Professional Documents
Culture Documents
Câu 1: Nguyên nhân hình thành Tiếng Việt và các vùng phương ngữ của nó?
1. Nguyên nhân:
- Nguyên nhân hình thành đc dựa trên sự phụ thuộc của 1000 năm Bắc thuộc,
đó là sự pha trộn giữa tiếng Hán và tiếng Việt Mường
Tiếng Việt là sự pha trộn giữa tiếng Hán và các thổ ngữ phương Nam trong đó tính
chất Hán mang tính chủ đạo, tức là nó giống như ngôn ngữ vùng Nam sông
Trường Giang hiện nay của Trung Quốc Tiếng Việt là sự pha trộn của Tiếng
Hán.
2. Các vùng phương ngữ:
- Việt – Chứt :
Nằm ở phía Đông, tồn tại cách đây 4000 năm.
Địa bàn: miền núi – Hà Tĩnh, Quảng Trị,Quảng Bình, Trung Lào.
- Tiền Việt – Mường:
Ước tính khoảng 3000-4000 năm trước đầu CN
Là bộ phận của người Việt – Chứt, vượt đèo và tản ra hướng Bắc của
các vùng thượng du Nghệ An, Thanh Hóa, Hòa Bình, Sơn La, Phú Thọ. Ở
đây đã có người Tày – Thái sinh sống
Xảy ra cuộc tiếp xúc lớn giữa Tày – Thái và Việt – Chứt trong đó yếu tố
Việt tỏ ra thắng thế.
Đối chiếu với lịch sử thì tương ứng với thời Hùng Vương (Phú Thọ)
- Việt Mường:
Một bộ phận của người tiền Việt – Mường vẫn ở lại địa bàn cũ sau
này trở thành các phương ngữ Mường ở vùng núi phía Bắc
Ở vùng đồng bằng và trung du lại càng bị ảnh hưởng của tiếng Tày –
Thái.
- Tiền Việt:
Sự pha trộn của tiếng Mường và tiếng Hán k đồng đều, nó rất mạnh ở
phương Bắc nhưng lại yếu ở phương Nam và vùng núi đến mức vùng bị
ảnh hưởng mạnh bị biến đổi thành ngôn ngữ mới, đặt tên là Tiền – Việt.
Cụ thể ảnh hưởng: các phụ âm cuối , đầu bị đơn giản hóa như tiếng
Hán và trở nên có thanh điệu một cách rõ rệt; các từ ngữ Hán hoặc là tiêu
diệt các từ Việt – Mường, hoặc là tồn tại cùng chúng; về ngữ pháp: trật tự
từ bị thay đổi
1
Đặng Thu Hòa – K58 Văn học CLC 2014
2 ngôn ngữ chia cắt nhau và phát triển theo 2 con đường khác nhau.
Như vậy, Tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ độc lập mới có cách đây
1200 năm.
- Việt cổ:
Từ thế kỉ X- XVI
Tiếng Việt ở Bắc Bộ mạnh lên và lan tỏa ở các vùng thiểu số ở xung
quanh và tiến dần vào miền trung – vốn là quê hương của nó.
Ảnh hưởng của tiếng Việt lên ngôn ngữ xuất phát vẫn mạnh ở đồng
bằng, yếu ở vùng núi và phương Nam.
Kết quả: + Vùng ĐB bị Việt hóa mạnh tiếng địa phương, gọi là
tiếng khu 4 cũ (Thanh Hóa Quảng Bình)
+ Vùng cao hơn do ít bị ảnh hưởng nên trở thành các thổ
ngữ mới của tiếng Mường.
+ Ở vùng cao hơn nữa không hoặc ít bị Việt hóa nên các
ngôn ngữ xa xưa vẫn còn tồn tại.
Lưu ý: + Vùng ven biển từ Quảng Bình đến Thừa Thiên Huế lúc này
vẫn là địa bàn của người Chăm khi Tiếng Việt bị lan tỏa đến đó biến
thành tiếng địa phương Bình Trị Thiên, khác với tiếng Thanh Nghệ, trung
tâm là Huế.
+ Do khát vọng phải có 1 thứ chữ viết để ghi lại tiếng nói dân
tộc nên cha ông ta đã xây dựng chữ Nôm. Sự kiện này đc coi là phát minh,
do có chữ Nôm mà tiếng Việt dần đc thống nhất và chuẩn hóa.
