You are on page 1of 7

Ti u ban 4: Văn hóa trong hot ñng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp

TỪ HÁN VIỆT TRONG TIẾNG VIỆT VÀ VĂN HÓA HÁN NÔM


Đinh Kh
c Thuân
Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Tóm t
t: Hán Nôm là chữ Hán và chữ Nôm ñược song song với sự phát triển của tiếng Hán ở chính
người Việt sử dụng trong suốt chiều dài lịch sử của dân Trung Quốc thời ñó. Từ năm 938, bằng chiến
tộc, nhờ ñó mà ñã ñể lại cho ngày nay một kho tàng di thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền, Việt Nam ñã
sản Hán Nôm ñồ sộ và quý giá, trong ñó có từ Hán Việt ñộc lập và không còn lệ thuộc vào phương Bắc
và văn hóa Hán Nôm. nữa, nhưng ngôn ngữ vẫn còn bị ảnh hưởng của
tiếng Hán. Sau ngày giành ñược ñộc lập, mặc dù
Bài viết này giới thiệu khái quát về từ Hán Việt trong
tiếng Hán là ngôn ngữ ñược sử dụng chính thức,
tiếng Việt và di sản văn hóa Hán Nôm, cũng như vấn
nhưng ñã phát triển theo hướng khác với sự phát
ñề giảng dạy tiếng Việt và văn hóa Hán Nôm trong nhà
triển tiếng Hán ở Trung Quốc. Tiếng Hán vẫn tiếp
trường hiện nay.
tục ñược dùng và phát triển, nhưng cách phát âm
Abstract: Sino-Nom is made by Sino and Nom
các chữ Hán lại theo cách phát âm của người Việt,
letters and used by Vietnamese throughout the history
nên chúng ta có âm Hán Việt. Do nhu cầu phát
of the nation. This has left a bulky and valuable
triển của tiếng Việt, tiếng nói của dân tộc, người
heritage treasure of Sino-Nom including Sino-
Việt Nam ñã sử dụng chữ Hán ñể tạo ra chữ viết
Vietnamese words and Sino-Nom culture.
cho chính mình. Vì thế, chữ viết của người Việt
This article introduces an overview of Sino- dựa trên chữ Hán ñã ra ñời.
Vietnamese vocabulary in the Vietnamese and and
Từ Hán Việt không chỉ góp phần làm cho tiếng
Sino-Nom culture in colleges and universities. Việt phong phú thêm về số lượng từ vựng mà còn
1. Khái quát về từ Hán Việt trong tiếng Việt làm phong phú thêm các sắc thái ý nghĩa trừu
Chữ Hán và tiếng Hán ñược du nhập vào Việt tượng, sắc thái biểu cảm trong phong cách. Bởi lẽ
Nam từ thời Bắc thuộc ở những năm ñầu Công những yếu tố tiếng Hán khi du nhập vào tiếng Việt
nguyên. Sau ñó, chữ Hán tiếp tục ñược người Việt thành từ Hán Việt không những ñược Việt hóa về
sử dụng làm văn tự của mình. Khoa thi chữ Hán âm ñọc mà ñược Việt hóa cả ý nghĩa và sắc thái
cuối cùng ở Việt Nam mặc dù ñược tổ chức vào biểu cảm, tạo nên những ñặc tính mới mà trong
năm 1919, song việc học tập, ghi chép bằng chữ nghĩa gốc của từ Hán không có.
Hán vẫn kéo dài ñến trước Cách mạng tháng Tám Từ Hán Việt chiếm tỉ lệ lớn trong từ vựng tiếng
năm 1945, ñành rằng phạm vi và mức ñộ có thu Việt hiện nay. Thể hiện nhiều lớp từ khác nhau,
hẹp hơn nhiều so với trước. Song hành với chữ như một số trường hợp sau:
Hán là chữ Nôm ñược người Việt Nam sử dụng - Lớp từ ñã Việt hóa: cổ Hán Việt: chè (trà),
trong suốt tiến trình lịch sử. Nhờ ñó mà ñã ñể lại tìm (tầm), mùa (vụ), mùi (vị). Việt hóa ngữ âm:
một kho tàng di sản Hán Nôm ñồ sộ và quý giá. gan (can).
Một trong những thành phẩm của kho tàng di sản
- Lớp từ có yếu tố Hán Việt ñược hình thành
Hán Nôm này là từ Hán Việt trong tiếng Việt và
trong lòng tiếng Việt kết hợp với 1 hay 2 yếu tố
văn hóa Hán Nôm trong di sản văn hóa dân tộc.
thuần Việt, như: học trò, nhà giáo, chung cuộc.
Người Việt Nam tiếp thu tiếng Hán và chữ Hán,
ñồng thời ñã Việt hóa nhiều từ của tiếng Hán Từ thuộc ngôn ngữ ñồng văn: cán bộ, phục vụ,
thành từ tiếng Việt, gọi là từ Hán Việt. Có rất ñại bản doanh, ñiều chế (nguồn gốc từ Nhật Bản).
nhiều từ Hán Việt ñã ñi vào trong từ vựng của Phiên âm Hán Việt từ chữ Hán: châu Âu, ba lô,
tiếng Việt. Sự phát triển của tiếng Hán ở Việt Mạc tư khoa. Nguồn gốc từ chữ Phạn: bát nhã, xá
Nam trong thời kỳ Bắc thuộc (trước thế kỷ thứ X) lị, Niết bàn, Bồ ñề.

