Professional Documents
Culture Documents
2
cách học. Charles Bally được coi như là người đề xướng và khai sinh cho ngành phong cách
học ở nước Pháp nói riêng và trên thế giới nói chung.
- Năm 1919, Leo Spilzer mở rộng sự quan tâm đến những thuộc tính phong cách của văn
bản, nhấn mạnh đến những luận điểm của Buffon Phong cách chính là con người và cho rằng
sự kiện phong cách bao gồm cả phần tư duy và phần tình cảm. Khuynh hướng này được mệnh
danh là phong cách mới.
- Suốt nửa đầu thế kỉ, các nhà ngôn ngữ học trên thế giới quan tâm nhiều đến các vấn đề
ngôn ngữ học đại cương, lí luận âm vị học, lí luận ngữ pháp mà ít quan tâm đến phong cách
học và chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ vào nửa sau thế kỉ XX.
1.2. Phương Ðông
- Vào thế kỉ thứ IV Tr .CN, Mặc Tử đã có những ý kiến bàn luận về sự biến hoá của lời nói
trong các văn cảnh khác nhau bằng khái niệm Thiên hành. Thực chất là bàn luận về sự hành
chức của các đơn vị ngôn ngữ trong thực tiễn nói năng. Thời Chiến Quốc, một số danh gia như
Huệ Thi, Công Tôn Long cũng có những luận bàn về mối quan hệ giữa tên gọi và sự vật. Dù
lập luận còn mang màu sắc ngụy biện nhưng họ đã dùng đến các biện pháp tu từ mà nay chúng
ta định danh là: so sánh, tương phản, ngoa dụ...
- Cuối thời Chiến Quốc, Tuân Tử, một đại biểu xuất sắc của phái Nho gia đã có những phát
hiện mới khi bàn về tính ước lệ (quy ước) của tên gọi nói riêng và của ngôn ngữ nói chung:
Ước lệ đã thành thói quen thì bảo là đúng; khác với thói quen thì bảo là không đúng. Ðiều này
có liên quan đến khái niệm mà phong cách học dùng sau này, đó là khái niệm chuẩn mực.
2. Ở Việt Nam
2.1. Trong các quyển Vân đài loại ngữ, Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Ðôn cho biết các nhà trí
thức Việt Nam như: Hoàng Ðức Lương (thế kỉ XV), Phùng Khắc Khoan (thế kỉ XVI), Lê Hữu
Kiều (thế kỉ XVIII)... đã có những ý kiến bàn luận về cách luyện văn, luyện câu, luyện chữ
nghĩa trong văn chương.
2.2. Từ cuối thế kỉ XIX đến khoảng trước 1964, nhiều học giả đã nghiên cứu, khảo sát và
khái quát những vấn đề về ngữ pháp, ngữ âm, từ vựng của tiếng Việt như: Trương Vĩnh Ký,
Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm, Lê Văn Lý, Nguyễn Hiến Lê,...
2.3. Năm 1964, quyển Giáo trình Việt ngữ ( tập III- phần Tu từ học ) của Ðinh Trọng Lạc ra
đời. Có thể xem giáo trình này đánh dấu sự xuất hiện thực sự của khoa học về phong cách học
ở Việt Nam. Từ đó đến nay, rất nhiều quyển giáo trình mới về phong cách học được xuất bản.
Tiêu biểu như : Phong cách học tiếng Việt (1982) của tập thể tác giả Cù Ðình Tú (chủ biên),
Lê Anh Hiền, Nguyễn Nguyên Trứ; Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt (1983) của
Cù Ðình Tú; Phong cách học tiếng Việt (1993) của Ðinh Trọng Lạc,...
III. Đối tượng nhiệm vụ của phong cách học
1. Đối tượng nghiên cứu của phong cách học
Trên những nét chung nhất, phong cách học được hiểu là khoa học nghiên cứu sự vận dụng
ngôn ngữ, nói khác đi, nó là khoa học về quy luật nói viết có hiệu lực. Sử dụng ngôn ngữ có
hiệu lực cao ở đây có nghĩa là: nói, viết đạt được tính chính xác cao, tính đúng đắn và tính
thẩm mĩ trong mọi phạm vi hoạt động của giao tiếp xã hội. Nói cách khác, ngôn ngữ được sử
dụng có hiệu quả cao là ngôn ngữ phải thực hiện được tất cả chức năng xã hội của nó. Do nhấn
mạnh về mặt này hay mặt khác đối với việc vận dụng ngôn ngữ mà các nhà nghiên cứu đã có
những quan điểm khác nhau về đối tượng nghiên cứu.
1.1. Đối tượng nghiên cứu của phong cách học là yếu tố biểu cảm của ngôn ngữ:
Người đề xướng quan điểm này là Charles Bally. Theo ông phong cách học nghiên cứu các
sự kiện biểu đạt của ngôn ngữ trên quan điểm nội dung biểu cảm của chúng, nghĩa là sự biểu
đạt các sự kiện tình cảm bằng ngôn ngữ và tác động của ngôn ngữ đối với tình cảm.
Nhà từ điển học Tây Ban Nha, H .Casares cũng tán thành quan điểm này: Sự nghiên cứu và
đánh giá các yếu tố đi kèm theo phần thông báo trung hòa - logic thuần trí tuệ là đối tượng của
3
phong cách học. Ông cho rằng Phong cách học có nhiệm vụ tách ra các yếu tố phi quan niệm,
đồng thời nghiên cứu các yếu tố phi quan niệm có trong biểu đạt.
*Nhận xét: Quan điểm của Charles Bally và những người ủng hộ quan điểm này là đúng
nhưng chưa đủ. Trong việc vận dụng ngôn ngữ, các yếu tố biểu cảm đóng một vai trò hết sức
quan trọng. Tài năng, sức hấp dẫn của người nói, người viết thể hiện một cách tập trung và rõ
nét trong việc vận dụng và sáng tạo các yếu tố biểu cảm. Thế nhưng trong giao tiếp, không
phải lúc nào các yếu tố biểu cảm cũng có thể có mặt.
Ví dụ: trong giao tiếp hành chính và khoa học không cần có sự tham gia của yếu tố biểu cảm
Cái quyết định tạo nên một lời nói có hiệu lực cao là ở chỗ lựa chọn các phương tiện ngôn
ngữ phù hợp với thực tế giao tiếp. Chính vì thế, quan điểm này không được các nhà ngôn ngữ
học Việt Nam ủng hộ.
1.2. Đối tượng nghiên cứu phong cách học là các phong cách chức năng ngôn ngữ
Một số nhà ngôn ngữ học Tiệp Khắc như : Havranek, Jedlicka, Dolejel... xuất phát từ sự xác
định phạm trù chung nhất của phong cách học là phong cách ngôn ngữ, đã xem phong cách
ngôn ngữ là đối tượng của phong cách học. Havranek cho rằng: Nghiên cứu thể văn là công
việc khoa học về thể văn (phong cách) hoặc phong cách học . Còn Dolejel cho rằng phạm trù
chung quan trọng nhất là phong cách học.
* Nhận xét: Trong giao tiếp, phong cách chức năng ngôn ngữ là một trong những tiêu chuẩn
để đánh giá tính chất đúng đắn, tính có hiệu lực cao của lời nói. Mỗi cá nhân trong quá trình
vận dụng ngôn ngữ, tự giác hay không tự giác đều phải theo một phong cách chức năng ngôn
ngữ nhất định. Do vậy quan điểm của các nhà ngôn ngữ học trên là có cơ sở nhưng cũng chưa
đủ. Phong cách chức năng ngôn ngữ phải là một trong những nội dung quan trọng của phong
cách học nhưng nếu xem đấy là nội dung duy nhất thì có phần cực đoan vì còn có vấn đề lựa
chọn và vận dụng các phương tiện ngôn ngữ biểu cảm cũng như cả các phương tiện ngôn ngữ
trung hoà. Thực tế trong giao tiếp đều thực hiện ở một phong cách chức năng ngôn ngữ nào
đó nhưng ta không thể rập khuôn theo một cách nói năng (dù thống nhất và phù hợp với PC)
nếu đối tượng, tình huống giao tiếp thay đổi. Mỗi phong cách chức năng ngôn ngữ cũng lại
tồn tại dưới những biến thể.
Ví dụ: Phong cách khẩu ngữ có khẩu ngữ văn hoá và khẩu ngữ thông tục ứng với những hoàn
cảnh, đối tượng và mục đích giao tiếp khác nhau. Do vậy quan điểm này cũng không được các
nhà ngôn ngữ học Việt Nam ủng hộ.
1.3. Đối tượng nghiên cứu phong cách học là quy luật lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ
Một số nhà ngôn ngữ học Pháp và Liên Xô như: Julies, Maroujeau, K.Moren, R.G.Piotroski...
xem việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện biểu đạt của ngôn ngữ là đối tượng của phong
cách học.
Moren viết phong cách học là ngành ngữ văn độc lập, nghiên cứu những nguyên tắc lựa chọn
và sử dụng các phương tiện ngôn ngữ nhằm biểu đạt một nội dung nhất định trong những hoàn
cảnh giao tiếp nhất định .
* Nhận xét: Trong ngôn ngữ cũng như trong lời nói, luôn luôn có khả năng tồn tại những biến
thể cùng nghĩa. Do vậy, trong giao tiếp chúng ta đều phải làm công việc lựa chọn các biến thể
cùng nghĩa:
- Lựa chọn các biến thể cùng nghĩa để nói hoặc viết khi phát tin.
- Lựa chọn những biến thể cùng nghĩa để hiểu khi nhận tin.
Lựa chọn là một hoạt động thường xuyên trong giao tiếp. Nội dung của sự lựa chọn là: lựa
chọn các yếu tố biểu cảm và không biểu cảm, lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ và phương
pháp diễn đạt phù hợp với phong cách. Sự lựa chọn cách nói, cách hiểu như trên thường diễn
ra trong tiềm thức, một cách tự nhiên và đôi khi nếu không để ý, ta không nhận ra điều đó.
Chỉ khi nào gặp phải trường hợp viết không ra ý, nói chẳng thành lời chúng ta mới thấy vấn đề
nói, viết không phải dễ dàng và việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ đễ diễn đạt thật quan
trọng biết bao. Thao tác lựa chọn này (cả thao tác kết hợp) diễn ra một cách trừu tượng. Trong
4
sáng tác văn chương, sự lựa chọn này rất quan trọng và bộc lộ rõ ràng hơn. Người nói càng
thành thạo thao tác lựa chọn bao nhiêu, càng tập hợp được nhiều đơn vị ngôn ngữ tương đồng
và dị biệt để lựa chọn thì hiệu quả diễn đạt của họ càng cao bấy nhiêu
Ở Việt Nam, quan điểm này được các nhà ngôn ngữ học ủng hộ. Thực tế giao tiếp cho ta thấy
khi vận dụng ngôn ngữ mỗi cá nhân đều bị chi phối bởi quy luật này. Người nói luôn phải suy
nghĩ đến điều kiện và hậu quả cũng như kết quả của lời nói mình. Kho tàng tục ngữ của ta có
rất nhiều câu nói về kinh nghiệm nói, viết .