Tiếng Việt có từ thế kỉ VIII là sự kết hợp của sự nảy sinh ngôn ngữ do có
sự tiếp xúc với tiếng Hán.
- Giai đoạn Trung đại:
Từ TK XVIII giữa XIX: cho đến hết giai đoạn này Tiếng Việt đã
có các vùng phương ngữ như ngày nay và phát triển dần về phía Nam
theo con đường phát triển của dân tộc
Do tiếp xúc với tiếng Chăm ở phía Nam có thêm vùng phương ngữ
Trung và Nam Trung Bộ.
Do tiếp xúc với tiếng Khmer và Hoa có thêm 1 vùng phương ngữ
cuối cùng – Tiếng Việt Nam Bộ.
2
Đặng Thu Hòa – K58 Văn học CLC 2014
1. Nguyên lý chung:
- Âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất trong chuỗi lời nói. Dù chúng ta phát âm
nhanh chậm đến đâu thì phát âm nhanh, chậm đến âm tiết là cùng, mặc dù ai cũng
biết trong âm tiết còn có những yếu tố nhỏ hơn.
- Mỗi âm tiết ứng với một đoạn căng cơ, tức là mỗi khi cơ quan phát âm căng
lên rồi lại chùng xuống, bất kể yếu tố trong âm tiết ấy là ngôn ngữ gì.
Ví dụ: syllable – 3 âm tiết
[si – lơ – bồ]
Chỗ căng nhất gọi là đỉnh âm tiết, chỗ chùng nhất gọi là ranh giới âm tiết.
- Vì là đơn vị phát âm nhỉ nhất cho nên âm tiết không liên quan đến ý nghĩa
ranh giới âm tiết có thể bị biến động chứ không phải cố định.
3
Đặng Thu Hòa – K58 Văn học CLC 2014
+ Ở những từ này cũng có một âm tiết tự thân vô nghĩa nhưng sự thật nó vẫn
có nghĩa, trong quá trình lịch sử bị phai mờ. Muốn tìm nghĩa của từ ta phải tìm
trong các ngôn ngữ thân thuộc (Khmer, Mường ...)
4
Đặng Thu Hòa – K58 Văn học CLC 2014
Ở bậc I, các thành phần kết hợp với nhau 1 cách lỏng lẻo người ta tìm
được rất nhiều sự kiện để chia tách chúng. Chữ Hán và chữ Nôm được xây dựng
trên cơ sở này, chỉ đến khi có chữ Quốc ngữ thì phần vần mới được thể hiện.
+ Có rất nhiều các biểu tượng ngữ âm, ngữ nghĩa liên quan đến 3 thành phần ở
bậc I. Tức là các bộ phận này có thể tạo ra những nhóm ý nghĩa, mà ý nghĩa lại là
đặc trưng của hình vị.
+ Phụ âm đầu:
“h” trong nhóm “hơi...” đặc trưng cho các bộ phận hô hấp
“m” trong nhóm “môi...” đặc trưng cho các bộ phận trên khuôn mặt
+ Vần:
“um” trong nhóm “um tùm, khúm núm, ...” toát lên ý nghĩa đặc trưng
tập trung tại 1 điểm.
“ênh ang” trong nhóm “mênh mang, thênh thang, ...”
+ Đối với thanh điệu cũng vậy, ví dụ thanh trắc là gồm những đại từ chỉ định
ở phía xa (ấy, đấy, đó,...), thanh bằng chỉ định ở gần. Thanh điệu góp phần quan
trọng tạo nên các hiện tượng dân gian nghệ thuật, v..v
5
Đặng Thu Hòa – K58 Văn học CLC 2014
Câu 4: Nêu vắn tắt các khái niệm âm tiết, hình vị, tiếng:
1. Âm tiết:
- Câu trả lời cho vấn đề “âm tiết là gì?” không phải chỉ có một, bởi lẽ, cái thực
thể mà chúng ta gọi là “âm tiết” đó có thể được nhìn nhận từ những bình diện
không giống nhau.
Từ bình diện cấu âm mà xét, âm tiết đã từng được “cắt nghĩa” bằng học
thuyết về độ vang và học thuyết về độ căng cơ.