636
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014

Sản sinh yếu tố mới trong tiếng Việt do kết hợp của từ Hán Việt, mà tiếng Việt ñược phong phú
từ Hán Việt, như: y sĩ, bộ ñội, công an, giáo viên, thêm. Trong kho từ vựng tiếng Việt, thì từ Hán
ñồng chí, thập kỷ, vĩ mô, vi tính. Việt không những không thể bỏ ñi ñược, mà
ngược lại còn là kho dự trữ ứng phó khái niệm
Thuật ngữ Hán Việt có ưu thế mạnh khi sử
mới như vi mô, sinh quyển, hóa thân, hoàn vũ,
dụng không thể thay từ thuần Việt, như: bình luận,
kích cầu,... Đồng thời còn thường trực tạo ra từ
thẩm mỹ, di truyền, lạm phát, thặng dư, môi sinh.
mới: học ñường - ma túy học ñường, nhà ñất - ñịa
Thuật ngữ Hán Việt thuộc phong cách viết như
ốc, xâm thực (sạt lở, xói mòn) - sóng biển làm lở,
bác học, trang trọng như phu nhân/vợ, công
lâm tặc, ñinh tặc, v.v..
chúa/con gái,...
Đó là ưu thế và lợi ích do từ Hán Việt góp
Thuật ngữ Hán Việt có ưu thế sử dụng khi là từ
phần làm phong phú hơn từ tiếng Việt. Trái lại,
Hán Việt mà tiếng Việt không có từ thay thế,
cũng có những trở ngại khi sử dụng từ Hán Việt.
chẳng hạn các từ: ñạo ñức, văn hiến, xã hội, kinh
Đó là trường hợp một số từ ghép Hán Việt vào
tế, nhân dân, tổ quốc,...
tiếng Việt ñã biến ñổi ý nghĩa vốn có của chúng,
Do tính chất cố ñịnh, ña nghĩa và trừu tượng sắc thái tu từ cũng thay ñổi, chẳng hạn như:
Từ Hán Việt Nghĩa gốc Hán Nghĩa ñược hiểu trong tiếng Việt
tử tế tỉ mỉ tốt bụng
khốn nạn khó khăn xấu xa
thiết tha gọt mài tình cảm
ñáo ñể ñến cùng xấu
vấn nạn vặn hỏi lẽ khó khăn vấn ñề nan giải (như vấn nạn tham nhũng)
thắng, chiêu hiền ñãi sĩ, vạn sự khởi ñầu nan,
Từ Hán Việt giống nhau ý nghĩa thuần Việt,
trường sinh bất lão, vô danh tiểu tốt, tứ hải giai
nhưng sắc thái biến cải, như: chết-hy sinh/tạ thế-từ
huynh ñệ, tham quyền cố vị, v.v..
trần, xác chết/thi hài, giặc lái Mỹ/phi công Mỹ.
Cũng không hiếm khi thành ngữ Hán Việt
Trong tiếng Việt còn có không ít thành ngữ
ñược dịch nghĩa ñể trở thành thành ngữ Việt, hoặc
Hán Việt, trong ñó có khá nhiều thành ngữ sử
thành ngữ Hán Việt ngẫu nhiên trùng nghĩa với
dụng các ñiển cố văn học, là các tích truyện xưa
một thành ngữ do người Việt sáng tạo. Những
có giá trị giáo dục và ý nghĩa lịch sử sâu sắc.
thành ngữ Hán Việt chuyển hóa thành thành ngữ
Chẳng hạn thành ngữ “Mài sắt nên kim”, vốn
thuần Việt tuy thường xuyên ñược sử dụng trong
ñược diễn dịch từ thành ngữ “Ma chử thành
tiếng Việt, nhưng nếu không dịch ra thì rất khó
châm” (Mài chầy nên kim) của Trung Quốc.
hiểu, trúc trắc về mặt ngôn từ, chẳng hạn: Kính
Thành ngữ này có xuất xứ từ truyện xưa: Lý Bạch
chẳng bất phiền, nghĩa là Cung kính chẳng bõ
hồi nhỏ rất lười học, ham chơi. Một buổi ñi chơi
phiền; Cung kính bất như tòng mệnh, nghĩa là
thấy một bà lão suốt ngày ngồi cặm cụi cầm chiếc
Cung kính không bằng tuân lệnh; Tri kỉ tri bỉ,
chày sắt mài ñi mài lại. Lý hỏi làm thế ñể làm gì,
nghĩa là Biết mình biết người, v.v..
bà lão trả lời rằng, mài cho thành chiếc kim khâu.
Nhân ñó, Lý Bạch tỉnh ngộ và chăm chỉ học hành, Những ñặc ñiểm trên về từ Hán Việt vừa mang
về sau trở thành nhà thơ lớn của Trung Quốc cổ ñại. lại lợi ích to lớn cho tiếng Việt, song cũng ñể lại
biết bao trở ngại cho việc sử dụng tiếng Việt, nhất
Thành ngữ Hán Việt thường ñược sử dụng
là việc giảng dạy, học tập tiếng Việt, cũng như
nguyên bản từ gốc Hán nếu ñó là thành ngữ có
lịch sử văn hóa truyền thống Việt Nam, khi mà
những từ Hán Việt tương ñối dễ hiểu, phổ thông
chữ Hán ñã lùi xa vào dĩ vãng.
với ña số, như tâm ñầu ý hợp, bách chiến bách

