You are on page 1of 13

MỤC LỤC

PHẦN I: MỞ ĐẦU 2
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 2
1. Cơ sở lí luận 2
2. Cơ sở thực tiễn 3
II. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3
1. Mục đích nghiên cứu 3
2. Đối tượng nghiên cứu 3
3. Phương pháp nghiên cứu 3
PHẦN II: NỘI DUNG 4
I. LÍ LUẬN CHUNG VỀ TỪ LÁY 4
II. NỘI DUNG DẠY HỌC TỪ LÁY TRONG TIẾNG VIỆT TIỂU
14
HỌC
III. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT 15
IV. THỰC TRẠNG VIỆC DẠY VÀ HỌC TỪ LÁY 15
V. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY TỪ
17
LÁY TRONG MÔN TIẾNG VIỆT Ở TIỂU HỌC
VI. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC 22
PHẦN III: KẾT LUẬN – ĐỀ XUẤT 23
I. KẾT LUẬN 23
II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM 23
III. ĐỀ XUẤT 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26

PHẦN I: MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận

1
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang tiến nhanh trên con đường
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Để đáp ứng được yêu cầu đổi mới đó,
đòi hỏi phải có những lao động mới có bản lĩnh, có năng lực, chủ động, sáng
tạo, dám nghĩ, dám làm… Từ đó đòi hỏi ngành Giáo dục và Đào tạo phải đào
tạo ra những con người đáp ứng được nhu cầu đó.
Luật Giáo dục cũng đã đưa ra mục tiêu cụ thể: “Mục tiêu Giáo dục Tiểu
học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng
đắn và lâu dài về đạo đức và trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản góp
phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây
dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học Trung
học cơ sở.”
( Điều 23 – Luật Giáo dục 1998)
Như vậy chúng ta thấy rằng mục tiêu giáo dục tiểu học chỉ có thể đạt
được khi mỗi nhà trường nhận thức và thực hiện tốt chất lượng giảng dạy các
môn học.
Mỗi môn học ở bậc Tiểu học đều có vai trò nhiệm vụ riêng, trong đó môn
Tiếng Việt cũng giữ vai trò vô cùng quan trọng vì nó góp phần hình thành và
phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt, nghe, nói, đọc, viết các
môn khác và tiếp tục nhận thức thế giới xung quanh.
Trong các mảng kiến thức của tiếng Việt, từ láy chiếm một số lượng
không nhỏ và giữ một vai trò quan trọng trong việc giúp con người diễn đạt tư
tưởng, tình cảm trên mọi lĩnh vực của cuộc sống. Trong văn chương, từ láy
không chỉ có giá trị biểu cảm, giá trị hình tượng mà còn góp phần tạo tính nhạc
cho lời thơ, lời văn hơn các lớp từ khác. Từ láy thích hợp với việc tạo nên được
những bức tranh sinh động với những gam màu ấn tượng, những hình dáng, tính
cách của con người bằng ngôn từ. Lớp từ láy có khả năng tạo nên nhịp điệu,
hình ảnh cho thơ ca, là một trong những phương tiện biểu đạt đặc sắc của thơ ca
nên được các nhà thơ, nhà văn rất ưa dùng. Các nhà thơ nhà văn sử dụng từ láy
như là một yếu tố nghệ thuật để thể hiện tác phẩm. Trong đời sống giao tiếp, từ

2
láy cũng thường được sử dụng và mang lại nhiều hiệu quả. Nhưng đó cũng là
mảng kiến thức khó dạy vì giáo viên và học sinh cũng hay bị nhầm giữa từ láy
và từ ghép, gây nên việc không hứng thú dạy.
2. Cơ sở thực tiễn
Trong thực tế, khi giảng dạy về từ láy nhiều giáo viên không hứng thú
dạy,một số giáo viên còn lúng túng, chưa nắm vững kiến thức khoa học của
mảng kiến thức này, phương pháp dạy học của một số giáo viên còn hạn chế,
chưa giúp học sinh phân biệt được từ láy nên hiệu quả dạy học chưa cao. Bên
cạnh đó, học sinh Tiểu học khi học về từ ghép và từ láy còn hay bị nhầm lẫn,
chưa phân biệt được chính xác từ ghép và từ láy. Xuất phát từ giá trị của từ láy,
vấn đề dạy và học từ láy trong nhà trường đã được đặt ra và được triển khai rất
sớm, ngay từ cấp Tiểu học. Là một giáo viên Tiểu học, để có thể giúp học sinh
sử dụng Tiếng Việt đúng và hay, việc tìm hiểu, nghiên cứu về từ láy là rất cần
thiết. Qua các bài dạy của mình, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh biết cách
dùng từ láy đúng, hay, sáng tạo; làm tăng thêm giá trị gợi hình ảnh, gợi âm
thanh và giá trị biểu cảm cho câu văn, bài văn cũng như trong giao tiếp.