Từ bình diện cấu trúc và chức năng, có thể định nghĩa: Âm tiết là đơn vị của
lời nói bao gồm ít nhất một nguyên âm làm hạt nhân và một phụ âm hoặc tổ hợp
phụ âm đứng trước, hoặc đứng sau, hoặc đồng thời vừa có đứng trước, vừa có
đứng sau hạt nhân đó. Ví dụ: các âm tiết: a – ai – cô – học – tập ....
- Có thể đưa ra một định nghĩa chung nhất về “âm tiết”: là đơn vị phát âm nhỏ
nhất trong chuỗi lới nói. Mỗi âm tiết ứng với một đợt căng cơ, tức là mỗi khi cơ
quan phát âm căng lên rồi lại chùng xuống, bất kể yếu tố trong âm tiết ấy là ngôn
ngữ gì.
2. Hình vị:
- Trong ngôn ngữ học, một hình vị là đơn vị ngữ pháp nhỏ nhất của một ngôn
ngữ. Lĩnh vực nghiên cứu hình vị là hình vị học. Hình vị không giống như một từ,
6
Đặng Thu Hòa – K58 Văn học CLC 2014
và sự khác nhau giữ hai khái niệm trên là hình vị có thể đứng một mình hoặc
không, trong khi đó một từ, theo định nghĩa, có thể đứng một mình.
- Hình vị (thuật ngữ Tiếng Anh: morpheme) là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có
nghĩa và có giá trị (chức năng) về mặt ngữ pháp.
- Trong các ngôn ngữ đơn lập, âm tiết được phân lập một cách rõ ràng: nói
thành tiếng, viết thành một chữ. Âm tiết thường trùng với hình vị
3. Tiếng:
- Việc nghiên cứu ngôn ngữ thực ra là việc nghiên cứu vỏ âm thanh và ngữ
nghĩa của nó. Trong vỏ âm thanh, có một khái niệm mà chỉ xuất hiện ở các ngôn
ngữ đơn lập – đó là “tiếng”.
- Tiếng là đơn vị phát âm tự nhiên nhỏ nhất. Trong Tiếng Việt, có một loại
đơn vị xưa nay ngừơi ta thường quen gọi là “tiếng”, “tiếng một” hay “chữ”. VD:
ăn, đi, nói, và, nhưng, yêu, đã, thiên, địa,…
- Gọi loại đơn vị này là “tiếng” tức là căn cứ vào ngữ âm (mặt nghe đuợc), gọi
là “chữ” tức là căn cứ vào mặt văn tự (mặt thấy đuợc). Cái thấy được là cái để ghi
cái nghe đuợc.
- Về phuơng diện phát âm của tiếng, mỗi tiếng bao giờ cũng phát ra bằng một
hơi, tương ứng với một đợt căng cơ thịt bộ máy phát âm, tương ứng với một lần
tăng – giảm độ vang, và mang một thanh điệu nhất định _ “tiếng” tức là âm tiết.
- Về mặt chữ viết, từ chữ Nôm truớc kia đến chữ Quốc ngữ hiện nay, mỗi
tiếng bao giờ cũng viết rời ra thành từng chữ một. Đối với người học tiếng Việt,
khi đứng truớc một câu văn hay câu thơ, muốn xác định có bao nhiêu tiếng là điều
không hề khó. Sự tương ứng giữa tiếng và chữ khiến cho việc học tiếng việt dễ
dàng hơn.
Tóm lại:
Thuật ngữ âm tiết để chỉ đơn vị phát âm nhỏ nhất.
Trong từ và ngữ pháp ta có hình vị được coi là đơn vị nhỏ nhất có ý nghĩa
và có giá trị ngữ pháp.
Khi đem các tiêu chuẩn của hình vị áp dụng vào trong TV thì ta thấy
chúng tương đương với âm tiết.
Các nhà từ vựng và ngữ pháp muốn tránh dùng thuật ngữ âm tiết vốn là
của ngữ âm nên đặt tên mới theo cách gọi dân gian là tiếng.
Câu 5: Tại sao nói “tiếng là một đơn vị trung gian giữa từ và hình vị?
- Tính trung gian thể hiện ở 2 việc:
7
Đặng Thu Hòa – K58 Văn học CLC 2014
2. Những tiếng không làm từ đơn được nhưng chúng vẫn gần gũi với từ
đơn bởi hai lẽ:
+ Về hình thức chúng có cấu tạo giống hệt từ đơn thậm chí nhiều trường hợp
nó đồng âm với những từ khác.