637
Ti u ban 4: Văn hóa trong hot ñng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp

2. Từ Hán Việt trong sách vở và giao lưu Thậm chí hai từ trí sĩ 致仕 và chí sĩ志士 ai
hàng ngày cũng biết, nhưng hiểu cho ñúng nghĩa gốc và ý
Lượng từ Hán Việt xuất hiện nhiều trong sách nghĩa hai từ này thì không phải ai cũng lí giải
vở, kể cả trong sách giáo khoa dạy tiếng Việt và 致
ñược. Trong cụm từ Trí sĩ, thì “trí” nghĩa gốc là
dạy văn cho học sinh người Việt và người nước ñến, còn “sĩ” 仕 nghĩa là làm quan, chỉ việc làm
ngoài, ñồng thời xuất hiện khá phổ biến trong giao quan ñã ñến lúc nghỉ, và nghĩa của hai từ này là
tiếp hàng này. Tuy nhiên, không phải trường hợp nghỉ quan, tức nghỉ hưu, tương ñương từ Hưu trí:
nào cũng ñược giải thích ñầy ñủ, ñúng với ý nghĩa hưu là nghỉ, trí là ñến, tức là ñến lúc nghỉ hưu.
của nó. Xin ñiểm ra một vài trường hợp sau ñây. Còn Chí sĩ, thì “chí” 志 là chí hướng, “sĩ” 士 là
người, ý chỉ người có chí hướng, như Chí sĩ Phan
Từ Hán Việt trong sách giáo khoa ñược ñề cập ở Bội Châu, Phan Châu Trinh,... Vì thế mà từ “Hưu
ñây không chỉ ở bậc phổ thông trung học mà còn ở trí” trong tiếng Việt không ñược viết là “Hưu chí”.
cả bậc phổ thông cơ sở. Từ Hán Việt không phải chỉ
xuất hiện ở bài văn, thơ chữ Hán mà ngay trong Trong nghiên cứu gần ñây của chúng tôi về hai
bài thơ văn tiếng Việt. chữ Hoa Lư, thấy rằng ñã có hai chữ Hoa Lư ñược
viết bằng chữ Hán khác nhau. Một là Hoa Lư 華
Chẳng hạn, sách Văn học lớp 6 (Phổ thông cơ
sở) tập 1 trích giảng bài “Dế mèn phiêu lưu kí” có
閭 , trong ñó Lư là làng xóm, còn Hoa là Hoa Hạ, ý
chỉ nơi ñây có nhiều làng xóm, cư dân văn minh,
tới 372 từ Hán Việt. Các từ Hán Việt thường xuất
nơi ñây cũng vốn từng có nhiều người Hoa sinh
hiện các trường hợp sau:
sống trước khi nhà Đinh xây dựng kinh ñô Hoa Lư.
- Các từ ñồng âm: chư quân (các ông, các ngài, Hai là Hoa Lư 花蘆 , trong ñó Lư là lau, cỏ lau,
quân ñội, chư hầu), thiên tư (lệch theo tình cảm còn hoa là hoa lá, ý chỉ nơi có nhiều hoa cỏ lau.
riêng, tính chất sinh ra vốn có). Điều ñặc biệt là từ Hoa Lư là hoa lau này lại xuất