Ví dụ:
- Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
- Ăn có nhai, nói có nghĩ.
- Bút sa gà chết.
Khi nói, viết cần phải suy nghĩ và trả lời các câu hỏi sau:
- Nói, viết cho ai nghe? - Nói, viết về cái gì? - Nói, viết để làm gì?
- Nói, viết như thế nào? - Nói, viết lúc nào?
Có như thế mới có thể đạt hiệu quả cao khi giao tiếp. Và để trả lời các câu hỏi trên, chúng ta
phải lựa chọn ngôn từ cho phù hợp. Như thế, lựa chọn là hoạt động cơ bản nhất chi phối toàn
bộ quá trình vận dụng ngôn ngữ.
=> Đối tượng của phong cách học: Phong cách học là một bộ phận của ngôn ngữ học
nghiên cứu nguyên tắc, quy luật lựa chọn và hiệu quả lựa chọn, sử dụng toàn bộ các phương
tiện ngôn ngữ nhằm biểu hiện một nội dung tư tưởng tình cảm nhất định trong những phong
cách chức năng ngôn ngữ nhất định.
Lựa chọn để sử dụng các phương tiện ngôn ngữ đạt hiệu quả cao trong giao tiếp là một yêu
cầu tất yếu khi nói, viết. Khi lựa chọn sử dụng các phương tiện ngôn ngữ cần chú ý các thao
tác lựa chọn:
- Xác định nội dung biểu đạt
- Xác định phong cách lời nói
- Liên hội những hình thức biểu đạt cùng nghĩa
- Thử nghiệm và lựa chọn những hình thức biểu đạt cùng nghĩa cần thiết
- Kiểm tra lại văn bản hay phát ngôn đã lựa chọn
2. Nhiệm vụ nghiên cứu của phong cách học
2.1. Chỉ ra khả năng và hiệu lực biểu đạt của các phương tiện ngôn ngữ trong từng phong
cách ngôn ngữ.
2.2. Cách vận dụng các phương tiện ngôn ngữ để đạt hiệu quả cao trong giao tiếp, đúng
phong cách ngôn ngữ.
Việc chỉ ra khả năng và hiệu lực biểu đạt của các phương tiện ngôn ngữ trong từng phong
cách chức năng ngôn ngữ là rất quan trọng. Các phương tiện ngôn ngữ bao giờ cũng tồn tại
dưới dạng lớn hơn một, tức dưới dạng những biến thể.
Ví dụ: âm vị có các âm tố thể hiện; ý nghĩa từ vựng có các từ cùng nghĩa thể hiện; ý nghĩa ngữ
pháp có các dạng thức thể hiện.
Trong thực tế giao tiếp có những cách nói cùng nghĩa xuất hiện rất linh động, đa dạng và
phong phú. Mỗi dạng biến thể này đều có những đặc điểm tu từ riêng đòi hỏi cần phải nắm rõ,
hiểu đúng. Có như thế mới vận dụng phù hợp trong từng phát ngôn cụ thể.
Phong cách học có liên quan mật thiết đến những vấn đề sau :
- Xây dựng chuẩn mực ngôn ngữ, trong đó có chuẩn mực phong cách
- Trau giồi ngôn ngữ
- Giữ gìn sự trong sáng của tiếng nói dân tộc
IV. Phong cách học với chuẩn mực ngôn ngữ và chuẩn mực phong cách
1.Chuẩn mực ngôn ngữ
1.1.Chuẩn mực ngôn ngữ là hệ thống các phương tiện biểu hiện tốt nhất, hợp lí nhất và được
mọi người thừa nhận, cùng sử dụng để giao tiếp với nhau trong một thời kỳ nhất định; trở
5
thành những quy ước ngôn ngữ trong xã hội. Chuẩn mực ngôn ngữ được thể hiện trong các
phạm vi: Phát âm, chữ viết, dùng từ và đặt câu.
Ví dụ:
Chuẩn mực Không chuẩn mực
Phát âm Con trâu trắng nằm trong bụi tre Con tâu tắng nằm tong bụi te
Chính tả Rượu, tra cứu, năng suất, quyên góp Riệu, cha kíu, năng xuất. khuyên góp
Dùng từ Gội đầu, chẻ củi Rửa đầu, thái củi
Đặt câu Bằng nghệ thuật so sánh, tác giả đã làm nổi Với nghệ thuật so sánh của tác giả đã
bật sự hy sinh to lớn của những người mẹ làm nổi bật sự hy sinh to lớn của
Việt Nam những người mẹ Việt Nam
1.2. Chuẩn mực ngôn ngữ phụ thuộc vào lịch sử, nó thể hiện những quy luật lịch sử của sự
phát triển của ngôn ngữ cũng như những khuynh hướng phát triển tiêu biểu của thời đại.
Chuẩn mực ngôn ngữ là tập hợp những phương tiện ngôn ngữ phù hợp với yêu cầu của xã hội,
rút ra từ sự lựa chọn trong các yếu tố ngôn ngữ.
VD: Chánh trị – Chính trị (Biến thể ngữ âm)
1.3. Ðể lựa chọn tốt, tìm những yếu tố ngôn ngữ nhằm sử dụng phù hợp tất phải có sự so
sánh nên chuẩn mang tính chất so sánh. Vì thế, không có biến thể, không có sự lựa chọn biến
thể thì không có sự so sánh và chuẩn. Giải quyết vấn đề biến thể là công việc của chuẩn mực
ngôn ngữ. Chức năng của chuẩn chính là sự quy định và điều chỉnh cách sử dụng các biến thể
ngôn ngữ. Chuẩn mực ngôn ngữ chỉ trả lời câu hỏi dùng có đúng với ngôn ngữ văn hóa hay
không?. Chuẩn mực ngôn ngữ chỉ giải quyết vấn đề nên sử dụng các phương tiện ngôn ngữ
nào cho phù hợp với cái chung. Việc sử dụng ngôn ngữ như thế nào để đạt hiệu quả cao thì
chuẩn mực ngôn ngữ không bàn đến.
2. Chuẩn mực phong cách:
2.1. Chuẩn mực phong cách là toàn bộ cách chỉ dẫn thể hiện tính quy luật bắt buộc ở một thời
kì nhất định của một ngôn ngữ sao cho phù hợp với phong cách của hoạt động lời nói và với
các kiểu và thể loại văn bản. Chuẩn mực phong cách gắn với phạm vi đặc trưng của hoạt động
lời nói, với một kiểu, một thể loại văn bản cụ thể. Chuẩn mực phong cách chỉ trả lời câu hỏi:
Dùng có phù hợp với ngữ cảnh hay hoàn cảnh này không ?
Ví dụ: Trong nói năng thân mật hàng ngày, dùng các từ như : Cây số, kí, cân, lạng, thước... là
phù hợp, nhưng trong phong cách khoa học chúng ta phải dùng: Kilomet, kilogam, mét,...
2.2. Chuẩn mực phong cách không thủ tiêu mà lợi dụng các biến thể, quy định phạm vi sử
dụng cho từng biến thể để tận dụng khả năng diễn đạt của ngôn ngữ nhằm đáp ứng các yêu cầu
diễn đạt ngày càng đa dạng, phức tạp, tinh tế của trí tuệ và tình cảm của con người.
VD: Tiêu đề “Tràng giang” (thơ Huy Cận) biến âm của từ “trường giang”: sông dài)
2.3. Sự biểu đạt được đánh giá là tốt theo quan điểm phong cách học trước hết phải là sự biểu
đạt phù hợp với chuẩn mực ngôn ngữ trên các bình diện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp; sự biểu
đạt đó phải phù hợp với chuẩn mực phong cách chức năng ngôn ngữ. Không được mượn cớ
sáng tạo, bất chấp chuẩn mực, tạo nên những kiểu nói lập dị hoàn toàn xa lạ với ngôn ngữ
tiếng Việt
Vd: no cơm áo, cười thênh thênh, cặp mắt đĩnh ngộ, đẹp dã man...
* Lưu ý: Trong thực tế sáng tác văn chương ta thường bắt gặp những cách nói có vẻ lệch
chuẩn ngôn ngữ, nhưng đây là sự lệch chuẩn với dụng ý tu từ nhằm thể hiện ý đồ nghệ thuật
của tác giả; Ở những nhà văn tài hoa, hiện tượng lệch chuẩn thành công góp phần tạo nên sự
độc đáo về nghệ thuật.
Ví dụ: Một câu hỏi lớn. Không lời đáp ( Huy Cận)
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa (Xuân Diệu)
Một tiếng chim kêu sáng cả rừng (Khương Hữu Dụng)
V. Những khái niệm cơ bản của phong cách học
6
1. Ðặc điểm tu từ
1.1. Điểm khác biệt giữa hệ thống tín hiệu ngôn ngữ và hệ thống tín hiệu khác ở chỗ cùng
một đối tượng, một nội dung thông báo nhưng ngôn ngữ có nhiều cách diễn đạt khác nhau.
Nói cách khác, có nhiều hình thức biểu đạt cùng nghĩa để cùng chỉ một đối tượng, một thông
báo nào đó. Trước tình hình này, người phát ngôn hay người thu ngôn đều cần phải cân nhắc,
lựa chọn một hình thức biểu đạt nào đem lại hiệu quả tối ưu nhất. Nguyên nhân của hiện tượng
này là do:
- Mỗi hình thức biểu đạt cùng nghĩa gắn với một cách thức nhìn nhận, một thái độ đánh giá
tình cảm nhất định.
- Mỗi hình thức biểu đạt cùng nghĩa cũng lại gắn với một phạm vi nói, viết một phong
cách chức năng ngôn ngữ nhất định.
Vd: Hiện tượng sử dụng các từ gần nghĩa mang màu sắc phong cách:
Tặng: Sắc thái thân mật, chân tình
Biếu: Sắc thái lễ phép, kính trọng
Hiến: Sắc thái thiêng liêng ,cao cả
Thí: Sắc thái xem thường, coi khinh
Mỗi từ được chọn lựa sử dụng cho phù hợp trong từng hoàn cảnh, đối tượng giao tiếp khác nhau.
