn hóa chữ Hán
hay vùng văn hóa Đông Á. Tại các quốc gia này, chữ Hán được vay mượn để tạo nên
chữ viết cho ngôn ngữ của dân bản địa ở từng nước.

Năm 1915, Từ Nguyên Cật và một số người cùng biên soạn đã ban bố “Trung
Hoa đại từ điển” trong đó có hơn 48.000 chữ. Sau giải phóng hạng mục này được liệt
vào những hạng mục trọng điểm xây dựng văn hoá của Trung Quốc là “Hán ngữ đại từ
điển” tất cả có hơn 56.000 chữ. Các chữ này được hình thành theo các cách chính: chữ
tượng hình (상형 - 象形), chữ chỉ sự (지사 - 指事) hay chữ biểu ý (표의 - 表意), chữ
hội ý (회의 - 會意), chữ hình thanh (형성 - 形聲), chữ chuyển chú (轉注 - 전주) và
chữ giả tá (假借 - 가차). Bốn cách tạo chữ (tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh) và hai
cách sử dụng chữ (chuyển chú, giả tá) được gọi chung là Lục Thư (육서 - 六書). Ngoài
ra chữ Hán còn được phân loại thành 214 bộ chữ, mỗi bộ chữ được đại diện bằng một
thành phần cấu tạo chung gọi là bộ thủ, dựa theo số nét. Tuy nhiên số bộ thủ không phải
bất biến mà có sự thay đổi theo thời gian.

Hán ngữ được du nhập vào bán đảo Triều Tiên khá lâu, khoảng thời kỳ đồ sắt.
Đến thế kỷ thứ IV trước Công Nguyên (thời kỳ Cổ Triều Tiên -고조선), xuất hiện các

3
văn bản viết tay của người Hàn cổ. Chữ Hán trong tiếng Hàn được gọi là Hanja (한자 -
漢字) và đối với từng chữ, người Hàn lại có một cách đọc khác nhau.

Mặc dù người Hàn Quốc phải học Hán tự để có thể đọc viết đúng cách, nhưng
một số hệ thống bổ sung đã được phát triển sử dụng các dạng đơn giản của các ký tự
Trung Quốc phiên âm tiếng Hàn, bao gồm Hyangchal (향찰 - 鄕札), Gugyeol (구결 -
口訣), và Idu (이두 - 吏讀). Một cách để điều chỉnh Hanja để viết tiếng Hàn trong các
hệ thống như vậy (chẳng hạn như Gugyeol) là đại diện cho các hạt ngữ pháp tiếng Hàn
bản địa và các từ khác chỉ theo cách phát âm của chúng. Ví dụ, Gugyeol sử dụng các ký
tự "vị - 爲; ni -尼" để phiên âm từ tiếng Hàn "하니", trong tiếng Hàn hiện đại có nghĩa
là "không, và như vậy". Tuy nhiên, trong tiếng Trung Quốc, các ký tự tương tự được
đọc bằng tiếng Quan Thoại là cụm từ "wéi ní", có nghĩa là "trở thành một nữ tu". Đây là
một ví dụ điển hình của các từ trong tiếng Gugyeol trong đó gốc (爲) được đọc trong
tiếng Hàn theo nghĩa của nó "hă - làm", trong khi hậu tố 尼, ni (có nghĩa là "ni cô"),
được sử dụng theo phiên âm.

Hanja là phương tiện viết tiếng Hàn duy nhất cho đến khi vua Sejong thúc đẩy
việc phát minh ra chữ Hangeul vào thế kỷ XV. Tuy nhiên, ngay cả sau khi phát minh ra
Hangeul, hầu hết các học giả Hàn Quốc vẫn tiếp tục viết bằng Hán văn (한문).

2. Hangeul thay thế Hanja và trở thành ngôn ngữ dân tộc

2.1. Thế Tông, đấng cứu thế của một dân tộc

Vua Sejong, tức Triều Tiên Thế Tông (조선세종 - 朝鮮世宗), nối ngôi vua
Thái Tông (태종 - 太宗), trị vì từ năm 1418 đến năm 1450. Trong suốt 32 năm trị vì,
Thế Tông Đại Vương đã tỏ ra là một nhà chính trị vô cùng lỗi lạc, không chỉ trong các
chiến lược quân sự mà còn trong nhiều lĩnh vực khác như văn hoá, tôn giáo. Dù bấy giờ
việc triều chính vẫn còn phụ thuộc nhiều và bị chi phối bởi những học sĩ Nho giáo, song
đức vua Sejong đã biết cách kiềm chế những con người này. Ông còn có niềm tin vào
Phật giáo mặc dù Nho giáo ở Hàn Quốc có những tín điều bài trừ các giáo lý nhà Phật.

Thời bấy giờ, những nền văn hoá Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Việt
Nam bị chi phối, phụ thuộc vào văn hoá Trung Quốc. Vua Sejong nhận thấy chữ Hán
dần dần lỗi thời và không thích hợp với ngôn ngữ bản địa: “Việc nhồi nhét các Hán tự
để đọc âm Hàn chẳng khác gì đi lắp một cái cán vuông vào một chiếc lỗ hình tròn vậy”1

출처: https://www.youtube.com/watch?v=j9hzK0K1L4I
1

4
và từ đó, ông quyết tâm cải cách ngôn ngữ Hàn Quốc thông qua Huấn dân chính âm (
훈민정음 - 訓民正音), nôm na là những âm thanh bằng lời nói đúng ngụ ý để dạy dân,
sử dụng Hangeul, một hệ thống bảng chữ cái do ông sáng tác. Việc làm này của ông
mang ý nghĩa lịch sử trọng đại đối với nền văn hoá Hàn Quốc.