Từ những lí do nêu trên, tôi mạnh dạn chọn và nghiên cứu đề tài : “Từ láy
trong tiếng Việt”.
II. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
1. Mục đích nghiên cứu :
- Tìm hiểu những vấn đề chung về từ láy: một số quan niệm về từ láy , sự
phân loại từ láy trong Tiếng Việt và giá trị ngữ nghĩa, giá trị sử dụng của từ láy.
- Tìm hiểu thực trạng dạy và học mảng kiến thức về từ láy.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học từ láy, góp
phần nâng cao chất lượng dạy – học Tiếng Việt trong nhà trường.
2. Đối tượng nghiên cứu
- Từ láy tiếng Việt
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp điều tra
3
- Phương pháp phân tích – tổng hợp
- Phương pháp so sánh
PHẦN II: NỘI DUNG
I. LÍ LUẬN CHUNG VỀ TỪ LÁY
1. Các khái niệm và các quan niệm xung quanh vấn đề từ láy
Từ láy là lớp từ có sức diễn tả, gợi tả, gợi cảm cao nên được sử dụng nhiều
trong ngôn ngữ giao tiếp đời sống và trong văn chương, đặc biệt là được dùng
nhiều trong thơ ca, bởi chúng có khả năng lớn nhất trong việc tạo âm thanh, tạo
hình ảnh một cách rõ nét giúp cho ngôn ngữ thực hiện tốt chức năng giao tiếp và
chức năng tư duy. Đã có nhiều cách lí giải hiện tượng này một cách khác nhau
diễn ra trong lịch sử ngôn ngữ học. Điều này cũng dễ lí giải vì láy là một hiện
tượng đa diện, phức tạp, đầy lí thú xét cả về phương diện hình thái – cấu trúc
cũng như từ mặt ngữ nghĩa và ngữ dụng học.
Các tác giả sách “ Ngữ pháp Tiếng Việt” của Ủy ban khoa học xã hội Việt
Nam 1983 định nghĩa : “ Từ láy đều là từ hai tiếng. Phần lớn đó là từ gốc Việt.
Có một số từ láy gốc Hán, nhưng có thể coi chúng đã là Việt hóa, đã hòa lẫn
vào bộ phận từ láy gốc Việt. Từ láy được cấu tạo theo phương thức phối hợp
ngữ âm. Nói đến “sự phối hợp ngữ âm” ở đây tức là nói đến hiện tượng lặp và
hiện tượng đối xứng”. Quan niệm này giống quan niệm của tác giả Hoàng Văn
Hành nhưng chưa nhấn mạnh đến quan hệ ngữ nghĩa của từ.
Đa số các nhà nghiên cứu đều coi từ láy như một đơn vị từ vựng gồm hai
phần: thành tố gốc và thành tố láy. Có nhiều sự tranh luận về thành tố “gốc”
trong từ láy, nhưng đây là vấn đề chưa ngã ngũ bởi trên thực tế, nhiều từ trên
quan điểm đồng đại thật khó có cơ sở để xác định đâu là thành tố gốc . Đó là các
từ như: bâng khuâng, lẽo đẽo, xào xạc, kĩu kịt, ti toe, ... và ngay cả những từ láy
hoàn toàn như : ầm ầm, xanh xanh, êm êm, ... cũng không có cơ sở chắc chắn để
xác định yếu tố nào là phần gốc, yếu tố nào là phần láy.
Những quan điểm về từ láy chưa thật thống nhất trong khái niệm giữa các

4
nhà nghiên cứu song đa số các nhà nghiên cứu lại có những quan điểm tương
đồng với nhau ở chỗ: coi từ láy là từ được cấu tạo theo phương thức láy, lấy
nguyên tắc hòa phối ngữ âm làm cơ sở và có những đặc trưng ngữ nghĩa riêng.