+ Đằng sau những tiếng này vẫn tiềm tàng khả năng trở thành từ đơn. Trong 1
hoàn cảnh nào đó và khả năng tiềm tàng này diễn ra ở tất cả các kiểu từ.
- Tiếng là loại hình vị chưa đặc biệt chưa đối lập hẳn với từ, 1 số rất lớn còn là
từ, 1 số tuy không phải là từ nhưng vaaxb mang nhiều dáng dấp của từ.
- Tiếng là đơn vị tự nhiên nhất theo nguyên lý ngôn ngữ thì từ mới là đợn vị
cơ bản, tự nhiên nhất. Hình vị thì chỉ các nhà KH mới biết. trái lại trong TV từ là
đơn vị rất khó nhận diện thậm chí các nhà chuyên môn sâu chưa chắc đã thống
nhất được với nhau. VD: hoa hồng
Câu 6: Tiếng chi phối các tập quán ngữ văn gì?
8
Đặng Thu Hòa – K58 Văn học CLC 2014
- Rõ ràng nguyên nhân của tập quán này xuất phát từ đặc điểm của tiếng –
đơn vị cơ bản của Tiếng Việt.
2. Tập quán sáng tạo thơ ca:
- Sở dĩ việc sáng tạo thơ ca là rất dễ dàng với người Việt, trong lúc đó lại vô
cùng khó khăn với các dân tộc khác. Bởi vì đơn vị gieo vần là các tiếng chứ không
phải các từ. Nếu lấy từ làm đơn vị gieo vẫn thì rất khó khăn nhưng với tiếng lại rất
đơn giản, nhiều khi người ta “hi sinh” từ mà sự hòa âm vẫn còn, thậm chí rất hay
(thơ bút tre,...). Từ đó các nói có vần đc coi là một phong cách căn cước.
3. Tập quán viết tắt nhưng không nói tắt
- Từ khi có chữ quốc ngữ, người Việt có lối viết tắt theo kiểu phương Tây –
viết tắt phụ âm đầu. Nhưng rất tiếc việc này chỉ dừng lại ở viết mà không thể nói
tắt đc. Người Việt quan niệm rằng hễ phát âm là phát âm ra tiếng. Tuy nhiên, đối
với những tên tắt quá nổi tiếng thì có thể nói tắt đc (VTC, VOV, VTV,...). Vì thế
có cách viết thuần Việt là viết kèm nguyên âm: Vinataba, tocontap,... nhưng cách
viết này gặp phải trở ngại vì tiếng Việt có nhiều dấu phụ không thể viết tắt cùng
dấu của nó nên nó lại thành không có nghĩa hoặc dễ bị suy diễn do người Việt có
thói quen tri nhận tiếng phải có nghĩa phản tác dụng.
4. Gọi tên riêng
- Dưới ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, các tên riêng kể cả tên người và
tên đất có xu thế song tiết (nhiều tiếng, đa tiết,...) Bản chất của Tiếng Việt là tiếng
cho nên những tên này tiềm tàng khả năng trở thành tiếng đơn ( xứ Thanh, xứ
Lạng, xứ Nghệ,...)
* Ngoài ra còn có các tập quán: làm câu đối, chơi chữ, nói lái, tập Kiều, chế
nhạc,... cũng đều xuất phát từ đặc điểm của tiếng, đó là các tiếng đều có nghĩa
như từ, có khi không phải là từ nhưng vẫn gần gũi với từ.
9
Đặng Thu Hòa – K58 Văn học CLC 2014
- Trong công cuộc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt phải đặc biệt lưu ý tới
lớp từ này ở 3 điểm:
Không nên có thái độ bài trừ vì có thời đã lầm tưởng. Bởi vì từ Hán – Việt
có tác dụng rất riêng trong nhiều lĩnh vực
Ví dụ: trong các văn bản pháp lý, chính trị,...
Tránh việc quá lạm dụng từ Hán – Việt khi mà từ thuần Việt đã đáp ứng đủ
nhu cầu và tư duy.
Chú ý tránh những kết hợp Hán – Việt dễ gây mơ hồ.
e /ɛ/ ph /f/
ê /e/ kh /x/
g, gh /Ɣ/ ch /c/
h /h/ tr /ct/
i /j/ x /s/
l /l/ th /th/
m /m/ ng/ngh /ŋ/
n /n/ v /v/
n /ɔ/ nh //
11