- Các từ liên hệ ñến ñiển tích, ñiển cố, phong hiện ở trên văn bia và thần tích các làng xã quê
tục xưa: thu không, tang hải, can qua, lữ thứ, quan nội và quê ngoại của Đinh Bộ Lĩnh, nơi gắn với
lang, thủ xướng. câu chuyện cờ lau tập trận của Đinh Bộ Lĩnh khi
còn là trẻ trâu. Nơi ñây hiện còn nhiều ñịa danh,
- Các câu cách ngôn, thành ngữ Hán Việt: nhất
truyền ngôn như Thung Lá, Thung Lau, Cầu Mổ
nhật tại tù, thâm sơn cùng cốc, khổ tận cam lai,...
(nơi mổ trâu khao quân),... gắn với câu chuyện
Việc giải thích những từ ngữ này không hề ñơn này. Ngược lại từ Hoa Lư có nghĩa là nơi làng
giản. Chính vì thế mà học sinh từng hiểu sai dẫn xóm phồn vinh thì chủ yếu sử dụng ở khu cố ñô
ñến làm bài lạc ñề. Đó là từ cam lai trong khổ tận Hoa Lư. Điều này nếu không nghiên cứu sâu chữ
cam lai, ñã bị nhầm lẫn sang thuật ngữ cam lai, Hán thì khó có thể phân biệt ñược như vậy.
cam ghép. Canh gà Thọ Xương, cũng bị bàn luận
Một số giải thích từ tiếng Việt trong Từ ñiển
thành món canh thịt gà của làng Thọ Xương, thì
tiếng Việt cũng có những hạn chế nhất ñịnh.
thật quả là không thể không suy nghĩ.
Chẳng hạn, Từ ñiển tiếng Việt giải thích từ Ngu
Ngoài ra là không ít từ tiếng Việt thường dùng, dân là ñần ñộn là chưa ñủ bởi nó có ý là làm dân
nhưng rất khó hiểu như: vong quốc, ai hoài, nhũng ngu ñi. Hoa liễu: giải thích là bệnh lậu, nhưng là
lạm. Trường hợp khác, cũng rất khó giải thích hoa và liễu. Dân túy không phải thuần túy là túy là
như: lâu ñài, tài chính, bổ nhiệm, sĩ quan. Đô hộ, say mà túy tinh hoa.
chính kiến, Lạc Việt, bộ lạc, di chúc. Xứ, nhuệ khí,
Từ "Vi ñiện tử" ñược dịch là hạt ñiện tử rất nhỏ,
tương phùng, công ñường, hoa lợi, sĩ tốt, tiếm
là không ổn. Bởi từ "micro-éléctronique" trong
quyền, ngụ cư, bi kịch, bác sĩ,... Trường hợp ñặt
tiếng Pháp chỉ vai trò tính từ nha mạch vi ñiện tử,
quốc hiệu Đại Ngu của nhà Hồ không phải không
thiết bị vi ñiện tử ñể chỉ mạch ñiện tử, hoặc thiết
gây phiền hà cho không ít người ngày nay khi lý
bị ñiện tử có kích thước cực nhỏ.
giải từ này.