Trong sách giáo khoa Tiếng Việt 4 tập 1, khái niệm từ láy được thể hiện
như sau: "Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần (hoặc cả âm đầu và vần)
giống nhau. Đó là các từ láy".
1.1. Từ láy và dạng láy
Khi nghiên cứu từ láy, đa số các nhà nghiên cứu không chủ trương đi vào
phân biệt từ láy với dạng láy của từ. Một số nhà nghiên cứu lại chủ trương phân
biệt từ láy và dạng láy , mặc dù những tiêu chuẩn, những dẫn chứng mà các tác
giả này trên thực tế khi đưa ra chứng minh chưa đủ sức thuyết phục và có căn cứ
rõ ràng. Có một số quan niệm về dạng láy : “Dạng láy của từ là kết quả của quá
trình trượt để nhân đôi từ khi sử dụng chúng trong lời nói. Từ dùng để làm cơ
sở cho việc tạo dạng láy có thể là từ đơn âm tiết, có thể là một số kiểu từ láy
đôi. Tùy thuộc vào số lượt âm tiết mà chúng ta có dạng láy đôi, dạng láy ba hay
láy của từ.”
Tác giả Võ Xuân Quế trong bài viết “ Tìm hiểu về một kiểu láy tư trong
Tiếng Việt” lại khẳng định những trường hợp như “gật gà gật gù”, “hấp ta hấp
tấp”, “ngất nga ngất ngưởng” ... là kiểu láy bốn, chứ không phải là dạng láy
bốn. Các tác giả Nguyễn Tài Cẩn, Hồ Lê, Nguyễn Thiện Giáp, Đỗ Hữu Châu
cũng thừa nhận đây là kiểu láy tư trong Tiếng Việt. Kiểu láy bốn này được cấu
tạo từ các từ láy đôi nên nghĩa của chúng chỉ là nghĩa của từ láy đôi ở mức độ
cao hơn, nhấn mạnh nghĩa hơn của từ láy đôi cơ sở.
Những từ kiểu như: đo đỏ, tim tím, chầm chậm, ... Hoàng Văn Hành và
một số nhà nghiên cứu lại coi là dạng láy đôi. Tuy nhiên tác giả Hoàng Văn
Hành lại lí giải chỉ nên phân biệt dạng lặp với từ láy vì cái gọi là dạng láy và từ
láy thực chất đều được cấu tạo theo cùng một cơ chế.
Quan niệm truyền thống khi phân biệt từ láy với dạng láy lại cho rằng
dạng láy biểu thị ý nghĩa ngữ pháp còn từ láy biểu thị ý nghĩa từ vựng. Tuy
nhiên ngữ pháp truyền thống lại chưa phân biệt rõ ràng thế nào là ý nghĩa ngữ
5
pháp, thế nào là ý nghĩa từ vựng nên khó lòng phân biệt được khi nào là từ láy ,
khi nào là dạng láy của từ. Truyền thống Việt ngữ học, các nhà tác giả thường
phân biệt dạng láy. dạng lặp và từ láy .
Hoàng Tuệ cho rằng những từ bốn âm tiết như: mừng mừng rỡ rỡ, tùm
lum tà la chỉ là dạng láy và cho rằng các từ láy chỉ gồm có hai âm tiết. “ Như
vậy, các từ láy đều hai âm tiết” và khẳng định “ các dạng láy bốn âm tiết không
nên xem là từ, đó là những đơn vị hình thành qua một sự biểu trưng hóa ngữ âm
ở bậc câu, không phải ở bậc từ”.
Các tác giả sách “ Cơ sở Tiếng Việt” cho rằng phương thức láy từ là “ láy
lại từ gốc tạo ra dạng láy để biểu thị ý nghĩa ngữ pháp khác với từ gốc”.
VD: đen và đen đen, xanh và xanh xanh ... Ý nghĩa ngữ pháp của “ đen
đen”, “ xanh xanh” khác với từ gốc “ đen” và “ xanh”.
Dạng láy đôi biểu hiện mức độ giảm của tính chất, nó chỉ miêu tả mức độ
tương đối. Ngoài dạng láy đôi, còn có dạng láy bốn biểu thị mức độ tăng của
tính chất so với từ gốc.
VD: vụng về và vụng vụng về về, lúng túng và lúng ta lúng túng
Sách ngữ pháp Tiếng Việt của Ủy ban khoa học xã hội – 1983 cũng có sự
phân biệt từ láy và dạng láy. “ Tránh nhầm lẫn từ láy toàn bộ với dạng láy của
từ một tiếng”.