Sự ra đời của bảng chữ cái Hangeul có ý nghĩa vô cùng to lớn. Nó đánh dấu
bước phát triển vượt bậc trong lịch sử về văn hóa và khoa học của Hàn Quốc. Sự xuất
hiện của chữ Hangeul đã đưa đất nước và người dân Hàn Quốc thoát khỏi nạn mù chữ,
thiếu hiểu biết. Đây là dấu ấn lịch sử đánh dấu thời điểm người dân Hàn Quốc đã có thể
ghi lại tiếng nói của mình, ngôn ngữ của mình bằng chính chữ viết do dân tộc mình
sáng tạo ra. Vì vậy, chúng ta không ngạc nhiên khi Hangeul là niềm tự hào, hãnh diện to
lớn của người dân Hàn Quốc. Và nó cũng là bộ chữ duy nhất trên thế giới có ngày kỷ
niệm của riêng nó, ngày mùng 9 tháng 10 hàng năm.

2.2. Sự xuất hiện của Hangeul

Trước kia, người Triều Tiên chủ yếu viết bằng tiếng Trung Cổ điển cùng với hệ
thống chữ viết phiên âm bản địa có trước Hangeul hàng trăm năm, bao gồm chữ viết
Idu, Hyangchal, Gugyeol và Gakpil1. Tuy nhiên, nhiều người Triều Tiên thuộc tầng lớp
thấp không biết chữ do sự khác biệt cơ bản giữa ngôn ngữ Hàn Quốc và Trung Quốc, và
số lượng các ký tự Trung Quốc là quá lớn. Để thúc đẩy dân chúng biết chữ, vua Sejong
đã tự mình tạo ra và ban hành một bảng chữ cái mới (nhưng cũng có tài liệu cho rằng
ông cùng các thành viên của Tập Hiền Điện tạo ra nó).

Bảng chữ cái tiếng Hàn được thiết kế để những người có trình độ học vấn thấp
cũng có thể đọc và viết được. Một câu nói nổi tiếng về bảng chữ cái này: "Người khôn
ngoan thuộc lòng nó từ bình minh đến lúc mặt trời lên đỉnh; kẻ ngu muội thì cố nhồi
nhét cũng chỉ mười ngày là xong2". Tại đây, lần đầu tiên, Hangeul xuất hiện và trở
thành Quốc tự. Công trình nghiên cứu chữ Hangeul được hoàn thành vào khoảng cuối
tháng 12 năm 1443 đầu tháng 1 năm 1444, và được mô tả vào năm 1446 trong một tài
liệu có tiêu đề Huấn dân chính âm (훈민정음 -訓民正音) - Âm chuẩn để giáo huấn
người dân. Ngày ban bố Huấn dân chính âm, ngày 9 tháng 10, đã trở thành Ngày
Hangeul ở Hàn Quốc. Tương đương với Bắc Triều Tiên, Ngày Hangeul, là vào ngày 15
tháng Giêng. Một tài liệu khác được ban bố vào năm 1446 có tiêu đề Huấn dân chính

출처: Asia’s Orthographic Dilemma, tr. 57


1

출처: Hunmin Jeongeum Haerye, postface of Jeong Inji, p. 27a, translation from Gari K. Ledyard, The
2

Korean Language Reform of 1446, p. 258

5
âm Giải lệ (훈민정음 해례 -訓民正音解例), giải thích và các ví dụ của Huấn dân
chính âm, được phát hiện vào năm 1940. Tài liệu này giải thích rằng thiết kế của các
chữ cái phụ âm dựa trên ngữ âm khớp và thiết kế của các chữ cái nguyên âm trên
nguyên tắc âm dương và hài hòa nguyên âm. Huấn dân chính âm có hai phiên bản.
Phiên bản thứ nhất là 7 trang được viết bằng ngôn văn, cũng chính là cổ văn hay Hán tự.
Phiên bản thứ hai là Eonhaebon, 36 trang, chú thích mở rộng bằng Hangeul, với tất cả
Hanja biên soạn thành Hangeul để phía dưới bên phải. Trong Huấn dân chính âm, vua
Sejong viết:

Ngữ âm nước ta

Khác nhiều Trung Quốc

Chẳng thể dùng chữ họ để ghi

Làm sao cho ngu dân hiểu được

Cuối cùng cũng không thể biết làm thế nào

Bởi vì sự việc đó

Mới chế ra 28 chữ

Để cho người người điều tiện sử dụng hằng ngày.1

Một trang trong Huấn dân chính âm. Cột


chữ Hangeul, 나랏말씀, có các dấu phụ
phát âm bên trái các đơn vị âm tiết.

2.3. Những thăng trầm của Hangeul

1
출처: https://vi.wikipedia.org/wiki/Hu%E1%BA%A5n_d%C3%A2n_ch%C3%ADnh_%C3%A2m?
fbclid=IwAR0JRcue5Gaw1AU0NMAbK5gj2UX6jt8902Cg10QqOYFVja3hrQudJyHJoGk
2
출처: https://vi.wikipedia.org/wiki/Hu%E1%BA%A5n_d%C3%A2n_ch%C3%ADnh_%C3%A2m?
fbclid=IwAR0JRcue5Gaw1AU0NMAbK5gj2UX6jt8902Cg10QqOYFVja3hrQudJyHJoGk

6
Bản thân vua Sejong cũng phải rất vất vả để cùng với những người trong Tập
Hiền Điện (집현전) cho ra đời những bản thảo của Huấn dân chính âm vì lo sợ rằng
những đại thần trong triều sẽ phản đối (có tài liệu cho rằng là do ông tự sáng tác nên).
Theo đa số những tri thức ưu tú của Triều Tiên bấy giờ, chỉ có Hán tự mới là chữ viết
hợp pháp duy nhất. Nhưng lý do hợp lý hơn cho sự bảo thủ đó là vì họ sợ rằng địa vị
của họ về chính trị, xã hội sẽ bị mai một đi nếu như càng ngày càng có nhiều người biết
đến Hangeul và được phổ cập tri thức, điển hình trong đó là Choi Man Ri (최만리), giữ
chức phó đề học trong Tập Hiền Điện. Trong Thượng Thư Văn của ông tấu lên vua
Sejong năm 1444, Choi viết: “Việc đức vua đảm nhiệm công trình chữ Hangeul, thứ
không hề cần thiết vào thời điểm này là sai trái. Chẳng lẽ người định quên luôn việc
thuốc thang, giữ gìn long thể của mình hay sao?”. Vua đáp lại hết sức khảng khái:
“Ngươi chắc không hiểu được thế nào là Vận thư, thứ có đủ Tứ thanh, Thất âm và
những Mẫu tự phức tạp. Chữ Hán dần không còn phù hợp nữa, nên việc thiết lập một
loại văn tự khác là cấp thiết. Ngoài trẫm ra, chẳng ai có thể làm được việc đó cả1”.