1.2. Khái niệm đặc điểm tu từ được rút ra từ hiện tượng biểu đạt cùng nghĩa nói trên. Ðặc
điểm tu từ là phần nội dung biểu hiện bổ sung của tín hiệu ngôn ngữ khi tồn tại dưới hình thức
biểu đạt cùng nghĩa (nội dung cơ sở). Phần này một mặt chỉ rõ thái độ đánh giá tình cảm của
đối tượng được nói đến, một mặt chỉ rõ chức năng phong cách của tín hiệu ngôn ngữ. Có thể
thấy rõ điều này khi so sánh đặc điểm tu từ của các từ xưng hô trong những câu thơ sau:
Mình về với Bác đường xuôi
Thưa dùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường
( Việt Bắc - Tố Hữu)
Tín hiệu Nội dung cơ sở Nội dung biểu hiện bổ sung (ngoài ý niệm)
ngôn ngữ (thuần ý niệm)
Sắc thái biểu cảm Màu sắc phong cách
BÁC Thành kính, một cách thân thiết, Khẩu ngữ dụng trong nhiều
Chủ tịch ruột thịt phạm vi
NGƯỜI Hồ Chí Minh với Thành kính một cách thiêng Gọt giũa dụng trong phạm vi
tư cách công dân liêng, cao cả trang nghiêm
ÔNG CỤ Kính trọng một cách bình dân, Lời nói thông dụng của đồng
mộc mạc bào Việt Bắc
9
nói cá nhân vừa bao hàm cái chung, phong cách ngôn ngữ, vừa chứa đựng cái riêng, do cá
nhân sử dụng.
- Phong cách chức năng ngôn ngữ là cái chung, cái trừu tượng tồn tại trong ý thức của mỗi
người, còn lời nói cá nhân là cái riêng, cái cụ thể tồn tại trong những phát ngôn cụ thể. Mối
quan hệ giữa phong cách chức năng ngôn ngữ và lời nói cá nhân là mối quan hệ giữa cái
chung và cái riêng, cái có tính logic và cái có tính lịch sử. Phong cách chức năng ngôn ngữ
không chỉ quy định lời nói cá nhân mà ngược lại nó còn được lời nói cá nhân nuôi dưỡng. Mỗi
biến đổi của phong cách chức năng ngôn ngữ đều bắt đầu từ lời nói cá nhân. Xét cho cùng,
mối quan hệ giữa phong cách chức năng ngôn ngữ và lời nói cá nhân được xây dựng và xác
định trên cơ sở của mối quan hệ biện chứng giữa ngôn ngữ và lời nói.
VII. Các phương pháp phân tích và nghiên cứu phong cách học
1. Phép thế tu từ (Thử nghiệm tu từ)
Phép thế tu từ là cách thay đổi một vài từ trong câu, một vài câu trong đoạn văn có ý nghĩa
tượng trưng để làm nổi bật giá trị của những từ và câu dùng trong nguyên tác.
Vd: Xắn tay mở khóa động đào
Rẽ mây thông tỏ lối vào thiên thai (Truyện Kiều – Nguyễn Du)
( Xắn tay bẻ cái hàng rào
Rẽ cây thông tỏ lối vào nhà Kim)
2. Phép đối chiếu - so sánh
Phép đối chiếu - so sánh là cách xếp đặt những sự kiện biểu đạt đồng nghĩa cạnh nhau để
làm nổi bật những giá trị của sự kiện được đối chiếu
Vd: Đã tan tác những bóng thù hắc ám
Đã sáng lại trời thu tháng Tám (Tố Hữu)
(Bóng thù hắc ám đã tan tác, mùa thu tháng Tám đã sáng lại)
3. Phép thống kê tu từ (phong cách học)
Phép thống kê là phương pháp được sử dụng trong nhiều ngành khoa học trong đó có thống
kê ngôn ngữ học. Phép thống kê tu từ là sự lựa chọn xếp đặt các đơn vị có nghĩa và màu sắc tu
từ để nhận diện một phong cách chức năng hay phong cách biểu đạt của một phong cách cá
nhân, từ đó đưa ra nhận xét về giá trị.
Vd: Để phân tích phong cách ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương, ta có thể thống kê tần số sử
dụng những đơn vị từ láy, từ tượng hình, tượng thanh xuất hiện ở cuối dòng thơ: Chín mõm
mòm, hõm hòm hom, vỗ phập phòm, rơi lõm bõm, trơ toen hoẻn... những màu sắc đậm, những
động từ chỉ hành động mạnh mẽ (vấn đề thi pháp ngôn từ).
4. Phép bình giá các giá trị (phân tích định tính)
Các phép thay thế, đối chiếu - so sánh hay thống kê tu từ học thường được sử dụng để nhận
diện một phong cách ngôn ngữ nhưng mục đích cuối cùng là phải đưa ra những phán đoán giá
trị (đặc biệt khi phân tích văn bản).
- Giá trị biểu đạt: dựa vào phép thế, đối chiếu so sánh, thống kê tu từ để khẳng định đây là
sự lựa chọn tối ưu các phương tiện của tiếng Việt. Giá trị biểu đạt trả lời câu hỏi: hay hoặc
không hay
- Giá trị sử dụng: dựa vào hoàn cảnh giao tiếp để sử dụng các phương tiện tu từ cho lời nói
có hiệu quả. Giá trị sử dụng trả lời câu hỏi: Hợp hay không hợp?.Khi viết thường đặt ra những
yêu cầu: Viết để làm gì? viết cho ai? viết như thế nào?. Những yêu cầu đó chính là cơ sở để
xác định tiêu chí sử dụng đạt hiệu quả.
10
Chương II. CÁC PHONG CÁCH CHỨC NĂNG TIẾNG VIỆT HIỆN ĐẠI
16
cách có chừng mực một số biến thể phát âm thuộc một phương ngôn nào đó, nơi mà đài phủ
sóng (tuy nhiên không lạm dụng âm địa phương).
3.2. Từ ngữ
- Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng. Do vậy, từ ngữ được dùng trong phong cách
thông tấn trước hết phải là từ ngữ toàn dân, có tính thông dụng cao. Tuy nhiên, ở mỗi thể loại
có sự thể hiện khác nhau:
+ Từ ngữ trong các bản tin thời sự phần lớn là lớp từ ngữ chuyên dùng trong các hoạt
động của bộ máy Nhà nước và các đoàn thể.
Ví dụ: "Theo phóng viên TTXVN tại Nhật Bản, trong ngày làm việc thứ hai của chuyến thăm
Nhật Bản, đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư T.Ư
Ðảng, đã hội đàm với Thủ tướng Nhật Bản Na-ô-tô Can, tiếp Bộ trưởng Tài chính, Chủ tịch
Ðảng Cộng sản Nhật Bản, lãnh đạo Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và Liên đoàn
các tổ chức kinh tế Nhật Bản (KEIDANREN)" (Báo Nhân dân online).
+ Từ ngữ các mẫu quảng cáo thường là tên các hàng hoá, các từ chỉ địa danh, nhân
danh và các tính từ chỉ phẩm chất.
Ví dụ: Với đội ngũ Kiến trúc sư trong nước và nước ngoài nhiều kinh nghiệm trong thiết kế
văn phòng, thi công nội thất văn phòng, QualiDecor đến nay đã hoàn thành nhiều dự án thiết
kế văn phòng đạt chất lượng, thẩm mỹ hoàn hảo nhất, mang lại được nhiều sự hài lòng cho
khách hàng. Đến với chúng tôi, Quý khách hàng không chỉ hài lòng với chất lượng thiết kế văn
phòng, thi công văn phòng mà còn yên tâm với công việc lắp đặt và dịch vụ bảo hành, hậu mãi
sau đó.
Công ty Kiến trúc nội thất QualiDecor
Tên giao dịch quốc tế: QualiDecor Architect and Interior Company
Tên viết tắt: QUALIDECOR
Địa chỉ: 53-55 Khuat Duy Tien, Thanh Xuan, Hanoi
Văn phòng: 043-5539523- 0932327588
Website: www.noithatvanphong247.comwww.qualidecor.vn
+ Từ ngữ trong các bài phỏng vấn, phóng sự thì thường là những từ ngữ chuyên dùng
trong lĩnh vực được tiến hành phỏng vấn hay phóng sự.
Ví dụ: * Hội đồng văn hoá khi giới thiệu ông với giải thưởng Rockefeller III đã đánh giá về
bảo tàng do ông làm giám đốc là một trong những bảo tàng có ấn tượng nhất trong loại hình
này ở châu Á. Thưa ông, về phiïa chủ quan mình, chữ ấn tượng này nên hiểu như thế nào?
TS Nguyễn Văn Huy: Có lẽ trước hết vì bảo tàng này giới thiệu một cách bình đẳng 54
nền văn hoá của 54 dân tộc ở Việt Nam. Ðó là điều không phải ở đâu cũng làm được. Chủ thể
của những nền văn hoá này được tôn trọng trong các cách giới thiệu từng thành tố văn hoá.
Bảo tàng đã phản ánh một cách chân thật lịch sử, đời sống văn hoá và cuộc sống của các dân
tộc... ( Báo Tuổi trẻ CN )
- Từ ngữ dùng thường có màu sắc biểu cảm . Có xu hướng đi tìm cái mới trong ý nghĩa của
từ. Ðiều này bộc lộ những khả năng tìm tòi, phát hiện những năng lực tiềm tàng ẩn chứa trong
từ hoặc trong các kết hợp mới mẻ có tính năng động dễ đi vào lòng người.
Ví dụ: Hội chứng chiến tranh vùng Vịnh, tội ác xuyên quốc gia, cuộc chiến chống bệnh tật đói
nghèo, quả bom dân số, chiến tranh lạnh, xa lộ thông tin, bùng nổ thông tin, cái chết trắng,
bên bờ vực phá sản, liên minh ma quỷ...
3.3. Cú pháp
- Cấu trúc cú pháp thường lặp đi lặp lại một số kiểu nhất định. Trong đó, quảng cáo thường
sử dụng câu đơn; bài đưa tin thường sử dụng nhiều câu ghép hoặc câu đơn có kết cấu phức
tạp; bài phỏng vấn phóng sự thì tùy lĩnh vực nó đi sâu mà cấu trúc cú pháp có thể đơn giản hay
phức tạp, nhưng thường là hay sử dụng nhiều câu ghép và câu phức tạp.
17
Ví dụ: Theo Kyodo, trong cuộc họp ngay sau khi kết thúc Hội nghị thượng đỉnh G-8 ở
Okinawa ngày 23-7, Tổng thống Nga Vlađimia Putin và Thủ tướng Nhật Bản Yoshiro Mori đã
thoả thuận rằng ông Putin sẽ đi thăm Nhật Bản từ 3 đến 5-9 để có các cuộc hội đàm về kế
hoạch kí kết một hiệp ước hoà bình song phương. Nga và Nhật đã thiết lập quan hệ ngoại giao
vào năm 1956 nhưng chưa kí hiệp ước hoà bình vì còn bất đồng về chủ quyền quần đảo Kurin.
(Báo Tuổi trẻ )
- Thường theo những khuôn mẫu văn bản và công thức hành văn nhất định. Ðưa tin có
khuôn mẫu và công thức hành văn riêng; quảng cáo, phỏng vấn, phóng sự,...tuy khuôn mẫu
văn bản và công thức hành văn có khác nhau nhưng cũng đều có những quy định chuẩn về
những phương diện đó.
- Trong các bài phóng sự điều tra, tiểu phẩm... những cấu trúc câu khẩu ngữ, câu trong
phong cách văn chương như: câu hỏi, câu cảm thán, câu chuyển đổi tình thái, câu tỉnh lược,
câu đảo trật tự các thành phần cú pháp cũng được khai thác sử dụng nhằm thực hiện chức năng
riêng của mỗi thể loại.