638
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014

Những từ Hán Việt khác ñược giải thích hoàn Hiện tượng xung khắc từ ñồng âm giữa âm
toàn sai, như yếu ñiểm: ñiểm mạnh, yếu nhân Hán Việt và âm thuần Việt cũng là rào cản ñối với
(người quan trọng), giải thích thành nhược ñiểm. việc hiểu và sử dụng tiếng Việt. Ở ñây thường xảy
Báo cáo thành bá cáo, giả thiết với giả thuyết, ra tình trạng khó có thể phân biệt ñược ñâu là yếu
chân tu với trân tu, bàng bạc với bàn bạc, bàng tố gốc Hán, ñâu là từ ñơn tiếng Việt, chẳng hạn:
hoàng với bàn hoàn, bàng quan với bàng quang. ñông (Hán Việt: hướng ñông), ñông (Hán Việt -
Khi viết cũng sai, như huyên thiên thành huyên mùa ñông), ñông (Hán Việt: ñông trùng) và ñông
thuyên, phong thanh thành phong phanh, xán lạn trong tiếng Việt (ñông ñúc, ñông ñặc, máu ñông,
và sáng lạng, câu kết và cấu kết, vô hình trung và số ñông); hay lang (Hán Việt - con trai), lang (Hán
vô hình chung, v.v.. Việt - chó sói), lang (Hán Việt: chái nhà, ñường ñi
trong nhà), lang (Hán Việt - lang thang) và lang
Dùng từ Hán Việt ghép sai vị trí âm tiết dẫn
trong tiếng Việt (lang ben, lang sống, khoai lang,
ñến lẫn nghĩa: yếu ñiểm/ñiểm yếu, công lao/lao
thầy lang). Trong trường hợp này, người biết chữ
công, sính lễ/sinh lý. Môn ñăng hộ ñối thực ra là
Hán sẽ khu biệt những từ ñồng âm trên một cách
Môn ñăng hậu ñối.
dễ dàng.
Trong các di tích ở làng xã ñược tu bổ, viết lại
Người dạy văn, cũng như dạy tiếng Việt ngày
chữ Hán thì viết nhầm do chữ ñồng âm, như: lệ
nay khi gặp những bài thơ, văn chữ Hán, thì chủ
lâm nghĩa là rừng vải thì viết lệ nghĩa là rơi nước
yếu ñi sâu phân tích nội dung, nghệ thuật tác
mắt. Thánh cung vạn tuế viết thành Thánh cung
phẩm thông qua phần dịch nghĩa tác phẩm ñó, chứ
cùng tuế. Lạc Việt: chim lạc viết thành lạc: khoái
hiểu ñúng tinh thần ý nghĩa câu, chữ Hán nguyên
lạc, phong châu phong viết chữ phong là gió. Khu
văn còn rất hạn chế. Vì thế mà ñã hiểu sai lệch nội
tưởng niệm nhà Mạc ở Hải Phòng viết câu ñối tiểu
nhi ñồng 而同 , nghĩa là các chi nhỏ nhưng cùng
dung và ý nghĩa nguyên bản. Tiêu biểu trong ñó là
古詩偏愛
gốc, thì viết nhi ñồng兒童 là trẻ con.
câu thơ “Cổ thi thiên ái thiên nhiên mỹ
天然美 ” trong bài thơ “Khán thiên gia thi hữu
Một trở ngại phổ biến hiện nay là từ Hán Việt cảm” trong “Nhật ký trong tù” của Chủ tịch Hồ
ñồng âm. Hiện tượng ñồng âm cho thấy tính chất Chí Minh. Câu thơ này ñược dịch trong các sách
phức tạp về quan hệ ngữ nghĩa của từ trong khi sử giáo khoa dạy văn học là “Thơ xưa yêu cảnh thiên
dụng. Đặc biệt hiện tượng ñồng âm giữa các âm nhiên ñẹp”. Qua lời dịch câu thơ có thể hiểu ñúng
tiết Hán Việt như: công 工 (thợ), công 公 (không là thơ xưa của các nhà Nho chỉ thuần tuý miêu tả
tư vị, chung), công 功 (sức bỏ ra, sự khó nhọc), cảnh ñẹp thiên nhiên, gắn với núi sông, trăng gió,
công 攻 (ñánh, trừng trị) tham gia cấu tạo các từ khói mây, hoa lá mà hoàn toàn không ñả ñộng ñến
Hán Việt có yếu tố công: công an, công bố, công nhân sinh, ý chí, hiện thực xã hội. Cái chính là ñã
binh, công bộc, công chúa, công chức, công ñoàn, không nắm ñược cái cốt lõi nhất của câu thơ chính
công hiệu, công hàm, công nghệ, công nhận, công 偏
văn là chữ “thiên ” (nghĩa là nghiêng, thiên lệch,
nhật, công kích, phản công, phi công, công thành, 天
chứ không phải “thiên” là thiên nhiên). Và như
công thần, công ty, công bố v.v.. vậy cần hiểu ñúng là: thơ xưa nghiêng về việc tả
Các yếu tố gốc Hán “công” nêu trên là hiện cảnh thiên nhiên ñẹp, chứ không thuần nhất chỉ có
tượng chữ Hán ñồng âm, khác dạng chữ nên nghĩa thiên nhiên không thôi. Câu thơ của vua Lê Thánh
của chúng khác nhau. Đối với người Việt không Tông thế kỷ XV viết về Nguyễn Trãi là “Ức Trai
học chữ Hán khó mà phân biệt, giải nghĩa các từ tâm thượng quang khuê tảo”, ñược dịch là “Văn
Hán Việt có cùng yếu tố “công” một cách rành chương Nguyễn Trãi lòng soi sáng” hoàn toàn
mạch và có sức thuyết phục. Trong Hoàng thành không ñúng, mà phải hiểu là “Ức Trai trong lòng
Thăng Long xưa có ñiện Long Trì 龍墀 với nghĩa rạng vẻ văn chương”, bởi “khuê tảo” 奎藻 chỉ văn
là thềm rồng thì ñược giải thích là ñầm rồng do chương, chứ không phải chỉ ngôi sao buổi sáng 奎早 .

hiểu nhầm chữ trì là thềm thành trì là ao ñầm.