Và thế là, sau khi vua Sejong ban hành Hangeul, hệ thống ký tự mới này nhanh
chóng phổ biến rộng rãi trong nhân dân, nhất là nữ giới và những nhà văn tầng lớp dưới.
Phật giáo cũng đóng vai trò quan trọng trong công cuộc này. Tuy nhiên, trước tình hình
người dân có thể nhanh chóng truyền đi các thông tin "nguy hiểm" thông qua hệ thống
ký tự Hangeul, Yên San Quân (연산군 - 燕山君, 1494-1506), vị vua thứ 10 của vương
triều Joseon cấm việc học và sử dụng Hangeul cũng như cấm hẳn các tài liệu Hangeul
vào năm 1504, và vua Trung Tông (중종 - 中宗, 1506-1544) xóa bỏ luôn bộ Hanja vào
năm 1506. Đến lúc này chỉ có phụ nữ và những người không được học hành tử tế mới
dùng Hangeul.

Tuy nhiên, không lâu sau đó, vào cuối thế kỷ XVI Hangeul trở nên thịnh đạt dần
cùng với sự phát triển của hai trào lưu thi ca là Kasa (th- 歌詞) và Sijo (th- 時調).
Trong thế kỷ XVII, các tiểu thuyết viết bằng Hangeul trở thành "mốt", mặc dù việc sử
dụng Hangeul vẫn chưa có sự chuẩn hoá chính thống và cách phát âm vẫn chưa có sự
thống nhất. Năm 1796, học giả người Hà Lan Isaac Titsingh trở thành người đầu tiên
mang một cuốn sách viết bằng tiếng Hàn đến thế giới phương Tây. Bộ sưu tập sách của
ông bao gồm cuốn sách tiếng Nhật, Sangoku Tsūran Zusetsu (Mô tả minh họa về ba
quốc gia) của Hayashi Shihei. Cuốn sách được ban bố năm 1785, mô tả Vương quốc

출처: https://www.korean.go.kr/eng_hangeul/principle/001.html?
1

fbclid=IwAR1hPF3vSifWxCiAE3RFfUt0bnnGDFS46whLQG8se-9jRWlhZJUz1G4FjCM

7
Joseon và bảng chữ cái Hàn Quốc. Năm 1832, Quỹ Dịch thuật Phương Đông của
Vương quốc Anh và Ireland đã hỗ trợ việc xuất bản bản dịch tiếng Pháp của Titsingh đã
giản lược bản gốc. Cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa dân tộc Triều Tiên phát triển mạnh mẽ
khi Nhật Bản muốn tách Triều Tiên ra khỏi vùng ảnh hưởng của Trung Quốc. Hangeul
từ đó trở thành một biểu tượng quốc gia dân tộc đối với một số nhà cách mạng. Cuộc
cải cách Giáp Ngọ (갑오 개혁) do các nhà chính trị theo Nhật khởi xướng đưa đến việc
Hangeul được chọn dùng trong các tài liệu chính thức lần đầu tiên vào năm 1894. Nó
được dạy trong các trường phổ thông vào năm 1895, và vào năm 1896 tờ báo Độc lập
tân văn (독립신문 - 獨立新聞) viết bằng tiếng Anh và Hangeul ra đời.

Độc lập tân văn số đầu tiên

Năm 1910, khởi đầu cho thời kỳ thuộc Nhật, Hangeul dần bị cấm giảng dạy ở
các trường học, dù rằng ở một số trường vẫn được dạy nhưng dạy gộp cả Hanja và
Hangeul để trông giống chữ Nhật Bản. Năm 1912, 한글맞춤법 (chỉnh hình Hangeul) ra
đời. Bản chính tả bảng chữ cái hiện đại hoàn chỉnh của Hàn Quốc được ban bố vào năm
1946, ngay sau khi Hàn Quốc độc lập khỏi sự cai trị của Nhật Bản. Năm 1948, Triều
Tiên đã cố gắng làm cho chữ viết có hình thái hoàn hảo thông qua việc bổ sung các chữ
cái mới, và vào năm 1953, tổng thống Lý Thừa Vãn (이승만) đã cố gắng đơn giản hóa

1
출처: https://en.wikipedia.org/wiki/Tongnip_Sinmun?fbclid=IwAR3M5s4eDQkEGrfX3PMUJ3rBpPkRb-
9oIivgGqyK0y1jOq6cOYAp0NeGOSA

8
chính tả bằng cách quay trở lại chính tả thuộc địa năm 1921, nhưng cả hai cải cách đều
bị bỏ rơi chỉ sau một vài năm.

Cả Triều Tiên và Hàn Quốc đều sử dụng bảng chữ cái Triều Tiên hoặc hệ thống
chữ viết hỗn hợp làm hệ thống chữ viết chính thức của họ, với việc sử dụng Hanja ngày
càng giảm. Bắt đầu từ những năm 1970, Hanja bắt đầu suy giảm dần các bài viết thương
mại hoặc không chính thức ở miền Nam do sự can thiệp của chính phủ, với một số tờ
báo Hàn Quốc hiện chỉ sử dụng Hanja làm chữ viết tắt hoặc phân biệt các từ đồng âm.
Đã có cuộc tranh luận rộng rãi về tương lai của Hanja ở Hàn Quốc. Triều Tiên đã đặt
bảng chữ cái Hàn Quốc làm hệ thống chữ viết độc quyền của mình vào năm 1949, và
cấm hoàn toàn việc sử dụng Hanja.