IV. Phong cách hành chính
1. Khái niệm
- Phong cách hành chính đuợc dùng trong hoạt động giao tiếp thuộc lĩnh vực hành chính.
Ðây là hoạt động giao tiếp giữa Nhà nước với nhân dân, giữa nhân dân với cơ quan Nhà nước,
giữa cơ quan với cơ quan, giữa nước này và nước khác. Phong cách hành chính thường tồn tại
dưới dạng văn bản viết.
- Phong cách hành chính thường dụng trong những dạng văn bản: Hiến pháp, luật, điều lệ,
nội quy, Bằng khen, văn bằng, giấy chứng nhận các loại,đơn từ, hợp đồng, hóa đơn, biên
nhận, tờ trình...
2. Chức năng và đặc trưng
2.1. Chức năng
Phong cách hành chính có hai chức năng: thông báo và sai khiến. Chức năng thông báo
thể hiện rõ ở giấy tờ hành chính thông thường (văn bằng, chứng chỉ các loại, giấy khai sinh,
hoá đơn, hợp đồng...). Chức năng sai khiến bộc lộ rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật,
văn bản của cấp trên gởi cho cấp dưới, của nhà nước đối với nhân dân, của tập thể với các cá
nhân (nghị định, chỉ thị, thông báo, thông tư, chỉ thị, quyết định...).
2.2. Ðặc trưng
a. Tính chính xác - minh bạch về pháp lý
Văn bản hành chính chỉ cho phép một cách hiểu. Nếu hiểu không thống nhất sẽ dẫn đến
việc thi hành các văn bản hành chính theo những cách khác nhau. Tính chính xác này đòi hỏi
từ dấu chấm câu đến từ ngữ, câu văn và kết cấu của văn bản. Nói cách khác, quan hệ giữa hình
thức và nội dung biểu đạt là quan hệ 1-1. Ðặc trưng này đòi hỏi người tạo lập văn bản không
được dùng các từ ngữ, các kiểu cấu trúc ngữ pháp mơ hồ.
Vd: Quy chế thi phải chuẩn xác từng câu chữ, sử dụng dấu câu
b. Tính nghiêm túc- khách quan
Tính khách quan gắn với chuẩn mực luật pháp nhằm để diễn đạt tính chất xác nhận, khẳng
định của những tài liệu này. Văn bản hành chính thuộc loại giấy tờ có quan hệ đến thể chế
quốc gia, của xã hội có tổ chức cho nên sự diễn đạt ở đây phải luôn luôn thể hiện tính nghiêm
túc. Các văn bản như : hiến pháp, luật, quyết định, thông tư,... mang tính chất khuôn phép cao
cho nên không chấp nhận phong cách diễn đạt riêng của cá nhân. Ngay cả những văn bản hành
chính mang tính cá nhân cũng phải đảm bảo đặc trưng này.
VD: Viết đơn khác với viết thư
c. Tính khuôn mẫu của nhà nước
Văn bản hành chính được soạn thảo theo những khuôn mẫu nhất định do nhà nước quy định.
Những khuôn mẫu này được gọi là thể thức văn bản hành chính. Thể thức đúng không những
làm cho văn bản được sử dụng có hiệu quả trong hoạt động hiện hành của các cơ quan mà còn
18
làm cho văn bản có giá trị bền vững về sau. Tính khuôn mẫu thể hiện qua những quy định về
cấu trúc văn bản, dùng từ, hình thức trình bày văn bản...
VD: Cấu trúc văn bản hành chính: Quyết định
d. Tính hiệu lực thực thi
Văn bản hành chính không phải nhằm mục đích thể hiện tình cảm mà sử dụng vào mục đích
thực thi quyền lực. Vì vậy văn bản không dung nạp yếu tố biểu cảm. Người viết không phải
nhân danh cá nhân để bộc bạch tình cảm mà nhân danh nhà nước để ban hành chủ trương,
nhân danh công dân để thực hiện quyền công dân đối với cơ quan nhà nước. Do vậy trong văn
bản thường xuất hiện những cụm từ như: Căn cứ vào, nay quyết định, yêu cầu thực hiện, đề
nghị, yêu cầu, mong được giải quyết...
3. Ðặc điểm sử dụng ngôn ngữ
3.1. Ngữ âm
Khi phát âm ở phong cách này phải hướng tới chuẩn mực ngữ âm, phát âm phải rõ ràng,
chính xác. Khác với các loại phong cách khác, khi tồn tại ở dạng nói, phong cách hành chính
không phải là sự trình bày, diễn đạt theo văn bản đã viết hoặc soạn đề cương mà là đọc lại.
Nghĩa là chúng không chịu một sự biến đổi nào bên trong. Ngữ điệu đọc hoàn toàn bị phụ
thuộc vào cấu trúc của nội dung văn bản.
3.2. Từ ngữ
- Những từ ngữ xuất hiện nhiều ở phong cách này là lớp từ ngữ chuyên dùng trong các hoạt
động của bộ máy nhà nước và các đoàn thể, còn được gọi là từ hành chính. Loại từ này tạo nên
vẻ trang trọng, nghiêm túc, đảm bảo thể chế của sự diễn đạt hành chính.
- Có khuynh hướng dùng những từ ngữ thật chính xác đứng về mặt nội dung và những từ
ngữ trung hoà hoặc những từ ngữ trang trọng đứng về mặt sắc thái biểu cảm. Những từ ngữ
này góp phần biểu thị tính chất thể chế nghiêm chỉnh của các giấy tờ và văn kiện hành chính.
- Từ Hán Việt chiếm một tỉ lệ khá lớn.
Ví dụ
* Điều 1: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và các hải đảo.
(Trích hiến pháp nước CNXHCN Việt Nam)
3.3. Cú pháp
- Dùng câu tường thuật là chủ yếu, các kiểu câu cảm thán , nghi vấn không thích hợp với
yêu cầu thông tin của phong cách này.
- Câu văn hành chính không chấp nhận sự mơ hồ. Tính thống nhất và chặt chẽ của các văn
bản hành chính không cho phép sử dụng những câu trong đó quan hệ ngữ pháp giữa các thành
phần không rõ ràng khiến nội dung câu văn bị hiểu theo nhiều cách.
- Câu văn hành chính không cho phép sự sáng tạo về ngôn ngữ của cá nhân, những yếu tố
cảm xúc của cá nhân. Do yêu cầu cao về sự thống nhất theo thể thức hành chính nên một số
văn bản hành chính viết theo mẫu đã quy định thống nhất.
- Cú pháp của bất kỳ một quyết định hành chính nào cũng chỉ được trình bày trong một câu.
V. Phong cách chính luận
1. Khái niệm
- Phong cách chính luận dùng trong lĩnh vực chính trị xã hội. Người giao tiếp bày tỏ chính
kiến, bộc lộ công khai quan điểm chính trị, tư tưởng của mình đối với những vấn đề thời sự
chính trị xã hội đương đại.
- Phong cách chính luận thường sử dụng trong các dạng văn bản: Hịch, cáo, lời kêu gọi,
tuyên ngôn, báo cáo chính trị, xã luận bình luận trên báo chí phát thanh truyền hình.
2. Chức năng và đặc trưng
2.1. Chức năng
19
- Chức năng thông báo nhằm truyền đạt cho mọi người nhận thức đúng các vấn đề thời sự
chính trị xã hội, công bố chủ trương đường lối chính sách (đây là điểm giao thoa với phong
cách báo chí).
- Chức năng tác động nhằm tuyên truyền giáo dục, cổ vũ động viên mọi người hưởng ứng.
Hai chức năng trên có mối quan hệ mật thiết tác động qua lại ảnh hưởng nhau, thông báo đã
bao hàm mục đích tác động, việc tác động có hiệu quả nhờ vào sự thông báo tường minh chân
lý. Chính vì thực hiện các chức năng này mà ta thấy phong cách chính luận có điểm gặp gỡ
với phong cách thông tấn báo chí, phong cách khoa học và cả phong cách văn chương.
2.2. Ðặc trưng
a. Tính bình giá công khai
Người nói, người viết bao giờ cũng bộc lộ công khai một cách rõ ràng trực tiếp quan điểm,
thái độ của mình đối vè những vấn đề chính trị xã hội. Ðây là đặc trưng khu biệt phong cách
chính luận với phong cách khoa học và phong cách văn chương. Nếu văn chương là bình giá
gián tiếp, khoa học là tránh sự thể hiện những yếu tố cảm tính chủ quan thì chính luận bao giờ
cũng bộc lộ trực tiếp quan điểm, thái độ của mình về một vấn đề thời sự của xã hội. Sự bình
giá này có thể là của cá nhân hoặc nhân danh một tổ chức, đoàn thể chính trị nào đó.
b. Tính lập luận chặt chẽ
Ðể bày tỏ chính kiến, giải thích, thuyết phục và động viên mọi người tham gia vào việc giải
quyết những vấn đề thời sự nóng hổi của đất nước, sự diễn đạt ở phong cách này đòi hỏi có
tính chất lập thuyết. Nghĩa là phải bằng những lí lẽ đúng đắn, có căn cứ vững chắc, dựa trên cơ
sở những luận điểm, luận cứ khoa học mà đấu tranh, thuyết phục, động viên.
Tính lập luận chặt chẽ thể hiện ở việc khai thác những quan hệ chiều sâu giữa hình thức
ngôn ngữ và mục đích biểu đạt. Một văn bản chính luận hay thường là những văn bản chưá
đựng nhiều hàm ý sâu sắc, có sức chinh phục lòng người, có sức cuốn hút mãnh liệt.
Ví dụ: Nét sắc sảo trong cách lập luận của tuyên ngôn độc lập
c. Tính truyền cảm
Để thuyết phục người nghe, đọc, phong cách chính luận có tính truyền cảm mạnh mẽ, diễn
đạt hùng hồn, sinh động có sức hấp dẫn và đạt hiệu quả cao, thuyết phục cả bằng lí trí, cả bằng
tình cảm, đạo đức. Ðặc trưng này tạo nên sự khu biệt giữa phong cách chính luận với khoa
học, thông tấn và khiến phong cách này gần với phong cách văn chương. Trong văn bản chính
luận, chúng ta thường bắt gặp các biện pháp tu từ, những từ ngữ có đặc điểm tu từ cao nhằm
gây ấn tượng mạnh mẽ về mặt âm thanh và ý nghĩa.
3. Ðặc điểm sử dụng ngôn ngữ
3.1. Ngữ âm
Có ý thức hướng tới chuẩn mực ngữ âm. Khi phát biểu trong hội nghị hoặc diễn thuyết trong
mít tinh, ngữ điệu được xem là phương tiện bổ sung để tăng thêm sức hấp dẫn, lôi cuốn người
nghe.
3.2. Từ ngữ
- Ðặc điểm nổi bật nhất là sự có mặt của lớp từ chính trị, công cụ riêng của phong cách
chính luận. phong cách này đòi hỏi khi dùng từ chính trị phải luôn luôn tỏ rõ lập trường, quan
điểm và tình cảm cách mạng của mình.