VD: đùng đùng, róc rách, nhí nhảnh ... là từ láy
thấp thấp, nhí nha nhí nhảnh .. là dạng láy
Các tác giả cuốn “ Ngữ pháp Tiếng Việt” đã có sự trình bày tỉ mỉ về
hình thức ngữ âm và nghĩa của dạng láy . Tôi có thể tóm lược sự trình bày đó
qua hai bảng sau:
Bảng 1: Hình thức ngữ âm của dạng láy:
Láy toàn bộ: không có sự biến đổi ngữ âm
mà chỉ có sự lặp lại của tiếng
Dạng láy hai VD: người người, đời đời...
Láy bộ phận: giữa hai tiếng có phối hợp về
tiếng
âm thanh. VD: đèm đẹp, tim tím, ren rét....
6
Láy toàn bộ: Có sự biến đổi nhất định trong
ngữ điệu
VD: vui vui vui, nhớ nhớ nhớ ...
Láy bộ phận: có phối hợp về ngữ âm nhưng
chỉ phối hợp về thanh
VD: cỏn còn con hoặc con cỏn còn con ...
Dạng láy có VD: vui vui là
kết hợp với Những sách là sách
trợ từ
Dạng láy không có sự biến đổi ngữ âm,
trong đó nguyên dạng AB của từ ghép hay
Từ hai tiếng có Dạng láy từ láy chuyển thành dạng AABB
những dạng láy toàn bộ VD: nói nói cười cười, vội vội vàng vàng ...
Dạng láy có phối hợp ngữ âm, trong đó
nguyên dạng hai tiếng AB của từ chuyển
thành dạng bốn tiếng
VD: hớt hải thành hớt hơ hớt hải
Có sự phối hợp ngữ âm trong đó nguyên
Dạng láy bộ dạng hai tiếng AB của một kiểu từ ghép đổi
phận thành dạng láy bao tiếng AB’B – sự phối
hợp ngữ âm là giữa các tiếng B’B
VD: thơm phức thành thơm phưng phức
Từ một tiếng và VD: cơm kiếc, xe xiếc, câu lạc bộ câu lạc biếc
từ hai tiếng có Dạng láy đặc biệt có thể có vần ang hay vần ung
dạng láy đặc biệt VD: đàn ông đàn ang, hoa tai hoa tung ...
với vần “ iêc” ở
tiếng cuối của
dạng láy
Bảng 2: Nghĩa của dạng láy:
Nghĩa về số lượng toàn bộ của sự vật
Dạng láy của danh từ VD: người người, ngành ngành, đâu đâu
Nghĩa về sự liên tục thời gian
biểu thị loại nghĩa
7
VD: sáng sáng, chiều chiều, lớp lớp ...
Nghĩa về sự liên tục của hoạt động
Dạng láy của động từ VD: đập đập, gật gật, lắc lắc, đẽo đẽo
có thể biểu thị những Có thể có cách dùng hai ngữ liền nhau, song song
loại nghĩa VD: quay đi quay lại, nói lên nói xuống
Nghĩa về cường độ của hoạt động
VD: lo lo, sờ sợ, yêu yêu ...
Nghĩa về mức độ thấp của tính chất
VD: be bé, nho nhỏ, nằng nặng ...
Nghĩa về mức độ cao của tính chất
Dạng láy hai tiếng kết hợp với trợ từ
VD: mẩy mẩy là, ngoan thật là ngoan ...
Dạng láy ba tiếng, bốn tiếng
VD: đủng đa đủng đỉnh, sạch sành sanh ...
Dạng láy đặc biệt có Thường biểu thị tính không xác định của sự vật, hoạt
vần “iêc” hay “ang”, động của trạng thái hay tính chất
“ung” của danh từ, VD: sốt siếc, diễn văng diễn vung ...
động từ, tính từ Có khi nó nhấn mạnh nghĩa phủ định hoặc có hàm ý
khinh thường, mỉa mai hay đùa giỡn .
VD: học hiếc, hát hiếc ...
1.2. Từ láy và từ ghép
Khái niệm về từ láy hiện nay do chưa có sự thống nhất giữa các nhà
nghiên cứu ngôn ngữ nên việc xác định từ láy đôi khi cũng gặp những khó khăn.