639
Ti u ban 4: Văn hóa trong hot ñng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp

Ngoài ra, còn không ít trường hợp ñã dịch ra tâm là những yếu tố gốc Hán. Đây là vốn kiến
tiếng Việt rồi, nhưng chưa hiểu hết ý nghĩa sâu xa thức bắt buộc mà người dạy học cần hiểu chúng
của nó. Chẳng hạn, ở ñền Ngọc sơn có chữ: Ngọc một cách thấu ñáo.
ư tư (ñược giải thích là: ngọc ở ñây, hiểu ra là ở Các yếu tố gốc Hán ñược xác ñịnh là một âm
hồ Hoàn Kiếm có ngọc), thực ra nghĩa của nó là tiết có vai trò như những mắt xích, có khả năng
“ngọc ở trong hòm, bán hay không bán” ñiển tích liên kết với các yếu tố khác tạo nên nhiều từ mới,
từ học trò Khổng Tử là Tử Cống, ý chỉ không ví dụ: yếu tố tặc: giặc > không tặc, hải tặc, thuỷ
muốn ñể tài ñức người hiền mai một, không phí tặc, lâm tặc, tin tặc…
hoài nguyên khí quốc gia. Tại Văn Miếu cũng có
từ “Văn tại tư”, nghĩa là: văn ở ñây, câu chữ của Mặt khác, trong tiếng Việt nếu thiếu chúng sẽ
Khổng Tử có ý trấn an tinh thần môn sinh lúc bị không thể phiên dịch những thuật ngữ từ ngoại lai
người Khuôn vây hãm. mà trong tiếng Việt không có từ tương ứng. Cần
nhất mạnh rằng, trong thời kỳ mở cửa, hội nhập
Tại ñền Hùng, có bức ñại tự: “Cao sơn cảnh
với thế giới, số lượng thuật ngữ, từ mới nhập vào
hàng”, ñược ñọc và giải thích khác nhau, thực ra
tiếng Việt khá nhiều. Đó chính là cơ hội cho
là lấy chữ trong Kinh Thi: Cao sơn ngưỡng chỉ,
những yếu gốc Hán phát huy tác dụng của chúng,
cảnh hàng hành chỉ (Núi cao thì có thể ngẩng
làm phong phú thêm cho kho tàng tiếng Việt.
trông lên. Con ñường lớn thì có thể ñi ñược). Ý
chỉ ân ñức vua Hùng khiến người sau càng ngước Những yếu tố gốc Hán ñã, ñang và sẽ chiếm vị
lên càng thấy lớn lao. trí ñáng kể trong sự vận ñộng phát triển của tiếng
Việt. Chính vì vậy, việc giáo viên dạy Văn và
Tại ñình làng Mỹ Hạ xã Gia Phương huyện
tiếng Việt bậc phổ thông, kể cả việc dạy tiếng Việt
Nho Quan tỉnh Ninh Bình thờ Đinh Tiên Hoàng
cho người nước ngoài cần tích luỹ vốn chữ Hán
có bức ñại tự: “Đế thế như Hạ”, ý chỉ các ñời vua
(yếu tố gốc Hán) có vị trí tích cực trong tiếng Việt
(ở Việt Nam) sánh với thời vua Hạ (Trung Hoa).
ñược tiếng Việt tiếp nhận và hoạt ñộng theo qui
Thật là tràn ñày lòng tự cương tự cường dân tộc.
luật của tiếng Việt. Đó là nhu cầu bức thiết,
Chữ Khuê tảo với ý nghĩa chỉ văn chương như vừa
nghiêm túc và thực sự khách quan. Vấn ñề ở chỗ
nêu trên ñược cha ông ta thể hiện bằng Khuê văn
cần xác ñịnh chính xác số lượng yếu tố gốc Hán
các ở Văn miếu Hà Nội, như một biểu trưng về
ñưa ra ñể người học cần nắm ñược là bao nhiêu từ
văn hiến của Thăng Long Hà Nội.
thực tế vốn có trong tiếng Việt.
Đây là một trong những biểu trưng di sản văn
Thông qua việc học từ Hán Việt, góp phần tăng
hóa Hán Nôm vô cùng quý giá, song cũng khá
cường nhận thức cho người học khi tiếp cận với
phức tạp và khó khăn trong việc lí giải cặn kẽ ý
hệ thống thuật ngữ, khái niệm có âm ñọc Hán Việt,
nghĩa của chúng. Điều ñó khiến thế hệ trẻ ngày
chẳng hạn: Hằng ñẳng thức, ñịnh lí, hình học
nay gặp không ít trở ngại trong việc trích tuyển tác
không gian, ñáp số… (toán), vật lí, ñiện trường, từ
phẩm Hán văn ñể dạy văn hoặc dạy tiếng Việt,
trường, li tâm… (vật lí), môi trường, ñịa mạo, thổ
cũng như tìm hiểu về di sản văn hóa Việt Nam khi
nhưỡng, ñịa chất… (ñịa lý); lưỡng tính, thực vật,
không chú trọng ñến nghĩa chữ Hán, văn hóa Hán,
noãn bào, chủng loại… (sinh vật); công thức, bão
thậm chí chỉ là từ gốc Hán Việt.
hoà, phản ứng, hoá chất… (hoá học); y lí, dược lý,
3. Một số giải pháp mạch, nam dược, thảo quả, phẫu thuật, nha khoa,
nhãn khoa, lão khoa… (y dược); chứng khoán,
Giải pháp khắc phục những bất cập về kiến
ngân hàng, kinh doanh, doanh nghiệp… (kinh tế) v.v...
thức Hán Nôm của giáo viên dạy tiếng Việt và văn
học ở bậc phổ thông, cũng như ñối với người nước Người sử dụng muốn hiểu một cách chuẩn xác
ngoài, ñó là phải nhấn mạnh mảng kiến thức hết các khái niệm, thuật ngữ thuộc các lĩnh vực khoa
sức quan trọng là hệ thống từ Hán Việt mà trọng học khác nhau ñều phải biết nghĩa gốc chữ này