Ví dụ: "Ai dám bảo cuộc Cách mạng tháng Tám của ta là cuộc đảo chính? Ðảo chính là hai
bọn thống trị trong nước hất cẳng nhau. Bọn này quật đổ bọn kia để lập chính phủ mới, nhưng
căn bản chế độ cũ vẫn để nguyên. Ðằng này nhân dân bị áp bức nổi dậy tự giải phóng giành
chính quyền, sao gọi là đảo chính?" (Trường Chinh)
- Từ ngữ đòi hỏi sự minh xác cao. Ðề tài được đưa ra bàn luận ở phong cách chính luận là
những vấn đề thời sự nóng hổi của xã hội cho nên khi cần thiết người ta phải dùng tất cả các
lớp từ ngữ có quan hệ đến đề tài này.
20
- Khi cần bày tỏ sự đánh giá tình cảm của mình một cách mạnh mẽ đối với các vấn đề nêu ra,
văn chính luận chọn lọc và sử dụng các đơn vị từ khẩu ngữ, bởi vì đây là lớp từ giàu sắc thái ý
nghĩa và sắc thái biểu cảm.
Ví dụ: "Ai nói mà không làm, ai chỉ nghị quyết suông, ai theo đuôi quần chúng, ai ỳ ra như
xe bò lên dốc, ai nhút nhát như bị quân thù bắt mất hồn, ai không dám hi sinh việc nhà cho
việc Ðảng, phải kíp sửa đổi mà tiến lên" (Trường Chinh)
3.3. Cú pháp
- Do phải thực hiện chức năng thông báo, chứng minh và tác động nên phong cách chính luận
dùng nhiều kiểu câu khác nhau: câu đơn, câu ghép, câu tường thuật, câu nghi vấn, câu cảm
thán.
- Câu văn chính luận thường dài, có kết cấu tầng bậc làm cho tư tưởng nêu ra được xác định
chặt chẽ.
- Ðể nhấn mạnh ý tưởng, gây sự chú ý ở người đọc, phong cách chính luận sử dụng nhiều lối
nói trùng điệp, phép điệp từ, điệp ngữ, các cách so sánh giàu tính liên tưởng và tương phản để
tăng cường độ tập trung thông tin và hiệu quả bình giá, phán xét.
Ví dụ: "Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân
nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa."
(Hồ Chí Minh)
"Ðổi mới là con đường duy nhất đúng đắn của Ðảng ta, của nhân dân ta, để vượt qua mọi
khó khăn to lớn, đi đến ổn định và phát triển. Ðổi mới tạo nên thế mới và sức lực mới, như
muà xuân làm bật dậy sức sinh sôi huyền diệu của thiên nhiên, đúng theo quy luật của sự phát
triển". (Báo Nhân dân)
VI. Phong cách văn chương
1. Khái niệm
Phong cách văn chương (còn gọi là phong cách ngôn ngữ nghệ thuật) được dùng trong sáng
tác văn chương. Phong cách này là dạng tồn tại toàn vẹn và sáng chói nhất của ngôn ngữ toàn
dân. Phong cách văn chương không có giới hạn về đối tượng giao tiếp, không gian và thời gian
giao tiếp.
2. Chức năng và đặc trưng
2.1. Chức năng
a. Phong cách ngôn ngữ văn chương có ba chức năng: thông báo, tác động, thẩm mĩ. Việc
thực hiện chức năng của phong cách văn chương không bằng con đường trực tiếp mà bằng
con đường gián tiếp thông qua hình tượng văn chương. Các phương tiện ngôn ngữ được nhà
văn vận dụng một cách sáng tạo để xây dựng hình tượng.
b. Khái niệm chức năng thẩm mỹ của ngôn ngữ văn chương có thể nhận biết qua 2 mối quan
hệ:
- Qụan hệ giữa ngôn ngữ văn chương với hình tượng văn chương: Ngôn ngữ văn chương là
chất liệu, công cụ để xây dựng hình hượng văn chương (hình tượng nghệ thuật ngôn từ), ngôn
ngữ mang tính tạo hình biểu cảm
Vd: Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều (Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
Những từ ngữ, hình ảnh: đồng quê chảy máu, thép gai đâm nát trời chiều phác họa hình
tượng đất nước thân thương bị kẻ thù tàn phá hủy diệt; khơi gợi lòng căm thù giặc sâu sắc.
- Quan hệ giữa ngôn ngữ văn chương với độc giả: Ngôn ngữ văn chương luôn tác động vào
độc giả, nó không chỉ mang ý nghĩa thông báo mà còn gợi nên những rung cảm thẩm mỹ mãnh
liệt trong tâm hồn độc giả khi tiếp nhận văn chương.
2.2. Ðặc trưng
a. Tính hệ thống cấu trúc
21
Tác phẩm văn chương là một cấu trúc, chỉnh thể nghệ thuật trọn vẹn. Các thành tố nội dung
tư tưởng, tình cảm,hình tượng và các thành tố ngôn ngữ diễn đạt chúng không những phụ
thuộc vào nhau mà còn phụ thuộc vào hệ thống nói chung.
Trong tác phẩm văn chương, có khi chỉ cần bỏ đi một từ hay thay bằng một từ khác là đủ
làm hỏng cả một câu thơ, phá tan nhạc điệu của nó, xoá sạch mối quan hệ của nó với hoàn
cảnh xung quanh. Từ nghệ thuật không sống đơn độc, tự nó, vì nó, từ nghệ thuật đứng trong
đội ngũ, nó góp phần mình vào các từ đồng đội khác. Tính cấu trúc là điều kiện của cái đẹp.
Một yếu tố ngôn ngữ chỉ có được ý nghĩa thẩm mĩ khi nằm trong tác phẩm. Chính là trên cái
nền văn bản phù hợp mà từ ngữ có thể thay đổi ý nghĩa: cũ kĩ hay mới mẻ, dịu dàng hay thâm
độc, trang trọng hay hài hước...Do vậy khi phân tích tác phẩm văn học cần chú ý đến tính hệ
thống, phải đặt các chi tiết, hình ảnh, từ ngữ... trong chỉnh thể tác phẩm để cắt nghĩa.
VD: Chi tiết bỏ quên cái áo trên cành hoa sen trong bài ca dao xin áo, chi tiết củi mội cành
khô lạc mấy dòng trong bài thơ Tràng giang của Huy Cận...
b. Tính hình tượng
- Ngôn ngữ văn chương được xem là công cụ cơ bản để xây dựng hình tượng văn học.
Khi khảo sát, đánh giá ngôn ngữ văn chương phải xem xét ngôn ngữ ở đây đã góp phần xây
dựng và thể hiện hình tượng văn học như thế nào. Khi giao tiếp ở phong cách khẩu ngữ, người
ta có thể dùng những từ ngữ bóng bẩy, văn hoa, giàu hình ảnh và sắc thái biểu cảm nhưng hiệu
quả ở đây còn tuỳ thuộc vào người nói là ai, nói trong hoàn cảnh nào và vì mục đích gì. Giao
tiếp ở phong cách này, người phát ngôn có vai trò quyết định (VD: Miệng nhà quan có gang,
có thép; Vai mang túi bạc kè kè. Nói ấm nói ớ, người nghe ầm ầm).
Trong khi đó, ở phong cách văn chương, địa vị cao thấp, sang hèn của nhà văn nhà thơ
không đóng vai trò quyết định nhiều. Tính hình tượng của ngôn ngữ văn chương bắt nguồn từ
chỗ đó là ngôn ngữ của một chủ thể tư tưởng thẩm mĩ xã hội có tầm khái quát nhất định.
Chính vì thế ngôn ngữ văn chương dễ đi vào lòng người, nó trở thành ngôn ngữ của muôn
người.
- Tính hình tượng trong phong cách văn chương thể hiện ở chỗ ngôn ngữ ở đây có khả năng
truyền đạt sự vận động, động tác nội tại của toàn bộ thế giới, cảnh vật, con người vào trong tác
phẩm. Ngôn ngữ trong phong cách khẩu ngữ cũng có khả năng này nhưng nó không là điều
bắt buộc. Trong văn chương, trái lại, đó là điều không thể thiếu. Ngôn ngữ văn chương phải
làm sống dậy các động tác, vận động đầy ý nghĩa của sự vật trong những thời khắc nhất định.
Bất kỳ một phương tiện từ ngữ nào trong một văn cảnh nhất định đều có thể chuyển thành một
từ ngữ nghệ thuật, nếu có thêm một nét nghĩa bổ sung nào đó.
Vd: Hình tượng sóng trong thơ Xuân Quỳnh
c.Tính cá thể hoá:
Tính cá thể hoá được hiểu là dấu ấn phong cách tác giả trong tác phẩm văn chương. Dấu ấn
phong cách tác giả là cái thuộc về đặc điểm bản thể, thuộc về điều kiện bắt buộc của ngôn ngữ
văn chương. Sêkhôp nói: Nếu tác giả nào không có lối nói riêng của mình thì người đó sẽ
không bao giờ là nhà văn cả. Lối nói riêng mà Sêkhôp gọi chính là phong cách tác giả. Xét về
mặt ngôn ngữ, phong cách tác giả thể hiện ở hai dấu hiệu:
- Khuynh hướng ưa thích và sở trường sử dụng những loại phương tiện ngôn ngữ nào đó
của tác giả;
- Sự sáng tạo ngôn ngữ của tác giả
3. Ðặc điểm sử dụng ngôn ngữ
3.1. Ngữ âm
Trong phong cách, những yếu tố ngữ âm như: âm, thanh, ngữ điệu, tiết tấu, âm điệu rất quan
trọng. Có thể nói, tất cả những tiềm năng của ngữ âm tiếng Việt đều được vận dụng một cách
nghệ thuật để đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ về mặt ngữ âm của người đọc, người nghe. Hầu như
mọi biến thể của ngữ âm tiếng Việt đều được khai thác.
Vd: "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
22
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi" (Tây tiến – Quang Dũng)
“Tre giöõ laøng, giöõ nöôùc, giöõ maùi nhaø tranh, giöõ ñoàng luùa chín” (Theùp
Môùi)
2.2. Từ ngữ:
Từ ngữ trong phong cách văn chương rất đa dạng, gồm cả từ phổ thông và từ địa phương,
biệt ngữ; từ hiện đại và từ lịch sử, từ cổ; từ khiếm nhã và từ trang nhã. Từ trong sinh hoạt bình
thường chiếm tỉ lệ cao, song vẫn xuất hiện đủ các lớp từ văn hoá, kể cả thuật ngữ khoa học.
Nguyên nhân là tác phẩm văn chương có chức năng phản ánh mọi khía cạnh của cuộc sống
muôn màu muôn vẻ. Nhờ sử dụng toàn bộ các phương tiện biểu hiện mà phong cách văn
chương luôn luôn chuyển đổi, biến động, luôn luôn đa dạng mới mẻ trong cách phô diễn.