Có một số lượng không nhiều những từ mà khi xác định loại từ đó thuộc lớp từ
nào thì có người lại xếp vào lớp từ láy, có người lại xếp vào từ ghép, có người
lại cho đó là lớp từ trung gian. Những ý kiến đó được trình bày qua một số công
trình nghiên cứu của một số tác giả. Ở đây, tôi chỉ đi vào xem xét những trường
hợp mà ranh giới giữa từ láy và từ ghép khó xác định chứ không phải đi vào
phân biệt hai lớp từ cơ bản của Tiếng Việt là từ láy và từ ghép.
Từ láy và từ ghép là sản phẩm của hai cơ chế cấu tạo từ khác nhau. Từ láy
là sản phẩm của cơ chế láy, từ ghép là sản phẩm của cơ chế ghép.
Chóc = chim (chim chóc) – Trong tiếng Tày, chóc là con chim sẻ
8
Han = hỏi (hỏi han)
Những yếu tố mất nghĩa ngày nay lại là những từ có nghĩa, được dùng
trong Tiếng Việt từ thế kỷ XIX trở về trước nên tác giả xếp vào từ ghép đẳng
lập.
Tác giả Nguyễn Đức Dương coi những trường hợp :
• người người, đo đỏ, đèm đẹp,..... là kiểu láy nghĩa là những tổ hợp vốn láy
cả nghĩa lẫn âm
• bập bùng, đỏ đắn,... là tổ hợp ghép nghĩa
• bơ vơ, tôm tép, ba ba,... là hiện tượng láy ngẫu nhiên
• cào cào, châu chấu, se sẻ, đom đóm,... là tổ hợp láy dùng để gọi tên
những sự vật, loài vật.
Tác giả viết : “ Để phân tích nghĩa của các tổ hợp kiểu đỏ đắn, bập bùng,
... chúng ta hãy xét chúng ở mặt hình thái học trước. Kiểu tổ hợp này lâu nay
vẫn được xếp vào loại “láy”. Nhưng thực ra tính chất của phương thức ghép thể
hiện đâm hơn nhiều.”
Xu thế chuyển đổi từ kiểu ghép nghĩa sang kiểu láy âm, hiện nay vẫn
đang tiếp tục diễn ra nhất là trong những kiểu ghép gồm hai thành tố đẳng lập.
Việc cùng một số từ giống nhau được xếp vào các loại lớp từ khác nhau đó là do
cách nhìn, cách xem xét những từ đó dưới những bình diện khác nhau: về nguồn
gốc của từ hay sự phát triển của từ trong sự phát triển chung của ngôn ngữ.
Đối với học sinh tiểu học, nhận thức của các em còn ở mức đơn giản, vì
vậy tôi theo cách nhìn của Nguyễn Tài Cẩn, Đỗ Hữu Châu, Đào Thản và một số
tác giả khác, nhận diện từ láy trên quan điểm đồng đại. Xác định từ láy trên diện
đồng đại tức là trừ một số lượng ít ỏi các từ gồm hai tiếng có nghĩa nên đưa về
từ ghép. Các từ còn lại, tức các từ mà cả hai tiếng vô nghĩa hoặc chỉ có một
tiếng có nghĩa đều nên coi là từ láy chân chính xét cả về nội dung ý nghĩa lẫn
cấu tạo hình thức của từ.
1.2. Sự phân loại từ láy trong Tiếng Việt
1.2.1. Phân loại từ láy dựa vào số lượng tiếng và cấu tạo của từ

9
Từ láy Tiếng Việt hiện nay thường được phân loại dựa trên hai cơ sở: số
lượng các âm tiết trong từ láy; sự đồng nhất hay khác biệt trong thành phần cấu
tạo của các thành tố trong từ láy do các hòa phối ngữ âm tạo nên.
Căn cứ trên cơ sở một, trong Tiếng Việt có các kiểu2: từ láy hai tiếng, từ
láy ba tiếng và từ láy bốn tiếng. Trên cơ sở hai, các từ láy đôi phân thành: từ láy
hoàn toàn và từ láy bộ phận. Nhưng do sự phức tạp trong cấu tạo của phần vần
(thường gồm từ một đến ba âm) nên cách phân chia thành các loại nhỏ trong từ
láy bộ phận.
Tôi đi vào trình bày cách phân loại từ láy Tiếng Việt dựa vào hai cơ sở
nêu ở trên. Đây là cách phân loại theo tôi là khá tiêu biểu, đầy đủ và chung nhất
cho các kiểu từ láy trong Tiếng Việt.