CHƯƠNG II: HANJA, HANGEUL VÀ NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ VĂN TỰ


HÀN QUỐC

1. Hanja, Hangeul – những điểm tương đồng và khác biệt

1.1. Hanja có nhiều thành phần cốt lõi trong tiếng Hàn

Do ảnh hưởng của văn hoá cũng như Nho giáo Trung Quốc, 70% tiếng Hàn
Quốc bắt nguồn từ Hán tự, điều đó được thể hiện qua những thuật ngữ hàng ngày, trong
báo chí và trong tên người Kim Ji Soo (김지수, âm Hán Việt là Kim Trí Tú). Những từ
gốc Hán là những biểu hiện cho sự ghép các hình vị Hán - Hàn thành một từ đồng nhất.
Chẳng hạn chúng ta có 품 nghĩa là phẩm, ghép với 식 (thực) sẽ ra 식품 là "thực phẩm,
đồ ăn", ghép với 제 (chế) thì thành 제품 tức là sản phẩm,... và nhiều từ khác có thể
ghép với nhau theo cách tương tự. Các câu thành ngữ, tục ngữ (관용표현) cũng vậy. Ví
dụ, để tìm một câu nói tương đồng với “một mũi tên trúng hai đích” của Việt Nam, “ 꿩
먹고 알 먹고” là một ví dụ tốt, tuy nhiên ví dụ ngắn gọn, dễ hiểu hơn thì có lẽ là “
일속이조” (Nhất thạch nhị điểu). Câu này có ý nghĩa y hệt câu “two birds with one
stone” trong tiếng Anh. Hay câu “백문불여일견”, câu văn gốc của nó là ”百聞不如一
見"(Bách văn bất như nhất kiến), nghĩa là "trăm nghe không bằng một thấy". Nói không
chừng, Hangeul là một hình thức ghi chữ Hán một cách thuận tiện, giống như tiếng Việt
có thể ghi các âm Hán Việt bằng chữ Latin.

1.2. Hanja không quá hữu dụng trong tiếng Hàn hiện nay

9
Mặc dù có một số lượng lớn từ Hán – Hàn nhưng không có nghĩa rằng người
Hàn biết tất cả mọi chữ Hán.

Trong thời đại thông tin ngày nay, có sự khác biệt rõ rệt trong việc sử dụng
Hanja và Hangeul và qua đó, thấy được sự tiện lợi của Hangeul của Hanja lớn đến
nhường nào. Lấy ví dụ về chiếc bàn phím máy tính, không một nhà sản xuất nào có thể
nhét 30000 Hán tự vào trong một chiếc bàn phím, thay vì đó, người viết tiếng Trung sẽ
sử dụng một phần mềm hỗ trợ, trước đây là Sogou nhưng giờ đây là Microsoft IME có
sẵn, nhập phần bính âm của chữ Hán đó bằng Romaja (ví dụ nếu muốn nhập chữ 风 –
gió, bạn phải gõ chữ feng và ở dưới sẽ hiện lên một loạt các chữ để cho người dùng
chọn). Tuy nhiên, đối với Hangeul người ta có thể gõ đủ 24 ký tự và thậm chí không
cần dùng bàn phím có giao diện Hangeul, người sử dụng vẫn có thể nhớ từng chữ một ở
đâu, dễ như cách người xưa học Huấn dân chính âm vậy. Trong điện thoại cũng tương
tự, theo Giáo sư Woon Gyu Bang (운규방), người Trung Quốc khi nhắn tin cho nhau
chỉ dùng pinyin, các chữ cái Latin để nhập tiếng của mình, hầu như chẳng ai dùng chức
năng ghép các bộ chữ Hán vào vì làm thế rất bất tiện. Trong khi đó đối với tiếng Hàn,
kể cả là bàn phím dạng đầy đủ hay giản lược, người dùng vẫn có thể gõ tiếng Hàn một
cách dễ dàng. 1

2. Ảnh hưởng của từ gốc Hán trong tiếng Hàn

2.1. Cơ sở ảnh hưởng

Cũng giống như Nhật Bản và Việt Nam, chữ Hán từ lâu đã được du nhập vào
Hàn Quốc, đã từng là ngôn ngữ văn tự chính trong một thời gian dài ở Hàn Quốc.
Không có tài liệu nào đề cập chính xác về thời điểm chữ Hàn được truyền vào Hàn
Quốc, song có lẽ được sử dụng nhiều từ thế kỉ thứ III và phát triển vào thời Tam quốc
Shilla (신라 - 新羅), Baekje (백제 - 百濟), Goguryeo (고구려 - 高句麗).

Chữ Hán được sử dụng rộng rãi và có vị trí quan trọng để ghi chép văn tự vào
thời này. Việc vay mượn chữ Hán để ghi chép được biểu hiện qua hai phương thức là
mượn âm chữ Hán và mượn nghĩa chữ Hán. Có thể thấy rõ việc này qua các loại kí tự
Hyang Ch’al (Hương Trát - 향찰 - 鄕札), Ku Kyol (Khẩu Quyết - 구결 - 口訣), Y Too
(Lại Đầu - 이두 - 吏讀).

 Hương Trát là loại hình vay mượn kí tự được sử dụng chủ yếu để ghi lại hình
thức văn họ nghệ thuật Hyang Ka thời Shilla. Đây là cách ghi kí tự hỗn hợp cả hai
출처: http ctnews.co.kr
1

10
phương thức vay mượn âm và nghĩa, thường theo phương thức nghĩa ở phía trước và
mượn âm ở phía sau.Thường từ các thực từ được nghi chép lại dưới dạng mượn nghĩa,
còn các tiểu từ hay đuôi từ ngữ pháp, tức là các hư từ được ghi lại dưới dạng mượn âm.