Khảo sát nét độc đáo, đặc sắc khi sử dụng từ ngữ trong sáng tác văn chương của nhà văn
chính là tìm hiểu dấu hiệu phong cách nghệ thuật của nhà văn đó.
Nguyễn Đức Đạt:”Văn như con người của nó.Văn thâm hậu thì con người trầm mà tĩnh, văn
ôn nhu thì con người của nó khiêm mà hòa, văn cao khiết thì con người của nó đạm mà giản,
văn hùng hồn thì con người của nó cường mà nhanh, văn uyên sâu thì con người của nó thuần
tuý mà đúng đắn”
2.3. Cú pháp:
Phong cách văn chương sử dụng hầu như tất cả các kiểu cấu trúc câu. Song cấu trúc câu đơn
vẫn chiếm tỉ lệ cao.
Phong cách văn chương thường sử dụng các loại câu mở rộng thành phần định ngữ, trạng
ngữ và các loại kết cấu tu từ như đảo ngữ, sóng đôi cú pháp, câu chuyển đổi tình thái...
23
Chương III. ĐẶC ĐIỂM TU TỪ CỦA CÁC LOẠI ĐƠN VỊ TRONG TIẾNG VIỆT
----------------
KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM TU TỪ CỦA TỪ NGỮ TIẾNG VIỆT
Khảo sát đặc điểm tu từ của từ ngữ tiếng Việt theo 2 hướng sau:
- Hướng thứ nhất: Khảo sát đặc điểm tu từ của những tập hợp từ ngữ được phân loại theo
bình diện phong cách (lấy phong cách làm điểm tựa để phân loại và miêu tả đặc điểm tu từ của
từ ngữ)
- Hướng thứ hai: Khảo sát đặc điểm tu từ của những tập hợp từ ngữ được phân loại theo quan
điểm ngữ pháp học, từ vựng học.
I. Khảo sát đặc điểm tu từ của những lớp từ ngữ được phân loại theo bình diện phong
cách
1. Từ ngữ đa phong cách
Tập hợp những từ ngữ được sử dụng chung cho tất cả các loại phong cách. từ ngữ đa phong
cách được phân bố trong phạm vi biểu thị sự vật, tính chất, hoạt động trạng thái quan hệ
1.1.Biểu thị sự vật
Hiện tượng tự nhiên (trời, đất, trăng, sao...); Động, thực vật: (Gà, chó, cỏ, cây...); Đồ vật
(bàn, ghế, xe cộ...); Đơn vị hành chính: (xã, huyện...)
1.2. Biểu thị tính chất
Màu sắc (trắng, đen, xanh); mùi vị (mặn, ngọt, chua, cay); kích thước (dài, ngắn nông,
sâu..); Hình dáng (vuông, tròn); Quy mô (to, nhỏ,béo, gầy); đánh giá (tốt, xấu, già, trẻ)
1.3. Biểu thị hoạt động
Vận động (đi, chạy, bay); tồn tại (sống, chết, mất, còn); hành động (làm, đánh, đóng. mở);
sinh hoạt tình cảm (nói, cười, khóa, vui, buồn)
1.4. Biểu thị trạng thái
Thời gian (đã, đang, sẽ); đồng thời (cũng, vẫn, cứ, còn); mức độ (rất, hơi, lắm)
1.5. Biểu thị quan hệ
Và, với, nhưng....
1.6. Các quán ngữ:
Tóm lại, ngoài ra, thật ra, sau cùng...
=> Từ ngữ đa phong cách có 3 đặc điểm:
- Dùng trong mọi phong cách tiếng việt
- Được mọi người trong xã hội quen biết và sử dụng
- Được dụng trong giai đoạn hiện nay.
2. Từ ngữ đơn phong cách
Từ ngữ sử dụng thích hợp với một loại phong cách ngôn ngữ nào đó
2.1. Từ khẩu ngữ tiếng Việt
- Từ khẩu ngữ được dùng chủ yếu cho phong cách tự nhiên phục vụ cho nhu cầu nói năng
sinh hoạt hàng ngày.
- Đặc trưng nổi bật nhất của từ khẩu ngữ là tính miêu tả chi tiết và cụ thể và luôn gắn liền
với cách nhìn nhận, thái độ đánh giá, tình cảm của người nói. từ khẩu ngữ giàu sắc thái biểu
cảm.
24
Nỏ mồm, dẻo miệng Nói nhiều
Ăn đòn Bị đánh
Bạo phổi Liều, không kiêng nể
Đàn ông đàn ang Nữ giới
Ăn cháo đái bát Vô ơn
Đâm thọc Gây mất đoàn kết
Ba cọc ba đồng Thu nhập thấp
- Một số kiểu cấu tạo khẩu ngữ:
+ Nguyên tắc cấu tạo chung của từ khẩu ngữ là thêm những yếu tố vào đơn vị từ đa phong
cách để tạo nên đơn vị mới - Từ khẩu ngữ
Vd: Ngon +ơ = ngon ơ; mốc + thếch = mốc thếch; cân + kéo = cân kéo; lo + méo mặt =lo
méo mặt..
+ Bớt yếu tố ở đơn vị nguyên là từ đa phong cách
Vd: Phê bình – phê, nhân khẩu – khẩu
+ Biển âm, biến nghĩa của đơn vị nguyên là từ đa phong cách
Vd: Vẫn – vưỡn; tất – tuốt;
Nện (đất, đá) – nện (cho một trận); bôi (phấn son) – bôi (việc)
- Từ khẩu ngữ rất cần thiết cho nhu cầu nói năng thân mật hàng ngày tạo nên sắc thái thân
mật, thể hiện thái độ tình cảm cuả người nói. Từ khẩu ngữ là công cụ lợi hại để nhà văn miêu
tả tái tạo cuộc sống, khắc họa tính cách nhân vật
Vd; "Lý Cựu bưng bát rượu kề gần môi và gật gật gù gù:
Đây qua cầu rồi, cứ việc chén cho đẫy. Thằng Mới đâu? ông bảo mày lấy thêm rượu làm
sao từ nãy đến giờ chưa thấy? Đừng láo, ông thì chẻ xác mày ra" (Ngô Tất Tố)
2.2. Từ ngữ khoa học
- Các ngành khoa học tự nhiên và xã hội ngoài việc sử dùng các từ ngữ đa phong cách làm
công cụ diễn đạt còn sử dụng một số lớp từ ngữ riêng để biểu thị khái niệm khoa học (thuật
ngữ khoa học)
Vd: hàm số, đạo hàm, tích phân (toán học); hàng hóa, lãi suất, giá trị thặng dư (kinh tế học)
- Từ ngữ khoa học là công cụ riêng của văn bản khoa học, mang tính đơn nghĩa, không hàm
chứa sắc thái biểu cảm.
2.3. Từ ngữ chính trị
- Những lớp từ ngữ thường được sử dụng trong văn bản chính luận, báo chí nhằm thực hiện
chức năng thông tin và tác động. Từ ngữ chính trị được phân bố trong các phạm vi sau:
+ Nói về sinh hoạt đoàn thể: Hội nghị, thảo luận, sơ kết, tổng kết, tham luận...
+ Nói về các tầng lớp xã hội, danh hiệu xã hội: Công nhân, nhân sĩ yêu nước, trí thức,
chiến sĩ thi đua, anh hùng lao động.
+ Phong trào tổ chức chính trị: Đảng, cánh tả, các nước không liên kết, ba dòng thác cách
mạng..
+ Nói về hệ ý thức tư tưởng, đạo đức: Chủ nghĩa quốc tế vô sản, tinh thần làm chủ tập thể,
đạo đức cách mạng...
- Từ ngữ chính trị mang màu sắc phong cách chính luận góp phần tuyên truyền chính trị có
hiệu quả cao; mang sắc thái biểu cảm trung hòa.
2.4. Từ ngữ hành chính:
- Những lớp từ ngữ hành chính mang chức năng thông báo có tính pháp chế của phong cách
hành chính, những thể thức nghiêm chỉnh của hoạt động hành chính.
- Từ ngữ hành chính tiếng Việt bao gồm:
+ Tên các đơn vị tổ chức từ cơ sở đến trung ương, tên các chức vụ của tổ chức đó: Ủy ban
nhân dân tỉnh, quốc hội, Bộ giáo dục &đào tạo; Bộ trưởng, giám đốc, phó giáo sư…
25
+ Tên gọi các văn bản hành chính: hiến pháp, luật giáo dục, chỉ thị, nghị quyết, thông tư
liên bộ…
+ Các từ ngữ thuộc phong cách hành chính: kính gởi, kính chuyển, theo đề nghị, chịu trách
nhiệm thi hành…
- Từ ngữ hành chính gắn liền với phong cách hành chính thể hiện qua tính nghi thức, khuôn
phép, có thể chế; mang sắc thái biểu cảm.
VD: thể hiện tính trang trọng thường dùng các từ Hán Việt (Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam,
quý vị đại biểu…).
2.5. Từ ngữ văn chương
- Tiếng Việt có một số từ ngữ không phải là từ đa phong cách nhưng có phạm vi sử dụng
rộng trong nhiều phong cách như: khoa học, chính luận, hành chính, văn chương. Do phạm vi
sử dụng của chúng mang tính chất văn hóa - văn chương nên gọi chung là từ ngữ văn chương.
- Từ ngữ văn chương tiếng Việt được phân bố trong các phạm vi biểu thị sự vật, tính chất,
hoạt động như:
+ Biểu thị sự vật: tổ quốc, giang sơn, biên cương, thảo mộc. thanh niên…
+ Biểu thị tính chất: vinh quang, hạnh phúc, bất diệt, đôn hậu, đoan trang…
+ Biểu thị hoạt động: hy sinh, quan tâm, bảo vệ, chiến đấu…
- Từ ngữ văn chương mang tính thẩm mỹ thông qua sự gọt giũa sáng tạo của nhà văn.
II. Khảo sát đặc điểm tu từ của những lớp từ ngữ được phân loại theo quan điểm cú
pháp học và từ vựng học
1. Thành ngữ tiếng Việt
1.1. Khái quát:
- Theo truyền thống các nhà nghiên cứu văn học gọi thành ngữ là các tổ hợp từ cố định
trong tiếng Việt có chức năng gọi tên sự vật, tính chất, hành động…một cách có hình ảnh gợi
nên sự liên tưởng là thành ngữ.
+ Biểu thị sự vật: Con Rồng, cháu Tiên; trời yên biển lặng; sóng to gió lớn…
+ Biểu thị tính chất: chân lấm tay bùn, đầu tắt mặt tối, gan vàng dạ sắt…
+ Biểu thị hành động: nước đổ lá khoai, được voi đòi tiên, trăm voi không được bát nước
xáo….
- Thành ngữ tiếng Việt có nội dung hàm súc, hình thức diễn đạt đẹp đẽ, là viên ngọc quý
trong tiếng nói dân tộc.