1. Từ láy đôi: là những từ láy gồm hai tiếng. Trong từ láy đôi, dựa vào
phần âm được láy lại có thể phân chúng thành hai loại: láy hoàn toàn và láy bộ
phận.
a. Từ láy hoàn toàn:
Đó là những từ láy có sự đồng nhất, tương ứng hoàn toàn giữa các thành
phần cấu tạo của hai thành tố. VD: đùng đùng, lăm lăm, phau phau, hu hu...
Có thể chia từ láy hoàn toàn thành ba loại:
- Từ láy hoàn toàn giữa hai tiếng giống hệt nhau về thành phần cấu tạo, chỉ
khác nhau về trọng âm. VD: xanh xanh, ngầu ngầu, kìn kìn, vèo vèo...
- Từ láy hoàn toàn giữa hai tiếng có sự khác nhau về thanh điệu. VD: đo đỏ,
tim tím, mơn mởn, chầm chậm ...
- Từ láy hoàn toàn giữa hai tiếng có sự khác nhau về phụ âm cuối. Phụ âm
cuối biến đổi theo nguyên tắc p – m , t – n , k – ng .
VD: p – m : chiếp chiếp – chiêm chiếp
bịp bịp – bìm bịp
t–n: sát sát – san sát
phớt phớt – phơn phớt
k–n: bịch bịch – bình bịch
vặc vặc – vằng vặc
10
b. Từ láy bộ phận:
Từ láy bộ phận là những từ láy trong đó có sự phối hợp ngữ âm của từng
bộ phận âm tiết theo những qui tắc nhất định.
Trong Tiếng Việt, kiểu láy bộ phận là kiểu chính, xét cả về số lượng từ, cả
về tính đa dạng, phong phú của qui tắc phối hợp âm thanh.
Căn cứ vào sự phối hợp các bộ phận khác nhau của âm tiết, ta có thể chia
từ láy bộ phận thành hai kiểu : từ láy âm và từ láy vần
- Từ láy âm : là những từ láy trong đó âm đầu được láy lại.
Có thể chia từ láy âm thành hai loại nhỏ:
+ Từ láy âm xác định được quy tắc biến vần:
VD: [ u ] – [ i ] : tủm tỉm, thủ thỉ, rung rinh ...
[ ô ] – [ ê ]: vỗ về, hổn hển, xộc xệch ...
[ o ] – [ e ]: thỏ thẻ, vo ve, rón rén ...
+ Từ láy âm chưa xác định được quy tắc biến vần:
VD: đỏ đắn, trống trải, trắng trẻo, lập lòe, xôn xao, ...
- Từ láy vần: từ láy vần là từ láy trong đó phần vần trùng lặp ở hai âm tiết còn
phụ âm đầu khác biệt nhau. VD: lác đác, lon ton, ...
2. Từ láy ba
Số lượng từ láy ba trong Tiếng Việt không nhiều. Đó là những đơn vị
gồm có ba tiếng có sự hòa phối ngữ âm với nhau có sự hòa phối ngữ âm với
nhau. VD: cỏn còn con, dửng dừng dưng, khít khìn khịt, ...
Trong ba âm tiết tạo nên từ láy ba luôn có một âm tiết không có khả năng
sử dụng độc lập và có ý nghĩa từ vựng (tiếng gốc). Vì vậy, từ láy ba là kết quả
của hai lần lặp lại tiếng gốc bằng cách biến đổi thanh điệu theo những quy tắc
nhất định. Quy tắc biến đổi thanh điệu ở từ láy ba thường gặp là:
- Đối nhau về bằng – trắc: tiếng thứ hai của từ láy ba thường mang thanh
bằng. VD: dửng dừng dưng, tỉ tì ti, cỏn còn con, ...
- Đối nhau về âm vực: yếu tố thứ nhất và yếu tố thứ ba mang thanh điệu đối
lập nhau về âm vực. VD: khít khìn khịt, sạch sành sanh, , tóp tòm tọp, ...
3. Từ láy tư
11
Phần lớn các từ láy tư được tạo ra trên cơ sở những từ láy đôi bộ phận. Từ
láy tư có số lượng nhiều hơn hẳn từ láy ba. VD: bập bà bập bềnh, đủng đa đủng
đỉnh, vất va vất vưởng, ....