 Khẩu Quyết là hình thức gắn bộ phận tiếng Hàn vào sau câu hay các vế câu Hán
văn để đọc. Việc vay mượn chữ ghi chép để biểu thị câu văn tiếng Hàn đã được tận
dụng một cách toàn diện dưới thời Shilla nhưng đến giai đoạn sau, đã có giới hạn trong
cách sử dụng. Kí tự vay mượn lúc này không phải là phương tiện biểu thị một cách trọn
vẹn toàn bộ tiếng Hàn mà chỉ đơn thuần là những bộ phận tiếng Hàn gắn vào sau mỗi
đoạn văn, hỗ trợ cho việc đọc những câu viết hoàn toàn bằng Hán văn.

 Lại Đầu là phương thức mà phần lớn các bộ phận xuất hiện trong câu là Hán
văn, nhưng trật tự sắp xếp từ lại được sửa cho giống với tiếng Hàn, thường thì một phần
của câu văn được thể hiện thông qua các kí tự vay mượn (mượn âm hoặc mượn nghĩa).
Về phương thức vay mượn và thể hiện, Y Too gần giống với Hyang Ch’al, tuy nhiên so
với Hyang Ch’al thì việc sử dụng kí tự vay mượn đã có nhiều suy giảm, nhiều trường
hợp từ ngữ vẫn được giữ nguyên theo tiếng Hán.

 Khẩu Quyết và Lại Đầu là hai phương thức vay mượn kí tự cò tiếp tục tồn tại
trong một khoảng thời gian dài, sau khi chữ Hangeul xuất hiện. Mặc dù chữ Hangeul
được sáng lập, nhưng có thể thấy Hán văn đã chiếm một vị trí rất quan trọng trong sinh
hoạt văn tự của người Hàn, do đó việc duy trì những hình thức thể hiện, hỗ trợ cho việc
đọc và ghi chép Hán văn là tất yếu. Và cũng chính sự phát triển của việc vay mượn kí tự
để ghi chép này đã ghóp phần thúc đẩy việc sáng tạo và hoàn thiện, cho ra đời chữ viết
mới của dân tộc Hàn.

Vào khoảng thế kỉ thứ XV, ở Hàn Quốc xuất hiện chữ kí âm được gọi là 한글
(Hangeul) hay 조선글 (Chosongeul), chữ này trải qua nhiều thế kỉ phát triển thăng
trầm, cuối cùng đã được sử dụng thay thế cho chữ Hán cho đến ngày nay. Tuy Hangeul
đã xuất hiện nhưng chữ Hán (한자) vẫn còn được giảng dạy trong trường  học.

2.2. Mối quan hệ giữa từ gốc Hán và tiếng Hàn

Chữ Hán tự và chữ Hàn Quốc theo phương diện địa chính học hay lịch sử đều có
quan hệ gần gũi với nhau. Không biết hai ngôn ngữ này có sự liên hệ từ khi nào nhưng
nếu nhìn về quan hệ lịch sử, người ta cho rằng chúng hình thành mối quan hệ chính thức
từ thời đại nhà Hán của Trung Quốc.

11
Trước khi sáng tạo ra cho mình một hệ thống chữ viết riêng, từ rất sớm người
Hàn đã vay mượn tiếng Hán. Có thể thấy theo quá trình lịch sử lâu dài, tiếng Hán ở Hàn
Quốc dần dần đã chiếm lượng từ vựng lớn hơn so với tiếng Hàn thuần. Nếu khảo sát hệ
thống từ ngữ dùng trong quá trình xây dựng chế độ xã hội Hàn Quốc – từ tên gọi các cơ
chế tổ chức, hệ thống quan chức, hệ thống luật pháp, ta có thể thấy số từ ngữ Hán – Hàn
chiếm phần lớn. Tuy nhiên các từ Hán du nhập vào và được sử dụng trong tiếng Hàn
không đọc theo âm tiếng Trung vốn có của nó mà theo  âm tiếng Hàn, tuân theo các
nguyên tắc ngữ âm tiếng Hàn.

Ví dụ:

 가정[gajeong]: gia đình

 국가[gukka]: quốc ca

 왕가[wangka]: vương gia (gia đình của vua)

 고문[gomun]: cổ văn

 감동 [gamdong]: cảm động

 공동[gongdong]: cộng đồng

 개요[gaeyo]: khái yếu

Từ Hán-Hàn còn có khả năng kết hợp với các từ thuần Hàn để tạo nên các từ
mới, có khả năng sinh sản trong lĩnh vực cấu tạo từ.

Ví dụ:

 대대로 [daedaero]: đời đời (đời này sang đời khác)

 공부하다 [gongbuhada]: công phu (học tập)

 실패하다 [silppaehada]: thất bại

 불행하다 [bulhaenghada]: bất hạnh

Sở dĩ có khả năng này bởi bản thân mỗi hình vị tiếng Hán đều có tính độc lập
cao, trong lĩnh vực cấu tạo từ không gặp nhiều hạn chế về mặt hình thái, không có sự
phụ thuộc vào trật tự chắp dính thân từ, đuôi từ khi cần biểu thị những khái niệm phức
hợp như hình vị tiếng Hàn (ở cấp độ ngữ hay mệnh đề). Do có tính độc lập cao, mỗi
hình vị tiếng Hàn lại có vị trí phân bố khá tự do, có thể đứng cả trước hoặc sau ở một
cấu trúc từ ghép.
12
Từ Hán du nhập vào tiếng Hàn đã được đồng hoá với tiếng Hàn, được sử dụng 
hoà trộn trong tiếng Hàn vể các mặt ngữ âm, ngữ pháp. Tuy nhiên, nó cũng phản ánh
trật tự từ của tiếng Trung (SVO) đang được giữ nguyên trong lĩnh vực cấu tạo từ.
Chẳng hạn các từ Hán-Hàn như: 등산[deungsan]: đăng sơn, 애국[aeguk]: ái quốc, 개원
[gaewoun]: khai viện, 접객[joepkaek]: tiếp khách… vẫn thể hiện ý nghĩa theo trật tự bổ
ngữ - vị ngữ lần lượt là "leo núi", "yêu nước", "mở trung tâm".