1.2. Đặc điểm
- Màu sắc phong cách của thành ngữ tiếng Việt: Thành ngữ tiếng Việt thể hiện sắc thái đa
phong cách:
+ Thành ngữ đa phong cách: sông cạn núi mòn, ghi lòng tạc dạ, nhường cơm sẻ áo
+ Thành ngữ khẩu ngữ: đầu chày đít thớt, đầu cua tai nheo, mắt nhắm mắt mở
+ Thành ngữ gọt giũa: đồng tâm hiệp lực, tống cựu nghinh tân, đồng sàng dị mộng
- Sắc thái biểu cảm, trừu tượng khái quát (Hình ảnh “rừng vàng biển bạc” biểu thị sự giàu
có tàng ẩn của xứ sở Việt Nam)
2. Từ thuần Việt và từ Hán Việt có nghĩa tương dương
2.1. Sự khác nhau về từ thuần Việt và Hán Việt có nghĩa tương đương:
A. Các biện pháp tu từ được cấu tạo theo quan hệ liên tưởng
Ðặc điểm chung của những biện pháp thuộc nhóm này là trong văn cảnh cụ thể, từ ngữ có
hiện tượng chuyển đổi ý nghĩa lâm thời. Tức là, nghĩa của từ ngữ vốn biểu thị đối tượng này
được lâm thời chuyển sang biểu thị đối tượng khác, dựa trên cơ sở của hai mối quan hệ liên
tưởng : liên tưởng tương đồng và logic khách quan. Mặc dù so sánh không phải là hiện tượng
chuyển nghĩa nhưng nó là cơ sở của nhiều biện pháp tu từ trong nhóm này.
I. So Sánh
1. Khái niệm
1.1. So sánh tu từ: là cách công khai đối chiếu hai hay nhiều đối tượng có một nét tương
đồng nào đó về hình thức bên ngoài hay tính chất bên trong để gợi ra hình ảnh cụ thể, những
cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của người đọc, người nghe.
1.2. Phân biệt so sánh tu từ với so sánh luận lí: Dù đều là thao tác đối chiếu giữa hai hay nhiều
đối tượng với nhau nhưng hai loại so sánh này lại có sự khác nhau về chất. Nếu so sánh tu từ là sự đối
chiếu giữa các đối tượng khác loại thì so sánh luận lí là sự đối chiếu giữa các đối tượng cùng loại. Nếu
so sánh tu từ nhằm mục đích gợi lên một cách hình ảnh đặc điểm giữa các đối tượng từ đó tạo nên xúc
cảm thẩm mĩ trong nhận thức của người tiếp nhận thì so sánh luận lí đơn thuần chỉ cho ta thấy sự
ngang bằng hay hơn kém giữa các đối tượng đấy mà thôi.Ví dụ :
Như trăng mới mọc,như đèn mới khêu - Con hơn cha nhà có phúc.
- Ðứt tay một chút chẳng đau - Nam học giỏi như Bắc.
28
2. Cấu tạo
- Vế so sánh
Ở dạng thức đầy đủ nhất, so sánh tu từ gồm có bốn yếu tố:
* A là B :
* A ( ẩn từ so sánh) B:
2.2.Về nội dung: Các đối tượng nằm trong hai vế là khác loại nhưng lại có nét tương đồng nào
đó, tạo thành cơ sở cho so sánh tu từ. Nếu nét giống nhau này thể hiện ra cụ thể bằng từ ngữ
(cơ sở giống nhau) thì ta có so sánh nổi; nếu nét giống nhau này không thể hiện ra cụ thể bằng
từ ngữ thì ta có so sánh chìm.
3. Chức năng
So sánh tu từ có hai chức năng là nhận thức và biểu cảm. Biện pháp tu từ này được vận
dụng rộng rãi trong nhiều phong cách khác nhau như: khẩu ngữ, chính luận, thông tấn. Đặc
biệt trong sáng tác văn chương so sánh tạo nên giá trị gợi hình, gợi cảm. Việc diễn tả tình cảm
thế giới nội tâm con người thông qua cách so sánh tạo nên sắc thái tu từ cao.
29
Ví dụ: Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương (Chế Lan Viên)
II. Ẩn dụ tu từ
1. Khái niệm
Ẩn dụ tu từ là cách lâm thời lấy tên gọi biểu thị đối tượng này để chỉ đối tượng kia dựa vào
nét tương đồng giữa hai đối tượng.
2.1. Hình thức: Ẩn dụ tu từ chỉ phô bày một đối tượng (đối tượng dùng để biểu thị) còn đối
tượng định nói đến (được biểu thị) thì dấu đi, ẩn đi, không phô ra như so sánh tu từ.
2.2. Nội dung: Ẩn dụ tu từ cũng giống như so sánh tu từ (do đó người ta còn gọi là so sánh
ngầm), nghĩa là cần phải liên tưởng rút ra nét tương đồng giữa hai đối tượng. Những mối quan
hệ liên tưởng tương đồng thường được dùng để cấu tạo ẩn dụ tu từ là: tương đồng về màu sắc,
tương đồng về tính chất, tương đồng về trạng thái, tương đồng về hành động, tương đồng về
cơ cấu...
Ồn ào và lặng lẽ
3. Chức năng
Ẩn dụ tu từ có hai chức năng: biểu cảm và nhận thức. Biện pháp tu từ này cũng được dùng
rộng rãi trong các phong cách chức năng tiếng Việt. Ẩn dụ tu từ gợi trong trí tưởng tượng
những hình ảnh mới lạ tạo ra những khả năng liên tưởng gắn liền với những ý nghĩa thâm
thúy.
Ví dụ : Hình tượng Sóng của Xuân Quỳnh mở ra trường liên tưởng về câu chuyện tình yêu
của người phụ nữ đầy lý thú
1. Khái niệm
30
Nhân hoá là một biến thể của ẩn dụ tu từ, trong đó người ta lấy những từ ngữ biểu thị những
thuộc tính, hoạt động của người dùng để biểu thị hoạt động của đối tượng khác loại dựa trên
nét tương đồng về thuộc tính, về hoat động giữa người và đối tượng không phải là người.
Ðàn cò trắng
2. Cấu tạo
2.1.Hình thức
+ Dùng những từ chỉ tính chất, hoạt động của người để biểu thị những tính chất, hoạt động của
đối tượng không phải là người. Ví dụ:
+ Xem đối tượng không phải là người như con người để tâm tình trò chuyện.
Trám bùi để rụng, măng mai để già? (Tố Hữu)
2.2. Nội dung: Dựa trên sự liên tưởng nhằm phát hiện ra nét giống nhau giữa đối tượng không
phải là người và người.
3.Chức năng
Nhân hoá có hai chức năng: nhận thức và biểu cảm. Nhân hoá được dùng rộng rãi trong các
phong cách : khẩu ngữ, chính luận,văn chương. Nhân hóa làm cho sự vật trở nên có hồn hơn,
gần gũi với thế giới con người.
* Ngoài ra còn có biện pháp vật hoá. Ðó là cách dùng các từ ngữ chỉ thuộc tính, hoạt động
của loài vật, đồ vật sang chỉ những thuộc tính và hoạt động của con người. Biện pháp này
thường được dùng trong khẩu ngữ và trong văn thơ châm biếm.
1.Khái niệm
Phúng dụ là hệ thống những ẩn dụ, nhân hoá được sử dụng để biểu đạt một nội dung triết lí
hay bài học luân lí mà người nói không muốn trình bày trực tiếp
2. Cấu tạo
2.1. Hình thức : Chỉ có một vế biểu hiện như ẩn dụ và nhân hoá.
2.2. Nội dung: Ẩn dụ chỉ có một nghĩa. Phúng dụ bao giờ cũng được hiểu ở cả hai bình diện
nghĩa : ý nghĩa trực tiếp và ý nghĩa gián tiếp, trong đó ý nghĩa trực tiếp là phương tiện biểu đạt
còn ý nghĩa gián tiếp là mục đích biểu đạt.
3. Chức năng
Phúng dụ chủ yếu có chức năng nhận thức và được dùng trong phong cách văn chương. Khả
năng biểu hiện sâu sắc và thâm thúy những ý niệm về triết lí nhân sinh khiến cho phúng dụ có
thể tồn tại lâu dài với chúng ta. Viết theo lối phúng dụ là cách viết vừa triết lí lại vừa nghệ
thuật, vừa có tính hiện thực sâu sắc lại vừa mang tính truyền thống, nói điều quen thuộc mà ý
nghĩa thật sâu xa.
V. Hoán dụ
1. Khái niệm
Hoán dụ là phương thức chuyển nghĩa bằng cách dùng một đặc điểm hay một nét tiêu biểu
nào đó của một đối tượng để gọi tên chính đối tượng đó dựa vào mối quan hệ liên tưởng logic
khách quan giữa hai đối tượng.
2. Cấu tạo:
2.1. Hình thức: Giống ẩn dụ tu từ, hoán dụ tu từ chỉ có một vế biểu hiện, vế được biểu hiện
không phô ra.
2.2. Nội dung: Nếu ẩn dụ dựa trên mối quan hệ liên tưởng về nét tương đồng thì hoán dụ dựa
vào mối quan hệ có thực, quan hệ tiếp cận. Một số mối quan hệ logic khách quan thường được
dùng để cấu tạo nên hoán dụ tu từ:
(Biểu thị tinh thần kháng chiến bền bỉ, dẻo dai)
Trái đất (vật chứa đựng) biểu thị đồng bào, nhân loại (được chứa đựng)
Đôi dép cũ (vật sở thuộc – đồ dùng quen thuộc của Bác biểu thị đức tính giản dị)
Một trăm con gái rửa chân cầu này (ca dao)
VD : Con thằng Thiên lôi đâm lòi bụng vợ (Nam Cao)
(Thằng Thiên Lôi - Nhân vật trong truyện cổ biểu thị sự hung ác - tính cách)
3. Chức năng
33
Hoán dụ chủ yếu có chức năng nhận thức. Biện pháp tu từ này được dùng rộng rãi trong các
phong cách chức năng tiếng Việt. Hoán dụ tu từ sử dụng trong văn chương nhằm nhấn mạnh
đặc điểm của đối tượng khi miêu tả.
1. Khái niệm
Tượng trưng là biện pháp tu từ biểu thị đối tượng định miêu tả bằng ước lệ có tính chất xã
hội. Người ta quy ước với nhau rằng từ này có thể được dùng để biểu thị một đối tượng khác
ngoài nội dung ngữ nghĩa thông thường của nó.
Ai mà chịu rét thì trèo với thông. ( Nguyễn Công Trứ )
2 . Cấu tạo
2.1. Hình thức: Chỉ có một vế biểu hiện giống như ẩn dụ và hoán dụ tu từ.
2.2. Nội dung: Ðược xây dựng trên cơ sở của mối quan hệ liên tưởng tương đồng và logic
khác quan. Về nguồn gốc tượng trưng được xây dựng từ các ẩn dụ hoặc hoán dụ tu từ ; song
ẩn dụ và hoán dụ tu từ là phương tiện biểu đạt mang dấu ấn cá nhân khi tách khỏi văn cảnh nó
không còn giá trị nữa, còn tượng trưng mang tính ước lệ xã hội khi tách khỏi văn cảnh vẫn giữ
nguyên giá trị.