640
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014

vốn là chữ Hán với vỏ âm thanh là âm Hán Việt; (trang 29-NV9-Tập II). Từ này, nên giải nghĩa
lượng chữ Hán (yếu tố - hình vị ñó ñóng vai trò như sau: Thiên niên kỷ. Thiên: 1.000; niên: năm;
quan trọng trong tiếng Việt, hoạt ñộng tự do, có kỷ: năm; niên kỷ: năm - Thiên niên kỷ: 1.000 năm.
khả năng liên kết với nhau tạo từ và phiên dịch
5/ Sự giao thoa: một khái niện vật lí học về
thuật ngữ ngoại lai một cách thuận lợi.
hiện tượng 2 hay nhiều sóng cùng tần số tăng
Tuy nhiên, ñể giải thích từ Hán Việt, cần giải cường hay làm yếu lẫn nhau khi gặp nhau tại cùng
thích ngắn gọn, chặt chẽ, chính xác, dễ hiểu và dễ một ñiểm. Ở ñây chỉ sự giao lưu, tác ñộng lẫn
nhớ. Chẳng hạn, một số từ Hán Việt trong sách nhau của các nền kinh tế trong cùng 1 thời kỳ.
giáo khoa phổ thông như sau: (trang 29-NV9-Tập II). Cần giải thích là: Giao
thoa: giao: gặp nhau; thoa: cắt nhau. Giao thoa:
1/ Tỵ nạn: lánh ñi ở nơi khác, ñể tránh những
gặp nhau, cắt nhau. Sự giao thoa: sự gặp nhau, tác
nguy hiểm, ñe dọa do chiến tranh hoặc tình hình
ñộng lẫn nhau của các nền kinh tế (nghĩa trong bài).
chính trị gây ra cho mình. (trang 35-NV9-Tập I).
Giải thích như vậy là hơi dài, nên giải thích như 6/ Luân lí: những quy tắc về quan hệ ñạo ñức
sau: Tỵ nạn: Tỵ: tránh; nạn: tai nạn - Tỵ nạn: lánh giữa người với người trong xã hội. (trang 16-
ñi nơi khác (thường là nước ngoài) ñể tránh tai nạn. NV9-Tập II). Chỉ nên giải nghĩa như sau: Luân lí:
những quy tắc về ñạo ñức là ñủ, không nên giải
2/ Thiếu phụ: người phụ nữ ñã có gia ñình, còn
thích thêm như trong sách giáo khoa rằng “Các
trẻ. (trang 143-NV9-Tập II), cũng nên giải thích
loài vật không có luân lí”, lại thêm cụm từ “giữa
như sau: Thiếu phụ: thiếu: trẻ; phụ: người vợ –
người với người trong xã hội” là thừa và rườm rà.
Thiếu phụ: người vợ trẻ. Như vậy, những người
vợ trẻ dù ñã có con hay chưa có con cũng ñều gọi Để giúp cho người dạy và người học lí giải cặn
là thiếu phụ. Còn “những người phụ nữ ñã có gia kẽ các thuật ngữ này, cũng như văn hóa Việt Nam,
ñình, còn trẻ” thì có 2 nghĩa sau: cần thiết dành ra một số thời lượng ñáng kể học
Hán Nôm. Thực tế này ñã diễn ra ở các nước cùng
a/ người mẹ trẻ (nếu người ñó ñã có con)
chịu ảnh hưởng văn hóa Hán trong khu vực, như
b/ người vợ trẻ. Nhật Bản, Hàn Quốc. Trong chương trình học