Từ gốc Hán trong tiếng Hàn.

2.3. Từ gốc Hán trong tiếng Hàn hiện đại

a. Âm đầu (초성)

1
출처: http://hoctienghanquoc.org/tin-tuc/Tu-Vung/300-tu-vung-tieng-Han-goc-Han-quan-trong-ban-
nen-hoc-1107/

13
Trong bảng chữ cái tiếng Hàn Quốc có 19 phụ âm đầu. Các phụ âm được phân
loại căn cứ theo vị trí và phương thức cấu âm dưới bảng sau.

* Những âm không biểu đạt bằng âm Hán được đặt trong dấu”< >”.

Trong hệ thống phụ âm đầu, âm tắc phần lớn là âm bật hơi, ngoài ra cũng có âm
thường. Những âm Hán có phụ âm đầu là âm căng chỉ có hai âm, thế nhưng những âm
này cũng được biểu hiện bằng âm thường trong tiếng Hàn thời kì trung đại và trong quá
trình hình thành tiếnh Hàn hiện đại nó đã được âm căng hoá. Theo đó, vốn dĩ trong hệ
thống âm Hán-Hàn không có phụ âm đầu nào là âm căng.

Ví dụ: ㅆ: 쌍(雙), 씨(氏). ㄲ: 끽(喫)

“ㄷ, ㅌ” không kết hợp được với nguyên âm “I” (gồm cả bán nguyên âm /y/).Hơn nữa
“ㅅ, ㅈ, ㅊ” cũng không kết hợp được với bán nguyên âm /y/. Tuy nhiên quy tắc  này
trong tiếng Hàn trung đại có thể nói là ngoại lệ.

Ví dụ: âm “田” là “뎐” nhưng trong tiếng Hàn thời kì cận đại đã được ngạc hoá
tạo thành từ “젼” và trong quá trình hình thành tiếng Hàn hiện đại trở thành “전”.

b. Âm giữa (중성)

Tiếng Hàn có 21 âm giữa (nguyên âm, bán nguyên âm + nguyên âm, nguyên âm
đôi).

Nguyên ㅏ ㅓ ㅗ ㅜ ㅡ ㅣ ㅐ ㅔ ㅚ ㅟ

14
âm đơn

(단모음)

/y/+ nguyên
âm ㅑ ㅕ ㅛ ㅠ ㅒ ㅖ
(/y/+모음)

/w/+nguyên
âm ㅘ ㅝ ㅙ ㅞ
(/w/+모음)

Nguyên
âm đôi ㅢ
(이중모음)

Có sự hạn chế trong sự kết hợp giữa âm đầu với âm giữa và cả giữa âm giữa với
âm cuối. Ví dụ, trong hệ thống nguyên âm đơn, âm “ㅡ” ghép được với phụ âm “ㅂ,ㅍ,
ㅁ” và nhất định phải có phụ âm cuối đặt ở sau. Những nguyên âm giữa có ghép với âm
/w/ (trừ âm "ㅘ,ㅝ") thì không kết hợp được với âm cuối.

Trong hệ thống tiếng Hàn hiện đại, nguyên âm đơn “ㅐ” được phát âm là [e]
nhưng trong quá trình hình thành văn tự tiếng Hàn thời kì trung đại, chúng được phát
âm như các nguyên âm đôi [ai]. Trong tiếng Hàn thời kì trung đại, âm “태” trong từ
Hán “太” được thừa  nhận phát âm là [t< ai] trong tiếng Hàn thơi kì trung đại, cũng vừa
là sự phản ánh của âm [t< ai] trong âm Hán Trung vừa có quan hệ đối lập với âm "タ
イ" (tai) trong âm Hán - Nhật. Còn nguyên âm đôi trong tiếng Hàn thời kì cận đại đã
được nguyên âm đơn hoá.

c. Âm cuối (종성)

Trong hệ thống tiếng Hàn có 7 âm cuối.

Âm môi ( Âm răng ( Âm ngạc mềm (


양순음) 치격음) 연구개음)

Âm tắc (장애음) ㅂ ㄷ ㄱ

15
Âm mũi (비음) ㅁ ㄴ ㅎ

Âm trơn (유음) ㄹ

Có những trường hợp hạn chế trong việc kết hợp với âm giữa. Ví dụ, âm cuối
"ㅂ,ㅁ" không được ghép với những nguyên âm.

3. Lợi ích của việc học Hanja đối với người học và nghiên cứu tiếng Hàn

3.1. Có nhiều nhầm lẫn khi chuyển ngữ

Một số bản dịch các khái niệm đến từ phương Tây so với ngôn ngữ Hàn hiện
nay có rất nhiều nhầm lẫn. Vì Hangeul hiện nay được hình thành từ Hanja nên nếu
không biết chữ Hán thì bạn sẽ có thể không hiểu được ý nghĩa rõ ràng của nhiều từ hoặc
chỉ có thể chỉ hiểu mơ hồ theo phương pháp sử dụng của chúng.

3.2. Bản thân các chữ cái có ý nghĩa phong phú

Các từ trong văn tự biểu âm được nhóm lại với nhau thành một đơn vị. Ví dụ,
"사람" là "người" (ở đây chỉ đề cập đến nó theo cách này) thì trong ký tự chữ Hán là
"人" (인). Có thể tưởng tượng đây là hình dáng của một người đứng bằng hai chân. Nói
cách khác, nó là một chữ cái được tạo ra sau một hình dạng. Nếu bạn gắn 木 (목 - cây)
ở đây, nó sẽ trở thành 休 (휴 - nghỉ ngơi) hình dáng một người đang dựa vào cây. Bằng
cách tương tự hóa bối cảnh mà các chữ cái được tạo ra, các bức tranh phong phú thú vị
về chữ cái sẽ được hình thành trong tư duy.