VD : Hình ảnh tùng, bách trong văn học Trung đại là tượng trưng ẩn dụ biểu thị cốt cách
người quân tử ; Hình ảnh búa liềm là tượng trưng hoán dụ biểu thị Đảng cộng sản
Với hàng lau cỏ đứng cùng được sau. ( Nguyễn Công Trứ)
3.Chức năng
Tượng trưng chủ yếu có chức năng nhận thức và chủ yếu được dùng trong phong cách văn
chương góp phần làm nổi bật đặc điểm của đối tượng miêu tả tạo nên sự liên tưởng thâm thúy
trí tuệ.
B. Các biện pháp tu từ được cấu tạo theo quan hệ kết hợp
Ðặc điểm chung của những biện pháp thuộc nhóm này là trong văn cảnh cụ thể, nhờ cách
sắp xếp từ ngữ theo những mối quan hệ kết hợp nhất định mà có được nội dung biểu hiện bổ
sung. Sự đối lập giữa các hình thức kết hợp khác nhau nhằm cùng biểu hiện một thông báo cơ
34
sở là nguyên nhân sinh ra các cách tạo hình, gợi cảm của những biện pháp tu từ được cấu tạo
theo quan hệ kết hợp.
I. Ðiệp ngữ
1.Khái niệm
Ðiệp ngữ là biện pháp lặp đi lặp lại những từ ngữ nào đó nhằm mục đích mở rộng, nhấn
mạnh ý nghĩa hoặc gợi ra những cảm xúc trong lòng người đọc.
Có một số hình thức điệp như : điệp ngữ nối tiếp, điệp ngữ cách quãng.
Lòng chàng ý thiếp, ai sầu hơn ai. (Chinh Phụ Ngâm- Ðặng Trần Côn)
3.Chức năng:
Ðiệp ngữ vừa có chức năng nhận thức và chức năng biểu cảm. Biện pháp này được dùng
rộng rãi trong các phong cách chức năng ngôn ngữ.
1. Khái niệm
Phối hợp từ (còn gọi là đồng nghĩa kép) là biện pháp tu từ trong đó người ta dùng phối hợp
nhiều từ ngữ cùng nghĩa hoặc gần nghĩa nhằm mục đích biểu hiện đầy đủ các phương diện
khác nhau của cùng một đối tượng hoặc cùng một nội dung trình bày.
35
Người ta bảo không trông
2. Tác dụng
- Giúp lời văn thêm mạnh, làm cho sự biểu đạt tư tưởng tình cảm đầy đủ, chính xác.
- Thể hiện sự say sưa, nhiệt tình của lời nói, làm tăng thêm tính hùng hồn và hấp dẫn. Tuy
nhiên, nếu lạm dụng thì câu văn dễ trở nên nặng nề.
3.Chức năng
Phối hợp từ có cả chức năng nhận thức và biểu cảm. Biện pháp này thường được dùng trong
phong cách văn chương và chính luận.
1. Khái niệm
Tiệm tiến là biện pháp tu từ dùng cách sắp xếp các lượng ngữ nghĩa có quan hệ gần gũi
nhau theo một trình tự từ nhỏ đếön lớn, từ nông đến sâu, từ nhẹ đến mạnh, từ phương diện này
đến phương diện kia, hoặc ngược lại trình tự đó. Kết quả là phần đi sau hơn hoặc kém phần đi
trước về nội dung ý nghĩa hoặc về sắc thái biểu cảm.
Ví dụ: Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng,
gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước. ( Hồ Chí Minh)
2. Tác dụng
Tiệm tiến có tác dụng tạo nên sự bất ngờ, gây một cảm xúc và một ấn tượng đặc biệt đối với
nội dung trình bày bởi vì sự miêu tả cứï tăng dần hoặc giảm dần theo những cung bậc mà
người ta không đoán trước được.
Ví dụ: Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam,
không những là cái cẩm nang thần kì, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi
sáng con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản ( Hồ Chí Minh)
3. Chức năng
Tiệm tiến có chức năng nhận thức và biểu cảm. Biện pháp này được dùng nhiều trong phong
cách chính luận và văn chương.
1. Khái niệm
Ðột giáng là biện pháp tu từ gây sự chú ý vào một chi tiết nội dung bằng cách xếp đặt từ
ngữ, câu văn sao cho khi chuyển sang chi tiết này thì mạch trình bày bị chuyển đổi một cách
36
đột ngột. Biện pháp này gây nên cảm giác hụt hẫng đối với người tiếp nhận từ đó tạo ra tiếng
cười châm biếm, đả kích.
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình (Lai Tân – Hồ Chí Minh)
2. Chức năng
Ðột giáng có chức năng nhận thức và chức năng biểu cảm. Biện pháp này chủ yếu được
dùng trong thơ ca trào lộng, châm biếm, đả kích. Trong văn xuôi chúng ta thấy ít sử dụng biện
pháp này.
V. Tương phản
1. Khái niệm
Tương phản là biện pháp tu từ dùng các từ ngữ biểu thị những khái niệm đối lập nhau cùng
để xuất hiện trong một văn cảnh nhằm mục đích làm rõ hơn đặc điểm của đối tượng được
miêu tả.
2. Chức năng
Tương phản có chức năng nhận thức và biểu cảm. Biện pháp này được dùng nhiều trong các
phong cách : chính luận, thông tấn và văn chương .
1. Khái niệm
Im lặng (hay còn gọi là phép lặng) là biện pháp tu từ dùng sự biểu đạt bằng cách bỏ trống
(tín hiệu zêrô). Nhờ ngữ cảnh, nhờ những dòng chữ, những tiếng nói có mặt mà những dòng
chữ, những tiếng nói vắng mặt trở nên có nghĩa.( Trong chữ viết, phép lặng được thể hiện
bằng dấu ba chấm [...] )
2. Ðặc điểm : Im lặng thường được dùng trong hai trường hợp :
2.1. Diễn tả sự e thẹn, đau khổ, tiếc thương hay sự uất ức nghẹn ngào không nói ra được.
Sự mô đâu có thế
3. Chức năng:
Im lặng có hai chức năng là nhận thức và biểu cảm. Biện pháp này thường được dùng trong
các phong cách : khẩu ngữ, văn chương...
Khoa trương ( hay còn gọi là Ngoa dụ, phóng đại- Hyperbole) là biện pháp tu từ dùng sự
cường điệu quy mô, tính chất, mức độ,... của đối tượng được miêu tả so với cách biểu hiện
bình thường nhằm mục đích nhấn mạnh vào một bản chất nào đó của đối tượng được miêu tả.
2. Chức năng
Khoa trương có hai chức năng là nhận thức và biểu cảm. Biện pháp này được dùng nhiều
trong các phong cách: khẩu ngữ, văn chương, thông tấn...
1. Khái niệm
Nói giảm (còn được gọi là nhã ngữ hay khinh từ) là biện pháp tu từ dùng hình thức biểu đạt
giảm bớt mức độ hơn , nhẹ nhàng hơn, mềm mại hơn để thay thế cho sự biểu đạt bình thường
cần phải lảng tránh do những nguyên nhân của tình cảm. Nói giảm không có phương tiện riêng
mà thường được thực hiện thông qua các hình thức ẩn dụ hay hoán dụ tu từ.
Sông Mã gầm lên khúc độc hành (Tây Tiến - Quang Dũng)
Biện pháp tu từ này thường được dùng để nói về cái chết.
2. Chức năng
Nói giảm có chức năng nhận thức và biểu cảm. Biện pháp này được dùng nhiều trong các
phong cách: khẩu ngữ, văn chương, chính luận...
1. Khái niệm
Chơi chữ là biện pháp tu từ vận dụng linh hoạt các tiềm năng về ngữ âm , chữ viết, từ
vựng, ngữ pháp của tiếng Việt nhằm tạo nên phần tin khác loại tồn tại song song với phần tin
cơ sở. Phần tin khác loại này - tức lượng ngữ nghĩa mới là bất ngờ và về bản chất là không có
quan hệ phù hợp với phần tin cơ sở.
Có nhiều hình thức chơi chữ: Chơi chữ bằng phương tiện ngữ âm, chữ viết, từ vựng, cú
pháp...
Da trắng vỗ bì bạch
2 Chức năng
Chơi chữ có cả hai chức năng nhận thức và biểu cảm. Biện pháp này thường được dùng để
châm biếm, đả kích hoặc để đùa vui thể hiện sự thâm thúy trí tuệ của người sử dụng. Nó
thường được dùng trong các phong cách như : khẩu ngữ, chính luận, văn chương.
39
X. Nói lái
1. Khái niệm
Nói lái là biện pháp tu từ dùng cách đánh tráo phụ âm đầu, vần và thanh điệu giữa hai hay
nhiều âm tiết để tạo nên những lượng ngữ nghĩa mới bất ngờ, nhằm mục đích châm biếm, đùa
vui. Ðây là hình thức chơi chữ đặc biệt của các ngôn ngữ phân tiết như tiếng Việt.
Về lí thuyết, khi có hai âm tiết ta đã có thể nói lái. Tuy nhiên, nói lái chỉ trở thành một biện
pháp nghệ thuật nếu nó đem đến cho ta một nội dung ngữ nghĩa mới bất ngờ.
Ví dụ: Vũ Như Cẩn àVẫn như cũ; Bùi Lan à Bàn lui...
2. Chức năng
Nói lái có cả hai chức năng nhận thức và biểu cảm. Biện pháp này chủ yếu được dùng trong
phong cách khẩu ngữ và văn chương.
1. Dẫn ngữ
Dẫn ngữ là biện pháp dùng những điển cố, thành ngữ, tục ngữ, danh ngôn hoặc thơ văn có
giá trị, có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống ngôn ngữ và cuộc sống tinh thần của một tập thể
người nhằm thuyết minh một vấn đề mới, biểu hiện một tư tưởng, tình cảm mới, làm cho cách
kiến giải của người nói, người viết thêm sức thuyết phục.
Dẫn ngữ có chức năng nhận thức và biểu cảm. Biện pháp này được dùng trong các phong
cách chức năng khẩu ngữ , chính luận , văn chương...
2. Tập Kiều
2.1.Khái niệm
Tập Kiều là hình thức dẫn ngữ đặc biệt. Ở đây người ta sử dụng những ý hoặc lời trong
truyện Kiều, một tác phẩm mà mọi người Việt Nam đều quen biết, đều thuộc lòng ít nhiều để
tạo nên sắc thái Kiều trong sự biểu đạt của lời nói.
40
Ví dụ Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương
- Tạo nên màu sắc Kiều, không khí Kiều, sự đồng cảm giữa người nói và người nghe.
2.3. Chức năng : Tập Kiều có chức năng nhận thức, chức năng biểu cảm và chủ yếu được
dùng trong phong cách văn chương.
41