Từ láy tư khá đa dạng về kiểu láy. Có thể phân thành hai loại lớn: những
từ láy tư được cấu tạo trên cơ sở của từ láy đôi bộ phận; những từ láy tư được
cấu tạo không phải dựa trên cơ sở của từ láy đôi bộ phận.
- Cấu tạo trên cơ sở của từ láy đôi bộ phận, từ láy tư được chia thành năm
kiểu:
+ Kiểu 1: Lặp lại hai lần từ láy đôi cơ sở
VD: hấp tấp  hấp ta hấp tấp
bập bõm  bập bà bập bõm
Đại bộ phận từ láy tư được cấu tạo theo kiểu này. Trong kiểu láy tư này,
phần láy bao giờ cũng đứng trước phần gốc.
+ Kiểu 2: Lặp lại toàn bộ từ láy đôi cơ sở. Trong khi lặp lại, biến đổi thanh
điệu sao cho hai âm tiết đầu mang thanh điệu thuộc âm vực cao, hai âm tiết sau
mang thanh điệu thuộc âm vực thấp thường là: hỏi hỏi – huyền huyền, sắc sắc –
nặng nặng. VD: bổi hổi bồi hồi, loáng choáng loạng choạng ...
+ Kiểu 3: Hai tiếng của phần láy và hai tiếng ở phần gốc tách xen nhau theo
thế cặp đôi.
VD: xăng xít – lăng xăng lít xít Tải bản FULL (27 trang): https://bit.ly/3A3AX4h
Dự phòng: fb.com/TaiHo123doc.net
thơ thẩn – lơ thơ lẩn thẩn
+ Kiểu 4: Láy lại từng tiếng một của từ láy đôi cơ sở theo đúng thứ tự trong từ
láy đôi cơ sở theo mô hình AB  AABB
VD: hùng hổ - hùng hùng hổ hổ
vội vàng - vội vội vàng vàng
+ Kiểu 5: Ghép hai từ láy đôi bộ phận có ý nghĩa từ vựng tương ứng, gần gũi
nhau để tạo thành từ láy tư
VD: tẩn mẩn tần mần, lôi thôi lếch thếch, ...
- Những từ láy tư được cấu tạo không phải dựa trên cơ sở của từ láy đôi bộ
phận được chia làm hai kiểu:
12
+ Kiểu 1: kiểu ABAC
A là một từ đơn có nghĩa, còn BC là một khuôn láy mà kết hợp AB,AC
không có khả năng tồn tại riêng biệt nhưng khi ghép lại thành khối ABAC thì lại
có nghĩa của A với sắc thái do BC tạo nên.
VD: vắng – vắng ngơ vắng ngắt
buồn – buồn thỉu buồn thiu
+ Kiểu 2: Kiểu AABB
Trong kiểu này, AB là một từ ghép hoặc là một tổ hợp từ
VD: trùng điệp – trùng trùng điệp điệp
tầng lớp – tầng tầng lớp lớp
Ngoài ra, cũng còn những từ láy tư mang tính chất lẻ tẻ, chưa thành hệ
thống như : xinh xỉnh xình xinh, tí tị tì ti, teo tẻo tèo teo,....
1.2.2. Phân loại dựa vào nghĩa của từ láy
Lịch sử nghiên cứu từ láy Tiếng Việt đã chứng minh rằng phần lớn các
tác giả quan tâm đến việc phân loại và miêu tả từ láy theo tiêu chí thuộc về hình
thức cấu tạo của từ láy.
Cách phân loại từ láy dựa vào tiêu chí ngữ nghĩa những năm gần đây có
một số tác giả tiêu biểu như: Hoàng Tuệ, Đỗ Hữu Châu, Hoàng Văn Hành.
Hoàng Tuệ xem xét và phân loại từ láy dựa vào “ sự tương quan âm – nghĩa”
trong từ, tác giả chia từ láy thành ba nhóm khác nhau:
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3
Gồm những từ mô Đó là những từ bao Đó là những từ không bao
phỏng những tiếng vang gồm 1 âm tiết – hình vị gồm 1 âm tiết – hình vị
VD: oa oa, gâu gâu ,... VD: làm lụng, mạnh nhưng lại là những từ có
mẽ, lơ thơ, ... giá trị biểu cảm rất rõ
Là những từ có giá trị VD: lác đác, bâng khuâng,
ngữ pháp và biểu cảm ...

4150548
13

You might also like