Khi học Hanja, bạn sẽ nghiền ngẫm và xác minh được nguyên tắc mà các chữ
cái được tạo ra. Tất nhiên, nguyên tắc đó không phải là chính xác về mặt khảo cổ học,
nó chỉ là suy nghĩ của riêng bạn. Tuy nhiên, khi bạn tìm ra được một nguyên tắc thuyết
phục tạo ra các ký tự chữ Hán, bạn sẽ dễ nhớ hơn và thấy chúng rất sống động. Đây có
thể nói là một trải nghiệm chữ nghĩa độc đáo mà khó có thể trải nghiệm trong văn tự
biểu âm.

3.3. Chữ Hanja tốt cho việc ghi nhớ nghĩa của từ và nó cũng đáng để nghiền ngẫm

Chữ Hanja luôn ngắn hơn chữ Hangeul. Điều này là do các ký tự Hán tạo ra khá
nhiều khái niệm trong một chữ cái, vì vậy chúng tốt cho việc ghi nhớ cũng như nghiền
ngẫm.

16
Tuy nhiên đây cũng là một nhược điểm. Đó cũng là lý do vì sao dịch chữ Hán
khó mà chuyển tải thông tin chính xác vì các chữ Hán viết tắt. Hơn nữa, ta có thể thấy
con người ở mỗi thời đại thường có tri thức hiểu biết phù hợp với thời kỳ đó bằng cách
nhìn vào các tài liệu tiếng Hán, và vì thế, cách hiểu của họ chắc chắn là khác nhau. Điều
này cũng liên quan đến hệ thống ngữ pháp của văn viết Hán tự - một hệ thống mở có
khả năng diễn giải bằng nhiều cách khác nhau. Khi ngữ pháp của một hệ thống mở như
vậy và văn bản Hán tự gồm nhiều chữ viết tắt kết hợp với nhau thì khả năng diễn giải sẽ
rất phong phú. Vì vậy, học chữ Hán không có lựa chọn nào khác ngoài việc học thuộc
và nghiền ngẫm chúng.

3.4. Có những tài liệu nên đọc hiểu qua chữ Hán

Đối với thế hệ trẻ không nhiều người biết Hanja, khi đọc các tác phẩm văn học
hay tài liệu cổ, khá đáng tiếc khi họ không thể cảm nhận được những con chữ sống
động, giàu ý nghĩa của Hanja. Điều đó có nghĩa là bạn chỉ có thể hiểu đúng văn bản chữ
Hán nếu bạn đọc chúng qua ngôn ngữ gốc.

4. Văn tự tiếng Hàn hiện đại và phạm vi sử dụng

4.1. Hangeul - văn tự chữ Hàn Quốc hiện nay

Bảng chữ cái công bố đầu tiên gồm 28 con chữ, bao gồm 7 kí hiệu ghi nguyên
âm, 17 kí hiệu ghi phụ âm và 4 kí hiệu phụ nhưng trong quá trình hình thành và phát
triển chỉ còn có 24 con chữ và cho đến nay là 21 nguyên âm (10 nguyên âm đơn: ㅣ, ㅔ,
ㅐ, ㅏ, ㅓ, ㅗ, ㅜ, ㅡ, ㅚ, ㅟ; 11 nguyên âm đôi:ㅑ, ㅕ, ㅛ, ㅠ, ㅘ, ㅝ, ㅢ, ㅖ, ㅒ, ㅙ,
ㅞ) và 19 phụ âm (ㄱ,ㄲ, ㄴ, ㄷ, ㄸ, ㄹ, ㅁ, ㅂ, ㅃ, ㅅ, ㅆ, ㅇ, ㅈ, ㅉ, ㅊ, ㅋ, ㅌ, ㅍ,
ㅎ).

Cũng giống như tiếng Việt, tiếng Hàn về cơ bản chữ cái được kết hợp giữa phụ
âm và nguyên âm mà thành. Nguyên âm có dạng nằm dọc thì phụ âm được xếp ở vị trí
bên trái còn nguyên âm có dạng nằm ngang thì phụ âm được xếp ở vị trí bên trên.
Nguyên âm có dạng kết hợp cả nằm ngang và dọc được gọi là ‘nguyên âm đôi’ và đối
với trường hợp của nguyên âm đôi thì phụ âm được viết ở phía bên trên. Tiếng Hàn có
những trường hợp chữ cái chỉ được tạo ra từ một nguyên âm và lúc này thì "ㅇ" được
viết ở vị trí của phụ âm. Cuối cùng là chữ có dạng "phụ âm + nguyên âm + phụ âm" và
phụ âm cuối được gọi là "patchim". Nó được viết ở phần dưới cùng của chữ và trong
trường hợp chữ có hai ‘patchim’ thì hai chữ cái này được viết ngang bằng nhau.

17
Các cách kết hợp giữa phụ âm và nguyên âm trong tiếng Hàn được thể hiện
bởi bảng sau:

Phụ âm + nguyên âm
Nguyên âm Phụ âm + nguyên âm + phụ âm

(patchim kép)