Qua ñây, ta thấy rằng sách giáo khoa chú giải tiếng và văn hóa phổ thông ở mỗi nước này ñều có
từ “thiếu phụ” như trên là vừa dài dòng vừa không giờ học chữ Hán nhằm trang bị cho người học
xác ñịnh. khoảng trên dưới một nghìn từ gốc Hán. Ở Việt
Nam, cũng cần thiết như vậy, nhất là di sản văn
3/ Tản cư: tạm rời nơi cư trú ñể ñến ở vùng
hóa của nước ta bao hàm trong ñó kho tàng di sản
khác, chủ yếu vì chiến sự - trong thời kỳ kháng
Hán Nôm ñồ sộ và phong phú.
chiến chống Pháp, nhân dân ở những vùng bị giặc
chiếm hoặc có chiến sự ác liệt thường tản cư ñến Như vậy, việc dạy và học tiếng Việt cũng như
những vùng tự do, dưới sự kiểm soát của chính văn hóa Việt Nam không thể không chú trọng ñến
quyền kháng chiến. (trang 172-NV9-Tập I). Nên việc nâng cao vốn văn hoá và vốn tiếng Việt,
giải thích: Tản cư: Tản: phân tán; cư: ở. Tản cư: ở trong ñó có từ Hán Việt và văn hóa Hán Nôm.
phân tán, ở thưa ra bằng cách tạm chuyển ñến ở Cũng cần nhận thức ñầy ñủ việc dạy và học Hán
nơi khác ở trong nước ñể hạn chế thiệt hại của Nôm ngày nay trong nhà trường là cần thiết, ñòi
chiến tranh. hỏi mang tính cấp bách, cần khẳng ñịnh và ñặt nó
ñúng vị trí, vai trò và tầm quan trọng của việc ñào
4/ Thiên niên kỷ: từng khoảng thời gian 1.000
tạo con người thời kỳ hội nhập quốc tế, hiện ñại
năm, tính từ năm một sau công nguyên trở ñi
hoá ñất nước hiện tại và lâu dài.
(hoặc từ năm một trước công nguyên trở về trước).

641
Ti u ban 4: Văn hóa trong hot ñng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp

TÀI LIỆU THAM KHẢO Việt Nam”, Tạp chí Hán Nôm, 4(56)-2003, tr. 9-15.

1. Nguyễn Ngọc San, “Vài ý về việc chú giải và 5. Nguyễn Đình Chú, “Cần khẩn chương khôi phục
dịch chữ Hán trong sách Văn lớp 10,” Tạp chí Hán việc dạy chữ Hán trong nhà trường phổ thông Việt
Nôm, 1 (14)-1993. Nam”, Tạp chí Hán Nôm, 2(69)-2005, tr. 16-25.

2. Nguyễn Danh Đạt, “Về việc dạy và học Hán 6. Lại Văn Hùng, Nguyễn Thị Thanh Chung, “Bàn
thêm về việc học chữ và ñọc hiểu văn bản Hán
Nôm trong trường Cao ñẳng Sư phạm Hà Nội”, Tạp
chí Hán Nôm, 2 (11)-1991. Nôm”, Hán Nôm trong nhà trường, Nxb. KHXH,
2008.
3. Trịnh Khắc Mạnh, “Một số ý kiến về việc sử
7. Lê Anh Tuấn, “Mấy vấn ñề ñặt ra từ thực tế
dụng từ Hán Việt hiện nay”, Tạp chí Hán Nôm, 2
giảng dạy Hán Nôm cho giáo viên dạy văn phổ
(47)-2001.
thông cơ sở”, Hán Nôm trong nhà trường, Nxb.
4. Nguyễn Cảnh Toàn, “Chữ Nho với nền văn hóa KHXH, 2008.

642

You might also like