ㅇ ㅅ ㅊ ㅐ ㄷ ㅏ
ㅇ ㅏ ㅊ ㅏ ㄱ ㄹ ㄱ
ㅗ ㅗ

4.2. Phạm vi sử dụng

Theo thống kê trên toàn thế giới hiện nay có khoảng hơn 100 triệu người nói
tiếng Hàn Quốc, trong số đó có tới hơn 80 triệu đang sử dụng ngôn ngữ này như tiếng
mẹ đẻ, con số trên bao gồm cả các nhóm lớn cộng đồng dân di cư Hàn Quốc và
CHDCND Triều Tiên trên khắp thế giới, đặc biệt như tại các khu vực và quốc gia: Hoa
Kỳ, Canada, các nước thuộc khối CIS, Úc, các nước châu Âu, Đài Loan, Brasil, Nhật
Bản, Hồng Kông (Trung Quốc), Singapore và gần đây nhất là Việt Nam, Thái Lan và
Philippines. Bên cạnh đó cùng với sự ảnh hưởng mạnh mẽ của làn sóng văn hóa Hallyu,
tiếng Hàn đang ngày càng được biết đến rộng rãi hơn trên thế giới và dần trở thành ngôn
ngữ toàn cầu, được sử dụng thường xuyên cho việc giao tiếp hàng ngày hoặc học tập
trên trường lớp. Bằng chứng là kể từ sau lần đầu tiên cuộc thi năng lực tiếng Hàn (Test
of Proficiency in Korean – TOPIK) chỉ được tổ chức tại 4 nước vào năm 1997, đến nay
con số này đã tăng lên thành 78 quốc gia trên khắp năm châu. Đồng thời, số lượng thí
sinh đăng ký tham gia cuộc thi cũng tăng theo cấp số nhân, gần gấp 110 lần trong vòng
hơn 20 năm qua.1

PHẦN 3: KẾT LUẬN

Từ gốc Hán trong tiếng Hàn tự có ảnh hưởng lớn đối với các ngôn ngữ các nước
phương Đông như Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc. Trước khi sáng tạo ra cho mình
một hệ thống chữ viết riêng, người Hàn đã vay mượn chữ Hán để thực hiện sinh hoạt ký

1
출처: https://thongtinhanquoc.com/nhung-quoc-gia-nao-dua-tieng-han-vao-ky-thi-tuyen-sinh-dai-
hoc/?fbclid=IwAR2AELlcYkOBqHuJf0c-d-cpR6YMUnPGhrYj26q55lcfqStc4dRym0fXPlo

18
tự. Vì thế chữ Hán và tiếng Hàn có quan hệ rất mật thiết với nhau. Từ Hán-Hàn còn có
khả năng kết hợp với các từ thuần Hàn để tạo nên các từ mới, có khả năng sinh sản
trong lĩnh vực cấu tạo từ. Việc vay mượn chữ Hán được biểu hiện qua hai phương thức
là mượn âm chữ Hán và mượn nghĩa chữ Hán qua 3 loại ký tự: 향찰, 구결 và 이두.

Hệ thống từ gốc Hán trong tiếng Hàn hiện đại có những đặc điểm nhất định về
âm đầu, âm giữa và âm cuối. Thông qua việc đọc và hiểu âm và nghĩa của các từ gốc
Hán, ta có thể biết và hiểu được nghĩa của từ một cách dễ dàng và chính xác. Khi đã
hiểu thêm và biết được nhiều từ gốc Hán trong tiếng Hàn, chắc chắn các bạn sẽ thêm
yêu và có nhiều hứng thú nghiên cứu về tiếng Hàn Quốc.

Ngôn ngữ thể hiện tinh hoa, bản sắc văn hoá và tinh thần tự chủ của một dân tộc.
Đúng vậy, để hiểu và vận dụng tốt một ngôn ngữ mới mà cụ thể là tiếng Hàn Quốc thì
việc hiểu và nắm rõ được nguồn gốc, lịch sử hình thành cũng như quá trình phát triển
của văn tự tiếng Hàn; ảnh hưởng và lợi ích của việc học Hanja và Hanguel là một yếu tố
quan trọng để người học có cái nhìn đa chiều và cặn kẽ hơn về ngôn ngữ này. Thông
qua việc tìm hiểu và nghiên cứu về đề tài “Hanja, Hanguel và những điều cần biết về
văn tự Hàn Quốc”, chúng tôi mong muốn không chỉ bản thân có hiểu biết sâu sắc hơn
về ngôn ngữ mình đang theo học và hi vọng đây cũng chính là tài liệu tham khảo bổ ích
cho các bạn học sinh, sinh viên, những ai quan tâm và yêu mến xứ sở kim chi này có thể
học tập tiếng Hàn tốt hơn. Trong khuôn khổ phạm vi có hạn, bài nghiên cứu này chắc
chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp
của thầy cô giáo và các bạn.

Tài liệu tham khảo

1. https://deliciouslearning.tistory.com/423?
fbclid=IwAR2igNeDSj2pYOJ2p0FGH26Cp2QGrPbzWBGgXVw8RUq1C4RtxAGjOSZ8
w4E
2. https://cdn.fbsbx.com/v/t59.2708-
21/184304363_257371102811043_1306035024794627491_n.docx/
BUOC_DAU_TIM_HIEU_QUA_TRINH_HINH_THANH.dpf.docx?
_nc_cat=104&ccb=1-
3&_nc_sid=0cab14&_nc_ohc=mF0CSQotPfwAX8scGWx&_nc_ht=cdn.fbsbx.com&oh
=9791bfdd42d34df03c8af9f6964db402&oe=60A2205D&dl=1

19
3. http://www.brainmedia.co.kr/BrainScience/12931?
fbclid=IwAR31b8vz7Efz0yBdKz4dXYAnPok9xuFTqFd29rb7cNXrMguJRMMrq27nhxw
4. http://www.ctnews.co.kr/7855?fbclid=IwAR2uPgXrMZ_rpeWoIiY-
yvYIQj0NS25Vtn8UJfKa3l6D8KQJJRREYAD7NIM
5. https://thongtinhanquoc.com/nhung-quoc-gia-nao-dua-tieng-han-vao-ky-thi-tuyen-sinh-
dai-hoc/?fbclid=IwAR0kFYrhNuc6UKT4B1mmcfrWMdT08rF-cA9U51_Hu8VRGAM-
ZjUJWbNi7J4
6. https://tailieuchung.com/vn/tlID1341947_anh-huong-cua-tu-goc-han-trong-tieng-
han.html

20

You might also like